28 | Con thỉnh cầu tự do khỏi tâm đường thẳng

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con thăng vượt mọi khái niệm và thoát ra khỏi tâm đường thẳng, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra con đường quả vị Ki-tô có nhiều giai đoạn. Đặc biệt khi tới gần và vượt quá tầng 96, con đối mặt với một số thách đố, có thể gọi là nghịch lý hay bí ẩn, mà con cần giải quyết trước khi có thể vươn lên cao hơn.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Những thách đố này chỉ nghịch lý đối với tâm đường thẳng, nhị nguyên, phân tích. Phật Gautama, xin thày giúp con vượt qua phin lọc của hai cực, của phán xét giá trị, của thang điểm giá trị, để đạt tới một nhận biết quả cầu hơn.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Khi con cố giải thích giáo lý tâm linh theo nghĩa đen và so sánh đúng với sai, con không thể tránh khỏi những điều có vẻ mâu thuẫn. Phật Gautama, xin thày giúp con đột phá và giải thoát tâm ý thức của con khỏi lối suy nghĩ đường thẳng.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Thay vì coi đó là mâu thuẫn, con nói: “Tôi cần nâng tâm thức để có một cái nhìn cao hơn về vấn đề này. Chắc phải có gì đó mà tôi chưa thấy, chưa hiểu.” Con mở tâm ra đón nhận sự hướng dẫn trực tiếp và trực giác từ các thày, từ Hiện diện TA LÀ, từ cái Ta Ki-tô của con để giải tỏa mâu thuẫn.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Con không phóng chiếu là mâu thuẫn nằm trong giáo lý hay với vị thày, mà con nói: “Có thể tôi là người phải thay đổi, có thể sự ngăn trở nằm ngay trong tâm thức của tôi thay vì là lỗi của thày, của giáo lý, của người khác hay của thế gian.”

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, xin thày giúp con giải tỏa hiểu lầm về sự không dính mắc. Không dính mắc không có nghĩa là không quan tâm, nhưng không phải là sự quan tâm của người phàm vốn dựa trên lòng sợ hãi và muốn ép buộc người khác phải thay đổi.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Không dính mắc cũng không có nghĩa là không làm gì. Con có thể chọn làm gì đó để giúp người khác, nhưng con không muốn thấy một kết quả đặc thù. Con chỉ muốn chia sẻ cái con là. Con cống hiến một trạng thái tâm thức khác với tâm thức đang thịnh hành trên trái đất.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra sự giới hạn của hiểu biết, dù là hiểu biết khoa học hay hiểu biết tâm linh. Hiểu biết này dựa trên một số khái niệm, và khái niệm thì dựa trên cách diễn đạt.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Con nhận ra một giáo lý tâm linh chỉ giản dị là một loại ngôn ngữ – không chỉ một ngôn ngữ với ngôn từ, mà một ngôn ngữ với khái niệm.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Con nhận ra là một hiện tượng có nhiều cách mô tả song song với nhau mà không nhất thiết tương phản. Mỗi cách mô tả khiến con chú tâm vào những khía cạnh khác nhau của hiện tượng.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Con nhận ra là mọi cách mô tả và mọi lời giảng dạy đều cho con một khái niệm mà tâm con có thể dùng để tạo ra một hình ảnh nội tâm về hiện tượng. Con tạo ra một hình tư tưởng về thực tại.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Hình tư tưởng này có thể hữu dụng vì nó cho con cảm giác là con hiểu hiện tượng. Nó cũng hữu dụng về mặt thực tiễn vì nó cho phép con làm một số công việc trong đời sống hàng ngày. Chính nhờ hiểu biết đường thẳng này mà loài ngưới đã tạo được một mức sống cao hơn cho đại đa số.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Nhưng hiểu biết đường thẳng cũng có mặt trái, và mặt trái là con có thể quá dính mắc với khái niệm, không thấy là khái niệm chỉ mô tả hiện tượng chứ không phải là hiện tượng.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là tâm con có những khả năng vượt quá tâm đường thẳng. Mỗi hiện tượng vật lý đều có một khuôn đúc tâm thức ở các cõi bản sắc, lý trí và tình cảm. Tâm vỏ ngoài của con, giác quan vật lý, phần của tâm dính chặt với giác quan vật lý, chỉ kinh nghiệm được hiện tượng vật chất mà không trải nghiệm được tâm thức ở đằng sau.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là tâm con có khả năng kinh nghiệm tâm thức ở đằng sau bất cứ hiện tượng vật lý nào. Và qua đó, con có được một trải nghiệm trực tiếp về toàn bộ hiện tượng.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con không thể vươn lên các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô nếu con không vượt khỏi khái niệm hiện nay của mình về quả vị Ki-tô để trải nghiệm một thực tế cao hơn.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm giác ngộ không phải là một khái niệm. Con không để cho khái niệm giác ngộ ngăn chặn sự giác ngộ của con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Ở các tầng sơ khởi, giác ngộ chỉ có thể là một khái niệm. Con hình thành một hình tư tưởng về giác ngộ và thiết lập một số tiêu chuẩn vỏ ngoài: “Nếu tôi đi theo những bước này và làm hết mọi chuyện như mô tả, thì tôi phải tự động giác ngộ. Một người giác ngộ có đặc tính này và đặc tính kia, cư xử thế này chứ không thế kia, nói năng thế này chứ không thế kia.” Đó là tâm đường thẳng.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra tâm đường thẳng có thể rất hữu dụng ở một giai đoạn khi con cần đi theo một đường tu rất đường thẳng, rất thuần lý. Con tuần tự nâng cao tâm thức, nhưng đường tu này chỉ có thể dẫn con tới một mức nào đó.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Tới quá tầng 96, khái niệm về đường tu bớt quan trọng đối với con. Thay vì chú tâm vào từng bước đơn lẻ, con chú tâm vào tiến trình. Thay vì chú tâm vào những hình ảnh tĩnh của dòng sông, con chú tâm vào sự chuyển động của dòng sông.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra giác ngộ không phải là một hiện tượng đường thẳng, một hiện tượng vật lý, hay ngay cả một trạng thái tâm thức.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, xin thày giúp con xoay chuyển. Thay vì cố gắng hoàn thành các tiêu chuẩn được quy định bởi khái niệm giác ngộ của mình, con thoát khỏi hình ảnh, thoát khỏi khái niệm. Con trải nghiệm điều thày gọi là giác ngộ khi tâm con không đồng hóa với chính khái niệm của nó về hiện tượng vật chất.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, xin thày giúp con đạt được cái gọi là “tâm làm chủ vật chất,” là khi con thoát khỏi các khái niệm do tâm tạo ra đã giới hạn sự trải nghiệm trực tiếp của con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm trạng thái giác ngộ không phải là một trạng thái toàn hảo, và cũng không là trạng thái tối hậu.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra mọi thứ con có trong tâm liên quan tới thế giới vật chất – và hầu hết những thứ liên quan tới thế giới tâm linh – chỉ là những khái niệm do tâm con tạo ra. Con không dính mắc các khái niệm này, con không đồng hóa với các hình ảnh này, mà con giải thoát tâm con khỏi những hạn chế do các hình ảnh này quy định.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là một khi con giải thoát tâm con khỏi các hình ảnh đó, tâm con có thể bắt đầu thay đổi vật chất bằng cách thay đổi các khuôn đúc tâm thức ở ba tầng cao.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, xin thày giúp con làm việc để cải thiện điều kiện sống của con người trên trái đất, nhưng con không dính mắc phải thấy những thay đổi đặc thù ở một thời điểm đặc thù. Con chỉ có mục đích nâng cao tâm thức mọi người, giúp cho mọi người ý thức hơn về tiến trình đồng-sáng tạo của mình.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, xin thày giúp con sống trong hiện tại nhưng không lờ đi quá khứ hay tương lai.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Con không lờ đi quá khứ mà con khắc phục sự dính mắc của mình với quá khứ, để quá khứ không thể lôi kéo con vào những khuôn nếp phản ứng sẽ ngăn chặn con thưởng thức giây phút hiện tại.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Con cũng không lờ đi tương lai. Con không trốn chạy vào một tương lai mơ tưởng nào đó, mà con chú tâm vào việc giải tỏa các khuôn nếp tâm lý đang ngăn cản con lấy những quyết định tự do sẽ thay đổi hướng đi cuộc đời mình trong tương lai.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là không có một hoàn cảnh nào mà con chỉ có một chọn lựa độc nhất như khi con còn ở trong Trường đời Cay đắng. Con luôn luôn có chọn lựa thay đổi phản ứng của mình, khắc phục dính mắc để nhìn ra nhiều chọn lựa khác.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Một khi con buông bỏ khuôn nếp tâm lý, con có thêm những chọn lựa mới với hậu quả càng ngày càng ít nghiêm trọng. Dần dà con đạt được tự do, như thể mình đứng giữa một cánh đồng rộng mở và mình có thể chọn đi về bất cứ hướng nào.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Tự do này có được là vì con ngừng đồng hóa với các hình tư tưởng do tâm con tạo ra, cho rằng thế giới như thế nào và hạn chế con ra sao. Mọi sự trong thế gian chỉ là hiện tượng, là dáng vẻ chứ không phải là thực tại – và dáng vẻ thì có thể thay đổi được. Nhờ vậy con có một cái nhìn hoàn toàn mới về cuộc sống.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, xin thày giúp con thăng vượt xu hướng thịnh hành trong văn hóa Á châu là xem cuộc đời quá hệ trọng.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Con sẽ không tạo nên Thời Hoàng kim bằng cách làm việc cực nhọc hơn mà bằng cách vui đùa nhiều hơn. Đồng-sáng tạo là một hành động vui đùa, không phải là một hành động xem cuộc đời hệ trọng đến độ con muốn kiểm soát mọi khía cạnh của cuộc sống.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nối kết lại với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Đây là những việc làm con đã chọn trước khi đầu thai và con xem đó là sự đùa vui. Con vẫn muốn thấy những tiến bộ này thành hình, nhưng con không dính mắc là chúng phải thành hình theo một cách đặc thù nào, ở một thời điểm đặc thù nào, qua những người đặc thù nào.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 5

5.1. Con tôn trọng quyền tự quyết của mọi người, nhưng đồng thời con góp phần giải thoát mọi người để họ có thể nhận ra đây là những tiến bộ mà họ thực sự mong muốn.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.2. Con nhận ra vai trò của con là thỉnh gọi để cho phép các thày nhập cuộc và làm công việc của các thày. Nhưng một khi con đã thỉnh gọi thì con không dính mắc vào những gì sẽ xảy ra trong xã hội hay những gì người khác sẽ làm.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.3. Phật Gautama, xin thày giúp con luôn tìm được sự vui hưởng trong phụng sự và đời sống hàng ngày. Con không để cho giác ngộ hay đường tu trở thành một bổn phận khác, một mục tiêu đeo đuổi khác, một nguồn căng thẳng khác.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.4. Con xem đường tu như một trò chơi. Ở mỗi giai đoạn, con biết tà lực có giăng một cái bẫy. Con chỉ cần tỉnh giác, để ý tìm bẫy, nhìn vào phản ứng của mình, nhìn vào phản ứng của những người tâm linh khác và nói: “Ồ, tôi đã thấy cái bẫy này và tôi sẽ không đặt chân vào đó.”

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.5. Con vui thú đi trên đường tu, và nếu con làm lỗi thì có sao đâu? Con học hỏi từ lỗi lầm này rồi con tiến tới. Con nhận ra là không một chọn lựa nào có thể khiến con bị mắc kẹt đời đời, vì bất cứ chọn lựa nào cũng có thể được tháo gỡ bằng một chọn lựa sáng suốt hơn, tỉnh thức hơn.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra giác ngộ không phải là một giai đoạn trên con đường 144 tầng tâm thức. Giác ngộ không phải là mục tiêu tối hậu của Bát chánh đạo. Giác ngộ không phải là một mục tiêu, không phải là một khái niệm, không phải là một hình tư tưởng. Đó là sự trải nghiệm không bị mắc kẹt vào hình tư tưởng.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.7. Cách duy nhất để giác ngộ là bước ra khỏi hình tư tưởng và cho phép mình trải nghiệm. Và con trải nghiệm giác ngộ ở đâu? Không phải trong quá khứ, không phải trong tương lai, mà chỉ trong hiện tại. Trong hiện tại này, nó bỗng trở nên hiển nhiên, và con nói: “Bây giờ tôi đang ở đó!”

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.8. Xin thày giúp con nhận ra giác ngộ cũng giống như tâm thức không giác ngộ. Vì khi con thoát khỏi khái niệm đã tạo nên tâm thức không giác ngộ, khi con thoát khỏi khái niệm giác ngộ, thì thế gian không phải là kẻ thù của tiến triển tâm linh mà là cỗ xe để con tiến triển tâm linh.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.9. Phật Gautama, con không hối tiếc bất cứ gì con đã làm hay đã trải qua. Con không phân chia những điều tâm linh với không tâm linh, ngay cả phản-tâm linh. Không có hiện tượng nào trên thế gian có quyền lực trên tâm con nữa.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary và Phật Gautama hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

24 | Con thỉnh cầu nhận biết thuần khiết

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con đạt được nhận biết thuần khiết của Phật bằng cách chất vấn tứng khía cạnh của nhận thức. Hãy giúp con không phản ứng lại hình tướng và khiến nó trường tồn, mà trái lại con hành động để gia tốc vào sự thuần khiết vượt khỏi hình tướng, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, xin thày giúp con bước theo chân thày để con chứng nghiệm mỗi bước trên hành trình đã đưa thày đến nhận biết thuần khiết.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Nhận biết thuần khiết vượt ngoài nhận biết ở mức giác quan, ở mức cảm xúc hay ở mức ý tưởng, ngay cả nhận biết đến từ ý niệm bản sắc là con sống trong thế gian này. Nó không thể bị bất cứ gì trong cõi nhị nguyên, bất cứ gì trong thế giới hình tướng làm ô nhiễm.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Nhận biết thuần khiết cũng gọi là cái ta ý thức, cái Ta Biết, nhưng thực tế là khi con vượt khỏi mọi ý niệm bản ngã thì đó là nhận biết thuần khiết.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm Tánh linh vượt khỏi mọi giáo lý vỏ ngoài. Con không chỉ chất vấn giáo lý công truyền mà con chất vấn cả nhận thức của mình về giáo lý công truyền.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, con chất vấn nhận thức của mình về cuộc sống là thực, trọn vẹn, chính xác. Con chiêm nghiệm sự thật mà thày đã bày tỏ trong Kinh Pháp cú, rằng nhận thức xuất phát từ một trạng thái sâu hơn của tâm, là thể bản sắc, là cái nhìn của con nơi tầng bản sắc về chính con và cuộc sống.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Nhận thức ở thể bản sắc đã nhào nặn cách con tiếp cận cuộc sống qua thể lý trí và tình cảm. Nó khiến con nhìn tình huống một cách nào đó, rồi có một tâm trạng nào đó. Con cảm thấy bị lên án bất công, hay phải phê phán người khác, hay phải phản ứng giận dữ khi tình thế không đúng ý. Và con tin nhận thức này là tối cao, không thể nào chất vấn.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, nay con thấy rõ khi con tin nhận thức của mình tối cao, con không thể vượt lên trên trạng thái này. Nó biến thành một hệ thống khép kín, một vòng phản ứng luẩn quẩn nơi con không ngừng phản ứng lại cuộc đời.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Con phản ứng lại những gì con đã phóng ra tấm gương vũ trụ. Con phản ứng lại những phản ứng do chính cái nhìn của con về cuộc đời tạo ra. Cho nên con bị kẹt trong một vòng xoắn ốc bất tận, phản ứng lại phản ứng của con lẫn của người khác. Tất cả đều là phản ứng của nhau.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, nay con thấy rõ con sẽ chỉ tự do khi nào con ngừng tìm cách thay đổi tâm thức người khác. Chìa khóa của tự do là con thay đổi tâm thức của con, và chìa khóa để thay đổi tâm thức của con là chất vấn nhận thức của con.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, xin thày giúp con đi sâu vào tầng mức của nguyên nhân và nhìn xa hơn tầng mức của kết quả. Con đi vào tầng mức của hành động và nhìn vượt khỏi tầng mức của phản ứng.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Tầng mức của phản ứng là cảm xúc và lý trí. Còn tầng mức của hành động là bản sắc, là cách con nhìn cuộc đời và chính con, là quan hệ của con với cuộc sống, với mọi người, với Ánh sáng Mẫu-Vật, với Thượng đế. Đây là nhận thức sâu sắc khiến con hành động bằng cách phóng chiếu hình ảnh vào tấm gương vũ trụ.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là con không thể nhận thức thuần khiết bằng cách gạt bỏ những bất toàn của thế gian, mà trái lại nhìn xuyên qua bất toàn, nhìn xa hơn bất toàn, và nhìn xem có gì vượt cả sự nhận thức.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Giống như thày, con thấy rõ ngay cả việc tu tập khổ hạnh, hành hạ thân tâm, kềm chế tâm trí, cũng không dẫn đến nhận thức thuần khiết.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Để chiêm nghiệm nhận biết thuần khiết của Phật – gọi là Samadhi hay Nirvana – con sẵn sàng chất vấn từng khía cạnh của nhận thức, sẵn sàng đặt lại vấn đề tất cả. Con nhận diện các mô thức vận hành khiến cho nhận thức ô nhiễm trở thành một chu kỳ bất tận không dẫn tới đâu.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Nhận thức ô nhiễm chính là nhận thức nhị nguyên. Có hai đối cực phải hiện diện. Chúng có vẻ hoàn toàn thực – cái này không thể có mà không có cái kia – và do đó cái này cũng thực như cái kia, tạo ra cảm tưởng là cái ác cũng thực như Thượng đế, và ác quỷ có quyền năng, có thường hằng, có thực thể.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, xin thày giúp con tìm thấy một cách tham gia vào cuộc sống năng động trong thế giới bất toàn này mà không bị cuốn hút vào nhận thức nhị nguyên, vào thang điểm tương đối có hai đối cực – thiện ác, đúng sai, thật giả, đẹp xấu, dễ chịu hay khó chịu.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy có gì vượt ngoài nhận thức nhị nguyên. Chính do nhị nguyên mà con đã không thể tách rời hành động nhận thức với hành động dán nhãn, lượng định, phê phán.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Do nhận thức phê phán này mà con cũng đã xét đoán chính con. Và khi con rời kiếp đầu thai này và duyệt lại đời mình, con cũng sẽ nhìn mình qua tâm thức mà con đã nhìn người khác. 

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, xin thày giúp con không gạt bỏ sự bất toàn trên địa cầu hay tính không thực của thế gian. Con không phán xét, con không dán nhãn, con không phản ứng do cảm thấy mình bị đe dọa, khó chịu, ghê tởm, hay cảm thấy là sự bất toàn không được có mặt ở đây.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhìn vượt khỏi hình tướng bên ngoài và thấy được Phật tánh, Ánh sáng Mẫu-Vật, sự thanh tịnh. Con thấy tất cả được sinh tạo từ ánh sáng của Thượng đế, và vì vậy đều có tiềm năng rũ bỏ hình tướng ô uế để gia tốc vào sự thuần khiết của tâm thức Ki-tô, tâm thức Phật, tâm thức Thượng đế.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, xin thày giúp con duy trì Samadhi cho dù con tham gia vào mọi sinh hoạt của đời sống. Con không cần phải ngồi đó thiền định để trụ trong Samadhi, vì con luôn luôn mang nó theo con và nhìn tất cả xuyên qua tâm thức thuần khiết.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, con vẫn thấy mọi bất toàn của thế gian, nhưng con không dán nhãn, phê phán hay phản ứng lai chúng. Con chỉ nhìn thấy chúng, nhưng con thấy chúng là tạm thời, là không thực. Và con không phản ứng lại cái không thực, cái bất toàn.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, thay vì phản ứng, con hành động dựa trên sáng ngộ là mỗi bất toàn có thể được gia tốc vào thuần khiết, vào một trạng thái cao hơn.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, con đi vào cuộc đời và hành động để nâng cao mọi sự sống, thay vì kết án một sắc thái bất toàn nào đó của sự sống, rồi tìm cách triệt hạ nó.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhìn thấu sự lừa dối của tâm thức cáo buộc, sự lừa dối nền tảng đằng sau tất cả những tấn tuồng cuồng đại.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Tư duy cuồng đại khiến con tin rằng có gì đó xấu xa hay ác hại, và cái đó cần bị triệt tiêu. Nhưng khi con muốn triệt tiêu xấu ác thì con đã khởi đầu một phản ứng chống lại xấu ác – điều này không thể xóa bỏ khổ đau trên địa cầu mà chỉ gia tăng khổ đau.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy cách duy nhất để “xoá bỏ xấu ác” là thăng vượt tâm thức nhị nguyên hầu con hành động trong tâm thức bất nhị. Con gia tốc vào thanh tịnh các điều kiện mà người ta gọi là xấu ác. Con nâng cao mọi sự sống thay vì lên án, chê trách, miệt thị, tiêu diệt.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, con thấy được sự khác biệt giữa những ai đã thăng thiên và những ai chưa thăng thiên, sự khác biệt giữa những ai đi theo con đường của tình thương và những ai còn bị kẹt trong cái nhìn sợ hãi khi họ có nhu cầu phải phê phán, kết tội, bài bác, tiêu diệt.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, con gia tốc khỏi tâm thức cáo buộc muốn phân chia cái không hề phân chia – sự duy nhất bất khả phân chia của Thượng đế – thành hai đối cực, rồi dán nhãn cái này là tốt, được vào Nước Trời, và cái kia là xấu, không được vào Nước Trời và do đó phải bị tiêu diệt bởi những ai muốn vào Nước Trời.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, con thấy rõ thày không yêu cầu con trở nên đui mù. Thày không yêu cầu con tảng lờ những bất toàn đầy rẫy trong thế gian, nhưng thày yêu cầu con không khiến chúng trở thành trường tồn trong tâm con.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, xin thày giúp con không phản ứng lại sự bất toàn, vì một khi con biết một điều gì là không thực và chính con là thực, thì con không có nhu cầu phản ứng hay chống lại cái không thực.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, con chỉ đơn giản nhìn sự bất toàn và con hành động – bằng hành động không dựa trên hình dạng hay hình tướng bề ngoài, mà dựa trên nguồn sáng tạo nội tâm tự phát từ Hiện diện TA LÀ của con, từ tất cả mọi tầng của các sinh thể tâm linh ở ngay trên con nối dài cho tới Đấng Sáng tạo.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, con không phản ứng lại hình tướng, cho nên con không ban cho nó sự trường tồn, con không ban cho nó thực chất. Hành động của con không nhằm triệt hạ hay hủy diệt, mà chỉ nhằm gia tốc tất cả vào sự thuần khiết mà con thấy vượt khỏi hình tướng.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, nay con ngộ ra đó chính là nhận thức thuần khiết!

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, con vươn lên khỏi tâm thức cáo buộc và những tấn tuồng cuồng đại mà nó thêu dệt. Xin thày giúp con hình thành tăng đoàn của Phật, đóng góp vào sự gia tốc của địa cầu.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, xin thày giúp con đạt được nhận thức thuần khiết của Tâm Phật, là tâm biết tất cả đều là Phật tánh, và do đó thấy được khác biệt giữa sự thực thuần khiết của Phật tánh và sự không thực của ảo tưởng Maya. Con thấy rõ bất kỳ phản ứng nào cũng khiến con kẹt lại trong vòng xoắn ốc của cái không thực. Cho nên con sẽ là Phật – nhất định không phản ứng, nhất định bước vào con đường tâm linh hầu thày có thể dạy con hành động, hành động, hành động từ nhận thức thuần khiết.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary và Phật Gautama hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

14 | Con thỉnh cầu niệm tinh khôi

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng và Cha Thiêng liêng, đặc biệt là Sanat Kumara, Nữ Chân sư Venus và Mẹ Mary, hãy giúp con là cánh cửa mở đón nhận tình thương vô điều kiện sẽ áp chồng niệm tinh khôi lên Ánh sáng Mẹ. Xin các thày giúp con chấp nhận uy lực sáng tạo của con và thấy những yếu tố ngăn cản dòng chảy của sự sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con, kể cả …

[Đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con hiểu bản chất của tình thương

1.1. Con tiến lên một bực để biết con có thể làm gì với thành đạt tâm linh của con để đem vương quốc Thượng đế đến trái đất. Con tìm ra vị trí của con trong cộng trình sáng tạo rộng lớn và vượt thời gian của Thượng đế.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Con nhập đoàn hợp xướng của tình thương, 
Mở tâm ra, hát bài ca tán thưởng, 
Và cùng nhau nâng hành tinh gia tốc. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

1.2. Con hoàn tất vỏng tròn để ánh sáng quay trở về Thượng đế. Con hoàn tất dòng chảy hình số tám để Thượng đế có thể nhân lên ở Trên Cao những gì con đã nhân lên ở dưới này. Con cho ra vô điều kiện những gì con đã nhận được vô điều kiện.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Được khai ngộ – điều con muốn trước tiên, 
Shamballa – nhà con ở cõi thiên,
Cho thày, con chỉ xin làm cực điện.

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

1.3. Con phát triển ý niệm hợp nhất với Thượng đế và ý niệm hợp nhất với mọi sự sống. Con tìm cách nâng cao tâm thức của người khác và ngay cả tâm thức tập thể. Khi con tặng ánh sáng của mình để giúp người khác thì con hoàn tất dòng chảy hình số tám, giúp nâng mọi người lên tâm thức Ki-tô.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Thày vạch đường cho con cứ theo chân, 
Khai mở con bằng tình yêu vô tận, 
Làm cửa mở cho Bồ câu Thánh thần. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

1.4. Tình thương là lực mạnh mẽ nhất trong vũ trụ. Con đột phá lực chống đối sự thị hiện của đời sống dồi dào vì con có uy lực ý chí hoàn tòan dựa trên tình thương. Con cho ra những gì con có và những gì con đã học.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Gương của thày, cả một nguồn linh hứng. 
Không dính mắc, con ngập nỗi vui mừng  
Đóng góp cho địa cầu lại được sống. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

1.5. Con nhìn mình trong gương để thấy khi con chưa thăng vượt một mức hiểu biết hay thành tựu nào đó. Con tiến bước tối hậu để thiết lập đời sống dồi dào. Con cho vô điều kiện những gì con đã nhận, dùng nó để giúp người khác bằng cách tạo cảm hứng cho họ tiến lên cao hơn.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Là bộ máy để địa cầu thanh lọc, 
Mọi tà thể tiêu hết khỏi hành tinh,
Từ bên trong hiển lộ Đốm Tánh linh. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

1.6. Con thăng vượt cái nhìn điên rồ tìm cách ngăn cản một điều gì trở nên hơn nữa bằng cách giữ nó trong một trạng thái giới hạn. Con chấp nhận sự dồi dào vô hạn của Thượng đế, và con nói: “Thượng đế, hãy bước vào đời con. Con muốn nhân lên những gì con có; con muốn trở nên hơn nữa.”

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Là bộ máy vũ trụ đang khuếch lớn, 
Đoàn người đến từ Kim tinh rung động,
Khiến tà lực không thể nào cưỡng chống. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

1.7. Tình thương là một dòng chảy liên tục, chính là Dòng sông sự Sống, không bao giờ đứng yên. Dòng sông sự Sống không bao giờ tìm cách làm chủ hay sở hữu bất cứ gì; nó lúc nào cũng cho, cũng chảy, nó thay đổi, vượt thăng chính nó và trở nên hơn nữa. Nó không tìm cách sở hữu bất cứ gì vì nó thấy nó là một với tất cả mọi sự tốt lành và toàn hảo.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc đỏ, 
Con là máy khuếch trương của thày đó,
Con khôi phục tình yêu không gò bó, 
Luân xa này là cửa mở thật to. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

1.8. Chỉ khi con trở nên hơn nữa, là một với Dòng sông sự Sống, thì con mới thực sự sở hữu bất cứ gì. Chỉ khi con tự thăng vượt con mới có sở hữu thật vì chỉ khi con tự thăng vượt con mới ở trong Dòng sông sự Sống. Chỉ khi con ở trong dòng sông này con mới có dồi dào, sự dồi dào thực sự luôn luôn tăng trưởng và trở nên hơn nữa.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Là cái loa cho điệp khúc Kim tinh,
Khi tình yêu vang dội khắp cùng chốn,
Thâm nhập cả những tâm hồn vô minh. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

1.9. Với tất cả những gì con biết về Thượng đế như một Sinh thể hoàn toàn tự túc lúc nào cũng cho chính mình, con nhận ra tình thương của Thượng đế vô điều kiện và vô biên. Thượng đế không có mong muốn nào khác ngoài chuyện thấy vương quốc của ngài thị hiện vật lý trên hành tinh trái đất.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc đỏ, 
Nhờ thày đến, chúng sinh được thánh hóa, 
Nguyên hành tinh biến thành miền cao cả,
Do hồng ân toàn vũ mà thăng hoa. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

2. Con chuyển hóa điều kiện hiện hành

2.1. Điều kiện hiện hành trên trái đất khác xa viễn quan của Thượng đế vì con người đã rơi vào tâm thức nhị nguyên. Cách duy nhất để thay đổi tình trạng này là những người có viễn kiến cao hơn quảng bá viễn kiến đó và thức tỉnh người khác.

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.2. Có Thượng đế là cái Tất cả và Thượng đế ở trong tất cả. Thượng đế là cái Tất cả muốn con cho ánh sáng và tình thương một cách vô điều kiện cho Thượng đế ở trong tất cả. Đấng Sáng tạo muốn con giải thoát Thượng đế này, giải thoát Ánh sáng Mẹ, để trải bày cái toàn hảo mà đấng Sáng tạo đã hình dung. Qua đó, Thượng đế ở trong tất cả sẽ hợp nhất với Thượng đế là cái Tất cả.

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.3. Con phát triển một sự nhận biết toàn cầu, thậm chí toàn vũ. Con là một sứ thần cho ánh sáng Thượng đế, sứ thần cho viễn kiến Ki-tô. Con là người đồng-sáng tạo và đem vương quốc Thượng đế tới trái đất. Con trải nghiệm và thị hiện đời sống dồi dào.

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.4. Con thiết lập dòng chảy số tám của đời sống dồi dào bằng cách cho ra những gì con có, cho ra những gì con đã nhận, cho ra những gì con thể nhập, cho ra con người mà con đã trở thành. Con để cho mặt trời của Hiện diện TA LÀ tỏa rạng xuyên qua bốn thể phàm của con và cho nó rọi sáng người công chính và người bất chính.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.5. Con xoay chuyển nhận thức và thấy là những giới hạn và bất toàn hiện hành trên trái đất không có thật. Con thấy Thượng đế có mặt ở đây trên trái đất, vá do đó vương quốc Thượng đế quà thực có thể được thị hiện ở đây trên trái đất.

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.6. Con sẽ không chờ điều kiện lý tưởng xảy ra trên trái đất trước khi con cho phép ánh sáng của con tỏa rạng và cho ra tình thương Thượng đế. Con chấp nhận bất kỳ điều kiện nào con đối mặt, dù chúng khó khăn bao nhiêu, và con để cho ánh sáng và tình thương Thượng đế nâng các điều kiện này lên cao hơn.

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.7. Con giữ vững viễn kiến cao nhất của con, không bao giờ chấp nhận các bất toàn là thật, trường tồn hay không thể vượt qua. Đằng sau mọi điều kiện bên ngoài là Ánh sáng Mẫu-Vật thanh khiết và Ánh sáng Mẫu-Vật có tiềm năng trải bày bất kỳ viễn quan nào được phóng chiếu lên nó xuyên qua tâm có tự nhận biết. Ánh sáng vật chất có thể trải bày dễ dàng sự toàn hảo của Thượng đế cũng như nó có thể trải bày những bất toàn hiện hành.

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.8. Dù chuyện gì xảy ra chăng nữa, dù người khác làm gì chăng nữa với con, dù cuộc đời ném vào mặt con hoàn cảnh gì chăng nữa, con vẫn luôn luôn đáp trả bằng tình thương! Con đáp trả bằng tình thương thiêng liêng không chấp nhận bất kỳ bất toàn nào là thật tối hậu hay vĩnh viễn. Con cho phép tình thương Thượng đế chảy xuyên qua bản thể của con và thấm đẫm các điều kiện bất toàn qua đó các điều kiện này sẽ thăng vượt chính nó và trở nên hơn nữa.

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.9. Con giữ vững niệm tinh khôi trước mọi hoàn cảnh. Con từ chối phản ứng lại hoàn cảnh một cách nhị nguyên. Con giữ vững niệm tinh khôi là hoàn cảnh sẽ được gia tốc. Ưu tiên lớn nhất trong đời con là giữ đúng niệm tinh khôi, viễn kiến tinh khôi.

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3. Con ban phước lành cho mọi sự

3.1. Con giữ đúng viễn kiến cao nhất mà con đang hiện có. Bất kỳ chuyện gì xảy ra ở bên ngoài, con luôn luôn tập trung chú ý vào viễn kiến cao nhất có thể có. Con thấy các bất toàn tối hậu không thật và mọi sự đều có thể thay đổi.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Con nhập đoàn hợp xướng của tình thương, 
Mở tâm ra, hát bài ca tán thưởng, 
Và cùng nhau nâng hành tinh gia tốc. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

3.2. Con giữ đúng viễn kiến cao nhất mà con đang hiện có trong khi liên tục tìm cách đạt một viễn kiến cao và rõ hơn bằng cách đi vào bên trong. Con xin cái ta Ki-tô và các thày tâm linh của con hướng dẫn con tới viễn kiến cao hơn.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Được khai ngộ – điều con muốn trước tiên, 
Shamballa – nhà con ở cõi thiên,
Cho thày, con chỉ xin làm cực điện.

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

3.3. Con liên tục vượt thăng chính mình và liên tục hình dung người khác, hoàn cảnh bên ngoài và toàn thể hành tinh đang thăng vượt và trở nên hơn nữa.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Thày vạch đường cho con cứ theo chân, 
Khai mở con bằng tình yêu vô tận, 
Làm cửa mở cho Bồ câu Thánh thần. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

3.4. Con loại bóng tối bằng cách yêu nó với tình thương thiêng liêng qua đó bóng tối trở nên hơn nữa, vượt thăng chính nó, chuyển hóa thành ánh sáng Thượng đế và viễn kiến Ki-tô.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Gương của thày, cả một nguồn linh hứng. 
Không dính mắc, con ngập nỗi vui mừng  
Đóng góp cho địa cầu lại được sống. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

3.5. Con không thực sự yêu bóng tối nhưng con yêu Ánh sáng Mẹ đang bị kẹt trong một khuôn đúc không toàn hảo. Con yêu ánh sáng với một lực mạnh tới độ con giải phóng nó khỏi hình tướng bất toàn và biến nó trở về Ánh sáng Mẹ tinh khiết.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Là bộ máy để địa cầu thanh lọc, 
Mọi tà thể tiêu hết khỏi hành tinh,
Từ bên trong hiển lộ Đốm Tánh linh. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

3.6. Con mài sắc phân biện của con. Con thấy quá những vẻ bề ngoài của cả tốt tương đối và xấu tương đối, thậm chí nhìn quá lời dối trá của xấu ác tuyệt đối. Con giữ đúng niệm tinh khôi và liên tục cố gắng đạt một viễn kiến cao hơn bằng cách khoác vào tâm Ki-tô.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Là bộ máy vũ trụ đang khuếch lớn, 
Đoàn người đến từ Kim tinh rung động,
Khiến tà lực không thể nào cưỡng chống. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

3.7. Con thương yêu mọi sự với tình thương thiêng liêng. Khi con gặp bất kỳ tình huống nào, con tự đặt câu hỏi: “Phản ứng của tôi trước hoàn cảnh này có dựa trên viễn kiến cao nhất của tình thương mà tôi hiện có hay không?”

Sanat Kumara, Lửa Ngọc đỏ, 
Con là máy khuếch trương của thày đó,
Con khôi phục tình yêu không gò bó, 
Luân xa này là cửa mở thật to. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

3.8. “Tôi có đang tìm cách làm cho hoàn cảnh này tốt hơn, giúp nó trở nên hơn nữa, hay tôi đã rơi vào tròng xác nhận trạng thái bất toàn hiện hành không thay đổi được?”

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Là cái loa cho điệp khúc Kim tinh,
Khi tình yêu vang dội khắp cùng chốn,
Thâm nhập cả những tâm hồn vô minh. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

3.9. Con ban phước lành cho tất cả mọi sự. Con cho phép chính lực của sự sống, tức là tình thương vô điều kiện của Thượng đế, cũng là Thánh Linh, tuôn chảy qua bản thể con. Con ban phước lành cho mọi người và mọi sự theo khả năng tốt nhất của viễn kiến hiện hành của con. Con luôn luôn ban phước lành cho chính mình và nâng cao viễn kiến của con.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc đỏ, 
Nhờ thày đến, chúng sinh được thánh hóa, 
Nguyên hành tinh biến thành miền cao cả,
Do hồng ân toàn vũ mà thăng hoa. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

4. Con ở trong cái một hoàn vũ

4.1. Con có quyết tâm không khoang nhượng và không cho phép bất cứ gì ngăn cản con thực thi sứ vụ thiêng liêng của con. Con khắc phục lòng ích kỷ bằng cách nới rộng ý niệm cái ta, thăng vượt ý niệm cái ta của con.

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.2. Con là nối dài của đấng Sáng tạo. Con thấy mọi người mọi sự đều được tạo ra từ Sinh thể đấng Sáng tạo. Ý niệm cái ta tối hậu của con bao gồm tất cả mọi người và mọi sự.

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.3. Con là người bảo hộ Ánh sáng Mẹ dùng uy lực viễn kiến để cho phép con mắt đơn nhất. Con không cho phép viễn kiến của con bị kéo vào bất kỳ hình ảnh nhị nguyên nào do ông hoàng thế gian tạo ra.

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.4. Con tập trung mắt con với tâm đơn nhất vào viễn kiến Ki-tô, và con thấy viễn kiến này được áp chồng lên tất cả điều kiện bên ngoài. Con thấy điều kiện bên ngoài tạm bợ và không thật, và con thấy chúng được thay thế bằng viễn kiến Ki-tô.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.5. Con nhìn nhận những bất toàn hiện hành và con hiểu chúng phát sinh từ tâm thức nhị nguyên. Con cũng thấy chúng không thật, vô thường và quả thật có thể thay đổi.

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.6. Con thấy điều kiện hiện hành là tạm bợ, là ảo giác không thực được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẹ. Con nhìn quá chúng. Con thấy Ánh sáng Mẹ thuần khiết là thực tại bên dưới mọi biểu hiện bên ngoài. Con thấy thực tại tối hậu là Ánh sáng Mẹ có tiềm năng biểu hiện bất kỳ hình ảnh nào được phóng chiếu lên nó.

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.7. Con thấy Ánh sáng Mẹ có thể ngay tức khắc ngưng  biểu hiện một viễn kiến bất toàn và bắt đầu biểu hiện một viễn kiến toàn hảo hơn. Con dùng uy lực viễn kiến của con để hình dung điều kiện bất toàn biến đổi như thế nào và trở nên toàn hảo hơn.

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.8. Con bước ra khỏi nhà tù hữu diệt, và Mẹ Mary có đó để đón tiếp con. Cái Ta Ki-tô của con có đó để đón tiếp con. Các thày tâm linh của riêng con cũng có đó để đón tiếp con. Con ở trong vòng tay ôm của các chân sư thăng thiên và chúng ta chia sẻ một khoảnh khắc hoàn vũ.

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.9. Trong sự hợp nhất giữa chúng ta này, chúng ta là một với mọi sự sống và là một với đấng Sáng tạo của chúng ta. Trong hợp nhất này chúng ta khám phá một sự dồi dào vượt quá bất cứ gì có thể tìm thấy trên trái đất, bất cứ gì mà tâm thức nhị nguyên có thể tưởng tượng hay mô tả bằng từ ngữ. Chúng ta biết sự dồi dào thật sự chỉ được biết qua tâm Ki-tô. Con thấy mọi sự sống là một và con được chiến thắng của con.

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Sanat Kumara, Venus và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả những  người trong vòng ảnh hưởng của con trong dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó con chấp nhận chuyện này đã hoàn toàn thể hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói ra nó. Amen.

13 | Cho là chìa khóa của Nhận

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 26/4/2005.

Trái tim yêu dấu của mẹ, chúng ta đã đi một hành trình dài. Khóa học này quả thật đã là một chuyến đi dài qua nhiều đề tài và thày chắc chắn là hầu hết những đề tài này vượt quá xa những gì các thày bên ngoài nói với con, dù họ thuộc một tôn giáo hay một môi trường thế tục. Thày biết ơn con đã chịu khó lắng nghe thày suốt hành trình dài này. Giờ đây chúng ta tới điểm rất may mắn là nơi có thể nói tới chìa khóa cơ yếu để thị hiện dồi dào trong cuộc sống của con.

13.1. Con làm gì với ánh sáng?

Điều thày đã nói tới trong suốt khóa này là nhu cầu lấy lại bản sắc thật của con như một sinh thể tâm linh có mặt ở đây với một mục đích cao hơn, đó là thị hiện vương quốc Thượng đế bằng cách dùng viễn kiến toàn hảo của tâm Ki-tô và ánh sáng của Thượng đế. Con có thể hướng ánh sáng của Thượng đế tuôn chảy qua viễn kiến – qua cuộn phim – của tâm Ki-tô trong bốn thể phàm của con, qua đó con áp chồng một hình ảnh toàn hảo lên Ánh sáng Mẫu-Vật là chất tạo nên toàn bộ vũ trụ. Để lấy lại vị thế này, để nhân lên cá thể thiêng liêng của con và cai quản trái đất, trước tiên con phải với lên và tái thiết lập dòng chảy của ánh sáng Thượng đế xuyên qua bản thể của con, xuyên qua bốn thể phàm của con. Con cần lấy lại viễn kiến của Ki-tô như là viễn kiến cao nhất cho dòng sống của con, cho tiềm năng của con, cho sứ vụ thiêng liêng của con. Sau đó con cần đem viễn kiến này xuống bốn thể phàm cho tới khi nó tới tầng của tâm vật lý, tâm ý thức. Tuy thế, đơn giản đem viễn kiến và ánh sáng xuống tới cõi vật lý chưa đủ. Chìa khóa thật để thị hiện đời sống dồi dào là con làm gì với ánh sáng và viễn kiến đó.

Nhiều người tâm linh rất chân thành trong nỗ lực tâm linh của họ. Một số đã cố gắng trong mấy thập kỷ để học hỏi, thiền định hay thực tập tâm linh và quả thật họ có tiến bộ. Họ đã nâng tâm thức của họ vượt rất xa trạng thái tâm thức khi họ khởi sự. Nếu con nhìn họ một cách trung thực, thì con sẽ khám phá hai khuynh hướng:

  • Một số có viễn kiến rất mạnh về điều gì cần xảy ra để cải thiện hành tinh trái đất và biến nó thành một môi trường tốt hơn cho tất cả. Họ rất giỏi nắm bắt viễn kiến này, họ giỏi giải thích nó nhưng thường khi viễn kiến ở lại trong đầu họ và không dễ dàng chuyển thành hành động.
  • Một số đã thiết lập được dòng chảy của ánh sáng Thượng đế ở cấp độ nào đó. Họ có thể rất hùng mạnh, có nhiều uy lực hoặc họ có thể đầy thương yêu và có thể lấp đầy một căn phòng với năng lượng tích cực. Những người như thế giỏi bắt tay vào hành động nhưng đôi khi họ thiếu viễn kiến rộng lớn và chú tâm vào đám cây thay vì thấy khu rừng. Không phải lúc nào họ cũng có viễn kiến cần làm gì với năng lượng và bầu nhiệt huyết của họ, cho nên họ có những hành động thiếu cân bằng không mang lại kết quả mong muốn. Những người này thường nghĩ điều thích nghi là chỉ cần thương yêu tất cả mọi người và chấp nhận mọi chuyện đều tốt.

Có nhiều người trên trái đất ngày nay đạt được một mức độ tâm linh nào đó. Họ tới điểm có tiềm năng làm được nhiều điều tốt và có ảnh hưởng ở mức độ hành tinh. Nhưng họ vẫn chưa bước qua lằn ranh thiết yếu cần phải bước qua trước khi họ có thể đem sự thành tựu từ cõi tiềm năng vào cõi thực tế.

Nhiều người tâm linh gần đột phá tới điểm có thể ảnh hưởng lớn lao và tích cực trên hành tinh này, một ảnh hưởng sẽ nâng cao tâm thức tập thể và đẩy mạnh xã hội tiến lên thời hoàng kim. Họ chưa có ảnh hưởng quyết định vì họ chưa thị hiện đời sống dồi dào trong chính đời sống họ, và ở tầng mức xã hội họ cũng chưa nâng cao phẩm chất cuộc sống cho tất cả. Thày không hề có ý định hạ thấp nỗ lực thành tâm của bất cứ ai. Thày chỉ muốn nói là có một tiềm năng vĩ đại đang chực xuyên phá nhưng vẫn chưa được kéo vào cõi vật lý. Vậy cái gì thiếu, chìa khóa nào chưa có mặt mà con người chưa khám phá hay chưa thể nhập? Để trao cho con chìa khóa này một cách giản dị nhất, thày xin con chiêm nghiệm hình số 8. Quả thực đây là biểu tượng cho điều cần xảy ra để con thiết lập được đời sống dồi dào thật sự.

13.2. Hoàn tất dòng chảy số tám

Khi con nhìn hình số tám, con có thể bắt đầu ở đỉnh tượng trưng cho chính đấng Sáng tạo. Con có thể hình dung ánh sáng tuôn chảy từ đấng Sáng tạo xuống các tầng của cõi tâm linh tượng trưng bởi phần trên của hình số tám. Sau đó ánh sáng đi tới điểm eo kết nối của hình số tám và điểm kết nối này tượng trưng cho thể bản sắc của con, điểm cao nhất của thể bản sắc của con. Đây là điểm gặp gỡ giữa tâm linh và vật chất, giữa Bản thể cao của con là nơi ánh sáng Thượng đế tuôn chảy xuyên qua, và con người phàm của con, bốn thể phàm của con, qua đó con hành động trong thế gian này. Trong các chương vừa qua, thày đã dạy con cách đem dòng chảy của ánh sáng Thượng đế từ điểm nối kết xuống tận đáy của hình số tám là tâm ý thức của con, tâm vỏ ngoài của con và thân vật lý của con. Để thực sự hiển thị sự dồi dào Thượng đế trong đời sống của con, con phải đi hết vòng tròn, hoàn tất dòng chảy hình số tám. Con không thể để ánh sáng tích tụ lại ở đây và không làm gì cả, con cũng không thể dùng ánh sáng cho mục đích vị kỷ. Làm thế là chôn vùi khả năng của con dưới đất.

Câu hỏi thật sự là con làm gì với ánh sáng sau khi đem nó xuống. Con có chọn lựa giữa con đường có vẻ đúng với người thế tục và con đường thật của đời sống vĩnh cửu. Con đường có vẻ đúng với người thế tục là suy luận rằng, vì mình đã bỏ công sức đem ánh sáng xuống, mình có quyền dùng nó cho quyền lợi riêng của mình. Quả thực con thấy nhiều người có thành tựu tâm linh nhưng họ dùng nó cho lợi ích riêng hay thú vui riêng của họ. Một số không bao giờ ngừng tìm cầu việc nâng cao tâm thức, có khi tìm cái gọi là quyền năng siêu thường hay trải nghiệm tột đỉnh, nhưng họ chỉ làm thế để cá nhân họ hưởng. Con hãy nhìn cuộc đời Giê-su và cuộc đời Phật. Nếu hai vị này đã chọn con đường thụ hưởng cá nhân, họ đã ở lại trong rừng hay nơi hoang vắng và dụng công để nâng cao tâm thức. Thay vào đó, họ tới bước ngoặt và trở về thế gian, dành trọn cuộc đời còn lại để giúp đỡ người khác.

Thày có nói tới hai loại người đã không thị hiện điều gì, và quả thực lý do là họ không chịu làm một cái gì với ánh sáng của họ, một cái gì vượt quá cá nhân họ. Thày không nhất thiết nói là những người này ích kỷ hay tôn sùng tự ngã theo nghĩa thấp nhất của từ ngữ. Thày muốn nói là có một số người tâm linh trên hành tinh này đã trở nên tập trung vào chính họ, gần như hoàn toàn chìm đắm trong chính họ và việc tìm cầu tăng triển tâm linh, bất kể họ định nghĩa tăng triển tâm linh là gì. Những người này không tôn sùng tự ngã theo nghĩa họ làm bất cứ gì họ muốn mà không đếm xỉa tới ảnh hưởng trên người khác. Nhiều người thật sự sống đúng theo các nguyên tắc tâm linh và không hại người khác hay môi sinh. Ta có thể tìm thấy những người này trong các cộng đồng Thời đại Mới hay tôn giáo truyền thống kể cả các giáo phái Cơ đốc. Nhìn từ góc độ vỏ ngoài, những người này sống một cuộc sống thiện lành, họ không vi phạm bất kỳ quy luật Thượng đế nào, ít nhất là những quy luật vỏ ngoài mô tả trong nhiều tôn giáo hay triết lý tâm linh. Họ không thực sự tiến lên một bực và xét xem họ có thể làm gì với thành đạt tâm linh của họ để đem vương quốc Thượng đế đến trái đất, tìm ra vị trí của họ trong công trình sáng tạo rộng lớn và vượt thời gian của Thượng đế. Vì họ không vượt lên trên chính họ, họ không hoàn tất được vòng tròn để cho ánh sáng tuôn chảy trở về Thượng đế.

Đây là điều Giê-su mô tả trong ẩn dụ về việc nhân ta-lăng. Chỉ khi con dùng khả năng mình để làm việc tốt thì con mới nhân chúng lên. Chỉ khi những khả năng của con, hay đúng hơn là ánh sáng, được nhân lên thì con mới hoàn tất dòng chảy hình số tám để Thượng đế có thể nhân lên ở Trên Cao những gì con đã nhân lên ở dưới này. Thậm chí, sẽ có nhiều ánh sáng hơn nữa chảy xuống hình số tám tới tâm ý thức của con. Chìa khóa thị hiện đời sống dồi dào trên một căn bản lâu dài là hoàn tất vòng tròn bằng cách cho ra vô điều kiện những gì con đã nhận được vô điều kiện.

13.3. Mọi sự sống là một

Đây là điểm tuyệt đối cơ yếu. Nhiều người tâm linh không hoàn toàn hiểu điểm này. Nhiều người gần hiểu, nhưng họ không có hiểu biết đầy đủ, đúng đắn và trọn vẹn. Nếu con không hoàn toàn nắm bắt điểm này, nỗ lực của thày giúp con thị hiện đời sống dồi dào thật sẽ chẳng đi tới đâu. Một số người đã đem tiến bộ tâm linh của họ chuyển thành vòng xoáy đi xuống mà không biết họ đã đi lầm đường, con đường trông có vẻ đúng đối với người thế tục. Họ đã dùng ánh sáng của họ cho mục đích vị kỷ thay vì vươn lên viễn kiến lớn rộng hơn thấy rằng vì mọi sự sống đều đến từ cùng một nguồn, nên họ là một với mọi sự sống. Những gì họ làm với người khác, họ thực sự làm với mình. Sự thật thô bạo là những người này thường nghĩ họ đang làm đúng mọi chuyện, nhưng họ lại đang đi theo con đường chắc chắn đưa họ tới cái chết tâm linh, cái lỗ đen của sự trở nên càng ngày càng đặt trọng tâm vào cái ta của mình thay vì đặt trọng tâm vào Thượng đế.

Mọi sự sống là một. Khi con bắt đầu hành trình tâm linh, con bị giam trong tâm thức nhị nguyên và không thấy sự thật này. Con quá ư tập trung vào thân vật lý và ngã hữu diệt để nhìn thấy bức tranh lớn hơn, để có được bất kỳ ý niệm là một với tất cả. Con phải bắt đầu nơi con đang là và tìm cách nâng cao tâm thức của mình. Vì tâm thức tập thể trên hành tinh này ở mức quá thấp, nên mọi người tầm đạo cần tách mình khỏi tâm thức đại chúng. Con cần tập trung vào chính mình, vào sự tăng triển của chính mình để thoát khỏi lực kéo xuống của tâm thức đại chúng. Tập trung vào chính mình và sự tăng triển của mình là việc làm có giá trị nhưng điểm cốt yếu là nó chỉ có giá trị trong một thời gian. Con phải tập trung vào chính mình để lấy lại sự nối kết nội tâm và nối kết trực tiếp với Bản thể cao hơn của con. Một khi con nối kết được, con phải bước lên mức kế tiếp và nhận ra con là nối dài của đấng Sáng tạo và mọi người khác cũng thế.

Khi con đạt được một mức hợp nhất nào đó với Thượng đế, con cần phát triển ý niệm hợp nhất với mọi sự sống. Con không còn đơn giản tìm cách nâng cao tâm thức của chính mình, con cũng tìm cách nâng cao tâm thức của người khác và ngay cả tâm thức tập thể. Chỉ khi con tặng ánh sáng của mình để giúp người khác, con mới hoàn tất dòng chảy hình số tám là điều Giê-su mô tả khi thày nói: “Cha ta làm việc cho tới nay và ta cũng làm việc” (John 5:17). Giờ đây con dùng thành đạt của mình, ánh sáng của mình để làm việc cho kế hoạch lớn hơn của Thượng đế là nâng tâm thức mọi người lên tới tâm thức Ki-tô. Nếu con không chuyển tiếp từ cái nhìn đặt mình là trọng tâm sang cái nhìn đặt Thượng đế là trọng tâm, thì con sẽ dùng ánh sáng của mình để củng cố sự ích kỷ của ngã hữu diệt. Sự thật phũ phàng là nhiều người tâm linh chân thành quả thực đã đi theo con đường ích kỷ này. Họ nghĩ họ đang làm đúng mọi chuyện nhưng sự công chính của họ không đạt mục tiêu. Thay vì nhân lên ánh sáng và thành đạt tâm linh của họ bằng cách giúp người khác, thì họ biến ánh sáng đó thành bóng tối chỉ củng cố thêm ngã hữu diệt của họ.

Đây là điều Giê-su nói tới khi đưa ra nhận xét thường bị hiểu sai hay bỏ qua: “Ánh sáng của thân thể là con mắt: cho nên nếu mắt con đơn nhất, toàn thân con sẽ tràn ngập ánh sáng. Nhưng nếu mắt con xấu ác, toàn thân con sẽ tràn ngập bóng tối. Cho nên nếu ánh sáng trong con là bóng tối thì bóng tối ấy lớn lao biết bao!” (Matthew 6:22-23). Nếu mắt con đơn nhất, con thấy cái một của mọi sự sống. Nếu mắt con xấu ác nghĩa là phân rẽ, con nhìn mọi chuyện qua tâm thức tách biệt và do đó con thấy lợi ích của riêng mình đi ngược lại hay cao hơn lợi ích của tổng thể. Khi con tăng trưởng tâm linh, con sẽ tới một ngã rẽ. Nếu con không bắt đầu dùng các thành đạt của mình để nâng cao tổng thể, thì con sẽ không tránh được sự tha hóa ánh sáng và thành đạt của mình, biến chúng thành cái tăm tối của tâm phản Ki-tô là tâm chối bỏ nó là một với đấng Sáng tạo và với mọi sự sống.

13.4. Tình thương vượt lên trên sợ hãi và ích kỷ

Hãy để thày nói tới động lực đằng sau hành động con người và thậm chí cách họ tiếp cận tâm linh. Nhiều tín đồ tôn giáo trên hành tinh này tin rằng họ phải thờ phượng Thượng đế để được cứu rỗi và là con chiên ngoan đạo. Một số còn tin rằng họ phải thờ phượng Giê-su. Nhiều người tin rằng để được cứu rỗi, để được chấp nhận vào vương quốc Thượng đế, thì họ phải làm điều gì đó cho Thượng đế, họ phải làm điều gì đó để hài lòng Thượng đế. Họ phải tuân theo quy luật của sinh thể bên ngoài ở trên trời đó, đã quy định luật lệ nghiêm khắc mà mọi người phải tuân theo không khoan nhượng.

Nếu Thượng đế đã tạo ra toàn bộ vũ trụ này, thì có thể chăng Thượng đế cần điều gì đó từ một con người sống trên hành tinh nhỏ bé này? Con thử nghĩ xem con có thể tặng Thượng đế điều gì mà Thượng đế cần, mà Thượng đế chưa có rồi? Tại sao Thượng đế cần sự thờ phượng của bất kỳ ai khi Thượng đế là Tất cả và do đó trọn vẹn trong chính ngài? Thượng đế đầy đủ đến độ ngài lúc nào cũng cho từ bản thể của ngài, giống như mặt trời lúc nào cũng tỏa ánh sáng của nó. Những người nghĩ họ cần làm điều gì hay tặng cái gì cho vị Thượng đế bên ngoài đang cư xử giống như những người nghĩ họ cần làm một ngọn đèn pha vĩ đại và chiếu nó vào mặt trời để cho mặt trời ánh sáng. Trước tiên con không thể chế tạo một đèn pha lớn đủ để ảnh hưởng được mặt trời. Thứ nhì, tại sao con cần cho mặt trời ánh sáng khi mặt trời hiện hữu để cho trái đất ánh sáng? Những người này suy nghĩ thiếu lô-gíc và quả thật đang kẹt trong tâm thức muốn mua sự cứu rỗi của họ.

Thượng đế, dưới dạng đấng Sáng tạo, không cần gì cả từ con. Thượng đế không muốn con thờ phượng ngài. Giê-su không muốn con thờ phượng thày và đó chính là lý do vì sao thày nói: “Tại sao ngươi gọi ta là lành? Chỉ có một đấng lành mà thôi, đó là Thượng đế” (Matthew 19:17). Thượng đế không cần con vào một nhà thờ hay một ngôi đền và thờ phượng ngài, đốt hương hay dâng vật tế. Thượng đế không cần con xây dựng thánh đường tráng lệ và gọi đấy là nhà của Thượng đế. Thượng đế không cần bất kể các thứ đó. Thượng đế muốn con làm gì với ánh sáng ngài đã cho con?

Chúng ta hãy nhìn những người tâm linh hay tôn giáo đã tiến lên cao hơn. Họ nhận ra rằng mục đích của tôn giáo không phải là thờ phượng một Thượng đế xa xăm không cần thờ phượng. Mục đích của tôn giáo là đưa niềm tin tâm linh vào thực hành bằng cách giúp người khác. Tỷ dụ, có nhiều người Cơ đốc chân thành và sùng đạo đã có thành đạt cao trong lãnh vực này và cống hiến cuộc đời mình để giúp đỡ người khác nhân danh Giê-su. Cũng có nhiều người thuộc các tôn giáo khác hay trong cộng đồng tâm linh Thời đại Mới cũng đang tìm cách nâng cao hành tinh qua việc thỉnh cầu năng lượng tích cực qua nhiều dạng nghi thức khác nhau. Một số trong các người đó quả thực có trái tim thành thật trong sáng. Một số khác vẫn chưa thăng vượt khuynh hướng tập trung vào việc làm điều gì đó cho vị Thượng đế xa xăm trên trời. Nhiều người vẫn còn làm việc giúp đỡ người khác vì họ nghĩ công việc này khiến Thượng đế hài lòng. Họ làm vì họ cảm thấy phải làm; họ làm trong tinh thần trách vụ hay bổn phận, hay vì họ cảm thấy việc làm của họ sẽ bắt buộc Thượng đế phải cứu rỗi họ. Một số còn phụng sự với niềm kiêu hãnh vi tế muốn tỏ cho Thượng đế thấy họ đã làm rất nhiều hơn so với người khác. Những người này chỉ cho để được hưởng lại điều gì đó, họ không cho vì yêu thích cho, vì tình thương trong sáng muốn thấy sự sống tuôn chảy.

Thày có nói sợ hãi là một động lực kém. Thày có nói con cần uy lực ý chí để đột phá lực chống trả sự thị hiện vương quốc Thượng đế trên trái đất. Nếu uy lực ý chí của con dựa trên sợ hãi, nó sẽ không mạnh đủ để đột phá sự chống đối do tâm thức đại chúng và ông hoàng thế gian tạo ra. Nhiều người đã khắc phục sợ hãi và không thật sự hành động vì sợ hãi. Nhưng họ vẫn còn ý niệm trách vụ và bổn phận và ý niệm này không thật sự vị tha. Nó không dựa trên điều duy nhất có thể khắc phục mọi chống đối. Điều duy nhất đó là sức mạnh tình thương.

Nếu con muốn đột phá lực chống đối sự thị hiện đời sống dồi dào, thì con cần uy lực ý chí hoàn toàn dựa trên tình thương. Tình thương là lực mạnh mẽ nhất trong vũ trụ. Để vượt lên trên sợ hãi và vị kỷ, con cần hiểu tình thương là gì và đây là một vấn đề cho nhiều người, ngay cả nhiều người tâm linh. Nhiều người đã có tiến bộ tâm linh lớn nhưng nhiều người trong số này đã tới mức bằng phảng không tiến lên nữa. Trong một thời gian, họ tăng triển và tiến bộ nhiều nhưng rồi họ tới điểm bắt đầu cảm thấy mình đã hiểu đủ, đã biết đủ, đã làm đủ rồi. Nhiều người cảm thấy họ đã tìm thấy chân lý tối hậu, tổ chức tối hậu, giáo lý hay đạo sư tối hậu. Họ chỉ cần ở lại với giáo lý, tổ chức đó, tiếp tục theo đạo sư đó và một ngày kia họ sẽ được cứu rỗi. Đây là một phiên bản vi tế của ước mơ cứu rỗi máy móc, và ý niệm này vẫn đặt trọng tâm vào chính họ. Động lực đằng sau mọi sự sống là tự thăng vượt, động lực trở nên hơn cái gì con đang là ngay bây giờ. Nếu con nghĩ con đã biết đủ, làm đủ, thì con không thể tránh đặt mình ra ngoài Dòng sông sự Sống và như vậy con không thể hoàn tất dòng chảy hình số tám.

Sẽ có lúc con tới bước ngoặt trên con đường tâm linh. Khi tới điểm này, con không thể và sẽ không tiến bộ tiếp cho tới khi con với lên cái gì vượt quá chính mình. Con sẽ không tiến bộ thêm cho tới khi con bắt đầu cho ra những gì con có và những gì con đã học. Thay vì tập trung vào sự tăng triển tâm linh của chính mình, con phải nhìn quá sự tăng triển của chính mình và nhìn vào toàn thể hành tinh. Con phải bắt đầu xét xem làm sao con dùng được những gì con đã học hỏi, những gì con đã khám phá, những gì con đã thấm nhập để nâng cao tâm thức người khác.

Nếu con không cho những gì con đã học, thì con sẽ không tăng triển thêm quá một điểm nào đó. Con sẽ không thể tránh đình trệ. nhưng không có sự đình trệ. Hoặc con tăng triển qua tự thăng vượt hoặc con sụp đổ qua sự chìm đắm trong cái ta là trọng lực kéo xuống được mô tả trong quy luật thứ nhì của nhiệt động học. Nhiều người trên trái đất cảm thấy họ rất tâm linh, cảm thấy họ đang làm đúng, nhưng họ không đang tăng triển. Họ đạt tới mức cảm thấy họ ngay chính vì họ thuộc về tổ chức này hay tổ chức nọ. Họ nhìn lại cuộc đời mình và họ thấy họ đã làm bao nhiêu việc cho một tổ chức đặc thù hay để nâng cao tâm thức hành tinh. Dù họ đã làm nhiều, nhưng họ đã cho phép sự tăng triển của họ ngừng lại. Họ không thực sự xét xem làm sao họ có thể thăng vượt tổ chức vỏ ngoài hay giáo lý vỏ ngoài. Trước hết, họ không xét xem họ có thể thăng vượt chính mình như thế nào, thăng vượt thái độ và cách họ tiếp cận cuộc sống. Họ hài lòng với hiểu biết họ có và họ không tìm hiểu biết cao hơn có thể dẫn họ lên mức kế tiếp. Họ không hiểu là ngày nào còn hiện thân trên trái đất thì luôn luôn có một mức kế tiếp. Con chỉ thăng lên vĩnh viễn khỏi trái đất khi con sẵn sàng lúc nào cũng vươn lên mức kế tiếp.

Những người này bị kẹt trong sự ngay chính mà Giê-su tố cáo khi thày nói trừ khi sự ngay chính của con trội hơn sự ngay chính của thày thông giáo và người Pha-ri-si thì con không thể vào thiên đàng (Matthew 5:20). Điều này đặt ra một tình huống rất khó xử cho các thày là những thày tâm linh vì nó thường khiến các thày mất những người có thành đạt tâm linh cao nhất. Tình huống khó xử này giản dị. Nhiều người đón nhận giáo lý trong khóa học này là những người đã mở tâm đón nhận con đường tâm linh và đã có những tiến bộ đáng kể trên đường tu. Vấn đề là nhiều người trong số đó thỏa mãn với tiến bộ của họ. Họ có thể đọc khóa học này vì tò mò và họ sẽ lấy một số ý mà họ cảm thấy là hay vì các ý này xác nhận những gì họ đã tin. Nhiều người sẽ cảm thấy khó dùng khóa học này để nhìn vào trong gương và thấy là họ chưa thăng vượt một mức hiểu biết hay thành tựu nào đó. Nhiều người cũng không muốn nhìn nhận sự kiện là mặc dù họ đã tiến bộ tâm linh nhiều, họ vẫn chưa tiến bước tối hậu để thiết lập đời sống dồi dào. Bước tối hậu đó là cho vô điều kiện những gì con đã nhận, dùng nó để giúp người khác bằng cách tạo cảm hứng cho họ tiến lên cao hơn.

13.5. Tình thương thiêng liêng là Dòng sông sự Sống

Tại sao nhiều người đứng ở bước ngoặt nơi họ có tất cả kiến thức và hiểu biết họ cần nhưng vì lý do nào đó họ không thể đem chúng vào hành động và thực sự thị hiện đời sống dồi dào tâm linh cho chính họ và người khác? Lý do là rất nhiều người không hiểu bản chất thật của tình thương. Lý do là họ lớn lên trong một xã hội dựa trên một tầm nhìn hoàn toàn méo mó về tình thương, tầm nhìn nhị nguyên về tình thương, tầm nhìn dựa trên tâm thức phản Ki-tô. Tình thương thế tục không dính dáng gì tới tình thương thiêng liêng. Không phải là tình thương thế tục ngược lại tình thương thiêng liêng. Đơn giản là tình thương thế tục không nối kết với tình thương thiêng liêng. Tình thương thiêng liêng là lực thúc đẩy sáng tạo của Thượng đế và nó là lực tự thăng vượt, lực trở nên hơn nữa. Ngược lại, tình thương thế tục tìm cách sở hữu, tìm cách làm chủ, tìm cách giữ mọi sự đứng yên bằng cách ngừng dòng chảy của sự sống. Khi con sở hữu một vật gì, con muốn giữ nó. Điều này tất nhiên dấy lên nỗi sợ mất mát và để tránh mất mát, con nghĩ con phải kiểm soát hoàn cảnh bằng cách không cho nó thay đổi.

Cốt lõi là con bị kẹt trong một dạng điên rồ tìm cách ngăn cản một điều gì trở nên hơn nữa bằng cách giữ nó trong một trạng thái giới hạn. Con nghĩ những gì con đang có là tất cả những gì con có thể có cho nên con thà giữ trạng thái giới hạn thay vì cho phép nó trở nên hơn nữa. Trên căn bản con đang nói với Thượng đế đang muốn cho con dồi dào vô hạn: “Thượng đế, hãy để tôi yên, tôi muốn giữ những gì tôi có; tôi không muốn trở nên hơn nữa.” Nhiều quan hệ nhân gian nhìn bề ngoài có vẻ thương yêu nhưng thật sự dựa trên ý muốn sỡ hữu người khác hay kiểm soát điều mình có được từ người kia. Dưới bề mặt có vẻ là quan hệ thương yêu là ý muốn kiểm soát một điều gì để giữ nó y như cũ, để con có thể tiếp tục sở hữu nó.

Khi con thấy bản chất phù du của mọi sự trên trái đất, thì phải chăng điều hiển nhiên là con tối hậu không thể sở hữu bất cứ gì, phải không con? Có điều gì mà con có thể giữ được? Con hãy nghĩ tới câu nói dân gian là con không thể đem gì theo con, nghĩa là bất cứ sở hữu vật chất nào, khi con chết. Có một thứ mà con có thể đem theo con, đó là những thành đạt tâm linh con đã thể nhập. Thành đạt tâm linh đó đòi hỏi con hiểu bản chất của tình thương, và bản chất đó là một dòng chảy liên tục, chính là Dòng sông sự Sống, không bao giờ đứng yên.

Dòng sông sự Sống không bao giờ tìm cách làm chủ hay sở hữu bất cứ gì; nó lúc nào cũng cho, cũng chảy, nó thay đổi, vượt thăng chính nó và trở nên hơn nữa. Nó không tìm cách sở hữu bất cứ gì vì nó thấy nó là một với tất cả mọi sự tốt lành và toàn hảo. Nó biết rằng chỉ khi trở nên hơn nữa, khi là một với Dòng sông sự Sống, thì con mới thực sự sở hữu bất cứ gì. Chỉ khi con không tìm cách sở hữu và kiểm soát một thứ, thì con mới cho phép cái Tất cả trở nên hơn nữa. Chỉ khi con cho chính mình, con mới nhân lên các khả năng của con và trở nên hơn nữa. Chỉ khi con tự thăng vượt con mới có sở hữu thật vì chỉ khi con tự thăng vượt con mới ở trong Dòng sông sự Sống. Chỉ khi con ở trong dòng sông này con mới có dồi dào, sự dồi dào thực sự luôn luôn tăng trưởng và trở nên hơn nữa. Đó là lý do tại sao con phải nâng cao hiểu biết về tình thương để nhận chân rằng tình thương thật, tình thương thiêng liêng không bao giờ đứng yên và không bao giờ tìm cách làm chủ, sở hữu hay kiểm soát bất cứ gì. Tình thương thật luôn luôn cho chính nó và chính là trong sự cho chính nó đó mà nó trở nên hơn nữa.

Đây là chìa khóa chủ yếu để thị hiện dồi dào và đây là chân lý mà hầu hết người đi tìm tâm linh không hiểu trọn vẹn, không thể nhập trọn vẹn và không trọn vẹn đem vào hành động. Để duy trì dòng chảy hình số tám, con phải cho ra dưới này những gì con nhận được từ Trên. Đấng Sáng tạo muốn con cho ra không điều kiện những gì con nhận không điều kiện nhưng ngài không muốn con cho ngài vì ngài không cần nó. Nếu đấng Sáng tạo cần gì từ con, thì tại sao ngài lại liên tục cho con ánh sáng? Thượng đế không muốn con cho lại Thượng đế bằng cách thờ phượng một sinh thể xa cách trên trời, bằng cách phục vụ người khác để làm vừa lòng sinh thể xa xăm đó hay bằng cách chú tâm nâng cao chính tâm thức mình để gây ấn tượng với vị Thượng đế xa xăm đó.

Điều Thượng đế cần con làm là nhìn chung quanh mình và xem xét những điều kiện con hiện thấy trên trái đất. Thượng đế cần con có một lượng định thực tế và nói: “Với tất cả những gì tôi biết về Thượng đế như một Sinh thể hoàn toàn tự túc lúc nào cũng cho chính mình, tôi cần nhận ra tình thương của Thượng đế vô điều kiện và vô biên. Thượng đế không có mong muốn nào khác ngoài chuyện thấy vương quốc của ngài thị hiện vật lý trên hành tinh trái đất.” Đấng Cha quả thật hoan hỷ muốn cho mọi người vương quốc của ngài. Ngài không muốn thấy họ chết và lên thiên đàng mới nhận được vương quốc, nhưng ngài muốn cho mọi người vương quốc ngay ở đây trên trái đất.

Điều kiện hiện hành trên trái đất khác xa vương quốc Thượng đế. Thực tại hiện hành khác xa viễn kiến cao nhất của tâm Ki-tô đến độ gần như không thể mô tả được. Lý do vì sao điều kiện hiện hành khác xa viễn kiến Thượng đế chính là vì con người đã rơi vào tâm thức nhị nguyên. Họ lạm dụng quyền năng sáng tạo của họ để tự ngã tạo ra đời sống khổ đau thay vì họ đồng-sáng tạo vương quốc Thượng đế. Cần gì để thay đổi tình trạng này? Cần những người có viễn kiến cao hơn, như chính con, làm hết mọi điều trong khả năng của họ để quảng bá viễn kiến đó và thức tỉnh người khác.

Thượng đế muốn con nhân lên những gì con nhận được từ ngài bằng cách cho nó cho người khác. Đó là lý do tại sao Giê-su nói: “Hễ các con làm điều gì cho người thấp hèn nhất trong anh em của ta, thì các con đã làm điều đó cho chính ta.” (Matthew 25:40). Ở các tầng thấp hơn của tâm thức Ki-tô, con nhận ra con là một với Thượng đế nhưng con không ngừng ở đó. Con cần thăng vượt lên tầng cao hơn và nhận ra con là một với Thượng đế vì Bản thể Thượng đế nằm trong mọi sự đã được sinh tạo. Đấng Sáng tạo sinh tạo mọi sự từ chính Bản thể ngài. Khi con cho chính mình cho người khác hay cho Trái đất Mẹ, con thật sự đang cho Thượng đế. Duy có điều con không cho vị Thượng đế mà con coi như một sinh thể trên trời. Con đang cho vị Thượng đế thật, nội tại hiện hữu bên trong mọi sự.

Con hãy lưu ý sự khác biệt vi tế ở đây. Thày không nói là không có Thượng đế trên cõi cao, vì quả thực có một Sinh thể mà tâm thức tập trung như là đấng Sáng tạo của hệ thống các thế giới này. Một phần của Bản thể đấng Sáng tạo được cài bên trong mọi sự từng được sinh tạo. Có một khía cạnh phi cá nhân của Thượng đế, đấng Sáng tạo trên cõi cao, và có một khía cạnh cá nhân của Thượng đế là Thượng đế hiện hữu trong tất cả. Có Thượng đế là cái Tất cả và Thượng đế ở trong tất cả. Thượng đế là cái Tất cả muốn con cho ánh sáng và tình thương một cách vô điều kiện cho Thượng đế ở trong tất cả. Thượng đế ở trong tất cả đang tạm thời lẩn trốn đằng sau lớp hóa trang của hình tướng vật lý bất toàn. Đấng Sáng tạo muốn con giải thoát Thượng đế này, giải thoát Ánh sáng Mẹ, để trải bày cái toàn hảo mà đấng Sáng tạo đã hình dung. Qua đó, Thượng đế ở trong tất cả sẽ hợp nhất với Thượng đế là cái Tất cả. Sẽ không còn ảo tưởng tách biệt giả tạo do tâm thức phản Ki-tô tạo ra.

13.6. Phát triển nhận biết hoàn vũ

Con yêu dấu, điều sẽ có tác dụng quyết định trên hành tinh này là những người tâm linh tiến bộ hơn khắc phục khuynh hướng tập trung vào chính mình và thay vào đó phát triển một sự nhận biết không những toàn cầu mà toàn vũ. Con ở đây để là một sứ thần cho ánh sáng Thượng đế, sứ thần cho viễn kiến Ki-tô. Con ở đây để là người đồng-sáng tạo và đem vương quốc Thượng đế tới trái đất. Chỉ khi con nhận ra lý do tại sao Bản thể cao của con chọn xuống đây, con mới có thể trải nghiệm và thị hiện đời sống dồi dào. Chìa khóa để thiết lập dòng chảy số tám của đời sống dồi dào là cho ra những gì con có, cho ra những gì con đã nhận, cho ra những gì con thể nhập, cho ra con người mà con đã trở thành. Con phải để cho mặt trời của Hiện diện TA LÀ tỏa rạng xuyên qua bốn thể phàm của con và cho nó rọi sáng người công chính và người bất chính. Điều này đòi hỏi con phải khắc phục lời dối trá cơ bản liên quan tới tình thương do ông hoàng thế gian lan truyền.

Lời dối trá quỷ quyệt nhất do ông hoàng thế gian, do tâm rắn, lan truyền là con phải cho tình thương với điều kiện. Lời dối trá này tìm cách khiến con tin rằng có một số tình huống trên trái đất cho phép con đóng dòng chảy của tình thương vô điều kiện của Thượng đế tuôn chảy qua bản thể con và làm như thế là cần thiết, không thể tránh và đúng lý. Khi con nhìn vào nhân loại ngày nay, con sẽ thấy là gần như hầu hết con người trên hành tinh này bị kẹt trong thái độ là để họ có thể cho tình thương cho một người, thì người ấy phải hội đủ một số điều kiện, như thể họ phải xứng đáng nhận được tình thương. Đây là một lời dối trá quỷ quyệt vì tình thương thật đến từ Thượng đế và Thượng đế cho tình thương một cách vô điều kiện. Ngài cho phép ánh sáng của ngài tỏa sáng trên người ác cũng như người lành và ngài cho phép tình thương của ngài mưa xuống người công chính và người bất chính (Matthew 5:45). Con là ai mà đặt điều kiện khi cho người khác?

Lời dối trá này không chỉ ngăn cản sự thị hiện vương quốc Thượng đế ở tầng mức lớn rộng mà nó còn ngăn cản sự thị hiện đời sống dồi dào cho tất cả mọi người đang bị kẹt trong cách tiếp cận đời sống đó. Mặt trời nhận được niềm vui qua sự tỏa chiếu ánh sáng của nó. Nếu mặt trời đặt điều kiện khiến nó khóa ánh sáng của nó lại, nó sẽ gây tổn thương cho chính nó qua việc tắt đi nguồn vui của nó. Khi con cho phép bất cứ điều kiện nào trong tâm con hay ngoài con ngưng dòng chảy của ánh sáng Thượng đế, tình thương Thượng đế, tuôn chảy xuyên qua con, thì con khóa lại chính nguồn vui của chính con, chính nguồn cội của đời sống dồi dào, vì đời sống dồi dào chính thật là một trạng thái tâm thức.

Rất nhiều người cảm thấy họ chỉ có thể cho tình thương cho người khác nếu người đó hội đủ những điều kiện mà họ đã cho phép đi vào bản thể của họ. Tất cả những điều kiện này, và thày cố ý khẳng đỉnh một điều tuyệt đối ở đây, đều do ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian tạo ra. Bất kỳ điều kiện nào khiến con đóng lại dòng chảy của tình thương Thượng đế xuyên qua bản thể của con phát xuất trực tiếp từ tâm phản Ki-tô và nuôi béo các lực của bóng tối. Không có gì phải bàn cãi về điều này; quy luật này hoàn toàn không có ngoại lệ. Một lần nữa, chúng ta có một sự phân biệt vi tế có thể làm nhiều người rối rắm cho tới khi họ vươn tới cái hiểu cao hơn của tâm Ki-tô.

Thày không nói là con phải đi ra ngoài và cho hết của cải của con một cách không phân biện hay cho đồng đều tất cả mọi người con gặp. Có sự khác biệt cơ bản giữa cho ra điều kiện và cho ra có khác biệt, có phân biện. Để hiểu khác biệt này, con cần xem bản chất của tình thương là một lực không bao giờ cho phép bất cứ gì đứng yên trong một trạng thái giới hạn. Tình thương Thượng đế luôn luôn muốn mọi sự trở nên hơn những gì nó là bây giờ, thăng vượt tình trạng hiện thời của nó. Thày không nói là con phải đối xử với mọi người với cùng tình thương và lòng trắc ẩn. Thày không nói là con phải hiền dịu và nói nhỏ nhẹ với tất cả mọi người con gặp. Điều thày muốn nói là con cần để cho tình thương Thượng đế chảy qua bản thể con trong tất cả mọi tình huống mà con gặp. Con cần cho tình thương làm việc một cách tự do mà không ngăn nó lại, không áp đặt điều kiện là tình thương Thượng đế có thể làm hay không thể làm điều gì xuyên qua con. Ánh sáng Thượng đế muốn làm gì qua con? Nó muốn thay đổi mọi người nó gặp bằng cách giúp người ấy thức tỉnh và thấy nhu cầu vươn lên cao hơn, tự thăng vượt, trở nên hơn nữa.

Nếu con muốn một thí dụ thì con hãy tìm hiểu đời của Giê-su với một nhận biết mới vượt quá hình ảnh giả do nhiều giáo hội Cơ đốc dựng nên. Giê-su được mô tả như một vị thày tâm linh dễ dãi, hiền từ và thương yêu tất cả mọi người và khi thày nói “hiền từ và thương yêu” thày nói theo nghĩa thế tục. Nhiều người đã khoác vào trạng thái tâm thức tin rằng tình thương luôn luôn nhẹ nhàng và dịu dàng. Nếu con là người thương yêu, con luôn luôn nói nhẹ nhàng với người khác, khiến họ cảm thấy dễ chịu dù họ đang ở trong tình huống xấu hay trạng thái tâm giới hạn. Đây là hiểu sai lầm về bản chất của tình thương và nó tha hóa thành sự cảm thông nhân gian, nó có thể giúp người khác cảm thấy thoải mái nhưng không giúp họ vượt thăng trạng thái đau khổ và giới hạn hiện hành của họ.

Giê-su không phải là loại thày tâm linh như thế. Không phải lúc nào Giê-su cũng nói nhỏ nhẹ hay dịu dàng, nhưng thường rất cương cường và rất thẳng thắn. Con nhìn xem Giê-su chất vấn các thày thông giáo và người Pha-ri-si và đuổi những người đổi tiền ra khỏi đền thờ. Con nhìn xem Giê-su tra vấn các đệ tử bao nhiêu lần và nói họ không có hiểu biết và có ít đức tin. Giê-su có tình thương thiêng liêng thật và do đó, trong mỗi tình huống, mỗi người mà thày gặp, thày muốn mọi sự trở nên hơn nữa. Giê-su không muốn tình huống hay con người vẫn ở y trạng thái cũ sau khi gặp thày. Thày muốn giúp hay tạo cảm hứng cho họ, thậm chí chất vấn và thúc đẩy họ tự thăng vượt, vươn lên cao hơn, trở nên hơn nữa. Đây là tình thương thật. Con không cho phép bất cứ gì y như cũ, con không cho phép tình trạng khốn khổ và vật lộn hiện hành trên hành tinh trái đất tiếp tục như cũ. Chỉ giản dị đi khắp nơi và tỏ lòng thương cảm với mọi người không phải là tình thương. Tình thương là làm gì cần làm để giúp họ thăng vượt tình trạng tâm thức hiện hành của họ vì tình trạng tâm thức này là nguyên nhân thật của những vật lộn trong cuộc đời họ.

Để giúp những người đang kẹt trong ích kỷ và vị kỷ thăng vượt trạng thái tâm thức hiện hành của họ, thì con có thể cần phải rất cương cường và rất thẳng thắn. Điều có thể hoàn toàn cần thiết là con chất vấn và phơi bày những niềm tin nhị nguyên mà họ dính mắc. Có thể con cần làm rúng động niềm tin họ biết hết mọi chuyện hay chất vấn bất cứ cớ nào họ dùng để không thay đổi chính họ. Một số người sẽ cho rằng làm vậy thiếu từ bi nhưng từ một tầm nhìn rộng hơn, làm vậy không thiếu từ bi mà chính là lòng từ bi tối hậu. Để người khác ở lại trong tình trạng tâm thức sẽ bảo đảm họ bị tấm gương vũ trụ tiếp tục trả lại hòa cảnh khốn khổ và vật lộn không phải là lòng từ bi. Lòng từ bi là làm bất cứ gì cần thiết để lay chuyển họ bước ra khỏi trạng thái tâm thức đó và lãnh trách nhiệm cuộc đời họ, để họ có thể phóng chiếu điều gì vào tấm gương vũ trụ sẽ được trả lại như điều kiện sống dồi dào. Đây là lòng từ bi tâm linh thật sự và nó là món hàng hiếm hoi trên trái đất. Con có thể làm cho nó phổ biến hơn nếu con chịu nâng cao hiểu biết của con về bản chất của tình thương.

13.7. Nâng điều kiện hiện hành theo viễn kiến Ki-tô

Chìa khóa chủ yếu để thị hiện đời sống dồi dào cho mình là con nhìn mình là người đồng-sáng tạo với Thượng đế đang có mặt ở đây để giúp trái đất tới gần hơn việc thị hiện vương quốc Thượng đế. Con không ở đây để giản dị chấp nhận hoàn cảnh như chúng đang là hay để giúp con người cảm thấy thoải mái với những giới hạn hiện hành của họ. Con ở đây để giúp họ tiến lên cao hơn, để giúp mọi sự sống tiến lên cao hơn.

Con cần làm gì để thật sự hoàn thành vai trò này? Con cần xoay chuyển nhận biết để khắc phục một ảo tưởng khác trong những ảo tưởng quỷ quyệt do ông hoàng thế gian tạo ra. Ông hoàng thế gian muốn con tin rằng những giới hạn và bất toàn hiện hành mà con thấy trên trái đất có thật theo nghĩa tối hậu. Ông hoàng thế gian muốn con tin rằng tình trạng bất toàn và vât lộn hiện hành không thể tránh được vì Thượng đế không có ở đây trên trái đất, và do đó vương quốc Thượng đế không thể thị hiện trên trái đất. Đây là ảo tưởng tối hậu mà ông hoàng thế gian đưa ra và y đã khôn khéo dùng tình trạng hiện hành của vũ trụ vật chất để xây dựng ảo tưởng này.

Vũ trụ vật chất là bầu cõi sau cùng của công trình sáng tạo của Thượng đế. Khi Thượng đế sinh tạo một bầu cõi mới, bầu cõi này chỉ vừa đủ ánh sáng để khác với cái rỗng không. Các sinh thể tự nhận biết từ một bầu cõi cao hơn đi xuống bầu cõi mới để đem xuống ánh sáng Thượng đế và áp chồng viễn kiến tâm Ki-tô lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Mục đích là khiến bầu cõi sau cùng trải bày viễn kiến Ki-tô. Ngày nào bầu cõi mới chưa được lấp đầy bằng khối lượng ánh sáng tới hạn, không thể tránh là có vẻ như Thượng đế không có mặt nơi bầu cõi đó. Cảm tưởng này do ánh sáng Thượng đế không hiện hữu ở cường độ mạnh đủ để các giác quan thô của thân thể vật lý thấy Thượng đế có mặt. Hiện nay vẫn chưa đủ ánh sáng trong vũ trụ vật chất để giác quan vật lý thấy ánh sáng đằng sau các biểu hiện. Mắt của con không thể thấy là vật chất quả thực được làm ra từ Ánh sáng Mẹ đã khoác vào một hình tướng tạm thời. Ở điểm này của dòng tiến hóa của trái đất, chuyện bình thường là giác quan vật lý của con người không nhìn thấy ánh sáng Thượng đế đằng sau các biểu hiện bên ngoài. Cái Ta Biết hoàn toàn có khả năng thấy ánh sáng Thượng đế. Để thấy được, con phải đứng ngoài màn ảo tưởng do ông hoàng thế gian tạo ra.

Tấm màn ảo tưởng này dựa trên niềm tin là những gì con thấy qua giác quan là thật và những gì con không thấy, tức là ánh sáng Thượng đế, không hiện hữu. Đây là ảo tưởng mà ông hoàng thế gian tạo ra với mục đích kiểm soát thế giới và ngăn cản các đồng-sáng tạo của Thượng đế hoàn thành sứ vụ của họ. Các đồng-sáng tạo này có mặt ở đây để đem ánh sáng Thượng đế. Trước tiên ông hoàng thế gian làm cho những sinh thể tự nhận biết này quên mất bản sắc thật của họ và đồng hóa với thân vật lý. Sau đó, y cố gắng dùng những giới hạn của thân vật lý để giữ mọi người kẹt trong ảo tưởng đó. Y muốn con tin vào ảo tưởng là Thượng đế không có mặt ở đây và các bất toàn hiện hành là thật, không thể tránh và thường trực. Y muốn con tin vào điều này để con không để ánh sáng mình tỏa rạng và qua đó, con đẩy các điều kiện hiện hành đi, nâng chúng lên cao theo viễn kiến toàn hảo của tâm Ki-tô. Đây là âm mưu của ông hoàng thế gian và ngã hữu diệt. Làm sao con khắc phục được ảo tưởng lớn của các thời đại này, ảo tưởng đã giam bẫy 99 phần trăm con người trên trái đất? Làm sao con giải thoát mình khỏi bẫy đó? Con chỉ làm được bằng cách thanh tẩy bốn thể phàm của con. Khi làm vậy, con có thể nắm bắt viễn kiến cao hơn mà Thượng đế giữ cho hành tinh này, mà chúng ta có thể gọi là niệm tinh khôi. Niệm tinh khôi là ý nghĩa thật của thụ thai tinh khôi.

13.8. Giữ niệm tinh khôi

Ta là người sinh ra Giê-su qua cách mà các giáo hội Cơ đốc chính thống gọi là thụ thai tinh khôi (Luke 1:35). Điều này không có nghĩa là Giê-su được thụ thai một cách không tự nhiên hay siêu nhiên. Điều này có nghĩa là sau khi ta được thiên thần tới gặp và ta chấp nhận thay đổi lớn lao là cho ra đời một em bé, ta được trao cho niệm tinh khôi, viễn kiến tinh khôi, về Giê-su và sứ vụ của thày. Ta được trao viễn kiến nội tâm Giê-su là ai như một sinh thể tâm linh. Ta được trao viễn kiến tại sao Giê-su tới trái đất và mục đích của thày là gì trong sống kiếp đó. Suốt cuộc đời Giê-su, bổn phận của ta mà cũng là thử thách của ta, đôi khi cũng là khó khăn của ta, là giữ đúng niệm tinh khôi này. Có những giai đoạn Giê-su là một đứa trẻ khó dạy, một thiếu niên khó dạy và đôi khi thậm chí một người lớn khó tính. Bất kể Giê-su làm gì hay dù bất kể chuyện gì xảy ra, thử thách của ta là trung thành với viễn kiến tinh khôi là Giê-su sẽ biểu hiện quả vị Ki-tô trọn vẹn và hoàn thành sứ vụ của thày.

Sứ vụ của Giê-su trong hoàn cảnh bên ngoài có thể được trải bày qua nhiều diễn tiến khác nhau. Quả thật, tiềm năng cao nhất của sứ vụ của Giê-su là nhiều người dân và thậm chí một số nhà lãnh đạo Do thái giáo sẽ đón nhận thày như đấng Cứu tinh mà đạo Do Thái chờ mong. Hiển nhiên điều này đã không xảy ra, và chúng ta cũng có thể nói điều đã xảy ra gần với tiềm năng thấp nhất, nếu nhìn theo sự việc bên ngoài. Với tầm nhìn cao hơn, thì sứ vụ của Giê-su là một thành công mỹ mãn vì thày đạt được quả vị Ki-tô trọn vẹn và qua đó chứng minh con đường tới quả vị Ki-tô. Cốt lõi của con đường này là con không ngồi yên và chờ điều kiện lý tưởng xảy ra trên trái đất trước khi con cho phép ánh sáng của con tỏa rạng và cho ra tình thương Thượng đế. Ngược lại, con chấp nhận bất kỳ điều kiện nào con đối mặt, dù chúng khó khăn bao nhiêu, và con để cho ánh sáng và tình thương Thượng đế nâng các điều kiện này lên cao hơn. Bất kể các điều kiện bên ngoài như thế nào và có vẻ bất toàn như thế nào, theo tầm nhìn cao hơn thì sứ vụ của Giê-su đã thành công. Cũng vậy, sứ vụ của con có thể thành công dù hoàn cảnh bên ngoài của con không đạt được tiêu chuẩn thế tục. Chìa khóa là con phải sẵn sàng thăng vượt những giới hạn của con.

Vai trò của ta và thử thách của ta là nhìn quá các hoàn cảnh bên ngoài và luôn luôn thấy Giê-su chiến thắng, nghĩa là thày sẽ đạt được sự phục sinh của thày. Ngay cả khi ta chứng kiến thày bị xét xử, khi ta thấy thày nhọc nhằn vác cây thập tự qua những phố đông người của thành phố Jerusalem, ngay cả khi ta thấy thày bị treo trên cây thập tự, thử thách của ta là nhìn quá những hoàn cảnh bên ngoài rất căng thẳng và rất bất toàn này. Ta phải giữ đúng viễn quan của niệm tinh khôi và kiên định giữ viễn quan Giê-su sẽ vươn lên trên mọi giới hạn nhân phàm và đạt được tự do vĩnh cửu trong sự phục sinh.

Đây là thử thách mà con đối mặt trong đời sống cá nhân của con và đây là thử thách các con đối mặt ở mức hành tinh trong thời đại này. Thử thách chính của cuộc sống trên trái đất là không bao giờ để cho bất kỳ hoàn cảnh nào lừa gạt con để con khóa dòng chảy của ánh sáng và tình thương Thượng đế xuyên qua bốn thể phàm của con. Con phải giữ vững viễn kiến cao nhất của con, không bao giờ chấp nhận các bất toàn là thật, trường tồn hay không thể vượt qua. Con phải nhận ra là đằng sau mọi điều kiện bên ngoài là Ánh sáng Mẫu-Vật thanh khiết và Ánh sáng Mẫu-Vật có tiềm năng trải bày bất kỳ viễn quan nào được phóng chiếu lên nó xuyên qua tâm có tự nhận biết. Ánh sáng vật chất có thể trải bày dễ dàng sự toàn hảo của Thượng đế cũng như nó có thể trải bày những bất toàn hiện hành thấy được trên trái đất.

Điều quan trọng là con người phải thức tỉnh nhận ra sự liên hệ giữa tâm thức của họ và những gì xảy ra trên hành tinh vật lý dưới dạng thiên tai và xung đột giữa con người. Trừ khi con người tự nguyện thức tỉnh để thấy sự thật này, con sẽ chứng kiến nhiều dạng tai ương và biến động trên hành tinh này do tấm gương vũ trụ gửi trả nhân loại những gì nhân loại phóng chiếu ra ngoài. Điều này không xảy ra để trừng phạt, nó xảy ra với hy vọng một ngày kia con người sẽ tỉnh thức nhờ thấy được hậu quả của hành động của họ. Hy vọng họ sẽ bắt đầu suy ngẫm liệu có một nguyên nhân tiềm ẩn và liệu họ cần thay đổi chính họ để tránh các tai ương bên ngoài này. Hy vọng lớn của thày là con người sẽ thức tỉnh qua sự hướng dẫn tâm linh thay vì qua Trường đời Cay đắng.

Thẩm định thực tế là sẽ có nhiều tai ương trước khi có một sự tỉnh thức rộng lớn. Thày phải tiên tri với con là rất có thể sẽ có nhiều thiên tai trước khi sự tỉnh thức đạt mức tới hạn. Điều thày cần nơi những người tỉnh thức tâm linh nhất trên hành tinh này là họ kiên định tuân thủ nhiệm vụ giữ niệm tinh khôi cho nhân loại và hành tinh trái đất. Thày cần những người nhìn vượt quá điều kiện bên ngoài, bất kể những điều kiện này có vẻ khốc liệt tới đâu, và giữ đúng niệm tinh khôi là trái đất đang không ngừng tiến gần hơn sự hiển thị vương quốc Thượng đế.

Khi con nhìn một phụ nữ đang sinh nở, thấy cô ấy trải qua nhiều cơn đau dồn dập đợt này đến đợt kia, con có thể quá lo lắng bấn loạn và quên rằng cô ấy chỉ đang trải qua những cơn đau tạm thời để cho ra đời một hài nhi mới xinh đẹp. Thày cần những người chịu nhìn vào Mẹ Trái đất và thấy là dù mẹ đang trải qua nhiều cơn đau và tai ương, chúng chỉ đơn giản là những cơn đau đẻ dọn đường cho một thời đại mới tốt đẹp hơn, một thời đại hoàng kim. Thày không nói là Thượng đế muốn những tai ương này; thày chỉ đơn giản nói là nhân loại có vẻ không sẵn sàng tỉnh thức nếu chưa cảm thấy trái đất rung chuyển dưới chân họ.

13.9.  Luôn luôn đáp trả bằng tình thương

Để có thể giữ đúng niệm tinh khôi, con phải sẵn sàng nhìn quá những bất toàn bên ngoài. Muốn nhất quán làm được điều này cần phải biết một chân lý rất quan trọng. Nhiều người tâm linh cảm hứng hình ảnh không thể lấy bóng tối ra khỏi một căn phòng. Con hãy tưởng tượng có một căn phòng hoàn toàn chìm trong bóng tối. Con không thể mang bóng tối ra ngoài để vứt nó đi. Bóng tối không có thể chất và ta không thể loại bỏ hay tiêu diệt cái không có thể chất. Tâm thức nhị nguyên, tâm thức phản Ki-tô không có thực tại. Nó thật sự không có thực chất, nó không là gì cả mà chỉ là sự vắng mặt của ánh sáng, vắng mặt của sự thật Ki-tô. Hiện nay hành tinh trái đất thiếu vắng ánh sáng trong khi ánh sáng có mặt trong toàn vũ trụ vật chất. Đáng lý đây chỉ là một hoàn cảnh tạm thời sẽ được mau chóng khắc phục khi càng ngày càng nhiều người cho phép ánh sáng Thượng đế tỏa rạng xuyên qua bản thể họ. Chuyện đã xảy ra trên trái đất là ông hoàng thế gian đã thành công trong việc khiến hầu hết con người tin vào lời dối trá là sự thiếu vắng ánh sáng là tình trạng thường trực hay không tránh được. Đó là chứng cớ giả hiệu là Thượng đế không có mặt ở đây, Thượng đế không muốn có mặt ở đây và Thượng đế không quan tâm tới con người. Thậm chí có người còn tin rằng tình trạng thiếu ánh sáng chứng tỏ Thượng đế không hiện hữu.

Suốt dòng lịch sử nhiều người đã bị vướng kẹt trong cuộc chiến chống lại xấu ác. Họ bị mắc kẹt trong niềm tin là để loại bỏ xấu ác, họ phải tiêu diệt nó và những biểu hiện của nó trên trái đất. Trong hầu hết trường hợp, họ nhận diện một nhóm người nào đó là nguyên nhân của xấu ác và như vậy họ rơi vào tròng của lời dối trá khác của quỷ là nếu họ giết hết những người thuộc về chủng tộc đó, quốc gia đó hay tôn giáo đó, họ sẽ loại bỏ được xấu ác khỏi hành tinh. Đây là lời dối trá nói rằng làm ác để đem lại thiện là điều chính đáng. Đây quả thực là một lời dối trá của quỷ bởi vì, như thày đã nói, con không thể loại bỏ cái gì không có thực chất. Nếu con hành động xấu ác để loại bỏ xấu ác, con chỉ tăng thêm bóng tối, tăng thêm năng lượng tha hóa, và như vậy con nuôi béo các lực xấu ác.

Con hãy để thày cho con một sự phân biệt vi tế khác. Bản chất của bóng tối là không có thực chất. Tâm thức nhị nguyên không có thực chất hay thực tại và nó chỉ có thể tiếp tục hiện hữu khi các sinh thể tự nhận biết còn cho phép nó tồn tại trong tâm họ, trong quả cầu cái ta của họ. Trên hành tinh trái đất, con có một hiện tượng tăng cường uy lực của bóng tối và hiện tượng này là những năng lượng tha hóa mà nhân loại đã tạo ra qua các thời đại. Đây là một chất liệu tạm bợ mà những người mắc kẹt trong tâm thức phản Ki-tô có thể dùng để gia tăng tầm kiểm soát trên con người. Trước đây thày gọi nó là năng lượng tâm lý bị tha hóa. Bóng tối, nghĩa là cái không thật của tâm thức phản Ki-tô, không có thực chất, không có thực tại và quả thực sự tự nó không làm gì được cả. Một khi các sinh thể tự nhận biết bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên, thì họ có thể dùng năng lượng tâm lý bị tha hóa để có uy lực trên người khác.

Vì năng lượng tha hóa này có thể chất, ta có thể loại bỏ năng lượng tha hóa và qua đó lấy lại giảm sức mạnh các lực bóng tối. Con không thể khắc phục năng lượng tha hóa bằng cách gỡ bỏ hay tiêu diệt nó. Một khi năng lượng đã được đem vào cõi vật chất, con không thể làm cho nó biến mất, con không thể chuyển nó thành hư vô. Cách duy nhất khắc phục năng lượng tha hóa là chuyển hóa nó trở lại trạng thái thuần khiết bằng cách thấm đẫm nó với ánh sáng có tần số cao để nâng cao độ rung của nó lên, và áp chồng viễn kiến thuần khiết của tâm Ki-tô để phú cho nó một hình tướng toàn hảo hơn.

Nếu con cho phép mình bị lôi kéo vào một xung đột với người khác và nghĩ con phải giết người khác nhân danh Thượng đế, thì con chỉ tha hóa thêm năng lượng và qua đó thêm vào tổng số năng lượng tha hóa mà các lực bóng tối sử dụng. Con không thể đánh nhau với bóng tối bằng cảm xúc tiêu cực hay hành động vi phạm luật tình thương của Thượng đế. Con chỉ gia tăng thêm bóng tối, qua đó con bị bao trùm nhiều hơn trong bóng tối và gia tăng lực bóng tối của toàn hành tinh. Năng lượng tha hóa tối hậu không có thật. Nó không thể hiện hữu mãi mãi vì lực co lại của Mẹ rốt cuộc sẽ làm cho mọi cấu trúc làm bằng năng lượng tha hóa tự tiêu hủy. Những điều kiện bất toàn làm bằng năng lượng tha hóa cũng không thực. Con không thể loại bỏ các điều kiện bất toàn khỏi trái đất. Con không thể đơn giản chụp lấy chúng và ném chúng vào một lỗ đen để làm chúng biến mất. Chìa khóa thật để gỡ bỏ bóng tối khỏi trái đất là thấm đẫm nó với ánh sáng, thấm đẫm nó với tình thương, để bóng tối thăng vượt tình trạng giới hạn hiện hành và trở nên hơn nữa.

Nhiều người nhìn vào những bất toàn trên trái đất và bị xao động. Họ nổi giận và cảm thấy họ phải làm gì đó để thay đổi tình trạng, để đánh nhau với bóng tối. Khi con còn bị thúc đẩy bởi sợ hãi hay giận dữ, thì bất cứ gì con làm cũng chỉ tha hóa thêm năng lượng và do đó tăng cường lực của bóng tối. Khi con ở trong trạng thái tâm thức dựa trên sợ hãi, giận dữ, thù hận, kiêu mạn hay cảm xúc tiêu cực khác, con cho phép một số điều kiện ngưng dòng chảy của tình thương Thượng đế xuyên qua bản thể của con.

Điều này thật hiển nhiên khi nhìn một người đang nổi giận. Người ấy có biểu hiện tình thương nào chăng? Lẽ dĩ nhiên là không! Người ấy nói rằng vì ai đó đã làm điều gì sai nên nổi giận là chính đáng và do đó người ấy không đáp trả hoàn cảnh với tình thương. Những người ấy đang nói là nếu ai đó làm điều gì sai trái với họ, họ phải khóa lại dòng chảy của tình thương Thượng đế xuyên qua họ và phản ứng với cảm xúc tiêu cực thay vì phản ứng với tình thương.  Chẳng phải là Giê-su bảo con thương yêu kẻ thù của con và chìa má bên kia? Trong tất cả những giáo lý của Giê-su, thày đã tìm cách đưa ra một thông điệp giản dị. Thông điệp cốt lõi mà Giê-su đưa ra là: “Dù chuyện gì xảy ra chăng nữa, dù người khác làm gì chăng nữa với con, dù cuộc đời ném vào mặt con hoàn cảnh gì chăng nữa, con hãy luôn luôn đáp trả bằng tình thương!” Tình thương mà con dùng để đáp trả là tình thương thiêng liêng không chấp nhận bất kỳ bất toàn nào là thật tối hậu hay vĩnh viễn. Con cho phép tình thương Thượng đế chảy xuyên qua bản thể của con và thấm đẫm các điều kiện bất toàn qua đó các điều kiện này sẽ thăng vượt chính nó và trở nên hơn nữa.

Hầu hết mọi người bị mắc kẹt trong một mô thức phản ứng. Ai đó làm hại họ và họ nổi giận với người đó. Giờ đây họ đi vào tâm thái bị chi phối bởi phản ứng chạy hay đánh. Trước tiên họ cố gắng chạy xa người kia, chạy trốn vấn đề. Nếu không làm được, họ tìm cách trả thù hay họ muốn người kia bị trừng phạt. Điều họ làm khi đi vào trạng thái tâm thức này là họ buông bỏ niệm tinh khôi. Họ chấp nhận một hình ảnh bất toàn, một viễn kiến bất toàn về người kia. Họ chấp nhận viễn kiến này là thường trực và họ nói người kia là người xấu. Làm vậy chỉ thêm vào gánh nặng của người kia và thêm vào kho năng lượng tha hóa đang bao phủ hành tinh như một đám mây đen. Qua năng lượng họ tha hóa do viễn kiến bất toàn và cảm xúc tiêu cực của họ, họ củng cố hình ảnh bất toàn về người kia khiến người kia càng khó thoát khỏi hình ảnh bất toàn đó. Đây chính là lý do tại sao rất nhiều xung đột giữa con người đã chuyển thành những vòng xoáy tiêu cực tự củng cố mà không ai có đủ uy lực để ngưng lại. Lý do tại sao con người không có uy lực để ngưng những vòng xoáy đó là vì họ không sẵn sàng dùng chìa khóa mà Giê-su cho họ, là ngưng củng cố vòng xoáy đi xuống bằng cách chìa má bên kia (Matthew 5:39). Chỉ khi một người quyết định tha thứ thay vì tìm cách trả thù (Matthew 18:22) thì vòng xoáy bạo lực, chống trả bằng bạo lực và chống trả bằng bạo lực sự chống trả bằng bạo lực mới phá tan được.

Không một sinh thể tự nhận biết nào được Thượng đế sinh tạo là một sinh thể tự bản chất xấu hay xấu ác. Tất cả được sinh tạo trong niệm tinh khôi và có tiềm năng quay trở về thực tại cao hơn này. Tất cả những người vi phạm quy luật tình thương đã làm thế vì họ bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Nếu con muốn trừng phạt hay tiêu diệt một người như thế, thì con thật sự rơi vào bẫy của cùng trạng thái tâm thức đã khiến người đó làm bất cứ điều gì đó với con. Thay vào đó con phải giữ niệm tinh khôi về người đó và chính con. Con phải làm mọi chuyện có thể làm để giữ mình không phản ứng lại hoàn cảnh một cách nhị nguyên. Con phải giữ viễn kiến là người kia sẽ vượt thăng tin tưởng bất toàn của vị ấy và một lần nữa khám phá ra bản sắc thật là một sinh thể tâm linh được tự do của Thượng đế.

Nhiều người đã gánh chịu những sự tàn bạo lớn lao từ tay người khác. Thày biết rất khó kéo mình ra khỏi những cảm xúc tiêu cực nảy sinh từ những trải nghiệm như thế. Cách duy nhất để con giải thoát mình khỏi những sự cố tiêu cực như thế là nâng mình lên trên tâm thức nhị nguyên muốn lấy mắt trả mắt, lấy răng trả răng. Chỉ khi nào con tập trung tất cả chú ý của mình để nâng cao cả mình và người khác, thì con mới thật sự có thể giải thóat mình và thị hiện đời sống dồi dào hơn.

Giê-su tới trái đất 2,000 năm trước để giúp nhân loại vươn lên trên tâm thức muốn lấy mắt trả mắt. Nếu giáo lý của thày đã được mọi người thể nhập, thì vương quốc Thượng đế đã được thị hiện trên trái đất. Bây giờ vẫn chưa muộn, nhưng chuyện đó sẽ không xảy ra trừ khi những người có nhận biết tâm linh cao nhất hết lòng nỗ lực giải thoát họ khỏi tâm thức nhị nguyên.

13.10. Vượt thăng ngã hữu diệt

Điều thày cần con làm là thay đổi một cách cơ bản cách con nhìn đời và tiếp cận đời. Thày cần con xem ưu tiên lớn nhất trong đời con là giữ đúng niệm tinh khôi, viễn kiến tinh khôi. Thày rất biết là ở điểm này có thể con chưa có viễn kiến tối hậu được lưu trữ trong Hiện diện TA LÀ của con và trong tâm Ki-tô hoàn vũ. Vì con đang theo khóa học này, nên con có một viễn kiến cao hơn, tâm linh hơn rất nhiều so với đại đa số con người trên hành tinh này. Thày cần con giữ đúng viễn kiến cao nhất mà con đang hiện có, và bất kỳ chuyện gì xảy ra ở bên ngoài, trong cuộc sống cá nhân của con hay ở tầm mức hành tinh, thày cần con luôn luôn tập trung chú ý vào viễn kiến cao nhất có thể có. Thày cần con không bao giờ đi xuống thấp hơn viễn kiến này và chấp nhận rằng bất toàn tối hậu có thật hay không thể thay đổi. Thày cần con giữ đúng viễn kiến cao nhất mà con đang hiện có trong khi liên tục tìm cách đạt một viễn kiến cao và rõ hơn bằng cách đi vào bên trong. Con làm vậy bằng cách xin cái Ta Ki-tô và các thày tâm linh của con hướng dẫn con tới viễn kiến cao hơn. Thày cần con liên tục vượt thăng chính mình và liên tục hình dung người khác, hoàn cảnh bên ngoài và toàn thể hành tinh đang thăng vượt và trở nên hơn nữa.

Làm sao con loại bóng tối khỏi trái đất? Con loại bỏ bằng cách yêu nó với tình thương thiêng liêng qua đó bóng tối trở nên hơn nữa, vượt thăng chính nó, chuyển hóa thành ánh sáng Thượng đế và viễn kiến Ki-tô. Thày không nói là con thực sự yêu bóng tối nhưng con yêu Ánh sáng Mẹ đang bị kẹt trong một khuôn đúc không toàn hảo. Con yêu ánh sáng với một lực mạnh tới độ con giải phóng nó khỏi hình tướng bất toàn và biến nó trở về Ánh sáng Mẹ tinh khiết. Thày không nói ở đây tới ánh sáng giả, thậm chí có thể cho Satan dáng vẻ bề ngoài của một thiên thần ánh sáng (2Corinthians 11:14). Thày không nói tới sự giả dối của các thày thông giáo và người Pha-ri-si nghĩ họ thánh thiện hơn người khác vì những điều kiện bên ngoài. Thày nói tới ánh sáng chân chính thấy quá mọi điều kiện vật chất và quá toàn bộ ảo tưởng nhị nguyên. Tâm thức nhị nguyên tạo dựng hai đối cực tốt tương đối và xấu tương đối. Có nhiều điều kiện trên trái đất có vẻ tốt nhưng chúng chỉ tốt tương đối. Chúng không phải là cái tốt không chia cắt của tâm Ki-tô. Thày cần con mài sắc phân biện của con để con thấy quá những vẻ bề ngoài của cả tốt tương đối và xấu tương đối, thậm chí nhìn quá lời dối trá của xấu ác tuyệt đối. Thày cần con giữ đúng niệm tinh khôi và liên tục cố gắng đạt một viễn kiến cao hơn bằng cách khoác vào tâm Ki-tô.

Một quy tắc chung cho hành xử bên ngoài của con là con theo lời khuyên của Giê-su hãy thương yêu mọi sự với tình thương thiêng liêng. Khi con gặp bất kỳ tình huống nào, thì con hãy tự đặt câu hỏi: “Phản ứng của tôi trước hoàn cảnh này có dựa trên viễn kiến cao nhất của tình thương mà tôi hiện có hay không?” Con cũng có thể tự hỏi: “Tôi có đang tìm cách làm cho hoàn cảnh này tốt hơn, giúp nó trở nên hơn nữa, hay tôi đã rơi vào tròng xác nhận trạng thái bất toàn hiện hành không thay đổi được?” Nếu con muốn một quy tắc để đối phó với người khác và ngoại cảnh, thày có thể cho con một hướng dẫn rất giản dị: con hãy ban phước lành cho tất cả mọi sự. Con hãy ban phước lành cho mọi sự bằng cách cho phép chính lực của sự sống, tức là tình thương vô điều kiện của Thượng đế – mà nhiều người Cơ đốc gọi là Thánh Linh – tuôn chảy qua bản thể con. Ban phước lành cho điều gì có nghĩa là con tìm cách làm cho nó tốt hơn, chuyển hóa nó, giúp nó trở nên hơn nữa, gia tốc nó và giúp nó thăng vượt sự bất toàn hiện hành của nó. Con hãy ban phước lành cho mọi người và mọi sự theo khả năng tốt nhất của viễn kiến hiện hành của con. Sau đó con hãy luôn luôn ban phước lành cho chính mình để con có thể nâng cao viễn kiến của con.

Con hãy để thày gom lại những gì chúng ta vừa thảo luận với điều thày đã đề cập trước đây. Nguyên lý cốt lõi ở đây là con không tìm cách tiêu diệt cái xấu nhưng con biến hóa nó thành cái tốt hơn. Trước đây thày có giảng cặn kẽ nhu cầu để cho ý niệm ngã hữu diệt của con chết đi. Thày biết hai lời dạy này có vẻ mâu thuẫn, vậy con hãy để thày giúp con vượt lên trên cái nhìn nhị nguyên phóng chiếu mâu thuẫn nơi không có mâu thuẫn. Thày vừa nói tới hai dạng bóng tối, bóng tối có thể chất và bóng tối không có thể chất. Nếu chúng ta muốn thực sự đầy đủ thì chúng ta có thể nói có ba dạng bóng tối:

  • Có bóng tối nguyên thủy hiện hữu trong cái trống không. Nó không xấu ác và không đối nghịch ánh sáng của đấng Sáng tạo. Nó đơn giản là sự vắng mặt của ánh sáng của đấng Sáng tạo và sẽ sẵn sàng để được thay thế bằng ánh sáng. Con không cần quan ngại bóng tối này vì nó không tích cực chống lại sự thị hiện vương quốc Thượng đế trên trái đất.
  • Có bóng tối mà thày gọi là tâm thức nhị nguyên, tâm thức phản Ki-tô. Bóng tối này không thụ động vì nó sinh ra từ một hành động ý chí hay đúng hơn một hành động phản ý chí, nổi loạn chống lại ý chí của đấng Sáng tạo. Bóng tối này tối hậu không thật và không có thực chất, thày muốn nói là nó không có hiện hữu vật chất. Nó chỉ hiện hữu trong tâm những sinh thể tự nhận biết và chỉ có thể tiếp tục hiện hữu khi những sinh thể này chọn thấy nó là thật. Đây là loại bóng tối chống lại sự tăng trưởng của con từ bên trong tâm con và thậm chí qua trung gian người khác. Nó tìm cách làm chủ và kiểm soát tâm con qua các ảo tưởng và lời dối trá nhị nguyên.
  • Dạng bóng tối đó đã tạo nên ngã hữu diệt của con và nó đã tạo ra một hình ảnh giả về thế giới, một hình tượng khô chết, một thần tượng. Hình ảnh giả này đã sản sinh ngã hữu diệt của con, ý niệm bản sắc con là một sinh thể hữu diệt, giới hạn và bất toàn. Nếu con tích cực đánh nhau với dạng bóng tối này và tìm cách phá hủy nó hay triệt tiêu nó, thì con sẽ không tránh bị bao trùm nhiều hơn bởi tâm thức nhị nguyên. Con sẽ tha hóa năng lượng, tạo nghiệp và phóng chiếu hình ảnh bất toàn vào tấm gương vũ trụ. Con không bao giờ có thể thật sự phá hủy hay triệt tiêu dạng bóng tối này và đó là lý do tại sao Giê-su bảo con đừng chống cự lại xấu ác (Matthew 5:39).
  • Cách duy nhất để khắc phục dạng bóng tối này là thăng vượt nó, vươn lên trên nó, từ chối không chấp nhận nó thật, qua đó con chỉ giản dị bỏ nó lại đằng sau. Đó là lý do tại sao con phải cho phép ý niệm bản sắc hữu diệt của con chết đi. Khi ngã hữu diệt này chết, tâm thức phản Ki-tô, ông hoàng thế gian, sẽ không tìm thấy gì trong con (John 14:30) qua đó y có thể kiểm soát, ép uổng hay cám dỗ con có phản ứng nhị nguyên trước những điều kiện bất toàn. Để có thể làm được điều này một cách đầy đủ, con cần nhận ra nhiều điều kiện nhị nguyên là tha hóa của sự thật Ki-tô. Để có thể cho phép ý niệm bản sắc nhị nguyên hoàn toàn chết đi, con cần nhìn quá nó và nắm bắt bản sắc thật của con. Con không thể hiện hữu trong hư không cho nên con phải nhìn thấy bản sắc thật của con trước khi buông bỏ bản sắc hữu diệt. Chúng ta có thể nói con khắc phục dạng xấu ác dựa trên một lời dối trá này bằng cách thay thế nó với sự thật Ki-tô. Con có thể để cho ý niệm cái ta hữu diệt chết đi và tái sinh trong bản sắc tâm linh thật của con. Dạng bóng tối này giống như một cuộn phim với hình ảnh bất toàn hiện hữu trong tâm những sinh thể có tự nhận biết. Cách duy nhất để khắc phục nó là thay thế nó bằng một cuộn phim khác dựa trên viễn kiến Ki-tô, niệm tinh khôi.
  • Dạng bóng tối thứ ba là cái mà thày gọi là năng lượng tha hóa và nó được tạo ra khi lấy Ánh sáng Mẹ tinh khiết và hạ độ rung của ánh sáng bằng cách áp chồng một hình ảnh và cảm xúc nhị nguyên lên trên ánh sáng. Bóng tối này có thực chất vật chất vì nó được làm từ Ánh sáng Mẹ. Chúng ta có thể nói tâm thức nhị nguyên chỉ hiện hữu trong tâm những người đồng-sáng tạo có tự nhận biết và do đó nó không có cái mà các nhà khoa học gọi là một sự hiện hữu khách quan, một sự hiện hữu độc lập với tâm. Ánh sáng Mẹ được đấng Sáng tạo sinh tạo và một khi được hạ thấp độ rung nó có một sự hiện hữu khách quan, nghĩa là nó có thể hiện hữu độc lập với tâm của những người đồng-sáng tạo.
  • Ánh sáng Mẹ bị tha hóa không thể thanh tẩy bằng cách làm ngơ. Nó không giản dị chết đi khi con thăng vượt những ảo tưởng phản Ki-tô. Nó chỉ được trong lọc khi con thay thế những hình tướng bất toàn của nó với viễn kiến toàn hảo, viễn kiến không nhị nguyên của tâm Ki-tô. Đây là điều thày gọi là thuật giả kim tâm linh và các bài thỉnh của thày được thiết kế để giúp con cầu thỉnh năng lượng có tần số cao sẽ nâng độ rung của năng lượng tha hóa. Các bài thỉnh này cũng được thiết kế để giúp con giải quyết những tin tưởng nhị nguyên đang ngăn cản con cho ngã hữu diệt chết đi. Các bài thỉnh này có hai chức năng là giúp con khắc phục hai dạng bóng tối ngăn cản con là dưới này tất cả những gì con đã là Trên Kia. Để khắc phục dạng bóng tối này, con phải chuyển hóa nó thành dạng cao hơn.

Con hãy để thày áp dụng các lời giảng trên đây vào lòng ích kỷ. Ta có thể nói vấn đề duy nhất trên trái đất là lòng ích kỷ, tức là các người đồng-sáng tạo với Thượng đế đã quên mất bản sắc thật của họ và đã tập trung vào thân vật lý và ngã hữu diệt, từ đó họ hành xử như thể chỉ có họ là quan trọng. Làm sao con thoát khỏi lòng ích kỷ? Con thoát ra bằng cách chuyển biến các năng lượng tha hóa lôi kéo con vào những khuôn nếp suy nghĩ, cảm xúc và hành động vị kỷ. Con thoát ra bằng cách thăng vượt ý niệm bản ngã có sự chú trọng rất eo hẹp. Khi con biến hóa các năng lượng tha hóa, con có thể mở rộng viễn kiến về cái ta của con.

Thật sự là có một dạng ích kỷ thiêng liêng, tuy gọi nó là quyết tâm thì đúng hơn. Dạng thiêng liêng tương đương với ích kỷ là lòng quyết tâm không khoang nhượng không cho phép bất cứ gì ngăn cản con thực thi sứ vụ thiêng liêng của con. Đây là một đặc tính rất cần thiết và thiếu nó thì không thể có tiến bộ trên trái đất vì lực phản ý chí của tâm thức nhị nguyên sẽ khống chế mọi nỗ lực thay đổi, kéo tất cả mọi người xuống mẫu số chung thấp nhất.

Chìa khóa thật để khắc phục lòng ích kỷ là nới rộng ý niệm cái ta, thăng vượt ý niệm cái ta của con. Con bắt đầu bằng giành lại sự nối kết cá nhân, nội tại với cái ta cao của con. Con thấy con hơn thân thể, hơn ngã hữu diệt, thậm chí hơn bốn thể phàm. Sau đó con lên một tầng nữa và nhận ra con là nối dài của đấng Sáng tạo. Từ đó, con đi tới tầng cuối và thấy là mọi người mọi sự đều được tạo ra từ Sinh thể đấng Sáng tạo. Ý niệm cái ta tối hậu của con bao gồm tất cả mọi người và mọi sự.  Khi con đã thiết lập ý niệm cái ta đúng này, con hoàn toàn khắc phục dạng ích kỷ nhân phàm, nhị nguyên. Con không triệt tiêu hay phá hủy nó, con chuyển hóa nó thành dạng thiêng liêng tương đương. Để làm được điều này, con phải buông bỏ ý niệm cái ta dựa trên ích kỷ nhân phàm, con phải sẵn sàng cho cái ta này chết đi.

13.11. Là người bảo hộ Ánh sáng Mẹ

Mọi thứ trong vũ trụ vật chất được làm từ Ánh sáng Mẹ. Ánh sáng Mẹ tự nó không thể khoác lên hình tướng nhưng cần một sinh thể tự nhận biết tác động lên nó. Tất cả con người trên trái đất đang liên tục tác động lên Ánh sáng Mẹ qua khả năng sáng tạo mà Thượng đế phú cho họ, là quyền tự quyết và trí tưởng tượng. Với quyền năng của trí tưởng tượng, họ hình dung những hình ảnh bất toàn, nhị nguyên. Với quyền tự quyết, họ chọn chấp nhận những hình ảnh này là thật và không tránh được. Với quyền năng của viễn kiến, họ áp đặt các hình ảnh này lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Đó là lý do tại sao hiện nay hành tinh trái đất có quá nhiều điều kiện bất toàn hầu như không hiểu nổi. Để thay đổi tình trạng đấu tranh và đau khổ hiện hành cần có một nhóm người đúng ra đảm nhận vai trò bảo hộ Ánh sáng Mẹ. Những người này nhận ra mọi sự đều được làm từ Ánh sáng Mẹ. Họ nhận ra mọi điều kiện bất toàn trên hành tinh này được tạo ra vì hình ảnh nhị nguyên được phóng chiếu lên màn hình của Ánh sáng Mẹ. Họ nhận ra mọi sự chỉ thay đổi khi một lượng người tới hạn dùng khả năng sáng tạo của họ để áp chồng một hình ảnh cao hơn, dựa trên Ki-tô, lên Ánh sáng Mẹ, qua đó biến hóa một hành tinh bất toàn thành vương quốc Thượng đế. Đây quả thực là uy lực của thuật hóa kim tâm linh chân chính.

Có thể con đã nghe tới các nhà hóa kim và nỗ lực không thành hóa chì thành vàng của họ. Có thể là con đã nhận được cái nhìn khinh miệt nào đó về những nhà hóa kim này và đúng vậy nhiều nhà hóa kim người bịp bợm. Tuy nhiên, đằng sau phong trào thường được biết đến là thuật hóa kim là một hiểu biết sâu xa hơn về thực tại đời sống. Một số người đã hiểu rằng có một thuật hóa kim tâm linh không tìm cách biến kim loại thường thành vàng nhưng tìm cách biến “kim loại thường” của tâm thức nhân phàm, tâm thức nhị nguyên thành chất vàng tâm linh của tâm thức Ki-tô. Con không tìm cách loại bỏ cái gì bất toàn, đen tối hay xấu ác. Con tìm cách biến hóa nó thành cái gì hơn nữa, gần viễn kiến Ki-tô hơn. Con lấy cái thấp hơn và biến hóa nó thành cái cao hơn. Thay vì tìm cách tiêu hủy cái thấp hơn, con tìm cách làm cho nó tốt hơn, giúp nó tự thăng vượt và trải bày viễn kiến toàn hảo của Ki-tô. Điều này đặc biệt quan trọng khi đối xử với người khác. Một người chỉ hành xử xấu ác vì họ bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Đằng sau dáng vẻ bề ngoài là cái ta ý thức của người đó được tạo ra trong niệm tinh khôi và khao khát được tự do để biểu hiện viễn kiến đó. Con không yêu dáng vẻ bề ngoài, cái ngã hữu diệt, nhưng con cũng không tìm cách tiêu diệt nó. Con nhìn xuyên thấu nó và tìm cách giải phóng cái ta ý thức để nó được là cái nó thật là.

Có một sự khác biệt cơ yếu giữa tìm cách tiêu diệt một bất toàn và tìm cách biến đổi bất toàn đó thành toàn hảo. Nếu con thấy sự khác biệt thì con thực là một trong những người tiên phong trong những sinh thể tâm linh tới trái đất để thị hiện vương quốc Thượng đế. Con ở trong vị trí độc đáo để nắm lấy vai trò chính đáng là người bảo hộ Ánh sáng Mẹ.

Ánh sáng Mẹ có sự thông minh, có nhận biết. Ánh sáng Mẹ biết rất rõ nó đang không biểu hiện sự toàn hảo của Thượng đế. Ánh sáng Mẹ có thể thấy viễn kiến cao nhất, tiềm năng cao nhất của hành tinh trái đất và không yêu thích gì hơn là biểu hiện tiềm năng đó dưới dạng những điều kiện vật lý toàn hảo. Ánh sáng Mẹ đã nguyện nhận lãnh vai trò cho phép các người đồng-sáng tạo của Thượng đế, là những sinh thể có tự nhận biết mà Thượng đế đã sinh tạo, làm bất cứ gì họ muốn với Ánh sáng Mẹ. Trong thương yêu, Ánh sáng Mẹ đã nguyện sẽ biểu hiện bất kỳ hình ảnh nào mà các sinh thể tự nhận biết phóng chiếu lên nó, qua đó những người đồng-sáng tạo có cơ hội học từ chính những chọn lựa của họ, học bằng cách thấy những hậu quả của chọn lựa của họ trải bày trong vật chất. Đây quả thực là một hành động thương yêu vô điều kiện vì Ánh sáng Mẹ biết tiềm năng cao nhất của trái đất nhưng vẫn cho phép con người tạo ra những điều kiện bất toàn rất xa tiềm năng cao nhất. Nếu đây không phải là tình thương vô điều kiện thì thày không biết tình thương ấy là gì. Ánh sáng Mẹ không yêu thích gì hơn được giải thoát khỏi những hình ảnh bất toàn hiện hành và thay vào đó nhận sự phóng chiếu của những hình ảnh toàn hảo của tâm Ki-tô. Ánh sáng Mẹ muốn biểu hiện vương quốc Thượng đế trên trái đất. Ánh sáng Mẹ muốn tuân theo ý chí của đấng Cha và viễn kiến của đấng Con.

Toàn thể vũ trụ vật chất được tạo ra từ hai yếu tố cơ bản là lực lan ra của đấng Cha và lực co lại của đấng Mẹ. Lực lan ra của Cha là tình thương vô điều kiện của Thượng đế muốn mọi sự tự thăng vượt. Lực khiến một hình tướng có thể hiện hữu trong thời gian và không gian. Lực co lại cũng có động cơ của tình thương vô điều kiện, đó là lý do vì sao nó không cho phép một sinh thể tự nhận biết bị giam cầm mãi mãi trong một ý niệm cái ta bất toàn. Để một tạo vật được tồn tại, lực lan ra của đấng Cha và lực co lại của đấng Mẹ phải được cân bằng qua viễn kiến của đấng Con, là tâm Ki-tô Hoàn vũ và tâm Ki-tô cá nhân của các người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Nếu hành tinh trái đất thị hiện được vương quốc Thượng đế, thì điều này chỉ xảy ra khi viễn kiến toàn hảo được giữ trong tâm Ki-tô được áp chồng lên Ánh sáng Mẹ. Viễn kiến này chỉ được áp chồng lên khi một số tới hạn người đang hiện thân tỉnh thức nhận ra bản sắc thật của họ và vai trò thật của họ. Nó chỉ xảy ra khi những người này quyết định là những sinh thể Ki-tô trên trái đất, biểu đạt tâm thức Ki-tô và qua tâm thức Ki-tô này phóng chiếu những hình ảnh toàn hảo của vương quốc Thượng đế lên Ánh sáng Mẹ, những hình ảnh sẽ tạo nên hành tinh trái đất.

Đây là ý nghĩa thật của người Con của Thượng đế, người con duy nhất sinh ra từ Cha. Đó là lý do tại sao Giê-su nói nếu con tin thày, đến độ sẵn sàng đi theo bước chân thày và thị hiện tâm thức Ki-tô, thì con có thể làm những công việc thày đã làm (John 14:12). Con cũng có thể trở thành người con trai hay con gái của Thượng đế, hoàn thành vai trò chính đáng của con trên hành tinh này. Khi một số tới hạn con người bắt đầu bảo hộ Ánh sáng Mẹ, hành tinh này sẽ thật sự thị hiện thời hoàng kim của hòa bình và thịnh vượng mà hầu hết con người không thể tưởng tượng được trong trạng thái tâm thức hiện nay của họ. Họ sẽ tức khắc chối bỏ như một huyễn tưởng hoàn toàn, một xã hội không tưởng không thể xảy ra. Xã hội đó có thể xảy ra, nhưng nó chỉ có thể xảy ra khi con người bắt đầu chấp nhận nó, khi họ thấy được viễn kiến và chấp nhận viễn kiến đó là một tiềm năng rất thực. Thậm chí con còn phải thăng vượt điểm chấp nhận nó là một tiềm năng và bắt đầu dùng uy lực ý chí, tưởng tượng và viễn kiến của con để xác nhận nó là một thực tại.

Thày cần tất cả những người bảo hộ Ánh sáng Mẹ dùng uy lực viễn kiến của họ để cho phép con mắt họ đơn nhất, để họ không cho phép viễn kiến của họ bị kéo vào bất kỳ hình ảnh nhị nguyên nào do ông hoàng thế gian tạo ra. Con cần tập trung mắt con với tâm đơn nhất vào viễn kiến Ki-tô, và con cần thấy viễn kiến này được áp chồng lên tất cả điều kiện bên ngoài. Thày cần con thấy điều kiện bên ngoài là tạm bợ và không thật và sau đó thấy chúng được thay thế bằng viễn kiến Ki-tô.

Thày không nói là con cần làm ngơ các bất toàn. Thày đã bỏ nhiều sức để giải thích nhu cầu ngừng chạy trốn trách nhiệm của mình. Thày cần con nhìn nhận những bất toàn hiện hành và thày cần con hiểu chúng phát sinh từ tâm thức nhị nguyên. Con không bao giờ cho phép mình thấy chúng là thật, trường tồn hay không thể thay đổi. Con thấy chúng là tạm bợ, là những ảo giác không thực được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẹ và sau đó con nhìn quá chúng. Con thấy Ánh sáng Mẹ thuần khiết là thực tại bên dưới mọi biểu hiện bên ngoài, và sau đó con thấy thực tại tối hậu là Ánh sáng Mẹ có tiềm năng biểu hiện bất kỳ hình ảnh nào được phóng chiếu lên nó. Nó giống như màn ảnh chiếu phim sẽ phản ánh bất kỳ hình ảnh nào được phóng chiếu lên nó qua cuộn phim. Con hình dung là Ánh sáng Mẹ có thể nhanh chóng, đúng hơn là ngay tức khắc, ngưng  biểu hiện một viễn kiến bất toàn và bắt đầu biểu hiện một viễn kiến toàn hảo hơn. Sau đó con có thể dùng uy lực viễn kiến của con để hình dung điều kiện bất toàn biến đổi như thế nào và trở nên toàn hảo hơn.

Có một sự khác biệt cơ yếu giữa chạy trốn bất toàn và qua đó cho phép chúng tiếp tục hiện hữu, và nhìn nhận có bất toàn nhưng xem chúng là tạm bợ và không thực rồi qua đó phóng chiếu một hình ảnh thực lên Ánh sáng Mẹ. Đây là sự khác biệt giữa những người nghĩ họ tâm linh, nhưng chưa đem tâm linh vào cõi vật chất và những người thực sự tâm linh và nhìn nhận họ có mặt ở đây để cai quản trái đất bằng cách thấy Thượng đế đằng sau mọi sự và thấy viễn kiến toàn hảo của Thượng đế biểu hiện trong mọi sự. Thách đố của thày với con là:

  • Luôn luôn giữ đúng viễn kiến cao nhất mà con hiện thấy được.
  • Liên tục nỗ lực mở rộng tầm nhìn của con để con có thể nắm bắt một viễn kiến cao hơn ngày mai so với hôm nay.
  • Không bao giờ cho phép mình bị kẹt trong một thái độ hay hệ thống niềm tin khiến con nghĩ mình có viễn kiến cao nhất hay chân lý tâm linh hay hiểu biết cao nhất.
  • Luôn luôn tiếp tục vượt thăng chính mình và vượt thăng viễn kiến của mình về vương quốc Thượng đế.

Khi nào thì con ngưng thăng vượt chính mình và viễn kiến của mình? Giản dị lắm, đó là khi con thấy Thượng đế trong mọi sự, khi con thấy Thượng đế là nguyên nhân đầu tiên đằng sau mọi biểu hiện bên ngoài, dù chúng bất toàn đến đâu chăng nữa, và khi con thấy vương quốc Thượng đế biểu hiện trong mỗi hoàn cảnh mà con gặp. Con sẽ không bao giờ ngưng thăng vượt chính mình vì Thượng đế liên tục thăng vượt chính ngài, đấng Sáng tạo của con lúc nào cũng đang thăng vượt chính ngài và trở nên hơn nữa. Khi con ở trong Dòng sông sự Sống, thì con đang liên tục thăng vượt viễn kiến của con. Đây đúng là đời sống dồi dào thực, nghĩa là con luôn luôn ở trong tiến trình trở nên hơn nữa. Dồi dào không phải là một trạng thái đứng yên sở hữu một số tiền hay của cải vật chất. Dồi dào là một trạng thái sống động, năng động, luôn luôn ở trong tiến trình trở nên hơn nữa.

Ôi con yêu dấu, đây là đời sống dồi dào và đấng Cha hoan hỷ cho con đời sống dồi dào. Thày cũng hoan hỷ cho con những giáo lý này trong đó quả thực có những chìa khóa con cần để thị hiện đời sống dồi dào nếu con sẵn sàng thể nhập lời dạy của thày và áp dụng chúng trong mọi khía cách đời sống của con. Thày đã cho con những gì con cần, giờ đây thách đố là áp dụng chúng, trở thành chúng. Con sẽ lấy chìa khóa chăng, con sẽ để nó vào ổ khóa chăng, con sẽ quay chìa khóa cho tới khi con nghe tiếng “tách” nghĩa là chân lý đã  khớp vào tâm con chăng? Con sẽ cho phép bóng đèn bật lên trong tâm con chăng để cuối cùng con thấy là cánh cửa nhà tù của ngã hữu diệt của con chưa bao giờ bị khóa. Con có thể xô cánh cửa đó mở toang và bước ra khỏi nhà tù và bước vào ánh sáng mặt trời của Hiện diện TA LÀ của con.

Khi con bước ra khỏi nhà tù đó, thày sẽ có đó để đón tiếp con. Cái Ta Ki-tô của con cũng có đó để đón tiếp con. Các thày tâm linh của riêng con cũng có đó để đón tiếp con. Các thày sẽ ôm con trong vòng tay và sẽ chia sẻ một giây phút, một khoảnh khắc hoàn vũ, hợp nhất với con. Trong sự hợp nhất giữa chúng ta này, chúng ta là một với mọi sự sống và là một với đấng Sáng tạo của chúng ta. Trong hợp nhất này chúng ta sẽ khám phá một sự dồi dào vượt quá bất cứ gì có thể tìm thấy trên trái đất, bất cứ gì mà tâm thức nhị nguyên có thể tưởng tượng hay mô tả bằng từ ngữ. Chúng ta sẽ biết sự dồi dào thật sự chỉ được biết qua tâm Ki-tô. Thày ngưng ở đây và tặng con câu: “Khi con thấy mọi sự sống là một, con sẽ được chiến thắng của con.”

12 | Con thỉnh cầu tự do xúc cảm

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng và Cha Thiêng liêng, đặc biệt là Saint Germain, Portia và Mẹ Mary, hãy giúp con cai quản thể cảm xúc và nối kết lại với những ước muốn thật của con. Xin các thày giúp con chấp nhận uy lực sáng tạo của con và thấy những yếu tố ngăn cản dòng chảy của sự sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con, kể cả …

[Đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con cai quản thể cảm xúc của con

1.1. Con cai quản cảm xúc của con bằng cách để cho uy lực của ý chí lan xuống thể cảm xúc. Con đem tất cả cảm xúc của con thẳng hàng với ý chí cao và viễn quan cao gắn liền với sứ vụ thiêng liêng của con.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.2. Con là người quyết định cảm xúc nào được khởi lên trong thể cảm xúc của con. Con không cho phép bất cứ lực nào, kể cả ngã tách biệt, người khác, định chế xã hội, truyền thông hay ông hoàng thế gian, kiểm soát cảm xúc nào khởi lên trong đại dương cảm xúc của con. Con cai quản đời sống của con.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.3. Con thấy và buông bỏ niềm tin cho rằng nếu những gì con chờ đợi không xảy ra, thì chuyện cần thiết, không thể tránh và hoàn toàn chính đáng là con phản ứng với cảm xúc tiêu cực. Con điều khiển máy điện toán trong tiềm thức của con, và con không cho phép bất cứ lực bên ngoài nào kiểm soát cảm xúc của con.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.4. Con muốn cai quản thể cảm xúc của con. Con nhận biết những phản ứng lập trình và con vượt lên trên chúng bằng cách lấy quyết định có ý thức không tham gia vào phản ứng người máy trước những thách đố của cuộc sống.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.5. Con giành lạ khả năng quyết định có ý thức cách con đáp ứng lại cuộc đời. Con làm chủ tình huống nội tâm của con và con đáp ứng lại mọi hoàn cảnh một cách hài hòa với quy luật Thượng đế và sứ vụ thiêng liêng của con.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.6. Trước khi con có một hành động, thì có một khoảng cách giữa tư tưởng cảm xúc và hành động. Con huấn luyện tâm ý thức để nó nhận biết rõ hơn những gì xảy ra trong bốn thể phàm. Con giành lại khả năng ngưng một hành động trước khi nó vượt qua lằn ranh xuống cõi vật lý và dẫn tới hậu quả không thể tránh.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.7. Cái ta Biết của con nhận lãnh vai trò đích thật của nó và giành lại quyền lấy quyết định. Trước khi con hành động, con trụ vào nơi tim và tự hỏi hành động này có thực sự biểu lộ con người bên trong của con, bản sắc thật của con như một sinh thể tâm linh bất tử.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.8. Mọi cảm xúc khởi lên từ tư tưởng. Con tránh cảm xúc tiêu cực khởi lên bằng cách giải quyết những tư tưởng khởi động nó.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.9. Con giành lại khả năng phủ nhận ngã hữu diệt. Con tách mình ra khỏi tính chất không thật của ngã hữu diệt và thể nhập thực tại là con không thể thay đổi hoàn cảnh bên ngoài nếu con không thay đổi chính mình.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2. Con cai quả ham muốn của con

2.1. Chờ mong nhị nguyên trong thể tư tưởng tạo nên ham muốn giả trong thể cảm xúc của con. Ham muốn giả dựa trên ý niệm thiếu thốn, và nó không bao giờ thỏa mãn được. Nó giống như một lỗ đen không thể nào lấp được.

Ôi Portia, nơi nhập thất của thày,
tình thương Mẹ, thày đón con dang tay.
Bao cuộc thi, con đà hoàn tất đủ,
khuôn nếp cũ, con từ nay buông rũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.2. Mẹ Mary, con nhìn vào cuộc đời mình và nhận diện các ham muốn giả. Con xem xét chúng,  cai quản chúng và lấy chúng ra khỏi con người mình.

Ôi Portia, Công lý là tên thày,
giương lên cao Lửa Danh dự Toàn vũ,
Con không còn tham dự trò chơi cũ,
cứ giữ y một cái ngã hoài hoài.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.3. Ham muốn giả là sự tha hóa của một ham muốn thật. Ham muốn thật không dựa trên thiếu thốn mà dựa trên cảm giác dồi dào, mong muốn chia sẻ với người khác. Khi con cho thì con đạt cảm giác toại nguyện. Hành động cho mang lại phần thưởng xúc cảm của nó.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
một với thày, con tăng trưởng mãi mãi.
Con chính là chén thánh ở nơi đây,
thày ban xuống dòng công lý hoàn vũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.4. Mọi ham muốn bắt nguồn từ ý muốn tạo cảm giác trọn vẹn. Ham muốn giả bắt nguồn từ ngã hữu diệt muốn cho con cảm giác trọn vẹn bằng cách kiểm soát những chuyện trong trần gian. Ngã hữu diệt tin rằng nếu con có đủ những thứ của trần gian, thì con sẽ cảm thấy trọn vẹn.

Ôi Portia, cho vũ trụ quân bằng,
tim con hát, niềm hy vọng vĩnh hằng.
Đôi cánh Mẹ bảo bọc con yên ắng,
con là một với tất cả chúng sanh.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.5. Con trọn vẹn khi con biết mình là ai và khi con cảm thấy ánh sáng Thượng đế tuôn chảy qua Sinh thể của con. Con tách mình ra khỏi cuộc tìm cầu bất khả thi của ngã hữu diệt. Con nối kết lại với các mong muốn thực của Hiện diện TA LÀ của con.

Ôi Portia, thày đem ánh sáng Mẹ,
khỏi đêm tối, giải thoát chúng con nhé.
Lửa Tình thương của thày sáng mãi mãi,
ôm con chặt, Saint Germain và thày.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.6. Con theo Trung đạo qua đó con không tìm cách loại bỏ mọi ham muốn. Con kết nối lại với các mong muốn thật đã đem con tới trái đất, mong muốn cống hiến Ngọn lửa Thượng đế của con, biểu lộ cá tính thiêng liêng của con và đem vương quốc Thượng đế xuống cõi này.

Ôi Portia, thày điều ngự tài hoa,
con cảm nhận trong con sự biến hóa.
Ánh sáng thày là thực tại màu tím,
con tìm ra biến hóa đá luyện kim.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.7. Mẹ Mary, xin thày giúp con thấy những ham muốn bắt nguồn từ ước mong của dòng sống của con muốn trải nghiệm một số điều kiện trên trái đất. Con sẵn lòng thấy làm sao ngã hữu diệt đã tha hóa các ham muốn này và khiến chúng trở thanh hố sâu không đáy không thể nào lấp đầy.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
con tỉnh mộng, giấc mơ ảo phàm phu.
Gỡ khỏi mắt cái đà tự ngã cũ,
con được đứng cùng các thày vũ trụ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.8. Con nối kết lại với mong muốn cao có thể được thỏa mãn một cách tối hậu khi cái Ta Biết không còn ham muốn trải nghiệm điều kiện đặc trưng này nữa trong vũ trụ vật chất. Con mong muốn hơn nữa, và con mong muốn vươn lên trên vũ trụ vật chất thay vì ở lại trong đó mãi mãi.

Ôi Portia, thày đến từ cõi xa,
avatar toàn vũ, thày chính là.
Quyền năng thày vô biên, con trân quý,
ngôi sao thày dìu dắt hành tinh đi.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.9. Con không còn thỏa mãn bởi ham muốn thấp và thay thế chúng với một mong muốn cao. Con không cố ý và dùng sức mạnh để đèn nén ham muốn. Con nhận ra chúng là một ham muốn giới hạn, con nhìn quá chúng để khám phá mong muốn thực, và mong muốn thực thay thế ham muốn giả một cách tự nhiên và không cố gắng.

Ôi Portia, con tự tin an trú,
con nay là dụng cụ của toàn vũ.
Con xuống đây từ thiên hà gửi tới,
để nâng cao trái đất thăng lên trời.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3. Con có thái độ biết ơn

3.1. Con chọn không phục vụ ma-môn nữa. Con không cho phép cả cuộc đời còn lại của mình bị nuốt trọn bởi cuộc tìm cầu bất khả thi lấp đầy ham muốn giả. Con quyết định phục vụ các mong muốn thực của Sinh thể cao của con, và con tìm cách thực hiện sứ vụ thiêng liêng của con bằng cách biểu lộ cá thể và khả năng sáng tạo mà Thượng đế đã phú cho con.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.2. Con thăng vượt cảm nhận thiếu thốn bằng cách cho phép bốn thể phàm của con được tràn đầy bởi ánh sáng Thượng đế sẽ đốt cháy mọi cảm nhận thiếu thốn và lấp đầy con với cảm nhận nuôi dưỡng tối hậu. Conđem ánh sáng Thượng đế chảy xuyên qua thể bản sắc của con, vào thể tư tưởng và sau đó xuống thể cảm xúc của con.  

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.3. Con cảm thấy được nuôi dưỡng và trọn vẹn. Con cảm thấy được nuôi dưỡng một cách tối hậu. Con không cần gì bên ngoài chính mình để thỏa mãn các mong muốn thật của con. Dòng chảy của ánh sáng Thượng đế xuyên qua con người con cho con cảm giác trọn vẹn thật và tối hậu.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.4. Con ở đây để tâm linh hóa mọi khía cạnh của cuộc đời con. Con ở đây để ban phước lành cho mọi sự mà con gặp và qua đó nâng chúng lên tiềm năng cao nhất của chúng. Con ở đây để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật khỏi những hình ảnh bất toàn đã được áp chồng lên nó bởi các ngã hữu diệt của con người trên trái đất và ông hoàng thế gian.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.5. Con hoàn thành tiềm năng cao nhất của con bằng cách là con người mà con là, bằng cách vượt qua khoảng cách giữa con người mà con nghĩ con là và con người mà con thực sự là. Con sẵn sàng mất đi ý niệm giới hạn về cuộc sống để ở trong sự sống bất diệt là dòng chảy vĩnh cửu của sự trở nên hơn nữa.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.6. Mọi hoàn cảnh mà con gặp là một cơ hội để biểu lộ ánh sáng của Bản thể thật của con, ánh sáng của Ngọn lửa Thượng đế của con, qua đó con phóng đại mọi hoàn cảnh mà con gặp. Con thấm đẫm mọi hoàn cảnh mà con gặp với ánh sáng. Dù hoàn cảnh có vẻ bất toàn và đen tối tới đâu, nó vẫn được nâng lên một tầng cao hơn bởi sự có mặt của con.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.7. Con khai mở dòng chảy sánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của con bằng cách nuôi dưỡng một thái độ biết ơn. Con biết ơn Thượng đế đã sinh tạo ra con và cho con cơ hội đi xuống vũ trụ vật chất như một nối dài của ngài.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.8. Bất kể hoàn cảnh nào con gặp, bất kể nó có vẻ khó khăn đến đâu, con lúc nào cũng có một cái gì mà con có thể biết ơn. Con nuôi dưỡng một cách có ý thức thói quen lúc nào cũng tìm một lý do để biết ơn, và qua đó con thu hút nhiều dồi dào hơn.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.9. Biết ơn là khía cạnh thấp hơn của cái biết nội tại là khi con cho vô điều kiện thì con sẽ nhận được nhiều hơn, cho dù ngay bây giờ con không có chứng cớ vỏ ngoài nào là chuyện này sẽ xảy ra. Con biết Thượng đế không bỏ rơi con. Thượng đế ở đây với con và Thượng đế đã cho con những gì con cần để thăng vượt hoàn cảnh hiện tại và bước lên bực kế tiếp của cầu thang xoáy ốc.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4. Con cai quản cảm xúc ngỗ nghịch

4.1. Con biết con có những gì con cần để bước lên cao hơn, và khi con tận dụng những gì con có thì Thượng đế chắc chắn sẽ cho con nhiều hơn. Đây là điều mà Giê-su hứa trong câu chuyện ẩn dụ về các tiền ta-lăng, cũng là khả năng, và đây là một lời hứa chân chính.

Ôi Portia, nơi nhập thất của thày,
tình thương Mẹ, thày đón con dang tay.
Bao cuộc thi, con đà hoàn tất đủ,
khuôn nếp cũ, con từ nay buông rũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.2. Con buông bỏ ảo tưởng cho rằng cảm giác là kết quả của điều kiện bên ngoài. Cảm xúc do tư tưởng điều khiển, và tư tưởng do ý niệm bản ngã điều khiển. Con nhận trách nhiệm về cảm xúc của mình và bất kể điều kiện bên ngoài con chỉ có cảm xúc dựa trên tình thương.

Ôi Portia, Công lý là tên thày,
giương lên cao Lửa Danh dự Toàn vũ,
Con không còn tham dự trò chơi cũ,
cứ giữ y một cái ngã hoài hoài.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.3. Mọi sự được thể hiện sau khi tuôn chảy qua bốn tầng của vũ trụ vật chất. Cõi cảm xúc ở trên cõi vật lý, có nghĩa là cảm xúc phải có trước biểu hiện vật lý. Nếu con đợi Thượng đế cho con đồi dào trước khi con cảm thấy biết ơn, thì con sẽ không bao giờ có thể đem sự dồi dào đó vào cõi vật lý.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
một với thày, con tăng trưởng mãi mãi.
Con chính là chén thánh ở nơi đây,
thày ban xuống dòng công lý hoàn vũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.4. Con có cái biết nội tại là Đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc, và cảm giác đó là cỗ xe đem dồi dào vào cõi vật chất. Con cảm thấy biết ơn những gì con đang có, và Thượng đế sẽ cho con hơn nữa.

Ôi Portia, cho vũ trụ quân bằng,
tim con hát, niềm hy vọng vĩnh hằng.
Đôi cánh Mẹ bảo bọc con yên ắng,
con là một với tất cả chúng sanh.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.5. Con giành lại quyền chọn lựa cảm xúc của con. Con cải thiện hoàn cảnh bên ngoài của con bằng cách dùng ý chí cao và viễn quan của sứ vụ thiêng liêng để tạo ra cảm xúc tích cực sẽ trở thành cỗ xe đem sự dồi dào của Thượng đế tuôn chảy xuống cõi vất chất.

Ôi Portia, thày đem ánh sáng Mẹ,
khỏi đêm tối, giải thoát chúng con nhé.
Lửa Tình thương của thày sáng mãi mãi,
ôm con chặt, Saint Germain và thày.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.6. Con biết ơn mình đang sống, mình có tự nhận biết, mình có cơ hội chọn lựa. Con nhận ra Thượng đế đã gửi cho con một đấng an ủi. Con có cái ta Ki-tô là vị thày nội tâm của con, và con có các chân sư thăng thiên trên cõi cao đang phụng sự như các vị thày của riêng con.

Ôi Portia, thày điều ngự tài hoa,
con cảm nhận trong con sự biến hóa.
Ánh sáng thày là thực tại màu tím,
con tìm ra biến hóa đá luyện kim.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.7. Các vị thày của con lúc nào cũng hướng dẫn con để con lấy chọn lựa tốt hơn, nhưng họ sẽ không chọn lựa thay con. Con sẵn sằng tự giúp mình. Con thăng vượt cảm giác thiếu thốn, cảm giác sợ hãi, cảm giác thiếu hụt, cảm giác bất công, cảm giác không biết ơn.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
con tỉnh mộng, giấc mơ ảo phàm phu.
Gỡ khỏi mắt cái đà tự ngã cũ,
con được đứng cùng các thày vũ trụ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.8. Con dùng uy lực ý chí để tìm ra một điều mà con có thể biết ơn. Con xây dựng trên điều đó bằng cách xin các vị thày tâm linh cho con hướng dẫn nội tâm. Con lấy quyết đinh tốt hơn, và điều này sẽ cho con nhiều thứ để biết ơn hơn.

Ôi Portia, thày đến từ cõi xa,
avatar toàn vũ, thày chính là.
Quyền năng thày vô biên, con trân quý,
ngôi sao thày dìu dắt hành tinh đi.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.9. Con cầm tay lái và cai quản đứa con ngỗ nghịch là các cảm xúc của con. Con có sức mạnh ý chí và viễn quan cần thiết để chế ngự con thú dữ, đâm chết con rồng của cảm xúc không chế ngự. Thể cảm xúc của con là cỗ xe toàn hảo cho việc biểu hiện cảm xúc dựa trên tình thương của Hiện diện TA LÀ của con

Ôi Portia, con tự tin an trú,
con nay là dụng cụ của toàn vũ.
Con xuống đây từ thiên hà gửi tới,
để nâng cao trái đất thăng lên trời.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Saint Germain, Portia và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả những  người trong vòng ảnh hưởng của con trong dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó con chấp nhận chuyện này đã hoàn toàn thể hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói ra nó. Amen.

11 | Tìm ra tự do cảm xúc

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 25/4/2005.

11.1. Cảm xúc tạo động lượng và định hướng

Trái tim yêu dấu của Mẹ. bây giờ chúng ta đã sẵn sàng nói về thể cảm xúc, và thày có thể nói với con là thể cảm xúc là vũ khí lớn nhất mà ông hoàng thế gian dùng để ngăn cản con biểu hiện tâm thức Ki-tô, và qua tâm thức này biểu hiện đời sống dồi dào. Cảm xúc là một lực rất mạnh vì không có cảm xúc thì con không thể phú cho tư tưởng động lượng và hướng đi, do đó tư tưởng không thể chuyển thành hành động vật lý hay biểu hiện vật lý. Bởi vì cảm xúc dễ lay chuyển, giống như đại dương dễ bị khuấy động bởi cơn gió mạnh, ông hoàng thế gian và ngã hữu diệt có thể dễ dàng chuyển hướng cảm xúc của con để chúng đi chệch hướng một chút. Nhiều người thấy viễn quan cao về cuộc đời họ và chân thành muốn thay đổi cuộc đời họ, nhưng họ giản dị không thể đem viễn quan đó vào thể hiện vật lý; họ không thể biến nó thành hiện thực. Những người đó có đôi phần thanh khiết trong thể bản sắc và tư tưởng nên họ thấy được viễn quan cao về đời họ. Họ có thể thấy là cuộc đời của họ đáng lẽ phải khá hơn tình trạng hiện tại của nó. Nhưng vì họ chưa thanh tẩy thể cảm xúc, chưa cai quản cảm xúc, nên cảm xúc của họ sẽ thường bóp méo và phá hoại những nỗ lực của họ.

Con hãy tưởng tượng tư tưởng giống như một mũi tên. Con đặt mũi tên vào cung, con kéo dây cung và con buông tên. Đây là chuyện xảy ra trong thể tư tưởng. Con nắm lấy một ý tưởng, con khiến nó trở thành cụ thể hơn và con buông nó bay về thể cảm xúc. Bây giờ con hãy tưởng tượng là khi mũi tên đang bay thì có cơn gió mạnh thổi. Mũi tên có thể nhắm đúng về hướng đích, nhưng ngọn gió có thể dễ dàng thổi nó bay lệch hướng và nó không trúng đích. Đây là chuyện xảy ra cho rất nhiều người tâm linh nắm bắt được viễn quan cao trong thể tư tưởng và cố gắng thay đổi đời họ với tất cả thiện ý. Nhưng vì họ chưa cai quản thể cảm xúc nên ông hoàng thế gian và ngã hữu diệt có thể dễ dàng khiến mũi tên tư tưởng chệch hướng một chút để nó luôn luôn không tới trúng đích. Hay cũng có thể có ngọn gió ngược thổi mạnh – dưới hình thức một rối loạn cảm xúc – khiến mũi tên không tới được đích. Thể cảm xúc của con người bị lôi kéo về nhiều hướng bởi ham muốn mâu thuẫn. Các cố gắng thiết tha nhất mất hết hơi sức trước khi đến được cõi vật lý. Cai quản thể cảm xúc quả thật là phần cốt yếu trong nỗ lực biểu hiện đời sống dồi dào.

Khi thày nói “cai quản” thì thày nói cái Ta Biết phải lấy quyết định cai quản thể cảm xúc, như một bậc cha mẹ tốt phải cai quản em bé khi nó chưa có khả năng tự quyết định đúng đắn. Thể cảm xúc có thể ví như một em bé. Giống như một em bé, thể cảm xúc dễ bị kích động và không cân nhắc hậu quả dài hạn. Em bé làm chuyện nó muốn làm và có vẻ hấp dẫn với nó vào lúc đó. Cảm xúc của con không có khả năng cân nhắc cái gì tốt nhất cho con trong dài hạn và cái gì đúng theo tiêu chuẩn cao hơn, tỷ dụ như luật Thượng đế hay sứ vụ thiêng liêng của con. Châm ngôn của thể cảm xúc là: “Nếu cảm thấy thích, thì làm ngay.” Nếu cái Ta Biết không bước ra nhận lãnh vai trò người trưởng thành thương yêu nhưng kiên định có thể hướng dẫn em bé của cảm xúc, thì em bé sẽ rất có thể đả thương chính mình và tạo ra hậu quả dài hạn không tốt.

Làm sao con cai quản cảm xúc? Thày đã cho con chìa khóa chủ, đó là với lên ý chí cao hơn đã thoạt tiên mang con tới vũ trụ vật chất. Khi con có ý chí đó, con cho phép nó thấm xuống tư tưởng của con. Khi tất cả tư tưởng của con thẳng hàng với ý chí đó, con cần để cho uy lực của ý chí lan xuống thể cảm xúc và con đảm bảo là tất cả cảm xúc của con thẳng hàng với ý chí cao và viễn quan cao gắn liền với sứ vụ thiêng liêng của con. Con cần xem mình như một người có mục đích cao thay vì một người phất phơ bị các ngọn sóng trong thể cảm xúc xô đẩy về hướng này hướng khác. Con cần có quyết tâm vững chắc giản dị không cho phép cảm xúc không thẳng hàng với sứ vụ thiêng liêng và làm việc chống lại mục đích vì sao con xuống trái đất. Con cần tới điểm quyết tâm quyết định cảm xúc nào được khởi lên trong thể cảm xúc. Con không thể cho phép bất cứ lực nào, kể cả ngã tách biệt, người khác, định chế xã hội, truyền thông hay ông hoàng thế gian, kiểm soát cảm xúc nào khởi lên trong đại dương cảm xúc của con.

11.2. Khuôn nếp chờ đợi tiêu cực

Bởi vì cảm xúc dễ thay đổi, ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian đã từ lâu nhận ra là sử dụng cảm xúc là một trong những cách tốt nhất để kiểm soát hành động của con. Nếu con có thể điều khiển cảm xúc của người khác, con có thể điều khiển hành động của họ vì hành động phát xuất từ cảm xúc. Nếu con có thể tạo đủ hỗn loạn trong thể cảm xúc của người khác, con có thể ngăn cản các ý tưởng cao của họ xuống tới cõi vật lý và tâm ý thức của họ. Kiểm soát cảm xúc bắt đầu nơi thể bản sắc với niềm tin con là một sinh thể hữu diệt tối hậu không thể kiểm soát định mệnh của mình và không có khả năng làm bất cứ chuyện gì vượt quá một lằn ranh giới. Nếu con tin lời nói dối này thì con sẽ nhìn mình như một nạn nhân của cuộc đời. Con nghĩ con đã bị đẩy vào một hoàn cảnh trong đó con bị ép buộc phải phản ứng lại một số biến cố mà con không tạo ra và do đó không thể ảnh hưởng. Con lúc nào cũng cảm thấy con đang bị tấn công và xô đẩy về những hướng con không muốn bởi các “ná bắn và mũi tên của nghịch cảnh quái ác” như câu của Shakespeare.

Thái độ này đặt con vào một tư duy phản ứng tiêu cực. Con ở trong nếp hành xử phản ứng lại cuộc đời thay vì cai quản cuộc đời. Lẽ tất nhiên đây chính là tâm thái mà ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian muốn đặt con vào. Họ lúc đó có thể kiểm soát con bằng cách ném vào con ý tưởng và hoàn cảnh mà con cảm thấy bắt buộc phải phản ứng.

Lẽ tất nhiên, ngoài việc kiểm soát thể bản sắc cũng có một số mô thức tư tưởng mà ngã hữu diệt đã lập trình vào tâm con. Hay đúng hơn, chúng là một phần của ngã hữu diệt và do đó đã đi vào quả cầu cái ta của con, và từ đó ảnh hưởng cách con suy nghĩ. Vấn đề là thể tư tưởng của con có thể chứa đựng một hình ảnh là cuột đời phải như thế nào. Dựa trên hình ảnh đó, con đã xây đắp một số chờ đợi cuộc đời phải như thế nào; chuyện gì phải hay không được xảy ra cho con. Chuyện xảy ra trong thể cảm xúc của con là ngã hữu diệt đã xây dựng trên các hình tư tưởng và chờ đợi đó trong thể tư tưởng. Nó đã tạo dựng một niềm tin rất vi tế cho rằng nếu những chờ đợi đó không xảy ra, thì chuyện cần thiết, không thể tránh và hoàn toàn chính đáng là con phản ứng với cảm xúc tiêu cực. Ngã hữu diệt đã thiết kế một máy điện toán trong tiềm thức của con, và khi một nút trên màn ảnh tâm ý thức của con được nhấn, thì nó sẽ tự động phát ra một cảm xúc đặc thù, một phản ứng đặc thù.

Tỷ dụ, nhiều người chờ đợi cuộc đời phải dễ dàng và không cần cố gắng. Nhiều người chờ đợi cuộc đời phải cho họ một số đồ vật vật chất và thú vui thân xác. Nếu họ không có được thì họ cảm thấy bị tước đi cái gì đó. Cảm giác này khiến một số cảm xúc khởi lên, thông thường gồm nỗi giận Thượng đế, giận cha mẹ, giận xã hội hay giận một số người đặc thù mà họ nghĩ đang ngăn cản họ có những thứ mà họ nghĩ họ có quyền hưởng. Ngã hữu diệt rất dễ dùng nỗi giận này để biện minh cho một số hành động mà người đó biết là sai trái và không giúp họ được lợi ích dài hạn. Một khi họ bị lôi kéo vào vũng xoáy giận dữ đó thì họ có thể biện minh cho việc chối bỏ các niềm tin đạo đức sâu xa hay quan tâm về hậu quả dài hạn. Khi cơn giận dâng trào, nhiều người có hành động  mà bình thường họ tránh và rất hối hận sau đó. Tuy họ có thể hối hận đã có hành động đó, họ có thể bị khuynh loát để có hành động tương tự khi có cơn giận khác nổi lên, khi họ bị kích động bởi một hoàn cảnh không đáp ứng chờ đợi của họ.

Nhiều người ở trong trạng thái tham lam hay ghen tỵ người khác, cảm thấy họ đáng lẽ phải có những gì người khác có, hay phải có nhiều hơn người khác. Họ có thể sống cả cuộc đời với lòng ghen tỵ người khác, và điều này có thể đẩy họ vào hành động mà họ biết là sai trái. Đây quả thật là một lý do khiến con người trộm cắp những thứ mà họ nghĩ đáng lẽ họ phải có, nhưng lại không chịu làm việc để có. Một cảm xúc thông thường khác là kiêu mạn khiến một số người sống cả cuộc đời luôn luôn tìm cách chứng tỏ mình hơn người khác, mình lúc nào cũng đúng, mình biết nhiều hơn tất cả ai khác. Những người này quả thật bị mắc kẹt trong một số khuôn nếp cảm xúc mà họ không thể điều khiển, và những khuôn nếp này tước đi nơi họ cảm nhận hạnh phúc, mãn nguyện, an bình nội tâm. Chúng tước đi nơi họ đời sống dồi dào.

11.3. Chọn lựa phản ứng trước hoàn cảnh

Đa số con người trên hành tinh này không khác chi người máy rô bốt trong lãnh vực phản ứng tình cảm. Họ có một số nút trong tiềm thức của họ, và khi có ai nhấn nút, thì nó tự động phát ra một cảm xúc đặc thù khiến người đó không tự chủ được tư tưởng, cảm xúc và hành động. Vì con đã theo khóa học cho tới điểm này, lẽ tất nhiên con không bị hoàn toàn mắc kẹt trong một khuôn nếp cảm xúc không xây dựng. Nếu con sẵn lòng xem xét chính mình, con sẽ có thể thấy là con có một số nút trong thể cảm xúc. Khi có ai nhấn nút đó thì con dễ nhảy vọt vào một khuôn nếp tư tưởng và cảm xúc nào đó. Thày không nói vậy để con cảm thấy xấu hổ, vì quả thực hầu như không ai có thể lớn lên ở bất cứ đâu trên hành tinh này mà không bị các lập trình cảm xúc phóng chiếu vào tâm mình. Thày giản dị nói lên điều này để, nếu con muốn cai quản thể cảm xúc của con thì con cần nhận ra những phản ứng lập trình để con có thể vượt lên trên chúng, Làm cách nào con vượt lên trên chúng? Bằng cách con nhận biết chúng và sau đó lấy quyết định có ý thức không tham gia vào phản ứng người máy trước những thách đố của cuộc sống.

Những người đang cư xử như người máy rô bốt sẽ nói với con là họ không quyết định bay vào một cơn giận hay mặc cảm tội lỗi hay bất cứ cảm xúc nào khác. Họ nói có phần đúng vì trong quá khứ xa xôi họ đã cho ngã hữu diệt quyền điều khiển tâm họ. Những người đó không lấy quyết định có ý thức đi vào một cảm xúc nào đó. Bất cứ ai đều có thể giành lại khả năng lấy quyết định có ý thức cách họ đáp ứng lại cuộc sống. Làm sao con có thể điều khiển cuộc đời mình nếu con không điều khiển phản ứng của con trước những tình huống bên ngoài?

Con hãy nhìn một cách thiết thực hành tinh trái đất. Con thấy một tình trạng dễ biến động vì toàn thể hành tinh mang gánh nặng năng lượng tha hóa. Ngay cả thiên nhiên cũng bị mất cân bằng, như ta thấy qua số lượng thiên tai gia tăng. Trong khi đó, con có nhiều người đã bị lập trình để phản ứng với tình cảm tiêu cực, do đó ta có thể tiên đoán sẽ có nhiều xung đột giữa con người. Có nhiều vị đạo sư dạy dồi dào nói rằng con không thể biểu hiện cuộc sống dồi dào nếu con không tiếp cận mọi hoàn cảnh với tâm thái tích cực.

Những đạo sư này nói đúng, nhưng ta phải thêm vào là tâm thái tích cực sẽ không ảnh hưởng hành động của con nếu con không dùng ý chí cao và uy lực của tư tưởng để cai quản thể cảm xúc. Nếu tâm thái tích cực chỉ ở lại tầng tư tưởng và không đi xuống tầng cảm xúc, thì làm sao nó có thể giúp con tìm ra cách đáp ứng tốt nhất trước những hoàn cảnh không phù hợp với những gì con chờ đợi?  Những người thành công nhất không phải là những người làm chủ được tình huống bên ngoài của họ, mà là những người có thể làm chủ tình huống nội tâm và do đó có thể đáp ứng lại mọi hoàn cảnh một cách xây dựng nhất. Những người không có khả năng tự chế đó sẽ thường phản ứng lại hoàn cảnh bất ngờ một cách khiến hoàn cảnh tệ hơn, và qua đó tạo ra hay củng cố vòng xoáy đi xuống. Con chắc có nghe câu châm ngôn cổ nói rằng chinh phục chính mình hơn chinh phục một thành phố, và câu này nói đến việc làm chủ phản ứng cảm xúc của mình trước cuộc sống.

Nếu con làm chủ chính mình, nếu con cai quản bốn thể phàm, thì con có thể chọn phản ứng trước mọi hoàn cảnh. Con có thể chọn phản ứng có hậu quả dài hạn tốt nhất cho con, có nghĩa là nó hài hòa với luật của Thượng đế và sứ vụ thiêng liêng của con. Con có thể chọn chìa má bên kia thay vì phản ứng với cảm xúc tiêu cực. Nếu con không có khả năng chọn phản ứng một cách ý thức trước mọi hoàn cảnh, thì con biết là có ai khác đang làm chủ. Ai khác đó là ngã tách biệt và ông hoàng thế gian đang tìm cách ngăn cản con biểu hiện đời sống dồi dào và thực thi sứ vụ thiêng liêng của con.

Cách làm chủ phản ứng là gia tăng nhận biết của con về những tiến trình trong tâm. Để giải thích điều này, thày sẽ bắt đầu ở tầng thấp nhất là tầng hành động vật lý. Nhiều người có hành động mà sau đó họ hối tiếc, và khi họ nhìn lại sự cố họ sẽ nói: “Nhưng tôi không có chọn lựa nào khác”. Nếu con không có chọn lựa nào khác, thì con thực sự không có chọn lựa gì cả, phải không con? Nếu con chỉ có một chọn lựa, chỉ có một cách để đáp ứng lại một hoàn cảnh, thì con thực sự không có chọn lựa. Ý tưởng con không có chọn lựa hay không có chọn lựa khác luôn luôn là một ảo tưởng. Nó dựa trên sự kiện con đã cho phép ngã hũu diệt dụ con vào một hoàn cảnh có vẻ như chỉ có một đáp ứng. Con đã bị ngã hữu diệt, và rất có thể ông hoàng thế gian qua ngã hữu diệt, hoàn toàn kiểm soát. Có vẻ như con chỉ có một cách đáp ứng lại hoàn cảnh. Có vẻ như con không thể chọn một phản ứng khác phản ứng đã được lập trình trong thể cảm xúc của con.

Thày có nói về nhu cầu nhận lãnh trách nhiệm về hoàn cảnh sống của mình, và nhu cầu ngưng chạy trốn lấy quyết định. Khi con người cho phép bị khuynh loát vào tình thế nghĩ mình không có chọn lựa, thì họ đã từ chối lãnh trách nhiệm về cuộc đời họ và họ bị mắc kẹt vào khuôn nếp chạy trốn không lấy quyết định. Sự kiện phũ phàng là con lúc nào cũng có hơn một chọn lựa, con lúc nào cũng có hơn một cách đáp ứng lại một hoàn cảnh. Lời nói dối của những kẻ đang muốn kiểm soát con là trong một số tình huống con phải phản ứng bằng bạo hành hay sức mạnh. Đây là một lời nói dối xảo quyệt.

Hầu hết mọi tôn giáo trên hành tinh này, trong hình thức trong sạch, tìm cách giúp con tránh bị mắc kẹt trong lời nói dối đó. Giê-su đã làm việc này bằng cách dạy con người dùng Quy luật Vàng như khuôn mẫu cư xử. Đó cũng là lý do Giê-su dạy con người chìa má bên kia thay vì kháng cự cái xấu ác, thay vì dùng vũ lực đáp trả vũ lực (Matthew 5:39).

Con hãy nhìn thế giới và xem có bao nhiêu xung đột giữa các nhóm người. Một số xung đột này đã kéo dài mấy ngàn năm, và không ai biết vì sao chúng bắt đầu. Câu hỏi thật là vì sao không có ai ngưng vòng xoáy bạo hành, và lý do là vì họ chưa phá vỡ khuôn đúc suy nghĩ cho rằng nếu ai bạo hành với mình, thì việc mình đáp trả bằng bạo hành là điều chính đáng. Vòng xoáy bạo hành sẽ không bao giờ ngưng cho tới khi có người quyết định chìa má bên kia và không đáp trả bằng bạo hành bất kể những gì đã làm tới họ. Để phá vỡ khuôn đúc bạo hành, con cần đi vào thể cảm xúc và phá vỡ lập trình nói rằng nếu người khác làm gì đến mình, thì mình chỉ có thể đáp trả bằng giận dữ. Con phải cai quản chính mình để thay vì phản ứng với cảm xúc tiêu cực, con có thể phản ứng lại hoàn cảnh bằng tình thương. Chỉ lúc đó con mới vươn lên trên vòng xoáy bạo hành, và được tự do theo đuổi đời sống tâm linh dồi dào thay vì lãng phí cuộc đời trong xung đột điên rồ không bao giờ dứt.

11.4. Ngưng cảm xúc lập trình

Làm sao con chọn cách sống bất bạo động, làm sao con từ bỏ khuôn nếp phản ứng lại cuộc đời với cảm xúc tiêu cực? Làm sao có thể đáp ứng lại cuộc đời với tình thương? Bước đầu tiên là nhận ra sự kiện đơn giản là trước khi con có một hành động, thì có một khoảng cách, một giây phút nghỉ, giữa tư tưởng cảm xúc và hành động. Chính trong khoảnh khắc đó mà cái Ta Biết có cơ hội ngưng một hành động tự hủy diệt. Khoảnh khắc đó vượt quá thời gian và lúc nào cũng có khắc rất ngắn trong đó con có cơ hội ngưng hành động hay cho phép nó diễn ra. Con có cơ hội chọn một hành xử khác tốt hơn – một đáp trả bất bạo động dựa trên tình thương – trước tình huống. Khi huấn luyện tâm ý thức để nó nhận biết rõ hơn những gì xảy ra trong bốn thể phàm, thì con có thể giành lại khả năng ngưng một hành động trước khi nó vượt qua lằn ranh xuống cõi vật lý và dẫn tới hậu quả không thể tránh.

Trước khi con hành động, thì có ai đó phải lấy quyết định chuyển tư tưởng cảm xúc của con thành hành động vật lý. Con có thể cho phép ngã hữu diệt lấy quyết định đó, và nó sẽ luôn luôn tuân theo lập trình của nó, có nghĩa là hành động của con sẽ tạo hậu quả dài hạn không vui. Chọn lựa duy nhất khác là cái ta Biết nhận lãnh vai trò đích thật của nó và giành lại quyền lấy quyết định. Chỉ khi con làm vậy thì con mới ngưng được hành động không thẳng hàng với người mà con là và đi ngược lại sứ vụ thiêng liêng của con.  

Có thể con đã nghe lời khuyên rằng trước khi có hành động trong một tình huống sôi bỏng, thì con phải đếm tới mười. Tuy lời khuyên này hữu dụng, nhưng con thật ra không cần đếm tới mười. Điều con cần làm là trụ vào nơi tim và tự hỏi hành động này có thực sự biểu lộ con người bên trong của con, bản sắc thật của con như một sinh thể tâm linh bất tử. Con hãy xem xét hành động và tự hỏi: “Đây có phải là người mà tôi là chăng? Sinh thể tâm linh mà tôi thực sự là có phản ứng như vậy chăng?” Nếu con có nhận biết rõ ràng trong thể bản sắc, tư tưởng và cảm xúc, thì con sẽ có thể tức khắc ngưng mọi hành động không thẳng hàng với con người mà con là và không phù hợp với sứ vụ thiêng liêng của con.

Tất cả mọi người đều có khi gặp hoàn cảnh bất ngờ và hỗn loạn đời hỏi họ phải lấy quyết định mau chóng. Ông hoàng thế gian không thích gì hơn là ép buộc con vào hoàn cảnh khiến con có cảm tưởng con không có nhiều chọn lựa, và con cần phải quyết định ngay lúc này. Chỉ khi con bị dồn vào thế phải lấy quyết định mà không cân nhắc tầm nhìn dài hạn thì y mới thật sự kiểm soát được con. Cách con tránh vòng kiểm soát này là thiết lập một trung tâm điểm vững chắc, một điểm tham chiếu không thể lay chuyển, khi con lấy mọi quyết định. Đây tối hậu là tảng đá của tâm thức Ki-tô. Một mục tiêu ngắn hạn hơn là xem xét phản ứng của mình có thật sự bất bạo động chăng. Chỉ có phản ứng bất bạo động mới cho phép con nhận dồi dào Thượng đế xuống cuộc đời con. Vì làm sao con có thể nhận cái mà Thượng đế cho con vô điều kiện nếu con còn nghĩ con có thể đáp trả lại cuộc sống bằng bạo lực? Sinh thể tâm linh mà con thực sự là sẽ phản ứng lại mọi hoàn cảnh với tình thương. Nếu con thấy mình đang phản ứng lại một hoàn cảnh với tâm thái không đầy tình thương, thì con biết là con không đáp ứng với tiềm năng cao nhất của con. Chỉ có ngã hữu diệt mới phản ứng với tâm thái không có tình thương, và đây là một cách tốt để phơi bày là ngã hữu diệt đang làm chủ phản ứng của con.

Điều khiến đa số con người có hành động bạo hành là cảm xúc bạo hành. Khi con đã cho phép một cảm xúc bung ra và khuấy động thể cảm xúc vào trạng thái điên loạn, thì con khó cản nó đưa tới hành động. Điều này có thể làm được, nhưng phải chăng cách tốt hơn là ngăn cản cảm xúc tiêu cực khởi lên? Để làm được chuyện này, con cần tiến thêm một bước nữa, và nới rộng nhận biết tới sự kiện cảm xúc khởi lên từ tư tưởng. Cách duy nhất giúp con thực sự tránh cảm xúc tiêu cực khởi lên là giải quyết những tư tưởng khởi động nó. Tư tưởng ở tầng cao hơn và lỏng hơn, Chúng dễ thay đổi hơn, nhưng tâm ý thức khó nhìn thấy chúng hơn. Tư tưởng đưa tới cảm xúc tiêu cực là những chờ mong bất toàn và những ham muốn giả mà con có trong thể tư tưởng và thể cảm xúc cao.

Thế nào là chờ đợi bất toàn? Đây là chờ đợi không thẳng hàng với thực tại của cuộc sống. Thày có nêu ra trước đây câu của Albert Einstein rằng nếu con làm cùng hành động và chờ đợi kết quả khác, thì con là người điên. Đa số con người có những chờ đợi được lập trình vào thể tư tưởng của họ, và chúng khiến họ tin rằng nếu họ tiếp tục làm cùng hành động thì một ngày nào đó vũ trụ sẽ phản chiếu lại, như một phép lạ, một hoàn cảnh bên ngoài khác. Thày biết rất rõ là ngã hữu diệt không thể thấy sự vô lý của lối suy luận này, không thể thấy chờ đợi như vậy hoàn toàn xa rời thực tại. Cái Ta Biết có khả năng thấy điều này và qua đó phủ nhận ngã hữu diệt. Con có thể tách mình ra khỏi tính chất không thật của ngã hữu diệt và hoàn toàn thể nhập thực tại vũ trụ là tấm gương sẽ phản chiếu lại con bất kể gì con phóng ra. Khi con hiểu điều này thì con thấy là con không thể thay đổi hoàn cảnh bên ngoài nếu con không thay đổi chính mình.

11.5. Ham muốn giả và mong muốn thật

Có một tầng sâu hơn mà ta cần xem xét ở đây. Nhiều chờ đợi của con không có vẻ xa rời thực tại của cuộc sống. Chúng có vẻ là những lời tiên tri tự ứng nghiệm. Tỷ dụ, nếu con chờ đợi cuộc đời là một sự vật lộn và con phải đấu tranh để được mọi chuyện con cần, thì vũ trụ sẽ phản chiếu lại con những hoàn cảnh bắt con phải đấu tranh. Những tình huống này tối hậu không thật vì chúng không thẳng hàng với viễn quan mà Thượng đế có về con. Chờ đợi của con khoác vào thực tại tạm thời, nhưng chúng chỉ có vẻ thật khi con còn mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên.

Con có hai loại chờ đợi không thiết thực. Có những chờ đợi không bao giờ có thể thành tựu, và có những chờ đợi trở thành tiên tri tự ứng nghiệm. Tỷ dụ, nhiều người chờ đợi họ có kết quả khác nếu họ tiếp tục làm cùng hành động, họ có thể thay đổi hoàn cảnh bên ngoài mà không thay đổi chính họ. Đây là một chờ đợi hoàn toàn không thiết thực vì vũ trụ sẽ luôn luôn phản chiếu lại những gì con phóng ra. Một số người chờ đợi người khác sẽ lấy những gì họ có, và chờ đợi này sẽ trở thành một tiên trì tự ứng nghiệm. Những người đó sẽ thu hút những người muốn lấy của họ thay vì lấy từ nguồn cung cấp dồi dào vô tận ở trong chính họ.

Chờ mong nhị nguyên mà con có trong thể tư tưởng sẽ tạo nên ham muốn giả trong thể cảm xúc của con. Thế nào là ham muốn giả? Ham muốn giả có hai đặc tính:

  • Thứ nhất là nó dựa trên ý niệm thiếu thốn; nó dựa trên cảm nhận con thiếu thốn cái gì đáng lẽ con phải có. Con nghĩ đáng lẽ con phải có một số chuyện trong cuộc đời, con mong muốn có chúng, và khi con không có chúng thì con cảm thấy thiếu thốn, bị thiếu thốn. Đây là nguyên nhân của cảm xúc tiêu cực, như giận dữ, ghen tỵ hay tham lam.
  • Đặc tính kia của ham muốn giả là nó không bao giờ đạt được ý nguyện, nó không bao giờ thỏa mãn được. Ham muốn giả quả thực giống như hố không đáy, như một lỗ đen trong thể cảm xúc không thể nào lấp được. Nếu con đã nghe nói đến các lỗ đen trong vũ trụ, thì con biết chúng là những nơi mà trọng lực cao đến độ mọi thứ đều bị hút vào đó và không có gì có thể thoát ra. Đây là một hình ảnh tượng hình hay về ham muốn giả vì con cứ tiếp tục đổ năng lượng vào đó mà không bao giờ lấp được lỗ đen.

Nhiều người bị mắc kẹt trong tìm cầu không bao giờ dứt có nhiều tiền hơn, nhiều quyền lực hơn, nhiều tình dục hơn, nhiều thức ăn hơn, nhiều thú vui hơn. Họ có được bao nhiêu chăng nữa vẫn không cảm thấy đủ. Họ không bao giờ thỏa mãn và lúc nào cũng muốn có nhiều hơn. Ham muốn trở thành một vòng xoáy đi xuống nuốt trọn cuộc đời họ mà không cho họ lại gì cả vì họ không bao giờ đạt trạng thái thỏa mãn, hạnh phúc hay an bình nội tâm. Có nhiều người trên trái đất bị nuốt trọn bởi tìm cầu vô tận tìm cách thỏa mãn ham muốn giả không bao giờ có thể thỏa mãn. Những người hướng về tâm linh không hoàn toàn bị mắc kẹt trong khuôn nếp đó. Tuy nhiên, con cần nhìn vào cuộc đời mình và nhìn xem con có thể nhận diện một số ham muốn có những đặc tính mà thày mô tả. Nếu con nhận diện chúng, thì con cần phải thành thật với chính mình và xem xét chúng gần hơn. Nếu con không cai quản những ham muốn đó và lấy chúng ra khỏi con người mình, thì chúng sẽ luôn luôn lôi kéo cảm xúc của con và phá hoại những cố gắng tốt nhất mà con có thể làm để biểu hiện cuộc sống thực sự tâm linh.

Chìa khóa khắc phục ham muốn giả là gì? Chúng ta hãy bắt đầu bằng cách xem xét ai muốn giữ con ở trong khuôn đúc muốn mãi mãi thỏa mãn ham muốn giả. Sự thật phũ phàng là các ham muốn đó do ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian tạo ra, và chúng có hai mục tiêu khi làm vậy. Một mục tiêu là giữ con mắc kẹt trong việc theo đuổi ham muốn thế tục để con không thể biểu hiện quả vị Ki-tô và thực hiện sứ vụ thiêng liêng của con. Mục tiêu thứ hai là giữ con trong vòng xoáy lúc nào cũng muốn điều mà mình không thể có, qua đó con liên tục tha hóa năng lượng, là cái mà ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian cần để sinh tồn. Họ nhìn con như con bò sữa mà họ sẽ vắt hết năng lượng và loại bỏ khi con không còn sản xuất nữa.

Như vậy có nghĩa chăng là con cần dùng sức mạnh để đè nén ham muốn giả để thoát vòng kiểm soát của chúng? Đây không phải là phương cách đúng; cách này chỉ giản dị đi từ cực đoan này sang cự đoan khác trong khi vẫn bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Chìa khóa thật là nhận ra ham muốn giả thực sự chỉ là sự tha hóa của một ham muốn thật. Một trong những đặc tính của ham muốn thật là nó không dựa trên thiếu thốn mà dựa trên cảm giác dồi dào. Con không cảm thấy thiếu thốn, con cảm thấy con có nhiều đến độ con mong muốn chia sẻ với người khác. Đặc tính chính khác của ham muốn thật là con không tìm cách được một cái gì; con tìm cách cho. Khi con cho thì con đạt cảm giác toại nguyện vì hành động cho mang lại phần thưởng xúc cảm của nó.

Mọi ham muốn bắt nguồn từ ý muốn tạo một cảm giác. Cảm giác này tối hậu là điều mà thày đã nói trước đây, là cảm giác trọn vẹn, cảm giác đầy đủ, được tràn đầy. Ham muốn giả bắt nguồn từ ngã hữu diệt. Ngã hữu diệt đuợc sinh ra từ sự tách biệt với Thượng đế. Nó không bao giờ có thể cho con cảm giác trọn vẹn. Ngã hữu diệt không thể vượt qua sự tách biệt với Thượng đế, và chỉ khi con cảm thấy mình là một với Thượng đế và cảm thấy ánh sáng Thượng đế tuôn chảy qua con người con thì con mới cảm thấy trọn vẹn. Ngã hữu diệt có nhận biết thô thiển là cái Ta Biết mong muốn được trọn vẹn. Nó tìm cách đem lại cảm giác trọn vẹn này, nhưng nó chỉ có thể dùng tâm thức nhị nguyên và các thứ của trần gian. Ngã hữu diệt thấy trọn vẹn như một trạng thái đứng yên nơi con có đầy đủ một thứ gì đó của trần gian, và khi con đã đặt mình vào vị thế không thể mất những gì con có. Đó là lý do vì sao ngã hữu diệt quy định ham muốn giả và tìm cách khiến con tin rằng nếu con có đủ tiền bạc, sở hữu vật chất, quyền lực hay thú vui, thì con sẽ cảm thấy trọn vẹn, con sẽ được lấp đầy. Ngã hữu diệt quả thật tin rằng nếu con có đủ những thứ của trần gian, thì con sẽ cảm thấy trọn vẹn. Đây hiển nhiên là một ảo tưởng vì không có gì trong trần gian có thể cho con cảm giác trọn vẹn. Con chỉ có thể trọn vẹn khi con biết mình là ai và khi con cảm thấy ánh sáng Thượng đế tuôn chảy qua Sinh thể của con.

Khi cái Ta Biết nhận ra cuộc tìm cầu của ngã hữu diệt không thể thực hiện được, thì con có thể tách mình ra khỏi nó. Con không thể tách mình ra khỏi ngã hữu diệt nếu con chưa có cái gì thay thế nó. Con không thể hoàn toàn khắc phục một ham muốn giả nếu con chưa kết nối lại với những mong muốn thật của con người cao của con.

11.6. Mong muốn thật là cống hiến Ngọn lửa của mình

Có một nhóm đông Sinh thể tâm linh đang phụng sự như các vị thày tâm linh của nhân loại. Trong số này có đức Phật đã, như Giê-su, xuống trái đất để đem lại một giáo lý tâm linh mới, mà ngày nay được biết như đạo Phật. Một trong những nguyên lý trọng tâm của giáo lý đức Phật coi cuộc đời là đau khổ và đau khổ do ham muốn sai tạo ra. 

Giảng dạy thâm sâu về Phật giáo vượt ra ngoài phạm vi của khóa học này. Nhiều người đã hiểu lầm khái niệm trọng tâm của Phật giáo và nghĩ rằng đức Phật dạy họ phải khắc phục ham muốn đến độ không còn ham muốn nữa. Thực ra đức Phật nói là con cần khắc phục mọi dính mắc vào bất kỳ điều thế gian nào. Một ham muốn giả khiến con dính mắc vào một vật trần gian nào đó, khiến con nghĩ con không thể trọn vẹn nếu không có vật mà con ham muốn. Chính dính mắc này đưa tới khổ đau.

Nếu con không có ham muốn, thì làm sao con có thể tăng trưởng và trở nên hơn những gì con là hôm nay? Động lực cơ bản của sự sáng tạo là ý muốn của Thượng đế muốn hơn nữa và lấp đầy khoảng trống không với ánh sáng. Nếu con loại bỏ mọi ham muốn, thì con cũng loại bỏ dòng chảy của Dòng sông sự Sống xuyên qua Sinh thể con. Điều này không giúp con tăng trưởng tâm linh hơn việc cho phép mình bị hoàn toàn thu hút vào việc tìm cách thỏa mãn ham muốn giả của ngã tách biệt. Những người đem giáo lý đức Phật tới cùng cực và loại bỏ mọi hàm muốn đã quên điểu quan trọng nhất của giáo lý đức Phật, đó là Trung đạo. Trung đạo không có nghĩa là con loại bỏ mọi ham muốn nhưng có nghĩa con vươn lên trên các ham muốn giả đến từ ngã hữu diệt, con vươn lên trên tâm thức nhị nguyên đang kéo con đi xa khỏi Trung đạo. Khi con làm vậy thì con kết nối lại với các mong muốn thật của Sinh thể cao của con, là những mong muốn đã đem con tới trái đất lúc ban đầu. Các mong muốn này liên quan tới việc cống hiến con người mình, Ngọn lửa Thượng đế của mình. Chúng liên quan đến việc biểu lộ cá tính thiêng liêng của con và đem vương quốc Thượng đế xuống cõi này.

Một số ham muốn bắt nguồn từ ước mong của dòng sống muốn trải nghiệm một số điều kiện trên trái đất. Đây là những ham muốn mà ngã hữu diệt dễ tha hóa nhất. Đây là những ham muốn có thể trở thành ham muốn trần gian hay xác thịt, liên quan đến những thú vui của thân vật lý. Khi những ham muốn này trở nên vật lý và hướng về bản thân, thì chúng trở nên hố sâu không đáy không thể nào lấp đầy. Mỗi ham muốn thấp đó tương ứng với một ham muốn cao. Điểm khác biệt là mong muốn cao có thể được thỏa mãn một cách tối hậu khi cái Ta Biết không còn mong muốn trải nghiệm điều kiện này nữa trong vũ trụ vật chất. Lúc đó con mong muốn hơn nữa, do đó con mong muốn vươn lên trên vũ trụ vật chất thay vì ở lại trong đó mãi mãi. Con chỉ giản dị không còn thỏa mãn bởi ham muốn thấp và thay thế chúng bởi một mong muốn cao. Con không cố ý và dùng sức mạnh để đèn nén một ham muốn. Con tới điểm nhận ra chúng là một ham muốn giới hạn, con nhìn quá chúng để khám phá mong muốn thực, và mong muốn thực thay thế ham muốn giả một cách tự nhiên và không cố gắng.  

Một ham muốn khiến nhiều người tâm linh bối rối là ham muốn hợp nhất tình dục. Đa số con người trên trái đất tham gia vào tình dục vì một ham muốn giả xuất phát từ ngã hữu diệt. Ham muốn này không bao giờ có thể thỏa mãn. Bất kể họ có bao nhiêu tình dục thì họ vẫn không cảm thấy mãn nguyện. Đằng sau ham muốn thú vui vật lý là một ham muốn cao trải nghiệm trạng thái trọn vẹn khi hai dòng sống, với những thái cực ngược nhau, tới với nhau trong một kết hợp thực sự, tâm linh.

Mọi sự được sinh ra từ sự tương tác giữa lực lan tỏa của Cha và lực co thắt của Mẹ. Khi cả hai tới với nhau thì sự sống mới được sinh ra qua sự kết hợp và trọn vẹn của hai lực đó. Rất có thể một dòng sống có ước muốn trải nghiệm sự trọn vẹn đó trong cõi vật chất. Điều này phát xuất từ ham muốn thật muốn sự kết hợp lớn hơn, và ước muốn này có thể thỏa mãn. Con có thể tới điểm cảm thấy con đã trải nghiệm đủ hình thức kết hợp này, và bây giờ thì con ước muốn một cái gì vượt quá những gì có thể đạt được qua thân thể vật lý và các khả năng của nó. Con ước muốn một kết hợp tâm linh chỉ có thể tìm thấy bằng cách tìm ra một thái cực thực của Sinh thể của con, tức là thiết lập sự kết hợp giữa cái Ta Biết và Hiện diện TA LÀ như thái cực Cha-Mẹ thật của Sinh thể của con.

11.7. Cảm giác trọn vẹn đến từ ánh sáng Thượng đế chảy xuyên qua con

Quả đúng là con cần lấy một chọn lựa. Con phải chọn phục vụ Thượng đế hay phục vụ ma-môn, nghĩa là con phải chọn cho phép cả cuộc đời còn lại của mình bị nuốt trọn bởi cuộc tìm cầu bất khả thi lấp đầy ham muốn giả, là các ham muốn mà Giê-su gọi là ma-môn. Hay con quyết định phục vụ các mong muốn thực của Sinh thể cao của con và tìm cách thực hiện sứ vụ thiêng liêng của con bằng cách biểu lộ cá thể và khả năng sáng tạo mà Thượng đế đã phú cho con.

Mọi ham muốn giả phát xuất từ cảm nhận thiếu thốn, và các duy nhất để ra khỏi ham muốn giả là thăng vượt cảm nhận thiếu thốn. Làm sao con thăng vượt cảm nhận con không có đủ? Bằng cách cho phép bốn thể phàm của con được tràn đầy bởi ánh sáng Thượng đế sẽ đốt cháy mọi cảm nhận thiếu thốn và lấp đầy con với cảm nhận nuôi dưỡng tối hậu. Con phải theo tiến trình mà thày đã mô tả và bắt đầu bằng cách vươn lên thể bản sắc, kết nối lại với bản sắc thật của con. Khi con biết con là ai, tức là Sinh thể tâm linh có khả năng nhận được sự dồi dào vô biên của ánh sáng Thượng đế, thì con có thể thực sự khắc phục cảm nhận thiếu thốn xuất phát từ ý niệm hữu diệt con tách biệt khỏi sự dồi dào của Thượng đế. Con có thể đem ánh sáng Thượng đế chảy xuyên qua thể bản sắc của con, vào thể tư tưởng và sau đó xuống thể cảm xúc của con. Khi con đem ánh sáng Thượng đế xuống thể cảm xúc của con thì con tạo ra cảm giác được nuôi dưỡng. Điều này gây ra cảm nhận trọn vẹn, và như thày có nói ở trên, ước muốn trọn vẹn ở đằng sau cả ham muốn giả lẫn mong muốn thật. Khi con có cảm nhận trọn vẹn thì con thăng vượt ham muốn giả vì con không còn cảm thấy thiếu thốn. Con không còn cảm thấy thiếu thốn nhưng cảm thấy được nuôi dưỡng một cách tối hậu. Con nhận ra con không cần gì bên ngoài chính mình để thỏa mãn các mong muốn thật của mình.

Bản chất của ham muốn giả là con cảm thấy không trọn vẹn và nghĩ mình cần một cái gì bên ngoài để đạt trọn vẹn. Điều này khiến con mở cửa để ngã hữu diệt, ông hoàng thế gian và người khác bước vào và kiểm soát con. Họ có thể kiểm soát con vì con nghĩ con cần cái gì bên ngoài mình để đạt được trọn vẹn, để cảm thấy được nuôi dưỡng. Khi con kết nối lại với bản sắc thật của con và mở cửa để dòng ánh sáng Thượng đế tuôn chảy qua con, thì con nhận ra con không cần điều gì bên ngoài chính mình để được trọn vẹn. Chính dòng chảy của ánh sáng Thượng đế xuyên qua con người con cho con cảm giác trọn vẹn thật và tối hậu. Khi trạng thái trọn vẹn này cai quản thể cảm xúc của con, thì con không còn ham muốn nhận được điều gì từ người khác. Con có ham muốn thật sự cho người khác, chia sẻ với người khác.

Từ đó nảy sinh tình huống tuyệt đẹp khi mọi người nhận ra sự thực đằng sau một trong những lời dạy thâm sâu nhất của Giê-su: “Con đã nhận vô điều kiện, hãy cho vô điều kiện” (Matthew 10:8). Khi con hiểu thực tại của cuộc sống, tức là Thượng đế là nguồn gốc của mọi thứ tốt và toàn hảo và đức Cha hoan hỷ cho con vương quốc, thì con sẽ cảm thấy trọn vẹn nội tâm. Xuyên qua cảm giác được nuôi dưỡng, con sẽ khắc phục nỗi sợ cho người khác. Khi đa số con người trong một xã hội cho vô điều kiện những gì họ đã nhận vô điều kiện từ Thượng đế, thì nỗ lực tổng hợp của họ sẽ đem lại nhiều dồi dào hơn là mỗi người có thể riêng mình đem lại. Điều này được miêu tả qua câu ngạn ngữ tổng thể hơn các thành phần cộng lại, và đây quả thật là đời sống dồi dào trên trái đất. Đời sống dồi dào trên trái đất sẽ đến khi con người bắt đầu cho vô điều kiện ở dưới này những gì họ nhận được vô điều kiện từ bên Trên.

Con hãy nhìn trái đất hiện nay và nhận thấy là hầu hết mọi khía cạnh của xã hội và hầu hết mọi tương tác giữa con người đều dựa trên ý niệm thiếu thốn, thiếu nuôi dưỡng. Điều này khiến con người kiềm giữ không chịu cho và giữ chặt những gì họ có. Điều này khiến nhiều người đặt hết chú tâm vào việc nhận thay vì cho. Nếu không ai cho, thì làm sao có người được nhận? Những người bị mắc kẹt trong ham muốn giả, ham muốn ích kỷ chỉ nghĩ tới mình, không thể thấy sự thật hiển nhiên này. Đó là lý do vì sao cả một xã hội, quả thực là cả hành tinh, có thể đi xuống một vòng xoáy tiêu cực trong đó tất cả đều cảm thấy thiếu thốn, tất cả có ham muốn dựa trên thiếu thốn và tất cả tìm cách lấy thay vì cho.

Một trong những lý do chính đang ngăn cản sự biểu hiện của vương quốc Thượng đế trên trái đất là có quá nhiều người bị mắc kẹt trong ham muốn kiểm soát. Họ cảm thấy thiếu thốn và họ nghĩ người khác đang âm mưu lấy những gì họ có. Họ nghĩ họ chỉ có được dồi dào bằng cách lấy bằng vũ lực. Để lấy được cái họ muốn và tránh mất đi cái họ có, họ nghĩ họ cần phải kiểm soát người khác và hoàn cảnh vật lý của họ.

Nhiều người trong số các người quyền uy nhất thế giới bị hoàn toàn nuốt trọn bởi ham muốn kiểm soát mọi người và mọi thứ. Con có thể thấy trong lịch sử những người đã đạt được vị thế uy quyền cao, theo nghĩa uy quyền giả dựa trên khả năng kiểm soát người khác. Họ không thể tránh bánh xe thời gian xay thành bụi mọi quyền kiểm soát mà họ đạt được. Không người nào trong số đó có thể kiểm soát vận mạng của họ, và rốt cuộc những tháp Babel mà họ dựng lên qua sự kiểm soát sẽ sụp đổ và trở về với cát bụi từ đó chúng sinh ra. Những gì phát xuất từ ngã hữu diệt đến từ cát bụi của trái đất, và chúng sẽ trở về với cát bụi thay vì được tái sinh vào sự sống bất diệt của tâm thức Ki-tô.

11.8. Trực tiếp trải nghiệm Thượng đế

Một trong những vũ khí chính của ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian là lợi dụng tính hay thay đổi của cảm xúc để cài vào bản thể con một chút nghi ngờ. Rắn đã cám dỗ Eve trong Vườn Đia đàng bằng cách đưa vào tâm Eve một chút nghi ngờ. Tác dụng là con nghi ngờ Thượng đế. Con nghi ngờ là Thượng đế sẽ thưởng con nếu con nhân lên các khả năng của mình. Con nghi ngờ là con sẽ nhận được thêm nữa nếu con cho vô điều kiện. Con nghi ngờ bản chất của mối quan hệ giữa con và Thượng đế, là nếu con trung thành khi làm một số việc thì Thượng đế sẽ cho con cai quản nhiều việc. Con nghi ngờ là Thượng đế hoan hỷ cho con vương quốc của ngài.

Đây chính là bản chất vì sao con không nhận được sự dồi dào của Thượng đế. Nó ngăn chặn con hành xử như người đồng-sáng tạo mà con được tạo ra để là. Khi con nghi ngờ Thượng đế sẵn lòng cho con sự dồi dào hay nghi ngờ các luật của Thượng đế thật sự sẽ nhân lên những gì con cho, thì con phá hoại tiến trình qua đó sự dồi dào Thượng đế đi xuống qua bốn tầng của vũ trụ vật chất. Con đã khóa mình khỏi dòng chảy của Dòng sông sự Sống. Thay vì ở trong Dòng sông sự Sống lúc nào cũng đem thêm dồi dào vào cõi vật chất, thì con khóa mình khỏi dòng chảy đó. Đó là lý do vì sao con trở thành một lời tiên tri tự ứng nghiệm. Chính sự nghi ngờ luật Thượng đế và sự nghi ngờ tiến trình thị hiện sẽ trải bày trong cõi vật chất. Tâm thức nghi ngờ và thiếu thốn sẽ được tấm gương vũ trụ phản chiếu lại con. Khi con còn ở trong ảo tưởng đó, khi con còn cho phép mình bị ngự trị bởi các nghi ngờ do ông hoàng thế gian gài vào, thì tấm gương sẽ có vẻ như xác nhận niềm tin của con là Thượng đế là một ông chủ bất công đang gặt nơi mà ông không gieo (Matthew 25:24).

Thượng đế là Thượng đế của tình thương vô điều kiện, và đó là lý do vì sao ngài đã ban cho con quyền tự quyết. Con có khả năng đứng ra ngoài Dòng sông sự Sống, là dòng chảy của sự nuôi dưỡng của Thượng đế. Thượng đế cho phép con làm chuyện này, nhưng bất cứ lúc nào Thượng đế cũng sẵn sàng đón con trở về vương quốc của ngài – nếu con sẵn lòng buông lỏ mối nghi ngờ đã khiến con rời vương quốc lúc ban đầu. Làm sao con khắc phục nghi ngờ? Chỉ có một cách duy nhất. Con phải trước tiên kết nối lại với bản sắc thật của con để con biết với cái biết tuyệt đối, nội tại là con hơn tên tội đồ khốn khổ, hơn con người phàm hữu diệt tách biệt khỏi Thượng đế bởi một vực sâu không thể vượt qua. Làm sao con biết được điều này? Con chỉ có thể biết bằng trải nghiệm trực tiếp.

Hai điều răn đầu nói là con không được có thần linh nào trước Thượng đế chân chính và con không được mang vào mình mọi hình tượng khô chết. Bản chất của tâm thức nhị nguyên là con thấy mình tách biệt khỏi Thượng đế. Điều này có nghĩa là con không còn trải nghiệm trực tiếp Hiện diện của Thượng đế, và do đó con không trải nghiệm thực tại của Thượng đế. Đó là lý do vì sao Thượng đế trở thành một đề tài mà tâm nhị nguyên, ngã hữu diệt có thể thảo luận. Khi con trực tiếp trải nghiệm một cái gì thì đâu còn gì để nghi ngờ? Khi trải nghiệm trực tiếp vắng mặt thì Thượng đế trở thành một khái niệm lý thuyết mà thực tại có thể được trí năng con người và tâm nhị nguyên thảo luận không bao giờ dứt. Tâm nhị nguyên không bao giờ có thể giải đáp câu hỏi về sự hiện hữu của Thượng đế, vì làm sao một tâm phát xuất từ sự  tách biệt với Thượng đế lại có thể có trải nghiệm trực tiếp Bản thể Thượng đế?

Con hãy tưởng tượng đang ngồi trong nhà và có ai nói chuyện về Nam cực và cảnh vật ở đó ra sao. Lẽ tất nhiên, con không đang ở Nam cực và không thể trải nghiệm trực tiếp tình cảnh tại đó. Con có thể dùng lời mô tả, thậm chí các hình ảnh, để xây dựng một hình tư tưởng về tình cảnh ở Nam cực ra sao. Hình tư tưởng của con có thể chính xác và có nhiều chi tiết, nhưng nó không bao giờ có thể hay sẽ là một thay thế của trải nghiệm trực tiếp. Con sẽ không bao giờ thực sự biết ở Nam cực ra sao nếu con không ở tại đó và trải nghiệm với tất cả mọi yếu tố của bản thể của con, tức là hơn các giác quan vật lý của con. Chỉ khi con thật sự ở đó thì con mới biết con cảm thấy gì khi con ở nơi đó. Bản chất của tâm thức nhị nguyên là con đã tách mình ra khỏi trải nghiệm trực tiếp của bản thể Thượng đế. Con không còn trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con như là Hiện diện của Thượng đế trong quả cầu cái ta của con. Đây là điều đưa đến ý niệm Thượng đế là một Sinh thể xa cách, một sinh thể bên ngoài trên trời.

Bây giờ thì con cảm nhận con tách biệt khỏi Thượng đế, và những người có khuynh hướng tâm linh hơn trên trái đất thì có ước muốn được biết Thượng đế, biết Thượng đế như thế nào. Một lần nữa, ta có ham muốn giả và ham muốn thật. Ham muốn giả dựa trên thiếu thốn, và nguyên do của thiếu thốn là gì? Bản chất của thiếu thốn là sợ hãi. Con nghĩ: “Tôi không có cái này, và vì tôi không có nó, một cái gì tại hại có thể xảy ra cho tôi. Nếu tôi không có được cái tôi nghĩ tôi cần thì chuyện tại hại nhất sẽ xảy ra. Tôi không biết tôi cần biết gì về Thượng đế và sự cứu rỗi, nhưng nếu tôi không có hiểu biết này, thì linh hồn tôi sẽ bị đốt cháy mãi mãi trong đia ngục.” Cảm nghĩ này đã đưa đến mọi tôn giáo dựa trên sợ hãi trên hành tinh này. Một tôn giáo dựa trên sợ hãi là một con đường có vẻ đúng cho người thế tục, nhưng nó dẫn tới cái chết.

Ham muốn giả nào tạo động lực cho các tôn giáo dựa trên sợ hãi? Ở tầng thấp, đó là ý niệm con có thể mặc cả với Thượng đế, con có thể mua vé vào thiên đàng, Nếu con làm các việc đúng thì con sẽ hài lòng Thượng đế và ngài sẽ cho con vào vương quốc của ngài. Thày đã giải thích ở phần trên vì sao đây là một ước mơ không thể thực hiện được, và thày sẽ không giải thích lại ở đây. Ở các tầng cao của các ham muốn dựa trên sợ hãi là ước muốn được biết Thượng đế. Đây vẫn là một ham muốn vị kỷ dựa trên nỗi sợ chuyện gì sẽ xảy ra cho mình nếu mình không biết điều mình cần biết về Thượng đế. Nhiều tín đồ tôn giáo chân thành đã bỏ ra cả đời tìm cách thỏa mãn ước muốn biết Thượng đế và biết tất cả mọi chuyện về Thượng đế qua một tôn giáo vỏ ngoài. Khi con biết một cái gì thì hàm ý có khoảng cách giữa con và cái con đang tìm hiểu. Nếu đối tượng ở ngay đây, con có thể giản dị trải nghiệm mà không “biết” nó.  

Khi con tìm cách biết một cái gì mà con nghĩ con không thể trải nghiệm trực tiếp, thì con đang xây dựng một hình tư tưởng về nó. Nếu hình tư tưởng đó bị tâm thức nhị nguyên ảnh hưởng, thì nó sẽ là một hình ảnh giả, một hình tượng khô chết. Nếu con tìm cách biết một Thượng đế xa cách, thì động lực của con là tầm nhìn nhị nguyên và điều này sẽ ngăn cản con trải nghiệm trực tiếp Thượng đế. Con có thể xây dựng một hình tư tưởng là con biết tất cả những gì có thể biết về Thượng đế – như các người Pha-ri-si năm xưa – nhưng cái biết vỏ ngoài của con về Thượng đế ngăn con có được trải nghiệm nội tại, trực tiếp của Hiện diện của Thượng đế. Hiểu biết vỏ ngoài của con quả thật có thể ngăn con bước vào vương quốc Thượng đế bên trong con, và đó là lý do vì sao Thượng đế dạy con đừng tạo bất cứ hình tượng khô chết nào.

Khái niệm hiểu biết và ước muốn hiểu Thượng đế xa cách có thể trở nên một cạm bẫy có thể củng cố cảm nhận xa cách khỏi Thượng đế. Thày không nói tìm cách hiểu Thượng đế là sai, vì ở một tầng nào đó của con đường tâm linh, con cần mở rộng hiểu biết về Thượng đế. Nhưng ước muốn biết Thượng đế có thể dễ dàng trở thành một ngõ cụt có thể chặn đứng tiến bộ của con. Đa số người tâm linh không nhận ra điều này, và do đó rất nhiều tín đồ tôn giáo bị mắc kẹt trong cạm bẫy vi tế của kiêu mạn tâm linh. Họ cảm thấy họ biết quá nhiều về Thượng đế, về tôn giáo của họ, và họ đã làm tất cả những hành động vỏ ngoài mà tôn giáo của họ ấn định, nên họ cảm thấy họ cao hơn những người khác và Thượng đế giản dị phải chấp nhận họ vào vương quốc của ngài. Như Giê-su có nói, vương quốc Thượng đế ở trong con, do đó con sẽ không bước vào vương quốc Thượng đế bằng cách giản dị biết về Thượng đế và một giáo điều tôn giáo. Không có hiểu biết vỏ ngoài nào, dù nhiều tới đâu chăng nữa, có thể đưa con vào vương quốc Thượng đế. Con không thể vào vương quốc Thượng đế bằng hiểu biết, con chỉ có thể vào bằng cách ở đó. Cảm nhận ở đó chỉ có thể đạt được bằng cách vượt quá hiểu biết về Thượng đế xa cách và thực sự trải nghiệm Thượng đế như cái Tất cả và ở trong tất cả – kể cả trong con.

Chìa khóa là biết sẽ có một điểm trên con đường tu khi điều tuyệt đối cốt yếu là con chuyển hóa ham muốn dựạ trên sợ hãi muốn biết một thượng đế xa cách thành ham muốn dựa trên tình thương muốn là một với Thượng đế bên trong. Nếu con không làm việc này, thì con sẽ bị mắc kẹt vào con đường mà người trần thế thấy có vẻ đúng, và đây chính là điều xảy ra cho các thày thông giáo và các Pha-ri-si không nhận ra Ki-tô nơi Giê-su.  Như Giê-su có nói: “Nếu sự công chính của con không hơn sự công chính của các thày thông giáo và Pha-ri-si, thì con sẽ không thể nào bước vào vương quốc thiên đàng” (Mathew 5:20). Phải chăng chuyện hiển nhiên là để bước vào vương quốc Thượng đế, con cần khắc phục cảm nhận đứng bên ngoài vượng quốc? Cách duy nhất để biết Thượng đế là Thượng đế.

Thày không nói câu này với ý định phỉ báng Thượng đế, với ý niệm cuồng điên, tự đại cho rằng mình hơn bất cứ ai khác và có thể làm bất cứ gì mình muốn. Thày nói câu này với ý nghĩa thật là con nhận ra con là một cá nhân hóa của Thượng đế và cái Ta Biết phát xuất từ Sinh thể lớn hơn, Hiện diện, của Thượng đế. Cái Ta Biết có khả năng trải nghiệm Bản thể của Thượng đế, Hiện diện của Thượng đế. Cái Ta Biết có thể trải nghiệm Bản thể Thượng đế bằng cách tự đồng hóa với Bản thể Thượng đế. Đây không phải là cái biết lý thuyết dựa trên một hình tư tưởng về Thượng đế. Đây là một trải nghiệm trực tiếp Bản thể Thượng đế. Trải nghiệm này vượt quá ngôn từ và hình ảnh có thể được quy định trong thế giới hình tướng. Đó là lý do vì sao không tôn giáo vỏ ngoài nào có thể mô tả trải nghiệm này và đó là lý do vì sao không tôn giáo nào có thể cung cấp một mô tả hay hình ảnh chính xác về Thượng đế. Hình thái cao của tôn giáo không tìm cách giúp con người biết Thượng đế. Hình thái thật của tôn giáo, tôn giáo nội tâm phổ quát, tìm cách giúp con người trải nghiệm Hiện diện của Thượng đế. Khi con trải nghiệm Hiện diện đó thì con biết con là ai. Con biết, bằng trải nghiệm trực tiếp, là con là một nối dài của Thượng đế vì con đã trải nghiệm sự kết nối trực tiếp giữa dòng sống của con và Thượng đế.

Con hãy trở lại hình ảnh của thày về Nam cực. Con có thể nhắm mắt và nghĩ rất mạnh về Nam cực. Thực là con có thể tạo cho mình cảm tưởng là mình đang trên Nam Cực. Nhưng làm vậy có đem con tới Nam cực chăng? Làm vậy có thể cho con ảo tưởng là con đang ở Nam cực, nhưng nếu con chưa tới đó, thì đó vẫn chỉ là một hình ảnh. Bất kể con có bao nhiêu hiểu biết về Thượng đế, con vẫn bị mắc kẹt trong hình tư tưởng mô tả Thượng đế như một Sinh thể xa cách. Chỉ khi con thăng vượt hình tư tưởng và trải nghiệm Hiện diện của Thượng đế, qua đó con trải nghiệm con là một nối dài của Bản thể Thượng đế, thì con mới có cái biết nội tại thật mình là ai. Khi con có cái biết đó, nó sẽ thấm xuống thể bản sắc, thể tư tưởng và thể cảm xúc của con. Điều này sẽ khai trừ nghi ngờ khỏi con người con vì con lúc đó biết – bằng trải nghiệm trực tiếp – và con không còn có hình tư tưởng mà ông hoàng thế gian và ngã hữu diệt có thể khuynh loát với tất cả sự vi tế và tinh xảo của tâm nhị nguyên. Đây là cách duy nhất để hoàn toàn khắc phục nghi ngờ. Đây là cách duy nhất để tối hậu làm chủ bốn thể phàm để ý niệm bản sắc, tư tưởng, cảm xúc và hành động của con trở nên một biểu hiện của con người mà con là và một biểu hiện của ham muốn thật đã đem dòng sống của con xuống vũ trụ vật chất và qua đó tạo ra bốn thể phàm của con.

Con yêu dấu, con thực sự là ai? Con được thiết kế để là một nối dài của Bản thể Thượng đế. Con đuợc thiết kế là người biến hóa ánh sáng Thượng đế, hạ độ rung của nó và mang nó vào cõi vật chất. Con được thiết kế để là một mặt trời tâm linh tỏa rạng ánh sáng của Ngọn lửa Thượng đế đặc trưng của con và qua đó biểu hiện những đặc tính đó qua bất cứ những gì con gặp trong vũ trụ vật chất. Đó là lý do vì sao Thượng đế bảo con nhân lên các khả năng của mình, nhân lên cá thể của mình, nhân lên ánh sáng của mình và cai quản trái đất. Con không đến đây để làm khán giả thụ động trong màn kịch của cuộc sống. Con không ở đây để ngồi ngoài rìa và nhìn những người bị ông hoàng thế gian kiểm soát và chiếm hữu chơi trò chơi điên cuồng không bao giờ dứt mưu tìm quyền lực và kiểm soát. Con không ở đây để nhìn trái đất này tụt xuống vòng xoáy hướng hạ sẽ rốt cuộc dẫn đến sự diệt vong của nhân loại và thậm chí có thể hủy hoại hành tinh. Con ở đây để thấm đẫm mọi sự con gặp với ánh sáng tâm linh. Con ở đây để tâm linh hóa mọi khía cạnh của cuộc đời con. Con ở đây để ban phước lành cho mọi sự mà con gặp và qua đó nâng chúng lên tiềm năng cao nhất của chúng. Con ở đây để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật khỏi những hình ảnh bất toàn đã được áp chồng lên nó bởi các ngã hữu diệt của con người trên trái đất và ông hoàng thế gian. Con ở đây để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật để nó trải bày sự toàn hảo của Thượng đế để đời sống dồi dào được thể hiện trên trái đất.

Làm sao con hoàn thành tiềm năng cao nhất của con? Bằng cách là con người mà con là, bằng cách vượt qua khoảng cách giữa con người mà con nghĩ con là và con người mà con thực sự là. Con hãy xem xét trở lại sự khác biệt giữa có một hình ảnh của Thượng đế và trải nghiệm Hiện diện của Thượng đế. Thượng đế không đứng im một chỗ, Thượng đế là Dòng sông sự Sống đang luôn luôn thăng vượt chính nó và trở nên hơn nữa. Nếu con giữ chặt một hình tư tưởng về Thượng đế, và nếu con không chịu vượt quá hình ảnh đó, thì con đã tạo ra một hình tượng khô chết, một hình ảnh không thay đổi. Con chỉ có thể biết Thượng đế bằng cách ở trong Dòng sông sự Sống, bằng cách xuôi chảy theo dòng nước không bao giờ ngưng chảy của sự dồi dào của Thượng đế. Để xuôi chảy theo dòng chảy của sự sống đó, con phải khắc phục các ham muốn giả muốn con ngưng kim đồng hồ, giữ chặt những gì con nghĩ con sở hữu. Con phải sẵn sàng mất đi ý niệm giới hạn về cuộc sống để ở trong sự sống bất diệt là dòng chảy vĩnh cửu của sự trở nên hơn nữa.

11.9. Biết ơn như bước chặng giữa

Chìa khóa chủ để cai quản thể cảm xúc là lấy thái độ coi mọi hoàn cảnh mà con gặp như một cơ hội để biểu lộ ánh sáng của Bản thể thật của con, ánh sáng của Ngọn lửa Thượng đế của con, qua đó con phóng đại mọi hoàn cảnh mà con gặp. Con ở đây để thấm đẫm mọi hoàn cảnh mà con gặp với ánh sáng để dù hoàn cảnh có vẻ bất toàn và đen tối tới đâu, nó vẫn được nâng lên một tầng cao hơn bởi sự có mặt của con. Chìa khóa để ánh sáng đó tuôn chảy là gì? Tối hậu, chìa khóa là giành lại bản sắc thật của con như thày có giảng ở trên. Thày biết đây có vẻ là một mục đích xa vời trong tình trạng hiện nay của con, nên thày sẽ cho con một chìa khóa là một bước chặng giữa có thể có hiệu quả tuyệt diệu trong việc mở cửa cho ánh sáng Thượng đế tuôn chảy qua con người con. Chìa khóa này có thể tóm gọn bằng hai chữ, và hai chữ này là “biết ơn”.

Khi con cảm thấy biết ơn Thượng đế đã sinh tạo ra con và đã cho con cơ hội xuống vũ trụ vật chất như một nối dài của chính ngài, con có thể khóa chặt mình vào con đường dẫn con vượt lên trên mọi nghi ngờ. Thày biết là thày đã đặt cho con một mục đích cao khi thày nói con cần đạt được trải nghiệm nội tại con là một nối dài của Thượng đế. Con có thể chưa hoàn toàn sẵn sàng để có trải nghiệm này, và nếu con bắt đầu bằng chiêm nghiệm và nuôi dưỡng một “thái độ biết ơn” thì con sẽ bước đi một bước quan trọng về hướng đạt được cái biết nội tại sẽ tiêu trừ mọi nghi ngờ.

Biết ơn là một cảm giác mà con có thể nuôi dưỡng ngay cả khi con vẫn còn đôi chút ý niệm thiếu thốn và nghi ngờ. Thày có nói về những người cảm thấy như họ không có chọn lựa nào khác. Họ không có chọn lựa nào khác vì họ bị mù quáng bởi lập trình của ngã hữu diệt. Con cần phải tách cái Ta Biết khỏi lập trình đó. Khi con làm vậy thì con nhận ra là con lúc nào cũng có hơn một chọn lựa khi phản ứng trước một hoàn cảnh. Bất kể hoàn cảnh nào con gặp, bất kể nó có vẻ khó khăn đến đâu, con lúc nào cũng có một cái gì mà con có thể biết ơn. Nếu con sẵn sàng nuôi dưỡng một cách có ý thức thói quen lúc nào cũng tìm một lý do để biết ơn, thì con sẽ bước một bước rất quan trọng về hướng thu hút nhiều dồi dào hơn.

Biết ơn là gì? Biết ơn là khía cạnh thấp hơn của cái biết nội tại mà thày đã đề cập tới trong bài này. Biết ơn là lòng sẵn sàng tin tưởng là khi con cho vô điều kiện thì con sẽ nhận được nhiều hơn, cho dù ngay bây giờ con không có chứng cớ vỏ ngoài nào là chuyện này sẽ xảy ra. Biết ơn là biết Thượng đế không bỏ rơi con, Thượng đế ở đây với con và Thượng đế đã cho con những gì con cần để thăng vượt hoàn cảnh hiện tại và bước lên bực kế tiếp của cầu thang xoáy ốc. Con có thể không có tất cả những gì con muốn, nhưng con có những gì con cần để đi bước kế tiếp, và vì thế con có lý do để biết ơn. Biết ơn là cảm giác con có những gì con cần để bước lên cao hơn, và khi con tận dụng những gì con có thì Thượng đế chắc chắn sẽ cho con nhiều hơn. Đây là điều mà Giê-su hứa trong câu chuyện ẩn dụ về các tiền ta-lăng, cũng là khả năng, và đây là một lời hứa chân chính.

Vì vũ trụ là tấm gương nên những người chôn tài năng xuống đất quả thực đang nói: “Thượng đế, con thiếu thốn dồi dào của ngài và do đó con không có lý do gì để biết ơn. Nếu ngài muốn con ngưng cảm thấy không biết ơn, thì ngài hãy cho con sự dồi dào và khi đó con sẽ tự động cảm thấy biết ơn.” Cách hành xử này sẽ không bao giờ thành công và nó là kết quả của một lập trình của ông hoàng thế gian. Nó dựa trên ảo tưởng cho rằng cảm giác là kết quả của điều kiện bên ngoài. Như thày đã cố giảng bằng nhiều cách, cảm xúc do tư tưởng điều khiển, và tư tưởng do ý niệm bản ngã điều khiển. Khi con nhận trách nhiệm về cuộc đời mình, con nhận ra là con chịu trách nhiệm về cảm xúc của mình và con không thể dùng điều kiện bên ngoài như cái cớ để cho phép mình có cảm xúc bất toàn. Mọi sự được thể hiện sau khi tuôn chảy qua bốn tầng của vũ trụ vật chất. Cõi cảm xúc ở trên cõi vật lý, có nghĩa là cảm xúc phải có trước biểu hiện vật lý. Nếu con đợi Thượng đế cho con đồi dào trước khi con cảm thấy biết ơn, thì con sẽ không bao giờ có thể đem sự dồi dào đó vào cõi vật lý. Con giống như người chờ đợi hình của mình trong gương cười trước khi mình cười. Chính cảm giác biết ơn – dựa trên cái biết nội tại là Đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc – là cỗ xe đem dồi dào vào cõi vật chất. Chỉ khi nào con cảm thấy biết ơn những gì con đang có thì Thượng đế mới có thể cho con hơn nữa.

Chờ đợi Thượng đế cho con dồi dào trước khi con cảm thấy biết ơn là chờ đợi Thượng đế vi phạm luật tự quyết của chính ngài. Thượng đế đã cho tất cả mọi người quyền tự quyết, và lý do một số người cảm thấy thiếu thốn và không biết ơn là vì họ đã sử dụng quyền tự quyết để cho đi quyền tự quyết, cho phép ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian làm chủ cuộc đời của họ. Chính vì họ đã cho đi quyền làm chủ cuộc đời mà họ bị khuynh loát để cảm thấy thiếu thốn. Bây giờ thì họ nói với Thượng đế là họ muốn Thượng đế giải quyết cảm giác thiếu thốn của họ, và họ chính yếu nói là họ muốn Thượng đế làm chủ quyền tự quyết của họ thay ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian. Đây là áp đặt một hình ảnh giả lên Thượng đế, một hình ảnh dựa trên tâm thức nhị nguyên, hình ảnh một Thượng đế muốn kiểm soát họ và Thượng đế giống như ông hoàng thế gian. Thày coi hình ảnh nhị nguyên đó về Thượng đế là sự thóa mạ Thượng đế theo đúng nghĩa của nó.

Có nhiều người theo tôn giáo hay tâm linh chân thành muốn làm điều đúng, như tôn giáo vỏ ngoài của họ đã dạy. Điều những người đó thực sự nói là họ muốn Thượng đế làm chủ quyền tự quyết của họ, họ muốn Thượng đế lấy lại món quà mà ngài đã cho họ. Họ đã hiểu lầm hoàn toàn lý do vì sao Thượng đế đã ban cho họ quyền tự quyết lúc ban đầu. Thượng đế không muốn tạo con như một người máy rô bốt, Thượng đế không muốn kiểm soát con. Thượng đế muốn con tăng triển bằng cách tự con chọn lựa, và do đó Thượng đế sẽ không bao giờ kiểm soát quyền tự quyết của con. Thượng đế sẽ không bao giớ tước đi quyền tự quyết của con. Nếu con muốn cải thiện hoàn cảnh của mình, con phải giành lại quyền chọn lựa. Con phải ngưng chạy trốn không chịu chọn lựa, thậm chí con không dùng một tôn giáo vỏ ngoài để biện minh cho việc con không cai quản bốn thể phàm của mình. Con phải nhận lãnh trách nhiệm và chấp nhận sự kiện hoàn cảnh bên ngoài của con sẽ chỉ cải thiện khi con dùng ý chí cao và viễn quan của sứ vụ thiêng liêng để tạo ra cảm xúc tích cực sẽ trở thành cỗ xe đem sự dồi dào của Thượng đế tuôn chảy xuống cõi vất chất.

Cách để bắt đầu tiến trình đó là biết ơn mình đang sống, mình có tự nhận biết, mình có cơ hội chọn lựa. Thay vì cảm thấy con phải lấy các chọn lựa đó một mình, thì con có thể nhận ra Thượng đế đã gửi cho con một đấng an ủi. Con có cái ta Ki-tô là vị thày nội tâm của con. Con có các sinh thể tâm linh trên cõi cao đang phụng sự như các vị thày của riêng con. Các vị này lúc nào cũng sẵn sàng hướng dẫn để con lấy chọn lựa tốt hơn, nhưng họ sẽ không chọn lựa thay con. Con phải sẵn sằng tự giúp mình. Con phải sẵn sàng khắc phục cảm giác thiếu thốn, cảm giác sợ hãi, cảm giác thiếu hụt, cảm giác bất công, cảm giác không biết ơn. Con phải sẵn sàng dùng uy lực ý chí để tìm ra một điều mà con có thể biết ơn. Sau đó con xây dựng trên điều đó bằng cách xin các vị thày tâm linh cho con hướng dẫn nội tâm để con có thể lấy quyết đinh tốt hơn, và điều này sẽ cho con nhiều thứ để biết ơn hơn.  

Như các nhà tiên tri cổ xưa có nói: “Con hãy chọn ngay hôm nay con phục vụ ai” (Joshua 24:15). Hãy chọn phục vụ sự sống hay cái chết. “Hãy chọn sự sống!” (Deuteronomy 30:19). Con hãy chọn tự mình chọn lựa. Các thày, là các thày tâm linh của con, thương yêu con vô điều kiện, và các thày sẽ làm tất cả mọi chuyện có thể làm để giúp con lấy quyết định tốt nhất. Nhưng các thày không thểkhông muốn chọn lựa thay con, và các thày cũng không thể tạo ra một cảm giác trong thể cảm xúc của con. Con là người phải cầm tay lái và cai quản đứa con ngỗ nghịch là các cảm xúc của con. Nếu con thanh tẩy trước các thể bản sắc và tư tưởng, thì con sẽ có sức mạnh ý chí và viễn quan cần thiết để chế ngự con thú dữ, đâm chết con rồng của cảm xúc không chế ngự.

Tới đây  thì chúng ta tới điểm có thể đi bước cuối cùng và thảo luận chuyện gì cần xảy ra ở tầng tâm vật lý, tâm ý thức, ở tầng hành động. Suốt mấy ngàn năm, những người tâm linh có khuynh hướng rút lui khỏi trần thế, tách mình ra khỏi sinh hoạt thế gian. Đã đến lúc vượt lên trên lề lối này. Đã đến lúc chúng ta nhận ra người tâm linh không ở đây để rút lui khỏi trần thế mà là để cai quản thế gian và tâm lính hóa tất cả mọi chuyện.

22 | Con thỉnh cầu tâm thức hành động

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con phân biện giữa phản ứng xuất phát từ ngã tách biệt, và hành động xuất phát từ nguồn sáng tạo của Hiện diện TA LÀ. Xin thày giúp con thăng vượt tâm thức phản ứng và bước vào tâm thức hành động, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy tại sao con đã quyết định đi vào tâm thức nhị nguyên. Đó là vì con đã không sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về bản thân.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy thế nào là nhận trách nhiệm về bản thân. Đó là con sẵn sàng nhìn nhận một sự thật nền tảng cho việc tăng triển tâm linh. Sự thật này khiến cho các chân sư thăng thiên có thể làm việc với con trên một căn bản cá nhân, thay vì con ở lại trong Trường đời Cay đắng hay trường học của giáo lý công truyền.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm sự thật đó: Mọi thứ trong thế giới hình tướng đều là một biểu hiện của tâm thức, một tạo vật của tâm thức. Không có gì trong thế giới hình tướng, dù trong vũ trụ vật chất hay cõi tâm linh, có sự hiện hữu độc lập hay khách quan.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là không có gì đã đi vào hiện hữu mà không được sinh tạo bởi một sinh thể đồng-sáng tạo tự nhận biết. Sinh thể này – có thể là chính con – hình dung ra một hình tư tưởng, rồi dùng khả năng đồng-sáng tạo của mình để áp chồng nó lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và ánh sáng này khoác vào hình dạng đó.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là khi con không nhận trách nhiệm về bản thân, con phải phóng chiếu là moi thứ đều trường tồn và hiện hữu độc lập, cho nên mọi thay đổi trong cuộc sống phải đến từ một tiến trình bên ngoài mà con không thể kiểm soát.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là tuyệt đối không có gì trong thế giới của con mà con không thể gia tốc lên một tầng cao hơn bằng cách gia tốc chính tâm thức của con.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là mặc dù mọi sự có vẻ tùy thuộc vào những định luật tự nhiên bất di bất dịch hay những chọn lựa tự quyết của người khác, con vẫn có quyền năng thay đổi một điều – là thay đổi cách phản ứng của con.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, nay con thấy rõ đường tu tâm linh khởi sự khi con tự hỏi: “Làm thế nào tôi có thể gia tốc phản ứng của mình để không bị hoàn cảnh, hành động hay lời nói của người khác buộc tôi phải phản ứng tiêu cực? Làm thế nào gia tốc, vượt ra khỏi khuôn nếp phản ứng cũ?”

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm vũ trụ là một tấm gương. Những gì khiến con phản ứng không phải là tình huống bên ngoài độc lập với trạng thái tâm thức của con, mà là sự phản ứng của vũ trụ đối với những hình ảnh con đã gửi ra.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm chuỗi sự kiện bên ngoài đó đã bắt đầu với một hành động của con, tức là những hình tư tưởng mà con cho phép hiện hữu nơi thể bản sắc của con.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm luật nhân quả, luật của hành động và phản ứng, Phản ứng luôn đi theo sau hành động.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, xin thày giúp con là một học trò đích thực của chân sư thăng thiên bằng cách ngộ ra một điều: Một khi con nhận trọn vẹn trách nhiệm về bản thân, thì con không bao giờ phản ứng lại bất cứ gì!

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, con nhận ra là Thượng đế đã ban cho con quyền tự quyết. Cho dù điều gì xảy ra cho con trên địa cầu, con vẫn có tự do chọn lựa những gì xảy ra trong tâm con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, con nhận ra là không có định luật tự nhiên nào bắt buộc con phải phản ứng lại tình huống. Con luôn có thể gia tốc vào một trạng thái tâm thức cao hơn nơi con không phản ứng mà con hành động.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, con nhận ra là dù chuyện gì xảy ra bên ngoài, con vẫn chọn lựa được trạng thái tâm thức của con. Và con chọn hành động dựa theo trạng thái tâm thức của con, chứ không dựa theo tâm thức người khác. Cho nên con không bao giờ bị giới hạn bởi tâm thức của người khác hay các chọn lựa tự quyết của họ.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, con tự tra vấn: “Tại sao tôi cứ gặp hoài những loại người này, những loại hoàn cảnh này? Có điều gì trong tôi mà tôi chưa nhìn thấy? Có bài học nào mà tôi chưa hấp thụ khiến tôi phải học lại hoài hoài?” Con nhìn vào bên trong, làm sáng tỏ cái đó là gì – có thể là một vết thương từ quá khứ, một tin tưởng nào đó – và con gia tốc để thăng vượt nó.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, con không còn nhu cầu phản ứng nữa. Con tự do chọn lựa hành động. Con chọn! Và vì vậy con hành động.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, con lấy lại thế chủ động trong cuộc sống. Hành động của con xuất phát từ khả năng sáng tạo nội tại mà con vốn có, từ nguồn sáng tạo trong Hiện diện TA LÀ của con.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là một khi con gia tốc phản ứng của mình, con đạt tới điểm không gặp phải một số tình huống hay một số loại người nữa.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm tâm thức cáo buộc đã có từ lâu trước khi bầu cõi này được tạo lập. Con nhận ra đây là phần nào khai ngộ của Trường đời Cay đắng, cũng như của trường bí giáo của các thày, qua đó con nhìn nhận tất cả đều là tạo vật của tâm thức.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, con nhận ra năng lượng cáo buộc thường kích hoạt khi ai đó nóng giận tiến về phía con, buộc tội con đã làm gì đó. Con lập tức phản ứng lại năng lượng này và dấn sâu vào vòng xoắn ốc hướng hạ.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, con nhận ra lời cáo buộc chỉ là sự biểu hiện của một trạng thái tâm thức thành hình tướng. Lời buộc tội có thể không liên quan gì tới con, mà chỉ là sàn phẩm của tâm thức người đó, vì vậy nó không có chút thực thể nào.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, con không phản ứng lại lời buộc tội bằng sự biện minh. Trái lại con tự xét mình một cách trung thực: “Nếu tôi thấy tôi đã có những hành vi, động lực, tình cảm, ý nghĩ hay quan điểm không trong sáng, không tối ưu, thì tôi sẽ tự tu sửa.”

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Nhưng con làm ngơ người tố cáo. Con không bào chữa, con không buộc ngược lại. Con tách ra khỏi họ và năng lượng cáo buộc của họ để nhìn vào bên trong, nơi con nhận được sự hướng dẫn nội tâm giúp con thấy được cái xà trong mắt mình.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Con tự gia tốc và vượt lên trên tâm thức cáo buộc. Khi đó, con có thể nhìn lại người kia, xem họ còn cáo buộc nữa không, và nếu họ còn, con sẽ giải quyết ở tầng tâm thức cao hơn mà con đã vươn tới, nơi người kia không còn lý do nào để buộc con nữa.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Con cũng có thể trở lại người cáo buộc để khiến họ nhận ra là con đã thăng vượt trạng thái tâm thức cũ của con. Điều này có thể khiến họ cũng muốn thăng vượt tâm thức của họ, và như vậy hai ngưới có thể bắt đầu một quan hệ mới ở một cấp độ mới.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, xin thày giúp con đạt được tâm thức Ki-tô nơi con thăng vượt năng lượng cáo buộc sinh ra từ nhị nguyên. Con chỉ giản dị không cáo buộc.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra sự khác biệt vi tế giữa năng lượng cáo buộc nhằm hạ thấp đối tượng, và việc chỉ ra một điều cần chỉnh đốn nhằm nâng người kia lên và giúp họ thăng vượt cái đó.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, xin thày giúp con gỡ bỏ cái xà trong mắt con, nhờ vậy con thấy rõ những gì diễn ra trong tâm thức người khác.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra những ai sẵn sàng để cho con làm việc với họ, và con hết sức giúp họ. Con cũng nhận ra những ai chưa tới mức chấp nhận mọi thứ đều là biểu hiện của tâm thức, và con có thể thách đố họ hay để cho họ yên thân.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra có hai giai đoạn. Một là giai đoạn của Ki-tô khi con đi ra ngoài thế gian và tìm cách giúp đỡ mọi người bất kể trạng thái tâm thức của họ, hay con đặt vấn đề với những ai không chịu tiến lên cao hơn. Và sau đó có giai đoạn của Phật dành cho những ai đã chấp nhận rằng mọi sự mình gặp trong thế giới hình tướng đều là biểu hiện của chính tâm thức mình – nếu mình phản ứng lại.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, nay con thấy rõ mỗi khi con phản ứng lại điều gì trong thế gian, thì trong tâm thức con vẫn còn gì đó chưa buông bỏ, chưa chữa lành hay chưa thanh lọc – và đó là tại sao con mới phản ứng. Chỉ giản dị vậy thôi!

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, con không phản ứng lại thế gian vì bên trong con không có gì tương ứng với thế gian. Con hành động, nhưng con không vướng mắc vào hành động, con không vướng mắc vào thành quả. Hành động đã mang sẵn chiến thắng của nó, sự hoàn thành trọn vẹn của nó, thành công của nó, niềm vui của nó.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, con hành động mà không cần bất cứ gì khác. Con không cần thành quả nào trong tâm của người khác, trong hành động của người khác, trong hành động của xã hội hay trong thế giới rộng lớn. Không gì là cần thiết nữa.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, con buông bỏ hoàn toàn tâm thức phản ứng, là tâm thức không vui trong việc làm mà chỉ chờ thành quả, chờ phản ứng của người khác trước khi định đoạt là nên vui hay nên buồn.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, con như mặt trời cảm thấy vui mừng tỏa chiếu ánh sáng. Mặt trời không nhìn xuống trái đất để tìm xem có ai đang che chắn ánh nắng, ai đang tìm bóng rợp, ai đang đeo kính râm hay bôi kem chống nắng. Mặt trời không quan tâm đến phản ứng, nó chỉ tiếp tục tỏa sáng vì niềm vui tỏa sáng. Con bước vào tâm thức hành động.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary và Phật Gautama hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

26 | Con thỉnh cầu tự do khỏi ảo tưởng thời gian

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con khắc phục ảo tưởng thời gian và nhập lại với Dòng sông sự Sống. Xin thày giúp con thể hiện chọn lựa là con sẽ gia tăng thăng vượt thay vì gia tăng kháng cự, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm thời gian là một ảo tưởng phát sinh từ tâm thức tách biệt muốn chia dòng chảy của sự sống thành nhiều khúc gọi là quá khứ với tương lai. Hãy giúp con chiêm nghiệm khoảnh khắc hiện tại là hiện tại vĩnh cửu.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, tâm thức nhị nguyên tạo ra ảo tưởng là con di chuyển xuyên qua thời gian. Xin thày giúp con chiêm nghiệm con đang di chuyển trong không gian, là không gian cho phép con đi từ khởi điểm của con đến một điểm không phải là kết thúc, mà là sự hợp nhất với cội nguồn của con, với Đấng Sáng tạo và với tất cả những gì hiện hữu.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm Thượng đế là một dòng tâm thức. Con chiêm nghiệm chính mình là một dòng tâm thức và ngay cả thế giới vật chất cũng là một dòng tâm thức.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm Thượng đế Cha là dòng tâm thức đã tự biểu lộ dưới dạng hình thể vật chất, và mặc dù các hình thể này có vẻ tách biệt, phần nào liên tục và phần nào thường tồn, nhưng chúng vẫn là những dòng tâm thức.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm Thượng đế Mẹ, năng lượng của vật chất, không tách biệt khỏi Thượng đế Cha, và không tồn tại độc lập với Thượng đế Cha.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, con thấy được quỹ đạo xoắn ốc vô cùng phức tạp của trái đất trong không gian tuyệt đối, khi chính mặt trời và các dải thiên hà cũng chuyển động theo những hình xoắn ốc phức tạp.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, nay con thấy không có gì đứng yên một chỗ, không có gì đi theo vòng tròn, không có vòng tròn nào là khép kín, vì toàn bộ vũ trụ đang giãn nở ngày càng nhanh hơn.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, nay con thấy vũ trụ giãn nở là bằng chứng đó là một dòng tâm thức. Và đặc tính thiết yếu của tâm thức là khả năng tái sáng tạo chính mình, thăng vượt chính mình, cho phép cái cũ chết đi để được tái sinh, được phục sinh vào một trạng thái cao hơn.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, đây chính là lực thôi thúc Đấng Sáng tạo sáng tạo, là lực thôi thúc mọi tạo vật giãn nỡ ngày càng nhanh hơn. Chính con như một sinh thể tự nhận biết cũng được lực này thôi thúc phải mở rộng tâm thức của mình hầu theo kịp những gì xảy ra trong vũ trụ.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm nhịp độ gia tốc của toàn bộ vũ trụ vật chất. Loài người vì không theo kịp độ gia tốc này, đã khiến cho trái đất bị tụt hậu trong không gian tuyệt đối, so với vị trí đúng lý nó phải đứng nếu nó đã đồng nhịp với toàn thể vũ trụ.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm sự chậm trễ này đã tạo ra ảo tưởng thời gian. Chậm trễ tạo ra sự cọ sát là nguyên nhân của rất nhiều vấn nạn trên trái đất dường như không có giải pháp.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhìn ra giải pháp là chính con gia tốc tâm thức của mình, buông bỏ ý niệm bản sắc cũ vốn dày đặc hơn. Khi gia tốc xảy ra ở quy mô tập thể thì toàn bộ hành tinh cũng sẽ bớt dày đặc, di chuyển nhanh hơn, ít cọ sát hơn, mà không cần đến sức mạnh lớn hơn.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, khi các cấu trúc cũ được thay thế bởi sự sẵn lòng xuôi theo dòng chảy sự sống, một cuộc cách mạng sẽ xảy đến trong xã hội. Con không còn tìm cách giam dòng ánh sáng trong cấu trúc của mình hầu tạo cho mình một cảm giác trường tồn, liên tục, mà con đạt được ý niệm bản sắc của con bằng cách nhìn vượt quá cấu trúc, vượt cả cấu trúc của địa cầu.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, con là sự biểu hiện của dòng tâm thức. Con trôi theo dòng tâm thức, và khi con không còn cảm thấy mình bị chết đuối trong dòng chảy thì đâu cần gì phải bám vào một cấu trúc nào nữa?

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, con buông mình, và con an bình với dòng chảy cuộc sống thay vì chống cự, ép uổng nó vào những hộp tư duy của con. Niềm vui lớn nhất của con là xuôi chảy với Dòng sông sự Sống.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, con thấy được cái giá mà con phải trả khi con bị chậm trễ so với nhịp gia tốc của vũ trụ. Một khoảng cách được tạo ra, từ đó nảy sinh nỗi sợ chết, là nỗi sợ sẽ đến lúc con không còn hiện hữu như một sinh thể tự nhận biết.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, xin thày giúp con cảm nhận cuộc sống qua sự nhận biết thuần khiết. Như cái Ta Biết, con thấy mình là cánh cửa mở, là tấm kính trong suốt, là biểu hiện của Bản thể Đấng Sáng tạo. Con thấy dòng tâm thức của Hiện diện TA LÀ đang chảy xuyên qua con không cản trở, không cố gắng. Con không cần đến sức mạnh để cố duy trì cấu trúc hư ảo của ngã tách biệt.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, con không còn nghe thấy tiếng gầm rú hăm dọa của dòng chảy, mà con chỉ nghe thấy tiếng róc rách êm ả của dòng suối an lạc mà Đấng Sáng tạo đang biểu lộ qua con.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, con buông bỏ cảm giác là con cần cưỡng lại bất cứ gì, con cần bám giữ bất cứ gì, con cần tiêu diệt bất cứ gì. Con buông bỏ cảm giác là vật chất có thực thể, có thường tồn, có quyền lực trên con.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, con buông bỏ cảm nhận là con phải cứu nguy thế giới hay tiêu diệt cái ác. Con buông bỏ mong muốn thay đổi người khác hay thay đổi xã hội dựa trên nhận thức nhị nguyên là có gì sai trái phải được sửa chữa. Con buông bỏ hoàn toàn tư duy cuồng đại.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, con nhận hoàn toàn trách nhiệm về trạng thái tâm thức của con. Con gia tốc tâm thức, con cho phép Hiện diện của con tỏa rạng xuyên qua con, con chia sẻ niềm vui và sáng ngộ của con với người khác.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, con chứng tỏ cho người khác thấy những gì họ có thể thực hiện thay vì chê trách là họ không đang thực hiện. Xin thày giúp con hòa điệu với Dòng sông sự Sống, với các chân sư thăng thiên, với nhịp chuyển động của Thánh linh, với độ gia tốc nền của vũ trụ.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, nay con thấy cuộc cách mạng sắp đến không chỉ là việc chất vấn lớp thượng tôn quyền lực, chất vấn giới thẩm quyền, chất vấn các thể chế, mà là chất vấn chính ảo tưởng rằng vật chất là thực, vật chất có sự tồn tại tách biệt.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, con chất vấn cách phân chia cố hữu giữa các hoạt động gọi là tâm linh và thế tục. Con buông bỏ ảo tưởng rằng thế gian tách biệt khỏi Tánh linh và vì vậy nó sẽ kéo con ra khỏi sự hợp nhất với Tánh linh.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, con đập vỡ tan mọi nơi thờ phượng trong tâm con, để tâm con không còn một nơi thờ phượng nào đặc biệt. Con thấy mọi nơi đều là nơi đặc biệt, mọi hoạt động đều là hoạt động đặc biệt, mọi thời điểm đều là thời điểm đặc biệt.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm rằng khoảnh khắc hiện tại là tất cả cái gì đang có, và chính trong khoảnh khắc hiện tại mà con phải là người tâm linh, con phải là cánh cửa mở cho Tánh linh biểu đạt ra ngoài. Con chỉ có thể là cánh cửa mở trong hiện tại.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là khi con đi vào tách biệt, con cũng làm giống như sa nhân khi họ sa ngã, tức là đòi hỏi một khoảng không gian riêng biệt nơi con có thể cầm giữ một bản ngã tách biệt trong một thời gian.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm thời gian là Mẹ, không gian là Phật.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là trong tình thương của Mẹ, Mẹ đã cho phép con cầm giữ ảo tưởng là con có thể tạo ra gì đó tồn tại trong chiều dài thời gian – thậm chí cả ảo tưởng rằng cái ta tách biệt có thể đạt được một cảm giác thường tồn, hay một sự bất diệt, hay được chấp nhận vào vương quốc Thượng đế.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là Mẹ đã cho phép con có được trải nghiệm tách biệt đó, cho đến khi con chán ngán trải nghiệm và sẵn sàng thăng vượt nó.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là ở một tầng sâu hơn, Phật đang giữ sự cân bằng để cho con khoảng không gian giữa nơi con đang đứng và nơi con đã có thể đứng nếu con theo kịp độ gia tốc nền của vũ trụ.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm tình yêu của Phật đã cho phép khoảng không gian này hiện hữu, để con có cơ hội gia tốc và nhập lại Dòng sông sự Sống. Phật đã thiết lập cái nền để Mẹ có thể cho con ảo tưởng thời gian. Nhưng kỳ thực thời gian không có.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, khoảng không gian đó không thực, nhưng không gian vẫn thực ở chỗ nó cho phép các hình tướng hiện hữu để chúng có thể thăng vượt, bắt kịp độ gia tốc tối hậu và trở thành một phần thường hằng của cõi tâm linh.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, con đang xem xét chính mình trong khi thày trao truyền lời dạy này. Liêu con có cảm thấy thời gian trôi qua quá dài và con mong muốn bài giảng này chấm dứt hay không?

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra nếu bài giảng quá sức chịu đựng của con, đó là vì con đã không sẵn lòng xuôi chảy với thày và thăng vượt trạng thái tâm thức của con. Bài giảng của thày là một vòng xoắn ốc đi lên, là sự gia tốc của trái đất xuyên qua không gian tuyệt đối. Nếu con không theo kịp thì con có ngay ảo tưởng thời gian.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Nay con thấy rõ chọn lựa của con là: hoặc con trải nghiệm một sự kháng cự gia tăng, hoặc con trải nghiệm một sự thăng vượt gia tăng. Phật Gautama, con chọn thăng vượt.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary và Phật Gautama hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

20 | Con thỉnh cầu tự do khỏi ý nghĩ lăng xăng

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con đạt được tự do khỏi mọi ý nghĩ lăng xăng và nhập một với Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ của Phật, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, con để ý thấy thế giới hiện đại có bao nhiêu thứ đang níu kéo sự chú ý của con, đòi hỏi con phải phản ứng lại và làm gì đó. Và từ đó con khởi lên nhiều ý nghĩ lăng xăng.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, con để ý thấy khi con cất bước trên đường tu, tâm con lại được dịp rồ máy. Khi nó tập trung vào giáo lý vỏ ngoài, nó có thể bị cuốn hút đến độ gần như không lúc nào tĩnh lặng. Nó lại tạo thêm một mức độ ý nghĩ lăng xăng.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, con để ý thấy có sự phóng chiếu liên tục từ tâm thức tập thể, từ sa nhân và các tà lực, ngay cả từ các ngã tách biệt mà con đang có. Tâm con khởi lên nhiều ý nghĩ lăng xăng, là những chuỗi tư tưởng không dẫn tới đâu, không tạo ra bất cứ gì và cũng không giải quyết được gì, mặc dù chúng có thể khoác lấy hình dạng những vấn đề cần giải quyết.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, con để ý thấy ý nghĩ nhập vào tâm con là vì tâm con lẫn bộ não được thiết kế để suy nghĩ, nó tưởng là nó phải suy nghĩ hoài hoài. Có một phần trong tâm con cảm thấy là nếu nó không suy nghĩ thì nó không đang làm nhiệm vụ. Nó nghĩ con sẽ chết nếu nó không suy nghĩ.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, con để ý thấy tâm con có xu hướng muốn bận rộn. Nó muốn làm việc. Nó muốn giải quyết vấn đề, cho nên nó cần có vấn đề để giải quyết. Nếu không có vấn đề bên ngoài thì nó tạo ra vấn đề bên trong.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, con để ý thấy tâm con có thể đã tìm cách ngừng hẳn sự suy nghĩ. Nó nghĩ nó phải có cách ngừng suy nghĩ, và khi nó không làm được thì nó có thể cảm thấy vô vọng.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là trong một thế giới hiện đại bận rộn, việc ngừng hẳn suy nghĩ không thực tế lắm. Con không thể tự cô lập về mặt địa lý để tránh sự phóng chiếu của tâm thức đại chúng bao quanh.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, con đang dành ra thời gian để đọc chú, đọc thỉnh. Con thỉnh sự bảo vệ tâm linh để tâm con được giải phóng, được che chở và niêm phong khỏi tà lực cùng tâm thức đại chúng.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, con đang dành ra thời gian để chỉ ngồi đó mà thôi. Con không nỗ lực làm yên tâm con, vì con biết khi con cố làm cho tâm tĩnh thì con cũng dùng tâm để khiến cho tâm tĩnh. Con đang suy nghĩ về cách khiến cho tâm tĩnh, và như vậy tâm chỉ tiếp tục làm công việc mà nó nghĩ nó phải làm.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, thay vào đó con nằm xuống trong một tư thế thư giãn. Con không đặt ra mục tiêu làm cho tâm mình đứng yên mà con đi vào trạng thái tâm trung hòa. Con không đóng chặt tâm lại để ý tưởng không vào được mà con chỉ không giao tiếp với ý tưởng.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Con quyết định: “Tôi không ở đây để suy nghĩ về bất cứ chuyện gì, tôi không ở đây để hiểu ra bất cứ điều gì, tôi không ở đây để nhìn thấy bất cứ cái gì. Tôi không ở đây để giải quyết bất cứ vấn đề gì hay đạt được sáng ngộ gì. Tôi chỉ ở đây để không tiếp cận, không tham gia vào các ý nghĩ đang bay đến.” Con chỉ quan sát tâm. Khi một ý nghĩ bay đến, con nói nhẹ nhàng trong tâm: “Tôi buông, tôi buông, tôi buông.” Con không nghĩ về nó, con chỉ để cho nó đi.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Khi có một ý nghĩ khác khởi lên, con lại nói: “Tôi buông, tôi buông, tôi buông” – giống như một câu thần chú. Con không áy náy, không bị áp lực, không bị căng thẳng, không cãm thấy mình phải làm được. Con chỉ không tiếp xúc với ý nghĩ. Con chỉ buông nó ra.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, con nhận ra là cái Ta Biết của con đang đứng bên ngoài tâm vỏ ngoài. Xin thày giúp con trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết, là khi con có ý thức nhưng không có nội dung nào trong tâm thức.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, xin thày giúp con trải nghiệm cảm giác an bình khi biển động Luân hồi yên lắng.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, nay con thấy rõ Biển Luân hồi ở ngay trong tâm. Khổ đau xảy ra trong tâm, cho nên con chỉ có thể khắc phục khổ đau trong tâm. Con chỉ đạt được an bình trong tâm. Con buông bỏ mọi mong muốn đạt được an bình qua việc giải quyết tình huống vỏ ngoài.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, xin thày giúp con trụ vững trong tâm trung hòa để con nghe được Hiện diện TA LÀ của con và nhận được sự hướng dẫn trực tiếp từ các chân sư thăng thiên. Con nỗ lực ở trong tâm trung hòa mà không nỗ lực – con đánh gạt tâm con, con khiến nó bối rối, và các ý nghĩ lăng xăng không còn chiếm trọn sự chú ý của con.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, xin thày giúp con tìm được một thế quân bình trên đường tu, một con đường Trung đạo, nơi con không quá cuồng nhiệt, không bị ám ảnh cưỡng chế – và thỉnh thoảng con tĩnh tâm.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, con tự do đi vào nội tâm, tập trung vào những lời dạy con xem là quan trọng nhất ở thời điểm này. Con học hỏi nó, thực hành nó, thể nhập nó, cho tới khi con cảm thấy mình đã tiến đủ để có thể quay sang lời dạy khác. Con không bắt buộc phải học tất cả mọi lời dạy cùng một lúc.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, nay con thấy rõ cách tu tập cưỡng chế cũng đến từ một ngã tách biệt. Thay vào đó, con thấy tất cả mọi sự đều là cơ hội để con nhìn ra một điều gì chưa giải quyết trong tâm lý của con.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, nay con thấy rõ mọi hiện tượng trong tâm là do tâm chế tạo. Chúng có thể được kích hoạt bởi cảnh huống bên ngoài, nhưng cảnh huống bên ngoài không gây ra điều kiện bên trong. Chính tâm mới gây ra điều kiện bên trong qua cách nó phản ứng lại điều kiện bên ngoài.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, nay con thấy rõ cốt lõi của đường tu tâm linh là điều ngự tâm mình. Con không thể điều ngự tâm con nếu con nghĩ nguyên nhân của trải nghiệm nội tâm ở bên ngoài tâm. Con buông bỏ mọi phóng chiếu như vậy.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, nay con thấy rõ khi có những ý nghĩ được phóng chiếu từ ngoài vào tâm con, chúng chỉ có thể kích hoạt một khuôn nếp, một ngã tách biệt, đã có sẵn trong tâm con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, nay con nắm rõ khái niệm hành uẩn mà thày đã dạy thủơ trước. Đây là các khuôn nếp trong tâm, các ngã tách biệt. Chúng nằm đó tiềm ẩn, im lìm. Khi một cảnh huống bên ngoài xảy đến thì một ý nghĩ được phóng chiếu vào tâm con, kích khởi cho ngã tách biệt hoạt động.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, nay con thấy rõ con không thể đóng chặt tâm lại không cho các ý nghĩ phóng chiếu đi vào tâm con. Như một cá nhân, con không thể thay đổi tâm thức tập thể. Nhưng con có thể thay đổi tâm thức của con để không phản ứng lại tâm thức tập thể.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, con đang lần hồi giải quyết những ngã tách biệt này, con đang thực hành tâm trung hòa và buông bỏ ý nghĩ. Xin thày giúp con đạt tới điểm khi mặc dù vẫn có ý nghĩ từ ngoài phóng chiếu vào tâm con, mặc dù bộ não và tâm vỏ ngoài của con vẫn sản xuất ý nghĩ từ trong, nhưng cái Ta Biết của con không giao tiếp với chúng. Và chúng chỉ lướt xuyên qua.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con đạt tới điểm khi có đủ loại ý nghĩ đi vào tâm con, nhưng chúng chỉ lướt xuyên qua vì con không chú tâm vào đó. “Chấm dứt ý nghĩ lăng xăng” không có nghĩa là ý nghĩ ngưng hẳn, mà chúng ngừng không tác động tâm ý thức của con, không níu kéo sự chú ý ý thức của con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, xin thày giúp con đạt được sự tĩnh tâm đích thực như vậy, càng ngày càng không dính mắc với ý tưởng.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, xin thày giúp con đi vào bước kế tiếp là chú tâm vào Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ của thày. Con hòa điệu vào đó, con mở tâm ra với nó và được nó bao bọc chung quanh.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, con không suy nghĩ về việc hòa điệu với Ngọn lửa của thày, mà con chỉ đơn giản trải nghiệm chính Ngọn lửa. Con đang ở trong đó. Con đang được nó bao trùm.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, Ngọn lửa Hòa bình của thày là một quả cầu và con là một cái chấm ở bên trong quả cầu. Con trải nghiệm Ngọn lửa, con trải nghiệm xuyên qua Ngọn lửa, con nhìn thế giới xuyên qua Ngọn lửa. Con là một với Ngọn lửa và mọi ý nghĩ lăng xăng chấm dứt.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, con làm các bài tập của thày một cách không dính mắc. Con không cảm thấy là mình phải làm được tất cả, phải tận dụng tất cả, mà con tìm ra khía cạnh của giáo lý đang thu hút con ở mức tâm thức hiện thời, và con tập trung vào đó.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, con không cần biết mình đang đứng ở tầng tâm thức nào, mà con chỉ đơn giản cảm nhận bằng trực giác giáo lý nào hấp dẫn với con. Và chừng nào con thấy mình còn cần đến nó thì con tập trung vào đúng cái đó.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, con nhận ra là tâm đường thẳng và các ngã tách biệt đang muốn con học giáo lý trong tâm thái ám ảnh cưỡng chế. Nhưng đây chỉ là một giai đoạn trên đường tu, đây là những ý nghĩ lăng xăng do ngã tách biệt chế tạo, là những phóng chiếu của tà lực đang cố khiến con kiệt sức và bị cháy trên đường tu.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, con nói: “Tôi buông. Tôi buông. Tôi buông làm chuyện này, tôi buông làm chuyện kia. Tôi buông.” Con buông hoài cho tới khi con lắng nghe từ bên trong và nhận được gợi ý về điều gì con có thể làm. Gợi ý này không đến từ ngoài, từ một bổn phận mà con phải làm. Và như vậy con tiến lên từng bước một mà không bị áp lực nào cả.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, nay con thấy rõ đường tu không phải là một sự nghiệp hay một cuộc chiến đấu. Con không thể cưỡng chiếm thiên đàng bằng vũ lực mà chỉ có thể cưỡng chiếm một cái gì mô phỏng thiên đàng. Con nhận diện ngã tách biệt này và buông nó ra.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, xin thày giúp con xuôi chảy với Dòng sông sự Sống.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary và Phật Gautama hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

18 | Con thỉnh cầu chú tâm cao hơn

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con vượt qua khúc ngoặt chủ chốt trên đường tu khi con chuyển sự chú tâm của con từ nỗ lực thoát khỏi tâm thức đại chúng sang việc kết nối với cái ta cao của con, với thế giới và với mọi người, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, con nhận ra là khi con mới tìm thấy giáo lý tâm linh, con đã có xu hướng dùng giáo lý để củng cố thế giới quan hiện hữu của mình, hay xây dựng một thế giới quan mới cũng dựa trên quan điểm tách biệt.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, con nhận ra là để đương đầu với hoàn cảnh sống của mình, con đã có xu hướng muốn tin là giáo lý này chắc chắn sẽ đưa con đến giác ngộ hay cứu rỗi.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, con nhận ra là con đã vượt qua những tầng thấp đó của đường tu để bước vào giai đoạn kế tiếp, là thay đổi chính mình. Thay vì thay đổi các hoàn cảnh bên ngoài với hy vọng chúng sẽ thay đổi trạng thái tâm con, con chú tâm thay đổi tâm con từ bên trong.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, con thấy rõ là trong giai đoạn này, công việc chủ yếu của con là kéo mình ra khỏi lực hút từ tính của tâm thức đại chúng. Con thoát khỏi áp lực từ đại chúng muốn con phải tuân theo những điều mà văn hóa và xã hội xem là bình thường.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, xin thày giúp con giải tỏa các ảo tưởng, chuyển hóa năng lượng và tuần tự để các ngã tách biệt chết đi, để con không cho tâm thức đại chúng một cái chuôi nào mà nó có thể nắm lấy kéo con đi.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con cố thoát khỏi tâm thức tập thể thì con cũng xây dựng một tập hợp những ngã tách biệt xem mình là một người tâm linh. Con muốn là một cá nhân đủ mạnh để không bị cuốn hút vào các khuôn nếp tập thể.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra liệu con đã đến một khúc ngoặt và một chọn lựa cốt yếu. Liệu con sẽ tiếp tục bồi đắp cho ý niệm bản sắc đó như một sinh thể riêng biệt, hay con thấy bản sắc riêng biệt này đã làm xong phận sự và nó không thể đưa con lên những tầng cao hơn của đường tu.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, con nhận ra là khi con xây dựng ý thức riêng biệt đó thì kỳ thực con vẫn dính liền với tâm thức đại chúng, con giống như một hành tinh quay xung quanh mặt trời của tâm thức đại chúng. Giờ đây con tự gia tốc để đi vào một quỹ đạo xoắn ốc đưa con vượt khỏi điểm này.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, xin thày giúp con buông bỏ ảo tưởng là ngã riêng biệt đó sẽ có thể đưa con lên thiên đàng hay giác ngộ. Con thấy rõ cái ngã xem mình là người tâm linh vẫn là một ngã tách biệt.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, con buông bỏ mọi tự hào về thành đạt tâm linh, về hiểu biết giáo lý hay công phu tu tập của con. Con buông bỏ mọi mong muốn cao trội hơn những người ở ngoài giáo lý lẫn những người ở trong giáo lý nhưng chưa nhiều kinh nghiệm như con.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con đang xây dựng một loại ngã khác, không thấy mình tách biệt khỏi tâm thức đại chúng, mà thấy mình kết nối với cái ta cao của con.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, xin thày giúp con tạo ra một ý niệm bản ngã mới thấy mình là một sinh thể kết nối. Con trải nghiệm con là một sinh thể kết nối.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra cái ta cao của con có một cá thể với một số đặc tính mà con neo trụ vào. Con đem cá thể này vào nhận biết ý thức và con biểu lộ nó trong đời sống qua các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra cái ta cao của con không thuộc bốn tầng của thế giới vật chất. Nó nằm ngoài thế giới hình tướng của thế gian. Nó có hình tướng nhưng nó ở cõi tâm linh, là nơi tất cả đều là một, tất cả là sự duy nhất.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, xin thày giúp con đem sự hợp nhất này từ cái ta cao vào nhận biết ý thức. Con bắt đầu xây dựng một bản sắc thấy mình không những kết nối với cái ta cao, mà còn kết nối với mọi người khác và với môi trường vật lý của con.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, con nhận ra đó là Chánh định. Đó là ý nghĩa sâu sắc, ý nghĩa cao hơn của sự chú tâm. Con không chú tâm vào tâm thức đại chúng, con không chú tâm vào chính mình như một sinh thể cá biệt, mà con chú tâm vào tổng thể, con chú tâm vào kết nối, con chú tâm vào hợp nhất.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Gautama, nay con chú tâm vào: “Làm sao tôi có thể nâng tổng thể lên, làm sao tôi nâng người khác lên? Làm sao tôi giúp họ nâng tâm thức? Làm sao tôi giúp cải thiện một khía cạnh đặc thù của cuộc sống? Làm sao tôi góp phần vào sự tiến bộ của nhân loại và thế giới nơi tôi sống?”

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, con thấy trái đất đã có nhiều tiến bộ, nhưng tâm thức nhân loại đã không tiến đủ so với các tiến bộ của công nghệ. Con thấy được nhu cầu gia tốc tâm thức nhân loại, nâng cao tâm thức tập thể. Và con bắt đầu bằng chính tâm thức của con.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, khi con nâng nhận biết của con lên thì con cũng kéo tâm thức đại chúng lên. Xin thày giúp con nhận ra là như một sinh thể nối kết, sức kéo của con mãnh liệt hơn gấp bội. Con có khả năng giữ cân bằng tâm linh cho hành tinh và xã hội.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, con nhận ra là mọi tiến bộ đều xảy ra khi nhận biết của đại chúng dược nâng cao, khi một túc số tới hạn bất ngờ xoay chuyển và thấy được những gì họ không thể thấy trước đó. Họ nhìn ra: “Ừ nhỉ, rành rành ra đó. Chuyện này thật quá hiển nhiên. Xã hội cần nhắm hướng này mà đi tới.”

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, xin thày giúp con xoay chuyển sự chú tâm. Thay vì chú tâm phát triển cá nhân mình thì con chú tâm nâng cao tổng thể. Đây là cách duy nhất con có thể vượt qua khúc ngoặt chủ chốt này trên đường tu.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra quả vị Phật là sự chú tâm vào toàn thể chứ không chỉ một phần nào đó. Nhưng chính vì con là một phần của tổng thể cho nên con có thể kéo cả tổng thể đi lên.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con càng chú tâm vào tổng thể thì con càng kéo tâm thức tập thể mạnh hơn, đồng thời con càng ít bị tâm thức này kéo xuống hơn. Con không còn dính mắc, và con trở nên trong suốt trước tâm thức này.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, quỷ Mara có thể phóng tới con bất kỳ xung lực nào ở ba tầng cảm xúc, lý trí và cảm xúc, nhưng khi nó đi vào tâm con thì không có gì ở đó để nó có thể đánh trúng, khuấy động hay tăng cường. Lực này đi xuyên thẳng qua con vì con không dính mắc, con trong suốt, con tự do.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm lý duyên khởi trong đời sống. Con nhận ra là không hề có kết quả riêng rẽ lẫn nguyên nhân riêng rẽ. Tất cả là một tổng thể phụ thuộc lẫn nhau.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, con nhận ra có thể trong qua khứ con đã có xu hướng cuồng đại cố giải quyết các vấn đề lớn của xã hội bằng cách giải quyết từng nguyên nhân vật lý riêng lẻ. Nay con thấy rõ nguyên nhân thật sự nằm trong tâm lý con người, và nguyên nhân này thì đến từ ảo tưởng tách biệt.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, con buông bỏ mong muốn tạo ra những thay đổi vỏ ngoài, để chú tâm vào việc nâng cao nhận biết ở mức cá nhân lẫn tập thể. Con thấy rõ những gì xảy ra ở tầng vật lý của thế giới chỉ là hậu quả của những gì xảy ra ở ba tầng trên.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, con buông bỏ mọi đòi hỏi thay đổi đặc thù, và nhờ vậy con đóng góp mà không mang rủi ro thất bại hay thất vọng. Con thăng vượt tất cả mọi tiềm năng thất bại, vì con biết chắc việc nâng cao tâm thức luôn luôn đem lại kết quả.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, con không đề ra những mục tiêu bất khả thi cho chính mình, mà con tập trung nâng cao tập thể vì con biết đây là chuyện khả thi. Khi người khác cũng làm tương tự thì chỉ là vấn đề thời gian trước khi họ xây dựng đủ lực kéo để kéo tâm thức đại chúng đi lên, tạo ra một sự xoay chuyển.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, xin thày giúp con bỏ hẳn chú tâm vào ảo tưởng tách biệt để chú tâm vào cái một. Đằng sau mọi hình tướng riêng rẽ, con thấy Phật tánh. Đáng sau hình thể có vẻ tách biệt, con thấy sự kết nối. Đằng sau nguyên nhân có vẻ tách biệt, con thấy lý duyên khởi.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, đằng sau hàng triệu ảo tưởng dưới các lớp ngụy trang khác nhau, con thấy được mục đích của Mara nhằm che mờ cái một và sự nối kết bên dưới. Mara muốn con ở lại trong tách biệt mãi mãi.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, con không đi vào ngõ cụt nghĩ rằng cách thay đổi thế giới là cải đạo người khác theo giáo lý hay pháp tu của con, bởi vì đây cũng là một hình thức tách biệt của người tu tập.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, xin thày giúp con dùng trực giác để tiếp cận những ý tưởng phổ quát đang được rải truyền từ một tầng vượt khỏi thế giới vật chất, từ một tầng nhận biết cao hơn. Con nhận ra là những ý tưởng toàn vũ này có thể được biểu đạt xuyên qua một giáo lý hay một vị thày tâm linh đặc thù, nhưng không nhất thiết như vậy.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, con nhận ra là đạo Phật không được tạo ra như một tôn giáo, mà là một loạt những tư tưởng và thực hành phổ quát. Trong thế giới ngày nay, chữ “Phật” có thể được diễn đạt một cách toàn vũ hơn, trung hòa hơn, là sự nhận biết cao hơn.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, con chuyển sự chú tâm của con vào những tư tưởng bao quát, những cách diễn đạt bao quát có thể giúp cho nhiều người với nhiều gia cảnh khác nhau, từ nhiều tầng lớp khác nhau, mà không đòi hỏi họ phải đổi sang một tôn giáo hay một phong trào vỏ ngoài.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm Phật tánh là cái một, là hợp nhất, là kết nối. Đây là điều con cố gắng đạt được để giúp người khác nhìn vượt quá tách biệt, nhị nguyên, chủ nghĩa độc quyền và sự cuồng tín. Đằng sau tất cả phân chia giữa người với người là những tư tưởng và giá trị rộng khắp đang kết nối mọi người.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary và Phật Gautama hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

10 | Con thỉnh cầu hành động cao hơn

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con từ bỏ những công việc mà con phải làm theo đường tu vỏ ngoài, để tập trung vào những công việc con đã chọn làm theo Kế hoạch Trọn đời của con. Hãy giúp con nắm lấy mọi cơ hội mà nghiệp quả cho con để nâng cao tâm thức, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1 Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm mỗi khi con hành động thì hành động của con không chỉ xảy ra trong tầng vật lý, mà là sự phóng chiếu của những gì xảy ra ở ba tầng cao hơn. Hành động khởi sự ở thể bản sắc của con, đi xuống thể lý trí, rồi thể cảm xúc, trước khi được chuyển thành một hành động vật lý.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm mỗi khi con quyết định làm việc gì, con không chỉ quyết định bằng tâm ý thức mà xuyên qua các khuôn nếp trong cả ba thể tiềm thức. Những khuôn nếp này định ra ranh giới cho những gì con có thể quyết định.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, con nhận ra là trong qua khứ, có thể con đã kìm nén một số cảm xúc, ý tưởng và ý niệm bản sắc, thậm chí cả một số hành động. Nay con thấy rõ việc kìm nén không giúp con nâng cao nhận biết, vì con chưa đem các khuôn nếp tiềm thức ra ánh sáng ý thức để mà giải quyết.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, con nhận ra là đã có một giai đoạn con cần trau dồi một sức mạnh ý chí có ý thức, để chặn đứng một xung lực từ tâm tiềm thức biểu hiện thành một hành động vật lý.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, con nhận ra đó là mục đích của các giới luật, lời răn, quy tắc ứng xử của nhiều tôn giáo, nhằm ngăn chặn nghiệp quả tạo thành một vòng xoáy không kềm chế sẽ phá hoại bước tăng triển tâm linh của con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, nay con thấy rõ con không thể tiến xa hơn một mức nào đó nếu con tiếp tục làm như vậy, vì con vẫn mang cùng những khuôn nếp trong ba thể và con vẫn phóng chiếu ra ngoài xuyên qua chúng.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra chính tự ngã đã dựng lên con đường vỏ ngoài, con đường tự động, bảo rằng có hành động chân chính và hành động bất chính, có hành động đúng và hành động sai. Và nếu con ép mình kiêng cữ những việc sai và chỉ làm những việc đúng, thì đảm bảo con sẽ vào được niết bàn.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, con thấy rõ tự ngã muốn con đi theo con đường tự động, để con không nhìn vào tâm tiềm thức cùng các khuôn nếp mà nó đã lập trình ở đó, và vì vậy con không thể phơi bày chính nó.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, xin thày giúp con buông bỏ mọi dính mắc với con đường tự động. Con khắc phục nỗi sợ là mình đã đi lầm đường. Con khắc phục mong muốn xa lánh xã hội để khỏi hành động bất chính. Con khắc phục niềm tự hào mình là một đệ tử cao cấp do mình không hành động bất chính.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, xin thày giúp con có cái hiểu cao hơn về Trung đạo. Trung đạo không phải là con đường chính giữa. Nay con thấy rõ tâm thức nhị nguyên không chỉ dựng lên hai đối cực, mà cả thang điểm gồm tất cả mọi sắc đậm nhạt ở giữa hai đối cực.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra Trung đạo là sự thăng vượt toàn bộ thang điểm đó. Trung đạo là con Đường Cao hơn, con Đường Thăng vượt, con Đường Siêu thoát.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, xin thày giúp con gia tăng khả năng trực giác để phát hiện những gì con đã ghi vào Kế hoạch Trọn đời của con. Đây là những công việc mà chính con đã trù liệu cho kiếp này sẽ giúp con tăng trưởng tối đa trên con đường thăng vượt của con.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, xin thày giúp con dùng trực giác để phát hiện liệu con đã thảo vào Kế hoạch Trọn đời một số hoạt động mà con muốn trải nghiệm đến mức chán chê, hầu con giải quyết toàn bộ mong muốn đó và buông bỏ nó.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, xin thày giúp con dùng trực giác để nhận ra liệu con đã tránh né một hoạt động bị đường tu tự động xem là bất chính. Và ngược lại, liệu con đã dùng Kế hoạch Trọn đời như là cái cớ để biện hộ cho mọi hoạt động và ham muốn của mình.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, xin thày giúp con dùng trực giác để phát hiện liệu con có mong muốn đóng góp vào sự thăng tiến của nhân loại và cuộc sống trên trái đất. Không nhất thiết là những công việc tâm linh hay từ thiện, mà rất có thể con mong muốn đóng góp cụ thể trong một lãnh vực thế tục nào đó.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, xin thày giúp con vượt ra khỏi những gì được hầu hết các phong trào tôn giáo hay tâm linh định nghĩa là việc làm tâm linh. Nếu con làm theo quy chuẩn này thì con sẽ bỏ lỡ cơ hội mà con đã đặt vào Kế hoạch Trọn đời, trong khi cảm thấy mình là người thật tâm linh.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, con muốn thực hiện những công việc con đã ghi vào Kế hoạch Trọn đời. Và để làm vậy, con tích cực trau dồi trực giác bằng cách dọn dẹp rác rưởi trong ba thể, khắc phục các khuôn nếp, chuyển hóa năng lượng thấp và nâng cao nhận biết.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra giác ngộ là một mức nhận biết cao hơn. Con buông bỏ mọi tiêu chuẩn về thế nào là hành động tâm linh hay phi tâm linh. Thay vào đó, con lượng định hành động của mình dựa theo ảnh hưởng của nó trên tâm thức của con.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, con thấy rõ là nội dung trong ba thể sản xuất ra trải nghiệm mà con có về cuộc sống. Cách duy nhất để thay đổi trải nghiệm này là thay đổi nội dung trong ba thể, chứ không phải thay đổi điều gì đó ở bên ngoài, ngay cả ở mức hành động.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra hành động của con sẽ không quyết định là con có thể thoát khỏi trái đất, thoát khỏi Biển Luân hồi và giải thoát hay không, mà điều duy nhất sẽ quyết định là mức tâm thức của con.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, con buông bỏ mọi mong muốn làm những việc được xem là loại công việc tâm linh, thậm chí là thánh thiện, nhưng thật sự chỉ là cái cớ để con không nhìn vào ba thể tiềm thức và tiếp tục dính mắc vào con đường tự động.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, con buông bỏ ảo tưởng cho rằng nếu con cứ chăm chỉ tu tập theo các quy tắc vỏ ngoài và càng ngày càng nghiêm mật hơn, thì con không cần nhìn vào ba thể tiềm thức.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, con nhận ra sở dĩ con không chịu nhìn vào ba thể là vì con sợ những gì con có thể tìm thấy ở đó. Con mang từ tiền kiếp một số chấn thương kèm với nhận biết là con đã làm những chuyện không nên làm, và giờ đây con sợ bị choáng ngợp khi phải đối mặt với chúng. Chính nỗi sợ này đã khiến con bị thu hút bởi con đường tự động.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, xin thày giúp con đạt được cái nhìn cao hơn về hành động. Con đặt câu hỏi: “Hành động này sẽ tác động đến tâm thức của tôi như thế nào? Nó có nâng cao tâm thức của tôi không? Khi tôi hành động thì phản ứng tâm lý của tôi là gì? Trong tâm lý tôi khởi lên những gì? Cái gì trong tôi đang bị khuấy động?”

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, xin thày giúp con ngộ ra con là một sinh thể tâm linh. Vì muốn tăng triển tâm linh mà con đã tự đặt mình vào những tình huống buộc con làm một số hành động để khuấy động những điểm chưa giải quyết trong tâm lý con. Đây là cơ hội để con nhìn ra một điểm chưa giải quyết, con xử lý nó và nhờ vậy con bước lên cao hơn.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con làm cuộc xoay chuyển này, để con nhận ra sự cần thiết của công việc con muốn làm, để con sẵn lòng làm công việc này, và con bỏ hẳn giấc mộng về con đường tự động.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con không cần sợ xem xét tâm lý của mình, vì cho dù con đã làm gì trong một kiếp trước, con vẫn có thể khắc phục hậu quả của hành động bằng cách thăng vượt mức tâm thức đã tạo ra hành động. Con không cần cảm thấy tội lỗi về những việc con đã làm.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra con có khả năng chuyển hóa nghiệp quả một khi con giải quyết tâm thức. Con có khả năng thỉnh cầu năng lượng cao để nó biến hóa năng lượng do hành động tạo ra.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm cách vận hành của nghiệp quả. Khi con hành động, con gửi ra một xung lực vào bốn tầng của vũ trụ vật chất. Xung lực được phản chiếu lại cho con, luân chuyển một thời gian qua ba thể tiềm thức của con trước khi biểu hiện thành nghiệp quả trong cõi vật lý.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là nếu ba thể của con không còn những ảo tưởng và khuôn nếp đã tạo ra hành động ban đầu, thì xung lực quay trở về sẽ không có gì để tương tác và tăng cường, năng lượng được chuyển hóa cao hơn, và cuối cùng nghiệp báo có thể rất nhẹ.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là trong trường hợp ngược lại, nếu các ảo tưởng và khuôn nếp trong ba thể vẫn như cũ, hay đã chìm sâu hơn vào nhị nguyên tách biệt, thì xung lực quay trở về sẽ được cộng hưởng và nghiệp báo có thể dữ dội.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm nghiệp quả không là một sự trừng phạt, mà là một cơ hội.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra sở dĩ một tình huống xảy ra cho con là để buộc con phải nhìn thấy nó bằng cách tạo ra một phản ứng trong con, và nếu con chịu nhìn vào phản ứng này và thăng vượt tâm thức cũ, thì nghiệp quả là một cơ hội để con nâng cao tâm thức.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là nghiệp quả không trải bày ra tức khác, mà nó cho con một thời gian để con có thể nhìn ra tâm thức đã khiến con tạo nghiệp và khắc phục nó.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra xung lực nghiệp quả nhằm khuấy động trong tâm lý con những gì chưa được giải quyết. Nhưng trước khi nghiệp quả trở thành vật lý và con phải chịu một hậu quả vật lý không thể phủ nhận, thì con đã có một cơ hội để chuyển hóa trạng thái tâm thức của con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, con quyết định là trong mỗi tình huống trong đời, con sẽ dùng trực giác để hỏi: “Đâu là cơ hội ở đây? Tôi cần nhìn ra điều gì trong tình huống này? Có điều gì trong tâm lý mà tôi cần giải quyết để thăng vượt hoàn cảnh này, sử dụng hoàn cảnh này như một bàn đạp để vươn lên cao hơn trên con đường Bát chánh đạo?”

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary và Phật Gautama hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

16 | Con thỉnh cầu tỉnh giác cao hơn

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con đạt được tỉnh giác cao hơn, qua đó con nhận biết những nội dung tách biệt trong tâm con, và thay thế chúng bằng những nội dung nối kết với cái ta cao của con. Hãy giúp con trải nghiệm chính con là cái Ta Biết đứng ngoài các nội dung đó, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, con thấy rõ giác quan của con bị hạn chế trong phổ tần số của cõi vật lý, và hạn chế này đã làm cơ sở cho ảo tưởng tách biệt. Nhưng nguyên nhân đã khiến con đi vào tách biệt là một loạt những chọn lựa mà con đã lấy khi con lần hồi chấp nhận ảo tưởng của Maya và tạo ra nhiều ngã tách biệt.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, con thấy rõ các ngã tách biệt thật không đáng tin cậy. Chúng không chỉ tiếp nhận giác quan của con, mà chúng còn xây dựng một lớp phủ ý thức hệ lên trên nhận thức của giác quan, và ý thức hệ này thì bảo những gì giác quan nhìn thấy đều là tách biệt.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, con thấy rõ là tâm con cũng áp đặt lên nhận thức của giác quan một sự đánh giá, một xét đoán về tốt và xấu. Đây chính là tâm thức nhị nguyên.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, xin thày giúp con thăng vượt toàn bộ tư duy đen trắng, toàn bộ thang điểm nhị nguyên gồm có hai đối cực và khoảng đậm nhạt ở giữa hai đối cực.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, con đang chất vấn nhận thức của con về thế giới và về chính con. Con thấy rõ khởi đầu của tỉnh giác cao hơn là khi con bắt đầu chất vấn nhận thức của con, các ý tưởng vỏ ngoài, ý niệm bản sắc và ngay cả toàn bộ thế giới quan của con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, con nhận ra là khi con đi vào tách biệt, con phải lấy năng lượng từ người khác và từ môi trường của con. Đây là khởi đầu của vật lộn tranh đấu.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, con nhận ra là trong tách biệt, con phải cố gắng đồng-sáng tạo theo một cách phản tự nhiên. Thay vì cho phép năng lượng khoác lấy hình tướng theo các nguyên tắc cơ bản, con tìm cách ép buộc năng lượng phải khoác lấy hình tướng. Con phải dùng vũ lực chống lại người khác lẫn môi trường.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, con nhận ra là trong tách biệt, con tạo ra một tập hợp ngã tách biệt dưới ô dù của tự ngã, nhằm tạo dựng một thế giới quan đặt con vào một vị thế an toàn, cao trội, không thể bị đe dọa.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, con nhận ra là khi con xây dựng thế giới quan thì con cảm thấy phải bênh vực nó. Nó là một vòng đai bảo vệ, nhưng nó cũng là một nhà tù vì tâm con không thể vượt khỏi nó – con phải ở lại trong nó, bảo vệ nó chống lại mọi hiểm họa có thể xảy đến.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, con nhận ra là tâm thức nhị nguyên phối hợp với tâm phân tích và lý trí, cho phép mỗi người có thể chứng minh bất cứ gì mình muốn. Mỗi người dựng lên thế giới quan tương đối của mình xong nâng nó lên thành tuyệt đối.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, con đang bước lên một mức tỉnh giác cao hơn và nhận ra là mọi người đều có một thế giới quan cơ bản. Nhưng nếu thế giới quan này dựa trên tách biệt và nhị nguyên, chắc chắn họ sẽ ở trong thế xung đột với những ai có một thế giới quan dựa trên đối cực ngược lại.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, nay con thấy rõ tám tỷ người trên trái đất có tám tỷ thế giới quan. Mỗi người xem mình là trung tâm vũ trụ của mình, và vì vậy không có một vũ trụ độc nhất mà có đến tám tỷ vũ trụ.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, nay con thấy rõ mỗi vũ trụ như thế chỉ hiện hữu trong tâm mỗi người, nhưng mỗi người hành xử dựa theo thế giới quan của mình, bênh vực cho thế giới quan của mình. Thật không đáng ngạc nhiên là có xung đột, đấu tranh, đau khổ và Biển Luân hồi.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, nay con thấy rõ con không có quyền điều khiển thế giới quan của người khác. Dù là con cái, cha mẹ hay người thân, con cũng không có quyền kiểm soát tâm người khác.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, con nhận ra là có thể con đã tìm cách kiểm soát tâm người khác. Nay con thấy rõ là tự ngã chứ không phải con, đã đứng ra đảm nhận công việc thay đổi tâm người khác. Có nghĩa là giờ đây con có thể rút lui khỏi công việc này.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, con quyết định ngừng tập trung vào việc thay đổi tâm người khác để dành tất cả chú ý vào việc thay đổi tâm con, nâng cao nhận biết của con. Đây là công việc duy nhất của con trên hành tinh này.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, con đang chú tâm vào việc thay đổi tâm thức của con, tâm lý của con. Xin thày giúp con xem xét mọi khuôn nếp, phơi bày mọi ngã tách biệt và để cho chúng chết đi. Con thấy là khi con tập trung làm điều này, con tiến bộ nhanh chóng.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, xin thày giúp con thoát khỏi toàn bộ trò chơi kiểm soát. Con đang giải phóng sự chú ý và năng lượng của con  – ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc – để chúng không bị buộc chặt vào trò chơi này nữa.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận diện một hoạt động đang liên tục diễn ra bên dưới mức nhận biết ý thức của con, là sự đánh giá và phán xét mọi sự kiện bên ngoài. Bất kỳ xung động nào đến với con từ ngoài đều bị các ngã tách biệt đánh giá dựa trên tách biệt và nhị nguyên.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, con nhận ra sự đánh giá liên tục này chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu của ngã tách biệt: “Chuyện này có đe dọa thế giới quan của tôi không và như vậy thì nó xấu? Chuyện này có xác nhận thế giới quan của tôi không và như vậy thì nó tốt?”

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, con thấy rõ những nội dung này đã lấp đầy tâm con cả đời. Trong phần đời còn lại, con quyết định không tiếp tục làm vậy nữa.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, con đang ý thức hơn về thế giới quan của mình trong cả ba thể cảm xúc, lý trí và bản sắc. Xin thày giúp con giải phóng tâm con khỏi sự đánh giá và phán xét liên tục về mọi chuyện, bên ngoài lẫn bên trong.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra nguyên nhân của đau khổ. Chính sự đánh giá nhị nguyên diễn ra trong tâm con khiến con đau khổ. Các sự kiện bên ngoài chỉ là sự kiện bên ngoài, nhưng việc đánh giá diễn ra trong tâm con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, con thấy rõ đau khổ không phải là hậu quả bắt buộc của ngoại cảnh, mà là một điều kiện xảy ra trong tâm con. Do đó, con nắm quyền chủ động trên đau khổ của con.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, xin thày giúp con phơi trần các ngã tách biệt tạo ra đau khổ qua tâm thức tách biệt, nhị nguyên và phán xét giá trị. Hãy giúp con trải nghiệm sự nối kết chặt chẽ hơn với tâm Phật, vì trong tâm Phật không có phán xét giá trị.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, con thấy rõ dính mắc tạo ra đau khổ, là sự dính mắc với những điều nên xảy ra và những điều không nên xảy ra. Khi những điều con nghĩ không nên xảy ra lại xảy ra, con đau khổ. Khi những điều con muốn xảy ra lại không xảy ra, con cũng đau khổ.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, con thấy rõ là con đã ở trong trạng thái xao động, không hài lòng, không an bình vì con luôn luôn nhìn về tương lai, lo sợ chuyện xấu có thể xảy ra hay chuyện tốt có thể không xảy ra. Con bị căng thẳng liên tục. Xin thày giúp con, cái Ta Biết, bước ra khỏi tâm vỏ ngoài, trải nghiệm sự nối kết với cái ta cao, và nhờ vậy con cũng trải nghiệm an bình.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, con đang xem xét tổng quan của con về thế giới: “Có thật là mọi chuyện đều tách biệt hay không? Có thật là tôi đang sống trong một thế giới được tạo thành từ những vật tách biệt, những sự việc tách biệt? Tôi có phải là một sinh thể tách biệt? Tôi có tách biệt khỏi tám tỷ người kia trên hành tinh? Tôi có phải là một hòn đảo ở trung tâm vũ trụ riêng của mình, hay là có gì khác?” Xin thày giúp con ngộ ra là có cái khác đó, và đó là tâm Phật, đó là giác ngộ.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra giác ngộ có giai đoạn. Giác ngộ không phải là một trạng thái toàn hảo tuyệt đối. Giác ngộ là khi con bắt đầu nhìn vượt khỏi ảo tưởng cho rằng thế giới có thể chia ra thành vật tách biệt.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, xin thày giúp con ngộ ra là chỉ ở một cấp độ hay một nhãn quan nào đó, thì thế giới mới hiện ra như được tạo thành bởi vật tách biệt. Chỉ ở một cấp độ nào đó thì sự phán xét giá trị mới có thể xảy ra.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, xin thày giúp con thăng vượt cấp độ đó. Hãy giúp con trải nghiệm là ở đằng sau mọi hình tướng có cái vô hình tướng, tức là Phật tánh. Phật tánh là cái vô hình tướng cho phép hình tướng khởi lên. Cái vô hình tướng có thể khoác vào hình tướng tạm thời, nhưng cái vô hình tướng thì không vì vậy mà thay đổi.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, xin thày giúp con trải nghiệm là mọi hình tướng đều tạm thời. Còn Phật tánh thì thường hằng, vượt thời gian, luôn luôn có.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, con thấy rõ là toàn bộ sự đánh giá chỉ có thể diễn ra trong tâm tách rời khỏi Phật tánh. Nó giữ chặt cái Ta Biết trong tâm tách biệt. Xin thày giúp con trải nghiệm cái Ta Biết như một biểu hiện của Phật tánh vô hình tướng, cho nên nó có khả năng bước ra ngoài tâm có hình tướng để trải nghiệm bản tánh của nó. Đây là tỉnh giác cao hơn. Đây là ý nghĩa thật của chánh niệm tỉnh giác.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, con nhận ra là có thể con đã dùng một hình thức thiền tập nhằm ngăn chặn một số ý tưởng và chú tâm vào một số ý tưởng khác. Nay con thấy rõ đây không phải là ý nghĩa nguyên thủy của tỉnh giác.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, con nhận ra là có thể con đã dùng lời dạy của Phật để củng cố hay để tạo ra một ngã tách biệt mới. Lời dạy của Phật nhằm giải phóng con khỏi tâm tách biệt, nhưng có thể con đã dùng lời dạy của Phật để tạo ra một ngã tách biệt cảm thấy nó cao trội hơn, đặc biệt hơn những ai không chia sẻ thế giới quan của con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, nay con thấy rõ là chừng nào con còn ở trong hiện thân vật lý, thì con vẫn chưa đạt đến một mức tâm thức tối thượng nào đó, con vẫn còn một số ảo tưởng.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 5

5.1. Phật Gautama, con nay không thấy mình tách biệt với người khác, con không xem mình là đặc biệt. Con thấy con là một biểu hiện cá nhân của Phật tánh và mọi người khác cũng vậy, và một biểu hiện của Phật tánh thì không thể cao trội hơn một biểu hiện khác của Phật tánh.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.2. Phật Gautama, con thấy là bất kỳ giáo lý tâm linh nào có giá trị, có xác thực và phát xuất từ một nguồn cao hơn, cũng đều chỉ về cái Một.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.3. Phật Gautama, con thấy rõ mục đích của một lời dạy tâm linh là giải thoát con khỏi chính tâm con. Nếu con dùng lời dạy để thoát khỏi tâm con thì con đang dùng nó theo cách cao nhất. Nếu con dùng nó để giam con chặt hơn vào chính tâm con – vì con tin chắc là mình nắm thế giới quan cao nhất – thì con đang lạm dụng lời dạy.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.4. Phật Gautama, nay con thấy rõ tỉnh giác cao hơn là khi con nhận biết mục đích của đường tu là để con giải thoát khỏi chính tâm con, giải thoát khỏi nội dung của tâm con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.5. Phật Gautama, xin thày giúp con giải phóng chính con, giải phóng tâm con khỏi các nội dung dựa trên tách biệt và nhị nguyên. Và khi con làm vậy, con tạo ra những nội dung khác dựa trên nối kết và hợp nhất.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.6. Phật Gautama, xin thày giúp con không còn đồng hóa với nội dung trong tâm con. Nội dung này chỉ là dụng cụ để con tương tác với thế giới vật chất, tương tác với người khác. Nó không quy định được con.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.7. Phật Gautama, xin thày giúp con không còn cá thể dựa trên ảo tưởng nhị nguyên khiến con xem mình đối lập với người khác. Hãy giúp con xây dựng một cá thể dựa trên cảm nhận nối kết, nối kết với cái ta cao của con, nối kết với một cõi cao hơn, nối kết với người khác, nối kết với thế giới vật lý.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.8. Phật Gautama, xin thày giúp con luôn luôn hành động dựa trên nối kết. Con đang nỗ lực nâng cả tổng thể đi lên vì con thấy con là một phần của tổng thể. Cách để con nâng mình lên là con nâng cao mọi sự sống.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.9. Phật Gautama, con thấy tâm thày đầy ắp Phật tánh. Con cũng muốn tâm con đầy ắp giống như tâm thày.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary và Phật Gautama hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

4 | Con thỉnh cầu cái hiểu cao hơn

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con đạt được tầm hiểu cao hơn và không ngừng cao hơn nữa. Xin thày giúp con thăng vượt tâm thức tách biệt và nhị nguyên là nguyên nhân sâu xa của đau khổ, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, con nhận ra là khi con gọi tên mỗi bước trong Bát chánh đạo là “chánh” thì con có thể vô tình đi vào nhị nguyên. Tâm thức nhị nguyên vốn chia mọi chuyện thành đối cực, xong áp đặt lên đối cực một phán xét giá trị như đúng-sai, thiện-ác. Con quyết định xoay chuyển, và con dùng từ “cao hơn” – như cái hiểu cao hơn.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, “cao hơn” hàm ý là luôn luôn có một cái hiểu cao hơn có thể được thu hoạch. Không có gì là chót cùng. Con thấy là chừng nào con còn đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất, thì không một hiểu biết tối hậu nào có thể đạt được.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, con thấy rõ là con không bao giờ có thể ngừng chân lại và cho phép mình tin rằng: “Vì tôi đã hiểu được giáo lý này cho nên tôi đã nắm được hiểu biết tối hậu.”

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, con nhận ra là khoa học đã phần nào nâng cao hiểu biết con người, nhưng khoa học chủ yếu dựa trên tâm suy luận, phân tích đường thẳng, muốn nhìn mọi chuyện dưới góc độ nhân và quả.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nắm được lý duyên khởi mà thày giảng dạy. Không có hiện tượng nào tách biệt, không có nguyên nhân nào tách biệt. Tất cả đều là một phần của một tổng thể lớn hơn.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, xin thày giúp con trải nghiệm mọi hiện tượng đều là sóng năng lượng, tỏa rộng trong không gian và không ngừng chuyển động. Tất cả hiện tượng con thấy đều là sự biểu hiện của một cái gì mà con không thấy, sự biểu hiện của một tổng thể liên kết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, xin thày giúp con trải nghiệm con không là một cơ thể vật lý tách biệt, một thể cảm xúc tách biệt, một thể lý trí tách biệt, một thể bản sắc tách biệt. Con không là một đơn vị tách biệt khỏi môi trường của con.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận diện và thoát khỏi sự lập trình khổng lồ trong tâm tiềm thức của con và trong tâm thức tập thể, khiến con khoác vào bản sắc của một sinh thể tách biệt.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, con vẫn nhận diện những sự khác biệt, nhưng con không áp chồng một lớp phủ ý thức hệ lên các ấn tượng đến từ giác quan và tâm vỏ ngoài của con, bảo rằng chúng tách biệt và là sự thật khách quan.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, con nhận ra là để có thể làm hại người khác, con phải tạo ra hình ảnh là người đó không phải là một con người như con. Họ tách biệt với con, cho nên con có thể làm hại họ mà không ảnh hưởng gì đến con.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, con đang thăng vượt tâm thức tách biệt. Trong mọi hoàn cảnh, con thực hành triệt để lời dạy này: Không làm tới người khác những gì con không muốn người khác làm tới con.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, nay con thấy rõ bước đầu tiên của Bát chánh đạo là chất vấn ảo tưởng tách biệt. Con nhận ra cơ sở của tách biệt là tâm thức nhị nguyên, luôn luôn muốn áp đặt một phán xét giá trị lên những khác biệt vỏ ngoài.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, con thấy rõ sự phán xét giá trị có thể biện minh cho hầu hết mọi hành vi xâm phạm những ai con đã dán nhãn là thấp kém. Con buông bỏ mọi cảm nhận cao trội lẫn thấp kém.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, con thấy rõ là khi con bước vào tâm thức nhị nguyên tách biệt, con chỉ có thể đau khổ. Con thấy rõ đây là nguồn gốc của đau khổ. Con không có cách chi thoát được đau khổ chừng nào con còn ở trong nhị nguyên tách biệt.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, con đã nắm được cái hiểu cao hơn về Maya, ảo tưởng rằng con là một sinh thể tách biệt.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, con thấy rõ ảo tưởng tách biệt đã khiến con có nhu cầu kiểm soát môi trường xung quanh, kiểm soát người khác qua các phương tiện vật lý, cảm xúc, lý trí, thậm chí cả ý niệm bản sắc của họ.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, con thấy rõ nhu cầu kiểm soát ngoại cảnh khởi lên từ nhu cầu kiểm soát chính tâm con để tìm sự cân bằng trong tâm. Nhưng tâm nhị nguyên khiến con chỉ thấy được một cách để kiểm soát tâm con, là kiểm soát ngoại cảnh.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, con thấy rõ nhu cầu kiểm soát ngoại cảnh đã khiến con giao tranh bất tận với người khác. Và khi mọi người cùng mang tâm thức giao tranh thì giao tranh sẽ tiếp diễn mãi mãi. Đây là Biển Luân hồi.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, con nhận ra nhu cầu kiểm soát là một vòng xoáy không bao giờ chấm dứt vì con cố làm chuyện bất khả thi. Con đang thăng vượt nhu cầu kiểm soát này.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, nay con thấy rõ Bát chánh đạo là một lời mời cho những người như con đã chán ngán tình trạng bị sóng biển luân hồi xô đẩy tới tấp. Con tìm kiếm một cái gì khác hơn, và để đạt được cái khác hơn này, con quyết định làm gì khác hơn.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, cái khác hơn đó là con nắm bắt sự cần thiết phải thăng vượt Maya, ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng nhị nguyên, các đối cực nhị nguyên, sự phán xét giá trị, cảm nhận cao trội lẫn cảm nhận thấp kém. Con đang chất vấn toàn bộ tư duy này.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, con đang chất vấn tâm con, chất vấn cách con nhìn cuộc sống, cách con tiếp cận cuộc sống.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, con nhìn nhận con không là một hòn đảo, mà thực sự con nối kết – theo nhiều cách vượt khỏi tầm nhìn của mắt thịt – với một nguồn cội vượt khỏi môi trường của con. Con đang nhận ra có gì đó ở ngoài thế giới vật chất – con là ai, con được sinh tạo thế nào.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, nay con thấy rõ Bát chánh đạo là một tiến trình tuần tự, từng bước một, để đem các ảo tưởng và các khuôn nếp phản ứng của con vào tâm ý thức, xem xét chúng một cách phân biện, lượng định hậu quả của chúng, sự chính đáng và nhất quán của chúng.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, con thấy rõ các ảo tưởng đang giới hạn con. Con đã chán ngán sự giới hạn, vì giới hạn giữ con kẹt lại trong Biển Luân hồi.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, để vượt Biển Luân hồi, con đang dùng con thuyền Bát nhã được tạo thành từ giáo lý và tu tập. Nhưng con thấy rõ là con không thể học giáo lý vỏ ngoài, thực hành pháp tu vỏ ngoài mà nghĩ rằng con sẽ tự động sang được bờ bên kia.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, con thấy rõ con sẽ chỉ sang được bờ bên kia bằng cách xem xét mình, nhìn vào bản thân, nhìn vào các tin tưởng, các khuôn nếp của mình. Tại sao con phản ứng cách này, tại sao con nghĩ kiểu này, tại sao con xem mình là loại người này. Con tuần tự chất vấn và giải thể từng ảo tưởng một.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, con thấy đó mới thực là con thuyền Bát nhã. Đó là khởi đầu của minh triết, khởi đầu của hiểu biết. Con đang bước trên con đường của cái hiểu cao hơn.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, con thấy rõ làm thế nào tâm con là một hệ thống khép kín. Nó khép kín vì con dùng khả năng của tâm để kềm nén cảm xúc, tư tưởng và ý niệm bản sắc, kềm nén bất cứ gì làm con xáo trộn. Khi có một ý tưởng mới đến với con, con cố nhét nó vào hệ thống sẵn có trong tiềm thức đánh giá mọi ý tưởng mới.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, con thấy rõ là chính con đã giới hạn lời dạy của thày khi con áp chồng lên khái niệm giác ngộ một hình ảnh ở trình độ tâm thức hiện thời của con. Xong con phóng chiếu là khi con giác ngộ, hình ảnh này sẽ được chứng thực là chân lý tối thượng.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, con thấy rõ mỗi khi con áp chồng một điều gì lên lời dạy, thì điều này sẽ ngăn cản con đi bước kế tiếp trên con đường giác ngộ.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, con nhận ra đó là một khía cạnh của mong muốn cao trội.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, con buông bỏ mọi mong muốn lời dạy phải xác chứng tin tưởng hiện thời của con. Thay vào đó, con đang dùng lời dạy để tra vấn mọi tin tưởng trong tâm ý thức lẫn tâm tiềm thức.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, nay con thấy rõ khởi đầu của Bát chánh đạo là sự sẵn lòng chất vấn chính tâm mình. Con thấy tâm con có thể biến thành một vòng tròn khép kín, tự xác nhận và tự củng cố.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, con buông bỏ mong muốn bám giữ bất cứ tin tưởng nào, ảo tưởng nào, khuôn nếp nào.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, con đang giúp thày giúp con. Con chấp nhận để cho thày thách thức mọi tin tưởng của con. Con muốn đạt được cái hiểu cao hơn, không ngừng cao hơn nữa.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary và Phật Gautama hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

Con thỉnh cầu nỗ lực cao hơn, Bài 2 (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con nhận ra nỗ lực tối cao là không nỗ lực, không cố gắng giỏi hơn, mà là buông bỏ để xuôi theo Dòng sông sự Sống, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là nhiều người tìm được một giáo lý tâm linh hay một tôn giáo, và sau đó họ lấy vào một cái nhìn phức tạp về những gì họ phải làm và không được làm. Họ xả thân cần cù thực tập, và họ tin chắc họ tiến bộ và một ngày kia Phật sẽ hiện ra ban cho họ giác ngộ và bỏ mặc người khác.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là họ tin rằng một giáo lý thần diệu nào đó sẽ hiện ra cho họ và khi họ đọc giáo lý đó, họ sẽ giác ngộ. Con nhận ra đây là một ảo tưởng.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là tự ngã đang cố gắng quy định những tiêu chuẩn thế gian mà nó nghĩ sẽ bảo đảm cho nó vào cõi cao. Những tiêu chuẩn này dựa trên tách biệt. Con biết là chúng không dẫn tới cái một.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra sự thật là cái một, sự không thật là tách biệt và phân chia. Xin thày giúp con thấy là tự ngã nghĩ là nó có thể rời cái một và đi vào tách biệt, và dựa trên ảo tưởng tách biệt nó có thể trở về cái một. Nhưng điều này không bao giờ làm được. 

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là nhiều người tin rằng bước chân trên đường tâm linh là một cuộc phiêu lưu vinh quang dẫn họ tới những trạng thái tinh tiến hơn và đem lại cho họ chức vị và sự công nhận của thế gian.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, xin thày cho con thấy con đường tâm linh thật sự không vinh quang. Nó là con đường liên tục nhìn vào chính mình, nhìn vào phản ứng của mình, phơi bày phản ứng trong tâm lý mình, vạch trần các ngã tách biệt và cho chúng chết đi.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là nhiều đệ tử cho rằng khi họ đi theo vị đạo sư hoàn hảo thì vị đạo sư này có quyền năng thần diệu chuyển hóa họ mà họ không cần nhìn vào chính trạng thái nhận biết và tâm lý của họ. Con nhận ra đấy là ảo tưởng do ngã tách biệt tạo ra.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con còn hiện thân trong thân thể vật lý thì con có một số ảo tưởng đặc thù mà con cần khắc phục. Con sẽ khiêm cung, thực tế và không tuyên bố mình đã đạt được một trạng thái hoàn hảo nào đó.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy mọi sự đều là Phật Tánh và mỗi sinh thể có tự nhận biết là một biểu hiện của Phật Tánh. Xin thày giúp con nhận ra là trên cơ bản không có sinh thể nào có thể đặc biệt hơn, hoàn hảo hơn sinh thể khác.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là trong Phật tánh không có phán xét giá trị. Chỉ trong màn huyễn maya, trong ảo tưởng tách biệt mới có phán xét giá trị nói rằng một người đặc biệt hơn người khác.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con tiến cao hơn, con bắt đầu thấy cái tổng thể và do đó mỗi nỗ lực của con có mục đích nâng cao tổng thể, thay vì nâng cao chính mình như một cá nhân tách biệt.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy là con không thể khắc phục tách biệt bằng tách biệt. Con không thể tạo ra một ngã tách biệt có khả năng nắm bắt cái một, trải nghiệm cái một, đi vào cái một.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con không thể lấy một ngã tách biệt và hoàn thiện nó để nó đi vào cái một.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con học một giáo lý, con nắm bắt nó ở tầng cảm xúc, rồi con học nó lại và nắm bắt nó ở tầng lý trí, rồi con học nó lại và nắm bắt nó ở tầng bản sắc.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là nếu con không nắm bắt giáo lý ở tầng tình cảm, thì con có thể dễ dàng đọc giáo lý mà nó không chuyển hóa tâm thức con.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con hiểu giáo lý qua trí năng, thì con dùng sự hiểu biết trí năng để tạo ra một loại tâm ảnh về giáo lý. Xin thày giúp con nhận ra đấy không phải là nắm bắt giáo lý.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con cần dùng giáo lý như tấm gương để nhìn chính mình, nhìn phản ứng của chính mình, nhìn chính tâm lý mình, và khi con thấy điều gì đó trong mình, con ý thức về nó và buông bỏ nó, lúc ấy con đã sử dụng giáo lý, lúc ấy con nắm bắt giáo lý, con thể nhập giáo lý. Xin thày giúp con nhận ra là con đã đưa giáo lý vào hành động.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra mục đích nội tại thật của một giáo lý là kết nối con với tâm một bên trong con để con ngưng phóng chiếu là tâm một ở ngoài con. Xin thày giúp con nhận ra là con có Phật tánh trong con, và con tìm thấy Phật tánh bằng cách nhìn bên trong con. Xin thày giúp con thấy là tâm tách biệt, tự ngã không thể nắm bắt điều này, nó tìm Phật ở ngoài nó.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, xin thày giúp con khám phá Phật tánh trong chính con, không qua sự hiểu biết trí năng mà qua một trải nghiệm trực tiếp.  

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra cốt lõi bản thể con là cái Ta Biết, cái ta ý thức. Xin thày giúp con thấy là nó tạo ra nhân cách vỏ ngoài, nó tạo ra nội dung trong tâm tình cảm, lý trí và bản sắc nhưng nó không trở thành các nội dung đó.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con đã tạo ra tự ngã nhưng con không trở thành tự ngã. Xin thày giúp con nhận ra là con chỉ chui vào tự ngã như con mặc vào một áo giáp, và con không mất đi khả năng bước ra ngoài tự ngã và tâm vỏ ngoài.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con trau dồi khả năng bước ra ngoài tự ngã, khi con giảm thiểu lực hút của tâm vỏ ngoài trên tâm ý thức của con, thì con sẽ tới điểm con tự nhiên trải nghiệm bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của mình.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi cái Ta Biết bước ra ngoài tự ngã thì con kết nối với cái gì lớn hơn, cái gì vượt quá ý niệm bản ngã bình thường của con. Xin thày giúp con nhận ra đây là trải nghiệm tâm một, trải nghiệm Phật tánh trong con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là nỗ lực trên đường tâm linh phải nhắm tới trải nghiệm cái một, trải nghiệm nối kết. Xin thày giúp con nhận ra là tâm vỏ ngoài của con sẽ nói: “Ồ, để tạo ra trải nghiệm này, để bảo đảm có trải nghiệm này, hẳn tôi phải nỗ lực một cách đặc biệt nào đó.”

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra điều con cần làm là không nỗ lực, không cố gắng giỏi hơn, không cố gắng mãnh liệt hơn. Xin thày giúp con nhận ra con cần ngưng cố gắng, con cần ngưng các nỗ lực của ngã tách biệt muốn tạo sự tiến bộ tâm linh.   

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy có những nỗ lực con có thể làm để khắc phục các ảo tưởng nhưng không có nỗ lực nào con có thể làm để trải nghiệm cái một.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là để trải nghiệm cái một, con phải ngưng nỗ lực. Xin thày giúp con nhận ra con thật sự cần cho tâm con yên lặng, nhưng chẳng có nỗ lực nào con có thể làm được để an tâm mình.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi tập thiền định, con càng nỗ lực làm cho tâm im lặng thì con càng thật sự dùng tâm nhiều hơn, do đó con càng bị kẹt trong tâm mình hơn. Xin thày giúp con thấy dùng tâm để làm cho tâm im lặng chỉ khiến con rơi vào một cái bẫy mới.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, con sẵn lòng tiến bước trên đường tu, khắc phục những ngã tách biệt. Xin thày giúp con nhận ra là sẽ có lúc con tới điểm trải nghiệm một cách tự phát mình đang bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của mình và nối kết với cái gì vượt lên trên tâm mình.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là trải nghiệm cái một không phải là điều mà con có thể tạo ra, mà con chỉ có thể nhận được như một món quà, một ân huệ, nhưng không có một lực bên ngoài nào ban nó cho con.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là trải nghiệm cái một chỉ xảy ra một cách tự phát khi con bước trên đường tu. Xin thày giúp con nhận ra là con cần kiên nhẫn với chính mình, tiếp tục bước trên đường tu và chờ nó xảy ra. Con không dính mắc nó xảy ra hay không xảy ra.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con muốn trải nghiệm cái một xảy ra thì con đang dùng tâm vỏ ngoài để cố gắng cho nó xảy ra, và điều này đẩy nó xa ra khỏi con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là sẽ có một tầng trên đường tu khi con cần vượt lên trên nỗ lực, con cần vun trồng khả năng không nỗ lực.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con có thể trải nghiệm sự kết nối ngay lúc này nhưng con chỉ trải nghiệm được khi con từ bỏ nỗ lực.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là thay vì muốn có một trải nghiệm nào đó, con đi vào trạng thái tâm hoàn toàn trung hòa. Bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra. Nếu con có trải nghiệm, con có trải nghiệm. Nếu không có trải nghiệm, con tiếp tục bước trên đường tu.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, con sẵn lòng buông bỏ, phó thác, xả bỏ để xuôi theo Dòng sông sự Sống. Con không nỗ lực. Con nhận ra nỗ lực tối cao là không nỗ lực.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

14 | Con thỉnh cầu nỗ lực cao hơn

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con nỗ lực cao hơn qua những hoạt động giải thoát con khỏi sự đồng hóa với ngã tách biệt. Hãy giúp con buông bỏ mọi nỗ lực của tâm tách biệt và bước vào trạng thái trung hòa nơi con kết nối với cái ta cao của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con quy định nỗ lực của mình là đúng hay sai, thì con đang biến sự tu tập của mình thành một chứng ám ảnh cưỡng chế đi theo con đường vỏ ngoài.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra mục đích của Bát chánh đạo, mục đích của Trung đạo, là nâng cao tâm thức. Và chỉ có một cách để nâng cao tâm thức là giải quyết tâm lý của con.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là việc thực tập tâm linh có thể hiệu quả khi nó chuyển hóa các năng lượng dựa trên sợ hãi đã tích tụ trong bốn thể phàm của con. Nhưng không một kỹ thuật tâm linh nào có thể chuyển hóa trạng thái tâm con, các tin tưởng và ảo tưởng của con.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là như một sinh thể cá biệt, con có thẩm quyền cho phép cái gì đi vào tâm con, cái gì ra khỏi tâm con, và cái gì xảy ra trong tâm con. Khi con cho phép một ảo tưởng đi vào tâm con, dù là trong một kiếp trước, thì chính con đã lấy quyết định đó.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là một thực tập tâm linh không thể tự động nâng cao tâm thức của con vì nó không thể lấy quyết định giùm con. Chính con, cái Ta Biết, phải lấy quyết định bằng cách đưa các ảo tưởng trong tiềm thức ra nhận biết ý thức, xem xét chúng, thấy chúng là ảo tưởng và sa thải chúng.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra bất cứ gì xảy ra trong tâm con đều có ba yếu tố: có một ảo tưởng, có tâm thức mà con dùng để thấm đẫm ảo tưởng, và có năng lượng bị hạ thấp độ rung bởi ảo tưởng. Và như thế con tạo ra những hành uẩn, những khuôn nếp hay những ngã tách biệt trong ba thể tiềm thức của con.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là ngã tách biệt, cùng với tự ngã là bình chứa các ngã tách biệt, có một dạng tâm thức sơ đẳng. Chúng không thể tự thay đổi, nhưng chúng có một bản năng sinh tồn khiến chúng không thể tự cho phép chúng chết đi. Chỉ có con, cái Ta Biết, mới có quyền năng cho chúng chết đi.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra ngã tách biệt có lực hút từ tính kéo cái Ta Biết vào tấm màn ảo tưởng, khiến con nhìn mọi sự xuyên qua tấm màn này, rồi quên mất là con nối kết với cái ta cao, con có Phật tánh, con có tiềm năng Phật trong con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra nỗ lực cao hơn là những hoạt động có tác dụng giải thoát con khỏi sự đồng hóa với các ngã tách biệt và tự ngã.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi con đồng hóa với ngã tách biệt, con có xu hướng nghĩ rằng mục đích của con đường tâm linh là hoàn thiện ngã tách biệt cho tới khi nó giác ngộ.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra ngã tách biệt không thể đi vào kết nối, vì nó sinh ra từ tách biệt và bản chất của nó là tách biệt. Thay vào đó, con đi vào kết nối bằng cách để cho ngã tách biệt chết đi.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con không thể hoàn toàn mất đi tiềm năng trở về kết nối. Sự kết nối luôn luôn có đó. Cái ta cao của con luôn ở đó, nó luôn hướng năng lượng về phía con. Con chỉ cần buông bỏ ngã tách biệt để trở về trạng thái kết nối tự nhiên.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, xin thày giúp con đi vào kết nối một cách thực tiễn qua việc tuần tự khắc phục từng ngã một. Con xem xét phản ứng của con trong từng tình huống, con dùng trực giác để phơi bày ngã lẩn trốn đằng sau khuôn nếp phản ứng, và con hỏi: “Tại sao tôi phản ứng thế này trong hoàn cảnh này? Tin tưởng nào đứng đằng sau phản ứng này? Tôi có muốn tiếp tục phản ứng thế này nữa không?”

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra ngã tách biệt là một dính mắc. Con buông bỏ ảo tưởng và ham muốn đằng sau sự dính mắc. Con buông bỏ ý tưởng là con phải thành tựu một điều gì trong thế gian hầu khỏa lấp cảm giác mình không trọn vẹn.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, có thể có hai người có cùng ảo tưởng, học cùng giáo lý, tu cùng pháp tu, nhưng một người buông bỏ được ảo tưởng và người kia thì không. Nay con thấy rõ tinh túy của con đường tâm linh là nhìn ra ảo tưởng và buông bỏ ngã tách biệt, chứ không phải là nâng cao và hoàn thiện ngã tách biệt.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, con thấy rõ con cần tập trung chú ý vào đâu, liệu con nhìn ra bên ngoài hay con nhìn vào bên trong. Con buông bỏ mong muốn đi tìm một phương thức thần diệu ở bên ngoài, hay một vị đạo sư bên ngoài có thể cho con giác ngộ.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, con thấy rõ không một vị thày nào có thể thần diệu đưa con vào giác ngộ. Không ai có thể gỡ bỏ quyết định của con giùm con. Xin thày giúp con xem xét quyết định nào trong quá khứ đã khiến con chấp nhận ảo tưởng và tạo ra ngã tách biệt, và con quyết định một cách ý thức để cho ngã này chết đi.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, con thấy rõ là ngày nào con còn hướng chú ý ra ngoài và nỗ lực thay đổi điều gì bên ngoài, thì con sẽ còn dậm chân tại chỗ. Con sẽ chẳng đi tới đâu cho dù con có thể tạo cảm tưởng là mình đang tiến bộ.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, con thấy rõ là khi làm vậy, con chỉ dùng giáo lý tâm linh để xây dựng một ngã tách biệt mới. Ngã này dựa trên ảo tưởng là nếu con chăm chỉ học giáo lý và thực hành pháp tu, con sẽ trở nên một đệ tử càng ngày càng cao cấp.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, con thấy đó chỉ là giấc mơ bất khả thi của tự ngã. Để khỏa lấp sự thiếu trọn vẹn trong con, nó nghĩ là sau khi con đã rời cái một để đi vào tách biệt, thì con có thể trở về cái một dựa trên ảo tưởng tách biệt. Điều này không thể làm được.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là ngày nào con còn đầu thai thì con vẫn còn một số ngã tách biệt mà con chưa phát hiện. Nếu con không còn ngã tách biệt nào nữa thì con đã không thể ở lại trong một xác thân vật lý trên một hành tinh dày đặc như trái đất.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là ngày nào con còn đầu thai thì con vẫn còn một số ảo tưởng cần khắc phục. Con khiêm tốn, con thực tế, và con buông bỏ mọi mong muốn xem mình đã đạt được một sự toàn thiện nào đó.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, con thấy rõ mọi mong muốn tôn thờ, thần tượng hóa một vị thày tâm linh như một sinh thể toàn hảo, chỉ có thể phát xuất từ ý niệm tách biệt.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm bản thân con là sự biểu hiện của tâm một, và mọi người khác cũng vậy. Một biểu hiện của tâm một không thể nào tinh xảo hơn, hoàn hảo hơn, đặc biệt hơn một biểu hiện khác của tâm một.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, con thấy rõ mong muốn thấy mình đặc biệt là một ảo tưởng do ngã tách biệt tạo ra. Con không thể khắc phục tách biệt bằng tách biệt. Con không thể tạo ra một ngã tách biệt có thể nắm bắt cái một, trải nghiệm cái một, nhập vào cái một. Con không thể hoàn thiện một ngã tách biệt để nó đi vào hợp nhất. Con không thể khắc phục một trạng thái tâm thức, khắc phục một vấn đề với cùng trạng thái tâm thức đã tạo ra vấn đề.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con thay vì chỉ hiểu giáo lý bằng trí năng thì con nắm bắt được giáo lý. Con dùng giáo lý như một tấm gương để soi chính mình, soi phản ứng của mình, soi tâm lý của mình. Khi con nhận ra điều gì thì con ý thức nó và buông bỏ nó. Đây chính là nắm bắt vì con đã đem giáo lý vào hành động.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, con thấy rõ con không thể kết nối với tâm một bằng trí năng từ một khoảng cách, con không thể dùng tâm tách biệt để tạo ra một hình tư tưởng về tâm một. Xin thày giúp con bước ra ngoài tâm tách biệt và trải nghiệm trực tiếp tâm một.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, con thực hành câu “Nếu gặp Phật trên đường thì hãy giết Phật.” Con giết hình tư tưởng về Phật trong tâm con để con khám phá Phật tánh trong chính con.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích.
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch
làm thế nào để nhận biết trong sạch.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, con thấy rõ là con đã chui vào tự ngã giống như con mặc vào một bộ áo giáp. Con đã tạo ra tự ngã nhưng con không trở thành tự ngã. Xin thày giúp con có trải nghiệm bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của con và trải nghiệm Phật tánh trong con.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh,
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, con đang noi theo gương Phật. Điều gì Phật đã làm được thì ai ai cũng đều làm được. Cho nên nếu con phóng chiếu là Phật tánh chỉ có thể hiện ra trong Phật, thì con không thật sự là người theo Phật. Con chỉ đang dựng lên một thần tượng và tôn thờ thần tượng đó.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là không có nỗ lực nào dựa trên ảo tưởng tách biệt có thể đưa con vào hợp nhất. Con không cố gắng, con không cố gắng tốt hơn, con không cố gắng mãnh liệt hơn. Con ngừng cố gắng. Con ngừng mọi nỗ lực của ngã tách biệt muốn chế tạo tiến bộ tâm linh.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, con không cố gắng khiến cho tâm mình im bặt. Con nhận ra là nếu con càng nỗ lực làm cho tâm mình im lặng thì con càng dùng tâm tách biệt nhiều hơn, và con chỉ càng kẹt hơn trong tâm tách biệt.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, xin thày giúp con trải nghiệm một cách tự phát là mình đang bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của mình và nối kết với cái gì vượt khỏi tâm mình.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, xin thày giúp con trải nghiệm sự hợp nhất không như một điều con có thể chế tạo, mà con nhận nó như một món quà, một hồng ân. Hồng ân này không do một lực nào bên ngoài ban cho con vì nó tự phát. Cho nên con an nhiên bước tiếp trên đường tu và kiên nhẫn chờ nó xảy ra.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con không thể nỗ lực mà con chỉ có thể từ bỏ nỗ lực. Con buông bỏ dính mắc muốn có những trải nghiệm tột đỉnh, vì dính mắc này sẽ đẩy trải nghiệm hợp nhất ra xa.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, con buông bỏ mong muốn trải nghiệm. Xin thày giúp con bước vào trạng thái tâm trung hòa. Bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra. Nếu con có trải nghiệm thì con có trải nghiệm. Nếu con không có trải nghiệm thì con vẫn bước tiếp. Con đang xuôi theo dòng sông sự sống. Con đã thấy rõ nỗ lực tối cao là không nỗ lực.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary và Phật Gautama hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

6 | Con thỉnh cầu ý định cao hơn

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con nhìn ra ý định cao hơn của con, là không ngừng nâng cao nhận biết của mình, hoàn thành Kế hoạch Trọn đời và biểu hiện bản thể cao của mình, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, con nhận ra con là người mà con là ngay bây giờ, và dựa trên đó con nhìn thế giới, bản thân và cuộc sống theo một cách nào đó. Con có một số ý định, một số mong muốn mà con muốn thực hiện, một số thứ mà con muốn có, một số điều mà con muốn tránh.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, con nhận ra là khi con cất bước trên đường Bát chánh đạo, ý định mà con có ngay bây giờ không phải là ý định cao nhất. Ngoài ý định trước mắt là sinh sống trên trái đất trong một cơ thể vật lý, con còn có một ý định dài hạn vượt xa hơn trái đất, xa hơn cơ thể vật lý. 

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, xin thày giúp con vượt qua thử thách muôn đời là quân bình hai ý định đó. Con đang dung hòa ý định mình ở đây với ý định không vĩnh viễn ở đây. Con đang khởi đầu một tiến trình thực sự chất vấn các ý định và mong muốn sâu xa của mình.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, xin thày giúp con không nhìn Chánh tư duy bằng tâm vỏ ngoài cứ muốn phân biệt ý định chân chính với ý định bất chính. Hãy giúp con không dán nhãn ý định này là sai, cần kìm nén, và ý định kia là đúng, cần thực hiện.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con đã bước vào đường tu với một số ý định về những thành quả con muốn gặt hái. Xin thày giúp con xét lại các ý định này với một mức nhận biết cao hơn.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, nay con thấy rõ con đã đi vào tâm thức nhị nguyên khi con quy định ý định nào là đúng, ý định nào là sai. Con đã sẵn lòng dùng vũ lực trên chính mình, sẵn lòng vận dụng ý chí, chú ý và tập trung để cưỡng ép mình, cưỡng ép tâm mình.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, có thể con đã cưỡng ép tâm con để nó không suy nghĩ, để nó không có ý tưởng, và như vậy con đã tạo ra căng thẳng to lớn. Xin thày giúp con nhận ra làm thế nào để con không cần dùng đến sức mạnh nữa.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là trước khi đầu thai trong kiếp này, con đã lập ra một Kế hoạch Trọn đời. Con đã ngồi xuống với các vị thày tâm linh của con và lượng định: “Con đang ở mức tâm thức nào? Đâu là những khuôn nếp, những ảo tưởng trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc mà con cần khắc phục để nâng cao nhận biết? Và làm thế nào con có thể tạo thuận lợi nhất cho công việc này trong kiếp đầu thai sắp tới?”

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là qua Kế hoạch Trọn đời, con đã quyết định đặt mình vào một số hoàn cảnh bắt buộc con phải nhìn thấy và giải quyết một số khía cạnh cụ thể trong tâm lý. Con đã chọn đương đầu với những hoàn cảnh này, cho dù khi bước vào đầu thai thì con có thể đã quên mất.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nối kết lại với Kế hoạch Trọn đời của con.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, nay con thấy rõ con có một cơ chế trong tâm muốn kềm chế và trấn áp những điều nó xem là mối đe dọa. Khi phải đương đầu với hoàn cảnh khó khăn hay người khó tính, con có xu hướng đè nén nhu cầu xem xét chính mình, trấn áp cảm xúc và các tin tưởng của mình, và kềm chế hoàn cảnh để nó không làm xáo trộn thế cân bằng của mình.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, xin thày giúp con trả lời câu hỏi: “Khi tôi lập ra Kế hoạch Trọn đời, tôi đã muốn nhìn thấy điều gì? Tại sao tôi đã đặt mình vào hoàn cảnh này? Tôi muốn phơi bày điểm gì trong tâm lý của tôi? Tại sao tôi có khuôn nếp phản ứng này đối với một số loại người?”

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, nay con thấy rõ câu hỏi này đang giúp con hình thành một ý định cao hơn. Con đang nhận diện và khắc phục các khuôn nếp, con đang nối kết với ý định đằng sau Kế hoạch Trọn đời. Đây chính là ý định của con. Không còn yếu tố vũ lực nào ép buộc con nữa.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, nay con thấy rõ có hai cấp độ ý định. Một là tự ngã có ý định duy trì một thế cân bằng, không muốn bị xáo trộn hay cảm thấy bị đe dọa. Nó khiến con muốn kềm chế cảm xúc, kềm chế tư tưởng, kềm chế cách con nhìn chính con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, nay con thấy rõ đó không phải là ý định cao nhất của con. Ý định cao nhất của con là Kế hoạch Trọn đời, là ý muốn khắc phục những khuôn nếp đó, có thể tất cả các khuôn nếp mà con còn sót lại. Đây mới là ý định của con, và con đang nối kết lại với ý định này.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, xin thày giúp con trả lời câu hỏi: “Tôi là ai? Ai đang thu nhận lời dạy này, và ai đang cưỡng lại lời dạy này? Ai là cái ta đang cởi mở và ai là cái ta đang muốn đóng tâm lại? Ai là cái ta nhận biết mình đang ngồi trên ghế này? Ai là cái ta có khả năng lùi lại trong tư tưởng để nhìn cơ thể đang ngồi trên ghế này?”

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, nay con thấy rõ con không phải là cơ thể vật lý của con. Con không là tình cảm của con, con không là tư tưởng của con, con cũng không là ý niệm bản sắc dính liền với trái đất.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, nay con thấy rõ con có thể bước ra ngoài cảm xúc, ý nghĩ và ý niệm bản sắc của con. Con giống như một diễn viên khoác vào một bộ trang phục, một lớp phấn son, thậm chí một giọng nói và một nhân cách đặc thù, và diễn viên này bước ra sân khấu, diễn xuất như thể mình là một người khác hẳn con người mình vốn là. Cả bốn thể của con giống như một bộ đồ mà con đã chui vào.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm cái ta của con. Cái ta chính là cốt lõi của bản thể con. Nhưng cái ta mà con là, nó vượt khỏi, nó là nhiều hơn bốn thể phàm của con. Cho nên nó không thể được mô tả bằng ngôn từ hay những tâm ảnh được sử dụng trên trái đất.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, xin thày giúp con vượt khỏi mức nhận biết của tâm vỏ ngoài vốn chỉ nắm bắt, phân loại, dán nhãn và mô tả. Hãy giúp con buông bỏ cách con đang nhìn cuộc sống để con có được một trải nghiệm gọi là thần bí.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra trải nghiệm thần bí thật chẳng thần bí gì cả. Đơn giản đó là trải nghiệm về cái ta ý thức, cái Ta Biết, là cái ta đã tạo ra cơ thể vật lý cùng các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc, và sử dụng bốn thể này như một cỗ xe để tương tác với môi trường trên trái đất.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm cái Ta Biết. Cái Ta Biết đã bước vào tâm con, nên nó cũng có khả năng bước ra khỏi tâm con. Nó có thể nhận biết chính nó là bốn thể phàm, nhưng nó cũng có khả năng bước ra ngoài bốn thể để ý thức chính nó vượt hơn bốn thể, nó vượt hơn tâm. Nay con thấy rõ đây là nền tảng cho mọi tăng triển nhận biết.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm cái Ta Biết đang bước lên các bực thang tâm thức. Con luôn luôn có khả năng thay đổi các khuôn nếp phản ứng một cách ý thức và cố tình. Mặc dù con đã phản ứng theo cùng một cách hàng trăm lần, con vẫn có thể chọn một cách phản ứng mới trong lần kế tiếp.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, nay con thấy rõ ngã vỏ ngoài bị buộc chặt vào bực thang tâm thức hiện tại. Nó chỉ biết phản ứng theo một chương trình tiềm thức. Nó không có chọn lựa vì chương trình đã chọn lựa giùm nó.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, xin thày giúp con phát triển tối đa khả năng tự nhận biết, kể cả những tầng tự nhận biết cao hơn về cái ta mà con thực là. Con không là phản ứng, không là cảm xúc, không là ý nghĩ, không là ý niệm bản sắc vỏ ngoài. Con là một sinh thể tâm linh. Con đến từ ngoài trái đất.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra Bát chánh đạo, hay con đường tâm linh, là một tiến trình càng ngày càng tự nhận biết nhiều hơn. Cái ta mà con là càng ngày càng trở nên ý thức về cái nó là và cái nó không là.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con đã đến trái đất để có một số trải nghiệm giúp cho tiến trình giác ngộ. Con đã không đến đây chỉ để thoát khỏi trái đất mà để có một số trải nghiệm. Con phải tạo ra nội dung trong tâm để con có được loại trải nghiệm có thể có trên trái đất, cho đến khi con chán chê và mong muốn một cái gì hơn nữa.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, nay con thấy rõ cốt lõi con đường tâm linh là con ý thức về những nội dung con bỏ vào trong tâm, xong con lần hồi vứt bỏ đi để có ít hơn. Càng ngày con càng tự do hơn. Giác ngộ là khi tâm con không còn nội dung nào dựa trên ảo tưởng nhị nguyên tách biệt nữa.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, nay con thấy rõ con đang lần hồi bỏ đi cái mà hầu hết mọi người xem là nhân cách và bản sắc của mình. Nhưng con không trở thành con số không, vì con vẫn có một sự cá biệt trong bản thể cao mà bây giờ con có thể biểu đạt trên trái đất. Xin thày giúp con nhận ra đây chính là ý định cao hơn mà con đã có trước khi lập ra Kế hoạch Trọn đời của con.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, xin thày giúp con trả lời câu hỏi: “Liệu trong Kế hoạch Trọn đời, tôi có mong muốn được nếm một loại trải nghiệm nào đó không? Liệu tôi đã đặt mình vào một hoàn cảnh để nếm trải nghiệm rồi chán chê trải nghiệm?”

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, xin thày giúp con bước vào trải nghiệm cho đến khi con không còn ham muốn cưỡng chế nào để nếm trải nghiệm đó nữa. Con đang khắc phục dính mắc, khắc phục sự cưỡng chế, khắc phục ảo tưởng là con cần nó để cảm thấy trọn vẹn.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, con đang xét lại ý định của con. Ý định trên hết là con sẽ thoát khỏi trái đất, nhưng con không thể ép mình thoát khỏi trái đất. Nay con thấy rõ là nếu con kìm nén một ham muốn thì con sẽ phải trở lại đầu thai cho tới khi con buông được ham muốn đó một cách ý thức.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, con đang quân bình cuộc sống gia đình với cuộc sống tâm linh. Nay con thấy rõ bất kỳ hoạt động nào cũng có thể giúp con tăng triển nhận biết. Con đang bước trên con đường tâm linh bằng cách sống một cuộc đời năng động ngoài xã hội.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, con buông bỏ ý muốn định nghĩa con đường tâm linh theo hai đối cực nhị nguyên – hoặc là một người hoàn toàn trần tục, hoặc rút ra khỏi thế gian để là một người tâm linh. Trung đạo là thăng vượt cả hai. Con không phân biệt giữa hoạt động tâm linh và hoạt động không tâm linh, thậm chí phản tâm linh. Đây là ý nghĩa sâu xa của ý định cao hơn.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm mọi thứ đều là Phật tánh. Nay con thấy rõ mục đích thực của đường tu là khắc phục các ảo tưởng đang che phủ Phật tánh ở bên trong tất cả mọi thứ. Không còn nghĩa lý gì mà nói: “Cái này tâm linh, cái kia không tâm linh.” Khi con tiếp cận hoạt động với ý định tăng triển nhận biết, mọi hoạt động đều trở nên tâm linh.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, con thấy rõ lũ quỷ Mara đang gầm gừ la hét, chúng đang cố khiến con bác bỏ lời dạy này của thày để con tiếp tục chìm trong cuộc đấu tranh của Biển Luân hồi. Xin thày giúp con biến lời dạy này thành con thuyền Bát nhã để con luôn nỗ lực vươn tới một ý định cao hơn.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary và Phật Gautama hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

8 | Con thỉnh cầu lời nói cao hơn

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con biểu lộ lời nói cao hơn, qua đó con dùng lời nói để phú cho năng lượng những đặc tính dựa trên tình thương, và nhờ vậy con nâng cao tâm thức của con lẫn của mọi người, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, con nhận ra là khi con dùng từ “Chánh ngữ,” con có xu hướng định nghĩa thế nào là lời nói chân chính và thế nào là lời nói bất chính. Con thấy là để có thể biểu lộ lời nói cao hơn, con phải chiêm nghiệm năng lượng vận hành như thế nào qua lời nói.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, con nhận ra thế giới được tạo thành bằng năng lượng. Tất cả mọi thứ con làm, kể cả lời nói, đều được làm với năng lượng. Con cảm được rung động của năng lượng không chỉ ở tầng vật lý, mà ở cả tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Xin thày giúp con cảm được các rung động cao hơn từ cõi tâm linh.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, xin thày giúp con thăng vượt cách nhìn duy vật về thế giới. Con thấy rõ xã hội hiện đại bị bế tắc về nhiều mặt là do cách nhìn duy vật đã bác bỏ vai trò của tâm thức, xem trực giác là chủ quan, không đáng tin cậy.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, xin thày giúp con thăng vượt cách nhìn thế giới bằng tâm thuần trí đường thẳng, và chiêm nghiệm trực giác như một phương thức nhận biết khách quan. Khi cái Ta Biết bước ra ngoài các thể phàm, trực giác là một trải nghiệm trực tiếp về một điều gì vượt khỏi mức nhận biết bình thường của con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, xin thày giúp con tra vấn sự nhận biết của con. Hãy giúp con thoát khỏi thói quen muốn diễn giải trải nghiệm của mình cho ăn khớp với cách khoa học diễn giải, khi chính khoa học cũng không trung lập hay khách quan.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, xin thày giúp con dùng trực giác để nhận ra vũ trụ đã không khởi đầu như một điểm dị biệt độc nhất trong cõi vật lý, mà như một khối năng lượng đồng bộ được giảm độ rung từ những phổ cao hơn xuống phổ vật chất.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, nay con nhận ra rất nhiều khái niệm của khoa học duy vật là kết quả của tâm đường thẳng. Con thấy rõ những khái niệm mà con có chi phối cách con nhìn và trải nghiệm thế giới.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, con nhận ra dụng cụ cơ bản mà con dùng là chính tâm con, và dụng cụ này thì có nhiều hạn chế. Xin thày giúp con nhận ra những hệ thống tin tưởng tước đi quyền năng thay vì trao thêm quyền năng sáng tạo cho con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, con thấy rõ niềm tin vào một thượng đế có thể trừng phạt con hay tưởng thưởng con theo tiêu chuẩn của ngài, là một hệ thống tin tưởng tước đi quyền năng của con.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, con thấy rõ lời dạy của thày trao quyền năng cho con. Con chiêm nghiệm tâm con có được sự ý thức là do một luồng năng lượng từ một cõi cao hơn đi vào tâm con.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, con chiêm nghiệm được năng lượng này đến từ cái ta cao của con. Nó đi vào tâm bản sắc, rồi tâm lý trí, rồi tâm cảm xúc – ở mỗi tầng nó khoác vào một số tin tưởng và khuôn nếp – trước khi nó đi xuống tầng vật lý như các tin tưởng trong tâm ý thức của con.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, con chiêm nghiệm tâm con giống như chiếc máy chiếu phim, nhưng thay vì chỉ có một cuộn phim độc nhất, nó có tới bốn cuộn phim là bốn thể phàm của con. Xuyên qua bốn tầng của tâm con, con liên tục chiếu phim vào năng lượng cấu tạo vũ trụ vật chất. Mọi thứ biểu hiện ở tầng vật lý đều là sự phóng chiếu của những hình ảnh nơi ba tầng cao hơn.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, con chiêm nghiệm con là một người đồng-sáng tạo đang tạo ra hành tinh địa cầu từ bên trong. Con đồng-sáng tạo bằng cách cho phép năng lượng chảy qua tâm, khoác vào các hình ảnh trong tâm, và con phóng chiếu chúng vào tấm gương vũ trụ.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm đây là ý nghĩa sâu xa hơn của lý duyên khởi. Con sống trong một hệ thống duyên khởi, một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau. Đúng là có một hành tinh vật lý có thực, nhưng hành tinh vật lý này là một phóng chiếu từ ba tầng cao hơn đưa năng lượng vào phổ vật lý.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm trong vũ trụ vật chất có nhiều sinh thể tự nhận biết cá biệt, những con người, mỗi người với năng trường cá biệt trong năng trường rộng lớn của cõi vật chất, nhưng tất cả đều nối kết, hình thành tâm tập thể.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, con thấy rõ mọi thứ con làm đều được làm với năng lượng, nhưng trường năng lượng của con không là một hòn đảo vì con hiện hữu trong tổng thể đó, một tổng thể duyên khởi.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, con chiêm nghiệm là con đang được trao quyền năng, vì tình huống vật lý trong đời con liên kết với các tình huống trong bốn tầng tâm con. Chúng là những phóng chiếu của chính con, phối hợp với tác động liên kết của tâm tập thể, và cả sự phóng chiếu nguyên thủy đã tạo ra hành tinh.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, nay con thấy rõ là con có khả năng thay đổi một số hoàn cảnh trong đời con bằng cách thay đổi những gì con phóng chiếu qua tâm con. Con có khả năng thay đổi cách con trải nghiệm và phản ứng với cuộc sống.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, con nhận ra chìa khóa để chuyển đổi bất kỳ khía cạnh nào của đời con là thay đổi chính tâm con. Đây là tinh túy của Bát chánh đạo. Con đi qua tám bước nơi con lần hồi nâng cao tâm thức của mình.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, con chiêm nghiệm lời nói là một cách sử dụng năng lượng. Mỗi khi con mở miệng thốt ra âm thanh thì con dùng năng lượng. Giọng nói là một dụng cụ đầy quyền năng để con phú đặc tính cho năng lượng. Giọng nói chuyên chở và định đoạt tính chất của năng lượng sẽ tác động đến người khác, đến hoàn cảnh vật lý của con lẫn chính con.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm hai loại rung động. Có rung động dựa trên tình thương, có rung động dựa trên sợ hãi. Con cảm nhận điều này bằng cách trụ vào tim và tự hỏi: “Tôi cảm thấy năng lượng đang cao hơn hay thấp hơn? Nó nâng cao hay nó kéo thấp năng lượng của tôi?”

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, con đang trau dồi khả năng trực nhận những gì diễn ra trong trường năng lượng của con khi con dùng giọng nói.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, nay con lượng định: “Đây có phải là loại lời nói tôi muốn tham gia? Tôi có muốn phóng ra loại năng lượng thấp về người khác?” Con chiêm nghiệm là bất cứ gì con gửi ra tấm gương vũ trụ, vào bốn tầng của vũ trụ vật chất, sẽ quay trở về con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm nghiệp quả vận hành như thế nào. Nếu con phóng vào vũ trụ một năng lượng dựa trên sợ hãi, nó không thể đi xa hơn và bị tấm gương vũ trụ phản chiếu lại, và nó bắt đầu đập lại chính con. Nghiệp là sự phản hồi của năng lượng con đã gửi ra.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, xin thày giúp con phóng ra nhiều năng lượng hơn ở độ rung của tình thương, để nó không bị chặn lại mà nó đi lên cõi cao hơn. Nhờ vậy, con nhận được nhiều năng lượng hơn với rung động cao từ cái ta cao. Khả năng sáng tạo của con được gia tăng, tâm thức của con được nâng cao.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là khi con phú cho năng lượng một rung động thấp, năng lượng này được gửi trả lại cho con với rung động thấp. Khi con phú cho nó một rung động cao, nó được gửi trả lại cho con với rung động cao – nhưng nhiều hơn và mãnh liệt hơn.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, con thấy rõ tại sao cuộc sống trên trái đất lại đau khổ, tại sao có Biển Luân hồi. Đó là vì trái đất là một hệ thống năng lượng. Khi năng lượng trong hệ thống bị tha hóa bởi rung động của sợ hãi, thì tâm con người bị quá tải, con người bị đau khổ, buồn phiền, bất lực, tuyệt vọng. Những cảm xúc thấp này làm choáng ngợp trường năng lượng cá nhân của mỗi người.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm phương thức để thoát khỏi khổ đau là đổ đầy trường năng lượng của con với những năng lượng cao, rung động cao, và thanh lọc các rung động thấp.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, con chiêm nghiệm là khi một xung lực dựa trên sợ hãi được gửi trả về con, thì các năng lượng thấp đang có mặt trong tâm con được cộng hưởng. Xin thày giúp con loại bỏ các khuôn nếp phản ứng đang có mặt trong tâm con, để năng trường của con không có gì mà tương tác với năng lượng thấp bên ngoài.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, con chiêm nghiệm là khi con có một sóng năng lượng ở tần số thấp, nếu con hướng vào đó một sóng khác có tần số cao hơn, con có thể tạo ra một mô thức giao thoa giữa hai sóng – một sóng thứ ba cao hơn sóng đầu tiên. Kết quả là con nâng năng lượng thấp vào một trạng thái cao hơn.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, con đang dùng giọng nói của con như một cách đầy quyền năng để thỉnh năng lượng có tần số cao, và hướng nó vào năng lượng có tần số thấp. Nhờ vậy con chuyển hóa năng lượng và giải thoát khỏi lực lôi kéo tâm con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, con đang thỉnh năng lượng cao để giải thoát khỏi lực kéo. Con dùng giọng nói của con. Con dùng các bài chú, bài thỉnh. Đây là ý nghĩa nguyên thủy của lời nói cao hơn, là con dùng quyền năng của giọng nói để biến hóa năng lượng sợ hãi thành năng lượng tình thương.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, con nhận ra là có thể trong quá khứ, con đã quyết định bằng tâm vỏ ngoài là một người tâm linh như con phải nói chuyện theo một cách nào đó – tránh nói giận dữ, tránh nói to mà nói nhỏ nhẹ, nói tử tế. Con cho như vậy là đủ. Nay con nhận ra là con đã dùng sức mạnh để trấn áp một số hình thức phát biểu và nuôi dưỡng một số hình thức khác.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, nay con quyết định dùng giọng nói để chuyển hóa năng lượng đang lôi kéo tâm ý thức của con. Xong con dùng khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm, để chất vấn các khuôn nếp trong ba thể tiềm thức, và con phá tan chính ảo tưởng đã tạo ra khuôn nếp giận dữ.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, xin thày giúp con tự giải phóng khỏi lòng giận dữ thay vì chỉ dồn nén nó xuống. Con thấy đây là một khác biệt to lớn, cốt tủy.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, nay con thấy rõ mọi chuyện xảy ra trong đời con đều là cơ hội để nhìn ra một điều gì trong tâm thức, và con khắc phục điều đó. Thay vì tự khiển trách hay cảm thấy xấu hổ mỗi khi con mất hài hòa hay phát biểu giận dữ, con chỉ bước lui lại và nói: “Ồ, đây là một cơ hội để tôi nhìn ra một khuôn nếp trong tâm tiềm thức. Khuôn nếp này là gì? Tôi sẽ bước vào lòng nó. Tôi bước vào lòng năng lượng, tìm ra cái tin tưởng đằng sau nó, gỡ rối nó cho đến khi tôi nhìn thấy nó.” Đây là cách cao hơn để dùng lời nói, để nhìn vào lời nói, tiếp cận lời nói.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary và Phật Gautama hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

12 | Con thỉnh cầu sinh kế cao hơn

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con thực hiện Sinh kế Cao hơn bằng cách phụng sự và nâng cao cả tổng thể trong lãnh vực hoạt động của con. Hãy giúp con đạt được sự giàu có đích thực là trạng thái tâm trọn vẹn, viên mãn, an bình, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là nếu con tập trung vào từ “chánh” trong Chánh mạng, con sẽ định ra những cách kiếm sống chân chính và những cách bất chính. Làm vậy sẽ không chỉ hạn chế chọn lựa của con trong việc tìm kế sinh nhai, mà cả việc hoàn thành Kế hoạch Trọn đời của con.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm mức nhận biết cao hơn, chiêm nghiệm Phật tánh. Mọi người đều có tiềm năng đạt được mức nhận biết của Phật tánh, và khi hòa điệu với nhận biết này thì con người có khả năng đem lại tiến bộ cho nhân loại.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, xin thày giúp con thực hiện khía cạnh đầu của Phật tánh, là con vượt lên trên toàn bộ nhân cách vỏ ngoài của con, vốn xem mình là một sinh thể tách biệt khỏi người khác và thế giới. Con hướng đến tầng tâm thức nơi con trở thành một vị Phật vì con chứng tâm thức Phật.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, xin thày giúp con thực hiện khía cạnh thứ hai là trong tư cách cái Ta Biết, con bước ra ngoài bốn thể phàm và nối kết với Phật tánh, qua đó con nhận được những ý tưởng mới nhằm cải thiện một điều gì trên trái đất.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, con thấy rõ để đem lại sự cải thiện trong một lãnh vực của đời sống, con phải tham gia vào trong đó. Nhưng song song, con bước ra khỏi tình huống vỏ ngoài, bước ra khỏi chính tâm con để tiếp nhận ý tưởng từ Phật tánh.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra sinh kế thực sự của con là khi con cải thiện và nâng cao một khía cạnh của cuộc sống. Hãy giúp con không nhìn vào đủ loại nghề kiếm sống rồi bảo: “Ồ những loại nghề này, một người tâm linh không nên làm.”

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, con nhận ra là một khi loài người nâng cao tâm thức và càng ngày càng có nhiều người giải quyết được tâm lý của mình, thì các khía cạnh phá hoại chức năng của tâm thức tập thể cũng sẽ được giải quyết. Khi đó, một số lãnh vực hoạt động sẽ dần dần bị bỏ lại. Con không muốn dự phần vào các hoạt động này.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, con nhận ra là có những địa hạt không được xem là tâm linh nhưng lại mang tiềm năng xây dựng, như kinh doanh chẳng hạn. Xin thày giúp con hòa điệu với Kế hoạch Trọn đời và tìm xem con đã có mong muốn cải thiện địa hạt này hay không. Nếu có thì con đeo đuổi nó, và con không phân chia hoạt động nào là đúng hay sai.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, con thấy rõ là để cải thiện một địa hạt nào đó thì con phải tham gia vào đó. Ngay cả sự có mặt của con và một mức tâm thức cao hơn cũng có khả năng kéo mọi người trong địa hạt này đi lên.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là khi trái đất bước vào thời đại nhận biết cao hơn, tất cả mọi thứ sẽ được tâm linh hóa. Đây chính là ý nghĩa thâm sâu của câu “Mọi thứ đều là Phật tánh.” Con không thể quy định việc nào là tâm linh và việc nào không. Tất cả đều có tiềm năng là việc tâm linh.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm trái đất lúc ban đầu ở trong một trạng thái thuần khiết hơn hiện nay. Nhưng kể từ đó, qua tâm thức của mình, con người đã kéo trái đất xuống, khiến cho đau khổ trở thành trải nghiệm phổ thông nhất trong cuộc sống.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra tất cả đều là tâm thức, tất cả đều là biểu hiện của tâm thức. Phật tánh chính là tâm thức, một dạng tâm thức. Nhưng đặc điểm của Phật tánh là nó nhận biết tất cả, nó nhận biết tổng thể. Phật tánh là sự nhận biết về tổng thể.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra khổ đau và điên đảo trên trái đất được tạo ra không từ nhận biết về tổng thể, mà từ nhận biết rằng con người là một sinh thể tách biệt. Nhận biết tách biệt là tâm thức đã tạo ra Biển Luân hồi.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là mọi hoạt động đều mang Phật tánh bên trong, vì nói cho cùng chúng được tạo ra từ tâm Một. Nhưng những hoạt động gây đau khổ thì không được tạo ra với một nhận biết về tổng thể, là nhận biết của Phật tánh. Chúng được tạo ra từ tách biệt.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, nay con thấy rõ những hoạt động hoàn toàn dựa trên tách biệt không đếm xỉa gì tới tổng thể, tới người khác, tới hậu quả mà chúng gây ra. Chúng cũng không đếm xỉa gì tới chính những người mang tâm thái đó, họ bị tác động thế nào, họ tạo ra những nghiệp gì, và những kiếp tới của họ sẽ bị ảnh hưởng ra sao.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, nay con quyết định lượng định mọi hoạt động của con, kể cả kế sinh nhai của con: “Liệu hoạt động này có dựa trên sự nhận biết về tổng thể hay sự nhận biết về tách biệt?”

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, con cũng lượng định: “Chỗ nào là chỗ tôi có thể phụng sự để đem lại cải tiến trong lãnh vực này?” cho dù đó là lãnh vực nào của đời sống, từ kinh doanh, chính trị cho tới hành chánh, giáo dục. Con không dùng tâm vỏ ngoài để lượng dịnh, mà con dùng trực giác để hòa điệu với mong muốn mà con đã chọn trong Kế hoạch Trọn đời.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, con nhận ra việc kiếm tiền không phải là quan tâm hàng đầu đối với người tìm kiếm tâm linh. Quan tâm hàng đầu của con là phụng sự bằng cách cải thiện một khía cạnh nào đó của cuộc sống và xã hội.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, nay con thấy rõ sinh kế không phải là chuyện kiếm tiền để có đủ tiền sống. Con cũng từ bỏ mọi giấc mơ làm giàu chớp nhoáng, với hy vọng mình sẽ không phải lo lắng chuyện tiền bạc mà có thể tập trung vào việc đeo đuổi tâm linh.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là sự tham gia vào xã hội vẫn nằm trọn trong việc đeo đuổi tâm linh của con. Tất cả mọi thứ đều có thể trở thành một phần của đường tu một khi con dùng nó như một phần của đường tu.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, xin thày giúp con ngộ ra tài nguyên thực trên trái đất không phải là tiền bạc mà là năng lượng. Nhưng không chỉ là năng lượng, mà đó là năng lượng đi vào vũ trụ vật chất từ một cõi cao hơn. Hãy giúp con biến tâm con thành một cửa vào cho năng lượng này chảy xuống.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là tiền bạc sẽ không bao giờ đủ cho con an bình. Thay vào đó, con cần đủ năng lượng. Nghĩa là con đã thiết lập một sự nối kết ý thức với cái ta cao của con, và qua nối kết này, năng lượng có thể liên tục chảy xuống bốn thể phàm của con. Không những con có năng lượng sáng tạo để thị hiện, mà con còn cảm thấy trọn vẹn, viên mãn, an bình.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra khi con xem mình là một sinh thể tách biệt, con cảm thấy bị bỏ rơi, cô đơn, thiếu sót. Nhưng sự bỏ rơi chỉ diễn ra trong tâm con. Kỳ thực con luôn luôn nối kết với cái ta cao của con. Con, cái Ta Biết, là một phần nối dài của cái ta cao được gửi vào thế gian để trải nghiệm thế giới từ bên trong.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, xin thày giúp con ngộ ra là con không bao giờ có thể cắt đứt sự nối kết với cái ta cao, nhưng con có thể che phủ nó bằng các khía cạnh của tự ngã trong bốn thể phàm. Đó là tại sao con cảm thấy không trọn vẹn, tại sao con cảm thấy nghèo nàn túng thiếu, tại sao con nghĩ con cần đến một cái gì bên ngoài để lấp đầy lỗ hổng bên trong.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm tự ngã có một lỗ hổng bên trong mà nó không thể nào lấp đầy. Nó được tạo ra trong thế gian, nên nó chỉ biết một cách để khắc phục sự thiếu hụt là đạt được gì đó từ thế gian, kể cả tiền bạc. Nó tưởng nó sẽ cảm thấy trọn vẹn khi nó có đủ, nhưng nó sẽ không bao giờ có đủ.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, xin thày giúp con là cái ta mà con là. Một khi con loại bỏ một cách có hệ thống các ảo tưởng của Maya khỏi ba thể, con cảm thấy trọn vẹn, viên mãn trong thế gian. Con thiết lập sự nối kết ý thức ngày càng chặt chẽ với cái ta cao. Con cảm nhận được dòng chảy năng lượng, là năng lượng dựa trên tình thương liên tục chảy xuống từ cái ta cao vào tâm con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, xin thày giúp con có được cái hiểu đích thực về sinh kế cao hơn là con tái lập sự nối kết với cái ta cao. Con cảm thấy trọn vẹn ngay trong bản thân mình mà không cần bất cứ gì từ thế gian. Con vẫn có thể muốn có, muốn trải nghiệm một vài thứ của thế gian, nhưng con không bị điều khiển bởi nhu cầu ám ảnh cưỡng chế phải lấp đầy lỗ hổng.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, xin thày giúp con bước ra ngoài tự ngã để con không trải nghiệm thế gian qua tự ngã, và vì vậy con không cảm thấy lỗ hổng. Thay vào đó, con trải nghiệm sự nối kết với cái ta cao, dòng tình thương chảy xuống từ cái ta cao, và điều này khiến con tràn đầy bên trong.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, con biết con vẫn còn một số khía cạnh của tự ngã, và con có thể tạm thời bước vào chúng và bị chúng khống chế. Xin thày giúp con lại bước ra khỏi chúng, nối kết lại với cái ta cao và lại trải nghiệm sự trọn vẹn.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, xin thày giúp con có những hé thoáng nối kết với cái ta cao, những trải nghiệm thần bí. Hãy giúp con ngày càng nối kết nhiều hơn, để con càng hiếm khi bị ngã vỏ ngoài áp đảo. Con càng nối kết và trọn vẹn lâu hơn, thường xuyên hơn, và con hiểu đây là ý nghĩa tối hậu của Chánh mạng.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, nay con hiểu Chánh mạng cũng liên quan đến lượng năng lượng chảy vào tâm con. Con biến hóa năng lượng trong ba thể đang ngăn chặn sự nối kết, con gỡ bỏ các tin tưởng hư giả để làm sạch ba thể, con tạo ra nhiều khoảng trống để năng lượng chảy xuống nhiều hơn. Và nhờ vậy, con nối kết rộng mở hơn.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, con đang thỉnh cho năng lượng chảy xuống. Con thỉnh các chân sư thăng thiên cùng những năng lượng đặc thù mà các thày biểu tượng. Con thỉnh cả bảy tia sáng tâm linh và con gia tăng dòng chảy của năng lượng.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, xin thày giúp con thực hiện ngụ ngôn về các ta-lăng và nhân lên năng lượng nhận được từ cõi cao. Con nỗ lực nâng cao tổng thể, con phụng sự  những phần khác của sự sống và đem lại cải tiến, con gửi ra những xung lực năng lượng dựa trên tình thương. Đây là năng lượng vượt ra khỏi vũ trụ vật chất được trả về cho con nhân lên gấp bội.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, xin thày giúp con trở thành một vòng xoáy hướng thượng. Con dùng năng lượng trong sự nhận biết về tổng thể, cho nên con nhận thêm nhiều năng lượng sáng tạo để con lại phụng sự nhiều hơn, và chu kỳ này cứ thế tăng lên suốt đời con. Đây là hình thức sinh kế tối hậu.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, con bỏ hẳn không dùng giáo lý tâm linh để tạo lợi thế cho ngã tách biệt, để cảm thấy an toàn hay sung sướng hơn người. Con thực hiện mục đích của Bát chánh đạo là ngừng đồng hóa với ngã vỏ ngoài, mà trái lại con đồng hóa với cái ta cao là sự biểu hiện của Phật tánh. Con nối kết với mọi người, với môi trường, với mọi sự sống. Con hành động trong sự nhận biết về tổng thể. Đây là Phật tánh.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, con đã hiểu đây là kế mưu sinh tối hậu. Con không chú tâm vào tiền bạc, con không chú tâm vào việc đánh giá xem nghề nào ổn thỏa cho một người tâm linh. Mà con chú tâm vào: “Đâu là nơi tôi có thể đem lại sự cải thiện? Đâu là nơi tôi có thể phụng sự tổng thể?” Đời con trở thành một vòng xoắn ốc phụng sự cứ lên cao mãi, trong khi con vẫn có đầy đủ phương tiện để chăm sóc cơ thể vật lý, gia đình, cùng những trách nhiệm khác của con.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary và Phật Gautama hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

32 | Thỉnh cầu kết nối với Phật Gautama (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Phật Gautama hãy giúp con thấy liệu con đã cho phép một giáo lý vỏ ngoài hay một cách diễn giải giáo lý ngăn cản con trải nghiệm trực tiếp sự Hiện diện của thày, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, con thấy có sự khác biệt cơ bản giữa việc diễn giải một giáo lý tâm linh và việc trải nghiệm thực tại sâu xa đằng sau ngôn từ giáo lý.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, con thực sự muốn sử dụng giáo lý, và con thấy là con cần vượt lên trên diễn giải ngôn từ. Con không chỉ đi tìm cái hiểu, không chỉ đơn giản nắm bắt, mà con đi tìm trải nghiệm thực tại sâu xa đằng sau chữ nghĩa.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, con thấy là lời dạy tâm linh chân chính đến từ cõi thăng thiên. Nó đến từ tâm của một sinh thể tâm linh, và con sẵn lòng chỉ sử dụng giáo lý vỏ ngoài như một công cụ để bắt liên lạc với sinh thể tâm linh mà nơi tâm vị này lời dạy đã phát xuất.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, con nhận ra là nếu con chỉ đọc chữ rồi cố gắng hiểu hay diễn giải chữ nghĩa bằng tâm thuần trí năng, thì đây không phải là cách dùng giáo lý cao nhất. Con thật không đang dùng giáo lý, vì mục đích của một giáo lý là giúp con thăng vượt mức tâm thức hiện tại của con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, con thấy được là khi con cố hiểu và diễn giải giáo lý với mức tâm thức hiện tại của mình, thì con sẽ giam con lại ở tầng mức này.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, con nhìn ra là Trung đạo không phải là chuyện tìm thế quân bằng giữa hai đối cực trên một thang điểm đường thẳng, mà Trung đạo là sự thăng vượt thang điểm nhị nguyên, thăng vượt cả hai đối cực nhị nguyên, có nghĩa là thăng vượt chính tâm đường thẳng.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, con thấy là con không thể dùng tư duy hiện đại – một tư duy đã trở nên đường thẳng hơn nhiều – để diễn giải khái niệm trống không hay khái niệm vô ngã, theo nghĩa là không những nó trống rỗng không có ngã mà nó còn không có gì hết – ở đó không có gì hết.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, con thấy thày đã nói là không có một cái ngã trường cửu bất biến, mà có một cái ta không ngừng thay đổi, không ngừng tự thăng vượt, và cái ta này không có mục đích quay trở về cái không-có-gì sau một chu kỳ đầu thai và đau khổ gần như bất tận. Mục đích của nó là thăng lên một tầng cấp cao hơn nơi nó có thể tiếp tục vươn lên cao hơn nữa.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, con thấy được ý định của thày là nâng cao tâm thức con vượt lên trên tâm đường thẳng, vì tâm đường thẳng không thể bao giờ cho con cái hiểu tối hậu về các khái niệm vũ trụ.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, con thấy con có thể lợi lạc khi con nắm bắt là ở cõi cao có những sinh thể tâm linh, các chân sư thăng thiên là thày tâm linh của con. Con cũng có thể lợi lạc khi con nắm bắt là có hành tinh tự nhiên, và nhiều người tâm linh đã từ các hành tinh tự nhiên đó đến hành tinh phi tự nhiên này là trái đất.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, con thấy được giá trị thực của khái niệm trống không là không có một ngã trường cửu bất biến. Con là một cái ngã, một cái ta. Cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết, nhưng một từ khác cho nhận biết thuần khiết có thể là sự trống không.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, con sẵn lòng trải nghiệm cái Ta Biết là sự trống không, theo nghĩa cái Ta Biết không phải là bản sắc, ý tưởng và cảm xúc của con, bởi vì những thứ này ngụ trong tâm hay được sản xuất bởi tâm.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, con sẵn lòng trải nghiệm khía cạnh alpha của tâm thức, tức là thay vì tập trung vào nội dung của tâm thức thì con có thể tập trung vào chính tâm thức. Tâm thức có thể trống rỗng mọi nội dung, và khi cái Ta Biết tự trải nghiệm chính nó như sự nhận biết thuần khiết, đây là một trạng thái trống không.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, con thấy là con vẫn có một ý niệm bản sắc, vẫn có ý tưởng và cảm xúc. Con hành động, con tương tác với thế giới, con tương tác với Hiện diện TA LÀ của con, với các chân sư thăng thiên. Con không trống rỗng mọi thứ, mà con trống rỗng một số thứ nẩy sinh từ một mức tâm thức nào đó.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, con thấy là khi con thăng thiên, nhìn từ nhãn quan cái Ta Biết thì có vẻ như con bước vào hình thức tối hậu của sự trống không. Bởi vì giờ đây cái Ta Biết hoàn toàn nhập một với Hiện diện TA LÀ, nó trở thành chính Hiện diện TA LÀ. Cái Ta Biết bây giờ trở nên trống rỗng cái ý niệm bản ngã mà nó đã có từ khi nó được Hiện diện TA LÀ gửi vào hiện thân.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, con thấy là điều này vẫn không có nghĩa là không có gì, mà trái lại có sự nhận biết viên mãn của Hiện diện TA LÀ. Cái Ta Biết hoàn toàn hợp nhất với Hiện diện TA LÀ khi con thăng thiên.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, con thấy sự trống rỗng không có nghĩa rằng trạng thái phát triển tâm linh tối hậu là trạng thái “vô ngã”, tức sự trống không tối hậu. Không hề có một trạng thái trống không tối hậu được quy định bởi một sinh thể cao cả nào đó hay bởi Thượng đế.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, con thấy là mặc dù khoảng trống (void) của đấng Sáng tạo có thể được quan niệm như là trống không, nhưng con không thể trải nghiệm khoảng trống đó, vì trải nghiệm là một cái gì có hình tướng. Nếu không có hình tướng thì làm sao có trải nghiệm được?

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, con thấy một số người tuyên bố là họ đã trải nghiệm thực tại cao nhất, nhận biết thuần khiết, trạng thái nhận biết tối hậu, nhưng họ đã trải nghiệm một trạng thái do các sinh thể trong tâm thức nhị nguyên tạo ra.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, con buông bỏ xu hướng phủ nhận sự hiện hữu của mọi cái ta. Con buông bỏ con quái vật đó, khuôn đúc đó, cái ngã đó trong tâm thức tập thể có vẻ như trống rỗng.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, con thấy đã có sự phóng chiếu một hình ảnh về cái không-có-gì, về sự trống không, và mặc dù một số người tuyên bố là mình đã trải nghiệm trống không, nhưng họ đã trải nghiệm hình ảnh của trống không. Cái này không phải là trống không, bởi vì nó chứa đầy hình ảnh, và hình ảnh thì có một hình tướng mà một sinh thể trên trái đất có thể trải nghiệm.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, con thấy sự trống rỗng không thể là một trạng thái tâm thức tối hậu. Chính sự kiện con hiện hữu cho thấy là không có cái không-có-gì. Có một sự sinh tạo những sinh thể tự nhận biết, và luôn luôn đã có một sự sáng tạo nào đó. Nó có một mục đích, đó là tăng triển đến những tầng tâm thức càng ngày càng cao hơn.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, con thấy được là con không tăng triển đến những tầng tâm thức cao hơn qua cái không-có-gì. Cái không-có-gì không thể trở nên ngày càng cao hơn. Cái không-có-gì không thể là tối thượng. Thật ra không thể có gì tối thượng được, bởi vì luôn luôn có thể có những tầng tâm thức cao hơn.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, con thấy là con đã được sinh tạo như một người đồng sáng tạo, con có tiềm năng thăng vượt ý niệm bản ngã của con và vươn đến những tầng cao hơn và cao hơn nữa. Đó là nơi con tìm được ý nghĩa càng ngày càng sâu sắc trong việc biểu đạt chính mình như một người đồng sáng tạo, không chỉ cùng với Đấng Sáng tạo mà cùng với tất cả mọi sinh thể đồng sáng tạo khác.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, con sẵn lòng thăng vượt tâm thức nhị nguyên, là tâm thức tùy thuộc vào định luật thứ nhì của nhiệt động học, hầu con không cần dùng đến sức mạnh để lên thiên đàng. Con tự giải thoát khỏi nhu cầu sử dụng sức mạnh, cho nên con vươn lên các tầng cao hơn một cách tự nhiên.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, con thấy được thiên đàng không phải là một địa điểm vật lý. Đó là một chiều kích khác, một tầng cấp tâm thức khác. Cách duy nhất để lên thiên đàng là thăng vượt mức tâm thức hiện thời của con, có nghĩa là thay vì tìm cách hoàn thiện cái ngã, con thăng vượt ngã.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, con thấy có một cái Ta ở cõi tâm linh và con đã đi ra từ cái Ta này. Con đã đi xuống thế giới vật chất bằng cách khoác vào một số ngã khiến con xa rời trạng thái nguyên thủy của con. Chúng đã đưa con xuống thấp hơn và khiến con tưởng mình là kém hơn những gì mình thực là.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, con thấy là bằng cách rũ bỏ những ngã này đã kéo con ra khỏi trạng thái thăng thiên, con sẽ trở về đó một cách tự nhiên.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, con thấy ở cõi cao có một cái Ta không ngừng tự thăng vượt chính nó. Nói cho cùng, đó là Đấng Sáng tạo đang tự thăng vượt bằng cách sáng tạo, sau đó là tất cả các tầng cấp sinh thể thăng thiên, xuống tận đến dưới này là bầu cõi chưa thăng thiên ở đây.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, con thấy các chân sư thăng thiên cũng đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra Hiện diện TA LÀ của con. Và Hiện diện TA LÀ của con đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra cái Ta Biết.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, con thấy là cái Ta Biết đã đi xuống thế giới hình tướng xa nhất mà nó có thể trong hiện tại. Và một khi tiến trình này – là tiến trình của tâm Đấng Sáng tạo tự nối dài vào thế giới hình tướng – đã đi xa hết mức trong bầu cõi hiện thời, thì bước tự nhiên là khởi sự hành trình quay về ngược trở lên.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, con thấy đó là chức năng của cái Ta Biết, đó chính là tiến trình thăng thiên. Khi con hoàn tất tiến trình này, con không bước vào cái không-có-gì mà con vẫn tiếp tục đi lên – một hành trình có thể dẫn con đến tận cao chót là tâm thức của Đấng Sáng tạo.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, con sẵn lòng hoàn tất tiến trình thăng thiên để con có thể thăng khỏi trái đất, khỏi hành tinh chưa thăng thiên này. Một khi con thăng thiên, con sẽ quyết định con muốn làm gì từ điểm đó.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, con thấy một lời dạy luôn luôn được trao truyền cho nhiều tầng cấp khác nhau. Cho nên con không bao giờ thực sự học xong một lời dạy tâm linh, vì con luôn luôn có thể dùng nó để kết nối với vị chân sư thăng thiên đã trao truyền lời dạy.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, con thấy được là khi con đọc lại bài truyền đọc này trong 20 năm nữa và hòa điệu với Hiện diện của thày, thày sẽ có thể cho con một điều gì đó vượt khỏi lời dạy thành văn.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, con sẵn lòng kết nối và nhận được điều gì đó từ thày. Có thể sẽ không phải là ngôn từ. Có thể thày với con sẽ hòa điệu theo một cách vượt trên ngôn từ. Con sẵn lòng có cuộc gặp gỡ đó trong tâm, và gặp gỡ đó không trống không vì con thấy được trống không là một khái niệm rỗng tuếch.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

30 | Thỉnh cầu sự giao tiếp vượt trên lời nói (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi PadmaSambhava hãy giúp con nhìn thấy làm thế nào con đã có thể dùng lời nói để ngăn cản chính mình chấp nhận mình là Hiện diện, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. PadmaSambhava, con thấy cản trở lớn nhất, chướng ngại lớn nhất cho tiến bộ tâm linh là ngôn từ.

Con thấy rõ giác quan chỉ phỉnh gạt lừa dối.
Những gì nó bảo con, làm sao con tin nổi?
Đằng sau mọi hình dáng, chỉ có một ánh sáng,
Chúng trông như thực đó, do cái nhìn giới hạn. 

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

1.2. PadmaSambhava, con thấy tài nguyên lớn nhất cho các vị thày tâm linh của nhân loại, cơ hội lớn nhất cho tiến bộ của người tâm linh, cũng là ngôn từ.

Tâm này với giác quan chỉ là những công cụ,
Cho nên con nhất quyết không là một đứa ngu.
Cái ngã cá nhân đó có phải là con đâu?
Bản sắc ở trần thế, một trò lừa hư cấu.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

1.3. PadmaSambhava, con thấy trên một hành tinh như địa cầu, với sự dày đặc của vật chất lẫn của tâm thức đại chúng, việc thần giao cách cảm thật không thực tế. Do đó giáo lý tâm linh phải được chuyển tải qua ngôn từ.

Bỏ nhận thức giác quan, con muốn được tự do,
Với nội giác trong sạch, con mới thật nhìn rõ.
Chính quan điểm nhân gian khiến con bị mù loà,
Con thấy viễn quan mới trong nhận biết trung hoà.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

1.4. PadmaSambhava, con thấy là con người có xu hướng trở nên dính mắc với một cách diễn đạt bằng lời đặc thù, và họ muốn lời này truyền đạt hay quy định một chân lý tối hậu nào đó.

Quan điểm có vẻ thực là do một cái ngã,
Nó phóng ra vấn đề để con phải đối phó.
Khi nào còn mắc bẫy thì không thể tự do,  
Con sẽ nói với nó: Ta cho mi chết nhá.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

1.5. PadmaSambhava, con thấy là trí năng con người có thể làm nhiều trò ảo thuật với ngôn từ. Nó có thể diễn giải theo cách của nó. Nó có thể chẻ nhỏ thật chi li. Nó có thể suy diễn bất tận.

Con không thể ngộ được bằng quan điểm con người
Thực tại của Ki-tô trong tầm nhìn cao ngất.
Khi cái ngã nhị nguyên, con để cho nó mất,
Tâm Ki-tô sẽ mở, mắt bên trong sáng ngời.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

1.6. PadmaSambhava, con thấy là nhiều người khi tìm ra một giáo lý tâm linh dù là mới hay cũ, thì họ sẽ tranh luận bất tận về ý nghĩa ngôn từ, họ diễn giải bất tận để cố làm sao đạt đến một cách diễn giải tối hậu nào đó.

Padmasambhava, thế giới ôi đảo điên,
Khi suy nghĩ nhị nguyên định ra ác và thiện.
Ki-tô sẽ phán quyết những tà lực u minh,
Nhóm lại nơi mỗi người cái đốm lửa tâm linh.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

1.7. PadmaSambhava, con thấy là nhiều người tâm linh hay nhìn ngược về phía sau. Họ nhìn ngược dòng thời gian, như thể họ cho rằng thuở trước là một thời thuần khiết hơn, và vì vậy lời tiết lộ nhận được cũng là lời tiết lộ cao nhất có thể được trao truyền.

Padmasambhava, hãy giải phóng nhân loại
Khỏi tâm thức nhị nguyên và tâm thức cuồng đại.
Hãy cắt con ra khỏi lời rắn ôi sai trái,
Với Giê-su Ki-tô, con sẽ xích gần lại.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

1.8. PadmaSambhava, con nhìn nhận là mức sống con người đã có tiến bộ, và con thấy tiến bộ này đạt được là do tâm thức tập thể ngày nay cao hơn thời quá khứ.

Rắn gian manh bảo rằng đời con sẽ không thể
Là nhiều hơn hiện tại, và địa cầu cũng thế.
Nhưng trong tâm Ki-tô, con thấy cái Hơn Nữa,
Hành tinh sẽ xán lạn chưa từng thấy bao giờ.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

1.9. PadmaSambhava, con thấy lời tiết lộ ở những thời trước được trao truyền cho một mức tâm thức thấp hơn. Điều này có nghĩa là nó không chính xác bằng những gì có thể được trao truyền ngày hôm nay. Có nhiều khoảng rộng hơn để người ta diễn giải.

Tâm con phải rời chuồng thì mới mong nhận thỉnh,
Hoạch định Saint Germain cho một Thời Hoàng kim.
Padmasambhava, với Ngọn lửa Hòa bình,
Và viễn quan Hợp nhất, thày rải khắp chúng sinh.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

Phần 2

2.1. PadmaSambhava, con thấy là càng có nhiều khoảng rộng để diễn giải thì tâm đường thẳng càng dễ giở trò phù phép của nó, và những ai mắc bẫy tâm đường thẳng càng có thể dùng trí năng “cao trội” của họ để tự ban cho mình một địa vị đặc quyền.

Con thấy rõ giác quan chỉ phỉnh gạt lừa dối.
Những gì nó bảo con, làm sao con tin nổi?
Đằng sau mọi hình dáng, chỉ có một ánh sáng,
Chúng trông như thực đó, do cái nhìn giới hạn. 

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

2.2. PadmaSambhava, con thấy là các lời dạy của chân sư thăng thiên được trao truyền trong thế kỷ vừa qua cho thấy một chiều hướng tiến triển rõ ràng. Con thấy được khía cạnh Omega của tiết lộ tuần tự là để khiến cho lời giảng bình dị, hầu càng ngày càng có nhiều người nắm bắt được.

Tâm này với giác quan chỉ là những công cụ,
Cho nên con nhất quyết không là một đứa ngu.
Cái ngã cá nhân đó có phải là con đâu?
Bản sắc ở trần thế, một trò lừa hư cấu.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

2.3. PadmaSambhava, con thấy một lời dạy rõ ràng hơn cũng có nghĩa là những ai ở một mức tâm thức cao hơn không còn nghi ngờ về những điều được bày tỏ, không còn nhiều khoảng rộng như trước để mà diễn giải.

Bỏ nhận thức giác quan, con muốn được tự do,
Với nội giác trong sạch, con mới thật nhìn rõ.
Chính quan điểm nhân gian khiến con bị mù loà,
Con thấy viễn quan mới trong nhận biết trung hoà.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

2.4. PadmaSambhava, con thấy là một lời dạy được trao truyền bằng lời nói luôn luôn sẽ bị suy diễn vì con người sẽ suy diễn dựa theo mức tâm thức hiện tại của họ. Nhưng ít ra các thày làm những gì mình có thể làm từ cõi thăng thiên để giúp cho giáo lý càng khó tranh cãi, càng chính xác càng tốt.

Quan điểm có vẻ thực là do một cái ngã,
Nó phóng ra vấn đề để con phải đối phó.
Khi nào còn mắc bẫy thì không thể tự do,  
Con sẽ nói với nó: Ta cho mi chết nhá.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

2.5. PadmaSambhava, con thấy lời dạy mà các thày đang ban truyền không phải là giáo lý tối thượng. Nó có thể sẽ chính xác hơn nữa trong tương lai khi tâm thức tập thể vươn lên cao hơn.

Con không thể ngộ được bằng quan điểm con người
Thực tại của Ki-tô trong tầm nhìn cao ngất.
Khi cái ngã nhị nguyên, con để cho nó mất,
Tâm Ki-tô sẽ mở, mắt bên trong sáng ngời.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

2.6. PadmaSambhava, con nhìn ra là việc quay lại cái cũ không thực sự hiệu quả, đặc biệt khi chúng ta đang ở một thời kỳ chuyển tiếp giữa hai chu kỳ tâm linh, từ thời Song ngư chuyển sang thời Bảo bình.

Padmasambhava, thế giới ôi đảo điên,
Khi suy nghĩ nhị nguyên định ra ác và thiện.
Ki-tô sẽ phán quyết những tà lực u minh,
Nhóm lại nơi mỗi người cái đốm lửa tâm linh.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

2.7. PadmaSambhava, con thấy là các lời dạy trong thời Song ngư đã được đưa ra cho mức tâm thức của chu kỳ đó, và giờ đây các thày đang giảng dạy cho thời Bảo bình.

Padmasambhava, hãy giải phóng nhân loại
Khỏi tâm thức nhị nguyên và tâm thức cuồng đại.
Hãy cắt con ra khỏi lời rắn ôi sai trái,
Với Giê-su Ki-tô, con sẽ xích gần lại.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

2.8. PadmaSambhava, con thấy là khi con nghe nói lần đầu tiên về Hiện diện TA LÀ, con thỉnh gọi, con cầu nguyện, con đặt câu hỏi bằng ngôn từ.

Rắn gian manh bảo rằng đời con sẽ không thể
Là nhiều hơn hiện tại, và địa cầu cũng thế.
Nhưng trong tâm Ki-tô, con thấy cái Hơn Nữa,
Hành tinh sẽ xán lạn chưa từng thấy bao giờ.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

2.9. PadmaSambhava, con thấy là ở một tầng nào đó trên đường tu tâm linh, con có thể nhận được sự hướng dẫn bằng lời nói hay câu trả lời từ Hiện diện TA LÀ của con – không phải một giọng nói ầm ầm từ thiên đàng vọng xuống mà lời nói đến với con từ bên trong tâm con.

Tâm con phải rời chuồng thì mới mong nhận thỉnh,
Hoạch định Saint Germain cho một Thời Hoàng kim.
Padmasambhava, với Ngọn lửa Hòa bình,
Và viễn quan Hợp nhất, thày rải khắp chúng sinh.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

Phần 3

3.1. PadmaSambhava, con nhìn ra là khi con lên đến tầng cao hơn nơi con cần bắt đầu trải nghiệm sự hợp nhất với Hiện diện TA LÀ, thì con không thể đạt được hợp nhất bằng cách tiếp tục giao tiếp bằng lời nói với Hiện diện TA LÀ của con.

Con thấy rõ giác quan chỉ phỉnh gạt lừa dối.
Những gì nó bảo con, làm sao con tin nổi?
Đằng sau mọi hình dáng, chỉ có một ánh sáng,
Chúng trông như thực đó, do cái nhìn giới hạn. 

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

3.2. PadmaSambhava, con thấy là chỉ khi con nói chuyện với một sinh thể bên ngoài tâm con, một sinh thể tách biệt với con, thì con mới cần giao tiếp bằng lời nói. Sẽ tới một điểm sự giao tiếp bằng lời nói sẽ trở thành một trở ngại ngăn con đạt được Hợp nhất rộng lớn hơn với Hiện diện.

Tâm này với giác quan chỉ là những công cụ,
Cho nên con nhất quyết không là một đứa ngu.
Cái ngã cá nhân đó có phải là con đâu?
Bản sắc ở trần thế, một trò lừa hư cấu.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

3.3. PadmaSambhava, con lấy quyết định ý thức ở đây là con sẽ ngừng tiếp cận Hiện diện TA LÀ của con qua ngôn từ.

Bỏ nhận thức giác quan, con muốn được tự do,
Với nội giác trong sạch, con mới thật nhìn rõ.
Chính quan điểm nhân gian khiến con bị mù loà,
Con thấy viễn quan mới trong nhận biết trung hoà.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

3.4. PadmaSambhava, con ngừng chờ đợi là con sẽ nhận được hồi đáp bằng ngôn từ. Con vẫn có thể nhận được xung lực hồi đáp từ Hiện diện, nhưng xung lực này sẽ không mang hình dạng lời nói, mà sẽ là một cảm giác hay một hình ảnh.

Quan điểm có vẻ thực là do một cái ngã,
Nó phóng ra vấn đề để con phải đối phó.
Khi nào còn mắc bẫy thì không thể tự do,  
Con sẽ nói với nó: Ta cho mi chết nhá.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

3.5. PadmaSambhava, con thấy là cuối cùng ngay cả cách đó cũng phai nhạt đi. Con không còn tìm cách nhận được điều gì từ Hiện diện hay giao tiếp với Hiện diện của con, bởi vì sự phân biệt giữa Hiện diện TA LÀ, cái Ta Biết và tâm Ki-tô tan biến mất.

Con không thể ngộ được bằng quan điểm con người
Thực tại của Ki-tô trong tầm nhìn cao ngất.
Khi cái ngã nhị nguyên, con để cho nó mất,
Tâm Ki-tô sẽ mở, mắt bên trong sáng ngời.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

3.6. PadmaSambhava, con không còn hướng bất cứ gì về Hiện diện, con không chờ nhận được gì từ Hiện diện của con. Con là một với đại dương của Hiện diện và tâm con chảy với Hiện diện, khi lên khi xuống.

Padmasambhava, thế giới ôi đảo điên,
Khi suy nghĩ nhị nguyên định ra ác và thiện.
Ki-tô sẽ phán quyết những tà lực u minh,
Nhóm lại nơi mỗi người cái đốm lửa tâm linh.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

3.7. PadmaSambhava, con không phân tích, con không lý giải, con không suy diễn, con không cố cắt nghĩa hay đặt chuyện này chuyện nọ vào một khuôn khổ vũ trụ hay một tầm quan trọng vũ trụ. Con chỉ – con là Hiện diện và Hiện diện cũng chính là con. Đâu còn nhu cầu giao tiếp bằng lời nữa?

Padmasambhava, hãy giải phóng nhân loại
Khỏi tâm thức nhị nguyên và tâm thức cuồng đại.
Hãy cắt con ra khỏi lời rắn ôi sai trái,
Với Giê-su Ki-tô, con sẽ xích gần lại.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

3.8. PadmaSambhava, con sẵn lòng đọc câu thần chú của thày, vì thần chú không phải là ngôn từ. Đó là những âm thanh không mang ý nghĩa nào mà tâm vỏ ngoài có thể chụp lấy.

Rắn gian manh bảo rằng đời con sẽ không thể
Là nhiều hơn hiện tại, và địa cầu cũng thế.
Nhưng trong tâm Ki-tô, con thấy cái Hơn Nữa,
Hành tinh sẽ xán lạn chưa từng thấy bao giờ.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

3.9. PadmaSambhava, con sẵn lòng trải nghiệm âm thanh câu thần chú của thày đang làm cho tâm vỏ ngoài yên tĩnh, để con có thể trải nghiệm Hiện diện của thày cũng như Hiện diện của con.

Tâm con phải rời chuồng thì mới mong nhận thỉnh,
Hoạch định Saint Germain cho một Thời Hoàng kim.
Padmasambhava, với Ngọn lửa Hòa bình,
Và viễn quan Hợp nhất, thày rải khắp chúng sinh.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

Phần 4

4.1. OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM.

Con thấy rõ giác quan chỉ phỉnh gạt lừa dối.
Những gì nó bảo con, làm sao con tin nổi?
Đằng sau mọi hình dáng, chỉ có một ánh sáng,
Chúng trông như thực đó, do cái nhìn giới hạn. 

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

4.2. OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM.

Tâm này với giác quan chỉ là những công cụ,
Cho nên con nhất quyết không là một đứa ngu.
Cái ngã cá nhân đó có phải là con đâu?
Bản sắc ở trần thế, một trò lừa hư cấu.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

4.3. OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM.

Bỏ nhận thức giác quan, con muốn được tự do,
Với nội giác trong sạch, con mới thật nhìn rõ.
Chính quan điểm nhân gian khiến con bị mù loà,
Con thấy viễn quan mới trong nhận biết trung hoà.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

4.4. OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM.

Quan điểm có vẻ thực là do một cái ngã,
Nó phóng ra vấn đề để con phải đối phó.
Khi nào còn mắc bẫy thì không thể tự do,  
Con sẽ nói với nó: Ta cho mi chết nhá.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

4.5. OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM.

Con không thể ngộ được bằng quan điểm con người
Thực tại của Ki-tô trong tầm nhìn cao ngất.
Khi cái ngã nhị nguyên, con để cho nó mất,
Tâm Ki-tô sẽ mở, mắt bên trong sáng ngời.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

4.6. OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM.

Padmasambhava, thế giới ôi đảo điên,
Khi suy nghĩ nhị nguyên định ra ác và thiện.
Ki-tô sẽ phán quyết những tà lực u minh,
Nhóm lại nơi mỗi người cái đốm lửa tâm linh.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

4.7. OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM.

Padmasambhava, hãy giải phóng nhân loại
Khỏi tâm thức nhị nguyên và tâm thức cuồng đại.
Hãy cắt con ra khỏi lời rắn ôi sai trái,
Với Giê-su Ki-tô, con sẽ xích gần lại.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

4.8. OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM.

Rắn gian manh bảo rằng đời con sẽ không thể
Là nhiều hơn hiện tại, và địa cầu cũng thế.
Nhưng trong tâm Ki-tô, con thấy cái Hơn Nữa,
Hành tinh sẽ xán lạn chưa từng thấy bao giờ.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.

4.9. OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM.

Tâm con phải rời chuồng thì mới mong nhận thỉnh,
Hoạch định Saint Germain cho một Thời Hoàng kim.
Padmasambhava, với Ngọn lửa Hòa bình,
Và viễn quan Hợp nhất, thày rải khắp chúng sinh.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

28 | Thỉnh cầu Hiện diện của con (6 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Maitreya hãy giúp con nhìn ra những gì con cần buông bỏ để trải nghiệm mình là Hiện diện, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là thực sự con không chia cách khỏi cõi tâm linh, theo nghĩa là cõi tâm linh thâm nhập vào cõi vật lý.

Maitreya, con là đứa rất hiền,
Thày khuyên bảo, con quý trọng biết mấy, 
Viễn quan thày, con thực tình muốn thấy, 
Với thày, con sẽ ở vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

1.2. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con đang bao quanh con, nó ở trong con, nó ở với con cho dù con ở đâu.

Maitreya, hãy giúp con trở về,
Học từ thày, con thật chỉ muốn thế. 
Khi Duy nhất chiếm trọn lòng khao khát, 
Con cảm được ngọn lửa tâm ngộ đạt. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

1.3. Maitreya, con sẵn lòng xoay chuyển và nhận ra là con sẽ không thực sự nối kết với Hiện diện TA LÀ bằng cách phóng chiếu ra hình ảnh đã được bao nhiêu tôn giáo truyền tải, rằng Hiện diện TA LÀ của con giống như một vị thượng đế có khả năng toại nguyện mọi ước muốn.

Maitreya, bây giờ con xin hẹn,
Đối với thày, không bao giờ che giấu, 
Hãy phơi bày sự lừa lọc hư xấu 
Đã làm chết cái ta vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

1.4. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện TA LÀ không phải là một thượng đế, vì Hiện diện TA LÀ của con vẫn chưa thăng thiên. Hiện diện TA LÀ của con không phải là một sinh thể thăng thiên. Nó sẽ trở thành một sinh thể thăng thiên khi con, cái Ta Biết, thăng lên nhập lại với Hiện diện.

Maitreya, vị Đạo sư chân phúc,
Tim sâu nhất, con trao cả cho thày, 
Con xin nguyện lắng nghe trọn tỉnh thức, 
Để bẻ gẫy bùa ngải của rắn đây. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

1.5. Maitreya, con nhìn nhận có sự khác biệt cơ bản giữa Hiện diện TA LÀ của con và một chân sư thăng thiên. Chân sư thăng thiên đã thăng thiên. Còn Hiện diện TA LÀ của con vẫn chưa là một chân sư thăng thiên mặc dù nó cư ngụ nơi những tầng thấp của cõi tâm linh.

Maitreya, giúp con thấy tà thuật,
Vì lời rắn mà sợi dây phải đứt, 
Nay trong con, nó chẳng nắm gì được, 
Con đã tìm tự do trong Duy nhất. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

1.6. Maitreya, con sẵn lòng xoay chuyển tâm mình và thách thức hình ảnh về một khoảng cách giữa con và Hiện diện. Con thách thức mọi hình ảnh con đã hình thành trong tâm khi bước chân trên đường tu, ngay cả những hình ảnh con đã hình thành dựa trên lời dạy của các chân sư.

Maitreya, tự do nhờ sự thực,
Mà thoát khỏi sai lầm của nhị đối, 
Con rũ hết thành quả của kiến thức, 
Để chỉ biết chân tánh của thày thôi. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

1.7. Maitreya, con sẵn lòng xem lại đường tu của mình và nhìn ra là khi con tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên, con đã hình thành một tâm ảnh về Hiện diện TA LÀ dựa trên mức tâm thức của con lúc đó, cho nên tâm ảnh này không chính xác, nó không thể giúp con nối kết với Hiện diện.

Maitreya, con cúi đầu quy phục,
Ý định sạch và tim con chân thực, 
Cả tự ngã con cũng bỏ lại nốt,
Và trọn vẹn con với thày là một. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

1.8. Maitreya, con buông bỏ tiền đề cho rằng bởi vì con đã có thể tìm thấy giáo lý cao siêu này của chân sư thăng thiên, thì con phải ở một mức tâm thức rất cao siêu. Con nhận ra là vị thày xuất hiện do con cần đến giáo lý, có nghĩa là con không ở mức tâm thức cao nhất.

Maitreya, thiện tâm là chìa khóa,
Thày dạy con lòng tốt đủ mọi diện, 
Nay con là cánh cửa đã mở ra, 
Để phục hồi Nghệ thuật của Tâm thiện. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

1.9. Maitreya, con nhận ra là cách con nhìn các chân sư thăng thiên khi con mới tìm thấy giáo lý không phải là cách nhìn cao nhất về các chân sư. Cách con nhìn Hiện diện TA LÀ khi con mới tìm thấy giáo lý cũng không là cách nhìn cao nhất về Hiện diện TA LÀ.

Maitreya, ôi bí ẩn ngọt ngào,
Con trầm mình trong thực tại của thày, 
Trường huyền bí giờ đây sẽ trở lại, 
Khiến lòng con đang bừng cháy làm sao. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

Phần 2

2.1. Maitreya, con nhận ra là con đã tìm thấy giáo lý ở một trạng thái tâm thức thấp hơn. Con đã dùng giáo lý để hình thành một tâm ảnh về Hiện diện TA LÀ của con. Con buông bỏ niềm tin rằng tâm ảnh này chính xác, cao nhất có thể.

Maitreya, con là đứa rất hiền,
Thày khuyên bảo, con quý trọng biết mấy, 
Viễn quan thày, con thực tình muốn thấy, 
Với thày, con sẽ ở vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

2.2. Maitreya, con nhìn nhận là tâm ảnh đã được hình thành về Hiện diện TA LÀ ở các tầng thấp hơn thật không thoả đáng, vì con cần bước lên một mức quan hệ cao hơn với Hiện diện của con. Con sẵn lòng thay đổi tâm ảnh của mình về các thày cũng như về Hiện diện TA LÀ.

Maitreya, hãy giúp con trở về,
Học từ thày, con thật chỉ muốn thế. 
Khi Duy nhất chiếm trọn lòng khao khát, 
Con cảm được ngọn lửa tâm ngộ đạt. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

2.3. Maitreya, con nhìn nhận là khi con hình thành tâm ảnh đó với tâm đường thẳng thì con đang đứng nhìn từ xa: “Tôi đang ở đây, tôi là chủ thể. Hiện diện TA LÀ của tôi ở trên kia, đó là một đối tượng mà tôi đang tìm hiểu, đang tiếp cận, đang cầu nguyện.”

Maitreya, bây giờ con xin hẹn,
Đối với thày, không bao giờ che giấu, 
Hãy phơi bày sự lừa lọc hư xấu 
Đã làm chết cái ta vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

2.4. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là chừng nào con còn nhìn mình như một chủ thể và Hiện diện TA LÀ như một khách thể, thì con đang xác nhận có một khoảng cách giữa con và Hiện diện TA LÀ. Con không thể nào nối kết hay nhập một với Hiện diện TA LÀ nếu con cứ phóng chiếu một khoảng cách.

Maitreya, vị Đạo sư chân phúc,
Tim sâu nhất, con trao cả cho thày, 
Con xin nguyện lắng nghe trọn tỉnh thức, 
Để bẻ gẫy bùa ngải của rắn đây. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

2.5. Maitreya, con buông bỏ niềm tin là con phải cố đẩy tới để nối kết với Hiện diện của con, và nếu con không đạt mục tiêu thì con phải đẩy mạnh hơn. Con nhìn ra là con sẽ không bao giờ đạt được mục tiêu nếu con cứ đẩy nó về phía trước.

Maitreya, giúp con thấy tà thuật,
Vì lời rắn mà sợi dây phải đứt, 
Nay trong con, nó chẳng nắm gì được, 
Con đã tìm tự do trong Duy nhất. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

2.6. Maitreya, con nhận ra sự vận hành đơn giản của điều đang ngăn con hợp nhất với Hiện diện TA LÀ, đó là các ngã tiềm thức con mang. Khi con khắc phục được chúng, càng ngày cái Ta Biết sẽ càng dễ rút khỏi tâm vỏ ngoài và bước ra ngoài các ngã còn lại.

Maitreya, tự do nhờ sự thực,
Mà thoát khỏi sai lầm của nhị đối, 
Con rũ hết thành quả của kiến thức, 
Để chỉ biết chân tánh của thày thôi. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

2.7. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con, không từ một khoảng cách, mà nó đang bao quanh con. Con sẵn lòng trải nghiệm con là một phần của Hiện diện, con ở bên trong Hiện diện.

Maitreya, con cúi đầu quy phục,
Ý định sạch và tim con chân thực, 
Cả tự ngã con cũng bỏ lại nốt,
Và trọn vẹn con với thày là một. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

2.8. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là thay vì thấy Hiện diện ở trên cao, con bắt đầu trải nghiệm Hiện diện ở quanh con. Con là một ngọn sóng dâng lên từ đại dương của Hiện diện TA LÀ của con.

Maitreya, thiện tâm là chìa khóa,
Thày dạy con lòng tốt đủ mọi diện, 
Nay con là cánh cửa đã mở ra, 
Để phục hồi Nghệ thuật của Tâm thiện. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

2.9. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là con đang trầm mình ngày càng sâu hơn vào ngọn sóng, và con cảm được chính đại dương. Con có thể xuôi theo sự chuyển động của đại dương. Con trải nghiệm sự hợp nhất với Hiện diện TA LÀ.

Maitreya, ôi bí ẩn ngọt ngào,
Con trầm mình trong thực tại của thày, 
Trường huyền bí giờ đây sẽ trở lại, 
Khiến lòng con đang bừng cháy làm sao. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

Phần 3

3.1. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm con chính là Hiện diện TA LÀ. Con đi ra từ Hiện diện TA LÀ. Hiện diện của con không khác gì con, cho dù nó có vẻ khác ở những tầng thấp hơn của đường tu. Con thách thức ảo tưởng này.

Maitreya, con là đứa rất hiền,
Thày khuyên bảo, con quý trọng biết mấy, 
Viễn quan thày, con thực tình muốn thấy, 
Với thày, con sẽ ở vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

3.2. Maitreya, con thách thức ảo tưởng Hiện diện TA LÀ của con là một sinh thể tách rời khỏi con. Con đi ra từ Hiện diện TA LÀ. Con là một ngọn sóng trên đại dương của Hiện diện.

Maitreya, hãy giúp con trở về,
Học từ thày, con thật chỉ muốn thế. 
Khi Duy nhất chiếm trọn lòng khao khát, 
Con cảm được ngọn lửa tâm ngộ đạt. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

3.3. Maitreya, con buông bỏ ảo tưởng cho rằng con tách rời khỏi Hiện diện TA LÀ, rằng con là một cái gì khác với Hiện diện TA LÀ. Con chấp nhận: “Tôi chính là Hiện diện.”

Maitreya, bây giờ con xin hẹn,
Đối với thày, không bao giờ che giấu, 
Hãy phơi bày sự lừa lọc hư xấu 
Đã làm chết cái ta vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

3.4. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con là một sự hiện diện. Nó có cá thể của nó nhưng nó là một sự hiện diện. Cho nên con biết: “Tôi là Hiện diện.”

Maitreya, vị Đạo sư chân phúc,
Tim sâu nhất, con trao cả cho thày, 
Con xin nguyện lắng nghe trọn tỉnh thức, 
Để bẻ gẫy bùa ngải của rắn đây. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

3.5. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm cái Ta Biết đang bước ra khỏi nhân cách vỏ ngoài, đang trải nghiệm Hiện diện, đang trải nghiệm chính con như là Hiện diện.

Maitreya, giúp con thấy tà thuật,
Vì lời rắn mà sợi dây phải đứt, 
Nay trong con, nó chẳng nắm gì được, 
Con đã tìm tự do trong Duy nhất. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

3.6. Maitreya, con buông bỏ tâm ảnh của mình và từ chối phóng chiếu nó lên trải nghiệm Hiện diện. Con buông bỏ hình ảnh về một thần linh toại nguyện mọi mong ước và chấp nhận Hiện diện TA LÀ của con chưa phải là một sinh thể thăng thiên. Con sẽ không chờ đợi Hiện diện TA LÀ của con biết được mọi chuyện.

Maitreya, tự do nhờ sự thực,
Mà thoát khỏi sai lầm của nhị đối, 
Con rũ hết thành quả của kiến thức, 
Để chỉ biết chân tánh của thày thôi. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.7. Maitreya, con buông bỏ hình ảnh cho rằng Hiện diện TA LÀ giống như một vị thần linh, giống như một chân sư thăng thiên, hiểu biết tất cả, có những khả năng siêu nhân siêu phàm, có thể ban cho con đủ loại ân huệ và bảo vệ con khỏi nghiệp chướng.

Maitreya, con cúi đầu quy phục,
Ý định sạch và tim con chân thực, 
Cả tự ngã con cũng bỏ lại nốt,
Và trọn vẹn con với thày là một. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.8. Maitreya, con chấp nhận Hiện diện TA LÀ của con là một sinh thể chưa thăng thiên. Nó có nhãn quan rộng lớn hơn con, nhưng nó vẫn còn một số mong muốn về những gì nó muốn trải nghiệm trên trái đất. Hiện diện TA Là của con không có một cái hiểu trọn vẹn về tất cả mọi thứ mà một chân sư thăng thiên có thể hiểu.

Maitreya, thiện tâm là chìa khóa,
Thày dạy con lòng tốt đủ mọi diện, 
Nay con là cánh cửa đã mở ra, 
Để phục hồi Nghệ thuật của Tâm thiện. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.9. Maitreya, con chấp nhận Hiện diện TA LÀ vẫn tập trung vào chính nó như nó đang thấy chính nó. Con sẽ không xem Hiện diện TA LÀ như một sinh thể có khả năng trả lời mọi câu hỏi của con.

Maitreya, ôi bí ẩn ngọt ngào,
Con trầm mình trong thực tại của thày, 
Trường huyền bí giờ đây sẽ trở lại, 
Khiến lòng con đang bừng cháy làm sao. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

Phần 4

4.1. Maitreya, con sẽ không xem Hiện diện TA LÀ như một sinh thể sẽ làm việc gì đó cho con. Con thấy được là chính qua việc duy trì hình ảnh này mà con đang củng cố cho cảm nhận khoảng cách.

Maitreya, con là đứa rất hiền,
Thày khuyên bảo, con quý trọng biết mấy, 
Viễn quan thày, con thực tình muốn thấy, 
Với thày, con sẽ ở vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

4.2. Maitreya, con nhìn nhận là khi con bắt đầu trải nghiệm Hiện diện, đây là một giai đoạn hơi phân liệt một chút (schizophrenic). Con vẫn có cuộc sống bình thường hàng ngày, tuy nhiên con bắt đầu trải nghiệm Hiện diện, nó có một tầm nhìn khác hơn về cuộc sống.

Maitreya, hãy giúp con trở về,
Học từ thày, con thật chỉ muốn thế. 
Khi Duy nhất chiếm trọn lòng khao khát, 
Con cảm được ngọn lửa tâm ngộ đạt. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

4.3. Maitreya, con buông bỏ mong muốn Hiện diện TA LÀ sẽ giúp con trong một tình thế khó khăn, hay sẽ bảo con phải làm gì trong một số hoàn cảnh cụ thể.

Maitreya, bây giờ con xin hẹn,
Đối với thày, không bao giờ che giấu, 
Hãy phơi bày sự lừa lọc hư xấu 
Đã làm chết cái ta vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

4.4. Maitreya, con thấy được là nếu con yêu cầu Hiện diện TA LÀ khuyên nhủ hay hướng dẫn con, và nếu nó trả lời thì điều này sẽ xác nhận hình ảnh rằng con tách biệt với nó, rằng Hiện diện giống như một ông thần trong chai có khả năng ban cho con mọi điều mong ước.

Maitreya, vị Đạo sư chân phúc,
Tim sâu nhất, con trao cả cho thày, 
Con xin nguyện lắng nghe trọn tỉnh thức, 
Để bẻ gẫy bùa ngải của rắn đây. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

4.5. Maitreya, con thấy được là nếu con cho phép mình duy trì tâm ảnh tách biệt này thì đến một giai đoạn Hiện diện TA LÀ sẽ phải rút lui khỏi con và không trả lời câu hỏi của con.

Maitreya, giúp con thấy tà thuật,
Vì lời rắn mà sợi dây phải đứt, 
Nay trong con, nó chẳng nắm gì được, 
Con đã tìm tự do trong Duy nhất. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

4.6. Maitreya, con sẵn lòng bước lên cao hơn, buông bỏ tâm ảnh dựa trên cảm nhận khoảng cách. Con sẵn lòng giải quyết nó trong tâm, khắc phục cảm giác xa cách và thách thức nó.

Maitreya, tự do nhờ sự thực,
Mà thoát khỏi sai lầm của nhị đối, 
Con rũ hết thành quả của kiến thức, 
Để chỉ biết chân tánh của thày thôi. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

4.7. Maitreya, con buông bỏ mong muốn yêu cầu Hiện diện TA LÀ trả lời những câu hỏi đặc thù, hướng dẫn con phải làm gì hay không được làm gì trong một số tình huống. Con nhận chân con chính là Hiện diện ngay đây trong thế gian. Không phải “Tôi là Hiện diện TA LÀ” mà “Tôi là Hiện diện” vì Hiện diện đang ở ngay đây với con.

Maitreya, con cúi đầu quy phục,
Ý định sạch và tim con chân thực, 
Cả tự ngã con cũng bỏ lại nốt,
Và trọn vẹn con với thày là một. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

4.8. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện có thể được biểu đạt xuyên qua con người phàm của con. Đây chính là ý nghĩa của việc con ở trong giai đoạn này của quả vị Ki-tô cá nhân. Hiện diện TA LÀ của con không tách rời với tâm Ki-tô.

Maitreya, thiện tâm là chìa khóa,
Thày dạy con lòng tốt đủ mọi diện, 
Nay con là cánh cửa đã mở ra, 
Để phục hồi Nghệ thuật của Tâm thiện. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

4.9. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là khi con bước lên những tầng này của quả vị Ki-tô, con không biến thành một con múa rối. Con phải quyết định mình sẽ biểu đạt quả vị Ki-tô của mình như thế nào. Tuy nhiên cái Ta Biết không phải quyết định một mình hay trong tư cách một sinh thể tách biệt. Khi con đạt đến sự hợp nhất trọn vẹn hơn với Hiện diện như thế này, ai là người quyết định, cái Ta Biết hay là Hiện diện?

Maitreya, ôi bí ẩn ngọt ngào,
Con trầm mình trong thực tại của thày, 
Trường huyền bí giờ đây sẽ trở lại, 
Khiến lòng con đang bừng cháy làm sao. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

Phần 5

5.1. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là không có khác biệt nào giữa Hiện diện và cái Ta Biết. Đâu là khác biệt giữa Hiện diện và chính con?

Maitreya, con là đứa rất hiền,
Thày khuyên bảo, con quý trọng biết mấy, 
Viễn quan thày, con thực tình muốn thấy, 
Với thày, con sẽ ở vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

5.2. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm: “Thật không có nghĩa lý gì mà đặt câu hỏi đó vì không còn sự khác biệt nào nữa.”

Maitreya, hãy giúp con trở về,
Học từ thày, con thật chỉ muốn thế. 
Khi Duy nhất chiếm trọn lòng khao khát, 
Con cảm được ngọn lửa tâm ngộ đạt. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

5.3. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm cái Ta Biết chính là Hiện diện. Con là Hiện diện trong bát cung vật lý, trong cõi cảm xúc, trong cõi lý trí, trong cõi bản sắc.

Maitreya, bây giờ con xin hẹn,
Đối với thày, không bao giờ che giấu, 
Hãy phơi bày sự lừa lọc hư xấu 
Đã làm chết cái ta vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

5.4. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm con là Hiện diện, khía cạnh “Ta Sẽ Là Cái Ta Sẽ Là” của Hiện diện. “Ta Sẽ Là Cái Ta Sẽ Là” đó là omega, khía cạnh nữ hay khía cạnh biểu đạt của Hiện diện.

Maitreya, vị Đạo sư chân phúc,
Tim sâu nhất, con trao cả cho thày, 
Con xin nguyện lắng nghe trọn tỉnh thức, 
Để bẻ gẫy bùa ngải của rắn đây. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

5.5. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là có “TA LÀ CÁI TA LÀ” nằm ở cõi tâm linh và sẽ tiếp tục ở cõi tâm linh. Nhưng “Ta Sẽ Là Cái Ta Sẽ Là” là khía cạnh đang biểu đạt chính nó trong bầu cõi chưa thăng thiên.

Maitreya, giúp con thấy tà thuật,
Vì lời rắn mà sợi dây phải đứt, 
Nay trong con, nó chẳng nắm gì được, 
Con đã tìm tự do trong Duy nhất. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

5.6. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là tâm Ki-tô cho con một năng lượng và một động lượng đang chuyển động. Nhưng chính khía cạnh “Ta Sẽ Là” của Hiện diện chỉ đạo cho chuyển động này hướng vào những hoàn cảnh cụ thể, hiển thị thành những tình huống cụ thể hay có những trải nghiệm cụ thể.

Maitreya, tự do nhờ sự thực,
Mà thoát khỏi sai lầm của nhị đối, 
Con rũ hết thành quả của kiến thức, 
Để chỉ biết chân tánh của thày thôi. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

5.7. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là sự phân biệt sẽ tan biến mất. Đâu là sự khác biệt giữa tâm Ki-tô, Hiện diện TA LÀ với cái Ta Biết?

Maitreya, con cúi đầu quy phục,
Ý định sạch và tim con chân thực, 
Cả tự ngã con cũng bỏ lại nốt,
Và trọn vẹn con với thày là một. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

5.8. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là đối với cái Ta Biết, sự phân biệt sẽ tan biến mất. Con không quan tâm chuyện này nữa. Con không quan tâm mình đang ở tầng nào trong số 144 tầng tâm thức. Con tập trung vào việc biểu đạt chính mình trong thế gian này, vào những gì con muốn thể hiện trong thế giới.

Maitreya, thiện tâm là chìa khóa,
Thày dạy con lòng tốt đủ mọi diện, 
Nay con là cánh cửa đã mở ra, 
Để phục hồi Nghệ thuật của Tâm thiện. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

5.9. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là cảm thể của con an bình hơn rất nhiều, vì con đã khắc phục tất cả những dính mắc đó với hoàn cảnh vỏ ngoài. Nếu cảm xúc của con bị khuấy động, chỉ một thời gian ngắn chúng lại chìm xuống. Con không nhân chúng lên, con không góp mặt với chúng.

Maitreya, ôi bí ẩn ngọt ngào,
Con trầm mình trong thực tại của thày, 
Trường huyền bí giờ đây sẽ trở lại, 
Khiến lòng con đang bừng cháy làm sao. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

Phần 6

6.1. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là tâm lý trí của con cũng tĩnh lặng hơn nhiều. Con nhìn nhận là con đã đạt đến một mức tâm thức cao hơn khi cảm thể, trí thể lẫn bản sắc thể yên tĩnh hơn rất nhiều.

Maitreya, con là đứa rất hiền,
Thày khuyên bảo, con quý trọng biết mấy, 
Viễn quan thày, con thực tình muốn thấy, 
Với thày, con sẽ ở vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

6.2. Maitreya, con nhìn ra cái gì đang cảm thấy những cảm xúc tích cực này, đang có những ý tưởng tích cực này, đang khoác vào ý niệm bản sắc tích cực này, đang làm những hành động tích cực này. Đó là cái Ta Biết lẫn Hiện diện. Đó là sự hợp nhất của cả hai.

Maitreya, hãy giúp con trở về,
Học từ thày, con thật chỉ muốn thế. 
Khi Duy nhất chiếm trọn lòng khao khát, 
Con cảm được ngọn lửa tâm ngộ đạt. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

6.3. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm: “Hiện diện của tôi làm việc cho tới giờ, và tôi cũng làm việc.” Sự phân biệt giữa cả hai trở nên vô nghĩa.

Maitreya, bây giờ con xin hẹn,
Đối với thày, không bao giờ che giấu, 
Hãy phơi bày sự lừa lọc hư xấu 
Đã làm chết cái ta vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

6.4. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là rất nhiều ý tưởng của con đến từ Hiện diện. Đó là Hiện diện đang suy nghĩ xuyên qua con.

Maitreya, vị Đạo sư chân phúc,
Tim sâu nhất, con trao cả cho thày, 
Con xin nguyện lắng nghe trọn tỉnh thức, 
Để bẻ gẫy bùa ngải của rắn đây. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

6.5. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là ý niệm bản sắc của con đến từ Hiện diện. Ý tưởng của con trong trí thể đến từ Hiện diện. Cảm xúc của con đến từ Hiện diện. Và do đó hành động của con cũng tuôn chảy từ Hiện diện.

Maitreya, giúp con thấy tà thuật,
Vì lời rắn mà sợi dây phải đứt, 
Nay trong con, nó chẳng nắm gì được, 
Con đã tìm tự do trong Duy nhất. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

6.6. Maitreya, con sẵn lòng làm việc với bản thân mình một cách ý thức để xem xét những tâm ảnh mà con có và lần lượt thách thức chúng. Con nhận ra là chúng đã phục vụ cho con, đã đưa con đến một điểm nào đó trên đường tu, nhưng bây giờ đã đến lúc con buông chúng ra.

Maitreya, tự do nhờ sự thực,
Mà thoát khỏi sai lầm của nhị đối, 
Con rũ hết thành quả của kiến thức, 
Để chỉ biết chân tánh của thày thôi. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

6.7. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là thực sự con sẽ không bao giờ nối kết với Hiện diện TA LÀ của con. Hoặc con có thể là Hiện diện, hoặc con không là Hiện diện. Là hay không là.

Maitreya, con cúi đầu quy phục,
Ý định sạch và tim con chân thực, 
Cả tự ngã con cũng bỏ lại nốt,
Và trọn vẹn con với thày là một. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

6.8. Maitreya, con sẵn lòng trải nghiệm là không còn một mối quan hệ nữa, vì quan hệ ngụ ý là có hai sinh thể trong mối quan hệ đang liên hệ với nhau. Nhưng khi không có phân biệt nào cả thì thật không thể nói là có quan hệ.

Maitreya, thiện tâm là chìa khóa,
Thày dạy con lòng tốt đủ mọi diện, 
Nay con là cánh cửa đã mở ra, 
Để phục hồi Nghệ thuật của Tâm thiện. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

6.9. Maitreya, con nói: “Ở trên như thế nào trong Hiện diện TA LÀ thì ở dưới cũng như vậy trong cái Ta Biết.” Nhưng Hiện diện TA LÀ không ở trên và cái Ta Biết cũng không ở dưới. Con đã hoà nhập. Cái Ta Biết ngộ ra nó là Hiện diện. Và đây là nơi con muốn trụ.

Maitreya, ôi bí ẩn ngọt ngào,
Con trầm mình trong thực tại của thày, 
Trường huyền bí giờ đây sẽ trở lại, 
Khiến lòng con đang bừng cháy làm sao. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

26 | Thỉnh cầu biểu hiện quả vị Ki-tô (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Saint Germain hãy giúp con thấy mọi thái độ vi tế đang ngăn chặn bước tiến của con quá tầng tâm thức thứ 96, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Saint Germain, con thấy là để hòa điệu với Tia thứ Bảy con cần được tự do khỏi tâm đường thẳng đang phóng chiếu là con không thể tự do vì con đang bị đàn áp bởi điều kiện này điều kiện kia.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.2. Saint Germain, con thấy là tâm đường thẳng tìm cách thiết lập một tiến trình đường thẳng dẫn con tới điểm con có những gì con cần để được tự do.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.3. Saint Germain, con thấy là trên con đường tâm linh, con tiến từ tầng 48 đến tầng 96 bằng cách theo phương pháp đường thẳng. Con lập một kế hoạch để đi từ tầng 48 đến tầng 96 một cách tuần tự từng bước.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.4. Saint Germain, con thấy là phương pháp đường thẳng chỉ hữu dụng ở các tầng thấp của con đường tâm linh. Vấn đề với tâm đường thẳng khi liên quan đến tự do là khi con lập một kế hoạch với tâm đường thẳng thì con đặt mình vào một loại nhà tù.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.5. Saint Germain, con buông bỏ tâm đường thẳng đang nói: “Đây là những chuyện tôi phải tiếp tục làm vì chúng sẽ đưa tôi tới các tầng giác ngộ cao hơn và tâm thức Ki-tô.”

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.6. Saint Germain, con sẵn lòng nhìn nhận là những gì đã dẫn con tới tầng 96 không thể dẫn con lên cao hơn nữa. Con đã dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu thế nào là Ki-tô, thế nào là đạt các tầng tâm thức trên tầng 96 là các tầng của quả vị Ki-tô cá nhân.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.7. Saint Germain, con sẵn lòng trải nghiệm là Ki-tô không thể bị gò bó vào bất cứ cấu trúc nào. Con sẽ không tìm cách lôi kéo Ki-tô vào cấu trúc do tâm đường thẳng tạo ra.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.8. Saint Germain, con quyết định: “Tôi sẽ không ngưng đọc chú đọc thỉnh, tôi sẽ không ngưng học hỏi giáo lý, nhưng tôi sẽ dành một chút thì giờ để ngồi trong một căn phòng yên tĩnh, nhắm mắt lại và tìm cách đi vào trạng thái tâm trung hòa, trạng thái lắng nghe trong hồng ân.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.9. Saint Germain, con xin thày neo trụ Hiện diện của thày bên trên con và giúp con chỉ lắng nghe. Con không xin giải đáp, hướng dẫn, hay đáp số cho những vấn đề đặc thù. Con chỉ giữ tâm trung hòa và lắng nghe giai đoạn kế tiếp của con đường tu của con là gì.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 2

2.1. Saint Germain, con thấy là con không thể dùng tâm đường thẳng để lập kế hoạch làm sao đi từ tầng tâm thức 96 đến tầng 144.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.2. Saint Germain, con sẵn lòng bước lui lại và nhìn nhận một cách có ý thức những giới hạn của tâm đường thẳng, và nhìn nhận là ngay cả khi con tới tầng 144 con vẫn đối diện thách thức thứ nhì của Ki-tô.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.3. Saint Germain, con thấy là khi con vươn lên các tầng cao của con đường tu, thì những khai ngộ không trở nên dễ dàng hơn. Con nhìn nhận là bất kể con đang ở tầng tâm thức nào thì lúc nào cũng khó thấy ảo tưởng kế tiếp.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.4. Saint Germain, con nhìn nhận là ở bất kể tầng tâm thức nào, con đều cần tâm Ki-tô. Con không thể, với trạng thái tâm hiện tại của con, tự mình nhìn thấu suốt ảo tưởng. Con không thể suy luận để giải tỏa ảo tưởng.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.5. Saint Germain, con nhìn nhận là cái Ta Biết, khi nó nhìn từ bên trong ngã ở tầng hiện tại của con, không thể phân tích, suy luận, dùng lô gíc hay giáo lý tâm linh để nhìn thấu suốt ảo tưởng. Con lúc nào cũng cần bước ra ngoài ngã, trải nghiệm tầm nhìn Ki-tô, và sau đó nhìn thấu suốt ảo tưởng.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.6. Saint Germain, con nhìn nhận là con không thể bước ra ngoài ngã nếu con nghĩ con đã đạt tầng tối hậu. Nếu con nghĩ cái ngã mà hiện nay con đang nhìn đời qua nó là một ngã giác ngộ, thì con không thể bước ra ngoài nó. Con sẽ không cho phép mình bị mắc kẹt ở tầng hiện tại của con.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.7. Saint Germain, con sẵn lòng trải nghiệm là để kết nối với Tia thứ Bảy con cần giải thoát mình khỏi hình ảnh về cách tiến triển trên con đường tu mà tâm đường thẳng đã tạo ra.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.8. Saint Germain, con sẵn lòng trải nghiệm là ở trên tầng 96 con đường tu theo hình quả cầu hơn. Con nhận ra một cách có ý thức là tâm đường thẳng đã dẫn con tới mức xa nhất mà nó có thể đưa con, và giờ đây con cần chú tâm hơn vào tâm trực giác, quả cầu và đó là tâm Ki-tô.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.9. Saint Germain, con sẵn lòng trải nghiệm là tâm Ki-tô không theo đường thẳng. Tâm Ki-tô là tâm một, tâm không phân chia, và nếu tâm Ki-tô không phân chia thì làm sao con tạo được một tiến trình đường thẳng? Con chỉ có thể tạo ra một tiến trình đường thẳng khi có sự phân chia thành nhiều bước, nhiều tầng.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 3

3.1. Saint Germain, con nhận ra là sống Ki-tô không như những gì con nghĩ trước đây, dựa trên cách con nhìn sự việc với tâm đường thẳng. Sống Ki-tô không có nghĩa là Thượng đế, các chân sư thăng thiên hay Hiện diện TA LÀ của con sẽ cho con biết con phải làm gì.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.2. Saint Germain, con nhận ra là tất cả những gì con làm con đều làm với năng lượng đến từ Hiện diện TA LÀ. Trong khuôn khổ đó, con, cái Ta Biết vẫn là người lấy quyết định. Con sẵn lòng lấy những quyết định đó.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.3. Saint Germain, con sẵn lòng thấy một điều gì mà con chưa từng thấy. Con sẵn lòng nhìn quá thế giới quan, hình ảnh về đường tu mà con có cho tới nay, và xem xét: “Biểu hiện quả vị Ki-tô thực sự có nghĩa gì?”

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.4. Saint Germain, con sẵn lòng tự hỏi mình: “Nếu tôi có thể làm bất cứ điều gì tôi muốn, thì tôi sẽ muốn làm gì?” Con buông bỏ mọi ý tưởng con phải làm gì.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.5. Saint Germain, con sẵn lòng trải qua một giai đoạn trong đó con cần làm một số chuyện có vẻ như không tâm linh, nhưng con cần những trải nghiệm này cho tới khi con khắc phục ham muốn và nói: “Tôi bây giờ đã chán trải nghiệm này rồi.”

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.6. Saint Germain, con nhận ra là trong phạm vi quả vị Ki-tô con cần trải qua một số trải nghiệm trên trái đất để hoàn tất chúng, hoàn tất ham muốn có những trải nghiệm đó, để con được tự do tiến bước kế tiếp.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.7. Saint Germain, con nhận ra là ở trên tầng 96, con đường quả vị Ki-tô không theo đường thẳng. Con xoay chuyển tầm nhìn của con về con đường tu và nhận ra là có lẽ con cần một số trải nghiệm không được coi là tâm linh, tuy thế chúng vẫn thuộc con đường tu của con.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.8. Saint Germain, con nhận ra là không có tiêu chuẩn nào quy định cách một sinh thể Ki-tô hành xử trên trái đất, và khi con vươn lên các tầng tâm thức càng ngày càng cao, thì con càng ngày càng có thêm tự do quyết định cách con biểu lộ quả vị Ki-tô.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.9. Saint Germain, con nhận ra là trong quả vị Ki-tô con không trở nên một con rối, con có tự do, tự do lấy quyết định của mình, và con sẵn lòng lấy những quyết định đó.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 4

4.1. Saint Germain, con buông bỏ tâm đường thẳng lúc nào cũng muốn phân tích và nói: “Ồ, người này tự cho là đã đạt được tâm thức cao, nhưng ta hãy nhìn những gì y làm, những cái này không có tính chất tâm linh.”

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.2. Saint Germain, con sẵn lòng tự do tiếp tục biểu lộ chính mình, trải nghiệm là điều đó ảnh hưởng tâm thức con ra sao và con nâng tâm thức mình lên tầng kế tiếp.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.3. Saint Germain, con nhận ra là khi con biểu lộ chính mình, thì con biểu lộ mình xuyên qua các ảo tưởng còn sót lại, các phin lọc nhận thức còn sót lại.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.4. Saint Germain, con nhận ra là chỉ khi con biểu lộ xuyên qua ảo tưởng thì con mới có cơ hội thấy phin lọc nhận thức, thấy ảo tưởng kế tiếp.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.5. Saint Germain, con nhận ra là con không thể thấy một ảo tưởng trên lý thuyết, con chỉ thấy ảo tưởng khi con biểu lộ nó và trải nghiệm sự biểu lộ đó ảnh hưởng con và trạng thái tâm thức của con như thế nào. Đây là cách con tăng trưởng ở các tầng cao.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.6. Saint Germain, con sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện của thày, Hiện diện Tự do của thày, và hiện diện này vượt quá ngôn từ.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.7. Saint Germain, con sẵn lòng trải nghiệm tình thương mà thày dành cho riêng con.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.8. Saint Germain, con sẵn lòng trải nghiệm lòng tri ơn của thày vì con đã sẵn lòng đầu thai trên hành tinh rất dày đặc này, sẵn lòng nâng tâm thức mình và qua đó góp phần vào phong trào kỳ diệu đang đem lại thời hoàng kim tới hành tinh quá ư tăm tối trên nhiều phương diện này.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.9. Saint Germain, con sẵn lòng trải nghiệm viễn quan của thày về cách đem lại thời hoàng kim trên trái đất. Con sẵn lòng chứng tỏ là thày không phải là người lạc quan, mà là người thiết thực.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

24 |Thỉnh cầu Hiện diện của thày Nada (5 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi thày Nada hãy giúp con thấy những dính mắc đang chắn lối không cho con an bình nội tâm và kết nối với thày, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Nada, con buông bỏ tâm đường thẳng lúc nào cũng nhìn vào những điều kiện trong thế giới vật chất và tìm cách thiết lập một chuỗi nguyên nhân-kết quả đường thẳng và kéo dài chuỗi nhân-quả đó lên cõi tâm linh.

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.2. Nada, con thấy là các điều kiện trong thế giới vật chất không phản ánh trung thực thế giới tâm linh. Con người không thể nào, từ một hành tinh như địa cầu trong một bầu cõi chưa thăng thiên, hiểu được những gì xảy ra ở các bầu cõi cao hơn.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.3. Nada, con sẵn lòng trải nghiệm những điều kiện nguyên thủy do các Elohim tạo ra và thấy các nguyên tắc mà các Elohim đã sử dụng để tạo ra trái đất.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.4. Nada, con buông bỏ tư duy muốn dùng những gì ta quan sát ngay lúc này trên hành tinh phi tự nhiên này và dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu chúng lên cõi tâm linh.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.5. Nada, con buông bỏ tư duy cho rằng phải có những nguyên do không thể thấy, phi vật lý của khổ đau trên trái đất, và tìm cách sử dụng tâm đường thẳng để suy luận ngược lại để tìm ra nguyên do trong cõi tâm linh.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.6. Nada, con buông bỏ những cố gắng của khoa học muốn tìm nguyên do trong cõi vật chất. Con cũng buông bỏ ý muốn tìm những nguyên do phi vật lý.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.7. Nada, con thấy tâm đường thẳng là một dụng cụ thực dụng trong đời sống hàng ngày, nhưng nếu ta dùng nó để suy luận về cõi tâm linh, thì ta không thể có bình an và cũng không thể kết nối với Tia thứ Sáu của Bình an.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.8. Nada, con thấy giáo lý của đức Phật không nhằm đem lại một chân lý cao trội. Mục đích của giáo lý đức Phật là cho con người một số giáo lý và dụng cụ thực tiễn để giúp họ nâng cao tâm thức, vượt thăng khổ đau, Biển Luân hồi.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.9. Nada, con buông bỏ tâm đường thẳng đang khiến con nhìn vào giáo lý chân sư thăng thiên và nói: “Đây là một cái gì không đến từ thế gian này, không phải là kết quả của tâm đường thẳng lý luận ngược lại từ những điều kiện thế gian. Đây phải là chân lý tuyệt đối, vì chắc hẳn các chân sư thăng thiên thấy chân lý tuyệt đối, và đâu có lý nào các thày lại trao truyền cái gì khác?”

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

Phần 2

2.1. Nada, con thấy là các thày không thể trao cho con chân lý tuyệt đối mà các thày thấy vì con không thể nắm bắt nó trên một hành tinh phi tự nhiên. Con chấp nhận là các thày đang nhìn một cách thiết thực xem tâm thức con người đang ở đâu và nói: “Chúng ta có thể trao cho con người cái gì mà họ có thể nắm bắt với tầng tâm thức hiện tại của họ và giúp họ vươn lên tầng cao hơn?”

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.2. Nada, con buông bỏ tư duy cho rằng phải có một chân lý tuyệt đối nơi giáo lý của các chân sư thăng thiên. Con chấp nhận là các thày đã thích nghi giáo lý với trình độ tâm thức tập thể.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.3. Nada, con buông bỏ khuynh hướng sử dụng tâm đường thẳng để tiếp thu giáo lý, lý luận dựa trên giáo lý, tạo hình tư tưởng dựa trên giáo lý và phóng chiếu chúng lên các chân sư thăng thiên.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.4. Nada, con buông bỏ các hình tư tưởng mà con thu thập khi con lớn lên hay từ các giáo lý tâm linh khác. Con sẽ không dùng giáo lý chân sư thăng thiên để chỉnh tu những hình tư tưởng đó và sau đó phóng chiếu chúng lên các chân sư thăng thiên.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.5. Nada, con thấy thày là một chân sư thăng thiên và con không kết nối với thày bằng cách phóng chiếu một hình tư tưởng lên thày, một hình tư tưởng đã được tạo ra trong thế giới vật chất.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.6. Nada, con sẵn lòng trải nghiệm là bất kể hình này có hoàn chỉnh đến đâu, bất kể con nghĩ nó xác đáng đến đâu dựa trên giáo lý chân sư thăng thiên, thì nó vẫn là một hình tư tưởng.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.7. Nada, con sẵn lòng trải nghiệm là các ngã tách biệt đã tạo ra phin lọc nhận thức như thế nào, tại sao cái Ta Biết không phải là các phin lọc nhận thức, đã không trở thành các ngã tách biệt và do đó cái Ta Biết có thể bước ra ngoài các ngã.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.8. Nada, con sẵn lòng trải nghiệm là cái Ta Biết chỉ có thể bước ra ngoài phin lọc nhận thức của một ngã khi nó nhìn nhận là điều ngã thấy chỉ là một phin lọc nhận thức. Con nhìn nhận là bất cứ hình ảnh nào về chân sư thăng thiên mà con đã tạo trong tâm chỉ là một hình tư tưởng.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.9. Nada, con muốn có trải nghiệm thực sự với các chân sư thăng thiên và con buông bỏ mọi dính mắc vào các hình tư tưởng của con.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

Phần 3

3.1. Nada, con thấy là khi con phóng chiếu một hình tư tưởng thì con chính yếu nói: “Nada, con không muốn kết nối với thày như thày là. Con chỉ muốn kết nối với thày theo hình tư tưởng của con. Do đó, Nada, nếu thày muốn kết nối với con thì thày phải tuân theo hình tư tưởng của con.”

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.2. Nada, con thấy là nếu thày làm vậy thì thày sẽ xác chứng hình tư tưởng của con, và tự ngã của con sẽ nghĩ: “Hình tư tưởng của tôi không phải là một hình tư tưởng, đó chính là Nada như thày thực là.”

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.3. Nada, con thấy là như vậy sẽ không giúp con tăng trưởng tâm linh. Làm sao thày có thể giúp con tăng triển bằng cách xác chứng hình tư tưởng đang ngăn cản con tăng triển?

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.4. Nada, con muốn kết nối với thày, chứ không phải với một hình tư tưởng của thày. Con sẵn sàng buông bỏ hình tư tưởng để trải nghiệm Hiện diện của Chân sư Thăng thiên Nada.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.5. Nada, con sẵn lòng trải nghiệm là thày không tìm cách trốn tránh con, nhưng chính con tìm cách trốn tránh thày. Và nếu con muốn trốn tránh thày bằng cách phóng chiếu một hình tư tưởng lên thày, thì thày phải để con làm chuyện này.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.6. Nada, con không muốn kết nối với các sinh thể giả danh các thày trên cõi tư tưởng, các sinh thể này sẽ hoan hỷ tuân theo bất cứ hình ảnh nào mà con phóng chiếu lên họ nếu con cho họ năng lượng của con.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.7. Nada, con thấy là thày không cần năng lượng của con, thày không chịu tuân theo các hình tư tưởng của con vì thày không cần gì từ con, và thày không muốn con nghĩ là hình tư tưởng của con đã được thày xác chứng.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.8. Nada, con thấy là nếu con không trải nghiệm hiện diện của một chân sư thăng thiên, thì đó là vì con có một hình tư tưởng đang xua đẩy vị chân sư thật ra khỏi con.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.9. Nada, con thực sự muốn kết nối với thày, và con phải sẵn lòng nhìn quá các hình tư tưởng vì chúng đang ngăn cản con kết nối.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

Phần 4

4.1. Nada, con thấy là khi con tạo một hình tư tưởng về một chân sư thăng thiên, hình tư tưởng này cho phép con có một trải nghiệm và trải nghiệm này không thể bị thách thức bởi vị chân sư thực, do đó con có thể trốn tránh vị chân sư.

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.2. Nada, con sẵn lòng theo tiến trình giải thoát mình khỏi các hình tư tưởng, ngưng phóng chiếu, và qua đó con có thể tới điểm con thực sự kết nối với thày là chân sư thăng thiên.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.3. Nada, con sẵn lòng trải nghiệm kết nối với thày không qua giáo lý, không qua trí năng, không qua hiểu biết và nắm bắt, mà chỉ kết nối với Hiện diện của thày.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.4. Nada, con thấy kết nối trực tiếp với thày là trải nghiệm quý báu nhất mà con có thể có trên con đường tâm linh vì nó cho con một khung tham chiếu trực tiếp từ bên trên thế giới vật chất. Thực sự không có gì trong thế giới vật chất có thể đánh lừa con nữa, hay kéo con vào phản ứng. Đây là điều con muốn.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.5. Nada, con thấy nguyên do khổ đau là do con thiết lập trong tâm hình ảnh cuộc sống trên trái đất phải như thế nào. Con phóng chiếu hình ảnh đó ra ngoài, nhưng sau đó con trải nghiệm là cuộc sống không phù hợp với hình ảnh của con. Đây chính là căn bản của khổ đau.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.6. Nada, con sẵn lòng trải nghiệm tâm Ki-tô và dùng trải nghiệm Ki-tô để buông bỏ hình tư tưởng của con, buông bỏ các ngã tách biệt, khắc phục dính mắc.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.7. Nada, con sẵn lòng trải nghiệm lời hứa muôn thuở của tâm Ki-tô là con có thể dùng nó để có một tầm nhìn khác về các điều kiện vật lý và khắc phục dính mắc và các hình tư tưởng. Khi con nhìn điều kiện mà không phóng chiếu là chúng không được như vậy, thì con có thể giáp mặt điều kiện mà không khổ đau.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.8. Nada, con sẵn lòng nhìn nhận là điều kiện vật lý không tạo khổ đau mà khổ đau do cách con nhìn điều kiện vật lý. Trong nhiều trường hợp, điều kiện vật lý không thể thay đổi cho tới khi con thay đổi cách con nhìn chúng.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.9. Nada, con sẵn lòng trải nghiệm là con không phải vật lộn với tâm vỏ ngoài, tâm đường thẳng, tâm trí năng. Con không cần phóng chiếu hình tư tưởng lên mọi chuyện. Con không cần diễn giải mọi chuyện. Mọi chuyện không cần phải có một ý nghĩa nào đó. Nhiều chuyện đang xảy ra trên trái đất không có ý nghĩa tâm linh.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

Phần 5

5.1. Nada, con sẵn lòng vô hiệu hóa tâm phân tích lúc nào cũng muốn khám phá nguyên do, và con chỉ để Dòng sông sự Sống đưa con vượt quá điều kiện, kéo con vượt quá điều kiện, và con không dính mắc.

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

5.2. Nada, con sẵn lòng thấy quyết định của con trong quá khứ đã tạo ra một ngã tách biệt nói: “Tôi không bao giờ có thể an bình trên trái đất”. Khi con còn ngã đó, thì con không bao giờ có thể an bình trên trái đất.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

5.3. Nada, con thực sự muốn được an bình, và con thay thế quyết định cho rằng hành tinh này rất xấu xa và không ai có thể an bình ở đây. Con nhìn vào đức Phật và con nhìn nhận là thày đã đạt được an bình, và con cũng có thể đạt được trạng thái an bình.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

5.4. Nada, con thực sự muốn an bình, con thực sự muốn kết nối với Tia thứ Sáu của An Bình. Con sẵn lòng nhìn vào ngã đó và để nó chết đi. Con chấp nhận là con thực sự có thể an bình trên một hành tinh như trái đất.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

5.5. Nada, con sẵn lòng trải nghiệm là thày có một âm điệu đặc biệt, một âm điệu an bình, một âm thanh an bình, một rung động an bình. Nó không là âm thanh vật lý và con sẵn lòng nhận nó.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

5.6. Nada, con hòa điệu với Hiện diện của thày, với âm thanh an bình, và con trải nghiệm âm thanh này bắt đầu rung động trong tâm con, bắt đầu nơi thể tình cảm của con. Âm thanh rung động và tạo nên một mô thức đều đặn trong những xúc cảm hỗn loạn. Những xúc cảm rối loạn dần dần rung động theo mô thức đều đặn đó cho tới khi chỉ còn mô thức đều đặn. Sau đó mô thức lắng đọng xuống và nay thể cảm xúc của con như mặt đại dương yên lắng, mặt nước hoàn toàn yên lặng, bằng phẳng.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

5.7. Nada, con hòa điệu với Hiện diện của thày và con lên thể tư tưởng, và một lần nữa âm thanh an bình bắt đầu ảnh hưởng tư tưởng của con. Những ý tưởng hỗn loạn mang vào mô thức đều đặn của âm thanh an bình. Sau đó, khi mọi chuyện đã vào mô thức đều đặn, thì các làn sóng dịu xuống và giờ đây thể tư tưởng của con như mặt đại dương yên tĩnh.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

5.8. Nada, con hòa điệu với Hiện diện của thày và con lên thể bản sắc. Năng lượng hỗn loạn nơi đó trở nên một làn sóng rung động đều đặn và sau đó sự đều đặn lắng xuống và thể bản sắc giống như mặt đại dương yên tĩnh.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

5.9. Nada, con hòa điệu với Hiện diện của thày và từ thể bản sắc con đi xuống thể vật lý. Thân thể vật lý của con bắt đầu rung động đồng điệu. Tất cả mọi tế bào, một số phần thân thể, bắt đầu rung động đồng điệu với mô thức đều đặn. Chúng trở nên hoàn toàn đồng điệu với rung động đều đặn của âm thanh an bình. Sau đó, làn sóng bắt đầu lắng xuống và nay ngay thân thể của con cũng như mặt đại dương yên tĩnh.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

22 | Thỉnh cầu sự thực sẽ nâng con cao hơn (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi thày Hilarion hãy giúp con thực sự chấp nhận là không có chân lý tối hậu, và con cần luôn luôn tìm chân lý sẽ nâng con lên tầng tâm thức kế tiếp, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Hilarion, con buông bỏ tâm đường thẳng nghĩ rằng sự thật ngược lại với không thực, rằng sự thật là một cái gì mà ta có thể hiểu và đặt trên một thang điểm đường thẳng, với sự thật ở một đầu và không thực ở đầu kia.

Hilarion, trên bờ lục bảo,
Chúng con bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

1.2. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm sự thật là cái gì dẫn con tới gần cái một hơn. Không thực là cái gì mang con ra xa cái một.

Hilarion, chìa khóa bí mật,
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

1.3. Hilarion, con buông bỏ ý tưởng cho rằng nhất định phải có một chân lý tối hậu. Con chấp nhận là ở bất cứ tầng nào của tạo vật của đấng Sáng tạo, cũng có một chân lý có thể nắm bắt và hiểu ở tầng đó.

Hilarion, tình yêu sự sống,
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

1.4. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm là một khi con hợp một với tâm thức Ki-tô, trở thành Ki-tô Hằng sống, thì con biết tâm Ki-tô đó là tâm của cái Một.

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng,
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền,
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

1.5. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm mọi sự là một, nhưng cũng có một cấp bậc, một tiến trình đường thẳng các tầng tâm thức, dẫn con từ nơi con đang ở tới đấng Sáng tạo.

Hilarion, thương yêu đón chào,
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

1.6. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm cái một, là nơi con không đặt vấn đề cao hơn hay thấp hơn vì con thuộc vào một tiến trình, một tiến trình luôn luôn tự thăng vượt, là vũ khúc hoàn vũ của sự tự thăng vượt.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

1.7. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm toàn thể tạo vật của đấng Sáng tạo, toàn thể thế giới hình tướng là Dòng sông sự Sống. Tạo vật của đấng Sáng tạo là một sự chuyển động lên cao, không ngừng tự thăng vượt.

Hilarion, thông sạch luân xa,
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà,
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

1.8. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm con đang tiếp cận Dòng sông sự Sống và con có thể đứng yên và vui hưởng cuộc sống trong một thời gian ở một tầng nào đó, nhưng con sẽ có trực giác khi nào đến lúc tiếp tục tiến bước.

Hilarion, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

1.9. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm chân lý tuyệt đối là không có chân lý tuyệt đối. Có nhiều chân lý tuyệt đối, vì chân lý mà con có thể nắm bắt ở tầng tâm thức của con là chân lý tuyệt đối ở tầng đó.

Hilarion, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế chúng con rải truyền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

Phần 2

2.1. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm chân lý là cái giúp con tới gần cái một hơn. Con không thể đặt điều dẫn con tới cái một lên thang điểm nhị nguyên, có chân lý ở đầu này và không thực ở đầu kia. Sự thật Hằng sống không đối ngược với giả dối.

Hilarion, trên bờ lục bảo,
Chúng con bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

2.2. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm tâm thức nhị nguyên quy định cái này là giả dối và đối ngược của nó là sự thật, nhưng cả hai đều xuất phát từ nhị nguyên, và vì vậy cả hai đều tương đối. Chúng chỉ hiện hữu khi có cái kia, có thang điểm nhị nguyên, có tâm thức nhị nguyên.

Hilarion, chìa khóa bí mật,
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

2.3. Hilarion, con sẵn lòng nhìn ra các ngã tách biệt mà con còn sót lại, và thấy liệu con đã thăng vượt tầng tâm thức cho rằng phải có một chân lý tuyệt đối. Con buông bỏ ý tưởng con đã đạt được một tầng hiểu biết tối hậu hay một tầng tâm thức tối hậu nào đó.

Hilarion, tình yêu sự sống,
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

2.4. Hilarion, con sẵn lòng thấy một ngã tách biệt được hình thành khiến con nghĩ: “Tôi đã đi trên con đường tu nhiều năm rồi. Tôi đã dụng công nhiều rồi. Tôi đã đọc nhiều bài chú rồi. Chắc chắn tôi đã đạt một trình độ nào đó rồi.”

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng,
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền,
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

2.5. Hilarion, con nhìn nhận rằng nếu con còn ở trên trái đất thì con vẫn còn một tầng cao hơn để con vươn tới, và con vươn lên được tầng đó khi con với tới chân lý cao nhất mà con có thể nắm bắt ở tầng hiện nay của con, và chân lý đó sẽ dẫn con lên tầng kế tiếp.

Hilarion, thương yêu đón chào,
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

2.6. Hilarion, con thấy tự ngã lúc nào cũng là tự ngã, và nó sẽ tìm cách chặn sự tiến bộ của con ở bất cứ tầng nào. Con mở lòng đón nhận một chân lý tuần tự cao hơn. Con mở tâm đón nhận khai ngộ kế tiếp giúp con nhìn thấu suốt ảo tưởng hiện thời của con, và như vậy con vươn lên tầng kế tiếp.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

2.7. Hilarion, con xin thày chỉ cho con thấy chân lý kế tiếp. Con sẽ đọc bài chú của thày, tìm trong bài chú hai câu thực sự hấp dẫn con, học thuộc lòng hai câu này, thiền quán về chúng, và nhận được hướng dẫn của thày.

Hilarion, thông sạch luân xa,
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà,
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

2.8. Hilarion, con hình dung hai mắt của con di chuyển xa nhau ra cho đến khi chúng cách thân thể con một quãng. Sau đó, con dùng mắt nhìn về phía trước và con thấy trước mỗi mắt là một đường thẳng.

Hilarion, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

2.9. Hilarion, con theo hai đường thẳng đó nhìn về quãng xa cho tới khi chúng nhập một và trở nên một đường. Sau đó, con rút sự chú ý của con trở về con mắt thứ ba của con và con cho phép mình trải nghiệm viễn quan một mắt đó.

Hilarion, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế chúng con rải truyền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

Phần 3

3.1. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm là ở mỗi tầng tâm thức, có một biểu lộ của tâm Ki-tô có khả năng đập tan ảo tưởng ở tầng tâm thức đó và giúp con vươn lên tầng kế tiếp.

Hilarion, trên bờ lục bảo,
Chúng con bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.2. Hilarion, con buông bỏ ý tưởng cho rằng chân lý là sự vun bồi hiểu biết, và nếu con tích lũy hiểu biết lâu đủ thì con sẽ đạt được chân lý.

Hilarion, chìa khóa bí mật,
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.3. Hilarion, con buông bỏ phương pháp giản hóa cho rằng nếu con nghiên cứu các thành phần càng ngày càng nhỏ thì rốt cuộc con sẽ tới được các thành phần cơ bản và hiểu được cách toàn thể vũ trụ vận hành.

Hilarion, tình yêu sự sống,
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.4. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm phương pháp giản hóa hoàn toàn sai lạc. Phương pháp giản hóa sẽ không bao giờ tìm ra cách thế giới vận hành, một phần vì nó không bao gồm tâm thức, và phần kia vì nghiên cứu các thành phần không thể cho biết cách tổng thể vận hành.

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng,
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền,
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.5. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm tâm thức là thực tại nền bên dưới mọi sự. Nhưng tâm thức có nhiều biểu lộ, nhiều tầng.

Hilarion, thương yêu đón chào,
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.6. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm tầng tâm thức cao hơn là tiềm năng cho phép con người tự nhận biết, là khả năng chọn lựa cách con đáp ứng với môi trường một cách có ý thức và cố ý.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.7. Hilarion, con nhìn nhận là có cách sống khác hơn cách sống bình thường. Con có thể hơn một con người phàm bình thường. Con có thể chọn nâng tâm thức mình ngày càng cao hơn một cách có hệ thống.

Hilarion, thông sạch luân xa,
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà,
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.8. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm xuyên qua tâm thức Ki-tô là con thuộc vào toàn bộ đại đoàn chưởng giáo, tiếp nối nhau lên đến tận đấng Sáng tạo. Con là một nối dài của đại đoàn chưởng giáo, con là một người đồng-sáng tạo với đại đoàn.

Hilarion, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.9. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm ý niệm tối hậu về mục đích và ý nghĩa của cuộc sống và hướng đi của con, con đang đi đâu, con muốn tới đâu.

Hilarion, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế chúng con rải truyền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

Phần 4

4.1. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm điều con muốn đồng-sáng tạo, điều con muốn trải nghiệm, cách con vươn lên các tầng tâm thức cao hơn để có thể đồng-sáng tạo hơn những gì con có thể làm ở tầng hiện tại.

Hilarion, trên bờ lục bảo,
Chúng con bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

4.2. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm thấy mình là một phần của đại đoàn chưởng giáo, tiếp nối nhau lên đến tận đấng Sáng tạo.

Hilarion, chìa khóa bí mật,
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

4.3. Hilarion, con sẵn lòng kết nối với các Thượng sư và có được một ý niệm bản sắc mới, một ý niệm mới về mục đích đời mình, ý niệm mình thuộc vào một kế hoạch vĩ đại đang trải bày, và con sẽ có một tầm nhìn mới về cuộc đời trên trái đất.

Hilarion, tình yêu sự sống,
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

4.4. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm con thuộc vào đại đoàn chưởng giáo để con thăng vượt cảm giác bị các điều kiện trên trái đất đè nặng, đồng hóa mình với chúng, bị ý muốn thay đổi chúng ám ảnh và cưỡng chế.

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng,
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền,
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

4.5. Hilarion, con sẵn lòng xoay chuyển hoàn toàn tầm nhìn của mình và khắc phục mọi thái độ dựa trên thiếu hụt.

Hilarion, thương yêu đón chào,
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

4.6. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm đi vào tâm thái tích cực, nhận ra là con đã tới một điểm tốt lành rồi.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

4.7. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm là không có gì trên trái đất có thể ngăn cản con tiếp tục thăng vượt chính mình và vươn lên các tầng tâm thức cao hơn.

Hilarion, thông sạch luân xa,
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà,
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

4.8. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm là các thày muốn con vươn lên các tầng tâm thức cao hơn và các thày đã hiến dâng cuộc đời mình để giúp con hoàn thành việc này.

Hilarion, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

4.9. Hilarion, con sẵn lòng trải nghiệm là các thày muốn con vươn lên tầng tâm thức mà các thày đã đạt tới khi thăng thiên và sau đó lên cao hơn nữa như các thày đã làm.

Hilarion, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế chúng con rải truyền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất,
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

20 | Thỉnh cầu cách nhìn tinh khiết về sự tinh khiết

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi thày Serapis Bey hãy giúp con nhìn thấy tiêu chuẩn mà con có về thế nào là tinh khiết và không tinh khiết, và vì sao nó ngăn trở con trải nghiệm Hiện diện của thày, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm Tia của Tinh khiết gia tốc độ rung của năng lượng thấp để nó trở thành năng lượng cao chảy về phía trên.

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

1.2. Serapis Bey, con sẵn lòng học cách đọc sự rung động để không cần dùng đến diễn giải trí năng.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

1.3. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm rút sự chú ý vào trung tâm bản thể của con, vào một điểm dị biệt – một điểm duy nhất không có nối dài, không có chiều rộng, chỉ có một điểm mà thôi.

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao,
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

1.4. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm có một nổ bùng với ánh sáng trắng tỏa ra từ điểm đó và ánh sáng thâm nhập hào quang của con, nó thâm nhập trường năng lực của con và nó tỏa ra ngoài từ bản thể của con.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

1.5. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm ánh sáng trắng, trắng hơn bất cứ gì con thấy trong bát cung vật lý, và thấy nó tỏa rạng vào bất cứ chứng bệnh nào trong thân thể của con.

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

1.6. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm con rút sự chú ý vào điểm duy nhất đó, và sau đó con cho phép thày, là Thượng sư của Tia thứ Tư, tỏa rạng ánh sáng trắng ra.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất,
Serapis Bey, vạch trần cái ngã
Cứ muốn cướp đi đời sống hài hòa.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

1.7. Serapis Bey, con buông bỏ tâm đường thẳng vì nó phải tạo ra vấn đề để nó có gì nó có thể giải quyết bằng cách phân tích. Con buông bỏ tâm đường thẳng đang nghĩ nó có thể dẫn con vào thiên đàng.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

1.8. Serapis Bey, con buông bỏ tâm đường thẳng đang nghĩ có một giải pháp đường thẳng cho “vấn đề tăng triển tâm linh.” Con thấy chỉ có tâm đường thẳng mới xem tăng triển là một vấn đề.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

1.9. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm giải pháp không phải là một trong hai đối cực cực đoan nhị nguyên. Giải pháp là thăng vượt thước đo, trạng thái tâm thức thấy các đối cực cực đoan.

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế chúng con rải truyền.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

Phần 2

2.1. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm con đang đứng ở một nơi hoàn toàn bằng phẳng, và nó mở rộng về mọi hướng tới tận xa nhất mà con có thể nhìn. Con rút sự chú ý vào bên trong, vào trung tâm của bản thể của con.

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

2.2. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm để sự chú ý đi xuyên qua trung tâm bản thể của con và sau đó đi ra ngoài trên mặt bằng phẳng. Con rút sự chú ý vào bên trong nhưng thay vì đi thẳng ra ngoài thì con đi xuyên qua trung tâm và sau đó đi ra ngoài về mọi hướng.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

2.3. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm hai mắt con kéo về trung tâm, và ánh mắt của con đi xuyên qua trung tâm tới cả hai hướng, tới lui, vào trong ra ngoài, vào trong ra ngoài, vào trong ra ngoài.

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao,
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

2.4. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm một cảm giác yên tĩnh, một sự im lặng trong tâm, và con chú tâm vào sự yên tĩnh đó, mở rộng sự chú ý của con ra ngoài trên mặt bằng phẳng không có hình tượng gì đặc biệt, kéo giãn nó ra xa tối đa và sau đó con dần dà, chậm rãi kéo sự chú ý vào bên trong trở lại.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

2.5. Serapis Bey, con buông bỏ tâm đường thẳng đang nói: “Hãy định ra mục đích để tôi nhắm tới. Làm sao tôi biết được cách tới đó nếu tôi không biết tôi đi đâu?”

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

2.6. Serapis Bey, con thấy là tâm đường thẳng không đi đâu cả. Con cũng không đi đâu cả, nhưng con sẵn lòng trải nghiệm sự an bình hiện ra khi tâm đường thẳng bị vô hiệu hóa.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất,
Serapis Bey, vạch trần cái ngã
Cứ muốn cướp đi đời sống hài hòa.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

2.7. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm con là nhận biết thuần khiết không có đặc tính và không có nối dài nhất định trong không gian. Nó không tập trung vào một điểm, nó không có biên giới, nó chỉ là nhận biết thuần khiết.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

2.8. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là điều quan trọng không phải là cái Ta Biết đập dí các ngã tiềm thức để chúng phải phục tùng, dùng kỷ luật để ép các ngã tiềm thức, hay dồn nén các ngã tiềm thức. Tăng triển tâm linh không do ép uổng bất cứ gì, mà do buông bỏ.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

2.9. Serapis Bey, con sẵn lòng xoay chuyển cách con tiếp cận con đường tâm linh và nhận ra điều quan trọng không phải là cưỡng chế bất cứ điều gì. Điều quan trọng là buông bỏ và trải nghiệm là cái Ta Biết quả thật là tâm thức Ki-tô bởi vì nó từ tâm thức Ki-tô mà ra.

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế chúng con rải truyền.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

Phần 3

3.1. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm tâm thức Ki-tô là tâm thức một. Tâm thức Ki-tô một cách tự nhiên tìm đường tới gần cái một hơn.

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.2. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là cái Ta Biết vươn lên tầng kế tiếp một cách tự nhiên. Con không cần áp chế. Con không cần ép tâm theo kỷ luật. Con vươn lên một cách tự nhiên.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.3. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là con không thể dùng vũ lực để xông vào thiên đàng. Con không thể dùng vũ lực để cưỡng ép mình vào tâm thức Ki-tô.

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao,
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.4. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm thăng vượt vũ lực, không dùng tâm đường thẳng để đè nén tâm đường thẳng hay thậm chí đè nén các ngã tiềm thức.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.5. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm con gia tốc, gia tốc vào tinh khiết. Con trải nghiệm tinh khiết là một đặc tính thiêng liêng. Con thấy là con ép mình rời khỏi tinh khiết, và do đó con không thể ép mình trở về tinh khiết.

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.6. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm một đặc tính thiêng liêng là một điều kiện tự nhiên. Tâm thức Ki-tô một cách tự nhiên tìm về với cái một. Bất cứ đặc tính thiêng liêng nào cũng tự nhiên tìm về cái một.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất,
Serapis Bey, vạch trần cái ngã
Cứ muốn cướp đi đời sống hài hòa.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.7. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là khi con ngưng cưỡng bách mình rời cái một, thì cái Ta Biết một cách tự nhiên bắt đầu trở về hợp một với Hiện diện TA LÀ.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.8. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là điều này xảy ra một cách tự nhiên. Nó không cần cố gắng vì con cần ngừng sự cố gắng đã ép con ra khỏi trạng thái tự nhiên.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.9. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là một đặc tính thiêng liêng không có sắc thái có thể được quy định bởi tâm đường thẳng trên thế gian này hay bởi tâm thức sa ngã. Tinh khiết Thiêng liêng không đối chọi với ô trược.

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế chúng con rải truyền.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

Phần 4

4.1. Serapis Bey, con buông bỏ lý tưởng mà con có về thế nào là người tâm linh. Con thấy là Ki-tô Hằng sống không thể bị ép vào một lý tưởng, một mô hình, một tiêu chuẩn. Không có tiêu chuẩn quy định thế nào là Ki-tô Hằng sống.

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

4.2. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là Ki-tô Hằng sống là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ và các chân sư thăng thiên. Tâm đường thẳng không thể hiểu được Hiện diện TA LÀ hay các chân sư thăng thiên muốn làm gì xuyên qua con.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

4.3. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là các thày không ở trong bầu cõi chưa thăng thiên, các thày không ở trong tâm thức nhị nguyên. Nếu con dính mắc với tâm đường thẳng và tiêu chuẩn của nó, thì làm sao con có thể là cánh cửa mở cho các thày?

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao,
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

4.4. Serapis Bey, con sẵn lòng là cánh cửa mở để các thày tuôn chảy xuyên qua con, và con thấy cánh cửa mở có nghĩa là trung hòa, và trung hòa là một từ khác để chỉ sự tinh khiết. Con có ý định tinh khiết, và con sẵn lòng cho phép các thày biểu lộ bất cứ gì các thày muốn biểu lộ xuyên qua con.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

4.5. Serapis Bey, con có ý định kết nối với thày, nhưng con không phóng chiếu một hình ảnh đặc thù là sự kết nối đó phải xảy ra như thế nào, hình thức phải như thế nào, thày phải cư xử ra sao và con phải cư xử ra sao.

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

4.6. Serapis Bey, con trung hòa. Con có ý định kết nối nhưng không có ý định đạt một kết quả đặc thù. Con có ý định tinh khiết trải nghiệm Hiện diện của thày.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất,
Serapis Bey, vạch trần cái ngã
Cứ muốn cướp đi đời sống hài hòa.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

4.7. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là không có gì thày giữ lại mà không cho con. Thày luôn luôn bên con vì Tia thứ Tư ở khắp mọi nơi.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

4.8. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là như tâm thức Ki-tô ở trong mọi sự, bảy tia sáng cũng thế. Con không thể tách biệt khỏi Tia thứ Tư.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

4.9. Serapis Bey, con sẵn lòng trải nghiệm là con chỉ cần xoay chuyển điểm chú tâm để trải nghiệm Hiện diện của thày. Trải nghiệm Hiện diện của một chân sư thăng thiên là cách kết nối với chân sư thăng thiên đó – không phải là kết nối băng qua một khoảng cách lớn rộng, băng qua một khoảng trống, băng qua một hố sâu, nhưng là trải nghiệm Hiện diện luôn luôn có mặt.

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế chúng con rải truyền.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

18 | Thỉnh cầu trải nghiệm trực tiếp tình thương Thiêng liêng

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi thày Paul người Venice hãy giúp con thấy những gì đang ngăn cản con trải nghiệm và chấp nhận tình thương vô điều kiện, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Paul người Venice, con buông bỏ khái niệm về tình thương nhân gian đã được phóng chiếu lên trên tình thương Thiêng liêng. Con sẵn lòng thấy những hình ảnh nào của tình thương nhân gian, của phản-tình thương, đã ảnh hưởng con trong kiếp này và thậm chí từ những kiếp trước.

Ôi chân sư Paul, thày là giấc mơ,
Thày yêu cái đẹp hằng chảy tuôn ra.
Ôi chân sư Paul, tình mang trong dạ
Quyền năng đập vỡ nấm mồ tự ngã.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

1.2. Paul người Venice, con sẵn lòng trải nghiệm tình thương Thiêng liêng không bị giam trong ảo tưởng thiếu thốn, và do đó, tình thương Thiêng liêng không bao giờ có thiếu thốn. Nó là một dòng chảy miên viễn chảy từ đấng Sáng tạo tới con và đi vào con.

Ôi chân sư Paul, là nguồn khuyên nhủ,
Tâm con bay vút lên đỉnh trời cao.
Ôi chân sư Paul, minh triết ấp ủ
Cái đẹp chảy xuống từ Trên nhập vào.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

1.3. Paul người Venice, con sẵn lòng trải nghiệm cho tình thương một cách tự do, cho từ trạng thái tâm trung hòa, khi con không có ý muốn đạt được kết quả gì khi cho tình thương.

Ôi chân sư Paul, yêu là nghệ thuật,
Mở trái tim ra căn phòng mật thất.
Ôi chân sư Paul, ào ào chảy xuống,
Cho tim tràn ngập ánh sắc yêu thương.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

1.4. Paul người Venice, con muốn tình thương Thiêng liêng, không muốn tình thương nhân gian. Con sẵn lòng nhận ra là tình thương Thiêng liêng được trao tặng tự do cho tất cả những ai muốn nhận nó, và con muốn nhận được nó.

Ôi chân sư Paul, gia tốc mài miệt,
Trụ vào từ bi, con thiền nhận biết.
Ôi chân sư Paul, ý định thuần khiết
Sẽ được bảo đảm thăng lên siêu việt.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

1.5. Paul người Venice, con sẵn lòng thấy các ngã tiềm thức đang khiến con chối bỏ hay lờ đi không thấy tình thương. Con buông bỏ cái ngã nói rằng con không xứng đáng được nhận tình thương Thiêng liêng.

Ôi chân sư Paul, tình yêu hàn gắn,
Thày mở lộ ra ánh sáng nội tâm.
Ôi chân sư Paul, tình yêu an ủi,
Để con nguyên vẹn trong một niềm vui.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

1.6. Paul người Venice, con buông bỏ cái ngã khác phóng chiếu rằng tình thương Thiêng liêng rất đặc biệt, và vì nó đặc biệt như vậy nên con cũng phải đặc biệt mới nhận được nó. Con thấy là tình thương Thiêng liêng không đặc biệt, nó vượt lên trên mọi nhãn hiệu.

Ôi chân sư Paul, phụng sự Tất cả,
Giúp mọi chúng sinh thăng vượt sa ngã.
Ôi chân sư Paul, an bình ra khơi,
Mặc cho tự ngã tất phải tàn hơi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

1.7. Paul người Venice, con sẵn lòng trải nghiệm tình thương vượt lên trên các điều kiện, đặc biệt là những điều kiện có thể được quy định trên một hành tinh không tự nhiên như trái đất hay bởi sa nhân trong tư duy nhị nguyên.

Ôi chân sư Paul, tình yêu giải phóng,
Thày yêu mãi mãi, cho con nhập dòng.
Ôi chân sư Paul, thày là vị Chủ
Giúp cho hành trình của con hứng thú.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

1.8. Paul người Venice, con thấy là bất kỳ điều kiện nào mà tư duy nhị nguyên có thể quy định đều là một điều kiện tương đối, trong khi một đặc tính thiêng liêng thì không tương đối. Vì nếu nó tương đối, thì nó không thể thiêng liêng.

Ôi chân sư Paul, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư Paul, thày tô bầu trời,
Cái ta mừng rỡ trong màu vui tươi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

1.9. Paul người Venice, con sẵn lòng thấy những ngã mà con đã tạo ra trong kiếp này hay các kiếp trước để phản ứng lại những hình ảnh do con người tạo ra về tình thương có điều kiện, tình thương nhân gian, tình thương kiểm soát. Con thấy là các ngã này không thể kết nối với tình thương Thiêng liêng, không thể hiểu thấu tình thương Thiêng liêng.

Ôi chân sư Paul, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tình yêu Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

Phần 2

2.1. Paul người Venice, con sẵn lòng trải nghiệm “tình thương là”, và con buông bỏ cái ngã nói rằng: “Tình thương là gì? Tình thương phải là cái gì đó. Nó không thể chỉ là, nó phải là cái gì đó. Nó phải có hình tướng. Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể nắm bắt và cầm giữ. Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể sỡ hữu, mô tả, phân tích.” Con buông bỏ cái ngã đó.

Ôi chân sư Paul, thày là giấc mơ,
Thày yêu cái đẹp hằng chảy tuôn ra.
Ôi chân sư Paul, tình mang trong dạ
Quyền năng đập vỡ nấm mồ tự ngã.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

2.2. Paul người Venice, con buông bỏ cái ngã nói rằng: “Tôi là cái tâm, công việc của tôi là giải thích và hiểu mọi việc, nhưng nếu cái đó không có đặc tính, thì đâu có gì để giải thích và hiểu? Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể làm việc với nó. Bạn đã tạo ra tôi để tôi hiểu và giải thích mọi thứ cho bạn. Bạn không thể chỉ ngồi đó và nói: ‘Tình thương là,’ nó phải là cái gì đó.” Con buông bỏ cái ngã đó.

Ôi chân sư Paul, là nguồn khuyên nhủ,
Tâm con bay vút lên đỉnh trời cao.
Ôi chân sư Paul, minh triết ấp ủ
Cái đẹp chảy xuống từ Trên nhập vào.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

2.3. Paul người Venice, con sẵn lòng thấy tâm của con nói tình thương phải là gì. Con buông bỏ tất cả các ngã nói rằng tình thương phải là cái này, phải là cái nọ, cho tới khi con có thể lặp lại câu thần chú, “Tình thương là” và con bình an với vỏn vẹn Tình thương là.

Ôi chân sư Paul, yêu là nghệ thuật,
Mở trái tim ra căn phòng mật thất.
Ôi chân sư Paul, ào ào chảy xuống,
Cho tim tràn ngập ánh sắc yêu thương.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

2.4. Paul người Venice, con cho phép tình thương là bất cứ cái gì nó sẽ là, cái “Ta sẽ Là cái Ta sẽ Là.” Con sẵn lòng trải nghiệm tình thương Thiêng liêng vượt lên trên mọi điều kiện. Nó là một năng lượng. Nó là một Hiện diện. Nó là một trạng thái tâm thức.

Ôi chân sư Paul, gia tốc mài miệt,
Trụ vào từ bi, con thiền nhận biết.
Ôi chân sư Paul, ý định thuần khiết
Sẽ được bảo đảm thăng lên siêu việt.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

2.5. Paul người Venice, con nhận ra chính vì tâm không thể nắm bắt tình thương vô điều kiện, nên tâm cũng không thể gạt nó ra ngoài. Các ngã tách biệt chỉ có thể gạt ra ngoài những gì có đặc tính mà tâm có thể nắm bắt.

Ôi chân sư Paul, tình yêu hàn gắn,
Thày mở lộ ra ánh sáng nội tâm.
Ôi chân sư Paul, tình yêu an ủi,
Để con nguyên vẹn trong một niềm vui.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

2.6. Paul người Venice, con buông bỏ cái ngã muốn gán những khái niệm thật và giả lên tình thương Thiêng liêng, để cảm thấy nó kiểm soát được tình thương, nó có thể dùng tình thương để kiểm soát người khác và vượt qua cảm giác thiếu thốn gắn liền với tâm tách biệt.

Ôi chân sư Paul, phụng sự Tất cả,
Giúp mọi chúng sinh thăng vượt sa ngã.
Ôi chân sư Paul, an bình ra khơi,
Mặc cho tự ngã tất phải tàn hơi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

2.7. Paul người Venice, con thấy tách biệt dẫn tới thiếu thốn vì nó khiến con không nhận được các đặc tính thiêng liêng, là điều duy nhất có thể khiến con thực sự mãn nguyện và lấp đầy tâm con. Cái Ta Biết nhận ra và chấp nhận là cách duy nhất khiến con mãn nguyện là nhận được một đặc tính thiêng liêng.

Ôi chân sư Paul, tình yêu giải phóng,
Thày yêu mãi mãi, cho con nhập dòng.
Ôi chân sư Paul, thày là vị Chủ
Giúp cho hành trình của con hứng thú.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

2.8. Paul người Venice, con thấy là con nhận được bao nhiêu tình thương nhân gian cũng không thể thật sự thỏa mãn nhu cầu tình thương của con. Chỉ tình thương Thiêng liêng mới có thể thỏa mãn nhu cầu tình thương. Lẽ tất nhiên, tình thương Thiêng liêng không thể thỏa mãn nhu cầu tình thương của ngã tách biệt.

Ôi chân sư Paul, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư Paul, thày tô bầu trời,
Cái ta mừng rỡ trong màu vui tươi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

2.9. Paul người Venice, con, như cái Ta Biết, bước ra ngoài ngã tách biệt và nhận ra ngã đang cố tìm kiếm điều không bao giờ thỏa mãn được. Con nhận ra: “Tôi sẽ không bao giờ thỏa mãn với cái này. Tôi chỉ có thể cảm thấy thỏa mãn, tràn đầy, mãn nguyện khi tôi trải nghiệm tình thương Thiêng liêng.”

Ôi chân sư Paul, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tình yêu Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

Phần 3

3.1. Paul người Venice, con chấp nhận tình thương. Con buông bỏ cái ngã nói rằng con không thể giản dị chấp nhận tình thương, và quy định những điều kiện mà con hay thế gian cho rằng con phải hội đủ để có thể chấp nhận tình thương. Con buông bỏ các điều kiện này.

Ôi chân sư Paul, thày là giấc mơ,
Thày yêu cái đẹp hằng chảy tuôn ra.
Ôi chân sư Paul, tình mang trong dạ
Quyền năng đập vỡ nấm mồ tự ngã.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.2. Paul người Venice, con thấy là con không cần có một hình ảnh trong tâm về cảm giác trải nghiệm tình thương Thiêng liêng sẽ như thế nào. Vì khi trải nghiệm nó, con sẽ biết đây là tình thương Thiêng liêng. Con sẽ không có chút nghi ngờ là con đã trải nghiệm tình thương Thiêng liêng.

Ôi chân sư Paul, là nguồn khuyên nhủ,
Tâm con bay vút lên đỉnh trời cao.
Ôi chân sư Paul, minh triết ấp ủ
Cái đẹp chảy xuống từ Trên nhập vào.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.3. Paul người Venice, con thấy là con không cần mô tả tình thương Thiêng liêng theo cách mà tâm có thể nắm bắt, vì con không trải nghiệm tình thương Thiêng liêng bằng tâm. Con mở tâm ra với trải nghiệm trực tiếp và trải nghiệm này không thể nhầm lẫn được.

Ôi chân sư Paul, yêu là nghệ thuật,
Mở trái tim ra căn phòng mật thất.
Ôi chân sư Paul, ào ào chảy xuống,
Cho tim tràn ngập ánh sắc yêu thương.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.4. Paul người Venice, con sẵn lòng trải nghiệm là con đã chạm gấu áo của chân sư và con đã trải nghiệm cái gì đó vượt lên trên tâm. Vì tình thương Thiêng liêng vượt lên trên tâm, tâm không thể trải nghiệm nó.

Ôi chân sư Paul, gia tốc mài miệt,
Trụ vào từ bi, con thiền nhận biết.
Ôi chân sư Paul, ý định thuần khiết
Sẽ được bảo đảm thăng lên siêu việt.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.5. Paul người Venice, con thấy con trải nghiệm tình thương Thiêng liêng nơi luân xa trái tim. Trải nghiệm một đặc tính của Thượng đế không đến từ suy nghĩ về đặc tính đó. Vấn đề là cắn vào trái táo tình thương thay vì suy nghĩ sẽ cảm thấy thế nào khi cắn vào trái táo.

Ôi chân sư Paul, tình yêu hàn gắn,
Thày mở lộ ra ánh sáng nội tâm.
Ôi chân sư Paul, tình yêu an ủi,
Để con nguyên vẹn trong một niềm vui.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.6. Paul người Venice, con sẵn lòng tìm ra hai câu trong bài chú của thày và dùng hai câu này trong thiền quán để vô hiệu hóa tâm và hòa điệu với Hiện diện của thày.

Ôi chân sư Paul, phụng sự Tất cả,
Giúp mọi chúng sinh thăng vượt sa ngã.
Ôi chân sư Paul, an bình ra khơi,
Mặc cho tự ngã tất phải tàn hơi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.7. Paul người Venice, con sẵn lòng trải nghiệm là con không thể tách biệt khỏi tình thương Thiêng liêng. Tình thương Thiêng liêng không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Nó không bị gò bó vào một địa điểm đặc thù.

Ôi chân sư Paul, tình yêu giải phóng,
Thày yêu mãi mãi, cho con nhập dòng.
Ôi chân sư Paul, thày là vị Chủ
Giúp cho hành trình của con hứng thú.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.8. Paul người Venice, con thấy là con không thể quy định một nơi nào đó trên trái đất có sự tập trung cao của tình thương, vì tình thương không thể bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Tình thương ở khắp mọi nơi, nghĩa là con có thể hòa điệu với tình thương bất kỳ con đang ở đâu.

Ôi chân sư Paul, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư Paul, thày tô bầu trời,
Cái ta mừng rỡ trong màu vui tươi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.9. Paul người Venice, con sẵn lòng mở tâm ra đón nhận tình thương Thiêng liêng và để nó tuôn chảy xuyên qua con. Tình thương là một dòng chảy liên tục từ Tánh linh vào trong thế giới vật chất để đánh thức thế giới vật chất nhận ra Tình thương là. Do đó, TA LÀ tình thương.

Ôi chân sư Paul, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tình yêu Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

Phần 4

4.1. Paul người Venice, Tình thương là.

Ôi chân sư Paul, thày là giấc mơ,
Thày yêu cái đẹp hằng chảy tuôn ra.
Ôi chân sư Paul, tình mang trong dạ
Quyền năng đập vỡ nấm mồ tự ngã.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

4.2. Paul người Venice, Tình thương là.

Ôi chân sư Paul, là nguồn khuyên nhủ,
Tâm con bay vút lên đỉnh trời cao.
Ôi chân sư Paul, minh triết ấp ủ
Cái đẹp chảy xuống từ Trên nhập vào.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

4.3. Paul người Venice, Tình thương là.

Ôi chân sư Paul, yêu là nghệ thuật,
Mở trái tim ra căn phòng mật thất.
Ôi chân sư Paul, ào ào chảy xuống,
Cho tim tràn ngập ánh sắc yêu thương.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

4.4. Paul người Venice, con chấp nhận Tình thương.

Ôi chân sư Paul, gia tốc mài miệt,
Trụ vào từ bi, con thiền nhận biết.
Ôi chân sư Paul, ý định thuần khiết
Sẽ được bảo đảm thăng lên siêu việt.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

4.5. Paul người Venice, con chấp nhận Tình thương.

Ôi chân sư Paul, tình yêu hàn gắn,
Thày mở lộ ra ánh sáng nội tâm.
Ôi chân sư Paul, tình yêu an ủi,
Để con nguyên vẹn trong một niềm vui.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

4.6. Paul người Venice, con chấp nhận Tình thương.

Ôi chân sư Paul, phụng sự Tất cả,
Giúp mọi chúng sinh thăng vượt sa ngã.
Ôi chân sư Paul, an bình ra khơi,
Mặc cho tự ngã tất phải tàn hơi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

4.7. Paul người Venice, con là Tình thương.

Ôi chân sư Paul, tình yêu giải phóng,
Thày yêu mãi mãi, cho con nhập dòng.
Ôi chân sư Paul, thày là vị Chủ
Giúp cho hành trình của con hứng thú.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

4.8. Paul người Venice, con là Tình thương.

Ôi chân sư Paul, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư Paul, thày tô bầu trời,
Cái ta mừng rỡ trong màu vui tươi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

4.9. Paul người Venice, con là Tình thương.

Ôi chân sư Paul, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tình yêu Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

16 | Thỉnh cầu tâm thức Ki-tô (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, con kêu gọi Giê-su Ki-tô hãy giúp con khắc phục các ngã tách biệt đang ngăn cản con chấp nhận và trải nghiệm con đã là tâm thức Ki-tô rồi, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm thày là vị thày dễ kết nối nhất, vì thày là đại diện của tâm thức Ki-tô cho mọi người trên trái đất.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.2. Giê-su, con sẵn lòng trải ngiệm tâm thức Ki-tô là tâm thức hoàn vũ, tâm thức một, thống nhất, hợp nhất mà từ đó mọi thứ được tạo thành.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.3. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm tâm thức Ki-tô ở trong mọi thứ và mọi người. Bất cứ con ở đâu trên trái đất, cho dù hành tinh và địa phương nơi con ở có dày đặc đến đâu, cho dù tâm thức của con có thấp đến đâu, thì con vẫn đắm chìm trong tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.4. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm thày luôn luôn ở sát bên con, thày ở bên con khắp mọi nơi và bất cứ nơi nào con đang ở. Con muốn nhập một với tâm thức Ki-tô hoàn vũ để con cũng có thể là một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.5. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là trong tâm thức Ki-tô, không có ai “đặc biệt” cả, vì mọi sinh thể đều xuất phát từ tâm một của tâm thức Ki-tô và tâm của đấng Sáng tạo. Nếu tất cả mọi sinh thể đều xuất phát từ Bản thể của đấng Sáng tạo, thì làm sao bất cứ sinh thể nào lại có thể đặc biệt?

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.6. Giê-su, con buông bỏ ảo tưởng là con đặc biệt, con đứng trên luật lệ của con người, đứng trên luật của Thượng đế, và con có thể dẹp các luật này sang một bên, làm bất cứ gì con muốn mà không phải chịu hậu quả.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.7. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là thày ở đây để nâng mọi người vào Vương quốc của Thượng đế, đúng thực là trạng thái tâm thức khi con trải nghiệm Ki-tô bên trong mình, và con chấp nhận con là Ki-tô đang hiện thân trên trái đất.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.8. Giê-su, con buông bỏ các hình ảnh mà Cơ đốc giáo đã phóng chiếu lên thày, một sinh thể tâm linh, vì con thấy các hình ảnh này ngăn cản không cho con kết nối với thày. Xin thày giúp con thấy các ngã tách biệt đang duy trì hình ảnh thày là người con duy nhất của Thượng đế và con là một tội đồ.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.9. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con là một phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo, để con có thể khắc phục các ngã tách biệt và chấp nhận con xứng đáng kết nối với thày, con có khả năng kết nối với thày.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 2

2.1. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là nếu không có tâm thức Ki-tô, thì không có cá nhân nào được tạo thành, hay nói đúng hơn, được sinh ra. Người Con duy nhất được sinh ra từ đức Cha là tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.2. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con được sinh ra từ Thượng đế, con xuất phát từ tâm thức Ki-tô. Con được tạo ra từ tâm thức Ki-tô, vì nếu không thì làm sao con có thể có tự nhận biết?

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.3. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là chỉ có tâm thức Ki-tô mới có tự nhận biết, do đó con đã xuất phát từ tâm Ki-tô rồi, con là tâm Ki-tô, con đã kết nối với tâm Ki-tô, con là một với tâm Ki-tô.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.4. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con là tâm thức Ki-tô, vì không có gì ngoài nó. Bất kể các hình tướng mà con thấy trong thế giới hình tướng, thì đằng sau mọi hình tướng, bên trong mọi hình tướng, là tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.5. Giê-su, con sẵn lòng nhận ra là cái Ta Biết của con không phải là các ngã tách biệt, không phải là tự ngã, không phải là nhân cách vỏ ngoài.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.6. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con là nhận biết thuần khiết. Nhận biết thuần khiết là tâm thức Ki-tô vì không có nhận biết nào ngoài tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.7. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con đã là tâm thức Ki-tô rồi. Cái Ta Biết là tâm thức Ki-tô. Con có thể chưa là Ki-tô, nhưng con là tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.8. Giê-su, con sẵn lòng tiến tới chỗ con có thể chấp nhận con là Ki-tô, con là Ki-tô Hằng sống đang hiện thân trong cõi vật lý, và con ở đây để là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con, cho các chân sư thăng thiên, cho dòng chảy của Thánh linh chảy xuyên qua con.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.9. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là trong cái một, con không mất đi ý niệm bản ngã của con, cá tính của con, vì con điều khiển dòng chảy đó, và con có thể càng ngày càng trung hòa hơn trong việc điều khiển dòng chảy.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 3

3.1. Giê-su, con sẵn lòng trở nên trung hòa để con không dính mắc vào kết quả đặc trưng mà con muốn dòng chảy qua con phải tạo ra.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.2. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm vui hưởng Thánh linh tuôn chảy xuyên qua con, đi vào thế gian và tạo ra bất cứ kết quả nào mà nó tạo ra.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.3. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm tầng cao hơn của quả vị Ki-tô cá nhân, là Ki-tô hành động, khi con là cánh cửa mở cho dòng chảy.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.4. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con là nhân chứng của dòng chảy, vì con nhận ra: “Tự tôi, cái tôi vỏ ngoài, không làm được gì cả”.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.5. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là cái Ta Biết của con không làm được gì vì dòng chảy xuất phát từ trên Cao và nó chỉ chảy xuyên qua con mà thôi.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.6. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là nó chảy xuyên qua con vì con là tâm thức Ki-tô, và con là trụ điểm trong thế gian này để tâm thức Ki-tô chảy xuyên qua.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.7. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con không trở thành một cái gì mà con không đang là. Vì khi tâm thức Ki-tô ở trong tất cả mọi sự, và không có gì được tạo thành ngoài tâm thức Ki-tô, thì làm sao con có thể trở thành Ki-tô? Làm sao con chưa là Ki-tô rồi? Làm sao con có thể đã từng tách biệt khỏi cái ở khắp nơi và trong mọi sự?

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.8. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm vấn đề không phải là vượt qua một khoảng cách, trải qua một thay đổi. Vấn đề là thức tỉnh khỏi ảo tưởng cho rằng có khoảng cách, để tới điểm nhận ra con đã là, con lúc nào cũng đã là, tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.9. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm nhận biết rằng điều con cần thực hiện là khắc phục ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng là con đã từng tách rời, vì tách biệt là một ảo tưởng.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 4

4.1. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là không có tách biệt trong thực tại. Không thể nào có, không bao giờ từng có. Tách biệt là một ảo tưởng chỉ có thể có mặt trong tâm có một phin lọc che giấu cái Một bên dưới mọi sự sống.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.2. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là Ki-tô không bao giờ tuân phục bất cứ gì trên trái đất. Con sẵn lòng đứng lên không tuân phục bất cứ sự độc tài nào và để họ làm bất cứ gì họ muốn tới con, và qua đó họ sẽ phải nhận sự phán xử của Ki-tô.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.3. Giê-su, con sẵn lòng chứng minh cho mọi người thấy là ta có thể đứng lên chống những người đang là các lực phản-Ki-tô và tìm cách đàn áp con người.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.4. Giê-su, con buông bỏ mọi ảo tưởng do sa nhân tạo ra với mục đích khiến con chối bỏ con xứng đáng là Ki-tô, chối bỏ con đã là Ki-tô rồi và con xứng đáng biểu lộ Ki-tô trên thế gian này.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.5. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm với lên những tầng bản sắc càng ngày càng cao hơn, cho tới khi con tới ý niệm con là một với tâm Ki-tô, con là một với mọi sự sống. Con buông bỏ ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng mình là một cái ta bé nhỏ bị gò bó trong một khu vực địa phương rất eo hẹp trên hành tinh này.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.6. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm sự kết nối với tâm thức Ki-tô là cái Một của mọi sự sống. Con sẵn lòng chứng minh điều này để mọi người có thể thấy là có chọn lựa khác.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.7. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con là Ki-tô, và đó là lý do vì sao con có thể trải nghiệm là một với thày. Vì con trải nghiệm Ki-tô trong Vương quốc Thượng đế bên trong con.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.8. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm niềm vui mà thày LÀ, niềm vui không phải là niềm vui nhân gian đối ngược với buồn khổ, mà là niềm vui Thiêng liêng không có đối ngược. Vì làm sao cái ở khắp mọi nơi lại có thể có đối ngược?

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.9. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm sự thực là Ki-tô không có đối ngược. Phản-Ki-tô không phải là đối ngược của Ki-tô, phản-Ki-tô là đối ngược của một ảo tưởng nhị nguyên khác, một hình ảnh nhị nguyên của Ki-tô. Đây là cái mà phản-Ki-tô có thể chống đối. Phản-Ki-tô không thể chống đối Ki-tô thực.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

14 | Thỉnh cầu Minh triết Thiêng liêng vượt quá tâm đường thẳng (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi thày Lanto hãy giúp con thực sự thấy những giới hạn của tâm đường thẳng và trải nghiệm thực tại vượt quá tâm đường thẳng, kể cả sự hợp nhất với thày và …

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Lanto, con buông bỏ ảo tưởng coi minh triết như một loại kiến thức hữu hạn, một cái gì có thể được diễn tả bằng ngôn từ, hay bằng ngôn ngữ khoa học tỷ dụ như toán học.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

1.2. Lanto, con sẵn lòng trải nghiệm là không có minh triết tối thượng ngoại trừ cái một, chính là tâm thức của đấng Sáng tạo. Con thấy là minh triết không thể bị giam hãm trong ngôn từ hay những cách biểu hiện khác được dùng trên trái đất.

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

1.3. Lanto, con buông bỏ cố gắng khám phá, tạo sinh hay quy định một hình thức kiến thức tối thượng, hiểu biết tối thượng, minh triết tối thượng. Con buông bỏ ảo tưởng cho rằng mục đích của một giáo lý tâm linh là đem lại cho con một hình thức minh triết tối thượng.

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang. 

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

1.4. Lanto, con buông bỏ tư duy nghĩ rằng vị đạo sư của con, tổ chức tâm linh của con, giáo lý tâm linh của con có minh triết cao nhất, hiểu biết cao nhất, sự diễn tả cao nhất về sự vận hành của thế giới và cõi tâm linh.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

1.5. Lanto, con thấy mục đích của các chân sư thăng thiên không phải là cho con người một kiến thức tối thượng có thể trả lời mọi câu hỏi của họ. Mục đích là cho con người một con đường tu giản dị giúp họ từng bước một nâng cao tâm thức của họ.

Chân sư Lanto, chúng con viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

1.6. Lanto, con nhận ra là có những câu hỏi mà tâm đường thẳng lý luận không thể trả lời, bởi vì tâm này có thể đưa ra lập luận bênh vực hay phản bác bất cứ điểm gì. Con thấy là trong tư duy nhị nguyên mọi lập luận đều tương đối, do đó không có một lập luận chung cuộc.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

1.7. Lanto, thay vì tranh cãi ở tầng mức của tâm đường thẳng, phàm phu, lý luận, con sẽ chú tâm vào việc nâng cao tâm thức của con. Sau đó con sẽ có thể  bắt đầu có được minh triết thật sự, và trả lời những câu hỏi mà tâm đường thẳng không giải quyết được.

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

1.8. Lanto, con nhận ra là không có gì tối thượng trên trái đất, cho dù đó là giáo lý của Phật hay giáo lý của Giê-su hay giáo lý của Vệ đà hay bất kỳ giáo lý tâm linh nào khác. Bởi vì tâm đường thẳng có thể lấy bất kỳ giáo lý tâm linh nào và đưa ra nhiều cách diễn giải và lập luận khác nhau.

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, chúng con cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

1.9. Lanto, con nhận ra là một giáo lý tâm linh chân chính không có mục đích xác chứng những diễn giải của con người ở tầng tâm thức nào đó, mà là nâng tâm thức của họ lên cao hơn và vượt quá tầng tâm thức hiện tại của họ.

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

Phần 2

2.1. Lanto, con nhận ra là giáo lý tối thượng cho trái đất là giáo lý chỉ dạy cách vượt thăng những tầng tâm thức có mặt trên trái đất, để giúp con vươn lên những tầng tâm thức cao nhất có thể có trên trái đất.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

2.2. Lanto, con buông bỏ ảo tưởng cho rằng có một giáo lý tối thượng sẽ đem lại kết quả một cách máy móc. Con buông bỏ ý nghĩ là nếu con có giáo lý tối thượng, thì khi con học hỏi giáo lý này chắc chắn con phải đạt được tầng tâm thức tối thượng và sẽ giác ngộ, thăng thiên.

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

2.3. Lanto, con chấp nhận mục đích của giáo lý là xoay chuyển tâm thức con lên cao, không phải là xoay chuyển hiểu biết của con lên cao. Con thấy là hiểu biết không tương đương với tầng mức nhận biết.

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang. 

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

2.4. Lanto, con thấy sự khác biệt giữa việc hiểu một giáo lý bên ngoài với việc thể nhập giáo lý qua đó con nâng cao tâm thức của mình. Hiểu một giáo lý khác với nâng cao tâm thức vì hiểu có nghĩa là quan sát từ bên ngoài.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

2.5. Lanto, con ngưng tìm cách hiểu một chân sư thăng thiên như thế nào, nghĩ rằng nếu con hiểu thày Lanto thì con sẽ nối kết với thày. Con chấp nhận điều này không thể làm được.

Chân sư Lanto, chúng con viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

2.6. Lanto, con thấy là con không thể nối kết với thày Lanto và Minh triết của Tia thứ Hai nếu con nghĩ đây là điều con có thể nắm bắt bằng trí năng, điều con thấy bên ngoài con, một hiểu biết mà con phải đạt được.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

2.7. Lanto, con chấp nhận là con rốt cuộc sẽ nối kết được khi con tới điểm nhận ra là không có khoảng cách. Con sẵn lòng trải nghiệm là không có khoảng cách.

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

2.8. Lanto, con sẽ không cố gắng hiểu thày, vì dù con hiểu thày rõ tới đâu bằng trí năng, con sẽ vẫn không nối kết được với thày.

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, chúng con cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

2.9. Lanto, con buông bỏ ảo tưởng cho rằng thày càng ở xa, con càng cần nhiều nỗ lực để hiểu thày, thì con càng cao trội hơn nếu con có thể hiểu vị thày ở xa tít đó.

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

Phần 3

3.1. Lanto, con buông bỏ ý nghĩ thày đang lẩn trốn trong một quyển sách hay kinh điển nào đó. Con buông bỏ trò chơi tìm cầu cái ưu việt của trí năng. Thay vào đó, con tìm cầu sự giản dị của trải nghiệm.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.2. Lanto, con sẵn lòng trải nghiệm minh triết là một Hiện diện. Con chỉ có thể trải nghiệm Hiện diện. Con không thể hiểu Hiện diện. Con không thể hiểu Hiện diện TA LÀ của con, con chỉ có thể trải nghiệm Hiện diện.

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.3. Lanto, con sẵn lòng trải nghiệm là khi con truy tìm nguồn gốc của mình, thì đầu tiên hết con tìm thấy cái Ta Biết của con vượt quá cái ta vỏ ngoài, sau đó con tới Hiện diện TA LÀ của con là một nối dài của các chân sư thăng thiên, nối kết trở lên tới tận đấng Sáng tạo.

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang. 

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.4. Lanto, con buông bỏ ảo tưởng là mục đích của Bát chánh đạo là đạt tới một trạng thái vô ngã bằng cách buông bỏ tất cả mọi ngã. Con buông bỏ ảo tưởng cho rằng mục đích của con đường tâm linh là trừ tiệt cái ta.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.5. Lanto, con buông bỏ ngã tách biệt, cái tự ngã sinh ra từ tâm thức nhị nguyên. Con sẵn lòng trải nghiệm con là một nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, và Hiện diện TA LÀ của con có một cá tính. Con được sinh ra để mở rộng cái ta đó và trở nên hơn nữa.

Chân sư Lanto, chúng con viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.6. Lanto, con buông bỏ ảo tưởng cho rằng mục đích của con đường tâm linh là đạt trạng thái vô ngã nơi con thật sự không hiện hữu. Thay vào đó, con sẵn lòng tách mình ra khỏi ngã vỏ ngoài và khám phá Hiện diện TA LÀ của con và cá tính của nó.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.7. Lanto, con buông bỏ mọi dây trói con vào quái vật tập thể của trạng thái trống không, trạng thái vô ngã. Con buông bỏ ý muốn nâng cao bản ngã của con lên một địa vị tối thượng. Con buông bỏ trạng thái vô ngã, khuynh hướng chối bỏ có một cái ngã và đi vào chốn vô ngã khi nghĩ rằng mình không có ngã.

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.8. Lanto, con sẵn lòng trải nghiệm con là một người đồng-sáng tạo. Con không được tạo ra để hiện thân trên một hành tinh như trái đất và trải qua nhiều ngàn kiếp đầu thai để rồi một ngày kia tan biến vào cái hư không mà từ đó con đi ra.

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, chúng con cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.9. Lanto, con sẵn lòng trải nghiệm là mục đích của sự sáng tạo là tự thăng vượt, thăng vượt vô hạn định, mãi mãi, liên tục. Con sẵn lòng tiếp tục vượt thăng, để thày có thể đưa con vượt quá tầng tâm thức của trái đất và con có thể trải nghiệm một dạng minh triết vô vàn cao hơn, không thể trao truyền trên trái đất.

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

Phần 4

4.1. Lanto, con buông bỏ ảo tưởng cho rằng chỉ có Brahman là thực và do đó, con như là một cái ta, con không thực. Con thấy là cái ta tách biệt không thực và do đó để đạt được bất nhị, con phải khắc phục cái ta vì cái ta tách biệt chỉ có thể là nhị nguyên.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

4.2. Lanto, con sẵn lòng trải nghiệm là thế gian không phải là một ảo tưởng vì nó đến từ đấng Sáng tạo. Thế gian là Brahman biểu hiện chính mình như thế gian. Làm sao khi Brahman biểu hiện chính mình như hình tướng lại tạo ra ảo tưởng, khi chỉ có Brahman là thực? Thế gian cũng là Brahman, vậy ảo tưởng ở đâu?

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

4.3. Lanto, con thấy ảo tưởng cho rằng thế gian tách biệt khỏi Brahman. Thế gian được tạo ra từ các sinh thể thăng thiên biết và trải nghiệm họ là những nối dài của Bản thể của đấng Sáng tạo.

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang. 

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

4.4. Lanto, con thấy là không có ảo tưởng trong tâm đấng Sáng tạo. Ảo tưởng chỉ có trong tâm tách biệt khỏi nguồn cội của nó. Con thấy là sự phân chia không phải là nhị nguyên. Nhị nguyên không ở trong thế giới hình tướng. Nhị nguyên chỉ có ở trong tâm, tâm tách biệt, tâm thấy mình tách biệt.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

4.5. Lanto, con thấy là con không khắc phục tâm tách biệt bằng cách đi vào trạng thái vô ngã. Con khắc phục nó bằng cách khắc phục ảo tưởng rằng con có thể là một ngã tách biệt, tách biệt khỏi tâm một.

Chân sư Lanto, chúng con viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

4.6. Lanto, con thấy là khi con khắc phục sự đồng hóa với ngã tách biệt, thì con không tan biến mất, con không đi vào vô ngã. Con khám phá Hiện diện TA LÀ của con và chuỗi cấp bậc đi lần tới đấng Sáng tạo.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

4.7. Lanto, con sẵn lòng trải nghiệm con không trở về đấng Sáng tạo bằng cách tan biến và trở thành số không. Con trở về đấng Sáng tạo bằng cách trở thành tất cả những gì đấng Sáng tạo là, đạt được tâm thức của đấng Sáng tạo.

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

4.8. Lanto, con sẵn lòng tham gia hành trình trở về nguồn cội của con. Con thấy nguồn cội của con không phải là hư không. Nguồn cội của con là đấng Sáng tạo, và đấng Sáng tạo muốn con đi trên hành trình trở về này một cách ý thức, đạt được những tầng nhận biết và ý niệm bản ngã càng ngày càng cao hơn. Con nhận chân mọi tầng cấp của tạo vật của đấng Sáng tạo và góp phần đồng-sáng tạo nó.

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, chúng con cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

4.9. Lanto, con sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện của thày. Con sẵn lòng nhìn với tâm không thành kiến, nhìn với sơ tâm, nhìn với tâm trẻ thơ. Con muốn trải nghiệm Hiện diện của Minh triết, và con biết thày đang ở ngay đây.

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

12 | Thỉnh cầu kết nối với Tâm Một (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Chân sư MORE hãy giúp con thấy những gì đang ngăn cản con quy thuận theo đại dương của Ý chí Thiêng liêng, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Chân sư MORE, con muốn hơn nữa. Con thấy là con không thể kết nối với thày bằng cách muốn ít hơn, vì lúc nào thày cũng LÀ HƠN NỮA.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.2. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm là cái HƠN NỮA mà thày LÀ không thể so sánh với bất cứ cái gì ít hơn, mà nó cũng không thể so sánh với tất cả cái gì hơn nữa. Vì không thể có gì hơn Chân sư MORE.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.3. Chân sư MORE, con sẵn lòng vô hiệu hóa tâm đường thẳng, là cái tâm lúc nào cũng muốn nghĩ là có cái gì hơn nữa. Nếu con cố gắng có hơn những gì con hiện có, thì làm sao con kết nối được với Chân sư MORE? Vì thày không hơn và cũng không kém.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.4. Chân sư MORE, con thấy là có một ý chí trên trái đất, và đó là ý chí nhân gian, ý chí của tự ngã và của các ngã tách biệt. Con buông bỏ ý chí muốn tiếp cận con đường tâm linh vì tự ngã nghĩ nó có thể gặt hái sự an toàn hay một địa vị nào đó.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.5. Chân sư MORE, con buông bỏ ảo tưởng của tự ngã cho rằng có một giai đoạn tối hậu đòi hỏi ý chí tối hậu. Con buông bỏ ảo tưởng cho rằng để xứng đáng kết nối với thày, con phải là tia sáng xanh và phải nhất quyết và rất chú tâm.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.6. Chân sư MORE, con thấy là khi con có ý chí quá mạnh, bất quân bình, thì không những con không nhớ thông điệp, mà con còn không nhận được thông điệp nữa.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.7. Chân sư MORE, con buông bỏ cả phản-ý chí lẫn ý chí quá mạnh. Con nhận ra uy lực ý chí là một đức tính thiêng liêng mà con không cần thu nhập như một sinh thể đang đầu thai.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.8. Chân sư MORE, con buông bỏ cái ngã tập trung vào uy lực ý chí và nhìn uy lực ý chí xuyên qua ý chí của tự ngã dựa trên ảo tưởng tách biệt. Con buông bỏ ảo tưởng có một rào cản mà con phải đẩy qua để có được đức tính Thiêng liêng của uy lực ý chí của Tia thứ Nhất.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.9. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm là khi con cố làm nhiều hơn thì con lại đạt được ít hơn. Con thấy là khi con tạo ra ngã phóng chiếu ra ngoài, thì con cũng tạo sự chống đối, và con càng nỗ lực nhiều hơn thì sức chống đối càng mạnh hơn, cho tới khi con rốt cuộc bị suy sụp.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 2

2.1. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm là khi con không làm, nhưng không việc gì không được làm. Con nhận ra là con không tách biệt khỏi Ý chí Thiêng liêng, con là một ngọn sóng trong đại dương của Ý chí Thiêng liêng, và con cảm thấy sự chuyển động của đại dương của Ý chí Thiêng liêng.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.2. Chân sư MORE, con sẵn lòng tuôn chảy cùng Ý chí Thiêng liêng về hướng cho con tăng trưởng cao nhất, thăng vượt cao nhất, tiến bộ cao nhất về hướng tầng tâm thức 144 và việc hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.3. Chân sư MORE, con buông bỏ mục đích vỏ ngoài dựa trên nền văn hóa và môi trường nơi con khôn lớn. Con buông bỏ ý muốn dùng nỗ lực mạnh để tiến tới mục đích đó, nhưng hướng đó đi ngược Sứ vụ Thiêng liêng của con, và con tạo sự chống đối lại chính mình.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.4. Chân sư MORE, con sẵn lòng giải quyết các ngã tách biệt của con, nhận diện các ngã tách biệt đang muốn con đẩy mạnh, đẩy mạnh và đẩy mạnh, nhìn thấy chúng, tách mình ra khỏi chúng, để chúng chết đi. Con có nỗ lực có ý thức để hòa điệu với hướng đi tới nhịp nhàng của Sứ vụ Thiêng liêng của con, do Ý chí Thiêng liêng hướng dẫn.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.5. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm ý chí Thiêng liêng không phải là ý chí của tự ngã mà cũng không phải là ý chí bên ngoài của một Thượng đế xa cách. Con thấy thày không phải là một Chân sư MORE giận dữ trên thiên đàng đang nhìn xuống con và muốn ép buộc con làm điều gì đó.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.6. Chân sư MORE, con thấy là thậm chí thày còn không muốn ép con phải theo Sứ vụ Thiêng liêng của con. Thày không áp đặt Sứ vụ Thiêng liêng của con lên con, và các chân sư thăng thiên khác cũng vậy. Chính con đã chọn lựa Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.7. Chân sư MORE, con buông bỏ mọi ý chí bên ngoài muốn ép buộc vũ trụ phải tuân theo những mục đích của con. Con buông bỏ ý chí của tự ngã, ý chí của thế gian, ý chí của gia đình, ý chí của xã hội, Ý chí của Thượng đế hay của một chân sư thăng thiên nào đó.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.8. Chân sư MORE, con sẵn lòng hòa điệu với uy lực ý chí giống như đại dương dâng lên lắng xuống, với sự đi tới nhẹ nhàng của các làn sóng xuyên qua đại dương để rốt cuộc tới bờ bên kia. Đây là một loại ý chí khác. Đây là một ý chí không thể bị một phản-ý chí chống đối. Đây là một ý chí không áp đặt lên con.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.9. Chân sư MORE, con sẵn lòng trầm mình vào ý chí đó, giống như con trầm mình vào đại dương. Con trầm mình vào lòng đại dương, và con nhẹ nhàng di động theo sự trồi sụt của đại dương, di động theo ý chí cao đó. Con không làm gì cả nhưng con không thụ động

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 3

3.1. Chân sư MORE, con trầm mình trong ý chí rộng lớn là Ý chí của Hiện diện TA LÀ của con, cũng là ý chí mà chính con đã sắp đặt vào Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Không có vũ lực, không có vật lộn, chỉ có sự di động nhẹ nhàng nâng con lên, kéo con qua bên này, kéo con qua bên kia.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.2. Chân sư MORE, con thấy là tuy con có cảm tưởng là không có gì được làm, nhưng không có gì không được làm, vì điều con quyết định hoàn thành trong Sứ vụ Thiêng liêng đã được hoàn thành. Con chấp nhận là những thành tựu bên ngoài không phải là điều quan trọng trong cuộc đời. Mục đích cuộc đời là nâng cao tâm thức.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.3. Chân sư MORE, con chấp nhận là ý chí thật sự trong Sứ vụ Thiêng liêng của con là nâng cao tâm thức, và đôi khi việc nâng cao tâm thức không phải là một tiến trình suôn sẻ, lúc nào cũng đi lên. Nhưng tuy có trồi sụt trên con đường tu, nhưng hướng chung vẫn đi lên cao hơn.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.4. Chân sư MORE, con thấy là khi con bỏ xác thân vật lý lại đằng sau thì con có thể mang theo thành tựu vật lý nào? Con có thể mang theo trình độ tâm thức của con.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.5. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm là mục đích của Ý chí Thiêng liêng không phải là thể hiện một điều kiện vật chất đặc thù nào, mà là nâng mọi sự sống lên các tầng tâm thức cao hơn, lên các tầng rung động cao hơn.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.6. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm tâm thức là thực tại bên dưới mọi sự, tối hậu nó là tâm thức của đấng Sáng tạo, hay là tâm thức của cái Tất cả vượt quá đấng Sáng tạo, là Tâm Một, tâm không phân chia, không thể phân chia.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.7. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm là khi Tâm Một tự biểu lộ mình như hình tướng và sau đó tới chỗ nhớ mình là Tâm Một, thì Tâm Một tăng trưởng. Lúc nào cũng có Tâm Một tự biểu lộ chính nó và qua đó trở nên hơn nữa, và tiến trình này sẽ tiếp diễn mãi mãi.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.8. Chân sư MORE, con buông bỏ ước mong của tự ngã muốn đạt một mục đích tột cùng nào đó, vì con nhận ra bản chất của tiến trình là trở nên hơn nữa. Làm sao có thể có một mục đích tột cùng trong tiến trình tăng trưởng vô biên, vượt thăng vô biên? Mục đích không quan trọng, tiến trình mới quan trọng, và tiến trình là trở nên hơn nữa.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.9. Chân sư MORE, con sẵn lòng trụ vào tiến trình hơn nữa này bằng cách hòa điệu với Hiện diện của thày, vì thày nắm giữ ngọn lửa này cho địa cầu, và con nhận được Hiện diện của thày.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 4

4.1. Chân sư MORE, con sẵn lòng nhận ra mánh lới của sa nhân và các ngã tách biệt muốn con nghĩ: “Tôi đã đạt được một tầng cao hơn và bây giờ tôi đã vượt quá mức này.” Con lúc nào cũng có thể gặt hái được cái gì hơn nữa từ một giáo lý tâm linh.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.2. Chân sư MORE, con sẵn lòng thấy các ảo tưởng của con, vì con nhận ra con không thể thăng thiên nếu con không với lên cái hơn nữa. Không có một tầng tối hậu mà con có thể đạt được khi con còn xác thân vật lý. Con lúc nào cũng phải với lên cái hơn nữa để nâng mình lên tầng tâm thức kế tiếp.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.3. Chân sư MORE, con lấy thái độ sẵn lòng vươn lên cái hơn nữa. Điều này không chỉ có nghĩa là kết nối với thày, vì bất cứ chân sư thăng thiên nào cũng hơn những gì con gặp khi con còn đầu thai.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.4. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm tuôn chảy, tuôn chảy theo ý chí đang nâng mọi sự sống lên. Không xua đẩy, không vật lộn, không chống cự, nhưng quy thuận theo ý chí cao đó.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.5. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm thực tại đằng sau quan niệm quy thuận theo ý chí.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.6. Chân sư MORE, con buông bỏ ảo tưởng cho rằng có ý chí có nghĩa là nhất quyết, quyết định, tập trung, phải hung hãn, dùng lực để có ý chí. Thay vào đó, con quy thuận theo ý chí.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.7. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm một ý chí cao hơn mọi thứ con có thể thể hiện qua các ngã tách biệt và qua tâm thức thấy nó tách biệt với đại dương của cái ta.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.8. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm là con thuộc vào làn sóng nâng cao tâm thức sẽ nâng tất cả mọi dân tộc lên.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.9. Chân sư MORE, con sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện của thày, và trải nghiệm là Hiện diện của thày vượt quá tâm đường thẳng. Con buông bỏ ảo tưởng cho rằng vượt thăng chính mình tất nhiên phải dẫn tới một trạng thái tối hậu. Con sẵn lòng trải nghiệm là lúc nào cũng có Hơn Nữa.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

10 | Thỉnh cầu sự gần gũi với cái ta cao

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Chỉ đạo Thiêng liêng hãy giúp con nhìn ra các yếu tố trong thể bản sắc của con đang ngăn con nối kết với thày, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng nhìn thấy những gì trong thể bản sắc đang ngăn chặn sự hòa điệu của con với các chân sư thăng thiên và cái ta cao của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nay con biết,
Cả thế gian chỉ là cõi huyễn ảo,
Trong tim con cảm nhận rõ làm sao,
Không có gì ngoài Tánh linh là thật. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó.

1.2. Chỉ đạo Thiêng liêng, con nhìn ra sự kết nối với cõi tâm linh có nghĩa là nhập một với cõi tâm linh. Con buông bỏ bản sắc cho rằng con là một sinh thể vật chất.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, giúp con nhìn, 
Con muốn sống trong viễn kiến quang minh,
Con đã thấy được Sứ vụ Thiêng liêng,
Hiểu kế sách độc đáo của chính mình. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.3. Chỉ đạo Thiêng liêng, con buông bỏ mọi hình ảnh nhân tạo về thế nào là một con người. Con buông bỏ mọi hình ảnh do sa nhân ảnh hưởng, đặc biệt do Chúa tể Bóng tối ở cõi bản sắc.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, cho con thấy, 
Những trò chơi uẩn khúc của ngã này,
Giúp con thoát lồng giam của tự ngã,
Để đem lại một thời mới thăng hoa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.4. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng nhìn ra và buông bỏ mọi ý niệm bản sắc đến từ nền văn hóa nơi con đã lớn lên, cũng như cách con người nhận diện mình là gì trong tâm thức đại chúng.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nhập với thày, 
Viễn quan con là một, chẳng còn hai,
Thày xua tan tấm màn của nghiệp quả,
Nguyên vũ trụ hiện ra sao mới quá. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.5. Chỉ đạo Thiêng liêng, con buông bỏ ảo tưởng cơ bản trên trái đất, một ảo tưởng có tính cách tự tăng cường, rằng cõi vật lý bị chia cách khỏi cõi tâm linh bởi một hàng rào.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con không quản,   
Chén con ngập điện từ với ánh sáng,
Thày tiêu hủy hồn bóng của dĩ vãng,
Và cho con tầm nhìn rất bạo dạn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.6. Chỉ đạo Thiêng liêng, con buông bỏ bản sắc mình là một con người, mình là một xác thân vật lý hoặc một sản phẩm của xác thân vật lý. Con buông bỏ ảo tưởng con đang sống trên một hành tinh vật lý, rằng con lẫn hành tinh đều tách biệt khỏi tánh linh.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, tim chân thành, 
Con bắt tay làm phần vụ thần thánh.
Con thấy rồi, thày ơi, trong phút ngẫu,
Sứ vụ con sẽ dẫn tới nơi đâu. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.7. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng nhận thấy tâm con có khả năng chứng thực và bác bỏ bất kỳ quan điểm nào. Con muốn vượt qua sự phủ nhận hợp lý (plausible deniability) lẫn sự hợp lý hợp lý (plausible plausibility). Con buông bỏ xu hướng loại trừ mọi chứng cớ trái ngược để có vẻ như tin tưởng của con là chính đáng.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con ân huệ, 
Thấy vai trò mình trong công cuộc lớn,
Và cũng thấy ngọn lửa của cá thể,
Nét độc đáo của con do Thượng đế. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.8. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng buông bỏ niềm tin là có một khoảng cách to lớn giữa trái đất và thiên đàng, rằng con người trên trái đất bị chia cách với tánh linh.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, mắt đơn nhất, 
Thấy TA LÀ chính Mặt trời Thượng đế.
Khi thày ban chỉ đạo Thiêng liêng nhất,
Con cũng tỏa ánh sáng thật tràn trề. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.9. Chỉ đạo Thiêng liêng, con buông bỏ ý tưởng phải vượt qua một khoảng cách to lớn để nối kết với thày. Con buông bỏ ảo tưởng có một sự chia cách, một hố sâu giữa cõi tâm linh với con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ôi hân hạnh, 
Được đóng góp cho Tánh linh cất cánh,
Nâng loài người ra khỏi đêm cùng quạnh,
Để tắm nắng trong tình yêu Linh thánh. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

Phần 2

2.1. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng nhận ra là bất kỳ hình ảnh nào từ cõi thăng thiên cũng có thể bị tâm sử dụng để ngăn chặn nối kết. Con chấp nhận vấn đề không phải là chuyện nối kết, mà là ngộ ra rằng khoảng cách không có, tách biệt không có.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nay con biết,
Cả thế gian chỉ là cõi huyễn ảo,
Trong tim con cảm nhận rõ làm sao,
Không có gì ngoài Tánh linh là thật. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó.

2.2. Chỉ đạo Thiêng liêng, con buông bỏ ý tưởng rằng các thày ngụ trên kia nơi cõi tâm linh, và con cần tạo sự nối kết với các thày ở xa tuốt trên đó, vượt khỏi tầm với bình thường của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, giúp con nhìn, 
Con muốn sống trong viễn kiến quang minh,
Con đã thấy được Sứ vụ Thiêng liêng,
Hiểu kế sách độc đáo của chính mình. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.3. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng nhận thấy các ngã tách biệt của con được tạo ra để phản ứng lại các điều kiện trong cõi vật lý. Đây là những cái ngã hướng ra ngoài. Chúng liên quan đến một thế giới mà con trải nghiệm bên ngoài cơ thể vật lý, thậm chí bên ngoài cả tâm con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, cho con thấy, 
Những trò chơi uẩn khúc của ngã này,
Giúp con thoát lồng giam của tự ngã,
Để đem lại một thời mới thăng hoa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.4. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng nhận thấy những ngã đó được tạo ra để nhìn ra bên ngoài. Chúng được tạo ra dựa trên cảm nhận con là một sinh thể tách biệt sống trong một thế giới vật lý.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nhập với thày, 
Viễn quan con là một, chẳng còn hai,
Thày xua tan tấm màn của nghiệp quả,
Nguyên vũ trụ hiện ra sao mới quá. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.5. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng nhìn ra các ngã đó không xấu ác hay tiêu cực, nhưng chúng không có tự nhận biết. Chúng chỉ có thể làm những gì chúng đã được thiết kế để làm, tức là nhìn ra bên ngoài.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con không quản,   
Chén con ngập điện từ với ánh sáng,
Thày tiêu hủy hồn bóng của dĩ vãng,
Và cho con tầm nhìn rất bạo dạn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.6. Chỉ đạo Thiêng liêng, con buông bỏ xu hướng tiếp cận đường tu tâm linh dựa trên tất cả những ngã đó. Con buông bỏ cách tiếp cận đường tu tâm linh xuyên qua những cái ngã đã được tạo ra để phản ứng lại thế giới vật chất.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, tim chân thành, 
Con bắt tay làm phần vụ thần thánh.
Con thấy rồi, thày ơi, trong phút ngẫu,
Sứ vụ con sẽ dẫn tới nơi đâu. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.7. Chỉ đạo Thiêng liêng, con buông bỏ xu hướng phóng chiếu những hình ảnh từ các ngã đó lên đường tu tâm linh, lên cõi tâm linh cùng các thày tâm linh của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con ân huệ, 
Thấy vai trò mình trong công cuộc lớn,
Và cũng thấy ngọn lửa của cá thể,
Nét độc đáo của con do Thượng đế. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.8. Chỉ đạo Thiêng liêng, con thấy con không là cơ thể vật lý của con, con không là tâm cảm xúc hay tâm lý trí của con. Thậm chí con không là tâm bản sắc của con. Con là nhiều hơn tất cả những tâm đó và tất cả những ngã đó.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, mắt đơn nhất, 
Thấy TA LÀ chính Mặt trời Thượng đế.
Khi thày ban chỉ đạo Thiêng liêng nhất,
Con cũng tỏa ánh sáng thật tràn trề. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.9. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng trải nghiệm là khi con bước vào cốt lõi bản thể của con thì có cái Ta Biết. Cái Ta Biết không phải là ngã vỏ ngoài. Nó là nhiều hơn ngã vỏ ngoài.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ôi hân hạnh, 
Được đóng góp cho Tánh linh cất cánh,
Nâng loài người ra khỏi đêm cùng quạnh,
Để tắm nắng trong tình yêu Linh thánh. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

Phần 3

3.1. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng trải nghiệm là cái Ta Biết đã tạo ra các ngã vỏ ngoài, nhưng con đã không biến thành ngã vỏ ngoài. Con thấy con không thể nối kết với các chân sư thăng thiên qua ngã vỏ ngoài. Con chỉ có thể nối kết khi cái Ta Biết bước ra khỏi ngã vỏ ngoài.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nay con biết,
Cả thế gian chỉ là cõi huyễn ảo,
Trong tim con cảm nhận rõ làm sao,
Không có gì ngoài Tánh linh là thật. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó.

3.2. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng buông bỏ cái ngã tâm linh mà con đã xây dựng để vươn cao hơn tâm thức đại chúng. Con buông bỏ bản sắc mình là một người tâm linh do mình đã tuân thủ những điều kiện được quy định bởi giáo lý tâm linh của mình.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, giúp con nhìn, 
Con muốn sống trong viễn kiến quang minh,
Con đã thấy được Sứ vụ Thiêng liêng,
Hiểu kế sách độc đáo của chính mình. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.3. Chỉ đạo Thiêng liêng, con thấy là việc phóng chiếu một hình ảnh ra thế giới, phóng chiếu một hình ảnh lên chính con về thế nào là người tâm linh, không còn hữu ích cho con nữa. Con muốn tránh cạm bẫy xây dựng một ý niệm bản sắc tâm linh, rồi tìm cách làm cho nó tinh xảo hơn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, cho con thấy, 
Những trò chơi uẩn khúc của ngã này,
Giúp con thoát lồng giam của tự ngã,
Để đem lại một thời mới thăng hoa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.4. Chỉ đạo Thiêng liêng, con buông bỏ ý tưởng là khi cuối cùng con tạo được cái ngã tâm linh đủ tinh xảo theo giáo lý của con, thì ngã này sẽ đưa con lên thiên đàng.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nhập với thày, 
Viễn quan con là một, chẳng còn hai,
Thày xua tan tấm màn của nghiệp quả,
Nguyên vũ trụ hiện ra sao mới quá. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.5. Chỉ đạo Thiêng liêng, con chấp nhận cái Ta Biết là một cái ta không ngừng thay đổi, vì nó chuyển đổi liên tục tùy theo nó đặt chú ý vào đâu. Cái Ta Biết trải nghiệm chính nó xuyên qua tất cả những ngã đó, và nó không ngừng chuyển từ cái này sang cái khác.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con không quản,   
Chén con ngập điện từ với ánh sáng,
Thày tiêu hủy hồn bóng của dĩ vãng,
Và cho con tầm nhìn rất bạo dạn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.6. Chỉ đạo Thiêng liêng, con chấp nhận cái Ta Biết luôn luôn là nhận biết thuần khiết, nhưng nó được tạo ra như một cái ta thay đổi liên tục. Con nhận ra con KHÔNG phải là các ngã vỏ ngoài đó; con là nhiều hơn ngã vỏ ngoài.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, tim chân thành, 
Con bắt tay làm phần vụ thần thánh.
Con thấy rồi, thày ơi, trong phút ngẫu,
Sứ vụ con sẽ dẫn tới nơi đâu. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.7. Chỉ đạo Thiêng liêng, con chấp nhận rằng vấn đề không phải là tinh lọc cái ngã tâm linh con đã xây dựng, mà là tháo gỡ nó, thoát ra khỏi sự đồng hóa với nó, để cho các ngã riêng biệt đó chết đi từng cái một, cho đến khi con có thể lại đứng đây như sự nhận biết thuần khiết đã đi xuống từ Hiện diện TA LÀ.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con ân huệ, 
Thấy vai trò mình trong công cuộc lớn,
Và cũng thấy ngọn lửa của cá thể,
Nét độc đáo của con do Thượng đế. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.8. Chỉ đạo Thiêng liêng, con chấp nhận là cái Ta Biết không thể kết nối với các chân sư thăng thiên hay với Hiện diện TA LÀ – bởi vì cái Ta Biết không hề chia cách khỏi các chân sư thăng thiên và Hiện diện TA LÀ.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, mắt đơn nhất, 
Thấy TA LÀ chính Mặt trời Thượng đế.
Khi thày ban chỉ đạo Thiêng liêng nhất,
Con cũng tỏa ánh sáng thật tràn trề. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.9. Chỉ đạo Thiêng liêng, con nhìn nhận Hiện diện TA LÀ của con ngụ ở cõi tâm linh, và con thì tập trung vào bầu cõi chưa thăng thiên. Dẫu vậy, con là phần nối dài của Hiện diện TA LÀ, giống như một ngọn sóng là sự nối dài của đại dương. Con không bao giờ có thể chia cách khỏi Hiện diện TA LÀ của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ôi hân hạnh, 
Được đóng góp cho Tánh linh cất cánh,
Nâng loài người ra khỏi đêm cùng quạnh,
Để tắm nắng trong tình yêu Linh thánh. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

Phần 4

4.1. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng xoay chuyển, nghĩa là thay vì nhìn thấy một khoảng cách và nhu cầu nối kết xuyên qua khoảng cách này, con khắc phục ảo tưởng khoảng cách.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nay con biết,
Cả thế gian chỉ là cõi huyễn ảo,
Trong tim con cảm nhận rõ làm sao,
Không có gì ngoài Tánh linh là thật. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó.

4.2. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng xoay chuyển và trải nghiệm cái Ta Biết như phần nối dài của Hiện diện TA LÀ. Con không tách rời khỏi đại dương, con là một phần của đại dương.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, giúp con nhìn, 
Con muốn sống trong viễn kiến quang minh,
Con đã thấy được Sứ vụ Thiêng liêng,
Hiểu kế sách độc đáo của chính mình. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4.3. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng trải nghiệm mình là một ngọn sóng trên đại dương và đại dương đang chuyển động. Như một ngọn sóng, thay vì chỉ chú tâm vào mặt nước, con có thể cảm nhận sự chuyển động sâu xa bên dưới. Con có thể dự phần vào chuyển động sâu xa này.  

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, cho con thấy, 
Những trò chơi uẩn khúc của ngã này,
Giúp con thoát lồng giam của tự ngã,
Để đem lại một thời mới thăng hoa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4.4. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng nhận biết đại dương cùng sự chuyển động của đại dương. Thay vì cố cưỡng lại động tác của đại dương, con sẽ xuôi chảy với nó. Con là một ngọn sóng trên đại dương, nhưng con có thể chuyển động cùng với đại dương, chuyển động cùng với Hiện diện TA LÀ.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nhập với thày, 
Viễn quan con là một, chẳng còn hai,
Thày xua tan tấm màn của nghiệp quả,
Nguyên vũ trụ hiện ra sao mới quá. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4.5. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng trải nghiệm các chân sư cũng chính là đại dương, và con có thể chuyển động cùng với các thày khi con chuyển động cùng với Hiện diện TA LÀ. Đây là cách con khắc phục cảm giác xa cách.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con không quản,   
Chén con ngập điện từ với ánh sáng,
Thày tiêu hủy hồn bóng của dĩ vãng,
Và cho con tầm nhìn rất bạo dạn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4.6. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng trải nghiệm cái Ta Biết bước ra ngoài các ngã tách biệt để tự trải nghiệm là nhận biết thuần khiết. Nó tự trải nghiệm là một phần của đại dương, đang chuyển động với đại dương của Hiện diện TA LÀ, chuyển động với đại dương của các chân sư thăng thiên.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, tim chân thành, 
Con bắt tay làm phần vụ thần thánh.
Con thấy rồi, thày ơi, trong phút ngẫu,
Sứ vụ con sẽ dẫn tới nơi đâu. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4.7. Chỉ đạo Thiêng liêng, con chấp nhận đây là một đường tu tuần tự, đây phải là một đường tu tuần tự. Con bỏ xu hướng mong muốn một thay đổi ấn tượng, một đột phá ấn tượng, một thành quả ấn tượng mà qua đó con đột nhiên biến đổi và đạt tới một trạng thái cao siêu.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con ân huệ, 
Thấy vai trò mình trong công cuộc lớn,
Và cũng thấy ngọn lửa của cá thể,
Nét độc đáo của con do Thượng đế. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4.8. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng từng bước tiến tới điểm con không còn những cái ngã phản ứng lại thế gian. Con là một cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ và các chân sư thăng thiên, nhưng con vẫn không đánh mất cảm nhận mình là ai và mình đang đứng ở đâu trên đường tu.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, mắt đơn nhất, 
Thấy TA LÀ chính Mặt trời Thượng đế.
Khi thày ban chỉ đạo Thiêng liêng nhất,
Con cũng tỏa ánh sáng thật tràn trề. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4.9. Chỉ đạo Thiêng liêng, con từ bỏ kỳ vọng đạt được một sự đột phá ấn tượng khi bỗng chốc con có sự kết nối hoàn toàn rộng mở với thày. Việc kết nối với các chân sư không phải là một trải nghiệm thần sầu quỷ khốc nào đó. Con chấp nhận đây là một con đường tuần tự ngày càng mở rộng sự kết nối của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ôi hân hạnh, 
Được đóng góp cho Tánh linh cất cánh,
Nâng loài người ra khỏi đêm cùng quạnh,
Để tắm nắng trong tình yêu Linh thánh. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

8 | Thỉnh cầu tự do khỏi tâm đường thẳng (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Shiva hãy giúp khắc phục sự mù quáng do tâm đường thẳng gây ra, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Shiva, con khẩn cầu thày để thày giúp con khắc phục các nỗi sợ của con. Con kêu gọi Shiva và Đại thiên thần Michael hãy thiêu rụi các nỗi sợ trong cảm thể của con.

Ôi Shiva, Thần linh của Lửa Thánh,
Đã đến lúc cho quá khứ đi thôi,
Bỏ chuyện cũ, con muốn vượt ra khơi,
Để mở ra tương lai huy hoàng mới.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

1.2. Shiva, con thấy là trong thế giới hiện đại, tâm lý trí là chướng ngại lớn nhất cho người tâm linh. Con sẵn lòng khắc phục mọi dính mắc của con vào tâm đường thẳng, tâm lý trí, tâm lô gíc, tâm phân tích.

Ôi Shiva, thày đến đây giải cứu,
Khỏi những lực kềm chế con đủ kiểu,
Mọi thấp kém bị lửa thày hỏa thiêu,
Để lát đường đưa con tới thành tựu.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

1.3. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng của tâm đường thẳng muốn đặt mọi sự trên một dòng thời gian, hoặc trên một loại đường thẳng có thể chia thành nhiều phần nhỏ hơn.

Ôi Shiva, Maya đã cạn kiệt,
Cả vũ trụ nội tâm, thày dọn hết,
Thày xua tan toàn bộ tâm thức chết,
Trong Hơi thở Thần thánh, nó phải diệt.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

1.4. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng của tâm đường thẳng muốn đặt mọi sự trên một dòng thẳng nơi có một nguyên nhân dẫn đến hậu quả. Có một sự đều đặn, một quy luật tự nhiên quy định rằng một nguyên nhân đặc trưng sẽ luôn luôn dẫn tới một hậu quả đặc trưng.

Ôi Shiva, con buông chuyện vô thường,
Bao vướng mắc giữ con ở dưới này,
Sạch tà thể nghiện ngập bấy lâu nay,
Con bước tới và vươn lên thẳng hướng.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

1.5. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng của tâm đường thẳng muốn có điểm khởi đầu và điểm kết thúc. Con thấy khi con đếm tới số cao hơn và cao hơn nữa, cuối cùng con sẽ tạo một vòng tròn khép kín.

Ôi Shiva, tên thày con đọc lớn,
Đuổi sợ hãi, nghi ngờ và xấu hổ,
Ngọn lửa thày phơi bày ra lồ lộ
Bao ngõ ngách tự ngã ưa lẩn trốn.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

1.6. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng của tâm đường thẳng muốn nghĩ rằng phải có cái vô tận trong thế giới hình tướng. Con chấp nhận là mọi hình tướng đều được quy định bởi một giới hạn.

Ôi Shiva, con hết sợ nghiệp xưa,
Bao món nợ chồng chất con đem trả,
Quá khứ không làm chủ được con nữa,
Con mừng rỡ trong hơi thở Shiva.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

1.7. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng của tâm đường thẳng muốn nói là khi kết nối với một chân sư thăng thiên, thì có một khoảng cách giữa nơi con đang ở và nơi vị chân sư ở và con cần phải vượt qua khoảng cách đó.

Ôi Shiva, đây những cặp phàm linh,
Đã đánh bẫy con vào vòng dục ái,
Con quyết định nhìn rõ trong tâm mình,
Từng phàm linh để thày đem trói lại.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

1.8. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng của tâm đường thằng muốn thiết lập một chương trình hợp lý, lô-gíc, tuần tự từng bước đọc chú và đọc thỉnh, và nó quyết định là một lúc nào đó vị chân sư sẽ phải xuất hiện.

Ôi Shiva, trần trụi con đứng đó,
Nếm tự do, tâm con cứ nở ra,
Con hóa giải tất cả mọi hồn ma,
Vì bí quyết bình an là từ bỏ.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

1.9. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng của tâm đường thẳng muốn nghĩ là chắc hẳn các chân sư thăng thiên phải tuân theo một quy luật nào đó. Con chấp nhận là các thày tuân theo Luật Tự quyết, nhưng Luật Tự quyết không đi theo đường thẳng.

Ôi Shiva, ngọn hỏa thiêu thần bí,
Thày nâng con lên với Parvati,
Khi thăng lên để ngắm ánh sáng thày,
Con cũng kéo mọi người lên theo đây.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

Phần 2

2.1. Shiva, con chấp nhận là Luật Tự quyết có nghĩa là con lúc nào cũng có thể đổi hướng. Con buông bỏ ý nghĩ là con có thể thiếp lập một chương trình định rằng một ngày kia chân sư phải xuất hiện và kết nối với con.

Ôi Shiva, Thần linh của Lửa Thánh,
Đã đến lúc cho quá khứ đi thôi,
Bỏ chuyện cũ, con muốn vượt ra khơi,
Để mở ra tương lai huy hoàng mới.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

2.2. Shiva, con chấp nhận là mục đích duy nhất của thế giới hình tướng là để giúp con tăng triển nhận biết. Những gì con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ biểu hiện.

Ôi Shiva, thày đến đây giải cứu,
Khỏi những lực kềm chế con đủ kiểu,
Mọi thấp kém bị lửa thày hỏa thiêu,
Để lát đường đưa con tới thành tựu.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

2.3. Shiva, con chấp nhận là tự nhận biết có nghĩa: “Tôi muốn thể hiện một cái gì mà tôi đang không hiện có. Tôi là một người đồng-sáng tạo. Tôi sẵn sàng đồng-sáng tạo.”

Ôi Shiva, Maya đã cạn kiệt,
Cả vũ trụ nội tâm, thày dọn hết,
Thày xua tan toàn bộ tâm thức chết,
Trong Hơi thở Thần thánh, nó phải diệt.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

2.4. Shiva, con chấp nhận là con không thể hiện theo cách đường thẳng máy móc. Con thể hiện một cách sáng tạo bằng cách nắm giữ hình ảnh trong tâm bản sắc, tư tưởng và cảm xúc và phóng chiếu chúng lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Ôi Shiva, con buông chuyện vô thường,
Bao vướng mắc giữ con ở dưới này,
Sạch tà thể nghiện ngập bấy lâu nay,
Con bước tới và vươn lên thẳng hướng.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

2.5. Shiva, con chấp nhận là con có thể thay đổi các hình ảnh đó bất cứ lúc nào, và không có một bộ máy vĩ đại với những kết quả đã được định sẵn hay có thể tiên đoán. Không có gì có thể tiên đoán vì chỉ có những xác suất.

Ôi Shiva, tên thày con đọc lớn,
Đuổi sợ hãi, nghi ngờ và xấu hổ,
Ngọn lửa thày phơi bày ra lồ lộ
Bao ngõ ngách tự ngã ưa lẩn trốn.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

2.6. Shiva, con buông bỏ lời gian dối của sa nhân cho rằng một khi con đã lấy một chọn lựa thì con giới hạn khả năng lấy chọn lựa trong tương lai. Đây là điều tâm đường thẳng muốn vì lúc đó nó nghĩ nó làm chủ tình hình và có thể tiên đoán kết quả.

Ôi Shiva, con hết sợ nghiệp xưa,
Bao món nợ chồng chất con đem trả,
Quá khứ không làm chủ được con nữa,
Con mừng rỡ trong hơi thở Shiva.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

2.7. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng của tâm đường thẳng muốn nghĩ là con có thể kết nối với một chân sư thăng thiên bằng một quá trình máy móc. Con thấy là điều này tạo ra một hình ảnh trong tâm con và phóng chiếu hình ảnh đó lên vị chân sư thăng thiên.

Ôi Shiva, đây những cặp phàm linh,
Đã đánh bẫy con vào vòng dục ái,
Con quyết định nhìn rõ trong tâm mình,
Từng phàm linh để thày đem trói lại.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

2.8. Shiva, con thấy là nếu các thày cư xử đúng theo hình ảnh đó thì các thày sẽ coi như chứng thực là hình ảnh của con đúng. Điều này sẽ giam con vào tâm đường thẳng là nơi sa nhân có thể kiểm soát con vì họ có thể tiên đoán bước tới của con là gì.

Ôi Shiva, trần trụi con đứng đó,
Nếm tự do, tâm con cứ nở ra,
Con hóa giải tất cả mọi hồn ma,
Vì bí quyết bình an là từ bỏ.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

2.9. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng của tâm đường thẳng muốn nghĩ là con không có chọn lựa nào khác ngoài chọn lựa khởi sự chuỗi dây chuyền, và sau đó thì kết quả được định sẵn. Shiva, xin thày phá tan ảo tưởng và giúp con thấy là con không bị trói buộc bởi bất cứ gì. Bất cứ chọn lựa nào mà con đã lấy đều có thể bị một chọn lựa khác chế ngự.

Ôi Shiva, ngọn hỏa thiêu thần bí,
Thày nâng con lên với Parvati,
Khi thăng lên để ngắm ánh sáng thày,
Con cũng kéo mọi người lên theo đây.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

Phần 3

3.1. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng phóng chiếu một hình ảnh lên các Chân sư, lên chính con, và lên sự kết nối, và hình ảnh này đang giam con vào tâm đường thẳng.

Ôi Shiva, Thần linh của Lửa Thánh,
Đã đến lúc cho quá khứ đi thôi,
Bỏ chuyện cũ, con muốn vượt ra khơi,
Để mở ra tương lai huy hoàng mới.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

3.2. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng phóng chiếu một hình ảnh về cách kết nối với các Chân sư dựa trên một số giáo lý cũ mà các thày đã trao truyền trong thời Song ngư.

Ôi Shiva, thày đến đây giải cứu,
Khỏi những lực kềm chế con đủ kiểu,
Mọi thấp kém bị lửa thày hỏa thiêu,
Để lát đường đưa con tới thành tựu.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

3.3. Shiva, hãy giúp con đọc rung động của các hiện tượng kết nối đồng bóng với các sinh thể trong cõi tư tưởng. Hãy giúp con phân biện các câu trả lời và thấy là chúng nhằm thu hút tâm đường thẳng, tâm lý trí.

Ôi Shiva, Maya đã cạn kiệt,
Cả vũ trụ nội tâm, thày dọn hết,
Thày xua tan toàn bộ tâm thức chết,
Trong Hơi thở Thần thánh, nó phải diệt.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

3.4. Shiva, hãy giải thoát con khỏi mọi kết nối với những kẻ mạo danh trên cõi tư tưởng có khi dùng tên các thày hay có khi dùng tên khác không liên quan đến các chân sư thăng thiên.

Ôi Shiva, con buông chuyện vô thường,
Bao vướng mắc giữ con ở dưới này,
Sạch tà thể nghiện ngập bấy lâu nay,
Con bước tới và vươn lên thẳng hướng.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

3.5. Shiva, con muốn được thày giúp vì con muốn thoát khỏi bất cứ hình thức nô lệ nào, cho dù đó là trong chính tâm con, hay là một dính mắc vào người khác, hay vào các sinh thể trong cõi tư tưởng, cảm xúc hay bản sắc, hay vào sa nhân.

Ôi Shiva, tên thày con đọc lớn,
Đuổi sợ hãi, nghi ngờ và xấu hổ,
Ngọn lửa thày phơi bày ra lồ lộ
Bao ngõ ngách tự ngã ưa lẩn trốn.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

3.6. Shiva, con muốn được thày giúp con buông bỏ các ảo tưởng của tâm lý trí. Con buông bỏ những ảo tưởng đang tách con ra khỏi thày hay một chân sư thăng thiên khác gần tim con.

Ôi Shiva, con hết sợ nghiệp xưa,
Bao món nợ chồng chất con đem trả,
Quá khứ không làm chủ được con nữa,
Con mừng rỡ trong hơi thở Shiva.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

3.7. Shiva, hãy chỉ cho con thấy làm sao tâm lý trí của con ngăn chặn sự kết nối của con với vị chân sư thăng thiên gần với con nhất.

Ôi Shiva, đây những cặp phàm linh,
Đã đánh bẫy con vào vòng dục ái,
Con quyết định nhìn rõ trong tâm mình,
Từng phàm linh để thày đem trói lại.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

3.8. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng nghĩ rằng tâm có thể phân nhỏ các chân sư thăng thiên thành các thành phần cơ khí, và nếu con làm vậy, thì các thày sẽ phải xuất hiện.

Ôi Shiva, trần trụi con đứng đó,
Nếm tự do, tâm con cứ nở ra,
Con hóa giải tất cả mọi hồn ma,
Vì bí quyết bình an là từ bỏ.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

3.9. Shiva, con sẵn lòng xoay chuyển tâm mình để thay vì đẩy sự kết nối ra xa như con đang làm, thì con ngừng gắng sức và để cho sự kết nối xảy ra.

Ôi Shiva, ngọn hỏa thiêu thần bí,
Thày nâng con lên với Parvati,
Khi thăng lên để ngắm ánh sáng thày,
Con cũng kéo mọi người lên theo đây.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

Phần 4

4.1. Shiva, con chấp nhận là bất cứ con đang thấy mình ở đâu, thì thày ở đó. Con không cần với ra xa để kết nối với thày. Sự thực là con không cần kết nối. Con chỉ cần xoay chuyển tâm và nhận ra là thày đang ở đây.

Ôi Shiva, Thần linh của Lửa Thánh,
Đã đến lúc cho quá khứ đi thôi,
Bỏ chuyện cũ, con muốn vượt ra khơi,
Để mở ra tương lai huy hoàng mới.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

4.2. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng nghĩ rằng thày bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Thày ở bất cứ đâu con đang ở, nhưng tâm lý trí muốn tạo ra diễn tiến từ cái này sang cái tới. Đây chính là quan niệm tách biệt.

Ôi Shiva, thày đến đây giải cứu,
Khỏi những lực kềm chế con đủ kiểu,
Mọi thấp kém bị lửa thày hỏa thiêu,
Để lát đường đưa con tới thành tựu.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

4.3. Shiva, con buông bỏ ảo tưởng của tâm lý trí cho rằng muốn kết nối với một chân sư thăng thiên thì con phải vượt qua một khoảng cách. Con chấp nhận là khoảng cách đó không có.

Ôi Shiva, Maya đã cạn kiệt,
Cả vũ trụ nội tâm, thày dọn hết,
Thày xua tan toàn bộ tâm thức chết,
Trong Hơi thở Thần thánh, nó phải diệt.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

4.4. Shiva, con buông bỏ khuynh hướng luôn luôn chờ đợi giáo lý kế tiếp, giáo lý tối hậu hay một giáo lý cao siêu hơn. Con thấy là sự tìm cầu này đang đẩy các thày ra xa, hay đúng hơn đang đẩy con ra khỏi các thày.

Ôi Shiva, con buông chuyện vô thường,
Bao vướng mắc giữ con ở dưới này,
Sạch tà thể nghiện ngập bấy lâu nay,
Con bước tới và vươn lên thẳng hướng.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

4.5. Shiva, con sẵn lòng tới điểm trong tâm khi con nói: “Tại sao tôi cần nghĩ là tôi phải làm chuyện gì khác để kết nối với một chân sư thăng thiên? Tại sao tôi không kết nối ngay bây giờ?”

Ôi Shiva, tên thày con đọc lớn,
Đuổi sợ hãi, nghi ngờ và xấu hổ,
Ngọn lửa thày phơi bày ra lồ lộ
Bao ngõ ngách tự ngã ưa lẩn trốn.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

4.6. Shiva, con chấp nhận là vấn đề không phải là suy nghĩ bằng tâm đường thẳng. Vấn đề là vô hiệu hóa tâm đường thẳng, và con sẵn lòng để thày giúp con làm chuyện này.

Ôi Shiva, con hết sợ nghiệp xưa,
Bao món nợ chồng chất con đem trả,
Quá khứ không làm chủ được con nữa,
Con mừng rỡ trong hơi thở Shiva.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

4.7. Shiva, con chấp nhận là thày ở đây vì con, vì nếu không thì các thày đã không ở lại địa cầu. Con thấy rằng hành tinh này không là gì khác hơn một tấn tuồng để con người trên sân khấu có một môi trường trải bày những gì họ phản-sáng tạo hay đồng-sáng tạo.

Ôi Shiva, đây những cặp phàm linh,
Đã đánh bẫy con vào vòng dục ái,
Con quyết định nhìn rõ trong tâm mình,
Từng phàm linh để thày đem trói lại.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

4.8. Shiva, con buông bỏ tất cả các ngã đang nghĩ rằng chúng có khả năng đồng-sáng tạo mà không cần kết nối với các đấng sáng tạo ở tầng cao hơn con, tức là các chân sư thăng thiên.

Ôi Shiva, trần trụi con đứng đó,
Nếm tự do, tâm con cứ nở ra,
Con hóa giải tất cả mọi hồn ma,
Vì bí quyết bình an là từ bỏ.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

4.9. Shiva, con buông bỏ tất cả các ngã được sinh ra từ sự tách biệt. Con để cho chúng chết đi để con không còn trong Trường đời Cay đắng, là nơi con phải phản-sáng tạo cho tới khi định luật sẽ rốt cuộc phản-sáng tạo những gì con phản-sáng tạo.

Ôi Shiva, ngọn hỏa thiêu thần bí,
Thày nâng con lên với Parvati,
Khi thăng lên để ngắm ánh sáng thày,
Con cũng kéo mọi người lên theo đây.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng,
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương,
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con.

OM Shiva OM (9 lần)

TA LÀ xác thân này, Shiva TA LÀ (9 lần)

TA LÀ các cảm xúc này, Shiva TA LÀ (9 lần)

TA LÀ các tư tưởng này, Shiva TA LÀ (9 lần)

TA LÀ bản sắc này, Shiva TA LÀ (9 lần)

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

6 | Thỉnh cầu tự do khỏi sợ hãi

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Đại thiên thần Michael hãy giúp con thấy những nỗi sợ và những ngã tách biệt đang khiến con sợ kết nối với một chân sư thăng thiên, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Đại thiên thần Michael, con thấy là cảm xúc cơ bản khiến con không chú tâm được vào nội tâm là sợ hãi. Sợ hãi lúc nào cũng là cảm nhận có chuyện gì có thể xảy ra mà ta không có sự che chở nào, không thể trốn chạy.

Đại thiên thần Michael, sáng xanh ngắt,
Tim con chỉ còn chỗ cho mình thày,
Tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
Tình yêu thày cho con luôn chân chất.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.2. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ khuynh hướng đối phó với nỗi sợ bằng cách muốn kiểm soát mọi chuyện.

Đại thiên thần Michael, con mãi mãi
Luôn là một với thực tại của thày,
Muôn sợ hãi không thể giam con mãi,
Và thế gian phải nhả hết quyền oai.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.3. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ khuynh hướng đối phó với nỗi sợ bằng cách đi theo một tôn giáo hay triết lý tâm linh cho con cảm tưởng là có một đấng trên trời sẽ che chở con khỏi mọi điều kiện trên trái đất.

Đại thiên thần Michael, ôm con chặt,
Phá tan đi bóng đêm đen tối nhất,
Sạch luân xa trong ánh sáng thần sầu,
Và phục hồi trong con cái nhìn sâu.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.4. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ tư duy thần thông là niềm tin rằng, tuy mọi chuyện xảy ra theo cách của cõi vật lý, nhưng có một lực thần thánh được phép can thiệp để đình chỉ các luật thiên nhiên cho con.

Đại thiên thần Michael, con đang đứng
Với thày đây, ánh sáng con ra lệnh,
Tim con sẽ trải rộng mãi không ngừng
Cho đến khi lý tối cao sáng bừng.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.5. Đại thiên thần Michael, con thấy là Luật Tự quyết là luật tuyệt đối trên trái đất. Thày có thể che chở con người khỏi bất cứ gì, nhưng khả năng của thày không đủ vì thày còn cần có thẩm quyền chiếu theo Luật Tự quyết.

Đại thiên thần Michael, trong tim này,
Không bao giờ con với thày xa cách,
Đoàn chưởng giáo nay con xin trọng trách,
Khởi hành mới, con sẽ bước chân ngay.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.6. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ mọi tín ngưỡng, học thuyết và nền văn hóa trong các tôn giáo khiến con tin rằng tai ương không thể xảy ra cho con vì con thuộc một nhóm người chọn lọc.

Đại thiên thần Michael, gươm sáng xanh,
Bao bóng tối vung tay thày chặt đứt,
Quả Ki-tô nay con theo nao nức,
Dùng phân biện thực chân rõ ngọn ngành.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.7. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ mọi cảm giác sợ hãi, hay bị bất công, hay tức giận Thượng đế. Con buông bỏ mọi cảm giác bị bội ước vì sa nhân đã làm chuyện gì đó tới con.

Đại thiên thần Michael, con nương cánh
Của thày đây, bỏ lại chuyện cỏn con,
Tim con rộn tiếng Thượng đế gọi đàn,
Cùng tim thày mà hát mãi vang vang. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.8. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ tư duy thần thông. Con thấy là tư duy thần thông đã xua đẩy sự kết nối nội tâm của con với cái ta cao của con và với các chân sư thăng thiên.

Đại thiên thần Michael, đưa con về
Những bầu cao con muốn được tiêu dao,
Được tái sinh khỏi vũ trụ xôn xáo,
Cho đời sống thành bài thơ dâng trào.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.9. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ niềm tin rằng có một sinh thể xa xăm trên thiên đàng bình thường không có mặt, nhưng sẽ can thiệp khi con cần đến. Con buông bỏ ý niệm “Thượng đế có mặt theo yêu cầu” này, vì khi con phóng chiếu là có khoảng cách giữa con và thày, thì làm sao con có thể kết nối với thày là một chân sư thăng thiên?

Đại thiên thần Michael là ánh sáng
Chiếu rực rỡ như tinh tú xanh ngời,
Thày đến đây từ tinh tú trên trời,
Con cùng thày đi khắp chốn xa xôi. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

Phần 2

2.1. Đại thiên thần Michael, con thấy là Luật Tự quyết không cho phép thày làm một số chuyện để giúp con. Con chấp nhận là có một số chuyện mà con không thể được bảo vệ, tùy theo cách người khác sử dụng quyền tự quyết của họ.

Đại thiên thần Michael, sáng xanh ngắt,
Tim con chỉ còn chỗ cho mình thày,
Tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
Tình yêu thày cho con luôn chân chất.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.2. Đại thiên thần Michael, con thấy là có sự khác biệt giữa điều kiện mà con sợ và chính nỗi sợ. Con có thể thăng vượt nỗi sợ vì nỗi sợ là một điều kiện trong tâm con.

Đại thiên thần Michael, con mãi mãi
Luôn là một với thực tại của thày,
Muôn sợ hãi không thể giam con mãi,
Và thế gian phải nhả hết quyền oai.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.3. Đại thiên thần Michael, con thấy là nỗi sợ tối hậu trên trái đất là nỗi sợ chết. Vì con đã tìm được cách để sống với nỗi sợ chết, thì con cũng có thể đối phó với những nỗi sợ khác.

Đại thiên thần Michael, ôm con chặt,
Phá tan đi bóng đêm đen tối nhất,
Sạch luân xa trong ánh sáng thần sầu,
Và phục hồi trong con cái nhìn sâu.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.4. Đại thiên thần Michael, con thấy là khi con cảm thấy bị choáng ngợp bởi nỗi sợ hay con cảm thấy không có cách chi thoát được điều kiện, thì con chối bỏ hay phớt lờ nỗi sợ. Đó là vì mọi nỗi sợ đều bắt nguồn từ một ngã tách biệt, và ngã không thể nhìn quá nỗi sợ.

Đại thiên thần Michael, con đang đứng
Với thày đây, ánh sáng con ra lệnh,
Tim con sẽ trải rộng mãi không ngừng
Cho đến khi lý tối cao sáng bừng.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.5. Đại thiên thần Michael, con thấy là phương pháp tối hậu để khắc phục nỗi sợ là tách cái Ta Biết ra khỏi ngã. Con thấy là nỗi sợ có mặt trong tâm con, nhưng điều kiện mà con sợ không có mặt trong tâm con. Điều kiện ở bên ngoài tâm con.

Đại thiên thần Michael, trong tim này,
Không bao giờ con với thày xa cách,
Đoàn chưởng giáo nay con xin trọng trách,
Khởi hành mới, con sẽ bước chân ngay.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.6. Đại thiên thần Michael, con thấy là nỗi sợ trong tâm con không phải là một điều kiện vật lý, mà là một điều kiện năng lượng. Nỗi sợ là một lốc xoáy rung động và cuộn xoáy trong thể cảm xúc của con.

Đại thiên thần Michael, gươm sáng xanh,
Bao bóng tối vung tay thày chặt đứt,
Quả Ki-tô nay con theo nao nức,
Dùng phân biện thực chân rõ ngọn ngành.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.7. Đại thiên thần Michael, con thấy là không có gì trong đó ngoài năng lượng cuộn xoáy. Không có điều kiện nào bên trong năng lượng và con thấy nỗi sợ giống như một bão xoáy. Bên trong bão xoáy có mắt bão là nơi yên tĩnh.

Đại thiên thần Michael, con nương cánh
Của thày đây, bỏ lại chuyện cỏn con,
Tim con rộn tiếng Thượng đế gọi đàn,
Cùng tim thày mà hát mãi vang vang. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.8. Đại thiên thần Michael, con không sợ nhìn vào nỗi sợ của con. Con sẵn sàng đi thẳng vào nỗi sợ cho tới khi con đi xuyên qua lớp năng lượng đang cuộn xoáy và đi vào nơi yên tĩnh ở chính giữa.

Đại thiên thần Michael, đưa con về
Những bầu cao con muốn được tiêu dao,
Được tái sinh khỏi vũ trụ xôn xáo,
Cho đời sống thành bài thơ dâng trào.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.9. Đại thiên thần Michael, con chấp nhận sự trợ giúp của thày. Xin thày hãy đặt Hiện diện của thày lên trên con để con và thày chúng ta cùng nhau đi vào cơn bão xoáy đầy năng lượng sợ hãi đang cuộn xoáy cho tới khi chúng ta tới trung tâm điểm.

Đại thiên thần Michael là ánh sáng
Chiếu rực rỡ như tinh tú xanh ngời,
Thày đến đây từ tinh tú trên trời,
Con cùng thày đi khắp chốn xa xôi. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

Phần 3

3.1. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ nỗi sợ để thày có thể dùng uy lực của thày để dập tắt cơn bão xoáy năng lượng sợ hãi trong thể cảm xúc của con.

Đại thiên thần Michael, sáng xanh ngắt,
Tim con chỉ còn chỗ cho mình thày,
Tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
Tình yêu thày cho con luôn chân chất.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.2. Đại thiên thần Michael, con thấy là các ngã tách biệt của con không muốn loại bỏ nỗi sợ. Nỗi sợ đó quy định những điều mà nó không thể và không nên làm. Một khi con chấp nhận nỗi sợ, thì nó cho con một cái cớ để không làm một số chuyện.

Đại thiên thần Michael, con mãi mãi
Luôn là một với thực tại của thày,
Muôn sợ hãi không thể giam con mãi,
Và thế gian phải nhả hết quyền oai.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.3. Đại thiên thần Michael, con muốn loại trừ các nỗi sợ của con, vì con không cần một cái cớ để không suy nghĩ hay kết nối với một chân sư thăng thiên.

Đại thiên thần Michael, ôm con chặt,
Phá tan đi bóng đêm đen tối nhất,
Sạch luân xa trong ánh sáng thần sầu,
Và phục hồi trong con cái nhìn sâu.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.4. Đại thiên thần Michael, con sẵn sàng thấy điều con nghĩ sẽ xảy ra nếu con kết nối với một chân sư thăng thiên. Con muốn thấy liệu con có sẽ phải thay đổi gì chăng trong lối sống, hay trạng thái tâm của con.

Đại thiên thần Michael, con đang đứng
Với thày đây, ánh sáng con ra lệnh,
Tim con sẽ trải rộng mãi không ngừng
Cho đến khi lý tối cao sáng bừng.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.5. Đại thiên thần Michael, con sẵn sàng thấy liệu con có một thói quen nào đó mà con biết không có tính chất tâm linh, nhưng con đã xây dựng một cái cớ vì sao con có thể tiếp tục có thói quen đó mà vẫn học giáo lý tâm linh.

Đại thiên thần Michael, trong tim này,
Không bao giờ con với thày xa cách,
Đoàn chưởng giáo nay con xin trọng trách,
Khởi hành mới, con sẽ bước chân ngay.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.6. Đại thiên thần Michael, con quả thực muốn buông bỏ các nỗi sợ của con. Con muốn thấy cái ngã tiềm thức là nơi nỗi sợ tập trung. Con sẵn sàng để cho nó chết đi. Đại thiên thần Michael thày có mặt, ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ.

Đại thiên thần Michael, gươm sáng xanh,
Bao bóng tối vung tay thày chặt đứt,
Quả Ki-tô nay con theo nao nức,
Dùng phân biện thực chân rõ ngọn ngành.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.7. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ mong muốn không bị Thượng đế trông thấy. Con buông bỏ ảo tưởng là có khoảng cách giữa con người và Thượng đế. Con buông bỏ ảo tưởng là những gì con che giấu người khác cũng khuất mắt Thượng đế, và do đó con có thể làm một số chuyện mà không chịu hậu quả vì Thượng đế không trông thấy.

Đại thiên thần Michael, con nương cánh
Của thày đây, bỏ lại chuyện cỏn con,
Tim con rộn tiếng Thượng đế gọi đàn,
Cùng tim thày mà hát mãi vang vang. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.8. Đại thiên thần Michael, con thấy đây là một trong những ảo tưởng vĩ đại nhất trên trái đất và nó dựa trên việc con người mất sự nối kết với cái ta cao của họ.

Đại thiên thần Michael, đưa con về
Những bầu cao con muốn được tiêu dao,
Được tái sinh khỏi vũ trụ xôn xáo,
Cho đời sống thành bài thơ dâng trào.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.9. Đại thiên thần Michael, con thấy là con có chút nối kết với cái ta cao của con, con biết con là phần nối dài của cái ta cao đó, do đó làm sao con có thể tách biệt khỏi nó được? Cũng giống như ý nghĩ ngọn sóng có thể tách biệt khỏi đại đương.

Đại thiên thần Michael là ánh sáng
Chiếu rực rỡ như tinh tú xanh ngời,
Thày đến đây từ tinh tú trên trời,
Con cùng thày đi khắp chốn xa xôi. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

Phần 4

4.1. Đại thiên thần Michael, con thấy là tâm của con không thể tách biệt khỏi Hiện diện TA LÀ, và do đó một điều kiện vật lý không thể thật sự ảnh hưởng con. Nó có thể ảnh hưởng xác thân vật lý của con, nhưng nó không thể ảnh hưởng con người thực của con.

Đại thiên thần Michael, sáng xanh ngắt,
Tim con chỉ còn chỗ cho mình thày,
Tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
Tình yêu thày cho con luôn chân chất.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

4.2. Đại thiên thần Michael, con thấy là không có điều gì trong cõi vật lý có thể ảnh hưởng được Hiện diện TA LÀ của con. Cốt lõi con người con là cái Ta Biết, cũng là nhận biết thuần khiết và do đó không thể bị bất cứ gì trong cõi vật lý ảnh hưởng.

Đại thiên thần Michael, con mãi mãi
Luôn là một với thực tại của thày,
Muôn sợ hãi không thể giam con mãi,
Và thế gian phải nhả hết quyền oai.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

4.3. Đại thiên thần Michael, con thấy là cái Ta Biết không phải sợ bất cứ điều kiện nào trong cõi vật lý. Chỉ các ngã tách biệt mới có thể sợ các điều kiện vật lý, vì chúng không thể trốn chạy các điều kiện đó. Cái Ta Biết có thể bước ra ngoài ngã tách biệt và để chúng chết đi.

Đại thiên thần Michael, ôm con chặt,
Phá tan đi bóng đêm đen tối nhất,
Sạch luân xa trong ánh sáng thần sầu,
Và phục hồi trong con cái nhìn sâu.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

4.4. Đại thiên thần Michael, con thấy là khi con nhìn vào một ngã tách biệt đang sợ một điều kiện và để cho nó chết đi, thì tại sao con lại phải trải nghiệm điều kiện đó? Con chỉ cần trải nghiệm điều kiện để nhìn vào ngã tách biệt. Đây là Trường đời Cay đắng.

Đại thiên thần Michael, con đang đứng
Với thày đây, ánh sáng con ra lệnh,
Tim con sẽ trải rộng mãi không ngừng
Cho đến khi lý tối cao sáng bừng.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

4.5. Đại thiên thần Michael, con sẵn lòng nhìn vào ngã tách biệt, để con không cần trải nghiệm điều kiện. Con không cần sợ nó khi con biết có cách để tránh nó.

Đại thiên thần Michael, trong tim này,
Không bao giờ con với thày xa cách,
Đoàn chưởng giáo nay con xin trọng trách,
Khởi hành mới, con sẽ bước chân ngay.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

4.6. Đại thiên thần Michael, con thấy chính một ngã tách biệt đang sợ điều kiện, và nếu con là cái Ta Biết không sẵn sàng nhìn vào ngã tách biệt, thì con không thể để ngã chết đi. Do đó vẫn còn một vũng xoáy đang trì kéo thể cảm xúc của con. Nó cũng trì kéo toàn thể cõi vật chất và thu hút về con những gì con sợ.

Đại thiên thần Michael, gươm sáng xanh,
Bao bóng tối vung tay thày chặt đứt,
Quả Ki-tô nay con theo nao nức,
Dùng phân biện thực chân rõ ngọn ngành.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

4.7. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ ảo tưởng cho rằng nếu con phớt lờ nỗi sợ thì con xua đẩy điều kiện đi. Con thấy là nỗi sợ thu hút điều kiện để rốt cuộc con được giải thoát khỏi nỗi sợ.

Đại thiên thần Michael, con nương cánh
Của thày đây, bỏ lại chuyện cỏn con,
Tim con rộn tiếng Thượng đế gọi đàn,
Cùng tim thày mà hát mãi vang vang. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

4.8. Đại thiên thần Michael, con sẵn lòng nhìn vào nỗi sợ. Con xin thày giúp con khắc phục nỗi sợ một hoàn cảnh trong thế gian, lẫn nỗi sợ gặp gỡ các chân sư thăng thiên vì như vậy các ngã tách biệt của con sẽ bị phơi bày. Con sẵn lòng thay đổi.

Đại thiên thần Michael, đưa con về
Những bầu cao con muốn được tiêu dao,
Được tái sinh khỏi vũ trụ xôn xáo,
Cho đời sống thành bài thơ dâng trào.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

4.9. Đại thiên thần Michael, con sẵn lòng muốn thấy cuộc đời của mình sẽ ra sao nếu con không còn nỗi sợ. Ngay đây con quyết định: “Cuộc đời của tôi sẽ khá hơn nếu tôi không còn nỗi sợ. Do đó tôi sẵn lòng yêu cầu Đại thiên thần Michael giúp tôi thấy nó.”

Đại thiên thần Michael là ánh sáng
Chiếu rực rỡ như tinh tú xanh ngời,
Thày đến đây từ tinh tú trên trời,
Con cùng thày đi khắp chốn xa xôi. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

Phần 5

5.1. Đại thiên thần Michael, con xin thày thực sự tung ra một bom nổ ánh sáng vào vũng xoáy trong thể cảm xúc của con để dập tắt nó và không cho nó cuộn xoáy nữa.

Đại thiên thần Michael, sáng xanh ngắt,
Tim con chỉ còn chỗ cho mình thày,
Tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
Tình yêu thày cho con luôn chân chất.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

5.2. Đại thiên thần Michael, con cần sẵn lòng làm công việc dọn dẹp, dùng ngọn lửa tím và các bài chú bài thỉnh khác để chuyển hóa năng lượng.

Đại thiên thần Michael, con mãi mãi
Luôn là một với thực tại của thày,
Muôn sợ hãi không thể giam con mãi,
Và thế gian phải nhả hết quyền oai.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

5.3. Đại thiên thần Michael, con xin thày đi vào thể cảm xúc của con và chỉ cho con thấy có điều gì mà con chưa thấy.

Đại thiên thần Michael, ôm con chặt,
Phá tan đi bóng đêm đen tối nhất,
Sạch luân xa trong ánh sáng thần sầu,
Và phục hồi trong con cái nhìn sâu.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

5.4. Đại thiên thần Michael, con không nghĩ con đã vượt quá điều này rồi và không sợ gì cả. Con sẵn lòng mời thày vào thể cảm xúc của con và chỉ cho con thấy có điều gì ẩn giấu chăng.

Đại thiên thần Michael, con đang đứng
Với thày đây, ánh sáng con ra lệnh,
Tim con sẽ trải rộng mãi không ngừng
Cho đến khi lý tối cao sáng bừng.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

5.5. Đại thiên thần Michael, con sẵn lòng thấy liệu có sự e dè không muốn nhìn chăng. Con muốn thấy liệu có điều gì trong thể cảm xúc mà con e ngại không muốn thấy chăng.

Đại thiên thần Michael, trong tim này,
Không bao giờ con với thày xa cách,
Đoàn chưởng giáo nay con xin trọng trách,
Khởi hành mới, con sẽ bước chân ngay.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

5.6. Đại thiên thần Michael, con thấy là để thiết lập một nối kết mạnh hơn với các chân sư thăng thiên, thì sợ hãi là một chướng ngại mà con phải khắc phục. Con thấy đây là một việc mà con có thể làm được với sự giúp đỡ mà thày cống hiến.

Đại thiên thần Michael, gươm sáng xanh,
Bao bóng tối vung tay thày chặt đứt,
Quả Ki-tô nay con theo nao nức,
Dùng phân biện thực chân rõ ngọn ngành.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

5.7. Đại thiên thần Michael, con thấy sợ hãi là một cảm xúc. Tối hậu, cái gì khởi sự lốc xoáy sợ hãi là một quyết định, một ý muốn. Khi đã xem xét kỹ thì cách duy nhất để khắc phục sợ hãi là lấy một quyết định khác, quyết định buông bỏ nó.

Đại thiên thần Michael, con nương cánh
Của thày đây, bỏ lại chuyện cỏn con,
Tim con rộn tiếng Thượng đế gọi đàn,
Cùng tim thày mà hát mãi vang vang. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

5.8. Đại thiên thần Michael, con buông bỏ nỗi sợ, bất kể điều kiện mà con sợ có còn đó hay không. Con muốn được giải thoát khỏi sợ hãi.

Đại thiên thần Michael, đưa con về
Những bầu cao con muốn được tiêu dao,
Được tái sinh khỏi vũ trụ xôn xáo,
Cho đời sống thành bài thơ dâng trào.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

5.9. Đại thiên thần Michael, con cung cấp ý chí, và con biết là lúc đó thày sẽ cung cấp uy lực và tiêu trừ vũng xoáy sợ hãi. Con có ý chí và con biết thày có uy lực.

Đại thiên thần Michael là ánh sáng
Chiếu rực rỡ như tinh tú xanh ngời,
Thày đến đây từ tinh tú trên trời,
Con cùng thày đi khắp chốn xa xôi. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

4 | Thỉnh cầu nhận biết tâm linh về thân thể

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Mẹ Mary hãy giúp con nhìn ra những gì đang ngăn con chấp nhận rằng con là cơ thể vật lý của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Mẹ Mary, con thấy được khía cạnh Mẹ của Thượng đế là khía cạnh nuôi dưỡng. Con buông bỏ mọi cảm nhận thiếu thốn và chấp nhận là con xứng đáng được nuôi dưỡng, con dám chờ đợi được nuôi dưỡng.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống,
Tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng,
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
Con đây tuyên bố, tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.2. Mẹ Mary, con chấp nhận là con xứng đáng nhận được sự nuôi dưỡng cơ thể vật lý. Con thấy cơ thể của con được tạo bằng Thân thể của Mẹ Thiêng liêng, và đó là Ánh sáng của Mẹ Thiêng liêng, là Ánh sáng Mẫu-Vật.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.3. Mẹ Mary, con thấy một trong những điều cơ bản có thể kéo con ra khỏi cảm giác kết nối với thày chính là cơ thể vật lý đang không ngừng lôi kéo sự chú ý của con.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.4. Mẹ Mary, con buông ảo tưởng cho rằng cơ thể vật lý là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh của con, rằng đó là cái gì phải được chinh phục, phải bị làm ngơ, phải bị kiểm soát hay bị trấn áp.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.5. Mẹ Mary, con buông ảo tưởng cho rằng toàn bộ bát cung vật lý, cõi vật chất, cõi của Mẹ, là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh của con.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.6. Mẹ Mary, con nhìn ra cách người tâm linh đã tiếp cận cơ thể vật lý của mình suốt hàng ngàn năm qua không phải là cách xây dựng nhất. Cơ thể của con chỉ là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh nếu con nghĩ như vậy mà thôi.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.7. Mẹ Mary, con buông ý muốn trốn thoát khỏi cơ thể trong khi mình vẫn ở trong cơ thể, ý muốn khuất phục cơ thể, kiềm chế cơ thể, xem thường cơ thể, trấn áp cơ thể, vì đây là hình ảnh sẽ biến cơ thể thành kẻ thù.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.8. Mẹ Mary, con nhìn ra là con không đang hiện thân để có những trải nghiệm tâm linh. Con đang hiện thân để làm việc gì đó trong cõi vật lý, để trải nghiệm cõi vật lý, để thay đổi cõi vật lý.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống, con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.9. Mẹ Mary, con buông ý tưởng cho rằng cơ thể vật lý là kẻ thù cho việc kết nối với cái ta cao của con, với các chân sư thăng thiên. Con chấp nhận cơ thể vật lý là một cơ hội tuyệt vời để trải nghiệm cõi vật lý từ bên trong và góp phần vào tiến trình đồng sáng tạo.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

Phần 2

2.1. Mẹ Mary, con buông bỏ mọi sự than vãn. Con xem cơ thể là một cơ hội. Con xem đầu thai là một cơ hội.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống,
Tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng,
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
Con đây tuyên bố, tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.2. Mẹ Mary, con nhìn ra sự đau khổ trên trái đất đã trở thành một vòng xoáy trong tâm thức tập thể ngày càng tự tăng cường. Con sẵn lòng đập vỡ vòng xoáy này đã khiến con than phiền về thân thể hay tìm cách kiểm soát nó.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.3. Mẹ Mary, con sẵn lòng góp sức kéo tập thể vươn tới một cách tiếp cận cao hơn để xem cơ thể là một cơ hội. Khi con ở trong cơ thể, con sẽ không chối bỏ cơ thể hay tìm cách lánh xa cơ thể.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.4. Mẹ Mary, con thấy là chính con đã chọn hiện thân vật lý vì nếu không thì con đã không ở đây. Con đã chọn đầu thai vào thời điểm này để giúp Saint Germain đem lại Thời Hoàng kim và tạo điều kiện thuận lợi cho địa cầu xoay chuyển.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.5. Mẹ Mary, con thấy là trong Thời Hoàng kim của Saint Germain, con người sẽ có một mối quan hệ với thân thể của mình cao hơn hầu hết mọi người ngày hôm nay. Con ở đây để giúp đem lại một xoay chuyển trong cách tiếp cận cơ thể. Làm sao con sẽ giúp tập thể xoay chuyển được trừ khi con xoay chuyển tâm mình trước tiên?

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.6. Mẹ Mary, con buông ý muốn chối bỏ cơ thể. Con chọn cách tiếp cận cao hơn và con đón nhận cơ thể. Con đón nhận việc mình đang đầu thai và con nói: “Tôi là thân thể này.”

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.7. Mẹ Mary, con buông tất cả mọi ngã tiềm thức được tạo ra trong tiền kiếp, từ thuở chấn thương nhập đời khi con bị sa nhân tấn công, khi chúng tìm cách dùng cơ thể vật lý của con để tiêu diệt con về mặt tâm lý lẫn tâm linh.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.8. Mẹ Mary, con buông những cái ngã được tạo ra trong tiền kiếp liên hệ đến cơ thể vật lý, đến việc con ở trong cơ thể vật lý. Con chấp nhận là không những con ở trong cơ thể mà con còn chấp nhận cơ thể. Thay vì chấp nhận hay thấy mình ở trong cơ thể, con chấp nhận mình là cơ thể.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống, con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.9. Mẹ Mary, con chấp nhận con là cơ thể. Con chấp nhận rằng bản mẫu của cơ thể con – được cầm giữ bởi Hiện diện TA LÀ trong tâm bản sắc, tâm lý trí và tâm cảm xúc của con – hoàn toàn trở nên vật lý. Con chấp nhận sự chữa lành mà con cần để tập trung vào việc tăng triển tâm linh của con.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

Phần 3

3.1. Mẹ Mary, con thấy quá nhiều người tâm linh suốt các thời đại đã chối bỏ cơ thể, đã cố tránh né nó, đẩy nó ra xa. Con sẵn lòng thử một cách khác hơn. Con đón nhận cơ thể, con chấp nhận cơ thể, con đồng hóa mình là cơ thể đang biểu hiện khuôn đúc cao nhất cho cơ thể.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống,
Tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng,
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
Con đây tuyên bố, tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.2. Mẹ Mary, con thấy là phải có một khuôn đúc tư tưởng được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì nó mới khoác vào hình tướng. Khuôn đúc đó được phóng chiếu xuyên qua tâm bản sắc, tâm lý trí và tâm cảm xúc của con lên Ánh sáng Mẫu-Vật, hình thành cơ thể vật lý.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.3. Mẹ Mary, con chấp nhận cơ thể vật lý của con không dày đặc chút nào. Nó mềm lỏng. Nó tựa như loại nhựa dẻo có thể được uốn nắn, như đất sét có thể được nhào nặn, nhưng nó được nhào nặn bởi tư tưởng, bởi bản sắc, bởi cảm xúc. Và vì vậy nó có tiềm năng chuyển đổi chớp nhoáng.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.4. Mẹ Mary, con chấp nhận là tế bào của con hòa điệu với trạng thái tâm con. Tế bào là những chiếc máy radio nhận tín hiệu từ tâm cảm xúc, tâm lý trí và tâm bản sắc của con.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.5. Mẹ Mary, con chấp nhận là âm thoa trong mỗi tế bào của con giờ đây đã hòa điệu với chuông của Mẹ. Tế bào giống như những chiếc âm thoa, và thay vì điều chỉnh theo tần số của thế gian, giờ đây chúng hòa điệu với viễn quan của Mẹ Thiêng liêng cho cơ thể vật lý của con.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.6. Mẹ Mary, con chấp nhận viễn quan của Mẹ Thiêng liêng là một âm thanh, một rung động, một tiếng chuông. Cho nên con nói: “Ngay mỗi tế bào là một âm thoa. Với chuông của Mẹ nó đang giao hòa.”

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.7. Mẹ Mary, con hòa nhập vào Hiện diện của thày, con hòa điệu với cơ thể cùng bất kỳ điều kiện nào trong cơ thể, và con cho phép mình thâm nhập vào đó. Con nói: “Ngay mỗi tế bào là một âm thoa. Với chuông của Mẹ nó đang giao hòa.”

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.8. Mẹ Mary, con đọc câu chú: “Tôi là thân thể này” và con cảm thấy an bình với câu đó. Con chấp nhận mình là cơ thể, và cơ thể là một cơ hội trong thời gian con ở trong cơ thể.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống, con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.9. Mẹ Mary, con chấp nhận: “Tôi là thân thể của Mẹ Thiêng liêng. Tôi là thân thể của Mẹ Trái đất.”

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

Phần 4

4.1. Mẹ Mary, con chấp nhận rằng bệnh tật trong cơ thể vật lý không phải là chuyện tự nhiên. Thật không tự nhiên khi cơ thể bị bệnh. Thật không cần thiết cho cơ thể phải mắc bệnh.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống,
Tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng,
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
Con đây tuyên bố, tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.2. Mẹ Mary, con chấp nhận chính con là cơ thể, và con chấp nhận việc tạo thay đổi trong cơ thể là chuyện khả dĩ, ngay cả khi bác sĩ hay tâm thức tập thể bảo rằng chuyện này không thể xảy ra.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.3. Mẹ Mary, con chấp nhận con đang ở trong cõi vật chất. Đây là cõi của Mẹ Thiêng liêng. Thày là cõi vật chất. Con chấp nhận là đối với Mẹ Thiêng liêng, không có gì trong vật chất là bất khả thi.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.4. Mẹ Mary, con ngộ ra là chỉ sự chấp nhận hay không chấp nhận của con mới có thể ngăn cản một điều mà nhiều người sẽ gọi là phép lạ. Nhưng chẳng có phép lạ gì cả, chỉ có sự biểu hiện tự nhiên của Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ trình chiếu ra bất kỳ hình tướng nào được phóng chiếu lên nó.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.5. Mẹ Mary, con chấp nhận là khi con thay đổi sự trình chiếu, con cũng thay đổi điều kiện vật chất. Con chấp nhận thân thể, và con thấy là có thể con phải hoàn toàn chấp nhận một điều kiện trong thân thể trước khi con thăng vượt được điều kiện đó.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.6. Mẹ Mary, con chấp nhận là chừng nào con còn đẩy xa – không những đẩy xa điều kiện mà cả cơ thể đã buộc con phải đối mặt với điều kiện đó – thì con không thể chấp nhận thay đổi. Con chính là sự thay đổi mà con muốn thấy xảy ra trong cơ thể.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.7. Mẹ Mary, con chấp nhận là con không thể là sự thay đổi trong cơ thể trừ khi con chính là cơ thể. Và con chỉ có thể là cơ thể nếu con ngừng chối bỏ nó, ngừng đẩy nó ra xa và cho rằng nó phản tâm linh hay nó là kẻ thù cho sự tăng triển tâm linh của con.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.8. Mẹ Mary, con chấp nhận mục đích làm người tâm linh trong thời đại này, mục đích con đã hiện thân vật lý, là để chứng tỏ con có thể là người tâm linh trong cơ thể.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống, con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.9. Mẹ Mary, con chấp nhận con là một người tâm linh trong cơ thể. Hiện thân chính là mục đích của con.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

Ngay mỗi tế bào là một âm thoa,
Với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa
.
(9 hay 33 lần)

Ngay mỗi tế bào là một âm thoa,
Với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa
.
Âm thanh phá tan bùa mê đáy vực
Đến từ cõi chết và cõi địa ngục.

TA LÀ cơ thể này! (9 hay 33 lần)

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

2 | Thỉnh cầu một trải nghiệm vượt hình tướng

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Quan Âm hãy giúp con nhìn vượt ra khỏi cái tâm muốn con đồng hóa với hình tướng và tập trung tất cả chú ý của con vào hình tướng, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Quan Âm, con thấy được cái tâm quá ghiền nghiện sự kích động, đã quen thói nhận được kích động liên tục và không ngừng phản ứng lại những gì từ bên ngoài chính nó.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.2. Quan Âm, con thấy được thày, như một chân sư thăng thiên, không phải là một nguồn từ ngoài. Con muốn sự kết nối của con với thày không chỉ là thêm một kích động từ ngoài. Con muốn nó là nhiều hơn vậy.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.3. Quan Âm, con thấy được thông điệp từ một chân sư thăng thiên không đến từ một nguồn bên ngoài giống như mọi thứ khác đang lôi kéo tâm con. Thày ở bên trong con, và thày ở khắp mọi nơi chung quanh con.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.4. Quan Âm, con muốn nghe được thày như giọng nói nhỏ nhẹ yên ắng bên trong, và con không để ý đến những giọng nói từ ngoài.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.5. Quan Âm, con thấy được ông hoàng của thế gian, bọn quỷ của Mara, đang cố hết sức lôi kéo chú ý của con ra ngoài, để con liên tục hướng chú ý về bất cứ chuyện gì bên ngoài chính con.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.6. Quan Âm, con thấy được là chúng không cần biết sự chú ý của con tập trung vào đâu, miễn là nó tập trung ở ngoài con. Nhưng bên trong là cái ta cao của con, là các chân sư thăng thiên, và con muốn chú tâm vào đây.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.7. Quan Âm, con muốn trải nghiệm chính mình không như tâm vỏ ngoài mà như sự nhận biết thuần khiết, là cái Ta Biết đang tự trải nghiệm như sự nhận biết thuần khiết.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.8. Quan Âm, con muốn có khả năng phân biện và nhìn ra những kẻ mạo danh là thày tâm linh, nhưng họ lại ở cõi lý trí, ở cõi bản sắc thấp hay cõi cảm xúc, thậm chí cả những thày giả đang hiện thân trong cõi vật lý.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.9. Quan Âm, con thấy được là con sẽ không nối kết với các thày qua trung gian cái tâm bận rộn luôn bị kéo ra ngoài. Đây là tâm vỏ ngoài có thể nối kết với những sinh thể ở cõi lý trí sẽ kích động con với đủ loại hào nhoáng. Thay vào đó, con muốn nối kết với Đại đoàn chưởng giáo vũ trụ.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Phần 2

2.1. Quan Âm, con thấy đường tu tâm linh không phức tạp lắm đâu. Đường tu không huy hoàng vẻ vang theo các tiêu chuẩn phán xét của nhiều người trong thế gian. Đường tu là bước vào bên trong, là tìm thấy một cái gì ở bên trong mà con không thể tìm được ngoài thế gian.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.2. Quan Âm, con nhìn ra là con sẽ không tìm được những gì mình tìm kiếm bằng cách nhìn ra ngoài chính mình. Con sẽ chỉ tìm được những gì con tìm kiếm khi con bắt đầu hướng chú ý vào trong.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.3. Quan Âm, con thấy được là nhiều chân sư thăng thiên đã từng đầu thai trên trái đất, và các thày đã khắc phục sự dày đặc của trái đất. Cho nên con biết đường tu này hiệu quả, và chính con cũng có khả năng khắc phục.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.4. Quan Âm, con thấy được là con không thể khắc phục bằng riêng quyền năng của mình. Con cần các thày trợ giúp và con sẵn sàng nhận sự trợ giúp này.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.5. Quan Âm, con thấy là do con có thể nhận ra các chân sư thăng thiên, nên con đã có chút kết nối với các thày rồi. Con sẵn lòng mở rộng sự kết nối của mình bằng cách xem xét những kỳ vọng đang ngăn con đạt đến sự kết nối chặt chẽ hơn với các thày.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.6. Quan Âm, con buông bỏ mọi ham muốn gặp gỡ các chân sư một cách ấn tượng. Con thấy các thày là những vị thày tâm linh đích thực, và các thày muốn con giải thoát khỏi tự ngã cùng những ngã tiềm thức của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.7. Quan Âm, con sẵn lòng nhìn ra bất cứ kỳ vọng nào dựa trên tự ngã muốn cảm thấy đặc biệt. Con thấy được là nếu các thày thỏa mãn kỳ vọng của con, con sẽ bị yếu tố này của tự ngã đánh bẫy, có lẽ cho đến hết kiếp này.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.8. Quan Âm, con thấy được là nếu con mang kỳ vọng như vậy thì các thày sẽ phải bước lùi lại, vì thày không thể nhận rủi ro đẩy con về hướng ngược lại sự tăng triển.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.9. Quan Âm, con thấy được là nếu con mang kỳ vọng một cuộc gặp gỡ ấn tượng, thì đây chính là tâm con đang phóng chiếu ra ngoài. Nhưng con sẽ không nối kết được với các thày ở bên ngoài.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Phần 3

3.1. Quan Âm, con thấy được là nếu tâm con phóng chiếu hình ảnh sự nối kết phải như thế nào, thì con đang đẩy xa sự nối kết qua kỳ vọng này.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.2. Quan Âm, con thấy được là các chân sư thăng thiên không giới hạn sự nối kết mà con có thể có với các thày. Các thày sẵn lòng kết nối với bất cứ ai trên địa cầu ở mức tâm thức hiện thời của họ.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.3. Quan Âm, con thấy được tâm Ki-tô là tâm có khả năng gặp con ở bất kỳ mức tâm thức nào của con, và cống hiến một khung tham chiếu sẽ giúp con bước lên bước tâm thức kế tiếp.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.4. Quan Âm, con thấy được là các thày sẵn lòng nối kết với con. Con mong muốn thiết lập một sợi dây nối kết trực tiếp với các thày để con có thể nhận được những sáng ngộ cá nhân, những xoay chuyển tâm thức, cùng sự giúp đỡ từ các thày chứ không từ nguồn nào bên ngoài.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.5. Quan Âm, con sẵn lòng nhìn thấy những gì trong tâm có thể ngăn chặn sự nối kết trực tiếp của con. Con sẵn lòng rút lui khỏi việc chú tâm vào thế giới, và con nắm bắt khái niệm: “Không làm việc gì nhưng không sót việc gì không làm.”

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.6. Quan Âm, con thấy được bằng cách rút khỏi việc chú tâm bình thường vào thế giới và thay đổi thế giới, con có thể đem lại một thay đổi lớn hơn trong thế giới qua việc kết nối trực tiếp với các thày.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.7. Quan Âm, con thấy được là nếu con đã có thể kết nối với các thày qua tâm vỏ ngoài cứ luôn phóng chiếu ra ngoài, thì chắc chắn con đã kết nối được rồi, vì tâm này hoạt động rất ráo riết. Con sẽ làm điều gì khác hơn hay sẽ không làm gì cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.8. Quan Âm, con thấy được là để thiết lập sự nối kết với cái ta cao của con, với các thày tâm linh của con, con cần vươn mình lên khỏi tâm thức đại chúng.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.9. Quan Âm, con thấy được là con cần cái gì khác để mở rộng sự nối kết của mình. Vì vậy con sẽ bỏ qua bên các kỳ vọng của con, bỏ qua bên pháp tu bình thường của con, thậm chí cả tư duy muốn làm.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Phần 4

4.1. Quan Âm, con sẵn lòng tìm kiếm vị chân sư mà con có sự nối kết. Mục đích của con là trải nghiệm sự nối kết, chứ không phải đẩy nó về phía trước như con lừa đẩy củ cà rốt treo lủng lẳng trên cây gậy trước mũi nó.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.2. Quan Âm, con thấy được Hiện diện của thày là điều con có thể nối kết vượt quá ngôn từ, vượt quá lời bài truyền đọc và lời những câu chú. Nhưng dẫu vậy, lời nói là chén thánh sẽ neo trụ sự Hiện diện.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.3. Quan Âm, con thấy được là thày không thể bị bắt giữ trong bất kỳ hình tướng nào. Con sẵn lòng thăng vượt sự dính mắc vào hình tướng, sự đồng hóa với hình tướng. Con sẵn lòng nối kết với một cái gì không có hình tướng.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.4. Quan Âm, con sẵn lòng buông bỏ hình ảnh một vị thượng đế toại nguyện ước muốn. Con thấy được các chân sư thăng thiên không phải là những vị thần nam hay thần nữ để toại nguyện ước muốn của con. Các thày không chủ yếu ở đây để làm chuyện gì cho con trong hình tướng. Các thày ở đây để chứng tỏ cho con thấy là có gì đó vượt khỏi thế giới hình tướng!

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.5. Quan Âm, con muốn các thày cho con một khung tham chiếu rằng có gì đó nhiều hơn hình tướng. Rằng chính con là nhiều hơn hình tướng!

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.6. Quan Âm, con sẵn lòng nối kết và trải nghiệm một điều gì vượt khỏi hình tướng. Con muốn nối kết với các thày ngoài hình tướng, cái hình tướng bao quanh con, lôi kéo chú ý của con tập trung vào hình tướng. Con thấy được là các thày ở đây để giúp con ngừng đồng hóa với hình tướng.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.7. Quan Âm, con sẵn lòng nối kết và trải nghiệm những gì vượt khỏi hình tướng nhưng lại vô cùng thực. Nói cho cùng, chỉ có cái vượt hình tướng mới là thực. Con buông bỏ trò chơi muôn thuở bảo rằng hình tướng này là thực và hình tướng kia không thực.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.8. Quan Âm, con buông bỏ mọi ham muốn sẽ có gì đó ấn tượng xảy ra cho mình. Con thấy điều ấn tượng nhất có thể xảy ra là không có gì mang hình tướng xảy ra.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.9. Quan Âm, con thấy được là nếu không có gì xảy ra thì điều có thể đang xảy ra là con đang chứng nghiệm thực tại vô hình tướng mà thày là. Quan Âm, thày là HƠN NỮA. Thày vượt khỏi hình tướng. Con sẵn lòng trải nghiệm chính con đây cũng vượt khỏi hình tướng.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

OM (3 lần)
OM Mani Padme Hum (9 lần)
OM Quan Âm OM (9 lần)
OM (3 lần)

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

25 | Tự do quyết định cách con biểu hiện quả vị Ki-tô

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Saint Germain, và thầy rất vui, nếu con có thể dùng chữ vui cho một chân sư thăng thiên lúc nào cũng ở trong tâm thái trung hòa, có mặt ở đây với các con. Thày muốn có vài nhận xét về tình hình Hàn Quốc, thày không muốn nói tình hình vật lý nhưng hoàn cảnh được thể hiện bởi sự việc có rất nhiều các con đã đến với giáo lý này, đã làm rất nhiều công việc như dịch thuật, đọc thỉnh, tham gia canh thức, lập nhóm, học giáo lý.

25.1. Công việc tuyệt vời của các đệ tử Chân sư Thăng thiên tại Hàn Quốc

Các con có thể nhìn vào cõi vật lý và nói: “Kết quả của nỗ lực của chúng tôi là gì, chúng tôi đã đem lại khác biệt gì nơi cõi vật lý?” Thày không mấy quan tâm đến kết quả vật lý vì cõi vật lý lúc nào cũng sẽ phản ánh những gì xảy ra trên ba cõi cao. Chỉ là vấn đề thời gian để các thay đổi trên ba cõi cao đột phá xuống tầng vật lý. Qua các công việc mà các con đã hoàn thành tại đây ở Hàn Quốc, các con quả thực đã tạo ra một xoay chuyển địa chấn nơi các thể xúc cảm, tư tưởng và bản sắc của tâm thức tập thể.

Các con đã đặc biệt tạo ra thay đổi ở các tầng bản sắc và tư tưởng. Thể cảm xúc lúc nào cũng náo loạn vì quá nhiều người có một số nỗi sợ, nghi ngờ, ác cảm và giận dữ khó có thể an tịnh. Tuy nhiên, thay đổi thực lúc nào cũng bắt đầu ở các tầng bản sắc và tư tưởng, và điều mà các con đã đem lại là tải xuống một số ý tưởng từ thày vào thể bản sắc và tư tưởng, không những của tâm thức tập thể, mà còn của nhiều người dân Hàn Quốc sẵn sàng tiếp nhận các ý tưởng đó. (Thày bao gồm những người sống ở Bắc Hàn, vì Bắc Hàn cũng thuộc Hàn Quốc). Các người đó hoàn toàn không biết gì về chân sư thăng thiên và không cần biết đến chân sư thăng thiên, nhưng họ ở trong vị thế có thể hiện thực một số ý tưởng đó, và do đó trong những năm tới các con sẽ thấy thay đổi ngay cả nơi tầng vật lý.

Khi nào chuyện đó xảy ra, chúng xảy ra chính xác như thế nào, là điều không thể tiên đoán vì như các thày có giảng, có những nhân duyên liên khởi với nhiều yếu tố rất phức tạp liên quan đến con người ở cả miền Bắc và miền Nam Hàn Quốc. Ta có thể nói, điểm quan trọng là khi có đủ túc số người đứng thẳng hàng với một ý tưởng, thì ý tưởng đó có thể đột phá xuống cõi vật lý. Khi nào chuyện đó xảy ra lẽ tất nhiên tùy thuộc luật tự quyết. Điều ta có thể nói là các con là đệ tử chân sư thăng thiên đã làm phần công việc của mình. Các con đã làm nhiều hơn là phần việc của mình. Các con đã làm công việc tuyệt vời và thày thành thật hy vọng là các con cảm thấy mãn nguyện với công việc đã hoàn thành, và đón tiếp công việc tới mà các con muốn làm, các con sẵn lòng làm, với lòng hân hoan, mãn nguyện, an bình và thành tựu.

25.2. Phương pháp đường thẳng cần thiết khi tiếp cận đường tu

Tia thứ Bảy, Tia của Tự do, con phải làm gì để hòa điệu với Tia thứ Bảy? Lẽ đương nhiên, con cần tự do nhưng tự do khỏi cái gì? Như các Thượng sư khác đã giảng, tự do khỏi tâm đường thẳng. Tâm đường thẳng phóng chiếu gì liên quan đến tự do? Nó nhìn vào các điều kiện đương thời và nói: “Tôi không thể tự do vì tôi đang bị đàn áp bởi nhà độc tài này. Tôi không thể tự do vì tôi không có đủ tiền. Tôi không thể tự do vì tôi không có cái này cái kia.” Sau đó tâm đường thẳng tìm cách thiết lập một lối đi đường thẳng, một tiến trình đường thẳng, nói rằng: “Tôi không có tự do vì tôi thiếu cái này hay tôi dư cái kia. Do đó, tôi cần phóng chiếu một kế hoạch từng bước dẫn tôi tới điểm tôi có những gì tôi cần để được tự do.” Con bắt đầu đi về hướng đó, con bắt đầu nỗ lực về hướng đó, con dùng tâm đường thẳng để đặt kỷ luật cho chính con và các hành động, cảm xúc và tư tưởng của con, và con nỗ lực, nỗ lực, nỗ lực.

Các thày có nói là trên con đường tâm linh con tiến từ tầng 48 lên tầng 96 bằng cách tự nâng mình lên khỏi tâm thức tập thể. Con cần sử dụng phương pháp đường thẳng: “Tôi cần làm gì? Tôi cần đọc bao nhiêu bài chú? Tôi cần đọc các bài thỉnh nào? Tôi cần học hỏi những gì? Tôi cần làm gì? Tôi cần loại trị liệu nào?” Con cần tất cả những chuyện đó, và con có thể lên kế hoạch. Trên căn bản, con có thể lập một kế hoạch để đi từ tầng 48 đến tầng 96 một cách tuần tự từng bước. Đây là điều hoàn toàn phải phép. Như thày Nada có nói, con dùng tâm đường thẳng để đối phó với những thực tại thực tiễn trong bát cung vật lý, trong đó có tâm thức tập thể. Con có thể định ra một lối đi, như nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã làm khi họ khám phá giáo lý chân sư thăng thiên (trong đợt truyền giáo này hay một đợt truyền giáo khác), và nói: “Tôi cần học hỏi, tôi cần tham gia các sinh hoạt này, tôi cần đọc bao nhiêu bài chú mỗi ngày.” Họ đã làm chuyện này một cách kiên định trong một thời gian, có người trong một thời gian dài. 

Nhưng đây là vấn đề với tâm đường thẳng. Điều nhiều đệ tử đã làm là họ lập ra kế hoạch với những việc họ sẽ làm, và nói: “Tôi cần tiếp tục làm theo kế hoạch này cho tới khi tôi được tự do” hoặc họ nói: “Tôi cần làm theo kế họach này cho đến hết đời.” Nhưng đây là vấn đề với tâm đường thẳng khi liên quan đến tự do. Con làm gì khi con lập một kế hoạch với tâm đường thẳng? Con đang, nói một cách thẳng thắn, giam mình vào nhà tù. Con đang nói: “Đây là những chuyện tôi phải làm, và đây là những chuyện tôi phải tiếp tục làm cho tới khi tôi được tự do.” Con thấy chăng, con đang giam mình vào một cấu trúc: “Đây là những chuyện tôi phải làm.” Phải chăng con đã tạo trong tâm mình một loại nhà tù? 

25.3. Xoay chuyển cần thiết ở tầng 96

Con có thể nói là khi con bị tâm thức tập thể thống trị, thì con đang ở trong một loại nhà tù vì con có ít khả năng lấy chọn lựa cá nhân. Sau đó con tìm ra một giáo lý tâm linh (và nhiều người tâm linh không tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên mà một giáo lý khác cũng đã làm vậy) và con lập một kế hoạch và con nói: “Đây là những chuyện tôi phải làm” để đạt bất kể mục tiêu nào đã được định ra bởi giáo lý tâm linh, có thể là giác ngộ, thức tỉnh, thăng thiên, hay bất cứ gì khác.

Như các thày có giảng, giữa tầng 48 và 96 điều thích đáng là con lập kế hoạch dùng giáo lý và dụng cụ tâm linh để nâng con lên khỏi tâm thức tập thể, tiêu trừ các ngã và theo con đường tự điều ngự. Đây là điều con cần làm để nâng mình ra khỏi nhà tù của tâm thức tập thể. Để làm việc này, con cần chú tâm, nhưng hậu quả là con đặt tâm mình vào một cấu trúc và đây lại là một nhà tù cho tâm.

Đây không phải là một vấn đề nếu con vẫn nâng mình lên khỏi tâm thức tập thể, nhưng như thày Nada đã giảng một cách rất hùng hồn, nó sẽ trở thành một vấn đề khi con dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu quá những thực tại thực tiễn của thế giới vật chất, kể cả bốn tầng của cõi vật chất. Điều mà rất rất nhiều người tâm linh (kể cả đệ tử chân sư thăng thiên) đã làm là họ dấn thân vào con đường tâm linh và họ dùng giáo lý để phóng chiếu kế hoạch cần theo đuổi dựa trên hiểu biết mà họ có khi bắt đầu con đường tâm linh: “Đây là điều tôi cần tiếp tục làm, nó sẽ dẫn tôi tới các tầng giác ngộ cao hơn hay tâm thức Ki-tô (bất kể con gọi là gì)”.

Như các thày đã giảng, ở tầng 96 con đối diện một khai ngộ, một khai ngộ then chốt và khai ngộ này có thể được mô tả bằng nhiều cách như các thày đã làm. Một cách để mô tả là nói con phải nhận ra là những gì đã dẫn con tới tầng 96 không thể dẫn con lên cao hơn nữa. Con thấy chăng, con đã dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu thế nào là Ki-tô, thế nào là đạt các tầng tâm thức trên tầng 96 là các tầng của quả vị Ki-tô cá nhân.

Các thày đã nhiều lần cố giảng điều gì? Con hãy xem lại giáo lý của các thày. Con hãy xem lại và học hỏi những điều mà các thày đã nói về quả vị Ki-tô, trở ngược mãi tận năm 2002. Ki-tô không thể bị gò bó vào bất cứ cấu trúc nào. Thách thức thứ nhì của Ki-tô là gì? Đó là sau khi con đã nhận ra Ki-tô, thì con không tìm cách lôi kéo Ki-tô vào cấu trúc do tâm đường thẳng tạo ra. Con không thể tiến vào quả vị Ki-tô bằng tâm đường thẳng, tâm đường thẳng sẽ không thể dẫn con tới đó. Bất kể hình ảnh nào con đã phóng chiếu lên chính mình và con đường tu dựa trên tâm đường thẳng ở dưới tầng 96, chúng không thể dẫn con đến các tầng quả vị Ki-tô – áp dụng chúng không hiệu quả. Thày không nói ở đây là con cần ngưng đọc chú hay học hỏi giáo lý. Con cần một xoay chuyển tâm thức vi tế hơn nhiều.

25.4. Trạng thái lắng nghe trong hồng ân

Điều lợi ích cho nhiều người trong các con là con lấy một quyết định và nói: “Tôi sẽ không ngưng đọc chú đọc thỉnh, tôi sẽ không ngưng học hỏi giáo lý, nhưng tôi sẽ dành một chút thì giờ để ngồi trong một căn phòng yên tĩnh, nhắm mắt lại và tìm cách hay nhất mà tôi có thể làm để đi vào trạng thái tâm trung hòa. Đây là điều Giê-su ám chỉ khi thày nói: “Trừ phi con trở thành giống như trẻ thơ, thì con không có minh triết để vào được vương quốc.” Đây là điều mà các Phật tử ám chỉ khi nói đến “sơ tâm”. Con hãy thỉnh thoảng tìm cách đi vào trạng thái lắng nghe – lắng nghe trong hồng ân.

Nếu con cảm thấy mình hòa điệu đặc biệt với một vị chân sư nào đó, thì con hãy xin vị chân sư đó neo trụ Hiện diện của thày bên trên con và giúp con chỉ lắng nghe. Con hãy chỉ giữ tâm trung hòa. Con hãy đừng xin giải đáp, đừng xin hướng dẫn, đừng xin đáp số cho những vấn đề hay hoàn cảnh đặc thù mà con đang phải đối diện. Các chuyện này con có thể làm lúc khác. Con hãy chỉ xin vị chân sư giúp con giữ tâm trung hòa và lắng nghe vì khi con tiến lên trên tầng 96 (và quả thực cũng vậy khi con tới gần tầng 96) thì con cần cảm nhận hướng kế tiếp mà con cần theo là gì, giai đoạn kế tiếp của con đường tâm linh của con là gì. Điều này sẽ khác cho mỗi người trong các con, do đó không có câu trả lời mẫu.

25.5. Cố gắng sống đúng theo hình ảnh đệ tử gương mẫu

Một lần nữa đây là lý do vì sao tâm đường thẳng tạo nhiều vấn đề vì điều mà ta thấy trong những đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước là các đệ tử lấy giáo lý của các thày và tạo ra một hình tư tưởng thế nào là một đệ tử gương mẫu. Từ đó một nền văn hóa tổ chức đuợc tạo ra với một hình tư tưởng – thế nào là đệ tử gương mẫu – và hình ảnh này rất khó noi theo. Quả thật đây giống như điều các thày đã nói về sa nhân phóng chiếu hình ảnh toàn hảo nhưng không ai có thể thực sự xác định nó là gì, do đó không thể noi theo được. Hình ảnh người đệ tử gương mẫu cũng vậy. Con có thể quy định một số yêu cầu vỏ ngoài, nhưng không có gì được quy định rõ ràng, do đó rất khó noi theo. Sống theo đúng hình ảnh đó cần một lượng thời gian và tận tụy vĩ đại vì những yêu cầu vỏ ngoài rất, rất phức tạp. Con phải đọc tất cả các bài chú này. Con phải sống một cách nào đó, ăn một cách nào đó, đi đứng một cách nào đó, nói một cách nào đó, nghĩ một cách nào đó, cảm nhận một cách nào đó và kết quả là sống theo đó rất mệt và rất khó.

Những người cố gắng sống theo đúng mẫu đó phải cố gắng quá nhiều để chu toàn hình ảnh đó nên họ bị căng thẳng tâm thần. Họ đặt họ vào tình trạng thường trực bị căng thẳng tâm thần gần như tới điểm suy sụp thần kinh. Họ giống như một sợi dây thun bị kéo dãn đến mức tối đa và gần tới điểm bị đứt. Khi con người đi vào trạng thái tâm đó thì họ có khuynh hướng rất phán xét người khác. Quả thật là họ phán xét chính họ vì họ lúc nào cũng phán xét: “Tôi có sống đúng theo hình ảnh người đệ tử gương mẫu hay tôi đang không làm tròn điểm gì?” Họ cũng có khuynh hướng rất phán xét người khác và đó là lý do vì sao các tổ chức đó đã tạo ra trạng thái tâm thức rất phán xét thể hiện qua việc các thành viên luôn luôn phán xét lẫn nhau.

Thày có thể bảo đảm với con là đã có người tiếp cận một trong những tổ chức chân sư thăng thiên đó và cảm nhận nền văn hóa phán xét, và họ nói: “Không thích hợp cho tôi!” Nhiều người này có tâm thức cao hơn những người trong tổ chức, và đây là điều những người trong tổ chức không thể tin là có thật. Họ nghĩ họ đang ở trong trạng thái tâm thức cao nhất vì họ đang cố gắng sống đúng theo hình ảnh người đệ tử gương mẫu. Khi họ thấy có người đến rồi bỏ đi, thì họ nói: “Những người này không có căn cơ đệ tử”, nhưng những người đó thực sự có căn cơ đệ tử. Họ thật sự ở tầng cao hơn những người trong tổ chức. Họ ở cao hơn tầng văn hóa phán xét. 

25.6. Các ngã nhị nguyên rất vi tế trên tầng 96

Thày chỉ muốn nói là các thày không muốn con lặp lại khuôn nếp này. Các thày muốn các đệ tử trong đợt truyền giáo này vượt thăng những khuôn nếp đó để con có thể tới điểm đạt được tự do. Đạt được tự do nghĩa là gì? Từ tầng 48 đến tầng 96, đó là đạt được tự do khỏi tâm thức tập thể, tự do khỏi các ngã nhị nguyên. Thày tin con nhận ra là con cần một hiểu biết sâu sắc về các ngã đó. Các thày có giảng là khi con đi xuống dưới tầng tâm thức thứ 48 thì con đi vào tách biệt và con sử dụng tâm thức nhị nguyên để tạo ra các ngã đó, do đó chúng là các ngã nhị nguyên. Sau đó, con vươn lên cao hơn tầng tâm thức thứ 48 và đi về hướng tầng 96. Vì độ dày đặc của hành tinh, con vẫn còn mang theo mình một số các ngã nhị nguyên mà con chưa khắc phục. Nói cách khác, không phải là khi con tới tầng 48 là con đã khắc phục tất cả các ngã được tạo ra trong nhị nguyên.

Con cần suy ngẫm điều này vì có lẽ các thày đã quá dùng lý đường thẳng trong những lời giải thích trước của các thày. Con hãy nhìn như thế này. Có tất cả là 144 tầng tâm thức mà con người có thể có trên trái đất. Nếu con bắt đầu từ trên cùng (là nơi con bắt đầu với Hiện diện TA LÀ) và đi về hướng tầng 144, thì để xuống tầng 144 con cần mang vào một ảo tưởng. Đây không phải là một ảo tưởng nhị nguyên. Nó chỉ là một ảo tưởng liên quan đến bát cung vật lý trên một hành tinh có độ dày đặc như trái đất. Con cần gì để giúp con cảm thấy con có thể đầu thai, thậm chí có thể hòa nhập vào một thân thể vật lý? Con mang vào một ảo tưởng ở tầng 144, con mang vào ảo tưởng kế tiếp, con đi xuống tầng 143, và con tiếp tục làm vậy cho tới tầng 96.

Đây là những ảo tưởng trên căn bản, ở tầng này, giúp con hòa nhập vào thể bản sắc, thể tư tưởng và thể cảm xúc để con có thể bắt đầu tạo những ngã trong các thể đó để giúp con trải nghiệm trong bát cung vật lý. Sau đó, ở tầng 96 con tạo ra thêm các ngã liên quan đến việc hòa nhập với thể cảm xúc nhưng cũng với thể vật lý. Khi con đầu thai lần đầu ở tầng 48, bản thể của con, cái ta ý thức của con hòa nhập với thân thể vật lý. Con có những cấu trúc trong tâm bản sắc, tâm tư tưởng, tâm cảm xúc và ngay cả tâm kết nối với thân thể cho phép con sinh hoạt và hành động trên trái đất.

Những ngã này không phải là ngã nhị nguyên. Sau đó, con đi xuống dưới tầng 48, xuống tầng 47, con mang vào thêm một ảo tưởng nữa, tạo thêm một ngã nữa và con tiếp tục như vậy cho tới tầng thấp nhất. Điều thày muốn nói là ở mỗi tầng trong số 144 tầng, có một ngã đặc thù cho phép con ở tầng tâm thức đó. Tuy nhiên, có rất nhiều hơn 144 loại ngã mà con người đã tạo ra trên trái đất. Bởi vì khi con ở một tầng tâm thức nào đó, có một ảo tưởng đặc thù lôi kéo con xuống tầng đó, và một ngã đặc thù giữ con ở tầng đó. Con vẫn có thể tạo ngã khác theo chiều ngang ở tầng đó. Điểm này có tầm quan trọng khi con đi xuống dưới tầng tâm thức 48, đi vào nhị nguyên, thì có một số rất lớn các ngã nhị nguyên mà con người đã tạo ra trong suốt dòng lịch sử và một số các ngã này đã trở nên ngã tập thể ở trong các thể cảm xúc, tư tưởng và bản sắc của tập thể. 

Có rất nhiều hơn 144 ngã đã được tạo ra trên trái đất, và con không thể tránh mang vào một số các ngã đó, hay đúng hơn là con tạo ra phiên bản riêng của con của các ngã đó. Điều thày muốn nói là khi con tới tầng 48 và bắt đầu con đường tâm linh thì không có nghĩa là con đã khắc phục tất cả các ngã nhị nguyên. Con vẫn còn mang theo một số với con và thậm chí con còn có thể mang theo một số các ngã nhị nguyên vi tế hơn ở trên tầng 96. Lẽ tất nhiên, các ngã này không thể gọi là hung hãn muốn hại người khác nhưng chúng vẫn là ngã liên quan đến ảo tưởng nhị nguyên, một cái nhìn nhị nguyên về thế giới.

Thày Nada đã nói là các người Bà la Môn Ấn giáo đã làm gì? Nhiều người trong họ đã sử dụng tâm thức nhị nguyên để phóng chiếu vào cõi tâm linh. Thày Lanto đã giảng một cách rất hùng hồn sự hình thành của khái niệm Vô ngã. Có khái niệm Brahman, có khái niệm hư vô, nhưng cả hai là khái niệm nhị nguyên. Con có thể mang theo những loại ngã này trên tầng 96 vì con người rất khó giải quyết chúng. Quả thật con có thể thấy có các vị thày tâm linh trong thế gian đã lên trên tầng 96 nhưng họ vẫn còn mang theo một số các ngã nhị nguyên đó vì họ chưa giải quyết ảo tưởng. Họ chưa nhìn xuyên thấu ảo tưởng.

25.7. Thách thức thứ nhì của Ki-tô ở mỗi tầng của đường tâm linh

Điều thày muốn nói là có một điểm khi con tới gần tầng 96 và vượt lên trên, thì con không thể dùng tâm đường thẳng để lập kế hoạch làm sao đi từ tầng tâm thức 96 đến tầng 144. Thày biết là con có thể có quan niệm là con chỉ tiếp tục sự tăng triển mà con đã trải qua từ tầng 48 đến tầng 96. Vì ở tầng 96, thách thức tựu chung là gì? Là khắc phục ảo tưởng sẽ mang con lên tầng 97. Ở tầng này thách thức là khắc phục ảo tưởng sẽ mang con lên tầng 98, vân vân. Con thấy chăng, tiến trình này không thể thực hiện với tâm đường thẳng. Thậm chí con cũng có thể nói tiến trình từ tầng 48 lên tầng 96 cũng không thể thực hiện bằng tâm đường thẳng, vì tâm đường thẳng không giúp con nhìn xuyên thấu các ảo tưởng.

Thực sự là chỉ có tâm Ki-tô mới giúp con nhìn xuyên thấu ảo tưởng. Đặc biệt là ở trên tầng 96, con cần bước lui lại và thực sự nhìn nhận một cách có ý thức những giới hạn của tâm đường thẳng, và thực sự nhìn nhận là ngay cả khi con tới tầng 144 con vẫn đối diện ở mỗi tầng thách thức thứ nhì của Ki-tô. Con có sẽ dùng tâm thức Ki-tô để thăng vượt tầng hiện tại của con, hay con sẽ tìm cách kéo tâm Ki-tô để nó tuân theo ảo tưởng, thế giới quan mà con có ở tầng đó? Ở tầng 96 và trên nữa con cần luôn luôn nhận biết thách thức này vì con có thể trên lý thuyết ngừng ở tầng 143 và không đi lên cao hơn vì con nghĩ Ki-tô đã xác chứng thế giới quan của con ở tầng đó. Như các thày đã nói nhiều lần, không có chân lý tối hậu, thế giới quan tối hậu trên trái đất và con chỉ nâng mình lên, con chỉ thăng thiên, bằng cách vượt thăng thế giới quan mà con đang hiện có.

25.8. Nguy cơ bị kẹt lại ở bất cứ tầng nào

Một lần nữa, một số đệ tử từ những đợt truyền giáo trước sẽ kịch liệt phản đối điều thày vừa nói ở trên. Họ sẽ nói đây là một giáo lý hoàn toàn sai, nó đi ngược lại tất cả những gì đã được dạy trong các đợt truyền giáo trước, nhưng thực sự là nó không đi ngược lại những điều đã được nói trước kia, nó chỉ vượt lên trên những điều đó. Con yêu dấu, nếu tiết lộ tuần tự không đi quá những gì đã được trao truyền trước kia, thì làm sao nó lại là một tiến bộ? Con hãy để ý tưởng này bắt rễ trong tâm con vì nó là chìa khóa để tiếp cận các khai ngộ rất vi tế bên trên tầng 96.

Có một chuyện khó xử, một loại phân đôi, sẽ luôn luôn có mặt trên một hành tinh như trái đất vì độ dày đặc của vật chất và tâm thức tập thể. Có thể nói là khi con vươn lên các tầng cao của con đường tu, thì con đạt những tầng tâm thức cao hơn, chắc chắn là như vậy. Nhưng – và đây là một cái “nhưng” quan trọng – điều này không có nghĩa là các khai ngộ trở nên dễ dàng hơn. Khuynh hướng mà nhiều người có khi họ lên tới những tầng tâm thức cao (và ở đây thày không chỉ nói đến đệ tử chân sư thăng thiên mà các người tâm linh nói chung) là họ nhìn con đường mà họ đã đi qua, họ nhìn đoạn đường dài mà họ đã trải qua và nói: “Tôi đã có tiến bộ vĩ đại so sánh với điểm tôi khởi đầu 30, 40 năm hay không biết bao nhiêu năm trước đây.” Các người đó cũng có khuynh hướng nhìn người khác và nói: “Tôi rõ ràng ở tầng tâm thức cao hơn những người này, tôi biết về con đường tâm linh nhiều hơn họ rất nhiều, tôi đã khắc phục nhiều ảo tưởng và dính mắc.” 

Thày không hề nói là điều này sai. Có nhiều người đã đạt những tầng tâm thức cao so với người trung bình trên trái đất. Có nhiều người suốt chiều dài lịch sử đã đạt được một tầng nào đó và tự coi mình là đạo sư hay thày tâm linh. Có nhiều người hiện nay đã thực sự đạt được một tầng tâm thức cao, cao hơn tầng 96, cao hơn quần chúng. Họ đã tự coi họ là thày tâm linh và họ từ tầng tâm thức cao của họ nhìn xuống và thấy rõ: “Tôi ở một tầng cao hơn.” Điều họ có khi không nhận ra là khi con nhìn xuống những khai ngộ mà người khác đang trải qua thì con rất dễ thấy những ảo tưởng mà họ vẫn còn đang bám víu, do đó con nghĩ con đã đạt được khả năng nhìn xuyên thấu mọi ảo tưởng.   

25.9. Lúc nào cũng khó thấy ảo tưởng kế tiếp

Con còn có thể nghĩ con đã giác ngộ hay con đã thức tỉnh hay con không còn tự ngã hay đã đạt trạng thái vô ngã hay bất kỳ nhãn hiệu nào mà con người gán cho trạng thái đó. Điều mà nhiều người không nhận ra là con chưa tới tầng tâm thức cao nhất có thể có trên trái đất, vì nếu như vậy thì con đã thăng thiên. Khi con nhìn lên những khai ngộ mà con chưa vượt qua, những ảo tưởng mà con chưa thấy, thì mặc dù con đã có nhiều thành đạt con vẫn không dễ nhìn ra ảo tưởng kế tiếp.

Bất kể con đang ở tầng tâm thức nào, lúc nào cũng khó thấy ảo tưởng kế tiếp. Ảo tưởng mà con chưa thấy ở tầng 143 cũng khó như ảo tưởng ở tầng 48. Tại sao vậy? Vì đó là ảo tưởng đã mang con xuống tầng đó và nó khó thấy ở tầng 143 y như ở các tầng thấp hơn. Con đã tạo ra động lượng, con đã mở rộng nhận biết, con đã nhìn thấu suốt các ảo tưởng ở các tầng thấp, nhưng ở tầng tâm thức hiện tại của con, con vẫn không dễ nhìn ra ảo tưởng hiện thời của con. Điều này có nghĩa gì? Nó có nghĩa là ở bất kể tầng tâm thức nào, con đều cần tâm Ki-tô. Con không thể, với trạng thái tâm hiện tại của con, tự mình nhìn thấu suốt ảo tưởng. Con không thể suy luận để giải tỏa ảo tưởng. Cái Ta Biết, khi nó nhìn từ bên trong ngã ở tầng hiện tại của con, không thể phân tích, suy luận, dùng lô gíc hay giáo lý tâm linh để nhìn thấu suốt ảo tưởng. Con lúc nào cũng cần bước ra ngoài ngã, trải nghiệm tầm nhìn Ki-tô, và sau đó nhìn thấu suốt ảo tưởng.

25.10. Con không thể bảo đảm thành công cho tới khi con thăng thiên

Con không thể bước ra ngoài ngã nếu con nghĩ con đã đạt tầng tối hậu. Nếu con nghĩ cái ngã mà hiện nay con đang nhìn đời qua nó là một ngã giác ngộ, thì con không thể bước ra ngoài nó. Đó là lý do vì sao con có thể bị mắc kẹt ở bất cứ tầng nào, và nhiều người suốt dòng thời gian đã rơi vào cạm bẫy này. Có nhiều người đã coi mình là đạo sư, đã được tôn sùng như đạo sư, đã được tôn vinh “vị đạo sư này chắc chắn đã giác ngộ”. Vị đạo sư có thể đã đạt được một tầng tâm thức cao, tỷ dụ như tầng 140 (là một tầng rất cao so với người trung bình), do đó ta có thể hiểu tại sao con người nhìn vào vị đạo sư đó và nói: “Ồ, vị ấy chắc chắn là đã giác ngộ, chắc chắn là vị ấy hiểu biết nhiều hơn rất nhiều.” Quả thực là vị ấy hiểu biết hơn, và vị ấy có thể có khả năng giúp đỡ con người, nhưng vị ấy có quả thực đã giác ngộ khi vị ấy ngưng ở tầng 140 và không nhìn nhận là có điều mà vị ấy chưa nhìn ra, có ảo tưởng mà vị ấy chưa thấy?

Phải chăng có nguy cơ là vị đạo sư sẽ, dù vị ấy có thể không nhận ra một cách có ý thức, truyền cho các đệ tử quan niệm đây là tầng cao nhất mà họ cần đạt tới và sau đó thì con bảo đảm thành công? Con sẽ không bảo đảm thành công khi con ở tầng 140. Con không thể thăng thiên từ tầng 140, và quả thực cũng không từ tầng 143. Nếu một đạo sư ngưng ở một tầng nào đó, thì chuyện gì xảy ra? Vị ấy trở thành một đạo sư giả. Tất cả những gì vị ấy nói vẫn có thể có đôi phần chân lý, và vị ấy vẫn có thể chỉ ra một con đường tu dẫn con người lên cao hơn. Nhưng vị ấy là một đạo sư giả nếu vị ấy nói là không có gì cao hơn tầng đó. Hoặc vị ấy là một đạo sư giả nếu vị ấy dạy rằng mục đích của con đường tu là đạt trạng thái vô ngã thay vì trạng thái cái ta luôn luôn tự thăng vượt.

25.11. Tâm Ki-tô hình quả cầu, không đường thẳng

Đây là một số nhận xét mà thày muốn phát biểu để mang chúng ra công chúng như một phần của giáo lý mà các thày liên tục trao truyền. Liên quan đến chủ đề của hội nghị này, chủ đề hòa điệu, kết nối với các vị thày tâm linh, thì đâu là cách tốt nhất để kết nối với Tia thứ Bảy? Ta có thể nói là giáo lý mà thày vừa trao truyền có thể giúp con kết nối vì nó giúp con nhận ra là để kết nối thực sự thì con cần giải thoát mình khỏi hình ảnh về cách tiến triển trên con đường tu mà tâm đường thẳng đã tạo ra. 

Như thày có nói, có một giai đoạn trong đó con phải theo đường thẳng. Trên tầng 96 hay ở tầng 96, con cần nhận ra là con đường tu theo hình quả cầu hơn. Thay vì bước theo tiến trình đường thẳng thì trên tầng 96 con quả thực có thể nhảy vọt. Con có thể đang ở tầng 97 và bỗng nhiên con nhìn thấu suốt ảo tưởng ở tầng 108. Sau đó con nhảy vọt lên tầng 120, và nhảy ngược về tầng 98, và sau đó lên tầng 104. Nói cách khác, các ảo tưởng lúc đó không hoàn toàn theo đường thẳng. Con không cần nhìn thấu suốt các ảo tưởng ở tầng 97, sau đó tới tầng 98, và sau đó tới tầng 99. Con có nhiều khả năng nhảy vọt từ tầng này sang tầng khác. 

Lẽ tất nhiên đây lại là một điểm vi tế vì con có thể nghĩ rằng: “Ồ, tôi đã nhìn thấu suốt ảo tưởng ở tầng 120 và do đó tôi đã ở trên ảo tưởng ở tầng 97.” Nếu con bỏ qua ảo tưởng ở tầng 97 thì, ấy, con không sẵn sàng thăng thiên. Tuy nhiên, điều con cần làm với tâm ý thức là nhận ra một cách có ý thức là tâm đường thẳng đã dẫn con tới mức xa nhất mà nó có thể đưa con, và giờ đây con cần chú tâm hơn vào tâm trực giác, quả cầu và đó là tâm Ki-tô. Tâm Ki-tô không theo đường thẳng.

Thày biết đây là một điều cần hiểu một cách vi tế vì các thày có nói là có một khía cạnh của tâm thức Ki-tô ở mỗi tầng tâm thức để khi con ở tầng thấp nhất con vẫn có khả năng nhìn xuyên thấu ảo tưởng ở tầng đó. Tâm Ki-tô không theo đường thẳng. Tại sao vậy? Bởi vì tâm Ki-tô là tâm một, tâm không phân chia, và nếu tâm Ki-tô không phân chia thì làm sao con tạo được một tiến trình đường thẳng? Con chỉ có thể tạo ra một tiến trình đường thẳng khi có sự phân chia thành nhiều bước, nhiều tầng.

25.12. Giải thoát khỏi và tự do để

Con có thể nói là khi các thày trao truyền quan niệm 144 tầng tâm thức thì có nguy cơ tâm đường thẳng sẽ phóng chiếu đây là một tiến trình hoàn toàn đường thẳng. Đó là lý do vì sao các thày đã trao truyền nhiều giáo lý về tâm thức Ki-tô và việc cái Ta Biết bước ra ngoài ảo tưởng hiện tại. Khi con sẵn lòng làm việc này, khi con khóa chặt vào tiến trình này, thì con sẽ vượt lên trên tâm đường thẳng. Điều mà các thày cũng có thể nói là giữa tầng 48 và 96, con nỗ lực để giải thoát mình khỏi. Rốt cuộc đây là giải thoát khỏi tâm thức tập thể, nhưng cũng là giải thoát khỏi các ảo tưởng. Sự chuyển vọt mà con cần làm ở tầng 96 là thay vì tìm cách giải thoát khỏi, con đi tìm tự do để.

Tự do để gì? Tự do khỏi rất dễ hiểu. Con có một giới hạn mà con muốn vượt thoát. Con có thể nói: “À, tôi đang ở trong một nhà tù, nhưng bây giờ tôi có chìa khóa và tôi sẽ bước ra ngoài khung cửa, giờ đây tôi sẽ thoát khỏi nhà tù.” Con để ý là nhiều người ở trong tù lâu năm, khi được trả tự do thì họ đứng đó và nói: “Bây giờ tôi làm gì?” Họ không biết phải làm gì với cuộc đời của họ khi họ được tự do khỏi nhà tù, và đây là một khai ngộ khó mà con đối diện ở trên tầng 96. Con đã thoát khỏi tâm thức tập thể. Con đã giải thoát khỏi nhiều ảo tưởng trong tâm mình: “Tôi bây giờ làm gì đây? Tôi phải làm gì đây với tầng tâm thức hiện tại của tôi?”

25.13. “Cha ta vẫn làm việc cho tới nay và ta cũng đang làm việc”

Đây là điểm con cần bước lên cao hơn và nhận ra là sống Ki-tô không như những gì con nghĩ trước đây, dựa trên cách con nhìn sự việc với tâm đường thẳng. Bởi vì nhiều người đã dùng tâm đường thẳng để tạo hình ảnh là khi con đạt tâm thức Ki-tô, thì Hiện diện TA LÀ của con hay các chân sư thăng thiên sẽ cho con biết con phải làm gì. Trên căn bản, các người đó nghĩ là con từ bỏ quyền tự quyết, con trở thành một con rối, thậm chí một số người còn lấy giáo lý của Giê-su và nói: “Tự tôi không làm được việc gì, chính là đức Cha trong tôi đang làm việc.” Họ nghĩ: “Khi tôi đạt tới tầng này, tôi có thể thở phào nhẹ nhõm và nói công việc đã làm xong, giờ đây Hiện diện TA LÀ có thể lấy quyền điều khiển, tôi không cần suy nghĩ nữa, tôi không cần lấy quyết định nữa, tôi sẽ chỉ để Hiện diện làm mọi chuyện.” Sống Ki-tô không có nghĩa như vậy, vì Giê-su đã nói gì: “Cha ta vẫn làm việc cho tới nay và ta cũng đang làm việc”.

Với cương vị Ki-tô, con nhận ra một điều mà con không thể nhận ra với tâm đường thẳng. Với tâm đường thẳng con nghĩ: “Tôi là một sinh thể tách biệt, tôi có một số quyền năng, tôi có một số khả năng, tôi có thể làm một số chuyện.” Con quả thật có thể. Ngay cả trong tâm thức nhị nguyên con vẫn có thể làm một số chuyện. Mọi chuyện đều có một giá phải trả, mọi chuyện đều tạo nghiệp, nhưng con có thể làm một số chuyện. Thậm chí có những người cảm thấy là chỉ khi họ đi vào nhị nguyên thì họ mới có trọn vẹn quyền tự quyết vì lúc đó họ có thể làm bất cứ gì họ muốn mà không bị gò bó bởi nghiệp quả phi lý và hậu quả và phải quan tâm đến người khác và chìa má bên kia và những chuyện tương tự.

Có người nghĩ rằng khi con đạt tâm thức Ki-tô thì Thượng đế hay các chân sư thăng thiên hay Hiện diện TA LÀ của con sẽ nói con biết con phải làm gì. Các thày đã nói gì? Con được sinh tạo như một người đồng-sáng tạo và như một người đồng-sáng tạo con không nghĩ con là một sinh thể tách biệt có những khả năng tách biệt. Con nhận ra là tất cả những gì con làm con đều làm với năng lượng đến từ Hiện diện TA LÀ, do đó đấng cha, Hiện diện TA LÀ, đang làm bằng cách cho con năng lượng. Hiện diện TA LÀ cũng có thể cho con chỉ thị vì nó mong muốn trải nghiệm một số chuyện trên trái đất.

Trong khuôn khổ đó, con, cái Ta Biết vẫn là người lấy quyết định. Con muốn làm gì trên trái đất? Con muốn biểu hiện quả vị Ki-tô của con như thế nào? Con muốn có trải nghiệm gì trên trái đất? Đây có thể là một thách thức rối rắm cho nhiều người, nhất là khi họ rất chuyên cần theo một con đường đầy kỷ luật: “Vậy bây giờ tôi làm gì?”

25.14. Nhìn quá hình ảnh của con về con đường tu

Nhiều người trong các người đó đã từ chối suy ngẫm câu hỏi này và đi vào tâm thái: “Tôi sẽ chỉ cần tiếp tục đọc thỉnh Ánh sáng Tím ba tiếng mỗi ngày cho đến hết đời và sau đó tôi sẽ được bảo đảm thăng thiên.” Họ làm như vậy (như một số đệ tử các đợt truyền giáo trước đã làm) và khi họ rời xác thân vật lý họ vui mừng nghĩ: “Tôi sẵn sàng thăng thiên.” Lúc đó có chân sư thăng thiên xuất hiện với nhiệm vụ cho họ biết: “Con chưa sẵn sàng thăng thiên. Con phải trở lại và vượt qua các khai ngộ mà con chưa vượt qua.” Một số đệ tử cảm thấy tức giận và nghĩ: “Các chân sư thăng thiên đã lừa tôi.” Chuyện này đã xảy ra.

Điều con cần làm ở đây, nếu con muốn kết nối với Tia thứ Bảy của Tự do là đi vào tâm thái sẵn lòng thấy một điều gì mà con chưa từng thấy. Để thấy nó, con cần sẵn lòng nhìn quá thế giới quan, hình ảnh về đường tu mà con có cho tới nay, và xem xét: “Biểu hiện quả vị Ki-tô thực sự có nghĩa gì?” Con cần sẵn lòng lấy một quyết định, nhưng con không thể lấy một quyết định tự do khi con chưa giải thoát mình khỏi cách con nhìn đường tu ở các tầng thấp, do đó con cần thời gian.

25.15. Dụng cụ của Saint Germain

Như thày đã nói, con hãy đi vào một căn phòng yên tĩnh, ngồi xuống, và thư thả. Con có thể tự hỏi mình: “Nếu tôi có thể làm bất cứ điều gì tôi muốn, thì tôi sẽ muốn làm gì?” Nhiều người trong các con sẽ khám phá là cả cuộc đời mình con có một ý niệm mình phải làm gì. Với nhiều người trong các con, tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên có nghĩa là con đã chuyển nó thành một phiên bản mới của những gì con phải làm. “Tôi là một đệ tử chân sư thăng thiên. Tôi phải đọc bằng này bài chú bài thỉnh mỗi ngày. Tôi phải học hỏi giáo lý. Tôi phải làm điều này điều kia.”

Điều này không có nghĩa là con phải ngưng đọc chú đọc thỉnh, nhưng con cần tự hỏi chính mình: “Nếu không có gì phải làm, nếu không có ràng buộc nào về những chuyện tôi phải làm, thì tôi muốn làm gì?” Với nhiều người trong các con, điều này có nghĩa là con có thể trải qua một giai đoạn trong đó con cần làm một số chuyện có vẻ như không tâm linh, vì đây là những trải nghiệm mà con muốn có trên trái đất và con cần những trải nghiệm này cho tới khi con khắc phục ham muốn và nói: “Tôi bây giờ đã chán trải nghiệm này rồi.”

25.16. Trải nghiệm hoàn tất chu kỳ

Có những người đã theo con đường tu rất thẳng để đạt một tầng tâm thức cao. Họ có một hình ảnh thế nào là một người tâm linh và sau đó họ tới điểm có cái gì đổ vỡ. Họ không thể duy trì hình ảnh đó. Họ cảm thấy như họ đã mất nền móng và họ lao mình vào một số sinh hoạt mà họ đã nghĩ họ sẽ không bao giờ làm vì những sinh hoạt đó không có tính chất tâm linh. Với nhiều người, đây là một thay đổi chấn thương, một xoay chuyển chấn thương trong đó họ lên án họ vì đã làm như vậy, vì đó là sinh hoạt không tâm linh. Nhiều người đã vật vã với tình trạng này trong nhiều năm.

Thậm chí một số người đã rời bỏ hẳn con đường tâm linh vì họ không thể quân bằng hai sinh hoạt. Các thày đã thấy cựu đệ tử chân sư thăng thiên rất chuyên cần trong 30 năm hay hơn nữa và sau đó, tỷ dụ như khi một đợt truyền giáo chấm dứt và không còn tiết lộ tuần tự qua tổ chức đó nữa, thì họ rơi vào trạng thái trầm cảm, rối loạn, không biết phải làm gì, và rời bỏ con đường tâm linh. Con có thể xoay chuyển thái độ của con trước chuyện này và nhận ra là trong phạm vi quả vị Ki-tô con cần trải qua một số trải nghiệm trên trái đất để hoàn tất chúng, hoàn tất ham muốn có những trải nghiệm đó, để con được tự do tiến bước kế tiếp.  

Có một số chuyện mà Thánh kinh không ghi lại, vì Thánh kinh chỉ chú trọng vào giai đoạn ba năm cuối của đời Giê-su, nhưng khi Giê-su ở tuổi từ 12 đến 30 thì thày trải qua một giai đoạn có một số trải nghiệm mà thày cần có để chán ngán chúng. Một số những trải nghiệm này được mô tả trong quyển Các kiếp sống của tôi, nhưng quyển sách này không nói đến tất cả, vì như Thánh kinh có nói, nếu tất cả những gì Giê-su nói và làm đều được ghi lại, thì cả thế giới cũng không chứa được những quyển sách cần được viết ra.

Con nhận ra là ở trên tầng 96, con đường quả vị Ki-tô không theo đường thẳng, như con thường thấy ở dưới tầng 96. Nếu con có thể xoay chuyển tầm nhìn của con về con đường tu theo hướng đó, thì con nhận ra là có lẽ con cần một số trải nghiệm không được coi là tâm linh, tuy thế chúng vẫn thuộc con đường tu của con. Thày biết đây luôn luôn là một điều vi tế vì tự ngã sẽ có thể dùng nó để biện minh mọi chuyện, nhưng thày không muốn nói đến chuyện biện minh, và ở tầng này con có thể thấy sự khác biệt giữa một biện minh của tự ngã và đơn giản là nhu cầu có một trải nghiệm để hoàn tất trải nghiệm, hoàn tất chu kỳ.

25.17. Con chỉ thấy một ảo tưởng khi biểu lộ nó

Một lần nữa thày đã trao truyền nhiều hơn những gì đa số các con có thể tiếp nhận trong một bài giảng, nhưng các thày không truyền giáo lý cho riêng một người, do đó thày hy vọng là mỗi người trong các con đã tìm thấy trong bài giảng này một điểm gì có âm vang với con mà con có thể trụ vào và sử dụng để tăng triển khả năng kết nối với Tia thứ Bảy của Tự do. Các thày đã nói là không có tiêu chuẩn nào quy định cách một sinh thể Ki-tô hành xử trên trái đất. Khi con vươn lên các tầng tâm thức càng ngày càng cao, thì con càng ngày càng có thêm tự do quyết định cách con biểu lộ quả vị Ki-tô. Điều này không có nghĩa là con bắt đầu hành hạ hay khuynh loát người khác, lẽ dĩ nhiên đây không phải là quả vị Ki-tô, nhưng con tự do hơn trong cách con muốn biểu lộ chính mình.

Con không trở nên một con rối, con có tự do, con tự do là, và con tự do khỏi tâm đường thẳng lúc nào cũng muốn phân tích và nói: “Ồ, người này tự cho là đã đạt được tâm thức cao, nhưng ta hãy nhìn những gì y làm, những cái này không có tính chất tâm linh.” Toàn bộ tâm thức này phai nhạt đi, ngay cả khi người khác nói vậy về con, nó phai nhạt đi và con chỉ tự do tiếp tục biểu lộ chính mình, trải nghiệm là điều đó ảnh hưởng tâm thức con ra sao và con nâng tâm thức mình lên tầng kế tiếp.

Trên căn bản, khi con đạt những tầng tâm thức cao, con nhận ra là khi con biểu lộ chính mình, thí dụ ở tầng tâm thức 120, thì con biểu lộ chính mình xuyên qua các ảo tưởng còn sót lại, các phin lọc nhận thức còn sót lại. Chỉ khi con biểu lộ chúng thì con mới có cơ hội thấy phin lọc nhận thức, thấy ảo tưởng kế tiếp. Con nhận ra là con không thể thấy một ảo tưởng trên lý thuyết, con chỉ thấy ảo tưởng khi con biểu lộ nó và trải nghiệm sự biểu lộ đó ảnh hưởng con và trạng thái tâm thức của con như thế nào. Đây là cách con tăng trưởng ở các tầng cao. Có thể nói đây cũng là cách con tăng trưởng ở các tầng thấp, nhưng con chỉ không ý thức điều này.

Tới đây thì thày đã trao cho các con những gì thày muốn trao, nhưng điều thày thực sự muốn trao không phải là ngôn từ. Thày muốn trao cho các con Hiện diện của thày, Hiện diện Tự do của thày. Thày mong rằng vượt quá lời nói, con cảm nhận được Hiện diện đó, vì thày, Saint Germain, thương yêu tất cả các con, mỗi người trong các con và tất cả các con. Thày thương yêu các con.

Con có tình thương sâu xa nhất của thày, lòng tri ơn sâu xa nhất của thày vì các con đã sẵn lòng đầu thai trên hành tinh rất dày đặc này, sẵn lòng nâng tâm thức mình và qua đó góp phần vào phong trào kỳ diệu đang đem lại thời hoàng kim tới hành tinh quá ư tăm tối trên nhiều phương diện này. Có thể có người sẽ nói: “Ồ, vị Chân sư Saint Germain này lạc quan một cách vô vọng khi ông nghĩ ông có thể đem lại thời hoàng kim trên trái đất.” Con yêu dấu, các con đang chứng tỏ là thày không phải là người lạc quan, mà là người thiết thực. Vì vậy thày tri ân và thương yêu các con.

23 | Vượt quá hình tư tưởng để trực tiếp trải nghiệm Hiện diện

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada. Con có thể thấy điều trớ trêu là các thày nói về tâm đường thẳng, vậy mà các thày, các Thượng sư, lại nối tiếp nhau xuất hiện một cách đường thẳng.

Tuy nhiên, như các thày có nói, lẽ tất nhiên có một tiến trình đường thẳng đi từ đấng Sáng tạo xuyên qua các tầng của sự sáng tạo, các bầu cõi trước, cho tới bầu cõi này. Con không thể nói là mọi chuyện theo một tiến trình đều nhất thiết giống như những gì thày nói về tâm đường thẳng. Đó là vì tâm đường thẳng là một hiện tượng đặc thù có mặt nơi một bầu cõi chưa thăng thiên. Như các thày có nói, tâm đường thẳng không thực sự là một vấn đề khi ta thấy nó như nó là, tức là một dụng cụ để lo liệu các khía cạnh thực tiễn của đời sống.

23.1. Một tiến trình đường thẳng trong đời sống thực tiễn

Con biết rõ là trong cuộc đời của mình con có một thời biểu nào đó, một số bổn phận nào đó. Có thể là con phải đi học, có thể là con phải dẫn con đến trường, có thể là con phải đi làm, vì vậy con cần ở một số nơi vào một số lúc. Do đó, con cần một tiến trình đường thẳng, một thời biểu đường thẳng trong cuộc sống thường nhật để mọi chuyện vận hành suôn sẻ.

Đây là một chuyện rất thực tiễn. Tỷ dụ, con biết là nếu con muốn xây một căn nhà thì con cần thiết lập một tiến trình đường thẳng. Con mua mảnh đất, con nhờ người vẽ sơ đồ, con tổ chức các người thợ cần thiết để hoàn thành công việc, và mọi chuyện cần diễn ra theo một tiến trình đường thẳng, một thời khóa biểu đường thẳng. Trong xã hội cũng vậy, khi có việc cần làm, khi cần hoàn thành một công trình xây dựng lớn, hay chỉ để đời sống thường nhật vận hành trong xã hội, xe buýt phải chạy đúng giờ, xe lửa chạy phải đúng giờ và những việc tương tự, thì tâm đường thẳng là một dụng cụ rất hữu dụng.

23.2. Dùng tâm đường thẳng để lý luận về cõi tâm linh

Vấn đề khởi lên khi con người bắt đầu dùng tâm đường thẳng để giải quyết những đề tài ngoài đời sống thực tiễn trong bát cung vật lý. Đây là một vấn đề đã xảy ra suốt chiều dài lịch sử. Như các thày có giảng, vào thời đức Phật, các vị Bà la môn Ấn giáo dùng tâm đường thẳng để lý luận về các đề tài không dính dáng gì đến đời sống thường nhật thực tiễn, tỷ dụ liên quan đến sự vận hành của vũ trụ, kể cả cõi tâm linh như thế nào.

Đức Phật thấy các cố gắng này đã tạo ra đủ loại ngộ nhận, vì điều mà tâm đường thẳng làm là nó nhìn vào những điều kiện trong thế giới vật chất. Nó tìm cách thiết lập một tiến trình đường thẳng, một chuỗi nguyên nhân-kết quả đường thẳng mà nó phát hiện trong thế giới vật lý, sau đó nó muốn kéo dài chuỗi nhân-quả đó lên cõi tâm linh. Do đó, nó dùng những điều kiện trong thế giới vật chất và lý luận ngược trở lại về sự vận hành của thế giới tâm linh.

Con có nắm bắt vì sao phương pháp này nguy hiểm? Các điều kiện trong thế giới vật chất không phản ánh trung thực thế giới tâm linh. Các thày có giảng là có một loại tiến trình đường thẳng từ đấng Sáng tạo tới tầng cao nhất của thế giới tạo vật, là bầu cõi thứ nhất. Đấng Sáng tạo đề ra một khuôn đúc. Các sinh thể trong bầu cõi thứ nhất sinh hoạt trong khuôn khổ khuôn đúc đó. Họ tạo ra bầu cõi thứ hai, và sau đó cũng như vậy với bầu cõi thứ ba, vân vân. Tất cả những gì được tạo ra ban đầu trong bầu cõi của con là một biểu hiện của các tầng lớp bên trên.

Do đó, con có thể nói là có một tiến trình, nhưng trước nhất, tiến trình này đi từ tầng cao nhất tới những tầng càng ngày càng có hình tướng biểu hiện hơn. Đó không phải là một chuỗi nhân-quả đường thẳng. Đó không phải là kết quả của các định luật máy móc. Đó là kết quả của một quá trình sáng tạo không hoàn toàn đường thẳng. Điều thày muốn nói là con không thể nào, từ một hành tinh như địa cầu trong một bầu cõi chưa thăng thiên, hiểu được những gì xảy ra ở các bầu cõi cao hơn. Con không thể hiểu được khi con còn đầu thai trên trái đất. Do đó, tìm cách lý luận dựa trên những gì con thấy trên trái đất để suy diễn ra cõi tâm linh là một tìm cầu vô bổ.

23.3. Phóng chiếu những điều kiện không trong sạch của trái đất lên cõi tâm linh

Sau đó lại có một tầng khó khăn khác. Các thày có giảng là lúc ban đầu bảy vị Elohim tạo ra trái đất. Các vị này tất nhiên là các sinh thể thăng thiên. Lẽ tất nhiên họ là một với toàn thể đại đoàn chưởng giáo dẫn đến tận đấng Sáng tạo. Họ tạo ra trái đất trong khuôn khổ khung sườn của những bầu cõi trước. Tuy nhiên, những gì các Elohim tạo ra không phải là những điều kiện con thấy trên trái đất ngày nay. Con có thể nói là nếu con thấy được những điều kiện nguyên thủy do các Elohim tạo ra, thì con có thể thấy một số nguyên tắc, điều mà các khoa học gia gọi là luật thiên nhiên, tuy các luật này có tính chất tâm linh hơn là thiên nhiên. Con có thể nói: “Nếu ta hiểu những luật này, ta có thể suy luận lý do vì sao các sinh thể đó đã định là các luật đó như vậy. Do đó, chúng ta có thể suy luận để tìm ra ý tưởng của các sinh thể đó, tâm thức của họ. Ta có thể nhìn các điều kiện nguyên thủy của trái đất và dùng tâm đường thẳng để suy luận các đặc tính của tầng các Elohim.”  

Con có thể đạt kết quả với tâm đường thẳng, nhưng con không thể đi quá tầng các Elohim với tâm đường thẳng, vì tiến trình từ bầu cõi thứ sáu lên bầu cõi thứ năm không theo đường thẳng. Tâm đường thẳng không thể đi quá xa trở ngược lên cõi tâm linh. Thêm nữa, các thày cũng đã giảng là những điều kiện con thấy trên trái đất hiện nay không phải là những gì các Elohim tạo ra lúc ban đầu. Lý do là, như các thày đã giảng nhiều lần, nhân loại đã đi vào tâm thức tách biệt và đã bắt đầu sử dụng tâm thức nhị nguyên, và điều này đã đưa đến nhiều biến đổi sâu đậm trên trái đất. Độ dày đặc của vật chất, sự thiếu thốn tài nguyên thiên nhiên, và toàn thể tâm thức tập thể đã bị hạ xuống một tầng thấp hơn rất nhiều so với khi địa cầu được tạo ra lúc ban đầu.

Điều kiện hiện nay của trái đất không tự nhiên, không là một nối dài trong sáng của những gì các Elohim tạo ra. Các thày Bà la môn Ấn giáo đã làm gì? Họ nhìn các điều kiện hiện hành trên trái đất, họ cố tìm ra những mô thức, những gì xảy ra đều đặn, và sau đó họ dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu: các điều xảy ra đều đặn, các mô thức mà ta thấy trong cõi vật lý, có thể được phóng rộng lên trên tới cõi bên trên cõi vật lý. Chúng có thể cho ta biết về các thần linh, vì sao các thần linh lại là như họ là, và vì sao họ lại tạo thế giới như họ đã tạo ra.

Con có thấy chăng là phương pháp này sẽ không bao giờ cho con một hình ảnh chính xác về cõi tâm linh? Con lấy những điều kiện không thuần túy tâm linh và phóng chiếu chúng lên cái có tính chất tâm linh. Lẽ tất nhiên, không phải chỉ có các vị Bà la môn Ấn giáo đã làm việc này. Như các thày đã giảng, trong truyền thống Thiên chúa-Do thái giáo, vị Thượng đế giận dữ ở trên trời là một hình ảnh phóng chiếu bởi con người dựa trên tâm lý sa ngã và tâm thức nhị nguyên. Con thấy suốt dòng lịch sử, ở khắp nơi trên thế giới, con người đã lấy những điều kiện mà họ quan sát ngay lúc này trên hành tinh phi tự nhiên này và dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu chúng lên cõi tâm linh, cõi thiên đường, hay bất cứ tên gì mà họ gọi. 

23.4. Cố gắng phù phiếm thay đổi hậu quả ở tầng hậu quả

Trên căn bản, tại sao họ lại làm vậy? Đó là vì họ bị xáo trộn bởi những điều kiện hiện tại trên trái đất. Họ đang đau khổ, như Phật có giảng, vì khi con đi vào tâm thức nhị nguyên thì cuộc đời là đau khổ. Con bị xô đẩy từ bên này sang bên kia trong Biển Luân hồi. Con người muốn thoát khổ đau, và họ trực giác cảm nhận là phải có một lý do cho sự đau khổ của họ. Đây là một trực giác chân chính. Sự đau khổ của con có lý do.  

Sau đó họ quan sát là dường như trong bát cung vật lý một số chuyện, một số hậu quả có nguyên do. Đôi khi đó là một nguyên do sâu kín. Nếu con cầm một hòn đá trong tay và buông tay ra, thì hòn đá sẽ rơi xuống đất. Phải có một nguyên do sâu kín khiến hòn đá rơi xuống đất. Đây là một quan sát căn bản mà con người đã làm từ rất lâu. Họ cảm nhận bằng trực giác là phải có những nguyên do không thể thấy, phi vật lý của khổ đau của họ, của các điều kiện hiện hành trên trái đất. Sau đó họ tìm cách sử dụng tâm đường thẳng để suy luận ngược lại từ những điều kiện hiện hành trên trái đất để tìm ra nguyên do của các điều kiện này, nguyên do khổ đau của họ. Họ trực nhận là nếu họ khám phá ra nguyên do, và thay đổi nguyên do, thì họ cũng có thể thay đổi hậu quả.

Một lần nữa, đây là một trực giác chân chính. Nếu con có thể thay đổi nguyên do thì con có thể thay đổi hậu quả. Sự thật là thay đổi nguyên do là cách hữu hiệu duy nhất để thay đổi hậu quả. Lẽ tất nhiên, con người cũng đã tìm cách thay đổi nguyên do ở tầng hậu quả. Họ đã tìm cách thay đổi hậu quả ở tầng hậu quả. Con thấy đây là điều mà khoa học đã làm từ mấy thế kỷ bằng cách nhìn vào bát cung vật lý và tìm cách hiểu điều kiện vật lý dựa trên nguyên do vật lý.

Có hai phương pháp mà con người áp dụng khi dùng tâm đường thẳng. Hay ta cũng có thể nói đây là hai mặt của cùng một đồng tiền. Con nhìn vào điều kiện hiện hành, con coi chúng là hậu quả, và con tìm cách dùng tâm đường thẳng để suy luận trở ngược cho tới khi con tìm ra nguyên do của hậu quả, và sau đó con tìm cách thay đổi nguyên do. Điều mà khoa học cố làm là tìm ra nguyên do trong thế giới vật lý, vật chất, và dùng hiểu biết này để thay đổi các điều kiện vật lý. Điều mà các tôn giáo đã làm từ nhiều ngàn năm là đi xa hơn các nguyên do vật lý và tìm các nguyên do phi vật lý. Do đó, họ tìm một thần linh có trách nhiệm về địa hạt mà họ đang bị đau khổ, và sau đó tìm cách cầu xin thần linh này để thần linh thay đổi điều kiện đang gây đau khổ cho họ.

23.5. Suy luận trí năng là ngõ cụt

Ta có thể nói đây là hai mặt của cùng một đồng tiền, nhưng nhìn từ góc độ tâm linh thì vấn đề thực sự được tìm thấy nơi truyền thống tôn giáo. Họ không những muốn tìm một nguyên do của khổ đau hiện tại của mình, nhưng họ còn muốn tạo những hình ảnh tinh vi mô tả cõi tâm linh. Đây là điều khiến các vị Bà la môn Ấn giáo đi vào nhiều ngõ cụt khi họ dùng lý luận trí năng, đường thẳng, phân tích để phóng chiếu rằng: Thượng đế như thế này, các điều kiện như thế kia, đây là nguyên do tâm linh thật đằng sau hậu quả này, vân vân. Điều xảy ra vào thời đó là họ phân chia thành rất nhiều chi nhánh và giáo phái, họ có quá nhiều ý kiến khác nhau, mỗi người đều tất nhiên khẳng định họ có hiểu biết tối hậu. 

Điều con thấy là hiện tượng rất ư phức tạp với rất nhiều người khẳng định họ có chân lý tối hậu, nhưng không có ai trong đó có chân lý tối hậu vì họ đều lý luận bằng tâm đường thẳng dựa trên những quan sát điều kiện hiện tại. Con có thể tiếp nối hiện tượng này tới thời nay và nói rằng một số những người đã đầu thai là người Bà la môn Ấn giáo mấy ngàn năm trước nay lại đầu thai là khoa học gia duy vật, họ trên căn bản lý luận giống như xưa, chỉ khác là nay họ quyết định rằng: “Chúng tôi không đi ra ngoài thế giới vật lý, chúng tôi tìm những nguyên do càng ngày càng sâu thẳm trong thế giới vật chất của các hiện tượng vật chất.” Họ vẫn phân chia thành nhiều trường phái, nhiều nhóm, họ có rất nhiều lý thuyết về sự phức tạp này hay phức tạp khác, như các thuyết đa vũ trụ, lỗ đen, năng lượng tối, vật chất tối, hay các đề tài phức tạp khác.

Những chuyện này ngăn con người làm việc gì? Chúng ngăn con người đạt tâm bình an. Con thấy gì ngày hôm nay, con thấy gì thời đức Phật? Con có thấy chăng các xung đột giữa con người, và các xung đột này dựa trên gì? Chúng dựa trên lý luận trí năng trên các điểm vi tế. Một nhóm Bà la môn diễn giải kinh Vệ đà theo lối này, một nhóm Bà la môn khác diễn giải cùng kinh đó theo cách khác. Mỗi nhóm đều tin chắc họ đúng, mỗi nhóm cảm thấy nhất định phải thuyết phục nhóm khác hay con người là các nhóm khác sai, và như vậy luôn luôn có đấu đá không ngừng.

23.6. Một triết lý mới chú trọng vào nâng cao tâm thức

Phật khi xưa đã thấy chuyện đó. Phật thấy các người đó làm chuyện phù phiếm vì họ sử dụng tâm đường thẳng. Các con nhớ là khoảng cùng thời với Phật có một triết gia Hy Lạp tên Plato có đưa ra câu truyện ẩn dụ về hang động. Câu truyện kể là có một nhóm người bị xiềng trong một hang động và không nhìn thấy những gì xảy ra bên ngoài hang, nhưng bên ngoài có ánh sáng chiếu vào hang và có người đi lại giữa ánh sáng và hang động nên bóng họ chiếu lên thành hang. Nhóm người bên trong hang động chỉ thấy những bóng đó, họ quan sát các bóng và tìm cách lý luận ngược để tìm ra chuyện gì xảy ra bên ngoài hang, nhưng họ chỉ thấy các bóng. Đức Phật nhận ra đây là điều các Bà la môn Ấn giáo thấy, chỉ là các bóng, và làm sao bóng của một vật lại có thể cho con biết mọi chuyện về vật đó?

Tỷ dụ, làm sao bóng của một vật có thể cho con biết vật đó màu gì? Bóng là một phóng chiếu lên một mặt hai chiều kích, làm sao nó có thể cho con biết hình dáng ba chiều kích của vật? Con thấy đấy những giới hạn. Đức Phật thấy các giới hạn đó, và đó là lý do vì sao thày nói: “Chúng ta hãy sáng tạo một triết lý mới, một phong trào mới, không tìm cách lý luận ngược để tìm ra điều kiện trên cõi tâm linh như thế nào. Chúng ta hãy chú tâm vào công việc thiết thực là nâng cao tâm thức, giúp con người khắc phục khổ đau, và khi họ đã nâng tâm thức đủ thì họ có thể nắm bắt một số chân lý vượt lên trên thế giới vật lý.”

Vì sao thày lại trao các con bài giảng dài dòng này? Bởi vì thày là Thượng sư của Tia thứ Sáu là Tia của Bình an, và điều tước đi bình an chính là lý luận với tâm đường thẳng, dùng tâm đường thẳng (là một dụng cụ thực tiễn dùng trong đời sống thường nhật trong thế giới vật chất) và tìm cách mở rộng nó ra ngoài thế giới vật chất để suy diễn điều gì vượt lên trên thế giới vật chất. Khi con còn làm điều này thì con không thể có bình an, và con cũng không thể kết nối với Tia thứ Sáu của Bình an.

Nếu con muốn thực sự hiểu giáo lý của Phật thì con cần nhận ra một điều giản dị, nhưng đối với tâm đường thẳng thì điều này không giản dị. Giáo lý của Phật không – KHÔNG – nhằm đem lại một chân lý cao trội. Mục đích của giáo lý đức Phật là cho con người một số giáo lý và dụng cụ thực tiễn để giúp họ nâng cao tâm thức, vượt thăng khổ đau, Biển Luân hồi. Đây là một điều mà đại đa số những người hiện nay tự coi là Phật tử sẽ phản đối hung hãn, hay ít ra là phản đối kịch liệt. Họ sẽ nói vì Phật là bậc giác ngộ nên điều Phật dạy là chân lý cao trội, thậm chí là chân lý tuyệt đối – nhưng điều này đơn giản không phải là sự thực.

Phật không muốn đưa ra một chân lý tối hậu vì thày thấy đây là điều các vị Bà la môn muốn làm. Vì sao các vị Bà la môn lại muốn làm vậy? Như các thày đã giảng, tâm đường thẳng muốn làm gì? Nó muốn xếp mọi chuyện vào một đường thẳng, một tiến trình, rồi nói: phải có một điểm kết tối hậu của đường đó, phải có một tầng cao nhất. Nếu ta có thể đặt chân lý lên một đường thẳng, thì sẽ có nhiều tầng của chân lý, nhiều tầng hiểu biết, và ta có thể càng ngày càng hiểu hơn về thế giới, như khoa học đã làm từ lâu nay. Nếu ta tiếp tục sự tăng trưởng hiểu biết đó thì sẽ phải đến một chân lý tối hậu. Như thày Hilarion có nói, chân lý tối hậu sẽ chỉ đến khi con tới tầng đấng Sáng tạo, và có một khoảng cách rất xa giữa tầng của trái đất và tầng của đấng Sáng tạo.

23.7. Đường lối thực tiễn của các chân sư thăng thiên

Đức Phật nhận ra điều trên nên thày chỉ chú tâm vào những gì có khả năng nâng con lên, nâng con người lên tầng tâm thức kế tiếp. Con hãy nhìn những gì đã xảy ra trong khoảng thời gian từ thời Phật tới ngày nay. Khoa học đã chiếm ưu thế trong thế giới hiện đại, và khoa học cũng đặt căn bản trên tâm đường thẳng. Khoa học cho rằng ta phải bắt đầu bằng những quan sát nơi thế giới vĩ mô, sau đó khám phá các tầng vi tế, sâu thẳm hơn cho tới khi ta tới tầng tối hậu là hạt Thượng đế, hay bất cứ gì họ gọi nó.

Tại sao điều này lại quan trọng cho người tâm linh? Đó là vì con đã lớn lên trong xã hội hiện đại, con không thể tránh bị ảnh hưởng bởi tư duy đó. Con nay ở đây, con đã lớn lên với tư duy đó và sau đó con tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên. Lúc đó con nói: “À, rốt cuộc tôi đã tìm thấy một cái gì không đến từ thế gian này, không phải là kết quả của tâm đường thẳng lý luận ngược lại từ những điều kiện thế gian. Đây là một giáo lý đến từ cõi thăng thiên, đến từ các chân sư thăng thiên là những người bên trên thế gian này. Giáo lý này phải là chân lý tuyệt đối, vì chắc hẳn các chân sư thăng thiên thấy chân lý tuyệt đối, và đâu có lý nào các thày lại trao truyền cái gì khác?”  

Các thày đã nhiều lần giải thích từ nhiều góc độ khác nhau là các thày không thể trao cho con chân lý tuyệt đối mà các thày thấy vì con không thể nắm bắt nó trên một hành tinh phi tự nhiên. Các thày đang làm gì ngày hôm nay? Các thày đang làm y như Phật cách đây 2500 năm, tức là nhìn một cách thiết thực xem tâm thức con người đang ở đâu và nói: “Chúng ta có thể trao cho con người cái gì mà họ có thể nắm bắt với tầng tâm thức hiện tại của họ và giúp họ vươn lên tầng cao hơn?” Các thày không tìm cách trao cho các con chân lý tuyệt đối. Một lần nữa, nhiều đệ tử từ các đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước sẽ kịch liệt phản đối câu nói trên, nhưng vì sao họ phản đối? Đó là vì họ bị kẹt trong tâm đường thẳng: Phải có một chân lý tối hậu, và nếu ta không thể tìm thấy nó nơi các tôn giáo trên thế giới hay nơi khoa học duy vật, thì chắc hẳn ta phải tìm được nó nơi giáo lý của các chân sư thăng thiên. Thày không nói là giáo lý của các thày sai, là ảo tưởng hay sự lừa gạt, nhưng chúng thích nghi với tầng tâm thức, không những của các đệ tử chân sư thăng thiên, mà thậm chí của tâm thức tập thể. Không thể có cách nào khác trên một hành tinh như trái đất.

Chuyện đã xảy ra trong các đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước là các đệ tử đã sử dụng tâm đường thẳng để tiếp thu giáo lý, lý luận dựa trên giáo lý, tạo hình tư tưởng dựa trên giáo lý và phóng chiếu chúng lên các chân sư thăng thiên. Đây là điều tâm đường thẳng vẫn làm. Nó nhìn vào điều kiện trên trái đất, tạo ra hình tư tưởng dựa trên các điều kiện này, tỷ dụ như những nguyên do của điều kiện hiện hành trên trái đất. Sau đó, nó mở rộng hình ảnh đó ra và phóng chiếu hình ảnh đó lên cõi tâm linh.

23.8. Phóng chiếu hình tư tưởng lên các chân sư thăng thiên

Khi các đệ tử tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên, thì việc đầu tiên họ làm là sử dụng những hình tư tưởng mà họ thu thập khi họ lớn lên hay từ các giáo lý tâm linh khác mà họ đã học. Sau đó, họ lấy giáo lý chân sư thăng thiên và dùng nó để chỉnh tu những hình tư tưởng đó và sau đó phóng chiếu chúng lên các chân sư thăng thiên.

Tại sao điều này lại dính dáng đến chủ đề của khóa nhập thất này, là kết nối với các vị thày tâm linh? Ấy, con yêu dấu, thày là một chân sư thăng thiên. Làm sao con kết nối với thày? Con có nghĩ là con có thể kết nối với thày bằng cách phóng chiếu một hình tư tưởng lên thày, một hình tư tưởng đã được tạo ra trong thế giới vật chất, trong tâm con? Bất kể hình này có hoàn chỉnh đến đâu, bất kể con nghĩ nó xác đáng đến đâu dựa trên giáo lý chân sư thăng thiên, thì nó vẫn là một hình tư tưởng. Thày nhìn nhận là trong các đợt truyền giáo trước, các đệ tử không dễ nắm bắt điều này vì một số giáo lý chưa được trao truyền. Họ không có được các giáo lý mà các thày đã trao truyền trong đợt truyền giáo này về các ngã tách biệt, các ngã này tạo ra phin lọc nhận thức như thế nào, tại sao cái Ta Biết không phải là các phin lọc nhận thức, đã không trở thành các ngã tách biệt và do đó cái Ta Biết có thể bước ra ngoài các ngã. Làm sao cái Ta Biết bước ra ngoài phin lọc nhận thức của một ngã? Chỉ bằng cách duy nhất là nhìn nhận là điều ngã thấy chỉ là một phin lọc nhận thức. Có nghĩa là con phải nhìn nhận là bất cứ hình ảnh nào về chân sư thăng thiên mà con đã tạo trong tâm chỉ là thế đó: một hình tư tưởng.

Lẽ tất nhiên con có thể nói là trong khuôn khổ Luật Tự quyết, không có gì sai trái khi con người tạo hình tư tưởng của các chân sư thăng thiên vì điều này cho họ một trải nghiệm. Con có thể nhìn các đệ tử của các đợt truyền giáo trước và con có thể thấy là nhiều người có những hình tư tưởng rất cầu kỳ về các chân sư thăng thiên và họ phải tương tác thế nào với các chân sư thăng thiên. Thậm chí nhiều người trong số các đệ tử đó còn cảm thấy là họ đã kết nối với các chân sư thăng thiên, họ đã có trải nghiệm các chân sư thăng thiên. Giờ đây thì thày không nói là các đệ tử từ các đợt truyền giáo trước đó đã có trải nghiệm thực sự với các chân sư thăng thiên. Có những đệ tử nghĩ họ có một trải nghiệm thực sự nhưng họ đã kết nối với những sinh thể trong cõi tư tưởng vì họ quá dính mắc vào các hình tư tưởng của họ. 

Những đệ tử có trải nghiệm thực sự là những đệ tử không quá dính mắc với hình tư tưởng của họ. Bởi vì con làm gì khi con phóng chiếu một hình tư tưởng? Con chính yếu nói: “Nada, con không muốn kết nối với thày như thày là. Con chỉ muốn kết nối với thày theo hình tư tưởng của con. Do đó, Nada, nếu thày muốn kết nối với con vì thày phải tuân theo hình tư tưởng của con.” Như các thày khác đã nói, nếu thày làm vậy thì kết quả là gì? Kết quả là thày xác chứng hình tư tưởng của con, và con sẽ nghĩ: “Hình tư tưởng của tôi không phải là một hình tư tưởng, đó chính là Nada như thày thực là.” Làm sao kết quả này có thể giúp con tăng trưởng tâm linh? Làm sao thày có thể giúp con tăng triển bằng cách xác chứng hình tư tưởng đang ngăn cản con tăng triển?

Câu hỏi luôn luôn là: nếu con muốn kết nối với một chân sư thăng thiên, thì con muốn kết nối với vị chân sư hay với một hình tư tưởng của vị chân sư? Con có sẵn sàng buông bỏ hình tư tưởng để trải nghiệm Hiện diện của vị chân sư thăng thiên? Đó chính là câu hỏi. Các thày không muốn trốn tránh con, nhưng nhiều đệ tử đang tìm cách trốn tránh các thày. Nếu con muốn trốn tránh các thày bằng cách phóng chiếu một hình tư tưởng lên các thày, thì các thày phải để con làm chuyện này. Các thày phải cho phép con có trải nghiệm đó, thậm chí các thày còn phải cho phép con kết nối với các sinh thể giả danh các thày trên cõi tư tưởng, các sinh thể này sẽ hoan hỷ tuân theo hình ảnh của con. Họ sẽ tuân theo bất cứ hình ảnh nào mà con phóng chiếu lên họ nếu con cho họ năng lượng của con. Thày không cần năng lượng của con, thày không chịu tuân theo các hình tư tưởng của con vì thày không cần gì từ con, và thày không muốn con nghĩ là hình tư tưởng của con đã được thày xác chứng.  

Nếu nói một cách rất thẳng thắn, thì trên căn bản nếu con không trải nghiệm, nếu con chưa bao giờ trải nghiệm Hiện diện của một chân sư thăng thiên, thì đó là vì con có một hình tư tưởng đang xua đẩy vị chân sư thật ra khỏi con. Một lần nữa, các thày không chê trách con vì con có quyền tự quyết, các thày hiểu là con sống trên một hành tinh rất khó khăn, các thày hiểu là con có nhiều tiền kiếp đã tạo ra biết bao ngã trong bốn tầng của tâm con. Các thày không chê trách con. Các thày chỉ nói là nếu con thực sự muốn kết nối với các thày, thì con phải sẵn sàng nhìn quá các hình tư tưởng vì chúng đang ngăn cản con kết nối.

23.9. Hình tư tưởng về El Morya như một người áp dụng kỷ luật nghiêm khắc

Chuyện gì xảy ra khi con tạo một hình tư tưởng về một chân sư thăng thiên, hình tư tưởng này có tác dụng gì? Nó cho phép con có một quan điểm nào đó, một trải nghiệm nào đó, và trải nghiệm này không thể bị thách thức bởi vị chân sư thực, do đó con có thể trốn tránh vị chân sư. Để cho con một thí dụ, trong một đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước, các đệ tử đã tạo ra một hình ảnh rất đặc biệt về El Morya, bây giờ là Chân sư MORE. Đó là một lý do khiến thày quyết định đổi tên, vì các đệ tử đó vẫn còn hình ảnh này về thày, hình ảnh một vị thày nóng nảy chiếu ánh sáng xanh, một vị thày áp dụng kỷ luật rất nghiêm khắc sẵn sàng thách thức đệ tử và phơi bày tự ngã của họ không chút thương hại. Họ đã tạo khái niệm là những đệ tử chân chính của El Morya có những đặc tính đó và có quyền đi khắp nơi và chiếu áng sáng xanh vào người khác bằng cách thách thức họ, nói cho họ biết những điểm sai trái của họ. Có nhiều người trong tổ chức đó hãnh diện là đã chiếu ánh sáng xanh vào những người họ cho là kém họ.

Những đệ tử đó đã làm gì? Con có thể nói là tự ngã của họ muốn có trải nghiệm cao trội hơn người khác, có quyền kỷ luật người khác và nói họ phải làm gì. Họ dùng hình tư tưởng mà họ đã tạo ra về El Morya như một cái cớ để biện minh cho cách cư xử của họ, cách cư xử dựa trên tự ngã, dù họ sẽ kịch liệt phản đối là cư xử của họ không dựa trên tự ngã – nhưng nó quả thật như vậy.

Một lần nữa, những đệ tử đó có quyền tự quyết và họ có quyền lấy một giáo lý chân sư thăng thiên, tạo hình tư tưởng về El Morya, và xác chứng trải nghiệm mà họ muốn có cho tới một ngày hy vọng họ chán chê trải nghiệm đó. Một số đệ tử đã chán chê và không còn cư xử như vậy nữa, nhưng một số chưa chán. Điều thày muốn nói là tuy một số các đệ tử đó tưởng họ có trải nghiệm thực sự về El Morya, nhưng không phải vậy. Tại sao El Morya lại xác chứng hình ảnh đó về thày khi thày thấy rõ là làm vậy sẽ chỉ giam cầm các đệ tử đó và ngăn họ thực sự kết nối với thày?

Thày chỉ giản dị muốn nói là trong đợt truyền giáo này con đã nhận được giáo lý thâm sâu hơn về các ngã, các ngã tiềm thức và tách biệt, hình tư tưởng, phin lọc nhận thức. Do đó, con có thể theo tiến trình giải thoát mình khỏi các hình tư tưởng, ngưng phóng chiếu, và qua đó con có thể tới điểm con thực sự kết nối với các thày là chân sư thăng thiên. Kết nối với các thày không qua giáo lý, không qua trí năng, không qua hiểu biết và nắm bắt, mà chỉ kết nối với các thày như trải nghiệm quý báu nhất mà con có thể có trên con đường tâm linh vì nó cho con một khung tham chiếu trực tiếp từ bên trên thế giới vật chất. Điều này có nghĩa là thực sự không có gì trong thế giới vật chất có thể đánh lừa con nữa, hay kéo con vào phản ứng. Nếu đây là điều con muốn, thì con có các dụng cụ để hoàn thành.

23.10. Một dụng cụ thực tiễn từ Nada

Thày trao cho con một dụng cụ thực tiễn sẽ giúp con trên Tia thứ Sáu. Thày bắt đầu bài giảng này bằng cách nói về tâm đường thẳng muốn phóng chiếu hình ảnh một chân lý tuyệt đối và vì sao như vậy lại lấy đi an bình nội tâm của con. Điều con có thể làm là dùng giáo lý của các thày để nhận ra mục đích thực của con đường tâm linh không phải là biết chân lý tuyệt đối mà là nâng tâm thức từ tầng hiện tại lên tầng kế tiếp. Như các thày có giảng, con sẽ tới một điểm bắt đầu đi vào những tầng của quả vị Ki-tô cá nhân. Ta có thể nói quả vị Ki-tô cá nhân chính là chìa khóa của an bình, đó là lý do vì sao Giê-su đã được gọi là Hoàng tử An bình vì Giê-su đại diện Tâm thức Ki-tô cho nhân loại. Quả vị Ki-tô, tâm Ki-tô liên hệ ra sao với an bình?

Chính qua tâm Ki-tô mà con kết nối và trải nghiệm có thực tại vượt quá thế giới vật chất. Chỉ khi nào con trực tiếp trải nghiệm điều này thì con mới làm được điều mà đức Phật dạy con người: khắc phục những dính mắc vào thế gian. Khi con trải nghiệm Tâm thức Ki-tô thì con khắc phục dính mắc. Dính mắc của con trụ ở đâu? Chúng trụ nơi các ngã tách biệt, đúng vậy, nhưng cũng trụ nơi tâm đường thẳng và các hình tư tưởng do tâm đường thẳng phóng chiếu. Con muốn thế giới phải như thế nào đó. Con muốn cuộc đời mình phải như thế nào đó.

Nếu con xem xét hiểu biết cơ bản về đau khổ, thì cái gì tạo đau khổ? Đó là do con thiết lập trong tâm, trong tâm đường thẳng, hình ảnh cuộc sống trên trái đất phải như thế nào đó. Con phóng chiếu hình ảnh đó ra ngoài, nhưng sau đó con trải nghiệm là cuộc sống không phù hợp với hình ảnh của con. Trải nghiệm là cuộc sống không phù hợp với hình ảnh của mình chính là căn bản của khổ đau, nguyên do của khổ đau. Khi con bắt đầu trải nghiệm tâm Ki-tô thì con nhận ra có cái gì vượt quá hình tư tưởng của mình, con trải nghiệm có cái gì vượt lên trên. Nhưng sau đó con giáp mặt thách thức thứ nhì của Ki-tô. Con có sẽ dùng trải nghiệm Ki-tô để buông bỏ hình tư tưởng của mình, buông bỏ các ngã tách biệt, khắc phục dính mắc? Hay con sẽ làm giống như Peter khi xưa và tìm cách kéo trải nghiệm Ki-tô vào hình tư tưởng của mình để con có thể tưởng rằng Ki-tô đã chứng thực những hình tư tưởng này? Đây là điều nhiều đệ tử đã làm trong những đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước, như thí dụ về El Morya mà thày có đề cập. Lẽ dĩ nhiên, con cũng có thể làm như vậy ngay cả trong đợt truyền giáo này – nếu con không áp dụng giáo lý. Nhưng con cũng có dụng cụ giúp con tránh làm như vậy.

Làm sao con đạt được an bình nội tâm hơn? Bằng cách lúc nào cũng với lên tâm Ki-tô, dùng tâm Ki-tô như khung tham chiếu để nhìn vào cuộc đời mình, nhìn vào những điều kiện mà con gặp phải trong đời. Các thày hiểu là một số các con gặp những điều kiện rất khó khăn. Các thày không muốn các con nghĩ là các thày không hiểu điều này. Tuy nhiên, lời hứa muôn thuở của tâm Ki-tô là con có thể dùng nó để có một tầm nhìn khác về các điều kiện vật lý và khắc phục dính mắc, khắc phục hình tư tưởng. Khi con nhìn điều kiện mà không phóng chiếu là chúng không được như vậy, thì con có thể giáp mặt điều kiện mà không khổ đau.

Thày biết đây là một khái niệm mà những người đang sống với các điều kiện khó khăn khó nắm bắt. Các người đang không sống với điều kiện khó khăn thì dễ nắm bắt hơn. Thày hiểu điều này, nhưng đây vẫn là chân lý muôn thuở. Điều kiện, điều kiện vật lý, không tạo khổ đau, khổ đau do cách con nhìn điều kiện vật lý. Trong nhiều trường hợp, điều kiện vật lý không thể thay đổi cho tới khi con thay đổi cách con nhìn chúng. Đây là lời hứa của Ki-tô, là Ki-tô có thể cho con tầm nhìn khác, và điều này sẽ cho con an bình nội tâm.

23.11. Hãy để Dòng sông sự Sống đưa con đi tới

Nếu con muốn có một hình ảnh thì con hãy hình dung mình đang ngồi trên một chiếc thuyền nhỏ, như một chiếc xuồng, và con đang chèo theo dòng nước. Khi con đang ngồi trong chiếc thuyền nhỏ và ra sức chèo, thì có thể con chú tâm vào việc mình đang làm. Con muốn đi tới một điểm đến. Có thể có những tảng đá trong dòng sông, dòng sông có thể uốn khúc, con cần điều khiển, lèo lái con thuyền, có chỗ con cần chèo nhanh hơn để vượt qua khúc quanh hay tránh thác ghềnh. Con luôn luôn tập trung vào động tác chèo thuyền để thuyền đi về phía trước. Nếu con đang trên một dòng sông an toàn, không có tảng đá hay thác ghềnh, thì con có thể hành xử khác. Con có thể buông chèo, ngồi thoải mái trong xuồng, và chỉ để xuồng trôi theo dòng nước, chỉ để dòng nước đưa xuồng đi. Hành trình có thể lâu hơn, hay không lâu hơn, nhưng con sẽ tới điểm đến.    

Con có thể tới điểm trong tâm con, con như đang ngồi trong chiếc xuồng, thư giãn, nhìn hai bên bờ lướt nhẹ vì dòng nước đang đẩy xuồng đi về hạ nguồn. Đây là trạng thái không dính mắc. Con đang ngồi trong xuồng, con đang di chuyển về hạ nguồn, và dòng nước, Dòng sông sự Sống, đang kéo con đi. Tại sao con cần chèo và vật lộn mãi? Tại sao con cần dính mắc vào những gì xảy ra trên bờ sông? Có thể có một con gấu đang đứng trên bờ gầm gừ với con, có thể có người đang la hét con. Con biết là nếu con ngồi đó không dính mắc, thì dòng nước sẽ mang con đến hạ lưu bất kể những gì xảy ra hai bên bờ sông. Con hãy chỉ hòa điệu với Dòng sông sự Sống, và để dòng nước kéo con đi tới. Tại sao con lại phải vật lộn với tâm vỏ ngoài, tâm đường thẳng, tâm trí năng? Tại sao con cần phóng chiếu hình tư tưởng lên mọi chuyện? Tại sao con cần diễn giải mọi chuyện? Tại sao mọi chuyện cần phải có một ý nghĩa tối hậu, một ý nghĩa hoàn vũ, một ý nghĩa tâm linh nào đó? Nhiều chuyện đang xảy ra trên trái đất không có ý nghĩa tâm linh.

Con hãy xem xét vì sao con người tin chiêm tinh. Có chuyện gì đó xảy ra cho họ, họ đi gặp một chiêm tinh gia, họ muốn biết cấu hình chiêm tinh nào trên bầu trời đã gây ra điều kiện mà họ đang gặp phải. Các điều kiện trên trời không biểu hiện tất cả mọi chuyện trên trái đất. Điều tạo ra mọi chuyện trên trái đất là sự điên rồ của con người và sự tương tác giữa con người, là điều mà Phật đã gọi là các nhân duyên liên khởi. Không có một nguyên do hoàn vũ cho rất nhiều hoàn cảnh mà con đối mặt trong đời. Con hãy giản dị vô hiệu hóa tâm phân tích lúc nào cũng muốn khám phá nguyên do, và con hãy chỉ để Dòng sông sự Sống đưa con vượt quá điều kiện, dẫn con vượt quá điều kiện, và con không dính mắc. 

Khi con dính mắc thì con làm gì? Con nắm một cành cây trên bờ sông và con vật vã cố sức ghìm xuồng ở một vị trí. Dòng nước đang kéo xuồng về phía hạ lưu. Con cần càng lúc càng thêm nỗ lực kềm giữ cho tới khi con không chịu nổi hay cành cây bị gãy. Con hãy chỉ buông tay … buông tay … buông tay. Thày biết nói dễ hơn làm, nhưng cái gì đang kềm giữ vậy? Đó là con hay là một ngã tách biệt? Con hãy nhìn vào ngã, con có dụng cụ – con hãy buông bỏ đi. Con sẽ không bao giờ đạt được an bình trên trái đất bằng tâm đường thẳng, bằng những hình tư tưởng mà tâm đó phóng chiếu phải xảy ra hay không được xảy ra.

Vì sao con nghĩ Giê-su lại để cho mình bị đóng đinh trên thập tự? Giê-su là một người đã đạt được một tầng tâm thức Ki-tô rất cao. Tại sao Giê-su lại cho phép mình bị đóng đinh? Con có nghĩ Giê-su muốn bị đóng đinh chăng? Không đâu, nhưng Giê-su thấy là các nhân duyên liên khởi của hoàn cảnh đó đang tuôn chảy và Giê-su cho phép chúng xảy ra. Giê-su buông bỏ ý niệm chuyện gì phải xảy ra hay không được xảy ra. Khai ngộ cuối cùng của Giê-su là gì? Giê-su bị treo trên thập tự và nghĩ rằng Thượng đế sẽ gửi thiên thần tới cứu, nhưng sau đó thày nhận ra là chuyện đó sẽ không xảy ra và thày buông bỏ ý muốn đó, buông bỏ hồn ma cuối cùng đó, hình tư tưởng cuối cùng về điều phải xảy ra và không được xảy ra trên trái đất.   

Nhiều người trong các con là avatar. Các thày đã trao truyền nhiều giáo lý về chấn thương nhập đời hoàn vũ và ngã gốc. Nhiều người trong các con tới địa cầu với một hình tư tưởng về lý do con xuống đây, con tới đây để làm gì, con tới đây để hoàn thành việc gì, thay đổi tích cực mà con nghĩ con có thể đem tới hành tinh này. Con tới đây, con chạm mặt với chấn thương nhập đời, nhưng con phản ứng ra sao? Con đã phản ứng bằng cách tạo hình tư tưởng dựa trên tâm đường thẳng. Con lấy hoàn cảnh đã xảy ra cho con, chấn thương nhập đời đó, bất kể nó là gì, và con phân tích, con tìm nguyên do. Tại sao chuyện này lại xảy ra, tại sao những người đó đã làm vậy với tôi, tôi đã làm gì để xứng đáng bị hoàn cảnh đó? Con tạo ra hình tư tưởng và con tạo ra hình tư tưởng về những gì phải và không được xảy ra trên trái đất, và về những gì phải và không được xảy ra cho con trong phần thời gian còn lại của con trên trái đất.   

23.12. “Tôi không bao giờ có thể an bình trên trái đất”

Đằng sau tất cả các hình tư tưởng đó thì con làm gì? Hầu hết các avatar đã làm gì sau khi đến trái đất? Họ đã lấy một quyết định. Con đã lấy quyết định và quyết định này đã tạo ra một ngã tách biệt, và quyết định này là: “Tôi không bao giờ có thể an bình trên trái đất”. Con hãy nghĩ về câu này: “Tôi không bao giờ có thể an bình trên trái đất”. Khi con còn ngã đó, thì con không bao giờ có thể an bình trên trái đất, phải không con? Bởi vì con không thực sự muốn được an bình. Con đã quyết định là hành tinh này rất xấu xa và không ai có thể an bình ở đây. Con nhìn vào đức Phật và những câu chuyện kể là đức Phật an bình, thày đã đạt được an bình và con không thực sự muốn công nhận điều này, bởi vì nếu con công nhận là đức Phật có thể đạt được trạng thái an bình, thì tại sao con lại không đạt được trạng thái an bình? Con thấy chăng, con không thể đạt được trạng thái an bình nếu con không làm điều mà Phật đã làm: nhìn vào ngã mà thày đã tạo ra khi bị chấn thương nhập đời khiến thày quyết định “Tôi không thể an bình trên trái đất”. Tất cả các avatar đều đã làm như vậy.

Con yêu dấu, nếu con thực sự muốn an bình, nếu con thực sự muốn kết nối với Tia thứ Sáu của An Bình, thì con hãy nhìn vào ngã đó. Có quả thực là con không thể an bình trên một hành tinh như trái đất chăng? Thày đồng ý với con là khó có thể an bình trên một hành tinh như trái đất vì những điều kiện ở đây quá khác những gì con đã quen thuộc trên một hành tinh tự nhiên. Có thực sự khó an bình hơn trên trái đất chăng? Hay chỉ vì tâm cảm thấy khó hơn?

23.13. Không dính mắc vào mọi điều kiện bên ngoài

Vì sao con an bình trên hành tinh tự nhiên? Bởi vì trên hành tinh tự nhiên con không có những hình tư tưởng về những gì phải hay không được xảy ra cho con – con tuôn chảy theo Dòng sông sự Sống. Đúng thật là trên một hành tinh tự nhiên con không tìm thấy những điều kiện như trên trái đất, tỷ dụ như sa nhân sẵn sàng giết hay tra tấn con. Tuy nhiên, tại sao con an bình trên hành tinh tự nhiên? Bởi vì con không dính mắc. Điều mà đức Phật đã chứng minh là con cũng có thể không dính mắc trên trái đất, vì sự không dính mắc đến từ một trạng thái tâm, không phải từ điều kiện bên ngoài. Không dính mắc có nghĩa là không dính mắc vào điều kiện bên ngoài, bất kể các điều kiện này là gì.  Con có thể an bình trên trái đất nếu con không dính mắc các điều kiện bên ngoài trên trái đất. Các thày đã trao cho các con dụng cụ để đạt được trạng thái này bằng cách xem xét các ngã đang dính mắc, luôn luôn phóng chiếu: điều này phải xảy ra, điều kia không được xảy ra.

Con có thể giữ chặt trong tâm hình ảnh này chăng? Con đang ngồi trong chiếc xuồng, hay phải chăng đó chính là con thuyền Bát nhã? Con nhìn hai bên bờ sông, nhưng nếu con chỉ thư giãn thì con biết là dòng sông sẽ dẫn con đi qua bất cứ gì xảy ra hai bên bờ. Vậy tại sao dính mắc, tại sao kềm giữ? Con hãy chỉ nhìn mọi chuyện mà không có hình tư tưởng chuyện gì phải xảy ra hay không được xảy ra. Con hãy chỉ nhìn một cách trung hòa. Con hãy nhìn sự việc như chuyện gì đang xảy ra, đang trải bày trên trái đất, vì một số người cần một trải nghiệm nào đó. Con không cần trải nghiệm mà các người kia đang cần. Do đó, con không cần dính mắc vào những gì họ đang làm. Con hãy để họ làm chuyện của họ, nhưng không dính mắc vào chuyện đó. Con đừng tham dự vào bi kịch của họ và trở nên một phần của bi kịch, dù họ đang tìm cách kéo con nhập cuộc bằng cách ảnh hưởng con.

Con hãy chỉ giản dị buông bỏ. Con hãy buông bỏ ý tưởng họ phải làm gì hay không được làm gì. Con hãy chỉ chú tâm vào việc không kháng cự dòng chảy đang mang con về hạ nguồn Dòng sông sự Sống. Con có thể nhìn bất cứ điểm nào hai bên bờ và cảm thấy chiếc thuyền đang di chuyển và con nói: “Chuyện này rồi cũng sẽ qua đi.” Thày biết là làm vậy có khi không giúp con khuây khỏa, vì có vẻ như con sẽ phải trải nghiệm một điều kiện cho tới cuối đời, nhưng không phải là chỉ khi con qua đời thì điều kiện kia mới sẽ qua đi. Nó có thể qua đi bất cứ lúc nào, nếu con có thể buông bỏ dính mắc trong tâm đang khiến con đau khổ vì điều kiện đó. Một lần nữa, một số người cảm thấy những lời này nghe khó khăn quá, nhưng đó vẫn là sự thực. Đau khổ là một điều kiện của tâm. Liều thuốc tối hậu chữa đau khổ là an bình nội tâm. Đau khổ do dính mắc tạo ra. An bình chỉ có thể đạt được bằng không dính mắc. 

23.14. Dụng cụ đặc biệt mà Nada trao truyền

Một dụng cụ cuối mà thày muốn trao cho con như sau. Con đã có khái niệm: “Từng mỗi tế bào là một âm thoa, với chuông của Mẹ nó đang giao hòa.” Thày, Nada, có một âm điệu đặc biệt, một âm điệu an bình, một âm thanh an bình, một rung động an bình. Nó không là âm thanh vật lý. Mỗi người trong các con sẽ tiếp thu nó một cách hơi khác. Thày trao cho con đặc miễn là nếu con hòa điệu với âm điệu đó, âm thanh đó, âm thanh an bình đó, thì thày sẽ củng cố sự hình dung của con. Âm thanh an bình là một rung động và các con đều đã thấy hình ảnh một số âm thanh có thể làm cho nước rung động hay tạo mô thức trên mặt cát. Mọi chuyện đều là năng lượng, mọi chuyện đều là mô thức. Biển Luân hồi chỉ là năng lượng hỗn loạn. Con có thể sử dụng âm thanh an bình trong tâm con hay ngay cả trong một số hoàn cảnh bên ngoài, nhưng mục đích chính yếu của nó là dùng trong tâm.

Một lần nữa, con đi vào một căn phòng yên tĩnh, ngồi tư thế thoải mái, khép mắt và hòa điệu với Hiện diện của thày, với âm thanh an bình, và con hình dung là âm thanh này bắt đầu rung động trong tâm con, bắt đầu nơi thể tình cảm của con. Âm thanh rung động và tạo nên một mô thức đều đặn trong những xúc cảm hỗn loạn. Những xúc cảm rối loạn dần dần rung động theo mô thức đều đặn đó cho tới khi chỉ còn mô thức đều đặn. Sau đó mô thức lắng đọng xuống và nay thể cảm xúc của con như mặt đại dương yên lắng, mặt nước hoàn toàn yên lặng, bằng phẳng.

Sau đó, con lên thể tư tưởng và một lần nữa, âm thanh an bình bắt đầu ảnh hưởng tư tưởng của con. Những ý tưởng hỗn loạn luôn luôn bị tâm vượn kéo đi khắp hướng mang vào mô thức đều đặn của âm thanh an bình. Sau đó, khi mọi chuyện đã vào mô thức đều đặn, thì các làn sóng dịu xuống và giờ đây thể tư tưởng của con như mặt đại dương yên tĩnh. Sau đó con đi lên thể bản sắc và cùng chuyện lại xảy ra. Năng lượng hỗn loạn nơi đó trở nên một làn sóng rung động đều đặn và sau đó sự đều đặn lắng xuống và thể bản sắc giống như mặt đại dương yên tĩnh.

Sau đó, con từ thể bản sắc đi xuống thể vật lý, và con hình dung là thân thể vật lý của con bắt đầu rung động đồng điệu. Tất cả mọi tế bào, các phần thân thể có vấn đề, bắt đầu rung động đồng điệu với mô thức đều đặn. Chúng trở nên hoàn toàn đồng điệu với rung động đều đặn của âm thanh an bình. Sau đó, làn sóng bắt đầu lắng xuống và nay ngay thân thể của con cũng như mặt đại dương yên tĩnh. Con có thể ngồi bao lâu cũng được trong sự yên tĩnh của đại dương này.

Con có thể lặp lại bài tập này nếu con thấy có gì xao động, và con có thể thiền quán về điều này. Ban đầu thì con không nên thiền lâu quá, nhưng dần dần thì con có thể duy trì trạng thái thiền này lâu hơn. Dần dần con cũng có thể cảm nhận Hiện diện của thày bao bọc con khi con thiền quán. Đây là món quà mà thày trao cho con để giúp các con nào cảm thấy gần gũi Tia thứ Sáu hòa điệu với Hiện diện của thày.

Tới đây thì thày niêm con trong niềm vui của sự An bình của thày, vì thày đã có niềm vui lớn chia xẻ với các con Hiện diện của thày trong khoảng thời gian này.

15 | Con đã là tâm thức Ki-tô rồi

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô qua trung gian Kim Michaels ngày 5/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Con hãy xem xét chủ đề kết nối với các vị thày tâm linh. Mọi người trên trái đất dễ kết nối với vị thày tâm linh nào nhất? Đó chính là thày, Chân sư Thăng thiên Giê-su.

15.1. Tâm thức Ki-tô ở trong tất cả mọi thứ và tất cả mọi người

Câu tuyên bố trên có thể khiến nhiều người nghe giật mình. Lẽ đương nhiên, những ai không theo Cơ đốc giáo sẽ nói: “Chúng tôi dính dáng gì đến Giê-su?” Nhiều tín đồ Cơ đốc cũng cảm thấy rất khó kết nối với thày. Vì sao thày lại nói thày là vị thày dễ kết nối nhất? Bởi vì thày là vị chân sư đại diện tâm thức Ki-tô cho mọi người trên trái đất, và tâm thức Ki-tô là gì? Thánh kinh nói gì về điều này? Không có nó thì không có gì đã được tạo thành, được tạo thành. Do đó, tâm thức Ki-tô là tâm thức hoàn vũ, cái tâm thức hoàn vũ, một, thống nhất, hợp nhất từ đó mọi thứ được tạo thành.

Điều này có nghĩa gì? Nó có nghĩa là tâm thức Ki-tô ở trong mọi thứ và mọi người. Do đó, bất cứ con ở đâu trong cõi vật lý trên trái đất, cho dù hành tinh và địa phương con ở có dày đặc đến đâu, cho dù tâm thức của con có thấp đến đâu, thậm chí nếu con ở tầng tâm thức thấp nhất có thể có trên trái đất, thì con vẫn đắm chìm trong tâm thức Ki-tô.

Con không thể trốn chạy tâm thức Ki-tô. Con không thể xa rời tâm thức Ki-tô, và vì thày là vị chân sư đại diện tâm thức Ki-tô hoàn vũ trong một hình tướng cá thể, nên thày là vị thày dễ kết nối nhất vì không những thày luôn luôn ở sát bên con, thày còn ở bên con ở mọi nơi và bất cứ nơi nào con đang ở.

Lẽ tất nhiên, sa nhân đã làm tất cả những gì họ có thể làm để ngăn cản con người không kết nối được với thày, chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô. Công cụ chính yếu mà sa nhân đã dùng để đạt mục đích này là gì? Dĩ nhiên đó là Cơ đốc giáo. Sự kiện thảm hại là Cơ đốc giáo đã góp phần nhiều hơn bất cứ nỗ lực nào khác trên trái đất vào việc ngăn cản con người kết nối với các vị thày tâm linh và với tâm thức Ki-tô hoàn vũ.

15.2. Một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô hoàn vũ

Lẽ tất nhiên, quả thực là đa số con người không có khả năng kết nối với tâm thức Ki-tô hoàn vũ. Đó là lý do họ cần một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô. Thày đầu thai xuống trái đất vào đầu Kỷ nguyên Song ngư để chứng minh cho tất cả mọi người trạng thái tâm thức khiến con có thể nói: “Ta và Cha ta là một”. Đấng Cha ở đây là tâm thức Ki-tô hoàn vũ, và lẽ dĩ nhiên, đấng Sáng tạo, và lẽ dĩ nhiên, các chân sư thăng thiên.

Trước tiên, chính tâm thức Ki-tô là cái mà con, như đấng Con, như Mặt trời của Thượng đế, có thể hợp một với và do đó con biểu lộ và đại diện nó trên trái đất. Đây chính là mục đích của kiếp đầu thai của thày: để chứng minh cho tất cả mọi người là bất kể họ đang ở đâu trong cõi vật lý, bất kể tâm thức của họ đang ở mức nào, thì họ vẫn có thể kết nối và thực sự hợp một với tâm thức Ki-tô hoàn vũ. Con cũng có thể là một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô, như con đã thấy thày là một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô.

15.3. Tâm Ki-tô là thực tại bên dưới mọi sự

Cơ đốc giáo đã được dùng như một công cụ, đặc biệt là ngay từ lúc khởi đầu có Giáo hội Công giáo, để phóng chiếu hình ảnh là con không thể đi theo gương thày, con không thể khoác vào tâm thức Ki-tô, con không thể là một với tâm thức Ki-tô, con không thể biểu lộ nó, vì chỉ có thày mới có thể làm việc này, vì thày là người quá đặc biệt. Trong tâm thức Ki-tô, không có ai “đặc biệt” cả.

Vì sao thày lại nói không có ai đặc biệt? Không có sinh thể nào đặc biệt hơn một sinh thể khác vì mọi sinh thể đều xuất phát từ tâm một của tâm thức Ki-tô và tâm của đấng Sáng tạo. Nếu tất cả mọi sinh thể đều xuất phát từ Bản thể của đấng Sáng tạo, thì làm sao bất cứ sinh thể nào lại có thể đặc biệt? Đây là điều con có thể thấy nếu con dùng lô-gíc của tâm Ki-tô. Lẽ tất nhiên, sa nhân đã dùng mọi sắc thái của tâm thức nhị nguyên để che giấu thực tại bên dưới mọi sự này. Như các con đã thỉnh cầu và như trong bài thỉnh mà các con vừa đọc, con có thể thấy là phương tiện chính của sa nhân là khiến một số người cảm thấy đặc biệt. Họ đứng trên luật lệ của con người, nhưng nhiều người còn nghĩ là họ đứng trên luật của Thượng đế, họ có thể dẹp các luật này sang một bên, làm bất cứ gì họ muốn mà không phải chịu hậu quả. Những hậu quả mà đa số con người phải gánh chịu không áp dụng cho họ.

Con thấy rất nhiều thí dụ của tâm thức này, và khi con đi vào trạng thái tâm thức muốn mình đặc biệt, thì con không thể kết nối với Giê-su Ki-tô. Vì thày không ở đây để giúp một số người cảm thấy đặc biệt bằng cách hạ người khác xuống. Thày ở đây, và tâm thức Ki-tô ở đây, để nâng mọi người vào Vương quốc của Thượng đế, và lẽ tất nhiên, vương quốc này đúng thực là trạng thái tâm thức khi con kết nối với Ki-tô bên trong mình. Con tới điểm con chấp nhận con là Ki-tô đang hiện thân trên trái đất. Đây là Vương quốc của Thượng đế trên bình diện cá nhân, và khi có đủ số người, một số lượng tới hạn những con người biểu lộ tâm thức này thì con có Vương quốc của Thượng đế thể hiện trên trái đất.

Lẽ tất nhiên, sa nhân đã làm tất cả những gì họ có thể làm để trì hoãn ngày này, nhưng họ không thể trì hoãn mãi mãi. Họ không thể ngăn chặn ngày này xảy đến vì có quá nhiều người đã mở tâm ra đón nhận một thực tại cao hơn, một viễn quan cao hơn vượt quá chủ trương của các giáo hội Cơ đốc giáo chính thức hay các triết lý khác, như thuyết khoa học duy vật, cộng sản, mác-xít hay những chủ thuyết khác. Các chủ thuyết này được đặc biệt tạo ra để che giấu cái một bên dưới mọi sự sống, chia rẽ con người thành nhiều nhóm, nâng một số nhóm lên như đặc biệt và hạ một số nhóm xuống. Đây là một mô thức mà con có thể thấy đằng sau nhiều lớp hóa trang. Mô thức này luôn luôn phát xuất từ tâm thức nhị nguyên, nhưng tối hậu đó là tâm thức sa ngã và các sa nhân đằng sau tâm thức đó, mà ta có thể gọi là các lực phản-Ki-tô, thậm chí là tâm phản-Ki-tô.

15.4. Hình ảnh giả của Ki-tô trong Cơ đốc giáo

Vì sao thày lại nêu lên những điều này khi chủ đề là cách kết nối với các vị thày tâm linh? Bởi vì nếu con đã từng có bất kỳ quá trình Cơ đốc giáo nào trong kiếp sống này, thì con cần xem xét những hình ảnh mà phiên bản Cơ đốc giáo của con đã phóng chiếu lên thày, một sinh thể tâm linh. Bất kể những hình ảnh này là gì, chúng đều ngăn cản không cho con kết nối với thày.

Con cũng có thể xem xét và nói: “À, tôi không có quá trình Cơ đốc giáo trong kiếp sống này.” Nhưng còn các kiếp trước thì sao? Con có thực sự nghĩ là con có thể đầu thai trên hành tinh này trong khoảng 2000 năm vừa qua mà không có kiếp nào dính dáng đến Cơ đốc giáo và hình ảnh giả của họ về Ki-tô? Thày bảo đảm với con là điều này không có xác suất cao đâu, và do đó tất cả các con đều sẽ được lợi lạc nếu con xem xét các hình ảnh về Ki-tô mà Cơ đốc giáo đã gán cho thày, và sau đó đập tan các hình ảnh này và khám phá các ngã tách biệt đang duy trì các hình ảnh đó.

Tác dụng của những hình ảnh này là gì? Đó là khi con đứng trước hình ảnh Giê-su rất đặc biệt vì Giê-su là người Con duy nhất của Thượng đế, thì có một phản ứng khởi lên trong con. Cho dù con có nhận ra phản ứng này một cách có ý thức hay không, nhưng cái Ta Biết của con cảm thấy là chuyện này không thể thực, không thể đúng. Cái Ta Biết có cảm nhận nó cũng là con của Thượng đế, nó cũng phát xuất từ tâm Một. Khi nó đứng trước lời tuyên bố rất mạnh mẽ, hình ảnh giả đó, thì con phải có phản ứng. Con phản ứng bằng cách tạo ra các ngã tiềm thức có khả năng giải quyết mâu thuẫn trong nội tâm con và dồn nén nó để con có thể sống với nó. Con không bị mâu thuẫn tràn ngập, thắc mắc tại sao Thượng đế lại tạo ra một người Con quá đặc biệt và tất cả các người khác ở địa vị thấp hơn.

Con sẽ được lợi ích nếu con nhìn vào các ngã này, moi chúng ra và con có thể dùng nhiều giáo lý và dụng cụ mà các thày đã trao truyền. Con có thể dùng một số sách của thày để khám phá phản ứng của con với Ki-tô và hình ảnh của Ki-tô đã được đưa ra cho con. Sau đó, khi con tới chỗ nhìn thấy các ngã đó, con có thể tách mình ra khỏi chúng và buông bỏ chúng. Con có thể tới chỗ chấp nhận là con (cái Ta Biết mà con là) là một phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo. Ngã vỏ ngoài, các ngã vỏ ngoài, tự ngã không phải là phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo. Một khi con bắt đầu trải nghiệm con là một phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo, thì con sẽ có thể mau chóng khắc phục các ngã tách biệt để con có thể chấp nhận con xứng đáng kết nối với thày, Giê-su, con có khả năng kết nối với thày, Giê-su. Sau đó, lẽ tất nhiên con có thể quyết định: con có sẵn lòng kết nối với thày, Giê-su, hay con chọn kết nối với một chân sư thăng thiên khác?

Lẽ đương nhiên, thày hoàn toàn không có phản ứng gì trước chọn lựa này, thày hoàn toàn không đòi hỏi con phải trung thành với thày. Nếu có một chân sư thăng thiên khác gần gũi hơn trong tim con, thì con nên tập trung vào vị chân sư đó. Con sẽ vẫn dễ kết nối với vị chân sư đó hơn khi con khắc phục những hình ảnh sùng bái Ki-tô. Vì con người có khuynh hướng chuyển các hình ảnh sùng bái này sang bất cứ vị chân sư thăng thiên nào khác, nhìn vị chân sư đó, nhìn các thày như đang ở “trên này” ngoài tầm với của con. Con quả thật khó kết nối với một sinh thể mà mình coi như ngoài tầm với của mình, phải không con?

15.5. “Tôi đã là tâm thức Ki-tô rồi”

Điều gì sẽ giúp con thu hẹp khoảng cách? Một khi con đã xem xét và khắc phục các ngã tách biệt được tạo ra để phản ứng lại Cơ đốc giáo, thì con có thể tiến thêm bước nữa. Thày đã nói gì ở đầu bài? Không có nó, không có tâm thức Ki-tô, thì không có gì đã được tạo thành, được tạo thành. Không có tâm thức Ki-tô thì không có con người nào đã được tạo thành được tạo thành, hay nói đúng hơn, không có gì đã được sinh ra được sinh ra. Vì các con nhớ là theo Kinh Tin kính Cộng đồng Nixêa (Nicene Creed) thì thày không được tạo thành (made) mà được sinh ra (begotten), người con duy nhất được sinh ra từ bản thể đức Cha, nhưng lẽ tất nhiên câu này không chỉ thày, Giê-su Ki-tô, mà chỉ tâm thức Ki-tô. Sự thực là tất cả các con đều sinh ra từ Thượng đế, các con đều xuất phát từ tâm thức Ki-tô, nhưng điều này có nghĩa gì? Điều này có một ý nghĩa rất thâm sâu mà con cần chiêm nghiệm để nắm bắt.

Con, cái Ta Biết, là gì? Con được tạo ra từ đâu? Con được tạo ra từ đâu? Con được tạo ra từ tâm thức Ki-tô, vì nếu không làm sao con có thể có tự nhận biết? Vì chỉ có tâm thức Ki-tô mới có tự nhận biết, do đó con đã xuất phát từ tâm Ki-tô rồi, con là tâm Ki-tô, con đã kết nối với tâm Ki-tô. Con là một với tâm Ki-tô. Con có thể thấy điều này bằng nhiều cách, và con có thể bắt đầu bằng cách thấy mình kết nối với tâm Ki-tô và dần dần tiến tới cảm nhận sâu đậm hơn con là một với tâm Ki-tô.

Sự xoay chuyển mà con trải nghiệm khi con đã khắc phục đủ số các ngã là con nhận ra: “Nhưng tôi là tâm thức Ki-tô, vì không có gì ngoài nó. Bất kể các hình tướng mà tôi thấy trong thế giới hình tướng, đằng sau mọi hình tướng, bên trong mọi hình tướng, là tâm thức Ki-tô. Khi tôi nhận ra cái Ta Biết của tôi không phải là các ngã tách biệt, không phải là tự ngã, không phải là nhân cách vỏ ngoài, thì tôi có thể trải nghiệm mình là nhận biết thuần khiết. Và nhận biết thuần khiết là gì? À, nó có thể là gì nếu không là tâm thức Ki-tô? Không có nhận biết nào ngoài tâm thức Ki-tô.” Con có thể nói: “Nhưng còn bản sắc tách biệt, sa nhân, tâm thức nhị nguyên thì sao?” Tâm thức sa ngã không phải là nhận biết, nó là phản-nhận biết. Con không nhận biết cái Một của mọi sự sống. Nhưng tâm thức Ki-tô vẫn còn ở trong con, vì con không thể trốn chạy tâm thức Ki-tô. Con có thể tạo một ảo tưởng trong tâm, nhưng ảo tưởng chỉ hiện hữu trong tâm mà thôi.

15.6. Các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô cá nhân

Những người trong các con sẽ đạt tới tầng này trong kiếp sống này hay đã đạt tới rồi, sẽ được lợi ích nếu các con chiêm nghiệm các điều này và nhận ra là con đã là tâm thức Ki-tô rồi. Cái Ta Biết là tâm thức Ki-tô. Nhưng con hãy chú ý, thày không nói con là Ki-tô, thày nói con là tâm thức Ki-tô, và đây là một điểm quan trọng mà con cần chiêm nghiệm cho tới khi con hoàn toàn nhận ra con là tâm thức Ki-tô. Sau đó, con có thể chấp nhận: “Tôi là Ki-tô, tôi là Ki-tô Hằng sống đang hiện thân trong cõi vật lý, và tôi ở đây để là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của tôi, cho các chân sư thăng thiên, cho dòng chảy của Thánh linh chảy xuyên qua tôi.”

Lẽ tất nhiên, điều này không có nghĩa là con mất đi ý niệm bản ngã của con, cá tính của con, vì con điều khiển dòng chảy đó, và con có thể càng ngày càng trung hòa hơn trong việc điều khiển dòng chảy. Làm như vậy sẽ khiến con càng ngày càng thêm hân hoan khi con trở nên trung hòa và không dính mắc vào kết quả đặc trưng mà dòng chảy qua con phải tạo ra. Thay vào đó, con chỉ giản dị vui hưởng sự trải nghiệm dòng chảy xuyên qua con, đi vào thế gian và tạo ra bất cứ kết quả nào mà nó tạo ra. Con yêu dấu, đây là một tầng cao hơn mà ta có thể gọi là quả vị Ki-tô cá nhân, là Ki-tô hành động, khi con là cánh cửa mở cho dòng chảy.

Cảm tưởng gần giống như con chỉ là nhân chứng của dòng chảy, vì con nhận ra: “Tự tôi, cái tôi vỏ ngoài, không làm được gì”. Thậm chí con còn nhận ra: “Tự tôi, cái Ta Biết, không làm được gì vì dòng chảy xuất phát từ trên cao và nó chỉ chảy xuyên qua tôi mà thôi. Nhưng nó chảy xuyên qua tôi vì tôi là tâm thức Ki-tô, và do đó tôi là trụ điểm trong thế gian này để tâm thức Ki-tô chảy xuyên qua.”

15.7. Khắc phục ảo tưởng tách biệt với Ki-tô

Đây là một xoay chuyển quan trọng mà con cần chiêm nghiệm. Thày không nói là tất cả các con đều sẵn sàng để thực hiện sự xoay chuyển này. Một số các con chưa sẵn sàng, và điều này, lẽ dĩ nhiên, hoàn toàn phải phép. Các con có thể tiếp tục sử dụng các dụng cụ và tiêu trừ các ngã đang chắn lối các con. Nhưng điều quan trọng cần ghi nhớ là thực tại, thực tại sâu thẳm, là con không trở thành một cái gì mà con không đang là ngay lúc này.

Thày biết là các thày đã cho các con hình ảnh và giáo lý về con đường tu, đi từ tầng tâm thức 48 lên tầng 96. Các thày có giảng về việc khoác vào tâm Ki-tô, khoác vào quả vị Ki-tô cá nhân, trở thành Ki-tô Hằng sống. Đây là ngôn từ thích hợp cho một tầng đặc trưng của con đường tu khi con chưa sẵn sàng làm sự xoay chuyển đó vì con vẫn còn có quá nhiều các ngã đang níu kéo cái Ta Biết để nó tự đồng hóa với chúng và nhìn thế gian xuyên qua chúng.

Khi con tới gần và lên cao hơn tầng 96, thì con bắt đầu chiêm nghiệm sự xoay chuyển là con không trở thành cái mà con không là. Vì khi tâm thức Ki-tô ở trong tất cả mọi sự, và không có gì được tạo thành ngoài tâm thức Ki-tô, thì làm sao con có thể trở thành Ki-tô? Làm sao con chưa là Ki-tô rồi? Làm sao con có thể đã từng tách biệt khỏi cái ở khắp nơi và trong mọi sự? Con thấy chăng, vấn đề không phải là vượt qua một khoảng cách, trải qua một thay đổi. Vấn đề là thức tỉnh khỏi ảo tưởng cho rằng có khoảng cách, để tới điểm nhận ra con đã là, con lúc nào cũng đã là, tâm thức Ki-tô.

Lẽ tất nhiên, đúng là con có thể hiểu điều này bằng trí năng ở các tầng thấp của con đường tu, nhưng nếu con vẫn còn quá nhiều ngã níu kéo con nhìn thế gian và chính mình qua phin lọc của chúng, thì con không thể làm sự xoay chuyển tâm thức mà thày nói tới. Một lần nữa, con cứ tiếp tục đi trên con đường tu, sử dụng các dụng cụ và sẽ có một ngày con tới điểm sự xoay chuyển xảy ra. Con không thể khiến nó xảy ra, con không thể ép nó xảy ra, nhưng con chắc chắn có thể làm việc để tiến về hướng đó bằng cách khắc phục các ngã và chuyển hóa các năng lượng đang níu kéo con vào phản ứng.

Như các chân sư khác đã nói về các bí ẩn của con đường tu, thì đây cũng là một bí ẩn nữa. Ở một giai đoạn nào đó, con cần có hình ảnh là con đang trở thành cái gì con không đang là vì con chưa thể thấy mình là Ki-tô vào lúc đó. Con có hình ảnh là con đang đi trên con đường tu. Con đang tiến bước trên con đường tu, con đang chuyển hóa năng lượng, con đang tiêu trừ các ngã. Khi con tiêu trừ một ngã ở tầng 48 thì con lên tầng 49, và cứ tiếp tục như thế. Con tiến bước trên con đường tu, nhưng khi con đến những giai đoạn cao hơn của con đường tu, thì vấn đề là nhận ra điều con cần thực hiện là khắc phục ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng là con đã từng tách rời, vì tách biệt là một ảo tưởng.

Có phải chăng là thày đã nói nhiều lần: Không có tâm thức Ki-tô thì không có gì đã được tạo thành được tạo thành, do đó tâm thức Ki-tô ở trong mọi thứ và mọi người. Không có tách biệt trong thực tại. Không thể nào có, không bao giờ từng có, do đó tách biệt là một ảo tưởng chỉ có thể có mặt trong tâm của những người có tự nhận biết và có quyền tự quyết. Do vậy họ có chọn lựa sử dụng tâm thức nhị nguyên để xây dựng trong tâm bức màn, phin lọc, tấm lá chắn che giấu cái Một bên dưới mọi sự sống và khiến họ tập trung vào những ngã tách biệt và thân thể vật lý, coi mình là sinh thể tách biệt.

Một lần nữa, như các thày đã giảng, điều này nằm trong khuôn khổ Luật Tự quyết. Luật Tự quyết hoàn toàn cho phép con người có trải nghiệm dùng quyền tự quyết như sinh thể tách biệt. Lẽ tất nhiên, khi con sử dụng ý chí của mình với tư cách một sinh thể tách biệt, thì ý chí của con không tự do, và con càng có thêm chọn lựa dựa trên tách biệt thì con càng giới hạn ý chí của mình, con càng giới hạn các chọn lựa mà con có thể có. Con bị nghiệp của mình đè nặng cho tới khi con bị đóng đinh trên thập tự và không còn nhúc nhích được nữa.

15.8. Chối bỏ Ki-tô

Tuy nhiên, đây thuộc vào những trải nghiệm mà con được phép có trên một hành tinh như trái đất. Chính thực là trong giai đoạn hiện nay của trái đất, một trong những mục đích của trái đất là cho con người trải nghiệm này. Con thấy có biết bao nhiêu người trên thế gian xây dựng ý niệm họ đặc biệt, nhiều khi dưới sự lãnh đạo của một hình thức độc tài, hoặc của một nhà lãnh đạo hay của một tổ chức như Giáo hội Công giáo. Họ khiến con người cảm thấy vì họ đi theo chế độ độc tài đó, vì họ tuân phục chế độ độc tài đó, nên họ đặc biệt khi so với những người không tuân phục.

Con thấy chăng là Ki-tô không bao giờ tuân phục bất cứ gì trên trái đất. Đó là điều thày đã chứng minh hai ngàn năm trước đây: rằng con không cần tuân phục. Con không có bổn phận tuân phục. Trái lại, con có quyền không tuân phục, con có quyền đứng lên không tuân phục bất cứ sự độc tài nào và để họ làm bất cứ gì họ muốn tới con và qua đó họ sẽ phải nhận sự phán xử của Ki-tô.

Đây là điều mà nhiều người đã làm. Đây là điều nhiều người đang làm hiện nay. Đó là những người đang phản đối sự độc tài dưới mọi hình thức, họ đang là Ki-tô hành động, dù họ không biết tới quan niệm Ki-tô hành động. Tuy nhiên, đó là điều họ đang làm. Họ không những chỉ đứng lên chống lại và đem lại sự phán xử tới kẻ độc tài, nhưng họ còn chứng minh cho mọi người thấy là ta có thể đứng lên chống những người đang là các lực phản-Ki-tô và tìm cách đàn áp con người.

Làm cách nào họ đàn áp con người? Họ chỉ có thể làm được chuyện này bằng cách khiến những người này chối bỏ họ có Ki-tô trong họ. Chỉ khi những người này thấy họ tách biệt với Ki-tô, với cái Một bên dưới mọi sự, thì họ mới có thể bị đàn áp và kiểm soát. Công việc của sa nhân luôn luôn nhằm khiến con người chối bỏ họ xứng đáng là Ki-tô, chối bỏ họ đã là Ki-tô rồi và họ xứng đáng biểu lộ Ki-tô trên thế gian này.

Các chế độ độc tài đó có thể không dùng danh từ Ki-tô, nhưng con hãy nhìn các tôn giáo, các triết lý chính trị và lẽ dĩ nhiên khoa học duy vật. Họ đều chối bỏ rằng Ki-tô ở trong con. Hoặc họ chối bỏ có cái gọi là Ki-tô, có cái gì ngoài thế giới vật chất. Đây là một sự chối bỏ, và con lúc nào cũng thấy là khi có sự độc tài, thì có một tập đoàn thượng tôn quyền lực. Vì làm sao con có chế độ độc tài nếu nhà độc tài và những người chung quanh y không đặc biệt? Nếu không như vậy thì không có độc tài, mà là dân chủ. Chế độ độc tài lúc nào cũng đưa ra ý niệm là có một số người đặc biệt và đa số dân chúng thuộc giai cấp thấp hơn, và do đó không thể chọn phản đối tập đoàn thượng tôn quyền lực. Dân chúng không có quyền và có thẩm quyền là Ki-tô hành động.

Như thày có nói, tổ chức đứng hàng đầu trong việc khiến con người chối bỏ Ki-tô trong họ là Cơ đốc giáo. Vì lý do này, việc con kêu gọi sự phán xử tôn giáo này là điều chính đáng, chính thày đã tuyên bố sự phán xử này nhiều lần. Đây là một công việc cần thiết vì mỗi lần con kêu gọi sự phán xử, thì có thêm tà lực bị tiêu trừ, có thêm nhiều người được giải thoát và có thể xét lại hình ảnh về Ki-tô mà Cơ đốc giáo đã cho họ từ thuở thơ ấu. Những hình ảnh này về Ki-tô quả thật xuất phát từ tâm phản-Ki-tô, vì sự thực tuyệt đối là Giáo hội Công giáo ngay từ khởi thủy đã bị các lực phản-Ki-tô chiếm hữu và kiểm soát. Giáo hội Công giáo vẫn còn như vậy cho tới ngày nay, và điều này được chứng minh bởi việc Giáo hội Công giáo đã không thể tự cải tổ. Mặc dù các vụ xâm phạm tình dục thiếu nhi được phơi bày, mặc dù tất cả các chuyện khác đang xảy ra, Giáo hội Công giáo vẫn không thể tự cải tổ.

À, các con yêu dấu, tâm thức Ki-tô có thể tự cải tổ vì tâm thức Ki-tô không đứng yên hôm qua, hôm nay và mãi mãi, vì tâm thức Ki-tô là lực liên tục của sự tự thăng vượt. Vì mục đích cuộc sống là gì? Đó là, như các thày đã giảng, con bắt đầu với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm và con dần dần thăng vượt ý niệm đó. Con với lên những tầng bản sắc càng ngày càng cao hơn, cho tới khi con tới ý niệm con là một với tâm Ki-tô, con là một với mọi sự sống. Con là một với đức Cha trên thiên đàng và con khắc phục ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng mình là một cái ta bé nhỏ bị gò bó trong một khu vực địa phương rất eo hẹp trên hành tinh nhỏ bé gọi là địa cầu này. Thay vào đó, con trải nghiệm sự kết nối với tâm thức Ki-tô là cái Một của mọi sự sống.

Đây là điều mà sa nhân đã chối bỏ trong chính họ. Đây cũng là điều mà họ đang cố sức khiến tất cả mọi người chối bỏ. Các con, là các đệ tử trực tiếp của các thày, có tiềm năng khắc phục sự chối bỏ đó và chứng minh là con đã khắc phục nó, để mọi người có thể thấy là có chọn lựa khác. Quả thực có chọn lựa khác. Qua đó, con người thấy được vì sao thày đã đầu thai hai ngàn năm trước, thày đã chứng minh những gì, và họ tới điểm thấy Giê-su Ki-tô không là một ngoại lệ. Giê-su Ki-tô là một tấm gương cho tất cả mọi người, cho dù họ lớn lên trong một nền văn hóa Cơ đốc giáo hay không. Do đó, con có thể giúp con người khắc phục sự chối bỏ Ki-tô, thực sự là sự chối bỏ chính mình, chối bỏ mình là ai.

15.9. Ki-tô ở trong con

Bây giờ thày trở lại chủ đề của hội nghị này và con đường tu của con. Con là Ki-tô. Đó là lý do vì sao con có thể trải nghiệm là một với thày, Giê-su. Vấn đề không phải là con kết nối với thày, vì nếu con còn thấy mình ở dưới này trên trái đất và thày ở cao trên kia trên thiên đàng, thì con sẽ không thể kết nối. Thày không ở kia trên thiên đàng, thày ở khắp nơi. Thày ở ngay đây bên cạnh con, và nếu con còn tìm thày ở ngoài kia thì làm sao con thấy được thày? Nếu con nhìn qua một ống nhòm và tìm thày ở đằng xa, thì làm sao con có thể thấy là thày không những đang ở ngay cạnh con và còn ở trong con?

Vì Ki-tô ở đâu? Trong Vương quốc Thượng đế! Vương quốc Thượng đế ở đâu? Nó ở bên trong con. Đó là nơi con sẽ tìm thấy thày. Thày không lẩn trốn con. “Thày” không lẩn trốn “con”. Con lẩn trốn chính mình. Thày không tìm cách ép con phải ngưng lẩn trốn. Thày chỉ nói là khi con tới điểm chán ngán lẩn trốn, thì con sẽ khám phá ra thày ở bên trong con. Khi con không chối bỏ mình là Ki-tô, thì con sẽ tìm thấy thày như Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô.

Con yêu dấu, tới đây thì thày niêm phong các con trong niềm vui mà thày LÀ. Niềm vui không phải là niềm vui nhân gian đối ngược với buồn khổ, mà là niềm vui Thiêng liêng không có đối ngược, vì làm sao cái ở khắp mọi nơi lại có thể có đối ngược? Sự thực là Ki-tô không có đối ngược. Phản-Ki-tô không phải là đối ngược của Ki-tô, phản-Ki-tô là đối ngược của một ảo tưởng nhị nguyên khác, một hình ảnh nhị nguyên của Ki-tô. Đây là cái mà phản-Ki-tô có thể chống đối. Phản-Ki-tô không thể chống đối Ki-tô thực.

Con thấy chăng, sa nhân đã làm gì? Họ đã tạo ra hình ảnh giả của Ki-tô và hình ảnh của ác ma chống đối Ki-tô. Cả hai hình ảnh đều không thực, vì trong thực tại không thể có tách biệt vì không có Ki-tô thì không có gì đã được tạo thành được tạo thành. Tới đây thì thày niêm phong các con trong niềm vui của Ki-tô và thày hy vọng là các con sẽ đem niềm vui này tới thế gian.

17| Hãy mở tâm để trải nghiệm trực tiếp tình thương Thiêng liêng

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels ngày 5/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ Chân sư thăng thiên Paul người Venice. Con có thể nghĩ rằng kết nối với các thày tâm linh là một việc khó khăn. Đối với nhiều người quả thật đấy là một điều khó làm, do đó các thày là các Thượng sư đã quyết định là nhiều người sẽ thấy dễ kết nối hơn với vị thày tâm linh qua một trong bảy tia và đặc tính Thiêng liêng của các tia.

Lẽ tự nhiên, Giê-su biết rõ là bài giảng của thày nhắm vào những người ở một tầng tâm thức nào đó, vì đa số không thể chuyển đổi và chấp nhận Ki-tô bên trong họ. Nhiều người sẽ thấy dễ hơn nếu họ tập trung vào một trong bảy tia và các đặc tính của tia này. Do đó, khi họ suy ngẫm, hòa điệu vào đặc tính của tia, đọc các bài chú và thỉnh của tia đó, có thể dùng cuốn sách của tia trong bộ Khóa học Tự điều ngự, thì họ sẽ dễ hòa điệu hơn, trước tiên là với đặc tính của tia và từ đó nhận ra là những đặc tính này được thể hiện và đại diện bởi một vị thày đặc thù, một vị chân sư đặc thù, là một trong các vị Thượng sư.

Nhằm mục đích này, các thày đã quyết định trao truyền một số bài giảng, lẽ tất nhiên không có mục đích thay thế các bài trong Khóa học Tự điều ngự hay các bài khác mà các thày đã giảng về một số tia đặc trưng. Các bài này được thảo ra đặc biệt để giúp các con hòa điệu với một tia sáng và đặc tính của nó. Lẽ dĩ nhiên, thày là chân sư đại diện cho đặc tính của Tia thứ Ba, thường được gọi và được xem là đặc tính của tình thương.

17.1. Tình thương Thiêng liêng khác tình thương nhân gian

Như thày Giê-su đã nói, nhìn theo một khía cạnh nào đó, thày Giê-su là vị chân sư dễ kết nối nhất, nhưng nhìn theo một khía cạnh khác, thày Giê-su là vị chân sư khó kết nối nhất vì những hình ảnh được phóng chiếu bởi Cơ đốc giáo. Giống như vậy, con cũng có thể nói tình thương là đặc tính của Thượng đế dễ kết nối nhất vì có ai trên trái đất mà không có ít nhất khái niệm về tình thương? Lẽ tất nhiên, con cũng có thể nói tình thương là đặc tính khó kết nối nhất vì hầu hết con người có thể có khái niệm về tình thương, nhưng đó không phải là tình thương Thiêng liêng. Họ có khái niệm về tình thương nhân gian đã được phóng chiếu lên trên tình thương Thiêng liêng.

Lẽ tất nhiên, nếu con bị bao trùm trong hình ảnh của tình thương dựa trên tình thương nhân gian, thì làm sao con hòa điệu và kết nối được với tình thương Thiêng liêng? Điều này không thể làm được. Một lần nữa, nếu quả thực con muốn hòa điệu với tình thương, trước hết con phải xem xét con đã bị ảnh hưởng bởi những hình ảnh nào của tình thương nhân gian, mà thậm chí ta có thể gọi là phản-tình thương, khi con lớn lên trong kiếp này hay có thể ngay cả từ những kiếp trước.

Nhiều người có hình ảnh về tình thương mà đáng lẽ phải gọi là làm chủ hay sở hữu thay vì là thương yêu. Họ nghĩ rằng thương yêu một người là một bổn phận cho nên khi con nói con thương ai đó, thì người kia phải có bổn phận với con. Nếu con có một quan hệ thương yêu với một người, cho dù đó là người phối ngẫu, hay cha mẹ hay con cái, thì con có bổn phận với người đó.

Con thấy là biết bao nhiêu người ở trong một quan hệ được gọi là thương yêu nhưng thực sự họ bị giam trong một loại trò chơi quyền lực trong đó cả hai bên tìm cách làm cho bên kia cảm thấy có bổn phận với mình. Chính họ cũng cảm thấy mình có bổn phận, cho nên họ tìm cách khiến người kia cảm thấy có bổn phận cho mình điều gì đó hay làm điều gì đó đáp ứng nhu cầu của mình. Tình thương này, lẽ tất nhiên, không phải là tình thương Thiêng liêng, vì tình thương Thiêng liêng không tìm cách làm chủ, không tìm cách sở hữu.

Tại sao con cần làm chủ một cái gì nếu con không cảm thấy thiếu thốn? Mọi mong muốn làm chủ phát xuất từ ảo tưởng thiếu thốn, và lẽ tất nhiên tình thương Thiêng liêng không bị giam trong ảo tưởng thiếu thốn. Do đó, tình thương Thiêng liêng không bao giờ có thiếu thốn. Nó là một dòng chảy miên viễn chảy từ đấng Sáng tạo tới cái được sáng tạo và đi vào cái được sáng tạo. Thày là đại diện cho tình thương Thiêng liêng nên làm sao thày có thể cảm thấy thiếu thốn? Thày cảm nhận dòng chảy liên tục của tình thương xuyên qua thày, biểu lộ tới mọi người và thày trải nghiệm dòng chảy này vô tận. Nó không bao giờ cạn kiệt.

Dù thày có cho con người trên trái đất bao nhiêu tình thương chăng nữa, thày vẫn không bao giờ cạn kiệt vì thày càng cho nhiều hơn thì thày càng nhận thêm nhiều hơn. Đó là tình thương. Lẽ tất nhiên, khi thày cho tình thương thì thày cho một cách tự do. Thày cho trong trạng thái tâm trung hòa mà các thày đã đề cập, thày không có ý muốn đạt được kết quả gì khi cho tình thương, thày không chờ đợi mọi người phải đáp ứng thế nào, họ phải làm gì hay không được làm gì với tình thương đó. Thày không có những ý muốn đó cho nên khi thày nhận được tình thương từ cao trong tự do, thày cũng cho tình thương trong tự do cho tất cả mọi người ở dưới. Thày không tạo ra trong tâm cấu trúc muốn làm chủ, muốn sở hữu, muốn kiểm soát cách người nhận làm gì với món quà của thày. Thày không thực sự cho một món quà, thày chỉ cho phép tình thương chảy xuyên qua thày.

17.2. Con có mở tâm đón nhận tình thương chăng?

Con có thể quán sát điều này. Con có thể quán sát xem con muốn tình thương nhân gian hay tình thương Thiêng liêng. Nếu con muốn tình thương Thiêng liêng thì việc đầu tiên con cần nhận ra là tình thương Thiêng liêng được trao tặng tự do cho tất cả ai muốn nhận nó. Đối với riêng cá nhân con, vấn đề không phải là tình thương Thiêng liêng có được trao cho con không? Câu hỏi duy nhất là con có nhận nó hay không nhận nó? Tình thương Thiêng liêng luôn được trao tặng – đây là một sự thật nhất định. Nhưng nhận tình thương không là một điều nhất định vì hầu hết, ngay cả những người tâm linh, từ chối tình thương vì nhiều lý do.

Việc đầu tiên luôn luôn là nhìn vào các ngã tiềm thức đang khiến con chối bỏ hay lờ đi không thấy tình thương. Một trong những ngã tiềm thức thông thường nhất là ngã nói rằng con không xứng đáng được thương yêu, con không xứng đáng được nhận tình thương Thiêng liêng. Có những ngã khác phóng chiếu rằng: “Ồ, tình thương Thiêng liêng rất đặc biệt.” Vì nó rất đặc biệt, nên tôi cũng phải đặc biệt mới nhận được nó. Tình thương Thiêng liêng không đặc biệt, nó vượt lên trên mọi nhãn hiệu. Nó chẳng đặc biệt mà cũng chẳng không đặc biệt. Không thể gán nhãn hiệu cho nó.

17.3. Tình thương vượt lên trên điều kiện

Một từ mà các thày thường dùng với tình thương Thiêng liêng là “vô điều kiện”. Đây chỉ là một từ khác mà tâm có thể bóp méo và phân tích và nói: Điều này nghĩa là gì? Các sa nhân sẽ luôn luôn phản đối: “Không có cái gọi là tình thương vô điều kiện, ngay cả tình thương của Thượng đế cũng có điều kiện, vì chẳng phải là chúng tôi đã bỏ ra bao nhiêu công sức trên hành tinh này và các bầu cõi trước để tạo ra Thượng đế giả, vị Thượng đế giận dữ có điều kiện ở trên trời? Chẳng phải là chúng tôi đã bỏ ra rất nhiều công sức để phóng chiếu đấy là vị Thượng đế duy nhất, vị Thượng đế thật duy nhất?” Đây là điều sa nhân sẽ luôn luôn khẳng định và do đó họ sẽ khẳng định là Thượng đế giận dữ có điều kiện ấy, tình thương của ông chỉ có thể có điều kiện và chỉ những ai hội đủ một số điều kiện nào đó (do sa nhân quy định) mới xứng đáng được nhận tình thương của Thượng đế.

Tình thương vượt lên trên các điều kiện, đặc biệt là những điều kiện có thể được quy định trên một hành tinh không tự nhiên như trái đất hay có thể được quy định bởi các sa nhân trong tư duy nhị nguyên. Bởi chưng, bất kỳ điều gì, bất kỳ điều kiện nào mà tư duy nhị nguyên có thể quy định, đều là một điều kiện tương đối trong khi một đặc tính thiêng liêng thì không tương đối. Vì nếu nó tương đối, thì nó không thể thiêng liêng. Đây là bí ẩn, thách đố cho các con chiêm nghiệm: sự khác biệt giữa tình thương nhân gian có điều kiện và tình thương Thiêng liêng, vượt lên trên các điều kiện.

Vì ảnh hưởng của người khác, con đã quá quen với khái niệm cho rằng để nhận được tình thương từ người khác, thì con phải hội đủ một số điều kiện. Đa số các con đã nhận được hình ảnh này từ cha mẹ, tuy không nhất thiết là họ phóng chiếu một cách ý thức hình ảnh này lên con. Họ chỉ giản dị có hình ảnh về tình thương có điều kiện này từ cha mẹ họ phóng chiếu và họ làm được gì khác ngoài việc truyền lại hình ảnh đó cho con? Họ không biết là có một cách thương yêu khác.

17.4. Thượng đế có điều kiện của tôn giáo có tổ chức

Con tìm được một tình thương khác với tình thương có điều kiện ở đâu trên thế giới? Chắc chắn con không tìm thấy nó nơi các tôn giáo coi mình phát xuất từ Abraham hay đa số các tôn giáo khác. Tôn giáo là gì? Tất cả những tôn giáo lớn, có tổ chức, được chính thức hóa, hệ thống hóa đều là dụng cụ của sa nhân để kiểm soát dân chúng. Làm sao một tôn giáo như thế có thể dạy về tình thương vô điều kiện hay cho tình thương này cho con người?

Con chỉ có thể có một tổ chức lớn có quyền lực trên con người nếu những người này nghĩ rằng giới lãnh đạo tổ chức rất đặc biệt và ở tầng mức cao hơn họ. Do đó, mọi người phải tuân theo một số điều kiện thì mới được các nhà lãnh đạo chấp nhận. Hình ảnh này được phóng chiếu tiếp tục lên tới vị Thượng đế giận dữ ở trên trời cho nên nhiều người ngày nay tin rằng tình thương của Thượng đế có điều kiện. Điều này tất nhiên là sự ngạo mạn, sự kiêu căng tâm linh của sa nhân tin rằng họ có thể quy định một Thượng đế và phóng chiếu hình ảnh đó. Sau đó, thậm chí họ còn ngạo mạn tin rằng Thượng đế tuân theo hình ảnh của họ, hình ảnh khô chết, hình ảnh có điều kiện. Rất ít người chịu suy nghĩ về hình ảnh vị Thượng đế có điều kiện và suy ngẫm xem nó thật sự có lý không. Nếu Thượng đế vượt quá thế gian, nếu Thượng đế đã sinh tạo thế gian, thì tại sao Thượng đế phải tuân thủ một hình ảnh được tạo ra trong thế gian?

17.5. Thượng đế vượt lên trên các hình ảnh nhân gian

Một hình ảnh có hình tướng. Con sống trong thế giới hình tướng. Con người nhìn các hình tướng thấy được trên trái đất, họ nhìn thấy các hình tướng của chính tâm lý của họ, tâm lý nhị nguyên, tâm tách biệt và họ dùng những hình tướng này để tạo dựng những hình ảnh và sau đó phóng chiếu những hình ảnh này ra ngoài. Họ phóng chiếu hình ảnh lên Thượng đế, nhưng nếu Thượng đế vượt lên trên hình tướng thì làm sao Thượng đế lại có thể tuân theo hay bị gò bó trong bất kỳ hình ảnh nào được tạo ra trong thế giới hình tướng?

Nếu Thượng đế là nguồn gốc của hình tướng thì há chẳng hợp lý sao là Thượng đế vượt quá hình tướng? Chúng ta không hoàn toàn chính xác khi nói Thượng đế vô hình tướng vì đấng Sáng tạo có cá tính, nhưng chắc chắn cá tính này vượt lên trên mọi hình tướng tìm thấy trong thế giới hình tướng. Làm sao hợp lý được khi con người trên hành tinh này, một hành tinh rõ ràng là lạc hậu, lại có thể tạo ra một hình ảnh về Thượng đế và Thượng đế sẽ tuân theo hình ảnh này? Lẽ tự nhiên, sa nhân sẽ nói đây không phải là một hình ảnh về Thượng đế vì Thượng đế chính là như vậy. Một lần nữa, con hãy nhìn vào hầu hết các thượng đế do các tôn giáo trên thế gian miêu tả và sẽ thấy vị Thượng đế này có hình tướng, Thượng đế này có điều kiện và tình thương của Thượng đế đó có điều kiện.

Khoa học cho con biết là mọi sự đều được tạo ra từ năng lượng. Năng lượng đã khoác vào hình tướng của những vật mà con thấy trong thế giới vật chất, mà con thấy được bằng giác quan hay bằng tâm. Các vật này đều có một hình tướng khác biệt phân biệt vật này với vật kia, nhưng năng lượng đã tạo mọi hình tướng từ đâu đến? Nó đến từ bên ngoài vũ trụ vật chất. Có lý chăng khi cho rằng năng lượng tạo hình tướng cũng có cùng hình tướng?

Chẳng phải có lý hơn là năng lượng vượt lên trên hình tướng? Nó hơn bất kỳ hình tướng nào mà con có thể thấy trong thế giới này. Do đó, một trong những năng lượng được dùng để tạo ra thế giới hình tướng là tình thương, tình thương Thiêng liêng, nhưng tình thương này vượt lên trên mọi hình tướng trong thế giới này. Ánh sáng trắng trong máy chiếu phim vượt lên trên những màu sắc trên màn ảnh. Ánh sáng này khoác vào màu sắc khi nó đi xuyên qua cuộn phim, nhưng ánh sáng trắng vượt lên trên những hình ảnh trên cuộn phim.

17.6. Con không nhận được tình thương qua ngã phản ứng

Nếu con muốn kết nối với tình thương Thiêng liêng, con phải bắt đầu bằng cách nhận ra là nó không tuân theo những điều kiện do con người quy định. Con phải sẵn sàng nhận chân rằng chuyện không thể tránh được là trong kiếp này và các kiếp trước, con đã tạo ra những ngã phản ứng lại những hình ảnh về tình thương có điều kiện, tình thương nhân gian, tình thương kiểm soát. Các ngã này không thể kết nối với tình thương Thiêng liêng, không thể hiểu thấu tình thương Thiêng liêng.

Một cái ngã không thể hiểu thấu khái niệm tình thương vô điều kiện. Nó không thể xử lý khái niệm này. Con không thể trải nghiệm tình thương Thiêng liêng xuyên qua một ngã như thế. Đó là lý do tại sao con cần phơi bày ngã, thấy ảo tưởng, buông bỏ nó. Lẽ tất nhiên đây là mục đích chính của giáo lý của các thày, đặc biệt là cuốn sách do thày trao truyền trong khóa học tự điều ngự. Con có thể tiến triển trong công việc này bằng cách làm một bài thiền tập có vẻ giản dị, thậm chí có vẻ thô sơ vì nó không cần lý luận trí năng phức tạp nào.

17.7. Bài thiền tập về Tình thương

Bài thiền tập mà thày đề nghị giản dị như sau. Con ngồi trong tư thế thoải mái trong một căn phòng yên tịnh, con khép mắt lại và con nhắc nhẹ nhàng trong tâm câu thần chú:

Tình thương là, Tình thương là.

Con sẽ nhận thấy là trong con có thể khởi lên một phản ứng với câu đó. Có một cái tâm, một cái ngã muốn nói: “Tình thương là gì? Tình thương phải là cái gì đó. Nó không thể chỉ là, nó phải là cái gì đó. Nó phải có hình tướng. Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể nắm bắt và cầm giữ. Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể sỡ hữu, mô tả, phân tích. Tôi là cái tâm, công việc của tôi là giải thích và hiểu mọi việc, nhưng nếu cái đó không có đặc tính, thì đâu có gì để giải thích và hiểu? Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể làm việc với nó. Bạn đã tạo ra tôi để tôi hiểu và giải thích mọi thứ cho bạn. Bạn không thể chỉ ngồi đó và nói: ‘Tình thương là,’ nó phải là cái gì đó.”

Nếu con chịu xem xét phản ứng này, thì nó có thể giúp con phơi bày một số những ngã tiềm thức đó. Vì lúc đó con có thể nói, à tâm của tôi nói tình thương phải là gì? Con hãy cho phép tâm con nói hết câu tình thương là và cho phép tâm con gán cho tình thương những đặc tính. Giờ đây con đã đưa tâm con vào tình trạng khó xử, vì khi tâm nói tình thương là thế này, thế nọ, thì con đã phơi bày một trong những ngã tiềm thức đang cầm giữ một hình ảnh do con người tạo ra về Thượng đế, về tình thương.

Lúc đó con có thể làm việc với ngã này cho tới khi con thấy nó và con có thể buông bỏ nó. Nếu tâm làm những gì nó được lập trình để làm, nếu nó nói hết câu, thì nó phơi bày ngã ra. Điều khôn ngoan nhất tâm có thể làm là lặng thinh nhưng tâm có thể lặng thinh chăng? Thường thì không đâu. Con thấy đây là một bài tập rất, rất giản dị, một bài thiền tập rất, rất giản dị, nhưng nó có thể vô cùng hữu hiệu. Nếu con muốn, con có thể dùng bài tập này để trải qua một giai đoạn trong đó con làm việc với những ngã đang cầm giữ những hình ảnh về tình thương có điều kiện, một điều kiện nào đó. Con có thể tới điểm mà con chỉ ngồi và lặp lại câu thần chú, “Tình thương là” và con bình an với vỏn vẹn Tình thương là.

Con không cần thêm phần cuối vào câu nói. Con không cần gán đặc tính lên tình thương. Con có thể cho phép tình thương là bất cứ cái gì nó sẽ là, cái “Ta Sẽ Là Cái Ta Sẽ Là.” Đây là lúc con có thể kết nối và trải nghiệm tình thương Thiêng liêng vượt lên trên mọi điều kiện. Nó là một năng lượng. Nó là một Hiện diện. Nó là một trạng thái tâm thức. Con không thể hiểu nó, không thể nắm bắt nó với tâm. Khi con bắt đầu trải nghiệm nó, thì con nhận ra chính vì tâm không thể nắm bắt nó, nên tâm cũng không thể gạt nó ra ngoài.

Tâm có thể khiến con chia trí và không tập trung vào tình thương Thiêng liêng nhưng nó không thể gạt tình thương Thiêng liêng ra ngoài vì các ngã tách biệt, các ngã tiềm thức chỉ có thể gạt ra ngoài những gì có đặc tính mà tâm có thể nắm bắt. Phin lọc nhận thức của con, như các thày đã gọi nó, chỉ có thể lọc ra những gì có đặc tính, chỉ có thể ngăn chận cái gì có đặc tính. Cái không có đặc tính mà tâm nhị nguyên có thể nắm bắt, cái đó sẽ đi xuyên qua rào cản của phin lọc nhận thức. Lúc ấy con có thể một lần nữa dùng bài thiền tập giản dị để vô hiệu hóa tâm đường thẳng muốn đặt tình thương vào một tiến trình đường thẳng, một thước đo đường thẳng với hai đối cực nhị nguyên, như tình thương chân thật. 

17.8. Chỉ có tình thương Thiêng liêng mới có thể khiến con mãn nguyện

Con hãy xem xét khái niệm đã thấm vào tâm thức tập thể: tình thương thật đối ngược với tình thương giả. Làm sao tình thương có thể thật hay giả? Tình thương có điều kiện có thể thật hay giả, nhưng tình thương Thiêng liêng làm sao có thể thật hay giả? Làm sao con có thể gán những khái niệm thật và giả lên một đặc tính thiêng liêng? Đây là điều mà tâm muốn làm, vì qua đó nó cảm thấy nó đang nắm quyền kiểm soát. Tâm cảm thấy vì nó kiểm soát được tình thương, nó có thể dùng tình thương để kiểm soát người khác, có được điều nó muốn và vượt qua được cảm giác thiếu thốn gắn liền với tâm tách biệt.

Một khi con bước vào tách biệt, con sẽ cảm thấy thiếu thốn vì con không nhận được các đặc tính thiêng liêng là điều duy nhất có thể thực sự khiến con mãn nguyện và lấp đầy tâm con. Ngã tách biệt không thể hiểu và nắm bắt điều này, nhưng cái Ta Biết lẽ dĩ nhiên hiểu được. Con có thể tới điểm con nhận ra và hoàn toàn chấp nhận là cách duy nhất khiến con mãn nguyện là nhận được một đặc tính thiêng liêng.

Nếu con muốn tình thương, con có nhận được bao nhiêu tình thương nhân gian cũng không thể thật sự thỏa mãn nhu cầu tình thương của con. Chỉ tình thương Thiêng liêng mới có thể thỏa mãn nhu cầu tình thương. Lẽ tất nhiên, tình thương Thiêng liêng không thể thỏa mãn nhu cầu tình thương của ngã tách biệt. Không gì có thể thỏa mãn nhu cầu tình thương của ngã tách biệt, nhưng cái Ta Biết có thể bước ra ngoài ngã đó và nhận ra ngã đang cố tìm kiếm điều không bao giờ thỏa mãn được.

Con có nhận bao nhiêu tình thương nhân gian chăng nữa, nó vẫn không thể thỏa mãn con. Tình yêu nhân gian có thể khiến con xao lãng một thời gian ngắn khi con đang yêu ai đó, nhưng sớm muộn thì tuần trăng mật cũng chấm dứt. Cái Ta Biết có thể tới điểm nhận ra: “Tôi sẽ không bao giờ thỏa mãn với cái này. Tôi chỉ có thể cảm thấy thỏa mãn, tràn đầy, mãn nguyện khi tôi trải nghiệm tình thương Thiêng liêng.”

17.9. Bài thiền tập chấp nhận Tình thương

Một khi con đã làm xong bài thiền tập “Tình thương là,” thì thày đề nghị bước kế tiếp. Một lần nữa, con vào một phòng yên tĩnh, nhắm mắt lại và trong tâm con lặp lại câu thần chú, “Tôi chấp nhận tình thương.”

Một lần nữa, con có thể khám phá một phản ứng. Tâm có thể có nhiều phản ứng hay lý do vì sao con không thể giản dị chấp nhận tình thương. Một lần nữa, có thể có những điều kiện mà con hay thế gian cho rằng con phải hội đủ để có thể chấp nhận tình thương, và lúc đó con có thể làm việc với các ngã này. Con có thể tới điểm có thể lặp lại câu thần chú này, “Tôi chấp nhận tình thương”, và tiếp tục lặp lại cho tới khi con trải nghiệm nó.

Tâm con vẫn sẽ tìm cách xen vào vì nó sẽ nói: “À, ông thày nói nghe có vẻ hay, ông nói về tình thương, ông nói về tình thương vô điều kiện, nhưng tình thương vô điều kiện như thế nào? Cảm giác khi trải nghiệm tình thương vô điều kiện như thế nào? Nói cho tôi biết đi, bởi vì làm sao bạn có thể biết bạn đang nhận được tình thương vô điều kiện nếu bạn không thể mô tả nó, và ông ấy thì nói là tình thương này vượt quá các đặc tính, vượt quá hình tướng. Làm sao bạn có thể biết được bạn đã trải nghiệm nó?”

17.10. Tâm không thể nào trải nghiệm tình thương Thiêng liêng

Đây là điều tâm sẽ làm, đây là thủ thuật mà tâm dùng để khuynh loát con. Giải pháp cho điều có vẻ bí ẩn này rất ư giản dị. Con không cần có một hình ảnh trong tâm về cảm giác trải nghiệm tình thương Thiêng liêng sẽ như thế nào. Thày có thể bảo đảm với con là khi con trải nghiệm nó, con sẽ biết đây là tình thương Thiêng liêng. Con sẽ không có chút nghi ngờ là con đã trải nghiệm tình thương Thiêng liêng.

Con không cần mô tả tình thương Thiêng liêng theo cách mà tâm có thể nắm bắt, vì con không trải nghiệm tình thương Thiêng liêng bằng tâm. Như các thày đã nói, tâm quan sát mọi vật từ một khoảng cách. Nó tạo ra một tâm ảnh và sau đó nó phóng chiếu rằng tâm ảnh chính là vật. Tâm muốn tạo ra một hình ảnh về trải nghiệm tình thương Thiêng liêng nghĩa là gì, cảm thấy nó như thế nào.

Con hãy bảo tâm con mô tả cảm giác khi ăn một trái táo và con sẽ thấy là tâm bị kẹt. Con có cần ai mô tả cảm giác khi ăn một trái táo chăng? Hay con có thể giản dị vào cửa hàng thực phẩm mua một trái táo và cắn một miếng? Tại sao con cần mô tả khi con có trải nghiệm trực tiếp? Cũng thế thôi với tình thương Thiêng liêng. Tại sao con cần mô tả cảm giác như thế nào? Con hãy mở tâm ra với trải nghiệm trực tiếp và thày có thể bảo đảm với con trải nghiệm này không thể nhầm lẫn được. Con không hề nghi ngờ con đã chạm gấu áo của chân sư và con đã trải nghiệm cái gì đó vượt lên trên tâm. Vì tình thương Thiêng liêng vượt lên trên tâm. Tâm không thể trải nghiệm nó.

Các thày muốn ngụ ý gì khi nói về tâm, tâm đường thẳng, tâm phân tích? Nếu thày hỏi con, tâm con ở nơi nào trong thân thể con? Chắc hẳn hầu hết các con sẽ chỉ vào đầu, vào bộ óc và nói chính bộ óc là cái đang suy nghĩ. Tâm nằm trong bộ óc và đây là một hình ảnh tiện dụng.

Lẽ đương nhiên, con không thể hiểu nó theo nghĩa đen vì tâm nhiều hơn bộ não, nhiều hơn sinh hoạt của bộ não. Tâm đường thẳng, lý luận, phân tích quá ăn khớp với não bộ và các chức năng của não bộ nên, khi con xem xét thân vật lý và năng trường của con, thì nói rằng tâm nằm trong đầu, trong não bộ là chuyện hợp lý.

Con trải nghiệm tình thương Thiêng liêng ở đâu? Không phải trong đầu mà nơi luân xa trái tim và nó không ở trong đầu. Tại sao con cần tâm đường thẳng suy nghĩ để trải nghiệm tình thương Thiêng liêng chứ? Con không thể suy nghĩ để tới được trải nghiệm tình thương Thiêng liêng, giống như con không thể suy nghĩ để tới được trải nghiệm hương vị trái táo. Trải nghiệm một đặc tính của Thượng đế không đến từ suy nghĩ về đặc tính đó. Vấn đề là cắn vào trái táo tình thương thay vì đứng đó và suy nghĩ sẽ cảm thấy thế nào khi cắn vào trái táo?

Ấy, tâm sẽ phản đối: “Nhưng giả dụ tôi không thể đơn giản cắn nếm tình thương? Cắn một miếng táo thì dễ, nhưng làm thế nào để cắn một miếng tình thương Thiêng liêng? Trái táo thì có hình tướng tôi nắm bắt được. Thày nói tình thương Thiêng liêng không có hình tướng. Vậy thì làm sao tôi cắn một miếng được?” Lại thêm một lần nữa và một lần nữa, con thấy tâm làm điều duy nhất nó có thể làm, đó là nắm bắt một hình tướng: “Hãy cho tôi cái gì tôi có thể cầm giữ.”

17.11. Vô hiệu hóa tâm

Một lần nữa, cái Ta Biết có thể nhận biết tâm và cách vận hành của tâm, và có thể quyết định tìm cách vô hiệu hóa tâm, bước ra ngoài tâm và đây chính là công dụng của câu thần chú: “Tình thương là.” Ta có thể coi nó như một công án, và như mọi công án mục đích của nó là làm cho tâm bị rối loạn, mờ tối và vô hiệu hóa. Con không thể suy nghĩ để tìm ra lời giải cho một công án vì lời giải cho một công án là một trải nghiệm vượt quá tâm suy nghĩ.

Khi con đã dùng câu thần chú “Tình thương là,” và “Tôi chấp nhận tình thương,” thì một số người có thể lợi lạc nếu gán ghép tình thương Thiêng liêng với một hình tướng con người (nếu con không thể nắm bắt và trải nghiệm tình thương Thiêng liêng như một đặc tính hoàn vũ). Lẽ tất nhiên, điều dễ nhất là con tập trung vào thày là Thượng sư của tia thứ ba.

17.12. Dùng bài chú như một thần chú

Con có thể đọc bài chú của thày, con có thể tìm hiểu sách của thày. Nếu con cảm thấy dễ kết nối hơn với một Đại thiên thần hay một Elohim thì con hãy làm thế, nhưng hầu hết mọi người sẽ cảm thấy dễ kết nối với vị Thượng sư hơn vì các thày gần người đang hiện thân trong cõi vật lý hơn. Các thày đang làm việc trực tiếp hơn với các con. Con cứ dùng bất cứ cách nào giúp con hòa điệu với thày. Một lần nữa, tâm sẽ nói: “Vâng, vậy hãy cho tôi một hình ảnh, cho tôi một chân dung. Chân dung của chân sư đó đâu?”

Con sẽ thấy là với các đợt truyền giáo trước có chân dung các chân sư và nhiều người dùng các chân dung này để hòa điệu với vị chân sư, ít nhất là hòa điệu phần nào. Dùng một tấm hình không nhất thiết là sai nhưng với các con trong đợt truyền giáo này, các con không cần hình ảnh vì đôi khi hình ảnh có thể ngăn chặn trải nghiệm vì con tập trung vào hình ảnh và do đó con cho tâm một cái gì đó để nắm giữ.

Thay vào đó, thày đề nghị con lấy bài chú của thày, con đọc hết bài chú và con tìm hai câu nào đặc biệt thu hút con và con dùng hai câu này như câu thần chú. Con chỉ lặp lại hai câu này trong tâm, con thiền quán về hai câu này, chiêm nghiệm chúng hay chỉ lặp lại mà không nghĩ về chúng. Khi con có ý tưởng khởi lên và con nhận biết mình đang suy nghĩ, thì con chỉ trở về với hai câu đó, bất kỳ hai câu nào mà cá nhân con đã chọn.

Thày sẽ không cho con một ví dụ vì thày không muốn bỏ bất cứ gì vào tâm con. Con đọc bài chú chậm rãi, quán chiếu nó và coi xem có hai câu nào nổi bật, rồi con dùng hai câu đó như câu thần chú để hòa điệu với thày. Thày là một vị chân sư dễ hòa điệu với vì tình thương ở khắp mọi nơi. Làm sao con tìm thấy được nơi nào không có tình thương? Thày đại diện tình thương Thiêng liêng trên địa cầu giống như Giê-su đại diện tâm Ki-tô.

Như Giê-su đã nói, con không thể tách biệt khỏi tâm Ki-tô vì làm sao con có thể tách biệt khỏi cái ở khắp nơi? Tình thương Thiêng liêng cũng vậy. Tình thương Thiêng liêng không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Nó không bị gò bó vào một địa điểm đặc thù. Đây là một hình ảnh khác mà con cần vượt qua vì các sa nhân đã phóng chiếu điều gì từ rất lâu nay? Trên trái đất có những nơi linh thiêng. Có một số nơi đặc biệt và ở đó con có thể có một ngôi đền, một ngôi đền tình thương Thiêng liêng và nếu con tới đó, con sẽ trải nghiệm tình thương Thiêng liêng.

Đây lại là một ảo tưởng vì khi tình thương Thiêng liêng có khắp nơi, tại sao con cần tới một nơi đặc biệt? Người Cơ đốc giáo đã phóng chiếu vì Giê-su xuất hiện ở Israel, đấy phải là đất thánh, nhưng như Giê-su đã giải thích, đó là nơi con người bị mắc kẹt nhiều nhất trong tâm thức sa ngã. Con không thể quy định là một nơi nào đó trên trái đất có một sự tập trung cao của tình thương, vì tình thương không thể bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Tình thương ở khắp mọi nơi, nghĩa là con có thể hòa điệu với tình thương bất kỳ con đang ở đâu.

Tới đây thì thày đã trao cho các con những gì thày muốn trao. Các dụng cụ này trông có vẻ giản dị nhưng chúng hiệu quả vô cùng, nếu con sẵn lòng vô hiệu hóa tâm bằng cách khắc phục những ngã tách biệt luôn phóng chiếu ra ngoài

Tình thương bị tha hóa muốn kiểm soát. Tình thương Thiêng liêng không thể bị kiểm soát. Nếu con tìm cách kiểm soát nó bằng cách ép nó vào một hình tướng nào đó, nó sẽ lướt qua con, con sẽ không nhận thấy nó, con sẽ không trải nghiệm nó. Khi con có thể mở tâm ra đón nhận nó, nó sẽ tuôn chảy xuyên qua con. Không cần phải thắc mắc điều này vì đây là điều tình thương làm, đây là điều tình thương là: Một dòng chảy liên tục từ Tánh linh vào trong thế giới vật chất, để nhắc nhở thế giới vật chất, để đánh thức thế giới vật chất nhận ra Tình thương là. Do đó, TA LÀ tình thương và đây có thể là một câu thần chú khác mà con có thể sử dụng nếu con cảm thấy nó giúp ích con.

Trong tình thương lớn, trong lòng biết ơn lớn, thày niêm con trong Tia sáng Thứ ba của Tình thương Thiêng liêng mà THÀY LÀ cho địa cầu. TA LÀ Paul người Venice.

19 | Tự gia tốc vượt lên trên tiêu chuẩn nhị nguyên về sự tinh khiết

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Serapis Bey qua trung gian Kim Michaels ngày 5/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Serapis Bey, Thượng sư của Tia sáng thứ Tư. Tia sáng thứ Tư có thể giúp gì cho các con để các con hòa điệu được với các thày? Sẽ không có nhiều người có thể hòa điệu được với Tia thứ Tư, nhưng lẽ tất nhiên luôn luôn có một số sẽ hiểu, sẽ nắm bắt, sẽ hòa điệu, sẽ cộng hưởng được với Tia thứ Tư.

Tia thứ Tư gần như nằm ở điểm kết nối giữa ba tia sáng đầu và ba tia sáng kế tiếp, do đó nó đòi hỏi các con phải bước lên cao hơn. Trước đây thày gọi nó là Tia của Gia tốc, dù rằng theo truyền thống nó được xem là Tia của Tinh khiết. Thật ra cả hai là một bởi vì con đạt được tinh khiết bằng cách nào? Chỉ bằng cách gia tốc sự rung động của cái có rung động thấp hơn, và lẽ dĩ nhiên một rung động thấp hơn là định nghĩa của bợn nhơ. Thật ra không có gì hoàn toàn ô trược theo nghĩa nhị nguyên, nhưng có rung động cao hơn và rung động thấp hơn, và những rung động thấp hơn một mức nào đó là cái mà chúng ta coi là bợn nhơ. Bởi vì dù sao chăng nữa thì tất cả đều là năng lượng, nên năng lượng thấp luôn luôn có tiềm năng gia tốc và trở nên tinh khiết, trở thành năng lượng cao chảy về phía trên. Năng lượng thấp chảy về phía dưới, năng lượng cao chảy về phía trên.

Sẽ có một số người có sự đồng cảm với Tia thứ Tư. Có thể họ thích cái gì tinh khiết, cái thường giản dị, không phức tạp, không bị quấy nhiễu bởi nhiều cách diễn giải hay nhiều khía cạnh khác nhau. Quả thật, khi con nhìn vào rung động, khi con có thể đọc sự rung động, thì diễn giải trí năng đâu còn chỗ đứng nữa? Ta có thể coi đây là một điều mà khoa học đã đem vào thế gian, rằng con có thể đo lường chính xác, được gọi là khách quan, và không cần bàn cãi gì nhiều nữa. Nhiệt độ hoặc là 20 độ hay 40 độ, nhưng con có con số chính xác và lẽ tất nhiên, rung động cũng vậy.

19.1. Dụng cụ để hòa điệu với Tia thứ Tư

Làm sao con hòa điệu với Tia thứ Tư? Lẽ tất nhiên con có thể làm bằng nhiều cách. Các bài chú và bài thỉnh trong quyển Những Khai ngộ thần bí về Ý định, sách của thày trong bộ Con đường dẫn tới Tự điều ngự, đều có thể giúp con hòa điệu, nhưng như các thày khác đã giải thích, các thày đã quyết định cho các con những dụng cụ trông có vẻ giản dị hơn.

Dụng cụ đầu tiên thày muốn trao cho con như sau: Con ngồi yên, khép mắt và rút sự chú ý vào bên trong. Có một trung tâm trong bản thể con. Con có thể thấy trung tâm đó ở bất kỳ đâu, không nhất thiết là luân xa gốc hay luân xa trái tim hay một luân xa đặc thù nào khác. Con rút sự chú ý vào trung tâm đó cho tới khi nó đi vào một điểm mà khoa học gọi là điểm dị biệt – một điểm duy nhất không có nối dài, không có chiều rộng, chỉ có một điểm mà thôi. Con không hình dung điều gì sẽ xảy ra, con chỉ đơn giản cho phép nó xảy ra. Cái xảy ra giống như một nổ bùng với ánh sáng trắng tỏa ra từ điểm đó và ánh sáng thâm nhập hào quang của con, nó thâm nhập trường năng lực của con và nó tỏa ra ngoài từ bản thể của con. Đây là một bài hình dung và thiền tập rất giản dị. Con rút sự chú ý của con vào điểm dị biệt nơi trung tâm và sau đó cho phép ánh sáng nổ bùng ra ngoài.

Thày không khuyên con làm bài tập này suốt ba tiếng đồng hồ mỗi lần. Có thể con chỉ nên làm bài tập này ba lần khi con bắt đầu để không bị quá tải. Bài tập này có nhiều sức mạnh giúp con cảm nhận sự chiếu tỏa của Tia thứ Tư của Tinh khiết, là ánh sáng trắng đến độ nó trắng hơn bất cứ thứ gì con thấy trong bát cung vật lý. Nếu con có bất cứ chứng bệnh nào trong thân thể, thì con có thể làm bài tập này và chú tâm vào nơi đau trong cơ thể và cho phép ánh sáng tỏa rạng ra. Con không ép ánh sáng hay đẩy ánh sáng ra, con chỉ đơn giản rút sự chú ý vào điểm duy nhất đó, và sau đó con cho phép thày, là Thượng sư của Tia thứ Tư, tỏa rạng ánh sáng trắng ra.

19.2. Tâm đường thẳng muốn khiến mọi chuyện phức tạp

Một lần nữa, đây là một bài tập giản dị, nhưng sự giản dị thường là chìa khóa của thay đổi. Thay đổi, vượt thăng không phức tạp. Con không thể vượt thăng bằng cái tâm muốn khiến mọi chuyện thêm phức tạp vì như vậy nó cảm thấy cao trội hay tinh vi và cảm thấy nó đã tìm ra cách dùng sức mạnh để xông vào thiên đường. Đó là điều tâm muốn làm, không cứ là tự ngã nhưng tâm đường thẳng cũng vậy. Dù các thày nói về tâm đường thẳng, nhưng các thày không muốn tố cáo tâm đường thẳng. Tâm đường thẳng có chỗ đứng của nó, có chức năng của nó. Nó có thể giúp con làm nhiều, nhiều chuyện trong thế giới vật chất.

Khoa học, như con được biết đến, phần lớn dựa trên tâm đường thẳng. Lẽ tất nhiên đó cũng là lý do vì sao khoa học ngày nay đã tạo ra những vấn đề có thể trở nên mối đe dọa lớn cho tương lai của hành tinh này, cho dù đó là chiến tranh nguyên tử hạch nhân, nạn ô nhiễm hay bất kỳ vấn đề nào khác. Tâm đường thẳng có một chức năng. Nó có một chỗ đứng, nhưng nếu cho phép nó cai quản thì nó phải tạo ra vấn đề. Nó sẽ gây vấn đề. Do đó tâm đường thẳng sẽ không dẫn con vào thiên đàng. Một khi con tìm ra con đường tâm linh và bắt đầu học một giáo lý tâm linh, thì tâm đường thẳng có thể bắt đầu tin rằng nó có thể đưa con lên thiên đàng vì tâm đường thẳng nhìn mọi chuyện theo một cách nào đó.

Có thể con đã có nghe câu ngạn ngữ tiếng Anh: nếu dụng cụ duy nhất mà con có là cái búa thì con sẽ nghĩ tất cả mọi vấn đề đều là cái đinh. Tâm đường thẳng chỉ có dụng cụ duy nhất là sự phân tích, lý luận. Cho nên nó nghĩ mọi vấn đề đều có thể giải quyết được bằng phân tích, lý luận, tìm hiểu vấn đề. Tâm đường thẳng nghĩ rằng một khi nó hiểu vấn đề, thì nó có thể giải quyết vấn đề bởi vì nếu con có hiểu biết đường thẳng thì con sẽ thấy một giải pháp đường thẳng. 

Lẽ tất nhiên, “vấn đề” tăng triển tâm linh không có giải pháp đường thẳng. Chỉ có tâm đường thẳng mới xem tăng triển tâm linh là một vấn đề. Nó nói: “Tôi đang ở đây. Đáng lẽ tôi không được ở đây. Đáng lẽ tôi phải ở trong một trạng thái tâm linh cao hơn. Thế nào cũng có một trình tự đường thẳng tới trạng thái đó, và nếu tôi hiểu ra cơ chế đưa tới trình tự đó thì lúc ấy tôi sẽ có thể vào thiên đàng.” Lẽ tất nhiên, các thày đã cho các con khái niệm về con đường tâm linh và 144 tầng tâm thức, đây là điều mà tâm đường thẳng rất thích. Các thày cũng đã nói rất nhiều lần là các con không tiến bộ được trên con đường tâm linh bằng cách hiểu. Điều quan trọng là xoay chuyển tâm thức và điều này không thể thực hiện bằng hiểu biết trí năng. Điều đã xảy ra cho hầu hết mọi người là họ đã đi xuống dưới tầng tâm thức 48. Họ đã đi vào tách biệt. Họ đã bị choáng ngợp và mù quáng bởi trạng thái tâm thức nhị nguyên nơi đó có một thước đo với hai đối cực cực đoan. Khi con theo lối suy luận nhị nguyên này thì con nghĩ một đối cực là vấn đề, là điều kiện cần khắc phục, và đối cực kia là giải pháp, là điều kiện cần đạt tới. Tâm đường thẳng sẽ suy nghĩ: “Làm sao chúng ta có thể tiêu trừ vấn đề? Làm sao chúng ta có thể đem lại giải pháp?”

19.3. Tâm đường thẳng không thể thăng vượt chính nó

Như Phật khi xưa tìm cách dạy con người khái niệm Trung đạo, giải pháp không phải là một trong hai đối cực nhị nguyên. Giải pháp là thăng vượt thước đo, thăng vượt tầng mức tâm thức thấy có hai đối cực. Tâm đường thẳng không làm sự thăng vượt này vì chính nó đã quy định các đối cực, quy định thước đo và tâm đường thẳng không thể thăng vượt chính nó. Nó có thể lý luận trên một số đề tài nhưng nó không thể thăng vượt chính nó. Cái Ta Biết có thể thăng vượt chính nó vì nó có tự nhận biết, trong khi tâm đường thẳng giống như một máy tính nhưng nó là một máy tính tinh vi có thông minh nhân tạo và do đó có thể thích ứng.

Tâm đường thẳng có thể học thêm và thêm nữa. Nó có thể thích nghi với một số điều kiện. Con gần như có thể coi tâm đường thẳng giống như một trong những rô-bốt mà con người đã chế tạo và có vẻ như có khả năng suy nghĩ như con người. Con có thể nói là con rô-bốt suy nghĩ giống cách hầu hết con người nghĩ vì họ nghĩ với tâm đường thẳng. Dẫu thế, một máy tính không thể vượt quá lập trình của nó, nó không thể vượt thăng lập trình của nó, và tâm đường thẳng cũng vậy. Cái Ta Biết có thể vượt thăng chính nó, vì nó không có lập trình khi nó nhận ra nó là nhận biết thuần khiết.

Điều gì giúp con trải nghiệm nhận biết thuần khiết? Như các thày đã nói, điều cốt yếu là tinh lọc các thứ trong bốn thể phàm của con đang lôi kéo sự chú ý của cái Ta Biết vào ngã tách biệt, vào phin lọc nhận thức, vào ý niệm bản ngã đó. Khi con đã trong lọc đúng mức, thì cái Ta Biết có thể rút ra khỏi ngã tách biệt dễ dàng hơn.

19.4. Bài tập để làm rối tâm đường thẳng

Thày cho con một bài tập khác có thể giúp con với chuyện này. Một lần nữa, con hãy ngồi trong một căn phòng yên tĩnh, và bây giờ con tưởng tượng, con hình dung con đang đứng ở một nơi hoàn toàn bằng phẳng, một mặt phẳng hoàn toàn bằng phẳng, tuyệt đối bằng phẳng, và nó mở rộng về mọi hướng tới tận xa nhất mà con có thể nhìn. Bây giờ con hãy rút sự chú ý vào bên trong, vào trung tâm của bản thể của con. Con không tỏa rạng ánh sáng mà để sự chú ý đi xuyên qua trung tâm bản thể của con và sau đó đi ra ngoài trên mặt bằng phẳng. Con rút sự chú ý vào bên trong nhưng thay vì đi thẳng ra ngoài, con đi xuyên qua trung tâm và sau đó đi ra ngoài về mọi hướng. Có thể là tập trung nơi hai mắt sẽ giúp con dễ hình dung nhất. Hai mắt con kéo về trung tâm và ánh mắt của con đi xuyên qua trung tâm tới cả hai hướng, tới lui, vào trong ra ngoài, vào trong ra ngoài, vào trong ra ngoài.

Con cứ thong thả làm bài tập này. Con không cần làm nhanh. Lúc mới đầu, con có thể cảm thấy rất bị rối, mất phương hướng, thậm chí rất khó thực hiện, nhưng sau khi tập một lúc, con sẽ thấy là sự chuyển động đi vào bên trong đi ra bên ngoài khiến tâm đường thẳng bị rối và con có thể tới được điểm cảm thấy một sự yên tĩnh nào đó, một sự im lặng nào đó trong tâm. Lúc ấy, con thôi không chú tâm đi vào bên trong đi ra bên ngoài nữa. Con chỉ chú tâm vào sự yên tĩnh đó, con mở rộng sự chú ý của con ra ngoài trên mặt bằng phẳng không có hình tượng gì đặc biệt. Con đơn giản để chú ý của con đi ra ngoài và tiếp tục ra ngoài, kéo giãn nó ra xa thật xa và xa tối đa và sau đó con dần dà, chậm rãi kéo sự chú ý vào bên trong trở lại. Con có thể lặp lại nhiều lần. Hoặc con có thể đơn giản cho phép sự chú ý của con nghỉ ngơi khi con đã kéo nó ra xa tối đa, nếu con cảm thấy làm vậy tự nhiên hơn.

Một lần nữa, đây là một bài tập rất giản dị, hay ít nhất nó có vẻ giản dị. Tâm sẽ không thể nắm được mục tiêu của bài tập. Nó sẽ nói: “Mục đích là gì vậy? Bài tập này dẫn tới đâu? Bài tập này đem lại gì cho tôi?” Con thấy chăng, ý chính của bài tập là không có ý gì, bài tập không có mục đích, không có chỉ tiêu mà con phải đạt. Con chỉ trải qua tiến trình và cho phép nó trải bày. Khi thày nói không có mục đích gì, lẽ tất nhiên, thày muốn nói là không có mục đích mà tâm đường thẳng có thể nắm bắt được.

Con sẽ thấy là ngoài thế gian có nhiều kỹ thuật thiền định luôn luôn hứa hẹn là con sẽ đạt được một thành quả nếu con tập theo đúng kỹ thuật. Thày sẽ không hứa hẹn thành quả, thày sẽ nói là nếu con cảm thấy bài tập thu hút con, thì con cứ tập. Nếu nó không thu hút con, thì con quên nó đi. Nếu con quyết định tập, thì con hãy dành chút thời giờ và xem chuyện gì xảy ra. Thay vì bắt đầu với một mục đích và tiến tới mục đích, con hãy coi mục đích của bài tập chỉ là thử nghiệm, tham gia tiến trình và xem nó trải bày ra sao. Một lần nữa, tâm đường thẳng sẽ phản đối: “Hãy định ra mục đích để tôi nhắm tới. Làm sao tôi biết được cách tới đó nếu tôi không biết tôi đi đâu?”

Con thấy chăng, tâm đường thẳng không đi đâu cả. Đấy chính là ý nghĩa bài tập và cũng có thể nói là con cũng không đi đâu cả. Cũng có thể là con sẽ đi, khi an bình hiện ra khi tâm đường thẳng bị vô hiệu hóa, khi con trải nghiệm con là nhận biết thuần khiết không có đặc tính và không có nối dài nhất định trong không gian. Nó không tập trung vào một điểm, nó không có biên giới, nó chỉ là nhận biết thuần khiết.

19.5. Cốt lõi của con đường tâm linh ở các tầng cao

Có nhiều đệ tử, đặc biệt là trong các đợt truyền giáo trước, đã nghĩ rằng Tia thứ Tư rất nghiêm khắc, rằng thày là người rất trọng kỷ luật. Thật vậy không, tại sao họ lại nghĩ thế? Họ nghĩ thế vì họ chưa nhận được giáo lý về các ngã tách biệt, cho nên họ không thật sự hiểu cơ chế vận hành mà các thày đã trao truyền – rằng cốt lõi của tăng triển tâm linh là tới chỗ nhận ra các ngã tách biệt và buông bỏ chúng. Do đó, họ nghĩ họ phải ép mình vào kỷ luật, cố gắng kiểm soát tâm, áp chế tâm, đi theo một con đường tu được xác định rõ ràng. Họ nhìn con đường tâm linh khác với các con nhìn. Một lần nữa, các thày không chỉ trích, các thày không tìm lỗi, các thày chỉ giản dị cho thấy là với tiến trình tiết lộ tuần tự, các thày có thể trao truyền một hiểu biết càng ngày càng cao hơn về con đường tu.

Như các thày đã nói, từ tầng tâm thức 48 tới tầng 96, con cần có kỷ luật, chú tâm để nâng mình lên khỏi tâm thức đại chúng. Khi con đã thoát đủ sức hút xuống của tâm thức đại chúng, thì con có thể lợi lạc hơn nếu con xét lại cách con nhìn con đường tu. Con hiểu là ở đây thày không bác bỏ những gì được dạy trong các đợt truyền giáo trước. Rõ ràng là con không thể tiến lên khỏi tâm thức đại chúng nếu con lười biếng, không tập trung hay thiếu miên mật. Con không thể tà tà trong việc tăng triển tâm linh vì tâm thức đại chúng sẽ liên tục kéo con xuống. Con cần có đủ chú tâm và quyết tâm để vun bồi một động lực kéo con lên khỏi trọng lực hút xuống của tâm thức đại chúng.

Một khi con đã làm được phần nào, thì con có thể áp dụng những giáo lý mà các thày đã trao truyền về cái Ta Biết và các ngã tách biệt. Con nhận ra là điều quan trọng không phải là cái Ta Biết đập dí các ngã tiềm thức để chúng phải phục tùng, dùng kỷ luật để ép các ngã tiềm thức hay dồn nén các ngã tiềm thức. Việc dồn nén và ép tâm tiềm thức vào kỷ luật có thể là một việc thích đáng lúc ban đầu, vì nếu không nó sẽ lôi kéo con theo quá nhiều hướng. Nhưng một khi con vượt lên trên sức hút của tâm thức đại chúng, thì con sẽ được lợi lạc nhiều nếu con xoay chuyển cách tu và nhận ra rằng cốt yếu của tăng triển tâm linh không do ép uổng bất cứ gì, mà do buông bỏ.

Con tới điểm thấy được một ngã tách biệt. Con thấy nó có tác dụng gì khi nó khiến con bị kẹt trong việc liên tục lặp lại không ngừng một khuôn nếp phản ứng. Con thấy ảo tưởng khiến con nghĩ con phải tiếp tục phản ứng như thế, đây là cách phản ứng duy nhất, thậm chí có thể đây là cách duy nhất để là một đệ tử tâm linh. Con thấy đây là một ảo tưởng. Con thấy ảo tưởng cho rằng có một vấn đề con phải giải quyết. Sau đó, con giản dị buông bỏ, con để cho ngã chết đi. Khi con để cho ngã chết đi, giả dụ ở tầng 96, thì con tức khắc lên tầng 97. Con không phải nỗ lực để lên tầng 97. Vì khi ngã đó chết, khi năng lượng được chuyển hóa, thì con sẽ lên tầng trên một cách tự nhiên. Do đó, sẽ có một điểm, và điểm này có thể xảy ra trước tầng 96, khi con xoay chuyển cách con tiếp cận con đường tâm linh, khi con nhận ra điều quan trọng không phải là cưỡng chế bất cứ điều gì.

19.6. Cái Ta Biết đến từ tâm thức Ki-tô

Điều quan trọng là buông bỏ và bắt đầu quán chiếu, như các thày đã nói, là cái Ta Biết quả thật là tâm thức Ki-tô bởi vì nó từ tâm thức Ki-tô mà ra. Tâm thức Ki-tô là tâm thức một. Tâm thức Ki-tô một cách tự nhiên tìm đường tới gần cái một hơn. Ở tầng 64, con gần cái một hơn khi con ở tầng 63. Cho nên khi con giải quyết một ngã ở tầng 63, thì cái Ta Biết vươn lên tầng kế tiếp một cách tự nhiên. Con không cần áp chế. Con không cần ép tâm theo kỷ luật. Con vươn lên một cách tự nhiên.

Con hãy cẩn thận xem xét điều thày đang nói. Có lúc con cần dùng khả năng của tâm để kỷ luật chính nó. Đúng vậy, con lúc đó có dùng sức mạnh. Con dùng vũ lực để trấn áp những ngã tách biệt đang kéo con xuống, kéo con vào những thói quen cũ, những khuôn nếp phản ứng cũ. Con nói: “Tôi không muốn tiếp tục cuộc sống thế gian này. Tôi muốn một cuộc sống tâm linh hơn.” Sau đó con triệt hạ những điều đang kéo con vào đời sống thế phàm và làm vậy có ích lợi trong một thời gian. Điều con đang làm là dùng tâm để trấn áp tâm, để ép tâm vào kỷ luật, áp chế tâm. Con có thể đạt đôi chút tiến bộ, nhưng con không thể đi xa hơn một mức nào đó. Con chắc chắn không thể đi quá tầng 96 bằng vũ lực.

“Con không thể dùng vũ lực để xông vào thiên đàng,” như Giê-su đã nói. Thày Giê-su cũng nói: “Kẻ hung bạo muốn cưỡng chiếm vương quốc thiên đàng bằng vũ lực, dùng vũ lực cưỡng ép mình vào tâm thức Ki-tô.” Điều này không thể làm được. Nếu con tới tầng 96 mà vẫn còn tìm cách dùng vũ lực thì con sẽ không đạt được sáng ngộ ở tầng này và do đó con sẽ bắt đầu đi xuống, đẩy mình đi xuống bằng vũ lực. Con có thể nghĩ con đang tiến triển vì con cảm thấy mình càng lúc càng giỏi hơn trong việc áp chế mình, nhưng con không đang vươn lên một tầng tâm thức cao hơn. Con chỉ đang bồi đắp cái ngã tâm linh mà con đã tạo ra từ tầng 48 tới tầng 96. Thậm chí con còn có thể rơi vào tâm thức sa ngã khi con nghĩ mục tiêu tối hậu là xây dựng một ngã tâm linh tinh vi nhất chưa ai làm được và sau đó chắc chắn Thượng đế phải cho phép con vào thiên đàng.

19.7. Gia tốc lên tinh khiết

Điều quan trọng con cần quán chiếu là con sẽ tới điểm con cần thăng vượt vũ lực, không dùng tâm đường thẳng để đè nén tâm đường thẳng hay thậm chí đè nén các ngã tiềm thức không nhất thiết lúc nào cũng đường thẳng. Trong một số trường hợp, chúng chỉ hỗn loạn và thiếu tập trung, chuyển từ ngã này sang ngã kia. Đây là một sự xoay chuyển quan trọng khi con rời bỏ cách tiếp cận dựa trên vũ lực. Đây là lúc con có thể thực sự gia tốc, gia tốc vào tinh khiết.

Con ngẫm nghĩ lý luận rất giản dị này: Tinh khiết là một đặc tính thiêng liêng. Làm sao con bước ra ngoài tinh khiết? Con ép mình rời tinh khiết.  Có lý chăng nếu con phải ép mình trở về tinh khiết? Không đâu, bởi vì một đặc tính thiêng liêng là một điều kiện tự nhiên. Như thày đã nói, tâm thức Ki-tô một cách tự nhiên tìm về với cái một. Bất cứ đặc tính thiêng liêng nào cũng tự nhiên tìm về cái một.

Khi con ngưng cưỡng bách mình rời cái một, thì cái Ta Biết một cách tự nhiên bắt đầu trở về hợp một với Hiện diện TA LÀ. Điều này xảy ra một cách tự nhiên. Nó không cần cố gắng vì con cần ngừng sự cố gắng đã ép con ra khỏi trạng thái tự nhiên. Đây là điều nhiều, nhiều người tâm linh khắp mọi nơi trải qua các thời đại không nắm bắt. Lẽ tất nhiên có một số người hiểu. Một số người nắm bắt được. Cũng đã có các giáo lý mô tả phương pháp không cố gắng, không dựa trên vũ lực. Tiếc thay, nhiều giáo lý trong số này không có khái niệm về các ngã tách biệt và khái niệm cái Ta Biết có thể đứng ra ngoài các ngã tách biệt và để cho chúng chết đi. Do đó, nhiều giáo lý trong số các giáo lý đó khó thực hành đối với một số người, đặc biệt là các người có tư duy Tây phương đường thẳng, vì họ gần như không thể khắc phục khuynh hướng nghĩ rằng họ phải làm chuyện này với cái tâm.

Như các Thượng sư khác đã nói, một đặc tính thiêng liêng không có sắc thái có thể được quy định bởi tâm đuờng thẳng trên thế gian này hay bởi tâm thức sa ngã. Tinh khiết Thiêng liêng không đối chọi với ô trược. Thực ra trong tâm thức nhị nguyên, có một cực ô trược và một cực được quy định là tinh khiết, nhưng ngay cả cái mà con người định nghĩa là tinh khiết cũng không phải là tinh khiết Thiêng liêng.

19.8. Tiêu chuẩn nhị nguyên về tinh khiết và ô trược

Một lần nữa, như các thày đã nói, đây là vấn đề với nhiều tôn giáo. Họ nghĩ rằng một tôn giáo vỏ ngoài trên trái đất có thể, trong kinh điển giáo điều và văn hóa của họ, quy định một mục tiêu cuối cùng, có thể quy định những cư xử ô trược và những cư xử tinh khiết. Sau đó, họ nghĩ rằng khi đi theo con đường vỏ ngoài đó, con đường phần nào máy móc đó, một ngày kia họ sẽ tinh khiết.

Con sẽ không tinh khiết khi cố gắng đạt một trạng thái tinh khiết nhị nguyên tương đối. Chắc chắn nó có thể khá hơn trạng thái nhị nguyên ô trược khiến con có khuynh hướng tạo nghiệp nặng hơn. Có rất nhiều, rất nhiều người trên trái đất đã theo một tôn giáo, có thể là trong nhiều kiếp sống và đã cố gắng đạt được một trạng thái do tôn giáo đó quy định. Họ đi vào trạng thái tâm cảm thấy vì họ đã làm tất cả những điều mà giáo điều và kinh điển quy định, và vì họ đã không làm tất cả những điều không được làm, do đó họ là người tốt. Họ là tín đồ tôn giáo. Họ là người tâm linh. Họ cũng có thể cảm thấy họ là người tinh khiết và là bậc thánh. Đáng tiếc thay, các chân sư thăng thiên khó tiếp cận những người này nhất, vì họ quá dính mắc vào ý niệm họ là người tốt nên các thày rất khó chỉ cho họ thấy họ không tốt theo một sự lượng định bất nhị. Họ “tốt” đối ngược với “xấu” nhưng đấy là theo thang đo nhị nguyên.

19.9. Không có tiêu chuẩn quy định thế nào là Ki-tô Hằng sống

Trong những đợt truyền giáo trước, các thày đã thấy có các đệ tử bỏ ra nhiều thập niên tìm cách sống theo một lý tưởng, nhưng họ không sẵn sàng bước lên tầng mức cao hơn và nhận ra rằng có một điểm khi cả lý tưởng cũng phải buông bỏ, vì Ki-tô Hằng sống không thể bị ép vào một lý tưởng, một mô hình, một tiêu chuẩn. Không có tiêu chuẩn quy định thế nào là Ki-tô Hằng sống. Bởi chưng Ki-tô Hằng sống là gì? Ki-tô Hằng sống là cánh cửa mở cho gì? Là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ và các chân sư thăng thiên.

Tâm vỏ ngoài, tâm đường thẳng không thể hiểu được Hiện diện TA LÀ hay các chân sư thăng thiên của con muốn làm gì xuyên qua con, muốn đem lại gì xuyên qua con. Tâm đường thẳng muốn lượng định mọi thứ dựa trên một tiêu chuẩn mà tâm đường thẳng có thể nắm bắt, có nghĩa đấy là một tiêu chuẩn thế gian có hai cực với những đặc tính có thể xác định được. Các thày không ở trong bầu cõi chưa thăng thiên, các thày không ở trong tâm thức nhị nguyên. Nếu con dính mắc với tâm đường thẳng và tiêu chuẩn của nó, thì làm sao con có thể là cánh cửa mở cho các thày? Con sẽ có lượng định vi tế như sau: “Điều này phải được biểu hiện, điều này không được biểu hiện.” Lúc ấy, các thày phải tôn trọng quyền tự quyết và bước lùi lại.

Chỉ khi nào con là cánh cửa mở thì các thày mới tuôn chảy xuyên qua con được, và cánh cửa mở có nghĩa trung hòa và trung hòa là một từ khác để chỉ sự tinh khiết. Khi con có ý định tinh khiết, khi con sẵn sàng cho phép các thày biểu lộ bất cứ gì các thày muốn biểu lộ xuyên qua con, thì lúc ấy con là cánh cửa mở. Nếu con có ý định là có một số điều phải được biểu lộ và một số điều không được biểu lộ, hoặc con muốn được biết trước và con muốn lượng định dựa theo tiêu chuẩn của tâm vỏ ngoài thì con không tinh khiết, ý định của con không tinh khiết. Khi con tới những tầng cao hơn của con đường tu, con sẽ được lợi lạc khi quán chiếu chuyện này. Các thày đã nói điều này bằng nhiều cách trước đây, nhưng các thày cố gắng lặp lại, lần này đặt trọng tâm đặc biệt vào chủ đề làm sao kết nối với các thày. 

19.10. Làm sao kết nối với Serapis Bey

Làm sao con kết nối được với thày là Serapis Bey? Con phải có một ý định trung hòa, nghĩa là con có ý định kết nối với thày nhưng con không phóng chiếu một hình ảnh đặc thù là sự kết nối đó phải xảy ra như thế nào, hình thức phải như thế nào, thày phải cư xử ra sao và ngay cả con phải cư xử ra sao. Con trung hòa. Con có ý định kết nối nhưng không có ý định đạt một kết quả đặc thù. Đây là ý định tinh khiết và khi con tới được ý định tinh khiết này bằng cách loại bỏ các ngã tách biệt, thì con thấy rằng nếu con có mối liên hệ với Tia thứ Tư, thì con sẽ kết nối được. Con sẽ trải nghiệm Hiện diện của thày.

Như các Thượng sư khác đã nói, không có gì mà thày giữ lại không cho con. Thày luôn luôn bên con vì như Giê-su đã nói: “Tâm thức Ki-tô ở khắp mọi nơi.” Tia thứ Tư và tất cả các tia khác cũng thế. Lúc ban đầu có Ngôi Lời hay Logos và Ngôi Lời ở bên Thượng đế và Ngôi Lời là Thượng đế. Nếu không có tâm thức Ki-tô hoàn vũ này, không gì được làm ra đã được làm ra. Khi sự phân biệt thành hình tướng bắt đầu, nó bắt đầu với sự phân biệt thành bảy tia sáng. Từ bảy tia sáng này tất cả mọi hình tướng được tạo thành. Cho nên như tâm thức Ki-tô ở trong mọi sự, bảy tia sáng cũng thế. Con không thể tách biệt khỏi Tia thứ Tư.

Thày luôn luôn ở nơi con đang ở, con chỉ cần xoay chuyển điểm chú tâm để trải nghiệm Hiện diện của thày. Lẽ dĩ nhiên thày hy vọng và thày biết là một số các con đã trải nghiệm Hiện diện của thày trong khi nghe bài truyền đọc này. Một số các con có thể nghe lại và trải nghiệm Hiện diện của thày. Một số có thể làm các bài tập mà thày mô tả và trải nghiệm Hiện diện của thày. Trải nghiệm Hiện diện của một chân sư thăng thiên là cách kết nối với chân sư thăng thiên đó – không phải là kết nối băng qua một khoảng cách lớn rộng, băng qua một khoảng trống, băng qua một hố sâu, nhưng là trải nghiệm Hiện diện luôn luôn có mặt. Tới đây, thày niêm con trong sự tinh khiết mãi mãi thăng vượt của Tia thứ Tư mà THÀY LÀ.

21 | Với tới sự thật sẽ giúp con tiến lên cao hơn

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels ngày 5/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Sự thật là gì? À, đây là một câu hỏi mà tâm đường thẳng ưa thích, vì nó nghĩ nó có thể định nghĩa một cách rất rõ ràng: Sự thật ngược lại với Không thực. Sự thật là một cái gì ta có thể hiểu, có thể nắm bắt, có thể đặt trên một thang điểm đường thẳng, với sự thật ở một đầu và không thực ở đầu kia.

Quả thật, tâm đường thẳng có thể làm chuyện này với tất cả mọi đức tính của Thượng đế, nhưng nó cảm thấy là nó thật sự kiểm soát được sự thật. Sa nhân đã từ rất lâu, từ lúc họ sa ngã, cảm thấy là họ kiểm soát được sự thật. Họ tin rằng họ có thể quy định sự thật. Lẽ đương nhiên, họ đã không loan báo cho mọi người, tỷ dụ như trên địa cầu, là họ đã quy định sự thật. Thay vào đó, họ loan báo là sự thật được trao truyền bởi một thẩm quyền tối hậu. Do đó, đó là sự thật, chân lý cao nhất có thể có.

21.1. Định nghĩa giản dị nhất của sự thật

Sự thật quả thực là gì? Sự thật là cái gì dẫn con tới gần cái một hơn. Không thực là gì? Không thực là cái gì mang con ra xa cái một. Đây là định nghĩa giản dị nhất của sự thật mà ta có thể đưa ra, ít nhất là trên trái đất.

Lẽ đương nhiên, tâm đường thẳng sẽ rất bất mãn với định nghĩa này, vì làm sao từ đó có thể định nghĩa sự thật là gì? Nhất định phải có một sự thật tối hậu. Nói nó dẫn con tới gần hơn không đủ. Nhất định phải có một chân lý tối hậu, và lúc đó con ở trong cái một. Sự thực là chỉ có đấng Sáng tạo là chân lý tối hậu, như vậy có nghĩa là ở bất cứ tầng nào của tạo vật của Ngài, ở bất cứ tầng nào của thế giới hình tướng, có một chân lý có thể nắm bắt và hiểu ở tầng đó.

Lẽ đương nhiên, địa cầu ở thấp hơn tầng của đấng Sáng tạo rất nhiều, và đó là lý do vì sao các thày đã rất nhiều lần nói là không thể trao truyền một chân lý tuyệt đối trên trái đất, nhưng ta quả thật có thể nói là chân lý tuyệt đối không có ở đâu ngoại trừ nơi đấng Sáng tạo. Bất kỳ con đang ở tầng nào trên bước đường tiến tới hợp nhất với đấng Sáng tạo, nếu con chưa là một với đấng Sáng tạo, đó là vì con vẫn còn thấy một khoảng cách. Do đó có một chân lý giúp con vươn lên tầng kế tiếp. Cho nên, mục đích của đường tu không bao giờ là hiểu chân lý tối hậu, nhưng là thấy chân lý sẽ dẫn con lên tầng kế tiếp.

21.2. Các tầng thể hiện tiềm năng của cái ta

Một lần nữa, tâm đường thẳng sẽ bất mãn vì nó sẽ nói: “Ồ, như vậy phải có nghĩa là có điều gì sai ở bất cứ tầng nào cho đến khi tới tầng đấng Sáng tạo. Ngay cả các sinh thể trong bầu cõi thứ nhất đã thăng thiên từ rất lâu, đã có rất nhiều thời gian để tăng triển và vượt thăng chính họ, họ vẫn sống trong ảo tưởng.” Một lần nữa, đây lại là tâm đường thẳng, nó phải nghĩ theo kiểu tâm đường thẳng. Nó hoạt động với thang điểm nhị nguyên, và trên một thang điểm nhị nguyên có cực đoan này và cực đoan ngược lại, cả hai đều tối hậu, ta hoặc có sự thật tối hậu hoặc giả dối tối hậu. Con có thể nói là khi con chưa tới sự thật tối hậu thì con vẫn bị ảnh hưởng bởi một sự giả dối, nhưng không phải vậy. Một khi con hợp một với tâm thức Ki-tô, trở thành Ki-tô Hằng sống, thì con biết và trải nghiệm tâm Ki-tô đó, và đó là tâm của cái Một. Con biết là mọi sự là một, nhưng con cũng thấy và trải nghiệm các tầng tâm thức có cấp bậc và con tiến lên theo một tiến trình đường thẳng dẫn con từ nơi con đang ở tới đấng Sáng tạo. Đây không phải là một ảo tưởng.  

Một khi con đã thăng thiên từ trái đất thì con không còn ở trong ảo tưởng nữa vì con biết thực tại bên dưới mọi sự là cái một. Con chỉ giản dị ở một tầng nào đó trong tiến trình thể hiện cái ta, và con biết con đang trên con đường dẫn tới những tầng thể hiện cái ta cao hơn cho tới khi con đạt tới trạng thái tối hậu của thể hiện cái ta mà các thày đã gọi là tâm thức đấng Sáng tạo. Đúng ra phải nói đây là trạng thái tối hậu trong thế giới hình tướng này. Con không ở trong ảo tưởng vì con trải nghiệm cái một, và con thậm chí không đặt vấn đề cao hơn hay thấp hơn vì con thuộc vào một tiến trình, một tiến trình luôn luôn tự thăng vượt, là vũ khúc hoàn vũ của sự tự thăng vượt.

Thày Serapis Bey có nói tới sự gia tốc không ngừng, và đây là một khái niệm quan trọng mà con cần xem xét. Lẽ tất nhiên, tâm đường thẳng sẽ gặp khó khăn khi nó xem xét sự tự thăng vượt bất tận, liên tục, gia tốc này. Nó lúc nào cũng đi tìm cái tối hậu, nhưng nó cũng sẽ hỏi tại sao nó cần tự thăng vượt nếu nó đã đạt được một tầng cao? Tại sao con cần tự thăng vượt khi con đã tới tầng 96 và đã trải nghiệm tâm Ki-tô, tại sao con cần tiếp tục tự thăng vượt?

21.3. Dòng sông sự Sống luôn luôn tự thăng vượt

Sự thực là toàn thể tạo vật của đấng Sáng tạo, toàn thể thế giới hình tướng, là cái mà các thày đã gọi là Dòng sông sự Sống. Một dòng sông là gì? Nó là nước luôn luôn tuôn chảy. Nếu dòng sông ngừng chảy thì nó không còn là một dòng sông nữa. Nó là một hồ nước. Không sớm thì muộn phẩm chất, độ trong sạch của nước trong hồ nước sẽ suy giảm. Nước có thể bốc hơi, nhiều chất cặn và bợn nhơ sẽ có thể xâm nhập nước hồ, và dần dần nước sẽ bắt đầu nhiễm độc. Vì sao nước không nhiễm độc khi ở trong dòng sông? Bởi vì nước di động. Các phân tử nước di dộng và phủi đi những bợn nhơ. Chúng hòa lẫn với khí oxy, cũng giúp trong lọc nước.

Con thấy là toàn thể tạo vật của đấng Sáng tạo là một sự chuyển động lên cao, không ngừng tự thăng vượt. Điều này không có nghĩa là con, như một cá nhân, không thể nói: “Tôi đã đạt một tầng nào đó. Tôi muốn vui hưởng tầng này trong một thời gian.” Con có quyền làm như vậy, nhưng nếu con ở một tầng nào đó quá lâu, thì tâm con sẽ bắt đầu trở nên cũ kỹ. Do đó con sẽ không theo kịp hướng đi lên của Dòng sông sự Sống. Con sẽ ở dưới tầng mà con có thể tới nếu con chịu thăng vượt.

Những người sáng suốt vẫn đang tiếp cận Dòng sông sự Sống thì biết rằng họ có thể đứng yên và vui hưởng cuộc sống trong một thời gian ở một tầng nào đó, nhưng họ sẽ có trực giác khi nào đến lúc tiếp tục tiến bước. Nhiều người trong các con là những người tâm linh đã có cảm nhận đến lúc bước vào một chu kỳ mới. Đã đến lúc cất bước và làm chuyện gì khác. Chân lý chuyển động không ngừng. Có một chân lý ở tầng 48 giúp con khắc phục ngã tách biệt, ảo tưởng ở tầng 48 và vươn lên tầng 49. Có một chân lý khác ở tầng 49, và một chân lý khác ở tầng 50, vân vân. Không phải chỉ có một chân lý. Lẽ tất nhiên, đó là điều tâm đường thẳng muốn: “Hãy cho tôi chân lý, chân lý cao nhất, chân lý tuyệt đối.” Nếu vậy thì đây nhé: Chân lý tuyệt đối là không có chân lý tuyệt đối. Hay ta cũng có thể nói là có nhiều chân lý tuyệt đối. Chân lý mà con có thể nắm bắt ở tầng tâm thức của con là chân lý tuyệt đối ở tầng đó. Lẽ tất nhiên, chân lý là cái giúp con tới gần cái một hơn. Ta không thể đặt cái dẫn con tới cái một lên một thang điểm nhị nguyên, có chân lý ở đầu này và không thực ở đầu kia.

21.4. Khái niệm nhị nguyên về sự thật tối hậu

Sự thật Hằng sống không phải là đối ngược của một sự giả dối. Chỉ những gì do tâm thức nhị nguyên quy định mới có một đối ngược. Tâm thức nhị nguyên quy định cái này là giả dối và đối ngược của nó là sự thật, nhưng cả hai đều xuất phát từ nhị nguyên, và vì vậy cả hai đều tương đối. Chúng chỉ hiện hữu khi có cái kia, có thang điểm nhị nguyên, có tâm thức nhị nguyên. Con có thể nói: “Nhưng phải chăng sự thật dẫn con lên tầng kế tiếp cũng tương đối với tầng đó?” Phải, nhưng không trên một thang điểm nhị nguyên. Khi con ở trên một thang điểm nhị nguyên, con có thể nói: “Đây là một sự không thực” và con có thể bắt đầu tiến về phía đối cực kia trên thang điểm. Con có thể nghĩ con đã đi một hành trình dài từ sự không thực tương đối đến sự thật tương đối, nhưng con đã không tới gần cái một hơn. Con vẫn ở trong nhị nguyên, và đó là lý do vì sao khi con nghĩ con là một người tốt đang nắm giữ chân lý thì con không đến gần cái một hơn. Ý nghĩ này chỉ tiếp tục giam con trong nhị nguyên.

Thày có thể bảo đảm với con là những người tin rằng họ có chân lý tối hậu là những người mà thày khó tiếp cận nhất. Vì sao họ lại cần đến Thượng sư của Tia thứ Năm khi họ đã có chân lý tuyệt đối rồi? Thày có thể cống hiến gì cho những người đã có chân lý tuyệt đối được quy định ở đây trên trái đất? Con có thể nói: Nhưng, thày, Hilarion, là một chân sư thăng thiên! Thày ở một tầng tâm thức cao hơn, do đó lẽ dĩ nhiên thày có thể cống hiến cái gì đó cho những người chưa thăng thiên. Nhưng những người kia không thấy vậy đâu. Con hãy nhìn sự kiện trang mạng Hỏi Giê-su Thật (https://askrealjesus.com/) đã xuất hiện trên mạng được hơn 20 năm. Con có thực sự nghĩ là các vị Hồng y của Giáo hội Công giáo chưa nghe tới hay chưa xem trang mạng này? Họ có thay đổi gì chăng dựa trên các điều được công bố trên đó? Họ có mở lòng xem xét là Chân sư Thăng thiên Giê-su có thể hiện đang hướng dẫn con người tu tập? Lẽ dĩ nhiên là không. Tại sao họ lại cần Chân sư Thăng thiên Giê-su khi họ đã có chân lý tuyệt đối trong giáo điều của họ?

Con thấy là nhiều người khác, tỷ dụ như người cộng sản, duy vật, tranh đấu môi sinh, triết gia thuộc trường phái này hay trường phái nọ, lãnh đạo tôn giáo này tôn giáo kia, họ đều không cần đến các chân sư thăng thiên. Họ không muốn các chân sư thăng thiên. Họ không muốn các đức tính thiêng liêng, vì họ muốn trải nghiệm ý niệm cao trội hơn người mà họ có khi họ tin là họ có chân lý tuyệt đối. Nếu con tin rằng con có chân lý tuyệt đối, thì có thể nào có chân lý nào cao hơn? Bất cứ ai, ngay cả các chân sư thăng thiên, có gì để cống hiến cho con? Lẽ tất nhiên, các con là đệ tử chân sư thăng thiên đã thăng vượt tầng tâm thức này, nhưng con cần nhận ra là các ngã tách biệt của con, các ngã tách biệt còn sót lại, chưa thăng vượt tầng tâm thức đó. Cái Ta Biết của con đã thoát khỏi sự đồng hóa hoàn toàn với các ngã đó, nhưng con vẫn còn các ngã đang pha màu tầm nhìn của con, và khiến con tin rằng con đã đạt được một tầng hiểu biết tối hậu hay một tầng tâm thức tối hậu nào đó.

21.5. Mở lòng đón nhận một chân lý tuần tự cao hơn

Đây là điều đã xảy ra cho nhiều đệ tử tâm linh qua các thời đại, nhưng điều đó cũng đã xảy ra cho các đệ tử chân sư thăng thiên, đặc biệt là trong các đợt truyền giáo trước, khi họ nghĩ là họ đã có giáo lý cao nhất hay sự tiết lộ sau cùng mà các chân sư thăng thiên ban ra, và do đó tại sao họ lại cần gì khác? Tại sao họ lại cần tiết lộ tuần tự?

Con luôn luôn cần xem chừng khuynh hướng này nơi một ngã tách biệt hay thậm chí sự hình thành một ngã tách biệt khiến con nghĩ: “Tôi đã đi trên con đường tu nhiều năm rồi. Tôi đã dụng công nhiều rồi. Tôi đã đọc nhiều bài chú rồi. Chắc chắn là tôi đã đạt một trình độ nào đó rồi.” Con quả thật có. Con đã tiến bộ, con đã đạt một tầng nào đó, nhưng chưa phải là tầng tối hậu. Nếu con đã đạt tầng cao nhất có thể đạt được trên địa cầu thì con đã thăng thiên. Khi con đã đạt được tầng tối hậu có thể đạt được trên trái đất thì con sẽ không còn trên trái đất nữa. Nếu con còn ở trên trái đất thì, ấy, con vẫn còn một tầng cao hơn để con vươn tới, và làm sao con vươn lên tầng đó? Bằng cách với tới chân lý cao nhất mà con có thể nắm bắt ở tầng hiện nay của con, và chân lý đó sẽ dẫn con lên tầng kế tiếp.

Trong đợt truyền giáo này, con không dễ bị kẹt vào trạng thái tâm thức đó nếu con nghiên cứu và cố gắng thể nhập giáo lý. Các thày đã nói rõ về nhu cầu tiến bộ liên tục hơn là trong các đợt truyền giáo trước. Tuy nhiên, tự ngã lúc nào cũng là tự ngã, và nó lúc nào cũng làm những gì tự ngã vẫn làm: nó tìm cách chặn sự tiến bộ của con ở bất cứ tầng nào. Con cần mở lòng đón nhận một chân lý tuần tự cao hơn. Đó là một phần vì sao các thày đã trao truyền các giáo lý tuần tự cao hơn, nhưng cá nhân con cần mở tâm đón nhận khai ngộ kế tiếp giúp con nhìn thấu suốt ảo tưởng hiện thời của con, và như vậy con vươn lên tầng kế tiếp.

21.6. Tặng phẩm và bài hình dung của thày Hilarion

Con nhận được khai ngộ này từ đâu? Con sẽ nhận được từ Hiện diện TA LÀ của con. Con sẽ nhận nó từ các chân sư thăng thiên của con, nhưng con cần phải yêu cầu, con cần phải mở tâm ra đón nhận. Như các thày đã nói rất nhiều lần, các thày sẽ không vi phạm quyền tự quyết của con. Con chắc chắn có thể yêu cầu thày, Hilarion, chỉ cho con thấy chân lý kế tiếp. Con có thể đọc bài chú Chân sư Thăng thiên Hilarion. Con có thể dùng quyển sách Những Khai ngộ Thần bí về Viễn kiến để hòa điệu với thày. Con có thể tìm trong bài chú của thày hai câu thực sự hấp dẫn con, học thuộc lòng hai câu này, thiền quán về chúng, và con sẽ thấy con nhận được hướng dẫn của thày nếu con gần Tia thứ Năm. Con có thể dùng nhiều dụng cụ, nhưng thày sẽ cho con ở đây một dụng cụ đơn giản như các Thượng sư khác đã làm.

Đây là dụng cụ giản dị đó: con đi vào một căn phòng yên tĩnh, con ngồi tư thế thoải mái, nhắm mắt lại và con hình dung con có hai con mắt. Nếu con nghĩ về chuyện này thì con biết là con có hai mắt để thấy được chiều sâu. Con có thể lượng định khoảng cách giữa con và một vật một cách chính xác hơn vì con có cái nhìn song đôi đó. Có hai mắt không phải là nhị nguyên. Các thày không bao giờ nói rằng khi con thoát khỏi nhị nguyên thì hai mắt của con sẽ bắt đầu di chuyển gần nhau hơn cho tới khi chúng hợp thành một con mắt ở giữa trán của con.

Lẽ tất nhiên, con có một mắt thứ ba, đó là luân xa mắt thứ ba, nhưng bài hình dung này dựa trên con có hai mắt, và con hình dung hai mắt di chuyển xa nhau ra cho đến khi chúng cách thân thể con một quãng. Sau đó, con dùng mắt nhìn về phía trước và con thấy trước mỗi mắt là một đường thẳng. Con theo đường thẳng đó nhìn về quãng xa. Nếu con có chút hiểu biết về hình học, thì con biết là phối cảnh sẽ khiến con thấy giống như hai đường thẳng sẽ càng ngày càng gần nhau hơn khi con càng đi ra quãng xa.

Con cũng có thể biết thuyết không gian-thời gian cho rằng tất cả các đường song song sẽ rốt cuộc nhập một, gặp nhau. Con chỉ cần phóng chiếu về khoảng xa, thật xa để hai đường thẳng từ hai mắt con càng ngày càng gần nhau hơn cho tới khi tới một điểm, bất kể điểm này xa tới đâu, hai đường thẳng nhập một và trở nên một đường. Sau đó, con tiếp tục hình dung con theo đường thẳng đó xa nhất mà con có thể hình dung. Khi con đã hình dung đường thẳng duy nhất đó thì con rút sự chú ý của con trở về trán, trở về mắt thứ ba của con. Sau đó, con cho phép mình trải nghiệm viễn quan một mắt đó. 

Một lần nữa, đây là một bài thực tập giản dị mà nhiều người sẽ cho là quá thô sơ, nhưng nếu con cảm thấy gần Tia thứ Năm thì con hãy thực tập bài này và sẽ thấy là kinh nghiệm không thô sơ chút nào và có thể sâu sắc hơn những gì con tưởng tượng lúc này. Sự thật rất giản dị. Chỉ có trong nhị nguyên thì sự thật mới có vẻ phức tạp bởi vì sa nhân muốn sự thật phức tạp. Họ muốn biến mọi chuyện thành phức tạp để họ có vẻ cao trội hơn người khác vì họ có thể nắm bắt, hiểu hay quy định hệ thống tư duy tinh vi, trí thức và đường thẳng đó. Họ là những người quá ư thiện xảo trong khi con người không hiểu được do đó họ phải tuân theo các lãnh đạo.

Con hãy nhìn xem cách Giáo hội Công giáo đã phóng chiếu trong suốt 17 thế kỷ là con người không thể hiểu thực tại tâm linh và phải được giảng dạy với từ ngữ thật đơn giản. Con hãy thấy là họ đã suốt bao năm đốt sách, từ chối không chịu dịch Thánh kinh để con người không thể tự mình đọc Thánh kinh mà phải trông cậy vào sự diễn giải của các linh mục Công giáo. Sa nhân lúc nào cũng nghĩ rằng con người không thể biết sự thật. Chỉ có họ mới biết được sự thật. Lẽ dĩ nhiên, một sa nhân sẽ không bao giờ biết được sự thật cho tới khi y bắt đầu với tới sự thật Ki-tô duy nhất mà y có thể hiểu ở tầng tâm thức hiện tại của mình và sau đó tiếp tục với lên sự thật kế tiếp cho tới khi y không còn là sa nhân nữa.

21.7. Sự thật như là kết quả của vun bồi hiểu biết

Như Giê-su có nói, tâm thức Ki-tô ở khắp mọi nơi. Ở mỗi tầng tâm thức, có một biểu lộ của tâm thức Ki-tô có khả năng đập tan ảo tưởng ở tầng tâm thức đó và giúp con vươn lên tầng kế tiếp. Có một chân lý ở mỗi tầng tâm thức, nhưng đó không phải là chân lý tối hậu. Đó là chân lý giúp con vươn lên tầng kế tiếp. Tiến trình này sẽ tiếp diễn từ tâm thức hiện tại của con cho tới tiềm năng cao nhất của con là tâm thức của đấng Sáng tạo.

Do đó, chân lý không thể bị gò bó vào bất cứ tầng nào, và vì vậy không ai trên cõi thăng thiên tuyên bố hay tin rằng vị ấy đã đạt được chân lý tối hậu. Các thày đều trải nghiệm chân lý là Dòng sông sự Sống đang hằng sống, tuôn chảy, mà con có thể lần theo về cội nguồn. Và cũng có chân lý cao nhất mà con có thể đạt được trong thế giới hình tướng. Lẽ đương nhiên, vượt quá nơi đó là cái mà các thày đã gọi là cái Tất cả, nhưng các thày không muốn mô tả bằng lời vì nó quá xa vời các hình tướng và khái niệm mà con có trong thế giới hình tướng này.

Một số các con sẽ được lợi ích nếu con suy ngẫm là con đã lớn lên với một quan niệm rất sai lệch về chân lý, đặc biệt là nếu con đã theo học bất cứ học viện cao đẳng nào, tỷ dụ như một viện đại học. Nhiều người coi những viện giáo dục cao đẳng này như các nơi vun bồi hiểu biết và minh triết, và họ nghĩ là nếu họ tích lũy hiểu biết lâu đủ thì họ sẽ đạt được chân lý. Một số còn nghĩ là họ đã đạt được chân lý rồi, ít nhất là trong một số lãnh vực của đời sống. Nhiều người trong các viện giáo dục cao đẳng tin rằng viễn quan duy vật và thuyết tiến hóa của Darwin biểu hiện chân lý tối hậu mà không có hiểu biết nào có thể vượt qua. Lẽ tất nhiên, đây là một ảo tưởng, như lịch sử đã chứng minh. Đã có nhiều giai đoạn trong lịch sử khoa học khi các khoa học gia, ít nhất là các khoa học gia duy vật, đã nghĩ rằng họ đã đạt được hiểu biết tối hậu, tỷ dụ như của các định luật vật lý học. Lúc nào cũng đã có một hiểu biết cao hơn xuất hiện và thay thế hiểu biết cũ. 

Như các thày có nói, các định luật của Newton đã không trở nên vô hiệu lực, nhưng niềm tin các định luật của Newton mô tả sự vận hành cơ bản của bộ máy hoàn vũ đã được thay thế bởi một hiểu biết cao hơn dưới dạng thuyết tương đối (relativity) và vật lý lượng tử (quantum physics). Nhiều khoa học gia đương thời biết rằng thuyết tương đối và vật lý lượng tử là hai thuyết không tương hợp. Lẽ tự nhiên, hiện trạng này không thể là hiểu biết cao nhất. Rốt cuộc sẽ có một lý thuyết về mọi thứ (theory of everything), tuy rằng nó cũng sẽ không bao giờ đầy đủ. Ít nhất sẽ tới một điểm có một lý thuyết bao trùm những yếu tố cơ bản về sự vận hành của thế giới.

Tuy nhiên, thuyết này nhất định phải bao gồm tâm thức. Lẽ tất nhiên các thày cảm thấy khích lệ là một số khoa học gia đã bắt đầu nhìn nhận chuyện này và thăm dò ý nghĩa là gì và một lý thuyết khoa học bao gồm tâm thức sẽ như thế nào, khi lý thuyết này không coi tâm thức như một hiện tượng nằm trên sự vận hành của não bộ mà là một sắc thái căn bản của vũ trụ. Các khoa học gia này đã bắt đầu công nhận là vũ trụ không thể xuất hiện nếu không có một hình thức nhận thức nào đó, mà một số đã gọi là “tác nhân có nhận biết”.

Nếu con đã tiếp thu bất cứ giáo dục cao đẳng nào thì một việc xây dựng mà con có thể làm là xem xét các ngã tách biệt mà con đã có thể tạo ra khi con đáp ứng với môi trường tư duy đó. Nó phóng chiếu đến con là mục đích của nếp sống hàn lâm là tích lũy hiểu biết và dữ liệu cho tới khi đạt được một hiểu biết tối hậu nào đó.

21.8. Tổng thể hơn các thành phần cộng lại

Con cũng có thể được lợi ích nếu con suy ngẫm là con đã bị lập trình, nói theo nghĩa bóng, bởi nền giáo dục cao đẳng để theo phương pháp giản hóa (reductionist), đã có từ thời Aristotle. Ông này đưa ra quan điểm nếu ta nên nghiên cứu các thành phần càng ngày càng nhỏ cấu tạo thế giới vật chất thì rốt cuộc ta sẽ tới được các thành phần cơ bản của vật chất. Khi ta hiểu được cách các thành phần này vận hành thì ta hiểu được cách toàn thể vũ trụ vận hành. Đây là phương pháp đã hướng dẫn khoa học từ rất lâu nay, nhưng phương pháp này hoàn toàn sai lạc. Phương pháp giản hóa sẽ không bao giờ tìm ra cách thế giới vận hành, một phần vì nó không bao gồm tâm thức, và phần kia vì nghiên cứu các thành phần không thể cho biết cách tổng thể vận hành.

Con không thể xem xét một tổng thể, tỷ dụ như thân thể con người, và hiểu được cách nó vận hành bằng cách xem xét các thành phần càng ngày càng nhỏ cấu tạo nên nó, như các tế bào, phân tử, nguyên tử, hạt cơ bản. Chắc chắn là cơ thể được cấu tạo bởi hạt cơ bản, nhưng con có thực sự tin rằng – và đúng là các nhà duy vật tin điều này, nhưng có phải vậy mà tin tưởng này có giá trị? – nếu con hiểu tất cả mọi chuyện có thể hiểu về các tỷ tỷ hạt cơ bản cấu tạo thân thể vật lý, thì một ngày kia con sẽ giải thích được vì sao con thích sôcôla hơn các loại kẹo khác? Làm sao mà thông tin này có thể được ghi mã vào các hạt cơ bản? Nhưng đó là một phần của đời sống của một con người, vì theo câu ngạn ngữ nhân gian, tổng thể hơn các thành phần cộng lại. Do đó, nếu con muốn hiểu tổng thể thì con cần nhìn vào, nghiên cứu tổng thể, thay vì chỉ nghiên cứu các thành phần. Lẽ dĩ nhiên, nếu con muốn hiểu con người vận hành ra sao thì con phải nghiên cứu tâm con người. Con phải nghiên cứu tâm thức.

Khoa học gia đã quy định cái mà họ gọi là bài toán khó khi nghiên cứu tâm thức, đó là: Làm sao các thành phần không có nhận thức cấu tạo não bộ vật lý lại có thể tạo ra trải nghiệm có nhận thức? Đây chỉ là một bài toán khó khi họ tiếp cận vấn đề với tầm nhìn duy vật. Tâm thức không do các thành phần của não bộ tạo ra. Tâm thức là một cái gì độc lập với não bộ có thể tương tác với não bộ, và phần nào nhập chung vào não bộ, nhưng não bộ không tạo ra tâm thức. Chính tâm thức đem lại sinh hoạt và sự sống cho não bộ và thân thể vật lý. Con sẽ không bao giờ hiểu được con người bằng cách xem xét não bộ.

21.9. Tâm thức là gì?

Con cần xem xét tâm thức, là lẽ tất nhiên câu hỏi đặt ra là: Tâm thức là gì? Tâm thức có thể được xem là thực tại nền bên dưới mọi sự, nhưng con không thể hiểu tâm thức nếu con chỉ nhìn nó như thực tại nền. Tâm thức có nhiều biểu lộ, nhiều tầng. Ở một tầng, ta có thể nói tâm thức là cái có tiềm năng mang hình tướng và duy trì hình tướng trong một khoảng thời gian, và đây là loại tâm thức đưa đến sự hiện diện của các vật vô tri giác.

Sau đó có một tầng tâm thức cao hơn biểu lộ như các hình tướng sống, các sinh thể, có sự sống, có khả năng thay đổi, thích nghi với môi trường, sinh sản. Tầng tâm thức này kích động tiến trình mà khoa học gia gọi là tiến trình tiến hóa, một tiến trình mà họ cho là vô thức. Tiến trình này không thực sự vô thức, vì làm sao một sinh vật có thể thích nghi với môi trường khi nó không có một dạng tâm thức cho nó khả năng nhận tín hiệu từ môi trường và điều chỉnh cách cư xử của nó theo tín hiệu? Thậm chí tiến trình tiến hóa cũng không là một tiến trình duy vật vô thức, ngay cả khi nó ứng dụng vào sự tiến hóa của thú vật.

Lẽ tất nhiên, sau đó là tầng tâm thức cao hơn mà ta có thể thấy nơi con người. Đây là tiềm năng cho phép con người tự nhận biết, là khả năng chọn lựa một cách có ý thức và cố ý cách con đáp ứng với môi trường. Ở tầng tâm thức của thú vật, các sinh thể không đáp ứng một cách có ý thức và cố ý. Thú vật đáp ứng dựa theo những gì đã được ghi mã trong tâm thức của chủng loại, tâm thức tập thể của chủng loại. Các cá nhân hầu như bị tâm thức tập thể đó hoàn toàn sai khiến, và do đó đáp ứng theo những trải nghiệm mà chủng loại đã tích lũy trong một thời gian dài dựa trên kinh nghiệm sinh tồn. Ở mỗi cá nhân, đây là một tiến trình vô thức. Với con người, con có tiềm năng ý thức về tiến trình này, biết chính mình và quyết định là con không chỉ đáp ứng trên căn bản trải nghiệm tập thể. Con sẽ đáp ứng như một cá nhân, và con sẽ thăng vượt tập thể.

Lẽ đương nhiên, đây chính là nền tảng của con đường tâm linh, mà chủ yếu là con không chỉ giản dị làm theo tâm thức tập thể. Con không chỉ đơn giản làm theo cách hành xử mà con đã được dạy dỗ trong nền văn hóa nơi con khôn lớn. Con nhìn nhận là có cách sống khác hơn cách sống bình thường này. Con có thể hơn một con người phàm bình thường. Con có thể chọn nâng tâm thức mình ngày càng cao hơn một cách có hệ thống. Lẽ tất nhiên, nếu các khoa học gia chịu nghiên cứu tâm thức thì họ sẽ nhận ra, như một số đã bắt đầu nhận ra, là phải có các tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức con người, vì nếu không có những tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức con người, thì làm sao địa cầu, mặt trời, các thiên hà được tạo ra?

21.10. Tầng tâm thức thị hiện vũ trụ

Có những người khóa mình vào suy luận trí năng và nói rằng mặt trăng không có đó khi không có ai nhìn nó. Vũ trụ chỉ hiện hữu khi được quan sát. Vì họ không nhìn nhận là có thể có các tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức con người, nên họ nghĩ chính sự quan sát của con người khiến vũ trụ thị hiện. Lẽ dĩ nhiên, đây là một ngõ cụt và quả thực là một lối suy nghĩ nực cười, khi ta thấy trình độ tâm thức của con người trên trái đất.

Giải đáp hợp lý duy nhất là có một tâm thức cao hơn đã hình dung các thiên hà, toàn vũ trụ. Đây chính là tầng tâm thức đã thể hiện vũ trụ, và đây cũng là tầng tâm thức đã duy trì vũ trụ từ đó tới nay. Vậy thì vũ trụ có đó chăng khi không có ai nhìn? Theo đúng lý thuyết thì không, nhưng lúc nào cũng có ai đang nhìn. Lẽ tất nhiên, ai đó không phải là một sinh thể mà là toàn thể đại đoàn các chân sư thăng thiên, lên đến tận đấng Sáng tạo.

Đấng Sáng tạo đã quy định các hàm số của sự sáng tạo và lúc nào cũng đang nhìn. Nhiều sinh thể khác đã quy định hàm số ở các tầng cấp khác, đi xuống tận nơi con đang ở trên trái đất. Như các thày là chân sư thăng thiên đã giảng, các Elohim đã tạo ra trái đất và mang nó vào biểu hiện vật lý. Các vị đó duy trì nó bằng cách nhìn nó, nhưng các vị ấy làm việc theo khung sườn của các chân sư thăng thiên ở trên họ, ở tầng thái dương hệ, tầng thiên hà, tầng vũ trụ và ở các bầu cõi cao hơn bầu cõi này.

Con là con người đang đầu thai không thể vươn tới nhận biết của bầu cõi cao nhất, của những tầng tâm thức cao nhất, nhưng con có thể cảm nhận xuyên qua tâm thức Ki-tô là con thuộc vào toàn bộ đại đoàn chưởng giáo, lên đến tận đấng Sáng tạo. Con là một nối dài của đại đoàn chưởng giáo, con là một người đồng-sáng tạo với đại đoàn. Đây là điều cho con ý niệm tối hậu về mục đích và ý nghĩa của cuộc sống và hướng đi của mình, mình đang đi đâu, mình muốn tới đâu, điều mình muốn đồng-sáng tạo, những gì mình muốn trải nghiệm, cách mình vươn lên các tầng tâm thức cao hơn để có thể đồng-sáng tạo hơn những gì mình có thể làm ở tầng hiện tại.

21.11. Xem mình là một thành phần của đại đoàn chưởng giáo toàn vũ

Cốt lõi của việc kết nối với các chân sư thăng thiên là tới điểm nhận ra con là một phần của đại đoàn đó, lên đến tận đấng Sáng tạo. Có thể là con không thể hình dung tầng tâm thức của đấng Sáng tạo, nhưng ít ra con có thể hình dung tầng tâm thức ngay trên con, tức là các thày, các Thượng sư? Con có thể kết nối với các thày chăng? Lúc đó con sẽ kết nối với toàn thể đại đoàn chưởng giáo, và con sẽ có được một ý niệm bản sắc mới, một ý niệm mới về mục đích đời mình, ý niệm mình thuộc vào một kế hoạch vĩ đại đang trải bày, và con sẽ có một tầm nhìn mới về cuộc đời trên trái đất.

Như các thày có nói: các thày hiểu là đầu thai trên trái đất vào lúc này khó khăn như thế nào. Khi con có được ý niệm con thuộc vào đại đoàn chưởng giáo thì con có thể tránh bị các điều kiện trên trái đất đè nặng, tránh đồng hóa mình với chúng, tránh bị ý muốn thay đổi chúng ám ảnh và cưỡng chế. Con có thể hoàn toàn xoay chuyển tầm nhìn của mình. Con khắc phục mọi thái độ dựa trên thiếu hụt và đi vào tâm thái tích cực, nhận ra là con đã tới một điểm tốt lành rồi và thực sự không có gì trên trái đất có thể ngăn cản con tiếp tục thăng vượt chính mình và vươn lên các tầng tâm thức cao hơn. Các thày là Thượng sư chỉ muốn thấy vậy nơi mỗi người và tất cả chúng con. Ở thời điểm này, đây chính là điều mà các thày đã hiến dâng cuộc đời mình để giúp con đạt được, để con có thể vươn lên tầng tâm thức mà các thày đã đạt tới khi thăng thiên và sau đó, lẽ tất nhiên, lên cao hơn nữa như các thày đã làm.

Con yêu dấu, đây là điều mà thày muốn trao cho các con. Nếu con cảm thấy đồng điệu với Tia thứ Năm, thì thày tin rằng bài giảng này sẽ có lợi ích cho con và giúp con kết nối với thày và các vị chân sư khác thuộc Tia thứ Năm, và qua đó tạo điều kiện để con kết nối với Hiện diện TA LÀ của con. Tới đây thì thày niêm con trong Ngọn lửa Sự thật mà thày LÀ cho địa cầu.

13| Trải nghiệm Minh triết Thiêng liêng vượt quá tâm đường thẳng

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Lanto qua trung gian Kim Michaels ngày 4/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Lanto, Thượng sư của Tia sáng thứ Hai, thường được liên kết với minh triết, nhưng minh triết thật sự là gì? Có rất nhiều người trên thế giới coi minh triết như một loại kiến thức hữu hạn, một cái gì có thể được diễn tả bằng ngôn từ, hay bằng ngôn ngữ khoa học tỷ dụ như toán học. Ta có thể nào nắm bắt minh triết bằng ngôn từ, con số, công thức hay phương trình chăng? Ta có thể nắm bắt nó bằng hình tư tưởng, khái niệm hay ý tưởng chăng? Ta có thể giam hãm nó trong bất kỳ hình tướng nào chăng? À, có và không!

13.1. Một tìm cầu minh triết tối thượng phù phiếm

Ta có thể nói không có minh triết tối thượng ngoại trừ cái một, chính là tâm thức của đấng Sáng tạo. Lẽ tất nhiên, khi nào con còn hiện thân trên một hành tinh như trái đất, con khó trải nghiệm tâm thức này. Ta có thể nói là minh triết, là một trong những đức tính được dùng để sáng tạo bầu cõi chưa thăng thiên của con, quả thật có hình tướng. Bởi chưng nếu nó không có hình tướng, làm sao có thể dùng nó để sáng tạo một thế giới có hình tướng? Minh triết chắc chắn không thể bị giam hãm trong ngôn từ hay những cách biểu hiện khác được dùng trên trái đất.

Bước đầu tiên để nối kết với các chân sư thăng thiên và đức tính Minh triết Thiêng liêng là nhận ra rằng những người đi theo tâm linh, tôn giáo, chính trị và khoa học qua các thời đại vẫn cố gắng khám phá, tạo sinh hay quy định một hình thức kiến thức tối thượng, hiểu biết tối thượng, minh triết tối thượng. Lẽ tất nhiên, các thày hiểu rằng khi con mới tìm thấy lần đầu con đường tâm linh thì con đã bị ảnh hưởng bởi sự tìm cầu muôn thuở này. Con đem nó vào con đường tâm linh và con nghĩ mục đích của một giáo lý tâm linh là đem lại cho con một hình thức minh triết tối thượng.

Đó là lý do vì sao rất nhiều người tâm linh đã bị kẹt trong tư duy nghĩ rằng vị đạo sư của họ, tổ chức tâm linh của họ, giáo lý tâm linh của họ có minh triết cao nhất, hiểu biết cao nhất, sự diễn tả cao nhất về sự vận hành của thế giới và cõi tâm linh. Điều này có thể hiểu được ở một tầng nào đó của con đường tâm linh nhưng con sẽ tới một điểm trên con đường tu khi tư duy này không còn tính xây dựng nữa vì nó sẽ không giúp con tăng triển.

13.2. Một con đường thực tiễn giúp nâng cao tâm thức con người

Có một thời Phật hiện thân và giảng dạy trực tiếp. Ngày nay nhiều người muốn phóng chiếu là Phật không những là một sinh thể giác ngộ nhưng là sinh thể giác ngộ tối thượng vì hoàn cảnh thày sinh ra, cuộc đời và giáo lý của thày rất ư đặc biệt. Họ muốn phóng chiếu hình ảnh là Phật không những đưa ra giáo lý cao nhất có thể có nhưng hơn thế giáo lý của Phật và chắc chắn chính Phật có thể trả lời mọi câu hỏi. Những người này chưa nghiên cứu lịch sử Phật giáo vì sự thật là Phật đã từ chối không trả lời một số câu hỏi.

Một ví dụ của những câu này là có ngã hay không có ngã. Đây là một câu hỏi mà Phật từ chối không trả lời nhưng tại sao thế? Vì mục đích của Phật không phải là cho con người một kiến thức tối thượng có thể trả lời mọi câu hỏi của họ. Mục đích của Phật là cho con người một con đường tu giản dị giúp họ từng bước một nâng cao tâm thức của họ. Nếu con nhìn lịch sử con sẽ thấy là mục đích này tương phản rất nhiều truyền thống của các giáo sĩ Vệ đà, các thày Bà la môn của Ấn giáo. Vào thời của Phật, họ ở trong một giai đoạn tách ra nhiều xu hướng, nhiều bộ phái trong Ấn giáo giữa các người Bà la môn. Giáo lý của họ có điểm hơi khác nhau nhưng vẫn nằm trong cùng một khung sườn chung và họ tốn nhiều thời gian tranh luận về hiểu biết tối thượng, giáo lý tối thượng tỷ dụ như giáo lý tối thượng về ngã là gì và ngã như thế nào?

Sau khi giác ngộ, Phật nhận ra là tất cả các tranh luận này phát xuất từ tầng mức của tâm phàm, tâm đường thẳng lý luận, phân tích. Phật nhận ra là tất cả những lập luận và mô tả tinh vi mà con người đã dựng lên này, quả thực chỉ giam con người ở một tầng tâm thức nào đó. Phật thấy rằng nếu thày tham gia cuộc tranh luận này, nếu thày nhảy vào sân khấu diễn xiếc này và bắt đầu tranh luận với các thày Bà la môn, thì Phật sẽ chẳng đạt được điều gì. Phật cũng nhận ra là có những câu hỏi mà tâm đường thẳng lý luận không thể trả lời bởi vì như các thày đã giải thích, tâm này có thể đưa ra lập luận bênh vực hay phản bác bất cứ điểm gì. Một số người có thể dùng tâm đường thẳng để tự thuyết phục là có ngã và một số người khác có thể dùng cùng tâm đường thẳng lý luận để tự tuyết phục là không có ngã. Làm sao có hội tụ khi cả hai nhóm tin tuyệt đối là lập luận của họ là lập luận tối thượng, dù cả hai lập luận đều tương đối?

Phật nhận ra là trong tư duy nhị nguyên mọi lập luận đều tương đối do đó không thể cho những người với tư duy này một lập luận chung cuộc, và đây là lý do vì sao Phật nêu lên khái niệm về các cặp. Phật đã làm gì? Phật lúc đó làm việc với một số chân sư thăng thiên để hoàn thành sứ vụ của thày, và vì vậy thay vào đó, Phật nói: “Chúng ta đừng lý luận ở tầng mức của tâm đường thẳng, phàm phu, lý luận này. Chúng ta hãy cho con người một con đường tu giản dị để họ nâng cao tâm thức của họ. Khi con người đã nâng cao tâm thức quá một mức nào đó, thì họ có thể bắt đầu có được minh triết thật sự, họ có thể bắt đầu có được câu trả lời cho những câu hỏi mà tâm đường thẳng không giải quyết được.” Con cũng có thể nói là Phật nhận ra là mục đích của việc làm của thày là nâng cao tâm thức con người, không phải là đem lại minh triết hay kinh điển cao trội nào đó có thể đứng vững mãi mãi với thời gian.

13.3. Những tranh luận trí năng không bao giờ dứt

Một số Phật tử hiện đại sẽ phản đối điều thày vừa nói. Họ sẽ nói rằng vì Phật là một sinh thể hoàn toàn giác ngộ, giáo lý của Phật phải là chân lý tối thượng. Nhưng, tại sao chính Phật giáo lại tẽ ra nhiều phương hướng? Dù họ đồng ý trên một khung sườn chung, nhưng họ có những lập luận và giáo lý phức tạp, những ý tưởng và pháp thực hành khác nhau và không đồng ý trên nhiều điểm. Nếu con nhìn một cách trung hòa, thì con thấy là sau khi Phật không còn hiện thân nữa, Phật giáo đã có cùng số phận như Ấn giáo.

Phật giáo trở nên đa dạng, có sự phân chia ra nhiều hướng và nhiều nhóm. Những người trong các nhóm đó đưa ra những lập luận trí năng và họ bắt đầu biến những điều Phật nói hay ngụ ý thành lập luận trí năng. Nếu giáo lý của Phật là giáo lý tuyệt đối cao nhất thì làm sao có thể có bất đồng và những lý giải khác nhau? Nếu ta có minh triết tối thượng, thì phải chăng bất kỳ ai đọc nó sẽ phải đạt được tầng tâm thức tối thượng? Đáng lẽ không thể có bất đồng nếu đó là minh triết cao trội và tối thượng. Nhưng vì có bất đồng, thì phải chăng ta có thể lý luận rằng ngay cả giáo lý của Phật cũng không là minh triết tối thượng, không do khiếm khuyết nơi Phật nhưng do khiếm khuyết nơi người nhận giáo lý?

13.4. Cách tiếp cận thực tiễn giáo lý tâm linh

Có đúng chăng là Phật giáo đã khẳng định rõ ràng mục đích là nâng con người lên trên trạng thái đau khổ, vượt Biển Luân hồi? Phật giáo đã nói rõ ràng là những người được trao truyền Phật giáo đang không ở trong trạng thái tâm thức tối thượng. Vậy ta có thể suy luận được chăng là Phật không thể trao truyền bất kỳ minh triết tối thượng nào, vì làm sao những người ở một trạng thái tâm thức thấp có thể nắm bắt và sử dụng minh triết cao như thế? Do đó, ta có thể tiến thêm bước nữa chăng và nhận ra là không có gì tối thượng trên trái đất, cho dù đó là giáo lý của Phật hay giáo lý của Giê-su hay giáo lý của Vệ đà hay bất kỳ giáo lý tâm linh nào khác? Bởi vì tâm đường thẳng, lý luận, phân tích có thể lấy bất kỳ giáo lý tâm linh nào và đưa ra nhiều cách diễn giải và lập luận khác nhau để chứng minh là cách diễn giải này hay hơn cách diễn giải kia. Tâm đường thẳng sẽ phóng chiếu là phải có một cách diễn giải cao hơn, một cách diễn giải tối thượng.

Ta có thể nhận được chăng là những người rơi vào khuôn đúc này ở một tầng tâm thức nào đó? Một giáo lý tâm linh chân chính không có mục đích xác chứng những diễn giải của con người ở tầng tâm thức của họ, mà là nâng tâm thức của họ lên cao hơn và vượt quá tầng tâm thức đó. Đâu có khó nhận ra điều này, phải không con?

Ta có thể nói chưa bao giờ có nỗ lực đem lại giáo lý tối thượng hay giáo lý tâm linh cuối cùng cho hành tinh trái đất. Vì những người khởi xướng các giáo lý tâm linh, tức là các chân sư thăng thiên, đều ý thức rõ ràng các điều kiện trên trái đất. Các thày thấy rõ ràng những giới hạn của tâm thức tập thể và của những nhóm người khác nhau. Các thày không tìm cách làm điều bất khả thi mà làm điều gì thực tiễn có thể làm được, đó là trao truyền một giáo lý cho một nhóm người đặc thù có thể nâng họ lên cao hơn một tầng tâm thức cao hơn nơi họ có thể nắm bắt một giáo lý cao hơn và cứ như thế tiết lộ tuần tự. Lẽ tất nhiên, tâm đường thẳng sẽ nói: “Vậy khi nào thì giáo lý tối hậu sẽ được trao truyền? Bởi vì chắc hẳn phải có một giáo lý tối hậu.”

13.5. Giáo lý tối thượng về mọi sự

Lẽ tất nhiên ý kiến này được sự hậu thuẫn của khoa học, đã từ nhiều thập kỷ, thậm chí nhiều thế kỷ tìm cầu lý thuyết hay nhận biết tối thượng về sự vận hành của thế giới, Lý thuyết về mọi sự (Theory of Everything). Minh triết về mọi sự, giáo lý về mọi sự ở đâu? Khi nào nó được trao truyền? Một lần nữa, sẽ không bao giờ có một giáo lý tối thượng được trao truyền trên trái đất một phần bởi vì trái đất hiện nay đang ở một tầng mức mà các thày gọi là một hành tinh không tự nhiên có nhiều giới hạn trầm trọng. Lý do khác là ngay cả trên một hành tinh tự nhiên cũng không thể trao truyền một giáo lý tối thượng. Bởi vì giáo lý tối thượng là gì, giáo lý tối thượng về mọi sự là gì?  Nội dung của giáo lý tối thượng về mọi sự phải bao gồm những gì? Lẽ tự nhiên, giáo lý này phải bao gồm mọi sự. Giáo lý tối thượng về thế giới hình tướng này có thể tìm ở đâu? Trong tâm đấng Sáng tạo.

Làm sao giáo lý về mọi sự có thể truyền đạt đến bất kỳ tầng mức sáng tạo nào thấp hơn đấng Sáng tạo? À, điều này không làm được. Con chỉ có thể đạt tới tầng minh triết tối thượng bằng cách trở thành một với tâm đấng Sáng tạo. Lúc ấy con biết minh triết tối thượng. Lẽ tất nhiên, ta có thể tiếp cận vấn đề một cách khác và nói: “Khi nào thì giáo lý tối thượng sẽ được trao truyền trên trái đất?” Ấy, giáo lý tối thượng cho một hành tinh như trái đất là gì? Đó là giáo lý chỉ dạy cách vượt thăng những tầng mức tâm thức có mặt trên trái đất. Con có thể bắt đầu ở bất kỳ tầng mức nào, vươn lên những tầng tâm thức có thể có trên trái đất cho tới khi đạt được tầng cao nhất và rồi con vượt thăng tầng mức này và đi vào một trạng thái cao hơn. Cho dù con gọi nó là Niết bàn hay giác ngộ hay trạng thái thăng thiên hay gì khác, con có thể tốt nghiệp từ Trường học Trái đất.

Có thể nói là giáo lý nào giúp con tốt nghiệp trường học trái đất là giáo lý tối thượng có thể được trao truyền, tùy theo tình trạng đặc thù, hòan cảnh đặc thù trên trái đất, chính yếu là tùy theo tầng mức của tâm thức tập thể nhưng cũng tùy theo độ dày đặc của vật chất. Nhìn theo góc độ này, chúng ta có thể nói là giáo lý tối thượng đã được trao truyền dưới nhiều dạng vì giáo lý của Phật có thể giúp con người thăng vượt các tầng mức tâm thức khả thi trên trái đất, và giáo lý của Ki-tô cũng thế, cũng như nhiều giáo lý khác có tính chất tôn giáo hay thần bí. Vấn đề không phải là nghĩ rằng có một giáo lý tối thượng sẽ đem lại kết quả một cách máy móc. Đây là một khiếm khuyết trong tư duy mà thày muốn sửa đổi, vì tâm đường thẳng sẽ nói: “À, nếu tôi có giáo lý tối thượng, thì khi tôi học hỏi giáo lý này và hiểu nó nói gì, chắc chắn tôi phải đạt được tầng tâm thức tối thượng và sẽ giác ngộ, thức tỉnh và thăng thiên.”

13.6. Hiểu giáo lý so với nâng cao tâm thức

Không thể trao truyền một giáo lý có thể đem lại sáng ngộ một cách tự động và máy móc cho bất cứ ai hiểu giáo lý. Tại sao không làm được? Bởi vì mục đích của con đường tâm linh là nâng cao tâm thức của con lên quá các tầng tâm thức có thể có trên trái đất để con có thể nhảy vọt lên tâm thức thăng thiên. Mục đích là xoay chuyển tâm thức con lên cao, không phải là xoay chuyển hiểu biết của con lên cao và điều này lẽ tất nhiên sẽ làm chấn động khiến nhiều nguời tâm linh thuộc nhiều truyền thống. Thậm chí nhiều người thuộc các thời đại trước cũng sẽ bị chấn động bởi câu nói này vì trong tâm của họ, họ nghĩ rằng hiểu biết tương đương với tầng mức nhận biết. Ắt hẳn để có thể hiểu trọn vẹn một giáo lý nào đó, bạn phải đạt tới tầng nhận biết cao nhất – nếu không làm sao bạn hiểu được giáo lý?

Có sự khác biệt giữa hiểu một giáo lý bên ngoài và thể nhập giáo lý qua đó con nâng cao tâm thức mình. Hiểu một giáo lý khác nâng cao tâm thức vì hiểu điều gì đó có nghĩa gì? Hiểu nghĩa là quan sát từ bên ngoài. Khi con lấy một giáo lý dù là kinh Phật hay kinh Ki-tô hay bất kỳ kinh nào khác, thì con lấy một giáo lý mà con xem đến từ bên ngoài tâm con. Con đánh giá nó với trí năng, tâm phân tích, tâm đường thẳng. Con tìm cách nắm bắt và hiểu nó nhưng con vẫn coi nó là cái gì bên ngoài con. Con có thể tìm cách hiểu cõi tâm linh. Con có thể tìm cách hiểu một chân sư thăng thiên như thế nào, con nghĩ rằng nếu con hiểu Thày Lanto thì con sẽ nối kết với thày, nhưng điều này không thể làm được.

13.7. Trải nghiệm so với biết từ bên ngoài

Hiểu mang ngụ ý là có khoảng cách giữa người biết và cái được biết. Làm sao con nâng cao tâm thức khi con còn thấy có khoảng cách? Làm sao con nối kết với Thày Lanto và Minh triết của Tia thứ Hai? Con không nối kết được nếu con nghĩ đây là điều con có thể nắm bắt bằng trí năng, điều con thấy bên ngoài con, một hiểu biết mà con phải đạt được. Con rốt cuộc sẽ nối kết được khi con tới điểm nhận ra là không có khoảng cách và con trải nghiệm là không có khoảng cách. Con không cố gắng hiểu thày, vì dù con hiểu thày rõ tới đâu bằng trí năng, con sẽ vẫn không nối kết được với thày. Thày đã nhiều lần đứng sát cạnh, nói theo nghĩa bóng, một học trò đang tìm cách nắm bắt Minh triết Thiêng liêng. Thày đang vỗ vai, nói theo nghĩa bóng, người học trò và nói: “Thày đang ở đây.” Nhưng người học trò mải nhìn vào kinh điển bằng trí năng để cố gắng hiểu: “Ắt hẳn thày ở ngoài kia. Thày không thể ở quá xa.”

Một số người nghĩ: “Thày càng ở xa, tôi càng cần nhiều nỗ lực để hiểu thày, thì tôi càng cao trội hơn, càng đặc biệt hơn nếu tôi có thể hiểu vị thày ở xa tít đó.” Thày vẫn còn đứng ngay đây, con chỉ cần quay đầu và nhìn. Nhưng không đâu, y đang nhìn vào cuốn sách và kinh điển, đo lường với trí năng của mình: “Cách giải thích này cao trội hơn hay là cách giải thích kia cao trội hơn? Gía chi tôi tìm thấy cách giải thích cao trội thì chắc đấy là thày Lanto.” (Người sứ giả gõ vào máy thu âm ba lần). Thày vẫn còn ngay đây. Tại sao con không ngửng đầu khỏi cuốn sách và có thể tình cờ nhìn thấy thày? Nhưng không đâu: “Tôi đang tập trung vào cuốn sách, bởi vì chắc chắn thày Lanto phải đang lẩn trốn giữa các hàng chữ trên trang giấy. Thày có thể nào ở đâu khác?” Con thấy chăng đây là trò chơi mà con người có thể chơi vô thời hạn khi họ vẫn tìm cầu cái ưu việt của trí năng thay vì tìm cầu sự giản dị của trải nghiệm.

Minh triết là gì? Nó có thể nói ra lời được chăng? Không đâu. Minh triết là một trải nghiệm. Nó là một Hiện diện. Con chỉ có thể trải nghiệm Hiện diện. Con không thể hiểu Hiện diện. Đó là lý do tại sao con không thể hiểu Hiện diện TA LÀ của con, con chỉ có thể trải nghiệm Hiện diện.

13.8. Có một cái ngã chăng?

Trở lại câu hỏi mà Phật từ khước trả lời: Có một cái ngã chăng hay không có ngã? Các thày Bà la môn tranh luận điều này không ngừng. Một số vẫn còn tranh luận ngày nay. Một số người ngày nay đã lấy những giáo lý cổ xưa này và tạo ra phiên bản hiện đại của họ. Họ vẫn còn đang tranh luận: “Có chăng một cái ngã hay một trạng thái vô ngã?  Chúng ta có nên cố gắng đạt tới ngã tối thượng là Atman, cái ngã trường tồn và bất biến? Nhưng hãy đợi một chút. Phật nói rằng  không có một ngã như thế. Vậy chúng ta phải làm ngược lại và nói như vậy có nghĩa là không có ngã nào cả. Không có ngã trường tồn mà cũng không có bất kỳ loại ngã nào khác. Chúng ta phải cố gắng đạt được vô ngã và chối bỏ là chúng ta có bất cứ ngã nào. Lúc ấy chúng ta sẽ trở về hợp nhất với nhận biết tối thượng, vô biên của Brahman.”

Giáo lý Vệ đà nói rằng có một Atman, là cái ta tối thượng, cái Ta Một, cái ta không phân chia trường tồn, bất biến. Vậy các hiền giả Rishi có hoàn toàn sai khi nói thế? Có và không. Chúng ta có thể nào soi sáng vấn đề một cách khác với giáo lý do các chân sư thăng thiên trao truyền chăng? Có và không. Các thày có thể giải thích, các thày có thể cố gắng giải thích bằng từ ngữ, nhưng con người có thể nắm bắt được chăng? Hay họ sẽ rơi vào tranh cãi không dứt và lấy bất cứ giáo lý nào mà các thày trao truyền để tạo ra những lập luận mới, những diễn giải mới, những diễn giải trí năng cầu kỳ mới?

13.9. Hai khía cạnh của tâm thức Ki-tô

Hãy để thày cố gắng trao truyền cho con một điều. Các nhà tiên tri Vệ đà có nói sai chăng về Atman? Dựa trên các khái niệm và ngôn từ mà các thày đã dùng trong các giáo lý này, thì ta có thể nói “không hẳn thế”, bởi vì các thày đã nói gì? Các thày đã nói đấng Sáng tạo đã tạo ra mọi sự từ chính bản thể ngài, từ chính tâm thức ngài, từ chính bản ngã ngài. Cái đầu tiên được tạo, đấng Con đầu tiên, là tâm thức Ki-tô. Tâm thức này có mục đích đem lại sự hợp nhất giữa đấng Sáng tạo và tạo vật của ngài để tạo vật này, tức là những phần nối dài có tự nhận biết của đấng Sáng tạo, không thể mãi mãi lạc lối trong hình tướng. Con có thể nói là có một khía cạnh của tâm thức Ki-tô, của tâm thức Ki-tô hoàn vũ, ngày hôm qua ngày hôm nay và mãi mãi vẫn là một, như kinh điển có nói. Có thể nói là nó không có sắc thái, không biến đổi theo thời gian, không có phân biệt, không có hình tướng. Do vậy, nó không thể biến đổi, vì nó vượt lên trên quan niệm mà con có thể có từ thế giới hình tướng.

Mặt khác, tâm thức Ki-tô hoàn vũ được sinh ra từ đâu? Từ Bản thể của đấng Sáng tạo, từ tâm thức của đấng Sáng tạo. Có đúng chăng là đấng Sáng tạo luôn luôn thăng vượt chính mình?  Có đúng chăng là đấng Sáng tạo tạo tác để ngài có thể trải nghiệm sự sáng tạo, trải nghiệm tạo vật của chính ngài từ bên trong xuyên qua các con là những nối dài có tự nhận biết của đấng Sáng tạo? Như vậy phải chăng tâm thức Ki-tô quả thật không biến đổi hay nó giản dị có hai khía cạnh? Một khía cạnh luôn luôn hợp nhất với đấng Sáng tạo và khía cạnh kia của tâm thức Ki-tô luôn luôn thay đổi, thích ứng với những ảo tưởng mà con người tạo ra và cho họ con đường từ ảo tưởng quay về cái một.

Các nhà tiên tri Vệ đà có hoàn toàn nắm bắt điều này chăng? Không đâu, vì họ bị kẹt trong lý luận trí năng cho rằng nhất định phải có hai mặt của đồng tiền, hai đối nghịch. Họ lý luận rằng khi có một thế giới nơi mọi sự đều biến đổi và chuyển động thì phải có cái đối nghịch không thay đổi gì cả. Phải chăng những giáo lý mà các hiền triết (Rishis) nhận được đến từ tầng tâm thức đã bị phân chia và như thế có tính chất nhị nguyên? Con thấy ở đây đặc tính của trí năng, của tâm đường thẳng. Tâm này lấy một trạng thái đặc thù, thông thường từ những gì có thể quan sát trong thế gian, và sau đó nó từ đó lý luận lên trên hay ngược lại để suy ra cõi tâm linh và nguồn gốc của sáng tạo.

Nó luôn luôn lý luận rằng bất cứ điều gì có thể quan sát thì phải có cái ngược lại. Nếu con quan sát thấy mọi điều trên thế gian đều biến đổi và chuyển động thì phải có cái ngược lại không thay đổi. Sau đó, nó phóng chiếu là phải có một minh triết nào đó cao hơn. Các hiền giả (Rishis) nói là có một cái ta bất biến và trường tồn là Atman, và mọi người đều phát xuất từ Atman đó. Khi họ thức tỉnh từ ảo tưởng họ tách biệt với Atman, thì họ sẽ tan biến vào Atman, trở thành một với Atman. Mặt khác, Phật nói rằng khi quan sát nội tâm, Phật chưa bao giờ khám phá thấy một cái ta bất biến trường tồn trong mình. Vậy Phật sai hay các hiền giả (Rishis) sai?

13.10. Cái ta luôn luôn vượt thăng chính nó

Những gì Phật dạy quả thật Phật đã gần sự thật hơn, một sự thật không thể bày tỏ đầy đủ bằng ngôn từ. Bởi vì khi con truy tìm nguồn gốc của mình, thì đầu tiên hết con tìm thấy Cái Ta Biết của con vượt quá cái ta vỏ ngoài, sau đó con tới Hiện diện TA LÀ của con là một nối dài của các chân sư thăng thiên, là nối dài của các chân sư thăng thiên khác, nối kết trở lại tới tận đấng Sáng tạo xuyên qua các bầu cõi đã thăng thiên. Con là một phần của tạo vật của đấng Sáng tạo và trong sự sáng tạo luôn luôn có biến đổi và chuyển động. Sự sáng tạo luôn luôn thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái kia. Thật có chăng một cái ngã bất biến, một cái ngã cá nhân bất biến?

Các thày đã giải thích là các con được tạo ra để là những người đồng sáng tạo. Người đồng sáng tạo là gì? Đó là một sinh thể bắt đầu như một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm, dần dà mở rộng ý niệm bản ngã của mình cho tới khi đạt được tự nhận biết của đấng Sáng tạo. Điều này không có nghĩa là con tan biến trong đấng Sáng tạo đã tạo ra con, mà có nghĩa là con đã tự mình trở thành một đấng Sáng tạo. Con được tạo ra như một sinh thể chuyển động, tự thăng vượt và tiến trình này có thể tiếp diễn vô tận. Vậy thì Atman, cái ta bất biến, ở đâu? Nó không có đó.

13.11. Trạng thái không có cái ta vỏ ngoài

Có một khía cạnh của tâm thức Ki-tô, tâm Ki-tô hoàn vũ mà con có thể trải nghiệm ngay khi là một con người đang hiện thân trên trái đất. Khi con trải nghiệm tâm thức Ki-tô trên một hành tinh luôn luôn chuyển động, thì tâm thức này giống như một tảng đá không lay động so với sự chuyển động liên tục của con. Đó là lý do vì sao trước kia nó được diễn giải như vậy, như một cái ta bất di dịch. Đây là sự diễn giải nhìn từ thế giới hình tướng trên một hành tinh như trái đất. Sau đó con có thể tiếp tục và nói: “Phải chăng Phật có nói tới một trạng thái vô ngã? Vậy thì Phật ngụ ý gì?” Nhiều người Phật tử hiện đại nghĩ rằng mục đích tu theo Bát chánh đạo là đạt tới một trạng thái vô ngã bằng cách buông bỏ tất cả mọi ngã. Có những người khác trong thế giới Tây phương đã dùng tư duy đường thẳng lý luận và nghĩ rằng mục đích của con đường tâm linh là trừ tiệt cái ngã. Ai đúng? Ai sai?

Câu trả lời tùy theo con đang nói tới ngã nào. Nếu con nói tới ngã tách biệt, cái tự ngã sinh ra từ tâm thức nhị nguyên, thì quả thật Phật dạy đạt tới một trạng thái không còn tự ngã này, không còn ngã vỏ ngoài. Điều này không có nghĩa là Phật nói con không có ngã. Bởi vì khi con không còn bị kẹt trong sự đồng hóa với tự ngã, thì con khám phá con là một nối dài của cái ta cao của con, Hiện diện TA LÀ của con. Hiện diện TA LÀ của con có một cá tính được quy định bởi cha mẹ tâm linh của con, các chân sư thăng thiên. Con được sinh ra để mở rộng cái ta đó, vượt thăng nó và trở nên hơn nữa khi cá thể này tăng triển.

Nếu con lý luận rằng mục đích của con đường tâm linh là đạt trạng thái vô ngã nơi con thật sự không hiện hữu, thì một lần nữa con lại dùng tâm đường thẳng để lý luận rằng mọi chuyện phải có hai đối cực, và điều này một lần nữa cho con thấy khuyết điểm của tâm lý luận này. Khi Cái Ta Biết tách ra khỏi ngã vỏ ngoài và cá tính vỏ ngoài, thì con khám phá cái ta cao, Hiện diện TA LÀ và cá tính của nó và con bắt đầu biểu thị cá tính đó.

13.12. Trạng thái vô ngã

Vậy tại sao có những người đã trải nghiệm hay tự nhận là đã trải nghiệm trạng thái vô ngã? Có thể có chuyện này chăng? Suốt một thời gian rất dài, kể từ khi sa nhân sa ngã ở bầu cõi Thứ tư, thì họ đã tạo ra cái mà các thày gọi là một quần thể, một ngã tập thể, một quái vật tập thể giống như trạng thái trống không, trạng thái vô ngã. Trên trái đất các sa nhân đã làm hai điều với cái ngã. Một mặt, họ tìm cách nâng cao bản ngã của họ lên một địa vị tối thượng qua đó họ nghĩ rằng Thượng đế bắt buộc phải cho họ vào thiên đường hay cho họ quyền điều hành vũ trụ vì họ quá ư tinh xảo. Mặt cực đoan kia, họ đã tạo ra trạng thái vô ngã này, với mục đích gì? Họ tìm cách lôi kéo, đặc biệt là những người tâm linh, đi vào một trong hai hướng đó. Hoặc là tìm cách làm cho ngã tinh xảo đến mức nó có thể đi vào thiên đường, hoặc chối bỏ có một cái ngã và đi vào trạng thái lấp lửng hay chốn vô định hay chốn vô ngã khi nghĩ rằng mình không có ngã.

Có những người tin rằng họ đã khắc phục ngã và ngã đã chết. Họ phóng chiếu là có những chân sư đã đạt tới trạng thái vô ngã, bất nhị. Làm sao con biết được là con đã đạt trạng thái vô ngã này? Khi con nói: “Tôi đã đạt vô ngã, tôi đã đạt bất nhị” thì cái “ngã” nào đang nói? Chẳng phải đấy là một ngã hay sao? Khi con có cái ngã nói: “Tôi là vô ngã” thì con có thật sự thoát khỏi ngã chăng? Hay là con chỉ giản dị đi vào một ảo tưởng lừa gạt mình nghĩ rằng mình đã đạt được một trạng thái tối thượng nào đó trên đường tâm linh?

13.13. Thăng vượt liên tục

Trạng thái tối thượng trên con đường tâm linh là gì, ít nhất là trên trái đất? Đó là nhận ra con là một người đồng-sáng tạo. Con đi ra từ Bản thể đấng Sáng tạo, con có thể gọi là Brahman hay nhận biết vô biên hay bất cứ gì khác mà con muốn. Con không được tạo ra để hiện thân trên một hành tinh như trái đất và trải qua nhiều ngàn kiếp đầu thai với tất cả khổ đau mà đầu thai đem lại để rồi một ngày kia con giản dị thức tỉnh và tan biến vào cái hư không mà con từ đó đi ra.

Đấy không phải là mục đích của tiến trình sáng tạo. Mục đích của sự sáng tạo là tự thăng vượt, thăng vượt vô hạn định, mãi mãi, liên tục. Đấy là minh triết cao nhất. Thày không nói là minh triết tối thượng, nhưng đó là minh triết cao nhất có thể trao truyền trên một hành tinh như trái đất. Nếu con nắm bắt được điều này và vượt thăng và tiếp tục vượt thăng, thì nó sẽ đưa con vượt quá tầng tâm thức của trái đất và con có thể trải nghiệm một dạng minh triết vô vàn cao hơn, không thể trao truyền hay trải nghiệm trên trái đất. Bởi vì chỉ khi nào con là một chân sư thăng thiên, con mới có thể thực sự trải nghiệm tầng tâm thức vượt quá trái đất.

13.14. Hiểu sai về truyền thống Vệ đà

Một trong những hiểu sai chí tử về toàn bộ hệ thống Vệ đà (dù con gọi nó là Vedanta hay Advaita Vedanta hay bất kỳ tên nào khác), và thày dùng chữ “chí tử” hiển nhiên như một khiêu khích, là họ đã không nắm bắt ý nghĩa của nhị nguyên. Một câu nói thường được trích dẫn là: “Brahman là thực tại duy nhất. Thế gian là một ảo tưởng.” Cho nên họ nghĩ, họ lý luận chỉ có Brahman là thực và do đó, con như là một cái ta, con không thực. Cái ta không thực. Cái ta là một cái ta tách biệt. Nó không thực và do đó để đạt được bất nhị, để thoát khỏi nhị nguyên mà họ coi là mục đích cao nhất, con phải khắc phục cái ta vì cái ta chỉ có thể là nhị nguyên.

Con hãy xem xét câu nói: “Chỉ Brahman mới thực, thế gian là một ảo tưởng.” Trong câu này có nhị nguyên. Nếu Brahman là thực và là điều duy nhất hiện hữu, thì thế gian từ đâu tới? Nó ắt hẳn phải tới từ Brahman. Đâu có gì khác. Làm sao thế gian có thể là một ảo tưởng nếu nó đến từ Brahman và do Brahman tạo ra? Thế gian là Brahman biểu hiện chính mình như thế gian. Làm sao khi Brahman biểu hiện chính mình như hình tướng lại tạo ra ảo tưởng, khi chỉ có Brahman là thực? Thế gian cũng là Brahman vậy ảo tưởng ở đâu?

Nói thế gian tách biệt khỏi Brahman là một ảo tưởng. Khi nói Brahman là thực và thế gian là một ảo tưởng, phải chăng con đã tách thế gian ra khỏi Brahman? Phải chăng con đã tạo ra nhị nguyên dù con khẳng định câu nói này vượt trên nhị nguyên? Con thấy sự gian xảo của tâm lý luận. Thế gian không phải là một ảo tưởng. Thế gian được tạo ra từ các sinh thể thăng thiên biết và trải nghiệm họ là những nối dài của Bản thể của đấng Sáng tạo – con có thể gọi là Brahman hay đấng Sáng tạo hay bất kỳ tên gọi nào khác. Chúng ta biết chúng ta từ đâu tới và chúng ta biết chúng ta được sinh tạo bởi đấng Sáng tạo, chúng ta được sinh tạo từ Bản thể của đấng Sáng tạo và do đó sự hiện hữu của chúng ta không phải là một ảo tưởng. Chúng ta có thực và thế giới có thực. Thế giới hình tướng có một thực tại dù con đang ở trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Nơi đây vẫn có những cấu trúc thực. Thế giới không phải chỉ là một ảo tưởng.

Giờ đây con hãy xem xét: Nếu Brahman là tất cả những gì có thực và Brahman sinh tạo thế giới, lẽ tất nhiên Brahman biết thế giới là Brahman thì làm sao có thể có ảo tưởng? Có thể nào có ảo tưởng trong tâm Brahman chăng? Điều này nghe có hợp lý chăng? Vậy thì ảo tưởng nằm ở đâu? Nó chỉ có trong tâm tách biệt khỏi nguồn cội của tâm. Nó chỉ có trong tâm nhìn Brahman từ một khoảng cách và tìm cách hiểu và phóng chiếu một hình ảnh lên Brahman. Toàn bộ truyền thống bắt nguồn từ kinh Vệ đà và các nhà tiên tri Vệ đà (Vedic seers), đều đặt nền tảng trên nhị nguyên.

13.15. Hình tướng khác biệt không phải là nhị nguyên

Các thày đã trao truyền gì cho các con? Một cái nhìn khác. Các nhà tiên tri Vệ đà sẽ nói tầm nhìn này thô thiển, đây là một mức hiểu thấp hơn. Họ sẽ nói chỉ có Brahman là thực. Mỗi khi con có sự phân chia thành một thứ gì đó khác với Brahman, thì con có nhị nguyên. Thày vừa nói gì? Nếu chỉ có Brahman là thực, mọi sự đều được sinh tạo từ Brahman ra cho nên thế gian vẫn là Brahman. Nhị nguyên ở đâu? Nhị nguyên không ở trong thế giới hình tướng. Nhị nguyên không ở trong thực tại. Nhị nguyên chỉ có ở trong tâm, tâm tách biệt, tâm thấy mình tách biệt.

Đúng vậy, mục đích của con đường tâm linh là khắc phục tâm tách biệt, nhưng con không khắc phục tâm tách biệt bằng cách đi vào trạng thái vô ngã. Con khắc phục nó bằng cách khắc phục ảo tưởng rằng con có thể là một ngã tách biệt, tách biệt khỏi tâm một. Khi con khắc phục ảo tưởng là con đồng hóa với ngã tách biệt, thì con không tan biến mất, con không đi vào vô ngã. Con khám phá Hiện diện TA LÀ của con: “À, tôi là cái này. Tôi không là cái ở dưới này, tôi là cái này! Và ô kìa, Hiện diện TA LÀ đến từ cái này, và cái này đến từ cái kia, và cái kia đến từ đấng Sáng tạo.” Con không thấy một đấng Sáng tạo không phân chia, con thấy một chuỗi cấp bậc đi lần tới đấng Sáng tạo.

13.16. Bẫy của tâm sa ngã: hoặc ngã tách biệt ưu việt hoặc vô ngã

Những tín đồ Vệ đà đã tạo ra cảm tưởng này: “Chỉ có Brahman và thế gian. Chỉ có nhận biết vô biên và thế gian. Thế gian là một ảo tưởng. Khi ta thức tỉnh khỏi ảo tưởng, ta trở về với Brahman.” Đây là lời gian dối của tư duy sa ngã. Khi con thức tỉnh khỏi ảo tưởng mình tách biệt, thì con thức tỉnh và nhận ra con tới từ thực tại nào, con là nối dài của cái gì và mục đích của con là tăng trưởng tự nhận biết. Con không trở về đấng Sáng tạo bằng cách tan biến và trở thành số không. Con trở về đấng Sáng tạo bằng cách trở thành tất cả những gì đấng Sáng tạo là, đạt được tâm thức của đấng Sáng tạo. Đó là lý do tại sao đấng Sáng tạo sinh tạo tất cả chúng ta là những sinh thể cá biệt có tự nhận biết. Nếu chúng ta muốn, tất cả chúng ta đều trên hành trình trở về nguồn cội, nhưng nguồn cội chúng ta không phải là hư không. Nguồn cội chúng ta là đấng Sáng tạo và đấng Sáng tạo muốn chúng ta đi trên hành trình trở về này một cách ý thức, đạt được những tầng nhận biết và ý niệm bản ngã càng ngày càng cao hơn, để chúng ta có thể nhận chân mọi tầng mức của tạo vật của đấng Sáng tạo và góp phần đồng-sáng tạo nó. Đây là điều đấng Sáng tạo muốn; không phải là hành trình giả dẫn tới sự ưu việt của ngã tách biệt hay vô ngã.

Các con yêu dấu, thày nhận ra, như Chân sư MORE và các thày khác đã nói, là đôi khi các thày trao cho các con nhiều hơn những gì con có thể hiểu thấu. Nếu con cứ tiếp tục thăng vượt chính mình thì con sẽ tới điểm hiểu thấu được. Vì nếu tiết lộ tuần tự chỉ cho con những gì con có thể hiểu thấu ở tầng mức hiện tại của con, thì sao nó có tín chất tuần tự được?

13.17. Nối kết với Thày Lanto

Tất cả những điều trên liên quan gì tới kết nối? Thày đã cho các con những gợi ý về Hiện diện TA LÀ của con. Thày đã cho con những gợi ý về minh triết thật sự. Làm sao con kết nối được với Thày Lanto và Hiện diện của Minh triết? Bằng cách trải nghiệm Hiện diện của thày. Thày vẫn đang đứng ngay cạnh con (âm thanh gõ trên vai con). Con hãy giản dị nhìn đi. Nhìn với tâm không thành kiến. Nhìn với sơ tâm (beginner’s mind). Nhìn với tâm trẻ thơ và con có thể tìm thấy thày. Nếu ý muốn của con là trải nghiệm Hiện diện của Minh triết thì thày đang ở ngay đây. Thày chẳng đi đâu cả. Con có đi nơi nào khác chăng? Nếu thế thày hy vọng nơi ấy gần thày hơn. Gần điểm nơi con khám phá thày lúc nào cũng đang ở ngay đây.

Tới đây thày cám ơn con đã kiên nhẫn và thày niêm con trong Hiện diện của Minh triết Thiêng liêng mà thày hy vọng đã chứng minh là minh triết này vượt lên trên trí năng và tâm đường thẳng. Lanto THÀY LÀ.

11 | Quy thuận theo ý chí cao hơn của Tâm Một

Bài truyền đọc của Chân sư MORE qua trung gian Kim Michaels ngày 4/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên MORE (HƠN NỮA). Con kết nối với thày bằng cách nào? Lẽ tất nhiên, bằng cách muốn hơn nữa. Làm sao có thể có cách nào khác? Con không thể kết nối với thày bằng cách muốn ít hơn, vì lúc nào thày cũng LÀ HƠN NỮA. Con có thể hỏi, “Hơn gì?”, nhưng câu hỏi này không cần đặt ra. Vì cái HƠN NỮA mà thày LÀ không thể so sánh với bất cứ cái gì ít hơn, mà nó cũng không thể so sánh với tất cả cái gì hơn nữa. Vì không thể có gì hơn Chân sư MORE.

Thày tin rằng con có thể thấy điều này nếu con vô hiệu hóa tâm đường thẳng, là cái tâm lúc nào cũng muốn nghĩ là có cái gì hơn nữa. Nếu con cố gắng có hơn những gì con hiện có, thì làm sao con kết nối được với Chân sư MORE, vì thày không hơn và cũng không kém. Bí quyết là vô hiệu hóa tâm đường thẳng, và điều gì có thể giúp con làm việc này?

11.1. Nhiều khía cạnh của Ý chí

Thày là Thượng sư của Tia thứ Nhất, thường được coi là Tia của Ý chí. Và trong những đợt truyền giáo trước, họ coi thày như một vị thày rất nghiêm khắc, và con phải có ý chí mãnh liệt và có kỷ luật thì mới dám tới gần thày, nhưng ý chí có nhiều khía cạnh. Ý chí không phải lúc nào cũng là ý chí mãnh liệt và nhất quyết, vì các thày đang tìm cách giảng điều gì? Cách nối kết với các chân sư thăng thiên không qua việc nhấn và nhấn mạnh hơn, cố gắng và cố gắng nhiều hơn.

Rõ ràng là có một ý chí trên trái đất, và đó là ý chí nhân gian, một ý chí bên ngoài. Có ý chí của tự ngã và của các ngã tách biệt. Có ý chí muốn tiếp cận con đường tâm linh vì tự ngã nghĩ nó có thể gặt hái điều nó muốn gặt hái, là sự an toàn – một địa vị tối hậu nơi nó có thể cảm thấy an toàn. Tự ngã nghĩ rằng nếu con đi theo con đường tu thì con sẽ đến một giai đoạn tối hậu. Và nếu con chú tâm vào ý chí và quyết tâm, thì tự ngã nghĩ rằng con cần ý chí tối hậu, quyết tâm tối hậu. Trong các đợt truyền giáo trước, một số đệ tử đã đi vào tâm thái cho rằng muốn nối kết với thày, El Morya là hình ảnh họ có về thày lúc đó (và dĩ nhiên vẫn còn đang duy trì), thì họ phải thể hiện ý chí mãnh liệt này. Họ phải là ngọn lửa xanh, tia sáng xanh và họ phải nhất quyết và rất chú tâm.

Nhiều người trong số các đệ tử đó quên đi câu chuyện mà các thày có kể, rằng thày Kuthumi và thày được trao nhiệm vụ trèo lên một đỉnh núi để lấy một thông điệp, và thày hoàn toàn chú tâm và xông thẳng lên đỉnh núi, trong khi thày Kuthumi chậm rãi nối kết với chim muông và hoa. Nhưng khi các thày đi xuống từ đỉnh núi, thì thày Kuthumi nhớ thông điệp, trong khi thày thì quên mất. Câu chuyện này cho con thấy là khi con có ý chí quá mạnh, bất quân bình, thì không những con không nhớ thông điệp, mà con còn không nhận được thông điệp nữa.

Sau đó, lẽ dĩ nhiên còn có một hình thức khác của ý chí vỏ ngoài mà ta có thể gọi là phản-ý chí, là điều mà con thấy nơi nhiều người trên trái đất khi họ bị tâm thức tập thể chế ngự. Họ không biểu lộ cá tính mạnh, họ không muốn ló ra khỏi đám đông, họ muốn nhập vào đám đông, biến vào đám đông, làm những chuyện họ được bảo, tuân theo quy ước, tuân theo truyền thống xã hội.

11.2. Trung đạo của Ý chí

Con có cả phản-ý chí lẫn ý chí bất quân bình. Con thực sự có thể thấy cả hai khía cạnh này trên con đường tâm linh. Như thày có nói, có một số đệ tử rất quyết tâm trong khi có một số khác gia nhập một phong trào tâm linh và quyết định họ sẽ làm bất cứ gì được bảo, không bao giờ chất vấn, không bao giờ suy nghĩ tự lập, nhưng chỉ trôi theo nền văn hóa của tổ chức, trôi theo bất kể yêu cầu nào của tổ chức. Cả hai loại ý chí này đều bất quân bình. Thế nào là ý chí quân bình? Có phải chăng là điểm giữa hai đối cực mà thày vừa mô tả, hay là Trung đạo, khác với điểm giữa hai đối cực, nhưng là sự thăng vượt tâm thức của hai đối cực nhị nguyên?

Nhiều đệ tử đã chọn phương hướng tu là cần có kỷ luật và quyết tâm. Và thày hoàn toàn không nói phương pháp này không có giá trị. Khi con đang đi từ tầng tâm thức 48 đến tầng 96, thì lẽ tự nhiên ý chí của con, quyết tâm của con cần mạnh hơn sức kéo xuống của tâm thức tập thể. Vì nếu không thì làm sao con có thể vươn lên trên tâm thức tập thể?

Khi con đi tới các tầng cao hơn và bắt đầu đi quá tầng 96, thì con bước vào một giai đoạn khác. Con nên xem xét là có một cách khác để tiếp cận các đức tính của bảy tia. Con có thể lấy đức tính uy lực ý chí, con có thể thấy nó diễn bày ra sao trên trái đất và con có thể thiết lập hai đối cực. Con có thể nghĩ uy lực ý chí có thể yếu hay mạnh, hoặc hướng ngoại hoặc ù lì, hoặc hung hãn hoặc thụ động.

Một cách nhìn khác là vươn lên tới nhận biết uy lực ý chí là một đức tính thiêng liêng mà con không cần thu nhập khi con là một sinh thể đang đầu thai. Đây là điều nhiều đệ tử trong các đợt truyền giáo trước nghĩ. Họ nghĩ rằng đây là uy lực Ý chí Thiêng liêng của Tia thứ Nhất và tôi cần có được uy lực ý chí đó để tôi có được uy lực ý chí đó khi ở trong xác thân này. Nhưng uy lực ý chí này sẽ biểu lộ ra sao nếu con nghĩ như vậy?

11.3. Nỗ lực tới điểm gãy đổ

Con sẽ xây dựng một ngã tập trung vào uy lực ý chí và cách con nhìn uy lực ý chí xuyên qua một ngã khác. Đó là lý do vì sao con đang xây dựng một uy lực ý chí là ý chí của tự ngã dựa trên ảo tưởng tách biệt. Và một lần nữa con nghĩ rằng phải có một rào cản mà con phải đẩy qua vì chắc hẳn thế giới vật lý tách biệt khỏi đức tính Thiêng liêng của Uy lực Ý chí của Tia thứ Nhất. Con cần phải nỗ lực để có được nó, con cần phải nỗ lực để có được bất cứ gì trên trái đất. Con đi vào trạng thái làm, làm, làm, làm nhiều hơn và dùng nhiều nỗ lực hơn và nhiều hơn nữa.

Một số người đã nhận ra là khi họ cố làm nhiều hơn thì họ lại đạt được ít hơn. Đây là điều các thày đã giải thích trước đây. Khi con tạo ra ngã vỏ ngoài phóng chiếu ra ngoài, thì con cũng tạo sự chống đối. Con càng nỗ lực nhiều hơn thì sức chống đối càng mạnh hơn, và sẽ đến lúc con không thể nỗ lực mạnh hơn nữa, con không thể chịu nổi việc cứ luôn luôn phải nỗ lực quá mạnh. Điều này đã khiến một số đệ tử rốt cuộc bị suy sụp, không còn làm được nữa. Các thày đã thấy điều này nơi các đệ tử trong các đợt truyền giáo trước, hội chứng hoàn toàn thất bại khi họ nỗ lực mạnh đến độ họ không còn nỗ lực được nữa. Lúc đó họ phải hoàn toàn rút lui khỏi đường tu, ngay cả rời bỏ con đường tu, tuy đã có lúc họ nghĩ họ đang tiến bộ rất tốt và là các đệ tử ưu tú nhất.

11.4. Cảm nhận sự chuyển động của đại dương của Ý chí Thiêng liêng

Một cách khác là điều mà thày Quân Âm đã đề cập, là không làm nhưng không việc gì không được làm. Con nhận ra là con không tách biệt khỏi Ý chí Thiêng liêng, con là một ngọn sóng trong đại dương của Ý chí Thiêng liêng. Thay vì nghĩ con cần bơi trên ngọn sóng và bơi càng lúc càng nhanh hơn để bắt kịp Ý chí Thiêng liêng, thì con ngừng bơi, con thư giãn và con cảm thấy sự chuyển động của đại dương của Ý chí Thiêng liêng. Nó dâng lên, nó hạ xuống, nó dâng lên, nó thư giãn và nó chảy về một hướng. Hướng này có thể không phải là hướng mà tâm vỏ ngoài, tự ngã, các ngã tách biệt của con muốn con đi tới. Nhưng đó là hướng sẽ cho con tăng trưởng cao nhất, thăng vượt cao nhất, tiến bộ cao nhất về hướng tầng tâm thức 144 và việc hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con, bất kể điều gì con đã ghi vào sứ vụ này mà tâm vỏ ngoài của con đã quên khuấy, và tâm vỏ ngoài không còn ý thức.

Con đã tạo trong tâm vỏ ngoài một mục đích dựa trên nền văn hóa và môi trường nơi con khôn lớn và con nghĩ con cần nỗ lực mạnh để tiến tới mục đích đó, nhưng hướng đó không phải là hướng của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Một lần nữa, nếu con dùng nỗ lực mạnh đi ngược lại Sứ vụ Thiêng liêng của con thì con tạo sự chống đối bên trong chính mình, và con càng ngày càng phải cố gắng hơn. Đó là lý do một số người trải nghiệm là có cái gì gãy đổ, có cái gì chết đi, họ trải qua một đột phá, một sáng ngộ hay một sự suy sụp tinh thần, nhưng họ cảm thấy có một xoay chuyển và họ không thể tiếp tục đi theo hướng cũ. Nhưng nhận biết này không cần phải là một xoay chuyển quá to lớn khiến con cảm thấy trống vắng hay cảm thấy là không có gì trong đời mình đang suôn sẻ. Con thực sự có thể học cách giải quyết các ngã tách biệt này, nhận diện các ngã tách biệt muốn con đẩy mạnh, đẩy mạnh và đẩy mạnh. Con có thể tới chỗ nhìn thấy chúng, tách mình ra khỏi chúng, để chúng chết đi, và sau đó con nỗ lực, một nỗ lực có ý thức để hòa điệu với hướng đi tới nhịp nhàng của Sứ vụ Thiêng liêng của con, do Ý chí Thiêng liêng hướng dẫn.

11.5. Ý chí của Thượng đế đối với Ý chí của Hiện diện TA LÀ

Có nhiều sự ngộ nhận về Ý chí Thiêng liêng, mà có người cũng gọi là Ý chí của Thượng đế. Vị sứ giả này nhiều năm trước đây tham gia một đợt truyền giáo nói nhiều đến Ý chí Thiêng liêng, Ý chí của Thượng đế. Có sự tương phản giữa ý chí của tự ngã và Ý chí của Thượng đế, và ông trăn trở điều này trong tâm và lúc đó cảm thấy chỉ có hai chọn lựa, hoặc theo ý chí của tự ngã hoặc theo Ý chí của Thượng đế, và cả hai cách đều không có chỗ cho chính ông. Dù ông theo ý chí của tự ngã hay Ý chí của Thượng đế thì ông cũng cảm thấy đây là một ý chí bên ngoài ông. Có chỗ nào cho ý chí của chính ông chăng? Lúc đó ông không hiểu rõ vấn đề nhưng đó là điều ông cảm nhận. Rốt cuộc một ngày kia ông quy hàng và nói: “Được rồi Thượng đế, xin ngài cho tôi thấy ý chí của ngài và tôi sẽ tuân theo” thì lúc đó ông nhận được một xung lực từ bên trong nội tâm, sự thực là từ chính thày: “Nếu Thượng đế chỉ muốn con tự mình lấy quyết định thì sao?” Xung lực này khiến ông chấn động, nhưng nó tạo một phản ứng dây chuyền trong ông khiến ông nhận ra là không có Ý chí Thiêng liêng nào áp đặt bất cứ điều gì lên con người.

Không có một Thượng đế giận dữ trên thiên đàng, hay ngay cả một Chân sư MORE giận dữ trên thiên đàng, đang nhìn xuống con và muốn ép buộc con làm điều gì. Thày còn không muốn ép con phải theo Sứ vụ Thiêng liêng của con. Thày không áp đặt Sứ vụ Thiêng liêng của con lên con, và các chân sư thăng thiên khác cũng vậy. Chính con đã chọn lựa, chính con đã chọn lựa. Vấn đề có phải chăng là lấy vào một ý chí bên ngoài muốn ép buộc vũ trụ phải tuân theo những mục đích và ham muốn của con, hay là vượt lên trên tất cả mọi ý chí bên ngoài, cho dù đó là ý chí của tự ngã, ý chí của thế gian, ý chí của gia đình, ý chí của xã hội, Ý chí của Thượng đế hay của một chân sư thăng thiên nào đó? Có thể nào hòa điệu với cái mà nhiều người còn không coi là uy lực ý chí? Nó giống như đại dương dâng lên lắng xuống, sự đi tới nhẹ nhàng của các làn sóng xuyên qua đại dương để rốt cuộc tới bờ bên kia. Đây là một loại ý chí khác. Đây là một ý chí không thể bị một phản-ý chí chống đối. Đây là một ý chí không áp đặt lên con.

Đây không phải là một ý chí mà con muốn chấp nhận hay chối bỏ. Đây là một ý chí mà con trầm mình vào, giống như con trầm mình vào đại dương. Con hãy tưởng tượng con đang bơi trên mặt đại dương và có những ngọn sóng lớn nhưng nhẹ, và thoạt tiên con bơi và phải vất vả mới giữ được đầu trên mặt nước, nhưng con nhận ra là con không cần thở vì con đang ở trong những thể cao của mình. Con có thể thư giãn, con có thể trầm mình vào lòng đại dương, và như vậy con không còn vùng vẫy trên mặt đại dương nữa và con chỉ nhẹ nhàng di động theo sự trồi sụt của đại dương và con di động theo ý chí cao đó. Con không vùng vẫy, con không dùng lực, và đó là điều mà Lão Tử có nói là con không làm gì cả nhưng không có nghĩa là con thụ động. Không có nghĩa là con phải ngồi trong một hang động trong núi Himalaya và suốt ngày thiền định về Thượng đế. Con có thể có một cuộc sống tích cực, con có thể làm một số công việc, con có thể lấy quyết định nhưng con không áp đặt các quyết định của mình. Con không lấy các quyết định này với tâm vỏ ngoài. 

Con chỉ trầm mình trong ý chí rộng lớn là Ý chí của Hiện diện TA LÀ của con, cũng là ý chí mà chính con đã sắp đặt vào Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Không có vũ lực, không có vật lộn, chỉ có sự di động nhẹ nhàng nâng con lên, kéo con qua bên này, kéo con qua bên kia, và bỗng nhiên con thấy là tuy con có cảm tưởng là không có gì được làm, nhưng không có gì không được làm, vì điều con quyết định hoàn thành trong Sứ vụ Thiêng liêng đã được hoàn thành. Nhưng điều này nghĩa là gì?

11.6. Vật lộn với ý chí và mục tiêu vỏ ngoài

Con có thể nhìn vào cuộc đời mình và thấy là con đã được dạy dỗ để chấp nhận một số mục tiêu vỏ ngoài cho cuộc đời của mình chăng? Có lẽ cha mẹ con đã thúc đẩy con đi học, làm một công việc nào đó, bắt đầu một sự nghiệp sẽ dẫn con dần dần tới những chức vụ cao hơn cho tới khi con tới mục tiêu cuối cùng của sự nghiệp nơi tất cả mọi sự nghiệp phải chấm dứt, đó là về nghỉ hưu.

Con làm việc trong 40 năm hay nhiều hơn để đạt được chức vụ đó, để rồi về nghỉ hưu một thời gian ngắn sau khi con đạt tới đó. Con đã trải qua cả cuộc đời tìm cầu, và khi con nghỉ hưu và không còn tìm cầu nữa thì con không biết phải làm gì với chính mình. Có rất nhiều người chết trong vòng một hoặc hai năm sau khi nghỉ làm về hưu vì họ không còn lẽ sống nữa. Con có thể thấy nhiều người đi theo con đường vạch sẵn đó suốt đời họ, và sau khi họ rốt cuộc về hưu thì họ nhìn lại cuộc đời họ và cảm thấy: “Cuộc đời này có nghĩa gì? Tôi đã đạt được gì? Những thành tựu bên ngoài mà tôi đã đạt được, cuộc đời thật sự chỉ là thế hay sao?”

11.7. Những trồi sụt trên con đường tu

Khi con là một đệ tử tâm linh thì con có thể nói: “Không, những thành tựu bên ngoài không phải là điều quan trọng trong cuộc đời. Mục đích cuộc đời là nâng cao tâm thức.” Con thấy là ý chí thật sự trong Sứ vụ Thiêng liêng của con là nâng cao tâm thức, và đôi khi việc nâng cao tâm thức không phải là một tiến trình suôn sẻ, lúc nào cũng đi lên. Một ngọn sóng trồi lên, con có thể có một trải nghiệm tâm linh cao, cảm thấy nối kết thật sự, nhưng sau đó tới lúc phải làm việc, phải nhìn vào tâm lý của mình. Con có thể cảm thấy mình đang tụt dốc, nhưng làn sóng cứ tiếp tục đi tới xuyên qua đại dương, và nó sẽ lại trồi lên, và lần này nó trồi lên cao hơn trước. Con nhận ra là tuy có trồi sụt trên con đường tu, nhưng hướng chung vẫn đi lên cao hơn. Đến cuối đời con thấy là bất kể các kết quả vật lý mà con đạt được, con đã nâng tâm thức mình lên. Các thành tựu vật lý có quan trọng chăng khi con đã nâng tâm thức?

Vì khi con bỏ xác thân vật lý lại đằng sau thì con có thể mang theo thành tựu vật lý nào chăng? Con có thể mang được gì theo con? Chỉ có trình độ tâm thức. Nếu con đã nâng tâm thức mình lên tầng 100 trong một kiếp sống, thì con sẽ bắt đầu ở mức đó trong lần đầu thai kế tiếp, hay ít ra là con có thể mau chóng đạt trở lại mức đó. Như vậy có nghĩa là việc con thăng thiên trong kiếp đó là điều thiết thực. Hoặc con có thể thăng thiên trong kiếp đầu thai này, nhưng không phải nhờ dùng nỗ lực mạnh nhưng bằng cách nối kết với dòng chảy của ý chí, của Ý chí Thiêng liêng, không chú trọng vào thành tựu đặc thù nhưng vào việc nâng cao toàn thể sự sống lên. Mục đích của Ý chí Thiêng liêng không phải là thể hiện một điều kiện vật chất đặc thù nào, mà là nâng mọi sự sống lên các tầng tâm thức cao hơn, lên các tầng rung động cao hơn.

11.8. Vũ khúc hoàn vũ của Tâm Một

Con có thể hỏi, khác biệt giữa tâm thức và rung động là gì? Tâm thức là cái gì có thể rung động và có khả năng khiến năng lượng rung động. Tâm thức là thực tại bên dưới mọi sự, tối hậu nó là tâm thức của đấng Sáng tạo, hay là tâm thức của cái Tất cả vượt quá đấng Sáng tạo, là Tâm Một, tâm không phân chia, không thể phân chia.

Trong cái Tâm Một đó, tâm thức có thể tự nó khiến nó rung động như năng lượng, và sau đó tâm thức có thể biểu thị chính nó như một sinh thể cá biệt có tự nhận biết, và lúc đó có thể khiến năng lượng rung động để thành hình tướng, và sinh thể thị hiện hình tướng lúc đó có thể nhận biết và trải nghiệm hình tướng. Đây là cách sự đồng-sáng tạo tiến hành, nhưng sự đồng-sáng tạo không những chỉ có mục đích nâng các sinh thể cá biệt lên các tầng tâm thức và khả năng đồng-sáng tạo cao hơn, nhưng còn có mục đích nâng lên cái mà ta có thể gọi là năng lượng hay vật chất, nâng cao độ rung động cho tới khi thấy rõ ràng là mọi hình tướng đều là tâm thức, đều xuất phát từ Tâm Một.

Đây là vũ khúc hoàn vũ, khi Tâm Một khoác vào hình tướng, khởi đầu với một ý niệm bản ngã hạn hẹp, nới rộng ý niệm bản ngã đó ra cho tới khi cái ta nhận ra nó là một phần nối dài của tâm một, nó là một đồng-sáng tạo với đấng Sáng tạo. Lúc đó, cái ta cá biệt xoay chuyển để không còn theo đuổi các mục đích như một ngã tách biệt nữa, nhưng trở thành một phần của tiến trình đồng-sáng tạo lớn lao nâng tất cả mọi sự sống lên, qua đó nâng mọi sự sống lên, nâng Tâm Một lên, và đây là điều mà tâm đường thẳng không thể hiểu.

Khi các thày nói chỉ có Tâm Một, con nghĩ (như nhiều người đã nghĩ) là điều này có nghĩa Tâm Một toàn hảo, nó không bao giờ thay đổi, nó là thực tại tối hậu, nhưng vì sao con hiện hữu như một hình tướng được biểu lộ? Đó là vì lúc nào cũng có các hình tướng được biểu lộ từ Tâm Một, và khi tâm tự biểu lộ mình như hình tướng và sau đó tới chỗ nhớ mình là Tâm Một, thì Tâm Một tăng trưởng, mở rộng. Tâm đường thẳng hỏi: tiến trình này đã diễn ra từ bao lâu rồi? Từ muôn thuở là câu trả lời duy nhất. Ấy – tâm đường thẳng lại hỏi – nếu Tâm Một tăng trưởng chính nó từ muôn thuở, thì ắt hẳn nó phải tới một trạng thái tăng trưởng tối hậu. Làm sao nó có thể tăng trưởng mãi mãi? Tiến trình này khởi sự lúc nào? Có cái gì trước khi Tâm Một hiện hữu hay trước khi Tâm Một quyết định biểu lộ chính nó?” Lúc nào cũng có Tâm Một tự biểu lộ chính nó và qua đó trở nên hơn nữa, và tiến trình này sẽ tiếp diễn mãi mãi, và sự tự tăng trưởng của Tâm Một không có giới hạn, không có kết thúc. Đây là điều mà tâm đường thẳng không thể nắm bắt, vì ai có thể nắm cái vô biên?

11.9. Hòa điệu với Hiện diện của các chân sư

Thày không nói là thày, như một chân sư thăng thiên, có thể nắm bắt sự tăng trưởng vô biên, vô tận nhưng thày có thể nắm bắt nó nhiều hơn mỗi ngày. Khi con nắm bắt cái hơn nữa, và tiến trình lúc nào cũng trở nên hơn nữa, thì con có lý do gì cần nắm bắt tiến trình một cách tối hậu? Vì tại sao con lại muốn đạt một mục đích nào đó, một mục đích tột cùng nào đó, khi con nhận ra là bản chất của tiến trình là trở nên hơn nữa? Làm sao có thể có một mục đích tột cùng trong tiến trình tăng trưởng vô biên, vượt thăng vô biên? Mục đích không quan trọng, tiến trình mới quan trọng – và tiến trình là trở nên hơn nữa.

Con có thể trụ vào tiến trình hơn nữa này bằng cách hòa điệu với Hiện diện của thày, vì thày nắm giữ ngọn lửa này cho địa cầu. Thày chỉ có thể cống hiến con Hiện diện của thày, các bài chú bài thỉnh của thày, quyển sách của thày là quyển đầu trong bộ sách về khóa học Tự Điều ngự. Lẽ tất nhiên, tất cả các thày là các Thượng sư trao truyền khóa học này không phải chỉ để giúp các con nâng tâm thức từ tầng 48 lên tới tầng 96, mà còn để các con có thể dùng mỗi quyển sách để hòa điệu với vị Thượng sư đã trao truyền quyển đó. Nếu con cảm thấy gần gũi với một vị Thượng sư, thì con hãy lấy quyển sách của vị ấy, đọc các bài truyền đọc, đọc các bài thỉnh với mục đích hòa điệu, chỉ hòa điệu với hiện diện của vị Thượng sư đó. Bất kể tầng tâm thức hiện tại của con, ngay cả khi con ở trên tầng 96, thì con sẽ thấy là sử dụng quyển sách sẽ cho con một hòa điệu lớn lao với vị Thượng sư, và qua đó với tia đó.

Con thấy chăng, tuy mục đích đặc trưng của quyển sách là giúp con người nâng tâm thức, trong trường hợp của thày bắt đầu từ tầng 48, nhưng lúc nào cũng có những mục đích khác. Nếu con nhìn quyển sách của thày và nói: “Ồ, tôi chắc hẳn đã trên trình độ từ tầng 48 đến tầng 55, do đó tôi không cần học quyển sách của Chân sư MORE nữa”, thì con không nắm được là có một tầng cao hơn. Quyển sách cống hiến một cái gì hơn các tầng căn bản. Hơn bao nhiêu? Khi con còn hiện thân trong cõi vật lý, thì lúc nào cũng có cái hơn nữa. Con có thể ở tầng 144 và con có thể sử dụng quyển sách mà vẫn gặt hái được điều gì từ đó giúp con kết nối với cái hơn nữa. Vì giống như vẻ đẹp nằm trong mắt người nhìn ngắm, tất cả mọi chuyện đều nằm trong mắt người nhìn ngắm, và vấn đề chỉ là cách con nhìn sự việc và cách con dùng một giáo lý hay một dụng cụ tâm linh để vượt thăng tầng tâm thức hiện tại của con.

11.10. Con không vượt quá mức này

Kẻ địch lớn nhất của tăng triển tâm linh là gì? Đó là con cho phép mình tin lời nói của các ngã tách biệt còn sót lại và của tự ngã cho rằng: “Ồ, tôi đã vượt quá mức này. Tôi không cần học giáo lý này nữa. Quyển sách này được trao truyền cho những ai ở các tầng tâm thức thấp. Tôi đã vượt quá mức này. Tôi không cần học quyển sách này nữa.” Con đang hiện thân trong cõi vật lý, phải không con? Quyển sách của thày, bất kể mục đích đặc trưng của nó, đã được trao truyền từ một tầng tâm thức cao hơn tâm thức hiện thân vật lý. Làm sao con có thể vượt quá nó khi con còn xác thân vật lý? Làm sao con có thể vượt quá sự trợ giúp của thày là một chân sư thăng thiên?

Con hãy giám sát chính mình để nhận ra mánh lới của sa nhân và các ngã tách biệt muốn con nghĩ: “Tôi đã đạt được một tầng cao hơn và bây giờ tôi đã vượt quá mức này.” Con lúc nào cũng có thể gặt hái được cái gì hơn nữa từ một giáo lý tâm linh. Lúc nào cũng có cái gì hơn nữa có thể kích hoạt điều gì đó trong con giúp con bỗng nhiên thấy một ảo tưởng, nếu con sẵn lòng thấy ảo tưởng, nếu con có ý chí muốn thấy ảo tưởng.

Có một tha hóa khác của ý chí khi con không sẵn lòng thấy ảo tưởng vì con nghĩ mình đã vượt quá ảo tưởng đó hay mọi ảo tưởng. Con nghĩ rằng con đã đạt tới một tầng nơi con không cần với lên cái hơn nữa, con chỉ cần đợi tới lúc thăng thiên. Nếu con đang hiện thân trong thân vật lý thì làm sao con thăng thiên nếu con không với lên cái hơn nữa? Không có một tầng tối hậu mà con có thể đạt được khi con còn xác thân vật lý. Con lúc nào cũng phải với lên cái hơn nữa để nâng mình lên tầng tâm thức kế tiếp và rốt cuộc tới tầng 144 là nơi con phải với lên cái hơn nữa để nâng mình lên tầng tâm thức kế tiếp, là tầng tâm thức đầu tiên của cõi thăng thiên.

11.11. Những tầng cao hơn của tâm thức thăng thiên

Đúng vậy, con yêu dấu, thày quả thực vừa nói tầng tâm thức đầu tiên của cõi thăng thiên, vì con không nghĩ, phải không con, là khi con thăng thiên thì con đã đạt được một tầng tâm thức tối hậu? Con không nghĩ, phải không con, là khi con thăng thiên từ trái đất, con đã đạt tới cùng tầng tâm thức với Phật Gautama hay Đại chỉ đạo Thiêng liêng hay Alpha và Omega? Lẽ tự nhiên, khi con thăng thiên từ trái đất, con ở tầng tâm thức thấp nhất có thể có ở cõi thăng thiên, và sau đó con bắt đầu làm việc để nâng mình lên cao hơn bằng cách với lên cái hơn nữa. Sau đó, con dần dần, và với đa số chúng ta tiến trình này có thể cần thời gian, con dần dần đạt tới tầng tâm thức của đấng Sáng tạo, nhưng đây là một đoạn đường dài cho tất cả chúng ta, kể cả thày. Thày đã trải nghiệm chợt thoáng nhận tâm thức của đấng Sáng tạo, và nó chắc chắn cao hơn tâm thức của thày vô lượng, tuy thày không còn ở tầng tâm thức đầu của một chân sư thăng thiên.

Lúc nào cũng có cái hơn nữa, ngay cả trên cõi thăng thiên cũng có cái hơn nữa. Con có thể lấy thái độ này, là thái độ sẵn lòng vươn lên cái hơn nữa. Điều này không chỉ có nghĩa là kết nối với thày, tuy rằng thày đã đặt cho mình tên Chân sư MORE. Vì bất cứ chân sư thăng thiên nào cũng hơn những gì con gặp khi con còn đầu thai.

Con hãy tính chuyện tuôn chảy, tuôn chảy theo ý chí đang nâng mọi sự sống lên. Không xua đẩy, không vật lộn, không chống cự, nhưng quy thuận theo ý chí cao đó. Con hãy suy ngẫm quan niệm có thể xem là một nghịch lý: quy thuận theo ý chí. Nhiều người cho rằng có ý chí có nghĩa là nhất quyết, quyết định, tập trung, phải hung hãn, dùng lực để có ý chí. Thay vào đó, con hãy tính chuyện quy thuận theo ý chí. Vì đó là một ý chí cao hơn mọi thứ con có thể thể hiện qua các ngã tách biệt và qua tâm thức thấy nó tách biệt với đại dương của cái ta.

11.12. Lòng tri ân của các chân sư thăng thiên đối với các đệ tử Hàn Quốc

Tới đây thì thày muốn biểu lộ lòng tri ân của thày vì các con đã hiện diện ở đây, đã tổ chức hội nghị này, đã tham dự đông đảo vào công việc này tại Hàn Quốc, phiên dịch các bài giáo lý, phổ biến các giáo lý, đọc chú đọc thỉnh, tổ chức các sinh hoạt này, tạo ra tất cả các dụng cụ tu tập mà các con đã tạo ra. Các thày biết là các con không cần được khen ngợi, vì con không cần tham vọng thế tục đó. Nhưng các thày muốn các con biết rằng, lẽ đương nhiên, các thày biết các nỗ lực lớn lao mà các con đã bỏ ra. Các thày biết ơn các con đã làm nhiều việc để mang các giáo lý này đến nhiều người hơn trong quốc gia này. Tuy có thể có lúc con cảm thấy hơi nản chí vì con có hy vọng các nỗ lực của mình gặt hái được kết quả vật lý cao hơn, nhưng thày bảo đảm với các con là trong sự vận chuyển rộng lớn hơn của đại dương là tâm thức tập thể của quốc gia này, các con đã tạo ra một sự vận chuyển mới, một sự vận chuyển đi lên. Điều quan trọng không phải là kết quả bên ngoài mà là sự nâng cao tâm thức.

Các thày đều hy vọng là các con cảm thấy mãn nguyện khi biết rằng các con thuộc vào làn sóng nâng cao tâm thức sẽ nâng cả dân tộc này lên. Thày không phải chỉ nói đến phần phía nam của dân tộc này, mà cả dân tộc, cho tới khi làn sóng đó tràn qua biên giới và cuốn đi mọi kháng cự một ngày mới. Tới đây, thày niêm phong các con trong Ngọn lửa HƠN NỮA mà thày LÀ.

7 | Thoát ra khỏi tâm đường thẳng

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Shiva qua trung gian Kim Michaels ngày 3/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Shiva. Ắt hẳn con cũng có thể khẩn cầu thày để thày giúp con khắc phục các nỗi sợ của con và con có thể niệm câu chú Om Shiva, hay chỉ chữ Shiva để giúp con đi vào bên trong và thiêu rụi các nỗi sợ đó trong cảm thể của con. Con cũng có thể kết hợp các lời kêu gọi Đại thiên thần Michael và thày vì lẽ tất nhiên các thày không bị phân rẽ bởi bất kỳ phân chia nào giữa các truyền thống Đông và Tây. Các thày là một, tuy các thày có những sắc thái khác nhau, những pha màu khác nhau của ánh sáng mà các thày đem lại. Kết hợp hai thày rất hiệu quả để tiêu trừ các nỗi sợ.

7.1. Điều nghịch lý của tâm đường thẳng

Tuy nhiên mục đích chính yếu của bài giảng này lẽ tất nhiên không phải là để giải quyết nỗi sợ mà là để tiến tới điều kế tiếp thực sự khiến con người rời xa sự kết nối và đó tất nhiên là tâm lý trí. Chắc chắn cả hai thày Quan Âm và Mẹ Mary đều đã giảng về chủ đề này, nhưng thày muốn cho các con thêm một số ý nghĩ vì trong thế giới hiện đại tâm lý trí là chướng ngại lớn nhất cho người tâm linh. Lý do chính là vì các chế độ dân chủ Tây phương đã lan truyền khắp thế giới nhiều ý tưởng rất dính chặt vào tâm đường thẳng, tâm lý trí, tâm lô gíc, tâm phân tích, đặc biệt là qua khoa học và khoa học duy vật.

Các thày quả thực muốn nói gì khi nói đến tâm đường thẳng? À nó là cái tâm muốn đặt mọi sự trên một dòng thời gian, hoặc trên một loại đường thẳng nào đó có thể chia thành nhiều phần nhỏ hơn. Nó cũng muốn đặt mọi sự trên một dòng thẳng nơi có một nguyên nhân dẫn đến hậu quả. Hậu quả có thể trở thành một nguyên nhân khác dẫn đến hậu quả khác, nhưng có một sự đều đặn, một quy luật tự nhiên nào đó quy định rằng một nguyên nhân đặc trưng sẽ luôn luôn dẫn tới một hậu quả đặc trưng theo một lối đường thẳng mà không có ngoại lệ.

Để đơn cử vài thí dụ về tâm này, con hãy bắt đầu đếm. Một, hai, ba, bốn, năm và con tiếp tục đếm. Con tiếp tục được bao lâu? À, giả sử là vô thời hạn. Câu hỏi là có ai có thời giờ để làm chuyện này? Ai có thời gian vô tận? Giả sử con có thời gian vô tận, thì con có muốn dùng thời gian này để đếm và xem mình đếm được tới đâu chăng? Đấy có phải là tầm nhìn cao nhất của con về điều con làm được với thời gian vô tận? Con thấy là khi con thực sự bắt đầu suy ngẫm về vô hạn hay về con số vô tận thì tâm đường thẳng không cam nổi. Nhưng phải chăng chính tâm đường thẳng đã quy định là lúc nào con cũng có thể thêm một và do đó coi như con có thể đếm đến vô tận? Con thấy đó, tâm đường thẳng dựng lên một diễn tiến đường thẳng, nhưng khi con bắt đầu nghĩ tới kết quả cùng cực của diễn tiến đường thẳng này thì tâm đường thẳng gần như bị chạm dây điện vì nó không thể nắm bắt điều này.

Một ví dụ khác là triết gia Hy Lạp Zeno, người đã đề ra nghịch lý cho rằng nếu muốn đi bộ từ thành phố này tới thành phố kia, thì con sẽ không bao giờ tới nơi, vì trước tiên con phải đi bộ tới điểm ở giữa. Sau đó con phải đi bộ tới điểm ở giữa của khoảng cách còn lại và con có thể tiếp tục chia vô tận khoảng cách còn lại làm hai. Con luôn luôn có thể chia bất cứ con số nào làm hai, bất cứ khoảng cách nào làm hai, cho nên con không bao giờ tới nơi được. Một lần nữa, khi con bắt đầu nghĩ tới chuyện này, con nhận ra đây là điều tâm đường thẳng làm. Nó tạo ra một diễn tiến đường thẳng dựa trên một sự đều đặn nào đó, một quy luật nào đó và coi như có thể kéo dài vô tận, nhưng khi con bắt đầu nghĩ tới hậu quả cùng cực của diễn tiến đường thẳng đó thì tâm đường thẳng không đương được nữa.

Vì quả thực, con lấy từ đâu ý tưởng là con có thể tiếp tục đếm số vô thời hạn? À, đó là cái ý tưởng đường thẳng cho rằng con luôn luôn có thể cộng thêm một số. Nhưng nếu con tiếp tục đi xa đủ, phải chăng sẽ tới điểm con đạt tới một con số lớn vô tận? Làm sao tâm đường thẳng đương nổi điều này? Chắc chắn nó không thể đương được khái niệm vô tận. Nhưng phải chăng đấy là điều tâm đường thẳng nói, rằng con có thể tiếp tục đếm vô thời hạn? Con có thể đếm vô thời hạn vậy thì tại sao tâm đường thẳng không cam nổi vô thời hạn?

Con cũng có thể nhìn vào chuyện mà các thày có giảng, là thế giới hình tướng do chỉ một đấng Sáng tạo sinh tạo ra. Nhưng đấng Sáng tạo từ đâu tới? Có gì trước khi thế giới hình tướng hiện hữu? Và sau đó tâm đường thẳng muốn hỏi, nhưng nếu thế giới này có điểm khởi đầu thì có gì trước điểm khởi đầu? Có cái gì khi thế giới chưa có, chưa được sinh tạo? Và sự sinh tạo các thế giới bắt đầu lúc nào? Có gì trước đó? Và các thày có thể nói lúc nào cũng có một thế giới hình tướng, nhưng tâm đường thẳng có đương đầu được chăng với chuyện này?

7.2. Mọi hình tướng đều được quy định bởi giới hạn

Tâm đường thẳng hầu như bị chạm dây điện khi con suy ngẫm điều này. Bởi vì dù không cam nổi cái vô tận, tâm đường thẳng muốn có điểm khởi đầu. Có thể là không có điểm kết thúc nhưng phải có một điểm khởi đầu. Con phải bắt đầu đếm ở chỗ nào đó. Một, hai, ba, trừ mười, trừ chín, trừ tám. Nhưng con phải bắt đầu đếm ở chỗ nào đó. Nhưng nếu không có điểm kết thúc, làm sao có điểm khởi đầu? Hãy suy ngẫm điều này.

Nếu con nói con có thể tiếp tục đếm vô thời hạn, tại sao phải bắt đầu từ số một? Con thực sự bắt đầu ở đâu và khi nào thì càng đếm tới số cao hơn và cao hơn nữa, cuối cùng con sẽ tạo một vòng tròn khép kín? Quả thật như Albert Einstein đã nói, nếu con du hành trong không gian và tiếp tục đi cùng một hướng theo một đường thẳng, thì một ngày kia từ hướng đối ngược, con sẽ trở về điểm khởi đầu vì sự liên tục không gian-thời gian tạo thành một vòng khép kín. Có hợp lý chăng là không có gì vô tận trong thế giới hình tướng? Con không thể tiếp tục đếm vô thời hạn trong một diễn tiến đường thẳng vì thế giới hình tướng có giới hạn.

Thế giới hình tướng có hình tướng, và hình tướng là gì nếu không là giới hạn? Một hình vuông được quy định bởi bốn đường thẳng. Một hình tròn được quy định bởi một đường. Con quả thật có thể mãi mãi đi vòng chung quanh hình tròn, nhưng con không thể đi ra ngoài hình tròn. Có một giới hạn. Mọi hình tướng đều được quy định bởi một giới hạn. Nếu con bắt đầu ở số không và đếm đủ lâu, thì không sớm thì muộn con sẽ trở về số không. Con hãy chiêm nghiệm câu này và xem tâm đường thẳng phản ứng ra sao. Ở đây thày không muốn nói đến một chân lý tuyệt đối. Thày chỉ đang tìm cách chỉ cho con thấy những giới hạn của tâm đường thẳng. 

7.3. Luật Tự quyết không theo đường thẳng

Tâm đường thẳng làm gì khi con xem xét ý tưởng kết nối với một chân sư thăng thiên? Nó sẽ nói: “Có một khoảng cách giữa nơi tôi đang ở và nơi vị chân sư ở và tôi cần phải vượt qua khoảng cách đó.” Nhưng nó sẽ tìm cách thiết lập một diễn tiến. “Tôi phải làm gì để vượt qua khoảng cách? Tôi phải đọc chú. Tôi phải đọc thỉnh. Tôi phải bỏ ra bao nhiêu tiếng đồng hổ mỗi ngày để đọc chú và nếu tôi tiếp tục làm vậy năm này qua năm nọ, thì không sớm thì muộn, có lẽ là muộn, có lẽ là sau một thời gian dài, thì một ngày kia, như một phép lạ, vị chân sư sẽ hiện ra.” Vì tâm đường thẳng muốn tin rằng có nguyên nhân và có hậu quả, và có những quy luật quy định diễn tiến từ nguyên nhân tới hậu quả. Nếu con ngồi đây và quyết định: “Tôi muốn kết nối với một chân sư thăng thiên, tôi sẽ thiết lập một chương trình hợp lý, lô-gíc, tuần tự từng bước đọc chú và đọc thỉnh”, và sau đó con quyết định là nếu con tiếp tục làm theo chương trình này, thì một lúc nào đó vị chân sư sẽ phải xuất hiện. Vì con nghĩ chắc hẳn các chân sư thăng thiên phải tuân theo một quy luật nào đó, một diễn tiến nào đó.

Và đúng vậy, con yêu dấu, các thày có tuân theo một quy luật. Nó được gọi là Luật Tự quyết, nhưng Luật Tự quyết không đi theo đường thẳng. Làm sao nó có thể như vậy? Làm sao con có tự quyết khi con phải đi theo một con đường nào đó? Làm sao con có tự quyết khi chỉ có sự tiến hành đường thẳng, và như vậy nếu con bước một bước về một hướng nào đó, thì sau đó con phải từng bước tiếp tục đi cùng hướng đó và không thể đi trệch hướng mà con đã chọn? Làm sao như vậy lại có thể là tự quyết? Con hãy tưởng tượng con đang đứng trong một quảng trường vĩ đại và bằng phẳng, giống như Quảng trường Thế Vận hội không cách xa đây bao nhiêu. Con đứng ở giữa quảng trường. Quảng trường mở rộng và bằng phẳng về mọi hướng chung quanh con. Con dự định bước một bước. Nhưng con có vòng tròn 360 độ chung quanh con. Con có thể đi về bất cứ hướng nào. Nhưng bây giờ con hãy tưởng tượng là một khi con đã bước một bước về một hướng nào đó, thì con sẽ phải tiếp tục bước theo đường thẳng về hướng đó.

Con có thể nói chọn lựa đầu tiên là chọn lựa tự do, nhưng các chọn lựa sau thì không. Như vậy có thực sự là tự quyết chăng? Không đâu, đó là điều mà sa nhân muốn con tin đấy.  Đó là lý do vì sao họ đã sáng chế ra hình ảnh một Thượng đế giận dữ và phán xét coi con là một tội đồ ngay từ khởi thủy, hoặc cách diễn giải hạn hẹp của luật nhân quả ở phương Đông cho rằng mọi chuyện xảy ra trong cuộc đời này đều đã được định trước bởi nghiệp quả từ các kiếp trước. Nhưng luật nhân quả không theo đường thẳng, như các thày đã giảng, vì nếu con vượt thăng tâm thức đã khiến con lấy một quyết định nào đó trong một tiền kiếp, thì khi xung lực nghiệp trở về nó sẽ không đi xuống tầng vật lý vì không có gì ở các thể cao của con củng cố nó.

Luật Tự quyết có nghĩa là bất kể con đã bước bao nhiêu bước về một hướng, nhưng con lúc nào cũng có thể đổi hướng. Làm sao lại có thể có quy tắc đường thẳng? Làm sao lại có thể có diễn tiến máy móc? Làm sao con có thể thiếp lập một chương trình trong tâm nói rằng nếu tôi trung thành theo chương trình này thì một ngày kia chân sư phải xuất hiện và kết nối với tôi? Đúng, khoa học đã khiến con nghĩ như vậy, rằng thế giới giống như một bộ máy vĩ đại. Và nếu con đi một số bước, tỷ dụ như cắm máy thu thanh vào ổ điện, bấm nút bật, rà đúng đài, thì con sẽ nghe được âm nhạc mà con muốn.

7.4. Con không thể kết nối qua tâm đường thẳng

Hoặc nếu con để thực phẩm vào lò vi ba, định nhiệt độ và thời gian, thì có lúc sẽ có tiếng kêu “đinh” và thực phẩm của con được nấu chín. Khoa học và công nghệ đã khiến biết bao người trong thế giới hiện đại tin rằng, nếu con theo đúng một thủ tục nào đó, thì phụt một cái, một chân sư thăng thiên sẽ phải xuất hiện, giống như thằng hề có lò xo bật ra từ trong hộp. Vì con đã xoa vào cây đèn của Aladdin bằng cách đọc biết bao bài chú bài thỉnh trong nhiều năm, nên chắc chắn vị chân sư phải xuất hiện giống như vị thần hiện ra từ cây đèn và nói: “Chủ nhân muốn sai khiến gì? Tôi sẽ cho ngài bất cứ gì ngài muốn. À, ngài chỉ được ba điều ước, nhưng như vậy còn hơn là không có điều nào.”

Đây là tư duy của nhiều người khi họ tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên và bắt đầu đọc chú đọc thỉnh. Một lần nữa, các thày không chê trách ai. Các thày chỉ giản dị chỉ cho con thấy đây là điều tâm đường thẳng làm, nhưng các thày là chân sư thăng thiên không đang hiện thân ở cõi vật lý. Các thày không nằm dưới luật đường thẳng. Và quả thật con cũng không nằm dưới luật đường thẳng. Lẽ tất nhiên có quy luật nguyên nhân và hậu quả, và nếu con đi về một hướng trong một thời gian dài và luôn luôn cảm thấy giận người khác, thì con sẽ chịu một số hậu quả.

Nhưng các thày đã nhiều lần nói điều gì? Nếu con lấy một chọn lựa và nó không có hậu quả, thì làm sao con biết là con đã chọn lựa? Hậu quả của chọn lựa của con không có mặt để áp đặt những chọn lựa tương lai của con. Chúng chỉ có mặt để cho con thấy là tư duy này sẽ dẫn tới hậu quả nọ. Nếu con không thích hậu quả đó, thì con thay đổi tư duy. Con thay đổi điều con phóng chiếu vào tấm gương vũ trụ và con gặt hái một cái gì khác.

7.5. Con không thể đồng sáng-tạo một cách đường thẳng, máy móc

Con thấy chăng, có lẽ con không thấy nhưng con có thể tới điểm thấy, là không có gì thực sự đi theo đường thẳng. Ngay cả khoa học cũng đã chứng minh điều này gần một thế kỷ trước đây. Các nhà vật lý lượng tử khám phá rằng, ở tầng cơ bản nhất của vật chất, tâm người khoa học gia không những ảnh hưởng hiện tượng quan sát, mà còn tạo ra hiện tượng quan sát. Cho nên có câu hỏi trong dân gian là nếu một cây đổ trong rừng mà không có ai ở đó, thì liệu cây đổ có tạo ra tiếng động chăng? Hoặc mặt trăng có đó chăng khi không ai nhìn? Và sự thực là nếu không ai nhìn thì mặt trăng sẽ không có đó. Nhưng, như các thày có nói, các thày là chân sư thăng thiên lúc nào cũng nhìn, các tinh linh lúc nào cũng nhìn. Và tại sao vậy? Vì mục đích duy nhất của thế giới hình tướng là để giúp con tăng triển nhận biết. Các thày duy trì một số hình tướng trong một thời gian cho đến khi con người học xong bài học. Con học bài học gì khi đầu thai trong cõi vật lý? Đó là những gì con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ biểu hiện. Đây là điều các khoa học gia đã khám phá một thế kỷ nay.

Không có nhiều khoa học gia chịu thực sự suy nghĩ ý nghĩa của khám phá này. Nhưng nó có nghĩa là điều mà các khoa học gia đã khám phá ở tầng lượng tử là điều mà các thày gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật có thể mang vào bất kể hình tướng nào, nhưng nó chỉ mang vào một hình tướng khi có một hình tư tưởng từ tâm một sinh thể có tự nhận biết phóng chiếu lên nó. Thế nào là có tự nhận biết? Điều này có nghĩa: “Tôi muốn thể hiện một cái gì mà tôi đang không hiện có. Tôi là một người đồng-sáng tạo. Tôi sẵn sàng đồng-sáng tạo.”

Con thể hiện bằng cách nào? Không theo cách đường thẳng máy móc. Con thể hiện một cách sáng tạo khi con nhận ra là con nắm giữ hình ảnh trong tâm bản sắc, tư tưởng và cảm xúc và phóng chiếu chúng lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lên một hình tướng vật lý. Tiến trình này có vẻ máy móc, nhưng nó không phải vậy, vì con có thể thay đổi các hình ảnh đó bất cứ lúc nào, và không có một bộ máy vĩ đại nào với những kết quả đã được định sẵn hay có thể tiên đoán. Ngược lại, không có gì có thể tiên đoán. Chỉ có những xác suất, nhưng theo luật bất định mà cơ học lượng tử đã chứng mình cách đây một thế kỷ, không có kết quả nhất định.

7.6. Rơi vào cạm bẫy của tâm đường thẳng

Vì sao các khoa học gia lại không chấp nhận điều trên? Bởi vì đó là một trong những điều sau cùng mà sa nhân muốn con người chấp nhận. Họ khẩn thiết muốn con tin rằng một khi con đã lấy một chọn lựa thì con giới hạn khả năng lấy chọn lựa trong tương lai, và đây là một lời gian dối mà các thày đã nhiều lần phơi bày. Nhưng tâm đường thẳng thấy khó chấp nhận vì tâm đường thẳng muốn có sự đều đặn, muốn có thể đoán trước việc gì sẽ xảy ra, muốn có nguyên nhân và hậu quả, một quy luật nguyên nhân và hậu quả bất khả kháng. Đây là điều tâm đường thẳng muốn vì lúc đó nó nghĩ nó làm chủ tình hình vì nó có thể tiên đoán kết quả.

Chuyện này dính dáng gì đến chủ đề của khóa nhập thất này? Ấy, nếu con nghĩ là con có thể kết nối với một chân sư thăng thiên bằng một quá trình máy móc, thì con sẽ tạo ra một hình ảnh trong tâm con và phóng chiếu hình ảnh đó lên vị chân sư thăng thiên. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu các thày cư xử đúng theo hình ảnh đó? À, như vậy coi như các thày chứng thực là hình ảnh của con đúng. Con quả thật có thể xoa cây đèn và vị thần sẽ xuất hiện. Nhưng điều này sẽ có kết quả gì? Nó sẽ chỉ giam con vào tâm đường thẳng. Và trong tâm đường thẳng con cảm thấy con làm chủ tình hình, nhưng ở một tầm vóc rộng lớn hơn thì sa nhân cảm thấy họ đang làm chủ tình hình vì khi con còn bị giam trong tâm đường thẳng thì họ có thể kiểm soát con vì họ có thể nhìn vào sự đều đặn, và diễn tiến mà con đã tạo ra trong tâm mình. Và họ có thể dễ dàng tiên đoán bước tới của con là gì.

Con trở nên quá dễ tiên đoán khi con ở trong tâm đường thẳng. Con người nói chung trở nên quá dễ tiên đoán khi họ ở trong tâm đường thẳng, và đây dĩ nhiên là điều sa nhân muốn. Họ muốn ngưng sự sáng tạo, ngưng sự bất định bằng cách ngưng tự do chọn lựa, khi con nghĩ con không có chọn lựa nào khác ngoài chọn lựa khởi sự chuỗi dây chuyền, nhưng khi chuỗi dây chuyền đã bắt đầu thì kết quả đã được định sẵn. Tất cả mọi giáo lý mà các thày trao truyền trong đợt truyền giáo này đều nhằm phá tan ảo tưởng này để con thấy là con không bị trói buộc bởi bất cứ gì, và bất cứ chọn lựa nào mà con đã lấy đều có thể bị một chọn lựa khác chế ngự.

7.7. Phóng chiếu một hình ảnh lên các Chân sư

Đây là điều mà các thày mong muốn con nhận ra. Vì lúc đó con có thể chọn lựa và nói: “Cho tới nay tôi chưa cảm thấy kết nối với các chân sư thăng thiên như tôi mong muốn. Có thể chăng là vì tôi đã phóng chiếu một hình ảnh lên các Chân sư, lên chính tôi, và lên sự kết nối, và hình ảnh này đang giam tôi vào tâm đường thẳng và do đó các Chân sư không thể xuất hiện với tôi vì như vậy tôi sẽ còn bị giam chặt hơn nữa?”

Có những người, khá nhiều người, đã tìm ra một giáo lý chân sư thăng thiên chân chính được các thày bảo trợ. Dựa trên một số giáo lý cũ mà các thày đã trao truyền trong thời Song ngư, họ đã phóng chiếu một hình ảnh về cách họ kết nối với các Chân sư. Và họ đã có một số trải nghiệm mà họ nghĩ là họ có với các chân sư thăng thiên, nhưng thật ra trong đa số trường hợp đó là với các sinh thể trong cõi tư tưởng, trong một số ít trường hợp với các sinh thể trong cõi bản sắc thấp, và trong một số trường hợp với các sinh thể trong cõi trung giới. Nhưng đại đa số các người đã tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên trong thời đại duy lý đường thẳng hiện đại này đã kết nối với các sinh thể trong cõi tư tưởng.

Nhiều hiện tượng kết nối đồng bóng mà con thấy trong thế gian là với các sinh thể trong cõi tư tưởng và con có thể học cách tức khắc nhận diện rung động của họ, hoặc đọc các câu trả lời và thấy là chúng nhằm thu hút tâm đường thẳng, tâm lý trí. Và có những người tin rằng họ đã và vẫn đang có một kết nối chân chính với các chân sư thăng thiên, nhưng đó là họ kết nối với những kẻ mạo danh trên cõi tư tưởng có khi dùng tên các thày hay có khi dùng tên khác không liên quan đến các chân sư thăng thiên. Những người thuộc phần sau ít ra còn thành thực, tuy họ đôi khi tự nhận là những sinh thể tâm linh có địa vị hay thẩm quyền.

Đây là chuyện xảy ra khi con người có mong muốn mãnh liệt kết nối, nhưng họ lại phóng chiếu một hình tư tưởng lên sự kết nối. Các thày là chân sư thăng thiên sẽ không cư xử theo hình ảnh đó, nhưng các sinh thể trong cõi tư tưởng hoàn toàn không ngần ngại cư xử theo hình ảnh của con người nếu họ có thể khiến các người đó cho họ năng lượng. Các sinh thể trong cõi tư tưởng đó cần năng lượng của con, các người đang đầu thai, vì họ không còn nhận được năng lượng từ cội nguồn nữa. 

Các thày là chân sư thăng thiên. Có năng lượng nào mà thày có thể cần từ một người đang đầu thai? Con có thể nói, như một số người đã nói, là các thày trao bài truyền đọc này cho một số người ngồi nghe, và khi họ chú tâm vào các thày thì họ cho các thày năng lượng của họ. Thật vậy sao? Con có nghĩ là thày, một chân sư thăng thiên, cần loại năng lượng chảy ra từ sự chú ý của con người? Thày có thể tiếp nhận nguồn năng lượng vô biên của đấng Sáng tạo. Tại sao thày lại cần bất cứ gì từ trái đất? Nếu con đang trực diện mặt trời, thì tại sao con lại cần mặt trăng?

7.8. Shiva, thần phá hủy ảo tưởng

Thày là Shiva. Thày đã đạt được một địa vị nào đó trong đại đoàn hoàn vũ. Thày không cần bất cứ gì từ trái đất. Thày không cần bất cứ ai quy phục thày. Thày ở đây chỉ để phụng sự những ai muốn thoát khỏi bất cứ hình thức nô lệ nào, cho dù đó là trong chính tâm mình, hay là một dính mắc vào người khác, hay vào các sinh thể trong cõi tư tưởng, cảm xúc hay bản sắc, hay vào sa nhân. Bất cứ ai yêu cầu, thày tới và cắt đứt và giải thoát họ khỏi ảo tưởng. Ai sẽ yêu cầu thày tới để cắt đứt và giải thoát họ khỏi ảo tưởng? Đó chính là công việc của thày.

Quả thực thày dùng tên được biết trong truyền thống Ấn giáo như Brahma, Vishnu và Shiva, trong đó Shiva được coi là thần phá hủy. Nhưng thày phá hủy cái gì? Làm sao thày lại có thể phá hủy cái gì thật? Chỉ có ảo tưởng mới có thể bị phá hủy, do đó thày LÀ kẻ phá hủy ảo tưởng. Nhưng những ai không muốn buông bỏ ảo tưởng thì chớ nên xin thày giúp. Lẽ tất nhiên, con có thể mặc tình xin thày giúp, vì nếu con thực sự không muốn buông bỏ ảo tưởng của mình thì thày sẽ không xâm phạm quyền tự quyết của con. Có thể nói con không mất mát gì khi con xin thày giúp, mặc dù con không muốn buông bỏ ảo tưởng, và đây là điều con là đệ tử chân sư thăng thiên nên biết.

Thày tới đây đặc biệt là để hỗ trợ con buông bỏ các ảo tưởng của tâm lý trí. Những ảo tưởng này đang tách con ra khỏi thày hay một chân sư thăng thiên khác gần tim con. Nếu con là đệ tử chân sư thăng thiên thì con ít nhất có một chân sư thăng thiên rất gần tim con. Nhưng vì sao con không kết nối được với vị chân sư thăng thiên đó? Bởi vì tâm con ngăn chặn sự kết nối đó. Tâm lý trí của con ngăn chặn sự kết nối đó. Tại sao vậy? Vì con suy nghĩ. Con suy nghĩ xem sự việc phải diễn tiến ra sao: “Đâu là các cơ chế để kết nối với một chân sư thăng thiên? Tôi phải làm được điều mà tâm đường thẳng thiện nghệ. Lấy một hoàn cảnh, phân nhỏ nó ra từng thành phần càng ngày càng nhỏ cho tới khi tới thành phần nhỏ nhất, và lúc đó tôi sẽ hiểu cách thế giới vận hành.”

7.9. Những giới hạn của phương pháp phân nhỏ

Đây là tiến trình đã, ít ra trong lịch sử được biết, bắt đầu với Aristotle, nhưng lẽ tất nhiên, đã bắt đầu sớm hơn rất nhiều khi sa nhân tới địa cầu. Phương pháp phân nhỏ. Bất cứ gì đều có thể phân nhỏ thành những thành phần càng ngày càng nhỏ. Nhưng con hãy nhớ lại điều thày giảng về tâm đường thẳng. Chỉ có tâm đường thẳng mới nghĩ ra ý tưởng là mọi chuyện được cấu tạo bởi thành phần nhỏ hơn, và nếu ta có thể hiểu các định luật – các định luật máy móc chi phối các thành phần nhỏ – thì ta cũng có thể hiểu cách vận hành của cái được cấu tạo bởi các thành phần nhỏ. Nếu vật chất được cấu tạo bởi hạt nguyên tử và ta có thể kiểm soát hạt nguyên tử thì ta có thể kiểm soát vật chất.

Quan niệm về hạt nguyên tử được các triết gia Hy Lạp đề ra và họ nghĩ đây là thành phần nhỏ nhất cấu tạo vật chất, và nó không thể chia nhỏ thêm nữa. Hạt nguyên tử không thể phân chia. Khi các khoa học gia trong các thế kỷ gần đây khám phá ra cái mà họ nghĩ là hạt nguyên tử, thì họ dùng tên đó. Họ ban đầu tưởng nó không thể phân chia, nhưng sau đó họ khám phá là nó có thể phân chia. Nó có một lõi gồm hai loại hạt phân tử và với các hạt electron bay nhanh chung quanh. Sau đó họ khám phá là, không phải, các hạt cơ bản này không cơ bản. Có những hạt cơ bản khác nhỏ hơn. Và điều này sẽ bao giờ chấm dứt?

À, nó không bao giờ chấm dứt. Điều này cũng giống như chuyện nghịch lý của Zeno. Nếu chúng ta có một máy gia tốc cường mạnh hơn có thể gia tốc các hạt phân tử tới vận tốc ánh sáng, thì chúng ta sẽ khám phá ra hạt phân tử của Thượng đế, và lúc đó chúng ta sẽ biết vật chất vận hành ra sao. Nhưng con sẽ không bao giờ biết được làm sao vật chất mang hình tướng bằng cách tìm các phân tử càng ngày càng nhỏ hơn. Bởi vì vật chất mang hình tướng vì một hình tư tưởng từ một cõi cao phóng chiếu xuống nó. Nguyên nhân vì sao các hình tướng lại là như chúng đang là không thể tìm thấy trong cõi vật lý, cõi vật chất. Nguyên nhân được tìm thấy trong các cõi cảm xúc, tư tưởng, bản sắc và tâm linh. Bất kể cách con phân tích như thế nào thành phần của một màn ảnh chiếu phim, làm sao việc hiểu mọi chuyện liên quan đến các thành phần của màn ảnh lại có thể giúp con tiên đoán phim nào sẽ được chiếu vào lúc bảy giờ tối hôm nay? Chuyện này không được quy định ở tầng của màn ảnh.

7.10. Hãy ngưng đẩy các thày ra xa

Con là đệ tử chân sư thăng thiên không thể phân nhỏ các thày, là chân sư thăng thiên, thành các thành phần cơ khí. Nếu con làm vậy và chờ đợi các thày xuất hiện – thì ai đó có thể xuất hiện nhưng không phải các chân sư thăng thiên. Con không thể phân nhỏ chính con thành các thành phần cơ khí. Con có thể đọc chú trong nhiều năm, nhiều giờ mỗi ngày. Nhưng không có gì bảo đảm là một ngày kia con sẽ kết nối với các thày. Vì sao vậy? Vì con cần xoay chuyển tâm mình để thay vì đẩy sự kết nối ra xa như con đang làm, con ngừng gắng sức và để cho sự kết nối xảy ra.

Thày đang ở đây. Ở đây là gì? Bất cứ con đang thấy mình ở đâu, thì thày ở đó. Con không cần với ra xa để kết nối với thày. Sự thực là con không cần kết nối. Con chỉ cần xoay chuyển tâm và nhận ra là thày đang ở đây. Thày LÀ Shiva. Thày không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Thày ở bất cứ đâu con đang ở. Nhưng tâm lý trí không thể hiểu điều này, bởi vì cái gì tạo ra diễn tiến từ cái này sang cái tới? Đúng rồi, đó là quan niệm tách biệt. Bằng cách nào con đi từ một thành phố này sang thành phố khác? Con phải vượt qua khoảng cách. Con nghĩ rằng để kết nối với một chân sư thăng thiên con phải vượt qua một khoảng cách. Nhưng khoảng cách đó không có.

Thày có thể tiếp tục nói mãi về chủ đề này. Thày có thể tiếp tục trao cho con giáo lý càng ngày càng vi tế, và rất rất nhiều người đã và vẫn còn chờ đợi giáo lý kế tiếp. Chắc hẳn phải có một giáo lý tối hậu hay một giáo lý cao siêu hơn. Một ngày nào đó tôi sẽ tìm ra giáo lý sẽ mở cửa cho tôi. Nhưng con chỉ đang đẩy các thày ra xa, hay đúng hơn con đẩy con ra khỏi các thày, vì con không thể đẩy các thày. Đúng đấy, đây lại là một bí ẩn khác. Quả đúng là không phải ai ai cũng có thể xoay chuyển tâm ngay lúc này và nhận ra là thày ở đây. Bởi vì con đang ở một tầng tâm thức thấp trong số 144, con có quá nhiều ngã tách biệt, con có quá nhiều năng lượng tồn đọng, nên con không thể xoay chuyển tâm, vì tất cả các thứ đó níu kéo tâm con, tâm ý thức của con. Chúng kéo cái Ta Biết của con về phía các ngã tách biệt.

7.11. Một dụng cụ để thoát ra khỏi tâm đường thẳng

Quả đúng là có một diễn tiến. Con bắt đầu bằng đọc chú, học giáo lý và con dần dần chuyển hóa một phần năng lượng, buông bỏ ảo tưởng và lực trì kéo trên tâm con giảm bớt. Và con càng ngày càng dễ thoát ra khỏi tâm đường thẳng, nhưng con sẽ phải làm sự vượt thoát đó. Và việc này có tính chất sáng tạo, nó không phải là kết quả máy móc của một tiến trình máy móc. Nếu con theo đuổi một giáo lý khác và sau đó con không kết nối, và con nghĩ là phải có một giáo lý cao hơn và con lại theo đuổi giáo lý đó và vẫn không kết nối, con có thể tiếp tục làm như vậy mãi mãi. 

Đâu là giải đáp cho nghịch lý của Zeno – cho rằng trước tiên con đi tới điểm giữa, sau đó tới điểm giữa của khoảng cách còn lại, do vậy con sẽ không bao giờ tới được mức đến vì con cứ phải đi một nửa khoảng còn lại? Giải đáp là gì? À, một thời gian đầu con có thể nói: “Trước tiên tôi đi đến điểm giữa, rồi sau đó tôi đi tới điểm giữa của khoảng cách còn lại bằng cách bước một số bước cho tới khi tôi tới điểm giữa đó.” Nhưng nếu con tiếp tục làm vậy thì con sẽ tới điểm con tới thật gần mức đến và con chỉ cần bước một bước để vượt qua khoảng cách còn lại. Lúc đó thì có nhu cầu đi tới điểm giữa nữa chăng? Không có nhu cầu.

Con chỉ cần thoát ra khỏi tâm đường thẳng và nói: “Tại sao tôi lại cần đi tới điểm giữa khi chỉ cần một bước là vượt qua được khoảng cách còn lại? Tại sao tôi lại phải bước nửa bước, sau đó một phần tư bước, sau đó một phần tám bước? Tại sao lại cần sự ngu ngốc này khi tôi chỉ cần bước một bước là tới đích?” Con phải tới điểm trong tâm khi con nói: “Tại sao tôi cần nghĩ là tôi phải làm chuyện gì khác để kết nối với một chân sư thăng thiên? Tại sao tôi không kết nối ngay bây giờ?”

Vấn đề không phải là suy nghĩ bằng tâm đường thẳng. Vấn đề là vô hiệu hóa tâm đường thẳng, do đó chúng ta sẽ làm chuyện này. Con đã tụng niệm tên thày, nhưng thày mời con hãy tụng niệm cùng với thày, và chúng ta sẽ thấy chuyện gì có thể xảy ra:

Shiva (40x)

OM Shiva (16x)

OM Shiva OM (8x)

OM Shiva OM (10x)

Shiva OM (3x)

Shiva (96x)

TA LÀ Shiva (16x)

Shiva TA LÀ, TA LÀ Shiva (16x)

TA LÀ xác thân này, Shiva TA LÀ (18x)

TA LÀ các cảm xúc này, Shiva TA LÀ (13x)

TA LÀ các tư tưởng này, Shiva TA LÀ (11x)

TA LÀ bản sắc này, Shiva TA LÀ (12x)

OM Shiva (8x)

OM Shiva (20x)

OM Shiva (38x)

Shiva OM (40x)

OM Shiva (9x)

OM (3x)

Thày LÀ Shiva và thày đã góp công vào việc khiến tâm đường thẳng bị xáo trộn, rối rắm, vô hiệu hóa. Bất cứ lúc nào con cảm thấy cần vượt quá tâm đường thẳng, thì con có thể tụng niệm những câu chú gọi tên thày bằng cách dùng một bản thu âm hay bằng cách tự con tụng niệm. Con có thể thay đổi các câu chú tùy theo cảm hứng. Con có thể chế ra vô số dạng chú Shiva để tụng niệm. Con đừng nên sợ dùng khả năng sáng tạo của mình và hãy dùng dụng cụ này để vô hiệu hóa tâm đường thẳng. Với đa số các con, tâm đường thẳng chính là trở ngại chính cho việc kết nối với cái ta cao của con và với các thày, các chân sư thăng thiên.

Quả thật là các thày ở đây vì các con, vì nếu không thì các thày đã không ở lại địa cầu, vì hành tinh là gì khác ngoài một tấn tuồng để con người trên sân khấu có một môi trường trải bày những gì họ phản-sáng tạo hay đồng-sáng tạo? Làm sao con có thể đồng-sáng tạo nếu con không kết nối được với các đấng sáng tạo ở tầng cao hơn con? Lúc đó con sẽ phải đi vào tách biệt và phản-sáng tạo cho tới khi định luật sẽ rốt cuộc phản-sáng tạo những gì con phản-sáng tạo. Tới đây thì thày đã trao cho các con những gì thày muốn trao, và thày cảm ơn sự hiện diện của các con ở đây, sự hiện diện vật lý, sự hiện diện cảm xúc, sự hiện diện tư tưởng, sự hiện diện bản sắc và Hiện diện TA LÀ của các con. Thày niêm các con trong tình thương bốc cháy của Shiva mà thày LÀ.

15 | Tâm con đầy những gì?

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị qua mạng Internet mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Bước kế tiếp của chúng ta trên con đường Bắt chánh đạo này là bước Chánh niệm. Con hãy xem xét từ này trong tiếng Anh: “Mind-full-ness” [mindfulness là chánh niệm tỉnh giác và mind-full-ness là đặc tính của tâm đầy]. Tâm chứa đầy những gì? Đến một điểm trên đường Bát chánh đạo con cần bắt đầu xem xét: “Điều gì đang choán tâm tôi, đang khiến tôi bận tâm? Trong tâm tôi đang có gì?” Tất nhiên như thày đã có giải thích, đây là những ngã tách biệt, những khuôn nếp phản ứng, những lập trình tiềm thức. Đâu là tác động chủ yếu của các chương trình này, các ngã tách biệt này và tự ngã?

Tự ngã và các ngã tách biệt sinh ra từ ảo tưởng tách biệt. Nếu con ngắm đại dương vào một ngày tốt gió, trên mặt biển có rất nhiều sóng. Bây giờ con thử tưởng tượng con xây một chiếc cần trục có thể vươn ra ngoài biển. Ở cuối cần trục có một cái gắp hay một cái xẻng, và con đang đưa nó xuống để cố gắp lấy một ngọn sóng, kéo sóng ra khỏi đại dương. Liệu con có thành công không? À, có lẽ con sẽ kéo lên một xô nước, nhưng lập tức một ngọn sóng khác sẽ hình thành và xô nước của con sẽ không là một ngọn sóng mà là một xô nước. Con có thể nào tách rời sóng ra khỏi đại dương được không?

Cũng tương tự như vậy, tất cả mọi thứ trong thế giới hình tướng làm bằng một chất vô hình tướng. Chất vô hình tướng này khoác vào một hình thể đặc thù, nhưng chất thì vẫn không thay đổi. Phật tánh vẫn là Phật tánh giống như đại dương vẫn là đại dương khi nó khoác vào hình thù ngọn sóng thay vì lặng yên. Một khi chất vô hình tướng đã mang vào hình tướng thì hình tướng này có đó, nó có một sự tồn tại tạm thời nhưng nó không có một sự tồn tại tách biệt.

15.1. Các hạn chế của giác quan vật lý

Để cho con một ví dụ thị giác, con thử nhìn trái đất cùng tất cả hiện tượng vật lý trong môi trường của con. Có thể có nhà, có cây, có núi, có hồ, có biển hay bất cứ gì khác, nhưng tất cả được tạo thành bằng những hạt hạ nguyên tử không thực sự mang hình tướng nào cụ thể. Con có thể nhìn một thân cây và thấy cây rất khác tảng đá, nhưng cả hai đều cùng làm bằng hạt hạ nguyên tử. Ở trong cây có hạt hạ nguyên tử, cho nên con không thể nói là cây tách biệt với hạt hạ nguyên tử. Cây được tạo thành bằng những hạ hạt nguyên tử đã khoác vào một hình tướng đặc thù.

Tất nhiên con không thể thấy được điều này với giác quan hay với tâm vỏ ngoài của con. Con có thể suy ra chuyện này với tâm lý luận của con. Con có thể trải nghiệm chuyện này với tâm trực giác của con, nhưng có một mức nào đó trong tâm không thể nhìn xa hơn hình dạng hay hình thù. Ấy, thày không bảo là điều này có gì sai trái đâu con. Giác quan vật lý của con đã được thiết kế để phát hiện năng lượng trong một phổ tần số nhất định, cụ thể là cùng phổ tần số cấu tạo cơ thể vật lý của con. Giác quan vật lý là phần nối dài của cơ thể và chúng có mục đích phục vụ cơ thể khi cơ thể tương tác với thế giới vật chất. Cơ thể chỉ là một hình tướng, nhưng nó cũng làm bằng hạt hạ nguyên tử.

Những giác quan vật lý này và sự hạn chế của chúng là cơ sở – ít ra là cơ sở nguyên thủy – cho con người đi vào ảo tưởng tách biệt. Nhưng như thày nói, đó là cơ sở cho ảo tưởng tách biệt chứ không phải là nguyên nhân. Nguyên nhân con người đi vào tách biệt là một loạt những chọn lựa mà con người đã lấy, qua đó lần hồi họ đã chấp nhận ảo tưởng của Maya và tạo ra những ngã tách biệt kia. Ngã tách biệt được tạo ra từ ảo tưởng tách biệt. Khi con, cái Ta Biết, bước vào cái tâm chất đầy những ngã tách biệt này, con nhìn mọi chuyện xuyên qua ngã tách biệt. Con nhìn chính con, con trải nghiệm chính con xuyên qua ngã tách biệt, và suốt nhiều kiếp sống, con có thể quên mất con đã từng là một sinh thể nối kết. Hiện giờ con trải nghiệm con là một sinh thể tách biệt, nhưng liệu con đã trở nên tách biệt khi con tự trải nghiệm mình như thế?

À, đây là điều con bắt đầu tra vấn ở một tầng nào đó trên đường Bát chánh đạo. Con bắt đầu chất vấn ngay chính nhận thức của con về thế giới xung quanh, nhận thức của con về chính con. Có thể nói, khởi đầu của tỉnh giác cao hơn là khi con bắt đầu chất vấn nhận thức của con, các ý tưởng vỏ ngoài của con, ý niệm bản sắc của con, và ngay cả toàn bộ thế giới quan của con.

Con biết giác quan của con có thể dễ dàng bị các dáng vẻ bề ngoài đánh lừa hay phỉnh gạt. Tất cả các con đều đã xem các loại ảo thị (optical illusions) và con biết có cái gì đó vượt khỏi những gì giác quan của con có thể thấy. Có nguyên tử, có phân tử, có hạt hạ nguyên tử. Con biết giác quan không đáng tin cậy. Nhưng cái thực sự không đáng tin cậy là các ngã tách biệt, chúng không chỉ tiếp nhận giác quan mà chúng còn xây dựng một lớp phủ ý thức hệ lên trên nhận thức của giác quan, và ý thức hệ này thì bảo rằng những gì giác quan nhìn thấy thật sự là những vật tách biệt.

Nếu con chỉ lấy nhận thức giác quan mà thôi, con sẽ thấy tự thân giác quan không đưa ra phán đoán nào về những gì nó thấy. Mục đích của giác quan là phân biệt những vật khác nhau ở tầng cấp vĩ mô: “Đây là một con ngựa. Nó không nguy hiểm. Đây là một con sư tử. Có thể nó nguy hiểm.” Đó là mục đích của giác quan. Mục đích của giác quan là thấy rõ và phân biệt giữa đủ loại vật thể liên quan đến sự sống còn và an toàn vật lý của con – những gì con có thể làm và những gì con muốn làm trong thế giới. Giác quan không áp đặt một xét đoán giá trị lên những gì nó thấy.

Giác quan có thể thấy một con sư tử. Nó có thể nhận diện cái đó là một con sư tử nhưng tự thân giác quan không bảo con sư tử là nguy hiểm. Chính tâm con mới áp đặt sự đánh giá này lên sư tử. Nhưng dù sao việc này cũng là một sự đánh giá trung lập mà chúng ta có thể nói là khách quan. Một con sư tử nguy hiểm vì nó có thể tấn công cơ thể vật lý của con, nó có khả năng giết chết cơ thể. Nhưng đây không phải là cùng sự xét đoán giá trị như khi con bảo ngựa là tốt, sư tử là xấu, sư tử là ác. Ở đây con thấy, ngoài chuyện giác quan phân biệt những vật thể và hình tướng khác nhau, tâm con còn áp đặt lên đó một sự đánh giá, một sự xét đoán về tốt và xấu. Đây là cốt lõi của điều mà thày đã gọi là tâm thức nhị nguyên khi con tạo ra hai đối cực như vậy.

15.2. Tư duy trắng đen

Trong dạng cùng cực, nhị nguyên chỉ có hai đối cực và không có gì ở giữa. Có tốt, có xấu. Đây là cái gọi là lôgíc Aristote, lôgíc của khoảng giữa bị loại bỏ. Mọi thứ phải hoặc thế này, hoặc thế kia, và không có gì ở giữa. Tất nhiên như thày cũng đã trình bày, có một cách khác là bảo rằng có hai đối cực nhưng chúng nằm trên một thang điểm. Có một khoảng giữa hai đối cực với những sắc đậm nhạt khác nhau. Nhiều người có lối phán xét giá trị như vậy. Họ thấy có những điều thiện, có những điều ác, nhưng cũng có những điều nằm giữa.

Tâm con chứa đầy những gì? À, nó chứa đầy những ngã tách biệt kia, trong số đó có rất nhiều dựa trên sự phán xét giá trị này. Bất cứ gì cũng phải hoặc tốt hoặc xấu, hoặc đúng hoặc sai. Đâu là mục đích khi làm vậy? À, nếu con là một sinh thể nối kết thì con sẽ thấy gì? Con sẽ cảm thấy thế nào? Con sẽ trải nghiệm ra sao? Con trải nghiệm là con nối kết với một cái gì vượt hơn chính tâm con – cái ta cao của con. Con trải nghiệm là con đang nhận được năng lượng từ cái ta cao này và con có thể dùng năng lượng đó để tạo ra những hoàn cảnh cho con trên trái đất.

Trước khi con người bước vào nhị nguyên và tách biệt, trên trái đất không hề có những xung đột mà con thấy ngày hôm nay. Con người có thể sống hài hòa hơn gấp bội và không chống đối nhau. Có nghĩa là hầu hết mọi người có thể thị hiện những gì họ muốn mà không cần gắng sức nhiều lắm, chắc chắn là không cần tranh đua vật lộn. Vì họ thấy họ nối kết với một cái gì cao hơn và cũng nối kết với nhau và với môi trường, họ không cảm thấy là người khác hay môi trường đang chống lại họ. Không có sự chống đối nào hết.

15.3. Khởi đầu của khổ đau

Khi con là một sinh thể nối kết thì chống đối ở đâu? Con nhận ra là con nối kết với trái đất và với thế giới vật chất, và thế giới vật chất thì hoàn toàn vui lòng cho con những điều kiện mà con mong muốn. Nhưng một khi con bước vào tâm thức tách biệt và tự nhận diện mình là một sinh thể tách biệt, con không còn cảm nhận nối kết nào nữa. Có nghĩa là con bị tách rời khỏi môi trường của con, tách rời khỏi người khác, và con cũng bị tách rời khỏi nguồn cội cao hơn là nguồn cung cấp năng lượng sáng tạo cho con. Thế là bây giờ con phải lấy năng lượng từ môi trường của con. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là con lấy năng lượng từ người khác. Tất nhiên là họ sẽ kháng cự lại, cho nên đây là khởi đầu của vật lộn tranh đấu. Con cũng trải nghiệm là ngay cả thế giới vật chất cũng không cho con những gì con muốn khi con là một sinh thể tách biệt, cho nên con phải chiến đấu để có bất cứ gì.

Nghĩa là làm sao? Nghĩa là giờ đây con bắt đầu dùng vũ lực. Khi con là một sinh thể nối kết, con không cần dùng đến vũ lực. Con sử dụng tiến trình tự nhiên là cho phép năng lượng chảy qua tâm con, con hình thành những hình tư tưởng không dựa trên ảo tưởng tách biệt, và các hình tư tưởng này được áp chồng lên năng lương cơ bản và chúng cho con những gì con mong muốn. Khi con bước vào tách biệt, con không thể làm vậy được nữa. Con không thể đồng-sáng tạo theo cách tự nhiên. Con bắt đầu cố gắng đồng-sáng tạo theo một cách phản tự nhiên, tức là thay vì cho phép năng lượng khoác lấy hình tướng theo các nguyên tắc cơ bản, giờ đây con tìm cách ép buộc năng lượng phải khoác lấy hình thù. Trên căn bản thì con vẫn làm cùng một chuyện, con vẫn tạo ra hình tư tưởng và phóng chiếu lên năng lượng, nhưng bây giờ con phải cưỡng ép bằng sức mạnh vì hình tư tưởng của con dựa trên tách biệt, cảm nhận tách biệt.

Một ví dụ điển hình là khi con đi ngược dòng lịch sử, con nhận thấy trong hầu hết mọi xã hội đều có xu hướng hình thành một tầng lớp thượng lưu nào đó. Lớp người này sẽ tuyên bố là họ nắm giữ một loại uy quyền nào đó, chẳng hạn quyền sở hữu đất đai. Điều này có nghĩa là số dân còn lại sẽ không có đất. Cách duy nhất để họ sống còn là làm lụng trên đất của chủ đất, nhưng chủ đất thì đòi hỏi sự đền bù, có nghĩa là giờ đây chủ đất có thể có được đời sống mình muốn do sức lao động chân tay của người khác.

Đây là một ví dụ một số người đã có thể dùng sức mạnh để đạt được những thứ họ muốn, nhưng họ làm vậy bằng cách lợi dụng người khác, cưỡng ép người khác phải phục tùng lớp thượng lưu. Điều gì thực sự xảy ra trong tâm lý? Như thày đã có nói vài lần, một khi con bước vào tách biệt, con cảm thấy một sức ép. Đây là một sức ép quá sức chịu đựng, vì như một sinh thể tách biệt, con không thể thấy được làm sao con có thể tự vệ trước tất cả những mối đe dọa mà con cảm nhận trong thế giới. Con phải làm gí đây?

À, thày đã có giảng là con đè nén cảm xúc và tư tưởng của con, nhưng điều con thực sự làm trong quá trình này là con tạo ra một tập hợp ngã tách biệt dưới ô dù của tự ngã. Mục đích là để tạo dựng một thế giới quan đặt con vào một vị thế an toàn, cao trội, một địa vị đặc quyền được bảo vệ và không thể bị đe dọa. Đây là tâm lý cơ bản của tâm thức tách biệt, qua đó con cảm thấy mình bị đe dọa và con tìm cách dựng lên một thế giới quan sẽ giảm bớt mối đe dọa.

15.4. Nhà tù của tách biệt

Nhưng tất nhiên, người ta cũng có thể lấy những biện pháp vật lý. Một số người trong lớp thượng lưu mà con thấy khắp các thời đại, đã xây lâu đài bằng tường đá kiên cố để bảo vệ mình khỏi đe dọa từ ngoài. Có nhiều ví dụ khác về những biện pháp vật lý mà họ sử dụng, nhưng tất cả đều khởi lên từ trong tâm, từ tâm lý. Tất cả mọi chuyện đều khởi sự trong tâm lý. Bất kể biện pháp vật lý nào cũng chỉ là sự nối dài của cố gắng muốn tạo ra một thế giới quan đặt họ vào một vị thế đặc biệt trong đời để họ có thể chịu đựng được gánh nặng phải sống trên hành tinh này. Họ phải chịu được sức ép, sống chung với áp lực và tiếp tục tồn tại một cách nào đó.

Con có thể hỏi: “Nhưng có gì sai trái với chuyện này đâu?” Phải, ở một mức nào đó thì không có gì sai trái bởi vì trái đất là một cỗ máy trải nghiệm, một máy giả thực tại, nơi con được phép có những trải nghiệm mà con muốn bao lâu cũng được cho đến khi con chán ngán. Nhưng nếu con là một người tâm linh và con đang học giáo lý tâm linh và con muốn bước chân trên một con đường tâm linh, thì rõ ràng làm như vậy sẽ không đủ cho con. Thật không đủ cho con nếu con phải tạo ra tâm ảnh để cảm thấy an toàn, bởi vì đâu là hậu quả của việc tạo ra tâm ảnh như vậy? Hậu quả là một khi con có tâm ảnh thì con cảm thấy như thể mình phải bảo vệ tâm ảnh. Một khi con đạt một vị thế vật lý nào đó, con cảm thấy mình phải bảo vệ nó. Vị thế vật lý chắc chắn trở thành một vòng đai bảo vệ giống như lâu đài với tường đá kiên cố, nhưng nó cũng biến thành một nhà tù vì con không thể rời bỏ đi. Một khi con đã tạo ra thế giới quan đó thì tâm con không thể vượt ra ngoài. Con phải ở lại trong đó, và con luôn luôn phải sẵn sàng bảo vệ nó chống lại mọi hiểm họa có thể xảy đến.

15.5. Trong nhị nguyên, con không thể chứng minh bất cứ gì

Nhưng này con, thày đã có giải thích là tâm thức nhị nguyên luôn luôn có hai đối cực. Một khía cạnh của tâm thức nhị nguyên phối hợp với tâm phân tích và lý trí là, nói chung, con có thể chứng minh bất cứ gì con muốn. Trong nhiều nền văn hóa, người ta đã tranh luận từ rất lâu về câu hỏi này: “Có Thượng đế hay không?” Trong thế giới hiện đại, cũng có tranh luận giữa tín đồ các tôn giáo và những người theo chủ nghĩa duy vật hay người vô thần. Cả hai phe đều cố gắng đưa ra lập luận – người theo tôn giáo thì lập luận ủng hộ sự hiện hữu của Thượng đế, và người vô thần lập luận chống lại sự hiện hữu của Thượng đế. Cả hai bên đều mổ xẻ lập luận của nhau để cố đánh phá hay bẻ gẫy bên kia, nhưng con thấy gì khi con nhìn vào chuyện này? Con thấy là sau một thời gian, có hai nhóm riêng biệt sẽ hình thành, một nhóm tin chắc chắn là có Thượng đế, và nhóm kia tin cũng không kém chắc chắn là không có Thượng đế. Nhưng cả hai đều nhìn vào cùng những lập luận.   

Tại sao nhóm này nhìn vào lập luận và kết luận thế này, trong khi nhóm kia nhìn vào cùng những lập luận đó mà lại kết luận thế khác? Á, đó là vì mỗi nhóm người có mang một số ngã tách biệt trong tâm họ, và các ngã tách biệt này có nhiệm vụ – do chúng đã được lập trình như vậy –phải bênh vực tổng quan của họ. Người theo tôn giáo mang tổng quan là có một thượng đế giữ quyền kiểm soát tối hậu trên mọi chuyện xảy ra trên thế giới, và điều này khiến họ cảm thấy an toàn vì họ nghĩ rằng bởi vì họ là tín đồ ngoan đạo, thượng đế này sẽ che chở họ và ban cho họ thật nhiều ân huệ. Cảm giác an toàn của họ dựa trên ý tưởng thượng đế này là có thật, nghĩa là ngã tách biệt của họ được lập trình để bênh vực cho thế giới quan và sự hiện hữu của thượng đế này. Ngã tách biệt làm thế nào? Bằng cách ngăn chặn và vô hiệu hóa bất cứ lập luận nào chất vấn thế giới quan.

Phía bên kia, những người vô thần mang thế giới quan là không có Thượng đế vì họ cảm thấy – và trong tiền kiếp họ đã cảm thấy – bị đe dọa bởi những người theo đạo đã bức hại họ, như con thấy trong Tòa án Dị giáo và các cuộc Thập tự chinh. Họ suy luận tôn giáo là một trong những hiểm họa lớn nhất trên thế giới, cho nên họ dựng lên một thế giới quan bảo rằng tôn giáo chỉ là chuyện mê tín chủ quan chứ không hề có Thượng đế. Thay vào đó thì có các định luật tự nhiên, và một khi hiểu được các định luật này qua khoa học, họ cảm thấy là họ nắm được quyền kiểm soát nào đó trên hoàn cảnh của họ. Làm thế nào họ đã đạt đến thế giới quan này? Bằng cách tạo ra những ngã tách biệt sẽ loại bỏ, ngăn chặn hay vô hiệu hóa bất cứ bằng chứng nào chất vấn thế giới quan của họ.

Bây giờ con có thể nhìn quanh thế giới và tìm thấy vô số nhóm người khác cũng y như thế. Người Do Thái có một thế giới quan đặc thù xem mình đối chọi với người Ả Rập, và ngược lại người Ả Rập có một thế giới quan xem mình đối chọi với người Do Thái. Rất nhiều nhóm khác khắp thế giới có cơ chế vận hành cũng giống như vậy.

Điều con nhận ra khi con bước lên tỉnh giác cao hơn là mọi người đều đã tạo ra những ngã tách biệt như thế. Mọi người đều có một thế giới quan cơ bản. Con cần có một thế giới quan để có thể vận hành, nhưng vấn đề là khi thế giới quan của con dựa trên tách biệt và nhị nguyên, không thể tránh được là nó sẽ đặt con vào thế xung đột với những ai có một thế giới quan dựa trên đối cực nhị nguyên ngược lại.

Lấy ví dụ các cuộc Thập tự chinh giữa người đạo Hồi và đạo Cơ đốc, cả hai đều tuyên bố thờ cùng một thượng đế, là thượng đế được mô tả trong kinh Cựu ước, nhưng họ vẫn đánh nhau. Người Cơ đốc cảm thấy họ đại diện cho cái thiện và người đạo Hồi đại diện cho cái ác. Người đạo Hồi cũng tin chắc là họ đại diện cho cái thiện và người Cơ đốc mới đại diện cho cái ác. Hiển nhiên là cả hai không thể nào đúng cùng một lúc. Nhưng nếu như chẳng có bên nào đúng thì sao? Nếu như cả hai đều có một thế giới quan chủ quan nhị nguyên thì sao, bởi vì họ đã chụp lấy một đối cực nhị nguyên rồi nâng nó lên địa vị tối cao, và điều này đặt họ vào một vị thế xung đột hiện sinh với đối cực nhị nguyên ngược lại?  

Nói cách khác, đạo Cơ đốc và đạo Hồi đã được đặt lên một thang điểm nhị nguyên trong đó họ đại diện cho hai đầu của cái thang. Người Cơ đốc có thể nói: “À, đầu bên chúng tôi mới tốt, còn đầu bên kia xấu.” Và người đạo Hồi có thể bảo ngược lại. Đây là cách nhị nguyên vận hành. Con lấy một cực đoan tương đối xong con nâng nó lên địa vị không tương đối. Nó tuyệt đối: “Đây là sự thật tuyệt đối. Chúng tôi người Cơ đốc nắm sự thật tuyệt đối. Người đạo Hồi sai lầm tuyệt đối, cho nên việc chúng tôi giết họ là chuyện chính đáng cho dù tôn giáo chúng tôi có điều răn, Ngươi chớ giết người.” Đây là cách con vô hiệu hóa một lời răn và biện minh cho việc vi phạm lời răn, và điều này hiển nhiên là tương đối nhưng con lại nghĩ nó dựa trên một sự thật tối cao nào đó.

15.6. Tám tỷ vũ trụ

Đó là lảm thế nào con tạo ra những thế giới quan đó, và con có thể nhìn ra điều này khi trong tư cách một học trò tâm linh, con bước lên những tầng cao hơn của Bát chánh đạo. Con nhìn ra điều này, cho nên tất nhiên, con cần ngừng tập trung tâm con vào những gì người khác đang làm, và thay vào đó con nhận ra là con cũng đang làm cùng một chuyện như vậy, bởi vì ai ai cũng làm chuyện này cho đến khi họ giải phóng tâm họ khỏi ảo tưởng tách biệt, khỏi các ngã tách biệt. Không thể nào khác được. Không có bí ẩn gì ở đây. Đây là chuyện mọi người đều làm. Khi chính thày còn hiện thân và trước khi thày đạt đến các tầng nhận biết cao hơn, thày cũng đã làm chuyện đó. Trong tiền kiếp thày cũng đã làm như vậy, cho dù nhiều Phật tử sẽ phủ nhận là thày có tiền kiếp.

Con đạt tới điểm có thể nói được: “Tôi hiểu điều gì đang xảy ra trên thế giới. Tôi thấy được cách vận hành khi mọi người đều có một thế giới quan.” Nói chung, tất cả tám tỷ người trên hành tinh đều có một thế giới quan cá nhân. Có nhiều người mang thế giới quan tương tự như nhau, cho nên họ có thể nhận diện mình là thành viên của một nhóm, nhưng thế giới quan của mỗi người thì vẫn khác nhau một chút.

Thậm chí con có thể nói là không có một vũ trụ độc nhất, mà trên trái đất có đến tám tỷ vũ trụ, bởi vì mỗi người đều ở trong – ở ngay trung tâm – vũ trụ cá nhân của riêng mình. Mỗi người đều xem mình là trung tâm của vũ trụ. Có một sự tương đồng nào đó với góc nhìn của con trong không gian vật lý. Ngay bây giờ đây con đang ngồi ở một vị trí cụ thể, cơ thể của con đang ở một vị trí cụ thể. Con đang nhìn qua đôi mắt từ một góc độ cụ thể. Con đang chiếm giữ khoảng không gian nơi con ngồi, đây là không gian cá nhân của con. Một người khác có thể ngồi ngay cạnh con và có một góc nhìn gần giống con, nhưng người đó không thể đẩy cơ thể của họ vào cơ thể của con để nhìn từ cùng góc độ như con. Tâm con cũng như vậy. Con có thể có những điểm tương đồng với người khác nhưng con vẫn là trung tâm của vũ trụ cá nhân của con.

Bây giờ, nếu con có tám tỷ người và mỗi người xem mình là trung tâm vũ trụ và do đó họ là người quan trọng nhất trong vũ trụ, thì có gì đáng ngạc nhiên khi có xung đột, đấu tranh, đau khổ và Biển Luân hồi? Là một học trò trên con đường tâm linh, con có thể nhìn ra điều này. Vậy con cần làm gì đây? À, nếu con muốn tiến cao hơn trên đường tu, con cần nói: “Tôi hiểu là tất cả chúng ta đều đang sống trong vũ trụ riêng của mình. Vũ trụ này chỉ hiện hữu trong tâm mỗi người, nhưng chúng ta hành xử dựa theo cách mình nhìn thế giới, dựa theo thế giới quan của mình. Tôi hiểu là mỗi chúng ta đều có xu hướng bênh vực cho thế giới quan của mình. Tôi hiểu là tôi không có quyền điều khiển thế giới quan của người khác. Dù họ là con cái, cha mẹ hay là người thân, tôi cũng không có quyền kiểm soát tâm họ. Vậy tôi có thể làm gì? Là một học trò tâm linh đang bắt đầu nhận ra những gì tôi đang nhận ra về con đường tâm linh, tôi có thể làm gì?”

15.7. Con từ bỏ việc thay đổi người khác

À, bước đầu tiên con có thể làm là con có thể bước lui lại và lấy một quyết định. Con có thể nói: “Tôi quyết định từ chức khỏi công việc thay đổi tâm người khác.” Thậm chí con có thể tự hỏi: “Liệu tôi có ký hợp đồng lao động nào với một khuôn mặt thẩm quyền ghi rằng công việc của tôi là phải thay đổi suy nghĩ của người khác không? Tôi có hợp đồng này không?” Con thử tìm trong ngăn kéo và tủ hồ sơ của con xem có một hợp đồng như vậy không? Nếu con không có, con có thể tự hỏi: “Vậy thì tại sao tôi đã đảm nhận công việc thay đổi tâm người khác?” Sau đó con có thể dùng lời dạy này để ngộ ra là con đã nhận công việc này vì tự ngã của con nghĩ rằng nó phải thay đổi tâm người khác ngõ hầu thay đổi trạng thái tâm con. Nó nghĩ là để con cảm thấy an toàn, con cần thay đổi tâm người khác.

Sau đó con có thể bước lui lại thêm nữa, ít ra một khi con đã bắt đầu nhìn nhận con không phải là tự ngã, con không phải là tâm vỏ ngoài, thì con có thể lui thêm và nói: “Nhưng có phải là chính tôi đã nhận việc này hay là tự ngã?” Xong con có thể bắt đầu nhận ra là chính tự ngã của con đã đứng ra đảm nhận công việc. Không phải là con. Và điều này có nghĩa là giờ đây con có thể rút lui khỏi công việc và nói: “Thôi đủ rồi. Bây giờ tôi quyết định một cách cốt ý là tôi sẽ ngừng tập trung vào việc thay đổi tâm người khác, và tôi sẽ dành tất cả chú ý vào việc thay đổi tâm tôi. Đây là công việc duy nhất của tôi trên hành tinh này. Mục đích duy nhất của tôi ở trên hành tinh này là nâng cao nhận biết của tôi chứ không phải là thay đổi tâm người khác. Không chỉ là chuyện thay đổi tâm tôi mà là nâng tâm tôi lên những tầng nhận biết cao hơn.”

Con đang chú tâm vào điều gì? Con đang chú tâm vào nhu cầu thay đổi tâm thức của con, tâm lý của con. Con làm thế nào? Như thày đã mô tả rồi đó, con xem xét các khuôn nếp, con phơi bày các ngã, con để cho chúng chết đi. Khi con tập trung làm điều này, con sẽ bắt đầu tiến bộ, tiến bộ nhanh chóng. Sau đó con có thể đi vào những tầng tỉnh giác cao hơn nơi con bắt đầu nhìn vượt khỏi nhiều trò chơi mà người ta bị mắc kẹt.

Con thử nhìn mọi người xem. Lấy ví dụ các thành viên trong gia đình, có người có thể bị nhốt hàng chục năm trời trong một trận chiến tìm cách thay đổi một người khác, hay ngược lại. Cả hai đang chơi một trò chơi xem ai có thể thay đổi ai, ai có thể khống chế ai, vân vân. Con có thể thoát ra khỏi toàn bộ trò chơi này. Con có thể giải phóng sự chú ý và năng lượng của con  – năng lượng ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc – để chúng không còn bị buộc chặt vào trò chơi tìm cách thay đổi người khác. Làm vậy sẽ giúp con tăng trưởng nhanh hơn rất nhiều.

15.8. Sự phán xét liên tục trong tâm

Khi con đạt đến một tầng cao hơn và đã tự giải thoát khỏi trò chơi đó, con có thể đi bước kế tiếp và nói: “Tôi đang bắt đầu nắm bắt được tự ngã làm việc như thế nào, các ngã tách biệt hoạt động như thế nào. Tôi có trải nghiệm là tôi đã nhìn thấy một số ngã tách biệt và để cho chúng chết đi. Tôi đang bắt đầu nắm bắt được quá trình này.” Điều gì đang thực sự xảy ra ở đây? Điều xảy ra là, như thày có nói, tự ngã và các ngã tách biệt tạo ra một thế giới quan đặc thù. Thế giới quan này dựa trên tách biệt, trên các đối cực nhị nguyên và sự phán xét giá trị.  

Điều liên tục diễn ra trong tâm con là con có một tập hợp những ngã tách biệt đang đánh giá mọi chuyện xảy ra trong đời con. Không chỉ là những sự cố bên ngoài. Tất nhiên ngã tách biệt không ngừng theo dõi sự cố bên ngoài. Chúng không ngừng đánh giá: “Chuyện này có đe dọa thế giới quan của tôi không?” Xong chúng phán xét: “À, nếu nó đe dọa thì thật quá tệ, tôi phải ngăn chặn hay tránh xa nó. Còn nếu nó không đe dọa thì quá tốt, tôi có thể chấp nhận nó.”

Trong tâm con liên tục có một tiến trình đánh giá và phán xét những sự kiện bên ngoài. Bất cứ gì xảy ra, dù đó là biến cố trên thế giới, là một sự kiện vật lý cá nhân, là một lời nói của ai đó, là một chuyện gì con đọc được, một chuyện gì con xem trên tivi, bất kỳ xung động nào đến với con từ ngoài bản thân con sẽ được đánh giá không ngừng bởi các ngã tách biệt đó. Phần lớn hoạt động này diễn ra bên dưới mức nhận biết ý thức của con, nhưng khi con vươn lên cao hơn trên đường tu và con trở nên ý thức hơn, con không thể nào tránh nhìn thấy một phần tiến trình này đang diễn ra. Con không thể tránh nhận ra là nó tiêu hao năng lực và chiếm hữu sự chú ý của con.

Ngoài những sự việc đến từ bên ngoài, cũng có sự đánh giá liên tục những gì xảy ra bên trong tâm con. Ở mức cảm xúc, con có những cái ngã đánh giá: “Tôi phải cảm thấy thế nào trong tình cảnh này? Liệu cảm xúc này có ổn không dựa trên thế giới quan tâm linh của tôi? Một người tâm linh mà cảm thấy thế này có chấp nhận được không?” Xong con có những ý tưởng: “Không biết mình nghĩ thế này có được không?” Về cơ bản, sự đánh giá là như sau: “Ý nghĩ này có là một đe dọa cho thế giới quan của tôi hay nó xác nhận thế giới quan của tôi?” Rồi ở mức bản sắc, con liên tục có những ý nghĩ: “Tôi là ai? Làm thế nào để tôi khớp vào với thế giới? Tôi có quyền ở đây không? Tôi có nên thay đổi không? Tôi nên làm theo nhóm này hay nhóm kia?” Tất cả những sự đánh giá như thế liên tục xảy ra, nhưng mục đích chung vẫn là: “Đây có phải là một mối đe dọa cho thế giới quan của tôi không? Điều này có xác chứng thế giới quan của tôi không? Nó có tốt không? Nó có xấu không?”

Một lần nữa, đối với nhiều người thì đó là cách họ trải nghiệm cuộc sống. Họ trải nghiệm cuộc sống qua tâm họ, qua thế giới quan của họ, qua các ngã tách biệt đó. Và một lần nữa, nếu đó là trải nghiệm họ muốn thì tự thân nó không có gì sai trái. Là một học trò tâm linh, con cần đạt tới điểm trở nên tỉnh giác về điều này và con bắt đầu lượng định: “Tôi có muốn những chuyện này lấp đầy tâm tôi không? Bây giờ tôi nhìn ra là những chuyện này đã lấp đầy tâm tôi suốt đời rồi, nhưng tôi có muốn chúng tiếp tục lấp đầy tâm tôi cho phần đời còn lại hay tôi muốn vươn lên cao hơn?” Đó là khi con có thể bắt đầu sử dụng lời dạy để phơi bày các ngã tách biệt cứ không ngừng xét đoán và đánh giá.

Con cũng có thể bắt đầu ý thức được thế giới quan của con. Con thực sự nhìn thế giới và chỗ đứng của con trong thế giới như thế nào? Điều gì trong thế giới quan này cho con cảm nhận là mình có thể chịu được, đương đầu được với cuộc sống, mình có thể tồn tại và tiếp tục tồn tại trong thế giới hỗn loạn này? Xong con có thể nhận ra là cơ sở của tất cả những thứ đó chính là sự phán xét giá trị. Con nhìn vào một hiện tượng trong thế gian – có thể là chuyện vật lý, là tình cảm, tư tưởng hay ý niệm bản sắc của con – và con cứ luôn đánh giá: “Cái này có tốt không, xấu không, đúng không, sai không?” Rồi đến một điểm trên con đường dẫn tới quả vị Phật, con cần bắt đầu lượng định: “Đây có phải là cách duy nhất để nhìn cuộc sống hay không? Tôi có thể nào giải phóng tâm tôi khỏi sự đánh giá và phán xét không ngừng về mọi chuyện?”

15.9. Đau khổ là ở trong tâm

Thậm chí con có thể khởi sự đặt câu hỏi: “Đâu là nguyên nhân của đau khổ? Đó có phải là thế giới bên ngoài? Đau khổ có phải là hậu quả bắt buộc của việc tôi sống trong thế giới khủng khiếp này?” Xong con bắt đầu tự hỏi: “À, ngay lúc này đau khổ đang diễn ra ở đâu?” Con có thể ngộ ra đau khổ là một điều kiện diễn ra trong tâm con.

Phải, rất có thể là có một điều kiện bên ngoài. Có thể con đi xe đạp, bị ngã gãy chân khiến con đau đớn. Có một yếu tố vật lý trong sự kiện này, nhưng đau khổ thật sự xảy ra trong tâm con. Con có thể đã bước vào một tiến trình đánh giá: “Ồ, chuyện này lẽ ra không được xảy ra. Thật là vô lý bất công. Sao tôi quá ngu ngốc không chịu thận trọng. Tại cái anh kia ép tôi ra khỏi đường.” Tất cả những sự đánh giá như vậy bây giờ chiếm đóng tâm con. Đó chính là tiến trình diễn ra trong tâm con tạo ra đau khổ. Các sự kiện bên ngoài chỉ là sự kiện bên ngoài. Hiển nhiên bị gãy chân không có gì vui thú, nhưng đó vẫn là một sự kiện bên ngoài, trong khi việc đánh giá là tốt hay xấu, là vô lý hay bất cứ gì khác, diễn ra trong tâm con.

Cho dù điều kiện vật lý có là gì thì đau khổ vẫn diễn ra trong tâm con. Đau khổ khởi lên từ sự đánh giá không ngừng về đúng-sai, tốt-xấu, cái này đúng lý phải xảy ra nhưng không xảy ra, cái kia không được xảy ra nhưng lại xảy ra, tất cả những loại đánh giá như vậy. Đây là khi con có thể khởi sự phơi trần các ngã tách biệt, và khi con lần hồi nhìn thấy chúng hay để chúng chết đi thì đó là lúc con trải nghiệm một sự nối kết chặt chẽ hơn với tâm Phật. Bởi vì trong tâm Phật không hề có sự đánh giá và phán xét giá trị như vậy.

Đây là điều thày đã cố giải thích 2500 năm về trước qua khái niệm những cặp đôi, qua khái niệm khắc phục đau khổ, khắc phục dính mắc. Chính sự dính mắc của con với mọi chuyện khiến con đau khổ. Đó là sự dính mắc của con với quan điểm cho là có những điều nên xảy ra và những điều không nên xảy ra. Khi những điều con nghĩ không nên xảy ra lại xảy ra, con đau khổ. Khi những điều con muốn xảy ra lại không xảy ra, con đau khổ.

Con thường xuyên ở trong một trạng thái xao động, không hài lòng, không an bình vì con luôn luôn nhìn về tương lai, lo sợ chuyện xấu có thể xảy ra hay chuyện tốt có thể không xảy ra. Con bị căng thẳng liên tục. Nhưng con có thể đạt tới điểm có được những lần hé thoáng khi cái Ta Biết bước ra khỏi tâm vỏ ngoài và con trải nghiệm một sự nối kết với cái ta cao của con, và nhờ vậy con trải nghiệm an bình. Giờ đây con trải nghiệm điều này trực tiếp – không phải một khái niệm lý thuyết. Con đang trải nghiệm là có cái gì khác hơn trạng thái tâm bình thường của con, và cái khác hơn này là một trạng thái tâm an bình hơn. Và đó là khi con bắt đầu hỏi: “Tôi muốn gì? Tôi có muốn ở lại trong xao động này hay tôi muốn bước về phía an bình?” Để có thể bước về phía an bình, đúng vậy, con phải loại bỏ các ngã tách biệt kia đi, nhưng con cũng phải xem xét tổng quan của mình về thế giới và nói: “Có thật là mọi chuyện đều tách biệt hay không? Tôi có thật đang sống trong một thế giới được tạo thành từ những vật tách biệt, những sự việc tách biệt? Tôi có phải là một sinh thể tách biệt? Tôi có tách biệt khỏi tám tỷ người kia trên hành tinh? Tôi có phải là một hòn đảo ở trung tâm vũ trụ riêng của mình, hay là có gì khác?” Tất nhiên là có, và đó là tâm Phật, đó là giác ngộ.

15.10. Khái niệm giác ngộ

Giác ngộ có giai đoạn. Tất nhiên có một số người cho rằng đó là một trạng thái toàn hảo tuyệt đối, nhưng không phải vậy. Giác ngộ là khi con bắt đầu nhìn vượt khỏi ảo tưởng rằng thế giới có thể chia ra thành những vật tách biệt.

Con đang sống trong thời đại máy tính. Nhiều người trong các con có thể nhớ thời máy tính còn sơ khai và màn hình máy tính có những pixel trên đó mà con có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Con có thể thấy từng chấm vuông tạo nên hình ảnh trên màn hình. Nếu con nhìn lại một hình chụp của màn hình máy tính thời đó, và nếu con nhìn thật gần bằng kính lúp, con sẽ chỉ thấy toàn là những chấm vuông đơn lẻ với màu sắc khác nhau – chúng có hình dạng giống hệt nhau mà chỉ khác màu sắc. Về cơ bản chỉ có ba màu và con có thể thấy từng pixel riêng biệt. Điều này có nghĩa là con nhìn vào màn hình máy tính, và trên màn hình có thể có một tấm ảnh như một con hổ chẳng hạn, nhưng khi con nhìn đủ gần thì con chỉ thấy được những chấm vuông khác màu, và chỉ khi con lui về đủ xa thì đột nhiên nhãn quan của con xoay chuyển, con nay thấy được tấm ảnh và con nói: “Ồ, những chấm vuông này tạo thành một tấm ảnh, tấm ảnh này là một con hổ, và hổ là một con thú nguy hiểm có thể ăn thịt tôi.”

Đây là điều con bắt đàu nắm bắt khi con đạt đến các tầng cao hơn của tỉnh giác, cụ thể là chỉ ở một cấp độ nào đó, từ một nhãn quan nào đó, thì thế giới mới hiện ra như được tạo thành bởi những vật tách biệt. Chỉ ở một cấp độ nào đó thì việc sử dụng phán xét giá trị tốt-xấu, đúng-sai, mới xảy ra. Khi con tiến lại gần hơn, con thấy tất cả mọi hình tướng, tất cả mọi hình dạng trong thế gian đều được tạo thành bởi những cái chấm nhỏ đơn lẻ kia. Con có thể đi thêm một bước và nhận ra ngay cả những cái chấm đó cũng không thể xuất hiện nếu không có một màn hình, và do đó tất cả mọi hình dạng trong thế gian đều được làm bằng các đơn vị nhỏ hơn, xuống tận đến các hạt hạ nguyên và sóng năng lượng.

Tất cả chỉ có thể hiện ra vì có gì đó ở đằng sau khiến chúng hiện ra. Cái ở đằng sau những chấm trên màn hình máy tính là chính màn hình, cái ở đằng sau những chấm trên tờ giấy là chính tờ giấy, nhưng cái ở đằng sau những chấm tạo thành thế giới hình tướng là cái vô hình tướng, tức là Phật tánh. Phật tánh là cái vô hình tướng cho phép hình tướng khởi lên. Cái vô hình tướng có thể khoác vào hình tướng tạm thời, nhưng cái vô hình tướng thì không vì vậy mà thay đổi. Một lần nữa, thày đã dùng hình ảnh của một rạp chiếu phim nơi con phóng chiếu lên màn hình với các thể bản sắc, lý trí, và cảm xúc của con. Màn hình có thể trưng bày nhiều bộ phim khác nhau nhưng khi làm vậy, nó hề không thay đổi. Màn hình vẫn ở đó, nó vẫn trắng tinh, không phân biệt, không hình dạng. Cho dù Phật tánh có khoác vào hình tướng nào thì việc này không thay đổi Phật tánh. Hình tướng chỉ tạm thời. Còn Phật tánh thì thường hằng, vượt thời gian, luôn luôn có. Không bao giờ một hình tướng nào có thể thay đổi cái vô hình tướng.

Một hình tướng có thể thay đổi một hình tướng khác, nhưng không hình tướng nào có thể thay đổi cái vô hình tướng, và đây là điều – cụ thể rằng đằng sau mọi hình tướng là Phật tánh – con có khả năng hiểu được không chỉ một cách trí thức, mà cuối cùng trải nghiệm được bằng trực giác. Khi con bắt đầu trải nghiệm điều này qua trực giác, con đạt được một tầm nhìn hoàn toàn khác. Con thấy là toàn bộ sự đánh giá đúng-sai tốt-xấu kia chỉ có thể diễn ra trong tâm nhưng là tâm tách rời khỏi Phật tánh. Và hậu quả của sự đánh giá, sự căng thẳng không ngừng, sự phán xét không ngừng này, là điều giữ chặt cái Ta Biết tập trung vào tâm tách biệt, tập trung ở trong tâm tách biệt, và nhìn thế giới xuyên qua tâm tách biệt. Vì cái Ta Biết là một biểu hiện của Phật tánh vô hình tướng, cho nên nó có khả năng bước ra ngoài tâm có hình tướng để trải nghiệm bản tánh của nó. Đây là sự tỉnh giác cao hơn. Đây là ý nghĩa thật của chánh niệm tỉnh giác.

15.11. Những định nghĩa khác nhau về tỉnh giác

Bây giờ nếu con nhìn vào đạo Phật qua các thời đại, con sẽ thấy nhiều người, nhiều Phật tử, ngay cả các bậc gọi là học giả cao thâm, đã định nghĩa tỉnh giác theo nhiều cách khác nhau. Một số đã cố gắng định nghĩa là có những thứ con không được nghĩ tới và có những thứ con nên nghĩ tới, con nên chú tâm vào. Xong họ đã tạo ra một số hình thức thiền tập nhằm ngăn chặn một số ý tưởng và chú tâm vào một số ý tưởng khác.

Đây không phải là ý nghĩa nguyên thủy của tỉnh giác. Kỳ thực điều xảy ra là những vị đó đã dùng lời dạy của Phật để củng cố, hay thậm chí để tạo ra một ngã tách biệt mới. Họ lấy lời dạy của Phật, mà mục đích là để giải phóng họ khỏi tâm vỏ ngoài, tâm nhị nguyên, tâm tách biệt, và họ dùng lời dạy của Phật để tạo ra một ngã tách biệt giờ đây cảm thấy cao trội hơn những ai không chia sẻ thế giới quan của họ. Họ tạo ra một thế giới quan đặc thù mà họ tuyên bố là dựa trên giáo lý của Phật, nhưng kỳ thực được tạo ra từ tách biệt, qua đó họ nhìn giáo lý của Phật xuyên qua phin lọc tách biệt. Xong họ bóp méo lời dạy, biến nó thành một học thuyết hay một giáo điều, cùng với một thế giới quan rất cố định, khép kín và tuyệt đối.

Đâu là toàn bộ khái niệm Bát chánh đạo? Đó là chừng nào con còn ở trong hiện thân vật lý, con vẫn chưa đạt đến một mức tâm thức tối thượng nào đó. Như thày đã có nói, con sẽ còn một số ảo tưởng chừng nào con còn đầu thai trong cõi vật lý. Không thể nào khác được. Bước trên đường Bát chánh đạo là một tiến trình trọn đời, nhưng các vị ấy đã lấy lời dạy của Phật, hay đúng hơn phiên bản bóp méo của nó, và họ nói: “Đây, chúng tôi có thế giới quan tuyệt đối rồi. Chúng tôi là người đạo Phật. Chúng tôi biết rõ chuyện này. Chúng tôi đang tu theo các pháp tu này. Chúng tôi có khả năng ép tâm để nó không nghĩ về một số chuyện và ép tâm để nó chỉ chú tâm vào một số chuyện khác. Vì vậy chúng tôi tu rất cao. Chúng tôi đã giải thoát. Chúng tôi đã đạt đến một trạng thái tâm thức cao. Chúng tôi là người đặc biệt và chắc chắn đức Phật sẽ ban thưởng cho chúng tôi trong một tương lai sẽ đến.” Chánh niệm tỉnh giác không có nghĩa như vậy. Đây là đánh mất chánh niệm [mindlessness, trong nghĩa đen là đặc tính không có tâm] mặc dù tâm đầy ắp cái thế giới quan mà chính nó đã tạo ra. Tất cả chuyện này chỉ là ảo tưởng, một mạng lưới ảo tưởng khổng lồ, và đây là cốt lõi của tình trạng nan giải mà con phải đối mặt.

Nếu con xem câu chuyện đời thày, con sẽ thấy là sau khi nhập Niết bàn, thày đã suy ngẫm việc trở lại trái đất và giảng dạy. Thày đã đối mặt với ý nghĩ: “Nhưng bạn đã đạt đến một mức tâm thức rất cao, cao hơn hẳn, khác biệt hẳn với tâm thức của mọi người trên trái đất, cho nên sẽ chẳng có ai nắm bắt được lời giảng của bạn. Không ai sẽ hiểu được đâu.” Đó là một cám dỗ mà thày phải đối mặt, vượt qua. Và thày lượng định: “Quay trở lại có đáng công không? Sẽ có ai nắm bắt được không?” Điều đã khiến thày quay trở lại là thày nhận ra là thày đã nắm bắt được. Thày đã hiểu được. Thày đã nâng cao nhận biết của mình đến một mức nào đó, và như thày đã nói, khi con đạt được mức giác ngộ đó và quả vị Phật, thế giới quan của con dựa trên hợp nhất. Con không thấy mình là tách biệt với người khác, cho nên con không xem mình là đặc biệt. Con xem mình là một biểu hiện cá nhân của Phật tánh và mọi người khác cũng vậy, và một biểu hiện của Phật tánh thì không thể – tự thân nó và trong bản chất – cao trội hơn một biểu hiện khác của Phật tánh.

Khi con nhận ra điều này, con cũng nhận ra là vì mình đã có thể nâng cao tâm thức của mình thì mọi người cũng có khả năng làm y như vậy. Việc thày đã làm được có nghĩa là có những người khác cũng sẵn sàng và sẵn lòng, và vì vậy thày có thể cho họ một tấm gương. Thày có thể trao cho họ một số lời dạy, và đó là tại sao thày đã quyết định quay trở lại: “Một số người sẽ hiểu được.” Thày biết là đa số sẽ không hiểu được, và con có thể nhìn lại đạo Phật suốt 2500 năm qua, đã có nhiều môn phái khác nhau xuất hiện và đã có nhiều lý lẽ khác nhau về sự kiện họ có hiểu lời Phật dạy hay không. Con có thể thấy là đa số đã không hiểu nhưng vẫn có một số đã hiểu được, và trong thời đại hôm nay có nhiều người hơn có thể hiểu được, ngay cả khi họ không là Phật tử. Ngay cả khi họ đã lớn lên trong thế giới phương Tây không theo đạo Phật, họ vẫn có thể hiểu được vì các ý tưởng này mang tính phổ quát.

15.12. Thế nào là một lời dạy tâm linh chân chính?

Con thấy đây là một cái ngộ khác mà con đạt được trên đường tu. Con nhận ra là tất cả mọi tôn giáo và triết lý tâm linh khác nhau được tìm thấy trên trái đất đều khẳng định là mình nắm một chân lý cao trội nào đó. Hay nói đúng hơn, các tín đồ và giới tu sĩ của các tôn giáo này tuyên bố là họ nắm được một chân lý cao trội, nhưng nếu một giáo lý tâm linh có giá trị, có xác thực và phát xuất từ một nguồn cao hơn, thì giáo lý này sẽ chỉ ra là vượt khỏi tất cả những mối chia rẽ con chứng kiến trên trái đất, có một cái gì đó, có một mức nhận biết vượt khỏi tâm nhị nguyên, vượt khỏi sự phán xét giá trị và cảm nhận tách biệt.

Vượt lên trên tách biệt và chia rẽ là cái Một mà bất kỳ lời dạy tâm linh chân chính nào cũng chỉ về. Cho nên thật là vô nghĩa mà bảo: “Đây mới là giáo lý cao trội.” Bởi vì con người là những cá nhân, con không thể nào tạo ra một giáo lý tâm linh sẽ thích hợp cho mọi người trên địa cầu. Và điều này thật không quan trọng, con không cần tạo ra một giáo lý như vậy. Điều quan trọng là: “Liệu lời dạy cụ thể này có thể giúp ai đó thăng vượt tâm thức của họ để rốt cuộc thăng vượt tách biệt và nhị nguyên hay không?” Nếu vậy thì lời dạy hiệu nghiệm. Nếu không thì nó không hiệu nghiệm. Bất kỳ lời dạy nào được đưa ra với mục đích này cũng có thể bị tha hóa, sàng lọc bởi tâm tách biệt, cho nên người ta tạo ra phiên bản riêng của họ về lời dạy, và phiên bản này thì không nhằm giải thoát họ khỏi tâm vỏ ngoài, mà nhằm chứng thực thế giới quan của tâm vỏ ngoài, hay cung cấp cho tâm vỏ ngoài một thế giới quan sẽ khiến nó cảm thấy an toàn và cao trội.

Nếu con lấy một lời dạy tâm linh và dùng nó để cho con cảm giác cao trội do con nghĩ rằng con đã có lời dạy cao nhất có thể, rằng con đã có chân lý tuyệt đối, thì con chỉ chứng tỏ là con đã hoàn toàn hiểu lầm mục đích của lời dạy tâm linh đích thực. Mục đích của một lời dạy tâm linh là giải thoát con khỏi chính tâm con, tâm tách biệt. Nếu nó làm được việc này thì nó hiệu nghiệm. Nếu nó không làm được việc này thì nó không hiệu nghiệm. Nếu con dùng nó để tự giải thoát khỏi chính tâm mình thì con đang dùng nó theo cách cao nhất. Nếu con dùng nó để giam con chặt hơn vào chính tâm con – vì con tin chắc là mình có thế giới quan tuyệt đối, thế giới quan cao nhất có thể – thì con đã lạm dụng lời dạy.

Phật không bao giờ có ý định lập ra tôn giáo cao nhất trên trái đất. Các lời dạy của Phật có dụng ý để là một tiến trình giúp mọi người nâng cao tâm thức và thoát ra khỏi nhà tù của tâm mình. Nếu con biến lời dạy của Phật thành bất cứ gì khác thì con chứng tỏ là con không tỉnh giác [mindful] về lời dạy của Phật, vì tâm con đầy ắp [mind full] những tin tưởng khởi lên từ tâm tách biệt đang thấy nó tách biệt với Phật. Nó khởi lên từ ảo tưởng, và thay vì giải phóng con khỏi tấm màn của Maya, nó chỉ có thể giam con chặt hơn đằng sau tấm màn vì con nghĩ là thế giới quan của con không dựa trên ảo tưởng mà dựa trên một chân lý tối thượng nào đó.

Nói một cách thật đơn giản, tỉnh giác cao hơn là gì? Đó là sự nhận biết rằng mục đích của đường tu là để con giải thoát khỏi chính tâm con, giải thoát khỏi nội dung của tâm con. Có nghĩa chăng là con phải đạt tới điểm không còn nội dung nào nữa trong tâm? Đây không phải là điều thày đã nói. Nếu con chú ý những gì thày nói, thì thày đã nói là con tự giải phóng, con giải phóng tâm con khỏi các nội dung dựa trên tách biệt và nhị nguyên. Và khi con làm vậy, con tạo ra những nội dung khác dựa trên nối kết và hợp nhất. Khi thày trở lại giảng dạy, thày đã trở lại với tâm đã giải thoát khỏi nhị nguyên và tách biệt, nhưng nó vẫn có một tính cá biệt nào đó, nó vẫn có một thế giới quan nào đó, và nó thích nghi với nền văn hóa nơi thày hiện thân. Và tất nhiên là thày có những nội dung trong tâm.  

Thày không đồng hóa với các nội dung này. Thày biết là nội dung trong tâm chỉ đơn giản là dụng cụ để tương tác với thế giới vật chất, tương tác với người khác. Các nội dung này không quy định được thày. Chúng có thể được thay đổi. Chúng có thể khác đi. Chúng không phải là nội dung tuyệt đối nào đó của tâm. Con thấy đó, thày không đang yêu cầu con, ít ra ở một tầng nào đó trên đường tu, đạt tới điểm con không còn cá thể nào nữa, không còn cá tính nào nữa. Mà thày đang yêu cầu con sẵn lòng đạt tới điểm không còn một cá thể dựa trên ảo tưởng tách biệt, không cờn một cá tính dựa trên tách biệt và nhị nguyên khiến con xem mình đối lập với người khác. Con có khả năng xây dựng hay con có khả năng phát hiện – bởi vì có thể con đã xây dựng trong tiền kiếp rồi – cái cá tính và cá thể dựa trên cảm nhận nối kết, nối kết với cái ta cao của con, nối kết với một cõi cao hơn, nối kết với người khác, nối kết với thế giới vật lý. Khi đó, con sẽ có một cách hoàn toàn khác để tương tác với người khác, với thế giới vật lý, với cái ta cao của mình cũng như với cõi cao hơn.

Bấy giờ con sẽ có khả năng hành động dựa trên nối kết, và hệ quả tự nhiên sẽ là gì? Là thay vì con tìm cách nâng mình lên như một cá nhân tách biệt, con tìm cách nâng cả tổng thể vì con thấy mình là một phần của tổng thể đó, và vì vậy cách thức để con tự nâng mình lên chính là con nâng cao mọi sự sống. Và điểm này dẫn chúng ta đến chủ đề chót là chủ đề tập trung – con chú tâm vào điều gì – nhưng tất nhiên, đây sẽ là đề tài của bài giảng tới.

Thày vừa cho con một minh chứng về chánh niệm. Thày mong con đã có một trải nghiệm nào đó của một dạng tỉnh giác cao hơn. Tâm thày đầy ắp Phật tánh. Tâm con đầy ắp những gì?

11 | Sinh kế cao hơn là làm việc cho tổng thể

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 8 tháng 1, 2023. Bài này được trao truyền nhân Webinar Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Trong bước tiếp theo, chúng ta sẽ nói về khái niệm sinh kế cao hơn. Một lần nữa, xu hướng trong đạo Phật là tập trung vào từ “chánh” [như trong Chánh mạng] cho nên quy định là có những cách kiếm sống chân chính và những cách bất chính. Đối với nhiều Phật tử thuần thành, xu hướng này dẫn đến hậu quả là không có nhiều hình thức sinh nhai được xem là “chánh”, và điều này hạn chế khắt khe các chọn lựa trong việc tìm kế sinh nhai. Không những vậy, nó cũng hạn chế các chọn lựa trong việc hoàn thành Kế hoạch Trọn đời của mình.  

Bây giờ con hãy nhìn hành tinh này. Bước lùi lại và nhìn vào trái đất. Tình trạng con phải đối mặt trên hành tinh này thật vô cùng phức tạp. Khi con nhìn những gì xảy ra trên hành tinh, con thấy rõ là có rất nhiều hỗn loạn nhưng đồng thời cũng có một chiều hướng tiến triển nào đó. Khi con nhìn ngược về các thế kỷ trước, con thấy đã có một tiến bộ rõ rệt: tâm thức con người nâng lên, tính nhân bản cũng nâng lên, các nền dân chủ xuất hiện và mức sống cao hơn cho càng ngày càng nhiều người hơn. Rõ ràng có sự tiến triển trong xã hội, nhưng điều gì đã thúc đẩy tiến triển này? À, đó là sự kiện một số người đã có khả năng hòa điệu với một mức độ nhận biết vượt khỏi cái chúng ta có thể gọi là sự nhận biết bình thường của con người. 2500 năm về trước, thày đã gọi mức độ nhận biết đó là Phật tánh. Tất cả mọi thứ đều có Phật tánh ở bên trong và mỗi con người đều có tiềm năng đạt được mức nhận biết của Phật tánh.

Tiềm năng này mang hai khía cạnh. Một là con vươn lên trên toàn bộ nhân cách vỏ ngoài, nhân cách dựa trên tự ngã, là ý niệm cho rằng con là một sinh thể tách biệt, tách biệt khỏi người khác và thế giới nơi con sống. Cho nên con vươn lên đến tầng tâm thức nơi con trở thành một vị Phật vì con đã chứng tâm thức Phật. Đó là một khía cạnh. Khía cạnh kia như thày đã giải thích là cốt lõi bản thể con, cái Ta Biết, có khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm của con ít ra trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, và nhờ vậy bắt liên lạc với Phật tánh là mức nhận biết cao hơn đó. Khi con có khả năng bước ra ngoài, con có thể nhận được một ý tưởng, một sáng kiến về cách cải thiện một điều gì đó trên trái đất.

11.1. Có nhiều cơ hội để cải tiến

Con nhìn vào địa cầu, nhìn vào biết bao vấn đề, biết bao xung đột, biết bao hỗn loạn đang xảy ra, và con thấy không có một phần nào của cuộc sống hay của xã hội mà không thể được cải thiện. Trong mọi lãnh vực đời sống đều có cơ hội, có khoảng trống cho sự cải tiến. Cải tiến này xảy ra khi có những người tham gia vào lãnh vực đó của cuộc sống và có khả năng bước ra ngoài tình trạng vỏ ngoài, bước ra ngoài chính tâm họ, để nhận được một ý tưởng có thể cải thiện lãnh vực đó từ mức nhận biết cao, từ nhận biết của Phật, từ Phật tánh.

Sinh kế thực sự của con là gì? Khi con là một người tâm linh cởi mở với các giáo lý tâm linh, đâu là sinh kế thực sự của con? Đó là cải thiện một khía cạnh nào đó của cuộc sống, nâng cao một khía cạnh nào đó của cuộc sống. Có nghĩa là sẽ quá hời hợt nếu con nhìn vào đủ loại nghề nghiệp kiếm sống rồi bảo: “Ồ những loại nghề này một người tâm linh sẽ không nên làm. Chỉ có một số ít nghề nghiệp mà bạn có thể tham gia nếu bạn là người tâm linh.”

Một lần nữa, tất nhiên là chúng ta cần tìm một thế cân bằng tế nhị ở đây. Chắc chắn như một người tâm linh, con không muốn làm nghề buôn ma túy hay buôn người. Phật tánh không hề có mong muốn hoàn thiện việc buôn ma túy hay buôn người, vì các loại hoạt động này cần được bỏ lại đằng sau khi hành tinh hướng lên những mức nhận biết cao hơn. Con có thể nhìn lại lịch sử và nhận thấy nhiều hoạt động đã được bỏ lại, ít ra bởi nhiều người. Các khía cạnh hung bạo hơn đã được nhiều quốc gia bỏ lại đằng sau khi luật mới được ban hành hay xã hội được ổn định và con người nói chung không tìm cách hãm hại lẫn nhau. Rõ ràng đây là điều sẽ xảy ra khi hành tinh ngày càng bước vào một thời đại mang đặc tính nhận biết cao hơn so với quá khứ. Và khi tiến trình này trải bày, có những thứ sẽ được sa thải. Con người sẽ đạt tới điểm chúng dần dần biến mất.

Con có thể nhìn nạn buôn ma túy đang tràn lan khắp mọi nơi hôm nay và tự hỏi: “Ủa, cái gì làm động cơ cho nguyên chuyện buôn bán này?” Không phải là bọn tội phạm đâu mà là sự kiện có một thị trường cho ma túy. Có những người mua ma túy, nhưng tại sao họ lại mua ma túy? À, phần lớn là vì họ tìm sự khuây khỏa khỏi áp lực họ cảm thấy trong cuộc sống thường nhật – vì họ không biết và không bao giờ được dạy làm cách nào đối phó với chính tâm lý của họ, cũng như giải quyết các khía cạnh tâm lý đã khiến họ cảm thấy áp lực, khiến họ đi tìm một sự giải khuây tạm bợ qua ma túy, rượu hay nhiều loại sinh hoạt khác.

Khi tâm thức tập thể được nâng lên và sự nhận biết cũng cao hơn trong quần chúng về cách giải quyết tâm lý cá nhân và giải tỏa áp lực qua cách này, nhu cầu dùng ma túy sẽ giảm bớt cho nên nó sẽ dần dần biến mất. Khi không còn thị trường thì sẽ không còn buôn bán. Một điều tương tự tất nhiên cũng xảy ra với toàn bộ kỹ nghệ sản xuất vũ khí, hay tổ hợp công nghiệp quân sự như người ta thường gọi. Trái với những gì có vẻ đang xảy ra hiện nay, tới một điểm nào đó chiến tranh sẽ bắt đầu tàn lụi, và con người sẽ đơn giản không thể hiểu nổi tại sao chiến tranh lại cần tồn tại. Cho nên nhu cầu phát triển, chế tạo và buôn bán vũ khí cũng sẽ biến mất.

Điều này nghe như một giấc mơ không tưởng, nhưng thật không khó gì mà nhận ra là suốt các thế kỷ đã có một tiến bộ lần hồi, và tiến bộ này sẽ chỉ tiếp diễn, thậm chí còn gia tốc khi càng ngày càng có nhiều người bắt đầu giải quyết tâm lý cá nhân của mình và do đó cũng giải quyết các khía cạnh phá hoại chức năng của tâm thức tập thể. Không thể nào khác được.

11.2. Khi mọi thứ được tâm linh hóa

Vậy đối với con, một người tâm linh, kết luận là gì khi nói đến “chánh mạng” hay đúng hơn, “sinh kế cao hơn”? À, hiển nhiên là có một số hình thức kiếm sống mà con không muốn dự phần. Tuy nhiên, nhiều Phật tử lại suy luận rằng nếu con là một người thực sự tâm linh thì con không được làm kinh doanh. Chắc chắn có một số khía cạnh của thế giới kinh doanh cũng sẽ biến mất, nhưng không có nghĩa là kinh doanh sẽ biến mất. Sẽ vẫn có một thế giới kinh doanh.

Rất có thể là do kinh nghiệm trong các kiếp trước và sự quan tâm đặc biệt của con đến thế giới kinh doanh, con đã đặt vào Kế hoạch Trọn đời của mình việc tìm kiếm một vị thế trong thế giới kinh doanh và nhận được ý tưởng mới về những cách cải thiện thế giới này để giúp nó tiến tới. Liệu sẽ xây dựng lắm không nếu con lại lấy thái độ vỏ ngoài rất phổ biến trong các Phật tử và nhiều người tâm linh, bảo rằng: “Ồ không được, tôi không thể nào là người tâm linh mà lại đi làm kinh doanh”? Tất nhiên là không xây dựng. Con cần hòa điệu với những gì ở trong Kế hoạch Trọn đời của chính con và theo đuổi cái đó.

Nói chung, con có thể nói là con không thể đơn giản phân chia các loại hoạt động và bảo hình thức sinh sống này là sai, hình thức sinh sống kia là đúng. Điều gì sẽ xảy ra khi trái đất tiến vào thời đại nhận biết cao hơn? Điều sẽ xảy ra là với thời gian, tất cả mọi thứ sẽ được tâm linh hóa. Đâu là ý nghĩa thâm sâu trong câu nói rằng mọi thứ đều là Phật tánh? Ý nghĩa là con không thể quy định một sự phân biệt rõ rệt – mà rất nhiều người tâm linh đã quy định – giữa những việc tâm linh và những việc không tâm linh. Con cần nhận biết sâu sắc hơn và nhìn ra là theo một nghĩa nào đó, tất cả mọi thứ đều có tiềm năng là việc tâm linh, có tiềm năng được xem là việc làm tâm linh. Một lần nữa, đây là một trong những lời phát biểu đòi hỏi một chút phân biện.

Tất nhiên thật dễ mà bảo rằng: “Nhưng nếu mọi thứ đều có Phật tánh bên trong thì bạn có thể thấy được Phật tánh trong mọi hoạt động, cho nên bạn có thể là một kẻ buôn ma túy mà vẫn thấy Phật tánh trong việc buôn ma túy.” Khi con đạt đến một trình độ phân biện và nhận biết cao hơn, con hiểu ra là cho dù Phật tánh ở trong tất cả, điều này không có nghĩa mọi biểu hiện diễn ra là cao nhất có thể. Bởi vì Phật tánh là gì? Bảo rằng Phật tánh ở trong tất cả có nghĩa là gì? À, Phật tánh là một mức độ nhận biết. Thày đã có giảng điều gì? Có những sinh thể đã tạo hình tư tưởng từ một mức tâm thức cao hơn và đã phóng chiếu ra hành tinh địa cầu. Sau đó những con người đã được gửi vào hiện thân để khoác lấy không chỉ một cơ thể vật lý mà cả cảm thể, trí thể lẫn bản sắc thể, và họ là những kẻ đồng-sáng tạo trên địa cầu.

Ở nguyên thủy, trái đất ở trong một trạng thái thuần khiết hơn hiện nay, và từ trạng thái nguyên thủy này nhân loại đã kéo thấp trái đất xuống trong một thời gian dài. Đó là tại sao ngày nay sự đau khổ là trải nghiệm phổ thông nhất trong cuộc sống và con người bị chìm đắm trong Biển Luân hồi. Tình trạng này đã không do một Thượng đế toàn năng nào tạo ra hay do các sinh thể có nhận biết cao hơn tạo ra. Tại sao các sinh thể nhận biết cao hơn lại tạo ra đau khổ làm gì? Chính con người đã tạo ra các điều kiện hiện thời trên trái đất cùng sự đau khổ, hỗn loạn và điên đảo hiện thời. Họ đã làm thế nào? Như thày đã giải thích, bằng cách hình thành những tâm ảnh trong các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc rồi phóng chiếu chúng lên năng lượng cơ bản cấu tạo thế giới vật chất nơi họ sống.

11.3. Con người đã tạo ra Biển Luân hồi

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là bất kỳ biểu hiện nào con nhìn thấy trên trái đất đều khởi đầu trong tâm thức. Trên cơ bản, đây là điều thày đã giảng dạy 2500 năm về trước: tất cả đều là tâm thức, tất cả đều là biểu hiện của tâm thức. Nói cho cùng, đây cũng là ý nghĩa của câu nói “Phật tánh ở trong tất cả”, vì Phật tánh chính là tâm thức, một dạng tâm thức. Đặc điểm của Phật tánh là nó nhận biết tất cả, nó nhận biết được tổng thể. Phật tánh là sự nhận biết về tổng thể.

Khổ đau và điên đảo hiện thời trên trái đất được tạo ra như thế nào? Nó không được tạo ra từ sự nhận biết về tổng thể, mà như thày đã giải thích, nó được tạo ra từ sự nhận biết – hay đúng hơn từ ảo tưởng – rằng con người là những sinh thể tách biệt. Nhưng con đã không được sinh tạo là sinh thể tách biệt. Qua các chọn lựa con đã chọn trong quá khứ, con đã bước vào tâm thức tách biệt này và sử dụng các đối cực nhị nguyên – các cặp đôi – để biện mình cho chọn lựa của con, để dựng lên những tâm ảnh về cách vận hành của thế giới, về con người mà con là trong tương quan với thế giới, và con có quyền làm một số chuyện như một sinh thể tách biệt bất chấp hậu quả cho người khác. Hay nói cách khác, đã có một thời điểm khi loài người biến đổi, quên mất mình là những sinh thể nối kết, quên mất “lý duyên khởi” vốn nhìn mọi chuyện đều ảnh hưởng đến mọi chuyện khác. Họ bước vào trạng thái ảo tưởng cho rằng: “Ừ, tôi là một sinh thể tách biệt và tôi có quyền làm bất cứ gì tôi muốn như một sinh thể tách biệt mà không cần xét đến hậu quả đối với tổng thể.”

Đây chính là tâm thức đã tạo ra Biển Luân hồi, tạo ra tình trạng hầu hết mọi người đều kinh nghiệm cuộc sống là đau khổ. Có bảy tỷ người trên hành tinh xem mình là sinh thể tách biệt và vì vậy họ phải tranh đấu chống lại bảy tỷ người còn lại. Đây là Biển Luân hồi. Con có thể nhìn lại một số hoạt động và con có thể nói: “Đúng vậy, các hoạt động này mang Phật tánh bên trong, vì nói cho cùng thì chúng được tạo ra từ tâm Một, từ tâm Phật duy nhất, từ tâm thức duy nhất. Nhưng chúng không được tạo ra với một nhận biết về tổng thể, là điều Phật tánh nhận biết. Chúng được tạo ra từ tách biệt.”

Cho nên con có thể nói là có những hoạt động trên địa cầu hoàn toàn dựa trên nhận biết tách biệt không đếm xỉa gì tới tổng thể, tới người khác, tới hậu quả gây ra. Thậm chí cũng không đếm xỉa gì tới chính những người ở trong tâm thái đó, họ bị tác động thế nào, họ đang tạo ra loại nghiệp quả gì, và những kiếp tới của họ sẽ bị ảnh hưởng ra sao cho dù họ có thể trốn tránh hậu quả trong kiếp này.

11.4. Nhận biết về tổng thể hay nhận biết về tách biệt

Đó chính là một sự lượng định mà con có thể áp dụng cho mọi hoạt động con người, chắc chắn cho kế sinh nhai. Liệu hoạt động có dựa trên sự nhận biết về tổng thể hay sự nhận biết về tách biệt? Cho nên con có thể thấy có những hoạt động tác hại hơn những hoạt động khác cho sự sống nói chung. Tất nhiên con có thể đi vào thế giới kinh doanh hiện nay chẳng hạn, và bảo rằng thế giới kinh doanh ở mọi quốc gia đều bị khống chế bởi một thiểu số thượng tôn quyền lực kẹt cứng trong tâm thức tách biệt. Những người này tin như đinh đóng cột họ là một tầng lớp ưu tú và họ có quyền – một quyền hạn do Thượng đế ban bố hay do luật tiến hóa trao cho họ vì họ là những kẻ mạnh nhất, thích nghi nhất để nắm trùm thế giới kinh doanh – đến độ họ có thể xây dựng những tài sản khổng lồ cho riêng họ, nhiều tiền hơn là họ có thể cần đến, bằng cách lạm dụng sức lao động của người khác. Con có thể thấy vậy và nói: “Đấy, chắc chắn thế giới kinh doanh bị tâm thức tách biệt áp đảo cho nên nếu tôi là một người tâm linh, tôi không nên dự phần vào đó.”

Như thày vừa nói, có một số nghề như buôn ma túy hay sản xuất vũ khí sẽ dần dần biến mất vì chúng chỉ có thể làm hại con người, nhưng thế giới kinh doanh sẽ không biến mất vì trong kinh doanh có những khía cạnh mang tính xây dựng. Không có vấn đề kinh doanh biến mất khi địa cầu nâng lên cao hơn. Điều sẽ xảy ra là một khi ý niệm tổng thể được nhận thức rõ hơn thì kinh doanh cũng được nâng lên một cấp độ hơn hẳn. Điều này đang bắt đầu xảy ra rồi đó vì có những người đã nhận thức được rồi. Có những người tiêu dùng đã nhận thức được và họ không ủng hộ một số doanh nghiệp, hay thậm chí không mua sản phẩm từ một số quốc gia có nhận biết thấp hơn.

Đây là điều con có thể áp dụng khi con xem xét đâu là sinh kế cao nhất cho con như một người tâm linh. Con không dùng tâm vỏ ngoài mà nói: “Ồ, tôi sẽ không tham gia vào lãnh vực này,” mà con dùng trực giác để hòa điệu với kế hoạch mình đã lập ra trước khi đầu thai, cho nên con nói: “À, đây là sự lượng định tôi sẽ cân nhắc. Đây là một điều quan trọng để tôi xem xét. Chỗ nào là chỗ tôi có thể phụng sự để đem lại cải tiến trong lãnh vực này?” Tất nhiên đây không chỉ là vấn đề kinh doanh mà còn có thể là chính trị, là hành chánh, là giáo dục, rất nhiều khía cạnh khác của cuộc sống. Nói chung, những khía cạnh này của cuộc sống không hoàn toàn nguy hại, chúng có nhiều khoảng trống cho sự cải tiến, và chúng sẽ chỉ được cải tiến khi có người dấn thân vào lãnh vực đó.

Con có thể nói là đối với một người tâm linh, việc kiếm tiền không phải là quan tâm hàng đầu, mà quan tâm hàng đầu của con là phụng sự bằng cách cải thiện một khía cạnh nào đó của cuộc sống và xã hội. Đây là một điểm để cân nhắc. Kế hoạch Trọn đời của con có gì trong đó?

11.5. Giấc mơ kiếm tiền dễ dàng

Khái niệm về sinh kế có thể được đưa lên một cấp độ khác nữa. Hầu hết mọi người khi họ nghĩ đến sinh kế đều cho rằng sinh kế có nghĩa là kiếm tiền. Con phải đi làm, phải lập doanh nghiệp vì con phải có đủ tiền sống. Điều này đã khiến cho nhiều người tâm linh có những loại giấc mơ gọi là mưu kế làm giàu chớp nhoáng. Họ hy vọng tìm ra cách kiếm một số tiền kếch sù để họ có đủ tiền sống suốt đời, không phải lo lắng tiền bạc gì nữa hầu tập trung vào việc đeo đuổi tâm linh.

Có rất rất nhiều người tâm linh như thày vừa trình bày, có đặt vào Kế hoạch Trọn đời là mình sẽ tham gia vào một lãnh vực nào đó. Mục đích là để con ở trong lãnh vực này và đem lại một số cải thiện, thậm chí chỉ do sự có mặt của con và một mức tâm thức cao hơn mà con có thể kéo người khác trong lãnh vực đi lên. Kế hoạch Trọn đời của con không có việc làm giàu chớp nhoáng để sau đó con rút lui khỏi xã hội và tập trung vào những đeo đuổi tâm linh mà con nhìn thấy.

Kế hoạch Trọn đời của con là dấn thân vào xã hội và tiếp tục đem lại cải tiến. Đây không phải là trường hợp của mọi người nhưng chắc chắn là của đại đa số. Con có thể buông giấc mơ làm giàu nhanh chóng này đi, giấc mơ tìm ra một con đường tắt. Việc con buông giấc mơ này thật quan trọng vì mơ ước của lớp thượng tôn quyền lực kinh tế là gì chứ? Chúng mơ ước đúng chuyện đó: một con đường tắt để làm giàu. Nhiều người trong số họ đã tìm ra đường tắt này nhưng chỉ bằng một cách thôi, là lạm dụng người khác, đánh cắp sức lao động của người khác. Đây là cách duy nhất để đi đường tắt.

Nếu con là một người tâm linh và con mơ làm tiền theo cách này thì nó không ăn khớp với sự thăng tiến tâm linh của con. Có những người tâm linh mơ làm vậy đã bỏ ra hàng năm trời hay hàng chục năm trời để đeo đuổi việc này, nghĩ rằng: “Khi nào tôi đủ tiền, tôi sẽ có thể tập trung vào chuyện tìm đạo.” Nhưng điều xây dựng hơn rất nhiều là con làm việc trong một việc làm bình thường, từ từ kiếm đủ tiền rồi nhìn ra là việc mình tham gia vào xã hội là một phần trong bước tăng triển tâm linh của mình, là một phần trong đeo đuổi tâm linh của mình. Đừng nên tách rời các hoạt động tâm linh với các hoạt động thế tục mà bảo: “Ồ, nếu tôi có một việc làm tầm thường thì tôi không thể tâm linh, thật chẳng có gì tâm linh trong đó.” Tất cả mọi thứ đều có thể trở thành một phần của đường tu khi con dùng nó như một phần của đường tu.

11.6. Sinh kế và năng lượng

Bây giờ chúng ta hãy bước thêm một bước cao hơn. Sinh kế là gì? À, hầu hết mọi người sẽ trả lời sinh kế là việc kiếm tiền, nhưng liệu tiền bạc có phải là tài nguyên thực trên trái đất hay không? Thày đã nói gì chứ? Mọi thứ đều là năng lượng. Tài nguyên thực của thế giới không phải là tiền bạc mà là năng lượng. Nhưng này con, thày cũng có nói thế giới được sinh tạo là vì có một tầng cõi với nguồn năng lượng bất tận vượt quá vũ trụ vật chất. Một phần năng lượng này chảy xuống, hay được hạ xuống phổ tần số cấu tạo vũ trụ vật chất. Thày đã nói là có một dòng năng lượng liên tục từ ngoài vũ trụ vật chất chảy xuống vũ trụ vật chất.

Sự kiện này có thể được chứng minh bởi khoa học. Khoa học đã phát hiện là vũ trụ không chỉ đang giãn nở mà sự giãn nở của vũ trụ đang gia tốc. Nhưng đấy, mọi thứ đều là năng lượng. Bất kỳ thay đổi nào cũng chỉ có thể xảy ra do năng lượng thúc đẩy. Nếu vũ trụ giãn nở thì phải cần nhiều năng lượng hơn để giãn nở. Một trạng thái thấp hơn chỉ có thể bước lên một trạng thái cao hơn bằng cách bổ sung thêm năng lượng. Phải có năng lượng làm động cơ cho sự giãn nở. Cho nên nếu vũ trụ đang giãn nở và càng ngày càng giãn nở nhanh hơn, và nếu vũ trụ đã làm vậy từ thuở các nhà khoa học gọi là Big Bang (vụ Nổ Lớn), thì nhất định phải có năng lượng đi vào vũ trụ vật chất từ một nguồn bên ngoài, nếu không thì giản nở không thể xảy ra.

Con hãy bước ra ngoài nhìn lên bầu trời đêm, ngắm nhìn tất cả những vì sao cùng dải thiên hà và con có thể thầm nhủ: “Nguyên cái này không thể nào hiện hữu nếu chỉ có một khối năng lượng cố định trong vũ trụ. Nó sẽ chẳng bao giờ sinh ra được.” Tài nguyên thực không chỉ là năng lượng mà là năng lượng đi vào vũ trụ vật chất từ một cõi cao hơn. Như thày đã nói, tâm con có tiềm năng trở thành một cửa vào cho năng lượng đó.

Con thử nhìn các nhà tỷ phú mà xem, họ đã gom góp những số tiền vĩ đại và con có thể nghĩ là nếu ai đó có hàng tỷ đô-la, chắc họ phải cảm thấy thật an bình: “Bây giờ tôi có dư tiền để chăm lo bản thân tôi và gia đình tôi cho đến mãn kiếp. Tôi cần thêm tiền nữa để làm gì?” Nhưng đối với hầu hết những người đó, chuyện này không xảy ra. Tiền của họ không bao giờ đủ. Họ luôn luôn muốn nhiều hơn, vì nếu như có ai lấy mất thì sao? Cho nên không có chuyện có tiền rồi cảm thấy an bình. Điều sẽ khiến con an bình như một người tâm linh là con có đủ năng lượng. Không theo nghĩa là con có một lượng năng lượng cố định, mà theo nghĩa con đã thiết lập một sự nối kết ý thức với cái ta cao của con, và qua nối kết này năng lượng có thể liên tục chảy xuống từ cái ta cao vào bốn thể phàm của con. Đây chính là yếu tố sẽ cho con năng lượng sáng tạo, khả năng tạo ra điều gì đó, thị hiện điều gì đó, nhưng nó cũng sẽ khiến con cảm thấy trọn vẹn, viên mãn, an bình.

11.7. Tự ngã sẽ không bao giờ có đủ

Thày vừa nói điều đã xảy ra cho hầu hết mọi người là gì? Con đã bước vào tâm thức tách biệt đó. Con xem mình là một sinh thể tách biệt. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là con đánh mất sự kết nối với cái ta cao của con. Nhiều người đã phóng chiếu hình ảnh là trong quá khứ xa xôi, con người đã sống trong một thiên đàng, thế rồi họ đã làm điều gì đó khiến cho Thượng đế tức giận và ngài đã trục xuất họ ra khỏi thiên đàng. Thượng đế bỏ rơi họ. Đấy, một khi con bước vào tâm thức tách biệt và tạo ra ngã tách biệt đó – nhân cách tự ngã đó, tự ngã đó là một ngã tách biệt và tự xem nó là tách biệt – thì con sẽ cảm thấy bị bỏ rơi. Con sẽ cảm thấy lẻ loi. Nếu con tin là có một Thượng đế đã ép buộc con vào trạng thái này thì con sẽ cảm thấy là Thượng đế này đã bỏ rơi con, nhưng thực tế không phải vậy.

Sự bỏ rơi diễn ra trong tâm con. Không có bỏ rơi thực sự. Con nối kết với cái ta cao, thật ra con là một biểu hiện của cái ta cao của con. Cái ta, cái Ta Biết, cốt lõi của bản thể con, là một phần nối dài của cái ta cao được gửi vào thế gian này vì cái ta cao không thể bước xuống thế gian một cách trực tiếp. Cái ta cao mong muốn trải nghiệm thế giới này và nó đã gửi cái Ta Biết vào thế giới như một phần nối dài của nó, để trải nghiệm thế giới từ bên trong. Con không bao giờ có thể cắt đứt sự nối kết đó nhưng con có thể che phủ nó bằng các khía cạnh dựa trên tự ngã trong các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con. Cho nên con cảm thấy bị bỏ rơi, con cảm thấy cô đơn, con cảm thấy thiếu sót và không trọn vẹn. Đó chính là tại sao con cảm thấy nghèo nàn túng thiếu, tại sao con nghĩ con cần đến một cái gì bên ngoài chính mình để lấp đầy khoảng trống, lấp đầy lỗ hổng mà con mang bên trong.

Tự ngã sẽ luôn luôn có một lỗ hổng bên trong nó, nhưng đó là một lỗ hổng không thể nào lấp đầy. Tự ngã được tạo ra trong thế gian, cho nên nó chỉ biết nghĩ ra một cách duy nhất để khắc phục cảm giác trống trải và nỗi khổ thiếu hụt là đạt được một thứ gì đó từ thế gian. Tiền bạc là một trong những thứ này, nhưng còn nhiều thứ khác nữa. Tự ngã không ngừng đuổi theo ngày càng nhiều thứ của thế gian vì nó tưởng là nó sẽ cảm thấy trọn vẹn khi nó có đủ, nhưng điều này không bao giờ xảy ra. Tự ngã sẽ không bao giờ cảm thấy trọn vẹn.

Nhưng cái ta mà con là có thể đạt tới điểm nó cảm thấy trọn vẹn trong thế gian, nhưng chỉ khi nào con không bị mù quáng bởi các ảo tưởng của Maya cấu tạo tự ngã. Con phải loại bỏ các ảo tưởng này một cách có hệ thống khỏi các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con, và một khi con làm vậy, con sẽ thiết lập một sự nối kết ý thức càng ngày càng chặt chẽ với cái ta cao. Con sẽ cảm nhận được dòng chảy năng lượng, là năng lượng dựa trên tình thương liên tục chảy xuống từ cái ta cao vào tâm con. Đây mới là điều khiến con cảm thấy trọn vẹn, viên mãn.

Cho nên cái hiểu đích thực về sinh kế cao hơn là con làm tất cả những gì có thể để tái lập sự kết nối với cái ta cao hầu con đạt tới điểm cảm thấy mình trọn vẹn và viên mãn trong bản thân mình. Nói cách khác, con không cần bất cứ gì từ thế giới này để cảm thấy trọn vẹn. Con vẫn có thể mong muốn có một số thứ, trải nghiệm một số thứ của thế gian, nhưng con không bị điều khiển bởi nhu cầu ám ảnh cưỡng chế muốn đạt được gì đó từ thế gian để lấp đầy lỗ hổng. Vì con đã bước ra ngoài tự ngã cho nên con không trải nghiệm thế gian qua tự ngã, và vì vậy con không cảm thấy lỗ hổng. Thay vào đó, con trải nghiệm sự nối kết với cái ta cao, dòng tình thương chảy xuống từ cái ta cao, và điều này khiến con tràn đầy bên trong. Tất nhiên con vẫn có thể còn một số khía cạnh của tự ngã, một số những cái ngã – nếu có thể gọi như vậy – có mặt trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, và con có thể tạm thời bước vào chúng và bị chúng khống chế. Nhưng con có khả năng lại bước ra ngoài chúng, kết nối lại với cái ta cao và lại trải nghiệm sự trọn vẹn.

11.8. Tăng dòng chảy năng lượng

Rõ ràng là trên đường tu có nhiều bước, cho nên sẽ tới một điểm con bắt đầu có những hé thoáng nối kết với cái ta cao, con bắt đầu có những cái mà nhiều người gọi là trải nghiệm thần bí. Sau đó con lại trở về nhận biết bình thường của mình, lại bị nhuộm màu bởi tự ngã đang đồng hóa với những cái ngã kia và con lại phản ứng theo chúng. Nhưng một khi con đã trải nghiệm được sự nối kết với cái ta cao, con có thể sử dụng trải nghiệm này để bước ra ngoài sự đồng hóa với nhân cách vỏ ngoài và thiết lập thêm nối kết. Dần dần với thời gian, càng ngày con càng nối kết nhiều hơn và những trường hợp bị ngã vỏ ngoài, nhân cách vỏ ngoài, áp đảo ngày càng hiếm hoi. Con càng nối kết và trọn vẹn lâu hơn, thường xuyên hơn. Đây là ý nghĩa tối hậu của Chánh mạng.

Chánh mạng cũng liên quan đến lượng năng lượng chảy vào tâm con từ cái ta cao, và điều này tùy thuộc vào hai yếu tố. Đầu tiên phải có một sự nối kết rộng mở hơn. Như thày đã giải thích, có nghĩa là con biến hóa năng lượng trong ba thể cao của con đang ngăn chặn sự nối kết, con gỡ bỏ các tin tưởng hư giả hầu con làm sạch các thể cảm xúc, lý trí, bản sắc. Khi có nhiều khoảng trống hơn thì nhiều năng lượng hơn sẽ chảy xuống.  

Kỳ thực con có thể thỉnh năng lượng chảy vào các thể phàm của con, và con có thể làm vậy qua nhiều kỹ thuật khác nhau, kể cả việc tụng niệm như trong đạo Phật, hay nhiều bài chú, bài thỉnh là kỹ thuật hiện đại hơn được trao cho con người trong thế giới ngày nay. Điều này đòi hỏi con phần nào cởi mở với một cách nhìn mới khi con nhận ra là kỳ thực có nhiều sinh thể hiện hữu nơi tầng cõi vượt khỏi vũ trụ vật chất. Qua việc thỉnh gọi các sinh thể này, con có thể thỉnh những năng lượng đặc thù mà các vị đó biểu tượng.

Trong nhiều giáo lý tâm linh đã có khái niệm là có bảy loại năng lượng chính mà con có thể thỉnh, có khi được gọi là các tia sáng tâm linh. Có những vị chân sư đặc thù đảm nhiệm việc rải truyền các năng lượng này đến trái đất. Khi con thỉnh cầu các chân sư đó, con có thể gia tăng dòng chảy năng lượng xuyên qua bản thể con vào trường năng lượng của con, được thể hiện xuyên qua những điểm mà nhiều giáo lý tâm linh gọi là luân xa (chakra) tức là những trung tâm năng lượng trong năng trường của con.

Qua việc gia tăng nhận biết này, con có thể gia tăng dòng chảy đó, gia tăng lưu lượng. Tuy nhiên có một mặt khác nữa là con cũng hiểu được ý nghĩa truyện ngụ ngôn của Giê-su về ba người đầy tớ. Truyện kể có chủ nhà kia đi xa, ông trao cho ba người những lượng ta-lăng – hay vốn liếng – khác nhau. Khi trở về, ông hỏi họ đã làm gì với các ta-lăng. Hai người đã nhân ta-lăng lên gấp bội, còn một người thì chôn ta-lăng dưới đất để khỏi đánh mất. Hai người đã nhân ta-lăng lên được chủ tưởng thưởng. Câu chuyện chỉ ra cho con thấy một nguyên lý chung là khi con lấy năng lượng mà con đã nhận được từ một nguồn cao hơn rồi sử dụng để nâng cao cả tổng thể, để phụng sự những phần khác của sự sống và đem lại sự cải thiện ở đâu đó, thì những gì con đã dùng sẽ được nhân lên. Như thày đã giải thích, cho dù con có làm gì thì con cũng gửi ra ngoài một xung lực năng lượng luân lưu qua bốn tầng của vũ trụ vật chất, nhưng nếu xung lực này dựa trên tình thương, nó sẽ vượt quá vũ trụ vật chất, nó được nhân lên và con sẽ nhận lại nhiều năng lượng hơn so với những gì con đã gửi ra ban đầu.

Điều này có nghĩa là giờ đây đời con trở thành một vòng xoáy ốc hướng thượng, qua đó con dùng năng lượng với một sự nhận biết về tổng thể, con nỗ lực nâng cao một khía cạnh nào đó của tổng thể, với kết quả là con nhận thêm nhiều năng lượng sáng tạo hơn nữa để con lại có thể phụng sự nhiều hơn, và chu kỳ này cứ thế tăng lên suốt đời con. Con có thể nói việc xây dựng vòng xoắn ốc năng lượng tuần tự này là hình thức sinh kế tối hậu. Nó có thể biểu hiện qua nhiều loại hoạt động, nhiều công trình khác nhau trong đời sống, qua đó con dùng năng lượng sáng tạo này cùng nhận biết cao hơn của con, cảm nhận nối kết của con để đem lại cải tiến. Thật rõ ràng là nếu con làm vậy, con sẽ nhận được phần thưởng tương ứng. 

11.9. Làm việc để nâng cao tổng thể

Một lần nữa con thấy có những người tâm linh tìm thấy một giáo lý tâm linh nhưng lại nhìn giáo lý tâm linh qua phin lọc của ngã tách biệt. Trong cốt yếu, họ nói: “Làm thế nào tôi có thể dùng giáo lý này để tạo lợi thế cho ngã tách biệt? Chẳng hạn làm thế nào tôi dùng nó để cảm thấy an toàn, yên ổn? Hay làm thế nào tôi dùng nó để cảm thấy sung sướng hơn người khác?” và đó là loại mong muốn của ngã tách biệt. Con đang cố nâng mình lên cao hơn người khác, thậm chí có lẽ con còn dìm người khác xuống. À, chuyện này sẽ không giúp con khắc phục ảo tưởng tách biệt, phải không con? Con càng dùng giáo lý tâm linh để khiến con cảm thấy mình đặc biệt so với người khác thì con sẽ càng củng cố cho ngã tách biệt cùng ảo tưởng con là một sinh thể tách biệt.

Đâu là mục đích của giáo lý của Phật và con đường Bát chánh đạo? Đó là để khắc phục chính ảo tưởng đó. Chỉ bằng cách chất vấn ảo tưởng, tách rời cái Ta Biết ra khỏi ngã vỏ ngoài, thì con mới có thể nối kết với Phật tánh và nhờ vậy bước vào vòng xoắn ốc hướng thượng nơi con dần dần ngừng đồng hóa với ngã vỏ ngoài, và thay vào đó con đồng hóa với cái ta cao là sự biểu hiện của Phật tánh. Con trở nên nối kết trước tiên với cái ta cao trong chính con, và xuyên qua nối kết này, con nối kết với mọi người khác, với môi trường, với mọi sự sống. Con bắt đầu hành động dựa trên sự nhận biết về tổng thể và đây chính là Phật tánh.

Đây là sinh kế tối hậu. Con không chú tâm vào tiền bạc, con không chú tâm vào chuyện đánh giá xem hình thức nghề nghiệp nào là ổn thỏa cho một người tâm linh. Mà con chú tâm vào: “Đâu là nơi tôi có thể đem lại sự cải thiện? Đâu là nơi tôi có thể phụng sự tổng thể?” Khi con tập trung vào đó, những đại lộ mới sẽ mở ra mà rất có thể ngày hôm nay con không thể tưởng tượng nổi. Khi con nâng cao nhận biết, con nhìn ra cơ hội mới và con trực nhận đây là hướng đi đúng đắn. Đời con trở thành một vòng xoắn ốc phụng sự cứ lên cao hơn mãi, trong khi con vẫn có đầy đủ phương tiện để chăm sóc cơ thể vật lý của con, gia đình của con lẫn những trách nhiệm khác.

Con không thể chỉ quyết định bằng tâm vỏ ngoài. Qua trực giác con phải hòa điệu với cái ta cao của con, với Kế hoạch Trọn đời của con và luôn luôn nỗ lực vượt xa hơn tâm vỏ ngoài chỉ biết xem nó là một sinh thể tách biệt trong một thế giới có nhiều sinh thể tách biệt khác. Con nỗ lực vượt ra khỏi Biển Luân hồi cho nên con an bình. Đây là Sinh kế Cao hơn.

17 | Con chú tâm vào điều gì?

Bài giảng của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Chúng ta đang đi đến giai đoạn cuối của Bát chánh đạo, đây là giai đoạn tập trung, mà có lẽ tốt hơn nên dịch là chú tâm. Con chú tâm vào điều gì? Thày đã nói điều vô cùng quan trọng là con cần nhận ra Bát chánh đạo – con đường tâm linh, con đường dẫn đến các tầng nhận biết cao hơn – có nhiều giai đoạn.

Con tới điểm tìm thấy một giáo lý tâm linh vỏ ngoài. Ở đây không có sự đánh giá là con đang ở mức nào khi con tìm thấy giáo lý. Suốt các thời đại, nhiều người đã đánh giá như vậy và nói: “Đây là một giáo lý sao có vẻ quá tuyệt hảo, nó tự cho là cao siêu, đặc biệt, và vì tôi đã tìm ra cho nên phải có nghĩa tôi cũng là một đệ tử tuyệt xảo.” Điều này không nhất thiết là đúng, và cũng không nhất thiết là sai, nhưng con cần nhận ra một điều, đó là con đang sống trong một thời đại mà thông tin lan truyền dễ dàng hơn bao giờ hết.

Có trang mạng, có sách, cho nên người ta có thể tình cờ bắt gặp một giáo lý tâm linh ngay cả khi họ chưa sẵn sàng nhận giáo lý này, hay họ chưa đạt được một mức tâm thức nào đó trong giai đoạn đi từ những mức nhận biết thấp hơn lên những mức cao hơn. Thày nói điều này không có ý chê trách. Thật không xây dựng mà áp đặt nhận định này lên mức tâm thức của con lúc con tìm ra một giáo lý tâm linh. Điều quan trọng con cần nhận ra là khi con tìm thấy đường tu thì con đang ở một mức tâm thức nào đó, và mức tâm thức này sẽ pha màu và ảnh hưởng cách con tiếp cận đường tu. Hay nói cách khác, thật khó lập ra một phương pháp chuẩn mực hay một quy trình chuẩn mực mà tất cả mọi người phải theo khi họ tìm ra một giáo lý tâm linh. Mỗi người cần khởi sự ở mức tâm thức mà họ đang có, và họ không thể làm gì khác được. Khi tìm ra một giáo lý, nhiều người cần đi qua một giai đoạn, có lẽ một giai đoạn khá dài, sử dụng giáo lý để củng cố thế giới quan hiện hữu của mình hay để xây dựng một thế giới quan mới dựa trên giáo lý. Thế giới quan này có căn bản là quan điểm tách biệt và mong muốn nâng mình lên cho có vẻ cao trội, hay khiến mình cảm thấy an toàn do mình đang đi theo giáo lý. 

Cũng có nhiều người cần cảm thấy: “Vì tôi theo giáo lý tâm linh này cho nên thế nào tôi cũng sẽ được cứu rỗi, thế nào tôi cũng sẽ giác ngộ.” Cảm giác này khiến họ dễ đương đầu hơn với hoàn cảnh sống hiện tại của họ. Đây chỉ là một số nhu cầu có mặt ở những tầng thấp hơn của đường tu. Con người có những nhu cầu như vậy. Họ không thể làm gì khác hơn là tiếp cận con đường tâm linh xuyên qua các nhu cầu đó, và họ phải nếm trải nghiệm đó trong một thời gian cho đến khi tâm họ mở ra một tầm nhìn cao hơn về đường tu. Chúng ta có thể nói là một số người khi tìm ra con đường tâm linh sẽ đi qua một giai đoạn sử dụng giáo lý tâm linh để xây dựng hay củng cố một thế giới quan sẽ giữ họ trong tách biệt. Điều này không thể tránh được. Một số rốt cuộc có thể đạt đến điểm sẵn sàng vượt quá giai đoạn này, trong khi một số khác sẽ vẫn ở trong đó cho đến hết kiếp.

17.1. Bí quyết là thay đổi chính mình

Giai đoạn kế tiếp là gì? À, giai đoạn tiếp theo là con bắt đầu nhận ra con cần thay đổi chính mình. Không phải là chuyện thay đổi người khác, hay thay đổi thế giới, hay thay đổi Thượng đế và những gì Thượng đế sẽ làm cho con. Mà là thay đổi chính con. Con bắt đầu nhận ra điều thày đã mô tả trong loạt bài giảng này, đó là con cần chú tâm thay đổi tâm mình từ bên trong, thay vì thay đổi các hoàn cảnh bên ngoài trước hết, với hy vọng điều này sẽ thay đổi trạng thái tâm con. 

Khi con bắt đầu nắm được điều này thì đó là lúc con bước vào giai đoạn mà công việc chủ yếu là kéo mình ra khỏi lực hút từ tính của tâm thức đại chúng. Mọi sự đều liên kết với nhau, vì vậy con là một phần của tâm thức tập thể của nhân loại. Con cũng là một phần của tâm thức tập thể trong nền văn hoá, chủng tộc và nhóm người nơi con đã lớn lên. Điều con có thể thấy trong tất cả những nền văn hóa này là có một quan niệm nào đó về sự bình thường. Đây là một điều bình thường trong văn hóa của con và có một áp lực từ tâm thức đại chúng muốn con phải tuân theo điều bình thường này. Dĩ nhiên, chuẩn mực cho sự bình thường được quy định dựa trên ảo tưởng tách biệt và tâm thức nhị nguyên. Hầu hết mọi nền văn hóa đều mang một quan điểm nào đó là mình cao trội hơn các nền văn hóa khác. Có lẽ họ đang xung đột với văn hóa khác và họ không thể thấy mình là gì khác hơn. Tất nhiên, để có thể tiến bộ trên con đường tâm linh, con cần kéo con lên trên tâm thức này.

Giờ đây con bước vào giai đoạn mà chú tâm chính yếu – sự tập trung chính yếu – là giải phóng mình khỏi lực hút từ tính của tâm thức đại chúng. Như thày đã mô tả, con làm điều này bằng cách chuyển hóa các năng lượng đang cho tâm thức đại chúng một cái chuôi để nó nắm lấy kéo con đi. Con làm điều này bằng cách trở nên ý thức về các khuôn nếp phản ứng, các ngã tách biệt của mình, con giải tỏa các ảo tưởng và để cho ngã chết đi. Tâm thức đại chúng chỉ có thể lôi kéo con khi trong bốn thể phàm của con có gì đó để nó lôi kéo. Cũng giống như trọng lực vậy, trọng lực chỉ có thể hấp dẫn vật gì có khối lượng. Vật nào không có khối lượng thì trọng lực không làm sao hấp dẫn được. Khi con làm điều này, con càng lúc càng độc lập với tâm thức đại chúng. Con nâng mình lên khỏi tâm thức đại chúng để khi những con quỷ của Mara đến cám dỗ con, chúng không tìm thấy gì trong con để lôi kéo con trở lại các khuôn nếp mà con vốn thấy trong văn hóa của con hay ngay cả trong nhân loại nói chung. Con không bận tâm chuyện chiều theo tiêu chuẩn, mà con chỉ quan tâm đến việc nâng cao tâm thức của con.

17.2. Bước trên con đường tâm linh như một cá thể

Giờ đây như thày đã nói, một khi con trong lọc các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của mình khỏi những ngã tách biệt này và những năng lượng thấp, thì con bắt đầu kết nối nhiều hơn với cái ta cao của con. Đây là lúc con có thể đạt đến một điểm then chốt trên con đường tâm linh, và điểm này khiến nhiều người bối rối. Con có thể đạt đến một điểm con đã giải thoát mình, phần lớn hay thậm chí hoàn toàn, khỏi sức hút của tâm thức đại chúng, nhưng con làm được vậy bằng cách nào? Bằng cách nào con đã giải thoát mình khỏi tâm thức tập thể? À, con chỉ có thể làm được vậy dựa trên mức nhận biết của con, và rất có thể mức nhận biết của con khi khởi sự đường tu sẽ ít nhất cho con cảm giác con là một sinh thể tách biệt. Lẽ tự nhiên trên trái đất có nhiều người bị khống chế bởi tâm thức tập thể đến mức họ có rất ít ý thức cá thể. Có thể nói là họ trôi theo dòng nước cuốn của tâm thức đại chúng thay vì tuôn chảy theo cách riêng của mình.

Để đi trên con đường tâm linh, con cần bước đi như một cá nhân riêng biệt vì hiện nay không có một nền văn hóa nào trên trái đất xem việc tu tập tâm linh là chuyện bình thường. Con phải luôn đi ngược lại quy chuẩn xã hội và con chỉ có thể làm vậy như một cá nhân riêng biệt. Con thật sự đang làm gì khi trong giai đoạn này con nâng mình lên, giải thoát mình khỏi sức hút của tâm thức đại chúng? À, con đang xây dựng một ý thức cá thể mới của một người tâm linh, nhưng con làm như thế nào? Đó là con xây dựng hay con tạo ra một tập hợp những ngã tách biệt dựa trên việc xem mình là một người tâm linh đang bước chân trên đường tu trong giáo lý đặc thù của con. Thày tuyệt đối không ngụ ý điều này có gì sai trái vì con không thể làm gì khác được. Con phải bắt đầu ngay vị trí con đang đứng. Ở giai đoạn đầu, con phải giải thoát mình khỏi tâm thức đại chúng, và con làm vậy bằng cách tạo dựng một ngã riêng biệt thật mạnh mẽ để nó không thể bị cuốn hút vào những khuôn nếp tập thể trong văn hóa của con. Con đang thật sự nắm lấy một giáo lý tâm linh và dùng giáo lý này để xây dựng một tập hợp ngã tách biệt có khả năng cưỡng lại áp lực hay sức hút từ tâm thức tập thể.

Một khi con đã làm vậy tới một mức nào đó, thì con đến bước ngoặt quan trọng nhất trên đường tu, vì giờ đây con đối mặt với một chọn lựa cốt yếu. Chọn lựa này là liệu con sẽ tiếp tục bồi đắp cho ý niệm bản sắc tách biệt này như một sinh thể riêng biệt, hay con sẽ bắt đầu hiểu ra là mặc dù bản sắc riêng biệt này đã hữu ích, nó không thể nào đưa con đến những giai đoạn cao hơn của đường tu. Thật vậy, nó không thể đưa con quá một điểm nào đó. Thày đã có giải thích mục đích thực của con đường tâm linh là con khắc phục mọi ý niệm bản ngã, mọi cái ngã dựa trên ảo tưởng tách biệt. Cho nên cái ngã giúp con tự do khỏi tâm thức đại chúng được xây dựng trên ý niệm tách biệt – không nhất thiết là nhị nguyên hay xem mình là kẻ thù của người khác, nhưng nó khiến con đứng riêng khỏi người khác và tâm thức đại chúng.

Để có thể đi tiếp lên các giai đoạn cao hơn của đường tu, con cần bắt đầu nhận ra là ngã này đã hoàn tất mục tiêu của nó, nhưng giờ đây con cần bắt đầu buông bỏ nó. Dĩ nhiên, điều này nghe có vẻ mâu thuẫn – thoạt tiên con dựng lên một cái ngã, sau đó con phải gỡ bỏ nó đi. Nhưng con hãy hình dung một chiếc hỏa tiễn, một hỏa tiễn có lẽ gồm có ba tầng. Có một bình nhiên liệu khổng lồ cùng động cơ nằm bên dưới được dùng để đẩy hỏa tiễn đến một độ cao nào đó nơi trọng lực trái đất và lực cản không khí giảm bớt. Sau đó bình nhiên liệu đã cạn, và để hỏa tiễn có thể bay cao hơn thì nó cần tách khỏi bình nhiên liệu và bộ động cơ đầu tiên, rồi khởi động bộ động cơ thứ nhì để đẩy nó lên mức cao hơn nữa. Ý niệm bản ngã của con cũng tương tự như vậy. Con có một cái ngã và con bồi đắp nó để nó đưa con vượt khỏi sức hấp dẫn của tâm thức đại chúng, nhưng sau đó con cần bỏ ngã này đi để con lên cao hơn. Có sự khác biệt giữa hỏa tiễn và chính con, đó là con không thể và hiển nhiên con không phải loại bỏ tất cả các ngã cùng một lúc. Con cần loại bỏ chúng lần lượt vì thật sự không chỉ có một cái ngã, mà một tổ hợp ngã tách biệt, cho nên con có thể tháo gỡ từng cái một.

Suốt các thời đại nhiều người đã không nắm được quá trình này. Có một số ít đã thấu triệt được nhưng phần đông thì chưa, cho nên họ quá dính mắc với ngã này, hay với bản sắc họ đã xây dựng, đến mức họ không chịu buông nó ra. Như thày đã có mô tả về tự ngã, những người này bây giờ tin rằng đây thật sự là cái ngã sẽ đưa họ lên thiên đàng hay niết bàn, và vì thế họ cần phải tiếp tục bồi đắp, cải tiến và kiện toàn nó cho đến khi nó có thể bước vào thiên đàng, hay cõi tâm linh, hay niết bàn hay bất cứ gì con có thể gọi. Đây là một ảo tưởng, và là một ảo tưởng mang tiềm năng tác hại khiến nhiều người bị mắc kẹt, thậm chí trong nhiều kiếp đầu thai. Thày đã cho con các công cụ giúp con nhận ra tại sao đây là một ảo tưởng, đó là vì nó dựa trên tách biệt, ảo tưởng tách biệt.

17.3. Niềm tự hào tâm linh 

Con cũng có thể nhìn những phong trào tâm linh mà con đã hoặc đang tham gia, và nhận thấy có những người đã ở trong những phong trào này có lẽ cũng khá lâu, và họ đã tạo nên một niềm tự hào, tự hào về các thành đạt tâm linh, về sự hiểu biết giáo lý và công phu tu tập của mình. Họ cảm thấy không những họ cao hơn những người ở ngoài giáo lý, mà cao hơn cả những người ở trong giáo lý nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm như họ. Nếu con cho phép mình bước lùi lại thì con có thể thấy rõ niềm tự hào tâm linh này chỉ có thể xuất phát từ một ngã tách biệt, và một ngã tách biệt thì không thể đưa con lên một mức nhận biết cao hơn. Nó không thể đưa con đến quả vị Phật, nó không thể đưa con lên niết bàn hay thiên đàng. Không cách gì mà chuyện này có thể xảy ra.

Vậy con bắt đầu nhận thấy khi đạt đến mức này, con cần xoay chuyển tâm mình. Con cần đi thêm một sự xoay chuyển để nhận ra là từ giờ trở đi con đang xây dựng một loại ngã khác. Con đang xây dựng một cái ngã không dựa trên việc thấy mình tách biệt khỏi tâm thức đại chúng, mà thấy mình nối kết với cái ta cao của mình. Trong quá trình xây dựng ý niệm bản sắc nối kết này, con dần loại bỏ một số những ngã tách biệt mà con đã tạo ra khi con còn đang nâng mình khỏi tâm thức đại chúng. Đây chỉ là một giai đoạn khác của đường tu, thật sự không có gì bí ẩn ở đây cả, chỉ là điều mà nhiều người không nhận ra thôi.

Điều con cần làm ở đây là bắt đầu sẵn lòng chất vấn cách con tiếp cận con đường tâm linh. Con đã nhìn đường tu như thế nào? Liệu có những yếu tố nào mà con có thể nhận diện khởi lên từ tách biệt hay có lẽ ngay cả từ nhị nguyên? Con có thể bắt đầu nhìn ra là những yếu tố này đang giới hạn con, chúng khiến con mất tự do. Về cơ bản, con có thể nhìn đường tu như một quá trình nhờ đó tâm con càng lúc càng tự do hơn. Con có thể thấy những ai bị tâm thức đại chúng khống chế đều không có tự do tâm trí. Ý niệm bản sắc của họ bị định đoạt bởi ý niệm bản sắc của tập thể. Vì tâm lý trí của họ bị áp đảo bởi tâm đại chúng, họ thường có xu hướng tư duy theo một kiểu nào đó và hiếm khi đưa ra một ý kiến cá nhân độc lập. Họ thường không thể chọn cảm xúc riêng của mình mà họ động cảm theo bất kỳ khuôn nếp nào có mặt trong tâm thức tập thể. Nếu có một tình huống khiến những người trong nhóm họ phản ứng giận dữ thì họ cũng sẽ phản ứng giận dữ. Thường họ xem đó là chuyện hoàn toàn tự nhiên, là cách phản ứng duy nhất. Cho nên họ không tự do trong tâm trí, họ không tự do lựa chọn phản ứng trước một hoàn cảnh, họ không tự do lựa chọn hành động, cảm xúc, suy nghĩ hay cả ý niệm bản sắc của họ.

Khi con còn xây dựng một cái ngã đưa con ra khỏi tâm thức đại chúng thì con ngày càng tự do hơn, nhưng chính cái ngã khiến con tự do khỏi tâm thức tập thể giờ đây lại trở thành một giới hạn cho tâm con, vì con nghĩ con phải ở lại trong ngã đó. Con phải ở lại trong lối tiếp cận đường tu mà con đã chấp nhận khi con ở một mức tâm thức thấp hơn, vì vậy con vẫn không đạt được tự do trong tâm. Con tự do hơn lúc con bị tâm thức tập thể chế ngự, nhưng con chỉ tự do khỏi tâm thức tập thể vì con đã tạo ra một ý thức cá thể mạnh mẽ, nhưng đây vẫn là một ý thức cá thể vỏ ngoài và nó vẫn giới hạn tự do tâm trí của con.

17.4. Gắn kết với cái ta cao hơn của con 

Bước kế tiếp là con giải phóng mình khỏi ngã này, khỏi tổ hợp những ngã này, trong đó con thấy mình là một sinh thể riêng biệt không kết nối đang cố nâng tâm thức mình lên so với một đối tượng là tâm thức tập thể. Khi con xây dựng ý thức riêng biệt này thì kỳ thực con đang phản ứng với tâm thức đại chúng, thậm chí con chống cự lại tâm thức này khi con nói: “À, tôi sẽ không cảm xúc, suy nghĩ hay đồng hóa mình với tâm đại chúng. Tôi sẽ làm theo cách khác.” Vậy thì con vẫn đang dính liền với tâm thức đại chúng, con giống như một hành tinh quay xung quanh mặt trời của tâm thức đại chúng. Giờ đây con cần tự gia tốc để thay vì quay xung quanh nó, thì hành tinh của con đi vào một quỹ đạo xoắn ốc đưa con vượt khỏi điểm này. Con làm vậy bằng cách nhận ra bước kế tiếp là thay vì gắn kết với tâm thức tập thể thì con bắt đầu gắn kết với cái ta cao hơn của con – và cái này đến từ bên trong con, không phải từ bên ngoài con.

Đây là lúc con đi vào con đường nội tâm, giai đoạn nội tâm của đường tu, khi con chú tâm vào tâm thức của mình – giải quyết trạng thái tâm thức mình. Điều này giúp con tăng trưởng và theo một nghĩa nào đó, con có thể tiếp tục làm việc trên tâm lý mình một thời gian khá lâu và đạt được nhiều tiến bộ khi làm vậy. Nhưng vẫn đến một điểm con cần nhìn nhận là mặc dù con đã nâng tâm thức, đã trong lọc tâm thức, bước kế tiếp thật ra là con phải tạo một ý niệm bản ngã mới dựa trên sự kiện con là một sinh thể kết nối, dựa trên trải nghiệm con là một sinh thể kết nối. 

Giai đoạn đầu là con kết nối với cái ta cao của con và nhận ra là ngoài nhân cách vỏ ngoài và ý thức riêng biệt dính liền với thế giới, thì cái ta cao của con cũng có một sắc tính, một cá thể. Thật sự con không thể gọi đó là một cá tính hay một nhân cách như hầu hết mọi người quan niệm, nhưng cái ta cao của con có những đặc tính cá thể mà con có thể neo trụ vào, và vì vậy con có thể bắt đầu đem đặc tính này vào nhận biết ý thức và biểu lộ nó qua các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con. Giờ đây con đang trong giai đoạn quan hệ với cái ta cao của con thay vì quan hệ với tâm thức đại chúng hay với người khác, và con đang biểu đạt một phần cá thể này từ cái ta cao.

17.5. Bước vào tâm thức hợp nhất

Giai đoạn tiếp theo là con bắt đầu nhận ra cái ta cao của con không thuộc thế giới vật chất. Nó cũng không nằm ở bốn tầng, vật lý, tình cảm, lý trí và bản sắc. Cái ta cao của con nằm ngoài thế giới hình tướng mà con đang biết đây. Nó vẫn có hình tướng nhưng nó ở nơi mà nhiều người gọi là cõi tâm linh. Khi con vượt khỏi thế giới hình tướng này thì tất cả đều là một, tất cả đều là sự duy nhất, và cái ta cao của con thấy được sự duy nhất này vì nếu không, nó không thể ở trên cõi cao đó. Con không thể bước vào cõi cao đó nếu con không thấy tất cả là một.

Giai đoạn kế tiếp là con đem sự hợp nhất này từ cái ta cao vào nhận biết ý thức. Giờ đây con bắt đầu xây dựng một ý niệm bản sắc không phải dựa trên sự tách riêng với tâm thức đại chúng, không phải dựa trên việc con vẫn là một sinh thể riêng biệt đang quan hệ với cái ta cao. Con xây dựng một bản sắc dựa trên việc thấy mình là một con người không những kết nối với cái ta cao mà còn kết nối với mọi người khác và với môi trường vật lý của con. Hay nói cách khác, con bắt đầu vượt qua ý niệm tách biệt – không nhất thiết là nhị nguyên mà ý niệm con đứng riêng khỏi người khác, đứng riêng khỏi môi trường, vân vân. 

Đây là Chánh định. Đây là ý nghĩa sâu sắc, ý nghĩa cao hơn của sự chú tâm hay tập trung. Con không tập trung vào tâm thức đại chúng, con không chú tâm vào chính mình như một sinh thể cá biệt, mà con chú tâm vào tổng thể, con chú tâm vào kết nối, con chú tâm vào hợp nhất, và điều này có nghĩa là giờ đây con bắt đầu nhìn cuộc sống theo một cách khác. Thay vì cân nhắc: “Làm sao tôi có thể nâng mình lên như một cá nhân?” thì con lượng định: “Làm sao tôi có thể nâng tổng thể lên, làm sao tôi nâng người khác lên? Những người tôi biết quanh tôi, làm sao tôi nâng họ lên? Làm sao tôi giúp họ nâng tâm thức? Làm sao tôi giúp cải thiện một khía cạnh đặc thù của cuộc sống? Làm sao tôi góp phần vào sự tiến bộ của nhân loại và thế giới nơi tôi đang sống?”

17.6. Chú tâm nâng cao tổng thể 

Trái đất đã có những tiến bộ đáng kể theo những gì được ghi nhận trong lịch sử. Con có thể thấy những tiến bộ đạt được trong lãnh vực công nghệ hơn hai thế kỷ qua. Con cũng nhận thấy tiến bộ công nghệ không song hành với tiến bộ của tâm thức nhân loại. Đã có vài tiến bộ nhưng vẫn chưa đủ để con người có thể sử dụng những tiến bộ công nghệ một cách cân bằng. Con thấy được điều này qua sự kiện công nghệ gây ô nhiễm môi trường, thay đổi khí hậu, vân vân. Con cũng thấy vũ khí càng ngày càng vũ bão và có nguy cơ giết hại nhiều người hơn. Con có thể thấy có sự tiến triển nhưng cần phải tiến hơn nữa, đặc biệt cần phải gia tốc tâm thức nhân loại, nâng cao tâm thức tập thể. Bằng cách nào để điều này xảy ra? Bằng cách nào con nâng cao tâm thức tập thể? À, điều này chỉ có thể xảy ra khi từng cá nhân nâng cao tâm thức của mình và nhờ vậy kéo tất cả lên theo. 

Ngay cả trong giai đoạn con tìm cách nâng mình lên khỏi sức kéo của tâm thức đại chúng, tất nhiên con không hoàn toàn tách khỏi tâm thức này. Tâm thức đại chúng đang kéo con, nhưng con cũng đang kéo tâm thức đại chúng. Khi con nâng mức nhận biết của mình lên, con cũng nâng tâm thức đại chúng lên. Chừng nào con còn chú tâm nâng mình lên như một cá nhân thì sức kéo không mạnh lắm, nhưng ngay lúc con xoay chuyển và thấy mình như một sinh thể nối kết thì sức kéo của con trên tâm thức đại chúng trở nên mãnh liệt gấp bội. Do đó tác động của con lớn hơn hẳn. Con đóng góp nhiều hơn hẳn vào việc nâng cao mọi sự sống bằng cách nâng cao tâm thức tập thể. Có người gọi việc này là giữ cân bằng tâm linh cho hành tinh hay cho xã hội, qua đó con kéo đại chúng lên cho đến khi mọi người bắt đầu nhìn ra nhu cầu phải chuyển đổi một điều gì đó.

Dân chủ đã ra đời như thế nào? Khi có đủ túc số tới hạn những con người kinh qua ngay trong bản thân họ một sự chuyển đổi tâm thức, thì họ bắt đầu ngộ ra các ý tưởng và lý tưởng đặt nền tảng cho dân chủ. Họ dần dần chấp nhận các ý tưởng này và trong khi họ nâng cao nhận biết của họ thì họ cũng kéo đại chúng lên theo, cho đến khi mọi chuyện bắt đầu lan ra như những vòng tròn trên mặt nước. Càng ngày càng có nhiều người bắt đầu thấy được những sự thật làm nền tảng cho dân chủ sao quá hiển nhiên. Con người có những quyền hạn mà không một thế lực nào trên trái đất có thể tước đi, bởi vì quyền này được trao từ một tầng nhận biết cao hơn. Đây là cách dân chủ đã ra đời, đây là cách tất cả mọi tiến bộ đã diễn ra, bằng việc nâng cao nhận biết của đại chúng, trong đó một túc số tới hạn đã bất ngờ xoay chuyển và thấy được những gì họ không thể thấy trước đó. Thay vì tranh luận đúng sai, họ chỉ nhìn ra: “Ừ nhỉ, rành rành ra đó. Chuyện này thật quá hiển nhiên. Xã hội cần nhắm hướng này mà đi tới.”

Đây là tiềm năng to lớn của con khi con đạt đến tầng cao hơn này của đường tu. Đó là chuyển đổi sự chú tâm. Thay vì chú tâm phát triển cá nhân mình thì con chú tâm nâng cao tổng thể. Đây là cách duy nhất khiến con có khả năng thật sự vượt quá một điểm nhất định trên đường tu. Con không thể đạt quả vị Phật nếu con nhìn mình như một cá nhân tách biệt, chỉ quan tâm đến cá nhân mình mà không đoái hoài đến tổng thể. Quả vị Phật là sự chú tâm vào tổng thể, tập trung vào toàn thể chứ không chỉ một phần nào đó, nhưng tất nhiên, con là một phần của tổng thể và đó là lý do con có thể kéo cả tổng thể đi lên.

Con thấy ở đây có một sự khác biệt cốt yếu giữa việc là một phần của tâm thức đại chúng với việc con vẫn là một phần của tổng thể. Hay nói cách khác, nếu con bị tâm thức đại chúng khống chế thì con không kéo tâm thức này lên được – hoặc con không tác động được gì, hoặc kỳ thực con sẽ kéo tâm thức tập thể đi xuống. Chỉ khi con bắt đầu nâng mình lên, nâng tâm cá nhân vượt khỏi mức tâm tập thể thì con mới có thể kéo tâm tập thể lên. Con càng nâng mức nhận biết của mình lên cao, con càng chú tâm vào tổng thể nhiều hơn là vào cái ta cá nhân, thì con càng kéo tâm thức tập thể mạnh hơn, và tất nhiên con càng ít bị tâm thức này kéo xuống hơn. Con không bị dính mắc với tâm thức tập thể, nghĩa là con trở nên trong suốt trước tâm thức này.

17.7. Trở nên trong suốt 

Con có thể nói là những con quỷ của Mara đang cố kéo con quay lại với tâm thức đại chúng, và chúng có khả năng làm vậy nếu con mang một số tin tưởng, một ngã tách biệt cảm thấy nó phải phản ứng theo một cách nào đó trước cám dỗ của chúng. Giê-su đã diễn đạt điều này hơi khác qua câu “Ông hoàng của thế gian đến mà không nắm được gì trong ta.” Hay nói cách khác, có một lực nào đấy, có một tâm thức nào đấy trong thế gian muốn kéo con về những khuôn nếp cũ để ngăn hành trình tâm linh của con, ngăn con nâng cao nhận biết, cho nên con cần học cách nhận diện điều này. Con đã vượt qua các ngã tách biệt. Con đã để chúng chết đi. Giờ đây con trở nên trong suốt.

Lực này có thể phóng cái gì đó tới con – có thể là một suy nghĩ, một năng lượng cảm xúc, một xung lực nào đó ở tầng bản sắc – nhưng khi nó đi vào tâm con thì không có gì ở đó để nó có thể đánh trúng, khuấy động và tăng cường. Lực này đi xuyên thẳng qua con vì con không dính mắc, con tự do. Giê-su đã diễn đạt điều này trong câu nói: “Chuyện này can hệ gì với con, con cứ bước theo ta.” Hay nói cách khác, con hãy đi theo vị thày, đi theo nhận biết cao hơn và buông bỏ tất cả những cám dỗ kia đang kéo con vào khuôn nếp phản ứng.

Đâu là một cách để nâng cao toàn thể? Đó là chứng tỏ cho mọi người thấy là có một cách phản ứng khác hơn là cách thịnh hành nhất trong tâm thức đại chúng trong văn hóa của họ. Nếu người thân trong gia đình con có xu hướng phản ứng giận dữ trong một số tình huống, và nếu con cho họ thấy là con không phản ứng tức giận trong tình huống như vậy thì có người sẽ hiểu. Họ sẽ hỏi ngay: “Tại sao người này không phản ứng như chúng ta, hay anh kia, hay chị kia, thường phản ứng? Chuyện gì xảy ra vậy? Có gì khác biệt?” Có người sẽ nắm bắt được điều này. Có lẽ không phải là những người thân nhất trong gia đình con nhưng một số người sẽ nắm bắt được.

17.8. Không có nhân riêng rẽ và quả riêng rẽ 

Giờ đây con bắt đầu chú tâm nâng cao tổng thể, nhưng để nâng cao tổng thể, hay tối thiểu để có tác động lớn nhất, con cần một sự xoay chuyển khác nữa. Con cần suy ngẫm giáo lý về lý duyên khởi. Thày đã có bàn về đề tài này rồi, và thày có nói là khoa học hiện đại có xu hướng muốn tách riêng một hiện tượng đặc thù rồi tuyên bố: “Đây là một kết quả riêng rẽ và nó phải có một nguyên nhân riêng rẽ.” Ấy, sự thật là không hề có kết quả riêng rẽ lẫn nguyên nhân riêng rẽ. Tất cả là một tổng thể phụ thuộc lẫn nhau. Như thày cũng đã đề cập, đây là nền tảng của thuyết hỗn mang qua đó một thay đổi nhỏ ở một nơi có thể đưa đến một thay đổi lớn hơn rất nhiều ở một nơi khác.

Điều con cần suy ngẫm là khi con khởi sự chú tâm nâng cao tổng thể thì trong các giai đoạn đầu của quá trình này, con có xu hướng nhìn thế giới và nói: “Đây là một vấn đề cần được thay đổi.” Chẳng hạn vấn đề có thể là: Chúng ta cần khắc phục chiến tranh và đem lại hòa bình thế giới. Con có xu hướng nói: “Đây là một hiện tượng tách biệt, chiến tranh. Chúng ta khắc phục chiến tranh bằng cách nào? À, chúng ta phải xác định nguyên nhân rồi sau đó loại bỏ nguyên nhân.” Đây là cách giải quyết vấn đề phổ biến trong các xã hội hiện đại dựa trên tâm phân tích đường thẳng, thuần trí năng. 

Không phải là con không thể đạt được một hiểu biết sâu sắc hơn về chiến tranh và nguyên nhân của chiến tranh, nhưng trên hết, con cần nhìn nhận là các nguyên nhân gây ra chiến tranh không thể đứng riêng rẽ. Tại sao vậy? Bởi vì cái gây ra chiến tranh chính là con người. Con có thể nhìn vào những lý do vỏ ngoài như: “Ồ, người ta đang đánh nhau vì dầu lửa, hay họ đánh nhau vì tiền bạc hay vì đất đai.” Nguyên nhân thật sự của chiến tranh nằm trong tâm lý con người, và nguyên nhân này thì đến từ ảo tưởng chúng ta là những sinh thể tách biệt, chúng ta có quyền định ra cho mình một chính nghĩa cuồng đại đang bị người khác chống đối, và do đó việc chúng ta sát hại những người này là chính đáng. Ảo tưởng tách biệt này là nguyên nhân tâm lý của chiến tranh. Có thể con sẽ nói: “Vậy làm sao con có thể thay đổi được chuyện này? Chúng con có thể làm gì? Chúng con không thể đi vào tâm mọi người và thay đổi tâm họ.” Điều thày đang cố truyền đạt ở đây là con không thể loại bỏ chiến tranh bằng cách tách riêng ra một nguyên nhân và tìm cách thay đổi nguyên nhân đó. Chiến tranh chỉ có thể loại bỏ khi tâm thức tập thể được nâng lên tới mức có đủ túc số những người thình lình xoay chuyển và thốt lên: “Hiển nhiên là chiến tranh không thể nào chấp nhận được.”

Điều thày đang giải thích ở đây là trong những giai đoạn đầu khi con chú tâm nâng cao tổng thể, thì con có xu hướng tìm kiếm một hiện tượng tách biệt khiến con cảm thấy mình cần làm gì đó và mình muốn thấy cái đó thay đổi. Xong con tìm cách tách riêng nguyên nhân và giải quyết nguyên nhân này để con cảm thấy mình đã thành tựu được điều gì. Rất rất nhiều người tâm linh ở mọi thời đại đều đã làm giống như vậy. Họ đã tách riêng một hiện tượng trong thế giới và cố gắng thay đổi. Dĩ nhiên nhiều người đã muốn loại bỏ chiến tranh, nhưng con thấy đó, đến nay vẫn chưa có ai thành công. Nhiều người sau một thời gian cảm thấy thất vọng, chán nản, họ nói: “Kìa, giáo lý tâm linh chẳng đem lại kết quả gì. Rõ ràng những chuyện tôi làm đã không có kết quả.” Đó là bởi vì con nhìn vào hiện tượng riêng rẽ và nguyên nhân riêng rẽ.

Xoay chuyển mà con có thể thực hiện là con không mong đợi tạo ra những thay đổi đặc trưng bên ngoài. Con tập trung, con chú tâm vào việc nâng cao nhận biết ở mức cá nhân lẫn ở mức tập thể. Con đang kéo nhận biết của cả cá nhân lẫn tập thể đi lên thay vì chỉ thực hiện những thay đổi vật lý đặc thù. Tại sao điều này lại quan trọng? Là vì như thày đã giải thích, những gì xảy ra ở tầng vật lý của thế giới này chỉ là hậu quả của những gì xảy ra ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Con có thể thay đổi một điều gì ở tầng vật lý. Con có thể lấy một cái xẻng và bắt đầu đào đất, và nếu con đào đủ lâu thì con có thể dời chuyển cả một quả núi. Nhưng đối với những hiện tượng lớn hơn, chẳng hạn như chiến tranh, con sẽ không thể khắc phục bằng những thay đổi vật lý. Chọn lựa duy nhất mà con có là quy tụ một đạo binh hùng mạnh đến mức có khả năng đánh bại quân đội của bất cứ nước nào, và điều này có thể đem lại một nền hoà bình tạm thời nào đó, nhưng liệu nó có loại bỏ được chiến tranh không, hay có loại bỏ được nguy cơ chiến tranh khỏi hành tinh này không? À, chừng nào con còn có quân đội và vũ khí thì con chưa khắc phục được chiến tranh đâu.

Thay vì tập trung vào những thay đổi vật lý đặc thù, con có thể chú tâm vào việc tạo ra thay đổi ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Con làm điều này bằng cách nâng cao tâm thức của chính con, chứng tỏ cho người khác thấy là con có thể phản ứng một cách khác, có lẽ bằng cách lan truyền một lời dạy ở thời điểm thích hợp khi người ta mở tâm ra với lời dạy đó. Với cách này, con không đề ra một mục tiêu mà mình không thể đạt được. Cho nên con tránh được sự thất vọng và chán nản vốn là dụng cụ sắc bén nhất trong bộ dụng cụ của ma quỷ. Con có khả năng bước vào một tâm thái nơi con thăng vượt sự nghi ngờ, sự thất vọng và niềm hy vọng là con sẽ chứng kiến một số thay đổi nhìn thấy.

Con thăng vượt tất cả mọi tiềm năng thất bại, con bước trên một con đường mà con biết là hiệu quả vì con biết chắc việc nâng cao tâm thức luôn luôn đem lại kết quả. Con biết con đang làm công việc nâng cao tổng thể và điều này sẽ có kết quả. Con chỉ tiếp tục như vậy, tiếp tục nâng cao nhận biết của con, tìm cách nâng cao nhận biết của người khác, và chính vì con không đòi hỏi những thay đổi đặc thù cho nên con cảm thấy mình đang đóng góp mà không mang rủi ro thất bại hay thất vọng. Tại sao con không nên mong đạt được thay đổi đặc thù? À, trong một số trường hợp thì con nên mong muốn như vậy vì trong Kế hoạch Trọn đời của con có công việc tạo ra một thay đổi cụ thể trong một lãnh vực cụ thể qua việc nhận được một ý tưởng từ một tầng nhận biết cao hơn. Điều thày đang nói đến ở đây là tầm mức bao quát khi con mong muốn tạo ra những thay đổi to lớn, chẳng hạn như chấm dứt hiện tượng chiến tranh, một điều mà cá nhân con thật sự không thể nào làm được vì tất cả đều gắn kết với nhau. Chiến tranh là một trải bày của tâm thức tập thể, và cách duy nhất để vượt qua hoàn cảnh vật lý là nâng cao tâm thức tập thể.

Để không đề ra một mục tiêu bất khả thi cho chính mình, con tập trung nâng cao tập thể và con biết đây là chuyện khả thi. Con có thể đóng góp gì đó, và khi người khác cũng làm tương tự thì chỉ là vấn đề thời gian trước khi họ xây dựng đủ lực kéo để kéo tâm thức đại chúng đi lên, tạo ra một sự xoay chuyển. Một túc số tới hạn trong quần chúng đã có thể mang lại thể chế dân chủ cũng như nhiều thay đổi tích cực khác. Có rất rất nhiều người trên trái đất ngày nay – dù họ thuộc một phong trào, một giáo lý tâm linh hay là không – cũng đang làm công việc kéo tâm thức tập thể đi lên, và vì vậy họ đặt nền móng cho những xoay chuyển sẽ đem lại những thay đổi vật lý mà nhờ đó con thấy sự xoay chuyển xảy ra.

17.9. Chú tâm vào kết nối thay vì tách biệt

Trong Bát chánh đạo, trên con đường tâm linh, con đi qua nhiều giai đoạn, và ở mỗi giai đoạn con lại chú tâm, tập trung vào một số mục tiêu, khía cạnh, phương pháp. Những giai đoạn con đi qua càng ngày càng cao qua đó con chuyển sự chú tâm xuyên qua các ngã tách biệt và ngã nhị nguyên sang sự chú tâm vào kết nối. Con có thể nói là quỷ Mara, ông hoàng của thế gian, liên tục tìm cách cám dỗ con người với rất nhiều cám dỗ cá nhân, nhưng bên dưới tất cả là một cám dỗ cơ bản nhằm kéo con vào một tâm thái nhìn cuộc sống, nhìn thế giới xuyên qua phin lọc tách biệt. Con thấy mình là một sinh thể tách biệt, con thấy người khác là những sinh thể tách biệt.

Điều xảy ra trong quá trình này là khi con chú tâm vào ảo tưởng tách biệt này, khi tâm con tập trung vào ảo tưởng tách biệt này, thì con không thể thấy đằng sau mọi hình tướng riêng rẽ là Phật tánh. Con không thể thấy ngay cả những hình thể có vẻ tách biệt cũng kết nối với nhau ở một tầng sâu hơn. Con không thể thấy đằng sau những hiện tượng và nguyên nhân có vẻ tách biệt là lý duyên khởi. Mục đích thật sự của quỷ Mara là giữ con trong ảo tưởng tách biệt khiến con nghĩ, chẳng hạn: “À, người này đã làm điều gì đó với tôi mà lẽ ra anh ta không được làm. Cho nên anh ta là một người tách biệt, vì nếu không thì anh ta đã không làm vậy với tôi. Nhóm người kia đã làm điều gì đó với đất nước của tôi mà lẽ ra họ không được làm, cho nên họ tách biệt và tôi có thể giết họ mà không ảnh hưởng gì đến tôi. Thế giới này thật sự chống lại tôi vì đó là một thế giới tách biệt và tôi tách biệt khỏi thế giới.”

Có quá nhiều ảo tưởng như vậy, có hàng triệu ảo tưởng dưới các lớp ngụy trang khác nhau, nhưng tất cả đều nhằm mục đích che mờ cái một và sự nối kết nằm bên dưới, khiến con chú tâm vào ảo tưởng tách biệt. Ngay cả một giáo lý tâm linh cũng có thể được sử dụng cho mục đích này. Con thấy một xu hướng chung trong hầu hết các tôn giáo và giáo lý tâm linh là người ta tạo ra một sự phân biệt rất rõ rệt giữa những người ở trong và ở ngoài giáo lý. 

Họ có thể nhìn người ngoại đạo theo hai cách. Có thể là người mà họ nghĩ có tiềm năng cải đạo theo giáo lý của họ, hay là người họ nghĩ sẽ chống đối giáo lý của họ và vì vậy là kẻ thù. Nhiều người mộ đạo nhìn người vô thần hay người theo chủ nghĩa duy vật như là kẻ thù, và tất nhiên nhiều người theo chủ nghĩa duy vật nhìn người mộ đạo như là kẻ thù. Con có thể dùng một giáo lý tâm linh để củng cố cảm nhận là con tách biệt, vì con đang theo một giáo lý nên con đứng riêng khỏi những ai không theo giáo lý. Khi con làm như vậy thì con chỉ mắc kẹt thêm vào ảo tưởng tách biệt, và tất nhiên điều này không đem lại tiến bộ trên đường tu, chính vì đường tu là khắc phục tách biệt, như thày đã đề cập hàng chục lần rồi. Thày sẽ nhắc lại nhiều lần và nhiều lần nữa vì đây là một trong những điểm khó nắm bắt nhất, và rất nhiều người tu hàng thập kỷ vẫn chưa nắm được.

Có những Phật tử tu tập giáo lý đạo Phật suốt nhiều kiếp sống mà vẫn chưa nắm được điều này. Họ đứng riêng ra khỏi những ai không cùng hệ phái Phật giáo như họ và dựng lên ý tưởng là bởi vì họ có khả năng hiểu và đàm luận những giáo lý trí năng rất cao siêu, bởi vì họ đã thực hành pháp tu từ quá lâu rồi và đã sống cuộc đời tu sĩ tận tuỵ với tu tập, cho nên có nghĩa là chắc hẳn họ đã tiến bộ. Chắc hẳn họ đã đạt đến một mức vượt bậc nào đó khiến họ biệt lập với những ai chưa áp dụng được giáo lý như họ nghĩ họ đã làm được. Họ vẫn chưa xoay chuyển để nhận thấy mục đích thật sự của việc nâng cao tâm thức là để giúp toàn thể, và mục đích thật sự của một giáo lý tâm linh là cho họ quyền năng nâng cao toàn thể thay vì chỉ nâng cao chính mình như một cá nhân tách biệt, hay thậm chí nâng cao nhóm mình như một nhóm tách biệt.

Đến điểm con cần nhận ra con đã tìm thấy một giáo lý tâm linh, con đã thực hành giáo lý này và con đã dùng giáo lý để nâng mình lên đến một mức nào đó. Một cách sẽ giúp con đi xa hơn là tránh đi vào ngõ cụt mà nhiều người đã mắc phải khi họ nghĩ cách thay đổi thế giới là cải đạo người khác, bởi vì khi mọi người cải đạo thì chúng ta sẽ có thiên đàng trên trái đất. Kỳ thực, điều quan trọng duy nhất là nâng cao tâm thức, và tuy con đã dùng một giáo lý đặc thù để nâng cao tâm thức của con, nhưng không có nghĩa là mọi người khác cũng nên làm vậy hay có thể làm vậy. Có thể họ cần những giáo lý khác, hoặc họ cần một số ý tưởng phổ quát, trong bản chất không theo một môn phái nào, không gạt bỏ một ai nhưng bao gồm tất cả.

Thật vậy, điều cần xảy ra trong thời đại nhận biết cao hơn sắp tới là càng ngày càng nhiều người tâm linh cần thăng vượt tư duy môn phái chú tâm cải đạo người khác hay khiến người khác phải đi theo đạo sư của mình. Thay vào đó, họ cần neo trụ vào sự kiện là từ tầng mức vượt khỏi thế giới vật chất, từ tầng nhận biết cao hơn, có một loạt những ý tưởng phổ quát đang được rải xuống, và chính những ý tưởng phổ quát này sẽ tác động tối đa đến việc nâng cao tâm thức tập thể. Những ý tưởng toàn vũ này có thể được biểu đạt xuyên qua một giáo lý hay một vị thày tâm linh đặc thù, nhưng không nhất thiết phải được biểu đạt trong khuôn khổ đó.

Chỉ lấy một ví dụ, con hãy nhìn ở các nước phương Tây có nhiều người tập môn yoga. Yoga có nguồn gốc rất lâu đời từ một nền văn hóa rất đặc thù, và mặc dù ngay từ đầu yoga có tính phổ quát nhưng sau đó lại đồng hóa với đạo Hindu. Nếu con đi ngược dòng thời gian thì đã có một thời để tập luyện yoga, con phải là một tín đồ Hindu, hoặc con phải sống khổ hạnh, rút lui khỏi thế giới, sống trong một tăng đoàn hay trong hang động, ăn uống kham khổ, không sinh hoạt tình dục, không có gia đình và dành hết thời gian tập trung vào việc thực hành tâm linh, gian khổ giống như pháp tu khổ hạnh mà Phật đã thực hành khi thày mới rời kinh thành.

17.10. Đạo Phật không được tạo ra như một tôn giáo 

Nói cách khác, yoga thoạt tiên là một phương pháp và triết lý thực hành tâm linh cực đoan không mấy thích hợp với lối sống năng động hiện đại khi con có gia đình và việc làm. Tuy vậy con thấy nhiều người ở thế giới phương Tây vẫn tập được yoga song hành với một cuộc sống năng động. Đó là vì yoga đã trở nên phổ quát. Yoga đã tập trung vào một cách thực hành đặc thù và tách ra khỏi một giáo phái cục bộ hạn hẹp. Giờ đây một số các con cũng biết đến phong trào thiền chánh niệm (mindfulness) và chắc chắn có sự liên hệ giữa đạo Phật và thiền chánh niệm. Con không cần cải đạo thành Phật tử để thực hành thiền chánh niệm, và tại sao vậy? Vì đạo Phật ban đầu không phải là một tôn giáo. Đó là một loạt những tư tưởng và thực hành phổ quát.

Giê-su cũng đã không truyền bá hay khởi xướng một giáo phái cục bộ tuyên bố chỉ có một con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi. Giê-su đã dạy một loạt những tư tưởng và thực hành bao quát, và đây chính là lý do vì sao thày đã bị xem là mối đe dọa cho giới thẩm quyền đạo Do thái. Thày đã đe dọa môn phái độc quyền cục bộ của họ bằng cách đưa ra những ý tưởng phổ quát. Điều gì có thể phổ quát hơn là nâng cao tâm thức và thăng vượt các ảo tưởng tách biệt và nhị nguyên đã gây ra mọi xung đột của con người? Cho nên tới một điểm con cần chuyển sự chú tâm của con ra khỏi tư duy cho rằng chỉ có một giải pháp độc nhất cho các vấn đề của thế giới, và giải pháp này là cải đạo tất cả mọi người vào pháp tu và triết lý tâm linh của con. Thay vì vậy, con chú tâm vào những tư tưởng bao quát, những cách diễn đạt bao quát có thể giúp cho nhiều người với nhiều gia cảnh khác nhau, từ nhiều tầng lớp khác nhau, mà không cần đòi hỏi họ phải đổi sang một tôn giáo hay một phong trào vỏ ngoài.

Hay nói cách khác, đây có phải là những gì tâm tách biệt luôn luôn muốn làm không? Thày đã nói tâm tách biệt muốn tạo ra một cảm giác an toàn, và để làm vậy nó xây dựng một thế giới quan, đồng thời nó đánh giá từng ý tưởng dựa trên: “Điều này có đe dọa thế giới quan của tôi không, hay có xác nhận thế giới quan của tôi không?” À, đây là phân biệt, đây là chủ nghĩa bè phái, đây là xu hướng cục bộ. Điều gì xác nhận thế giới quan của tôi thì điều đó là đúng, điều gì chất vấn thế giới quan của tôi thì điều đó sai, xấu ác, tội lỗi. Nhưng đây không phải là Phật tánh. Nó khiến cho con người bị giam chặt trong cái bẫy tách biệt.

Phật tánh là cái một, là hợp nhất, là sự kết nối, và vì vậy đây là điều con cố gắng đạt được để giúp người khác nhìn vượt quá tách biệt, nhị nguyên, chủ nghĩa độc quyền và sự cuồng tín, để thấy rằng đằng sau tất cả những phân chia giữa người với người là những tư tưởng và giá trị rộng khắp đang kết nối mọi người. Vượt lên trên các tư tưởng phân chia con người có một tập hợp những tư tưởng toàn vũ nối kết và hợp nhất mọi người. Đây là điều sẽ có tác động lớn nhất trên việc nâng cao tâm thức tập thể trong thời đại hôm nay, trong chu trình đặc trưng này của tâm thức đại chúng. Những ai có khả năng chú tâm vào điều này sẽ có ảnh hưởng lớn nhất, và những ai chấp vào những tin tưởng môn phái và mong muốn cải đạo người khác theo một tôn giáo vỏ ngoài hay một vị thày vỏ ngoài có thể cảm thấy mình rất tâm linh, thánh thiện hơn người, cao trội hơn người, nhưng họ sẽ không có ảnh hưởng tối đa trong việc nâng cao tâm thức đại chúng.

Mục đích của Phật là gì? Đó là giải thoát con người khỏi ảo tưởng. Ảo tưởng căn bản là gì? Đó là cảm nhận rằng Phật tánh không ở ngay nơi con ở, rằng con tách riêng khỏi Phật tánh. Mục đích của Phật là giúp tất cả các sinh thể tự nhận biết thấy được Phật tánh trong chính họ và trong mọi người.

17.11. Chữ “Phật” ban đầu mang nghĩa trung hòa 

Khi thày đưa ra những giáo lý này lúc ban đầu thì chữ “Phật” không mang ý nghĩa môn phái. Nó không liên quan đến một tôn giáo cụ thể, nó trung lập, nó phổ quát. Đạo Phật ngày này được xem như một tôn giáo riêng biệt, vì vậy chữ “Phật” ngày nay mang ý nghĩa khác với thuở ban đầu. Trong thế giới ngày nay, chúng ta có thể nghĩ ra một diễn đạt khác, toàn vũ hơn và trung hòa hơn – là nhận biết cao hơn, là có một nhận biết cao hơn. Có một mức nhận biết cao hơn có khả năng kết nối mọi người, có thể hợp nhất mọi người và giúp họ thoát khỏi nhận biết thấp hơn khiến mọi người chống đối lẫn nhau và tạo ra vô số xung đột.

Điều gì tạo ra căng thẳng? Điều gì tạo ra đau khổ trong thế gian? Đó là mức nhận biết thấp hơn khiến con người không thấy được yếu tố hợp nhất và vì vậy họ xem mình là những sinh thể tách biệt. Mục tiêu là gì? Là nâng cao tâm thức để mọi người đạt được một tầm nhìn cao hơn, một trạng thái tâm thức cao hơn để thấy được sự hợp nhất vượt trên tất cả mọi biểu hiện đa dạng bất tận. Họ thấy được dù mọi người có vẻ khác nhau nhưng có gì đấy nối kết tất cả. Con chỉ thấy được như vậy một khi con kết nối với một cái gì đó cao hơn, một tầng nhận biết cao hơn trong con. Chỉ lúc đó con mới có thể thấy một tầng nhận biết cao hơn nơi người khác. Đây là những tư tưởng toàn vũ thật sự không là độc quyền của đạo Phật hay của bất cứ tôn giáo hay triết lý tâm linh nào. Đây là điều con có thể chú tâm vào: cái phổ quát, cái trung hòa, sự kết nối, sự hợp nhất đằng sau khác biệt.

Thày biết ơn đã có cơ hội trao truyền bài giảng này. Nhiều người trong số các con đã là đệ tử của các chân sư thăng thiên trong nhiều năm, các con có thể nghĩ: “Nhưng chúng con đã chẳng nghe lời dạy này trước đây sao? Các chân sư khác đã chẳng giải thích tất cả những điều này trước đây sao?” Lý do thày dùng cơ hội ở đây để trao truyền những bài giảng này là vì mục đích lâu dài của thày là xuất bản một quyển sách đưa ra một cái nhìn mới về đạo Phật thích ứng với thế giới hiện đại và tư duy hiện đại. Đây là phần đầu của quyển sách này. Sách cũng sẽ bao gồm những bài truyền đọc khác mà thày đã ban ra trong những năm qua, và những bài này sẽ không được trình bày như là bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Các bài truyền đọc này sẽ được chỉnh lược để biểu đạt một cách phổ quát hơn. Sách sẽ được phát hành và có người sẽ hiểu được.

Thày cám ơn con đã cho thày cơ hội được trình bày bài giảng này và thày có thể đảm bảo hội nghị này đã có một ảnh hưởng to lớn trong việc nâng cao tâm thức đại chúng. Mặc dù các thày không đề cập nhưng nó cũng có ảnh hưởng quan trọng đối với tình hình ở Ukraine, tình hình kinh tế và tình hình ở Nga. Việc rất nhiều đệ tử từ Nga và Ukraine sẵn lòng hòa điệu và gia nhập quá trình hướng thượng này thật quan trọng. Một lần nữa, con không thể đi tìm những kết quả đặc thù hiển thị ở một thời điểm cụ thể, nhưng con có thể yên tâm là con đã kéo tâm thức đại chúng đi lên ở cả Ukraine lẫn Nga, và dĩ nhiên cả phần còn lại của thế giới nơi con đang theo dõi qua làn sóng. Và do đó con đã đưa hành tinh này đi lên mặc dù con không nói được đây là kết quả rõ ràng mà chúng ta đạt được tại hội nghị này.

Thày tin là nhiều người trong số các con đang bắt đầu nhận ra là con cần tới một điểm, là con không đi tìm một kết quả cụ thể từ một hội nghị hay từ một canh thức. Con không đặt mình vào vị thế có thể đem lại thất vọng và nản chí. Con tham gia vào một quá trình không ngừng nghỉ là nâng cao tâm thức tập thể, và con hài lòng khi biết mình đang nâng cao tâm thức tập thể. Con đang nâng cao toàn bộ lý duyên khởi và điều này sẽ đem lại những ảnh hưởng tích cực giúp thực hiện thời Hoàng kim của Saint Germain.

Thày không niêm hội nghị này vì thày Padmasambhava sẽ tiếp tục, nhưng thày cám ơn con đã cho thày cơ hội trao truyền những giáo lý mới, những lời dạy hiện đại này về triết lý đạo Phật. Vì vậy, thày gửi đến con lòng biết ơn sâu sắc nhất và giờ đây thày niêm con trong niềm vui của Phật! Niềm vui này chỉ đến khi con đang trải nghiệm cái duy nhất. Làm sao có thể có gì khác hơn là niềm vui trong hợp nhất? Chỉ có tách biệt mới tạo ra bực dọc. Với lời này, thày niêm các con, con yêu dấu. 

13 | Nỗ lực cao hơn là ngừng nỗ lực

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị qua mạng Internet mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Chủ đề kế tiếp là sự tinh tấn, hay nỗ lực. Một lần nữa như theo truyền thống, người ta đã quy định có nỗ lực đúng và có nỗ lực sai. Xong người ta đã cố tránh nỗ lực sai và trau dồi, thực hành nỗ lực đúng. Đối với nhiều người, chuyện này trở thành một chiếc áo tù bó tay bó chân, khiến họ cảm thấy gần như không thể làm bất cứ gì vì họ quá sợ những nỗ lực sai lầm sẽ tạo nghiệp. Cuối cùng họ cảm thấy chỉ còn một việc họ có thể làm là hạn chế tối đa các hoạt động thể chất và trong phần lớn thời gian, hoặc họ thiền định, hoặc họ thực hành những pháp tu khác. Thế là chuyện này trở thành một chứng ám ảnh cưỡng chế, và tuy họ cảm thấy mình rất tâm linh nhưng thật ra họ không tiến bộ chút nào trên con đường tâm linh. Họ không đang leo lên những tầng cao hơn. Họ chỉ dậm chân tại chỗ, càng ngày càng bất an, càng ngày càng lo sợ tất bật để cố nỗ lực làm sao cho đúng với những gì họ đã quy định.

Hiển nhiên, dựa trên những điều thày đã trao cho con trong những bài trước, giờ đây chúng ta có thể khá dễ dàng thẩm định nỗ lực của con một cách khác. Thày đã cố gắng rất nhiều để giải thích mục đích của Bát chánh đạo, mục đích của Trung đạo là gì. Đó chính là nâng cao tâm thức, và con nâng cao tâm thức bằng cách nào? Bằng một cách duy nhất: giải quyết tâm lý. Điều này sẽ mới lạ và gây sốc cho nhiều người, ngay cả nhiều người trong truyền thống Phật giáo. Họ đã bước vào một tâm thái nghĩ rằng nỗ lực đúng có nghĩa là làm một số thực tập tâm linh. Họ cho rằng những thực tập tâm linh này có khả năng hầu như thần diệu chuyển hóa tâm thức của họ, đưa họ đến gần hơn với giác ngộ, hay niết bàn, hay bất kỳ cách nào họ định nghĩa. 

13.1. Khắc phục ảo tưởng không phải là một việc làm máy móc

Thày đã nói là có những thực tập tâm linh có giá trị và hiệu quả, nhưng chúng mang lại hiệu quả như thế nào? Chúng hiệu quả bằng cách chuyển hóa những năng lượng dựa trên sợ hãi đã tích tụ trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con, thậm chí cả trong các tế bào vật lý ở một mức độ nào đó. Một kỹ thuật tâm linh có thể có tác dụng chuyển hóa năng lượng, nhưng không có thực tập tâm linh nào có thể chuyển hóa trạng thái tâm của con, các tin tưởng của con, các ảo tưởng của con, cho dù thực tập đó là gì, đến từ đâu, do ai định ra hay do ai ban ra.

Một ảo tưởng là một ảo tưởng. Nó không thật, nhưng ngày nào con còn nghĩ ảo tưởng là thật, ngày nào con chưa nhận biết mình đang có một ảo tưởng, thì con còn bị giam trong cách nhìn đời xuyên qua phin lọc của ảo tưởng đó. Làm sao con đã tới chỗ chấp nhận ảo tưởng đó? Có con quỷ dữ nào đã cấy ảo tưởng vào tâm con? Quả là có thể có một sinh thể thấp, một sinh thể với nhận biết thấp phóng chiếu một ảo tưởng nào đó vào tâm con. Thật ra tâm thức tập thể hiện đang phóng chiếu rất nhiều ảo tưởng vào tâm mọi người. Nhưng con là một sinh thể cá biệt. Con không phải là một sinh thể tách biệt, nhưng con là một sinh thể cá biệt, có nghĩa là con có thẩm quyền cho phép cái gì đi vào tâm con, cái gì ra khỏi tâm con, cái gì xảy ra trong tâm con. Có thể con đã quên mất là trong một tiền kiếp, con đã cho phép một ảo tưởng đi vào tâm con, nhưng cho dù con nhớ hay quên, đã có một thời điểm khi con quyết định chấp nhận một ảo tưởng nào đó là sự thật. 

Sau khi con bước vào tâm thức tách biệt, con đã cho phép vô số ảo tưởng xâm nhập tâm con. Chúng tạo nên tấm màn huyễn Maya khiến con đui mù không thấy được thực tại con là một biểu hiện của Phật tánh, và tất cả mọi thứ khác cũng là biểu hiện của Phật tánh cho dù hình tướng vỏ ngoài có là gì. Không có kỹ thuật tâm linh nào có thể thay đổi trạng thái tâm của con, thay đổi các tin tưởng của con, tự động giải thoát con khỏi các ảo tưởng. Con chỉ có thể thoát khỏi ảo tưởng khi con thấy một cách ý thức chúng là ảo tưởng, và do đó con buông bỏ chúng vì con thấy chúng là ảo tưởng.

Đây là tình trạng cách đây 2500 năm, đây là tình trạng kể từ đó cho tới nay, và đây sẽ vẫn là tình trạng trong tương lai. Sự tăng trưởng tâm linh đến các tầng tâm thức cao hơn là một tiến trình ý thức nhìn ra các ảo tưởng một cách ý thức. Một thực tập tâm linh có thể chuyển hóa các năng lượng được lưu trữ trong tâm tình cảm của con chẳng hạn, khiến tâm ý thức của con khó lòng thấy được các ảo tưởng. Không phải là thực tập tâm linh không hữu ích, nhưng nó không tự động vì nó không thể lấy quyết định thay con. Chính con, cái Ta Biết là cốt lõi của bản thể con, phải lấy quyết định, nhưng con lấy quyết định như thế nào? Bằng cách trở nên ý thức về những điều mà ngay bây giờ con chưa ý thức. Bằng cách moi ảo tưởng ra khỏi tâm tiềm thức, đem chúng vào nhận biết ý thức nơi con có thể thấy chúng, xem xét chúng, và một khi con nhận ra chúng là ảo tưởng thì con sa thải chúng.

13.2. Các ngã tiềm thức được tạo ra như thế nào

Các thày đã có đưa ra nhiều giáo lý dạy rằng ảo tưởng không chỉ là ảo tưởng. Không phải chỉ là chuyện con có hiểu biết hư giả. Không phải chỉ là chuyện con có tin tưởng mình đang cầm sợi dây khi thật sự đó là con rắn. Bất cứ điều gì xảy ra trong tâm con đều có ba yếu tố. Có năng lượng, có một hiểu biết hay tin tưởng nào đó, và có tâm thức. Khi con nhìn vào một ảo tưởng đặc trưng một cách ý thức và quyết định chấp nhận nó trong tâm mình, thì chuyện gì xảy ra lúc đó? Trước hết, cái Ta Biết mà con là, giờ đây bắt đầu nhìn thế giới xuyên qua ảo tưởng đó.

Cũng giống như con ở trong một căn nhà và căn nhà là các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con. Căn nhà có cửa sổ, nhưng khi con chấp nhận một ảo tưởng thì con đặt một mảnh kính có màu trước một cửa sổ, hay ít nhất trước một phần của cửa sổ đó. Bây giờ con nhìn qua cửa sổ đó và những gì con nhìn thấy ở ngoài kia đã bị pha màu bởi mảnh kính, cho nên con sẽ thấy một hình ảnh méo mó. Điều này có nghĩa là giờ đây con thấy thế giới không như nó là, nghĩa là khi năng lượng từ cái ta cao của con chảy xuyên qua nhận biết ý thức của con và xuyên qua phin lọc đó, thì con phú cho nó một rung động dựa trên sợ hãi. Ảo tưởng khiến con nhìn đời dựa trên sợ hãi, bởi vì nếu con thấy mọi sự đều là Phật tánh thì đâu cần sợ hãi. Sau khi con đã chấp nhận một tin tưởng hư giả thì con bắt đầu tha hóa, hạ thấp rung động của năng lượng qua tin tưởng này. Một phần của năng lượng này được phóng chiếu ra ngoài, một phần khác tích tụ trong ba thể của con: bản sắc, lý trí và cảm xúc. 

Khi năng lượng tích tụ thì nó tạo một lực hút trên nhận biết ý thức của con, nghĩa là con dễ nổi giận hơn chẳng hạn. Khi con nhìn thế giới qua phin lọc của ảo tưởng, thật ra con đang thấm đẫm ảo tưởng đó với tâm thức của con. Bởi vì khi con tập trung chú ý vào bất cứ gì thì con cho phép tâm thức của con tuôn chảy vào đó và xuyên qua đó. Giờ đây con có ba yếu tố, con có một tin tưởng không thực tế và huyễn ảo, con có năng lượng tích tụ tạo nên lực hút từ tính, và con có sự thấm đẫm ảo tưởng với tâm thức của con. Nghĩa là con đang tạo tác điều mà thày đã gọi là hành uẩn (samskara), là các khuôn nếp mà chúng ta có thể gọi là “ngã” theo một cách diễn đạt hiện đại hơn. Con tạo tác một ngã tách biệt trong tâm bản sắc, lý trí và tình cảm của con, và điều quan trọng là ngã này có một mức tâm thức nào đó. Nó không có khả năng tự nhận biết của cái Ta Biết, cho nên ngã này đã không tạo ra chính nó. Cái Ta Biết có thể tạo ra một cái ngã, nhưng ngã thì không thể tạo ra chính nó.

Điều này có nghĩa là ngã cũng không thể thay đổi chính nó. Nó có thể tăng trưởng, theo nghĩa nó có thêm cường độ, nó có lực hút từ tính càng ngày càng mạnh hơn trên tâm ý thức của con, nhưng nó không thể thay đổi chính nó. Nếu con tạo ra một cái ngã dựa trên ảo tưởng là trong một số tình huống, việc nổi giận là một phản ứng chấp nhận được, thì ngã không thể nói: “Ồ đợi chút nhé, giận dữ là một chuyện không đúng với lời dạy tâm linh, cho nên tôi sẽ tự cho phép mình chết đi.” Ngã sẽ không bao giờ làm được như vậy. Ngã có cái mà chúng ta có thể gọi là bản năng sinh tồn. Nó có thể càng ngày càng nóng giận hơn chứ nó không thể bớt nóng giận, ít nhất là qua nỗ lực của chính nó. Nó có thể bớt nóng giận nếu con ngừng bơm năng lượng nuôi nó sống và dùng các dụng cụ tâm linh để chuyển hóa năng lượng đã tích tụ, nhưng ngã không thể tự nó làm chuyện này.

Thật vậy, ngã giống như một chương trình máy tính chỉ có thể làm những gì mà nó được lập trình để làm. Khi nó thêm cường độ thì lực hút của nó trên cái Ta Biết của con sẽ mạnh hơn. Con bị hút vào ngã đó, và chuyện xảy ra qua nhiều kiếp hiện thân là con dần dà tạo ra một tập đoàn những cái ngã đều dựa trên ảo tưởng tách biệt, và chúng lần hồi tạo thêm lực hút đến độ cái Ta Biết của con bị kéo vào tấm màn ảo tưởng. Con bị kéo ra đằng sau tấm màn ảo tưởng và bây giờ con nhìn mọi sự xuyên qua tấm màn ảo tưởng đó. Thậm chí con có thể tới mức quên khuấy mất là con đã từng ở bên ngoài tấm màn ảo tưởng. Đấy là cách con quên mình có sự nối kết với cái ta cao của con và con có Phật tánh và tiềm năng Phật trong con. Con đồng hóa mình là một con người thế trần – hoặc một kẻ có tội, hoặc một kẻ mang nghiệp rất lớn, hoặc một con vượn tiến hóa. Điều này chỉ có thể xảy ra khi con quên mình có sự kết nối với cái gì bên ngoài tâm con.

13.3. Ngã tách biệt chỉ có thể tạo thêm nghiệp quả

Nếu con muốn thẩm định nỗ lực một cách cao hơn, con có thể nói là nếu con hoàn toàn đồng hóa với tập đoàn ngã tách biệt đó và với tự ngã là cái bình chứa các ngã tách biệt đó – nếu có thể gọi như vậy – thì mọi chuyện con làm, mọi nỗ lực con bỏ ra qua ngã tách biệt sẽ tạo nghiệp quả. Nỗ lực đó sẽ tha hóa năng lượng. Nó sẽ chuyển năng lượng dựa trên tình thương thành năng lượng dựa trên sợ hãi, và nó sẽ chỉ buộc con chặt hơn vào ảo tưởng mình là một sinh thể tách biệt. Rõ ràng đây không phải là nỗ lực cao, đây là nỗ lực thấp.

Vậy thì nỗ lực cao hơn là gì? Đó là những hoạt động có tác dụng giải thoát con khỏi sự đồng hóa với các ngã tách biệt cùng tự ngã. Bây giờ con cần cẩn thận phân biện ở đây. Nhiều người trong truyền thống Phật giáo sẽ nói: “Nhưng Phật đã chối bỏ kịch liệt sự hiện hữu của một tự ngã tách biệt.” Đúng đấy, nhưng con hãy lắng nghe những gì thày đang nói. Phật chối bỏ sự hiện hữu, sự có thật của một tự ngã tách biệt. Tự ngã tách biệt không có thật, nó không hiện hữu trong Phật tánh, trong tâm Phật, nhưng không có nghĩa là nó không có hiện hữu tạm thời và phù du trong tâm con người. Như thày đã giảng, mọi thứ đều là năng lượng. Năng lượng có thể khoác lên bất kỳ hình tướng nào, nhưng nó khoác lên hình tướng xuyên qua tâm thức, khi tâm thức phóng chiếu một tâm ảnh lên năng lượng.

Đây là điều con làm khi hiện thân như một con người. Con đồng-sáng tạo bằng cách dùng khả năng của tâm để áp chồng hình tư tưởng lên trên năng lượng. Khi con làm chuyện này xuyên qua một trong những ảo tưởng tách biệt, thì con tạo ra một ngã tách biệt, thậm chí con tạo luôn ảo tưởng tổng quan rằng mình là một sinh thể tách biệt. Ngã này, tự ngã này, có một sự hiện hữu tạm bợ. Không có sinh thể cao nào tạo ra nó, nhưng con đã tạo ra nó và do đó nó hiện hữu trong tâm con. Nó không có một sự hiện hữu khách quan, và nói theo cách diễn đạt của khoa học thì nó có một sự hiện hữu chủ quan, nhưng chừng nào nó còn ở trong tâm con, chừng nào năng lượng, ảo tưởng và ý niệm bản ngã còn đó, thì nó sẽ ảnh hưởng tâm con. Điều này có nghĩa – trong số nhiều ý nghĩa khác – là tự ngã không thể được chuyển hóa. Quả vậy, có nhiều người đã xây đắp một ngã tách biệt dũng mãnh, họ đồng hóa với nó chặt chẽ đến độ họ nghĩ rằng mục đích của con đường tâm linh là chuyển hóa ngã tách biệt này cho tới khi nó đạt được một trạng thái khả dĩ đi vào thiên đàng hay giác ngộ.

Đây là ý nghĩa thật của giáo lý được truyền dạy 2500 năm trước. Tự ngã không có sự hiện hữu, cho nên nó không thể trở thành Phật, nó không thể đựợc nâng lên và đạt bất cứ tính trường tồn hay bất diệt nào. Có những người trong truyền thống Cơ đốc giáo tin rằng nếu họ là người Cơ đốc ngoan đạo và làm tròn mọi yêu cầu của đạo Cơ đốc thì sau khi chết, Giê-su sẽ hiện ra và đem nhân cách vỏ ngoài của họ, ý niệm bản ngã tách biệt của họ vào thiên đàng.

13.4. Giấc mơ bất khả thi của tự ngã

Đặc tính của thiên đàng, hay cõi tâm linh, hay bất cứ chữ nào con muốn dùng, là gì? Đặc tính ấy là nhận ra mọi sự sống là một, mọi thứ đều liên thông với nhau, tất cả là một tổng thể phụ thuộc lẫn nhau. Như thế thì làm sao một ngã tách biệt chối bỏ sự liên thông này, chối bỏ cái một, có thể đi vào cái một? Chuyện này không thể xảy ra, không thể làm được. Nó chỉ giản dị là một giấc mơ bất khả thi, là giấc mơ tối hậu của ngã tách biệt. Tại sao con người lại nảy ra giấc mơ đó? Ấy như thày đã nói, đó là vì khi con đi vào ảo tưởng tách biệt thì con cảm thấy mình đã mất mát cái gì đó. Con đã mất đi sự nối kết với cái ta cao của con. Con cảm thấy đó là một sự mất mát và con mong muốn bù đắp mất mát này, dù con không ý thức được điều này thực sự nghĩa là gì. Trong con có lòng khát khao một cái gì đó. Người ta có thể tạm thời phủ lấp khao khát này bằng cách chìm đắm trong sinh hoạt thế gian như nhiều người đã làm suốt nhiều kiếp sống, nhưng sẽ tới một điểm nỗi khao khát này – mà trên cơ bản là khao khát một cái gì ở ngoài chính tâm con, ở ngoài tâm tách biệt của con – sẽ trồi dậy và con không thể phủ nhận nó được nữa.

Tự ngã có một dạng nhận biết sơ đẳng. Nó muốn duy trì quyền lực của nó trên tâm con. Khi nỗi khao khát cái gì hơn nữa trồi lên thì tự ngã biết rõ nó không thể đáp ứng được, nhưng nó vẫn cố khiến con tin rằng con có thể thỏa mãn nỗi khao khát đó bằng cách hoàn thiện ngã tách biệt. Tỷ dụ như khi con tìm thấy một giáo lý tâm linh nói về nhu cầu nâng cao nhận biết của con, đạt đến một trạng thái cao hơn, nhập niết bàn, thiên đàng, cõi hỷ lạc hay giác ngộ, thì tự ngã sẽ nói: “Lẽ dĩ nhiên rồi! Tôi ủng hộ mong muốn tự cải thiện của bạn để đạt được trạng thái cao siêu này. Bạn có thể làm được điều này bằng cách nâng tôi lên trạng thái cao đó. Tôi có thể trở nên toàn hảo. Tôi có thể trở nên bất tử.” Đây là một lời nói dối hoàn toàn, một sự hiểu lầm hoàn toàn. Tự ngã sẽ không bao giờ đi vào thiên đàng, cõi tâm linh, niết bàn. Điều này – không – thể – làm – được.

Một ngã tách biệt không thể tự chuyển hóa thành một cái ta hợp nhất với cái một. Đây là điều mà nhiều người tâm linh thuộc nhiều truyền thống sẽ phủ nhận, nhưng đây là sự thực. Con đã sinh tạo những ngã này dựa trên ảo tưởng tách biệt. Mỗi ngã là một ảo tưởng đặc thù, nó có một số năng lượng nào đó và nó được thấm đẫm một ý niệm tâm thức thô sơ nào đó, cho nên nó nghĩ rằng nó có một thực tại nào đó, một hiện hữu nào đó.

Giống như triết gia René Descartes đã nói: “Tôi nghĩ, do đó tôi là.” Nói cách khác, sự kiện tôi ý thức phải có nghĩa là tôi hiện hữu, và đấy là điều ngã tách biệt nghĩ. Tự ngã nghĩ rằng sự kiện tôi ý thức mình là một sinh thể tách biệt có nghĩa là tôi có một thực tại nào đó, một hiện hữu nào đó như một sinh thể tách biệt. Đây là ảo tưởng mà thày đã cố gắng giải thích 2500 năm về trước khi thày nói là không có tự ngã tách biệt nào có một sự hiện hữu thật. Lẽ tất nhiên, thày rất ý thức là ngã tách biệt có một sự hiện hữu tạm thời, và toàn bộ mục đích của Bát chánh đạo là giúp con người vượt qua sự đồng hóa với tự ngã này.

13.5. Buông bỏ từng ngã tách biệt một để khắc phục tự ngã

Con có thể làm gì để khắc phục tự ngã? Ấy, tự ngã là cốt lõi của ý niệm bản sắc tách biệt nhưng nó không phải là cái dễ khắc phục nhất. Con cần thực tiễn. Con bắt đầu bằng cách nhận ra tự ngã giống như cái thùng chứa trong đó có nhiều ngã tách biệt riêng lẻ khác nhau và mỗi ngã dựa trên một ảo tưởng đặc trưng. Con khắc phục từng ngã một, và cách dễ nhất để phơi trần ngã là con nhìn vào phản ứng của mình trong những tình huống đặc thù. Tỷ dụ, tại sao con phản ứng với lòng sợ hãi trong một số hoàn cảnh? Tại sao con đáp trả với sự nóng giận hay bực tức? Tại sao trong một số tình huống con nghi ngờ chính mình? Tại sao khi bị tấn công, con trở nên hung hãn hay con chịu thua?

Con làm việc với từng phản ứng cá biệt. Con nhận ra mình có một ngã tách biệt trong tâm tiềm thức. Một số hoàn cảnh nào đó kích hoạt ngã này hoạt động, và khi điều này xảy ra thì nó làm chủ phản ứng của con. Con đang không dùng tâm ý thức để quyết định cách phản ứng nào với hoàn cảnh đó. Giản dị là khi ngã tách biệt được kích hoạt, nó sẽ tiếp quản và điều khiển phản ứng của con. Điều này chỉ cho con thấy là có một ngã tách biệt lẩn trốn đằng sau khuôn nếp này. Bây giờ con có thể đi sâu vào trong nó. Con đi vào các cảm xúc của mình cho tới khi con đi xuyên suốt chúng, và con có thể tiếp tục quán xét và dùng trực giác cho tới khi con thấy được tin tưởng đằng sau chúng.

Có thể sẽ tới một điểm khi bỗng nhiên cái Ta Biết bước ra khỏi ngã tách biệt này và con nhìn nó từ bên ngoài. Nhiều người chưa từng nghe về giáo lý tâm linh và chắc chắn chưa nghe giáo lý về các ngã tách biệt, đã trải nghiệm điều này một cách tự phát trong suốt đời họ. Họ ở trong một tình huống nào đó, thường là một tình huống nghiêm trọng mà họ cảm nhận như một khủng hoảng, và đột nhiên họ cảm thấy tâm mình xoay chuyển. Thay vì phản ứng theo như họ vẫn thường làm, bỗng nhiên tâm họ trùng vào im lặng. Gần giống như trong một khoảnh khắc vượt thời gian, họ đã bước ra khỏi tình huống đó và bất giác họ thấy nó từ bên ngoài. 

Trong một số trường hợp con có thể có một ý tưởng ý thức như sau: “Tại sao tôi cứ phản ứng cùng kiểu này vậy?” Đây là một ví dụ con tới được điểm cái Ta Biết bước ra ngoài một ngã tách biệt đặc thù, và một khi đứng ra ngoài, con có thể thấy được ngã đó. Con có thể thấy ngã này dựa trên ảo tưởng gì. Con có thể thấy ngã đang hạn chế con như thế nào, nó đang hạn chế phản ứng của con, tước đi quyền tự do phản ứng một cách ý thức của con. Đấy là lúc con có thể lấy quyết định: “Tôi không muốn phản ứng kiểu này nữa. Tôi không muốn điều này trong đời tôi nữa. Tôi không muốn nhìn đời qua phin lọc này nữa.” Sau đó con làm được gì? Ấy, không phải là con cần giải quyết một vấn đề gì, không phải là con cần làm gì với ngã này. Một khi con thấy ảo tưởng, con chỉ giản dị bước tới buông ngã ra, thải ngã ra, cho ngã chết đi.

Con không thể hoàn thiện một ngã tách biệt. Con không thể chuyển hóa nó lên một trạng thái cao hơn. Giản dị con chỉ cần để cho nó chết đi. Trên cơ bản một ngã tách biệt là một dính mắc, và con khắc phục dính mắc như thế nào? Bằng cách để nó ra đi. Bằng cách buông bỏ bất kỳ ảo tưởng và ham muốn nào đằng sau sự dính mắc. Con nghĩ con phải thành tựu một điều gì đó trên thế gian này – nói chung là để khỏa lấp cảm giác là mình không trọn vẹn. Khi nhận ra điều này, con có thể buông nó và hiểu ra con không cần thành tựu bất cứ gì trong thế gian để trở nên trọn vẹn. Con cần buông bỏ ý tưởng con phải làm gì đó trong thế gian thì con sẽ tự nhiên cảm thấy trọn vẹn hơn.

Tại sao như vậy? Con hãy nhớ lại điều thày đã nói. Ở ban đầu, con có cảm nhận mình kết nối với cái ta cao của mình. Rồi con đã che phủ cảm nhận này bằng một ảo tưởng, nhưng trạng thái mặc định của con vẫn là cảm nhận kết nối. Một khi con buông bỏ ảo tưởng thì con sẽ trở về cảm nhận kết nối. Lẽ tất nhiên con có thể khuếch trương cảm nhận kết nối, và đó là kết quả tự nhiên khi con tiến bước trên Bát chánh đạo. Trạng thái mặc định của con người là cảm thấy mình kết nối với cái ta cao của mình. Con có thể biết điều này một cách ý thức hơn, con có thể mở rộng sự kết nối hơn, nhưng con không thể hoàn toàn mất đi tiềm năng trở về kết nối. Theo một nghĩa nào đó, sự kết nối luôn luôn có đó. Cái ta cao của con luôn luôn ở đó, nó luôn luôn hướng năng lượng về phía con. Chỉ có điều là trong tâm con, con đã bước vào một ảo tưởng cho nên con không ý thức được sự kết nối đó. Đây không phải là chuyện nghĩ rằng ngã tách biệt đã ngăn con trải nghiệm kết nối cần phải được hoàn thiện rồi khi đó con mới lại cảm thấy kết nối. Không đâu, con chỉ cần buông ngã ra và trở về trạng thái kết nối tự nhiên.

13.6. Tăng triển không có gì bí mật

Điều này nghĩa là gì? Có nghĩa là bất kỳ cố gắng nào củng cố cho cảm nhận tách biệt sẽ không giúp con tiến bước trên đường tu. Bất kỳ cố gắng nào giảm thiểu tấm màn huyễn Maya sẽ tái lập sự kết nối hay mở rộng sự kết nối, và đây là điều sẽ đưa con xa hơn trên đường tu. Có nghĩa là bất kỳ cố gắng nào giúp con trở về với kết nối là cố gắng cao hơn. Như thày có giảng, không phải là con chỉ cần có hành động hay nỗ lực vật lý. Một thực tập tâm linh tự nó không tự động đem lại sự chuyển hóa tâm thức. Học hỏi một giáo lý tâm linh không tự động đem lại sự chuyển hóa tâm thức.

Có rất rất nhiều người, rất nhiều người tâm linh qua các thời đại trong truyền thống Phật giáo lẫn các truyền thống khác tin rằng có một bí quyết đem lại sự tăng triển tâm linh. Họ nghĩ rằng có một giáo lý cao nào đó mà họ có thể tìm được. Chẳng hạn nhiều người tin rằng có giáo lý công truyền dành cho đại chúng, nhưng có giáo lý bí truyền chỉ dành cho giới ưu tú được tuyển chọn đã đạt tới tầng cao hơn trên con đường tâm linh. Họ nghĩ các giáo lý này được cất giấu đâu đó, và họ bỏ ra cả cuộc đời cố đi tìm các giáo lý này, vì họ nghĩ rằng một khi tìm ra họ sẽ tự động giác ngộ bằng cách chỉ giản dị đọc giáo lý đó. Làm sao chuyện này xảy ra được? Đúng, một giáo lý tâm linh có thể giúp con thấy một ảo tưởng, nhưng không bảo đảm là đọc một giáo lý đặc trưng sẽ giúp con thấy ra ảo tưởng của con.

Có thể có hai người có cùng ảo tưởng, cùng ngã tách biệt. Họ đọc cùng một giáo lý tâm linh. Một người có thể nhìn ra ảo tưởng và buông bỏ nó, nhưng người kia không nhìn ra ảo tưởng. Tại sao không? Ấy, vấn đề là con có nhận ra tinh túy của con đường tâm linh không? Có phải tinh túy là nhìn ra ảo tưởng và buông bỏ ngã tách biệt, hay là bằng cách nào đó nâng cao và hoàn thiện ngã tách biệt? Chúng ta cũng có thể nói vấn đề là con tập trung chú ý nơi nào? Con nhìn ra bên ngoài con hay con nhìn vào trong con? Con có sẵn lòng nhìn vào chính tâm lý mình, nhìn vào các ảo tưởng của mình, vật lộn với chúng cho tới khi con nhìn xuyên thấu chúng? Hay liệu con nghĩ có cái gì thần diệu ở ngoài con có thể làm giùm cho con? Hay đúng hơn, thậm chí con không nghĩ là điều đó bên ngoài sẽ giải quyết tâm lý của con, mà con nghĩ có vị đạo sư bên ngoài kia sẽ đem cho con sự giác ngộ một cách thần diệu nào đó. 

13.7. Những gì một đạo sư không làm được cho con

Ở phương Đông có một truyền thống lâu đời về quan hệ giữa đạo sư và đệ tử. Nhiều, rất nhiều người tin rằng – và có nhiều đạo sư cũng sẽ xác nhận – là một vị đạo sư chân chính (và họ hầu hết thuộc nam giới) có khả năng thần diệu nâng đệ tử lên một trạng thái cao, giác ngộ, niết bàn hay bất kỳ con gọi là gì. Điều này không thể làm được. Không ai có thể gỡ bỏ quyết định của con hộ con. Con phải sẵn lòng nhìn một cách ý thức vào những quyết định mà con đã lấy trong quá khứ khi con chấp nhận một ảo tưởng và tạo ra một ngã tách biệt, và con phải muốn lấy quyết định một cách ý thức để cho ngã tách biệt này chết đi.

Một vị đạo sư có thể giúp con thấy ngã tách biệt. Vị ấy có thể khiến con phải đối mặt tự ngã của con. Vị ấy có thể hành xử thế nào để phơi bày, kích hoạt một trong những khuôn nếp phản ứng mà con mang. Nhưng vị ấy không thể quyết định hộ con, vì quyết định được tạo ra trong tâm con và chỉ có thể gỡ bỏ trong chính tâm con. Có thể con không ý thức mình đã lấy quyết định đó nhiều kiếp trước, nhưng con vẫn có thể trở nên ý thức là mình đã từng lấy quyết định, hậu quả của nó là gì và do đó con buông bỏ nó. Không có cố gắng bên ngoài, sức mạnh bên ngoài hay đạo sư bên ngoài nào có thể làm hộ con. Ngày nào con còn nghĩ con có thể hướng chú ý ra ngoài và cố gắng thay đổi điều gì đó bên ngoài, thì con sẽ dậm chân tại chỗ trên con đường tâm linh. Con sẽ chẳng đi tới đâu. Một lần nữa, con có thể tạo cảm tưởng mình đang tiến tới, nhưng con thật sự làm gì khi con làm vậy? 

Con hãy suy ngẫm những gì thày nói ở đây. Con có một số ngã tách biệt dựa trên ảo tưởng. Chúng giam con trong tấm màn huyễn Maya. Giờ đây con tìm thấy đường tâm linh, một giáo lý tâm linh. Đấy là một giáo lý tâm linh có giá trị. Nó có tiềm năng giúp con tăng triển khi con dấn thân theo Bát chánh đạo, nhưng liệu nó sẽ làm được hay chăng? Kết quả không thể nào bảo đảm, bởi vì cốt lõi của đường tu chân chính là con khắc phục các ngã tách biệt, con đưa chúng lên tâm ý thức và con thải bỏ chúng một cách ý thức. Nếu con không chịu làm hay không nắm bắt được điều này, thì con sẽ làm gì thay vào đó? Con sẽ lấy giáo lý tâm linh và dùng nó để xây dựng một ngã tách biệt mới. Ngã tách biệt này sẽ dựa trên ảo tưởng là nếu con chăm chỉ học giáo lý, nếu con chăm chỉ thực hành các pháp tu, thì con sẽ trở nên một học trò ngày càng cao cấp qua việc chứng tỏ những thứ vỏ ngoài đó và vì thế con đang tiến bộ trên đường tu.

Nhiều, rất nhiều người qua các thời đại có thiện ý muốn tiến bộ tâm linh nhưng lại không nắm được bản chất cốt yếu của con đường tâm linh, và do đó họ chỉ giản dị tạo ra một số ngã tách biệt dựa trên giáo lý tâm linh. Họ đã củng cố cho tự ngã vốn tin là nó tách biệt và luôn cố gắng cao trội. Một lần nữa, tại sao tự ngã lại cố gắng cao trội? À, tự ngã có đủ nhận biết để biết là nó không trọn vẹn. Nó không thật sự hiểu là nó không bao giờ có thể vào được thiên đàng nhưng nó biết là nó không trọn vẹn. Nó biết là con cảm thấy không trọn vẹn và nó liên tục tìm cách che phủ hay bù đắp cho sự thiếu trọn vẹn này. Tự ngã liên tục tìm cách cao trội theo một kiểu nào đó vì nó nghĩ, tự ngã nghĩ, là nếu nó trở nên đủ tinh xảo lịch duyệt trong thế gian này thì nó bắt buộc phải được phép lên cõi cao.

13.8. Tự ngã được tâm linh hóa

Rất nhiều người tin vào một Thượng đế tối cao đã, trên cơ bản, tạo ra một tự ngã nghĩ rằng nếu tôi làm hết mấy chuyện vỏ ngoài kia đúng theo quy định của tôn giáo, thì đơn giản Thượng đế phải cho phép tôi vào thiên đàng. Thượng đế phải ban cho tôi đời sống bất tử. Và như vậy tự ngã đang thương thảo với Thượng đế: “Con làm mấy chuyện vỏ ngoài này thì ngài phải cho con lên thiên đàng.” Vấn đề là tất cả những thứ này là chuyện tưởng tượng. Trước hết, hình ảnh mà tự ngã tạo ra về Thượng đế chẳng dính dáng gì đến thực tại của cõi tâm linh. Chẳng hạn con có thể nhìn lại ba tôn giáo độc thần đặt căn bản trên hình ảnh của kinh Cựu ước về một Thượng đế giận dữ trên trời, và con có thể nói: “Có chăng một Thượng đế như thế trên trời phù hợp với hình ảnh này hay không?” Sự thực là không có thượng đế nào như thế trên trời, nhưng có một sinh thể được tạo ra bởi tâm thức đại chúng và nó có sự hiện hữu tạm bợ ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc của vũ trụ vật chất và tâm thức tập thể. Đây là một thượng đế do con người tạo ra, dựa trên hình ảnh của tự ngã và giống như tự ngã. Đây là một thượng đế thiên vị tưởng thưởng những ai làm theo mệnh lệnh của ông nhưng trừng phạt những ai không vâng lời ông. Thượng đế này chỉ có thể là một thượng đế nhị nguyên, và do đó ông ấy không thể nào có chút thực tại nào một khi con nắm bắt nhị nguyên và bất nhị là gì.

Tự ngã đang cố làm một chuyện không thể làm được. Nó cố gắng quy định những tiêu chuẩn thế gian sẽ bảo đảm cho nó vào cõi cao. Tự ngã sinh ra từ ảo tưởng tách biệt, nó không bao giờ thấu rõ được cái một. Vậy tự ngã làm gì? Nó quy định những tiêu chuẩn dựa trên ảo tưởng tách biệt, có nghĩa là không thật. Sự thật là cái một, còn sự không thật là tách biệt và phân chia. Con nghĩ, hay tự ngã nghĩ, là con có thể rời cái một và đi vào tách biệt, và dựa trên ảo tưởng tách biệt con có thể trở về với cái một. Điều này không khả thi. Làm sao có bao giờ khả thi được?

Con có thể thấy nhiều người sùng đạo hay tâm linh tìm được một giáo lý tâm linh hay một lời dạy tôn giáo. Giờ đây họ tạo ra – hay đúng hơn, thường thường họ chụp lấy những gì đã được tập thể tín đồ của tôn giáo này tạo ra – một cái nhìn phức tạp về những gì họ phải làm và không được làm. Họ xả thân siêng năng thực tập như vậy, tuyệt đối tin chắc là mình đang tiến bộ và một ngày kia một chuyện gì đó sẽ xảy ra. Giê-su sẽ hiện ra trên trời, dẫn người Cơ đốc lên thiên đàng, cuộn thế giới lại như cuộn giấy và xử phạt mọi người khác xuống địa ngục. Phật sẽ hiện ra cho con người, ban cho họ giác ngộ và bỏ mặc những người còn lại. Một giáo lý thần diệu sẽ hiện ra cho họ và khi họ đọc giáo lý đó, họ sẽ giác ngộ.

Nhiều người mang niềm tin là việc bước chân trên đường tâm linh là một cuộc mạo hiểm đầy vinh quang dẫn họ đến những mức tinh xảo càng ngày càng cao, những địa vị và ca ngợi của thế gian theo các tiêu chuẩn được quy định trong thế gian. Các tiêu chuẩn này là do tự ngã quy định dựa trên tách biệt. Làm sao chúng có thể dẫn con đến cái một được đây? Con đường tâm linh thật sự không vinh quang chút nào. Đó là con đường liên tục nhìn vào chính mình, phản ứng của mình, phơi bày phản ứng trong tâm lý mình và để chúng chết đi. Vạch trần các ngã tách biệt và để chúng chết đi. Đó chính là ý nghĩa của con đường tâm linh. Ngày nào con còn đầu thai thì con sẽ còn ngã tách biệt nào đó mà con chưa phát hiện, bởi vì nếu con không có ngã tách biệt nào nữa thì con không thể ở lại trong một xác thân vật lý trên một hành tinh dày đặc như trái đất.

13.9. Giác ngộ nghĩa là như thế nào

Có một tin tưởng rất lâu đời trong các đệ tử tâm linh bảo rằng: “Ồ, người này đã giác ngộ, vị đạo sư kia đã giác ngộ.” À, ở đây có một sự thật và cũng có một ảo tưởng. Một mặt, rõ ràng là có những người đã đạt đến một tầng nhận biết cao hơn người trung bình. Chắc chắn là với những ai hiểu cách vận hành của con đường tâm linh mà thày đã giảng ở đây, các con đều có thể tu tập và dần dần tiến lên những tầng tâm thức cao hơn so với khi con mới cất bước, và chắc chắn cũng cao hơn một người trung bình. Tuy nhiên, nếu con nghĩ giác ngộ có nghĩa là con không còn ảo tưởng, không còn ngã tách biệt nào nữa thì con không có cái hiểu cao nhất.

Có câu truyện về Phật nói rằng khi thày giác ngộ, thày nhập Niết bàn rồi quyết định thay vì ở lại Niết bàn, thày sẽ trở về trái đất và giảng dạy, và do đó thày đã trở về trong trạng thái giác ngộ. Nhiều người đã phóng chiếu ra là thày, một cách nào đó, là một sinh thể toàn hảo, thày không còn ảo tưởng, không còn ngã tách biệt nào nữa. Sự thật là thày đã khắc phục hầu hết các ảo tưởng có thể có khi là một con người hiện thân. Nhưng thày vẫn chưa khắc phục tất cả mọi ảo tưởng, vì nếu được vậy thì thày đã không thể ở lại trong một cơ thể vật lý. Điều này không có nghĩa là thày không đạt được một tầng tâm thức cao hơn người trung bình – thày có đạt được như vậy. Mà điều này có nghĩa là thày có một sự thẩm định thực tế, hay con có thể nói là thẩm định khiêm tốn về chính mình. Thày không xem mình là một sinh thể toàn hảo như nhiều môn đồ của thày thời đó nghĩ, và đặc biệt sau này vẫn tiếp tục nghĩ.

Có một hiện tượng trong các phong trào tâm linh mà chúng ta có thể gọi là “hội chứng đạo sư chết”. Một khi vị đạo sư qua đời, người ta bắt đầu phóng chiếu ước mơ và ảo tưởng của mình lên đạo sư – vị ấy đặc biệt như thế nào, vị ấy toàn hảo như thế nào. Tại sao họ lại làm vậy? Bởi vì đạo sư càng đặc biệt bao nhiêu thì các đệ tử cũng đặc biệt bấy nhiêu. Qua cách này, họ xây đắp tự ngã, xây đắp ảo tưởng là bằng cách đi theo vị thày hoàn hảo này, và bởi vì thày quá đỗi hoàn hảo, thày sẽ có quyền năng thần diệu biến đổi họ mà họ không cần nhìn vào chính trạng thái nhận biết và tâm lý của họ.

Thày đang nói gì ở đây? Giản dị thày đang nói là khi con còn đầu thai trong thân thể vật lý thì con vẫn có một số ảo tưởng đặc thù mà con cần khắc phục. Nghĩa là con phải khiêm tốn, con phải thực tế và không tuyên bố mình đã đạt được một sự toàn thiện nào đó. Có những người tuyên bố họ là hiện thân của một vị thần hay họ đã đạt được một trạng thái giác ngộ nào đó. Có những người không tự mình tuyên bố như vậy nhưng họ cho phép những ai theo họ tin vào điều này mà không cải chỉnh. Đây không phải là cách nhìn cao nhất.

Ngày nào con còn trong thân vật lý, con vẫn còn ít nhất một ảo tưởng phải khắc phục, và khi con khắc phục nó thì con không thể ở lại trong thân vật lý được nữa. Giản dị như thế. Con có thể chế ra đủ loại truyền thuyết và ý tưởng về những sinh thể toàn hảo sống trên núi Himalaya đã duy trì được thân vật lý của họ suốt hàng thế kỷ. Không phải là không có phần nào sự thật trong đó, nhưng các sinh thể này không nhìn họ như con nhìn họ từ trạng thái tách biệt. Họ đã đạt được một tầng nhận biết cao độ nhưng họ thực tế nhận rằng vẫn còn điều gì đó giữ họ trong thân vật lý, và để vĩnh viễn thoát khỏi thân ấy họ phải khắc phục ảo tưởng đó. Họ thực tế trong sự đánh giá chính mình bởi vì con không thể đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn mà không khắc phục sự tách biệt, ý niệm tách biệt. Chỉ trong ý niệm tách biệt mới có người cao trội hơn người khác. Việc tôn thờ một vị thày tâm linh chỉ có thể phát xuất từ ý niệm tách biệt. Nếu vị đạo sư tuyên bố là mình cao trội, hoặc nếu ông cho phép người theo ông nâng ông thành người cao trội, thì ông vẫn chưa khắc phục được tách biệt. Làm sao ông đã có thể làm được?

13.10. Nỗ lực giả hiệu khi nâng mình cao hơn người khác

Một thẩm định thực tế hơn là khi con đã khắc phục tất cả ngã tách biệt đó, con là sự biểu hiện của tâm một và mọi người cũng vậy. Ấy, làm thế nào một biểu hiện của tâm một có thể tinh xảo hơn, hoàn hảo hơn một biểu hiện khác? Mọi sự đều là Phật tánh. Mỗi sinh thể có tự nhận biết là một biểu hiện của Phật tánh. Làm sao trên cơ bản một sinh thể có thể đặc biệt hơn những sinh thể khác? Tuyên ngôn Độc lập của Hoa kỳ nói: “Mọi con người được tạo ra bình đẳng.” À theo một nghĩa nào đó, đây là sự công nhận tất cả là biểu hiện của Phật tánh. Trong Phật tánh không có phán xét giá trị. Chỉ trong màn huyễn Maya, trong ảo tưởng tách biệt mới có phán xét giá trị nói rằng một người đặc biệt hơn người khác.

Những lời này liên quan gì tới nỗ lực? Ấy, bất kỳ nỗ lực nào để nâng con lên cao hơn so với người khác không phải là nỗ lực cao hơn. Làm sao có thể được? Khi con bước lên cao hơn và thoát khỏi càng ngày càng nhiều ảo tưởng tách biệt, con bắt đầu nhận ra tổng thể, cho nên mỗi nỗ lực của con có mục đích nâng cao tổng thể, chứ con không nâng cao chính mình như một cá nhân tách biệt.

Mong muốn nâng mình lên cao như một cá nhân tách biệt phát xuất từ ảo tưởng tách biệt và chỉ có thể buộc chặt con vào ảo tưởng đó. Nếu con nâng mình lên để là một đạo sư hoàn hảo và con khiến những người theo con tin điều này, mọi nỗ lực con bỏ ra chỉ làm cho chính con mắc bẫy sâu hơn trong ảo tưởng tách biệt, đồng thời giữ những người theo con mắc bẫy sâu hơn trong ảo tưởng tách biệt. Nếu con đọc kỹ những ghi chép, thành thực mà nói khá rời rạc và không đầy đủ, về cuộc đời của Phật và con đọc giữa hai hàng chữ, thì con sẽ thấy điều này – rằng thày không dựng mình lên trong vị thế một sinh thể hoàn thiện. Tuy nhiên con có thể tìm thấy những giáo lý dựng thày lên như vậy, nhưng đây là những giáo lý được thêm vào sau này bởi những người nhìn cuộc đời và giáo lý của Phật qua màn huyễn Maya. Họ đã áp chồng các niềm tin tách biệt của họ lên đó, niềm tin của họ vào sự tách biệt. Và vì vậy họ đã thần tượng hóa Phật, bảo Phật thật quá đặc biệt, cách Phật sinh ra đời đặc biệt đến nỗi Phật là vị đạo sư hoàn hảo duy nhất và độc nhất đã từng xuất hiện trên mặt đất. Đó là lý do tại sao thày có khả năng thần diệu dẫn họ tới giác ngộ mà không cần họ phải bỏ ra nỗ lực vừa khó khăn vừa khó chịu để nhìn vào chính tâm lý mình và khắc phục các dính mắc của mình.

Tất cả đều là ảo tưởng do ngã tách biệt tạo ra. Con không thể khắc phục tách biệt bằng tách biệt. Con không thể tạo ra một ngã tách biệt nắm được cái một, trải nghiệm cái một, nhập vào cái một. Con không thể lấy một ngã tách biệt và hoàn thiện nó để nó đi vào hợp nhất. Con không thể khắc phục một trạng thái tâm thức, khắc phục một vấn đề với cùng trạng thái tâm thức đã tạo ra vấn đề.

Một số người sẽ bảo sao thày cứ lặp đi lặp lại. Khi con đọc lại một số giáo lý nguyên thủy, con sẽ thấy thường có một câu truyện được kể ra để minh họa một điểm nào đó. Sau đó truyện này được kể một lần rồi lần nhì rồi lần ba, trong một số trường hợp còn kể nhiều hơn ba lần. Tại sao vậy? Bởi vì hầu hết những người nghe không nắm bắt được giáo lý lần đầu tiên họ nghe. Con có thể cảm xúc, lý trí và bản sắc. Khi con học một giáo lý thì con nắm bắt nó ở tầng cảm xúc, rồi con học lại và nắm bắt ở tầng lý trí, và con học lại và nắm bắt ở tầng bản sắc. Nếu như con không nắm bắt được ở tầng cảm xúc thì sao? Con có thể dễ dàng đọc giáo lý mà nó không chuyển hóa tâm thức của con. Con hiểu giáo lý qua trí năng và con dùng hiểu biết trí năng này để tạo ra một loại tâm ảnh về giáo lý. Đó không phải là nắm bắt giáo lý.

Nắm bắt giáo lý thật sự nghĩa là gì? Con ghi nhớ ở đây là thày không nói “hiểu biết” mà thày nói “nắm bắt,” thể nhập. Khi con lấy một giáo lý tâm linh đặc trưng và con dùng giáo lý như một tấm gương để soi chính mình, soi phản ứng của mình, soi chính tâm lý mình, và khi con thấy điều gì đó trong mình, con ý thức về nó và buông bỏ nó, thì lúc ấy con đã sử dụng giáo lý, lúc ấy con nắm bắt giáo lý. Con đã đưa giáo lý vào hành động.

13.11. Mục đích thật của một giáo lý tâm linh

Thậm chí còn hơn thế, mục đích của một giáo lý vỏ ngoài là gì? Đó là nối kết con với cội nguồn của giáo lý. Con làm sao nối kết với cội nguồn của giáo lý? À, không phải là qua tâm tách biệt. Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với bất cứ gì? Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với bất cứ gì vượt quá sự tách biệt? Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với cái một?

Đây con nhìn Phật. Thày đi trên con đường tâm linh nhiều năm. Thày đạt được một tầng nhận biết cao và thày có một chọn lựa. Thày có thể bỏ trái đất lại đằng sau vĩnh viễn và nhập niết bàn. Thày sẽ không mô tả điều gì xảy ra ở niết bàn, nó không liên quan đến cuộc thảo luận ở đây. Thày có chọn lựa bỏ lại trái đất đằng sau. Thay vào đó, thày chọn trở lại một cơ thể vật lý để giáo huấn. Thày muốn thực hiện điều gì? Ấy, thày biết là cơ thể của thày có tuổi thọ giới hạn. Thày biết việc giảng dạy trực tiếp và tương tác với đệ tử chỉ có thể kéo dài một thời gian, do đó mục đích của thày là trao truyền một giáo lý có thể tồn tại lâu hơn thân vật lý của thày và giúp những thế hệ tương lai bước trên đường đạo, chính con đường mà thày đã đi qua để tới được những tầng nhận biết cao hơn.

Có những tầng khác của con đường, như thày đã mô tả, có thể giúp con đi một số bước khác. Cốt lõi của đường tu, mụch đích thật của giáo lý là gì? Ấy, thày đã đạt được một tầng nhận biết cao như thế nào? Thày đạt được bằng cách khắc phục các ảo tưởng, vứt bỏ chúng từng cái một. Sau khi thày bắt đầu khắc phục những ảo tưởng này, chuyện gì bắt đầu xảy ra?  Chuyện bắt đầu xảy ra là thày kết nối với cái ta cao của thày, với Phật tánh trong thày. Thày kết nối với tâm một và thày không làm thế qua trí năng. Thày không làm thế từ một khoảng cách, thày không làm thế bằng cách tạo ra một hình tư tưởng về tâm một. Thày không làm thế bằng cách dùng tâm tách biệt để tạo ra một hình tư tưởng về tâm một. Không đâu, thày làm thế bằng cách bước ra ngoài tâm tách biệt và trải nghiệm trực tiếp tâm một. Đây là mục đích nội tại thật sự của một giáo lý – kết nối con với tâm một bên trong con để con không phóng chiếu là tâm một ở ngoài con.

Đâu là sự thật đằng sau giáo lý nói rằng mọi sự đều là Phật tánh? Con có Phật tánh trong con. Làm thế nào con sẽ tìm thấy Phật tánh? Làm thế nào con tìm được Phật? Chỉ bằng cách nhìn vào bên trong con. Tâm tách biệt, tự ngã không thể nào nắm bắt được điều này. Nó sẽ mãi mãi đi tìm ở ngoài con, ở ngoài chính nó. Con tìm thấy một giáo lý Phật giáo nói về Phật, thế là tâm tách biệt phóng chiếu: “À Phật ở bên ngoài mình. Phật ở kia. Phật ở kia. Phật ở đằng sau tảng đá kia. Phật ở trong hang đá kia trên núi Himalaya. Phật ở trong quyển kinh kia. Phật ở trong pháp tu này.” Có một vị thiền sư Phật giáo đưa ra ý tưởng là nếu con gặp Phật trên đường thì con cần giết Phật. Tại sao thế? Bởi vì nếu con gặp một người và nhận diện người đó là Phật, thì khi làm vậy con sẽ ngăn cản mình nhìn thấy Phật tánh bên trong mình, và điều này sẽ chặn đứng bước tiến của con trên đường đạo. Tốt hơn là con giết con người vỏ ngoài kia – không phải là giết thân vật lý của họ mà giết cái hình tư tưởng trong tâm con – để con còn có cơ hội khám phá Phật tánh trong chính con.

Làm thế nào con khám phá được Phật tánh trong chính con? Không qua hiểu biết trí năng mà qua một trải nghiệm trực tiếp. Điều gì có thể cho con trải nghiệm này? Ấy, thày đã giảng cốt lõi bản thể con là cái Ta Biết, cái ta ý thức. Nó tạo ra nhân cách vỏ ngoài. Nó tạo ra nội dung của tâm cảm xúc, lý trí và bản sắc, nhưng nó không trở thành những nội dung đó. Con đã tạo ra tự ngã nhưng con không trở thành tự ngã. Con chỉ chui vào tự ngã giống như con mặc vào một bộ áo giáp. Con không thể mất đi khả năng bước ra ngoài tự ngã và tâm vỏ ngoài. Khi con ý thức về khả năng này, khi con trau dồi nó, khi con dùng nó, khi con giảm thiểu lực hút của tâm vỏ ngoài trên tâm ý thức của con, thì con sẽ đạt tới một điểm con tự nhiên có trải nghiệm bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của mình, và do đó con kết nối với cái gì lớn hơn, cái gì vượt quá ý niệm bản ngã bình thường của con. Đây là trải nghiệm tâm một, trải nghiệm Phật tánh trong con.

Đây là mục đích của bất kỳ giáo lý tâm linh đích thực nào. Đây là mục đích của Bát chánh đạo.

13.12. Mục đích của các nỗ lực của con

Cho nên bây giờ con có thể lượng định các nỗ lực của mình. Nỗ lực của con nhắm tới mục đích gì? Phải chăng mục đích là nâng con lên một vị thế nào đó dựa trên những tiêu chuẩn do thế gian quy định? Hay mục đích là cho con trải nghiệm kết nối, trải nghiệm hợp nhất với tâm một, với Phật tánh? Thấy Phật tánh trong con thay vì thấy nó ngoài con. Mục đích của Phật khi trở về từ niết bàn để giáo huấn là gì? Phải chăng là để đời đời nâng mình lên cao khiến cho mọi người trên trái đất phải trầm trồ: “Ồ, ngày xửa ngày xưa, có sinh thể kia toàn hảo tuyệt vời đã bước chân trên mặt đất. Chúng ta phải tôn thờ ngài, chúng ta phải đi theo ngài và một ngày kia ngài sẽ nâng chúng ta lên chỗ toàn hảo?” Có thật chăng là Phật đã chạy theo một cái tôi vĩ đại muốn nâng mình lên trên tất cả mọi người đời đời kiếp kiếp? Nếu con tin như vậy thì con đang ở trong trạng thái tách biệt và con đang phóng chiếu giấc mơ của chính tự ngã của con lên Phật. Thà là con giết ông Phật này đi vì làm vậy còn có thể giúp con tiến bộ, bởi vì việc thờ phượng Phật đó dứt khoát không giúp con tiến bộ.

Thật sự Phật đã muốn gì? Phật muốn đưa ra một tấm gương là bất kỳ người nào cũng có thể đạt một tầng nhận biết cao hơn. Như thế khi nhìn vào Phật như một tấm gương, họ có thể nói: “Điều gì một người làm được thì mọi người cũng đều làm được. Nếu Phật có thể đạt được một trạng thái nhận biết cao thì tôi cũng có thể làm được.” Làm thế nào Phật đạt được nhận biết cao? Bằng cách tìm lại Phật tánh trong chính mình. Phật nói mọi sự đều là Phật tánh, nghĩa là tôi có Phật tánh trong tôi, nghĩa là tôi có thể tìm lại Phật tánh trong tôi bằng cách theo gương và giáo lý của Phật. Nếu tôi phóng chiếu là Phật tánh chỉ có thể hiện ra trong Phật, thì tôi không thật sự là người theo Phật. Tôi không đang dùng giáo lý và tấm gương của Phật. Tôi đang dựng lên một thần tượng và tôn thờ thần tượng đó.

Một lần nữa, nỗ lực của con phải nhắm tới gì? À, mục đích của con trên con đường tâm linh phải là trải nghiệm hợp nhất, trải nghiệm nối kết. Ngay đây con hãy quan sát tâm vỏ ngoài của con đang phản ứng thế nào. Tâm vỏ ngoài của con sẽ nói: “Ồ, để tạo ra trải nghiệm này, để bảo đảm có trải nghiệm này, hẳn tôi phải nỗ lực một cách đặc biệt nào đó.” Nếu con nắm những gì thày nói ở đây, con sẽ thấy sự ngớ ngẩn của lối tiếp cận đó. Không có nỗ lực nào dựa trên ảo tưởng tách biệt mà có thể bảo đảm sản xuất ra trải nghiệm hợp nhất. Điều con cần làm là không nỗ lực, không cố gắng tốt hơn, không cố gắng mãnh liệt hơn. Con cần ngưng cố gắng. Con cần ngưng những nỗ lực của ngã tách biệt muốn chế tạo tiến bộ tâm linh.

Nhưng này con, thày đã nói có những nỗ lực con có thể làm để khắc phục các ảo tưởng, tuy nhiên không có nỗ lực nào con có thể làm để trải nghiệm cái một. Để trải nghiệm cái một, con phải ngưng nỗ lực. Con thật sự phải cho tâm con im lặng, nhưng làm thế nào con làm cho tâm im lặng? Tâm con sẽ hỏi, tôi phải nỗ lực thế nào để tôi im lặng? Chẳng có nỗ lực nào con có thể làm được.

13.13. Nỗ lực để ngừng tâm lại

Nhiều người, thật nhiều người trong truyền thống Phật giáo đã thiền quán và thấy rõ tâm họ luôn xen vào. Tâm khỉ luôn xẹt ra ý tưởng, nên họ nghĩ họ phải tìm ra một nỗ lực cao hơn để khiến tâm im bặt. Con càng nỗ lực làm cho tâm im lặng thì kỳ thực con càng dùng tâm nhiều hơn, do đó con càng kẹt hơn trong tâm mình. Nghĩ rằng con có thể dùng tâm để làm cho tâm im lặng chỉ biến thành một cái bẫy, một cái bẫy khác. Vậy con làm được gì đây? À, con có thể tiến bước trên đường tu, con có thể dùng những giáo lý mà thày cho con ở đây. Và khi con khắc phục những ngã tách biệt, sẽ có những lúc con trải nghiệm một cách tự phát là mình đang bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của mình và nối kết với cái gì vượt lên trên chính tâm mình.

Trải nghiệm hợp nhất không phải là điều gì con có thể chế tạo, mà đó là một điều con nhận được. Con có thể xem đó như một món quà hay một hồng ân, nhưng con hãy cẩn thật đừng nghĩ là có một lực bên ngoài nào đó ban cho con hồng ân này. Nó chỉ xảy ra một cách tự phát khi con bước trên đường tu. Cho nên con cần kiên nhẫn với chính mình, tiếp tục bước đi trên đường tu và chờ nó xảy ra. Nói theo một khía cạnh nào đó, con đừng dính mắc là nó có xảy ra hay không xảy ra, bởi vì nếu con muốn nó xảy ra thì con đang làm gì? Con đang dùng tâm vỏ ngoài để cố gắng cho nó xảy ra, và điều này sẽ đẩy nó xa hơn khỏi con. Nhiều, rất nhiều người tâm linh quả thực đã đạt đến một mức loại bỏ dược nhiều chướng ngại trong tâm. Họ có khả năng trải nghiệm sự kết nối với tâm cao của họ vì các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của họ đã đủ thông thoáng. Họ có khả năng làm được, nhưng trong tâm ý thức họ quá mức tập trung vào nỗ lực, cho nên họ đẩy trải nghiệm này xa khỏi họ.

Không có nỗ lực nào con có thể bỏ ra. Con chỉ có thể từ bỏ nỗ lực. Con có thể xả bỏ. Con có thể buông bỏ. Buông bỏ sự dính mắc. Nhiều người tâm linh bị dính mắc muốn có những trải nghiệm tột đỉnh này, và sự dính mắc ngăn cản tâm họ buông bỏ và do đó đẩy trải nghiệm ra xa. Nhiều người đã làm chuyện này hàng chục năm trời, thậm chi cả nhiều kiếp, liên tục tập trung quá đỗi trong tâm thay vì buông ra. Hầu hết những ai cởi mở với giáo lý này đều đã có một mức thông thoáng nào đó trong tâm mình. Cho nên con có thể ngay lúc này trải nghiệm sự kết nối, nhưng con sẽ chỉ trải nghiệm kết nối khi con có thể buông bỏ. Thay vì ở trong trạng thái tâm bình thường của con hay ở trong tâm muốn có một trải nghiệm nào đó, con đi vào trạng thái tâm hoàn toàn trung hòa. Bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra. Nếu con có trải nghiệm thì con có trải nghiệm. Nếu con không có trải nghiệm thì con cứ tiếp tục bước trên đường tu.

Trên đường tâm linh con có thể có những nỗ lực sẽ giúp con tăng triển. Có những nỗ lực con có thể áp dụng sẽ dần dần đưa con lên những tầng cao hơn và cao hơn nữa. Sẽ tới một tầng trên đường tu khi con cũng cần suy ngẫm xem là vượt quá nỗ lực – và thày không nói là con phải ngừng nỗ lực – nhưng vượt quá nỗ lực, liệu con có cần vun trồng khả năng không nỗ lực. Con buông bỏ, con phó thác, con xả bỏ để xuôi theo dòng sông sự sống, cho dù con muốn nhìn cách nào. Con không nỗ lực. Nỗ lực tối cao là không nỗ lực.

Với những lời này, thày niêm con. Đối với thày, bài giảng thật dài này được trao truyền hoàn toàn không cố gắng. Liệu con đã có cố gắng khi học bài giảng này hay chăng? Ấy, vậy thì con hãy suy ngẫm những gì thày vừa nói về buông bỏ, vì con có thể đạt tới điểm khi việc học hỏi và thể nhập bài giảng trở nên không cố gắng, và đó là lúc con đã nắm được nỗ lực cao hơn một cách trọn vẹn.

2 | Con thỉnh cầu sự sẵn lòng bị xao động

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con sẵn lòng bị xao động, để con không đè nén cảm xúc tư tưởng của mình mà giải quyết chúng. Xin thày giúp con bước theo con đường nội tâm của Bát chánh đạo và mở rộng tầm nhìn của con đến gần hơn tầm nhìn của Phật, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là khi con bước vào hiện thân vật lý như một sinh thể tâm linh, con giống như một người chìm xuống đáy biển trong bộ đồ lặn gò bó, nặng nề. Chì lặn khiến con đi đứng khó khăn, nước đục khiến con nhìn không rõ, và áp suất của nước đè nặng lên con.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Phật Gautama, con nhận ra là con mặc đến bốn bộ đồ lặn. Từ một sinh thể tâm linh đi xuống đầu thai, trước tiên con khoác vào một thể bản sắc, là trụ điểm của bản sắc của con, tức là cách con nhìn mình là ai. Bản sắc này bị tâm thức tập thể, xã hội và nền văn hóa nơi con sống chi phối sâu đậm.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Phật Gautama, con nhận ra sau đó con khoác vào một thể lý trí, là trụ điểm của tư tưởng. Đây là những điều con có thể làm hay không thể làm, con làm bằng cách nào, con có những chọn lựa nào trong cuộc sống.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Phật Gautama, con nhận ra sau đó con khoác thêm một thể cảm xúc, là trụ điểm của cảm xúc, của những khuôn nếp quy định cách con phản ứng trước các tình huống trong đời sống.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Phật Gautama, con nhận ra là cuối cùng con khoác vào cơ thể vật lý, là thể gò bó nhất trong cả bốn thể vì nó dày đặc nhất.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là con đã đầu thai trong nhiều kiếp. Con không chỉ đem vào kiếp này nền văn hóa nơi con lớn lên, mà con còn đem theo từ tiền kiếp nhiều khuôn nếp ở mức bản sắc, lý trí, tình cảm. Mặc dù cơ thể mỗi lần đầu thai là một thân mới, nhưng các khuôn nếp từ quá khứ vẫn định đoạt cơ thể của con sẽ như thế nào, vận hành ra sao, mang xu hướng bệnh tật gì.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm là một khi con ở bên trong bốn thể này và trầm mình vào tâm thức tập thể của trái đất, con không thể nào tránh cảm thấy bị gò ép bởi áp lực khổng lồ đó. Đây là Khổ đế – cuộc sống là khổ đau.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm ý nghĩa sâu sắc hơn của Tập đế – đau khổ xuất phát từ những mong muốn sai lầm. Có thể con đã bị lạc vào tâm thức nhị nguyên khi con tìm cách quy định bên này là những ham muốn sai lầm, và bên kia là những ham muốn đúng đắn. Có thể con đã áp đặt một phán xét giá trị tốt-xấu lên hai đối cực đúng-sai.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm trạng thái tâm thức nhị nguyên này là nguyên nhân của khổ đau. Nay con thấy rõ tâm thức tập thể bị chi phối sâu đậm bởi nhị nguyên, và nhị nguyên thì tạo ra áp lực mà con cảm thấy trong cả bốn thể.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Phật Gautama, con chiêm nghiệm những cục chì lặn đã khiến con bị chìm xuống đáy biển chính là cơ thể vật lý của con, các khuôn nếp cảm xúc của con, các tin tưởng hay những con bò thiêng trong trí thể của con, và cả ý niệm bản sắc của con.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là các thày tâm linh đã giải phóng mình khỏi bộ đồ lặn, đã lên khỏi mặt nước và hòa mình vào ánh sáng mặt trời, giờ đây đang cố liên lạc với những người như con còn bị bộ đồ lặn giữ chặt dưới đáy biển.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con có một chọn lựa khác hơn cuộc sống mà con đang trải nghiệm. Có một cách khác để nhìn cuộc sống, một tầm nhìn rộng lớn hơn mà con có thể đạt được trong khi còn đầu thai. 

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Phật Gautama, con muốn đạt được tầm nhìn rộng hơn này. Con muốn vượt ra khỏi tầm nhìn hiện tại của con. Con muốn vượt ra khỏi mức nhận biết hiện thời, phin lọc nhận thức hiện thời, cách nhìn đời hiện thời của con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Phật Gautama, con nhận ra là khi con không vượt khỏi nhận biết hiện thời, con có xu hướng áp chồng lên giáo lý những khuôn nếp hiện có trong ba thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. Con kéo giáo lý xuống, thay vì giáo lý kéo con lên.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Phật Gautama, con nhận ra là có thể trong quá khứ, con đã áp chồng lên giáo lý mong muốn được cao trội hơn người khác. Có thể con đã nghĩ là những ai đi theo giáo lý của con, sống theo đủ bộ các yêu cầu vỏ ngoài như con, tuân thủ các quy tắc tu tập vỏ ngoài như con, là người cao trội hơn kẻ ngoại đạo.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Phật Gautama, con nhận ra giáo lý tâm linh là sợi dây cột bộ đồ lặn của con với mặt nước phía trên. Con đang nắm lấy sợi dây, con đang lần theo nó, và con nỗ lực leo lên khỏi mặt nước để hòa mình với ánh nắng mặt trời.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Phật Gautama, con nhận ra là khi con không vượt khỏi nhận biết hiện thời, con có xu hướng kéo sợi dây xuống tầng mức của mình, rồi quấn sợi dây xung quanh mình để giờ đây sau khi tiếp cận một giáo lý tâm linh, con lại càng bị bó chặt hơn trong bộ đồ lặn ban đầu.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Phật Gautama, con nhận ra là tất cả những ý tưởng đúng-sai về người mộ đạo phải hành xử ra sao, phải cảm thấy thế nào, phải suy nghĩ kiểu gì hay xác định mình là ai, đang bó chặt con trong bộ đồ lặn. Con quyết định thăng vượt những ý tưởng này.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Phật Gautama, nay con thấy rõ mục đích của một giáo lý tâm linh là để giúp con thấy một điều gì mà hiện giờ con không thể thấy, một điều gì vượt ngoài trạng thái tâm thức hiện thời của con.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Phật Gautama, áp lực cuộc sống khiến con cảm thấy đau khổ, cho nên trong quá khứ con đã tìm cách thoát khỏi áp lực. Xin thày giúp con chiêm nghiệm là mặc dù áp lực bên ngoài có thật, nhưng việc trải nghiệm áp lực này là một trải nghiệm bên trong.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Phật Gautama, con chiêm nghiệm là tuy áp lực có đó, nhưng chính việc con trải nghiệm áp lực như thế nào mới tác động đến con. Và trải nghiệm bên trong này thì đến từ các khuôn nếp cảm xúc, các khuôn nếp tư tưởng và ý niệm bản sắc của con.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Phật Gautama, con đang nhận diện các khuôn nếp tạo ra trải nghiệm áp lực trong ba thể. Con đem chúng vào nhận biết ý thức và con hỏi: “Liệu tôi còn muốn kéo lê những thứ này với tôi nữa không?” Con trả lời “không” và con buông chúng ra giống như con thả chì lặn xuống đáy biển.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Phật Gautama, nay con thấy rõ mong muốn thoát khỏi áp lực là một mong muốn không xây dựng, vì nó trói buộc con vào tầng nhận biết hiện tại, ngăn con vươn lên những tầng nhận biết cao hơn.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Phật Gautama, con nhận ra là có thể trong quá khứ, con đã nghĩ là con chỉ cần học và thực hành giáo lý vỏ ngoài mà không cần thay đổi nội dung trong ba thể của con. Con đã nghĩ là con có thể thoát khỏi trải nghiệm mà không cần làm bất cứ gì với chính những điều kiện đã tạo ra trải nghiệm.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm ý nghĩa sâu sắc hơn của Diệt đế – việc từ bỏ các dính mắc. Hãy giúp con nhận ra là nằm bên dưới mọi mong muốn không xây dựng, con có một nhu cầu an toàn, nhu cầu bình an, nhu cầu cân bằng, nhu cầu duy trì một sự liên tục nào đó.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Phật Gautama, con nhận ra là con đã dựng lên một số khuôn nếp để làm thành lũy bảo vệ con khỏi sự quá tải tâm lý, giúp con duy trì sự cân bằng. Các khuôn nếp này nhằm kìm nén cảm xúc, kìm nén ý nghĩ, kìm nén áp lực ở mức bản sắc, hầu con không bị choáng ngợp mà có thể tiếp tục sinh hoạt.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Phật Gautama, xin thày giúp con nhận diện cơ chế muốn duy trì trạng thái cân bằng. Chính cơ chế này khiến con dính mắc. Con bị dính mắc vào các khuôn nếp vì con cảm thấy chúng bảo vệ con khỏi cảm xúc hay ý nghĩ choáng ngợp, nhưng chúng lại ngăn con vượt khỏi mức nhận biết hiện thời của con.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Phật Gautama, con muốn thay đổi trải nghiệm sống của con. Con đang chất vấn chính những điều vừa bảo vệ con lại vừa giới hạn con. Chúng bảo vệ con khỏi bị áp lực quá tải, nhưng chúng lại giữ con trong áp lực một cách vô hạn định.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Phật Gautama, con không muốn một trạng thái cân bằng giả tạo qua đó con tỏ ra điềm tĩnh, tự chủ và kềm chế. Khi con làm vậy thì con đang dùng giáo lý để củng cố hoặc dựng lên những cơ chế mới nhằm đè nén cảm xúc. Điều này không đưa đến tăng triển và không giúp con đạt được an bình nội tâm.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Phật Gautama, con đang xem xét các khuôn nếp khiến con phản ứng giận dữ. Con nhận ra là con có một chờ đợi những gì phải xảy ra hay không được xảy ra trong hoàn cảnh bên ngoài. Do chờ đợi này không được đáp ứng mà trạng thái cân bằng của con bị xáo trộn. Trạng thái cân bằng che đậy một cảm giác bất lực sâu xa, cho nên khi cảm giác bất lực bị khuấy động thì con nổi giận. Cơn giận là phản ứng đối với sự bất lực.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Phật Gautama, con truy xem sự chờ đợi này và cảm giác bất lực này đến từ đâu. Con truy từ cảm thể lên trí thể cho đến bản sắc thể. Con có những khuôn nếp nào khiến con cảm thấy bất lực, khiến con cảm thấy điều này điều kia phải xảy ra hay không được xảy ra?

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Phật Gautama, nay con thấy rõ đây chính là đường tu. Đây là Đạo đế, là Bát chánh đạo, là xem xét các khuôn nếp trong tâm con một cách tuần tự và có hệ thống, đem chúng ra ánh sáng của nhận biết ý thức.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Phật Gautama, nay con thấy rõ con có một chọn lựa. Hoặc con đè nén các khuôn nếp và không thật sự bước trên Bát chánh đạo cho dù con có học giáo lý và thực hành biết mấy. Hoặc con giải thể các khuôn nếp, và như vậy cũng giải thể các phản ứng của con đối với thế giới.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Phật Gautama, con thấy rõ sự khác biệt giữa hai chọn lựa đó trong cách nhìn thế giới. Khi con đè nén thì con nhìn thế giới như một mối đe dọa tiềm ẩn. Bất cứ gì xảy ra xáo trộn sự cân bằng của con đều là mối đe dọa, cho nên con phải đè nó xuống để quay về trạng thái cân bằng.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Phật Gautama, con thấy rõ là trong chọn lựa thứ hai, con sẵn lòng bị xáo trộn. Con xoay chuyển và nói: “Mục tiêu thật sự của tôi là giải quyết tất cả mọi khuôn nếp trong ba thể đã trói tôi vào trái đất, đã giữ tôi trong bộ đồ lặn, đã ngăn tôi nắm lấy sợi dây và leo lên nấc thang để càng lúc càng tự do. Tôi muốn đi theo chánh đạo của đức Phật, không phải con đường vỏ ngoài mà con đường nội tâm của Bát chánh đạo.”

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Phật Gautama, con sẵn lòng bị xao động. Con không đi tìm sự an toàn trong các khuôn nếp cũ, mà con đón nhận sự xao động khi con chất vấn mọi khuôn nếp trong ba thể.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 5

5.1. Phật Gautama, con từ bỏ mọi mong muốn đè nén những mối nghi ngờ để tự thuyết phục là mình đúng. Con không đi tìm sự chứng thực từ những người mang cùng khuôn nếp tư duy để càng lúc càng tin chắc là mình đúng. Con chấp nhận thế giới vốn đa dạng, và con đón nhận bất cứ gì chất vấn các tin tưởng của con.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.2. Phật Gautama, con thấy rõ là mỗi khi trạng thái cân bằng của con bị xáo trộn bởi ngoại cảnh, thì điều này cho thấy bên trong con có gì kềm chế mà con chưa giải quyết. Xin thày giúp con giải thể dính mắc của con với việc duy trì trạng thái cân bằng.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.3. Phật Gautama, con thấy rõ cách duy nhất để tăng triển thật sự là dùng một giáo lý vỏ ngoài và một phong trào vỏ ngoài để chất vấn cảm giác cân bằng của con.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.4. Phật Gautama, con đạt được an bình nội tâm mặc dù vẫn còn thân vật lý và phải tiếp xúc với áp lực bên ngoài. Nhờ an bình nội tâm mà con giữ sự cân bằng cho toàn bộ hành tinh, giúp kéo tâm thức tập thể đi lên. Xin thày giúp con nhận ra đây chính là Sứ vụ Trọn đời của con. 

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.5. Phật Gautama, con đạt được an bình thật sự, không do đè nén mà do giải quyết. Xin thày giúp con trở thành một cánh cửa mở qua đó con nhận được các ý tưởng và xung lực từ một tầng nhận biết cao hơn để con có thể biểu đạt ra thế giới.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.6. Phật Gautama, xin thày giúp con xoay chuyển toàn bộ cách con tiếp cận cuộc sống. Con không còn tìm cách rút lui khỏi các hoàn cảnh mà con có thể gây phiền phức cho người khác hầu cố duy trì cảm nhận mình có thể ở đây mà không phải đối mặt với những người bảo con không có quyền ở đây.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.7. Phật Gautama, con thấy rõ con có quyền đeo đuổi một mức nhận biết cao hơn. Con có quyền biểu lộ mức nhận biết này ngay cả khi nó quấy rầy người khác. Chắc chắn nó sẽ quấy rầy người khác, vì bất cứ ai vượt ra khỏi những gì được xem là bình thường trong xã hội sẽ làm xáo trộn cảm giác bình thường, cảm giác cân bằng của người khác.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.8. Phật Gautama, xin thày giúp con thách thức cảm giác bình thường của mọi người. Hãy giúp con chứng tỏ là cuộc sống có cái gì hơn nữa, và con làm vậy bằng cách bước ra ngoài trong bất kỳ vai trò và khả năng nào.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.9. Phật Gautama, xin thày giúp con chiêm nghiệm con là một phần của hơi thở-vào của đấng Vô biên, nhờ vậy mà con an bình dù đang sống trong một thế giới đầy rẫy biểu hiện xáo trộn. Con có mặt ở đây để góp phần vào quá trình nâng cao mọi sự sống lên những tầng càng ngày càng cao hơn. Điều gì có thể xáo trộn được con đây, nếu không phải là một khuôn nếp mà con chưa giải quyết, một dính mắc mà con chưa buông bỏ?

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary và Phật Gautama hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

9 | Hành động cao hơn

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Chủ đề tiếp theo của chúng ta đương nhiên là điều mà theo truyền thống được gọi là Chánh nghiệp, nhưng thày sẽ chọn gọi là hành động cao hơn.

Con cần lấy các lời dạy của thày về Lời nói Cao hơn, về năng lượng và việc sử dụng năng lượng vì các đề tài này cũng liên quan đến hành động. Con có thể hỏi: “Làm thế nào một hành động vật lý với một cơ thể vật lý lại liên quan đến năng lượng?” À như thày đã nói, mọi thứ đều là năng lượng. Mọi việc con làm đều được làm với năng lượng. Thày biết có thể con sẽ dễ hình dung hơn việc gửi ra một xung lực năng lượng xuyên qua cảm thể khi con phóng chiếu một cảm xúc thật mãnh liệt. Và có thể con sẽ khó hình dun hơn việc gửi ra một xung lực năng lượng bằng cơ thể vật lý.

Vấn đề này tương đối dễ giải quyết khi con nhận ra cơ thể vật lý là thể thấp nhất trong bốn thể phàm của con. Con không thể nào có một hành động vật lý chỉ diễn ra trong cơ thể vật lý ở tầng vật lý mà thôi. Tầng vật lý là sự phóng chiếu của những gì xảy ra ở ba tầng cao hơn. Bất kỳ hành động nào cũng khởi sự ở thể bản sắc của con, đi xuống thể lý trí, đi xuống thể cảm xúc rồi mới được chuyển thành một hành động vật lý. Mỗi khi con hành động vật lý, con gửi ra một xung lực xuyên qua cả bốn thể phàm của con. Hầu hết mọi người không nhận biết điều này. Họ cứ đinh ninh là họ có thể hành động vật lý ở trong tầng vật lý mà thôi. Nhiều người tưởng rằng nếu họ quyết định làm một việc gì đó thì họ đang quyết định bằng tâm ý thức, mà họ không biết là họ đang có những khuôn nếp trong cả ba tâm cao hơn, và những khuôn nếp này đã phần lớn định ra ranh giới cho những gì họ có thể quyết định bằng tâm ý thức.

9.1. Ngăn ngừa một vòng xoáy nghiệp quả không kềm chế

Như thày đã giảng, nhiều người thường hành xử giống như một loại rô-bốt, một loại máy tính với những lập trình, những mô thức mà họ mang nơi những tầng tâm cao hơn, tâm tiềm thức của họ. Các chương trình này điều khiển phản ứng của họ, cho nên họ không đang lấy một quyết định vật lý, ý thức, để làm một việc gì. Quyết định được định đoạt bởi các khuôn nếp trong tâm tiềm thức. Đây là một sự kiện mà một lần nữa chúng ta có thể nói là có vẻ nghịch lý. Thày đã có giảng là về cơ bản, con có thể chọn một trong hai cách tiếp cận con đường tâm linh. Con có thể tìm cách kìm nén một số cảm xúc, một số ý tưởng, một ý niệm bản sắc nào đó, thậm chí cả một số hành động, nhưng điều này sẽ không giúp con nâng cao mức nhận biết của con. Để nâng cao nhận biết, con cần bước vào bên trong, xem xét các khuôn nếp và giải quyết chúng một cách ý thức – giải quyết thay vì phủ nhận và đè nén.

Khi nói đến hành động, có một giai đoạn trên đường tu khi quả thực con cần trau dồi một sức mạnh ý chí có ý thức để chặn đứng không cho một xung lực từ tâm tiềm thức, từ ba tầng của tâm con, bị đưa ra biểu hiện thành một hành động vật lý. Ở một mức tâm thức nào đó, con không hoàn toàn có khả năng giải quyết các khuôn nếp đó, con không thật sự biết cách làm thế nào, có thể con không có sự quyết tâm để giải quyết, hay con không sẵn lòng nhìn vào bên trong tâm mình – nhìn vào cái xà trong mắt mình theo cách diễn tả của Giê-su.

Xuyên qua các thời đại, không chỉ đạo Phật mà nhiều tôn giáo và nhiều truyền thống tâm linh khác, đã lập ra một quy tắc ứng xử, một quy tắc hành động về những gì con làm hay không làm khi con là tín đồ của tôn giáo đó. Chúng ta không thể chỉ đơn giản bác bỏ quy tắc này và bảo nó hoàn toàn sai trái, ngay cả nếu chúng ta dùng những từ “sai” và “đúng” trong bối cảnh này. Thày sẽ không tìm cách bác bỏ nó vì tất nhiên, khi con làm một hành động thì hành động này có thể tạo nghiệp. Như thày có giảng, nghiệp là các xung lực năng lượng đi qua bốn tầng cõi và quay trở về với con. Nếu con cứ liên tục làm những việc tạo ra các dạng nghiệp nghiêm trọng hơn, con có thể phá hoại khả năng nâng cao nhận biết của con. Cho nên ở một giai đoạn nào đó, thật là tự nhiên hoặc cần thiết con dùng sức mạnh của ý chí vỏ ngoài để kỷ luật hành động của mình, bởi vì nếu không, con sẽ phá hoại bước tiến tâm linh của con. Có thể con đang theo học một giáo lý tâm linh, có thể con đang thực hành một số pháp tu, nhưng nếu con không ngừng làm những việc tạo ra các dạng nghiệp nặng nề thì làm thế nào con tăng triển tâm linh được đây? Quả báo thường sẽ ngăn chặn hay cản trở đường phát triển tâm linh của con.

Có một số hành động đã được nhiều tôn giáo quy định suốt các thời đại. Chính thày đây chắc chắn cũng đã định ra một số giới luật cách đây 2500 năm. Một số điều răn được xác định trong Kinh Cựu ước qua những câu “Ngươi chớ…” Những câu này có thể hiệu nghiệm ở một tầng nào đó trong việc ngăn chặn một vòng xoáy nghiệp quả không kềm chế mà nhiều người đã vướng phải suốt nhiều kiếp sống. Đến một lúc nào đó con phải chặn nó lại, và bằng cách chấp nhận một khuôn mẫu lý tưởng về những gì một tín đồ trong tôn giáo của con không làm, thì quả thực con có thể tiến bộ. Nhưng tiến bộ này chỉ có thể đưa con đến một điểm nào đó mà thôi, vì thật ra nó không khiến cho vòng xoáy nghiệp quả ngừng hẳn. Nó sẽ ngăn không cho nghiệp trở thành vật lý nếu con không có những hành động vật lý, và nhờ vậy nó giảm bớt độ khắc nghiệt của vòng xoáy nghiệp quả. Tuy nhiên nếu con vẫn mang cùng những khuôn nếp trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, tất nhiên con vẫn phóng chiếu ra ngoài xuyên qua chúng. Chỉ có điều là nghiệp sẽ bớt nặng, bớt mãnh liệt.

9.2. Con đường vỏ ngoài và con đường nội tâm

Vậy con sẽ làm gì khi con vượt quá giai đọan đó? Thành thật mà nói, hầu hết những người cởi mở tâm linh đều đã vượt quá giai đọan đó rồi. Thường thường từ rất nhiều kiếp, con đã không tham gia vào chuyện giết người, không dùng ma túy hay rượu chè cùng nhiều loại sinh hoạt như vậy mà thày đã quy định ngay từ thuở đó là không có tính xây dựng trên con đường Bát chánh đạo. Vậy bước kế tiếp từ điểm này là gì? Ấy đó là trước hết, con nhìn nhận thật là không đủ mà chỉ quy định một số hành động như vậy mà thôi. Bởi vì tâm vỏ ngoài, tự ngã, vô cùng khéo léo sử dụng một giáo lý tâm linh để ngăn chặn bước tiến của con, để nó lẩn trốn hầu con không thấy nó, con không thấy cần buông bỏ nó, giải tán nó, giải thể nó.

Một trong những cách tự ngã làm là nó tạo ra, như thày đã có đề cập trước đây, khái niệm một con đường vỏ ngoài, một con đường tự động. Con đường này bảo rằng có hành động chân chính và hành động bất chính, có hành động đúng và hành động sai. Nếu con ép mình kiêng cữ những việc sai và nếu con ép mình chỉ làm những việc đúng, thì đảm bảo con sẽ lên được niết bàn. Nếu con cứ nhắm mắt bước theo con đường tự động này thì ở một điểm nào đó trong tương lai, đùng một cái, con sẽ giác ngộ. Con kiêng những việc làm phi tâm linh và con làm những việc làm tâm linh, kể cả những pháp tu do tôn giáo con quy định, và nếu con cứ siêng năng thực hành thì con sẽ tự động tiến bước.

Như thày vừa giảng, bằng cách nhịn không làm những hành động tạo nghiệp và thực hành các pháp tu tâm linh, con có thể tiến bộ nhưng chỉ tới một mức nào đó. Sẽ đến một điểm con không bước xa hơn mức này cho tới khi con neo chặt vào con đường nội tâm. Thật không đủ nữa nếu con chỉ kiêng một số hành động và làm một số hành động khác. Con cần làm việc trên tâm lý của con, giải quyết các khuôn nếp, các ảo tưởng, những cái ngã mà con có trong tâm tiềm thức giống như những chương trình điều khiển phản ứng của con. Con không thể đi quá một điểm nào đó cho đến khi con nhận ra và bước chân trên con đường nội tâm này. Điều tự ngã thường làm là nó định ra một con đường vỏ ngoài rồi bảo, bởi vì con đã chuyên cần kiêng cữ việc sai và chỉ làm việc đúng, cho nên con không cần nhìn vào bản thân con. Con không cần nhìn vào tâm tiềm thức của con. Con không cần làm bất cứ gì có thể phơi bày chính tôi tức là tự ngã của con.   

Xuyên qua các thời đại, biết bao nhiêu người – không chỉ người theo đạo Phật mà bất kỳ giáo lý tâm linh nào – đã tin vào chuyện này. Nhiều người thời nay là Phật tử, là người tâm linh, tin vào con đường vỏ ngoài này. Quả là có một giai đoạn con có thể tinh tiến với con đường vỏ ngoài, nhưng sẽ tới một điểm nó sẽ cản trở bước tiến của con vì nó sẽ ngăn con nhìn vào tâm tiềm thức.

9.3. Khi các nỗ lực tâm linh cản trở bước tiến

Có những người đã quy định thế nào là hành động bất chính hay chân chính và họ đã rất chăm chỉ sống theo cách định nghĩa này. Nhưng dần dần họ đã cảm thấy một sự căng thẳng bất an nào đó. Lý do là vì qua trực giác, họ cảm thấy họ không đang thực sự tiến bộ với cách tu này. Nhưng tâm vỏ ngoài của họ thì rất gắn bó, và họ gắn bó rất chặt với con đường vỏ ngoài. Họ mang một nỗi dính mắc nói rằng nếu họ thay đổi cách tiếp cận đường tu thì điều này sẽ chứng tỏ là cho đến giờ họ đã đi lầm đường. Và điều cuối cùng họ muốn là bị sai trật về con đường tâm linh họ đang đi.

Cho nên họ mới dính mắc, họ ôm chặt lấy quan điểm của họ, họ bám víu vào cách tiếp cận hiện thời của họ về đường tu. Do cảm giác bất an, giờ đây họ lý luận: “Tôi phải tu tập chăm chỉ hơn nữa. Tôi phải cần mẫn hơn nữa trong việc kiêng cữ mọi việc làm bất chính và chỉ làm những việc chân chính.” Có thể trước hết, họ sẽ suy luận là họ không thể nào sống tiếp một cuộc đời thế tục, họ phải lánh xa xã hội, rút vào tu viện nơi họ sẽ không bao giờ bị cám dỗ bởi hành động bất chính. Nhưng ngay cả khi họ sống trong tu viện, họ vẫn cảm được sự bất an cho nên giờ đây họ nghĩ: “Tôi phải tu tập nghiêm mật hơn nữa.” Thế là nó biến thành một chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế, tới mức rốt cuộc họ cảm thấy hành động chân chính độc nhất còn lại là chính pháp tu của họ – dù đó là quỳ lạy trên sàn nhà, quay bánh xe cầu nguyện hay bất cứ gì khác. Càng ngày họ càng bị ám ảnh nhiều hơn đến nỗi họ cảm thấy đây là tất cả những gì họ có thể làm.

Bấy giờ tâm vỏ ngoài sẽ thì thầm vào tai họ: “Ồ xem kìa, bạn tu tập sao quá thuần thành. Hiếm có ai tu nghiêm mật như bạn. Điều này chứng minh bạn là môt đệ tử cao cấp, cho nên bạn không có nhu cầu nhìn vào tâm tiềm thức, bạn không có nhu cầu soi gương. Đừng để ý đến những loại xung lực kia và tập trung tâm trí vào việc tu tập đúng đắn.” Có những người có thể làm chuyện này nguyên một kiếp sống hay hàng chục năm trời mà không bước lên được một bước nào trên đường tu đích thực.

9.4. Trung đạo đích thực

Tất nhiên con sẽ muốn tránh điều đó, và làm thế nào con tránh được chứ? Một lần nữa, qua con đường Trung đạo, mà thật sự chúng ta có thể gọi là Thượng đạo, con đường cao hơn, hay Việt đạo, con đường siêu việt. Tâm đường thẳng nói chuyện như thế này: “Đây là một đối cực, kia là một đối cực nữa. Giữa hai đối cực có một thang điểm, có nhiều sắc thái khác nhau từ màu đen qua đủ các sắc xám ngày càng nhạt hơn cho đến khi bạn có màu trắng. Khi Phật dạy về Trung đạo, nhất định phải có nghĩa là bạn tìm ra trung điểm giữa hai đối cực.”

Và người ta lý giải: “Ồ đúng rồi, tôi cần phải nhịn không làm điều sai và đằng khác tôi cần thực hành pháp tu, nhưng tôi không thể bỏ ra quá nhiều thì giờ tu tập đến độ tôi không còn tham gia vào cuộc sống bình thường năng động được nữa. Tôi phải tìm ra một thế cân bằng.” Đây không phải là một cách tiếp cận hoàn toàn vô giá trị, nhưng có một cách hiểu cao hơn. Trung đạo trong nghĩa nguyên thủy, ngay cả trong cách biểu đạt nguyên thủy của nó, không phải là con đường chính giữa. Đó không phải là trung điểm giữa hai đối cực. Đó là con Đường Cao hơn, con Đường Thăng vượt, con Đường Siêu thoát. Là con đường vượt khỏi không chỉ hai đối cực mà toàn bộ thang điểm nhị nguyên giữa cả hai, tất cả mọi sắc đậm nhạt giữa cả hai. Cho đến giờ thày đã nói là tâm nhị nguyên quy định hai cực đối lập, nhưng tâm nhị nguyên hoàn toàn có khả năng quy định một vùng xám với những độ xám khác nhau giữa hai cực. Toàn bộ thang điểm này, không chỉ hai đối cực mà cả những sắc thái khác nhau cùng với điểm chính giữa, vẫn do tâm nhị nguyên quy định.

9.5. Hòa điệu với Kế hoạch Trọn đời

Vậy thế nào là con Đường Cao hơn để tiếp cận hành động? À một lần nữa, đó là tìm cách gia tăng khả năng trực giác để chạm được phần nào những gì đã được ghi vào Kế hoạch Trọn đời của con. Như thày đã có nói, vào lúc con lập ra Kế hoạch Trọn đời, có thể con đã quyết định là có một trải nghiệm nào đó con có thể có trên trái đất mà con chưa chán chê – như thể con cần trải nghiệm nó cho thỏa thuê tới mức con hoàn toàn chán chê, và nhờ vậy con có thể giải quyết toàn bộ ham muốn này và buông bỏ nó. Con thăng vượt hoạt động đó, ham muốn đó, trải nghiệm đó. Nhưng bây giờ khi con bước vào đầu thai thì con quên mất. Con tìm thấy một giáo lý tâm linh bảo rằng chính cái sinh hoạt mà con muốn nếm thoả thuê cho tới mức chán ngán, là không tâm linh. Và vì vậy con phải kiêng khem không được làm. Con buộc mình phải nhịn hẳn sinh hoạt đó, và kết quả là gì? Con không đạt được tiến bộ mà con đã trù liệu trong Kế hoạch Trọn đời của con.

Thày đang nói gì ở đây? Thày đang nói là con không thể lập ra một thang điểm vỏ ngoài rồi bảo: “Đây là cách một người tâm linh phải hành động, và kia là những hành động mà một người tâm linh không bao giờ được làm.” Chẳng hạn: “Một người tâm linh phải sống độc thân và kiêng quan hệ tình dục.” Nhiều người tâm linh, đặc biệt trong truyền thống Phật giáo, đã lý luận kiểu đó. Nếu ham muốn trải nghiệm tình dục là dính mắc cuối cùng ngăn cản con nhập niết bàn, thì làm như vậy sẽ cản trở bước tiến của con. Đương nhiên tự ngã có thể dễ dàng dùng điểm này như một cái cớ và nói: “Ồ lời dạy này nghe hay quá. Có nghĩa là tôi có thể làm bất cứ chuyện gì tôi muốn. Có lẽ chăng trải nghiệm này nằm trong Kế hoạch Trọn đời của tôi?” Tất nhiên, làm như vậy chỉ là rơi vào cực đoan ngược lại. Tất cả là vấn đề sử dụng trực giác của con để phát hiện chính xác những gì chính con đã đặt vào Kế hoạch Trọn đời của con. Những gì người khác nói hay đặt vào Kế hoạch Trọn đời của họ thật không quan trọng gì. Con cần khám phá chính con đã ghi gì trong Kế hoạch của con và con có thể làm vậy qua trực giác. Một lần nữa, bằng cách dùng những dụng cụ này để nâng cao nhận biết, khắc phục các khuôn nếp và chuyển hóa năng lượng thấp, con sẽ có được một tầm nhìn sáng suốt.  

Kế hoạch Trọn đời của con neo trụ ở đâu? À, nó thật sự neo trụ nơi cái ta cao của con. Kế hoạch Trọn đời của con có thể được xem như một quyển sách hay ít ra một tấm bảng trên kia ở một cõi có năng lượng cao hơn. Cách duy nhất con có thể thấy nó là nhìn từ tâm ý thức xuyên qua các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. Nhưng nếu các thể này chất đầy những năng lượng thấp, những ảo tưởng của Maya, thì con sẽ không thể nhìn thấy tấm bảng đó, hay ít ra con không thể đọc được.

Khi con bắt đầu dọn dẹp rác rưởi trong các thể cao hơn, loại bỏ Maya, làm sạch năng lượng, thì một cách tự nhiên con sẽ có thể bắt đầu hé nhìn thấy Kế hoạch Trọn đời. Do đó con có thể bắt đầu nhìn ra thế cân bằng cá nhân của con là gì, những hoạt động nào con nên tham gia mà con đã muốn tham gia để khắc phục chúng và được giải thoát khỏi chúng.

Tất nhiên một khía cạnh khác trong Kế hoạch Trọn đời là con muốn đóng góp vào sự thăng tiến của cuộc sống trên trái đất, của tâm thức tập thể, của hoàn cảnh nhân loại. Một lần nữa, nhiều người tâm linh đã đặt ra chuẩn mực quy định sự đóng góp này phải như thế nào. Thường thường có thể là họ tham gia vào công việc từ thiện hay họ thực hành pháp tu tâm linh của họ vì đây là cách họ có thể thay đổi thế giới. Điều này không nhất thiết là sai, nhưng liệu có phải là điều chính con đã định ra trong Kế hoạch Trọn đời của con không? Mặc dù con là một người tâm linh, có thể có một đóng góp cụ thể mà con muốn cống hiến trong một lãnh vực thế tục nào đó. Con muốn đưa ra một ý tưởng mới nhằm đề xướng một cải tiến nào đó chẳng hạn trong lãnh vực kinh doanh, giáo dục, chăm sóc sức khỏe hay nhiều thứ khác. Có lẽ con muốn viết một quyển sách đặc biệt để giúp một số người đạt sáng ngộ. Có thể là nhiều thứ khác nhau. Có muôn ngàn chuyện mà con đã có thể quyết định muốn làm nhưng lại không được hầu hết các phong trào tôn giáo hay tâm linh định nghĩa là việc làm tâm linh, chính vì họ đã mang sẵn quy chuẩn kia. Một lần nữa, con có thể bỏ lỡ cơ hội mà con đã đặt vào Kế hoạch Trọn đời của mình, và điều này sẽ không giúp con tăng triển tâm linh cho dù con đã thực hành những pháp tu được thiết kế để giúp con tăng triển tâm linh. Nó sẽ giúp con cảm thấy mình tâm linh hơn, mình tinh tiến hơn, nhưng điều này không phải là tăng triển tâm linh, như thày hy vọng đã giảng rõ rồi.

9.6. Làm hay không làm đều không đủ

Có rất nhiều khía cạnh ở đây cần được cân nhắc nhưng không bằng tâm vỏ ngoài đường thẳng. Kỳ thực, chính tâm vỏ ngoài đường thẳng mới thường ngăn cản con hòa điệu với Kế hoạch Trọn đời của con qua trực giác. Con cần vô hiệu hóa tâm vỏ ngoài đường thẳng này, nó luôn luôn muốn lập ra chuẩn mực có hai đối cực đúng-sai, nó bảo tất cả những gì con cần làm là làm cái này mà không làm cái kia, và như thế con sẽ đạt mục tiêu. Vì lý do gì con sẽ không đạt được mục tiêu bằng cách làm những việc tâm linh và nhịn không làm những việc phi tâm linh?

Thày đã nói mục tiêu là gì? Giác ngộ là gì? Đó là một mức nhận biết cao hơn. Làm thế nào con sẽ đạt được mức nhận biết cao hơn? Chỉ bằng cách, duy chỉ bằng một cách là thăng vượt mức nhận biết hiện tại của con và cứ tiếp tục làm vậy cho đến khi con vươn tới ít nhất những tầng ở các giai đoạn khởi đầu của giác ngộ. Khi con làm hay nhịn không làm những việc vỏ ngoài, điều này sẽ không tự động chuyển đổi mức nhận biết của con. Trên thực tế, nhiều người tâm linh đã chui vào rồi bị kẹt lại trong một ngõ cụt, và cách duy nhất để họ tiến bước là chất vấn chính cái chuẩn mực về tâm linh và phi tâm linh, trong hành động, trong lời nói, trong ý định, trong toàn bộ cái nhìn của họ về cuộc sống.

Thày có nói là con sống trong một thế giới bất ổn, rằng con không thể nào sống sót về mặt tâm lý, cho nên để sống sót con phải kìm nén một số cảm xúc, một số ý tưởng, một số xung lực ở tầng bản sắc, hầu con tìm được một thế quân bình và một cảm giác liên tục nào đó. Việc kìm nén là cần thiết cho sự sống còn ở một tầng mức nào đó, nhưng kìm nén cũng trở thành cái bẫy chủ chốt – Maya, tấm màn của Maya – sẽ giam giữ con người trong Biển Luân hồi. Do tấm màn ảo tưởng, con người không thấy được là nội dung trong chính tâm họ sản xuất ra trải nghiệm mà họ đang có về cuộc sống. Cho nên cách duy nhất để thay đổi trải nghiệm cuộc sống là thay đổi nội dung trong tâm họ, chứ không phải một cái gì ở ngoài họ ngay cả ở mức hành động.

Con cần lượng định lại các hành động dựa theo ảnh hưởng của chúng trên trình độ tâm thức của con. Rõ ràng có một số hành động sẽ kéo thấp mức tâm thức của con. Và một trong những hành động phổ biến nhất là ma túy, rượu và các chất gây say khác. Tại Ấn Độ đã có một truyền thống khá lâu đời là một số người – thậm chí họ còn tự xưng là swami hay yogi – sử dụng nhiều loại ma túy và cho đây là cách đạt được tiến bộ tâm linh. Nếu có một chất vật lý nào có thể đưa con đến giác ngộ thì tại sao lại có truyền thống hàng ngàn năm trời của các vị thày tâm linh giảng dạy pháp tu gian nan kia thay vì chỉ cứ giản dị sử dụng chất đó? Đấy, có lẽ là vì các vị thày tâm linh này biết rõ ma túy là một ngõ cụt. Nó cho con một cảm giác, có thể nó khiến con nghĩ vì con có một số trải nghiệm cho nên nhất định con phải là người tâm linh. Nhưng không có gì con có thể làm cho bộ não vật lý sẽ nâng cao mức tâm thức của con. Trái lại nó có thể hạ thấp mức tâm thức của con, hay ít ra ngăn con vươn lên cao hơn vì con bị kẹt lại ở một tầng mức nhất định.

Nếu con cứ tiếp tục làm vậy thì quả thực nó sẽ kéo thấp mức tâm thức của con xuống, vì sẽ tới một điểm sau khi con dùng ma túy một thời gian, con bắt đầu trực nhận trong nội tâm là con không thể tiếp tục như vậy được nữa, con cần bước tới vì con đang không tăng triển. Như thày vừa nói, điều này gia tăng sự căng thẳng. Bây giờ nếu con phớt lờ cảm giác này và cứ nhất định làm tiếp – hay con tiếp tục ăn cắp, lừa gạt người ta hay bất cứ thói nào khác – thì chỉ có một chuyện có thể xảy ra. Con sẽ phủ nhận mãnh liệt hơn, và chính việc gia tăng phủ nhận sẽ hạ thấp trạng thái tâm thức của con. Cho nên con bước xuống các bực thang tâm thức khi sự phủ nhận càng ngày càng sâu đậm hơn.

Có những hành động khác cũng có thể đem lại tác động tương tự nhưng lại được nhiều người tâm linh liệt vào loại việc làm tâm linh, thậm chí còn thánh thiện nữa. Ngày nay không còn nhiều thông tin về hoàn cảnh thực tế mà thày đã gặp phải trong tư cách là Phật cách đây nhiều thế kỷ. Thày đã gặp khá nhiều sự chống đối từ các nhà Bà la môn đạo Hindu, họ cho rằng họ có độc quyền giảng dạy tâm linh ở vùng này của nước Ấn. Họ rất coi trọng các loại nghi lễ vỏ ngoài. Ngày nay con cũng thấy rất nhiều lễ hội, có những nghi lễ người ta đi vào đền thờ, được một tu sĩ rưới nước trái cây lên người hay bất cứ việc gì khác, và điều này được cho là sẽ trợ giúp tiến bộ tâm linh. Tất nhiên đó là vì các nhà Bà la môn đã tự xưng là người trung gian giữa quần chúng và cõi tâm linh hay các thần linh được mô tả trong đạo Hindu. Cũng giống như các chức sắc giáo hội vào thời Giê-su cũng định nghĩa một tôn giáo dạy rằng cách duy nhất để đến với Thượng đế là qua trung gian hội thánh cùng các tu sĩ, thành phần tu sĩ của giáo hội. Giê-su bị kết án tử hình và hành quyết là vì thày đã thách thức quan điểm đó với lời dạy rằng Nước Trời ở ngay trong con.

Trong cốt lõi, nói rằng Nước Trời ở ngay trong con cũng giống như nói rằng mọi thứ đều là Phật tánh và mọi người đều có tiềm năng vươn lên quả vị Phật. Đây chính là điều mà các tu sĩ của một tôn giáo có tổ chức không thể chịu nổi. Họ đã dựng lên quan niệm là qua những hành động được tôn giáo vỏ ngoài quy định và việc kiêng khem những loại hành động khác, thì đảm bảo con sẽ được cứu rỗi, con sẽ được lên niết bàn hay bất cứ tên gọi nào khác. Đây là một động lượng vô cùng lâu đời trên trái đất, một động lượng rất mạnh mẽ trong tâm thức tập thể. Rất, rất nhiều người tin như vậy. Tại sao họ tin vào điều đó? Vì nó cho họ một cái cớ để họ không nhìn vào chính tâm họ cùng tâm lý của họ.

9.7. Nỗi sợ những gì nằm trong tâm tiềm thức

Tại sao họ không muốn nhìn vào? Vì họ sợ những gì họ có thể tìm thấy trong đó. Điều này con sẽ không hiểu nổi nếu con không hiểu về luân hồi. Con thử nhìn trường hợp đứa bé kia lớn lên ở một trong những nền dân chủ thịnh vượng hiện đại mà xem. Nhìn từ mọi khía cạnh, đứa bé này đã được hưởng một sự nuôi dạy lý tưởng với cả cha lẫn mẹ thương yêu nó, có thày giáo tốt ở trường học, anh chị em cũng tốt bụng. Nói chung nó có những điều kiện tốt nhất mà một người có thể mong muốn, nhưng nó lại mắc phải những chứng bệnh tâm lý trầm trọng đến độ nó không thể hoạt động bình thường trong xã hội. Có vấn đề gì trong cách nuôi dưỡng hay trong gen của nó hay không (nurture or nature)? Không ai trong gia đình nó có xu hướng mắc bệnh tâm lý cho nên không thể quy cho di truyền được. Trong suốt tuổi ấu thơ nó không bị chấn thương, cho nên cũng không thể quy cho cách nuôi dạy. Làm thế nào con giải thích được tại sao một đứa bé lớn lên trong hoàn cảnh lý tưởng lại mắc phải một chứng bệnh tâm lý ngặt nghèo đến thế? Chỉ có một cách giải thích là trong tiền kiếp, nó đã trải qua chấn thương trầm trọng.

Con hãy nhìn bao nhiêu cuộc chiến đã diễn ra chỉ trong một thế kỷ qua. Bao nhiêu người đã phải chịu cảnh chiến tranh? Bây giờ khi họ tái đầu thai, họ mang chấn thương này trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc. Rất nhiều người trong thế giới ngày nay đã đầu thai lại nhiều lần cho nên họ đã hứng chịu đủ loại chấn thương, nhưng chính họ cũng đã làm nhiều chuyện rất ích kỷ, chỉ lo bản thân mình, dựa trên ảo tưởng họ là những sinh thể tách biệt, và những gì họ gây cho người khác sẽ không ảnh hưởng gì đến họ – hay ít ra nếu họ không phải chịu hậu quả vật lý trực tiếp thì họ đã tránh khỏi hình phạt tày trời. Nếu họ không bị bắt thì hình như họ đã thoát được hình phạt. Bây giờ họ hiện thân trong thời đại tân tiến, một trong những biến chuyển to lớn đã xảy ra trong tâm thức tập thể trong mấy thế kỷ qua là rất, rất nhiều người hơn trước bắt đầu lo việc cải sửa tâm lý, như chữa lành tâm lý, đón nhận nhiều loại giáo lý tâm linh, từ yoga qua thiền chánh niệm cho đến đủ loại liệu pháp khác nhau. Cho nên họ đã khởi sự làm việc trên tâm lý của họ.

Có một động lượng đang lớn mạnh trong tâm thức tập thể xem việc tu sửa tâm lý là bình thường, tự nhiên, cần thiết, xây dựng. Trên thế giới có một nhóm người rất đông không chỉ mang theo chấn thương từ tiền kiếp, mà họ cũng mang theo sự nhận biết tinh tế là họ đã làm những chuyện mà đúng lý họ không nên làm. Và họ không muốn nhìn vào những cái đó. Họ không muốn xem xét tâm lý của họ vì họ sợ những gì họ có thể tìm thấy. Họ sợ bị choáng ngợp đến độ không thể sinh hoạt bình thường được nữa. Những người đó muốn gì? Họ muốn con đường tự động, họ muốn có ai đó hứa hẹn với họ: “Con hãy tuyên bố Giê-su Ki-tô là Chúa, là Đấng Cứu rỗi, thì bảo đảm con sẽ được cứu rỗi,” hay “Bạn hãy gia nhập môn phái Phật giáo này, học tập các giáo lý này, thực hành các pháp tu này thì bảo đảm bạn được giải thoát,” hay “Bạn hãy làm bài tập này, quỳ lạy trên sàn, quỳ lạy đủ mười ngàn lần trong kiếp này thì bảo đảm bạn được nhập niết bàn.” Đó là điều người ta muốn.

Vậy một lần nữa, đâu là cách nhìn cao hơn về hành động? Đó là con nói: “Việc này sẽ tác động đến tâm thức của tôi như thế nào? Không những nó có nâng cao mức tâm thức của tôi hay không, mà khi tôi làm một hành động thì phản ứng của tôi là gì? Phản ứng tâm lý của tôi là gì? Nó khởi lên những gì trong tâm lý tôi? Cái gì đang bị khuấy động?” Rồi con dùng đó như một cơ hội để nhận ra chính vì con là một sinh thể tâm linh, vì con muốn tăng triển tâm linh, cho nên con đã tự đặt mình vào những tình huống sẽ buộc con – nếu có thể nói như vậy – làm một số hành động để khuấy động những điểm chưa giải quyết trong tâm lý của con. Đó là một cơ hội để con nhìn ra một điểm chưa giải quyết, con xử lý nó và nhờ vậy con tinh tiến, con bước lên cao hơn. Thêm một bực nữa trên chiếc cầu thang. Nếu con xem mình là một người tâm linh, con cần thực hiện cuộc xoay chuyển này để con sẵn lòng làm công việc này, con ngộ ra sự cần thiết của công việc này, và con bỏ hẳn giấc mộng kia về con đường tự động. Con cần quan sát phản ứng của con khi con nghe những ý tưởng này và nhìn thấy lực kháng cự trong con đang không muốn xem xét chính mình.

9.8. Hành động không thể đưa con vào Niết bàn

Sau đó con có thể đi thêm một bước liên quan đến hành động. Trong giới mộ đạo truyền thống có nhiều người sẽ bảo rằng nếu con làm một số chuyện thì hành động của con sẽ kết án con xuống địa ngục. Nếu con giết một người hay thậm chí nhiều người, con sẽ bị đọa xuống địa ngục. Một lần nữa, đây lại là lối suy nghĩ nhị nguyên. Con đang định ra một đối cực nhị nguyên. Có một thiên đàng, có một địa ngục, và liệu con đi đến nơi này hay nơi kia tùy thuộc vào hành động của con. Một số hành động sẽ đày con xuống địa ngục, một số hành động khác sẽ bảo đảm đưa con lên thiên đàng. Một lần nữa có một động lượng mạnh mẽ trong tâm thức tập thể khiến người ta muốn tin vào chuyện đó, ít ra nếu những người này đã kiêng cữ không làm những việc đưa xuống địa ngục. Thật không có cơ sở thực tế nào trong chuyện này.

Thày không hề phủ nhận là có một tầng cõi vượt khỏi vũ trụ vật chất, vượt cả bốn tầng của vũ trụ vật chất. Thày không phủ nhận là con người có khả năng vươn lên tầng cõi đó để được giải thoát khỏi bánh xe sinh tử – con không phải trở lại hiện thân mà sẽ vĩnh viễn thăng khỏi trái đất. Tầng cõi này có đó, đó là một tiềm năng, nhưng đó không phải là điều những người mộ đạo gọi là thiên đàng. Sự khác biệt giữa cõi con đang sống và cõi cao hơn kia – mà thày không muốn dùng ngôn từ để mô tả – sự khác biệt giữa cõi hiện hữu của con bây giờ trên trái đất và tầng cõi cao hơn là mức độ tâm thức. Không phải các hành động của con sẽ quyết định con có thể thoát khỏi trái đất và đi lên cõi cao kia nơi không còn những xung đột, không còn Biển Luân hồi như trên trái đất. Điều duy nhất sẽ quyết định là mức độ tâm thức của con.

Hãy thử lấy một ví dụ cùng cực, con hãy tự hỏi loại sinh thể nào có thể bước vào cõi cao đó? Hãy thật cụ thể. Giáo hội Công giáo có dạy về thiên đàng và những tín đồ Công giáo ngoan đạo đảm bảo được lên thiên đàng. Con có thực sự hình dung được một người Công giáo trung bình tồn tại ở một cõi cao được cho là thiên giới hay chăng? Thử lấy một vị linh mục Công giáo. Từ một góc nhìn vỏ ngoài về hành động, thật con không thể tìm được ai tốt đẹp hơn một linh mục Công giáo. Nhưng nếu như vị này đã lạm dụng trẻ em thì sao? Ông là một kẻ đạo đức giả vì ông giả vờ là một linh mục và một người phụng sự Chúa, nhưng ông lại xâm hại trẻ em. Liệu con có thể nào hình dung một người như vậy được bảo đảm lên thiên đàng với mức tâm thức đã khiến ông xâm hại trẻ em? Có thể nào không? Có thể tưởng tượng được không? Đối với những ai đã kích hoạt trực giác thì chắc chắn không thể. Con sẽ lập tức nhìn ra là tuyệt đại đa số mọi người trên trái đất không thể lên thiên đàng hay nhập niết bàn với mức tâm thức hiện thời của họ.

Điều này liên quan thế nào với hành động? À, nhiều người rất lo sợ khi họ tin vào luân hồi, là có thể họ đã làm một việc gì đó trong kiếp trước sẽ ngăn họ không lên được thiên đàng hay niết bàn, cho dù họ định nghĩa là gì. Sau đây là sự thật giản dị mà thày đã cố giải thích cách đây 2500 năm nhưng thày sẽ trao cho con dưới một hình thức trực tiếp hơn nữa. Không có hành động nào con có thể làm trên trái đất sẽ đưa con lên thiên đàng, và không có hành động nào con có thể làm trên trái đất sẽ giữ con ở ngoài thiên đàng. Tại sao? Vì hành động không phải là yếu tố quyết định con có lên thiên đàng hay không, mà là mức tâm thức của con. Tất nhiên, một hành động tuôn ra từ một mức tâm thức nào đó. Nếu con đã làm một hành động thì nó cho thấy là ít ra trong tiền kiếp đó khi con đã hành động như vậy – hay ngay cả trong kiếp này – con đã ở mức tâm thức đó, và mức tâm thức này sẽ giữ con ở ngoài thiên đàng.

Nếu con là một người tâm linh, con không cần sợ xem xét tâm lý của mình. Bởi vì cho dù con đã làm gì đi nữa trong một kiếp trước, con vẫn có thể khắc phục hậu quả của hành động bằng cách thăng vượt mức tâm thức đã tạo ra hành động. Vũ trụ, Thượng đế, hay bất cứ gì con có thể tưởng tượng, không quan tâm đến những hành động con làm trên trái đất. Quan tâm duy nhất là trình độ tâm thức của con. Thật chẳng quan trọng gì nếu trong một tiền kiếp con đã làm gì đó bị quy định là phi tâm linh hay phản tâm linh. Nếu con đã thăng vượt mức tâm thức này, hay nếu con sẵn lòng thăng vượt tâm thức này ngay bây giờ, thì con có thể – và con sẽ – thoát ra khỏi hành động. Cho nên con sẽ tiến bộ trên đường tâm linh dựa trên những tiến bộ con đạt được trong tâm thức của con. Hành động không phải là yếu tố quyết định mà là mức tâm thức. Và một khi con đã thăng vượt mức tâm thức thì con không cần cảm thấy tội lỗi về những việc con đã làm.

9.9. Nghiệp quả vận hành thực sự như thế nào

Con có thể được lợi lạc từ việc thỉnh cầu năng lượng cao để nó biến hóa xung lực năng lượng do hành động tạo ra, là điều mà nhiều người gọi là nghiệp. Con có khả năng chuyển hóa nghiệp quả – nếu con đã giải quyết tâm thức. Cũng có thể nói là khi con làm một hành động, con gửi một xung lực vào bốn tầng của vũ trụ vật chất, và khi nó đi lên tầng bản sắc, nó được phản chiếu lại cho con, đi vào thể bản sắc của con. Đây là một xung lực năng lượng. Năng lượng làm gì? Nó tạo ra những mô thức giao thoa với năng lượng ở xấp xỉ cùng độ rung. Nếu con chưa thăng vượt tâm thức đã khiến con hành động như vậy, nếu con vẫn còn một số ảo tưởng và niềm tin chưa giải quyết trong thể bản sắc của con, năng lượng nghiệp báo sẽ tương tác với những thứ này, sẽ được tăng cường bởi những thứ này. Có nghĩa là nghiệp báo bây giờ đi xuống thể lý trí dưới một dạng tăng cường. Nếu trong thể lý trí con vẫn còn những khuôn nếp và tin tưởng, nó sẽ lại tương tác với chúng và được tăng cường thêm nữa. Rồi nó đi vào thể cảm xúc, và nếu con vẫn còn khuôn nếp cảm xúc chưa giải quyết, nó lại được củng cố thêm, cho nên khi nó băng qua lằn ranh của cõi vật lý, rất có thể nó sẽ thị hiện như một hậu quả dữ dội.

Nhiều người tin vào nghiệp quả tin rằng nếu con đã giết ai đó trong một kiếp trước, quả báo có thể khiến con bị giết trong kiếp này. Không có gì con làm có thể ngăn chặn được sự kiện này vì con đã tạo nghiệp và giờ đây nghiệp phải giáng xuống với kết quả là con bị giết. Điều này chỉ đúng nếu con chưa thăng vượt tâm thức. Nếu con đã thăng vượt tâm thức ở tầng bản sắc, nghiệp báo có thể quay trở lại nhưng không có gì để nó tương tác, không có gì để nó gia tăng. Kỳ thực nếu con đã tạo ra những khuôn nếp cao hơn hay đã tự giải phóng khỏi ảo tưởng và thỉnh cầu năng lượng, nghiệp báo có thể suy giảm.

Đến khi nó xuống đến thể lý trí và nếu con đã thăng vượt các khuôn nếp trí năng, cũng lại không có gì tăng cường cho nó và nó suy giảm thêm. Điều tương tự lại xảy ra ở thể cảm xúc, cho nên khi nó xuống đến thể vật lý, có thể nó đã được chuyển hóa toàn diện thành một độ năng lượng cao hơn, hay nó chỉ thị hiện dưới một dạng nhẹ hơn rất nhiều. Thay vì bị giết, có thể con chỉ gây cho mình một thương tích ngoài da.

Như ngành vật lý hiện đại cho thấy, hành động gắn liền với phản ứng. Không có hành động mà không có phản ứng, nhưng cũng không có phản ứng mà không có hành động. Tất cả buộc chặt với nhau trong lý duyên khởi. Con có thể nói: “Tôi đã làm một hành động vật lý. Hành động này tạo ra một phản ứng từ người khác, và phản ứng của họ đã ảnh hưởng đến tôi.” Hay có lẽ nó không ảnh hưởng đến con vì con đã tránh né được, nhưng nó vẫn tạo ra một phản ứng trong bốn tầng của vũ trụ vật chất. Nó cũng tạo ra một phản ứng trong tâm con. Thật ra hành động dựa trên một tiến trình trong tâm con. Nếu con bị kẹt trong Maya và các ảo tưởng, trong một trạng thái tâm thức tách biệt, trong tâm nhị nguyên, rất có thể hành động của con đã khởi lên từ các khuôn nếp phản ứng có mặt trong ba tâm cao của con. Cho mỗi hành động đều có một phản ứng, nhưng con có khả năng thăng vượt, biến hóa phản ứng từ tấm gương vũ trụ bằng cách thăng vượt cái tâm thức đã dẫn đến hành động.

Có rất nhiều người tin vào nghiệp quả, tin đó là một sự trừng phạt, nhưng thật sự nghiệp quả không phải là trừng phạt. Đó là một cơ hội. Thày đã nói gì về mục đích cuộc sống? Đó là để tăng triển nhận biết của con. Làm thế nào con tăng triển nhận biết? Bằng cách nhìn ra điều gì đang cầm giữ con lại ở mức nhận biết hiện thời, khiến con không thể thăng vượt và vươn lên mức cao hơn. Nếu con không nhìn ra thì làm sao con thăng vượt đây? Đôi khi con có thể cố tình nhìn và con thấy, nhưng khi khác con không cố tình nhìn. Thế rồi một tình huống bên ngoài buộc con phải nhìn thấy nó bằng cách tạo ra một phản ứng trong con. Đấy, đó là điều nghiệp quả vốn làm. Luật nghiệp quả bảo rằng con đang làm một hành động. Con giết một người – một sự vi phạm nghiêm trọng đối với quyền tự quyết của họ cũng như quyền được có cơ hội tăng triển. Nếu luật nghiệp quả trải bày tức khắc, con sẽ bị giết ngay lập tức, nhưng điều này có nghĩa là con sẽ bước ra ngoài hiện thân. Nếu con không bị giết ngay lập tức, con sẽ phải sống phần còn lại của kiếp này biết rằng mình đã giết một người.

Và điều này cho con một cơ hội để con xử lý nó trong kiếp sống đó. Trong những kiếp tiếp theo, có thể con không nhớ lại một cách ý thức, nhưng con vẫn mang cái tâm lý, các khuôn nếp trong tâm lý đã khiến con giết người. Con vẫn có cơ hội nhìn ra cái đó, xử lý nó và khắc phục nó. Mấy kiếp sau, xung lực nghiệp quả quay trở lại. Đây không phải là một trừng phạt mà là một cơ hội. Nếu con chưa thăng vượt tâm thức, xung lực nghiệp quả sẽ khuấy động tâm thức đó lên, ngay cả khi không có một tình huống bên ngoài kích động. Có thể con không ở trong một hoàn cảnh bị thúc giục giết người, nhưng xung lực nghiệp quả quay trở về các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con sẽ khuấy động những gì chưa được giải quyết, để con kinh nghiệm nó và được thêm cơ hội xem xét nó trước khi nghiệp quả trở thành vật lý.

Nếu con không sẵn lòng xem xét nó, nghiệp quả sẽ trở thành vật lý, và giờ đây con hứng chịu một hậu quả vật lý mà con không thể phủ nhận. Nhưng trước khi con phải chịu hậu quả vật lý không thể phủ nhận này, con đã có một cơ hội để chuyển hóa trạng thái tâm thức của con. Con chỉ phải chịu hậu quả vật lý nếu con không sử dụng cơ hội. Vậy đâu là trừng phạt chứ? Mọi sự đều là cơ hội. Đây là điều con có thể neo trụ vào và chấp nhận một cách ý thức. Con có thể tự hỏi, con có thể dùng trực giác mà hỏi: “Đâu là cơ hội ở đây? Tôi cần nhìn ra điều gì trong tình huống này? Có điều gì trong tâm lý mà tôi cần giải quyết để thăng vượt hoàn cảnh này, sử dụng hoàn cảnh này như một bàn đạp để vươn lên cao hơn trên con đường Bát chánh đạo?”  

Với lời này, thày đã cho con những gì thày muốn cho con về hành động. Thày niêm con trong niềm vui của Phật biết rằng thày đã chọn một hành động cao hơn khi trao truyền lời dạy này.

7 | Lời nói cao hơn cần năng lượng cao hơn

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 7 tháng 1, 2023. Bài này được trao truyền nhân Webinar Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Đề tài tiếp theo mà chúng ta cần bàn đến ở đây là khái niệm lời nói cao hơn. Một lần nữa, nhiều Phật tử đã nhìn vào khái niệm này, lấy cách dịch “Chánh ngữ” và tìm cách định nghĩa thế nào là lời nói chân chính và thế nào là lời nói bất chính. Như thày đã có giảng, đây không phải là cách tiếp cận cao nhất. Làm thế nào vươn lên cao hơn?

À, con không thể thấu triệt khái niệm lời nói cao mà không hiểu về năng lượng. Phải công nhận đây là một điều khó giải thích cho con người 2500 năm về trước, nhưng với tiến bộ của khoa học hiện đại, việc này đã dễ dàng hơn. Như đã có đề cập, Albert Einstein đã chứng minh là thực sự thế giới được tạo thành bằng năng lượng. Có nghĩa gì? Có nghĩa là tất cả mọi thứ con làm đều được làm với năng lượng. Con không thể cảm xúc, con không thể suy nghĩ, con không thể cầm giữ một ý niệm bản sắc, con không thể nói năng và con không thể hành động mà không sử dụng năng lượng. Thày cũng biết là nhiều người nhận thức được là cơ thể của họ cần đến năng lượng, và họ nghĩ họ lấy năng lượng từ thức ăn, có lẽ từ ánh sáng mặt trời, cũng có thể từ việc hít thở không khí, nhưng đây chỉ là khía cạnh vật lý của năng lượng.

Tất nhiên điều này không liên quan gì lắm đến lời nói, lời nói cao hơn. Để nắm bắt khái niệm lời nói cao hơn, con cần nhận ra năng lượng là một tấm thảm liên tục những rung động. Có những năng lượng cấu tạo cái con gọi là cõi vật chất, nhưng còn nhiều rung động năng lượng khác nữa. Con biết qua khoa học là người ta có cách đo những rung động năng lượng không thể nào phát hiện bằng giác quan vật lý. Có một dạng năng lượng rung động trong phạm vi cái chúng ta có thể gọi là phổ tần số vật lý, nhưng vượt ngoài phạm vi này là một dạng năng lượng rung động trong phổ tần số cảm xúc, rồi có một dạng năng lượng lý trí, và cuối cùng là năng lượng rung động ở tầng bản sắc, tức là tầng cao nhất trong vũ trụ vật chất. Vượt ngoài những cái đó tất nhiên có cõi tâm linh với những rung động còn cao hơn nữa, vượt khỏi khả năng đo đạc của các loại dụng cụ vật lý.

Có thể con chưa biết điều này, nhưng có một giới hạn trong những gì các dụng cụ làm bằng vật chất có thể đo lường. Cũng ví như một kính hiển vi quang học không thể nhìn thấy hạt nào nhỏ hơn bước sóng của ánh sáng khả kiến (wavelength of visible light), và đó là lý do người ta đã chế tạo loại kính hiển vi điện tử để phát hiện những hạt nhỏ hơn. Tương tự như thế, có thể có những dụng cụ khác được chế tạo để đo rung động cao hơn, và một số dụng cụ như vậy đã được sáng chế, tuy nhiên có một giới hạn trong khả năng đo đạc của những dụng cụ làm từ cõi vật chất. Cho nên con sẽ không thể nào tạo ra một dụng cụ có khả năng chứng minh sự hiện hữu của một cõi tâm linh vượt khỏi cõi vật chất. Đơn giản là không thể. Tuy vậy, những năng lượng này có thật.

7.1. Tâm đường thẳng, tâm trực giác và sự khách quan

Bây giờ con có thể nhìn sang những gì các nhà khoa học đã khám phá khi họ đưa ra thuyết Big Bang (vụ Nổ Lớn). Họ bảo là vào thuở Big Bang thật sự không có vật chất theo cách con hiểu vật chất ngày nay, vì mọi thứ đều là năng lượng bị dồn nén trong một điểm cực nhỏ gọi là điểm dị biệt (singularity). Quan niệm này về điểm dị biệt thật ra là do tâm đường thẳng mà có, và chúng ta cần nói sơ qua về vấn đề này. Thày có nói là tâm đường thẳng nhìn vào một hiện tượng xảy ra trong hiện tại, nó nhìn vào sự phức tạp đang có mặt ngay bây giờ, nhưng nó muốn chẻ nhỏ ra và bảo rằng sự phức tạp đến từ một trạng thái đơn giản hơn chỉ tuân theo một vài định luật tự nhiên giản dị. Cho nên nếu con cứ tiếp tục đi trở xuống các trạng thái thấp hơn hay cơ bản hơn, cuối cùng con sẽ lần đến cuối đường dây nơi con tìm thấy nguyên nhân ban đầu.

Theo khoa học, đây là điểm dị biệt có mặt trong một khoảnh khắc ngắn ngủi ngay trước Big Bang. Không ai thực sự giải thích được một điểm dị biệt là gì. Không ai thực sự giải thích được làm thế nào toàn bộ năng lượng được tạo ra trong vũ trụ mênh mông bát ngát này có thể dồn nén lại thành một điểm độc nhất. Đây là một thuyết do tâm đường thẳng dựng lên bảo rằng con phải có thể đi ngược trở lại những giai đoạn đơn giản hơn, cơ bản hơn, cho đến khi con chạm được giai đoạn nguyên thủy, nguyên nhân đầu tiên. Cũng giống như bảo rằng ở một thời điểm quá khứ, trong canh súp ban sơ có một tia sét đánh và sinh vật đơn bào đầu tiên xuất hiện. Nhưng đây có thật là cách  hiểu duy nhất không? Đối với tâm đường thẳng thì đây là cách hiểu duy nhất, nhưng đối với tâm không đường thẳng thì sao? Ngày nay càng ngày càng có nhiều người ý thức được khả năng trực giác. Càng ngày càng có nhiều người nghiệm ra trực giác chỉ đơn giản là một phương pháp khảo sát thế giới nơi mình đang sống, và trực giác cũng có thể sáng giá và chính đáng như tâm phân tích đường thẳng.

Sở dĩ xã hội hiện đại ngày nay phần nào bị bế tắc về mặt phát triển, gây ra biết bao vấn nạn chẳng hạn với môi trường, là vì các nhà chủ nghĩa duy vật khi họ chiếm lãnh khoa học đã muốn bác bỏ vai trò của tâm thức. Họ muốn bác bỏ trực giác vì họ quyết đoán trực giác là chủ quan, không đáng tin cậy, và chỉ có tâm thuần trí, đường thẳng, lô-gíc mới có thể khách quan, đáng tin cậy. Đây là một quyết đoán giả tạo đã gây ra những hậu quả sâu rộng trong xã hội hiện đại cũng như rất nhiều vấn nạn mà con thấy dường như không có giải pháp. Họ không đem lại giải pháp nào với tâm đường thẳng, vì một lần nữa tâm đường thẳng chỉ có thể suy nghĩ trong sự phân biệt so sánh, chỉ có thể nhìn cuộc sống theo cách phân tích tạo ra đối cực nhị nguyên, rồi hàm ý một sự phán xét giá trị. Một khi con rơi vào phán xét giá trị thì con đã khép tâm con lại.

Ban đầu khoa học đã là một tiến trình khách quan nhằm quan sát những gì có thể được quan sát. Thay vì cho rằng một học thuyết hay một giáo điều có thể mô tả vũ trụ chính xác mặc dù sự quan sát đi ngược lại giáo điều, thì con người đã sẵn lòng nhìn vào những gì thực sự xảy ra. Đây là một nỗ lực nhằm thiết lập một phương thức khách quan để tiếp cận thế giới. Đây là một phương thức chính đáng nhưng vẫn chỉ là một mặt của đồng tiền – đồng tiền những khả năng của tâm. Trực giác cũng là một phương thức để bước ra khỏi sự chủ quan. Khi con có trải nghiệm mà thày đã mô tả, khi cái ta, cái Ta Biết bước ra ngoài các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, đó là một trải nghiệm khách quan. Việc trải nghiệm trực giác có thể có giá trị y như việc sử dụng lôgíc và phân tích, nhưng các nhà khoa học lại quyết định chỉ có tâm thuần trí mới đáng tin cậy. Họ đã tìm cách loại bỏ trực giác, tuyên bố là nó chủ quan, trong khi tâm thuần trí thì không chủ quan. Tất nhiên đây là một lời tuyên bố giới hạn, vì con làm gì với cả hai loại tâm đó? Cho dù con dùng lôgíc và lý luận hay con dùng trực giác thì con vẫn đang có một trải nghiệm trực tiếp về một điều gì vượt khỏi mức nhận biết bình thường của con.

Câu hỏi trở thành như sau: Vậy liệu con có sẵn lòng, khi con trở về mức nhận biết bình thường của mình, sử dụng trải nghiệm đó để tra vấn nhận biết của mình, tra vấn tâm mình? Hay con sẽ cố diễn giải trải nghiệm xuyên qua mức tâm thức hiện thời của con vì con muốn nó ăn khớp với phin lọc nhận thức, với hộp tư duy mà con đang có? Các nhà khoa học diễn giải các quan sát khoa học nhiều khi không trung lập hay khách quan. Chắc chắn họ không trung lập hay khách quan nếu họ là những nhà chủ nghĩa duy vật tiếp cận khoa học theo ý thức hệ. Họ sẵn có ý về cách họ muốn vũ trụ phải vận hành ra sao, xong họ áp chồng ý này lên quan sát khoa học vì họ cực kỳ mong muốn quan sát phải ăn khớp với hệ thống tư tưởng của họ.

7.2. Một giải pháp trực giác cho thuyết Big Bang

Đó là cách họ đã tạo ra thuyết Big Bang. Phải có sự khởi đầu ở đâu đó, và nếu con dùng tâm đường thẳng để đi đến vật nhỏ nhất con có thể tưởng tượng, thì con sẽ đến một cái gì tâm không thể tưởng tượng nhưng tâm có thể dán nhãn và gọi đó là một điểm dị biệt. Có ai biết cái đó là gì không? À, nhưng con hãy thử dùng tâm trực giác và nói: Big Bang – hay đúng hơn, quá trình thị hiện của vũ trụ vật chất – đã không khởi đầu với một điểm dị biệt. Nó đã khởi đầu với một cánh cửa mở ra giữa phổ tần số vật chất và phổ tần số nằm ngay bên trên, một độ rung cao hơn vượt quá phổ tần số vật chất. Không cần thiết là toàn bộ năng lượng của vũ trụ hiện hữu bị dồn nén lại trong một điểm độc nhất, bởi vì chuyện này rõ ràng không thể xảy ra. Điều cần thiết duy nhất là có một cửa mở giữa cõi cao hơn và cõi vật chất để năng lượng tuôn xuống qua cửa mở này.

Bây giờ, tất nhiên vẫn còn khái niệm giả tạo là nếu cửa chỉ mở ra ở đúng một điểm, thì sẽ khó lòng tưởng tượng nguyên vũ trụ rộng lớn này có thể khởi đầu ở một điểm độc nhất. Nếu như không phải vậy thì sao? Nếu như thay vào đó có rất nhiều cửa mở ra thì sao?Thay vì mọi thứ phải chui qua cái lỗ nhỏ độc nhất đó, nếu như có một khối năng lượng rất lớn được giảm độ rung từ phổ tần số cao hơn xuống phổ tần số của vũ trụ vật chất thì sao? Nói cách khác, một sự thị hiện đồng bộ, một sự hòa nhập đồng bộ của năng lượng đi vào phổ vật chất, không từ một điểm độc nhất mà từ nhiều điểm.

Nếu vậy thì con không cần đến điểm dị biệt nữa. Bây giờ tất nhiên, tâm đường thẳng sẽ cãi: Chứng minh đi! Và thày sẽ nói: Con hãy dùng trực giác của con thì con sẽ trải nghiệm được sự thật. Làm sao thày diễn tả được đây? Vì tâm con có tiềm năng trở thành một điểm vào, một điểm tiếp nhận năng lượng đến từ cõi cao. Thật ra nếu tâm con không có khả năng này thì con đã không thể có ý thức. Từ ngày chủ nghĩa duy vật lên ngôi, các khoa học gia đã cố loại trừ tâm thức ra khỏi các nghiên cứu khoa học, bảo rằng: “Chúng tôi không cần nghiên cứu tâm thức làm gì vì tâm thức chỉ có thể chủ quan.”

Một nhà khoa học giỏi sẽ biết rõ các dụng cụ mình dùng, sẽ sẵn lòng xem xét những hạn chế của dụng cụ. Các nhà khoa học đã có thể dùng kính hiển vi quang học để quan sát hạt nhỏ nhất họ có thể quan sát nhưng vẫn lớn hơn bước sóng của ánh sáng khả kiến. Nếu họ có cùng tư duy như những nhà duy vật kia thì họ đã có thể quả quyết: “Không có gì nhỏ hơn hạt nhỏ nhất này. Không thể có gì nhỏ hơn những gì chúng ta có thể nhìn thấy qua kính hiển vi quang học này.” Con cần biết hạn chế của dụng cụ con dùng để con biết liệu con có đang quan sát chính xác hay không. À, đâu là dụng cụ cơ bản mà các nhà khoa học sử dụng? Đó là tâm họ. Không những họ dùng tâm họ để xây dựng lý thuyết hầu chế tạo dụng cụ quan sát, mà họ cũng dùng tâm họ để diễn giải các quan sát đó.

7.3. Sự mở rộng nhận biết dẫn đến kiến thức mới

Bây giờ con có thể trở ngược về 2500 năm trước khi thày hiện thân trên trái đất và con người không có nhận thức về bất cứ chuyện gì vượt ngoài khả năng giác quan của họ. Nhiều người không biết là trong cơ thể họ có các bộ phận, Chắc chắn họ không biết đến tế bào, phân tử, nguyên tử, hạt hạ nguyên tử. Họ có thể quan sát năng lượng như ánh sáng mặt trời, nhưng họ thật không có khái niệm về năng lượng. Họ cũng không có khái niệm về rung động, tần số, bước sóng, biên độ. Ngay cả khái niệm về sóng năng lượng họ cũng không có. Họ có thể nhìn thấy sóng trên mặt nước nhưng họ không quan niệm được sóng năng lượng. Không có cách chi giải thích được cho họ. Kỳ thực, không có cách chi các nhà khoa học có thể xây dựng các thuyết hiện thời dựa trên những gì con người hiểu biết vào thời đó.

Điều gì đã xảy từ thuở đó? Nhân loại đã mở rộng nhận biết của mình, không những dựa trên khám phá mới mà cũng nhờ việc hình thành khái niệm mới. Ngày nay con người có nhiều khái niệm hơn hẳn cách đây 2500 năm, và đây là tại sao con người có thể giải thích những chuyện không thể nào giải thích trước đây. Một điều các nhà khoa học không ý thức là cách họ hình thành khái niệm có tác động đến cách họ nhìn toàn bộ vấn đề. Nó tác động đến các lý thuyết mà họ có thể xây dựng, các dụng cụ mà họ nghĩ họ sẽ chế tạo, các đo đạc mà họ nghĩ họ sẽ đo đạc, cũng như cách họ diễn giải các đo đạc đó.

7.4. Cái gọi là lưỡng tính sóng-hạt

Con cũng biết nếu con đã học môn này là trong khoa vật lý lượng tử có một hiện tượng gọi là lưỡng tính sóng-hạt (wave-particle duality). À, hạt là gì chứ? Hạt là một khái niệm đã khởi đầu trong cái tâm sử dụng giác quan để nhìn thế giới, để trải nghiệm thế giới. Mắt con có thể nhìn thấy một quả bóng bi-a, nó có thể nhìn thấy những vật nhỏ hơn rất nhiều xuống đến hạt cát. Cho nên con mang khái niệm về hạt là một hạt khả kiến, rồi khái niệm này được các nhà khoa học dùng tâm đường thẳng nới rộng ra, bảo rằng chắc phải có những hạt càng ngày càng nhỏ hơn cho đến hạt nhỏ nhất có thể. Đây là cái mà người Hy Lạp cổ gọi là nguyên tử, nghĩa là hạt bất khả phân chia. Rồi tới thời điểm các nhà khoa học hiện đại phát hiện cái họ nghĩ là hạt nhỏ nhất không thể phân chia thì họ cũng gọi là nguyên tử. Nhưng sau đó, họ khám phá là nguyên tử thật ra có thể được phân chia và có những hạt nhỏ hơn nữa – thường gọi là hạt hạ nguyên tử với những cái tên khác nhau.

Các thí nghiệm cho thấy là nếu con quan sát hiện tượng hạ nguyên tử này theo một cách nào đó thì nó cư xử như một hạt, nhưng nếu con quan sát theo cách khác, nó sẽ cư xử như một sóng. Cho nên các nhà khoa học nghĩ ra cái tên “lưỡng tính hạt-sóng”, xem như đây là một trong vài bí ẩn còn sót lại trong ngành vật lý hiện đại. Nhưng lưỡng tính hạt-sóng là kết quả của việc lấy một khái niệm vĩ mô (macroscopic) có thể được phát hiện bằng giác quan, rồi phóng chiếu nó lên thế giới vi mô (microscopic) không thể phát hiện bằng giác quan. Nếu con lấy thuyết của Einstein, thuyết này nói rằng mọi vật chất đều thực sự là năng lượng và năng lượng là sóng, thì làm gì có chuyện có hạt nào nhỏ nhất. Kỳ thực ở mức hạ nguyên tử, không hề có hạt nào mà con có thể nhận thức là hạt bằng tâm vỏ ngoài đường thẳng. Đây chỉ là một ví dụ cho thấy các khái niệm mà con mang trong tâm ảnh hưởng như thế nào đến cách con nhìn thế giới, đến những kết luận mà con rút tỉa, và do đó đến những trải nghiệm mà con có về thế giới.

7.5. Quan niệm một Thượng đế cá nhân

Có rất rất nhiều người cởi mở với một giáo lý tâm linh nghĩ rằng giáo lý tâm linh có thể cho họ sáng ngộ về cách vận hành của thế giới. Hiển nhiên nhiều giáo lý làm công việc này, nhưng nhiều người cũng hy vọng là giáo lý tâm linh có thể giúp họ thay đổi hoàn cảnh vật lý của họ. Họ tìm kiếm một loại đũa thần được cài sẵn trong giáo lý để họ có thể thay đổi hoàn cảnh vật lý của họ. Ví dụ điển hình là người ta dựng lên ý tưởng là ở một cõi cao trên kia có một vị Thượng đế mà họ nghĩ là một ông già ngồi trên ngai trắng vĩ đại, đang nhìn xuống cá nhân họ và đánh giá từng việc họ làm là đúng hay sai theo quy chuẩn tối thượng của ngài.

Nếu con làm theo những gì Thượng đế này bảo là đúng – hay đúng hơn những gì mà một con người, một tu sĩ thuộc nhân gian, một nhà Bà la môn, đã quy định là đúng dưới mắt Thượng đế – thì con sẽ được tưởng thưởng và được lên thiên đàng. Còn nếu con không nghe theo các nhà Bà la môn của tôn giáo của con thì con sẽ bị trừng phạt đày xuống địa ngục. Niềm hy vọng ẩn chứa trong thế giới quan này là bằng cách làm những điều được tôn giáo mình quy định, con có thể dụ dỗ vị Thượng đế cá nhân này ban cho con một số ân huệ, lấy đi một số trải nghiệm khó chịu và cho con những gì con mong muốn.

Tất nhiên đây là một niềm tin có từ cổ xưa và nhiều người đã sống bao nhiêu kiếp sống với niềm tin đó. Nhiều người thời nay đã từng sống với niềm tin này trong nhiều kiếp đến độ họ phải từ bỏ nó vì họ nhận ra là nó không hiệu nghiệm – ít ra là không có cách nào khiến cho nó hiệu nghiệm mỗi lần. Họ bước vào đầu thai trong thời đại hôm nay với một lòng ngờ vực sâu sắc đối với các tôn giáo truyền thống dạy về một Thượng đế sẽ toại nguyện mọi ước muốn. Lý do là vì họ trải nghiệm là mặc dù niềm tin này cho họ niềm hy vọng, nhưng rốt cuộc đây là một hệ thống tín ngưỡng tước đi quyền năng của họ (disempowering). Bởi vì nếu Thượng đế này không đáp ứng các nỗ lực nhằm xúi giục ngài làm theo ý muốn của họ, thì họ sẽ chẳng làm gì được. Họ bị kẹt cứng, theo nghĩa đen. Họ bị tước mất quyền năng.

7.6. Một giáo lý tâm linh trao quyền năng

Lý do cách đây 2500 năm thày đã không nói đến một cõi tâm linh hay thần linh là vì thày muốn cho con người một phương pháp, một lời dạy trao quyền năng (empowering) cho con. Thế nào là trao quyền năng? Là con nhận ra sự kiện thày vừa nhắc đến lúc nãy. Tâm con mà có ý thức là vì có một luồng năng lượng từ một cõi cao hơn đi vào tâm con. Năng lượng này đến từ cái ta cao của con – mà chúng ta không cần đào sâu ở đây – nhưng trước tiên nó đi vào tâm bản sắc của con. Ở đây năng lượng được phú cho một số đặc tính, hay nó khoác vào hình dạng các hình ảnh con cầm giữ trong tâm bản sắc. Điều này khiến cho năng lượng mang đặc tính, cho nên nó khoác vào một hình tướng nào đó. Con có thể so sánh với một cái kính vạn hoa với nhiều lớp hạt màu khác nhau, và khi ánh sáng đi qua lớp hạt màu đầu tiên, nó khoác vào màu sắc đó, rồi cứ vậy nó đi qua các lớp màu tiếp theo.

Trước hết con có tâm bản sắc và ở đây con có ý niệm về con là ai và con có thể làm gì. Nếu con cảm nhận mình là một sinh thể thụ động không có quyền năng thì đây là đặc tính mà năng lượng sẽ khoác vào khi nó đi vào tâm bản sắc của con. Rồi năng lượng đi qua tâm lý trí nơi con có thể có một số tin tưởng khác gây giới hạn – giới hạn những gì con có thể làm hay không thể làm – và bây giờ năng lượng khoác vào những đặc tính này. Cuối cùng nó đi vào tâm cảm xúc nơi con có thể có một số khuôn nếp xúc cảm như sợ hãi, nghi ngờ hay bất cứ gì khác, và một lần nữa điều này lại phú thêm đặc tính cho năng lượng. Thế rồi năng lượng đi vào tâm ý thức của con, khoác vào bất kỳ tin tưởng nào con có ở mức ý thức.

Con làm gì với tất cả năng lượng này? À, con dùng nó để suy nghĩ, để bày tỏ cảm xúc, con dùng nó để thốt ra lời nói, và con dùng nó để hành động, những hành động vật lý. Đây không phải là tất cả những gì con làm. Tâm con kỳ thực là một máy chiếu tương tự như máy chiếu phim trong rạp xi-nê. Nhưng thay vì chỉ có một cuộn phim độc nhất, nó có tới bốn cuộn phim, một cuộn cho mỗi thể trong số bốn thể phàm của con. Xuyên qua bốn tầng của tâm con, con liên tục chiếu phim vào năng lượng cấu tạo vũ trụ vật chất.

7.7. Tấm gương vũ trụ

Con có thể – và một số các con đã nghe các thày đề cập trước đây – con có thể so sánh vũ trụ vật chất với một tấm gương. Những gì con phóng chiếu ra ngoài bằng tâm con sẽ được tấm gương phản chiếu lại. Có nghĩa gì? À, đây thực sự là ý nghĩa sâu sắc hơn của lời dạy mà thày đã trao truyền 2500 năm trước về lý duyên khởi.

Tất cả mọi thứ trong thế giới vật lý trên hành tinh địa cầu được tạo thành bằng bốn tầng này: tầng vật lý, tầng cảm xúc, tầng lý trí và tầng bản sắc. Vũ trụ vật chất có bốn tầng và mọi thứ biểu hiện ở tầng vật lý đều là sự phóng chiếu của những hình ảnh nơi ba tầng cao hơn. Tầng vật lý giống như một màn ảnh xi-nê có những hình ảnh được phóng chiếu lên đó xuyên qua máy chiếu. Tuy nhiên, vũ trụ vật lý có sự nối kết với tâm con người. Con người là những sinh thể đồng-sáng tạo. Có một số sinh thể tự nhận biết đã tạo ra hành tinh địa cầu từ bên ngoài, nhưng con người là những sinh thể đồng-sáng tạo tạo ra hành tinh địa cầu từ bên trong. Con làm việc này xuyên qua tâm con bằng cách cho phép năng lượng chảy qua tâm khoác vào các hình ảnh, các hình tư tưởng trong tâm, và phóng chiếu chúng vào tấm gương vũ trụ, phóng chiếu chúng vào năng lượng cấu tạo bốn tầng. Đây là ý nghĩa sâu xa hơn của lý duyên khởi đã không thể được giải thích 2500 năm về trước, nhưng có thể được giải thích ngày hôm nay ở một mức dễ nắm bắt hơn nhờ hiểu biết hiện thời về năng lượng.

Con thấy đó, con sống trong một hệ thống duyên khởi, một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau. Đúng là có một hành tinh vật lý có thực – chúng ta có thể tranh luận nó thực đến chừng nào, nhưng ngay bây giờ thì không phải là chuyện thích đáng nhất. Đúng là có một hành tinh vật lý có thực, nhưng hành tinh vật lý này là một phóng chiếu từ ba tầng cao hơn. Nói cách khác như thày đã giảng về Big Bang, thay vì toàn bộ năng lượng cấu tạo vũ trụ hiện thời bị dồn ép vào một điểm dị biệt, đã có một thời điểm khi vũ trụ không thị hiện vì không có năng lượng nào trong phổ rung động vật lý. Tất cả năng lượng đều nằm ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Rồi tới một điểm đã có một sự phóng chiếu đưa năng lượng vào phổ vật lý. Việc này không xảy ra ở một điểm độc nhất mà ở nhiều điểm, và những điểm này quy định một khoảng không gian là không gian nguyên thủy.

Năng lượng đã tiếp tục xối xuống cho tới khi nó bắt đầu kết tụ thành các hạt vật lý, xong các hạt này ngày càng phức tạp hơn, có tổ chức hơn, cho đến khi tất cả mọi thiên hà được hình thành như con thấy được ngày hôm nay – hay đúng hơn, còn nhiều thiên hà hơn nữa mà con chưa thấy được ngày hôm nay do vũ trụ quá lớn. Đây đã là một quá trình xảy ra từ bên ngoài, nhưng về cơ bản, nó cũng xảy ra theo cùng một cách như con đồng-sáng tạo, nghĩa là năng lượng được phép chảy qua bốn tầng của tâm cho đến khi nó được đưa vào phổ vật lý.

7.8. Một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau

Vậy ở đây con có một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau. Có bốn tầng trong cái chúng ta có thể gọi là vũ trụ vật chất, nhưng ở trong vũ trụ vật chất này có nhiều sinh thể tự nhận biết cá biệt, những con người, mỗi người với tâm cá biệt hiện hữu trong trường năng lượng rộng lớn hơn của cõi vật chất. Con có một tâm ý thức, một tâm cảm xúc, một tâm lý trí, một tâm bản sắc. Rộng hơn, tất cả những tâm con người cá biệt này đều nối kết, hình thành cái chúng ta có thể gọi là tâm tập thể. Khoa học thậm chí đã khám phá là khi một số biến cố xảy ra, có một sự mạch lạc gắn kết trong tâm tập thể, và điều này ảnh hưởng đến các bộ sinh số ngẫu nhiên (random number generator). Thày không đang cố chứng minh một điều gì cho tâm thuần lý đường thẳng mà chỉ muốn khích động trải nghiệm trực giác của con.

Mọi thứ con làm đều được làm với năng lượng, nhưng con không là một hòn đảo. Ngay cả trường năng lượng của con cũng không là một hòn đảo vì con hiện hữu trong tổng thể này, một tổng thể duyên khởi. Tại sao điều này lại trao quyền năng cho con, ngược lại với tước quyền năng? Bởi vì các tình huống vật lý của con liên kết với các tình huống trong bốn tầng tâm con. Chúng là những phóng chiếu. Phải, hoàn toàn đúng là các tình huống vật lý của con không chỉ độc nhất là sản phẩm của sự phóng chiếu từ tâm con. Chúng cũng là sản phẩm do tác động liên kết của tâm tập thể và tất nhiên cả sự phóng chiếu nguyên thủy đã tạo ra hành tinh.

Đây không phải là một niềm tin thần diệu vào một Thượng đế toại nguyện mọi ước muốn, có uy lực gạt qua bên quyền tự quyết của tám tỷ con người hầu ban cho con đúng những hoàn cảnh mà con muốn, vì như vậy là tước quyền năng. Nhưng nếu như Thượng đế không làm vậy thì sao, vì trong hầu hết trường hợp ngài sẽ không làm vậy? Với hiểu biết này, con có thể có một cách tiếp cận trao quyền năng, và con nói: “Có thể là tôi không thể thay đổi mọi khía cạnh trong hoàn cảnh vật lý của tôi, nhưng tôi có khả năng thay đổi một số khía cạnh bằng cách thay đổi những gì tôi phóng chiếu qua tâm tôi. Dù có tình huống vật lý tôi không thể thay đổi theo cách này, nhưng chắc chắn tôi có thể thay đổi cách tôi trải nghiệm nó, thay đổi cách tôi phản ứng với nó. Kỳ thực, tôi có thể đạt tới điểm tôi tự do chọn lựa, hoặc chọn một cách phản ứng xây dựng hơn, hoặc chọn không phản ứng gì cả.”

Đây là trao quyền năng. Và mặc dù thày đã không thể giải thích điều này cách đây 2500 năm, đó vẫn là điều thày đã cố giải thích. Chìa khóa để chuyển đổi bất kỳ khía cạnh nào của đời con là khởi sự thay đổi chính tâm con, nâng cao mức tâm thức của con. Đây là tinh túy của Bát chánh đạo. Con đi qua tám giai đoạn hay tám bước, qua đó con lần hồi nâng cao mức tâm thức của mình.

7.9. Lời nói và năng lượng

Vậy tất cả những điều vừa rồi liên quan thế nào với lời nói và lời nói cao hơn? Ấy, lời nói là một cách sử dụng năng lượng. Mỗi khi con mở miệng thốt ra âm thanh, con đang dùng năng lượng. Tuy nhiên, ngay cả khi con im lặng trong tâm bản sắc, lý trí và cảm xúc, thì con vẫn đang phóng chiếu, nhưng những phóng chiếu này không có tác động trực tiếp ở tầng vật lý như khi con hành động vật lý hay khi con phát biểu. Nói cách khác, khi con tạo ra một tác động có thể được quan sát bởi giác quan vật lý, điều này sẽ có ảnh hưởng trực tiếp hơn ở tầng vật lý so với khi con phóng chiếu từ một trong ba tầng cao.

Giọng nói là một dụng cụ đầy quyền năng có thể được dùng để phú đặc tính cho năng lượng, và con sẽ không bao giờ hiểu được khái niệm Chánh ngữ – hay như thày chọn diễn tả ở đây: lời nói cao hơn – nếu con không hiểu là giọng nói của con chuyên chở và định đoạt tính chất của năng lượng. Năng lượng này sẽ tác động đến người khác, hoàn cảnh vật lý của con lẫn chính con.

Có thể con đã ý thức điều này vì con đã quan sát là nhiều lần con có thể có những cảm xúc mãnh liệt, thì con cảm được trong trường năng lượng của con có một sự xáo trộn. Có thể con không ý thức lắm về trường năng lượng của mình, nhưng con có thể cảm thấy có gì đó đang xảy ra. Nếu con rất tức giận, nó gần như có thể biến thành một hiệu ứng tự tăng cường, một vòng xoáy hướng hạ. Một khi con băng qua một lằn ranh nào đó, con mất hết tự chủ. Thường thường con biểu lộ nỗi giận qua giọng nói của mình và nó cuốn hút con vào một cơn lốc, một vòng xoáy đi xuống có thể rất khó lòng nào thoát ra khỏi. Có thể con đã quan sát sự giận dữ nơi người khác hay con đã trải nghiệm nơi chính con. Tất nhiên còn có nhiều loại cơn lốc hay vòng xoáy khác có thể khống chế con, và đây chỉ là một ví dụ về cách con sử dụng năng lượng. Con khiến cho năng lượng mang một sắc thái nào đó và nó tác động trực tiếp đến trạng thái tâm con.

Để biểu hiện lời nói cao hơn, con cần ý thức làm thế nào giọng nói của con phú cho năng lượng một đặc tính và phóng chiếu năng lượng. Con cần không làm vậy một cách đường thẳng, lý luận. Luôn luôn có cám dỗ muốn xử lý một cách đường thẳng, và đây là một chuyện khả dĩ. Hiện nay người ta đã có những dụng cụ có thể đo đạc giọng nói con người cùng sự rung động trong giọng nói con người. Con có thể dùng dụng cụ này nếu muốn, hầu lập ra một thang điểm đường thẳng, rõ ràng, có thể phát hiện những loại rung động khác nhau do giọng nói tạo ra. Một số người đã thử nghiệm điều này, chẳng hạn con thấy những nhà khoa học thí nghiệm ảnh hưởng của âm thanh trên đống cát đặt trên một tấm kính hay những loại dụng cụ tương tự. Điểm đáng nói là thay vì giàn dựng việc này theo kiểu phân tích, điều sẽ thực sự hữu ích cho con là con trau dồi khả năng trực nhận những gì đang diễn ra trong chính trường năng lượng của con khi con dùng giọng nói.    

7.10. Âm thanh ảnh hưởng trường năng lượng của con như thế nào

Con cũng biết là nếu ai đó nổi giận la hét với con, điều này tác động đến con. Lý do là vì họ đang phóng chiếu năng lượng mang một rung động đặc trưng nào đó vào cảm thể của con. Mọi năng lượng đều có khả năng tương tác với những hình dạng năng lượng khác. Nếu con mang một số khuôn nếp đặc thù trong thể cảm xúc và nếu người kia tức giận với con, nó sẽ khuấy động các khuôn nếp này. Chẳng hạn chính con cũng có thể nổi giận theo. Hoặc con có thể xấu hổ hay buồn phiền vì cảm thấy mình có lỗi khi người kia la hét buộc tội mình.

Con có thể sử dụng điều sau đây. Con đã có khả năng này rồi nhưng con có thể tinh luyện và phát triển thêm nữa để con cảm rõ là có những loại lời nói phú cho năng lượng một đặc tính rung động thấp. Về cơ bản có hai loại rung động. Có rung động dựa trên tình thương, có rung động dựa trên sợ hãi. Có rung động cao hơn, có rung động thấp hơn. Con có thể học cách cảm nhận được điều này. Thật đơn giản, con trụ vào giữa trái tim, giữa lồng ngực và con tự hỏi: “Tôi cảm thấy năng lượng đang cao hơn hay thấp hơn? Nó có nâng cao năng lượng của tôi chăng? Hay nó kéo thấp năng lượng của tôi xuống?” Con sẽ có thể cảm được là nếu có ai la mắng con thì năng lượng của con bị kéo thấp xuống, Và nếu có ai nói chuyện với con một cách tích cực, thương yêu, thì năng lượng của con được nâng lên.

Đây là những tiêu chí mà hầu hết người tâm linh đều có thể phát triển khá nhanh chóng. Tất nhiên một số đã làm vậy rồi. Con có thể lượng định mình dùng lời nói như thế nào và người khác dùng lời nói như thế nào. Điều này sẽ cho con một tiêu chí để lượng định: “Liệu đây có phải là loại lời nói tôi muốn tham gia vào không? Liệu tôi có muốn tạo ra những xung lực năng lượng thấp kém phóng về người khác?” Bởi vì dù con có gửi ra những gì, và cho dù con nghĩ con chỉ hướng nó về đúng một người và trong phòng này không có ai khác và không ai khác có thể nghe thấy con, thì bất cứ gì con gửi ra tấm gương vũ trụ vào bốn tầng của vũ trụ vật chất, cái đó sẽ quay trở về con.   

7.11. Nghiệp thật ra là xung lực năng lượng

Đó là một cách để giải thích quan niệm cổ xưa về nghiệp (karma). Nghiệp là khi con dùng bốn thể phàm của con để phóng chiếu một xung lực năng lượng vào bốn tầng của vũ trụ vật chất. Xung lực năng lượng này khởi đầu nơi thể bản sắc của con, đi vào thể lý trí, vào thể cảm xúc, vào thể vật lý rồi được phóng ra ngoài. Trước tiên nó đi vào cõi vật lý, đi lên cõi cảm xúc, rồi cõi lý trí, rồi cõi bản sắc. Ở đây, nếu đó là một năng lượng dựa trên sợ hãi, nó không thể đi xa hơn, nó bị phản chiếu lại bởi cái thày đã gọi là tấm gương vũ trụ, và như vậy nó bắt đầu đập lại chính con, đầu tiên ở thể bản sắc, rồi thể lý trí, rồi thể cảm xúc, rồi thể vật lý. Đây là điều các tôn giáo và triết lý phương Đông gọi là nghiệp. Giản dị đó chỉ là sự phản hồi về chính con của năng lượng mà con đã gửi ra.

Bây giờ nếu như con phú cho năng lượng một rung động cao hơn, một rung động yêu thương thì chuyện gì xảy ra? À, cùng điều đó lại xảy ra. Nó lại đi xuyên qua bốn thể trong tâm con, đi vào bốn tầng của vũ trụ. Khi nó lên đến tầng bản sắc, rung động cao sẽ không bị chặn lại và phản chiếu trở về con. Kỳ thực nó sẽ vượt ra khỏi cõi vật chất, đi vào cõi cao hơn đến cái ta cao của con. Giờ đây con sẽ nhận được nhiều năng lượng hơn mang rung động cao từ cái ta cao của con, khiến cho các khả năng sáng tạo của con gia tăng, năng lực tinh thần của con cũng gia tăng. Nó cũng giúp nâng cao tâm thức của con. Nói cách khác, khi con phú cho năng lượng một rung động thấp, năng lượng này được gửi trả lại cho con với rung động thấp. Khi con phú cho nó một rung động cao, nó được gửi trả lại cho con với rung động cao đó, nhưng nhiều hơn và mãnh liệt hơn. “Người nào đã có, sẽ nhận được nhiều hơn.” Đây là ý tưởng về các ta-lăng, hay vốn liếng tâm linh, được nhân lên gấp bội mà Giê-su đã mô tả trong một truyện ngụ ngôn.

Vậy chúng ta cũng có thể hỏi: “Tại sao cuộc sống trên trái đất lại đau khổ? Tại sao lại có Biển Luân hồi?” Đấy, bởi vì trái đất là một hệ thống năng lượng, nhưng hiện nay phần lớn năng lượng trong hệ thống này bị tha hóa bởi một rung động thấp kém dựa trên sợ hãi. Có quá nhiều năng lượng sợ hãi trong hệ thống năng lượng và trong tâm thức tập thể, đến độ nó thường khiến cho tâm con người bị quá tải và con người bị đau khổ, cảm thấy buồn phiền, bất lực, tuyệt vọng, oán giận và đủ mọi thứ khác. Tất cả những cảm xúc thấp này liên quan đến sự kiện năng lượng trong tâm thức tập thể làm choáng ngợp trường năng lượng cá nhân của mỗi người. Phương thức để thoát khỏi sự thể này là đổ đầy trường năng lượng cá nhân của con với những năng lượng cao, rung động cao, và thanh lọc các rung động thấp khỏi trường năng lượng cá nhân của con.

Con thấy đó, thày có giảng là nếu con gửi ra một xung lực dựa trên sợ hãi, nó sẽ được gửi trả về cho con, nhưng tác dụng sẽ ra sao trên trường năng lượng của con? Tác dụng là sẽ có sự phản ứng lại, sự khuấy động, sự tăng cường các năng lượng thấp đã sẵn có trong năng trường của con. Con trở nên căng thẳng hơn, bực dọc hơn, sợ hãi hơn. Nếu con loại bỏ năng lượng sẵn có trong năng trường của con và cũng loại bỏ các khuôn nếp phản ứng đã khiến con tha hóa năng lượng với lòng sợ hãi, thì sẽ chẳng có gì để năng lượng tương tác với. Xong nếu con đổ đầy năng trường của con với rung động cao, thì khi rung động thấp quay trở lại, chúng sẽ được các rung động cao này biến hóa. Một lần nữa, đây lại là một điểm khó giải thích vào thời của Phật nhưng dễ giải thích ngày hôm nay qua các nguyên tắc động học sóng đơn giản.     

Nếu con hướng một sóng năng lượng với một độ rung nào đó vào một sóng năng lượng khác, sẽ có một mô thức giao thoa giữa hai sóng với kết quả là một sóng thứ ba phối hợp cả hai. Nói cách khác, con có một sóng năng lượng ở tần số thấp, nếu con hướng vào đó một sóng khác có tần số cao hơn, con có thể tạo ra một sóng thứ ba cao hơn sóng đầu tiên nhưng thấp hơn sóng thứ nhì. Kết quả chung cuộc là con đã nâng năng lượng thấp vào một trạng thái cao hơn.

Con thử nghĩ nếu con đã mang một khuôn nếp trong mấy kiếp sống và đã tha hóa năng lượng với lòng giận dữ, và năng lượng này một phần được phóng ra ngoài, một phần tích tụ lại trong trường năng lượng của con, thì con có thể thấy khuôn nếp đó không chỉ mang một khía cạnh tin tưởng – tin rằng con cần đáp trả bằng sự tức giận hay đây là cách đáp trả duy nhất. Khía cạnh kia của khuôn nếp chính là năng lượng tác động lên cảm xúc của con, và con càng nhiều năng lượng giận dữ trong cảm thể thì con sẽ càng có xu hướng đáp trả, phản ứng lại bằng sự giận dữ trong đủ loại tình huống khác nhau. Nếu con bỏ được năng lượng này đi, con sẽ dễ nhìn ra khuôn nếp phản ứng hơn, nhìn ra tin tưởng đằng sau khuôn nếp và buông bỏ nó, hầu con được tự do và con vươn lên một mức tâm thức cao hơn, một tầng cao hơn trên đường tu.       

7.12. Dùng lời nói để chuyển hóa năng lượng

Tại sao thày lại nói tất cả những điều này khi chủ đề là lời nói? À theo truyền thống, các giáo lý đạo Phật hay các phong trào Phật giáo đã dùng nhiều dụng cụ tâm linh khác nhau để nâng cao tâm thức. Người ta đã dùng pháp thiền trong im lặng, nhưng nhiều người cũng đã dùng pháp tụng niệm, đọc Om, đọc các câu chú hay một số âm tiết, và các pháp này cũng đã được sử dụng trong các truyền thống tâm linh hay các nền văn hóa khác. Lý do làm vậy là vì con người từ thuở xưa đã biết sâu trong trực giác là việc sử dụng giọng nói của mình là một cách đầy quyền năng để thỉnh năng lượng có tần số cao và hướng nó vào năng lượng có tần số thấp. Nhờ vậy họ chuyển hóa năng lượng và giải phóng khỏi lực lôi kéo tâm họ.

Bây giờ con thấy được là có hai khía cạnh khi con mang những dính mắc mà thày đã nói đến khoảng 2500 năm về trước. Một, con có một tin tưởng là một ảo tưởng, và hai, con có một số năng lượng đã được phú cho một đặc tính xuyên qua tin tưởng đó, và năng lượng này lôi kéo tâm ý thức của con. Nếu con đã tích lũy nhiều năng lượng giận dữ, thật không cần gì lắm để kích hoạt phản ứng giận dữ của con trong một số tình huống nhất định. Con có thể nhìn những người với thời gian càng ngày càng có xu hướng phản ứng giận dữ, và lý do đơn giản là vì họ càng ngày càng tích tụ nhiều năng lượng giận dữ hơn trong cảm thể của họ, và nó áp đảo tâm ý thức của họ.

Khi con ý thức được điều này, và bằng cách sử dụng những loại dụng cụ thích hợp để thỉnh năng lượng có tần số cao, con có thể tự giải thoát khỏi lực kéo. Và cách mãnh liệt nhất để thỉnh năng lượng có tần số cao là dùng giọng nói của mình. Tất nhiên con có thể dùng các pháp tụng niệm truyền thống trong đạo Phật, nhưng cũng có những phiên bản hiện đại hơn, có khi gọi là bài chú hay bài thỉnh mà con có thể dùng trong mục đích này. Điều con nhận ra ở đây là ý nghĩa nguyên thủy của khái niệm lời nói, lời nói cao hơn, là con học cách dùng giọng nói của mình, quyền năng của giọng nói, để thỉnh và hướng năng lượng hầu năng lượng dựa trên sợ hãi được biến hóa trở lại thành năng lượng dựa trên tình thương. Khi làm vậy, con giải phóng tâm con để nhìn vào các khuôn nếp và bước lên một tầng cao hơn trên đường tu. Đây là điểm then chốt con cần ngộ ra liên quan đến lời nói.

Nhiều người trong các con đã sẵn cảm thấy là khi mình nói chuyện giận dữ hay bài bác thì năng lượng của mình bị kéo thấp xuống. Khi con nói chuyện tử tế yêu thương, năng lượng của con được nâng lên. Một lần nữa, với thời gian, nhiều Phật tử cũng như nhiều người tâm linh khác đã quyết định bằng tâm vỏ ngoài là trong tư cách một người tâm linh, họ phải luôn luôn nói chuyện theo một cách nào đó. Họ phải tránh nói năng giận dữ, họ phải tránh nói to, họ phải luôn luôn ăn nói nhỏ nhẹ tử tế, và họ cho rằng như vậy là đủ, nhưng họ đang làm gì chứ? Họ đang dùng sức mạnh để trấn áp một số hình thức phát biểu và nuôi dưỡng một số hình thức khác.

Thày vừa cho con điều gì ở đây? Một giải pháp khác. Con không dùng sức mạnh để kềm chế xu hướng nói năng giận dữ, mà con dùng giọng nói của mình để chuyển hóa năng lượng đang lôi kéo tâm ý thức của con. Xong con dùng khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm, xem xét các khuôn nếp trong tâm cảm xúc, tâm lý trí và tâm bản sắc, và nhờ vậy con phá tan Maya là ảo tưởng đã tạo ra cái khuôn nếp khiến con phản ứng giận dữ. Con tự giải phóng khỏi lòng giận dữ thay vì dồn nén nó xuống. Đây là một khác biệt to lớn, cốt tủy.

Con có thể cho rằng bằng cách kềm chế mọi phát biểu thiếu hài hòa thì con đã chứng tỏ một sự tiến bộ vượt bực trên đường tu tâm linh, nhưng thày thà thấy con loại bỏ chỉ một khuôn nếp còn hơn là con kềm chế cả trăm khuôn nếp. Ít ra một khuôn nếp này sẽ đưa con lên một bước cao hơn, trong khi việc kềm chế sẽ chỉ khiến con cảm thấy mình không cần bước lên bước nào vì mình đã là một đệ tử tâm linh cao cấp quá rồi. Một lần nữa, con có khả năng bước lên cao hơn và nhìn mọi chuyện như một cơ hội. Nhiều người tâm linh đã chấp nhận chuẩn mực quy định mình phải nói năng nhỏ nhẹ, không bao giờ được mất hài hòa, không bao giờ được to tiếng, không bao giờ được cáu kỉnh, và nếu làm vậy thì mình cảm thấy vô cùng xấu hổ và hối hận, mình phải tự khiển trách hay khiển trách người khác.

Thực sự tại sao một vị thày tâm linh lại muốn quan tâm đến cách cư xử như vậy? Đúng, nếu đấy là một khuôn nếp cứ lặp đi lặp lại thì nó thật không xây dựng, nhưng thày vừa nói gì chứ? Con có thể nhìn mọi chuyện xảy ra trong đời con như một cơ hội để nhìn ra một điều gì đó trong tâm thức của con và khắc phục cái đó. Nếu con bị mất hài hòa và phát biểu giận dữ, thật chẳng ích gì mà tự khiển trách hay cảm thấy xấu hổ. Con chỉ bước lui lại và nói: “Ồ, đây là một cơ hội để tôi nhìn ra một khuôn nếp tôi đang có trong tâm tiềm thức. Khuôn nếp này là gì? Tôi sẽ bước vào lòng nó. Tôi bước vào lòng năng lượng, tìm ra cái tin tưởng đằng sau nó, gỡ rối nó cho đến khi tôi nhìn thấy nó.” Đây chính là phương thức xây dựng. Đây là cách cao hơn để dùng lời nói, để nhìn vào lời nói, tiếp cận lời nói.

Với lời này, thày đã cho con những gì thày muốn trao về chủ đề này. Cho nên thày sẽ niêm con trong lời nói vui mừng của Phật.

3 | Từ chánh kiến đến cái hiểu cao hơn

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Bát chánh đạo là một điều mà nhiều người tự xem mình là Phật tử suốt các thời đại đã hoạt động trí năng đáng kể để cố tuân theo trong khả năng cao nhất của mình, có nghĩa là họ đã dùng trình độ nhận biết của họ và biết bao khuôn nếp có mặt trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của họ để tuân theo. Như được mô tả thì đó không phải là một con đường dễ theo, vì vậy thày sẽ cho con một số ý tưởng về cách làm thế nào con có thể đạt được một tầm nhìn mới về con đường này trong thế giới hôm nay.

Bình thường con đường này được định nghĩa là có tám bước, tám giai đoạn, tám phẩm chất, và chúng đều bắt đầu với từ “chánh,” như chánh kiến, vân vân. Nhưng liệu “chánh” có phải là từ thích hợp để sử dụng hay không khi con nhớ lời dạy của thày về các cặp? Tâm thức nhị nguyên luôn luôn muốn chia mọi chuyện thành ít nhất hai đối cực, xong áp đặt một phán xét giá trị bảo rằng cái này là đúng và cái kia sai, cái này là thiện và cái kia ác. Thay vì dùng từ “chánh,” chúng ta hãy dùng từ “cao hơn” – cái hiểu cao hơn, ý định cao hơn, lời nói cao hơn, vân vân.  

Vậy chúng ta hãy bắt đầu với điều mà theo truyền thống được xem là bước đầu tiên, Hiểu biết Cao hơn. Con thấy chuyện xảy ra ở đây là chúng ta vừa xoay chuyển. “Chánh” hàm ý một mục tiêu cuối cùng, một giai đoạn tối hậu nào đó. Đối với nhiều người, “chánh kiến” mang ngụ ý – và đã mang ngụ ý này suốt các thời đại – là con có thể đạt đến một cái hiểu tối thượng nào đó. Và nếu điều gì đúng tuyệt đối thì trong suy nghĩ của nhiều người, đó phải là điều cao nhất, là cái hiểu cao nhất. Cái đó không thể được nới rộng, không thể được thăng vượt, không thể nào qua mặt. Nhưng nếu vậy thì tại sao Phật lại đặt hiểu biết như bước đầu của một con đường tám bước?

3.1. Không hề có hiểu biết tối thượng

Nếu ngay từ bước đầu con đã đạt được một hiểu biết tối thượng nào rồi thì tại sao con lại cần đến bảy bước kia? Con thấy là bằng cách chuyển sang từ “cao hơn,” chúng ta hàm ý là luôn luôn có một cái hiểu cao hơn có thể được thu hoạch. Không có gì là chót cùng. Và chắc chắn sẽ cực kỳ hữu ích nếu con nhìn nhận là chừng nào con còn đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất với tâm thức tập thể dày đặc như thế này, thì không một hiểu biết tối hậu nào có thể đạt được.

Điều này một phần là do sự dày đặc của chính vật chất, nhưng cũng do sự dày đặc của tâm thức tập thể. Tất nhiên với thời gian thì tâm thức tập thể có thể được nâng lên, và nó đã được nâng lên. Sẽ tới một điểm trong tương lai khi con người có thể với tới một hiểu biết cao hơn hiểu biết hiện thời, nhưng đây vẫn không phải là hiểu biết tối thượng. Đó là tại sao Phật đã không đưa ra một tôn giáo với một vũ trụ quan phức tạp và bảo rằng đây mới là cách vận hành thực sự của vũ trụ. Phật nhận ra là tâm con người, nhận biết của con người, có giới hạn.  

Cách đây 2500 năm, tâm thức tập thể thấp hơn ngày nay. Về khả năng nắm bắt hiểu biết sâu sắc về vũ trụ học, con người thời đó còn bị giới hạn hơn cả con người thời nay. Ngày nay tâm thức đã được nâng lên đáng kể, phần nào do ảnh hưởng của khoa học, và do đó con người có một nền tảng tốt hơn để hiểu được một sự thật lớn hơn. Nhưng điều thiết yếu mà con cần nhìn nhận là trình độ hiểu biết hiện thời vẫn giới hạn, và nó sẽ còn giới hạn trong tương lai trước mặt.

Điều này có nghĩa khi con là một đệ tử tâm linh chân thành nỗ lực đạt đến giác ngộ, con không bao giờ có thể ngừng chân và cho phép mình tin rằng: “Bây giờ tôi đã đạt được hiểu biết tối thượng rồi”. Nhiều người đã làm vậy bằng cách lấy một giáo lý vỏ ngoài – dù là giáo lý đạo Phật hay bất kỳ giáo lý nào khác – xong rồi bảo:  “Đây là sự thật tối hậu, và vì tôi đã hiểu được giáo lý này cho nên tôi đã nắm được hiểu biết tối hậu.” Nhưng đây là một sự hiểu lầm về ý nghĩa của cái hiểu.   

3.2. Các hạn chế của tâm đường thẳng

Thày vừa nói là con người ngày nay có một nhận biết cao hơn 2500 năm về trước và điều này phần nào do khoa học đem lại. Nhưng khoa học chủ yếu dựa trên tâm suy luận phân tích, đường thẳng. Thày muốn nói gì qua từ “tâm đường thẳng”? À, tâm đường thẳng muốn nhìn mọi chuyện dưới góc độ nhân và quả. Nó cho là khi con nhìn cuộc sống trên trái đất, con luôn luôn phải có thể xác định rõ ràng: “Đây là một nguyên nhân tách biệt, đây là một điều kiện tạo ra một kết quả đã khởi đầu ở một thời điểm nào đó. Thông qua một chuỗi những bước đường thẳng dẫn từ cái này tới cái kế tiếp tới cái kế tiếp sau nữa, điều kiện hiện tại đã được tạo ra.”

Con thấy được rất nhiều ví dụ về cách suy nghĩ này trong khoa học, nhưng hãy lấy thuyết tiến hóa chẳng hạn. Người ta cho rằng có một tế bào đầu tiên xuất hiện, xong đến sinh vật có hai tế bào, xong đến sinh vật ngày càng phức tạp hơn, và lần hồi từng bước một, theo một đường thẳng, các loài hiện thời được sinh ra. Đây là – và thày không bình luận gì thêm về thuyết tiến hóa – một ví dụ của tư duy đường thẳng. Người ta lấy điều kiện hiện tại, người ta phóng chiếu một chuỗi bước đi từ điều kiện hiện tại về những nguyên nhân đơn giản hơn, và rốt cuộc người ta đến một điểm tận cùng là nơi quá trình đã khởi sự. Trong suy nghĩ của một số người, đây là thành tựu đỉnh cao của khoa học.

Tất nhiên đây không phải là điều thày giảng dạy 2500 năm về trước, vì khi đó thày dạy về lý duyên khởi, hay nhân duyên liên khởi. Sự thật là tất cả mọi thứ đều nối kết với nhau. Quả là có một số lãnh vực khoa học đã phát hiện ra điều này và nhìn nhận là người ta không thể tách rời bất cứ gì. Không có nghĩa là khoa học đã bị chứng minh là sai, vì tất nhiên là vẫn có giá trị trong việc xem xét một hiện tượng cụ thể, cố gắng mô tả nó và tách riêng ra một nguyên nhân nào đó. Cho nên phương pháp khoa học nhìn vào một hiện tượng tách biệt để cố tìm ra nguyên nhân, không phải là không chính đáng. Cái không chính đáng là khi một số người áp chồng một lớp phủ triết học và ý thức hệ lên trên tiến trình đó, bảo rằng có một thực tại tối hậu, khách quan trong việc xem hiện tượng là tách biệt và do đó phải có một nguyên nhân tách biệt. Nói cách khác, con có thể nhìn vào hiện tượng cụ thể này đây, nhìn vào các bước đã dẫn từ nguyên nhân ban đầu đến hiện tượng, thế là giờ đây con có thể biết tất cả mọi chuyện có thể được biết về hiện tượng.

À, rõ ràng đây không phải là cái hiểu cao hơn, bởi vì nó không còn chỗ nào để nới rộng, không còn chỗ nào để thăng vượt vào một cái hiểu cao hơn. Có lẽ cũng tốt thôi nếu con lấy một cái bàn bi-a và đặt lên đó một số bóng bi-a. Con lấy cây cơ và đánh một quả bóng, khiến nó lăn vào một quả bóng khác. Sau đó con đo bất cứ gì con có thể đo và con nói: “Nguyên nhân ban đầu là cái cơ bi-a đập vào quả bóng đầu tiên, sau đó với phương hướng và động lượng, quả bóng đầu truyền sang quả bóng sau một lực nhất định, rồi quả bóng sau lại đập vào quả bóng khác và cứ thế.” Chuyện này hoàn toàn ổn thỏa nếu con muốn mô tả một hiện tượng đặc thù.   

Nhưng liệu chiếc bàn bi-a đó có là một hiện tượng tách biệt không? Làm thế nào nó đã ra đời? Nó chẳng do con người sáng chế hay sao? Chẳng phải nó dựa trên một số nguyên lý tổng quát về những gì có thể được thực hiện trong vũ trụ vật chất hay sao? Các nguyên lý này đến từ đâu? Con thấy đó, như các nhà vật lý lượng tử đã khám phá, con không thể thực sự nhìn vào một hiện tượng hạ nguyên tử và tách riêng nó ra, xong con dùng một tâm ảnh vĩ mô áp chồng lên hiện tượng và nói: “Đây, bây giờ chúng ta có một hạt tách biệt rồi. Chúng ta có thể tìm hiểu hạt hạ nguyên tử này như thể chúng ta tìm hiểu một quả bóng bi-a trên bàn bi-a.”

Các nhà vật lý lượng tử đã khám phá không còn nghi ngờ gì nữa là trong thế giới lượng tử không có hạt nào là tách biệt. Chúng là một phần của một tổng thể lớn hơn. Chúng có thể xa nhau một khoảng cách nhưng chúng vẫn nối kết với nhau, vì vậy mà sự thay đổi của một hạt đi liền tức khắc với sự thay đổi của một hạt khác cho dù rất xa nhau. Đây là điều một lãnh vực của khoa học đã khám phá. Nó đã không vô hiệu hóa phương pháp khoa học trong việc tìm hiểu một hiện tượng đặc thù, mà nó đã vô hiệu hóa cái lớp phủ ý thức hệ bảo rằng người ta có thể tách riêng một hiện tượng để đi đến kết luận là hiện tượng này có một nguyên nhân tách biệt. Không hề có hiện tượng tách biệt và cũng không hề có nguyên nhân tách biệt.

3.3. Tìm cách kiểm soát thế giới của những nguyên nhân tách biệt

Tại sao điều này lại quan trọng? À một lần nữa, chúng ta đã bắt đầu nói về chuyện gì chứ? Con sống trong một thế giới mà trong vài năm qua đã trở nên hỗn loạn hơn, khó lường hơn, khiến nhiều người  cảm thấy bất an về tương lai. Như thày đã nói, phản ứng của nhiều người là họ muốn duy trì cảm giác cân bằng của họ. Mong muốn đầu tiên của họ là tìm cách nào kiểm soát thế giới. Khi họ nhận ra là họ không thể kiểm soát thế giới thì họ bước vào phản ứng mà thày đã mô tả, là họ chối bỏ cảm xúc, chối bỏ tư tưởng và ý niệm bản sắc của họ, đẩy chúng xuống dưới mức nhận biết ý thức để họ có thể duy trì cảm giác cân bằng.

Thày cũng có mô tả là có một con đường cao hơn, đó là nhìn xem tại sao con cảm thấy như vậy, tại sao con nghĩ như vậy, tại sao con nhận diện mình là như vậy, và nhận ra là những thứ đó không là hiện tượng tách biệt. Có một lý do để chúng có mặt và con có thể phát hiện lý do này. Nếu thế thì đây chính là cái hiểu cao hơn, nhưng cái hiểu cao hơn còn là nhiều hơn vậy. Tại sao thày đã nói là trong thế giới hạ nguyên tử không có hiện tượng nào tách biệt? Bởi vì tất cả mọi thứ đều được tạo thành từ hạt hạ nguyên tử, hay ít ra tất cả mọi thứ trong cõi vật lý. Những gì con bình thường xem là thế giới vật lý mà con có thể phát hiện bằng giác quan hay dụng cụ khoa học, con nhìn chúng theo một quy định rất đặc thù. Con nhìn chúng như được tạo thành từ những vật tách biệt mà con áp chồng một tâm ảnh lên trên.

Nhưng ngành vật lý lượng tử đã chứng minh là không có vật nào tách biệt. Quả bóng bi-a không là vật tách biệt vì nó được tạo thành từ các phân tử, nguyên tử, hạt hạ nguyên tử, và ở sâu hơn nữa, từ tầng lớp cấu tạo ra hạt hạ nguyên tử, hay sản xuất ra, hay biểu hiện ra các hạt hạ nguyên tử. Có nghĩa là không có gì con nhìn thấy trong thế giới vật lý có thể tách riêng ra khỏi thế giới hạ nguyên tử. Nó được tạo thành từ chính thế giới đó.

Thêm vào đó, Albert Einstein đã chứng minh là vật chất vật lý thật sự không hiện hữu vì vật chất chính là năng lượng đã khoác vào một hình tướng cụ thể. Tầng lớp sâu hơn, tầng lớp sâu nhất của vật chất không phải là hạt. Đó là năng lượng. Tất nhiên, năng lượng không thể tách riêng ra như con có thể tách riêng một hạt. Một sóng năng lượng tỏa rộng trong không gian. Nó không có một vị trí riêng biệt. Con không thể cô lập một sóng năng lượng. Con không thể đông lạnh một sóng năng lượng xong bảo rằng bây giờ con có cái nhìn chính xác về sóng đó, bởi vì sóng không ngừng chuyển động. Khi thày nói về lý duyên khởi, đó chỉ đơn giản là một cách khác để nói về những gì các nhà khoa học lượng tử đã tìm ra, cụ thể là tất cả mọi thứ con nhìn thấy đều là sự biểu hiện của một cái gì con không thấy, và ở cùng cực, đó là sự biểu hiện của một tổng thể liên kết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau.  

3.4. Con không tách biệt khỏi môi trường của con

Điều này liên quan thế nào với lời dạy của Phật về giác ngộ? À, trải nghiệm của con như một người đầu thai trên trái đất là gì chứ? Bắt đầu với cơ thể vật lý. Con đã được nuôi dạy, thậm chí suốt nhiều kiếp sống, để xem cơ thể vật lý của mình như một đơn vị tách biệt, phần nào biệt lập. Con trải nghiệm cơ thể của con là một đơn vị mạch lạc, tích hợp. Con có thể quyết định đứng dậy khỏi ghế ngồi, đi dạo một vòng ngoài trời, và cơ thể của con di chuyển xuyên qua không gian bên ngoài như một khối riêng biệt. Nó có thể chịu một số tác động. chẳng hạn nếu có chiếc xe chạy tới có thể đụng con. Hay nếu có mưa từ trời rơi xuống, con bị ướt, cơ thể con bị ướt. Nhưng nói chung, con có cảm giác con là một đơn vị tách biệt và con có thể di chuyển theo ý muốn trong không gian vì đó là môi trường địa phương của con.

Khi con nghĩ về chuyện này, con cũng biết là lý do con có thể đi bộ trên mặt đất là vì có một lực vô hình, gọi là trọng lực, đang giữ con trên mặt đất để con không bay đi mất. Con biết một cách trí thức là có những lực ảnh hưởng cơ thể của con, có nghĩa là cơ thể con thật ra không tách biệt. Tất nhiên, con có thể nghĩ xa hơn và nhận ra là cơ thể được tạo thành từ nguyên tử, phân tử, hạt hạ nguyên tử cũng như từ sóng năng lượng. Cho nên nó không thể tách riêng ra khỏi môi trường năng lượng này nơi con sinh sống. Tuy nhiên, do ấn tượng từ giác quan vật lý, do sự dạy dỗ mà con đã nhận được trên trái đất trong kiếp này và ấn tượng từ tiền kiếp, hầu hết mọi người đều có xu hướng xem cơ thể của mình là tách biệt.

Hầu hết mọi người cũng có xu hướng xem thể cảm xúc của mình – nếu họ cho là họ có một thể cảm xúc – như một đơn vị tách biệt. Cũng tương tự vậy với thể lý trí và thể bản sắc. Con thường nghĩ mình là người có cảm xúc, nhưng chẳng phải là biết bao lần con đã bị ảnh hưởng bởi những ấn tượng đến từ ngoài, bởi những gì người khác làm hay nói với con hay sao? Nếu có ai giận dữ tiến lại gần con, con chẳng thấy là điều này tác động lên thể cảm xúc của con hay sao? Làm sao cảm thể của con lại tách biệt được?

Con chẳng đã trải nghiệm một ai đó đến nói với con điều gì khiến con bị phiền lụy hay sao? Con sẽ có xu hướng hoặc tin họ hoặc không tin họ. Con có thể nhập cuộc tranh cãi với họ. Hiển nhiên thể lý trí của con không là một đơn vị tách biệt.

Hầu hết mọi người không nghĩ đến chuyện ý niệm bản sắc của họ cũng có thể bị ảnh hưởng nặng nề bởi môi trường sinh sống. Họ không nhận ra là họ đã được dạy dỗ dến chừng nào để có một ý niệm bản sắc nhất định. Họ cũng không nhận ra là suốt nhiều kiếp sống, họ đã bị lập trình đến chừng nào để chấp nhận mình là một sinh thể tách biệt. Khi con bắt đầu tìm kiếm cái hiểu cao hơn, con cần xem xét vấn đề này. Con cần xem xét là ở mức vĩ mô, ở mức của giác quan và tâm vỏ ngoài đường thẳng, con xem mọi hiện tượng là tách biệt. Có một sự lập trình khổng lồ trong tâm tiềm thức của con và trong tâm thức tập thể, tập trung vào việc nhận diện những khác biệt, những vật tách biệt và hiện tượng tách biệt.

Nhưng tất nhiên, cũng có một lý do rất thực tế cho chuyện này. Con cần có khả năng nhận diện những hiện tượng riêng biệt. Đây là một phần của khả năng sinh sống trong cuộc đời thực tế. “Chuyện này có nguy hiểm cho tôi không? Chất này có hại gì không nếu tôi đem nó vào cơ thể? Nó có làm tôi chết? Nó có giết chết cơ thế của tôi không?” và nhiều loại cân nhắc như vậy.

Một lần nữa, điều này tự thân nó không có gì sai trái. Vấn đề khởi lên khi con áp chồng một lớp phủ ý thức hệ lên những ấn tượng đến với con qua giác quan và tâm vỏ ngoài. Khi đó, có một phần khác của tâm vỏ ngoài bảo rằng những thứ đó đúng là tách biệt. Nó bảo những gì con trải nghiệm qua giác quan và tâm vỏ ngoài là sự thật khách quan. Ở ngoài kia là những vật tách biệt, chúng tách biệt khỏi cơ thể vật lý của con, tách biệt khỏi tâm con. Và vì vậy, nếu cơ thể của con không thể tác động đến chúng thì tâm con cũng không thể làm gì được. Và tất nhiên, vấn đề này cũng ảnh hưởng cách con quan hệ với người khác – họ tách biệt khỏi con.

3.5. Người không thể giết người

Nếu con nhìn các loài động vật, con sẽ thấy là hầu hết không giết hại một thành viên trong cùng giống loài với chúng, nhưng rõ ràng loài người thì có. Sự thật ở đây là một người không thể giết một người khác. Vì nếu con nhìn người kia như một người, như chính con, thì con không thể giết người đó. Đơn giản đây là một cơ chế sống còn ở cấp độ giống loài. Con cũng biết, vì các nhà khoa học đã nói với con như vậy, là có một cấp độ cá nhân và một cấp độ cho toàn bộ giống loài. Đôi khi một số cá nhân cần làm gì đó để đảm bảo sự tồn tại của cả giống loài – có thể qua sự truyền giống, sự bảo vệ, hay nhiều thứ khác nhau.

Để một loài có thể tồn tại, cần phải có một sự lập trình nào đó. Thậm chí trong cơ thể vật lý của con có một lập trình bảo rằng: “Đừng giết đồng loại của mình, vì giết đồng loại là một chiến lược sinh tồn rất tệ.” Tất cả mọi loài đều được lập trình để sống còn. Vậy làm sao lại có chuyện con người giết hại lẫn nhau và họ đã làm vậy từ khi có lịch sử ghi lại? Ấy, chuyện này xảy ra được là vì con có thể lấy ấn tượng từ giác quan và phin lọc nhận thức của tâm vỏ ngoài, và con có thể tạo ra tâm ảnh rằng người kia không phải là một con người như mình đây, mình không gắn liền với họ, và vì vậy mình có thể giết họ mà không ảnh hưởng gì đến mình. Đây là cách duy nhất một người có thể giết một người khác.

Câu chuyện này dẫn đến nhận xét gì? Ít nhất nó gợi ra cho con cái hiểu là con người có khả năng tạo dựng một tâm ảnh hoàn toàn xa rời thực tế. Khoa học đã cho thấy là mọi thứ đều liên kết với nhau, nhưng trong chiều dài lịch sử, loài người đã tạo ra tâm ảnh là họ tách biệt với nhau và do đó họ có thể giết hại nhau mà không bị ảnh hưởng gì. Phải, hiển nhiên con đã trải nghiệm việc một người có thể dùng cơ thể của mình để giết một cơ thể khác và cơ thể của mình thì không chết. Tất nhiên trên thế giới cũng có một phần lớn tin vào nghiệp quả, và do đó, con sẽ bị tác động khi con giết người khác, ngay cả trong những kiếp tiếp theo – cho nên ở đây có một sự liên kết nào đó.

Chắc chắn trong một phần lớn của thế giới hiện đại đã rời bỏ lời dạy của các tôn giáo về nghiệp quả, con chứng kiến tư duy tách biệt này khiến cho người ta tin rằng những gì họ làm tới người khác thì họ không đang làm tới chính họ. Con sẽ thấy là hầu hết mọi tôn giáo đều có lời răn: Đừng làm tới người khác những gì con không muốn người khác làm tới con. Tất nhiên, lời dạy này dựa trên sự nhìn nhận là mọi thứ đều liên kết với nhau, cho nên những gì con làm cho người khác sẽ tác động đến con.

3.6. Tách biệt dẫn đến sự phán xét giá trị

Đâu là khởi đầu của cái hiểu cao hon, bước đầu tiên của Bát chánh đạo? À, đó là khi con bắt đầu chất vấn cảm nhận tách biệt này, ảo tưởng tách biệt này. Đâu là cơ sở đã tạo ra ảo tưởng con là một sinh thể tách biệt? À, đó là điều mà cách đây 2500 năm thày đã gọi là những cặp đôi, nhưng với cách diễn tả hiện đại hơn, chúng ta có thể gọi là tâm thức nhị nguyên. Đó chính là ý tưởng rằng con có thể nhìn cuộc sống, con có thể nhìn thực tế mà có thể nói: “Đây là một hiện tượng riêng rẽ, khác biệt với hiện tượng kia.” Để cụ thể hơn: “Đây là một nhóm người khác biệt với nhóm người kia, họ khác màu da cho nên họ khác biệt.” Ở đây con chỉ có một sự nhận biết về điểm khác biệt trong các đặc tính bên ngoài. Sau đó con đi xa hơn.

Thay vì chỉ bảo rằng nhóm này có màu da này và nhóm kia có màu da kia, giờ đây con nói: “Có một tầm quan trọng ý thức hệ nào đó trong chuyện này.” Để đơn cử một ví dụ quen thuộc ở một thời điểm cách đây không lâu – mà một số người vẫn còn bị dính mắc – người da trắng từng xem bất cứ ai khác màu da đều thuộc một chủng tộc thấp kém hơn. Đây là lúc con dùng tâm nhị nguyên và nói: “Đây là một số khác biệt, khác biệt về màu da, nhưng chúng không chỉ là khác biệt vật lý.” Không, nó không giống như khi con lấy một bông hoa huệ và một bông tulip và con nói: “À, đây chỉ là những bông hoa khác nhau, chúng có hình thù khác nhau, chúng có màu sắc khác nhau, nhưng cả hai đều đẹp.” Thay vào đó con nói: ”Đây là một người da trắng. Đây là một người da đen. Màu da khiến cho họ khác nhau một cách cơ bản. Họ không chỉ là những biến thể của loài người giống như hai bông hoa là biến thể của loài hoa. Họ là những sinh thể khác nhau trong bản chất.”

Không những vậy, họ có thể được xếp vào một hệ thống nhị nguyên: “Màu da này khác màu da kia một cách cơ bản.” Thậm chí con có thể áp đặt lên đó một lớp phủ bảo rằng Thượng đế đã tạo ra một giống dân cao trội hơn giống dân kia. Xong con có thể làm thêm một thủ thuật nhị nguyên là áp đặt sự phán xét giá trị mà thày vừa nói đến. Con bảo giống da trắng cao trội và giống da đen thấp kém. Thậm chí con có thể đi xa hơn nữa và bảo rằng việc giống da trắng khuất phục giống da đen, biến người da đen thành nô lệ, là một chuyện hoàn toàn chấp nhận được. Nếu giống da đen kháng cự lại, thì việc giống da trắng giết họ là chuyện hoàn toàn chấp nhận được. Hay con có thể thế vào một giống dân khác và nói: “Chủng tộc Aryan cao trội hơn chủng tộc Do Thái. Việc người Aryan diệt chủng người Do Thái là chuyện hoàn toàn chấp nhận được, thậm chí còn cần thiết cho một đại nghĩa cuồng đại nào đó.”

Con sẽ thấy là khi con nhìn lại lịch sử và hỏi: “Người ta đã làm gì để có thể giết người như vậy,” con sẽ thấy là trong đa số trường hợp – và chắc chắn trong những trường hợp lớn rộng như chiến tranh hay diệt chủng – đó không chỉ là chuyện giết người do bị khuấy động tình cảm, như khi người ta sợ có ai khác sắp sửa giết mình. Không, ở đây có sự biện minh. Có sự biện minh tại sao giống da trắng lại có thể bắt giống da đen làm nô lệ. Có sự biện minh tại sao người Aryan lại tìm cách diệt chủng người Do Thái. Đây là tâm thức nhị nguyên. Nó dựa trên cảm nhận tách biệt, ảo tưởng tách biệt, nhưng nó đi xa hơn, tạo ra các đối cực nhị nguyên và áp đặt một phán xét giá trị. Bấy giờ, những kẻ tin tưởng vững chắc vào phán xét giá trị này có thể biện minh cho hầu hết mọi hành vi xâm phạm nhóm người mà họ đã dán nhãn là thấp kém.

3.7. Cảm nhận cao trội, nguồn gốc của đau khổ

Con thấy được ở đây là trong suốt lịch sử, con người đã nghĩ ra rất, rất nhiều cách biện minh khác nhau cho việc xâm phạm người khác. Tất cả đều dựa trên cảm nhận tách biệt, tâm thức nhị nguyên, dựng lên các đối cực và áp đặt một phán xét giá trị. Tuy nhiên từ một nhãn quan nào đó, con có thể nói: “Nhưng đây chính là điều mang lại cho những người này một trải nghiệm đặc thù.” Thày đã có nói về những người mong muốn cảm thấy cao trội hơn người. Tâm thức nhị nguyên này, sự phán xét giá trị này chỉ là một cái cớ để mang lại cho họ trải nghiệm là họ cao trội.

Chắc chắn là có thể nói như vậy, nhưng đâu là hậu quả khi làm vậy? Hậu quả là khi con bước vào tâm thức nhị nguyên đó, cảm nhận tách biệt đó, con chỉ có thể đau khổ. Có thể nói là tâm thức nhị nguyên, cảm nhận tách biệt chính là nguồn gốc của đau khổ. Cũng có thể nói là con không có cách chi thoát được đau khổ chừng nào con còn ở trong trạng thái nhị nguyên, tách biệt. Đây là điều mà cách đây 2500 năm thày đã gọi là Maya – ảo tưởng. Đây là ý nghĩa sâu hơn, là cái hiểu cao hơn về Maya: Con ở trong ảo tưởng rằng con là một sinh thể tách biệt.

Chuyện gì xảy ra khi con tự nhận diện mình là một sinh thể tách biệt? À, bỗng nhiên con tách biệt khỏi người khác, con tách biệt khỏi môi trường của con ở đây trên trái đất, và con tách biệt khỏi bất cứ gì ở ngoài môi trường của con, nghĩa là bên ngoài vũ trụ vật chất. Con không một mình trên trái đất. Có hàng tỷ người khác ở đây. Có một môi trường vật lý đôi khi biểu hiện thiên tai. Như một sinh thể tách biệt, con sẽ thấy mình bị đe dọa bởi các điều kiện trong môi trường của mình.

Đây là nguyên nhân khiến người ta tìm cách giành được chút nào quyền kiểm soát môi trường xung quanh. Người ta làm vậy ở mức độ vật lý thông qua sức mạnh thể xác hay bạo lực, bằng cách hoặc chế ngự người khác để kiểm soát họ, hoặc cố tiêu diệt người khác để họ không có mặt ở đây nữa. Người ta cũng làm vậy ở mức độ cảm xúc, qua đó nhiều người đi vào tiến trình liên tục tìm cách kiểm soát cảm xúc của mọi người xung quanh ngõ hầu tránh né các cảm xúc tiêu cực hay khó chịu nơi chính mình. Cũng vậy, nhiều người bước vào trò chơi kiểm soát tư tưởng, niềm tin hay hiểu biết của người khác, thậm chí cả ý niệm bản sắc của người khác.

3.8. Sự trớ trêu của tách biệt

Liệu con có bắt đầu nhìn thấy sự trớ trêu ở đây? Đây là một người. Y tự nhận diện mình như một sinh thể tách biệt, một con người tách biệt. Y có một cơ thể vật lý tách biệt. Y có một thể cảm xúc, một thể lý trí, một thể bản sắc tách biệt. Y sợ một chuyện gì đó sắp sửa xảy ra trong môi trường của y sẽ giết chết cơ thể của y. Y cố dùng phương tiện vật lý để kiểm soát môi trường này. Nhưng điều này rất khó thực hiện, và chưa một ai đã thành công hoàn toàn. Cho dù người ta có trở thành nhà độc tài quyền lực đến đâu, không ai có thể kiểm soát hoàn toàn môi trường của mình.     

Người đó cũng tìm cách kiểm soát cảm xúc, lý trí và ý niệm bản sắc của người khác xung quanh y. Nhưng tại sao y lại làm vậy? Y làm vậy để trốn tránh một số cảm xúc, một số ý nghĩ, một sự nghi vấn nào đó về bản sắc của mình. Nói cách khác, thật ra y đang tìm cách kiểm soát chính tâm của y, nhưng bởi vì y ở trong trạng thái tách biệt, tâm thức nhị nguyên, cho nên y cho rằng cách duy nhất để kiểm soát tâm mình là phải kiểm soát môi trường xung quanh mình, hoàn cảnh vật lý của mình, cảm xúc của người khác, ý nghĩ của người khác, ý niệm bản sắc của người khác.

Tất nhiên, điều này có nghĩa là y ở trong tình trạng giao tranh bất tận với người khác. Và người khác cũng tự xem mình là tách biệt, cho nên khi một người cố kiểm soát người thứ hai, thì người thứ hai cảm thấy bị đe dọa, cho rằng người thứ nhất đang hung hãn tấn công mình. Người thứ hai sẽ chống cự lại. Đây là Biển Luân hồi. Đa số con người trên địa cầu bị kẹt trong cảm nhận tách biệt, tâm thức nhị nguyên, và họ tìm cách kiểm soát lẫn nhau để cố đạt được một trạng thái cân bằng, một sự an bình nào đó trong tâm họ.

Phải, một lần nữa con có thể nói: “Nhưng con người có quyền tự quyết, chẳng phải là họ được phép có bất kỳ trải nghiệm nào họ muốn hay sao?” Tất nhiên rồi. Thày chỉ đang chỉ ra là trải nghiệm mà họ đang có thông qua Maya, thông qua tách biệt, thông qua nhị nguyên, là một trải nghiệm vật lộn, và một trải nghiệm vật lộn chỉ có thể tạo ra đau khổ. Nó có thể cho con một cảm giác thích thú tạm thời khi con thấy giờ đây mình đã đạt được một trạng thái quyền lực, hay kiểm soát, hay an bình tối thượng nào đó. Nhưng trạng thái này luôn luôn bị đe dọa, và con sẽ luôn luôn biết điều này. Tại sao con biết? Bởi vì nếu con đạt đến một trạng thái quyền lực qua vũ lực, con sẽ ý thức được vũ lực. Con ý thức là có thể ai đó sẽ tìm cách tước đoạt những gì con đã thu hoạch qua vũ lực bằng cách dùng nhiều vũ lực hơn con.

Con hãy nhìn các nhà độc tài, nhìn xem hầu hết suốt đời càng trở nên hoang tưởng như thế nào. Dù họ có quyền lực và khống chế nước họ biết mấy, họ vẫn luôn lo sợ ai đó có thể đoạt mất quyền lực của họ. Đó là tại sao họ phải liên tục có một lực lượng công an mật vụ để nhận mặt và loại trừ những người có tiềm năng là mối đe dọa cho họ. Con hãy nhìn bao nhiêu nhà tỷ phú có nhiều tiền đến độ không thể nào tiêu hết, nhưng họ luôn luôn lo sợ có người đến cướp mất. Họ phải bảo vệ tài sản của họ hay họ phải kiếm nhiều hơn nữa. Chuyện này trở thành một vòng xoáy ốc không bao giờ chấm dứt vì họ đang cố làm chuyện bất khả thi. Họ cố kiểm soát trạng thái tâm họ qua việc kiểm soát ngoại cảnh. Một lần nữa, điều này hoàn toàn chấp nhận được nếu con muốn ở trong Biển Luân hồi, nhưng nếu vậy thì con không cần đến Bát chánh đạo.

3.9. Bát chánh đạo là giải pháp thay thế cho đau khổ

Bát chánh đạo không phải là những gì nhiều Phật tử đã kết luận. Đó không phải là con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi hay Niết bàn. Đó không phải là một con đường cao trội. Bát chánh đạo không bao giờ có mục đích ép buộc con người phải theo. Kỳ thực mục tiêu của thày không bao giờ muốn những lời dạy này phải được truyền bá khắp địa cầu, rằng mọi người phải đi theo một đạo Phật vỏ ngoài và điều này bị áp đặt lên họ. Bát chánh đạo là một lời mời cho những ai đã chán ngán tình trạng bị sóng Biển Luân hồi xô đẩy tới tấp. Đây là những người tìm kiếm một cái gì khác hơn, họ cởi mở với ý tưởng là để đạt cái khác hơn đó, họ không thể cứ tiếp tục làm những gì họ đã làm cho đến nay. Họ cần làm gì đó khác hơn.

Đâu là bước đầu tiên trực chỉ cái hiểu cao hơn? Đó là trước tiên nhìn nhận là tâm con có những hạn chế. Ngay bây giờ con không có cái hiểu cao nhất. Thật ra con không một có cái hiểu cao hơn – bởi vì ở ngay thời điểm này, con đang có một trình độ hiểu biết nào đó, nhưng có thể có những mức hiểu biết cao hơn. Để đạt đến những mức hiểu biết cao hơn này, con phải làm gì đó khác hơn, một cái gì đó mà hiện nay con không làm. Đâu là cái khác hơn? À, đó là con phải ít nhất nắm bắt được sự cần thiết phải thăng vượt Maya, ảo tưởng, ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng nhị nguyên, các đối cực nhị nguyên, sự phán xét giá trị, cảm nhận cao trội lẫn cảm nhận thấp kém. Con phải chất vấn toàn bộ tư duy đó. Con phải bắt đầu chất vấn nó.

Việc này con không thể làm tất cả cùng một lượt. Con cần một sự liên tục nào đó. Đây là một con đường tuần tự chất vấn những ảo tưởng của Maya. Con cần thời gian. Thật ra con cần nhiều kiếp, nhưng nhiều người hiện đang đầu thai – đặc biệt ở các quốc gia hiện đại hơn, phát triển hơn – đã làm điều này trong những kiếp trước. Họ đã khởi sự tiến trình này trong tiền kiếp và tất cả những gì họ cần làm bây giờ là nối kết lại với sự thật là họ cần chất vấn tâm họ, chất vấn cách họ nhìn cuộc sống, cách họ tiếp cận cuộc sống, đặc biệt là ảo tưởng tách biệt, các cặp đôi, các đối cực nhị nguyên.

3.10. Tâm con có thể biến thành một hệ thống đóng kín

Việc này bắt đầu với một sự nhìn nhận mà thày khó lòng đưa ra 2500 năm về trước nhưng có thể đưa ra ngày hôm nay. Sự nhìn nhận này là tâm con người có xu hướng biến thành một hệ thống đóng kín. Con không phải là một hòn đảo. Không người nào là một hòn đảo. Con không phải là một sinh thể tách biệt. Con được nối kết theo nhiều cách vượt khỏi tầm nhìn của mắt thịt, không những với người khác mà với môi trường nơi con sống cũng như với một nguồn cội vượt khỏi môi trường của con – một điều mà chúng ta chưa cần bàn vội. Nhưng con cần biết là có cái gì đó ở ngoài thế giới vật chất – con là ai, con được sinh tạo như thế nào.

Con không nhìn thấy được điều này ngay bây giờ. Lý do con không nhìn thấy là vì tâm con đã bị che mờ bởi Maya, bởi nhiều ảo tưởng khác nhau, nhiều khuôn nếp phản ứng khác nhau trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. Bát chánh đạo là một tiến trình tuần tự, từng bước một, mỗi bước một lượt, để đem các ảo tưởng và khuôn nếp phản ứng đó vào tâm ý thức, xem xét chúng một cách phân biện, lượng định hậu quả của chúng, thậm chí cả sự chính đáng và nhất quán của chúng. Và sau đó đi đến kết luận là ảo tưởng này đây và khuôn nếp này đây đang giới hạn mình. Và mình đã chán ngán sự giới hạn, vì chính giới hạn luôn luôn giữ mình kẹt lại trong Biển Luân hồi nổi sóng.

Con có khái niệm về Biển Luân hồi, nhưng bên kia biển, hay ít nhất ở một bên biển, là bến bờ bên kia. Con có thể đến đó bằng cách dùng thuyền, một con thuyền Bát nhã được tạo thành từ giáo lý và tu tập. Một lần nữa, con không thể lấy giáo lý vỏ ngoài, học giáo lý, thực hành pháp tu mà nghĩ rằng con sẽ tự động sang được bờ bên kia. Con sẽ chỉ sang được bờ bên kia bằng cách tự xem xét mình, nhìn vào bản thân, nhìn vào các tin tưởng, các khuôn nếp của mình. Con tự hỏi xem tại sao mình phản ứng cách đó, tại sao mình lại nghĩ kiểu đó, tại sao mình xem mình là loại người đó. Con tuần tự chất vấn tất cả mọi điều như vậy và giải thể từng ảo tưởng một. Đây chính là con thuyền Bát nhã. Đây là cái sẽ chở con đi một khi con leo vào đó, một khi con đã neo chặt vào ý nghĩa của đường tu. Đây là cái sẽ chở con băng qua Biển Luân hồi. Không có nghĩa là con sẽ không bị sóng đánh, bởi vì con sẽ bị sóng đánh, nhưng ít ra con có thể nắm vào cái gì đó sẽ chở con đi xa hơn.

Đây là khởi đầu của minh triết, khởi đầu của hiểu biết. Tâm con có thể trở thành, hay đúng hơn đã trở thành, một hệ thống khép kín. Tại sao thày lại nói vậy? Làm thế nào thày nói được vậy? À, con có cảm thấy mình là Phật ngay bây giờ không? Con có cảm thấy là mình giác ngộ, mình đang ở trong trạng thái Niết bàn hay là Luân hồi? Con có cảm thấy là con đang an bình? Nếu vậy thì cho thấy tâm con là một hệ thống khép kín. Nó khép kín vì con đã dùng khả năng của tâm để kềm nén cảm xúc, tư tưởng và ý niệm bản sắc, để kềm nén bất cứ gì làm con xáo trộn, nhưng chính điều này cũng trở thành một chiếc áo bó tay bó chân giữ chặt con lại, trói buộc con lại. Bởi vì bất cứ khi nào có một ý tưởng mới đến với con, nó phải nhét vừa vào hệ thống sẵn có, tức là kho dữ liệu tiềm thức ở trong con đánh giá mọi ý tưởng mới, bảo rằng: “Chuyện này có nguy hiểm không? Có đúng không? Có phải là một điều tôi cần xem xét hay không xem xét?”  

3.11. Làm thế nào một vị thày tâm linh có thể giúp con?

Một lần nữa, thày đã nói gì về vấn đề nan giải của một vị thày tâm linh? À, một thày tâm linh không bị vướng trong Maya, không bị kẹt trong Biển Luân hồi, nhưng con thì đang bị. Làm thế nào vị thày tâm linh có thể giúp con thoát ra khỏi Maya? Maya là gì chứ? Con có một tin tưởng mà thật sự là một ảo tưởng, nhưng con lại tin đó là sự thật. Con tin chắc đó là sự thật – thế giới là như thế này. Chính tin tưởng này giữ con lại trong Maya. Làm thế nào vị thày giúp được con đây? Đấy, con phải nhìn ra tin tưởng của con là một ảo tưởng.

Điều này có nghĩa là vị thày phải thách thức tin tưởng của con. Tiến trình mà thày vừa mô tả có nghĩa là có một phần trong tâm con đang muốn đè nén bất cứ gì thách thức tin tưởng của con. Nhiều người gặp được một lời dạy tâm linh khác với giáo lý mà họ đang có. Họ nhìn vào lời dạy nhưng tâm ý thức của họ không bao giờ nắm được ý nghĩa hay tầm quan trọng của lời dạy, bởi vì tâm tiềm thức của họ bác bỏ, hay tô màu, hay diễn giải lời dạy. Như thày đã nói, con không thể làm gì khác. Con phải bắt đầu từ đâu đó, và khi con tìm thấy một lời dạy tâm linh, con sẽ diễn giải nó xuyên qua trình độ tâm thức hiện tại của con.

Một lần nữa, điều này tự nó không phải là một vấn đề lớn. Vấn đề là nếu con không nhận ra là chính con đang giới hạn lời dạy, rằng con đang áp chồng một cái gì đó lên lời dạy, thì cái đó sẽ ngăn cản con đi bước kế tiếp trên con đường dẫn đến giác ngộ. Con thấy không, có rất rất nhiều người – cho dù họ là Phật tử hay những người có khuynh hướng thần bí hơn, Thời Mới hơn mà con gặp thời nay – đã nhìn vào khái niệm giác ngộ và họ đã áp chồng lên đó một hình ảnh dựa trên mức tâm thức hiện thời của họ. Nhiều người có nguyên một hộp niềm tin mà họ vô cùng gắn bó. Họ nghe nói về khái niệm giác ngộ và họ thấy có vẻ cũng hay. Nhưng một cách vô ý thức, họ lại phóng chiếu ra hình ảnh là một khi mình giác ngộ, mình sẽ nhận được sự chứng thực về các niềm tin mà mình hiện có, và mình sẽ thấy các tin tưởng hiện thời của mình đúng là chân lý tối thượng. Và tất nhiên, khi có người khác giác ngộ thì người đó cũng sẽ thấy tin tưởng của mình là chân lý tối thượng, và như vậy mình đã luôn luôn đúng.

Đây là một khía cạnh khác của mong muốn cao trội. “Chắc chắn một vị giác ngộ sẽ đồng ý với tôi, với các tin tưởng hiện thời của tôi, với cách tôi đang nhìn cuộc đời.” Nhưng con thấy đó, nếu con chưa giác ngộ thì làm thế nào một vị giác ngộ có thể đồng ý với con? Con chưa giác ngộ chính là vì con còn ảo tưởng. Một vị giác ngộ không có ảo tưởng, đã thăng vượt ảo tưởng. Cho nên làm thế nào vị đó có thể đồng ý với con là các ảo tưởng của con không là ảo tưởng mà là sự thật? Đây không phải là một kịch bản thực tế. Những ai tin vào chuyện này sẽ chỉ giữ mình kẹt lại trong Biển Luân hồi, giữ cho tâm mình bị Maya xâm chiếm. Họ vẫn ở đằng sau tấm màn Maya.

Khởi đầu của Bát chánh đạo là sự sẵn lòng chất vấn chính tâm mình, nhìn ra là nó đã biến thành một vòng tròn khép kín đang tự xác nhận và tự củng cố. Sau đó là sự sẵn lòng nắm lấy lời dạy, và thay vì cố khiến cho lời dạy phải xác chứng các niềm tin hiện có của mình, thì con dùng lời dạy để tra vấn các tin tưởng, các ảo tưởng hiện có. Đó chính là Bát chánh đạo. Cho đến khi con có được cái hiểu này, con không thể thực sự cất bước trên con đường Bát chánh đạo chân chính. Thay vào đó, con sẽ khởi sự đi trên con đường giả dựa trên việc sử dụng các tin tưởng hiện thời của mình để định nghĩa thế nào là chánh kiến, thế nào là chánh tư duy, thế nào là chánh ngữ, thế nào là chánh nghiệp, thế nào là chánh mạng, thế nào là chánh tinh tấn, thế nào là chánh niệm, thế nào là chánh định. Tất cả đều “chánh” vì nó xác chứng cho các tin tưởng hiện thời của con.     

Các tin tưởng hiện thời của con là ảo tưởng. Làm thế nào một lời dạy chân chính có thể xác chứng chúng được? Con chỉ có hai lựa chọn ở đây. Hoặc Phật đã cho con một giáo lý giả trá, hoặc tin tưởng hiện thời của con là ảo tưởng. Con không thể có cả hai đường. Chọn lựa tức là luôn luôn chất vấn tâm mình, nhận thức của mình, cách mình nhìn cuộc sống. Đó là lúc con cất bước trên đường tu, con đường dẫn đến giác ngộ. Con cũng có thể lấy lời dạy của Phật và tạo ra một con đường giả sẽ dẫn con càng ngày càng sâu vào ảo tưởng. Nó có thể cho con một cảm giác là con đã đạt được một trạng thái cao trội nào đó so với người khác, vì con có giáo lý cao siêu này rồi, con đã tu tập bao nhiêu lần rồi và tất cả những chuyện như vậy. Nó có thể thay đổi trải nghiệm của con về cuộc sống nhưng nó không nâng cao tâm thức của con trên chiếc thang đưa con lên giác ngộ. Con vẫn đang mặc cái bộ đồ lặn.

Đây là bài giảng thứ nhì của thày về những gì thày muốn trao cho con trong hội nghị này. Tất nhiên thày còn nhiều điều nữa để trình bày về các bước kia trong Bát chánh đạo. Và như vậy thày niêm con trong cái hiểu minh bạch, không phân rẽ của Phật.

1 | Tiến bước trên con đường tâm linh đòi hỏi con sẵn lòng bị xao động

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng Thiên Phật Gautama. Padmasambhava và thày đã bàn bạc với nhau để xem nên trao truyền điều gì cho các con, những học trò trực tiếp của các thày, ngõ hầu giúp các con trong thời điểm cụ thể này. Các thày cũng đã xem có thể trao truyền điều gì sẽ giúp cho những ai khác có tâm cởi mở về mặt tâm linh và điều gì sẽ giúp cho cả hành tinh này nói chung. Lẽ tự nhiên, chính các con đang kết nối qua internet và cùng nhau đọc các bài chú, bài thỉnh, cũng đang giúp cho hành tinh này rất nhiều.

Bây giờ thày có thể nói gì về cuộc sống trên trái đất mà có ý nghĩa cho đại đa số mọi người? À, thày có thể nói là cuộc sống khó khăn và đầy thử thách, hay như cách đây 2500 năm, thày nói về Khổ đế – Chân lý đầu tiên của Tứ diệu đế – rằng cuộc sống là đau khổ. Có lẽ hầu hết mọi người trên trái đất đều đồng ý như vậy. Nếu con bước lui lại và đặt một câu hỏi khác: “Cuộc sống trên trái đất là gì vậy, có gì có thể so sánh với cuộc sống này không?” Vậy đây là một cách khả dĩ để nhìn vấn đề.

1.1. Cảm giác khi con bước vào đầu thai 

Con cũng biết trước đây người ta có những bộ đồ lặn rất lớn, không thấm nước và khá nặng, gồm một cái mũ bảo hiểm to bằng kim loại có những lỗ nhỏ xíu để nhìn ra ngoài. Thày biết hầu hết các con tất nhiên chưa từng mặc bộ đồ lặn này, nhưng dẫu sao con cứ hình dung đang mặc một bộ đồ như vậy và cảm thấy khá gò bó. Bộ đồ vừa nặng, lại kềnh càng, ngay đơ, khó chuyển động trong đó. Tất nhiên thêm vào đó, người ta dùng một sợi dây cột con vào một vật cố định trên mặt nước, và có một cái vòi dùng để bơm không khí vào mũ bảo hiểm. Con thử hình dung chuyện gì xảy ra khi con ở dưới nước trong một bộ đồ như vậy. Bộ đồ đã khiến con cảm thấy gò bó, nhưng khi con xuống dưới nước thì áp suất của nước sẽ tác động lên thân thể con qua áp suất đè lên bộ đồ. Con càng xuống sâu thì áp suất nước càng lớn. Khi con ở trên mặt nước, ít nhất con có thể nhìn khá xa qua những lỗ nhỏ trên mũ bảo hiểm, nhưng một khi con đã xuống nước, con không thể nhìn xa lắm vì còn tùy thuộc vào độ trong của nước. Bây giờ con hãy hình dung để có thể xuống sâu hơn, con cần phải đeo những vật nặng. Con có thể cần đôi giày lặn thật nặng, hoặc chì lặn đeo ở thắt lưng để có thể chìm xuống đáy. Đó, tình trạng này giống như khi một sinh thể tâm linh, một sinh thể phi vật chất – còn gọi là hồn hay bất cứ tên gì con muốn gọi – bước vào hiện thân vật lý.

Con không chỉ đang mặc một bộ mà đến bốn bộ đồ lặn. Từ một sinh thể tâm linh đi xuống đầu thai, thoạt tiên con đi xuống một thể mà các thày gọi là thể bản sắc, là trụ điểm của bản sắc của con. Bản sắc mà giờ đây con có trong kiếp sống này có thể bị ảnh hưởng rất nhiều bởi môi trường con sinh ra, bởi nền văn hoá, bởi cách mọi người nhìn chính mình và bởi cái mà các thày gọi là tâm thức tập thể. Con đã được nuôi dạy để nhận diện mình theo một cách nào đó.

Đến thể tiếp theo, bộ đồ lặn tiếp theo con mặc vào là thể lý trí, là cách con nhìn cuộc sống, cách con nhìn khía cạnh “như thế nào” của cuộc sống, khác với khía cạnh “là gì” khi con nhìn qua thể bản sắc. Thể lý trí là những điều con có khả năng hay không có khả năng thực hiện, con thực hiện bằng cách nào, và nhiều cách vi tế con nhìn cuộc đời cũng như cách con quy định con là loại người thế nào, những chọn lựa, những tùy chọn của con là gì.

Nhờ trí thể mà con có khả năng tranh luận đồng tình hay bác bỏ một quan điểm nào đó. Con có thể thấy thể lý trí của những người khác nhau có thể suy ra những kết luận rất khác nhau. Thậm chí người ta có thể nhìn vào cùng một ý tưởng, cùng một bằng chứng, nhưng có người đi đến kết luận là không có Thượng đế, không có gì bên ngoài vũ trụ vật chất. Nhưng người khác lại kết luận là phải có cái gì vượt ngoài vũ trụ vật chất, và tất nhiên còn vô số những câu hỏi khác mà người ta có thể tranh cãi. Đây là điều diễn ra chủ yếu trong trí thể, nhưng dĩ nhiên nó bắt đầu ở bản sắc thể, vì có người lớn lên đã chấp nhận bản sắc mình là người sùng đạo, trong khi người khác lại xem mình là kẻ vô thần hay khoác vào đủ loại bản sắc khác nữa.

Thể thứ ba con mặc vào tất nhiên là thể tình cảm, là trụ điểm của những cảm xúc của con. Một lần nữa tùy vào nơi con lớn lên, con đã được nuôi dạy để khoác vào một số khuôn nếp quy định cách phản ứng của mọi người trong nền văn hóa của con đối với một số tình huống nhất định. Có người rất thụ động, họ có xu hướng phục tùng kẻ có thẩm quyền, họ không muốn lấy quyết định, họ có cảm giác mình không được quyền đòi hỏi. Có người lại hung hãn hơn, cảm thấy mình có quyền yêu cầu hay ngay cả áp đặt ý muốn lên người khác. Có người cảm thấy mình có quyền nổi giận, có người cảm thấy mình phải đè nén cảm xúc, không được giận dữ hay bộc lộ bất kỳ cảm xúc nào khác. Một lần nữa, con thấy có vô số phản ứng.

Và cuối cùng tất nhiên là thể vật lý, đây là thể gò bó nhất trong bốn thể vì nó dày đặc nhất. Con có thể thấy một sinh thể phi vật chất đi vào bốn thể này bị gò ép khủng khiếp. Đây chỉ là bốn thể con khoác vào trong kiếp này để có thể đầu thai. Dĩ nhiên đạo Phật và nhiều triết lý tâm linh khắp thế giới công nhận sự đầu thai. Con không chỉ đem vào kiếp sống này nền văn hóa nơi con lớn lên mà con còn đem theo các khuôn nếp bản sắc, lý trí, tình cảm từ những kiếp trước. Và ở đây ít nhất con có thể nói rằng cơ thể vật lý là một thân mới mỗi lần con đầu thai, nhưng vẫn có một số khuôn nếp từ quá khứ định đoạt cơ thể vật lý của con sẽ như thế nào trong kiếp này, sẽ vận hành ra sao, và thậm chí có xu hướng mang bệnh tật gì.

Con thấy là khi con bước lùi lại và nhìn cuộc sống, con có thể nhận thấy một khi con ở bên trong bốn thể này, bốn bộ đồ lặn này, và một khi con đã lặn xuống dưới nước tức tâm thức tập thể hay trường năng lượng của trái đất, thì con không thể không cảm thấy bị gò ép. Đơn giản là không thể khác được. Con không thể đầu thai trên trái đất mà không cảm thấy áp lực khổng lồ này.

1.2. Nguyên nhân thật sự của khổ đau 

Đấy là ý nghĩa sâu sắc của Khổ đế, rằng cuộc sống là khổ đau. Vì vật chất dày đặc, tâm thức đại chúng dày đặc, vì những xung đột liên tục giữa người với người, nên cuộc sống trên một hành tinh như trái đất chính là khổ đau. Con không thể thoát khỏi khổ đau bởi vì đây là môi trường con sinh sống. Vậy thì con có thể làm gì? À, dĩ nhiên con có thể làm nhiều việc và các thày cũng đã trao truyền nhiều giáo lý, nhưng chúng ta hãy tập trung vào Tập đế – Chân lý thứ nhì của Tứ diệu đế. Đau khổ xuất phát từ cái thường được dịch là ham muốn sai lầm. Tuy nhiên, ý nghĩa sâu sắc hơn, hiểu biết cao hơn, là không có “sai” ngược lại với “đúng”.

Có một loại ham muốn đặc thù gây ra khổ đau, và tất nhiên điều này có thể giảng giải ở nhiều mức hiểu khác nhau. Ở đây thày không đang tìm cách bác bỏ cách phần lớn Phật tử đã diễn giải giáo lý của Phật trong suốt 2500 năm qua. Thày không cố nói là họ đã diễn giải sai. Nhưng con thấy đó, không chỉ trong đạo Phật mà trong hầu hết các tôn giáo khác và ngay cả trong các triết lý phi tôn giáo trên hành tinh này, con người có xu hướng định nghĩa cái đúng như là đối nghịch của cái sai.

Đây lẽ tất nhiên là bản chất của tâm thức nhị nguyên. Có hai đối cực, nhưng chúng không chỉ đối lập như trắng với đen chẳng hạn. Có một sự phán xét giá trị được gán ghép lên hai đối cực này, và điều này có nghĩa là người ta thấy một cực đúng và cực kia sai. Tương tự như vậy, nhiều Phật tử xuyên qua các thời đại đã nhìn những ham muốn theo cách này và đã tìm cách quy định bên này là những ham muốn sai mà Phật nói tới, và bên kia là những ham muốn đúng mà Phật nói tới. Nhưng cùng lắm, đây cũng chỉ là một mức hiểu nông cạn.

Cũng có thể nói, đây không phải là ý Phật muốn nói. Đây không phải là điều thày đã nói 2500 năm về trước vì thày đã trao truyền giáo lý về các “cặp đôi” trong kinh Pháp cú. Khi con nói đúng-sai, con đã tạo ra một cặp và chính điều này khiến con rơi vào bẫy của tâm thức nhị nguyên. Thật sự trạng thái tâm thức nhị nguyên này mới là nguyên nhân của khổ đau. Thày đang nói là con không thể đầu thai trên một hành tinh như trái đất mà không cảm thấy áp lực, nhưng áp lực đó là vì tâm thức đại chúng trên trái đất bị chi phối rất mạnh bởi nhị nguyên, bởi các cặp, bởi những đối cực nhị nguyên, bởi những phán xét giá trị: tốt xấu, đúng sai, vân vân.

Nhiều người trên thế giới sẽ không thể nắm bắt được điều này. Họ sẽ không thể nắm bắt nhị nguyên. Đây là lý do tại sao các thày tâm linh luôn phải đối mặt với một số giới hạn. Trở lại với hình ảnh một người mặc bộ đồ lặn, chúng ta có thể nói là con người trên trái đất cũng đang mặc một bộ đồ lặn nặng trịch như vậy, họ đang bị tất cả mọi thứ trì kéo xuống, vì vậy mà họ đang ở tận dưới đáy. Điều gì đang kéo họ xuống? Ấy, đó là cơ thể vật lý của họ, các khuôn nếp cảm xúc của họ, các tin tưởng lý trí của họ hay những con bò thiêng trong trí thể của họ, và ngay cả ý niệm bản sắc của họ. Chính những nội dung trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể là chì lặn của con, chúng kéo con xuống tận đáy đại dương.

1.3. Thách thức đặt ra cho các thày tâm linh 

Giờ đây chúng ta thấy con người trên trái đất, họ đang ở trong bộ đồ bốn thể phàm rất gò bó đang trì kéo họ xuống đáy đại dương. Tùy vào độ trong của nước nơi họ sống, họ chỉ nhìn được bao xa. Nhưng là thày tâm linh, các thày đã giải phóng mình khỏi sức nặng này, giải phóng mình khỏi các bộ đồ lặn, các thày đã lên khỏi mặt nước và hòa mình vào ánh sáng mặt trời trong veo nhờ đó nhìn được rất rất xa, và giờ đây các thày đang cố gắng liên lạc với những người trong bộ đồ lặn nặng trịch kia còn ở tít dưới đáy biển và không làm sao nhìn xa hơn mũi mình ba mét.

Khi con bước lùi lại và bằng trí năng bước ra ngoài bộ đồ lặn thì con có thể nhận ra vấn đề. Các thày, những vị thày tâm linh, đang trải nghiệm một thực tại hoàn toàn khác với những gì hầu hết mọi người trải nghiệm ở đáy biển. Các thày đang nỗ lực cho mọi người biết có một chọn lựa khác hơn những gì các con đang kinh qua. Có một góc nhìn khác, một cách khác để nhìn cuộc sống, và các thày đang cố truyền đạt là trước tiên, con nên mong muốn có được tầm nhìn rộng lớn hơn này. Các thày cũng cố nói là mặc dù con không thể đạt được tầm nhìn trọn vẹn như các thày ở ngoài hiện thân, nhưng con có khả năng đạt được tối thiểu một tầm nhìn rộng hơn trong khi còn đang đầu thai. 

Nhưng liệu có bao nhiêu người có khả năng trụ vững vào đó? Có bao nhiêu người nắm được có một cách nhìn đời khác với cách họ đã được dạy dỗ trong kiếp này, khác với những điều họ đã khoác vào trong nhiều kiếp trước? Bao nhiêu người có thể nắm bắt được điều này?

Điều đã xảy ra với triết lý đạo Phật và nhiều giáo lý tâm linh hay tôn giáo khác, là tất nhiên các triết lý này được trao truyền từ một tầm nhìn cao hơn, một tầm nhìn rộng hơn so với hầu hết mọi người trên trái đất. Nhưng con người thì không thể nâng tâm thức mình lên để có tầm nhìn này, và tất nhiên một vị thày tâm linh không mong đợi như vậy. Nếu là một vị thày tâm linh, con mong đợi mọi người sẽ theo con đường tuần tự từ mức nhận biết hiện thời, tầm nhìn hiện thời của họ, rồi từng bước một mở rộng sự nhận biết, mở rộng tầm nhìn và ít ra cũng đến gần hơn với tầm nhìn của vị thày. Tuy vậy, điều không thể tránh xảy ra và đã xảy ra với tất cả các tôn giáo và các triết lý tâm linh, là có những người bị thu hút bởi triết lý và vì vậy họ phải – và họ không thể làm được gì khác – tiếp cận triết lý này ở tầng nhận thức hiện thời của họ. Có nghĩa không thể tránh việc họ phóng chiếu điều gì đó lên giáo lý tâm linh. Cũng có thể nói, vì họ tiếp cận giáo lý từ bên ngoài cho nên để giáo lý tới được tâm ý thức của họ, nó phải đi qua phin lọc của cảm thể, trí thể và bản sắc thể, thậm chí qua cả thể vật lý và bộ não của họ.

Con có thể nói con đang mặc bốn bộ đồ lặn và ở ngay chính giữa những bộ đồ này là con, tức cốt lõi của bản thể con như một sinh thể tự nhận biết. Nhưng con không thể nhìn thế giới một cách trực tiếp như nó là, con chỉ có thể thấy qua bốn bộ đồ lặn, tức bốn thể phàm tạo thành một phin lọc. Vì thế một lời dạy tâm linh là một xung lực đến với con từ bên ngoài, và để có thể chạm được con như một sinh thể có nhận biết, một sinh thể có khả năng suy nghĩ, khả năng đưa ra quyết định, thì lời dạy này phải đi qua phin lọc của bốn thể, tức bốn tầng của tâm.

1.4. Làm thế nào một giáo lý tâm linh có hiệu quả được?

Tùy vào những gì có mặt trong bốn thể của con trước khi giáo lý tâm linh chạm được con, những thứ này sẽ lọc lựa và pha màu giáo lý. Câu hỏi là: “Làm thế nào một giáo lý tâm linh có hiệu quả được?” À, nó chỉ có thể hiệu quả nếu con, cái ta mà con là, hiểu được cách vận hành cơ yếu của một giáo lý. Vậy mục đích trao truyền một giáo lý tâm linh là gì? Mục đích là cho con thấy có một cách vượt ngoài tâm con, con thấy con có khả năng vượt khỏi tầm nhìn hiện tại của con, mức nhận thức hiện nay của con, và giáo lý này nhằm cho con một công cụ để đi muốt chặng đường này, là quá trình vượt khỏi nhận thức hiện nay của con về thế giới, phin lọc nhận thức hiện nay của con, cách nhìn đời hiện nay của con.

Nếu một người không hiểu điều này thì chuyện gì sẽ xảy ra? À, họ sẽ nắm lấy giáo lý rồi áp chồng lên đó những gì họ đang có trong ba thể cao của họ. Họ sẽ chồng lên giáo lý các khuôn nếp cảm xúc, khuôn nếp lý trí và một ý niệm bản sắc nào đó. Một hệ quả tiêu biểu của sự thể này là có nhiều người trên thế giới khao khát cảm thấy cao trội hơn người. Họ thường chụp lấy một giáo lý và dùng bất kỳ lời dạy nào trong đó để xây dựng một lớp phủ lên giáo lý, để khiến cho những ai theo giáo lý này, những ai sống theo đủ bộ các yêu cầu vỏ ngoài này, những ai tuân thủ các quy tắc và công phu tu tập, cảm thấy như thể mình cao trội hơn những kẻ không theo giáo lý.

Con thấy trong hầu hết mọi tôn giáo trên trái đất đều có những người cảm thấy họ cao trội hơn kẻ ngoại đạo. Rất rất nhiều Phật tử cảm thấy như vậy. Tất nhiên nhiều người Cơ đốc giáo, người theo Ấn giáo, Hồi giáo, hay bất cứ tôn giáo nào khác cũng có cảm nhận như vậy. Và đây chỉ là một ví dụ cho thấy, khi con không nắm được cách vận hành cơ yếu của một giáo lý tâm linh thì con sẽ áp chồng lên đó những nội dung của tâm tình cảm, lý trí và bản sắc của mình ở mức tiềm thức. Trong cốt lõi, con đang kéo giáo lý vào bộ đồ lặn của con.

Thày đã nói khi con mặc một trong những bộ đồ lặn này, con cần một cái vòi bơm không khí vào mũ bảo hiểm, nhưng con cũng có một sợi dây cột con với mặt nước phía trên. Một giáo lý tâm linh là gì? À, giáo lý là sợi dây. Câu hỏi là con định làm gì với sợi dây đó? Con có thể thấy rất rất nhiều người khắp thế giới không hề biết là có sợi dây này. Họ đơn giản chỉ lang thang ở đáy biển tìm kiếm một thứ gì đấy với tầm nhìn rất hạn hẹp. Nhưng với những ai đã tìm thấy một giáo lý tâm linh thì họ nhận ra: “Ồ, đây là sợi dây tôi có thể nắm lấy.” Nhưng câu hỏi giờ đây là liệu họ có hiểu mục đích của sợi dây không? Liệu họ sẽ nói: “Ô, chắc phải có gì đó ở cuối sợi dây này, và nếu tôi lần theo nó mà leo lên thì liệu tôi có tìm thấy gì đó ở đầu bên kia không?”

Và dĩ nhiên đây là mục đích của sợi dây. Con lần theo dây để leo lên, nhưng những ai không hiểu cách vận hành cơ yếu của một giáo lý tâm linh sẽ làm chuyện khác. Họ sẽ kéo sợi dây về phía họ cho đến khi cả sợi dây rơi xuống tầng cấp của họ, rồi họ quấn sợi dây xung quanh mình để giờ đây sau khi tiếp cận một giáo lý tâm linh hay một tôn giáo, họ lại càng bị bó chặt hơn trong bộ đồ lặn ban đầu. Sợi dây đáng lẽ dùng để giải thoát họ, nay lại được họ dùng để quấn chặt hơn nữa xung quanh người họ, bởi vì giờ đây tất cả những ý tưởng về một người Phật tử, một tín đồ Hồi giáo hay một tín đồ Cơ đốc giáo cần phải hành xử ra sao, phải cảm thấy thế nào, phải suy nghĩ kiểu gì hay xác định mình là ai, khiến họ gần như không thể nhúc nhích.

1.5. Mong muốn thoát khỏi áp lực 

Đây là tình trạng trên trái đất và điều này đưa chúng ta quay trở lại với những mong muốn đúng đắn. Mong muốn sai lầm gây khổ đau, vì vậy những ai kéo sợi dây về phía mình sẽ suy luận rằng nếu họ xác định được mong muốn nào là đúng và trau dồi những mong muốn này thì chắc chắn họ sẽ thoát khổ. Nhưng làm vậy sẽ không đem lại kết quả. Rất rất nhiều người, không chỉ các Phật tử mà cả những người theo các tôn giáo hay giáo lý tâm linh khác, đã chứng minh là điều này không đem lại kết quả, nhưng con không thể giải thích được cho họ khi họ không hiểu được mục đích của một giáo lý là để giúp họ thấy một điều gì mà hiện giờ họ không thể thấy, giúp họ thấy một điều gì vượt ngoài trạng thái tâm hiện nay của họ.

Sự khác biệt giữa người giác ngộ và chưa giác ngộ là gì? Chỉ khác một điều duy nhất, đó là trạng thái tâm. Để đi về phía giác ngộ – và Bát chánh đạo được định nghĩa là một quá trình đi về phía giác ngộ – con phải bắt đầu ở tầng mức của mình. Con không thể nhảy một bước vĩ đại, hay ít ra hầu hết mọi người không thể nhảy một bước vĩ đại. Bát chánh đạo là một quá trình tuần tự, đi từng bước có hệ thống, qua đó một người có thể tiến đến giác ngộ. Có nhiều điều cần nói về đề tài này và thày sẽ trở lại sau. Nhưng điều căn bản của Bát chánh đạo là có một quá trình dẫn con đi từ nơi này đến nơi kia.

Nơi kia là gì? Ấy, đó là nơi, như thày đã nói, con giải phóng chính mình khỏi tầm nhìn hạn hẹp hiện nay và đạt được viễn kiến rộng hơn, một trạng thái tâm khác hơn. Hay nói cách khác từ một nhãn quan cụ thể, sự khác biệt giữa người chưa giác ngộ và người đã giác ngộ là mức nhận biết. Và con có thể định ra một con đường tuần tự đưa con từ mức nhận biết hiện thời lên đến những mức nhận biết ngày càng cao hơn, cho đến khi con đạt đến trạng thái tự do khỏi hầu hết các giới hạn chung của con người.

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể định nghĩa điều gây ra đau khổ là những mong muốn, nhưng đó là loại mong muốn nào? Chúng ta hãy nhìn kỹ hơn. Hầu hết mọi người đều cảm thấy bị hạn chế vì tất cả đều đang mặc bộ đồ lặn. Mọi người cảm thấy bị cản trở bởi một loạt các giới hạn đối với những gì mình có thể làm hay không thể làm. Họ thường cảm thấy là hoàn cảnh bắt buộc họ phải làm nhiều chuyện.

Ở tầng cấp cơ bản nhất, con phải nuôi sống cơ thể vật lý. Và nếu con không phải là Thái tử Tất đạt đa lớn lên trong cung điện xa hoa được cung cấp mọi thứ cần thiết, thường thường con sẽ phải làm lụng vất vả để nuôi sống cơ thể vật lý, thì ngay ở điểm này nhiều người cảm thấy bị áp lực. Nhưng cũng có nhiều thứ khác mà con người cảm thấy bắt buộc phải làm. Nhiều áp lực đè nặng lên cảm thể. Nhiều khuôn nếp trong tâm lý trí khiến người ta cảm thấy bó buộc phải đương đầu với một số ý tưởng nào đó. Và tất nhiên nơi bản sắc thể, con bị áp lực phải xem mình thuộc thành phần của nhóm người này hay nhóm người kia. Và có lẽ ngay cả khi con thuộc về nhóm này thì cũng có nghĩa con phải chống lại nhóm kia, con phải đánh nhau với họ, tranh đấu với họ. Có thể nói là nhiều người cảm thấy bị áp lực không ngừng. Vậy họ mong muốn điều gì? Họ khao khát điều gì? À, họ mong muốn rũ bỏ áp lực, hay ít nhất tìm cách giảm nhẹ áp lực. Con có rất rất nhiều mong muốn liên quan đến những áp lực mà ai ai cũng đều cảm thấy trong hoàn cảnh hiện tại của mình, dù áp lực đó là gì tùy theo nơi mình lớn lên.

Con có một loạt những mong muốn, con muốn thoát khỏi một số giới hạn, con muốn giảm bớt một số áp lực. Câu hỏi là: “Những mong muốn như vậy có thể nào toại nguyện được không?” Và câu trả lời tất nhiên là: có và không. Nhiều người đã giảm bớt được phần nào áp lực đời sống. Chẳng hạn có nhiều người ở một số nơi trên thế giới được đi học, có công ăn việc làm với thu nhập ổn định đều đặn, nên họ không phải lo lắng về các nhu cầu cuộc sống. Những nhu cầu này đã được chu toàn, nhưng có nghĩa chăng là họ đã tự do khỏi áp lực? Họ đã thoát khỏi một số áp lực nhưng chắc chắn nhiều người vẫn bị đè nặng bởi những áp lực khác.

Nhìn chung, con thấy con có thể tự do phần nào khỏi một số áp lực của cuộc sống, nhưng thật là vô cùng khó khăn để tự do khỏi tất cả mọi áp lực. Tại sao lại như vậy? Ấy, đó là vì con đang tìm kiếm tự do khỏi áp lực, nhưng áp lực này nằm ở đâu? Con trải nghiệm áp lực này ở đâu? Có thể con sẽ nói: “Tôi đang mặc bộ đồ lặn này ở dưới nước và sức nặng của nước tạo một áp lực lên tôi, chính việc tôi đang đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất cùng với tâm thức tập thể cũng dày đặc khiến cho một áp lực bên ngoài tác động lên tôi.” Cũng đúng, quả là có một áp lực bên ngoài.

1.6. Cái hiểu cốt yếu trong một giáo lý tâm linh 

Nhưng cái hiểu cốt yếu trong một giáo lý tâm linh là có sự khác biệt giữa áp lực bên ngoài và việc trải nghiệm áp lực này bên trong. Một lần nữa, suốt các thời đại nhiều người đã không nắm được điểm này. Họ đã học một giáo lý tâm linh truyền đạt những ý tưởng này dưới một dạng thích hợp với thời đại và nền văn hóa nơi các ý này được trao truyền. Nhưng họ đã không nắm được sự khác biệt giữa áp lực bên ngoài và việc trải nghiệm áp lực này bên trong. Có nghĩa là gì?

Đây, con đang cảm nhận áp lực từ thế giới. Xong con tìm thấy một giáo lý tâm linh, và một lần nữa đây lại là một trong những tình thế khó xử cho các vị thày tâm linh. Các thày đã vượt lên trên áp lực. Các thày không có cảm giác áp lực. Các thày trải nghiệm quá nhiều tự do hơn, quá nhiều hỉ lạc hơn chính vì không cảm thấy áp lực đó. Các thày thấy rõ áp lực con đang hứng chịu. Nhưng các thày cũng thấy nhiều người bị áp lực đè nặng đến độ họ không thể nghĩ xa được. Các thày cần cho họ một chút động lực để ít ra còn khích lệ họ học giáo lý tâm linh đang được trao truyền, cũng như tham gia vào quá trình theo học và áp dụng giáo lý.

Điều gì sẽ thúc đẩy được những người đang chịu áp lực to lớn như vậy? Ấy, đó là họ muốn thoát khỏi áp lực. Một giáo lý tâm linh phải ngầm cam kết là con có thể được giải thoát khỏi áp lực. Tất nhiên lời cam kết này đúng sự thật – và đồng thời nó cũng không thật. Vì nếu con lấy một giáo lý tâm linh, và như thày đã nói, con kéo sợi dây xuống rồi con quấn nó quanh mình, thì cam kết này không thật vì giáo lý sẽ không giúp con được tự do khỏi áp lực. Tại sao vậy? Là vì áp lực mà con trải nghiệm không đến từ bên ngoài.

Thày đã nói gì trước đó? Bất kỳ xung lực nào phóng tới con đều phải đi xuyên qua cảm thể, trí thể và bản sắc thể trước khi chạm được vào con, tức sinh thể có ý thức bên trong bốn bộ đồ lặn. Áp lực cũng giống như vậy. Có một áp lực từ thế giới ngoài kia, từ tâm thức đại chúng. Không thể chối cãi điều này. Thày không hề nói là không có áp lực nào lên con. Nhưng việc trải nghiệm áp lực này diễn ra trong tâm con, và vấn đề là con có những khuôn nếp cảm xúc gì, những tư tưởng gì, niềm tin gì và ý niệm bản sắc gì. Đây là những thứ tạo ra trải nghiệm áp lực cho con. Áp lực có đó, nhưng chính việc con trải nghiệm áp lực như thế nào mới tác động đến con.

1.7. Làm thế nào sử dụng một giáo lý tâm linh 

Một lần nữa, con đang ở đây, con đang đầu thai trên một hành tinh rất khó khăn. Con tìm ra một giáo lý tâm linh. Vậy làm sao con sử dụng giáo lý này? Giả dụ như mục tiêu của con là giảm bớt phần nào áp lực mà con đang cảm thấy. Và bấy giờ con nói: “Đây là giáo lý đã hứa tôi có thể tìm thấy tâm an bình, hay giác ngộ, hay niết bàn.” Nhưng làm sao điều này xảy ra? Có phải bằng cách tìm ra một giáo lý tâm linh nào đó rồi quyết định theo học, thì con có thể loại bỏ những áp lực bên ngoài đang đè nặng lên con không? À tất nhiên là không. Bởi vì áp lực bên ngoài một phần do độ dày đặc của vật chất, phần còn lại do độ dày đặc của tâm thức đại chúng dính liền với tất cả mọi người trên hành tinh này.

Làm sao việc con tìm ra và đi theo một giáo lý tâm linh có thể thay đổi được điều kiện bên ngoài đó? Làm sao con thay đổi được độ dày đặc của vật chất và tâm thức đại chúng khi con ngồi trong một tu viện Phật giáo, chân xếp bằng, tụng niệm hay nghiên cứu kinh điển? Một giáo lý tâm linh được trao truyền từ những sinh thể đã tự do khỏi áp lực, khỏi bộ đồ lặn, chưa bao giờ đưa ra những cam kết như vậy. Những ai đã đạt được tự do sẽ không bao giờ cam kết như vậy. Chọn lựa còn lại là gì? Đó là việc đi theo một giáo lý tâm linh sẽ không loại bỏ được áp lực, nhưng nó sẽ thay đổi cách con trải nghiệm áp lực. Một giáo lý tâm linh không thể làm gì khác. Nó chỉ có thể thay đổi kinh nghiệm bên trong của con, nó không thể thay đổi hoàn cảnh bên ngoài.

Dĩ nhiên đây là một lời phát biểu cần được giải thích thêm vì mọi sự đều là sự trải bày của lý duyên khởi mà thày sẽ trình bày sau. Và do đó, bằng cách thay đổi tâm thức của mình thì hoàn cảnh bên ngoài cũng sẽ thay đổi. Nhưng ngay bây giờ, chúng ta cần nhận ra là cho dù con có thay đổi tâm thức nhiều thế nào đi nữa, con cũng sẽ không thay đổi được nền tảng cơ bản của vật chất dày đặc và tâm thức đại chúng dày đặc. Con không thể mong thay đổi toàn bộ áp lực này. Nhưng bằng việc đi theo một giáo lý tâm linh, con có thể mong thay đổi cách mà áp lực này ảnh hưởng đến con, cách con trải nghiệm cuộc sống trên trái đất. Và đây là cốt lõi của bất kỳ giáo lý tâm linh nào. Đây là sự thật của bất kỳ giáo lý tâm linh nào. Mục tiêu chủ yếu của bất kỳ giáo lý tâm linh nào là giúp con nhận diện cái chì lặn đang trì kéo bộ đồ lặn của con ở những tầng tình cảm, lý trí và bản sắc, giúp con thấy những chì lặn này, đem chúng vào nhận biết ý thức và nói: “Tôi có muốn tiếp tục kéo lê những thứ này với tôi không?” Và nếu con trả lời “không” thì con buông chúng ra.

1.8. Mong muốn bất khả thi 

Thế nào là mong muốn mang tính xây dựng và mong muốn không mang tính xây dựng? Ấy, mong muốn dựa trên tầng nhận biết hiện tại của con và mong muốn thoát khỏi áp lực con đang cảm thấy, là một mong muốn không mang tính xây dựng vì nó trói buộc con vào tầng nhận biết hiện tại. Mong muốn này đi ngược lại hướng tăng triển vươn lên những tầng nhận biết cao hơn. Làm sao có thể khác được? Chừng nào con còn chì lặn trong bộ đồ lặn, trong cái đai của bộ đồ lặn, thì chúng sẽ kéo con xuống do tác động của trọng lực. Trọng lực của tâm thức đại chúng sẽ kéo con xuống. Không có cách nào khác, đơn giản đây là vật lý học cơ bản, là định luật cơ bản của tự nhiên. Duy có điều đây là vật lý học vượt khỏi tầng cấp vật chất nhưng bao gồm mọi tầng của thế giới vật chất là tình cảm, lý trí và bản sắc.

Những gì giống nhau sẽ thu hút nhau. Có một trọng lực, và lực này sẽ thu hút mọi thứ con đang có trong tâm tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Không có cách nào khác. Hầu hết mọi người khi lần đầu tiên tìm thấy một giáo lý tâm linh thì họ mong muốn làm gì? Họ mong muốn thoát khỏi áp lực bằng cách dùng những thành phần sẵn có trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể. Hay nói cách khác, thày đã nói gì chứ? Trải nghiệm áp lực của con được định đoạt bởi những gì có mặt trong ba thể của con, ba tầng của tâm con. Chính những nội dung này khiến con trải nghiệm áp lực theo cách con đang trải nghiệm.

Giờ đây con tìm ra một giáo lý tâm linh hứa rằng con có thể thoát khỏi áp lực này. Và con nghĩ chỉ cần học giáo lý vỏ ngoài và thực hành vỏ ngoài là con có thể thoát khỏi áp lực mà không cần làm việc với nội dung trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể. Hay nói cách khác, con có thể thoát khỏi trải nghiệm mà không cần làm bất cứ gì với chính những điều kiện đã tạo ra trải nghiệm đó.

Điều này không thể làm được, chưa bao giờ làm được. Không có đường tắt nào sẽ giúp con làm được. Đó là một mong muốn bất khả thi. Vì vậy từ một nhãn quan nào đó, chúng ta có thể nói đây là một mong muốn sai lầm. Chắc chắn đây là ý thày muốn nói trong lời dạy 2500 năm về trước. Con phải trong lọc mong muốn của con để không chờ đợi những kiểu đường tắt nhằm thoát khỏi khổ đau, thoát khỏi áp lực, nhưng lại không chịu xem xét bản thân mình và tâm của mình. Nhìn ra những điều kiện trong tâm đang tạo ra trải nghiệm áp lực nơi con – đây là cách thực tế duy nhất để nhìn một giáo lý tâm linh.

1.9. Nhu cầu duy trì sự liên tục 

Bây giờ điều gì ngăn cản con người nắm bắt được sự thật đó, là điều mà Tập đế, Chân lý thứ nhì, muốn nói lên về các mong muốn? Ấy, đó là nội dung của Diệt đế – Chân lý thứ ba của Tứ đế – là các dính mắc. Mọi người đều có một nhu cầu thường không được xã hội, hay ngay cả ngành tâm lý hiện đại công nhận. Chúng ta có thể gọi đó là nhu cầu an toàn, nhu cầu bình an, nhưng sẽ xây dựng hơn nếu gọi đó là nhu cầu duy trì sự liên tục.

Nhu cầu này phát xuất từ phản ứng của con đối với áp lực, những áp lực bên ngoài. Nếu con nhìn từ một nhãn quan nào đó, con có thể nói tất cả nhân loại đều có khả năng bị cái gọi là suy sụp tinh thần. Ngày càng có nhiều người đang phải chịu khủng hoảng tinh thần, ngay cả những người trong thế giới hiện đại không gặp khó khăn vật chất. Mọi việc trở nên quá sức, quá tải, và họ không thể đương đầu với cuộc sống. Họ không thể sinh hoạt theo một cách được xem là bình thường trong xã hội. Đằng sau tình trạng này là gì? À, đằng sau đó là một sự việc rất đơn giản, con sống trên một hành tinh nơi con phải tiếp xúc với một áp lực quá lớn ở thể vật lý, thể tình cảm, thể lý trí, thể bản sắc đến mức không ai có thể đương nổi.

Con không thể sống sót về mặt tinh thần, tâm lý, dưới áp lực của hành tinh này nếu con không tìm ra cách bảo vệ mình trước áp lực. Hay nói cách khác, áp lực quá lớn đến mức không chịu nổi. Vậy tại sao nhiều người vẫn tìm được cách sống tương đối bình thường? Là vì con cũng có khả năng phần nào dẹp bỏ áp lực. Đây là điều thày muốn nói khi đề cập đến một số thành phần trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể hoạt động như một phin lọc giữa con và thế giới xung quanh. Con dựng lên các phin lọc này để có thể bóp nghẹt, kìm nén một số cảm xúc, kìm nén một số ý nghĩ, kìm nén một số áp lực ở bản sắc của con, và nhờ vậy con không bị quá tải để có thể sinh hoạt.

Chúng ta có thể nói là đại đa số con người đã xây dựng một cảm giác cân bằng cho phép họ sinh hoạt bình thường. Tuy nhiên, việc liên tục chịu áp lực khiến luôn luôn có nguy cơ xảy ra điều gì đó phá vỡ thế cân bằng khiến người ta trở nên choáng ngợp, mọi chuyện trở nên quá sức chịu đựng. Chính cơ chế cần phải duy trì trạng thái cân bằng này là lý do khiến người ta dính mắc. Con bị dính mắc vào một số khuôn nếp cảm xúc vì mặc dù con không ý thức được điều này nhưng con vẫn cảm thấy chúng bảo vệ con khỏi những cảm xúc choáng ngợp. Các khuôn nếp lý trí cũng tương tự như vậy. Chẳng hạn có nhiều người sùng đạo rất dính mắc với một số khuôn nếp ngăn chặn họ nghi ngờ tôn giáo của họ. Đây là nguyên nhân của dính mắc.

Thày đã không thể trao truyền lời dạy này cách đây 2500 năm vì tâm thức đại chúng thời đó thấp hơn bây giờ rất nhiều, và rất ít người, hầu như không một ai hiểu được điều này. Nhờ những tiến bộ ở nhiều lĩnh vực trong thế giới hiện đại, trong ngành tâm lý học nhưng không chỉ trong ngành tâm lý học, mà giờ đây thày trao truyền được một lời dạy sâu sắc hơn. Về căn bản, chúng ta có thể nói là để sống sót về mặt tâm lý trên hành tinh này, hầu hết mọi người đều đã dựng lên những thành lũy bảo vệ mình khỏi sự quá tải. Nhưng tuyến phòng thủ này cũng ngăn con vượt ra ngoài mức nhận biết hiện thời của con. Có thể nói là bộ đồ lặn giữ cho con được khô ráo và các chì lặn giữ cho con thẳng đứng, nhưng chúng cũng giam hãm con trong bộ đồ lặn và khiến con chìm xuống tận đáy biển. Vì thế đây là một trong những nghịch lý, nan đề, bí ẩn về con đường tâm linh. Để thay đổi trải nghiệm sống hiện nay của mình, con cần xem xét chính những điều vừa bảo vệ con lại vừa giới hạn con, và đây chính là điều mà Bát chánh đạo được thiết lập để giúp đỡ mọi người. Tất nhiên, Bát chánh đạo không phải là phương pháp duy nhất. Có nhiều phương pháp giá trị khác mô tả quá trình này, nhưng nỗ lực của thày ở đây là chia nhỏ tối đa quá trình này ra và khiến nó trở nên phổ quát nhất có thể.

1.10. Hiểu mục đích của Bát chánh đạo

Chúng ta hãy tóm tắt. Khổ đau là do những áp lực con gặp phải. Từ đó con mong muốn thoát khỏi áp lực, mong muốn giảm bớt áp lực. Đây là những mong muốn sẽ không giải thoát con khỏi áp lực nếu con muốn thoát khỏi áp lực nhưng lại không nhìn vào nguyên nhân gây ra áp lực. Nguyên nhân chính là những điều kiện bên trong con, cho nên những mong muốn này không thể giải thoát con. Khi con dấn thân vào quá trình thật sự của đường tu tâm linh, dù con gọi là Bát chánh đạo hay gì khác, thì nó cũng đòi hỏi con xem xét những cơ chế một đằng sẽ bảo vệ con khỏi bị choáng ngợp bởi áp lực, nhưng đằng khác lại giữ con trong áp lực một cách vô hạn định. Con được bảo vệ bởi bộ đồ lặn, nhưng con cũng không bao giờ ra khỏi bộ đồ lặn trừ khi con chịu nhìn vào cái gì đang trì kéo con xuống.

Đây là mục đích thật sự của Bát chánh đạo. Đây không phải là một giải pháp vỏ ngoài nhằm thay đổi những điều kiện vỏ ngoài để giờ đây không còn những điều kiện gây áp lực hay đau khổ cho con. Bát chánh đạo không thiết kế một quá trình thần thông để thay đổi hoàn cảnh bên ngoài. Nó thiết kế một quá trình tuần tự có hệ thống để thay đổi những điều kiện bên trong con, từ đó con thay đổi cách trải nghiệm những điều kiện bên ngoài.

Đây là cốt lõi không chỉ của đạo Phật mà của mọi triết lý tâm linh mang tính xây dựng khác. Những ai nắm được điều này sẽ tiến bộ khi áp dụng Bát chánh đạo, hay bất kỳ tên gọi nào để chỉ đường tu. Những ai không nắm được thật ra sẽ chỉ dùng giáo lý tâm linh để trói mình chặt hơn vào tầng mức nhận biết hiện thời của mình. Họ sẽ chỉ củng cố phin lọc nhận thức của họ, và trong quan hệ với mọi người, họ cảm thấy mình rất đặc biệt so với những ai không theo giáo lý của mình, mình cao trội vì mình đã đạt đến mức hiểu biết cao siêu – hiểu biết trí thức – về giáo lý. Họ cũng đã thực hành miên mật quá nhiều năm đến mức họ cảm thấy chắc chắn mình đã gặt hái được vài tiến bộ.

Giờ đây chúng ta cần đặt ra một câu hỏi. Liệu có thể tìm thấy một giáo lý tâm linh có giá trị, rồi theo học và miên mật thực hành những gì giáo lý yêu cầu mà không tiến bộ chăng? Câu trả lời tất nhiên là có thể. Trước hết chúng ta hãy nhìn vào ba thể. Ở cảm thể, con có những khuôn nếp cảm xúc khiến con phản ứng một cách nào đó trong một số tình huống nhất định. Đây là chì lặn con có trong cảm thể. Con có đủ loại chì lặn với đủ loại khuôn nếp phản ứng khác nhau. Đâu là cách để con được tự do và đi lên những tầng nhận biết cao hơn? Đó là nhìn vào những chì lặn này, xem xét chúng, xem tại sao con phản ứng theo cách này, đằng sau những phản ứng này là gì, là những tin tưởng gì, rồi con bỏ chúng đi một cách ý thức. Đây là cách con bỏ một cục chì lặn khỏi thắt lưng và thả nó xuống đáy đại dương. Con nhẹ hơn và do đó con dễ dàng bước thêm một bước trên con đường tuần tự.

Chúng ta cũng có thể nói là con đang chìm dưới nước trong bộ đồ lặn nhưng rồi con bắt gặp một cái thang. Con bám vào thang, và khi con ném bỏ một chì lặn thì con bước lên được một bực thang. Nhưng cho tới khi con vứt chì lặn đó đi thì con tha hồ nắm chặt lấy thang mà vẫn không bước lên được bực kế tiếp. Đây thật sự là cách tăng triển – xem xét chính mình, xem xét các khuôn nếp cảm xúc và buông bỏ chúng. Nhưng thày vừa nói gì hồi nãy? Con người chịu quá nhiều áp lực đến mức chức năng tâm lý của họ không thể hoạt động. Họ đã học cách tạo ra một cơ chế đè nén một số cảm xúc. Rất rất nhiều người, không chỉ trong đạo Phật mà cả những truyền thống tâm linh và tôn giáo khác, đã dùng giáo lý tâm linh để củng cố cơ chế đè nén một số cảm xúc.

Trong hầu hết các phong trào tâm linh, con sẽ thấy có những người đi theo phong trào từ rất lâu, họ rất chăm chỉ thực hành bất cứ pháp hành nào được quy định, họ toát ra sự điềm tĩnh khi đi đứng. Họ đi chậm rãi, cử động, nói năng theo một cách nào đó. Dường như cảm xúc của họ luôn luôn được kiểm soát, luôn phải điềm tĩnh. Nhưng trong nhiều trường hợp, đơn giản là họ đã dùng giáo lý để củng cố hoặc dựng lên những cơ chế mới nhằm đè nén cảm xúc, và điều này không đưa đến tăng triển. Có thể con sẽ nói: “Nhưng những người này đang kinh nghiệm cuộc sống khác với trước khi họ tìm ra giáo lý, vậy phải chăng họ chưa tiến bộ gì trong việc thay đổi trải nghiệm nội tâm? Thày vừa nói khía cạnh chính của cuộc sống trên trái đất là những trải nghiệm nội tâm, kinh nghiệm cuộc sống. Và những người này rõ ràng đã thay đổi.”

À đúng vậy, nhưng điều thày đang nói ở đây là có hai cách để thay đổi kinh nghiệm sống. Con có thể đè nén hay con có thể làm tan biến. Con có thể đè nén cảm xúc và đạt được một trạng thái tĩnh lặng và an bình nội tâm nào đó, nhưng điều này thật mong manh và có thể dễ dàng bị xáo trộn. Đây là lý do con thấy trong nhiều truyền thống tôn giáo và tâm linh, người ta tự cách ly và cô lập khỏi thế giới bằng cách sống trong tu viện chẳng hạn, hay trong một số cộng đồng hoặc bất kỳ nơi nào khác. Họ có thể duy trì cảm giác an bình nội tâm mong manh vì họ hiếm khi bị môi trường bên ngoài quấy rầy, họ hiếm khi bị thách thức. Điều này không dẫn con lên những bước kế tiếp trên bậc thang, và khi những điều kiện bên ngoài thay đổi thì con có thể dễ dàng bị xáo trộn.

Rất rất nhiều người, không chỉ người tâm linh mà rất nhiều người khác đã trải qua những năm tháng vừa rồi, bắt đầu với đại dịch, bây giờ là chiến tranh ở Ukraine rồi sau đó là khủng hoảng kinh tế, thì trạng thái cân bằng của họ đã bị xáo trộn. Thật là dễ hiểu. Thày đang giản dị chỉ ra là nếu trạng thái cân bằng của con có thể bị xáo trộn bởi ngoại cảnh thì có nghĩa là có điều gì đó con chưa giải quyết, và điều này xuất phát từ cơ chế thày đã mô tả. Con mang một điều gì kềm chế mà con chưa giải quyết, vì con vẫn dính mắc vào việc duy trì trạng thái cân bằng này.

1.11. Con phải sẵn lòng bị xao động

Điều này nghĩa là gì? Rất giản dị, để thật sự nắm bắt con đường tâm linh là gì, để thật sự neo trụ vào con đường này, con phải sẵn lòng bị xao động. Thày không nói là con phải sẵn lòng trải qua sự suy sụp tinh thần hay bị choáng ngợp, vì Bát chánh đạo và bất kỳ con đường tâm linh nào khác cũng được thiết kế như một con đường tuần tự. Nó sẽ đưa con lên từng nấc thang một mà không khiến con bị quá tải. Nhưng con phải chịu bị xao động một chút, và đây chính là điều mà rất rất nhiều người không nắm được tầm quan trọng.

Nếu con nhìn vào đời mình và đường tu của mình, con có thể thấy nhiều người khi lần đầu tìm thấy một giáo lý tâm linh đều có khao khát đạt được an bình nội tâm. Đây không phải là một khao khát không chính đáng, nhưng nó lại khiến cho nhiều người sử dụng giáo lý tâm linh nhằm tạo ra một số ranh giới bao quanh tâm mình, họ nghĩ họ có thể đạt được an bình nội tâm bằng cách đè nén cảm xúc thay vì nhìn vào cảm xúc và giải thể chúng, làm tan khuôn nếp của chúng.

Tại sao con phản ứng tức giận trong một số tình huống? Tức giận là một cảm xúc. Nó là một loại năng lượng, nhưng như thày đã giải thích, cảm thể là tầng thấp nhất của tâm con. Bên trên cảm thể là trí thể và trên cùng là bản sắc thể. Năng lượng chảy vào tâm từ cái ta cao của con. Đầu tiên, năng lượng đi vào bản sắc, đến lý trí, rồi đến cảm xúc. Cảm xúc của con không thể đột ngột xuất hiện trong cảm thể. Nó đến từ một số khuôn nếp tư tưởng trong trí thể và thậm chí từ một ý niệm bản sắc trong bản sắc thể. Chính điều này cho con cảm nhận cân bằng hiện thời.

Một lần nữa, thày không đang cố tìm lỗi ở đây. Con không thể làm gì khác được trên một hành tinh như trái đất. Con cần có một ý niệm bản sắc nào đó. Con cần có những khuôn nếp lý trí và cảm xúc nào đó để đối phó với ngoại cảnh. Nhưng để đi đến sáng ngộ, hay có thể gọi là một trạng thái tâm thức cao hơn, thì con phải sẵn lòng xem xét những khuôn nếp này và nói: “Tại sao tôi lại đáp trả bằng cơn giận?” À đó là vì con có một chờ đợi những gì phải xảy ra hay không được xảy ra trong hoàn cảnh bên ngoài. Chờ đợi đó đã không được đáp ứng. Nhưng thật sự không phải vì sự chờ đợi không được đáp ứng mà cơn giận nảy sinh. Đó là vì khi sự chờ đợi không được đáp ứng thì trạng thái cân bằng của con bị xáo trộn. Trạng thái cân bằng che đậy một cảm giác bất lực sâu xa, và khi cảm giác bất lực bị khuấy động thì con nổi giận. Cơn giận là phản ứng mặc định đối với cảm giác bất lực. Có người trong cơn thịnh nộ sẽ có những hành động mà họ không thường làm, và trong vài trường hợp, cơn giận giúp họ thay đổi ngoại cảnh. Trong một số trường hợp khác, cơn giận chỉ làm cho tình trạng tồi tệ hơn. Nhưng trong tất cả mọi trường hợp, cơn giận củng cố cho khuôn nếp.

Cách thực sự để thoát khỏi tình trạng này là truy về cảm giác bất lực cũng như sự chờ đợi điều này điều kia phải hay không được xảy ra. Con truy từ cảm thể lên trí thể cho đến bản sắc thể. Con có những khuôn nếp nào khiến con cảm thấy bất lực, khiến con cảm thấy điều này điều kia phải hay không được xảy ra? Đây chính là đường tu. Bát chánh đạo là xem xét những khuôn nếp trong tâm con một cách tuần tự và có hệ thống, đem chúng ra ánh sáng của nhận biết ý thức. Con thấy chúng và nói: “Tôi thấy khuôn nếp này đã bảo vệ tôi khỏi bị choáng ngợp, nhưng tại sao tôi lại có nguy cơ bị choáng ngợp? Đó là vì có một khuôn nếp sâu xa hơn quy định mối quan hệ của tôi với thế giới tôi đang sống. Tôi có một chọn lựa ở đây. Tôi có thể tiếp tục đè nén với hy vọng sự đè nén vẫn có tác dụng, nhưng như vậy thì tôi sẽ không bước tiếp lên bậc thang. Tôi sẽ không thật sự bước trên Bát chánh đạo cho dù tôi có học giáo lý bao nhiêu và thực hành bao nhiêu đi nữa. Chọn lựa kia là tôi có thể nhận chân Bát chánh đạo là gì, và tôi xem xét một cách có hệ thống các khuôn nếp của tôi, phản ứng của tôi đối với thế giới.”

Thày có đề cập đến những người đã đi theo một giáo lý tâm linh từ rất lâu và học cách đè nén cảm xúc để luôn luôn tỏ ra điềm tĩnh, tự chủ, bình an và kềm chế. Nhưng cũng có nhiều người lại dùng tâm lý trí, trí năng để học giáo lý. Và giờ đây ở tầng lý trí, họ đã củng cố những khuôn nếp cho phép họ duy trì một cảm giác cân bằng. Đây là điều con không chỉ thấy trong các giáo lý tâm linh hay tôn giáo. Quả thật con thấy rất nhiều ví dụ về những người đã dùng tâm lý trí để tạo ra một cảm giác cân bằng. Và điều này dựa vào đâu? Nó dựa vào ý niệm là họ hiểu bằng trí năng, phân tích, lý luận cách thế giới vận hành ra sao, và họ nghĩ họ nắm bắt được một số quy trình, một số định luật thiên nhiên, một số nguyên lý nào đó được Thượng đế quy định. Và vì họ hiểu những điều này nên họ nghĩ họ có khả năng kiểm soát thế giới, hay tối thiểu là kiểm soát được ngoại cảnh của họ.

Kết quả là con thấy có nhiều người đã tạo ra một quan niệm về thế giới phải vận hành thế nào, rồi họ dùng tâm lý trí tìm cách phóng chiếu quan niệm này lên vũ trụ. Và họ nghĩ họ có khả năng thu hẹp sự vận hành của vũ trụ trong vài quy tắc đơn giản để cảm thấy mình kiểm soát được thế giới. Điều họ làm là dùng giáo lý tâm linh, hay có thể một ý thức hệ chính trị như chủ nghĩa cộng sản hay ngay cả chủ nghĩa khoa học duy vật, để tạo ra một hình tư tưởng về cách vận hành của thế giới. Nhưng thày đã nói mục đích của một giáo lý tâm linh là gì chứ? Đó là giải phóng con khỏi trạng thái nhận biết hiện thời của con. Có nghĩa là giải phóng con khỏi những khuôn nếp trong trí thể của con. Và một lần nữa, những khuôn nếp này bảo vệ con khỏi bị choáng ngợp bởi những nỗi nghi ngờ chẳng hạn.

Nhiều người mộ đạo đã tạo ra những khuôn nếp loại này và nói: “Ồ, tôi không cần suy nghĩ về chuyện này. Tôi không cần suy nghĩ về bất cứ gì chất vấn giáo lý tâm linh và tôn giáo của tôi. Chuyện này không cần thiết vì tất cả đều sai, không thể nào đúng được, vì vậy tôi có thể gạt bỏ mà không cần suy nghĩ.” Điều này cho phép họ duy trì cảm giác cân bằng. Nhưng vấn đề tất nhiên là thế giới lại khá hỗn loạn. Mọi người đều có những tin tưởng khác nhau và những hệ thống tin tưởng, tôn giáo và ý thức hệ khác nữa. Sẽ luôn luôn có điều gì trong thế giới đe dọa tin tưởng của con.

1.12. Làm sao thăng vượt mức tâm thức hiện thời 

Nhiều người cũng đã tạo ra cảm nhận là nếu họ theo học một giáo lý tâm linh, thực tập theo quy định, thì đảm bảo là cuối cùng họ sẽ đạt được mục tiêu. Nhiều Phật tử suốt các thời đại và cả ngày nay vẫn tin rằng: “Nếu tôi chỉ học những lời Phật dạy, chỉ chú tâm vào Phật pháp và miên mật thực hành theo quy định của giáo phái Phật giáo của mình, thì tôi đảm bảo sẽ giác ngộ hay nhập niết bàn. Đức Phật là một đạo sư đích thực và ngài đã hứa nếu tôi tu tập theo Bát chánh đạo thì tôi sẽ giác ngộ. Và vì ngài là một vị thày tâm linh chân chính nên lời hứa của ngài phải đúng sự thật.”

Thày vừa giải thích thế nào? Các thày đã phải hứa hẹn để hấp dẫn những đệ tử đang ở mức tâm thức hiện thời của họ. Nhưng con không thể chụp lấy lời hứa đó, diễn giải bằng tâm thức hiện thời của con, nghĩ ra là con phải bước theo Bát chánh đạo như thế nào rồi con bước đi với cùng tâm thức hiện thời của con, để đảm bảo là con sẽ thăng vượt tâm thức hiện thời của con. Không thể có chuyện như vậy.

Con không thể thăng vượt tâm thức hiện thời bằng cách đứng yên ở mức tâm thức hiện thời. Làm sao có thể vậy được? Cho dù con có xây dựng những ý tưởng cầu kỳ đến đâu chăng nữa, chúng cũng sẽ không giúp con thăng vượt phin lọc nhận thức mà con mang trong trí thể. Con phải sẵn lòng bị dao động, nghi ngờ ít nhất một khía cạnh trong cách con nhìn cuộc sống. Con phải sẵn lòng đặt một số câu hỏi nhức nhối và xem xét những gì đằng sau khuôn nếp tư tưởng hiện thời của mình.

Nếu con không chịu làm vậy thì con cứ việc tiếp tục đè nén mọi nghi ngờ và tự thuyết phục là mình đúng, nhưng con không đang leo tiếp bực thang. Con chỉ dậm chân tại chỗ mà thôi. Con chỉ giữ chặt tin tưởng của mình mà thôi. Và có lẽ trong suốt kiếp này, con càng lúc càng tin chắc là mình đúng vì mọi người quanh con có cùng những khuôn nếp tư duy như nhau, và các con củng cố lẫn nhau rằng mình là kẻ đã hiểu giáo lý của Phật. Nhưng con thấy điều thày giải thích ở đây chứ. Con đang ở một mức nhận biết giới hạn. Phật đã vượt khỏi tất cả những giới hạn của con người trên trái đất. Con sẽ không đạt đến tầng cấp của Phật nếu con không thăng vượt những giới hạn hiện thời của con một cách hệ thống và tuần tự. Điều này không thể làm được. Không có cách chi làm được.

Điều này dẫn chúng ta đến đâu? Con là một người tâm linh. Con đã học giáo lý tâm linh một thời gian khá dài. Con đã thực hành miên mật đúng theo quy định một thời gian khá dài. Con chẳng đã tiến bộ hay sao? Ấy, đa số đã tiến bộ vì họ sẵn lòng nhìn vào một vài điều, xem xét chúng, buông bỏ chúng. Còn một số thì chưa tiến bộ vì, như thày đã nói, họ đã dùng giáo lý để củng cố khuôn nếp của họ. Nhiều người đã củng cố ý niệm bản sắc cho rằng mình đặc biệt hơn những ai không theo giáo lý này, những ai không hiểu giáo lý như cách mình hiểu hay những ai chưa chăm chỉ thực hành. Họ củng cố bản sắc mình là người đặc biệt, nhưng tất nhiên điều này chỉ giữ họ kẹt lại trong bộ đồ lặn. Có thể họ đã thay đổi trải nghiệm cuộc sống theo nghĩa là họ thấy mình càng lúc càng đặc biệt, nhưng họ không đang leo thêm được nấc thang nào.

1.13. Những gì một phong trào tâm linh không thể làm cho con 

Phần lớn các con đều đã có tiến bộ. Nhưng con có thể tiến xa hơn bằng cách trở nên ý thức hơn về những điều thày giảng ở đây – quá trình thăng vượt tâm thức đích thực và nhu cầu luôn luôn bị xao động. Như thày đã nói, nhiều người trong các con sẽ nhận ra khi lần đầu con tìm thấy giáo lý thì con nghĩ: “A, bây giờ tôi đã tìm ra cái tôi khao khát. Giờ đây tôi đã về nhà. Tôi thật sự thuộc về nơi này, thuộc về giáo lý này, thuộc về cộng đồng này với những người cùng chí hướng này, và khi tôi ở đây mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Tôi sẽ đạt được cảm giác an bình nội tại, có nghĩa là tôi có thể đương đầu với việc tôi có mặt trên hành tinh này.”

Nhiều người trong các con đã cảm thấy đầy nhiệt huyết khi tìm ra giáo lý và phong trào tâm linh đầu tiên của mình. Nhưng rồi có chuyện xảy ra làm xáo trộn và gây thất vọng cho con. Đột nhiên con nhìn ra đây không phải là điều con nghĩ. Có người đã bỏ đường tu vì lý do này, có người thì tìm ra một hướng để tiếp tục. Nhưng con có hoàn toàn hiểu chăng là không có một giáo lý tâm linh hay phong trào tâm linh nào sẽ tự động cho con điều con muốn? 

Nhiều người tìm được một phong trào tâm linh rồi bị thất vọng, nhưng sau đó họ lại tìm thấy một phong trào tâm linh khác và họ nghĩ: “Đây rồi”. Hay đúng hơn, họ lý luận: “Chắc phải là cái này vì tôi không thể chịu nổi thất vọng lần nữa, vì vậy tôi sẽ đè nén bất kỳ nỗi nghi ngờ nào đối với phong trào thứ nhì hay thứ ba, hay bất kể là thứ mấy.” Nhưng cách duy nhất để tăng triển thật sự là dùng một giáo lý vỏ ngoài và một phong trào vỏ ngoài để chất vấn cảm giác cân bằng của con. Bây giờ con có thể nói: “Nhưng khi lần đầu tôi tìm được một giáo lý tâm linh, tôi đã mong muốn tìm thấy an bình nội tâm thoát khỏi áp lực của thế giới. Mong muốn này có gì sai không?” À, có đúng và sai. Con có thể nói đây là một mong muốn chính đáng vì sau cùng khi con đạt được giác ngộ hay niết bàn, con sẽ tự do khỏi áp lực của thế giới. Nhưng làm cách nào đạt được tự do này? Có người sẽ nói: “Ấy, tôi sẽ chỉ có tự do sau khi rời thế giới này. Khi tôi không còn đầu thai nữa thì tôi sẽ tìm thấy an bình thật sự.”

Nhưng con thấy đó, tất cả giáo lý nói về nghiệp quả và luân hồi, cho dù là Phật giáo, Ấn giáo hay những giáo lý hiện đại hơn nói về quá trình thăng thiên, tất cả đều ngụ ý nếu chưa đạt đến một tầng mức nào đó thì con chưa thể thoát khỏi bánh xe luân hồi, con sẽ phải quay lại đầu thai. Nói cho cùng, con có thể bảo đây không phải là chuyện thân xác này chết đi thì con sẽ đạt được an bình. Con sẽ chỉ an bình khỏi áp lực của thế giới này khi con tốt nghiệp khỏi bánh xe luân hồi, hay con thăng thiên và không còn phải quay lại đầu thai nữa.

Tất nhiên, đây là điều các thày giảng dạy ngày nay. Nhưng đây không là lời dạy thiết thực khi trao truyền cho đại chúng cách đây 2500 năm. Vì vậy, trọng tâm của Bát chánh đạo thời ấy là giúp mọi người thay đổi trải nghiệm sống khi vẫn còn đang đầu thai. Và tất nhiên đây cũng là viễn quan phù hợp với ngày nay. Điều các thày muốn dạy con là làm thế nào thay đổi trải nghiệm sống để con đạt được an bình nội tâm khi vẫn còn thân vật lý và vẫn phải tiếp xúc với áp lực bên ngoài. Một phần là vì nếu con đạt được an bình nội tâm, con sẽ giữ được sự cân bằng tuyệt vời cho toàn bộ hành tinh. Con sẽ giúp kéo tâm thức tập thể đi lên khi con đạt đến mức nhận biết cao hơn trong khi vẫn hiện thân trong cơ thể vật lý. Đối với nhiều người các con, đây chính là Sứ vụ Trọn đời của con – là đạt được sự yên bình cao hơn này khi vẫn còn trong thân vật lý. 

1.14. Kìm nén hay giải quyết 

Con thấy rất nhiều người khắp chiều dài lịch sử đã cách ly khỏi thế giới, sống trong các cộng đồng tu sĩ nơi môi trường ngoại cảnh được kiểm soát chặt chẽ. Họ được bảo vệ khỏi các hành động bạo lực xảy ra bên ngoài, cho nên họ ở trong một môi trường rất kềm chế nơi thế cân bằng của họ không bị xao động. Nhiều người đã sống cả đời trong những môi trường như vậy mà không thật sự tăng triển. Họ đã không bước lên bậc thang. Họ chỉ dùng môi trường và giáo lý vỏ ngoài để củng cố trạng thái cân bằng dựa trên đè nén. Tất nhiên đây không phải là điều thày kêu gọi con làm ngày nay.

Các thày kêu gọi con tìm một lối tu tập sẽ giúp con đạt được an bình thật sự, an bình không do đè nén mà do giải quyết. Con đạt được an bình này khi con vẫn còn thân vật lý hầu con có thể kéo tâm thức đại chúng đi lên, và con cũng trở thành cánh cửa mở qua đó con nhận được các ý tưởng và xung lực từ một tầng nhận biết cao hơn mà sau đó con có thể biểu đạt ra thế giới. Nếu con có thể làm được xoay chuyển cơ bản này thì toàn bộ cách con tiếp cận cuộc sống có thể thay đổi rất nhanh. Giờ đây con đạt được một tầm nhìn hoàn toàn khác về cuộc sống.

Con có nhận thấy điều khác biệt cơ bản mà thày mô tả ở đây không? Một đằng là cách tiếp cận qua nỗ lực giảm bớt áp lực của đời sống trong thế giới này. Con tìm kiếm một loại an bình nội tâm nào đó cho dù con muốn định nghĩa thế nào, nhưng cách con đạt bình an là dùng một giáo lý và thực hành tâm linh để đè nén cảm xúc, đè nén tư tưởng, đè nén ý niệm bản sắc để dựng lên một cảm nhận hư giả là con chủ động được cảm xúc, con giỏi hơn người khác về mặt trí năng, và vì vậy trong bản chất con là người cao trội hơn những ai không theo giáo lý của con.

Còn cách tiếp cận kia là con đi tìm sự giải quyết. Khác biệt trong cách nhìn thế giới là gì? À, khi con tìm cách đè nén một điều gì thì con nhìn thế giới như một mối đe dọa tiềm ẩn. Bất cứ gì xảy ra xáo trộn sự cân bằng của con đều là mối đe dọa cho trạng thái cân bằng này và do đó cần phải đè xuống. Con cần tìm cách dẹp bỏ nó thật nhanh để quay về trạng thái cân bằng. Con đã tạo nên những khuôn nếp trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể chỉ để làm chuyện này là trấn áp bất cứ gì làm xáo trộn thế cân bằng của con.

Khi con chọn cách thứ nhì này thì con sẵn lòng bị xáo trộn. Và quả thật con có thể xoay chuyển và nói: “Mục tiêu thật sự của tôi là giải quyết tất cả mọi khuôn nếp trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể đã trói tôi vào trái đất, đã giữ tôi trong bộ đồ lặn, đã ngăn tôi nắm lấy sợi dây và leo lên nấc thang để càng lúc càng tự do. Tôi muốn đi theo chánh đạo của đức Phật, đi theo Bát chánh đạo, không phải con đường vỏ ngoài mà là con đường nội tâm của Bát chánh đạo.”

Điều này có nghĩa gì đối với con? Có nghĩa là khi một điều gì xảy ra bên ngoài làm xáo trộn thế cân bằng của con thì nó không phải là một mối đe doạ. Nó là một cơ hội. Nó là một cơ hội để con hỏi: “Tại sao điều này khiến tôi xáo trộn? Tôi đang có cảm xúc gì? Đằng sau cảm xúc này là gì? Thay vì phủ nhận cảm xúc và cố kìm nén nó, tôi hãy đi vào trong lòng nó. Tôi thật sự cảm thấy gì ngay đây? Có gì đằng sau cảm xúc này? Tôi có thể nhận diện tiến trình tư duy gì? Tôi đã có những tin tưởng gì? Tôi đã xây dựng loại thế giới quan nào cho phép tôi cảm thấy cân bằng nhưng đồng thời cũng giữ tôi lại ở một tầng cấp nào đó? Chính vì các khuôn nếp lý trí của tôi mà tôi không thể nắm bắt giáo lý tâm linh tôi đang theo học. Giáo lý luôn phải rập theo các khuôn nếp lý trí này thay vì lẽ ra phải thách thức chúng. Và rồi khi tôi vượt lên trên những điều này thì ý niệm bản sắc của tôi trong quan hệ với trái đất là gì?”

Lấy ví dụ, con làm điều gì đấy và người ta phản ứng tiêu cực với việc làm của con. Cảm xúc đầu tiên là con có thể bực bội với phản ứng của họ. Khi con đi vào trong cảm xúc, trước hết con cảm nhận một sự bất lực là mình không thay đổi được phản ứng của người kia đối với mình, thay đổi cách người kia nhìn mình. Nhưng con cũng cảm thấy là con phải có cách thay đổi được phản ứng của người kia vì con muốn hòa đồng với mọi người. Con không muốn ai giận con và con không biết, ít nhất thể cảm xúc của con không biết, làm thế nào khác hơn là phải thay đổi cảm xúc của người kia để con không cảm thấy mình đã quấy rầy họ.

Sau đó, con bước lên cõi lý trí và nhận ra: Tại sao con lại có những tin tưởng này? Có lẽ con có cảm giác mình đã hiểu quyền tự quyết, mình tôn trọng quyền tự quyết của người khác, và con cảm thấy mình phải sống được trên hành tinh này mà không làm phiền ai, không khiến ai nổi giận, không khiến ai kết tội mình. Con luôn tìm cách hoà hoãn với người khác, đưa ra lời giải thích cho họ thấy lý do họ không nên giận con, lý do con là người thật sự tốt, vân vân.

Rồi con lên tầng bản sắc và nhận ra có lẽ con có cảm giác mình không thật sự được phép thuộc về nơi đây, trái đất này, con không được phép tự biểu đạt, ít nhất nếu điều này gây phiền toái hay khiêu khích người khác. Con cảm thấy mình phải sống được ở đây mà không quấy rầy người khác. Con luôn tìm cách rút khỏi các hoàn cảnh mà con có thể gây phiền phức cho người khác, để con duy trì cảm nhận mình có thể ở đây mà không phải liên tục đối mặt với những người bảo con không có quyền ở đây. Có thể còn nhiều khuôn nếp khác, nhưng đây là một ví dụ có thể áp dụng cho nhiều người tâm linh.

Điều con có thể làm sau đó là bắt đầu xem xét các khuôn nếp này, và dần dần qua thời gian – có thể một thời gian dài – làm việc với chúng, thấy được chúng, dần dần giải quyết chúng, cho đến khi con nhận ra con thật sự có quyền có mặt trên trái đất. Con có quyền đeo đuổi một mức tâm thức cao hơn, một mức nhận biết cao hơn. Con có quyền biểu lộ mức nhận biết này ngay cả nếu nó có quấy rầy người khác. Con thậm chí có thể nhận thấy điều này chắc chắn sẽ quấy rầy người khác, vì đây là điều xảy ra với bất cứ ai nâng cao nhận biết của mình vượt khỏi những điều được xem là bình thường trong bất kỳ xã hội nào. Con sẽ làm xáo trộn cảm giác bình thường, cảm giác cân bằng của họ.

Hầu hết mọi người đã tạo ra một cảm giác cân bằng cho rằng họ có quyền là con người mà họ là, và khi có điều gì từ bên ngoài khuấy động cảm giác cân bằng này thì họ nổi cơn thịnh nộ. Họ đã quy định một cảm giác bình thường rằng đây là tất cả con người mà họ có thể là. Họ cần là như vậy. Khi cái bình thường này bị khuấy động, họ lên cơn giận, và con làm gì khi con đang theo con đường tâm linh? Con đang lần hồi nâng nhận biết của mình lên vượt khỏi những điều thông thường trong xã hội. Nó sẽ xáo trộn người khác chăng? Ấy, làm sao lại không xáo trộn được?

1.15. Sẵn lòng xáo trộn người khác 

Đây là điều chưa được ghi chép trong các lời dạy của Phật hay trong các huyền thoại về Phật, đó là thày đã gặp phải rất nhiều kháng cự, chống đối, tức giận khi thày bắt đầu truyền pháp trong tư cách Phật. Điều này được ghi chép lại nhiều hơn trong Kinh thánh khi Giê-su gặp phải sự chống đối khi thày bắt đầu giảng dạy. Nhưng ở một mức độ nào đó, tất cả mọi vị thày tâm linh đều gặp phải những chống đối này. Một vài vị đã tìm được cách rút lui, như thày đây cuối cùng đã rút vào Tăng đoàn. Vì đây là một cách truyền đạo thích đáng, thày rút khỏi thế giới và những ai mở tâm ra với giáo lý sẽ tìm đến thày.

Một cách thích đáng khác, như Giê-su đã nêu gương, là đi ra ngoài thế giới và làm bối rối nhiều người. Giê-su đã làm gì? Nếu con nhìn toàn bộ sứ vụ ba năm của Giê-su thì con thấy thày đã làm gì? Thày đã thách thức cảm giác bình thường của mọi người. Thày đã nói: “Có cái gì hơn thân phận làm người mà con đang trải nghiệm ngay bây giờ.” Và phản ứng của mọi người là gì? Hoàn toàn bác bỏ. Người ta thà trả tự do cho một tên sát nhân còn hơn là cho kẻ đến khuấy động họ, vì họ có thể chịu được tên sát nhân. Đây chỉ là chuyện bình thường – có những người đi giết người khác. Nhưng khi bảo rằng con có thể là nhiều hơn một con người thế phàm thì thật là thái quá. “Chúng tôi sẽ không chịu bị khuấy động, cho nên chúng tôi sẽ giết người nào khuấy động chúng tôi.”

Con thấy đó, đa số người tâm linh rất ngần ngại không muốn quấy rầy người khác. Vậy điều gì sẽ giúp cho thời hoàng kim của Saint Germain, thời đại của nhận biết cao hơn thị hiện đây? Đó là có một số người chứng tỏ được là cuộc sống có cái gì hơn nữa, hơn cái mà mọi người xem là bình thường, và con cần làm vậy bằng cách bước ra ngoài kia trong bất kỳ vai trò và khả năng nào. Điều này không có nghĩa là con phải làm những gì Giê-su hay Phật đã làm, bị giết hay bị hành hạ, nhưng con sẽ quấy rầy người khác, và đồng thời con cần tìm ra một cách để con an bình với việc làm này hầu hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con. Nhưng con không cần làm vậy khi con mới cất bước trên đường tu. Con có thể dành một khoảng thời gian dài để giải quyết những khuôn nếp này, để khi người khác phản ứng lại thì con không cảm thấy xao động.

Thày biết bài giảng này đã dài. Nhưng thày mong thiết lập một nền tảng để thày có thể trao cho con những giáo lý sâu sắc hơn về Bát chánh đạo, cũng như cách thức con có thể tiến đến niềm an bình nội tại thật sự, không dựa trên đè nén và chối bỏ, mà dựa trên sự giải quyết và một cái nhìn sáng ngộ hơn.

Và như vậy, thày cảm ơn các con đã chú tâm để thày có thể phóng chiếu ý tưởng này qua tâm và luân xa của con để nó đi vào tâm thức đại chúng, từ đó nó chạm được những ai sẽ không bao giờ nghe tới người sứ giả này hay giáo lý này, sẽ không bao giờ nghe tới Chân sư Thăng thiên Phật Gautama, hay sẽ không bao giờ chấp nhận ý tưởng này mặc dù nó vẫn ảnh hưởng lên tâm thức họ. Họ sẽ đột nhiên nhìn ra một điều gì họ chưa từng thấy trước đây, và từ đó họ có thể dùng bất kỳ lời dạy tâm linh nào mà họ tiếp nhận ở một tầng mức cao hơn.

Một lần nữa, mục tiêu của các thày là nâng cao nhận biết của mọi người. Mục đích của các thày không phải là đưa họ vào một giáo lý tâm linh đặc thù, nhưng với những ai mở tâm ra với một giáo lý tâm linh chân chính, các thày mong muốn họ đạt được những mức thấu triệt ngày càng cao hơn. Theo một nghĩa nào đó, con là chất xúc tác giúp củng cố phong trào này, và tất nhiên phong trào này đã diễn ra trong một thời gian rất dài, thậm chí trước cả khi thày truyền đạo cách đây 2500 năm trong tư cách Phật. Đây là một quá trình đã không ngừng nghỉ từ khi bầu cõi chưa thăng thiên này được tạo lập, thậm chí từ các bầu cõi trước nữa. Đây là hơi thở-ra và hơi thở-vào của Thượng đế. Là một phần của hơi thở-vào này, ý thức mình là một phần của hơi thở-vào, có thể rất hữu ích để con đạt được trạng thái an bình dù con đang sống trong một thế giới đầy rẫy biểu hiện xáo trộn. Con có mặt ở đây để góp phần vào quá trình đang tiếp diễn mỗi lúc một cách bất tận, nhằm nâng cao mọi sự sống từng bước vươn lên những tầng càng lúc càng cao hơn. Điều gì sẽ có thể xáo trộn con đây nếu không phải là một khuôn nếp mà con chưa giải quyết, một ngã tách biệt mà con chưa buông bỏ, một dính mắc với ngã tách biệt đó hay với khuôn nếp đó?

Bằng cách nhìn ra điều này, bằng cách làm việc trên ngã tách biệt này cho đến khi con tách mình ra khỏi nó và đột nhiên con thấy nó từ bên ngoài, con thấy nó giới hạn con biết chừng nào và con để nó chết đi – đây chính là cách con dần dần đạt được an bình ngày càng lớn hơn. Không có công thức thần diệu nào đâu. Con không thể bất thần búng ngón tay mà đạt được an bình nội tại. Nhưng con có thể đi qua sự chuyển hoá này, và con đi nhanh hay đi chậm tùy theo con sẵn lòng tới đâu để nhìn vào những gì gây xáo trộn cho con. Với những lời này, thày hy vọng thày đã xáo trộn sự an bình lẫn trạng thái cân bằng của con, và đổi lại, thày trao cho con một cảm nhận an bình sâu sắc hơn. Chắc chắn thày sẽ trở lại và trao truyền những lời dạy thâm sâu hơn, thậm chí còn xáo trộn con nhiều hơn nữa khi con sẵn lòng.

Thày niêm con trong niềm vui của Phật mà Ta Là.

5 | Con không thể lên cao hơn ý định của con

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Ý định cao hơn có nghĩa là gì? Ý định là gì? Thông thường người ta nói: “Tôi có một ý định dựa trên mong muốn có một vật gì, trải nghiệm một điều gì, hoàn thành một điều gì.” Ý định hàm ý quá khứ, hiện tại và tương lai. Nó hàm ý là trong quá khứ con đã hình thành một số mong muốn nào đó, một viễn quan nào đó. Ngay bây giờ, con có ý định là viễn quan này trở thành hiện thực, nhưng con nghĩ nó sẽ xảy ra ở một thời điểm nào đó trong tương lai. Nhưng ý định cao nhất là gì? Chẳng có cách nhìn nào khác về ý định hay sao?

Thày đã có nói là con sống trong một thế giới khó khăn. Nhiều người có mong muốn tự bảo vệ khỏi thế giới hỗn loạn này. Họ có ý định được bảo vệ khỏi một phần của sự hỗn loạn để không bị quá tải, nhưng cũng có thể họ mong muốn sở hữu một cái gì, thực hiện một việc gì, trải nghiệm một điều gì trong thế gian này. Một lần nữa, tất nhiên là chuyện này không có gì sai trái. Con là con người mà con là ngay bây giờ, và dựa trên con người con là bây giờ, con nhìn thế giới, con nhìn bản thân, con nhìn cuộc sống theo một cách nào đó. Dựa trên cái đó, con có một số ý định, một số mong muốn mà con muốn thấy sẽ hiện thực, một số thứ mà con muốn có, một số sự việc mà con muốn tránh. Không thể nào khác được.

Khi con cất bước trên con đường Bát chánh đạo, con nhận ra là ý định con có ngay bây giờ không phải là ý định cao nhất có thể. Thật con không cần nhất thiết lên án ý định của con, phán xét nó là sai lầm hay mạnh bạo trấn áp nó, mà con cần nhận ra là cuộc sống trên một hành tinh như địa cầu có hai khía cạnh. Một khía cạnh như thày đã nói, là có một số chuyện con cần làm để sống còn, để giữ cho thân xác vật lý của mình tồn tại. Và khía cạnh kia là con có một mục đích rộng lớn hơn, một mục đích dài hạn hơn, là đạt niết bàn, đạt sự an bình nội tâm, đạt sự giác ngộ, bước chân trên đường tâm linh, nâng cao trình độ nhận biết của mình cho dù con định nghĩa như thế nào.

Con cần bắt đầu suy ngẫm là thực sự con có hai loại ý định khác nhau ở đây. Con có một ý định liên quan đến việc sinh sống trên trái đất, ngụ trong một cơ thể vật lý trên trái đất, và con có một ý định liên quan đến việc vượt xa hơn trái đất, vượt xa hơn cơ thể vật lý. Khi con bắt đầu có sự nhận biết tâm linh, thử thách là làm thế nào quân bình được cả hai. Đây là thử thách muôn đời, là thử thách vượt thời gian mà con người đã đối mặt trong một thời gian rất dài. Làm thế nào con dung hòa được sự kiện con đang ở đây với ý định là mình sẽ không ở đây vĩnh viễn, vô thời hạn? Đây là điểm đòi hỏi con khởi đầu một tiến trình thực sự chất vấn các ý định cùng các mong muốn của mình.

5.1. Sự căng thẳng tinh thần khi định nghĩa thế nào là ý định chân chính

Có nhiều Phật tử đã xem xét khái niệm ý định “chân chính” này [còn được gọi là Chánh tư duy] theo cách nhìn của họ, và một lần nữa họ lại tìm cách quy định một cách thức vỏ ngoài để phân biệt ý định chân chính với ý định bất chính. “Tôi cần tránh, tôi cần ép mình để không có ý định nào sai trái, và thay vào đó tôi sẽ ép mình để có, hay để trau dồi, những ý định chân chính.” Điều này đã khiến cho nhiều, rất nhiều người rơi vào một vòng xoắn ốc phải vận dụng càng ngày càng nhiều áp lực tinh thần để kìm nén các ý định mà họ đã dán nhãn là sai trái, để luôn luôn tỉnh thức, tập trung ý định vào việc chỉ cho phép những ý định được họ dán nhãn là đúng đắn mà thôi. Điều này có thể trở thành một nỗ lực trí năng gay gắt, một sự dồn ép căng thẳng mà con có thể chứng kiến không những nơi các Phật tử mà nơi nhiều người tâm linh hay mộ đạo, thậm chí cả nhiều người đang cố sống theo một loại lý tưởng nào đó.

Đây là lúc chúng ta cần bước lui lại một chút. Chúng ta cần nhìn nhận là đường tu dẫn đến nhận biết cao hơn có nhiều giai đoạn. Có một số giai đoạn và con phải bắt đầu ở một điểm nào đó. Con bắt đầu ở mức con đang đứng khi con tìm thấy giáo lý tâm linh trong kiếp này. Đối với mỗi người thì mức này mỗi khác, tùy theo trình độ phát triển con đã đạt được trong tiền kiếp. Đối với cá nhân con, con đã bước vào kiếp đầu thai này với một mức độ ý định nào đó, một mức độ nhận biết nào đó. Con đạt tới điểm lần đầu tiên con khám phá giáo lý tâm linh, con nhận chân là có một đường tu tâm linh, có một quy trình con có thể đi theo. Vào lúc đó, cách con nhìn sự việc này thể hiện trình độ nhận thức tổng quát của con, và dựa theo đó, con hình thành một số ý định về những gì con muốn gặt hái từ việc bước chân trên đường tâm linh. Một lần nữa, không có gì sai trái ở đây – con đâu làm gì khác được?

Điều con cần nhận ra ở đây là khi con bước chân trên đường tu, khi con nâng cao mức nhận biết, con cần tái xét các ý định đã khiến con đi theo đường tu cùng các ý định của con về cuộc sống trên trái đất. Con không thể chỉ đơn giản lập ra một cách đánh giá trắng-đen nhị nguyên về thế nào là ý định “đúng”, thế nào là ý định “sai”. Con không thể tự ép buộc mình. Hay đúng hơn, con có thể tự ép buộc mình nhưng làm như vậy sẽ không nâng cao nhận biết của con. Nó sẽ giữ con kẹt lại ở mức này nơi con cảm thấy bởi vì con đã tự ép mình để không có ý định sai mà chỉ có ý định đúng, cho nên con đã đạt đến một giai đoạn cao cấp nào đó trên đường tu, và vì thế con tốt thiện hơn những kẻ đã không làm giống con. Như thày đã giảng rất nhiều lần, đây không phải là tiến bộ thực.

5.2. Một lượng định cao hơn về ý định

Có một giải pháp khác là con không đánh giá các ý định của con dựa trên đúng hay sai. Thày đã giảng về sự tách biệt, về ảo tưởng tách biệt và tâm thức nhị nguyên. Chuyện gì thực sự xảy ra khi con quy định có hai đối cực nhị nguyên là đúng và sai? Con tự đặt mình vào một tâm thái sẵn lòng sử dụng vũ lực. Như thày đã trình bày, hậu quả cùng cực là con sẵn lòng tiêu diệt một nhóm người khác với nhóm của con theo cách con định nghĩa. Là một người tâm linh, con đã vươn lên một mức cao hơn nơi con không còn quá chú tâm vào việc ép buộc người khác nữa. Thật ra hầu hết những người tâm linh đều không sẵn lòng dùng sức mạnh trên người khác, nhưng thường khi con lại sẵn lòng dùng sức mạnh trên chính con. Con có thể rất dễ bước vào tâm thái cảm thấy mình phải vận dụng ý chí, vận dụng chú ý và tập trung của mình để cưỡng ép mình, cưỡng ép tâm mình.

Nhiều người tâm linh cho rằng họ có thể tiến bộ qua việc thiền quán, nhưng thiền quán thường bị xáo trộn bởi cái mà một số Phật tử gọi là tâm khỉ, qua đó ý tưởng cứ chạy tứ tung. Họ đã tạo dựng quan điểm cho rằng họ có thể cưỡng ép tâm họ để nó không suy nghĩ, cưỡng ép tâm để nó không có ý tưởng, và điều này có thể trở thành một nỗi căng thẳng to lớn cho những ai đã tập theo như vậy trong một thời gian dài. Có thể họ nghĩ là họ đã đạt được ít nhiều kết quả, nhưng tất cả đều dựa trên sức mạnh. Giải pháp khác hơn là con tra vấn cách tiếp cận dựa trên sức mạnh này và nhận ra là con không cần dùng đến sức mạnh.

Điều có thể giúp con trong việc này là con hiểu rằng trước khi con đầu thai trong kiếp này, con đã lập ra một Kế hoạch Trọn đời. Con đã lập ra như vậy cùng với các vị cố vấn tâm linh của con, dù những vị này là ai tùy theo quá trình cùng mức phát triển cá nhân của con. Con đã nhận được lời khuyên từ những vị thày già dặn hơn, giàu kinh nghiệm hơn, và dựa theo đó con đã lập ra một Kế hoạch Trọn đời. Đa số con người trên trái đất hoặc không có Kế hoạch Trọn đời, hoặc có một Kế hoạch Trọn đời rất đơn giản, nhưng con là một người tâm linh cởi mở với giáo lý tâm linh thì con có một Kế hoạch Trọn đời tỉ mỉ, kỹ lưỡng hơn. Kế hoạch này nhằm mục đích chủ chốt là tăng triển trình độ tâm thức, nâng cao mức nhận biết ngày càng cao hơn. Con đã ngồi xuống với các vị thày tâm linh của con và lượng định: “Con đang ở mức tâm thức nào, đâu là những khuôn nếp, những ảo tưởng mà con có trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc mà con cần khắc phục để có thể tinh tiến, và làm thế nào con có thể tạo thuận lợi nhất cho công việc này trong kiếp đầu thai tới của con?”

Và đó là cái khung tổng quát để con chọn lựa mình sẽ hiện thân lúc nào, ở nơi đâu và trong hoàn cảnh nào. Hầu hết những người tâm linh đều chọn cha mẹ và gia đình của mình, họ chọn nền văn hóa và quốc gia, vì trong môi trường đó có một điều gì có thể giúp họ khắc phục các ảo tưởng, các dính mắc, các khuôn nếp, các khuôn nếp phản ứng mà họ muốn vượt qua trong kiếp đầu thai này.

Đây là điểm mà con có thể nói là có một yếu tố vũ lực nào đó, vì khi con lập ra Kế hoạch Trọn đời thì con có một tầm nhìn rõ ràng hơn về những gì con cần khắc phục. Tất nhiên, con biết là một khi con lại bước xuống hiện thân thì con sẽ quên mất tầm nhìn này. Đây chính là bản chất của việc khắc phục một điều gì đó. Nếu con biết trước con sẽ phải khắc phục điều gì thì việc khắc phục đâu còn là thử thách gì nữa?

Làm thế nào con sẽ khắc phục trong thực tế? Con có một ảo tưởng. Nếu con biết đó là ảo tưởng thì con đã khắc phục nó rồi. Cách duy nhất để khắc phục là con bước xuống hiện thân với ảo tưởng đó, con quên mất ảo tưởng, rồi trong khi đầu thai con nhìn ra ảo tưởng. Đây là cách con khắc phục nó. Con vẫn mang một sự nhận biết nào đó trước khi đầu thai về những điều con cần khắc phục, và con quyết định tự đặt mình vào một tình huống bắt buộc con phải giải quyết cái khía cạnh cụ thể đó trong tâm lý của con. Hoàn cảnh vỏ ngoài của con, những người mà con cùng đầu thai như cha mẹ và anh chị em con chẳng hạn, tất cả đều mang một số khuôn nếp trong tâm lý của họ sẽ bắt buộc con phải phản ứng lại họ hầu con có dịp nhìn thấy các khuôn nếp nơi chính con. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là con đã tự ép mình phải đương đầu với hoàn cảnh đó, nhưng tất nhiên khi con bước vào đầu thai thì con đã quên mất, và đây chính là tại sao con thường phản ứng mạnh mẽ đến như vậy đối với cha mẹ mình, gia đình mình, hoàn cảnh vỏ ngoài của mình. Thử thách của con là con nối kết lại với cái đó.

5.3. Tâm muốn kềm chế

Con thấy những gì thày vừa nói đó, có một cơ chế trong tâm muốn kềm chế, trấn áp một số chuyện mà nó xem là mối đe dọa. Đó có thể là mối đe dọa bị choáng ngợp, hay phải chất vấn các niềm tin của mình hay là gì đi nữa, nhưng con muốn kềm chế nó. Khi con bước vào kiếp đầu thai, điều này thường có nghĩa là trong những hoàn cảnh khó khăn phải đương đầu với một người khó tính, con muốn đè nén nhu cầu xem xét chính mình. Con muốn trấn áp các cảm xúc, các tin tưởng, kềm chế tình huống con phải đối mặt để nó không làm xáo trộn thế cân bằng của con. Một lần nữa, đây là một điều tự nhiên trong một thời gian, nhưng nếu con là một người tâm linh, Kế hoạch Trọn đời của con có trù liệu là tới một điểm con sẽ tìm ra một giáo lý tâm linh và con được nhắc nhở một cách ý thức là có một con đường để mình bước theo.

Điều có thể đem lại lợi lạc cho con là con nắm lấy lời dạy này ở đây và nói: “Khi tôi lập ra Kế hoạch Trọn đời của tôi, tôi đã muốn ép buộc mình phải nhìn thấy điều gì? Tại sao tôi đã tự đặt mình vào hoàn cảnh này? Tôi muốn phơi bày điểm gì trong tâm lý của tôi?” Bằng cách quyết định ý thức như vậy, con có thể ít nhất khắc phục được phần nào sự kháng cự không muốn nhìn vào tâm lý của mình để tìm ra tại sao mình lại có khuôn nếp phản ứng như vậy đối với một số loại người.

Đây là một phần trong tiến trình con hình thành một ý định cao hơn, qua đó con nhận ra là trong cái bây giờ và ở đây, trong tình huống trước mắt con, con có một số khuôn nếp phản ứng đang muốn con kìm hãm việc xem xét tâm lý của con. Con có thể bất chấp các khuôn nếp này và quyết định: “Không, tôi sẵn lòng nhìn vào tâm lý của tôi, các khuôn nếp của tôi, để nhìn thấy chúng và khắc phục chúng.” Điều này có nghĩa là giờ đây con đang nối kết với ý định của chính mình đằng sau Kế hoạch Trọn đời. Và khi con nối kết vào đó thì còn đâu yếu tố vũ lực nào nữa? Con đâu cần ép buộc mình phải xem xét một điều gì khi chính con đã nối kết lại với ý muốn giải thoát khỏi điều đó? Khi con nhận ra là con muốn được tự do khỏi cái đó, con không đang ép buộc mình phải đương đầu với nó.

5.4. Con là ai?

Khi đó, con có thể bắt đầu chiêm nghiệm là có hai cấp độ ý định. Như thày vừa nói, bây giờ và ở đây, trong tình huống hiện tại, có một phần trong tâm con, tâm phàm của con mà có thể gọi là tự ngã, đang có một ý định duy trì thế cân bằng của con, không muốn bị xáo trộn, không muốn cảm thấy bị đe dọa. Con muốn kềm chế cảm xúc, kềm chế tư tưởng, kềm chế cách con nhìn chính con. Đây là điều mà phần này của tâm vốn làm. Nó giống như một chương trình máy tính không biết làm gì khác. Đây không phải là ý định cao nhất của con. Ý định cao nhất của con là những gì nằm trong Kế hoạch Trọn đời khi con đã có ý muốn khắc phục một số những khuôn nếp đó, có thể tất cả các khuôn nếp mà con còn sót lại. Một khi con nhận chân điều này thì không có chuyện ép buộc mình phải từ bỏ ý định thấp và chấp nhận ý định cao. Con tái nối kết với ý định cao. Con nhận ra rằng cái ta mà con là, đó là chính con có một ý định cao hơn. Đây mới là ý định của con.

Ý định muốn bưng bít và tránh né một chuyện gì không phải là ý định của con, đó là ý định của tự ngã, của cái ta vỏ ngoài. Xong với thời gian, con có thể lần hồi chiêm nghiệm được điều này: Con là ai chứ? Đâu là cái ta đang có một ý định cao hơn cái ta mang ý định thấp?

Đây là điểm con sẽ được lợi lạc khi con tự hỏi một số câu hỏi mà hầu hết mọi người không thể đặt ra. Chẳng hạn, con là ai ngay lúc này, ai đang thu nhận bài giảng này? Đây là một bài giảng tâm linh. Nó có ý định giúp con nâng cao mức nhận biết của con. Ai là cái ta đang thu nhận lời dạy này?

Con cũng có thể hỏi ai là cái ta đang cưỡng lại lời dạy này? Con có thể nhận ra là trong tâm con có một cố gắng nào đó để khiến con cưỡng lại lời dạy. Có một cố gắng moi ra những kiến thức và tin tưởng hiện thời của mình, rồi dựa trên đó đánh giá lời dạy, tìm xem có điểm nào, có lý do hay viện cớ nào để bác bỏ lời dạy. Nhiều người tìm thấy một giáo lý tâm linh rồi phát hiện một chi tiết nhỏ xíu không tán thành với những niềm tin hiện tại của họ, thì họ dùng điểm này để bảo: “Ồ, toàn bộ giáo lý này sai bét.”

Ai là cái ta đang học giáo lý và ai là cái ta đang cố khiến con bác bỏ giáo lý? Nói cách khác, ai là cái ta đang cởi mở và ai là cái ta đang muốn con đóng tâm lại? Cái ta cởi mở là cái ta thực của con, trong khi cái ta cưỡng chống muốn con khép kín tâm con lại là tâm vỏ ngoài, là nhân cách tự ngã muốn con ở lại trong ảo tưởng. Toàn bộ nhân cách tự ngã này dựa trên ảo tưởng. Nó khởi lên từ ảo tưởng nhưng nó muốn con ở lại trong ảo tưởng. Đâu là cái ta mà con là? Ấy, con có thể bắt đầu cố sức tìm hiểu nó một cách trí thức, nhưng thật sự tất cả chỉ là việc trải nghiệm, cho nên con hãy thử làm bài tập đơn giản sau đây.

Một số các con đã biết bài tập này rồi nhưng đối với một số khác thì đây là điều mới lạ. Con hãy nhận biết là con đang ngồi đây thu nhận bài giảng này. Con nhận biết là có thể con đang ngồi trên một chiếc ghế, cho nên con hãy bước ra ngoài chính con bằng tư tưởng, bước ra ngoài tâm con, và con hình dung, con tưởng tượng là con đang đứng sau ghế và đang nhìn thân con ngồi trên ghế. Bây giờ con nhận ra là con đang ngồi trong một căn phòng, nhưng có gì đó bên ngoài căn phòng. Bây giờ bằng tư tưởng, con hãy lùi về thêm nữa cho đến khi con nhìn thấy nguyên căn phòng nơi con ngồi. Con thấy thân con đang ngồi trên chiếc ghế trong căn phòng. Rất có thể căn phòng này thuộc một căn nhà. Con lại lùi thêm, lại hình dung, tưởng tượng toàn bộ căn nhà, căn phòng trong căn nhà, và thân con ngồi trên ghế trong căn phòng. Bây giờ con có thể lùi lại thêm nữa trong khoảng môi trường bên ngoài căn nhà, nhìn căn nhà, căn phòng, chiếc ghế, vân vân. Con có thể lui lại, lui nữa và lui thêm nữa, nhìn thấy toàn bộ trái đất, con nhìn trái đất từ ngoài không gian, nhìn thái dương hệ, nhìn dải thiên hà, và suốt thời gian này từ nhãn quan của con, con vẫn nhìn xuống nơi thân con đang ngồi trên chiếc ghế.

Đây là một bài tập thật đơn giản nhưng một số người sẽ không thể làm được, trong khi một số khác sẽ không bị khó khăn gì hết, ít ra để tưởng tượng và hình dung là mình đang bước lùi lại. Câu hỏi bây giờ là như sau: Ai là cái ta đang lùi lại? Đâu là khả năng mà con có trong tâm con để lùi lại khỏi thân vật lý của con?

5.5. Cái ta là nhiều hơn cơ thể và tâm vỏ ngoài

Tuyệt đại đa số con người trên trái đất bị đồng hóa với cơ thể vật lý của mình đến độ họ không thể tưởng tượng là họ có thể bước ra khỏi cơ thể và đứng nhìn cơ thể. Nếu con có khả năng làm điều này thì có nghĩa là con không đến nỗi đồng hóa với cơ thể mình như hầu hết mọi người. Điều này có nghĩa là có một cái ta không phải là cơ thể, bởi vì nếu không thì làm sao con đã có thể bước ra khỏi nó bằng tư tưởng? Con không phải, như các nhà chủ nghĩa duy vật thường bảo, là một sản phẩm của những quá trình điện hóa (electrochemical) trong bộ não. Là người tâm linh, con đã chấp nhận mình không phải là cơ thể vật lý của mình. Thế thì con cũng có thể chiêm nghiệm rằng con không là thể cảm xúc của con, con không là các tình cảm của con, con không là các ý nghĩ của con, thậm chí con không là cả cái ý niệm bản sắc của con liên hệ với trái đất. Vậy con là ai? Con là gì?

Khi con suy nghiệm điều này, cuối cùng con sẽ nhận ra là, giống như con có thể bước ra ngoài thân xác vật lý của mình bằng tư tưởng, thì con cũng có thể bước ra ngoài các cảm xúc của mình, các ý nghĩ của mình cùng ý niệm bản sắc của mình, và con ngộ ra là thực sự mình y như một diễn viên. Con bước vào một rạp hát, con mặc vào một bộ trang phục, con trét vào một lớp phấn son, thậm chí con khoác vào một giọng nói đặc thù, một cách nói năng, một nhân cách đặc thù, và đột nhiên con có thể bước ra sân khấu, diễn xuất như thể con là một người khác hẳn con người mà con vốn là trong đời sống bình thường. Cả bốn thể của con giống như một bộ đồ mà con đã chui vào. Vậy đâu là cái ta của con? Cái ta chính là cốt lõi của bản thể con.

Thày biết là tâm con đang bị khó khăn, nó đang đánh lộn vì nó muốn làm những gì nó vẫn thường làm. Nó muốn có một sự mô tả, nó muốn có một cái nhãn, một tên gọi, nó muốn nắm một số đặc tính để nó có thể hiểu được cái ta là gì. Con thấy không, khi bàn đến bản sắc thế trần, tâm lý trí, cảm xúc và cơ thể vật lý của con, tất cả những thứ này đều mang những đặc tính có thể được mô tả bằng từ ngữ, bằng những tâm ảnh mà con sử dụng trên trái đất. Nhưng cái ta mà con là, nó vượt khỏi cái đó. Nó là nhiều hơn bốn thể của con, cho nên nó không thể được mô tả qua ngôn từ cùng các tâm ảnh được sử dụng trên trái đất.

Tâm vỏ ngoài của con không thể nào nắm bắt cái ta thực của con, và rất có thể nó đang nổi loạn chống lại ý tưởng này, nó đang cuống cuồng muốn nắm bắt, gắn nhãn, phân loại khái niệm này. Có thể nó đang lập luận rằng thật vô nghĩa mà nói chuyện về một cái gì có thực nhưng lại không mang đặc tính nào khả dĩ được mô tả.

Đâu là mục đích của một giáo lý tâm linh? Là giúp con nâng cao nhận biết, và làm thế nào con sẽ nâng cao nhận biết? Bằng cách thăng vượt mức nhận biết hiện thời của con. Đâu là mức nhận biết hiện thời của con? Đó là nội dung của các thể bản sắc, lý trí, cảm xúc của con. Đó là cái cho con một cái ngã vỏ ngoài, một cảm nhận vỏ ngoài rằng con là ai và con liên hệ thế nào với môi trường nơi con sống.

Ngay bây giờ đây, con có một mức nhận biết nào đó, và khi thày cho con khái niệm là có một phần trong bản thể con vượt khỏi mức nhận biết đó, thì tâm con liền muốn dùng mức nhận biết hiện thời này để cố nắm bắt, phân loại, gắn nhãn, mô tả cái phần này của bản thể con. Có những đệ tử tâm linh đã bỏ ra hàng chục năm trời để cố tìm hiểu các khái niệm tâm linh một cách trí thức bằng tâm vỏ ngoài đường thẳng. Thậm chí một số đã cố tìm hiểu khái niệm bảo rằng có một phần của họ vượt khỏi tâm, vượt khỏi tâm vỏ ngoài, nhưng họ không thể hiểu nổi với mức nhận biết hiện tại của họ. Con hãy ngẫm đi, và khi đó nếu con có khả năng buông bỏ cách nhìn cuộc đời hiện thời của mình, con sẽ có thể đạt được cái người ta thường gọi là một trải nghiệm thần bí.

Cái gọi là trải nghiệm thần bí đó thật chẳng thần bí gì cả. Nó dựa trên sự kiện có một cái ta. Chúng ta có thể gọi đó là cái ta ý thức, hay cái Ta Biết, nhưng ở một thời điểm nào đó có một cái ta đã bước vào cơ thể vật lý của con cùng các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. Nó đến từ ngoài, nó đã bước vào đó, và nó đang dùng bốn thể này như một cỗ xe để tương tác với môi trường của con trên trái đất. Nó không do các thể này sản xuất ra, mà nó đã khoác vào các thể này. Theo một nghĩa nào đó, thậm chí nó đã chế tạo ra các thể bản sắc, lý trí, cảm xúc trong những kiếp trước. Chính sự kiện nó đã bước vào tâm hiện thời của con cũng có nghĩa là cái ta này có khả năng bước ra ngoài tâm con. Con có thể nói là ngay bây giờ đây, cái ta nhận biết chính nó là bốn thể phàm, nhưng cái ta có khả năng bước ra ngoài bốn thể này và ý thức được chính nó vượt hơn bốn thể, vượt hơn tâm. Đây là nền tảng cho mọi sự tăng triển nhận biết.

Nếu con lại dùng tâm đường thẳng thì con có thể ví con đường này như một chiếc cầu thang có nhiều bực riêng rẽ. Ngay bây giờ con đang đứng ở một bực nào đó trên cầu thang. Câu hỏi là làm thế nào con bước lên bực kế tiếp? Ai đang bước lên chứ? À, đó không phải là các thể cảm xúc, lý trí, bản sắc của con. Đó không phải là ý niệm bản ngã hiện thời của con, ý niệm con là ai, bởi vì cái ngã hiện tại này của con bị buộc chặt vào bực thang hiện tại. Vậy cái gì bước lên? Cái Ta bước lên.  

5.6. Tự quan sát là cốt tủy của con đường tâm linh

Điều này xảy ra khi con nhìn vào bản thân, chẳng hạn một khuôn nếp phản ứng. Con thấy mình có xu hướng phản ứng một cách nhất định nào đó trong một số hoàn cảnh. Thay vì cho rằng đây là cách phản ứng duy nhất hay đây là cách phản ứng đúng, con đạt tới điểm tự hỏi: “Tại sao tôi lại phản ứng cách này? Tôi thật không muốn nổi giận khi có ai đó không làm theo ý tôi. Tôi không muốn có trải nghiệm giận dữ này. Nếu tôi nghĩ đây là cách duy nhất thì làm thế nào tôi có thể thoát ra khỏi nó? Vậy tôi hãy nhìn vào nó, nhìn vào cái gì ở đằng sau nó. Tại sao tôi lại cho rằng đây là cách phản ứng duy nhất?”

Xong con có thể nhận ra là người khác không phản ứng cùng cách đó trong những tình huống tương tự. Có những cách phản ứng khác. Thật ra, Phật có nói là luôn luôn có một cách phản ứng khác dựa trên sự không dính mắc. Nói cách khác, con không mang một khuôn nếp khiến con bị dính mắc với một cách phản ứng nhất định. Điều này con có thể ngộ ra, con có thể nhìn ra là có một ảo tưởng khiến con tin rằng đây là cách phản ứng duy nhất. Khi con nhìn xuyên thấu ảo tưởng này, khi con thấy đó là một ảo tưởng đang giới hạn con, đang cầm giữ con lại, thì con sẽ tự động buông nó ra.

Có một câu chuyện quen thuộc được nhiều vị thày tâm linh sử dụng là nếu con đang đứng trong bóng tối, con nắm một vật gì đó và tưởng đó là sợi dây thừng thì có thể con sẽ nắm tiếp. Nhưng nếu người ta bật đèn lên và con thấy đó là một con rắn, thì con không phải nặn óc phân tích phức tạp dài dòng. Con chỉ tự động mở tay ra và buông con rắn. Điều tương tự cũng xảy ra ở đây. Khi con thấy rằng cái con tưởng là sự thật hay cách phản ứng duy nhất chỉ là một ảo tưởng, thì con tự động buông ảo tưởng ra, thế rồi con bước lên bực kế tiếp. Tất nhiên, con sẽ vẫn đem theo các ảo tưởng khác còn sót lại trong ba thể. Nhưng khi con xem xét ảo tưởng kế tiếp và buông nó ra, con lại đi lên một bước nữa, và đây là cách làm thế nào con lần lần tiến bước trên đường tu. Nhưng công việc này chỉ có cái Ta của con mới làm được, không phải là tâm vì tâm không thể xem xét chính nó.

5.7. Máy tính sẽ không bao giờ có khả năng tự nhận biết

Hiện trong các giới khoa học đang có một phong trào nỗ lực tạo ra thông minh nhân tạo, vì nhiều nhà khoa học trong ngành nghiên cứu hành xử con người, chẳng hạn, đã tìm ra là các phản ứng của con người gần giống như máy tính. Đối với hầu hết mọi người thì nhận xét này không sai. Con đặt người ta vào một tình huống nào đó thì họ sẽ phản ứng y như cách họ đã phản ứng mười lần trước đó trong cùng tình huống này. Lý do là vì như thày đã giải thích, con mang một số khuôn nếp trong tâm tiềm thức của con. Thông thường một khuôn nếp nằm yên như đang ngủ, nhưng khi con gặp một tình huống đặc thù, tình huống sẽ kích hoạt khuôn nếp, sẽ tiếp quản phản ứng của con, thế là bây giờ con phản ứng theo đúng cách đó. Tâm tiềm thức của con có nhiều mặt giống như một chiếc máy tính, nó mang sẵn một số chương trình và khi chương trình được kích hoạt, chúng sẽ điều khiển phản ứng của con, con sẽ phản ứng theo một cách nào đó, rồi có thể sau đó con sẽ hối hận hay con lập luận rằng: “Ồ, đó là cách duy nhất mình đã có thể phản ứng.”       

Điều các nhà nghiên cứu thông minh nhân tạo đã hiểu lầm là đối với một con người, đó không phải là cách duy nhất. Một con người luôn luôn có tiềm năng thay đổi khuôn nếp của mình một cách ý thức và cố tình, và cho dù con đã có thể phản ứng theo một cách hàng trăm lần, con vẫn có thể đột nhiên chọn một cách phản ứng khác trong lần kế tiếp. Một chiếc máy tính sẽ không thể làm vậy được. Tại sao? Vì nó không có sự tự nhận biết. Nó không có một cái ta nhận biết. Cái ta mà thày vừa nói đến là cái ta có khả năng trở nên ý thức về chính nó. Lúc đầu nó trở nên ý thức về chính con, nhưng nó cũng nhận biết nó không phải là ngã vỏ ngoài. Đây là tại sao chính con có tiềm năng – như một con người và mọi con người – thay đổi phản ứng cùng hành động của mình một cách ý thức và cố tình. Con có thể chọn một phản ứng khác so với cách phản ứng trong quá khứ. Trong quá khứ có thể con đã phản ứng theo một chương trình nơi con thực sự không có chọn lựa. Đúng, con đã chọn lựa trong một quá khứ xa xôi qua việc tạo ra chương trình, nhưng khi chương trình kích hoạt thì con không đang chọn lựa ý thức. Đây chính là lý do tại sao một số nhà khoa học đã khám phá là con đã có một phản ứng trong bộ não trước khi con chọn lựa ý thức trong một tình huống đặc thù. Lý do là vì có một chương trình tiềm thức đã chọn lựa trước khi con biết đến chọn lựa đó ở mức ý thức.

Vấn đề rộng lớn hơn ở đây là con mang tiềm năng trở nên tự ý thức, tự nhận biết, không những về các phản ứng của mình mà còn về những mức độ tự nhận biết cao hơn, về con người mà con thực là. Con không là các phản ứng của con, con không là các cảm xúc của con, con không là các ý nghĩ của con, con không là ý niệm bản sắc vỏ ngoài của con. Con là cái mà một số người gọi là một sinh thể tâm linh. Con đến từ ngoài cái môi trường mà con gọi là trái đất. Theo một nghĩa nào đó, Bát chánh đạo – hay bất cứ tên gọi nào cho con đường tâm linh – là một tiến trình càng ngày càng tự nhận biết nhiều hơn. Cái ta mà con là càng ngày càng trở nên ý thức về cái nó là và cái nó không là.

5.8. Không có giác ngộ tức thì

Một lần nữa, tâm vỏ ngoài của con sẽ lại nói: “Vậy tại sao thày không cho con ngay mức tự nhận biết tối thượng đó đi, cái bí ẩn tối hậu về sự tự nhận biết, để con nhảy qua tất cả những bước này và bước vào cõi Niết bàn ngay bây giờ? Con có thể giác ngộ ngay lập tức.” Con thấy đó, điều này không thể làm được. Không có sự giác ngộ tức thì và lý do thật đơn giản. Cái ta mà con là đã không đến trái đất ban đầu để đạt giác ngộ. Con đến trái đất là để có một số trải nghiệm ở đây có thể tạo thuận lợi cho tiến trình hướng đến giác ngộ của con. Con đã không đến địa cầu chỉ để thoát khỏi nơi đây, mà con đến địa cầu để có một số trải nghiệm. Và để có những trải nghiệm này, cái ta mà con là phải tạo ra những nội dung, trước tiên trong tâm bản sắc, xong trong tâm lý trí, rồi trong tâm cảm xúc của con. Chính những khái niệm này đặt nền tảng cho các trải nghiệm con đã có trên trái đất, với mục đích để con có được loại trải nghiệm con có thể có trên trái đất, cho đến khi con chán chê các loại trải nghiệm này và mong muốn một cái gì hơn nữa.

Đó là lúc con sẵn sàng cất bước trên đường tu. Cho đến khi đó, con vẫn có loại trải nghiệm mà con có thể có trên trái đất, rằng mình là một sinh thể tách biệt sống trong một thế giới với những sinh thể tách biệt khác, và con đang giao tranh với các sinh thể này. Con có thể nói bằng tâm ý thức: “Tôi không bao giờ mong muốn chuyện giao tranh này. Đó không phải là lý do tôi đã đến địa cầu.” Nhưng thật ra đó chính là lý do. Khi con bước lui lại khỏi trải nghiệm hiện thời của mình, con nhận ra đây chính là tại sao con đã đến địa cầu. Con có thể có nhiều lý do khác nhau, nhiều động lực khác nhau, nhiều ý định khác nhau ở bên sau, nhưng đó chính là tại sao con đã đến trái đất – để có loại trải nghiệm mà con có thể có trên trái đất. Sẽ tới một điểm sau rất nhiều kiếp sống nếm mùi loại trải nghiệm này, con sẽ chán chê và bấy giờ con muốn cái gì khác hơn. Đó là lúc con mở tâm ra đón nhận con đường tâm linh dưới bất kỳ phiên bản nào con có khả năng nắm bắt.

Mục đích của con đường tâm linh bây giờ là giúp con dần dần trở nên ý thức về những nội dung mà con đã bỏ vào các tâm cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, con lần hồi vứt bỏ chúng đi để càng ngày con càng có ít hơn trong những tâm này. Con trở nên càng ngày càng tự do hơn. Thực sự giác ngộ là điểm khi trong tâm con không còn nội dung nào nữa dựa trên các ảo tưởng của nhị nguyên và tách biệt. Con đã khắc phục tất cả mọi ảo tưởng rằng con là một sinh thể tách biệt, rằng con có thể sử dụng các đối cực nhị nguyên để biện minh cho mọi việc mình muốn làm như một sinh thể tách biệt. Đó là khi con giác ngộ. Có thể nói là trong khi con bước chân hướng đến giác ngộ, con lấy từng nội dung từ trong tâm và vứt nó đi, con để cho nó ra đi, mỗi lần một ảo tưởng, cho đến khi con không còn ảo tưởng nhị nguyên tách biệt nào sót lại.

5.9. Con có đánh mất nhân cách của mình?

Tuy nhiên một số người sẽ phản đối chuyện này và cho rằng: “Liệu sẽ có nghĩa là tôi không còn quan điểm, niềm tin hay lý thuyết nào về cuộc sống, không còn khuôn nếp nào trong cảm xúc? Liệu có nghĩa là tôi không còn nhân cách nào, bản sắc nào?” Phải, có nghĩa đúng là như vậy. Con không còn nhân cách cùng bản sắc vì những thứ này được định nghĩa trên trái đất dựa trên các ảo tưởng của Maya, các ảo tưởng của tách biệt và nhị nguyên. Con mất đi cái mà hầu hết mọi người xem là nhân cách và bản sắc của họ. Không có nghĩa là con trở thành một con số không, vì con vẫn có một sự cá biệt trong bản thể cao của con mà bây giờ con có thể bắt đầu biểu đạt trên trái đất. Cái con mất đi là cái có thể gọi là cá tính, nhân cách và bản sắc nhân thế. Nếu con cởi mở với một giáo lý tâm linh, đây chính là ý định cao hơn mà con đã có trước khi con lập ra Kế hoạch Trọn đời của mình.

Điều này có nghĩa là giờ đây khi con nhìn vào đời mình và các hoạt động của mình, con không phải làm điều mà nhiều Phật tử đã làm, là đánh giá lại xem ý định nào là chân chính, ý định nào là bất chính: “Tôi cần phải ép buộc mình không được có ý định bất chính.” Thay vào đó, con có thể nói: “Trong Kế hoạch Trọn đời của tôi có điều gì nói đến một khía cạnh đặc thù trong đời tôi ngay bây giờ?” Lấy ví dụ con nhận diện trong con mong muốn được nếm một loại trải nghiệm nào đó. Trên trái đất có thể có nhiều loại trải nghiệm khác nhau, nhưng như trong trường hợp nhiều người, con quyết định mình muốn một mối quan hệ riêng tư, một quan hệ tình dục với ai đó. Đây là một loại mong muốn rất phổ biến, ngay cả trong số những người tâm linh.

Có rất rất nhiều sự hiểu lầm về điểm này trong số những người tâm linh, và con vẫn thấy rất nhiều Phật tử tu học giáo lý rồi dùng tâm vỏ ngoài để bảo: “Ồ, bất cứ hoạt động nào không tâm linh đều sai trái cả và tôi phải tránh làm chuyện đó.” Có một điều khác con có thể xem xét ở đây. Giả dụ con đang thảo Kế hoạch Trọn đời của mình, khi đó con có một tầm nhìn rộng lớn hơn bây giờ. Con nhận ra là con vẫn còn mong muốn trải nghiệm một quan hệ riêng tư, ngay cả một quan hệ vật lý. Con quyết định là con sẽ tự đặt mình vào một tình huống nơi con có thể gặp một người và có được loại quan hệ này. Có sai trái gì đâu trong việc trải nghiệm như vậy nếu con đã lượng định là mình cần có trải nghiệm này trong một thời gian để mình có thể chán chê chuyện này? Nhờ vậy con sẽ có thể thoát ra khỏi nó, để sau đó con có thể tập trung vào những trải nghiệm khác mà con muốn cho phần còn lại của kiếp này. Có sai trái gì đâu trong việc này?

Đó là một phần trong Kế hoạch Trọn đời của con sẽ cuối cùng dẫn con lên một mức nhận biết cao hơn. Thay vì ép buộc mình phải kìm nén một trải nghiệm, con bước vào trải nghiệm cho đến khi con chán chê, con chán ngán nó, rồi con có thể lượng định – không nhất thiết là con phải từ bỏ tình huống vỏ ngoài đó, mà con đạt tới điểm mình không còn ham muốn cưỡng chế nào để nếm trải nghiệm đó. Thật chẳng có gì tự thân là phi tâm linh trong hoạt động tình dục, nhưng nếu con dính mắc với nó, nếu đó là một ám ảnh cưỡng chế, thì tất nhiên nó có thể cản trở sự tăng triển lên những tầng nhận biết cao hơn. Nếu con đạt tới điểm khắc phục được sự dính mắc, khắc phục được sự cưỡng chế, khắc phục được ảo tưởng là con cần đến nó để cảm thấy trọn vẹn, thì hoặc con có thể chọn ngừng hẳn hoạt động đó, hoặc tiếp tục một cách khác mà không dính mắc. Trong cả hai trường hợp, nó sẽ tạo thuận lợi cho con tăng triển nhận biết.

Con thấy đó một lần nữa, đâu là ý định cao hơn của con ở đây? Có phải là giải quyết các ảo tưởng, giải quyết Maya trong tâm con? Hay có phải là sử dụng một lời dạy tâm linh để che đậy các ảo tưởng để con, ở mức ý thức, có thể giả vờ như thể con không có ảo tưởng? Con có thể nghĩ: “Ồ, tôi đã hiểu lời dạy tâm linh cao cấp này rồi, tôi đã bỏ ra không biết bao nhiêu thời giờ thực hành các pháp tu này, cho nên tôi đã vượt xa mong muốn này, ý định này.” Nhưng con chỉ giả vờ thôi con. Con đang che phủ mong muốn đó và điều này sẽ không giúp con vươn lên bước kế tiếp của chiếc thang hay của cầu thang.

5.10. Xét lại các ý định của mình

Đây là bước tiếp theo trên con đường Bát chánh đạo, là xét lại các ý định của con. Ý định trên hết của con là cuối cùng con sẽ thoát khỏi trái đất, nhưng con không thể ép mình thoát khỏi trái đất. Nếu con kìm nén một ham muốn nào đó thì con sẽ phải trở lại đầu thai lần nữa để đạt tới điểm con buông được ham muốn một cách ý thức. Nhiều người tâm linh đã ép buộc mình phải sống trong một khung cảnh tu viện nơi họ phải kìm nén ham muốn tình dục. Có thể là họ đã sống được như vậy suốt một kiếp dài, hay ngay cả mấy kiếp, nhưng sẽ tới một điểm họ nhận ra – khi họ ở ngoài hiện thân – là họ đã không tự giải phóng khỏi ham muốn mà chỉ kìm nén ham muốn. Họ sẽ cần trở lại trải nghiệm hoạt động đó cho dù nó là gì, cho đến khi họ có thể buông bỏ ham muốn một cách ý thức và cố tình: “Tôi đã chán chê trải nghiệm này rồi.” Việc này không thể cưỡng ép được, nhưng tiếc thay, rất rất nhiều người đã dùng một giáo lý tâm linh để tạo ra ý tưởng là họ phải tự cưỡng ép. Nếu con thực sự muốn tiến triển tâm linh, ý định của con phải là giải quyết, từ bỏ, buông xả, khắc phục, vượt qua các mối dính mắc của mình, các khuôn nếp, các nội dung trong thể cảm xúc, thể lý trí và thể bản sắc. Đây phải là một ý định bao trùm tất cả, và khi con vươn lên đến mức đó và ý thức được điều đó, con có thể lượng định tất cả mọi ý định khác của con.

Một lần nữa, con phải kiếm sống để nuôi cơ thể, giữ cho nó sống còn. Có thể con có một số bổn phận đối với gia đình và với người khác. Làm thế nào con quân bình được một cuộc sống gia đình bình thường với sự kiện mình là một người tâm linh có nhận thức về giáo lý tâm linh? Con chỉ có thể làm được bằng cách ngộ ra là bất kỳ hoạt động nào – ừm, hầu hết mọi hoạt động trên địa cầu – đều có khả năng tạo thuận lợi cho sự tăng triển nhận biết của con. Nguyên cái ý tưởng cho rằng con phải từ bỏ cuộc sống trần tục, phải lui vào tu viện để tiến bộ tâm linh, không luôn luôn đúng. Có thể có một số người cần làm như vậy trong một hay vài kiếp sống, nhưng chắc chắn không phải là mọi người. Kỳ thực, trong thời buổi con đang sống hôm nay, điều quan trọng hơn so với các thời đại trước là mọi người cần bước trên đường tâm linh bằng cách sống một cuộc đời năng động ngoài xã hội. Đây là điểm sẽ tạo cảm hứng cho nhiều người hơn trước để họ cởi mở với đường tu khi họ thấy là họ không phải từ bỏ đời sống bình thường, rút vào tu viện trên đỉnh núi ngõ hầu là người tâm linh.

Bây giờ là một thời đại, một thời điểm có rất nhiều người đã tình nguyện bước vào hiện thân để chứng tỏ là con có khả năng tìm ra một sự quân bình giữa đời sống trần thế và sự tăng triển tâm linh, tăng triển nhận biết. Tuy nhiên, thày cũng nói là điều này quan trọng hơn bao giờ hết do thời buổi, nhưng không có nghĩa là nó không quan trọng trong quá khứ. Con nghĩ tại sao thày đã gọi con đường này là Trung đạo? Một lần nữa, Trung đạo là một cách dịch đáng tiếc về một khái niệm phức tạp hơn. Dẫu vậy, Trung đạo không phải là pháp tu khổ hạnh cực đoan mà thày đã đi theo trong thời non trẻ dại dột, cũng không phải là cuộc sống thế tục hoàn toàn mù quáng mà đa số con người đi theo. Nó thăng vượt cả hai, qua đó con sống một cuộc sống năng động trong xã hội với bổn phận gia đình, nhưng con vẫn bước chân trên con đường tâm linh vì con có ý định sử dụng các hoạt động thế tục của mình để tạo thuận lợi cho mình tăng trưởng nhận biết.

Làm thế nào thực hiện được việc này? À, một phần bằng cách xem xét phản ứng của mình trong các tình huống thế tục, và phần khác bằng cách nhận ra là con có khả năng tạo cảm hứng cho người khác qua tấm gương của con. Điều gì xảy ra khi người ta rút lui khỏi xã hội, trở thành tăng ni và sống trong thiền viện? Họ tránh được nhiều áp lực của đời sống thường nhật khả dĩ kích hoạt các khuôn nếp phản ứng của họ. Họ sống trong một môi trường kiềm chế, và một khi họ đã chấp nhận các ràng buộc của môi trường này, rất có thể không có nhiều thứ sẽ kích hoạt phản ứng của họ. Họ có thể tự đánh lừa là họ không còn các phản ứng này nữa, rằng bằng cách chọn sống trong một hoàn cảnh không kích động khuôn nếp thì họ đã khắc phục khuôn nếp. Nhưng không, tất nhiên là họ chỉ áp chế nó thôi.

5.11. Trung đạo thực sự nghĩa là gì

Toàn bộ khái niệm Trung đạo là con không định nghĩa con đường tâm linh theo hai đối cực nhị nguyên, qua đó hoặc con là một người hoàn toàn trần tục, hoặc con phải rút ra khỏi thế gian để là một người tâm linh. Có một con đường khác cho tình trạng “hoặc cái này hoặc cái kia”, một giải pháp khác cho cái nhìn trắng đen đó. Con có thể tìm ra một cách để là người tâm linh trong khi vẫn năng động trong xã hội. Đây là ý nghĩa sâu xa của ý định cao hơn, và bỗng nhiên tất cả mọi thứ đều hiện ra dưới một sắc thái mới. Con có được một nhãn quan mới về mọi khía cạnh đời con. Bỗng nhiên con có thể bắt đầu xem lại một vấn đề đã là một trong những cản trở lớn nhất cho người tâm linh – đó là sự phân biệt giữa những gì là hoạt động tâm linh và những gì là hoạt động không tâm linh, hay thậm chí phản tâm linh. Tất nhiên đây là một chủ đề thày sẽ quay trở lại khi trình bày về hành động cao hơn [Chánh nghiệp]. Nhưng dẫu vậy, điều quan trọng khi con xem xét ý định của mình là con cần vượt qua cái nhìn nhị nguyên về con đường tâm linh.

Đâu là một trong những lời dạy nền tảng của đạo Phật? Đó là mọi thứ đều là Phật tánh. Hiển nhiên, con người trên địa cầu không nhìn thấy mọi thứ là Phật tánh. Tại sao họ không thấy được mọi thứ là Phật tánh? Bởi vì tâm họ bị mù quáng bởi tấm màn Maya. Nhưng cái gì cấu tạo tấm màn Maya? Đó là tâm thức nhị nguyên luôn luôn tạo ra hai đối cực nghịch lại với nhau một cách đen trắng. Tâm thức này ngụ ý một sự phán xét giá trị, nó bảo hoạt động này không tâm linh và hoạt động kia thì tâm linh. Nếu tất cả đều là Phật tánh thì có nghĩa lý gì mà nói: “Cái này tâm linh, cái kia không tâm linh?” Sẽ ý nghĩa hơn chăng nếu con nhận ra mục đích thực của đường tu là khắc phục ảo tưởng? Ảo tưởng là cái che phủ Phật tánh ở bên trong tất cả mọi thứ. Có nghĩa mục đích thực của đường tu không phải là định nghĩa thế này là tâm linh, thế kia là phản tâm linh để rồi phải tránh cái phản tâm linh và chú tâm vào cái tâm linh.

Mục đích thực của con đường tâm linh, của Trung đạo, là ngộ ra mọi hoạt động trên trái đất đều có khả năng tạo thuận lợi cho sự tăng triển nhận biết của con khi con tiếp cận chúng với ý định thăng tiến nhận biết, nhìn vào bản thân mình, phản ứng của mình, ảo tưởng của mình. Đó là khi hoạt động đó trở nên tâm linh. Bảo rằng một hoạt động là không tâm linh cho nên việc tham gia vào đó – như việc lập gia đình chẳng hạn – sẽ phá hoại bước tiến tâm linh, chỉ đơn giản là một mức độ hiểu biết thấp hơn về đường tu.

Hiển nhiên là có một số hoạt động sẽ không tạo thuận lợi cho sự tăng triển nhận biết vì chúng càng nhốt con sâu hơn sau tấm màn Maya, nhưng bất kỳ hoạt động nào cũng có thể được sử dụng để giúp con nhìn ra ảo tưởng đằng sau hoạt động. Vì vậy thày không bảo là việc xông ra ngoài kia giết người sẽ giúp con tăng triển nhận biết, nhưng quả thực việc nhìn ra các ảo tưởng đằng sau việc giết người có khả năng tạo thuận lợi cho con tăng triển nhận biết.

Một lần nữa, tâm nhị nguyên luôn luôn muốn tạo ra sự phân biệt và tách biệt để giàn dựng một thế nhị đối, nhưng đường tu, con đường Bát chánh đạo, là nhìn vượt lên trên tấm màn Maya để nhìn thấy mọi sự là Phật tánh. Phật tánh ở trong mọi thứ, cho nên ý định đích thực là nhìn ra điều này, chứ không phải là nhận diện cái này hay sinh hoạt này là tâm linh và sinh hoạt kia thì không. Điều gì sẽ giúp con thấy được Phật tánh đằng sau tấm màn Maya? Nếu điều đó giúp con thấy được thì làm sao nó không tâm linh cho được? Nếu điều gì buộc chặt con vào các ảo tưởng nhị nguyên, thì cho dù con có dùng giáo lý tâm linh để củng cố cho ảo tưởng, làm sao nó tâm linh cho được?

Với lời này, thày đã cho con những gì thày muốn trao trong bài này. Những ngọn sóng chấn động chắc chắn đang được gửi vào tâm thức tập thể, làm khuấy động lũ quỷ của Mara. Chúng đang gầm gừ la hét, chúng đang cố khiến cho mọi người bác bỏ những xung lực này để họ lại tiếp tục tham gia vào cuộc đấu tranh của Biển Luân hồi.

Nhưng các con cởi mở với những lời dạy này, các con có thể tránh được chuyện đó bằng cách biến lời dạy thành con thuyền Bát nhã, nhưng con sẽ chỉ làm được vậy nếu con luôn nỗ lực vươn lên một cấp độ ý định cao hơn so với ngay bây giờ. Thày đã hoàn thành ý định của thày trong việc ban truyền lời dạy này. Thày hy vọng nó sẽ giúp con hoàn thành ý định của con trong kiếp đầu thai này.

19 | Hãy tĩnh tâm và xuôi theo Dòng sông sự Sống

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 10/10/2022, nhân dịp Webinar 2022 cho Hoa kỳ – Phục sinh nền Dân chủ.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama.

“Chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng”
[Bài chú 8.06 Gautama, con an bình trọn vẹn].

Khi thày còn hiện thân là Phật nhiều thế kỷ về trước, một phần lớn trong sứ vụ của thày – mà con có thể gọi là trong Tăng đoàn của Phật – là giúp cho các đệ tử tĩnh tâm hầu chấm dứt ý nghĩ lăng xăng. Điều này cần thiết 2500 năm về trước. Thời nay con khó lòng tưởng tượng được thời đó con người sống như thế nào. Con có tưởng tượng được không? Đối với những ai trong số các con đủ lớn tuổi để̉ còn nhớ, liệu con có nhớ cuộc sống như thế nào khi chưa có internet? Con có tưởng tượng cuộc sống như thế nào khi chưa có truyền hình? Chưa có máy phát thanh? Con có thể tưởng tượng khi chưa có sách vở và hầu hết mọi người đều không biết đọc?

19.1. Ý nghĩ lăng xăng

Chắc chắn đa số con người thời đó đều bận rộn làm lụng thể xác để kiếm sống. Và so với ngày nay, họ chẳng có gì để tiêu khiển hay khích động tâm trí. Con thử nhìn xem thế giới hiện đại có biết bao nhiêu thứ đang níu kéo sự chú ý của con. Có lạ lắm không nếu con có nhiều ý nghĩ lăng xăng? Thật có quá nhiều thứ đang đòi hỏi sự tập trung của con, đòi hỏi con phản ứng lại và làm gì đó. Nhưng ngay cả thuở trước cũng vậy, thử thách lớn nhất mà thày đã gặp trong cương vị thày tâm linh chính là các ý nghĩ lăng xăng nơi mọi người.

Vậy con hãy tưởng tượng ngày nay với tất cả những kích thích đó, liệu việc neo trụ vào Ngọn lửa Hòa bình hầu chấm dứt ý nghĩ lăng xăng sẽ khó khăn hơn chừng nào? Việc tĩnh tâm đã luôn luôn là một thách đố, nhưng chưa bao giờ trong lịch sử ghi chép mà thách đố này to lớn như ngày nay. Các thày, các chân sư thăng thiên, biết rất rõ là khi các thày trao cho con bấy nhiêu giáo lý như đã ban truyền, thì không nhất thiết các thày sẽ giúp con làm yên ý nghĩ lăng xăng dễ dàng hơn.

Đa số mọi người – và chắc chắn sứ giả này có thể chiêm nghiệm điều này nơi bản thân ông – đều trải qua một giai đoạn khi họ lần đầu tiên khám phá đường tu tâm linh, và hẳn giai đoạn này đã phấn khích họ mãnh liệt. Nhiều người trong số các con đã lớn lên trong một cuộc sống thiếu vắng chất liệu tâm linh, nhưng con vẫn biết là có một điều gì đó cần tìm kiếm, một điều gì đó còn thiếu sót, một hiểu biết nào đó con hằng khao khát. Khi con tìm ra giáo lý tâm linh thì bấy giờ tâm con được dịp rồ máy. Con muốn học giáo lý, con muốn hiểu giáo lý, con muốn thể nhập giáo lý, con muốn thực hành mọi pháp tu mà giáo lý đưa ra. Và con tập trung hết mình vào đó.

Không cứ là việc này có gì sai trái – đó là một tiến trình con cần kinh qua. Nhưng liệu con có thấy là kỳ thực nó tạo ra một mức độ suy nghĩ lăng xăng cao hơn nữa hay không? Nhiều người chú tâm vào giáo lý vỏ ngoài, cách tu tập vỏ ngoài, nét văn hóa vỏ ngoài của tổ chức tâm linh mà họ tham gia. Và họ bị cuốn hút vào đó đến độ gần như không còn lúc nào tâm họ có thể tĩnh lặng, có thể trung hòa, có thể lắng nghe. Họ có tai để lắng nghe.

19.2. Sự phóng chiếu liên tục vào tâm con

Thế rồi tới điểm con trụ chặt vào đường tu nội tâm. Bây giờ con nhận ra đường tu không thực sự là chuyện tuân theo pháp tu vỏ ngoài hay học hỏi lời dạy vỏ ngoài, mà là giải quyết tâm lý. Con tập trung vào việc giải quyết tâm lý của con, như nhiều người trong các con và sứ giả này đã làm suốt nhiều năm. Nhưng đây lại là thêm một mức độ ý nghĩ lăng xăng nữa. Bỗng nhiên một ý tưởng nảy ra: “Ồ, có lẽ chăng tôi mang xu hướng này trong tâm lý mình? Tại sao tôi lại phản ứng cách đó trong hoàn cảnh đó? Có điều gì tôi chưa nhìn ra? Có điều gì tôi chưa giải quyết? Ồ, tốt hơn tôi nên nhìn xem, tôi nên tìm xem cái đó là gì, vì chắc chắn tôi không muốn trong tâm mình có vấn đề gì chưa giải quyết.” Cho mỗi tầng trên đường tu đều có nguyên một bộ ý nghĩ lăng xăng. Chúng được phóng chiếu vào tâm con từ các tà lực, từ sa nhân, từ tâm thức tập thể và từ những cái ngã tách biệt mà con còn sót. Đây là một sự phóng chiếu liên tục.

Lẽ tự nhiên, con có thể làm gì đó về chuyện này. Các thày có dạy con là con có thể thỉnh Đại thiên thần Michael để thày niêm phong tâm con và các luân xa của con. Con có thể thỉnh Elohim Astrea để thày cắt đứt cho con thoát khỏi nhiều sợi dây ràng buộc với tà lực. Nhưng có một sự phóng chiếu liên tục những ý nghĩ lăng xăng này. Một số vị thày trong đạo Phật gọi đó là “tâm khỉ” không ngừng suy nghĩ. Con bị phóng chiếu liên tục. Con có thể làm gì đây? Có thể nào con tắt nó đi? Con không thể thực sự tắt nó đi. Sa nhân sẽ tiếp tục làm những gì chúng vẫn làm. Tâm thức tập thể sẽ tiếp tục làm những gì nó vẫn làm.

Con có thể giải quyết những cái ngã và điều này sẽ giảm bớt các ý nghĩ. Nhưng dù sao con vẫn có một bộ não, một bộ não vật lý. Và bộ não vật lý được thiết kế để suy nghĩ, hay ít ra để chuyên chở suy nghĩ. Bộ não vật lý cũng có khả năng tạo ra ý nghĩ, không phải là ý nghĩ cao, nhưng nó có khả năng tạo ra ý nghĩ cùng một số trải nghiệm và cảm thọ khác nhau. Khi con bước chân trên đường tâm linh, não của con sẽ bắt đầu tạo ra những ý nghĩ tâm linh, và con có thể cảm thấy mình bắt buộc phải suy nghĩ chúng. Sứ giả này đã bước trên đường tu nhiều năm trước khi ông ngộ ra là ông thực sự không bắt buộc phải suy nghĩ bất kỳ ý nghĩ nào đi vào trong đầu ông.

19.3. Chuỗi tư tưởng cưỡng chế

Con thử xem xét điều này. Có một ý tưởng đột ngột xuất hiện trong đầu con. Nó có thể được phóng chiếu từ đâu đó không liên quan gì tới con. Nhưng tâm con vẫn cảm thấy bị bó buộc phải suy nghĩ về nó. Con cho rằng, và hầu hết mọi người cũng cho rằng ý nghĩ đó là của mình. Và con thấy bó buộc phải suy nghĩ nó. Có nguyên một tiến trình khi ý tưởng trải bày ra trong tâm con, thế rồi ý tưởng này dẫn đến một sự liên tưởng và đột nhiên một ý tưởng khác xuất hiện. Và trước khi con biết chuyện gì xảy ra, mấy phút đã trôi qua và con đã nhảy vào đủ loại đề tài vớ vẩn khác dẫn con thật xa khỏi ý tưởng ban đầu. Sứ giả này đã phải mất một thời gian dài trước khi ông chịu nhìn nhận là ông đã có hiện tượng này suốt đời ông. Những chuỗi tư tưởng, những quy trình tư tưởng này chẳng dẫn tới đâu và chẳng sản xuất được gì. Chúng chẳng giải quyết được gì mặc dù đôi khi chúng khoác lấy hình dạng một vấn đề. Nhưng chúng không bao giờ ngừng, không bao giờ giải quyết hay tạo ra bất cứ gì.

Thày không bảo là con không thể có những ý tưởng xây dựng dẫn đến một hành động tạo ra một kết quả. Nhưng rất nhiều khi con chỉ có ý nghĩ chạy loanh quanh luẩn quẩn, nhảy từ đề tài này sang đề tài khác và không sản xuất được gì. Đây là điều thày gọi là ý nghĩ lăng xăng. Nhiều người, hầu hết mọi người, đều cho rằng: “Ồ, chắc đây là ý tưởng của tôi. Tại sao nó lại nảy lên trong đầu tôi nếu nó không phải là ý tưởng của tôi? Và nếu nó là ý tưởng của tôi thì tôi phải suy nghĩ nó, tôi phải đi theo nó, tôi phải chú ý đến nó.” Nhiều người bỏ ra cả đời trong tâm trạng này, không ngừng có những ý nghĩ lăng xăng mà họ cảm thấy phải suy nghĩ. Ý tưởng dẫn đến liên tưởng, nó kéo dài một vài giây, xong nó dẫn đến một ý tưởng khác, và nó nhảy từ cái này sang cái kia rồi cái nọ, chẳng khác gì một con khỉ đu cây. Nó chẳng đi tới đâu, giống như con khỉ cũng chẳng đi tới đâu. Con khỉ nhảy từ cành này sang cành nọ nhưng vẫn ở nguyên trên cây.

19.4. Tâm muốn bận rộn

Tới một điểm trên đường tu con cần nhận thức hiện tượng này và tự hỏi: “Tôi có thực sự muốn các ý nghĩ lăng xăng này chiếm trọn tâm tôi? Tôi có muốn cảm thấy bó buộc phải suy nghĩ về chúng và bị cuốn vào các quy trình tư duy đó, những liên tưởng đó, nhảy qua nhảy lại kiểu đó?” Là một học trò tâm linh, con thường vô hiệu hóa nó, vì khi con học tập một giáo lý tâm linh thì con chú tâm vào lời dạy, và nhiều khi không hay biết, con bỗng gạt đi rất nhiều ý nghĩ như thế vì con tập trung vào giáo lý. Ý tưởng nhập vào tâm con vì tâm con lẫn bộ nảo được thiết kế để suy nghĩ, cho nên chúng tưởng là chúng phải suy nghĩ hoài hoài. Có một phần trong tâm con, và ngay cả não của con, cảm thấy là nếu nó không đang suy nghĩ thì có gì đó không ổn và nó không đang làm nhiệm vụ của nó. Cũng từa tựa như nếu tim con ngừng đập. Tim ngừng đập quả sẽ là một vấn đề, nhưng tâm mà ngừng suy nghĩ thì thật sự không là vấn đề, thế nhưng tâm lại cho đó là một vấn đề. Nó nghĩ con sẽ chết nếu nó không suy nghĩ.

Con cũng có thể vô hiệu hóa quy trình đó bằng cách đọc chú, đọc thỉnh, vì điều này khiến tâm con bận việc. Con thấy đó, tâm con phải bận làm một chuyện gì đó. Nó có thể bận học giáo lý, nó có thể bận đọc thỉnh đọc chú, nó có thể bận làm một công việc thực tiễn, nhưng tâm phải chất chứa một chút nội dung nào đó. Phải có chuyện gì diễn ra trong tâm, vì nếu không thì tâm cảm thấy có vấn đề không ổn. Con sẽ thấy là tâm có khuynh hướng muốn bận rộn. Tâm muốn làm việc.

Cách đây khá nhiều năm, sứ giả này phát hiện có một phần trong tâm ông muốn giải quyết những vấn đề. Phần này được tạo ra để giải quyết vấn đề. Nó phải có vấn đề để mà giải quyết. Nếu nó không có vấn đề nào để giải quyết ở bên ngoài thì nó tạo ra vấn đề ở bên trong. Và ông nhận ra là ông có thể bỏ ra cả phần đời còn lại để giải quyết những vấn đề trong tâm do chính tâm ông tạo ra. Nhưng liệu làm vậy sẽ giúp ông đạt được gì chăng trên đường tu hay đường đời?

19.5. Làm thế nào con có thể thoát khỏi ý tưởng?

Nếu con quan sát chính mình khi con đang nghe hay đang đọc bài giảng này, chuyện gì xảy ra trong tâm con ngay lúc này? Con đang nhận diện thày là một vị thày tâm linh và một chân sư thăng thiên. Thày đang trao cho con một lời dạy và thày có một mục đích khi làm việc này. Thày muốn giúp con bước chân trên đường tu tâm linh, cho nên con cảm thấy bó buộc phải đặt chú ý vào lời dạy. Và điều gì xảy ra khi con làm vậy? Con có những ý tưởng nảy lên trong tâm. Đó có thể là nhiều loại ý tưởng khác nhau tùy theo từng người, nhưng con có ý nghĩ: “Lời dạy này ý nghĩa là gì? Tôi có thể áp dụng thế nào? Tôi có thể làm gì? Làm thế nào tôi có thể tránh các ý nghĩ lăng xăng đó? Bởi vì đây chính là điều mà hình như Gautama đang ngụ ý tôi phải làm.” Một số các con có thể cảm thấy vô vọng, và một số có thể đang suy nghĩ về cách ngừng hẳn sự suy nghĩ. Làm sao chuyện này có thể được? Và câu hỏi trở thành: Con sẽ làm gì đây?

Nhiều vị thày tâm linh và nhiều đệ tử tâm linh khắp các thời đại đã cố giải quyết vấn đề này theo nhiều cách. Nhiều người, đặc biệt trong truyền thống đạo Phật, đã biết về tâm khỉ. Nhiều người đã tự đặt ra mục tiêu làm cho tâm tĩnh lặng. Họ đã sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau, thiền định, quán chiếu, để làm yên tâm họ. Rất nhiều người thời nay, cả tại Mỹ lẫn khắp các nơi khác, đang tu tập đạo Phật và cố gắng áp dụng các kỹ thuật của đạo Phật. Họ sống trong thế giới Âu Tây nhưng họ cho rằng họ phải có thể làm yên tâm họ, y như người ta có vẻ làm được trong một đạo tràng hay một đoàn tăng trên núi ở phương Đông.

Nhưng nếu các con đang sống trong một thế giới hiện đại bận rộn, liệu điều này có thực tế lắm không? Với tất cả những thứ đang níu kéo sự chú ý của con, tất cả những chuyện được phóng chiếu vào con, liệu làm yên tâm mình có thực tế lắm không? Ngay cả nếu con có thể bay đến núi Himalaya để sống trong một tu viện, liệu làm yên tâm mình có thực tế lắm không trong một thế giới hiện đại với tâm thức đại chúng bao quanh? Con có thể tự cô lập về mặt địa lý, nhưng đâu là giới hạn của tư tưởng? Thậm chí, liệu tư tưởng có phải tuân thủ giới hạn vận tốc của vũ trụ hay tốc độ của ánh sáng hay không? Không đâu, một ý tưởng không cần bay đến một địa điểm cụ thể để hiện diện tại nơi đó trong vật lý. Nó có mặt ở đó tức thì. Làm thế nào con có thể thoát khỏi các ý nghĩ? Làm thể nào con có thể thoát khỏi tâm thức đại chúng? Chắc chắn là có những cường độ khác nhau, nhưng con không bao giờ có thể thực sự thoát khỏi nó. Và làm thế nào con có thể thoát khỏi chính tâm con khi nó cứ muốn suy nghĩ suốt ngày để cảm thấy nó đang làm nhiệm vụ của nó?

À, xuyên qua các thời đại, một số người đã tìm kiếm nhiều cách khác nhau để cố xử lý cái tâm này. Một số vị thày Phật giáo đã nhìn nhận là chuyện này không thể làm được. Và họ còn đặt vấn đề là liệu việc khiến cho tâm tĩnh lặng có cần thiết hay không.

19.6. Con không thể tĩnh tâm bằng cách suy nghĩ về phương cách tĩnh tâm

Điều thày muốn gợi ý, duy như một cách để xử lý vấn đề này, là con nhìn nhận rằng con là một đệ tử của chân sư thăng thiên và các thày đã trao cho con một số dụng cụ. Tất nhiên con sẽ dùng các dụng cụ này. Con sẽ thỉnh sự bảo vệ tâm linh, thỉnh cầu để mình được giải phóng, để tâm được che chở và niêm phong khỏi tà lực cùng tâm thức đại chúng. Đó là một việc quan trọng và cũng là một việc chính đáng.

Nhưng thày cũng sẽ gợi ý là giữa tất cả những bài chú, bài thỉnh, giữa tất cả việc học tập và các sinh hoạt thường nhật, con có thể dành ra một chút thời gian để chỉ ngồi đó mà thôi. Con không nỗ lực làm yên tâm con, vì khi con cố làm cho tâm yên tĩnh thì con đang làm gì chứ? Con đang sử dụng tâm để khiến cho tâm tĩnh. Và làm thế nào tâm có thể khiến cho tâm tĩnh ngoại trừ bằng cách suy nghĩ về một cách khiến cho tâm tĩnh? Và khi con suy nghĩ về cách khiến cho tâm tĩnh thì con vẫn đang suy nghĩ đó. Tâm đang làm công việc mà nó nghĩ nó phải làm, cho dù dường như con đang muốn nó tĩnh lặng.

19.7. Buông các ý nghĩ

Thày đề nghị con tiếp cận một cách khác hơn. Trước hết, con quyết định là con sẽ dành ra một khoảng thời gian, con vào một phòng yên tĩnh và con có thể bắt đầu đọc chú, đọc thỉnh, nhưng con hãy vào một phòng yên tĩnh. Con không ngồi trong tư thế thiền định, khoanh chân như người ta thường làm. Con nằm trên giường hay đi-văng êm ái nơi con có thể thư giãn thân thể, hầu con không có cảm giác nào, không bị khó chịu phải giữ một tư thế nhất định nào. Con chỉ nằm đó, tốt nhất là trong phòng tối, chắc chắn một phòng yên tĩnh. Và sau đó mục tiêu của con không chủ yếu là tĩnh tâm, mà ở trong một trạng thái tâm trung hòa. Tâm trung hòa (neutral) quan trọng hơn là tâm tĩnh (still) không có ý tưởng. Thay vào đó, con cố gắng, con nỗ lực, con có mục tiêu rằng: “Tôi sẽ trung hòa.”

Điều này có nghĩa là con không đóng chặt để ý tưởng không vào được mà con không giao tiếp với ý tưởng. Con quyết định: “Tôi không ở đây để suy nghĩ về bất cứ chuyện gì, tôi không ở đây để hiểu ra bất cứ điều gì, tôi không ở đây để nhìn thấy bất cứ cái gì. Tôi không ở đây để giải quyết bất cứ vấn đề gì hay đạt được sáng ngộ gì. Tôi chỉ ở đây để không tiếp cận, không tham gia vào các ý nghĩ đang bay đến.” Và như vậy, con nằm đó với mắt nhắm. Con chỉ quan sát tâm. Khi một ý nghĩ bay đến, con nói nhẹ nhàng trong tâm: “Tôi buông (surrender trong tiếng Anh có mấy nghĩa: buông bỏ, từ bỏ, hàng phục, trả lại). Tôi để cho nó đi (let go).” Con buông ý nghĩ. Thay vì suy nghĩ về nó, đặt chú ý vào nó, cho phép nó liên kết mọi phía, thì con buông nó, con không nghĩ về nó, con chỉ để cho nó đi.

Lúc đầu việc này có thể khó khăn. Nhưng con càng giải quyết được nhiều ngã tách biệt trong tâm thì sẽ càng dễ dàng hơn. Con có thể đạt tới điểm khi, ít nhất trong một thời gian, con tiếp tục nói: “Tôi buông. Tôi để cho nó đi. Tôi buông. Tôi buông.” Bất kỳ ý tưởng nào hiện lên, con chỉ buông nó ra. Con không tiếp xúc với nó. Rất có thể con sẽ nhận thấy là tâm con bị khuấy động, nó có thể cuống cuồng hoảng sợ: “Tại sao bạn lại không suy nghĩ những ý tưởng tôi đang gửi cho bạn? Tại sao bạn lại làm ngơ, phớt lờ tôi đi? Bạn không còn ưa tôi nữa sao?” Tất cả những điều này có thể khởi lên với con. Hoặc có thể con chỉ cảm thấy một sự xao động hay bối rối, vì tâm không biết nó phải làm gì khi con không suy nghĩ các ý tưởng đó. Nhưng con có khả năng cứ tiếp tục như vậy.

Thỉnh thoảng sẽ có một ý tưởng thu hút chú ý của con. Con đi theo nó và con đi tới chỗ này chỗ nọ, xong thình lình con nhận ra: “Ồ, tôi lại đang suy nghĩ rồi.” Khi đó, con chỉ quay trở lại: “Tôi buông. Tôi buông. Tôi buông.”

À, con cần thận trọng ở đây. Con đừng trở nên áy náy về chuyện này. Đừng biến nó thành một áp lực. Đừng bị căng thẳng bởi nó. Đừng cảm thấy là con phải có khả năng làm bài tập này và con phải có khả năng buông bỏ các ý nghĩ. Con chỉ việc thực tập một cách thoải mái, càng thư giãn càng tốt. Quả thực những giây phút như thế sẽ giúp con rất nhiều, như các thày đã có đề cập, khi cái Ta Biết của con đứng bên ngoài tâm vỏ ngoài và trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết. Nhận biết thuần khiết là gì? À, đó là khi con ý thức mà không có ý nghĩ. Giống như thể con ý thức nhưng không có nội dung tâm thức.

19.8. Sử dụng thần chú

Một số kỹ thuật thiền lấy điều này làm mục tiêu. Một số kỹ thuật thiền sử dụng một câu thần chú không mang ý nghĩa nào, và con chỉ lặp đi lặp lại câu đó. Và khi nào con nhận ra là con đang suy nghĩ, con chỉ quay trở lại với câu thần chú. Theo một nghĩa nào đó, đây chính là việc con đang làm ở đây, chỉ có điều câu thần chú của con là: “Tôi buông.” Nếu chuyện này không hiệu quả thì con có thể dùng một câu chú. Thày đề nghị con dùng câu OM, con đọc OM lặng lẽ trong tâm con. Khi con có một ý nghĩ, con chỉ quay trở lại với OM. Con chú tâm vào OM, con lặp lại OM. Nhưng đối với nhiều người trong các con, sẽ hiệu quả hơn nếu con nói: “Tôi buông. Tôi buông ý nghĩ này.”

Thày hoàn toàn không có ý nói rằng đây là một liệu pháp thần kỳ, rằng nó nhất thiết sẽ chấm dứt mọi ý nghĩ lăng xăng, nhưng nó có thể hữu ích nếu con thực hành. Con không cần phải làm thật lâu, thậm chí con không phải làm mỗi ngày. Chẳng hạn, con có thể thực tập buổi tối khi con nằm trên giường chuẩn bị đi ngủ. Nó có thể sẽ mở tâm con ra một cảm giác an bình – “niềm thanh thản cho Biển động Luân hồi được yên lắng.”

19.9. Tâm tĩnh do trung hòa

Thế nào là Biển động Luân hồi? Nhiều người nghĩ đó là thế gian cùng các hoạt động vật lý trong thế gian, nhưng thật ra đó là tâm. Khổ đau xảy ra ở đâu? Trong tâm. Và con khăc phục khổ đau ở đâu? Trong tâm. Nhưng những ai không nắm được lời dạy của Phật sẽ chú tâm vào những thứ vỏ ngoài. Họ nghĩ rằng chính những cảnh huống vỏ ngoài khiến cho tâm trải nghiệm khổ đau. Và do vậy họ nghĩ giải pháp duy nhất là thay đổi cảnh huống vỏ ngoài. Nhưng trong nhiều trường hợp, họ không thể thay đổi cảnh huống vỏ ngoài, một phần là vì người khác không chịu hợp tác, cho nên họ sống trong nỗi bực dọc không nguôi. Đó là Biển Luân hồi.

Là một đệ tử của chân sư thăng thiên, con cũng có thể tạo ra phiên bản riêng của con về Biển Luân hồi, qua đó – như PadmaSambhava có nói – con không ngừng tập trung vào việc giải quyết một vấn đề gì đó trong tâm lý của con, hay thay đổi thế giới, hay đọc bài thỉnh, hay tìm hiểu giáo lý, hay làm một việc nhằm cải thiện thế giới, quảng bá giáo lý, hay bất kỳ điều gì khác. Con có thể nhìn sứ giả này và nói: “Đấy, ông ấy đã đi trên đường tu tâm linh rất nhiều năm trời, ông đã làm sứ giả được gần 20 năm, ông đã có một cuộc sống đầy ý nghĩa và ông được làm việc với các chân sư thăng thiên để ban truyền tất cả những lời dạy kia, với sách, với trang mạng, vân vân.” Nhưng có lẽ con không nhận ra là việc làm này đã khó khăn đến chừng nào. Ông đã có thể làm việc cho tới kiệt sức, ông đã có thể bị căng thẳng đến độ suy sụp tâm thần, ông đã có thể bị choáng ngợp bởi tinh thần trách nhiệm phải chu toàn điều này hay điều nọ. Và chắc chắn đã có những thời kỳ ông phải nếm mùi sự bực dọc cao độ khi ông cảm thấy cho dù mình có làm nhiều đến đâu thì vẫn chưa đủ, hay chưa tốt đủ, và mình luôn luôn muốn làm nhiều hơn nữa. Nhưng cuối cùng thì ông đã sống sót, và các con cũng vậy, các thày muốn tất cả các con sống còn. Ông đã sống còn bằng cách xem xét tất cả những gì thày vừa trình bày với con, bằng cách tìm ra một thế quân bình, tìm ra Trung đạo, và không bị bực bội, không quá cuồng nhiệt, không bị ám ảnh cưỡng chế – và thỉnh thoảng, bằng cách tĩnh tâm.

Điều đã giúp cho sứ giả này là ngay từ buổi đầu, ông đã nhận ra là để nhận được thông điệp từ các chân sư thăng thiên, ông phải ở trong một tâm thái trung hòa. Có thể trong Sứ vụ Thiêng liêng của con không hoạch định con sẽ trở thành một sứ giả, nhưng chắc chắn trong Sứ vụ của con có việc tiếp nhận sự hướng dẫn trực tiếp từ các thày thay vì từ một giáo lý vỏ ngoài. Hầu nghe được Hiện diện TA LÀ của con hay một chân sư thăng thiên, con cần ở trong tâm thái trung hòa đó. Con cần dành thời gian để nỗ lực trụ trong tâm thái trung hòa đó mà không phấn đấu. Con đánh gạt tâm con, con khiến cho nó bối rối, để các ý nghĩ lăng xăng không chiếm trọn sự chú ý của con.

19.10. Một cách tiếp cận giáo lý cân bằng

Biết bao nhiêu thứ níu kéo tâm con. Biết bao nhiêu thứ. Các thày nhìn nhận là những lời dạy của các thày có thể dễ dàng biến thành một lực níu kéo khác đối với tâm con. Các thày nhận rủi ro này, một rủi ro có cân nhắc. Khi con quan sát diễn biến trong thời gian gần 20 năm qua khi đợt truyền pháp này hoạt động, con sẽ thấy – như các thày đã có đề cập – là giáo lý được ban ra có nhiều cấp độ. Đã có những giáo lý vượt xa hơn giáo lý ban đầu. Con sẽ thấy là một số người đã khám phá ra giáo lý, tham gia được một thời gian rồi bỏ đi làm công việc khác. Lại có một số người buộc tội sứ giả này đã trở thành một sứ giả giả hiệu. Còn một số khác thì tìm được một giáo lý khác để chuyên chú đi theo.

Các thày xác định là sứ giả này đã sẵn lòng thăng vượt mức tâm thức của ông đến độ các thày có thể ban truyền những cấp độ giáo lý khác nhau đó. Cho nên các thày đã và đang tiếp tục ban truyền giáo lý vì các thày muốn gửi càng nhiều giáo lý càng tốt vào cõi vật lý. Nhưng điều này không có nghĩa là con phải cảm thấy bó buộc luôn luôn theo sát những lời dạy mới nhất. Điều hoàn toàn phải lẽ là con có thể thấy một lời dạy nào đó – ngay cả một lời dạy được ban ra cách đây nhiều năm – hấp dẫn con, có vẻ quan trọng đối với con. Điều hoàn toàn phải lẽ là con tập trung vào lời dạy đó, học hỏi nó, thực hành nó, thể nhập nó, và không để ý đến những lời dạy đang được ban ra.  

Con không cần phải tham dự tất cả mọi hội nghị hay hội thảo trên mạng. Con không cần phải đọc tất cả mọi quyển sách hay mọi bài truyền đọc hay mọi lời giải đáp được đăng tải. Con không cần cảm thấy áp lực phải dự phần vào những giáo huấn đó. Đây quả thực là một sự thay đổi so với các tổ chức trước đây mà trọng tâm được đặt nhiều hơn vào việc đệ tử phải làm cái gì đó suốt ngày, thậm chí phải đọc chú hàng giờ liền để thay đổi thế giới. Nhưng các thày muốn các con được tự do đi vào nội tâm. tập trung vào những giáo lý mà con cảm thấy mình cần tập trung và bỏ qua phần còn lại. Thật hoàn toàn phải lẽ nếu con bỏ ra mấy tháng trời hay mấy năm trời để chú tâm vào một lời dạy cụ thể, rồi khi con cảm thấy mình đã tiến xa đủ với nó thì con có thể quay trở lại và nói: “À các chân sư có vừa dạy thêm gì nữa không?”

Không có một cách duy nhất để bước chân trên đường tâm linh. Việc đi theo một giáo lý tâm linh không được biến thành một chiếc áo tù bó chặt tay chân như từng xảy ra cho nhiều người, cả đệ tử của chân sư thăng thiên lẫn các đệ tử tâm linh khác, hay tất nhiên như đang xảy ra cho hầu hết mọi người sùng đạo. Nhưng để tránh sự thể này, con cần sẵn sàng nhìn vào tâm lý mình và nhận ra là phản ứng đó đến từ một cái ngã trong tâm. Chân sư MORE có nói: “Hãy nhìn cuộc đời. Mọi thứ xảy ra trong đời đều là một cơ hội để con làm việc trên tâm lý của con.” Vậy con hãy nhìn vào một lời dạy tâm linh, một đường tu tâm linh và một tổ chức tâm linh theo cách tương tự. Tất cả mọi thứ đều là cơ hội để con nhìn ra một điều gì đó chưa giải quyết trong chính tâm con, trong tâm lý của con. Tại sao con phản ứng theo cách con đang phản ứng?  

19.11. Nguyên nhân của trải nghiệm nội tâm nằm ngay trong tâm

Con thử nhìn xem những ai đã rời bỏ giáo lý tâm linh và bây giờ đổ lỗi cho đạo sư hay vị thày hay sứ giả hay chính giáo lý đó. Họ đang làm gì vậy? Họ đang phóng chiếu ra là nguyên nhân trải nghiệm của họ nằm ngoài tâm họ. Trải nghiệm thì xảy ra trong tâm nhưng nguyên nhân thì nằm ngoài tâm.

À, nếu thế thì con không thực sự là một học trò tâm linh rồi, vì cốt lõi của con đường tâm linh chính là việc điều ngự tâm con. Và làm sao con có thề điều ngự tâm con nếu con nghĩ nguyên nhân của trải nghiệm nội tâm nằm bên ngoài tâm? Nếu con nghĩ một đạo sư hay một sứ giả nào đó có quyền lực trên trải nghiệm nội tâm của con, thì con bất lực không thể thay đổi được trải nghiện nội tâm. Và nếu con bất lực không thay đổi được trải nghiệm nội tâm thì làm sao con có thể tinh tiến trên đường tu tâm linh khi tinh túy của đường tu tâm linh là việc điều ngự trải nghiệm nội tâm?

Khi con tự xưng là một học trò tâm linh mà lại phóng chiếu ra là nguyên nhân trải nghiệm nội tâm của con nằm ngoài tâm con, thì đây chính là một sự bất nhất trong nhận thức (cognitive dissonance).

19.12. Chờ đợi giáo lý sẽ chứng thực phin lọc nhận thức

Các thày đã thấy, không cứ trong phong trào này mà chắc chắn trong nhiều phong trào tâm linh, là có một tỷ lệ những người tìm ra một giáo lý tâm linh – một giáo lý tâm linh chính đáng và chân truyền – nhưng họ lại rơi vào phản ứng như vậy. Hay họ ở lại trong phản ứng đó vì họ đã từng ở trong đó trước khi tìm ra giáo lý, và phản ứng là họ phóng chiếu nó ra.

Thày Giê-su đã giảng điều gì về tâm thức Peter? Peter công nhận là Giê-su có gì đặc biệt, nhưng ông không nắm bắt được sự kiện Giê-su đặc biệt là vì Giê-su ở ngoài tâm của Peter nên mới có thể cho Peter một khung tham chiếu từ ngoài tâm ông. Thay vào đó, Peter lại muốn kéo Giê-su vào chính tâm mình và khiến Giê-su phải tuân theo những hình ảnh cùng chờ đợi mà ông có trong tâm.

Hàng ngàn, hàng vạn người, cả ở phương Tây lẫn phương Đông nhưng đặc biệt ở phương Tây, đã tìm ra một giáo lý tâm linh chân chính nhưng họ lại phóng chiếu ra ngoài. Họ nhận diện một điều gì đó trong giáo lý đó, nhưng rồi họ lại bắt đầu phóng chiếu để khiến vị thày phải tuân theo những chờ đợi của họ. Họ không nắm được là toàn bộ mục đích của con đường tâm linh là để thoát khỏi, để thăng vượt, để giải quyết các hạn chế trong chính tâm mình.

19.13. Điều kiện vỏ ngoài chỉ kích hoạt chứ không gây ra

Khi con nắm được điểm này, con sẽ thấy là không thể nào có một nguyên nhân bên ngoài tạo ra các hiện tượng bên trong tâm con. Không thể nào. Hiện tượng trong tâm là do tâm chế tạo. Chúng có thể được kích hoạt, chúng có thể là phản ứng trước một cảnh huống bên ngoài, nhưng cảnh huống bên ngoài không gây ra điều kiện bên trong. Chính tâm mới gây ra điều kiện bên trong qua cách nó phản ứng lại điều kiện bên ngoài.

Đây là tinh túy của lời dạy mà thày đã trao cách đây 2500 năm. Con sẽ không tìm thấy lời dạy này trong bất kỳ giáo lý nào được ghi lại. Nó đã không được diễn đạt với những từ đó, nó đã không được diễn đạt rõ ràng như chúng ta có thể diễn đạt ngày hôm nay bởi vì tâm thức tập thể đã được nâng lên. Nhưng đó chính là điều thày đã cố gắng trao cho đệ tử của thày. Một số đã nắm được nhưng phần đông thì không. Đó cũng là điều mà Giê-su đã cố trao cho đệ tử của Giê-su. Một số đã nắm được nhưng phần đông cũng không, và Peter thì nằm trong số những người này.

Các thày mong mỏi là những ai trong các con cởi mở với những lời dạy này có thể làm cuộc xoay chuyển đó trong tâm mình, tức là con có thể chấp nhận không có gì bên ngoài tâm con là nguyên nhân cho những gì xảy ra bên trong tâm con. Mọi chuyện xảy ra trong tâm con là kết quả của những điều kiện trong tâm con. Con có thể nghĩ là thày đang mâu thuẫn với những gì thày vừa nói ở trên liên quan đến rất nhiều ý nghĩ được phóng chiếu vào tâm con. Nhưng con thấy đó, ý nghĩ chỉ có thể kích hoạt một khuôn nếp, một ngã tách biệt, đã có sẵn trong tâm.

Thày đã trình bày về điểm nay 2500 năm trước đây, về hành uẩn (samskara) trong tâm, về các khuôn nếp trong tâm. Bây giờ các thày gọi là ngã tách biệt. Chúng nằm đó tiềm ẩn, im lìm. Khi một cảnh huống bên ngoài xảy đến, một ý nghĩ được phóng chiếu vào tâm con, kích khởi một trong những cái ngã đó hoạt động. Nhưng nếu con cứ tập trung vào cái nguyên do bên ngoài, cái điều kiện bên ngoài, và tưởng đó là nguyên nhân, thì làm thế nào con có thể thay đổi được phản ứng bên trong tâm con? Con không thể đóng chặt không cho các ý tưởng phóng chiếu đi vào tâm con. Như một cá nhân, con không thể thay đổi tâm thức tập thể. Nhưng con có thể thay đổi chính tâm thức của con để không phản ứng lại tâm thức tập thể.

19.14. Tĩnh tâm có nghĩa là gì

Và đây là điều có thể xảy ra lần hồi khi con giải quyết các ngã đó, khi con thực hành bài tập này và buông ý nghĩ. Con có thể đạt tới điểm khi không phải là con không có ý nghĩ nào từ ngoài phóng chiếu vào tâm, không phải là con không có bộ não và tâm vỏ ngoài sản xuất ý nghĩ từ trong, mà cái Ta Biết của con, sự nhận biết ý thức của con, không giao tiếp với chúng. Chúng chỉ lướt xuyên qua.

Con hãy nghĩ đến hình ảnh của PadmaSambhava, của người đứng đó, hay người đứng trong phong cảnh bao la đó nhưng không nhìn thấy phong cảnh mà chỉ tập trung vào đám mây đen trên trời. Đấy, con có thể nghĩ là có nhiều ý nghĩ đi vào đầu con, nhưng trên thế giới vẫn còn rất, rất nhiều điều kiện mà con không nhận thấy, không chú ý. Con có thể đi bộ trên đường phố, bước qua nhiều người khác nhau nhưng con không để ý đến họ. Hay có lẽ con để ý một hai người nhưng số còn lại thì chỉ lướt xuyên qua. Con có thể đạt tới điểm khi con có đủ loại ý nghĩ đi vào tâm con, nhưng chúng chỉ lướt xuyên qua vì con không chú tâm vào đó. Và đây chính là khi con đã làm yên tâm con.

“Chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng” không có nghĩa là ý nghĩ ngưng hẳn, mà có nghĩa là chúng ngừng không tác động tâm ý thức của con, không níu kéo sự chú ý ý thức của con. Đó là cách mà ý nghĩ lăng xăng chấm dứt.

19.15. Trải nghiệm Ngọn lửa Hoà bình Hoàn vũ

Thế thì câu điệp khúc mà các con vừa đọc lên nói gì? “Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ, chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng”. Con có thể suy ngẫm và hòa điệu với Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ mà thày giữ cho địa cầu, và con cũng có thể sử dụng để tránh tập trung vào các ý nghĩ. Nhưng đây là một điều mà hầu hết mọi người không thể làm được khi mới bắt đầu, và đó là tại sao thày đã cho con các bài tập kia trước. Nhưng chắc chắn một khi con đã đạt được một trình độ không dính mắc nào đó đối với ý tưởng, một khi con đã bỏ ra một thời gian để nói: “Tôi buông, tôi buông, tôi buông,” thì sau đó con có thể quyết định chú tâm vào Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ của thày, hòa điệu vào đó, mở tâm con ra với nó và đơn giản được nó bao bọc chung quanh.

Tuy nhiên con hãy cẩn thận ở đây. Điều gì xảy ra cho tâm con khi thày nói Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ? Điều xảy ra trong tâm sứ giả là ông nghĩ ông phải thấy nó như một ngọn lửa. Phải có một loại lửa nào đó với một hình thù nào đó, và ông phải có thể hòa điệu vào đó. Nhưng làm vậy thì khiến cho tâm suy nghĩ rồi – con không hòa điệu vào ngọn lửa mà con đang suy nghĩ về chuyện hòa điệu vào ngọn lửa. Và chừng nào con còn nghĩ ngợi về nó, con còn suy nghĩ, con còn nhìn ngọn lửa như một cái gì tách biệt với con, một cái gì ở ngoài kia: “Lửa ở đó, tôi ở đây, tôi phải hòa điệu vào cái ở đó,” thì con không thể làm được. Không thể nào làm được.

Con có thể hoặc ở trong ngọn lửa hoặc không ở trong ngọn lửa. Con có thể hoặc ở trong ngọn lửa hoặc suy nghĩ về việc ở trong ngọn lửa. Nhưng ở trong đó hay nghĩ tới việc ở trong đó – hai cái này khác nhau. Đó là tại sao con cần một chút thực tập để đạt tới điểm con không thực sự hòa điệu vào ngọn lửa mà con đang trải nghiệm chính ngọn lửa, con đang ở trong nó, con đang được nó bao trùm.

Trong chương trình canh thức chữa lành tâm lý, con vừa được thày Hiện diện Tình thương ban cho một bài thực tập, một bài thỉnh, qua đó con hình dung một cái tháp quan sát [xem bài truyền đọc ở đây] và con nhận thấy có một chiếc cầu thang dẫn lên một mặt phẳng và có một vị chân sư đang đứng trên mặt phẳng. Khi sứ giả này bắt đầu làm bài tập đó, ông hình dung trong tâm có một chân sư đứng đó như một hình người đứng trên mặt phẳng, và ông bước chân lền cầu thang rồi ôm lấy chân sư như thể ông ôm một người. Nhưng sau vài ngày, ông nhận ra là kỳ thực, làm vậy sẽ khiến ông bị rối trí, vì ông cho rằng mình phải hình dung tiến trình và điều này kéo chú tâm của ông ra khỏi việc trải nghiệm vị chân sư. Thế rồi ông nhận ra là thay vì hình dung hình một người và chính ông cũng là một hình người đang ôm lấy chân sư, thì ông có thể thay đổi cách hình dung để cảm thấy mình không phải là một hình người đang leo lên cầu thang, mà mình chỉ là một điểm chú ý, mình được bao bọc trong quả cầu là vị chân sư, quả cầu tâm thức, Hiện diện của chân sư. Thậm chí ông có thể cảm thấy mình là một cái chấm bên trong quả cầu của chân sư đang nhìn xuyên qua Hiện diện của chân sư, và làm như vậy sẽ cho ông một trải nghiệm mật thiết hơn.

Một điều tương tự cũng xảy ra với Ngọn lửa Hòa bình. Con không ngồi đó như một hình người cố gắng hòa điệu với ngọn lửa ở ngoài kia đang bốc cháy giống như những đám lửa mà con thường thấy. Ngọn lửa ở đây là một quả cầu và con thì là một cái chấm. Con ở bên trong quả cầu. Con trải nghiệm ngọn lửa, thậm chí con trải nghiệm xuyên thấu qua ngọn lửa. Khi con đã làm nhiều lần và có trớn, con còn có thể nhìn thế giới xuyên qua ngọn lửa. Đây là cách con có thể dùng Ngọn lửa Hòa bình. Và khi con chỉ trải nghiệm Ngọn lửa Hòa bình và chính con cũng ở trong ngọn lửa, chính con là một với ngọn lửa, thì các ý nghĩ lăng xăng sẽ chấm dứt. Nhưng như thày vừa trình bày, ít người làm được điều này ngay từ đầu, và con cần đi qua một số bước.

Một lần nữa đối với một số người, điều này sẽ khó thực hiện. Con đừng quá lo lắng. Đừng cảm thấy là mình phải làm cho được. Thày chỉ cống hiến cách này cho những ai đã sẵn sàng. Nếu con chưa sẵn sàng thì chẳng có vấn đề gì, và cũng không có gì để xấu hổ. Con không đang làm gì sai cả. Con hãy tìm một lời dạy hấp dẫn đối với con rồi chú tâm vào đó. Đôi khi như PadmaSambhava có nói, con có thể bị ghiền chuyện giải quyết một vấn đề nào đó trong tâm lý con, gần như thể con nghiện bước chân trên đường tâm linh, và con cảm thấy mình phải có khả năng làm tất cả mọi thứ các thày đưa ra, con phải có thể sử dụng, phải có thể tận dụng, phải có thể hình dung cái này hay cái nọ.

19.16. Dùng trực giác để bước trên đường tu

Hãy đứng lui lại. Con không phải làm tất cả mọi thứ. Con không phải tận dụng mọi thứ mà các thày đề nghị ở đây. Con cần tìm ra cái khía cạnh của giáo lý thu hút con ở mức tâm thức hiện thời của con trong số 144 tầng tâm thức. Con không nhất thiết cần biết mình đang đứng ở tầng nào, mà con chỉ đơn giản cảm nhận bằng trực giác rằng lời dạy này hấp dẫn đối với con. Xong con hãy tập trung vào đó chừng nào con cảm thấy mình còn cần đến nó.

Sự thể là nhiều người trong các con đã không làm như vậy. Con đã tiếp cận một cách năng động hơn, con tìm ra giáo lý, con hào hứng với giáo lý và con nói: “Ồ, tôi muốn làm mọi thứ. Tôi muốn học hỏi tất cả, đọc hết tất cả. Tôi muốn thực hành tất cả, đọc tất cả các bài thỉnh và điều này điều nọ.” Làm như thế cũng phải lẽ thôi, nhưng đó chỉ là một giai đoạn. Mong thay sẽ tới một giai đoạn khác khi con bắt đầu có nhiều trực giác hơn. Thay vì cố bước trên đường tu với tâm vỏ ngoài, con bắt đầu lắng nghe trực giác của mình. Và thay vì cố làm mọi thứ một lượt, con tập trung vào đúng một thứ mà con cần ngay bây giờ, và con không tiếc nuối, con không có cảm tưởng mình bị bắt buộc, hay cảm giác là mình phải làm nhiều hơn. Con chú tâm vào đúng một chuyện, xong con tận dụng nó chừng nào mà con còn cần đến nó, sau đó con lại tìm đến điều kế tiếp sẽ đưa con lên tầng kế tiếp.

Các thày đã cho con rất nhiều thứ vì các thày biết khi con tìm thấy đường tu lần đầu tiên, con thường chưa có một phương hướng nội tâm mạnh mẽ. Con nói: “Tôi có thể làm gì? Hãy cho tôi một việc gì tôi có thể làm.” Đó cũng chính là cảm nhận của sứ giả này khi lần đầu tiên ông tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên. Ông vô cùng háo hức – chúng ta có thể gọi là ám ảnh cưỡng chế – khi đọc chú, học hỏi giáo lý, dọn sang Hoa Kỳ, tu học tất cả những khóa tu kia và vân vân. Một lần nữa, ông cần kinh qua giai đoạn này, nhưng sẽ tới điểm khi ông nhận ra đã tới lúc ông cần tiếp cận một cách khác. Tới lúc ông cần ngưng tập trung vào việc cứu nguy thế giới cho Saint Germain, và thay vào đó, ông tập trung vào việc giải quyết tâm lý của mình. Và điểm đó đã tới khi thay vì để cho tâm vỏ ngoài của ông cuống cuồng muốn làm chuyện này chuyện nọ, ông đã bắt đầu lắng nghe trực giác, và nhờ vậy ông đã bắt đầu nhận được nhiều hướng dẫn hơn từ các thày, cho đến khi ông có khả năng nhận được lời hướng dẫn của Giê-su muốn thực hiện một công việc xuyên qua ông, và tất cả đã dẫn đến việc phụng sự mà ông đã cống hiến.

19.17. Đi từng bước một là đủ rồi

Con cũng có thể đi theo cùng mô thức như vậy. Tất nhiên, tất cả các con sẽ không phụng sự giống nhau, nhưng các con vẫn có thể đi theo tiến trình lắng nghe đó, bước đi từng bước một, tập trung vào từng bước một. Con không thể leo nguyên cái cầu thang bằng cách bước tất cả mọi bực thang cùng một lượt. Con có thể toan nhảy hai ba bước một, nhưng làm vậy sẽ khiến con kiệt sức trước khi con leo đến đỉnh. Con hãy vừa lòng với việc bước đi từng bước. Chẳng có gì sai trái nếu con ở tầng tâm thức 48 và chú tâm tìm cách bước lên tầng 49. Con sẽ luôn luôn ở một tầng nào đó cho tới khi con thăng thiên, và thử thách sẽ luôn luôn là bước lên bực kế tiếp. Đường tu là như thế đó.

Tâm đường thẳng muốn làm đủ mọi trò trống. Các ngã tách biệt của con cứ muốn nói: “Ồ, lẽ ra tôi phải tiến bộ hơn thế này. Đáng lý tôi phải ở một tầng cao hơn hiện nay. Tôi không được ở tầng hiện tại của tôi. Tôi phải cao hơn 10 hay 50 tầng. Tôi phải có khả năng làm tất cả mọi thứ các thày chỉ bảo. Tôi phải biết hết giáo lý.” Tất cả những chuyện này chỉ là tâm vỏ ngoài đó thôi, là những ý nghĩ lăng xăng do các ngã tách biệt sản xuất ra, hay là phóng chiếu của tà lực đang cố khiến con kiệt sức và bị cháy trên đường đạo.

Hãy đứng lui lại. Lắng nghe từ bên trong. Khi tâm vỏ ngoài phóng chiếu tới con: “Bạn phải làm cái này hay bạn phải làm cái kia,” con sẽ phản ứng ra sao? “Tôi buông. Tôi buông. Tôi buông làm chuyện này, tôi buông làm chuyện kia. Tôi buông.” Và con cứ tiếp tục buông hoài cho tới khi con đạt tới trạng thái có khả năng lắng nghe từ bên trong. Rồi một ý tưởng sẽ đến với con: “À, tôi sẽ làm điều này, vì nó không đến từ bên ngoài, nó không đến như một bổn phận tôi phải chu toàn.” Nó chỉ đến như một ý nghĩ về một điều con có thể làm. Không có chút áp lực nào, cho nên con làm theo.

Nhưng đây là một thử thách, một thử thách to lớn để có thể làm vậy trong một thế giới hiện đại quá bận rộn, nơi có quá nhiều thứ níu kéo sự chú ý của con, lôi con về phía này hay phía nọ, nơi có quá nhiều áp lực phải làm cho giỏi, phải làm tốt hơn nữa, phải học hành, phải có giáo dục hay nghề nghiệp, phải kiếm nhiều tiền, phải có ngôi nhà thật lớn. Tất cả những thứ như vậy, đặc biệt tại Hoa kỳ nơi mọi người đều phải cố sánh kịp với ông A bà B, và không một ai bỏ ra một phút để tự hỏi: “Ủa, thế ông A bà B đang cố sánh kịp với ai đây? Liệu người đó có thật không? Có ai đã gặp ông Nặc danh đó bao giờ chưa?”

Con nhận ra ở đây là khi lần đầu con tìm thấy một con đường tâm linh, như thày có nói về sứ giả này, ông đã đương đầu với nó như một thách đố. Cũng giống như chuyện chinh phục một ngọn núi vậy. Đó là một nhiệm vụ phải làm cho được, là một sự nghiệp khi ông bước trên đường tu tâm linh. Đó là một cuộc phấn đấu. Ông cảm thấy ông phải đạt được kết quả tốt. Ông phải làm tròn những mong đợi của chính mình cũng như mong đợi của người khác, mong đợi của một vị sứ giả và mong đợi của các chân sư. Có quá nhiều thứ mà ông phải cố xứng đáng và ông háo hức muốn làm tròn. Nhưng rất may, thay vì bị kiệt lực, ông đã tới điểm bước lui lại và nhận ra nhu cầu tập trung vào tâm lý của mình. Và tất cả các con có thể làm được tương tự.

Đây không phải là một sự nghiệp, không phải là một áp lực, không phải là một chuyện con phải hoàn thành và đạt được. Các thày đã nói gì về những ai sẵn sàng dùng vũ lực? Rằng vũ lực sẽ không đưa con đến đâu trên đường tu tâm linh. Con không thể cưỡng chiếm thiên đàng bằng vũ lực. Con có thể cưỡng chiếm một cái gì mô phỏng thiên đàng, nhưng đó không phải là thiên đàng. Con đừng tự ép mình phải đi trên đường tu. Vũ lực đến từ ngã tách biệt. Hãy nhận diện nó và buông nó ra. Rồi sau đó, làm thế nào con sẽ bước trên đường tu tâm linh khi con không còn tự ép mình chứ? Bằng cách xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Thày cũng biết đây là một khái niệm khó khăn, đặc biệt đối với những ai đã lớn lên trong thế giới Âu tây – xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Nhưng dù sao thì đó vẫn là một điều để con quán chiếu cùng với các lời dạy mà các thày đã trao và sẽ trao.

19.18. Cho phép mình xuôi chảy

Câu trong Kinh thánh nói gì chứ? “Tốt lắm, hỡi người đày tớ trung tín. Con đã từng trung tín trong một ít việc. Ta sẽ giao cho con trọng trách của nhiều việc.” Một lần nữa, đây là chuyện nhân lên các ta-lăng, nhân lên vốn liếng tâm linh. Con đã nhân lên các ta-lăng mà các thày đã giao cho con. Con đã tinh tiến. Hãy nhìn nhận điều đó. Đứng lui lại. Hãy nhìn xem con đã tiếp cận con đường tâm linh như thế nào cho tới giờ, rồi hãy quyết định buông bỏ cách đó, và nhìn xem những gì đến với con từ nội tâm.

Con có thể nghĩ sứ giả này có một số khả năng hay chứng đạt đặc biệt và đó là lý do ông làm sứ giả. Chắc chắn người ta đã phóng chiếu ý tưởng này trong các tổ chức chân sư thăng thiên trước đây khi vị sứ giả được xem là vô cùng đặc biệt. Nhưng tại sao sứ giả này lại là sứ giả chứ? Tại sao ông lại trở thành sứ giả? Tại sao ông vẫn là sứ giả 20 năm sau? Bởi vì ông đã sẵn lòng buông bỏ hết lần này đến lần khác. Ông đã sẵn lòng buông ra bất kỳ dính mắc nào về giáo lý cũng như về việc làm sứ giả. Tới một điểm thì cách duy nhất để tiến bước trên đường tu tâm linh không phải là bằng vũ lực hay bằng nỗ lực, không phải là qua trung gian tâm vỏ ngoài, mà cách duy nhất để tiến tới là buông ra, là từ bỏ, là cho phép chính mình xuôi chảy với dòng chảy.

Với lời này, thày đã cho con những gì thày muốn cho con, và thày chỉ có thể bày tỏ lòng biết ơn của tất cả các chân sư đối với sự tham gia của con trong hội nghị này cũng như việc con sẽ sử dụng các lời dạy. Thày niêm hội nghị này trong ngọn lửa vui mừng của Hòa bình Hoàn vũ của đức Phật mà TA LÀ. Hãy an bình. An bình. Tĩnh lặng.

31 | Bất cứ gì cứ việc xảy ra!

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 3/10/2021, nhân dịp Webinar 2021 cho Hàn quốc – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Giê-su vừa nói đến sự kiện có quá nhiều tín đồ đạo Cơ đốc không thấy được mối liên hệ nào giữa Giê-su và công nghệ hiện đại. Chắc chắn một điều tương tự cũng có thể nói về rất nhiều Phật tử không thấy mối liên hệ nào giữa sự thị hiện rất “phi công nghệ” của thày cách đây 2500 năm và một xã hội phương Tây hiện đại thời nay với một nền công nghệ rất cao. Nhưng thày đang giữ một trách vụ tâm linh cho hành tinh này, là Chủ tể của Thế giới. Vậy chức năng của trách vụ này là gì?

31.1. Nạn nghèo đói và ý thức hệ

Hiển nhiên, đó là nâng cao tâm thức loài người, và thày hỗ trợ hoàn toàn mục tiêu xóa nghèo. Và tất nhiên thày biết rõ, như các thày Saint Germain và Giê-su đã có trình bày, để cho điều này xảy ra, để mức sống vật chất của con người được nâng lên, chúng ta cần đến những hình thức công nghệ mới, bởi vì vấn đề này chỉ có một giải pháp công nghệ.

Chắc con cũng nhận thấy khi thày thị hiện 2500 năm về trước, toàn bộ dân số trên địa cầu rất, rất ít so với ngày nay. Do đó hầu hết mọi người vào thời đó, ít ra trong khu vực thày thị hiện, có một mức sống tương đối thoải mái dựa trên một xã hội nông nghiệp. Con có thể thấy trên thế giới đã có những thời kỳ xã hội nông nghiệp khi cuộc sống con người tuy không mấy sung túc, nhưng người ta cũng không đến nỗi chết đói, không đến nỗi phải lo lắng bữa cơm tới của mình sẽ đến từ đâu. Cái giá mà họ phải trả, dĩ nhiên, là họ phải bỏ ra phần lớn thời gian làm lụng để duy trì một mức sống vật lý, một đời sống vật lý nào đó.

Rõ ràng là trong những xã hội này, cách duy nhất để con người có thể tập trung vào việc tăng triển tâm linh là rút về một tu viện hay một chỗ ẩn cư nơi họ không phải bỏ ra toàn bộ thời gian lo việc nuôi thân. Đây là một mô thức khá thực tế cho thời đó, nhưng kể từ đó tất nhiên với sự gia tăng dân số mạnh mẽ trên địa cầu, con gặp phải tình trạng một xã hội nông nghiệp không còn khả năng cung ứng mức sống tốt đẹp cho số đông được nữa. Và cũng vậy, xã hội vật chất hay công nghệ cũng không có khả năng cung ứng mức sống đó. Tuy vậy, phải nói là nếu các nguồn tài nguyên sẵn có được phân phối đồng đều hơn, thì nạn nghèo đói, ít ra là trong những dạng cùng cực nhất, chắc chắn có thể được giảm thiểu đáng kể.

Như luôn luôn, vấn đề không chỉ là công nghệ, mà vấn đề là tư duy, là ý thức hệ, và đặc biệt là ý thức hệ đã khoác vào nhiều dạng cụ thể, và tất cả những dạng này đều hỗ trợ cho sự hiện hữu của một lớp thiểu số thượng tôn với mức sống khác hẳn mức sống của quần chúng rộng lớn. Con có cái mà thày gọi là những ý thức hệ thường tình phổ quát, vượt ra khỏi các dạng hệ tư tưởng và chủ nghĩa ưu tú đặc thù hơn. Và sự phân chia xã hội thành những tập đoàn hay giai cấp tách biệt chính là một trong những ý thức hệ tiềm ẩn đó. Tất nhiên, đây phần nào là vấn đề mà thày đã cố giúp xã hội và dân chúng thời đó vượt lên khỏi. Con sẽ thấy là khi thày bước chân trên địa cầu, xã hội thời đó là một xã hội nông nghiệp bị Ấn giáo chi phối, và Ấn giáo chủ trương phân chia con người thành bốn giai cấp thật rõ ràng, và ngay cả ngày nay con vẫn thấy hệ thống giai cấp này được Ấn giáo tiếp nối và hỗ trợ. Đương nhiên, điều thày đã cố làm là thành lập một tôn giáo không chấp nhận, hay không dựa trên một sự phân chia con người như thế.   

Khi con nhìn đạo Phật, con thấy là tất nhiên, tâm thức phân rẽ đã len lỏi vào được trong đó, cho nên mới có sự phân biệt giữa người đạo Phật và người không đạo Phật, người thuộc môn phái này hay biến thể nọ của đạo Phật. Một số tự xem mình là cao trội và các môn phái khác là thua kém, vân vân. Và lại có cả những người xem giai cấp tu sĩ đạo Phật phần nào đứng cao hơn quần chúng, nhưng ngay cả quần chúng thì vẫn cao hơn những kẻ chưa sẵn sàng nhận được bất kỳ giáo lý tâm linh nào. Một lần nữa, con tìm thấy những phân chia như vậy trong xã hội, và đó tất nhiên là điều mà thày đã cố giúp con người vượt qua bằng cách khắc phục tâm thức nhị nguyên.

31.2. Vấn đề kiểm soát

Bởi vì dĩ nhiên, chính tâm thức nhị nguyên là nền tảng và cũng là phương pháp mà cách phân chia như thế được tạo ra. Ở đây thày muốn giảng cho con một số điều tiếp nối những gì các thày đã trao cho con trước đây, nhưng đi xa hơn một chút. Con có thể xem một số lời dạy của các thày về sa nhân, là những kẻ đã thực sự đưa hành tinh địa cầu vào vòng xoáy đi xuống khi họ đem đến đây một cách hiểu cực đoan hơn về nhị nguyên. Các thày có nói là các xã hội trên địa cầu đã rơi vào nhị nguyên trước đây nhưng không đến nỗi những hình thức hung bạo của nhị nguyên, vì đây chính là điều sa nhân đã đem đến đây. Các thày có nói là các sa nhân hình thành một nhóm thượng tôn quyền lực khi họ đầu thai, và họ lập ra nhiều nhóm khác nhau ở các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc. Các thày cũng có nói là mục đích của họ là nắm quyền kiểm soát địa cầu, kiểm soát loài người trên địa cầu, trong âm mưu rộng lớn hơn là chứng minh Thượng đế sai lầm.

Điều thày muốn bàn đến ở đây là chủ đề kiềm soát. Có vẻ như trên địa cầu có một số xã hội bị kiểm soát gần như hoàn toàn bởi một thiểu số thượng tôn. Đó có thể là chế độ độc tài, như các nước cộng sản chẳng hạn, Liên xô dưới Stalin, Đức dưới Hitler, Trung quốc dưới Mao và nhiều ví dụ khác nữa. Bắc Hàn dưới chế độ hiện thời cũng vậy. Dựa trên đó, con có thể nghĩ là sa nhân có khả năng áp đặt một độ kiểm soát rất cao trên các xã hội. Có người cho rằng sa nhân cũng kiểm soát chặt chẽ một số xã hội đã trở thành dân chủ và các xã hội này thực sự là những chế độ độc tài, nhưng thực tế là ngay cả ở một nước nghiêm ngặt như Liên xô, sa nhân cũng không nắm được kiểm soát toàn diện.

Họ chưa bao giờ toàn quyền kiểm soát được địa cầu, và họ sẽ không bao giờ làm được chuyện đó; tại sao vậy? Bởi vì sa nhân là những nạn nhân của chính tâm lý của họ. Các thày nói sa nhân đã làm gì? Họ đã rơi xuống tâm thức nhị nguyên, họ đã hoàn toàn bị bao trùm, bị khống chế, bị đui mù, bị giam hãm, bị đồng hóa với tâm thức nhị nguyên. Nhưng điều gì xảy ra trong tâm thức nhị nguyên chứ?

Trong tâm thức đó, con lấy toàn bộ chiều rộng của nhận thức con người, xong con tập trung vào một lãnh vực nhất định và con nâng nó lên vị thế tuyệt đối của một chân lý – như một ý thức hệ siêu đẳng, một tôn giáo siêu đẳng hay bất cứ gì khác. Và con dùng cái đó để bảo, đây là chuẩn mực để đánh giá mọi thứ là đúng hay sai, tốt hay xấu. Và con có thể nghĩ là những kẻ đã chiếm đặc quyền định nghĩa vấn đề là gì thì họ đã nắm được quyền kiểm soát, vì một khi họ kiểm soát được chuẩn mực để đo lường mọi thứ thì họ phải kiểm soát được sự suy nghĩ của mọi người.

Tuy nhiên trong nhị nguyên, con không bao giờ có thể kiểm soát hoàn toàn, vì lý do giản dị là khi con lấy ra một đơn vị khỏi tổng thể và nâng nó lên vị thế cao trội, con bắt buộc sẽ tạo ra một sự mất cân bằng cơ bản. Các thày đã có nói về định luật thứ hai của nhiệt động học sẽ đưa mọi vật trở về trạng thái năng lượng thấp nhất có thể, nhưng các thày cũng có thể bảo đó thực sự chỉ là sự minh hoạ của định luật cân bằng của vũ trụ. Không phải là luật cân bằng, hay ngay cả định luật thứ hai của nhiệt động học, cố đưa mọi thứ vào một trạng thái không phân biệt, mà quy luật vũ trụ được thiết lập để đảm bảo mọi thứ tăng trưởng đến những trạng thái ngày càng cao hơn, nhưng là một sự tăng trưởng bền vững, liên tục và tuần tự.

Điều con làm trong nhị nguyên là con tách mình ra khỏi sự tăng trưởng vững bền liên tục đó, và con tạo ra một trạng thái mất cân bằng khi thay vì tăng trưởng tổng thể, con lại muốn sự tăng trưởng cục bộ của một ý thức hệ, của một nhóm người đặc thù hay một tầng lớp thượng lưu, và điều này chỉ có thể xảy ra bằng cách tước đi một cái gì đó từ tổng thể. Nói cách khác, một nhóm ít người tước đoạt một cái gì đó từ tổng thể, và chính điều này vi phạm quy luật cân bằng của vũ trụ, vì khi tổng thể mất cân bằng thì quy luật vũ trụ sẽ kéo nó trở về cân bằng.

Luôn luôn sẽ có một đối cực kéo bất kỳ sự mất cân bằng nào trở về trạng thái cân bằng. Đây là điều các thày đã mô tả là một đặc tính của nhị nguyên, nghĩa là khi con tạo ra một đối cực nhị nguyên, đồng thời con cũng tạo một đối cực nhị nguyên trái ngược. Đây là điểm mà triết gia Hegel đã mô tả là phép biện chứng, nghĩa là khi một tư tưởng hay một lý thuyết trở thành luận đề tạo ra phản đề, thì sẽ có một cuộc đấu tranh giữa hai lực, dẫn đến kết quả một trạng thái mới gọi là tổng hợp, tuy nhiên chính tổng hợp này lại trở thành luận đề kế tiếp tạo ra một phản đề mới nữa, rồi lại có một cuộc đấu tranh, vân vân và vân vân cho đến vô tận. Hegel tin đó là cách thức tiến bộ xảy ra và là cách duy nhất tiến bộ có thể xảy ra. Đó là sự giới hạn trong cái nhìn của Hegel.

Thật ra đó chỉ là cách vận hành trong một trạng thái mất cân bằng, bởi vì khi con có cân bằng thì con vẫn tăng trưởng nhưng không có đấu tranh, không có đối nghịch, không có căng thẳng giữa hai cực. Tất cả những gì xảy ra trong một trạng thái cân bằng trên một hành tinh tự nhiên đều nhắm vào việc nâng cao tổng thể. Chỉ khi con tìm cách nâng cao một thành phần của tổng thể qua việc hạ thấp phần còn lại của tổng thể, thì con mới có mất cân bằng, mới có đối nghịch và đấu tranh biện chứng. Điều mà Hegel và Marx đã làm là nhìn vào một trạng thái mất cân bằng xuất hiện trên địa cầu, rồi cố dùng nó để tạo ra một xã hội lý tưởng hơn không còn xung đột mâu thuẫn. Hiển nhiên chuyện này không bao giờ có thể làm được, vì một dạng mất cân bằng không thể dẫn đến hài hòa và trọn vẹn, mà chỉ dẫn đến một dạng mất cân bằng khác mà thôi.

Tại sao thày nói là sa nhân không nắm quyền kiểm soát? Bởi vì mỗi khi họ lấy một tư tưởng, một nhóm người hay một tôn giáo và nâng lên vị thế cao trội, họ cũng tạo ra một đối nghịch. Nghĩa là họ sẽ không bao giờ có thể đạt đến trạng thái mà họ mơ ước, một quyền kiểm soát vĩnh viễn không thể nào bị đe dọa. Luôn luôn sẽ có một sự đối lập, hay đe doạ, cho quyền kiểm soát của họ. Tất nhiên, điều này họ không thể nào chịu được, cho nên họ bắt buộc phải tìm cách tiêu diệt đối lập. Đó là vì sao con thấy tất cả những ý thức hệ loại đó luôn luôn chứa đựng ý tưởng là có phải và trái, có đúng và sai. Có những người theo phe đúng, có những người theo phe sai, và những ai theo phe đúng phải tiêu diệt những ai theo phe sai. Vì thế mới có đấu tranh liên tục. Đây là một đặc tính được cài sẵn trong nhị nguyên.

31.3. Không có an bình trong phản ứng  

Nhưng bây giờ con hãy nhìn vào tâm lý của sa nhân. Chuyện gì xảy ra trong tâm lý của một sa nhân? Như các chân sư khác đã nói, khi con là avatar mới đến địa cầu, con đã phải nhận chịu một chấn thương gọi là chấn thương nhập đời. Còn sa nhân thì sao? Nơi bầu cõi họ bị sa ngã, khi họ phải đối mặt với các chân sư thăng thiên, đối mặt với sự thật là có một quyền uy lớn hơn quyền năng của họ, thì họ cũng nhận chịu một chấn thương hay họ tạo ra một chấn thương, như kỳ thực chính con cũng từng làm vậy.

Kể từ đó trở đi, sa nhân đã luôn tìm cách bù đắp cho chấn thương mà cảm giác mất mát đó gây ra. Họ đã toan giành kiểm soát hầu tìm cầu một tâm trạng bình an, không bị phân rẽ, không bị tổn thương và đau đớn bởi chấn thương. Nhưng tất nhiên, điều này họ không thể làm được vì họ cố làm qua trung gian tâm thức nhị nguyên, mà nhị nguyên thì bắt buộc phải tạo ra đối nghịch. Luôn luôn phải có một cặp đối nghịch. Vậy có nghĩa là gì?

Có nghĩa là một sa nhân, một sa nhân nào đó, sẽ bắt đầu tìm cách nâng cao, chẳng hạn, một tôn giáo nào đó thành tôn giáo siêu đẳng. Y sẽ tin là nếu y có thể tạo ra một tình trạng trên địa cầu nơi ai ai cũng đi theo tôn giáo đó và không có ai thách thức, không có ai chống đối, thì hẳn là y sẽ vô cùng yên trí. Y sẽ nắm quyền kiểm soát. Và y cảm thấy là y nắm toàn quyền, vì đó là cách duy nhất mà một sa nhân có thể mường tượng sự yên trí. Không hẳn là sa nhân tìm cầu sự yên trí, mà y tìm kiếm một thế cân bằng nào đó nơi y có thể cảm thấy mình làm chủ tình hình, và cách duy nhất y có thể nghĩ ra là nắm quyền lực mà không có ai thách đố. Nhưng cho dù sa nhân có phấn đấu đến đâu, y cũng sẽ không bao giờ đạt được trạng thái tâm lý nơi y cảm thấy mình làm chủ và mình nắm quyền lực tuyệt đối.

Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là, như các thày đã có nói, tâm lý của một sa nhân thật sự là định nghĩa chính xác nhất về chứng rối loạn đa nhân cách (split personality disorder), chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (obsessive compulsive disorder). Một sa nhân có vẻ như kiểm soát được tình hình, chẳng hạn như Stalin – nếu nói về sự kiểm soát trong cõi vật lý thì Stalin hoàn toàn kiểm soát Liên xô vì ông muốn gì thì người ta răm rắp làm theo. Nhưng nhìn vào tâm lý của Stalin, con sẽ thấy ông hoàn toàn không kiểm soát được trạng thái tâm ông, vì ông luôn luôn cảm thấy mình bị đe dọa, luôn luôn sợ hãi, luôn luôn tìm cách triệt hạ mọi tiềm năng đe dọa bằng cách sát hại ngay cả những cộng tác viên thân cận nhất của mình. Mao, Hitler cũng tương tự như thế. Điều con thấy ở đây là sa nhân bị mắc kẹt trong nhu cầu ám ảnh cưỡng chế đó, luôn tìm cách tạo ra một trạng thái – có thể nói là – yên tâm, hay ít ra không bị đe dọa, nhưng y lại làm vậy bằng cách tiêu diệt một cái gì khác.

Hiển nhiên, không một sự an bình hay một thế cân bằng nào có thể đạt được qua hủy diệt, nhưng sa nhân sẽ không bao giờ nhìn ra được chuyện này từ tâm thức nhị nguyên. Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói là sa nhân có vẻ như kiểm soát được ngoại cảnh, nhưng trong nội tâm, sa nhân không ngừng phản ứng, và tất nhiên, khi con phản ứng lại những hoàn cảnh vượt quá tầm kiểm soát của mình, làm sao con có thể giữ được kiểm soát? Không thể nào được. Sa nhân không bao giờ kiểm soát được chính tâm lý của mình. Họ luôn luôn phản ứng lại những mối đe dọa, cho dù là thực hay là tưởng tượng.

Khi thày nói “thực”, tất nhiên là thày dùng dấu ngoặc kép, mặc dù con có thể bảo là có một số đe dọa hiện hữu trong cõi vật lý, và có một số đe dọa khác thì do sa nhân bịa đặt trong tâm. Kỳ thực, khi con trong tư cách là một học trò tâm linh nhận ra điều này, đương nhiên con sẽ nhận ra là về mặt cơ bản, tâm lý của sa nhân cũng không khác gì tâm lý của con người. Sa nhân chỉ cực đoan hơn mà thôi. Con là một học trò tâm linh, chừng nào con còn mang chấn thương nhập đời thì con cũng sẽ ở trong tâm trạng phản ứng lại những sự kiện có vẻ vượt khỏi tầm kiểm soát của con, và con cũng làm vậy để tạo ra một cảm giác cân bằng, an tâm, yên trí nào đó.

31.4. Con đường nội tâm đến an bình

Khi con nhận ra điều này, con cũng nhận ra đây là một tâm thức vô cùng xưa cũ trên hành tinh địa cầu, một động lượng đã có từ rất lâu, thậm chí một con quái vật tập thể luôn khiến con người tạo dựng một cảm giác an tâm qua nhiều phương cách. Một phương cách, chẳng hạn, trong cõi vật lý là xây thành lũy kiên cố với tường dày đến độ không một kẻ thù nào có thể đâm thủng, rồi con tích trữ lương thực để cố thủ trong đó thật lâu, chẳng khác gì cách phản ứng sợ hãi của những kẻ gọi là lãnh đạo xã hội thời trung cổ. Hay con cũng có thể dùng nhiều phương cách khác, qua khoa học, qua công nghệ, hay con mua bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ hay bất kỳ loại bảo hiểm nào con có thể nghĩ ra. Hay con cũng có thể tích trữ nhiều tiền bạc đến độ con nghĩ mình có thể tung tiền mà thoát khỏi mọi khó khăn. Nhưng phương cách của con cũng có thể là tôn giáo hay giáo lý tâm linh. Con thấy Giê-su đã nói gì về những tín đồ Cơ đốc chui vào một trạng thái mà họ tưởng là cân bằng do họ tin chắc là họ sẽ được cứu rỗi khi Giê-su tái lâm, và họ tin chắc là họ chỉ cần tiếp tục sống cuộc đời thoải mái và có lẽ đóng góp một chút tiền bạc cho từ thiện.

Con thấy trong đạo Phật có bao nhiêu người, ngay cả những Phật tử sống trong tu viện, cũng đã tạo ra một trạng thái tương tự như thế, có vẻ rất cân bằng và yên ổn vì họ cho là mình chỉ cần tiếp tục sống cuộc đời tu hành, tuân thủ mọi yêu cầu tụng niệm, cầu nguyện, tu tập, thiền định và điều này điều nọ. Nói cách khác, đây là con đường vỏ ngoài, con đường tự động mà qua đó con nghĩ con có thể đắc đạo hay nhập niết bàn mà không cần xem xét đến tâm thức của mình và chuyển đổi tâm thức.

Tất nhiên như các thày đã nói nhiều lần, có những học trò tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên cũng đã cố làm y như thế với giáo lý của chân sư, và hiển nhiên đó là chuyện khả thi. Chuyện này dễ hơn trong những đợt truyền pháp trước, khó hơn hẳn trong đợt truyền pháp này, vì lần này – lần đầu tiên ít ra là trong lịch sử được ghi chép – các thày đã cố gắng làm tất cả những gì có thể làm để phơi bày các cơ chế tâm lý, hầu con chỉ có thể ở lại với giáo lý trong khi xây đắp một cảm giác yên ổn, bằng cách con bỏ qua hay phủ nhận một phần đáng kể của giáo lý. Nếu con là người cởi mở, tất nhiên con nhận ra là con không thể là một cánh cửa mở hoàn toàn nếu con dùng giáo lý theo cách đó. Con cần bước vào một trạng thái – và đa số các con đã bước vào rồi – nơi mình sẵn lòng xem xét tâm lý của mình một cách liên tục, sẵn lòng giải quyết những gì cần giải quyết, rồi vươn lên cao hơn hầu thực sự trở thành một cánh cửa mở.

Tất nhiên, điều con cũng gặt hái được qua cách này là một trạng thái an bình chân thực hơn. Các thày có nói là luôn luôn sẽ có những ảo tưởng mà con cần vượt qua cho tới khi con thăng thiên, nhưng các thày cũng có nói là điều này không có nghĩa là con phải sống hết kiếp này trong một tâm trạng thiếu sót, cảm thấy như mình luôn luôn bất cập, khiếm khuyết, như luôn luôn có điều gì mình chưa làm hay cần phải làm. Điểm mà con cần thực sự đạt đến là sự chấp nhận. Con chấp nhận chính mình như một học trò sẵn lòng bước đi trên đường tu, luôn luôn tìm xem mình có cần nhìn ra điều gì trong tâm mình, trong tâm lý mình. Một khi con vượt qua được điểm đó, là điểm mà các thày gọi là điểm kháng cự không muốn nhìn vào tâm lý mình, thì con sẽ có được một cảm giác an bình nội tâm nào đó, vì không có điều gì trong tâm mà con sợ nhìn vào, không có gì trong tâm lý của con mà con không thể khắc phục, không có gì trong thế gian mà con cần sợ hãi.

31.5. Điều kiện ngoại cảnh có mục đích gì

Tại sao con người lại sợ ngoại cảnh? Họ có nhiều lý do. Họ nói, tôi sợ đau ốm, tôi sợ đau đớn, tôi sợ này sợ nọ. Phải, điều này có thể thông cảm được. Nhưng dù sao đi nữa, tại sao họ lại sợ một điều kiện bên ngoài chưa thị hiện? Bởi vì họ sợ nó sẽ tác đông đến tâm lý của họ như thế nào. Như các thày đã có trình bày, không phải là điều kiện vỏ ngoài khiến con đau đớn. Nỗi đau hiện hữu trong tâm con. Ngay cả đau đớn thể xác cũng hiện hữu trong tâm con, hay ít nhất nó khơi ra một phản ứng trong tâm con. Đó là điều khiến nó không chịu đựng nổi. Kỳ thực con luôn luôn lo sợ phản ứng của con đối với một điều kiện bên ngoài thay vì chính điều kiện đó. Nhưng nếu con biết là con có thể khắc phục phản ứng đó bằng cách nhìn vào phản ứng cũng như ngã tách biệt đằng sau nó, thì tại sao con lại cần lo sợ phản ứng? Và nếu con không lo sợ phản ứng thì tại sao con lại cần sợ điều kiện đó?

Thật sự, điều một số các con đã bắt đầu sẵn sàng nhìn nhận là con không có lý do gì để sợ hãi bất cứ điều kiện nào trên địa cầu. Phần nào đây cũng là điều Giê-su đã chứng tỏ khi thày chấp nhận để mình bị đóng đinh trên thập tự giá. Con có thể nói là nếu việc bị đóng đinh và chịu đựng nỗi đau đớn tạm thời đó đã giúp cho thày đủ tư cách thăng thiên, thì liệu việc trải qua nỗi đau nhất thời đó chẳng đáng lắm hay sao? Con thử nhìn xem Giê-su sau khi thày thăng thiên và thày có thể nhìn lại những giờ phút đau đớn đó, nhưng chuyện đó còn hề chi nữa? Trong trạng thái thăng thiên, bất cứ gì đã xảy ra trên địa cầu có còn quan trọng gì nữa không?

Các thày đã nói gì về mục đích thực sự của địa cầu, của trải nghiệm của con trên địa cầu? Đó là để nâng cao tâm thức. Một phần công việc nâng cao tâm thức là con phải vượt qua một cái gì đó nơi bản thân con – những cái ngã tách biệt hay bất cứ gì khác. Và để vượt qua cái đó, con phải nhìn thấy nó. Và để nhìn thấy nó, chuyện gì cần xảy ra? Phải, đôi khi con có thể nhìn thấy nó qua một tiến trinh nội tâm. Nhưng có những thứ mà con không thể nhìn thấy, hoặc ít ra con sẽ nhìn thấy nhanh chóng hơn nếu nó được các điều kiện ngoại cảnh kích hoạt cho hiển lộ ra.

Đâu là mục đích của bất kỳ trải nghiệm nào mà con có thể có trên địa cầu? Đó là để làm hiện lộ trong nội tâm của con một số điều kiện đang hạn chế con – đó chính là tại sao con mới có một phản ứng khó chịu – hầu con có thể nhìn thấy điều kiện đó, giải quyết nó và được giải thoát khỏi nó. Và một khi con đã giải thoát khỏi điều kiện đó trong chính con, thì điều kiện bên ngoài hoàn toàn vô can, không dính dáng gì đến con nữa. Nếu con không có phản ứng tiêu cực nào đối với điều kiện, thì nó có quan trọng gì nữa không? Nó không kìm hãm được sự tăng trưởng tâm linh của con.

Một khi con bắt đầu suy ngẫm điều này, con có khả năng đạt đến một điểm khi con xoay chuyển một cách ý thức, và con nói: “Tại sao tôi lại sợ tất cả những điều kiện đó có thể xảy đến? Tại sao tôi lại cần sợ tất cả những điều kiện đó? Bất cứ gì xảy ra cũng sẽ tạo ra phản ứng. Khi tôi nhìn thấy phản ứng, đó là cơ hội cho tôi tìm kiếm những ảo tưởng, những ngã tách biệt đã gây ra ảo tưởng, hóa giải những ảo tưởng đó, để cho ngã tách biệt chết đi, và khi đó tôi được tự do. Tại sao tôi lại sợ những chuyện xảy ra cho mình khi thật sự chúng sẽ giúp mình đạt được giải thoát tối hậu và thăng thiên? Tại sao tôi cần phải sợ bất cứ điều kiện nào? Liệu tôi có thể nói, “Chuyện gì xảy ra cũng được! Bất cứ gì cứ việc xảy ra!”?

31.6. Hết sợ hãi

Một lúc nào đó con hãy thử ngồi xuống trong một khung cảnh yên lắng, nhắm mắt lại, tập trung vào trái tim rồi nói: “Bất cứ gì cứ việc xảy ra.” Xong con dõi nhìn xem phản ứng đến từ bên ngoài tim con, đặc biệt từ những luân xa bên dưới, từ cảm thể của con. Con nhìn xem con có phản ứng thế nào. Thử theo dõi phản ứng. Thử nhìn xem con có nhận diện được một ngã tách biệt nào hay không. Nhìn xem cái tin tưởng đứng đằng sau nó. Con đang thực sự sợ hãi điều gì? Tại sao con lại nghĩ, đây là một chuyện khủng khiếp mình cần phải tránh? Cái gì ở trong điều kiện đó mà con thực sự sợ hãi, và con sẽ thấy đó là phản ứng bên trong con, nhưng một phản ứng bên trong thì con có khả năng ảnh hưởng. Con có thể bó tay không làm gì được đối với điều kiện bên ngoài, nhưng con có thể làm gì đó với phản ứng của con. Không phải đây chính là cốt lõi lời dạy của các thày hay sao?

Tại sao con thực sự sợ nó? Tại sao con nghĩ là con cần sợ nó? Điều này sẽ lần hồi dẫn con – đồng ý, tất cả các con sẽ cần thời gian để đạt tới đó – nhưng nó sẽ dẫn con đến một điểm khi con có thể nói: “Ừ nhỉ, bất cứ gì mà tôi gặp trên địa cầu chỉ là một thử nghiệm. Nó không có gì thực, theo nghĩa là nó không có quyền năng gì trên tôi để có thể quy định được tôi.” Và khi con có thể nhìn mọi chuyện xảy ra cho mình chỉ là thêm một thử nghiệm trong số muôn vàn thử nghiệm khác, thì con sẽ có khả năng vượt qua nỗi sợ hãi mà biết bao người gán ghép cho tương lai, là nỗi sợ những chuyện có thể xảy ra.

Khi thày hiện thân trên địa cầu, trong sáu năm trời thày đã sống trong rừng, thày đã ngồi đó và bỏ đói thân mình, thày đã đối mặt với đủ loại điều kiện trong thể xác. Qua đó thày đã học được điều này, rằng không một điều kiện nào của thể xác có quyền lực đối với tâm mình trừ khi thày cho nó quyền lực. Qua đó thày đạt được một sự thản nhiên nào đó đối với thân xác mình và những gì có thể xảy ra cho thân xác, và hơn thế nữa, đối với những gì có thể xảy đến cho thày trong cõi vật lý. Trong phần còn lại của cuộc đời phụng sự, chắc chắn là sau khi thày trở về giảng dạy, thày không có sợ hãi nào về tương lai. Con có thể nói: “Nhưng chuyện đó quá dễ, thày đã có một cuộc đời quá dễ dàng.” Đúng, nhưng thày vẫn đang là người đầu thai giữa tâm thức tập thể của loài người, và tâm thức này luôn luôn tác động lên thày y như mọi người khác. Chỉ vì thày không phản ứng lại lũ quỷ của Mara mà thày mới thoát ra được thôi.

31.7. Giải phóng khỏi ngoại cảnh

Cho dù chuyện gì có xảy ra trong điều kiện bên ngoài, con vẫn mang sẵn tiềm năng thoát ra khỏi phản ứng của mình, và do đó, con không thể bị quỷ Mara cám dỗ. Điều gì gây ra phản ứng chứ? Tại sao con lại phản ứng tiêu cực trong một số hoàn cảnh mà không phản ứng tiêu cực trong một số hoàn cảnh khác? Đó là vì trong tâm con có một cái chuẩn bảo rằng: “Chuyện này phải xảy ra cho tôi, chuyện kia không được xảy ra cho tôi.”

Khi có điều gì xảy ra nằm trong danh mục “những chuyện phải xảy ra”, con có một cảm giác tích cực. Con có một phản ứng tích cực. Nhưng khi có điều gì xảy ra nằm trong danh mục “không được xảy ra”, con rơi vào phản ứng tiêu cực, và con cho đó là cách phản ứng duy nhất. Nhưng tại sao đó là cách duy nhất? Đó chỉ là cách duy nhất trong tâm thức nhị nguyên mà thôi, nơi con có một tiêu chuẩn và một phán xét giá trị. Nhưng khi con giải thoát khỏi nhị nguyên, nó sẽ phai nhạt đi. Tại sao lại có hoàn cảnh tích cực và hoàn cảnh tiêu cực? Tại sao một cái dẫn đến phản ứng hân hoan mất cân bằng, còn cái kia dẫn đến phản ứng tiêu cực cũng mất cân bằng? Tại sao có bất cứ gì con cần phải tránh né? Cho dù chuyện gì có xảy ra thì đó là một trải nghiệm, và bất kỳ chuyện gì xảy ra trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng là điều thích hợp để phơi bày ra một điểm nào đó trong tâm lý của con mà con chưa nhìn thấy. Vậy không tích cực lắm hay sao?

Có thể con sẽ nói: “Nhưng vẫn có những trải nghiệm trên địa cầu mà con không muốn có.” Điều này có thể hiểu được. Nhưng có một sự khác biệt giữa (1) sợ hãi và muốn tránh né một cái gì đó, và (2) quyết định là mình thật sự không muốn có trải nghiệm đó. Khi con làm điều thứ hai, con sẵn sàng nói: “À, vậy thì tôi cần làm gì để tránh loại trải nghiệm này? Tôi cần tim xem trong tâm lý mình có điều gì sẽ được đưa ra ánh sáng bởi trải nghiệm này, rồi tôi cần giải hóa điều kiện tâm lý đó hầu tôi không cần phải trải nghiệm điều kiện bên ngoài.”

Không có sự trừng phạt ở đây. Không có cưỡng ép, theo nghĩa là mọi chuyện xảy ra là để giải quyết vấn đề tâm lý. Mà nếu con giải quyết được tâm lý thì con không cần phải có sự cố bên ngoài xảy ra cho con. Trừ khi con làm vậy để chịu một gánh nặng nào đó cho người khác – luôn luôn có ngoại lệ cho mọi quy luật – nhưng đối với đa số các con, nếu con giải quyết được điều kiện tâm lý thì con sẽ không cần trải nghiệm điều kiện bên ngoài. Giản dị như vậy thôi.

Dựa trên đó, con thấy được là đối với số đông các con đã thực hành lời dạy này trong một thời gian, việc đạt được trạng thái cân bằng, an bình đó là một điều khả thi và thực tế. Nhưng nó không dựa trên sự phủ nhận. Thày có nói là nhiều Phật tử có được một cảm giác cân bằng, nhiều tín đồ Cơ đốc cũng có được cảm giác cân bằng, nhưng đó là vì họ phủ nhận một điều gì đó trong tâm lý họ. Họ làm ngơ. Họ từ chối nhìn vào, và do đó họ mang ảo giác yên tĩnh mà không thực sự an bình. Nhưng con có khả năng áp dụng các lời dạy của các thày để đạt được trạng thái đó nơi tâm – là khi những chuyện ngoại cảnh không làm phiền con, con không phản ứng, con có thể nhìn quỷ Mara diễn hành trước mặt mình mà không phản ứng. Có nghĩa là khi đó con đạt được tự do tư duy để thực sự tự vấn: “Tôi thực sự muốn những loại trải nghiệm nào cho phần còn lại của kiếp này?” Và nhiều người trong số các con sẽ có khả năng xoay chuyển và nhận ra: “Chính những gì đang xảy ra là những trải nghiệm mà tôi muốn có, bởi vì trải nghiệm này nằm gọn trong tiến trình tăng trưởng của tôi. Đây là mong muốn mà tôi có, và bằng cách kinh qua và trải nghiệm nó, tôi có thể tự giải phóng mình khỏi mong muốn đó.”

Nhiều người trong các con sẽ thấy mình đạt tới điểm này khi mình tự dưng biết rõ là đã đến lúc mình cần thay đổi cuộc sống, cho dù đó là gì trong hoàn cảnh vỏ ngoài của con. Con có thể thực hiện thay đổi đó và con có thể có một trải nghiệm khác xa những gì con đã sống qua trước đây. Và trải nghiệm này là một phần của tiến trình tăng trưởng của con. Nó cũng có thể là một phần của món quà mà con muốn mang lại qua Sứ vụ Thiêng liêng của con.

31.8. Ngoại cảnh tự nhiên thay đổi

Một số các con có thể tự hỏi: “Tôi muốn loại trải nghiệm nào? Chẳng hạn tôi muốn trải nghiệm việc bày tỏ một ý tưởng nào đó.” Nhưng để làm điều này, con cần một số thay đổi, rồi con phải thực hiện những thay đổi này. Thày sẽ không nói chi tiết những thay đổi cần thiết là gì. Chính con, tất nhiên, sẽ nhận thấy khi nào con sẵn sàng thay đổi. Đây không phải là một điều mà con áp đặt bằng tâm vỏ ngoài, mà nó sẽ xảy đến khi nào con đã đạt được trạng thái an bình nội tâm một khi con giải quyết tâm lý của mình. Khi đó con sẽ tự hỏi một cách ý thức: “Tôi muốn loại trải nghiệm nào trong giai đoạn kế tiếp của đời tôi?”

Rất nhiều các con sẽ nhận thấy là một khi con sáng rõ, một khi con không bị phân rẽ trong tâm nữa, thì hoàn cảnh cuộc sống sẽ tự nhiên ăn khớp vào nhau và con thấy mình sống trong một tình cảnh đổi mới. Đây là tình huống mới được thị hiện một cách không khó nhọc. Nó xuôi chảy với Dòng sông sự Sống khi con không kháng cự lại bất cứ gì. Con không đang tìm cách gò ép cho điều gì xảy ra – có thể nói là con chỉ quan sát nó xảy ra. Con quan sát mọi sự trải bày ra.

Liệu thày có đang bày đặt một chuyện huyễn tưởng gì đó ở đây? Liệu chuyên này chỉ xảy ra cho một số ít người? Không đâu con, nó áp dụng cho tất cả những ai sẵn lòng thực hành lời dạy và giải quyết tâm lý của mình. Tại sao nó lại có thể xảy ra? Tại sao khi con thay đổi trạng thái tâm mình thì hoàn cảnh vỏ ngoài cũng có thể thay đổi theo? Đây không phải là hiện tượng mà người ta thường gọi là “tâm làm chủ vật chất”. Con thấy đó trên thế giới, có cả một phong trào những kẻ cố sức đạt được quyền năng lấy tâm điều khiển vật chất, ép buộc vũ trụ phải ban cho họ những gì họ muốn. Họ muốn ép buộc chì phải biến thành vàng, hoặc thế này thế nọ – bất cứ gì mà họ mơ ước. Nhưng đó là sa nhân đang tìm cách sử dụng điều mà các chân sư gọi là ma thuật để thị hiện một số kết quả nào đó.

Điều thày đang nói đến ở đây là thị hiện mà không chút cố gắng, cũng không dùng đến sức lực hay quyền lực. Con thấy không, khi tâm lý của con đã giải quyết, con không cần phải gò ép gì nữa, bởi vì con không tìm cách tránh né bất cứ gì. Con không tìm cách cưỡng bách bất cứ gì lên bất cứ ai, hoặc xua đuổi bất cứ gì. Con không tìm cách cưỡng bách nó đến với con hay bay xa khỏi con. Tại sao khi con xoay chuyển trong tâm thì các tình huống bên ngoài lại có thể ăn khớp vào nhau như vậy?

31.9. Tất cả đều nối kết

Phải, điều này xảy ra được là do một nguyên lý mà thày đã giảng dạy bao nhiêu năm về trước, đó lý duyên khởi (interdependent originations). Đây là một khái niệm vô cùng thâm sâu. Các thày đã có đề cập rồi và đã khuyến khích con nên suy ngẫm, và một lần nữa, thày lại khuyên con nên suy ngẫm và từ từ chiêm nghiệm nguyên lý này. Con cần nhìn nhận là con đã lớn lên trong thế giới hiện đại, là môt thế giới chủ yếu dựa vào không những một nhân sinh quan dựa trên sức mạnh, một hệ tư tưởng dựa trên sức mạnh, mà cả một hệ tư tưởng dựa trên tách biệt. Thày đã nói gì về tâm thức nhị nguyên? Trong nhị nguyên, con nhìn vào toàn bộ tấm thảm của sự tồn hữu con người, xong con lấy ra một phần, con nâng nó lên, đồng thời con cũng kéo thấp những phần khác xuống. Con tạo ra một sự mất cân bằng. Nhưng trong lý duyên khởi không hề có mất cân bằng, tất cả đều nối kết với nhau.

Nhưng con đã lớn lên và được dạy dỗ cái nhìn cho rằng tất cả mọi thứ đều không nối kết với nhau. Tất cả đều là những thực thể tách biệt. Chúng hiện hữu riêng rẽ. Chúng là những thứ riêng rẽ bị tác động bởi những nguyên nhân riêng rẽ. Khi con nhìn khoa học, khoa học hiện đại, con sẽ thấy khoa học đặt nên tảng trên cái nhìn tách biệt này. Con cho rằng con có thể nhìn vào tấm thảm của vũ trụ và lôi ra một sự kiện nào đó, một điều kiện nào đó, cô lập nó ra và bảo: “Đây là một hiệu ứng biệt lập, và hiệu ứng biệt lập này là do nguyên nhân biệt lập kia. Hiệu ứng này hoàn toàn được gây ra bởi nguyên nhân kia, và nguyên nhân kia là nguyên nhân độc quyền gây ra hiệu ứng này.” Đây là cái nhìn tách biệt mà khoa học phương Tây vẫn tiếp tục cổ võ, cho dù nó đã bị chính khoa học phương Tây – vật lý lượng tử – bác bỏ.

Có lẽ con cần bỏ ra thì giờ để suy ngẫm về điều này và nhận ra cách nhìn về nguyên nhân tách biệt và hệ quả tách biệt chỉ hữu ích cho một giai đoạn nào đó. Đó là một giai đoạn cần thiết khi loài người cần chuyển từ thế giới quan tôn giáo thời trung cổ sang thế giới quan khoa học, thuần lý, hiện đại hơn. Không phải là cách nhìn này sai – nó không sai khi xã hội cần kinh qua giai đoạn đó, nhưng đó chỉ là một giai đoạn, hay ít nhất, đó là một giai đoạn mà xã hội phải đi qua nhưng nó không thể đưa xã hội hay loài người quá một trình độ nào đó.

Là học trò tâm linh, con sẽ muốn suy ngẫm xem làm thế nào con có thể giải thoát tâm con khỏi niềm tin đó. Một lần nữa con có thể hỏi, tại sao mình lại sợ một tình huống nào đó? Phải chăng là vì con cho rằng có nguyên nhân tách biệt kia sẽ tác động đến con là một sinh thể tách biệt, và con như một sinh thể tách biệt sẽ phản ứng lại nguyên nhân đó? Và con như một sinh thể tách biệt sẽ muôn tránh né nó, muốn tránh né nguyên nhân đó?

Nhưng con đang nhìn bản thân mình như một sinh thể hiện hữu trong một tổng thể rộng lớn hơn. Con biết rõ điều này. Con đang sống trên một hành tinh với bảy tỷ người khác, với đủ loại điều kiện vật lý khác nhau, có cả những chuyện như thời tiết, và nếu trời mưa và con ra ngoài đường thì con sẽ bị ướt. Con biết là con đang sống trong cái tổng thể đó, nhưng thay vì nhìn vào tổng thể, con lại tập trung vào một số khía cạnh đặc thù của tổng thể, và con xem mình như một sinh thể tách biệt đang hiện hữu trong tổng thể, và con nghĩ đối với sinh thể tách biệt này, có những chuyện phải xảy ra cho nó và những chuyện khác không được xảy ra cho nó.

Xong con tìm cách làm thị hiện những chuyện phải xảy ra và xua đuổi những chuyện không được xảy ra, dựa theo tiêu chuẩn của con. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói con là một sinh thể cá biệt với quyền tự quyết cá nhân, nhưng con không nhận ra là con hiện hữu trong một tổng thể với bảy tỷ cá nhân khác cũng có quyền tự quyết. Có nghĩa lý gì mà lại cho rằng con có thể tự cô lập khỏi tổng thể đó và không bị tác động bởi những chọn lựa tự quyết của người khác? Nghĩ như vậy có thực tế hay chăng?

Nhiều người nghĩ như vậy. Như thày vừa nói, có những người xây thành lũy với tường thật dày để cố cách ly, tưởng là mình có thể tự cô lập khỏi tổng thể, nhưng tất nhiên là họ không thể. Họ có thể tạm thời tạo cảm tưởng là họ có thể, nhưng thực tế là họ không thể. Toàn bộ ý tưởng cho rằng mình có thể cách ly khỏi tổng thể để che chở bản thân khỏi một số điều kiện – và hấp dẫn một số điều kiện khác – là một ảo tưởng. Dù con có ưa hay không ưa, con vẫn là một phần của tấm thảm nhân loại. Điều thày gợi ý cho con ở đây, và cũng là điều xảy ra cho những ai đã vươn lên một mức tâm thức Ki-tô nào đó và đã bắt đầu khoác vào tâm thức Phật, là con có khả năng xoay chuyển cách nhìn của mình về cuộc sống.

Con có thể khởi sự suy ngẫm là có một cách khác để nhìn cụôc sống hơn là nhìn từ quan điểm một cá nhân tách biệt đang cố tránh né một số chuyện và tìm cầu một số chuyện khác. Con có thể nhận ra là với tư cách một cá nhân tách biệt, thật chẳng nghĩa lý gì mà muốn cái này và không muốn cái kia. Bởi vì thực tế là mọi thứ đều nối kết với nhau, và rất có thể điều gì con muốn có sẽ khiến cho ai khác không có được, và điều gì con tránh né sẽ khiến cho ai khác không tránh được. Nói cách khác, nếu mọi sự đều là một tổng thể liên kết và con ở trong tổng thể đó, con không thực sự là một thành phần (a part) của tổng thể vì con không hề tách rời (apart) khỏi tổng thể. Mà giản dị, con là một khía cạnh trọn vẹn và không thể thiếu của tổng thể. Thật không có nghĩa lý mà nói: “Tôi muốn gì đây như một cá nhân tách biệt?”

Có một cách nhìn hoàn toàn khác về cuộc sống, và đó là nhìn cuộc sống từ một cá nhân nối kết, một người nối kết với tổng thể. Tức là thật chẳng nghĩa lý gì mà bảo: “Liệu tôi có thể tự nâng mình lên và trở thành tỷ phú bằng cách lấy tiền của người khác hay không?” Con có thể làm vậy như một số người đã từng làm, nhưng kỳ thực con không tách rời khỏi tổng thể. Khi con tạo ra một sự mất cân bằng thì con sẽ trải nghiệm một sự mất cân bằng trong chính con. Khi con tạo một sự mất cân bằng tác động lên người khác, con sẽ tạo một sự mất cân bằng tâm lý tác động lên chính con. Con cũng sẽ tạo ra một đối nghịch vật lý có thể sẽ tác động đến con trong tương lai. Vì tác động này có thể bị trì hoãn tới một kiếp sau cho nên con không thấy được, nhưng con sẽ trải nghiệm một sự mất cân bằng tâm lý. Chẳng hạn như con thấy đó, tất cả những ai làm giàu qua việc gây tổn hại cho người khác cũng đều hứng chịu những mất cân bằng tâm lý sẽ liên tục gây tổn hại cho họ.

31.10. Mục đích là nâng cao tổng thể

Có một cách nhìn cuộc sống khác hẳn cái nhìn tách biệt mà con đã được giáo dục, được lập trình và đã phải tiếp cận suốt nhiều kiếp sống. Con sẽ cần trang bị lại tâm trí để có thể xoay chuyển, nhưng ở đây thày đang chỉ ra cho con những giai đoạn khởi đầu của tiến trình đó. Con có thể bắt đầu suy ngẫm và chuyển dời tâm thức. Con có thể bắt đầu trau dồi nhận thức là con không thực sự ở đây để tự nhấc mình lên, ít ra là không tạo sự mất cân bằng sẽ làm hại đến người khác. Con ở đây để nâng cao tổng thể.

Điều này khớp với đường tu tâm linh dẫn đến quả vị Ki-tô như thế nào – vì các thày đã có nói là ở những chặng đầu của đường tu, công việc quan trọng nhất của con là tách mình ra khỏi tâm thức đại chúng? À, có vẻ như con cần tách ra khỏi một cái gì đó, và theo một nghĩa nào đó, con đang tách mình ra khỏi tâm thức đại chúng. Nhưng tâm thức đại chúng là gì? Đó là tâm thức tách biệt. Khi con tách mình ra khỏi tâm thức tách biệt, liệu con đang tách ra khỏi một cái gì đó, lánh xa một cái gì đó, hay con đang bước vào tâm thức hợp nhất, tâm thức nối kết? Con không thể thực sự tách ra khỏi sự tách biệt. Con chỉ có thể đi vào tâm thức vượt khỏi tách biệt, tức là đi vào hợp nhất. Con nhận ra là để nâng cao tổng thể, con cần tách mình ra khỏi tâm thức tập thể hầu con có thể nâng cao tâm thức cá nhân của mình, và khi con làm vậy, con tạo ra một lực kéo theo cả tập thể đi lên.

Sự khác biệt vi tế nằm ở chỗ một số đệ tử sẽ tìm cách làm vậy với động lực nâng mình lên như một cá nhân tách biệt. Đây là điều các thày từng đề cập là ở tầng thứ 96, con cần tìm ra đáp số cho bí ẩn là con không còn cố nâng mình lên như một cá nhân tách biệt, mà con nhìn ra sự nối kết với tổng thể. Đây là tâm thức Ki-tô, không phải mức cao nhất nhưng chắc chắn là chặng khởi đầu của tâm thức Ki-tô. Khi con xoay chuyển, con nhận ra là tất cả mọi thứ đều tương kết với nhau. Theo một nghĩa, con có thể nói là tâm lý của mọi người trên địa cầu tương kết với nhau. Có những ngã tách biệt mà hầu hết mọi người đều có. Có một vài ngã tách biệt mà mọi người đều có, và có rất rất nhiều ngã tách biệt mà hầu hết mọi người đều có.

Vậy sẽ cần gì để nâng cao nhân loại? Sẽ cần gì để nâng cao tâm thức tập thể? Đó là cần giải quyết những ngã tách biệt. Nhưng làm thế nào? Điều này không thể xảy ra trên bình diện tập thể, vì hiện không có một nhận biết tập thể và mọi người đang bị những ngã tập thể phân rẽ. Không có hy vọng nào khơi lên ý thức này, ít ra là trong tương lai gần, vì mọi người đều có ngã tách biệt và cần khắc phục cái đã. Tuy nhiên, con có thể thấy một số chuyển đổi tập thể đang diễn ra, nhưng những chuyển đổi này khởi lên là do một số cá nhân đã bắt đầu xoay chuyển bản thân, và điều này tạo ra động lượng khiến cho nhiều người khác cũng chuyển đổi theo.

Nhân loại được nâng lên là nhờ một số người đã sẵn lòng xem xét và giải quyết ngã tách biệt của riêng mình. Điều này tạo ra một khuôn mẫu, một khung sườn, một đường khai thông cho người đi sau, một cái trớn cho tập thể. Nếu có một người nhìn thấu qua một ngã tách biệt nào đó, thì sẽ có một người khác khắc phục ngã tách biệt đó dễ dàng hơn do người kia đã làm được trước đó. Rồi sẽ có một người thứ ba cũng thấy dễ dàng hơn nữa, và nó sẽ lan rộng ra giống như vòng tròn trên mặt nước cho tới khi tập thể được xoay chuyển, và bỗng nhiên nó gần như trở thành một loại kiến thức phổ thông, hay ít nhất một câu chuyện đầu môi cho nhiều người. Ngay cả chỉ trong một đời người, con đã thấy trong lãnh vực xuất bản sách tự cải tiến (self-help) đã xảy ra những chuyển đổi khiến cho một vấn đề nào đó bỗng nhiên trở nên thời trang và được nhiều người nói tới. Chẳng hạn ngay giờ đây, con có thấy đề tài về những người ái kỷ (narcissist) đang trở nên phổ biến hay không? Tất cả đã bắt đầu là do có một vài người sẵn sàng tự cải sửa rồi kéo theo mọi người đi lên.

31.11. Không còn kháng cự

Như vậy có nghĩa là bây giờ con có thể trở về khái niệm thày đề cập ở trên, là có một số điều kiện mà con muốn tránh né, nhưng giờ đây con nói: “Phải, có một điều kiện này mà tôi không muốn xảy ra nhưng nó vẫn xảy ra như thường, vậy có nghĩa gì?” À, có lẽ có nghĩa là: “Cho dù tôi có muốn tránh né với tâm vỏ ngoài, nhưng trong Sứ vụ Thiêng liêng của tôi, chính tôi đã hứa là mình sẽ tiếp nhận điều kiện đó để nó giúp mình giải quyết cái tâm lý ở đằng sau, và nhờ vậy tôi sẽ nâng cao tổng thể.” Nói cách khác, những gì xảy ra cho con không phải là điều gì nhằm đánh phá con, không phải là điều gì con cần kháng cự lại. Trái lại, đó là một điều con cần đón nhận và nói: “Tôi có thể học được gì từ chuyện này? Có gì trong bản thân mà tôi cần nhìn thấy qua chuyện này? Làm thế nào tôi có thể giúp giải quyết một điều gì đó trong tâm thức tập thể và nhờ đó nâng cao tập thể?”

Một lần nữa, cách suy nghĩ này nằm trong câu “Bất cứ gì cứ việc xảy ra”. Khi con nói “Bất cứ gì cứ việc xảy ra”, nó không có nghĩa là chỉ có những thứ dễ chịu mới được quyền xảy ra. Mà nó có nghĩa là “bất cứ gì”. “Dù bất cứ gì xảy ra, tôi cũng sẽ gặp gỡ nó với tâm tích cực, tôi sẽ tìm cách tận dụng nó tốt nhất, và tôi sẽ hài lòng vì những gì tôi đã chịu đựng đều đã đóng góp nâng cao tổng thể.”

Điều này sẽ xoay chuyển trạng thái tâm con, khiến con không cưỡng lại bất cứ gì nữa. Và tất nhiên, con không thể an bình nội tâm khi con cưỡng lại hay tìm cách tránh né bất cứ gì. Làm sao an bình được? Và điều này ăn khớp thế nào với chủ đề trở thành cánh cửa mở? Thật hiển nhiên là khi con càng giải quyết được tâm lý của con thì con sẽ càng sẵn sàng nói “Bất cứ gì cứ việc xảy ra” và con càng trở thành một cánh cửa mở. Khi còn đầu thai trong cõi vật lý, con luôn luôn gặp thử thách mình bị mù quáng bởi toàn bộ hoàn cảnh mà mình đang trải qua, bởi tâm thức tập thể, bởi chính bốn thể phàm của mình, và con không thấy rõ trong tâm ý thức những gì con đã thảo ra trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con không nhìn thấy sự nối kết rộng lớn với công cuộc nâng cao tổng thể mỗi khi con trải qua một tình huống. Nhưng tư duy mà con có thể trau dồi là không những con sẽ cởi mở đón nhận những ý tưởng tuyệt vời từ cõi tâm linh, mà con cũng sẽ cởi mở để trải nghiệm tất cả những tình huống mà con đã quyết định trong Sứ vụ Thiêng liêng, là những trải nghiệm mà con muốn kinh qua và đương đầu hầu giúp nâng cao tập thể. Thậm chí có cả những bệnh tật mà con muốn chuốc lấy.

31.12. Làm hòa với sự đầu thai trên địa cầu

Điều thày cố trao cho con ở đây là ý tưởng con có khả năng làm hòa với sự đầu thai của con trên địa cầu, cho dù hành tinh này có đày đặc và khó khăn như hiện giờ. Điều này không có nghĩa là thày yêu cầu con phủ nhận những điều kiện hiện hành trên trái đất. Khi con nâng cao tâm thức, con nhìn mọi điều kiện rõ hơn. Nhưng con cũng nhìn những điều kiện đó mà không có phán xét nào về giá trị, là sự phán xét của tâm thức nhị nguyên, và đây là điểm mà một số người đã không hiểu. Một số người đã đi qua giai đoạn mà Saint Germain đã giải thích rất tỉ mỉ là những giai đoạn khởi đầu trên con đường quả vị Ki-tô, khi con vẫn con suy nghĩ mọi chuyện theo đen và trắng. Con vẫn cho rằng cái này đúng, cái kia sai. Nếu cái này đúng thì cái đối nghịch phải sai. Đấy là cách con suy nghĩ ở một giai đoạn nào đó. Đó là khởi đầu của phân biện nhưng đó chưa thực sự là quả vị Ki-tô, vì quả vị Ki-tô là khi con bước lên cao hơn một chút, và con bắt đầu nhìn vượt khỏi mọi phán xét giá trị. Khi nào con còn ở trong tâm trạng trắng đen này thì con sẽ vẫn phán xét giá trị, con sẽ vẫn cho rằng cái gì sai là xấu, là ác, là cần tránh né, là không có quyền tồn tại.

Khi con bước lên cao hơn trong tâm thức Ki-tô, con nhận ra là bất cứ gì đang hiện hữu cũng chỉ là quyền tự quyết của con người đang trải bày ra. Khi con lên cao hơn nữa vào những mức tâm Phật, con bắt đầu bỏ lại toàn bộ ý thức lượng định là một điều gì đó phải hiện hữu hay không được hiện hữu. Khi con nối kết với bản chất duyên khởi của tổng thể cũng như với quyền tự quyết đang trải bày ra, con nhận ra là theo một nghĩa nào đó, từ một quan điểm nào đó, hoàn toàn không có gì mà không được hiện hữu – bởi vì bất cứ gì hiện hữu cũng là sự trải bày của tâm thức con người sống trên địa cầu, và tâm thức này đang trải bày nó ra để khiến nó lộ diện. Khi con thấy được cách vận hành của bộ máy giả thực tại này, và thấy được loài người đã bước vào nhị nguyên như thế nào, thì bất cứ gì hiện hữu cũng hiện hữu như sự trải bày của một cái gì đó khó nhìn thấy và bây giờ được hiển lộ cho con thấy. Nhìn từ góc độ này, nó phải hiện hữu.

Con thử lấy tất cả những sự đánh giá mà nhiều người khoác vào trên hành trình tu tập, thì con có thể nói tiến trình đi tới quả vị Ki-tô và quả vị Phật là khi con bắt đầu nối kết với tổng thể, cho nên con trải qua một giai đọan khởi lên lòng trắc ẩn đối với tha nhân. Con nhìn thế giới ngày nay, nhìn rất, rất nhiều người mà xem. Có thể họ đi theo hay không theo tôn giáo nào, nhưng con thấy là rất nhiều người – mà chúng ta có thể gọi là người tiến bộ, thiện tâm – được thúc đẩy bởi lòng trắc ẩn. Họ có lòng thương xót đối với nỗi đau khổ của người khác, và với lòng thương xót đó, họ nói: “Ồ, điều kiện tệ hại này không được có mặt ở đây. Người ta phải đau khổ như thế này thì thật là sai trái. Những chứng bệnh này không được hiện hữu, tình trạng nghèo đói này không được hiện hữu, tra tấn, bạo lực, chiến tranh này không được hiện hữu.”

Hiển nhiên, con có thể lấy quan điểm đó và bảo rằng theo nguyên tắc lý tưởng, theo cách vận hành của một hành tinh tự nhiên, thì những chuyện như vậy sẽ không có mặt ở đây nếu địa cầu là một hành tinh tự nhiên. Nhưng một lần nữa, mục đích của chúng ta trên địa cầu là gì chứ? Phải, cuối cùng là để đưa địa cầu trở về trạng thái của một hành tinh tự nhiên, nhưng đó vẫn chưa phải là mục đích thật sự. Mục đích thật sự là nâng cao tâm thức. Các chân sư thăng thiên không ngồi đây bảo: “Ồ, địa cầu là một hành tinh đen tối thật, và các thày phải cố gắng hết sức hồi phục địa cầu về vị thế một hành tinh tự nhiên càng sớm càng tốt, bất chấp điều gì xảy ra.”

Không, thật ra các thày nói: “Với tình trạng hiện nay của địa cầu, trong những điều kiện hiện tại, làm thế nào các thày có thể nâng cao tâm thức loài người bằng cách làm hiển lộ cái tâm thức đã tạo ra những điều kiện đó?” Khi con nối kết với điều này, con có thể tránh bị mắc kẹt trong lòng trắc ẩn, bởi vì kỳ thực, nhiều người thiện tâm và nhạy cảm bị mắc kẹt trong lòng trắc ẩn. Chính sứ giả này cũng từng bị mắc kẹt như vậy trong những năm đầu của kiếp này, ngay cả những năm đầu sau khi ông cất bước trên đường tu, thậm chí sau khi ông tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên. Rất nhiều các con có thể nhận thấy một điều tương tự nơi chính mình. Con cảm thấy một lòng trắc ẩn mãnh liệt đối với sự khổ đau của mọi người đến độ con sẵn sàng sử dụng vũ lực để loại bỏ khổ đau.

Các chân sư thăng thiên cũng muốn xóa bỏ đau khổ của loài người, nhưng tại sao các thày đã không dùng quyền năng lớn lao của mình để xóa bỏ nạn nghèo đói trên trái đất? Phải, bởi vì như vừa nói, mục đích chủ yếu của các thày không phải là xóa bỏ nghèo đói, xóa bỏ cách thể hiện vỏ ngoài của nghèo đói, mà các thày muốn giúp con người thăng vượt cái tâm thức đã làm thị hiẹn tình trạng nghèo đói. Các thày tìm cách dùng nghèo đói để khiến cho tâm thức đó hiển lộ ra hầu mọi người có thể nhìn thấy và giải quyết. Đó là mục đích các thày. Đó là cách các thày làm việc. Nhiều người trong số các con đã không hiểu điều này, nhưng khi con hiểu ra thì con cũng sẽ xem xét và chấp nhận là con không cần khiến cho lòng trắc ẩn của mình trở thành một chứng ám ảnh cưỡng chế, khi con luôn bị thôi thúc phải làm gì đó để giảm bớt một dạng đau khổ nào đó, và con không thể an bình cho tới khi điều này xảy ra.

Rất nhiều người thiện tâm mà thày đang nói tới, ngay cả một số đệ tử của chân sư thăng thiên, bị rơi vào trạng thái ám ảnh cưỡng chế này khi họ không thể an bình cho tới khi vấn nạn này hay vấn nạn kia vẫn còn hiện hữu. Sứ giả này đã sống qua một thời kỳ ở tổ chức Summit Lighthouse khi ai nấy đọc bài chú trong những buổi canh thức kéo dài hàng giờ nhằm chiến đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản, ngăn chặn chiến tranh hạt nhân, hay đem lại một số thay đổi nào khác. Không phải là những công việc đó vô ích và vô giá trị. Nhưng sứ giả này đã nhận ra là mình ở trong một trạng thái tâm thức ám ảnh cưỡng chế, và ông thấy nhiều người khác cũng giống như ông. Con không an bình khi con ở trong trạng thái tâm thức đó.

Chắc chắn các thày mong muốn đệ tử của mình thỉnh gọi sự thay đổi trong một số điều kiện trên thế giới, nhưng có bao giờ các thày bảo các con phải làm vậy trong tâm trạng ám ảnh cưỡng chế đâu? Tại sao các thày lại muốn đệ tử của mình hành động với tâm mất cân bằng trong khi các thày luôn cân bằng? Các thày muốn đệ tử có những gì các thày có – tâm cân bằng. Con có thể nói là trong trạng thái thăng thiên, các thày nào cần đến tâm cân bằng vì ở đây không thể có sự mất cân bằng. Nhưng con đang sống trong một môi trường khác, nơi tâm mất cân bằng là chuyện khả dĩ, và có rất, rất nhiều thế lực tác động lên tâm con để lôi kéo con vào những phản ứng mất cân bằng.

Các thày cố giúp con đạt được trạng thái tự do khỏi tất cả những thế lực đó, những con quỷ của Mara, hầu con cũng có thể ngồi dưới cây bồ đề mà không mảy may bị quỷ Mara ảnh hưởng, hay bị phiền hà bởi ông hoàng của thế gian tới đòi phần ăn của y. Các thày đã trao cho con những dụng cụ để con đạt được điều đó. Con sẽ cần thời gian, nhưng bằng cách nhận biết điều đó một cách ý thức và đặt nó làm mục tiêu ý thức, con sẽ đạt được nhanh chóng hơn rất nhiều.

Nhiều người trong số các con gần hơn là các con tưởng, nhiều người trong số các con gần hơn là các con tưởng.

Như các thày đã nói: “Hãy hỏi thì con sẽ nhận được”. Con hãy hỏi chân sư gần gũi nhất với con, hãy yêu cầu thày giúp con nhìn ra trong thái độ của con có điều gì đang kéo con ra khỏi an bình. Nhưng cũng đừng quên hỏi sứ giả này, vì ông đã đạt được một mức độ bình an rất cao và sẵn lòng làm việc với con để con cũng đạt được như vậy. Một lần nữa, con sẽ cần đến gì để con cũng trở thành cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu? Hãy hỏi và sẵn sàng nhận.

Và một nhận xét chót – thày muốn gửi đến tất cả các con lòng biết ơn sâu xa của các thày khi con đã sẵn lòng tham gia vào tiến trình buổi hội thảo này. Rất đông các con đã hòa điệu để cùng nhau đọc bài thỉnh, các con đã thực sự hoàn thành một công việc tuyệt vời để nâng cao tâm thức tập thể. Các con đã vượt quá chỉ tiêu ban đầu của các thày, đã vượt quá mục đích đó, và các con hãy nhận lòng biết ơn của các thày. Các thày hy vọng là chính các con cũng cảm thấy hội nghị này đã nâng tâm thức mình lên cao hơn cả kỳ vọng ban đầu của mình.

Chắc chắn bây giờ sứ giả này có thể thư giãn, như ông thường làm sau những buổi hội thảo như thế này, và ông kinh ngạc nhìn vào số lượng giáo lý mới mà các thày trao truyền. Đôi khi ông cảm thấy rất nhiều lời dạy đã được đưa ra, và ông tự hỏi, không hiểu làm sao các thày lại có thể đưa thêm nhiều nữa như vậy, nhưng ông luôn vui mừng khi được trải nghiệm nhiều bài giáo lý mới và các thày thì luôn luôn sẵn lòng đưa ra nhiều hơn. Các thày hy vọng các con đã có cùng trải nghiệm đó, đã vui mừng được chiêm nghiệm dòng chảy của Tánh linh và sự trải bày của những ý tưởng này. Thày hy vọng một số các con có thể đã cảm thấy là mình vừa nhận được một điều gì đó mà mình không yêu cầu. Nhưng con đã chỉ nhận được những gì con không yêu cầu một cách ý thức, chứ trong tiềm thức, chắc chắn là con đã yêu cầu. Và điều đó, một lần nữa, các thày thật biết ơn. Và như vậy, thày niêm các con, thày niêm hội nghị này trong sự an bình vui mừng của Phật.

2 | Giới thiệu Chân sư MORE

Khi bạn bắt đầu con đường tâm linh dưới sự hướng dẫn của bảy vị Thượng sư, thì Chân sư MORE là vị đầu tiên mà bạn gặp. Thay vì chú tâm vào việc trải nghiệm chân sư MORE, bạn hãy quay ngược lại và tưởng tượng nhìn mọi sự qua nhãn quan của thày. Chân sư MORE là vị đầu tiên gặp các học viên đến từ nhiều quá trình khác nhau và lẽ hiển nhiên một số vẫn còn những góc cạnh gồ ghề. Một số mang theo những vết thương đủ loại và một số có ý muốn được một vị chân sư thăng thiên ve vuốt tự ngã của họ.

Chân sư MORE phải tìm cách ứng phó với nhiều loại học viên và lẽ dĩ nhiên thày ứng phó bằng cách thể hiện những đức tính của Tia thứ Nhất. Nếu bạn đến với Chân sư MORE với ý muốn giấu giếm vết thương hay trò chơi tự ngã của mình, thì bạn sẽ thấy thày rất nghiêm khắc, không khoan nhượng và không có tình cảm cá nhân. Đó là do đức tính uy lực và ý chí của Tia thứ Nhất không chịu uốn mình theo mong muốn của người phàm. Nói cách khác, chân sư MORE không chơi trò chơi tự ngã.

Nhưng nếu bạn trung thực và sẵn sàng muốn nhìn vào các vết thương và ngay cả những trò chơi tự ngã của mình, thì bạn sẽ tìm thấy nơi chân sư MORE một vị thày vô cùng yêu thương, sẵn sàng hỗ trợ sự tăng triển của bạn đến mức tột cùng. Chân sư MORE muốn thấy nơi các đệ tử của thày một đức tính đặc biệt, đó là tính thẳng thắn và trung thực sẵn sàng nhìn mình trong gương.

Nếu bạn mở lòng nhận thày chỉ cho bạn những khía cạnh của tự ngã của bạn thì thày sẽ làm một cách bạn chưa bao giờ gặp trên trái đất. Thày sẽ thẳng thắn phơi bày một trò chơi của tự ngã nhưng thày cũng chỉ thật rõ là bạn hơn tự ngã của bạn. Thày sẽ nói rõ là thày là người ủng hộ kiên định cái ta thật của bạn. Thực ra, lúc đầu thày có thể thấy và ủng hộ cái ta thật của bạn nhiều hơn chính bạn.

Không gì so sánh được với tình thương mà bạn cảm nhận từ Chân sư MORE khi bạn thấy và từ bỏ một cách ý thức một khía cạnh của tự ngã của bạn. Lý do một phần do tình thương của Chân sư MORE đối với nhân loại nhưng phần khác do thày thăng thiên năm 1898 và do đó thày rất ý thức tiến bước trên con đường tâm linh khó khăn như thế nào trên hành tinh hỗn loạn này của chúng ta. Điều này giúp thấu thấu hiểu thật rõ điều kiện sống của con người trong thời đại này và do đó thày có kiên nhẫn vô biên với những ai sẵn sàng làm việc trên chính mình – và rất ít kiên nhẫn với những ai chơi trò ú tìm với tự ngã của mình.

Tu viện nhập thất chính của chân sư MORE tọa lạc trên Darjeeling, Ấn độ và khi bạn tới đó trong thể cao của bạn, bạn được một người gác cửa trông thô lỗ tiếp đón. Người ấy sẽ cư xử với bạn rất vô lễ, có thể là còn nói chửi bới bạn. Tác phong này là để sàng lọc nhanh chóng những dòng sống nào chưa sẵn sàng đón nhận những khai ngộ được cống hiến tại Darjeeling. Nếu bạn tới với kỳ vọng không thiết thực là một vị thày tâm linh phải hay không được đối xử như thế nào với các học viên thì người gác cửa của Chân sư MORE có thể sẽ tổn thương tự ngã bạn đến độ bạn quyết định rút lui khỏi khóa nhập thất. Tuy thế bạn sẽ luôn luôn được đón nhận khi bạn tới với tâm sẵn sàng vượt quá những chờ đợi của bạn và một khi bạn vào khóa học, bạn sẽ thấy là Chân sư MORE sẽ vượt quá kỳ vọng của bạn vì thày sẽ luôn luôn làm bạn ngạc nhiên.

Nhiều kiếp đầu thai của Chân sư MORE được biết tới và trong nhiều kiếp thày là một người lãnh đạo, ngay cả là một vị vua hay một chính khách. Tuy nhiên để tỏ rõ bối cảnh thày muốn đề cập tới kiếp áp chót của thày là nhà thơ người Ái Nhĩ Lan (Irish) Thomas Moore. Trong kiếp đó thày biểu hiện sự dịu dàng âu yếm là đức tính nảy sinh sau khi bạn tuần tự phát triển các đức tính của Tia thứ Nhất. Một khi bạn đã biểu thị đủ uy lực và quyết chí, bạn sẽ nhận ra là đằng sau mong muốn nhào nắn thế giới theo ý chí của bạn, có một cách nhìn khác triết lý hơn, thậm chí thi vị hơn.

Cho nên, Chân sư MORE ý thức rõ là đằng sau mong muốn biểu thị quyền năng sáng tạo của bạn, có một dòng sống tuôn chảy nhẹ nhàng không dùng sức mạnh để ép uổng người khác theo ý chí của mình. Quả thực Chân sư MORE đã biểu thị đức tính này trong nhiều kiếp trước của thày. Thày cũng biểu lộ tính hài hước kỳ thú, thậm chí thày còn khôi hài trên đường đi tới đoạn đầu đài trong kiếp thày là Thomas More, là người bị vua hành quyết và người vua này chẳng thấy có gì thi vị hay khôi hài trong mối tương tác giữa hai người.

Khi bạn tới điểm bạn có thể cười tự ngã của mình, bạn sẽ nhận ra là Chân sư MORE sẽ nhìn bạn với ánh mắt thương yêu nhất, có khi thày còn nói một câu hài hước phơi bày cái lố bịch của tự ngã tự xem mình rất quan trọng. Và nếu bạn có thể cười cùng với thày, thì bạn sẽ khám phá là cười với Chân sư MORE là một trải nghiệm kỳ thú và giải phóng. Gần đầy Chân sư MORE đã đạt tầng cấp thành tựu của quả vị Phật.

1 | Giới thiệu Tia thứ Nhất

Màu của Tia thứ Nhất: Xanh sáng như điện

Luân xa tương ứng: Luân xa Cổ họng

Elohim của Tia thứ Nhất: Hercules và Amazonia

Đại thiên thần và Nữ Đại thiên thần: Michael và Faith

Thượng sư của Tia thứ Nhất: Chân sư MORE, còn được biết như El Morya, Morya, Chân sư M, M, hay Bapu.

Bài chú của Tia thứ Nhất: 1.01 Bài chú Elohim Hercules, 1.02 Bài chú Đại thiên thần Michael, 1.03 Bài chú Chân sư MORE.

1.1. Các đức tính trong sáng của Tia thứ Nhất

Theo truyền thống Tia thứ Nhất được xem là tia của uy lực và ý chí nhưng hiểu sâu hơn thì nó tượng trưng cho động lực sáng tạo. Nó là ý muốn tự biểu hiện, ý chí muốn thử nghiệm, ngay cả khi không biết trước kết quả của thử nghiệm. Nó cũng là ý chí sẵn sàng trôi theo dòng sống và học hỏi từ mỗi kinh nghiệm. Tia thứ Nhất dấy lên cảm nhận là mọi thứ trong đời sống đều quan trọng, cuộc sống đầy hứng thú và mỗi cá nhân quả thực có thể đem lại một sự khác biệt tích cực. Tia thứ Nhất cũng là chìa khóa của ý chí muốn làm việc để nâng cao tất cả thay vì chỉ nâng cao mình mà thôi.

1.2. Những tha hóa của Tia thứ Nhất

Tha hóa của ý chí sáng tạo là nỗi sợ những gì chưa biết. Nó được biểu hiện qua ý muốn lạm dụng quyền lực để kiểm soát hoàn cảnh của mình kể cả kiểm soát người khác. Cũng có nỗi sợ tham gia những sinh hoạt mà mình không đoán trước được hay không bảo đảm được kết quả; thái độ này lẽ dĩ nhiên bóp nghẹt tính sáng tạo. Những người tha hóa các đức tính của Tia thứ Nhất thường tham gia những trò chơi quyền lực với người khác, dựa trên ý muốn kiểm soát kết quả. Họ cũng có thể chỉ trích hay lên án kịch liệt những người không thuận theo cách nhìn đời của họ.

Tha hóa những đức tính của Tia thứ Nhất dẫn tới nỗ lực muốn dập tắt chính năng lực của sự sống, năng lực này hướng tới sự tự thăng vượt và thay vào đó bảo vệ ngã tách biệt và những gì ngã này muốn sở hữu trong thế giới. Nó dẫn tới ý niệm sở hữu những người khác và đây là một trong những nguồn gốc tranh chấp chính yếu trên hành tinh này. Trong những trường hợp nhẹ hơn, có người sợ sáng tạo và cảm thấy mình bất lực, cảm thấy không có gì thật sự quan trọng và một cá nhân không thể đem lại sự khác biệt, do đó tại sao mình phải cố gắng.

1 | Biểu thị quyền năng sáng tạo của bạn

Như đã giải thích trong Lời Mở đầu, cuốn sách đầu tiên của bộ sách này là cuốn Uy lực của cái Ta. Chương này tóm tắt những ý chính được trình bày trong sách đó. Nó được viết chủ yếu cho những ai chưa đọc sách Uy lực của cái Ta.

1.1. Vật chất = Năng lượng

Ngay bây giờ, tự nhận biết của bạn đang chú tâm vào một “phần nhỏ” của một thực tại rộng lớn hơn. Phần nhỏ này là cái mà chúng ta thường gọi là “vũ trụ vật chất”. Vũ trụ này chính xác là gì? Năm 1905, Albert Einstein công bố thuyết tương đối được biết nhiều nhất qua phương trình E=mc2. Phương trình này chứng minh là cái mà chúng ta gọi là “vật chất” không phải là một chất tự nó hiện hữu – mà nó do tâm chúng ta dựng nên. Thực ra, vật chất được làm ra từ năng lượng và năng lượng là một dạng rung động.

Hệ quả là vật chất là năng lượng rung động trong một quang phổ đặc thù. Nhưng thực ra rung động nằm trên một dải liên tục vô tận, gồm những rung động thấp mà giác quan chúng ta có thể phát hiện cho tới những rung động cao đến độ chúng ta không phát hiện được bằng giác quan hay thiết bị máy móc. Điều này có nghĩa là có một dải rung động rộng lớn vượt quá cái mà chúng ta gọi là vũ trụ vật chất.

Con người thường chỉ ý thức được một phần nhỏ của toàn bộ quang phổ rung động nhưng điều này không có nghĩa là phần còn lại của dải rung động không có thực. Thực tế là nếu không có một thế giới rộng lớn hơn vượt quá thế giới vật chất, thì thế giới vật chất này không thể hiện hữu. Điều này cũng đã được phương trình của Einstein chứng minh. Chúng ta có thể chia hai vế hai bên dấu bằng bởi cùng một hệ số và chúng ta có được một công thức mới:

Bây giờ thì ta có c2 ở trên và dưới lằn phân số bên phía phải. Vì chúng loại lẫn nhau nên ta có công thức mới như sau:

Công thức mới này nói cho chúng ta biết là mọi thứ đều là năng lượng, m thật sự được tạo thành từ một dạng năng lượng, E, rung động ở một tầng cấp rung động rất cao. Như vậy, thế giới vật chất được tạo ra từ những năng lượng cao và thanh đã giảm độ rung xuống bởi một hệ số hạ giảm rất lớn, là bình phương của vận tốc ánh sáng (c2). Nói cách khác, cái mà chúng ta gọi là thế giới vật chất được cấu tạo từ năng lượng cao mà chúng ta có thể gọi là năng lượng tâm linh.

Điều này nghĩa là thế giới vật chất không tự nó hiện hữu. Thực ra, thế giới vật chất còn không hiện hữu như một đơn vị tách biệt. Nó chỉ có vẻ như thế đối với chúng ta bởi vì với tầng tâm thức hiện nay của chúng ta, chúng ta không nhận ra được các rung động cao. Nhưng đây không phải là cách duy nhất để chúng ta nhận ra sự sống.

1.2. Mọi sự đều là Tâm thức

Dựa trên các thuyết của Einstein, các nhà vật lý học khác đã phát triển môn cơ học lượng tử và họ đã chứng minh là ở tầng cơ bản nhất của vật chất là một dạng tâm thức. Tâm chúng ta có thể tương tác với tâm thức đó, có nghĩa là tâm chúng ta không thể do não bộ vật lý tạo ra. Tâm chúng ta phải hiện hữu trước não bộ. Thật vậy, một số nhà vật lý học đã kết luận là toàn thể vũ trụ là một cái tâm vĩ đại, chứ không phải là một cỗ máy vĩ đại. Điều này có nghĩa tâm thức là thực tại cơ bản.

Điều này nêu lên câu hỏi là các rung động rất cao đã giảm hạ như thế nào để tới được tầng cấp của vũ trụ vật chất? Và câu trả lời hiển nhiên cho những người tâm linh là công việc này được thực hiện bởi những sinh thể tâm linh ở cõi cao. Những sinh thể này được gọi là “chân sư thăng thiên” trong bộ sách này. Thực ra chỉ có một tâm thức duy nhất, một tâm duy nhất, đó là tâm của đấng Sáng tạo. Nhưng tâm một này đã biểu hiện chính nó như một đại đoàn chưởng giáo tâm linh tạo thành một “chuỗi sinh thể” đi từ đấng Sáng tạo tới tầng rung động thấp nhất là vũ trụ vật chất.

Ai là những sinh thể ở tầng thấp nhất của chuỗi sinh thể này? Ấy, đó chính là chúng ta, những con người. Chúng ta là những nối dài của các chân sư thăng thiên ở cõi tâm linh thấp nhất, cõi ở ngay sát trên thế giới vật chất về mặt rung động. Thực ra, một phần của bản thể chúng ta ngụ vĩnh viễn ở cõi tâm linh. Nó là cái ta cao của chúng ta, còn gọi là Hiện diện TA LÀ.

Chúng ta chính thật là sinh thể tâm linh và chúng ta đã đi xuống vùng năng lượng dày đặc của cõi vật chất và khoác vào những thể được cấu tạo bằng năng lượng của cõi vật chất này. Nhưng tâm chúng ta vẫn là sinh thể tâm linh, nghĩa là chúng ta có tiềm năng ý thức nhận biết mình là ai và từ đâu tới. Khi đạt được nhận biết này, chúng ta cũng có thể hoàn thành mục đích tại sao chúng ta xuống đây, đó là phụng sự trong vai trò người đồng-sáng tạo.

Trái đất được tạo ra bởi một nhóm bảy sinh thể tâm linh gọi là Elohim. Nhưng họ chỉ tạo ra trái đất từ bên ngoài và họ không hoàn tất công trình sáng tạo. Chúng ta là những người đồng-sáng tạo và nhiệm vụ của chúng ta là hoàn tất công trình sáng tạo trái đất từ bên trong. Khi chúng ta phát huy trọn vẹn quyền năng sáng tạo của cái Ta, thì chúng ta có hai khả năng cơ yếu. Tâm chúng ta có thể là cánh cửa để nhận đón ánh sáng tâm linh từ cõi cao, hạ giảm rung động của nó và dùng nó để sáng tạo trong cõi vật chất. Tâm chúng ta cũng có khả năng hình thành các hình tư tưởng và áp chồng chúng lên ánh sáng tâm linh, từ đó chúng ta có thể sáng tạo những cấu trúc vật lý.

1.3. Tự nhận biết nhỏ như cái chấm

Nếu chúng ta là sinh thể tâm linh, thì tại sao hầu hết chúng ta quên sự kiện này và thay vào đó coi mình là những con người bị giới hạn? Câu trả lời là trái đất được thiết kế như một trường học hay một phòng thí nghiệm trong đó chúng ta có thể mở rộng nhận biết mình là ai và tăng triển khả năng sáng tạo mà chúng ta có. Cho nên chúng ta không xuống đầu thai với nhận biết đầy đủ mình là ai. Thay vào đó, chúng ta xuống đầu thai với tự nhận biết nhỏ như cái chấm và việc của chúng ta là dần dần mở rộng tự nhận biết đó. Đây là cách chúng ta tăng triển tự nhận biết cho tới khi chúng ta tốt nghiệp trường học trái đất và trở thành chân sư thăng thiên.

Cốt lõi bản thể của bạn được các chân sư thăng thiên gọi là “cái Ta Biết”. Đây là trụ điểm của khả năng tưởng tượng và ý chí tự quyết của bạn. Cái Ta Biết không phải là một sinh thể tách biệt nhưng là một nối dài của cái ta tâm linh hay Hiện diện TA LÀ. Do đó, nó có khả năng phóng chiếu nó vào bất kỳ hoàn cảnh nào trong thế giới vật chất và trải nghiệm hoàn cảnh đó từ bên trong.

Để có thể phóng chiếu mình vào thân vật lý, trước tiên cái Ta Biết phải phóng chiếu nó vào một cái “ta” được tạo bằng năng lượng của cõi vật chất. Một khi cái Ta Biết ở trong cái ta như thế, nó sẽ nhìn cuộc đời qua phin lọc nhận thức của cái ta đó. Điều này giải thích tại sao chúng ta có thể quên nguồn gốc tâm linh của mình và lại tin rằng chúng ta là những con người bị giới hạn. Một khi ở trong cái ta vật chất, mọi điều chúng ta “thấy” qua cái ta đó đều xác nhận chúng ta là những sinh thể vật chất bị giới hạn.

Tuy thế chúng ta không bao giờ có thể hoàn toàn quên mình đã tới từ một cõi bên ngoài thế giới vật chất và ngã vật chất. Đó là lý do tại sao có biết bao nhiêu người khao khát đi tìm một thế giới cao hơn hay khao khát muốn hiểu biết khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Việc chúng ta quên cội nguồi tâm linh của mình không sai trái và cũng chẳng tội lỗi. Thực ra chúng ta tăng triển tự nhận biết qua chu trình quên mình là ai và sau đó dần dần thức tỉnh nhận ra bản sắc thật của mình.

1.4. Hiện diện TA LÀ của bạn

Bạn có mặt ở đây vì Hiện diện TA LÀ của bạn gửi cái Ta Biết xuống đây. Hiện diện TA LÀ có hai mục đích khi gửi một phần nối dài của nó xuống cõi vật chất.

Một mục đích là nó muốn trải nghiệm thế giới vật chất từ bên trong vì trải nghiệm này giúp cho Hiện diện có được một tầm nhìn quý giá về thế giới tâm linh và giúp nó biết nó là ai. Có nghĩa là không có điều gì bạn trải nghiệm trong kiếp này hay các kiếp trước là vô bổ. Ngay cả khi bạn trải nghiệm một hoàn cảnh rất khó chịu, Hiện diện TA LÀ của bạn có thể học từ đó bằng cách xác nhận: “Tôi hơn thế này.” Và bạn có thể vượt thăng trải nghiệm – bất cứ trải nghiệm nào – khi bạn thức tỉnh nhận ra sự thật bạn là cái Ta Biết, bạn là nhận biết thuần khiết không thể bị đổi thay bởi bất cứ gì trên trái đất.

Mục đích thứ hai là Hiện diện TA LÀ muốn tăng triển khả năng đồng-sáng tạo của nó và nó làm điều này bằng cách biểu hiện những khả năng sáng tạo này qua cái Ta biết. Lẽ tất nhiên điều này chỉ có thể xảy ra trọn vẹn sau khi cái Ta Biết thức tỉnh và thấy mình là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ. Đấy là lúc bạn có thể biểu thị trọn vẹn tiềm năng sáng tạo của mình, là điều mà Giê-su mô tả khi thày nói: “Những điều này con người không làm được nhưng với Thượng đế mọi điều đều làm được.”

Giê-su và các chân sư tâm linh khác đã tới để cho chúng ta thấy toàn bộ tiềm năng sáng tạo của chúng ta. Chúng ta không thể biểu thị tiềm năng này khi chúng ta còn xem mình là những con người. Nhưng khi chúng ta thức tỉnh nhận ra bản sắc thật của mình, chúng ta trở thành cánh cửa mở mà không con người nào có thể đóng lại. Mục đích của bộ sách này là giúp bạn phát triển trọn vẹn quyền năng sáng tạo của bạn. Điều này chính xác nghĩa là gì?

1.5. Bảy tia sáng tâm linh

Ở phần trước chúng tôi nói mọi sự trong vũ trụ vật chất được làm nên từ năng lượng tâm linh được hạ giảm độ rung xuống. Einstein nói hệ số hạ giảm là một hằng số toán học nhưng trên thực tế có bảy hệ số hạ giảm. Các chân sư thăng thiên dạy rằng có bảy tia sáng tâm linh đóng vai trò hạ giảm năng lượng tâm linh xuống tầng cấp rung động có thể dùng để hình thành những gì mà chúng ta thấy là vật thể vật chất.

Có một số chân sư thăng thiên phụng sự trong mỗi tia của bảy tia. Tầng cao nhất là tầng của các Elohim và các thày là những sinh thể lúc đầu đã hạ thấp rung động của năng lượng tâm linh cho tới khi có đủ chất liệu để xây dựng hành tinh trái đất. Các Elohim vẫn tiếp tục phụng sự bằng cách gửi năng lượng tâm linh xuống cõi vật chất, nhưng giờ đây thì việc này chủ yếu xảy ra xuyên qua chúng ta.

Tầng kế tiếp là là tầng của các Đại thiên thần phục vụ như một loại trung gian hay sứ giả giữa chúng ta và cõi tâm linh. Điều này cần thiết vì chúng ta đã quên nguồn cội tâm linh của mình và vì vậy không thể dùng trực tiếp năng lượng tâm linh. Các Đại thiên thần phụng sự bằng cách cho chúng ta năng lượng dưới dạng bảo vệ tâm linh, chữa lành hay những dạng khác.

Tầng kế tiếp là tầng của các Thượng sư là những vị giáo học của mỗi tia sáng tâm linh. Vai trò chính của các thượng sư là đến với chúng ta ở tầng tâm thức hiện thời của chúng ta và sau đó dần dần tìm cách thức tỉnh chúng ta để chúng ta nhận biết bản sắc thật của mình và tiềm năng sáng tạo của mình. Bảy vị Thượng sư đã bảo trợ bộ sách này cùng với Đại thượng sư Maha Chohan là vị trưởng giáo của cả bảy tia sáng.

Chìa khóa để tự điều ngự là biết bảy tia sáng tâm linh và phát triển trọn vẹn khả năng đồng-sáng tạo của bạn. Mỗi tia có một số đặc tính tích cực và bạn biểu thị quyền năng sáng tạo của mỗi tia qua các đặc tính tích cực của nó. Ví dụ, Tia thứ Nhất là tia của quyền năng sáng tạo và ý chí, nghĩa là bạn tìm cách sáng tạo điều gì có lợi ích cho tất cả mọi người thay vì chỉ lợi ích cho chính mình như một sinh thể tách biệt. Khi làm thế, biểu hiện sáng tạo của bạn chỉ có tác dụng tích cực mà thôi. Kết quả là quyền năng sáng tạo của bạn sẽ được nhân lên và bạn sẽ cảm thấy càng ngày càng tự do.

Mỗi tia cũng có những tha hóa của chúng. Ví dụ, tha hóa của Tia thứ Nhất là mong muốn kiểm soát người khác và ép người khác tuân theo mình. Khi bạn biểu hiện quyền năng tiêu cực qua những ham muốn và xúc cảm thấp, thì kết quả là năng lượng tâm linh bị hạ giảm hơn khi bạn biểu hiện qua đặc tính tích cực rất nhiều. Điều này có nghĩa là nỗ lực sáng tạo của bạn sẽ không được nhân lên, và kết quả là bạn cảm thấy kém tự do.

1.6. 144 tầng tâm thức

Các chân sư thăng thiên dạy rằng khi một sinh thể tự nhận biết mới lần đầu tiên đầu thai trên trái đất, thì người ấy xuống với một tầng tâm thức đặc thù. Có tất cả 144 tầng tâm thức có thể có được trên trái đất. Khi bạn đạt tới tầng 144, bạn đã học xong các bài học trên trái đất và bạn có thể thăng thiên. Nếu bạn xuống tầng tâm thức thấp nhất, bạn không thể đầu thai trên trái đất nữa và bạn phải đi tới những thế giới thấp hơn hành tinh này.

Một dòng sống mới lần đầu tiên đi xuống ở tầng tâm thức thứ 48. Nó sẽ đi xuống một môi trường học hỏi được bảo vệ dưới sự giám sát trực tiếp của bảy vị Thượng sư. Nếu nó tuân theo khóa học vạch ra, nó sẽ dần dần nâng tâm thức của nó từ tầng tâm thức 48 lên tầng 96. Trong tiến trình nâng cao tâm thức này, nó sẽ học cách dùng mỗi tia sáng cho tới khi nó điều ngự tất cả các tia và có thể biểu thị các tia một cách quân bình. Sau đó nó tiến lên những tầng học hỏi cao hơn vượt trên tầng 96.

Tuy nhiên, một dòng sống có thể quyết định dùng khả năng đồng-sáng tạo của mình cho mục tiêu ích kỷ. Có nghĩa nó có thể đi xuống hay rơi xuống thấp hơn tầng tâm thức thứ 48. Bình thường điều này có nghĩa là dòng sống đó mất đi sự tiếp xúc trực tiếp với các thày tâm linh của mình. Thay vào đó nó sẽ học bằng cách chứng kiến vũ trụ vật chất hành xử như một tấm gương, gửi trả lại cho nó hoàn cảnh vật lý tương ứng với tầng tâm thức của nó. Đó là lý do tại sao hầu hết con người trên trái đất thấy đời sống là một sự vật lộn qua đó lúc nào họ cũng đang đối chọi với thiên nhiên, người khác hay ngay cả Thượng đế. Đây là điều mà các chân sư thăng thiên gọi là Trường đời Cay đắng.

1.7. Về cuốn sách này

Mục đích của bộ sách này là cống hiến mọi người một lời nhắc nhở từ bên ngoài về con đường nội tâm chân chính để đạt được tự điều ngự. Cuốn sách đầu tiên của bộ sách, cuốn Uy lực của cái Ta, giới thiệu tổng quát con đường tâm linh, bao gồm những giải thích sâu xa hơn về những khái niệm đề cập ở trên.

Cuốn sách này gồm hai phần. Phần Một gồm một loạt bài thuyết giảng do chính Đại Thượng sư trao truyền và như đã nói, thày là trưởng giáo của tất cả các tia. Các bài giảng của thày sẽ cho bạn những tuệ trí quý giá và những dụng cụ để đi trên con đường tự điều ngự và nó cũng cho bạn nền tảng tốt để tham gia bài tập ở Phần Hai. Nó cũng cho bạn nền tảng tốt để dùng mỗi cuốn sách sau đó.

Phần hai của cuốn sách sẽ giới thiệu tổng quát về bảy tia sáng tâm linh và các Thượng sư phục vụ như những vị thày tâm linh của mỗi tia. Nó cũng cống hiến bạn những bài tập thực tiễn giúp bạn cầu thỉnh năng lượng thanh khiết của bảy tia sáng trong thời gian bảy tháng.

Mỗi cuốn sách sau đó trong bộ sách sẽ được dành cho một tia sáng. Như đã giải thích, bạn cần sử dụng cả bảy tia để đạt được tự điều ngự và mở khóa toàn bộ quyền năng sáng tạo của mình. Cho nên, bạn sẽ rốt cuộc cần tất cả các cuốn sách sau đó. Tuy nhiên, khi bạn hoàn tất khóa học bảy tháng này, bạn có thể có trực giác biết mình cần làm việc ngay với một trong bảy tia sáng. Nếu vậy, lẽ dĩ nhiên bạn có thể tìm học sách của tia đó thay vì bắt đầu với Tia thứ Nhất.

Trừ khi bạn có cảm nhận mạnh mẽ mình cần làm việc với một tia sáng, thì bạn nên bắt đầu với cuốn đầu tiên về Tia thứ Nhất và tuần tự học tiếp tất cả các cuốn sau theo thứ tự. Đây là cách tốt nhất để tiến tới tầng tâm thức 96. Tiến trình này cũng thích ứng với bạn dù bạn đang ở tầng tâm thức nào hiện nay.

Toàn thể bộ sách được thiết kế để ai ai cũng dùng được, ngay cả những người đang ở dưới tầng 48. Nhưng lẽ tất nhiên không sách nào có thể làm mọi thứ cho bạn. Sách chỉ là những lời nhắc nhở để bạn ý thức và nếu bạn tận dụng những lời nhắc nhở này, chúng sẽ giúp bạn phát triển sự tiếp xúc nội tâm với Hiện diện TA LÀ của bạn và các chân sư thăng thiên. Điều này giúp bạn nhận được hướng dẫn trực giác từ bên trong, một sự hướng dẫn dành cho riêng bạn và nó vượt lên trên những gì bạn nhận được từ bất cứ sách nào.

1.8. Bài truyền đọc là gì?

Các chương trong Phần Một là những bài truyền đọc trực tiếp từ Đại Thượng sư. Trong Phần Hai, mỗi chương gồm một bài truyền đọc ngắn từ vị Thượng sư của một tia. Bài truyền đọc là một dạng giao tiếp từ các chân sư thăng thiên, qua trung gian một người đã được huấn luyện để tiếp nhận các thông điệp này của các thày. Trong trường hợp của tôi, tôi bắt đầu làm công việc truyền đạt này từ năm 2002 và tôi đã nhận được trên một ngàn thông điệp của các chân sư.

Để nhận được một bài truyền đọc, tôi hòa điệu tâm thức mình với vị chân sư và tôi cảm nhận thày tỏa ra một dòng ánh sáng và tâm thức. Tôi không thực sự thấy hay nghe những dòng chữ nhưng tôi hòa điệu vào dòng ánh sáng và tâm thức của thày và dòng đó được chuyển thành chữ nói trong tâm tôi. Do đó, tôi không biết điều gì đang được nói ra cho tới khi chính tôi nghe mình nói dòng chữ đó. Như vậy có ít rủi ro tâm thức của tôi xen vào hay pha màu thông điệp của thày, vì tùy chọn duy nhất mà tôi có được là ngừng bài truyền đọc.

Điều này không có nghĩa là thày có thể nói bất cứ điều gì thày muốn nói xuyên qua tôi, vì tôi cần phải có chút hiểu biết về các khái niệm mà thày đang đề cập. Chẳng hạn, một chân sư không thể trao truyền một bài giảng có chất lượng về vật lý nguyên tử qua tôi vì tôi không có đủ hiểu biết về đề tài này. Như vậy sự chuyển dịch thông điệp của vị chân sư thành ngôn ngữ quả thực tùy thuộc vào những khái niệm có trong tâm tôi và khả năng dùng từ ngữ của tôi. Nguyên tắc là các vị chân sư sử dụng những gì người sứ giả có trong tâm thức của sứ giả và nhân chúng lên. Lẽ tất nhiên, điều này cũng có nghĩa là các thông điệp sẽ dễ hiểu hơn cho những ai cùng một nền văn hóa với người sứ giả. Có thể nói người sứ giả đại diện cho một nhóm người, và tâm thức của người sứ giả chuyển dịch thông điệp khiến nó thích ứng với tâm thức người nhận.

Một bài truyền đọc không đơn giản nhằm mục đích đem lại một sự hiểu biết đường thẳng mà tâm vỏ ngoài có thể nắm được. Các chân sư gài nhiều điều vào một bài truyền đọc, trước hết là một dòng ánh sáng tâm linh mà bạn có thể tiếp nhận. Chính thực là dòng ánh sáng này, hơn là các chữ, đã khiến bài truyền đọc là những dụng cụ tuyệt vời giúp bạn tự thăng vượt. Nếu bạn mở tâm ra khi bạn nghe bài truyền đọc hay ngay cả đọc nó, thì nó có thể xoay chuyển tâm thức bạn ngay tức khắc, đặc biệt nếu bạn đã có sẵn đồng cảm với vị chân sư đang nói.

Quả thực bạn có thể tiếp nhận ánh sáng của chân sư khi đọc bài truyền đọc. Nhưng bạn sẽ có một trải nghiệm mạnh hơn khi nghe bản thu âm bài truyền đọc. Trong tiệm sách trên mạng của chúng tôi (www.morepublish.com) bạn có thể mua và tải xuống thu âm của các bài truyền đọc (bằng tiếng Anh) trong cuốn sách này.

Lời mở đầu

Cuốn sách này là một phần của bộ sách Con đường Tự Điều ngự. Bộ sách này nhằm mục đích cống hiến bạn một khóa học toàn bộ để bạn biết và đạt đuợc những sáng ngộ huyền bí về bảy tia sáng tâm linh. Các sách trong bộ sách này theo một tiến trình và bạn nên học và thực tập các cuốn sách theo thứ tự chúng được phát hành.

Cuốn sách này là cuốn thứ hai trong bộ sách và cuốn đầu tiên là cuốn Uy lực của cái Ta. Cuốn sách đầu giới thiệu nhiều khái niệm cơ bản về con đường tâm linh mà bạn cần biết để có thể tận dụng cuốn sách này và các cuốn sách sau. Cho nên bạn nên đọc cuốn Uy lực của cái Ta trước khi đọc cuốn sách này và các cuốn sau đó trong bộ sách.

Cuốn sách này nhằm mục tiêu dạy bạn biết làm sao bạn đã dùng quyền năng sáng tạo của mình để tạo ra những phàm linh nội tại đã trở nên một thành phần của tâm tiềm thức của bạn. Những phàm linh này gần giống những chương trình máy tính điều khiển những phản ứng của bạn trong một số tình huống. Các phàm linh này hữu dụng trong một thời gian nhưng khi bạn tới lúc cần bước lên một tầng cao hơn trên con đường tâm linh, thì các phàm linh này sẽ ra sức chống lại sự tăng trưởng của bạn. Nếu bạn không ý thức về những phàm linh này và cách khắc phục chúng, thì bạn khó lòng vươn lên cao hơn một tầng tăng triển tâm linh nào đó.

Cuốn sách này được thiết kế như một sách thực tập hầu giúp bạn thể nhập và áp dụng giáo lý tốt hơn. Bạn sẽ đạt được kết quả tốt nhất nếu bạn đọc bài thỉnh tương ứng với chương mà bạn đang học (từ Chương 3 tới Chương 21). Bạn nên đọc một bài thỉnh đặc thù mỗi ngày một lần trong chín ngày và bạn học một phần của bài truyền đọc tương ứng với bài thỉnh trước hay sau khi đọc bài thỉnh. Mỗi buổi tối bạn hãy kêu gọi được dẫn tới nơi nhập thất của Đại Thượng sư ngụ trên Tích Lan.

Bạn đọc bài thỉnh ra tiếng, qua đó bạn thỉnh năng lượng tâm linh có độ rung động cao. Bạn có thể xem thêm chi tiết về các bài thỉnh và cách đọc thỉnh nơi trang mạng www.chansuthangthien.org. Một số bài thỉnh trong trang mạng đó đã được thu âm, và bạn có thể đọc bài thỉnh cùng với bản thu âm.

Qua trang mạng www.chansuthangthien.org, bạn cũng có thể biết thêm về các chân sư thăng thiên và cách các thày trao truyền các bài truyền đọc. Nếu bạn không quen thuộc với quan niệm sa ngã và sa nhân thì bạn có thể đọc quyển Cosmology of Evil (chưa được dịch sang tiếng Việt). Quyển sách này giải thích một cách đầy đủ nhưng dễ hiểu vì sao có những sinh thể hoàn toàn không tôn trọng quyền tự quyết (hay mạng sống) của con người. Quyển sách giải thích tại sao các sinh thể đó sẵn sàng làm mọi chuyện để kiểm soát chúng ta và tiêu diệt những ai không chịu bị kiểm soát.

18 | Thỉnh cầu uy lực và tự do (8 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Hercules và Amazonia và Arcturus và Victoria, Đại thiên thần Michael và Faith và Đại thiên thần Zadkiel và Amethyst, Chân sư MORE và Saint Germain yêu dấu, hãy giúp con khắc phục những trở ngại không cho con tự do trọn vẹn. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Chân sư MORE và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Chân sư MORE, con sẵn sàng tự do với thày, và con sẵn sàng xem xét câu hỏi: “Con có sẵn sàng tự do với Chân sư More chưa?”

Hercules Xanh ngắt, ý chí thày duy nhất,
Trong con còn khoảng trống, thày đổ đầy Lửa Xanh,
Ngọn hải đăng sáng rực, tỏa rạng trên trái đất,
Phục hồi lại sự sống cho tất cả hành tinh.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.2. Chân sư MORE, con sẵn sàng xem xét con có đủ tự do để chia sẻ với thày những quan tâm về sự tăng triển của mình; con sẽ tự do đặt câu hỏi hay sợ câu trả lời của thày.

Hercules Xanh ngắt, thày trí tuệ cao xa,
Tạo cảm giác trong con hiểu biết nơi tất cả.
Nay tâm con rất mới bỗng nhận được khung nền,
Để vượt qua giới hạn của đau đớn nhị nguyên.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.3. Chân sư MORE, con thành thật muốn cái gì hơn là cứ lặp đi lặp lại cùng những khuôn nếp cũ, như con đã làm trong một thời gian dài.

Hercules Xanh ngắt, với tất cả tình thương,
Con dâng lên Thượng đế, hằng hà lời tán thưởng,
Bây giờ con thấy rõ khi cảm được lửa sáng,
Cái ta cũng thăng vượt như đá hóa thành vàng.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khả năng giúp đỡ của thày tùy thuộc mức độ tự do của con – tự do tách ra khỏi trạng thái tâm thức hiện nay, phin lọc nhận thức hiện nay, cách nhìn đời của con.

Hercules Xanh ngắt, chữa lành muôn sự sống,
Bao bọc quanh tất cả, Xanh ngọn lửa Niêm phong.
Con biết ơn quá đỗi được tự tay góp phần
Trong tác phẩm của Ngài đẹp tinh xảo vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.5. Chân sư MORE, con sẵn sàng đứng lùi lại và tự do nhìn vào tầng tâm thức của mình và nhận ra: “Tôi không muốn ở tầng tâm thức này nữa, tôi muốn lên cao hơn.”

Hercules Xanh ngắt, ngôi Đền của Ánh sáng,
Được tỏ lộ cho con lúc dõi nhìn vào trong,
Khi uy lực của thày giục con bước mạnh dạn,
Băng qua bao rặng núi, xuyên qua mọi tấm màn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cách con nhìn đời hiện nay chỉ là một trong nhiều cách nhìn. Có nhiều cách nhìn khác và chỉ bằng cách xem xét các cách này, con mới có cơ hội vượt lên trạng thái tâm thức cao hơn.

Hercules Xanh ngắt, con dâng hiến cuộc đời
Giúp cho cả hành tinh vượt tranh chấp loài người,
Khi lọc lừa nhị đối bị ánh sáng chọc thủng,
Trả lại cho trọn vẹn cái nhìn ở thâm cung.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra nếu con tiếp tục nhìn đời theo cách con nhìn hiện nay mà không chất vấn, con không thể bước lên tầng cao hơn. Chuyện giản dị như vậy.

Hercules Xanh ngắt, chúng con sẽ cởi xiềng,
Mọi sự sống thoát khỏi vi tế nhất nhị nguyên,
Hoàng tử của trần thế không còn gì để nắm,
Khi con đã cùng thày vượt lên trên hoàn toàn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.8. Chân sư MORE, con sẵn sàng lùi lại, nhìn vào trạng thái tâm thức hiện nay của mình và hỏi: “Chân sư MORE, xin thày chỉ cho con thấy con đang ở tầng tâm thức nào. Xin thày chỉ cho con thấy điều gì đang kềm giữ con ngay bây giờ, ngăn cản con đi bước kế tiếp lên tầng cao hơn.”

Hercules Xanh ngắt, với thày con hợp nhất,
Để con mở tim ra cho thực tại của thày,
Ngọn lửa xanh như điện mở mắt cho con thấy
Rằng sống trong chân thực: khát vọng của con đây.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra mức độ con cá nhân hóa những chuyện xảy ra trong cuộc đời mình. Con sẵn sàng nhìn vào đời mình và nhận ra những hoàn cảnh khi người khác nói hay làm điều gì, và con coi điều đó như một tấn công vào chính cá nhân mình.

Hercules Xanh ngắt, nơi nơi thày đổ tràn
Quyền năng vô bờ bến với Hồng ân vô hạn,
Chìa khóa của sáng tạo, chính thày là hiện thân,
Biểu lộ qua ý chí vượt thăng đến Vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

Phần 2 

2.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra những lúc con cảm thấy rằng người khác tấn công con, chế giễu con, tìm cách miệt thị con, tìm cách làm con xấu hổ, tìm cách làm con tức giận. Và vì vậy, con rơi vào khuôn nếp phản ứng.

Arcturus yêu dấu, con nay xin thày phóng
Dòng Lửa Tím của thày cho sự sống tăng triển.
Những vòng tròn ánh sáng cứ không ngừng tỏa rộng,
Trong mỗi hạt nguyên tử cũng đồng nhịp sáng lên. 

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khuôn nếp phản ứng này từ đâu tới. Xin thày giúp con nhận ra nó đến từ các phàm linh mà con đã cho phép xâm nhập vào các thể thấp của con hoặc con đã tạo ra trong các thể thấp của con.

Arcturus yêu dấu, Elohim Tự do,
Chúng con mở tim ra cho thực tại Tánh linh,
Khi cuộc đời nhân thế không còn gì gắn bó,
Con gọi sự sống mới trong Ngọn lửa Tái sinh. 

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cái Ta Biết, là nhận biết thuần túy, không thể thấy những chuyện xảy trên thế gian này dính dáng đến cá nhân nó. Bởi vì nó biết nó không phải là thân thể, nó biết nó không phải là tâm phàm, nó biết nó không phải là các phàm linh.

Arcturus yêu dấu, ở với con mãi mãi,
Ngày mới con sẵn lòng chào đón khi sống lại,
Trái tim con lan rộng ra Vô biên dang trải,
Và bí quyết chiến thắng là ngọn lửa của thày. 

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cái Ta Biết không xem các chuyện xảy ra dính dáng đến cá nhân nó. Con chỉ thấy một chuyện dính dáng đến cá nhân mình khi con nhìn hoàn cảnh xuyên qua phin lọc của một phàm linh.

Arcturus yêu dấu, màu tím và ánh lửa
Ngập từng hạt nguyên tử và nâng nó lên cao,
Ánh sáng đổ đầy hết khoảng không gian ở giữa,
Và ngay cả vật chất cũng sáng rực làm sao. 

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra tuyến phản ứng đầu tiên là phàm linh. Nhưng phàm linh được tạo ra từ một khuôn đúc tư tưởng. Nó không có thật. Nó chỉ là một khuôn đúc tư tưởng được tạo ra trong tâm, và nó được tạo ra dựa trên một cách nhìn chọn lọc về cuộc đời.

Arcturus yêu dấu, Hồng ân biến đổi cả,
Trao cho con uy lực đương đầu mọi thách đố,
Tai con luôn văng vẳng Bài hát của Tự do,
Và con biết Thượng đế yêu thương mình lắm đó. 

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi một phàm linh được tạo ra, nó được tạo ra dựa trên một cách nhìn cá biệt về cuộc đời. Đây là cách nhìn đời mà con đã chấp nhận vì một điều gì đó đã xảy ra cho con trên trái đất, hoặc con đã quyết định tạo ra để đối phó với một số tình huống trên trái đất.

Arcturus yêu dấu, con buông mọi sợ hãi,
Thày Hiện diện thật gần, tưởng chạm được bằng tay,
Khi ánh sáng màu tím ngập toàn cõi bên trong,
Con nhắm hướng thăng thiên, tự nguyện và nhanh chóng.

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra ngay từ lúc con hiện thân ở đây và dám biểu lộ động lực sáng tạo của mình, con đã bị chế giễu, miệt thị và tấn công bằng nhiều cách: thể chất, tình cảm, tư tưởng và thậm chí ở tầng bản sắc.

Arcturus yêu dấu, đem lại thời đại mới,
Trái đất và nhân loại lật qua trang đổi đời,
Ánh sáng thày chuyển hóa, cho con niềm chắc chắn,
Hoàng kim Saint Germain là thực tại hoàn toàn.

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con đến đây như một dòng sống mới với những ý định tốt đẹp nhất và cảm thấy mình như một đứa trẻ ngây thơ. Con đã bị tấn công dữ dội bởi những người muốn miệt thị hoặc tiêu diệt con để ngăn cản con biểu lộ động lực sáng tạo của mình.

Arcturus yêu dấu, chọc thủng cái ảo ảnh
Là rắn có thể địch bao thiên thần dũng mãnh.
Không có tà lực nào ngăn được lửa hùng mạnh
Sẽ lập tức dẹp yên mọi hiềm khích đua tranh.

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con không biết hành xử ra sao và do đó con đã tạo ra một phàm linh để đối phó với tình huống này. Phàm linh này được tạo ra dựa trên ý niệm bản ngã hạn chế mà con có lúc đó.

Arcturus yêu dấu, vì yêu Saint Germain
Nên con cứ thỉnh hoài, một lần thêm một lần,
Ngọn lửa Tím của thày trên trái đất tràn lan,
Cho đôi mắt của thày cũng hạnh phúc ngập tràn.

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

Phần 3

3.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con đã không thể nhìn tình huống một cách rõ ràng bằng Hiện diện TA LÀ của con. Con đã quên rằng con là cái Ta Biết, tức là nhận biết thuần khiết và do đó không cần phải phản ứng với bất cứ chuyện gì xảy ra trên trái đất nhưng có thể cho phép Hiện diện phản ứng.

Đại thiên thần Michael, trong ngọn lửa xanh ngắt,
Không còn bao đêm tối mà chỉ thày có mặt.
Trong hợp nhất với thày, con đã ngập ánh sáng,
Cảnh rực rỡ nhiệm màu hiện ra ngay trước mắt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con đã tin rằng con phải phản ứng với mọi chuyện xảy ra trên trái đất với mức độ tự nhận biết lúc đó của con.

Đại thiên thần Michael, thày cho con che chở,
Sau tấm khiên màu xanh con được sống muôn thuở.
Niêm con khỏi hồn bóng đang lang thang đêm tối,
Con ở trong cõi thày, rực sáng màu xanh tươi.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra bởi vì con không biết phản ứng như thế nào, không muốn phản ứng và không thấy có cách phản ứng nào xây dựng hay hữu ích, nên con đã tạo ra một phàm linh để phản ứng thay con.

Đại thiên thần Michael, thày đem bao uy lực,
Mà hàng triệu thiên thần sẽ ca ngợi công đức.
Thiêu đốt muôn loài quỷ của nghi ngờ sợ hãi,
Con biết thày Có Mặt ở bên con hoài hoài. 

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra phàm linh được tạo ra dựa trên mức độ tâm thức, cách nhìn cuộc đời qua cái ta mà con mang lúc đó. Như vậy, trên bản chất nó là một phàm linh hạn hẹp. Nó chỉ có một số ít chọn lựa khi phản ứng lại tình huống.

Đại thiên thần Michael, ý Thượng đế thày yêu,
Từ Trên thày đem xuống ánh sáng của thiên triều.
Thượng đế chỉ muốn thấy mọi sự sống chuyển vọt,
Vươn cao trên bản ngã là quyền linh chót vót.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra một khi phàm linh được tạo ra, nó bị khóa trong khuôn đúc đã quy định nó. Nó không có khả năng tự nhận biết để thăng vượt khuôn đúc đó, vì vậy nó chỉ có thể phản ứng lại tình huống theo cùng một khuôn nếp.

Đại thiên thần Michael, là bạn thân con đó,
Bao cạm bẫy thế gian, thày dang tay phù hộ.
Ác quỷ không thể sánh được quyền năng ánh sáng,
Nên linh hồn tất cả được bay bổng thênh thang.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra phàm linh chỉ có thể đi tới những hình thái ngày càng cực đoan của khuôn nếp, thí dụ nếu khuôn nếp đó là sự tức giận, thì con có thể ngày càng tức giận nhiều hơn, cho tới khi con gần như lúc nào cũng tức giận, lúc nào cũng sẵn sàng la chửi khi có bất cứ điều gì làm con khó chịu.

Đại thiên thần Michael, như bày trẻ đùa chơi,
Chúng con dìu trái đất thức dậy trong ngày mới,
Nâng địa cầu ra khỏi lề lối đã ăn sâu,
Cho câu chuyện hành tinh được kể lại từ đầu.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.7. Chân sư MORE, xin thày đưa con đến khóa nhập thất của thày Saint Germain tại Hang Biểu tượng và cho con thấy phàm linh phản ứng như thế nào khi con nhìn sự việc như là cá nhân con bị tấn công.

Đại thiên thần Michael, Thượng đế tỏ quyền năng,
Mà chúng con biết thày không ai thể chiến thắng,
Thày không còn tách biệt nên vượt qua chắc chắn,
Mọi mưu mô hung tợn và thâm độc của rắn.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra nếu con cảm thấy xấu hổ hay bị chế giễu khi con cảm thấy không được người khác chấp nhận.

Đại thiên thần Michael, thày đến nâng địa cầu,
Để khắp nơi khắp chốn được tái sinh cùng thấu,
Để tâm của tập thể cùng đi lên một lượt,
Cho chúng con vui mừng mà ngợi ca không ngớt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.9. Chân sư MORE, xin thày chỉ cho thấy phản ứng của con không phải là một phản ứng sáng tạo, một kết quả của lựa chọn. Con đang phản ứng một cách tự động bằng cách rút lui không dùng khả năng tự nhận biết và để phàm linh làm chủ phản ứng của mình.

Đại thiên thần Michael, trái đất nay đổi mới,
Lửa xanh dương bao phủ giống như hạt sương rơi,
Hành tinh nay lóng lánh giữa không gian rộng lớn,
Để chúng con hứng lấy những hồng ân vô tận.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

Phần 4

4.1. Chân sư MORE, xin thày chỉ cho con thấy phàm linh phản ứng ra sao và nó trông như thế nào. Xin thày chỉ cho con thấy những gì phóng tới con không phải là phản ứng sáng tạo vì khi có ai tấn công con, đó không phải là phản ứng sáng tạo từ người đó hay từ tà lực.

Đại thiên thần Zadkiel, dòng chảy nhanh đến nỗi
Trong lửa tím của thày, con lập tức chuyển đổi,
Nhập vào tầng rung động của tự do phơi phới,
Con thoát khỏi kềm chế của cái ta kém cỏi.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra người kia cũng đã cho phép một phàm linh làm chủ tâm họ, và do đó chính phàm linh hung hãn này đang tấn công con. Và bây giờ con phản ứng lại nó với một phàm linh của chính mình.

Đại thiên thần Zadkiel, con khao khát từng ngày
Được cai quản ngọn lửa màu tím của thày đây,
Khi con dùng sức mạnh luyện kim để chuyển hóa,
Và gọi tên Thiên ngữ để giải vây tất cả. 

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là con phản ứng với một phàm linh hung hãn chống trả, hay với một phàm linh thụ động quy phục sự tấn công và tìm cách giải quyết bằng cách giữ nó trong tâm.

Đại thiên thần Zadkiel, ngọn lửa tím quyền năng
Biến đổi cả thế giới trong lực chuyển vô song.
Trái đất khi thức dậy, bắt đầu quay nhanh chóng,
Với đoàn quân thiên thần, ta cùng nhau chiến thắng.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy con có tự trách mình, hoặc cảm thấy mình ngu ngốc, cảm thấy bị chế giễu, xấu hổ hoặc giận mình tại sao không tự vệ hay tấn công lại.

Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu vừa thoát khỏi
Biết bao nhiêu gánh nặng do tâm thức loài người,
Bao day dứt nội tâm giờ đây đã mở lối,  
Tự do ta ôm lấy mà tái tạo cuộc đời.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra phản ứng của con là một phàm linh, nhưng tấn công cũng là một phàm linh. Như vậy, có một phàm linh tấn công và một phàm linh khác phản ứng lại cuộc tấn công.

Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu nâng tốc độ,
Quay nhanh hơn một bậc trong chiến thắng Ki-tô,
Vì chỉ trong Ki-tô, người tù mới giải phóng
Và địa cầu được tắm trong ánh sáng thong dong.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra thật là hoàn toàn vô nghĩa nếu con cho phép cuộc đời mình bị tiêu hao trong những cuộc phàm linh tấn công và tự vệ chống lại phàm linh khác.

Đại thiên thần Zadkiel, bao thế lực đêm tối,
Bị Ánh sáng phân biện của Tự do cột trói,
Hành tinh đã sạch bóng bao tà lực ám muội,
Khi Lửa Tím của thày nhóm lên một đốm mới.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.7. Chân sư MORE, con nhận ra điều này đang tiêu hao cuộc đời và sự chú ý của con, và con quyết tâm nói rằng; “Ngưng lại! Tôi sẽ không cho phép phàm linh tước đi tự do của tôi.”

Đại thiên thần Zadkiel, con yêu thày chân chất,
Cả với Saint Germain con sẽ luôn trung thực,
Hãy giúp con nhìn thấy sứ vụ Thiêng liêng nhất,
Để con tỏa ánh sáng trọn vẹn trên trái đất.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhìn vào phàm linh mà con đang cần đối phó ngay bây giờ, phàm linh chính mà con cho phép làm chủ phản ứng của mình trước những tình huống mà con đang quan tâm.

Đại thiên thần Zadkiel, bóng tối đã lắng chìm,
Khi ngày mới ra đời trong Ánh sáng màu Tím,
Mọi biểu hiện sợ hãi giờ đây đã hoán chuyển,
Đây là lúc con biết Thời Hoàng kim đã đến.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.9. Chân sư MORE, con nay quyết định là con không còn muốn phàm linh này kiểm soát phản ứng của con trước loại tình huống này. Con sẵn sàng sử dụng uy lực và ý chí của mình để lấy một quyết định sáng tạo về cách phản ứng trước những tình huống này.

Đại thiên thần Zadkiel, trong lửa tím thánh thiện,
Nhân loại với hành tinh không bao giờ như trước,
Thời Hoàng kim mà thày Saint Germain mơ ước
Thành sự thật tuyệt vời, con mừng vui chứng kiến.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

Phần 5

5.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra rằng một quyết định sáng tạo là khi con có tự do phản ứng theo cách mà con chưa từng làm trước đây. Con được tự do phản ứng theo cách con muốn phản ứng, không để một phàm linh nào làm chủ phản ứng của con.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.2. Chân sư MORE, con nhận ra là con đã tạo ra một phàm linh. Con thấy trong quá khứ con đã phản ứng nhiều lần theo cách này trong tình huống như thế. Nhưng tại sao bây giờ con lại bị ràng buộc bởi cách mà con phản ứng trong quá khứ? Đây không phải là tự do quyết định. Con không dùng sức mạnh ý chí của mình khi con cho phép một phàm linh làm chủ phản ứng của con vì con không muốn lựa chọn.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.3. Chân sư MORE, con bây giờ lấy lại sức mạnh ý chí của mình, và con sẵn sàng lựa chọn. Vì con nhận ra phàm linh mà con tạo ra nhiều kiếp trước đây, được tạo ra dựa trên ý niệm bản ngã của con vào lúc đó. Nhưng con đã tăng triển. Con đã mở rộng ý niệm bản ngã của mình. Vì vậy, con có khả năng và ý muốn phản ứng một cách chín chắn hơn, có ý thức hơn và có nhận biết nhiều hơn so với trước đây.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra rằng tự do có thể bị mất nếu không chịu lấy quyết định. Nhưng không thể có tự do nếu không chịu lấy những quyết định có ý thức, có chủ tâm và có cân nhắc.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra tự do là một lực tích cực. Phải có uy lực mới có tự do, và uy lực chỉ có thể phát huy qua ý chí. Con không thể có tự do bằng cách thụ động và hy vọng không ai tấn công mình. Vì điều đó sẽ không xảy ra trên trái đất này.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con bắt đầu bỏ ý thức cá nhân trong cuộc sống mình bằng cách nhận ra rằng những người đang tấn công hoặc chế giễu con không thực sự chế giễu cá nhân con. Thậm chí họ không nhìn thấy con, vì họ chỉ nhìn thấy con qua phin lọc của phàm linh đang khống chế tâm thức của họ.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra phàm linh nhìn sự việc qua khuôn đúc đã quy định nó, cái nó thấy chính là khuôn đúc. Nó không nhìn thấy con thực sự là ai. Nó chỉ đơn giản nhìn thấy mô thức được tạo ra trong tâm nó khi nó gặp con, hay phàm linh đang làm chủ cuộc đời con.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra phàm linh trong người kia không nhìn thấy con. Người kia không có ý thức, không có nhận biết. Không ai có thể tấn công con nếu họ hoàn toàn nhận biết họ là một sinh thể tâm linh. Vì lúc đó, họ cũng sẽ nhận biết con là một sinh thể tâm linh.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra một sinh thể tâm linh sẽ không miệt thị một sinh thể tâm linh khác. Nhưng một phàm linh thì sẽ sẵn sàng miệt thị một phàm linh khác hay một sinh thể tâm linh khác. Người kia không thấy sinh thể tâm linh mà con là, họ chỉ thấy một ảo ảnh được tạo ra trong tâm họ khi phin lọc nhận thức của họ tiếp xúc với con.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 6

6.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra nếu họ không tấn công cá nhân con, tại sao con lại cá nhân hóa chuyện này? Đòn tấn công không thực sự nhắm vào cá nhân con. Tại sao con lại cảm thấy cá nhân mình đang bị tấn công?

Ôi Saint Germain, nghệ thuật luyện kim, 
Giải phóng con ngay với ngọn lửa tím.
Ôi Saint Germain, con tăng liên tục,
Dòng chảy tự do không sao khuất phục. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cái Ta Biết – nhận biết thuần khiết – không cảm thấy cá nhân nó bị tấn công. Chính phàm linh xuyên qua đó con nhìn tình huống đang cảm thấy cá nhân nó bị tấn công.

Ôi Saint Germain, điều khiển tài tình
Hình dạng kỷ hà của ngọn lửa tím.
Ôi Saint Germain, ở thày con tìm
Thấy được công thức giải thoát chúng sinh. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra phàm linh của con được tạo ra để cảm thấy cá nhân nó bị tấn công, và để đối phó với loại tình huống này một cách đặc trưng. Con không phải là phàm linh, và con không cần cảm nhận những gì phàm linh cảm nhận. Mặc dù phàm linh coi chuyện này là một tấn công cá nhân, con không cần nhìn giống nó.

Ôi Saint Germain, Tự do bao la,
Chính là tình thương giải thoát tất cả.
Ôi Saint Germain, chúng con yêu quá
Lửa tím cứ giục con càng hơn xa. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.4. Chân sư MORE, con nhận ra cái “ta” phản ứng với tình huống không phải là cái “ta” đang đọc bài thỉnh này. Bởi vì con có khả năng tự hỏi cái ta nào đang phản ứng với tình huống, có một cái ta là cái Ta Biết và có một cái ta chỉ là phàm linh – và cái ta nghĩ nó là phàm linh không có thật. Phàm linh không có thật.

Ôi Saint Germain, chúng con nối kết,
Từ bỏ nhị nguyên, thăng lên siêu việt.
Ôi Saint Germain, cái ta tinh khiết,
Khoa học lửa tím vững tay cầm trịch.

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con không bị ràng buộc bởi phản ứng của phàm linh. Con không bị ràng buộc bởi khuôn đúc. Bây giờ con quyết định sáng tạo nhìn vào khuôn đúc, xem nó hạn chế con như thế nào và nói: “Tôi không muốn nhìn tình huống qua khuôn đúc này. Tôi muốn nhìn nó một cách sáng tạo hơn. Tôi muốn có tự do nhìn tình huống này với tầm nhìn cao hơn và do đó phản ứng từ tầm nhìn cao hơn.”

Ôi Saint Germain, sự thật rõ ràng, 
Trong ánh sáng tím, chẳng gì băn khoăn.
Ôi Saint Germain, niêm kỹ hào quang,
Luân xa con được lửa thày hàn gắn. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra những phàm linh mà con tạo ra đang hạn chế uy lực của con. Chúng nói rằng con không thể phản ứng với một tình huống một cách sáng tạo, con phải phản ứng y như những lần trước bởi vì con phải phản ứng qua phàm linh.

Ôi Saint Germain, là thuật biến hóa,
Lửa tím giải phóng nguyên tử thăng hoa.
Ôi Saint Germain, biến chì thành vàng,
Biến cả viễn kiến mà chúng con mang. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con không thể hiện quyền năng sáng tạo của con nếu con để phàm linh làm vậy. Con càng tạo ra nhiều phàm linh, con càng hạn chế uy lực sáng tạo từ Hiện diện TA LÀ chảy qua con.

Ôi Saint Germain, nghệ thuật vượt thăng,
Với thày con sẽ hợp nhất vĩnh hằng.
Ôi Saint Germain, thoát khỏi tâm hồn,
Ôi niềm vui sướng biết thày trong con.

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra sa nhân biết rằng nếu họ tấn công con một cách tàn ác và bất công, thì con sẽ bị chấn thương đến mức họ có thể lừa con đánh mất sự ngây thơ của mình khi nghĩ rằng con phải phản ứng lại cuộc tấn công với một tầng mức tâm thức tương tự.

Ôi Saint Germain, tinh thần cao thượng,
Là chìa khoá cho hóa học tâm linh.
Ôi Saint Germain, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra, để giữ sự ngây thơ, con phải cho phép sa nhân liên tục tấn công con, và giữ mình trong suốt để cú đánh đi xuyên qua con. Sự ngây thơ tối hậu là sự trong suốt, khi ấy bất cứ gì họ phóng tới con với tâm thức sa ngã sẽ đi xuyên qua con.

Ôi Saint Germain, thày đang Hiện diện, 
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tự do Thượng đế chúng con rải truyền. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

Phần 7 

7.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra tà lực không thể buộc con phản ứng lại chúng. Chính con đã chọn lựa phản ứng ở cùng tầng tâm thức. Bây giờ con bình tĩnh nhìn vào phàm linh đang kìm hãm con ở tầng tâm thức này và nói: “Ngươi lừa ta đủ rồi. Ngươi sẽ không kiểm soát cuộc đời của ta thêm nữa. Ngươi sẽ không kiểm soát phản ứng của ta đối với loại tình huống này nữa, và từ nay ta sẵn sàng quyết định một cách ý thức phải phản ứng như thế nào.”

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cách thay đổi có chủ đích phản ứng của con với một tình huống hay người khác. Xin thày giúp con thấy là nếu con muốn thay đổi một mối quan hệ, thì con là người phải làm gì đó để thay đổi cách nó vận hành. Và điều đó có nghĩa là con phải thay đổi phản ứng của mình và con phải thay đổi cách con đối xử với người đó.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con chấp nhận rằng con đã thực thi ý chí tự do của mình bằng cách thay đổi phản ứng của con. Con sẽ không cho phép tâm thức rắn lừa dối con nghĩ rằng con có trách nhiệm phải thay đổi người khác. Con đang tiếp tục từ bỏ ý thức cá nhân khi phản ứng với người kia một cách khách quan.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra rằng một trong những cách chính mà sa nhân dùng để cám dỗ con đi vào khuôn nếp hành động-phản ứng là khiến con tin rằng phải đạt được một kết quả nào đó. Họ thường dùng tư duy cuồng đại cho rằng có một đại nghĩa cao cả đòi hỏi sự thể hiện một kết quả nào đó.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con thoát khỏi khuôn nếp hành động-phản ứng bằng cách thấy rằng tâm thức nhị nguyên luôn luôn có hai đối cực, và con có cả hai khi con bị mắc kẹt trong tâm thức này.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra nhân tính cao của con – là tâm linh của con – và nhìn thấy phàm linh đã khiến con phản ứng một cách vô nhân đối với người khác và với chính mình.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra phàm linh, thấy nó không phải là mình, thấy nó không thật, và từ đó quyết định hoàn toàn buông bỏ nó mà không cảm thấy tội lỗi vì đã tạo ra nó.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra phàm linh, mà không bị rơi vào một phàm linh khác chỉ biết phản ứng với mặc cảm tội lỗi và tự trách, vì nó được tạo ra dựa trên khuôn đúc này.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con vượt qua tình trạng tiến thoái lưỡng nan, khi con tạo ra một phàm linh phản ứng vô nhân đạo và một phàm linh khác tự trách mình đã phản ứng vô nhân đạo. Hậu quả là con rất khó nhận ra phàm linh đầu vì con biết rằng phàm linh sau sẽ chiếm lấy phản ứng của con và khiến con cảm thấy khó chịu.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 8

8.1. Chân sư MORE, con sẵn sàng nắm lấy tay thày và nhìn cả hai phàm linh và thấy rằng sự tự trách không đến từ Thượng đế bởi vì Hiện diện TA LÀ của con không trách cứ con bất cứ điều gì con đã làm trên trái đất này. Nó thấy rằng tất cả đều không thật; vì hành tinh này chỉ là một phần của bãi chơi cát toàn vũ.

Ôi Saint Germain, nghệ thuật luyện kim, 
Giải phóng con ngay với ngọn lửa tím.
Ôi Saint Germain, con tăng liên tục,
Dòng chảy tự do không sao khuất phục. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

8.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy rằng không có gì trên trái đất thường hằng và có thật. Và nếu nó không thường hằng và có thật, thì tại sao con phải mang nó theo như một phần của dòng sống mình? Chính phàm linh trong tâm con đã mang nó theo, nhưng con hơn là phàm linh.

Ôi Saint Germain, điều khiển tài tình
Hình dạng kỷ hà của ngọn lửa tím.
Ôi Saint Germain, ở thày con tìm
Thấy được công thức giải thoát chúng sinh. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

8.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con sử dụng động lượng của mình để đi vào kho sử liệu akasha và hướng một tia sáng ánh sáng chính xác như tia la-de để xóa sử liệu nguyên thủy trong kho akasha.

Ôi Saint Germain, Tự do bao la,
Chính là tình thương giải thoát tất cả.
Ôi Saint Germain, chúng con yêu quá
Lửa tím cứ giục con càng hơn xa. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

8.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra sự thực rằng khi một điều được xóa khỏi sử liệu akasha, con đã hoàn thành yêu cầu như Thượng đế nói: “Ta sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của họ nữa.” Và đó là lúc con có thể gạt bỏ và phá tan khuôn đúc tư tưởng đã tạo ra phàm linh, đã giữ tình huống trong thể ký ức của con, liên tục sử dụng nó để trách móc con đã sai lầm trong quá khứ.

Ôi Saint Germain, chúng con nối kết,
Từ bỏ nhị nguyên, thăng lên siêu việt.
Ôi Saint Germain, cái ta tinh khiết,
Khoa học lửa tím vững tay cầm trịch.

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

8.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy rằng khi con đã thăng vượt tâm thức khiến con lựa chọn như thế trong quá khứ, không còn lý do để con phải ghi nhớ chuyện này trong các thể thấp của mình. Vì thành tựu tích cực của sự thăng vượt tầng mức tâm thức đó bây giờ là một phần của căn thể (causal body) của con.

Ôi Saint Germain, sự thật rõ ràng, 
Trong ánh sáng tím, chẳng gì băn khoăn.
Ôi Saint Germain, niêm kỹ hào quang,
Luân xa con được lửa thày hàn gắn. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

8.6. Chân sư MORE và Saint Germain, xin các thày giúp con có cái biết bên trong – kinh nghiệm trực tiếp – biết rằng con có thể hoàn toàn tự do thoát khỏi một tình huống tiêu cực trong quá khứ. Có thể hoàn toàn thăng vượt cái con nghĩ là một sai lầm và biến nó thành một kinh nghiệm tích cực, một kinh nghiệm hỗ trợ sự sống, hỗ trợ tăng trưởng.

Ôi Saint Germain, là thuật biến hóa,
Lửa tím giải phóng nguyên tử thăng hoa.
Ôi Saint Germain, biến chì thành vàng,
Biến cả viễn kiến mà chúng con mang. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

8.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con kết nối với sự thơ ngây của trẻ thơ, khi con biết rằng bất cứ sai lầm nào đều có thể làm tốt trở lại, thăng vượt, bỏ lại đằng sau.

Ôi Saint Germain, nghệ thuật vượt thăng,
Với thày con sẽ hợp nhất vĩnh hằng.
Ôi Saint Germain, thoát khỏi tâm hồn,
Ôi niềm vui sướng biết thày trong con.

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

8.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận thấy con rất muốn làm điều tốt, đến độ con có khuynh hướng tự trách mình khi con phạm lỗi. Tuy nhiên, cái Ta Biết biết rằng ở tầng mức của Hiện diện TA LÀ, mọi chuyện xảy ra trên trái đất đều có thể biến thành một kinh nghiệm tích cực.

Ôi Saint Germain, tinh thần cao thượng,
Là chìa khoá cho hóa học tâm linh.
Ôi Saint Germain, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

8.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con ý thức sự kiện cuộc sống trên trái đất – ngay cả trong tình trạng hiện nay của hành tinh này – có thể trở thành một kinh nghiệm hoàn toàn tích cực. Con đi từ trải nghiệm học hỏi tích cực này sang trải nghiệm học hỏi tích cực khác và con liên tục thăng vượt chính mình trong một vòng xoáy đi lên.

Ôi Saint Germain, thày đang Hiện diện, 
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tự do Thượng đế chúng con rải truyền. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

16 | Thỉnh cầu uy lực và an bình (7 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Hercules và Amazonia và Peace và Aloha, Đại thiên thần Michael và Faith và Đại thiên thần Uriel và Aurora, Chân sư MORE và Nada yêu dấu, hãy giúp con khắc phục những vết thương đang xáo trộn sự an bình nội tâm của con. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Chân sư MORE và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra điều mà chúng con trên trái đất gọi là quyền uy chỉ là quyền uy trong một bối cảnh nào đó, vì tất cả đều tương đối, ít nhất là trong vũ trụ vật chất.

Hercules Xanh ngắt, ý chí thày duy nhất,
Trong con còn khoảng trống, thày đổ đầy Lửa Xanh,
Ngọn hải đăng sáng rực, tỏa rạng trên trái đất,
Phục hồi lại sự sống cho tất cả hành tinh.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra mục đích của con đường tu là giúp con mở khóa quyền năng thật của con, quyền năng sáng tạo đến từ Hiện diện TA LÀ của con. Hiện diện của con khao khát cho quyền năng này tuôn chảy xuyên qua con khi con trở thành cánh cửa mở.

Hercules Xanh ngắt, thày trí tuệ cao xa,
Tạo cảm giác trong con hiểu biết nơi tất cả.
Nay tâm con rất mới bỗng nhận được khung nền,
Để vượt qua giới hạn của đau đớn nhị nguyên.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra mục đích của con đường tu không phải là nâng mình lên để có quyền uy theo tiêu chuẩn đánh giá của người phàm, mà là để con trở thành cánh cửa mở cho quyền uy của Thượng đế.

Hercules Xanh ngắt, với tất cả tình thương,
Con dâng lên Thượng đế, hằng hà lời tán thưởng,
Bây giờ con thấy rõ khi cảm được lửa sáng,
Cái ta cũng thăng vượt như đá hóa thành vàng.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra quyền uy của Thượng đế muốn biểu lộ trên trái đất, nhưng nó sẽ không biểu hiện theo kỳ vọng và tiêu chuẩn con người.

Hercules Xanh ngắt, chữa lành muôn sự sống,
Bao bọc quanh tất cả, Xanh ngọn lửa Niêm phong.
Con biết ơn quá đỗi được tự tay góp phần
Trong tác phẩm của Ngài đẹp tinh xảo vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra ngày nào con còn ôm chặt những kỳ vọng và tiêu chuẩn, tâm của con sẽ là cánh cửa đóng.

Hercules Xanh ngắt, ngôi Đền của Ánh sáng,
Được tỏ lộ cho con lúc dõi nhìn vào trong,
Khi uy lực của thày giục con bước mạnh dạn,
Băng qua bao rặng núi, xuyên qua mọi tấm màn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra nếu trong tiềm thức, con đặt điều kiện bắt quyền năng sáng tạo của Thượng đế phải biểu hiện qua con như thế nào, và như thế các van luân xa của con khép lại.

Hercules Xanh ngắt, con dâng hiến cuộc đời
Giúp cho cả hành tinh vượt tranh chấp loài người,
Khi lọc lừa nhị đối bị ánh sáng chọc thủng,
Trả lại cho trọn vẹn cái nhìn ở thâm cung.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra liệu con có mơ ước có quyền năng đặc biệt, trổ tài làm phép lạ để thuyết phục mọi người về thực tại của cõi tâm linh chăng?

Hercules Xanh ngắt, chúng con sẽ cởi xiềng,
Mọi sự sống thoát khỏi vi tế nhất nhị nguyên,
Hoàng tử của trần thế không còn gì để nắm,
Khi con đã cùng thày vượt lên trên hoàn toàn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra hầu hết những mơ ước và mong chờ này đều xuất phát từ tự ngã, và chúng là “ảo tưởng vĩ đại”, mơ ước mình bất thần thay đổi nhờ một phép lạ nào đó, và sau đó mọi người coi mình là một người đặc biệt.

Hercules Xanh ngắt, với thày con hợp nhất,
Để con mở tim ra cho thực tại của thày,
Ngọn lửa xanh như điện mở mắt cho con thấy
Rằng sống trong chân thực: khát vọng của con đây.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra thày không mong muốn nâng đệ tử lên một địa vị cao cả theo tiêu chuẩn thế gian, vì thày mong muốn đệ tử là cánh cửa mở cho uy lực thật sự.

Hercules Xanh ngắt, nơi nơi thày đổ tràn
Quyền năng vô bờ bến với Hồng ân vô hạn,
Chìa khóa của sáng tạo, chính thày là hiện thân,
Biểu lộ qua ý chí vượt thăng đến Vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

Phần 2 

2.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con đã bị sa nhân tấn công như thế nào, khiến con dập tắt khả năng sáng tạo của mình, quy phục sa nhân và cảm thấy mình bất lực. Con cảm thấy không thể đương đầu nổi cơ cấu quyền lực của sa nhân.

Ôi Elohim Peace, trong Ngọn lửa Kết hợp,
Nhị nguyên không còn chỗ để bày trò cuộc chơi, 
Con biết mọi hình tướng tuôn ra từ một cội,
Con lấy uy lực đó định ra hướng đi mới. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là sau nhiều kiếp cảm thấy bất lực, con nảy sinh ước muốn có một quyền lực thần kỳ từ ngoài đến và cải sửa mọi chuyện cho hoàn mỹ. Đây là nguyên nhân sâu xa của ảo tưởng vĩ đại.

Ôi Elohim Peace, hồi chuông đã vang rền,
Khiến từng hạt nguyên tử ca hát và rung lên.
Con nay bỏ lại hết ý niệm ngã riêng biệt
Khi con vượt biển cả của luân hồi trùng điệp. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra tái lâm của Ki-tô không phải là Giê-su trở lại thế gian trong một biểu hiện không thể phủ nhận, mà là hàng chục ngàn người bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô cá nhân của họ.

Ôi Elohim Peace, thày hãy giúp con ngộ
Rằng Giê-su giáng thế để ban con Ngọn lửa,
Rải cho ai sẵn lòng rũ hết chuyện ganh đua,
Nhập sự sống bất tận mà theo chân Ki-tô. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cách vượt qua cảm giác bất lực này là kết hợp Tia thứ nhất và Tia thứ sáu để tâm hoàn toàn bình an với sự bất lực.

Ôi Elohim Peace, qua mắt thày con biết
Rằng chỉ trong cái Một con mới mong giải thoát,
Và cũng thấy được rằng chẳng vật gì tách biệt,
Khi cái ngã phàm phu, con buông bỏ đoạn tuyệt. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra do cảm thấy bất lực khi đối mặt với sa nhân và sự lạm dụng quyền lực trắng trợn của họ, con đã chấp nhận lời dối trá khác của họ, đó là kế hoạch vận hành vũ trụ của Thượng đế có điều gì không ổn.

Ôi Elohim Peace, thày chỉ con lối đi, 
Ngừng đấu đá nhị nguyên, con thông sạch tâm trí,
Thày đâm xuyên ảo giác thời gian lẫn không gian,
Đem Hồng ân Bất tận tiêu hủy mọi phân ly. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra các sa nhân tuyên bố rằng cách Thượng đế thiết kế vũ trụ có điểm sai lầm, đó là Thượng đế đã ban cho chúng ta quyền tự quyết, khiến chúng ta có thể đi vào tâm thức nhị nguyên và bị lạc đường.

Ôi Elohim Peace, tên thày sao đẹp quá,
Nỗi nhị nguyên tủi hổ trong con thày giải tỏa,
Trút gánh nặng sợ hãi, địa cầu được tự do,
Và chào đón thái bình hiển hiện khắp đây đó. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra sự thực là cách duy nhất chúng con có thể gia tăng tự nhận biết là có quyền tự quyết hoàn toàn. Cách duy nhất chúng con trở thành Thượng đế, là mục tiêu của cuộc sống, là chúng con có quyền tự quyết và dùng nó.

Ôi Elohim Peace, với Ki-tô bên cạnh,
Không thế lực nhị nguyên nào có thể lẩn tránh,
Chính qua sự rung động của Ngọn lửa Hoàng kim
Mà ảo ảnh sự chết được Ki-tô nhận chìm. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra quyền tự quyết luôn luôn tự do bởi vì lúc nào con cũng có thể xóa bỏ một quyết định cũ bằng một quyết định mới. Con không bao giờ có một lựa chọn có thể lấy đi quyền thay đổi lựa chọn đó.

Ôi Elohim Peace, thày đem vào thế giới
Lửa Tái sinh Vũ trụ mà chẳng ai ngăn nổi,
Chúng con từ bỏ hẳn mọi ý niệm “cái tôi”,
Để Ánh sáng của thày trong chúng con chiếu rọi.

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra sa nhân phóng chiếu là có điều gì không ổn, sau đó họ phóng chiếu quan điểm nhị nguyên là điều không ổn là giờ đây có một tà lực có khả năng lật đổ quyền uy của Thượng đế.

Ôi Elohim Peace, hòa bình con cảm được,
Mọi ký ức chiến tranh thày đã khuây khỏa hết,
Bao thế lực xung khắc, địa cầu đã thăng vượt,
Và phục hồi hành tinh trở về với thanh khiết. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

Phần 3

3.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra có hai loại sa nhân: một loại dùng lừa dối và loại kia dùng bạo lực và lạm dụng quyền lực.

Đại thiên thần Michael, trong ngọn lửa xanh ngắt,
Không còn bao đêm tối mà chỉ thày có mặt.
Trong hợp nhất với thày, con đã ngập ánh sáng,
Cảnh rực rỡ nhiệm màu hiện ra ngay trước mắt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra các thày rắn lan truyền ảo tưởng rằng có cái gì không ổn – nhưng con sẽ là người chỉnh sửa. Con sẽ làm điều mà Thượng đế chính Ngài không làm được, và do đó con phải tham gia trận chiến cuồng đại giữa thiện và ác.

Đại thiên thần Michael, thày cho con che chở,
Sau tấm khiên màu xanh con được sống muôn thuở.
Niêm con khỏi hồn bóng đang lang thang đêm tối,
Con ở trong cõi thày, rực sáng màu xanh tươi.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra các sa nhân phóng chiếu rằng chúng con phải tìm cách có tối đa quyền lực, hoặc hỗ trợ quyền lực cho các sa nhân đang tìm cách chỉnh sửa vấn đề.

Đại thiên thần Michael, thày đem bao uy lực,
Mà hàng triệu thiên thần sẽ ca ngợi công đức.
Thiêu đốt muôn loài quỷ của nghi ngờ sợ hãi,
Con biết thày Có Mặt ở bên con hoài hoài. 

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.4. Chân sư MORE và Nada, xin các thày giúp con dùng khả năng suy luận của mình để nhìn vào trận chiến cuồng đại và tư duy cuồng đại đằng sau nó.

Đại thiên thần Michael, ý Thượng đế thày yêu,
Từ Trên thày đem xuống ánh sáng của thiên triều.
Thượng đế chỉ muốn thấy mọi sự sống chuyển vọt,
Vươn cao trên bản ngã là quyền linh chót vót.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra uy lực của Thượng đế không có mục đích biểu hiện một số điều kiện trên trái đất. Uy lực của Thượng đế tôn trọng một thực tế giản dị: trái đất là một lớp học.

Đại thiên thần Michael, là bạn thân con đó,
Bao cạm bẫy thế gian, thày dang tay phù hộ.
Ác quỷ không thể sánh được quyền năng ánh sáng,
Nên linh hồn tất cả được bay bổng thênh thang.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra quy luật tối hậu trên trái đất là Luật Tự Quyết. Uy lực Thượng đế sẽ không thay đổi mọi thứ trong xã hội con người, cho dù là để thể hiện viễn quan của Thời đại Hoàng kim.

Đại thiên thần Michael, như bày trẻ đùa chơi,
Chúng con dìu trái đất thức dậy trong ngày mới,
Nâng địa cầu ra khỏi lề lối đã ăn sâu,
Cho câu chuyện hành tinh được kể lại từ đầu.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra uy lực của Thượng đế sẽ không áp đặt Thời đại Hoàng kim lên nhân loại, vì nhân loại phải đồng-sáng tạo Thời đại Hoàng kim bằng cách sử dụng khả năng đồng-sáng tạo của mình. Mục đích không phải là biểu hiện Thời đại Hoàng kim theo một thiết kế vật lý vỏ ngoài. Mục đích là giúp con người nâng cao tâm thức.

Đại thiên thần Michael, Thượng đế tỏ quyền năng,
Mà chúng con biết thày không ai thể chiến thắng,
Thày không còn tách biệt nên vượt qua chắc chắn,
Mọi mưu mô hung tợn và thâm độc của rắn.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra viễn quan rộng lớn là quyền tự quyết phải được phép trải bày ra. Một số chuyện trên trái đất không đạt được tiềm năng cao nhất của chúng, nhưng điều này không có nghĩa là con nên tham gia một trận chiến cuồng đại chống lại những người mà con coi là nguyên nhân của bất công.

Đại thiên thần Michael, thày đến nâng địa cầu,
Để khắp nơi khắp chốn được tái sinh cùng thấu,
Để tâm của tập thể cùng đi lên một lượt,
Cho chúng con vui mừng mà ngợi ca không ngớt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con không mong có quyền lực vật lý cho con khả năng bước vào một hoàn cảnh và thay đổi nó tức khắc. Con nhận ra là hành động này sẽ chỉ hỗ trợ một phe sa nhân.

Đại thiên thần Michael, trái đất nay đổi mới,
Lửa xanh dương bao phủ giống như hạt sương rơi,
Hành tinh nay lóng lánh giữa không gian rộng lớn,
Để chúng con hứng lấy những hồng ân vô tận.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

Phần 4

4.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con không muốn dùng quyền năng tâm linh hỗ trợ sa nhân đang chống lại mục tiêu của Thượng đế.

Đại thiên thần Uriel, với uy lực dũng mãnh,
Các thiên thần hòa bình nuốt trọn hết chiến tranh. 
Bọn quỷ dữ hung hăng không thể nào địch nổi
Ánh sáng đang thiêu chúng, lửa rực lên sáng ngời.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra việc con có quyền năng tâm linh lớn trong khi vẫn còn viễn quan giới hạn là một điều rất nguy hiểm.

Đại thiên thần Uriel, âm thanh vang cùng thấu,
Khi hàng triệu thiên thần góp giọng ca hợp tấu, 
Tiếng hát nâng cường độ chọc thủng qua đêm thâu,
Và mọi người bỗng thấy sự duy nhất nhiệm màu.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra nếu con có quyền năng, viễn quan giới hạn sẽ khiến con lạm dụng quyền lực, và như thế con cho sa nhân thêm rất nhiều năng lượng tâm linh, giúp chúng kiềm tỏa con người hơn nữa.

Đại thiên thần Uriel, từ trên Ngai Cao ngất,
Hàng triệu cái kèn đồng vang lên Âm Duy nhất, 
Tan hết mọi bất hòa trong ca khúc hài hòa,
Là âm của mọi âm, đời giải thoát mở ra.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra điều con thực sự cần xây dựng là một viễn quan cao hơn. Thày Nada, hãy chỉ cho con chìa khóa để có viễn quan cao hơn là trước tiên đạt được sự bình an nội tâm. Và điều này đạt được bằng cách xem xét Luật Tự Quyết và vì sao phải cho phép nó trải bày.

Đại thiên thần Uriel, mọi chiến tranh chấm dứt,
Khi thày đem thông điệp từ trái tim Duy nhất, 
Hòa bình trong tim người trổi lên thành hợp xướng
Cứ thế lớn thêm mãi trong vòng xoáy yêu thương.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra bất lực theo nghĩa vật lý không dính dáng tới quyền năng tâm linh, vì quyền năng tâm linh đến từ bên trong.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình thày vô biên,
Giải vây hành tinh khỏi mọi sinh thể hiếu chiến, 
Chiến tranh là nhà tù mà con đã vượt ngục,
Ôm chầm lấy bình an của đoàn kết chân thực.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con không cần xin phép một thẩm quyền thế gian để đi vào nội tâm, tìm thấy vương quốc mà Giê-su nói có ở trong con, và bắt đầu là cánh cửa mở cho sự biểu hiện uy lực đến từ vương quốc này.

Đại thiên thần Uriel, con thỉnh cầu thiết tha,
Thày lộ ra Duy nhất sẽ kết hợp tất cả, 
Giúp con thấy viễn ảnh của hòa bình không xa,
Khi tranh chấp xung đột, chúng con đã buông xả. 

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra không một thẩm quyền nào trên trái đất có thể cản con làm chuyện này. Đây là bài học cốt yếu trên con đường tâm linh.

Đại thiên thần Uriel, sự sống thày phụng sự,
Giải vây con thoát khỏi đấu tranh và phân hóa,
Việc quên đi tự ngã đích thực là chìa khóa
Để sống cuộc đời mình cho thật sự thuận hòa.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con không cần xin phép bất cứ thẩm quyền nào trên trái đất để mở tâm và cho phép uy lực của Hiện diện TA LÀ tuôn chảy xuyên qua con. Thày Nada, xin thày giúp con lĩnh hội và thể nhập bài học này.

Đại thiên thần Uriel, địa cầu nâng tâm thức,
Khỏi mây mù nhị nguyên chỉ đem đến tiêu diệt,
Lửa Hòa bình của thày, con thỉnh cầu tha thiết,
Ra lệnh cho tranh cãi nhỏ mọn phải dứt tuyệt.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra ngay cả khi một người bị áp bức bởi kẻ độc tài tàn ác nhất, đó là bởi vì Quyền Tự Quyết bắt buộc rằng nếu người ấy không chịu học các chân sư thăng thiên, họ phải học từ Trường đời Cay đắng.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình là chuyện thường
Khi địa cầu hưởng ứng một viễn kiến cao hơn,
Hòa bình ở bên trong, người mở tâm rộng lớn,
Thì Thời đại Hoàng kim sẽ là phần giải thưởng.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

Phần 5

5.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra từ lâu rồi con đã quyết định con sẵn sàng nhìn vào cái gì đó bên trong mình.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhìn trái đất, nhìn tất cả mọi chuyện đang xảy ra, nhìn tất cả mọi chuyện xảy ra trong lịch sử, và nhận ra tất cả đều là sự trải bày của quyền tự quyết.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra không điều gì có thể xảy ra cho con người mà không phản ánh trạng thái tâm thức của họ.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhìn trái đất và nói: “Con thấy thiết kế của Thượng đế thật tài tình khi cho quyền tự quyết được trải bày.”

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhìn vào ảo tưởng của tư duy cuồng đại, ảo tưởng cho rằng thiết kế của Thượng đế có điều gì hoàn toàn sai lầm, và nói: “Tôi không còn tin bạn nữa. Tôi thấy cái giả đằng sau bạn.” Lúc đó, con có thể bình yên với chuyện đang là.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhìn lại cảm giác bị hất hủi khi sa nhân miệt thị nỗ lực sáng tạo của con. Xin thày giúp con nhận ra tình huống này không tránh được, vì sa nhân có quá nhiều kiểm soát trên trái đất và vì con ở trong trạng thái tâm thức tương đối non nớt.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra đây giản dị là một hậu quả không tránh được. Cảm giác bị hất hủi khi con xuống trái đất lần đầu là cái giá phải trả của việc con xuống đây.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con đến đây với ước muốn thay đổi một số chuyện theo viễn quan của mình.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.9. Chân sư MORE và Nada, xin các thày giúp con chất vấn viễn quan này và nhận ra sự khác biệt giữa phụng sự thật và phụng sự giả, giữa phụng sự phát xuất từ bình an nội tâm hoàn toàn và phụng sự phát xuất từ bất an, nghĩa là từ ý niệm có cái gì sai lầm cần được chỉnh sửa.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 6

6.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi con có tư duy cuồng đại, khi con muốn thay đổi điều gì đó dựa trên một viễn quan đã định sẵn, con không thể là cánh cửa mở cho quyền năng sáng tạo của Hiện diện TA LÀ của con.

Chân sư Nada, cái đẹp quyền năng,
Nở ra như một đóa hoa tuyệt trần.
Chân sư Nada, ôi sao thâm trầm, 
Ý chí chinh phục được cả thời gian. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con đang đặt viễn quan của mình lên trên điều mà Hiện diện TA LÀ có thể và phải biểu lộ qua con, và viễn quan này dựa trên một cái nhìn hạn hẹp vì con đang hiện thân trong cõi vật lý.

Chân sư Nada, thày là cội nguồn
Minh triết chảy ra như dòng nước cuốn.
Chân sư Nada, tâm thày cường tráng, 
Dâng lên theo cánh bài ca thường hằng. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con không thể tránh bắt đầu với một tầm nhìn hạn hẹp khi con hiện thân trong một hành tinh dày đặc như trái đất.

Chân sư Nada, hương thơm tuyệt hảo,
Tình thương của thày từ cõi thiên thai.
Chân sư Nada, hiền dịu từ ái, 
Nương cánh tình yêu con vươn lên hoài. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra tiến trình học cách biểu hiện khả năng đồng-sáng tạo gồm hai phần. Con phải học về năng lượng sáng tạo của bảy tia sáng, nhưng con cũng phải học cách biểu hiện bảy tia một cách sáng tạo bằng cách khắc phục những khái niệm giả hủ hóa bảy tia.

Chân sư Nada, ánh sáng Mẹ đây,
Như diều phơi phới, tim con bay nhảy.
Chân sư Nada, trong mắt của thày,
Sự sống trinh bạch như hạt sương mai. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con đang đối đầu một kịch bản trong đó con bắt đầu với một viễn quan hạn chế, và phải trong lọc viễn quan này cho tới khi con trở thành cánh cửa hoàn toàn mở ở tầng tâm thức 96.

Chân sư Nada, thày đem chân lý,
Như chim buổi sáng hát bản tình ca.
Chân sư Nada, bốn thể phàm ngã, 
Tình yêu của thày hàn gắn được cả. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con buông bỏ một số khía cạnh của tâm thức sa ngã và tiêu chuẩn sáng tạo mà sa nhân áp đặt qua tư duy cuồng đại và quan niệm thiết kế của Thượng đế có điều sai lầm.

Chân sư Nada, yên tâm phục vụ,
Bao nhiêu tình cảm giải hóa sạch rồi.
Chân sư Nada, cuộc đời hứng thú, 
Và đám rối dương* sáng như mặt trời.
(*: solar plexus) 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con hiểu ra tầm quan trọng của việc vượt qua tư duy cuồng đại, đạt được tâm bình an, và phụng sự trong trạng thái bình an thay vì trạng thái sợ hãi, giận dữ, hận thù hay kích động.

Chân sư Nada, tình yêu tự do,
Không còn điều kiện, không còn so đo.
Chân sư Nada, vươn lên buông bỏ
Sắc thái phàm phu tình yêu thấp nhỏ.

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra tuy con có thể rời con đường tu bất cứ lúc nào cho tới tầng 96, bảy tầng đầu trong khóa nhập thất của thày là những điểm quan trọng nhất. Đây là nơi con có thể quyết định bỏ đường tu và trở về Trường Đời Cay đắng.

Chân sư Nada, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Nada, vươn lên rọi sáng, 
Vẻ đẹp thần thánh ôi sao huy hoàng.

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra liệu con có động lượng do đạt được chức vị quyền uy trên trái đất hay đã quyết định từ nhiều kiếp trước không tham gia các tranh chấp quyền lực trên trái đất.

Chân sư Nada, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Hoà bình Thượng đế chúng con rải truyền. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

Phần 7

7.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra liệu con có bị lôi kéo vào các cuộc tranh giành quyền lực hay không. Xin thày giúp con nhận ra điều này mà không tự lên án mình vì đã tham gia vào những tranh giành hay lạm dụng quyền lực.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con bắt đầu tiến trình chất vấn sự lạm dụng quyền lực của mình. Vì nhìn ra sự lạm dụng quyền lực nơi người khác luôn luôn dễ hơn là nhìn ra sự lạm dụng quyền lực từ chính mình.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con học bài học toàn vũ là con không đẩy mạnh mục tiêu của các chân sư thăng thiên và mang lại Thời đại Hoàng kim bằng cách sử dụng quyền lực trong đấu tranh cuồng đại.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra lạm dụng quyền lực thường đưa tới ngạo mạn. Những người có nhiều quyền lực nhất thường rơi vào một ảo tưởng khác do sa nhân phóng chiếu cho rằng muốn duy trì vị thế quyền lực thì mình lúc nào cũng phải đúng.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra việc sẵn sàng để cho sa nhân chế giễu, sỉ nhục, nói đủ điều không thật về con, với mục đích rạng danh Ki-tô, thực sự là một phần của tiến trình khai ngộ.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra kinh nghiệm bị chế giễu và hành hạ bởi người khác trong kiếp này là cơ hội để nhìn vào điều này và không dính mắc, chỉ đơn giản nhận ra đó là Luật Tự quyết trải bày.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.7. Chân sư MORE, con sẵn sàng để Luật Tự Quyết trải bày, nhờ đó những người đang chế giễu con có cơ hội thấy tại sao họ muốn chế nhạo người khác và từ đó bắt đầu chất vấn trạng thái tâm thức của họ.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra những tình huống này cũng là cơ hội để con chứng tỏ sẵn sàng bị chế giễu. Con sẵn sàng bước lên trạng thái tâm thức cao hơn trong đó con không quá coi trọng nó. Con không để những lời chế giễu của người khác ngăn cản con thực hiện sứ vụ thiêng liêng và biểu hiện năng lượng sáng tạo của mình.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con học cách nhận lời chế giễu từ thế gian mà không dính mắc. Xin thày giúp con học cách ngưng không coi tất cả những gì xảy ra đến con đều nhắm vào cá nhân mình.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

14 | Thỉnh cầu uy lực và chữa lành (9 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Hercules và Amazonia và Cyclopea và Virginia, Đại thiên thần Michael và Faith và Đại thiên thần Raphael và Mẹ Mary, Chân sư MORE và Hilarion yêu dấu, hãy giúp con chữa lành các chấn thương đang ngăn chặn sự biểu lộ sáng tạo của con. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Chân sư MORE và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con gia tốc ý niệm bản ngã của mình và nhận ra con đường tâm linh là cơ hội lớn lao để gia tốc mình.

Hercules Xanh ngắt, ý chí thày duy nhất,
Trong con còn khoảng trống, thày đổ đầy Lửa Xanh,
Ngọn hải đăng sáng rực, tỏa rạng trên trái đất,
Phục hồi lại sự sống cho tất cả hành tinh.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra liệu con có dùng giáo lý chân sư thăng thiên để tạo ra quy tắc cho mình, và nghĩ con sẽ thăng thiên nếu con làm theo đúng các quy tắc đó và đọc các bài chú.

Hercules Xanh ngắt, thày trí tuệ cao xa,
Tạo cảm giác trong con hiểu biết nơi tất cả.
Nay tâm con rất mới bỗng nhận được khung nền,
Để vượt qua giới hạn của đau đớn nhị nguyên.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra nếu con chưa cam kết gia tốc mình, và vì vậy con không thể tham dự khóa nhập thất của thày Serapis và học bài học là con không thể thăng thiên bằng cách tuân theo quy tắc.

Hercules Xanh ngắt, với tất cả tình thương,
Con dâng lên Thượng đế, hằng hà lời tán thưởng,
Bây giờ con thấy rõ khi cảm được lửa sáng,
Cái ta cũng thăng vượt như đá hóa thành vàng.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra thăng thiên là một tiến trình sáng tạo. Con chỉ có thể thăng thiên bằng cách mở khóa trọn vẹn quyền năng sáng tạo của mình, trước tiên qua bảy tia sáng, sau đó qua các tia bí mật và quả vị Ki-tô của con.

Hercules Xanh ngắt, chữa lành muôn sự sống,
Bao bọc quanh tất cả, Xanh ngọn lửa Niêm phong.
Con biết ơn quá đỗi được tự tay góp phần
Trong tác phẩm của Ngài đẹp tinh xảo vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra chỉ khi nào con biểu lộ một cách sáng tạo những gì Hiện diện TA LÀ muốn biểu lộ qua con, thì con mới biểu lộ được đầy đủ món quà mà Hiện diện TA LÀ muốn cho trái đất này xuyên qua con. Và lúc đó con sẵn sàng thăng thiên.

Hercules Xanh ngắt, ngôi Đền của Ánh sáng,
Được tỏ lộ cho con lúc dõi nhìn vào trong,
Khi uy lực của thày giục con bước mạnh dạn,
Băng qua bao rặng núi, xuyên qua mọi tấm màn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra Hiện diện TA LÀ không gửi con xuống đây để tạo nghiệp, cân bằng nghiệp quả và ra đi. Hiện diện gửi con đến đây với mục đích tích cực là cánh cửa mở để đem món quà của nó cho trái đất.

Hercules Xanh ngắt, con dâng hiến cuộc đời
Giúp cho cả hành tinh vượt tranh chấp loài người,
Khi lọc lừa nhị đối bị ánh sáng chọc thủng,
Trả lại cho trọn vẹn cái nhìn ở thâm cung.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra chỉ khi nào Hiện diện thỏa mãn là nó đã cho trọn vẹn đủ món quà của nó, thì con – cái Ta Biết, dòng sống hiện thân trong cõi này – mới có thể thăng thiên, vì lúc đó con mới hoàn thành mục đích trở nên cánh cửa hoàn toàn mở.

Hercules Xanh ngắt, chúng con sẽ cởi xiềng,
Mọi sự sống thoát khỏi vi tế nhất nhị nguyên,
Hoàng tử của trần thế không còn gì để nắm,
Khi con đã cùng thày vượt lên trên hoàn toàn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khả năng sáng tạo của con bị giới hạn bởi những điều kiện mà con người vỏ ngoài của con đã chấp nhận, và con nghĩ những điều kiện này phải giới hạn, kiểm soát và điều khiển cách con biểu lộ sự sáng tạo của mình.

Hercules Xanh ngắt, với thày con hợp nhất,
Để con mở tim ra cho thực tại của thày,
Ngọn lửa xanh như điện mở mắt cho con thấy
Rằng sống trong chân thực: khát vọng của con đây.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra dù con đã dùng Ngọn lửa Tinh khiết để gia tốc vượt khỏi tầng tâm thức trước của mình, con chỉ có thể gia tốc mình bằng Ngọn lửa Tinh khiết tới một mức nào đó mà thôi.

Hercules Xanh ngắt, nơi nơi thày đổ tràn
Quyền năng vô bờ bến với Hồng ân vô hạn,
Chìa khóa của sáng tạo, chính thày là hiện thân,
Biểu lộ qua ý chí vượt thăng đến Vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

Phần 2

2.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con vẫn còn vết thương trong tiềm thức, ở các tầng tình cảm, lý trí và bản sắc của tâm mình, và chúng giống như những cái neo thả đằng sau chiếc thuyền của con.

Cyclopea yêu dấu, thày phơi ra sự thực, 
Rằng phiền não nhị nguyên rồi sẽ được hàn gắn, 
Ánh sáng màu Lục bảo của thày như thần dược, 
Chữa lành cảm thể con cho bình an mỹ mãn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con thành thật soi mình trong gương và nhận ra con cần chữa lành chỗ nào.

Cyclopea yêu dấu, con cùng thày tháo gỡ 
Những vòng xoáy tiêu cực đang phủ tâm mây mờ, 
Con biết mình cốt lõi là cái biết thuần sơ,
Là chìa khóa để thành cánh cửa luôn rộng mở.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra mọi chuyện đều là một tiến trình sáng tạo. Để có thể biểu lộ trọn vẹn sự sáng tạo của mình, con cần nhìn vào các điều kiện, vết thương và giới hạn đã ngăn cản sự biểu lộ quyền năng sáng tạo của con từ Hiện diện TA LÀ.

Cyclopea yêu dấu, thanh lọc mắt bên trong, 
Uy lực đó giúp con xuyên thủng đêm trong hồn,
Nay con nhìn cuộc sống với con mắt thuần đơn,
Vượt lên trên bệnh tật con sẽ bay cao hơn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con cần chữa lành những vết thương nào và tại sao con cần xem xét chúng. Xin thày giúp con nhận ra con không thể chữa lành một vết thương nếu con không ý thức nhận biết nguyên nhân tạo ra nó.

Cyclopea yêu dấu, cuộc sống chỉ phản ánh 
Những hình tướng mà tâm cứ phóng ra địa cầu, 
Giữ tâm mình trong sáng là bí quyết chữa lành, 
Không còn một tâm ảnh để ngã trốn đằng sau.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra nguyên nhân tạo vết thương là một sự việc bên ngoài đã kích động một kinh nghiệm nội tâm. Và vì kinh nghiệm nội tâm này, con lấy một quyết định.

Cyclopea yêu dấu, chúng con nhắm thật cao, 
Ngày càng xích lại gần với ngọn lửa hàn gắn,
Xuyên tấm màn nhị nguyên bây giờ con cất cánh, 
Và tắm trong Ánh sáng thâm sâu màu Lục bảo. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra chính quyết định này đã thiết lập một điều kiện trong tâm con và điều kiện này giới hạn sự biểu lộ sáng tạo của con.

Cyclopea yêu dấu, Lửa Lục bảo phanh phui 
Từng trò chơi quyền lực tinh vi của nhị đối, 
Kể cả âm mưu cũ là trò chơi gian dối, 
Cứ định nghĩa chân lý theo một cách mà thôi. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con đã lập ra điều kiện nhưng có thể con không hoàn toàn nhận biết có ý thức quyết định là gì và hậu quả của nó ra sao.

Cyclopea yêu dấu, dòng chảy con cảm được,
Của Chân lý Hằng sống mà thày ban liên tục, 
Con nay đã giải thoát khỏi cái nhìn đối cực, 
Và khuôn đúc hành tinh lại trinh nguyên như trước. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra để giải thoát mình khỏi quyết định này, con phải ý thức nhận biết quyết định cũ và hậu quả của nó. Sau đó, con phải thay thế một cách ý thức quyết định cũ bằng một quyết định mới, dựa trên tầng tâm thức cao hơn của con hiện nay.

Cyclopea yêu dấu, sự thật con đã thấy, 
Rõ mục đích cao hơn tại sao con ở đây, 
Con biết chân lý vượt mọi hệ thống dưới này, 
Con bơi trong ánh sáng và tăng trưởng gấp mấy. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.9. Chân sư MORE, con cam kết mỗi ngày sẽ đọc lời kêu gọi xin Đại thiên thần Michael bảo vệ con, để con tạo ra động lượng và ý niệm rằng Đại thiên thần có khả năng bảo vệ con khỏi bất cứ lực nào có mặt trên trái đất.

Cyclopea yêu dấu, con thấy thày hân hoan, 
Khi viễn kiến sáng tạo con đem ra thực hành, 
Để nhấc địa cầu lên khỏi lồng giam của rắn, 
Và thị hiện Hoàng kim của thày Saint Germain. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

Phần 3

3.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi con biết mình được bảo vệ khỏi một lực nào đó, con có thể ý thức nhìn nó, nhận ra nó có mặt, và nhận ra nó đã ảnh hưởng mình trong quá khứ và con cần gia tốc mình để vượt qua ảnh hưởng đó.

Đại thiên thần Michael, trong ngọn lửa xanh ngắt,
Không còn bao đêm tối mà chỉ thày có mặt.
Trong hợp nhất với thày, con đã ngập ánh sáng,
Cảnh rực rỡ nhiệm màu hiện ra ngay trước mắt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con chỉ thoát được nếu con ý thức nhìn vào lực này và xem xét điều gì trong tâm lý mình khiến mình dễ bị nó tấn công.

Đại thiên thần Michael, thày cho con che chở,
Sau tấm khiên màu xanh con được sống muôn thuở.
Niêm con khỏi hồn bóng đang lang thang đêm tối,
Con ở trong cõi thày, rực sáng màu xanh tươi.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra thày không có ý làm con sợ hãi. Con sẽ thành thực và nhìn nhận rằng chỉ khi nào con xây dựng đủ động lượng cầu thỉnh sự bảo vệ tâm linh, con mới sẵn sàng ý thức đón nhận lời chỉ giáo kế tiếp của thày.

Đại thiên thần Michael, thày đem bao uy lực,
Mà hàng triệu thiên thần sẽ ca ngợi công đức.
Thiêu đốt muôn loài quỷ của nghi ngờ sợ hãi,
Con biết thày Có Mặt ở bên con hoài hoài. 

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con không thể hiện thân trên trái đất mà không bị tổn thương. Tâm thức chết vô cùng mạnh mẽ trên trái đất. Con không thể nào hiện thân ở đây mà không bị nó đả thương hay không quy phục nó tới một mức độ nào đó.

Đại thiên thần Michael, ý Thượng đế thày yêu,
Từ Trên thày đem xuống ánh sáng của thiên triều.
Thượng đế chỉ muốn thấy mọi sự sống chuyển vọt,
Vươn cao trên bản ngã là quyền linh chót vót.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cái gì con chống lại sẽ tồn tại vì khi con chống cự nó, con cho nó năng lượng. Nhưng con có thể nhìn mà không chống cự. Con có thể nhìn tà lực mà không nghĩ con phải đánh nhau với chúng.

Đại thiên thần Michael, là bạn thân con đó,
Bao cạm bẫy thế gian, thày dang tay phù hộ.
Ác quỷ không thể sánh được quyền năng ánh sáng,
Nên linh hồn tất cả được bay bổng thênh thang.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi con cầu thỉnh sự bảo vệ tâm linh từ Đại thiên thần Michael, con không đánh nhau với tà lực. Con bao bọc mình khỏi năng lực chúng phóng tới con. Đây không phải là chống lại chúng, vì không cho chúng thêm năng lượng.

Đại thiên thần Michael, như bày trẻ đùa chơi,
Chúng con dìu trái đất thức dậy trong ngày mới,
Nâng địa cầu ra khỏi lề lối đã ăn sâu,
Cho câu chuyện hành tinh được kể lại từ đầu.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra điều quan trọng là nhìn nhận tà lực có mặt vì tâm thức chết bao phủ hành tinh này như một đám mây đen.

Đại thiên thần Michael, Thượng đế tỏ quyền năng,
Mà chúng con biết thày không ai thể chiến thắng,
Thày không còn tách biệt nên vượt qua chắc chắn,
Mọi mưu mô hung tợn và thâm độc của rắn.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cách duy nhất để biểu hiện một tâm thức tâm linh cao trên trái đất là giải thoát mình khỏi ảnh hưởng của tâm thức chết, và con không làm được điều này nếu con không ý thức về nó.

Đại thiên thần Michael, thày đến nâng địa cầu,
Để khắp nơi khắp chốn được tái sinh cùng thấu,
Để tâm của tập thể cùng đi lên một lượt,
Cho chúng con vui mừng mà ngợi ca không ngớt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con không thể tiến tới tự điều ngự nếu con không làm chủ cái ta, có nghĩa con cần vượt quá tất cả những lực và điều kiện đang tìm cách giới hạn cái ta.

Đại thiên thần Michael, trái đất nay đổi mới,
Lửa xanh dương bao phủ giống như hạt sương rơi,
Hành tinh nay lóng lánh giữa không gian rộng lớn,
Để chúng con hứng lấy những hồng ân vô tận.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

Phần 4

4.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra sẽ có lúc con không thể tiến bộ hơn trên con đường tâm linh nếu con không nhìn nhận mình đã bị tà lực đả thương đến độ không thể gia tốc hơn nữa, nếu con không xem xét các vết thương này và các quyết định khi bị tà lực tấn công.

Đại thiên thần Raphael, thày sáng rỡ làm sao, 
Thày nâng con lên khỏi tuồng sân khấu cuộc đời. 
Mẹ Mary và thày, viễn quan sao táo bạo, 
Muốn con đạt tiềm năng cao nhất có thể với. 

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra nếu con không thừa nhận tà lực có mặt và thấy chúng ảnh hưởng con ra sao thì con đã và đang quy phục tà lực và tâm thức chết.

Đại thiên thần Raphael, trong quả cầu lục bảo, 
Niệm tinh khôi con giữ cho mãi mãi thanh cao, 
Mẹ Mary bao bọc chúng con trong Tim Thánh, 
Không bao giờ xa cách trong tình Mẹ chân thành.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra liệu con đã có thỏa thuận với ác quỷ, và nói trong tiềm thức: “Nếu ta không gia tốc quá một mức nào đó, thì ngươi sẽ không tấn công ta.”

Đại thiên thần Raphael, mọi đau ốm trị lành, 
Từng tế bào trong thân niêm lại trong ánh sáng, 
Chợt thấy niệm tinh khôi của đức Mẹ Mary, 
Con sống hiện thực mới là sức khỏe thần kỳ.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi con bắt đầu vươn lên trên tầng tâm thức đại chúng, tà lực sẽ tấn công con.

Đại thiên thần Raphael, ánh sáng vô cùng thực, 
Lộ ra cho con thấy Ki-tô trong thần thức, 
Mẹ Mary đang giúp để con thăng liên tục, 
Cùng thày con thăng lên trong ánh sáng bảo lục.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra nếu con đã bị tấn công trong tiền kiếp và ghi nhớ rằng gia tốc mình quá tầng cấp nào đó thật nguy hiểm vì khi đó con trở thành mục tiêu của những đòn tấn công rất độc ác, cá nhân và trực tiếp.

Đại thiên thần Raphael, tiêu tan hết bệnh tật, 
Khi thày giúp con ngộ sự sống là Duy nhất, 
Con không còn chối bỏ tình yêu thày chân chất, 
Và niệm tinh khôi ấy, con phóng ra mọi vật.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con đối diện nỗi sợ này và nhìn nhận: “Tôi đã bị tổn thương và tôi cần xem xét tại sao tôi bị tổn thương vì đây là cách duy nhất để chữa lành vết thương.”

Đại thiên thần Raphael, con hàn gắn địa cầu,
Cho trái đất hồi sinh khi con tỏa tinh khôi, 
Một ngày mới đã đến, một kỷ nguyên bắt đầu, 
Và ánh sắc lục bảo sáng như thể mặt trời.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra tà lực tin rằng họ kiểm soát hành tinh này. Và họ thực sự có một tầm kiểm soát lớn vì họ đã khiến được biết bao nhiêu người quy phục tâm thức chết.

Đại thiên thần Raphael, sa ngã là quá khứ,
Khi mọi người tìm thấy đường Ki-tô thoát tử, 
Nay ta giục ai nấy mau chữa lành đi chứ, 
Khi cả bốn thể phàm được niêm trong tình tự.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là nhân loại có thể phá vỡ sự kiểm soát này khi có những cá nhân gia tốc tâm thức họ quá một tầng nào đó và bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô.

Đại thiên thần Raphael, thày đem ánh bình minh,
Khiến thế lực bóng tối phải vội vàng lẩn tránh, 
Chúng kết liễu cuộc đời, ta đòi lại hành tinh, 
Và trên môi ai nấy nở nụ hoa thanh bình.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra Giê-su là một gương chính yếu, một nguyên mẫu, của một người đã gia tốc tâm thức quá tiêu chuẩn và tâm thức đại chúng, và biểu hiện một mức cao của quả vị Ki-tô – và thày dám bày tỏ điều đó.

Đại thiên thần Raphael, ta giải phóng viễn kiến,
Khi ta thấy thực tại của Thượng đế thiêng liêng, 
Viễn tượng Saint Germain giờ đây đã thị hiện, 
Và trái đất niêm lại trong quả cầu trinh nguyên.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

Phần 5

5.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra nếu chỉ một cá nhân đạt được và biểu hiện quả vị Ki-tô, thì tầm kiểm soát của tà lực trên hành tinh này sẽ bị giảm thiểu. Nếu 10,000 người biểu hiện quả vị Ki-tô giống như Giê-su đã biểu hiện, thì đây là ác mộng kinh hoàng nhất của tà lực.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra liệu con có là một trong 10,000 người đang hiện thân có tiềm năng biểu hiện một mức độ cao của quả vị Ki-tô trong kiếp này. Hay con là một trong mấy triệu người có tiềm năng biểu hiện một mức nào đó của quả vị Ki-tô trong kiếp này.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra liệu con có trì hoãn biểu hiện quả vị Ki-tô của mình, vì qua kinh nghiệm các kiếp trước, con sợ có chuyện xảy ra khi con làm như vậy.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra dù các đòn tấn công sẽ xảy ra, nhưng con chỉ bị tổn thương nếu trong tâm con còn điều kiện, là những vết thương và điều kiện con đã chấp nhận khi con lấy một quyết định trong quá khứ.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra nếu con sẵn sàng giải quyết các vết thương và quyết định này, con sẽ trở nên trong suốt trước những đòn tấn công và bất cứ điều gì họ phóng tới con sẽ chỉ lướt xuyên qua con mà thôi.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra không điều gì trong bốn tầng của vũ trụ vật chất có thể ảnh hưởng Hiện diện TA LÀ của con. Đó là lý do vì sao Hiện diện TA LÀ của con không bị tổn thương bởi bất cứ điều gì con đã làm hay trải nghiệm trên trái đất.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi con ngừng đồng hóa mình với xác thân vật lý, thì con không thể bị tổn thương bởi bất cứ điều gì xảy ra cho thân xác.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi con gia tốc ý niệm bản ngã tới mức con không đồng hóa mình với cảm xúc, thì con không thể bị tổn thương bởi bất cứ năng lực nào phóng tới con trong cõi tình cảm.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi con không còn đồng hóa mình với tư tưởng, con không thể bị tổn thương bởi những năng lực hướng tới con trong cõi lý trí.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 6

6.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi con không còn đồng hóa mình là một con người bị giới hạn và tách biệt, con không thể bị tổn thương bởi những lực ở các tầng thấp của cõi bản sắc.

Hilarion, trên bờ lục bảo, 
Chúng con bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả 
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra điều quan trọng là con trụ ý niệm bản sắc con ở đâu. Là một đệ tử tâm linh, nhiệm vụ của con là nâng cao ý niệm bản sắc mình, và buông không đồng hóa mình với thân xác, tình cảm, tư tưởng và bất kỳ ý niệm bản sắc thấp hay tách biệt nào.

Hilarion, chìa khóa bí mật,
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con đồng hóa mình đúng đắn với nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết, chính là nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, và do đó nó không thể bị tổn thương hay bị ảnh hưởng bởi các năng lực thấp trong cõi vật chất.

Hilarion, tình yêu sự sống, 
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cái Ta Biết không được cấu tạo bằng năng lực của cõi vật chất. Khi con nhìn nhận điều này một cách ý thức, con không thể bị tổn thương bởi bất cứ điều gì hướng tới con trong cõi vật chất.

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng, 
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền, 
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra tà lực chỉ có thể có mặt trong cõi vật chất và chúng chỉ có thể phóng tới con năng lực của cõi vật chất. Khi con không đồng hóa với vật chất, con trở nên trong suốt.

Hilarion, thương yêu đón chào, 
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra nếu con có dính mắc nào tạo ra cánh cửa mở trong vòng chắn chung quanh trường năng lượng của mình. Xin thày giúp con giải quyết các dính mắc ở tầng cấp này, là những dính mắc khiến con dễ bị tà lực đen tối tấn công nhất.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi con đầu thai trên trái đất và bắt đầu biểu hiện quyền năng sáng tạo của mình, tà lực đã tấn công con rất ác độc để khiến con quyết định không dùng quyền năng sáng tạo của mình. Họ tấn công con ác độc đến độ con đã quyết định giới hạn quyền năng sáng tạo của mình vì con muốn tránh phản ứng tiêu cực này.

Hilarion, thông sạch luân xa, 
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà, 
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cảm giác sâu đậm nhất mà con có về cuộc sống trên trái đất là cảm giác bị chấn động, bị chấn thương bởi sự ác độc khi họ bác bỏ khả năng sáng tạo của con. Đây là vết thương sâu đậm nhất mà con có.

Hilarion, thày sẽ quân bình 
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra mọi vết thương khác sau đó chỉ đơn giản là một biến thể của vết thương ban đầu này. Tất cả những vết thương sau đó là phản ứng lại sự bác bỏ sáng tạo của con trong lần đầu ấy.

Hilarion, thày đang Hiện diện, 
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế chúng con rải truyền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

Phần 7

7.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con không thể gia tốc mình quá tầng tâm thức hiện nay cho tới khi con thấy vết thương đang kềm con lại bây giờ, đang ngăn con đi bước kế tiếp.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra vết thương được tạo ra bởi một quyết định, và con phải thấy được quyết định đó và quyết định lại.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra quyết định của con trong quá khứ, mà con củng cố trong kiếp này, và hiện đang kềm lại biểu lộ sáng tạo của con.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhớ lại con đã từng bị chế giễu hay miệt thị vì khả năng sáng tạo của mình và con quyết định không biểu hiện những khả năng đó. Xin thày giúp con thấy con đã tiếp xúc một tiêu chuẩn khiến con dẹp bỏ khả năng sáng tạo của mình.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra ước mơ sáng tạo của mình và rồi con nghĩ: ”Ồ, tôi không làm được điều đó, hoặc tôi không thể kiếm sống bằng việc làm sáng tạo, vì vậy tôi phải đi vào một lãnh vực khác kiếm sống tốt hơn.”

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con tiếp xúc với quyết định đã giới hạn sự biểu lộ sáng tạo trong tâm lý của con. Con không cần phải là một nghệ sĩ để biểu lộ mình một cách sáng tạo. Con có thể biểu lộ sáng tạo trong bất cứ lãnh vực nào của cuộc sống.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nói: “Thật vậy, trong quá khứ tôi không cần lấy quyết định đó, nhưng chắc chắn tôi không cần giữ quyết định này nữa. Do đó, tôi quyết định giải phóng biểu lộ sáng tạo của mình. Tôi sẵn sàng biểu lộ mình.”

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con tiếp xúc với sự sáng tạo có sẵn trong con, lòng yêu thích biểu lộ sáng tạo dưới một dạng nào đó. Con dám mơ mộng, dám biểu lộ nó bằng cách nào đó, dám sáng tạo.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra không thể áp dụng tiêu chuẩn vào biểu lộ sáng tạo, vì biểu lộ sáng tạo đem lại điều gì mới. Và làm sao một điều mới có thể bị giam hãm và quy định trước bởi một tiêu chuẩn?

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 8

8.1. Chân sư MORE, con sẵn sàng là thành phần của tầng lớp tâm linh sáng tạo ưu tú, những người sẽ không để nhóm thượng lưu quyền lực ngăn chặn sự biểu lộ sáng tạo của mình. Đây là việc làm của con. Đây là tiềm năng của con trong kiếp sống này. Nếu nó không phải là tiềm năng của con, con đã không tìm thấy giáo lý này.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

8.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con chấp nhận con có tiềm năng là một thành phần của giới ưu tú sẽ giúp hành tinh này làm một bước nhảy vọt vĩ đại vào Thời đại Hoàng Kim của Saint Germain. Và đây là lý do tại sao con chọn hiện thân lần này.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

8.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra đây là lý do tại sao con đã chịu đựng hiện thân nhiều lần trên hành tinh này trong suốt 2,000 năm qua; để bảo đảm Giê-su hoàn thành việc thiết lập khuôn mẫu cho thời đại Song Ngư với những người biểu lộ quả vị Ki-tô.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

8.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con ở đây để bảo đảm thời đại Song Ngư sẽ tiến tới thời đại Bảo Bình khi cả ngàn người sẽ thể hiện và biểu lộ quả vị Ki-tô trên hành tinh này.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

8.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con mở khóa các khả năng sáng tạo của mình để con biểu lộ chúng và đưa hành tinh nhập vào khuôn đúc Thời đại Hoàng kim mà thày Saint Germain giữ trong tâm. Bởi vì tất cả chúng con hợp nhất trong nỗ lực nâng địa cầu này vào Thời đại Hoàng kim.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

8.6. Chân sư MORE, con hợp nhất với thày trong nỗ lực này, và con muốn mở khóa sự nhận biết có ý thức rằng con là một phần của nỗ lực này. Con muốn gia tốc sự biểu lộ sáng tạo của mình, gia tốc chữa lành những vết thương đang kìm hãm sự biểu lộ sáng tạo này.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

8.7. Mẹ Mary, con hoàn toàn phó thác mình trong vòng tay của Mẹ Thiêng liêng, trong tình thương vô điều kiện mà Mẹ của Thượng đế dành cho con, khi Mẹ ôm con trong vòng tay.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

8.8. Mẹ Mary, con cảm thấy hào quang chữa lành thấm vào trường năng lượng của mình, lập tức nhắm vào vết thương mà con đang cần giải quyết, chiếu năng lượng chữa lành của Mẹ vào vết thương đó, để con nhìn nó mà không cảm thấy nỗi đau xúc cảm dữ dội như trước kia. Con nhìn nó với viễn quan tinh khôi của Mẹ và thấy nó thực sự chỉ là một vết thương. Nó chỉ là một quyết định.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

8.9. Mẹ Mary, con đã lấy một quyết định, nhưng con không trở thành quyết định đó. Quyết định tạo ra phàm linh nhưng con không trở thành phàm linh. Do đó, con không phải vĩnh viễn nhìn quyết định này xuyên qua phin lọc nhận thức của phàm linh.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 9

9.1. Mẹ Mary, xin mẹ giúp con bước ra ngoài nỗi đau – ra ngoài phàm linh – và nhận ra Thượng đế không bác bỏ sự sáng tạo của con. Các sa nhân cũng chẳng bác bỏ nó vì chúng không thấy được sự sáng tạo của con. Chúng chỉ cảm thấy biểu lộ sự sáng tạo của con làm xáo trộn cảm giác kiểm soát của chúng, và do đó chúng phản ứng theo cách duy nhất mà chúng biết.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

9.2. Mẹ Mary, xin mẹ giúp con nhận ra con lấy quyết định vì nghĩ rằng con đang hiện thân nên phải chấp nhận tiêu chuẩn mà sa nhân phóng chiếu lên con. Con nghĩ con phải nhìn biểu lộ sáng tạo của mình qua phin lọc bác bỏ của họ, thay vì nhìn biểu lộ sáng tạo của mình qua nhận biết thuần khiết mà con là.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

9.3. Mẹ Mary, xin mẹ giúp con nhận ra con tin điều này vì con đầu thai xuống trái đất này với ý định thay đổi một số chuyện. Con tới đây với ý muốn tặng một món quà tích cực, đem lại đổi thay, nâng hành tinh lên một trạng thái cao hơn.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

9.4. Mẹ Mary, xin mẹ giúp con nhận ra việc đem trái đất tới gần Thời đại Hoàng kim hơn không tùy thuộc vào phản ứng của sa nhân và tâm thức chết trước nỗ lực sáng tạo của con. Con không tới đây để thay đổi các dòng sống.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

9.5. Mẹ Mary, xin mẹ giúp con nhận ra sự thành công của biểu lộ sáng tạo của con chỉ dựa trên một điều: con đã biểu lộ nó. Khi con biểu lộ sáng tạo của mình thì con đã thành công, vì biểu lộ chính là thành công.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

9.6. Mẹ Mary, xin mẹ giúp con nhận ra phản ứng từ người khác chẳng có gì quan trọng. Xin Mẹ giúp con có viễn quan tinh khôi, khái niệm tinh khôi là mỗi lần con biểu lộ quyền năng sáng tạo của mình, con giúp gia tăng ánh sáng trên hành tinh này và đưa nó tới gần Thời đại Hoàng kim hơn.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

9.7. Mẹ Mary, xin mẹ giúp con chữa lành vết thương lớn để con nhận ra biểu hiện của mình không được đánh giá bởi sự bác bỏ của những người có tư duy sa ngã. Vì con có quyền biểu lộ khả năng sáng tạo của mình, mặc dù thực tế là sẽ có người kịch liệt bác bỏ nó và tấn công con một cách ác độc.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

9.8. Mẹ Mary, xin mẹ giúp con nhận ra con có thể tiếp tục là chính mình, vì Mẹ của Thượng đế – là thẩm quyền tối hậu trên trái đất – đã cho phép con biểu lộ sự sáng tạo thiêng liêng của mình. Con cũng được phép của chính đấng Sáng tạo – là thẩm quyền tối hậu trong thế giới hình tướng – cho phép con là chính mình và là cánh cửa mở biểu lộ Hiện diện TA LÀ của con.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống, con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

9.9. Mẹ Mary, vì con được phép của Thượng đế và Mẹ của Thượng đế, con không cần xin phép sa nhân. Vì con không cần xin phép sa nhân, con sẽ không để sự bác bỏ của họ ngăn cản con trao món quà biểu hiện sáng tạo của mình cho hành tinh này, món quà mà con đến đây để trao tặng, món quà là tiềm năng cao nhất mà con có thể cống hiến.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

12 | Thỉnh cầu uy lực và gia tốc (6 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Hercules và Amazonia và Astrea và Purity, Đại thiên thần Michael và Faith và Đại thiên thần Gabriel và Hope, Chân sư MORE và Serapis Bey yêu dấu, hãy giúp con gia tốc ý niệm bản ngã của con lên một tầng cao hơn. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Chân sư MORE và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Chân sư MORE xin thày giúp con nhận ra thày không phán xét con chút nào, thày chỉ có một mục đích là giúp con vươn lên các tầng tâm thức cao hơn.

Hercules Xanh ngắt, ý chí thày duy nhất,
Trong con còn khoảng trống, thày đổ đầy Lửa Xanh,
Ngọn hải đăng sáng rực, tỏa rạng trên trái đất,
Phục hồi lại sự sống cho tất cả hành tinh.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.2. Chân sư MORE xin thày giúp con đi tới khóa nhập thất buổi tối của thày, ngồi lại các khu vườn ở đó để được chữa lành khi con cảm nhận được rung động của tình thương.

Hercules Xanh ngắt, thày trí tuệ cao xa,
Tạo cảm giác trong con hiểu biết nơi tất cả.
Nay tâm con rất mới bỗng nhận được khung nền,
Để vượt qua giới hạn của đau đớn nhị nguyên.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.3. Chân sư MORE xin thày giúp con trải nghiệm tình thương đích thực, tình thương vượt lên trên điều kiện, vượt lên trên tình thương con thường trải nghiệm trên trái đất.

Hercules Xanh ngắt, với tất cả tình thương,
Con dâng lên Thượng đế, hằng hà lời tán thưởng,
Bây giờ con thấy rõ khi cảm được lửa sáng,
Cái ta cũng thăng vượt như đá hóa thành vàng.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.4. Chân sư MORE xin thày giúp con nhận ra là sự chữa lành tối hậu đến từ trải nghiệm tình thương vô điều kiện.

Hercules Xanh ngắt, chữa lành muôn sự sống,
Bao bọc quanh tất cả, Xanh ngọn lửa Niêm phong.
Con biết ơn quá đỗi được tự tay góp phần
Trong tác phẩm của Ngài đẹp tinh xảo vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.5. Chân sư MORE xin thày giúp con trải nghiệm tình thương trực tiếp từ Hiện diện TA LÀ của con, là nguồn tình thương vô điều kiện cho con.

Hercules Xanh ngắt, ngôi Đền của Ánh sáng,
Được tỏ lộ cho con lúc dõi nhìn vào trong,
Khi uy lực của thày giục con bước mạnh dạn,
Băng qua bao rặng núi, xuyên qua mọi tấm màn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.6. Chân sư MORE xin thày giúp con trải nghiệm tình thương của đấng Sáng tạo, tình thương mà đấng Sáng tạo dành cho tất cả những nối dài có tự nhận biết của ngài. Xin thày giúp con là cánh cửa mở cho tình thương đó, là tác nhân tối hậu chữa lành.

Hercules Xanh ngắt, con dâng hiến cuộc đời
Giúp cho cả hành tinh vượt tranh chấp loài người,
Khi lọc lừa nhị đối bị ánh sáng chọc thủng,
Trả lại cho trọn vẹn cái nhìn ở thâm cung.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.7. Chân sư MORE xin thày giúp con nhận ra nếu con đã bị lập trình quá nặng trên trái đất khiến con khó chấp nhận tình thương vô điều kiện.

Hercules Xanh ngắt, chúng con sẽ cởi xiềng,
Mọi sự sống thoát khỏi vi tế nhất nhị nguyên,
Hoàng tử của trần thế không còn gì để nắm,
Khi con đã cùng thày vượt lên trên hoàn toàn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.8. Chân sư MORE xin thày giúp con nhận ra những điều kiện của con liên quan tới tình thương, nó phải được biểu hiện như thế nào, con phải sống theo tiêu chuẩn nào, trước khi con có thể mở tim ra để thực sự trải nghiệm tình thương.

Hercules Xanh ngắt, với thày con hợp nhất,
Để con mở tim ra cho thực tại của thày,
Ngọn lửa xanh như điện mở mắt cho con thấy
Rằng sống trong chân thực: khát vọng của con đây.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.9. Chân sư MORE xin thày giúp con nhận ra con đã bị lập trình nghĩ rằng con phải sống theo một số điều kiện trước khi con có thể nhận tình thương, và con đã gán điều này cho Thượng đế và con nghĩ Thượng đế là người có nhiều điều kiện nhất.

Hercules Xanh ngắt, nơi nơi thày đổ tràn
Quyền năng vô bờ bến với Hồng ân vô hạn,
Chìa khóa của sáng tạo, chính thày là hiện thân,
Biểu lộ qua ý chí vượt thăng đến Vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

Phần 2

2.1. Chân sư MORE xin thày giúp con nhận ra nếu con nghĩ con phải sống theo một số điều kiện mới nhận được tình thương của người phàm, thì như vậy con phải sống theo điều kiện khắt khe hơn nữa mới nhận được tình thương cao hơn của Thượng đế.

Astrea yêu dấu, tim của thày thực chân,
Vòng tròn và Gươm báu của thày xanh và trắng,
Chém phăng dây buộc trói của bi kịch vô minh,
Để hành tinh dâng mãi trên đôi cánh Thanh tịnh.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.2. Chân sư MORE xin thày giúp con buông bỏ lâu đủ những điều kiện của con để con thực sự trải nghiệm tình thương vô điều kiện.

Astrea yêu dấu, trong Thanh tịnh Thượng đế,
Xin gia tốc năng lượng cho đời con tràn trề,
Chúng con vượt lên trên từng ô uế bợn nhơ,
Để Ánh sáng Thanh tịnh hoài hoài trong con tỏ.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.3. Chân sư MORE xin thày giúp con nghĩ lại cách con nhìn Thượng đế và quan hệ của con với Thượng đế. Xin thày giúp con thăng vượt tiêu chuẩn miêu tả Thượng đế như một thượng đế ở trên trời giận dữ và phê phán.

Astrea yêu dấu, từ Tia sáng Thuần khiết,
Mọi sự sống hôm nay, thày giải thoát thấu triệt.
Khi thanh tịnh gia tốc thì con là tự do,
Khỏi luyến ái ô trọc, con thăng lên buông bỏ.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.4. Chân sư MORE xin thày giúp con nhận ra con không thể nào vươn lên tâm thức cao hơn hình ảnh của con về Thượng đế.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc chúng con,
Thày ra tay giải cứu, con thành khẩn cầu mong,
Vượt quan điểm ô trọc, tất cả sẽ thênh thang,
Bỏ nghi ngờ sợ hãi, con nhất định vượt thăng.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.5. Chân sư MORE xin thày giúp con không phóng chiếu hình ảnh một Thượng đế giận dữ và phê phán lên thày, rồi con muốn thày là một vị thày giận dữ và phê phán sẽ mắng nhiếc và trừng phạt khi con sai lầm.

Astrea yêu dấu, con sẵn sàng nhìn rõ
Vào mọi lời gian dối khiến con mất tự do.
Nay con đã buông bỏ mọi lọc lừa sa ngã,
Và mãi mãi khẳng định duy nhất của Tất Cả.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.6. Chân sư MORE xin thày giúp con nhận ra nếu con sợ làm lỗi nhiều hơn là tha thiết làm điều hơn nữa.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc sự sống,
Vượt lên trên nhị nguyên, hiềm khích và tấn công,
Xóa hết mọi ranh giới giữa Thượng đế và người,
Ý toàn hảo của Ngài, mau hoàn tất xinh tươi.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.7. Chân sư MORE xin thày giúp con nhận ra tinh túy của tiêu chuẩn là nó quy định hai cực: một cái là tốt, một cái là xấu. Xin thày giúp con nhận ra là điều này đã lập trình con đánh giá mọi khía cạnh của đời sống và tâm thức mình, tình cảm, tư tưởng và bản sắc mình.

Astrea yêu dấu, con trìu mến thỉnh gọi,
Cho cái vách vô hình của ngăn cách đổ rơi,
Nâng cao tâm chúng con vào hợp nhất chân thực
Với Chân sư yêu dấu của tình thương Vô cực.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.8. Chân sư MORE xin thày giúp con nhận ra trong thực tại của Thượng đế không có đúng sai. Đây là khái niệm nhị nguyên do tâm thức tách biệt, tâm thức phản-Ki-tô tạo ra. Con sẽ không bao giờ biết Thượng đế thật nếu con nhất định phóng chiếu hình ảnh này lên Thượng đế.

Astrea yêu dấu, thày giúp con khám phá
Bí ẩn rằng chúng con vốn sáng tạo bằng tâm,
Nếu trong tâm ngu dốt đã sai lầm tạo ra,
Thì trong tâm minh triết con tạo lại dễ quá.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.9. Chân sư MORE xin thày giúp con nhận ra con sẽ không bao giờ biết Chân sư MORE thật nếu con phóng chiếu hình ảnh này lên thày.

Astrea yêu dấu, con vô cùng khao khát,
Học hỏi cách sử dụng ngọn lửa của thanh tịnh,
Để nâng từng hình tướng lỡ gieo trong lầm lạc,
Khác gì Saint Germain tạo lại cả hành tinh.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

Phần 3

3.1. Chân sư MORE xin thày giúp con nhận ra thày không phải là vị thày giận dữ và phê phán. Thày là vị thày thương yêu vô điều kiện và thày sẽ hỗ trợ con vô điều kiện.

Đại thiên thần Michael, trong ngọn lửa xanh ngắt,
Không còn bao đêm tối mà chỉ thày có mặt.
Trong hợp nhất với thày, con đã ngập ánh sáng,
Cảnh rực rỡ nhiệm màu hiện ra ngay trước mắt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.2. Chân sư MORE xin thày giúp con nhận ra cách thày hỗ trợ con và sự tăng triển của con là giúp con thăng vượt các điều kiện của mình, vì thày không phải là người kềm con lại. Thượng đế không kềm con lại; ma quỷ không kềm con lại .

Đại thiên thần Michael, thày cho con che chở,
Sau tấm khiên màu xanh con được sống muôn thuở.
Niêm con khỏi hồn bóng đang lang thang đêm tối,
Con ở trong cõi thày, rực sáng màu xanh tươi.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.3. Chân sư MORE xin thày giúp con nhận ra cái kềm con lại trên con đường tu chính là các điều kiện của con, những điều kiện mà con đã quy định và chấp nhận.

Đại thiên thần Michael, thày đem bao uy lực,
Mà hàng triệu thiên thần sẽ ca ngợi công đức.
Thiêu đốt muôn loài quỷ của nghi ngờ sợ hãi,
Con biết thày Có Mặt ở bên con hoài hoài. 

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra ma quỷ đã quy định nhiều trong số các điều kiện mà con chấp nhận, và do đó ma quỷ đã gián tiếp kềm con lại. Nhưng ma quỷ không có quyền lực trên con trừ phi con cho nó quyền lực đó bằng cách chấp nhận một số điều kiện.

Đại thiên thần Michael, ý Thượng đế thày yêu,
Từ Trên thày đem xuống ánh sáng của thiên triều.
Thượng đế chỉ muốn thấy mọi sự sống chuyển vọt,
Vươn cao trên bản ngã là quyền linh chót vót.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con sẽ không bao giờ biết thày nếu con phóng chiếu hình ảnh một Thượng đế giận dữ và phê phán lên thày và nghĩ rằng thày giống vậy.

Đại thiên thần Michael, là bạn thân con đó,
Bao cạm bẫy thế gian, thày dang tay phù hộ.
Ác quỷ không thể sánh được quyền năng ánh sáng,
Nên linh hồn tất cả được bay bổng thênh thang.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.6. Chân sư MORE, con muốn biết thày như thày đích thực là. Xin thày giúp con buông bỏ lâu đủ các điều kiện của mình để trải nghiệm, dù rằng một thoáng giây ngắn ngủi, tình thương vô điều kiện mà thày cảm nhận từ đấng Sáng tạo tuôn chảy qua thày, và từ Hiện diện TA LÀ trực tiếp xuống tới con.

Đại thiên thần Michael, như bày trẻ đùa chơi,
Chúng con dìu trái đất thức dậy trong ngày mới,
Nâng địa cầu ra khỏi lề lối đã ăn sâu,
Cho câu chuyện hành tinh được kể lại từ đầu.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cách thày trở thành cánh cửa mở cho tình thương đó khi con dự nhập thất của thày. Con sẽ chấp nhận tình thương của thày bằng cách buông bỏ bất cứ điều kiện nào miêu tả con không xứng đáng.

Đại thiên thần Michael, Thượng đế tỏ quyền năng,
Mà chúng con biết thày không ai thể chiến thắng,
Thày không còn tách biệt nên vượt qua chắc chắn,
Mọi mưu mô hung tợn và thâm độc của rắn.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra thày không phải là người quy định những điều kiện mà con không thể sống theo được. Xin thày giúp con nhận ra những điều kiện con phóng chiếu lên thày, nghĩ rằng thày đã quy định chúng.

Đại thiên thần Michael, thày đến nâng địa cầu,
Để khắp nơi khắp chốn được tái sinh cùng thấu,
Để tâm của tập thể cùng đi lên một lượt,
Cho chúng con vui mừng mà ngợi ca không ngớt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra thày không giữ tình thương lại vì thày không có điều kiện. Do đó, nếu con không trải nghiệm tình thương của thày, đó là vì con có điều kiện.

Đại thiên thần Michael, trái đất nay đổi mới,
Lửa xanh dương bao phủ giống như hạt sương rơi,
Hành tinh nay lóng lánh giữa không gian rộng lớn,
Để chúng con hứng lấy những hồng ân vô tận.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

Phần 4

4.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra nếu có con đường mòn nào trong tâm của con thốt lên: “Tôi phải sống theo điều kiện nào đây? Tôi không thể làm điều gì sai ở đây; tôi đang ở chỗ nhập thất tâm linh.”

Đại thiên thần Gabriel, ánh sáng con kính mến,
Chẳng còn gì sợ hãi, trầm mình trong Hiện diện,
Làm đệ tử Ki-tô nay con đã thật quên
Tự ngã với tham vọng đáp trả miếng từng miếng.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra thày là Thượng sư của Tia thứ Nhất, và dù rằng Tia thứ Nhất được miêu tả là tia của uy lực và ý chí, đó là vì uy lực và ý chí là thành phần thiết yếu của nỗ lực sáng tạo.

Đại thiên thần Gabriel, con không sợ ánh sáng,
Trong lửa trắng thanh tẩy, sao con thấy rộn ràng,
Tay con trong tay thày, mỗi thử thách trực diện
Là ân huệ không ngớt để con cứ theo lên.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con không thể sáng tạo bất cứ cái gì nếu không có một uy lực phóng ra ngoài, và con không thể sáng tạo bất cứ cái gì nếu không có ý chí muốn sáng tạo.

Đại thiên thần Gabriel, lửa trắng thày thiêu cháy,
Bước ra khỏi đêm tối, con thăng lên cùng thày.
Chẳng còn một nơi chỗ cho tự ngã trốn chạy,
Con trụ vững trong thày, thăng thiên theo ốc xoáy.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra uy lực và ý chí không phải là đức tính cố định, hay tiêu chuẩn mà con phải sống theo. Xin thày giúp con nhận ra là Chân sư MORE, thượng sư của Tia thứ Nhất của Nỗ lực Sáng tạo, không muốn triệt tiêu sự sáng tạo của con.

Đại thiên thần Gabriel, con nghe thấy tiếng kèn,
Báo hiệu ngày đản sanh của Ki-tô gần đến.
Trong bản thể nhẹ nhõm con đang được tái sinh,
Cùng Ki-tô con bước vào buổi sáng Phục sinh.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra thày không phải là người muốn triệt tiêu sự sáng tạo của con. Tự ngã, các tà lực và các thày giả muốn làm điều này, nhưng chính thày, chân sư MORE, chỉ muốn con hơn nữa. Và con hơn nữa qua sự sáng tạo.

Đại thiên thần Gabriel, địa cầu nay giải thoát,
Ôm chầm lấy thực tại của bất nhị quang minh.
Đây phán xử Ki-tô đập xuống lực tà ác,
Luôn phủ nhận mỗi người có đốm lửa tâm linh.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con chỉ trở nên sáng tạo khi sẵn sàng thử nghiệm. Và con sẵn sàng thử nghiệm chỉ bằng cách nhìn vào nỗi sợ mình sai và tự hỏi: “Có điều gì con yêu hơn nỗi sợ mình sai không? Có tình yêu nào trong con mạnh hơn nỗi sợ mình sai không?”

Đại thiên thần Gabriel, bao thiên sứ trắng ngần
Đang nâng cao địa cầu khỏi vùng đêm u ẩn,
Khi Lời của Thượng đế được ai nấy cùng ngân,
Thì những kẻ sa ngã bị trói bởi kiếm thần.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nối kết với tình yêu muốn hơn bất kỳ tiêu chuẩn nào. Vì chỉ bằng cách vượt lên trên tiêu chuẩn con mới có thể sáng tạo.  

Đại thiên thần Gabriel, nay chúng con gọi thày
Đem ánh sáng hỏa thiêu, khắp trung giới thanh tẩy.
Những tà thể, hồn bóng với ma quỷ trói lại,
Khi thày cùng chúng con ngân Lời Thánh quyền oai.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra những điều kiện có mặt trong con và chúng hạn chế biểu hiện sáng tạo của con như thế nào. Xin thày giúp con nhận ra luân xa nào của con bị nghẽn và hạn chế tiềm năng sáng tạo của con.

Đại thiên thần Gabriel, một ngày mới huy hoàng
Khi thiên thần rạng rỡ ở lại với nhân gian,
Ngọn lửa thày thanh tẩy bừng lên ánh lửa trắng,
Ý muốn con tinh sạch, tim con bay ngút ngàn.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra luân xa nào có cổng bị nghẽn. Xin thày giúp con nhận ra nó bị nghẽn là do con chấp nhận một điều kiện nào đó.

Đại thiên thần Gabriel, hành tinh quá trong lành,
Ai ai cũng yên ổn nhìn tương lai sáng lạng,
Bao bọc quanh địa cầu là một dải ánh sáng,
Khai mở thời hoàng kim của thày Saint Germain.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

Phần 5

5.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con buông bỏ điều kiện để nhiều ánh sáng có thể chảy qua luân xa và mở khóa tiềm năng sáng tạo của con.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra trải nghiệm tình thương chỉ đặt nền móng cho bước kế tiếp. Bước kế tiếp là sử dụng Tia thứ Tư của tinh khiết, khi cái có độ rung thấp được gia tốc lên độ rung cao hơn.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con xác nhận một cách ý thức con yêu cái gì hơn nữa. Con yêu sự biểu hiện sáng tạo của mình, bản thể cao hơn của mình, và tiềm năng sáng tạo của mình.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.4. Chân sư MORE, con yêu tiềm năng đó nhiều đến mức con sẵn sàng nhìn chính mình và thấy cái hạn chế sự biểu hiện sáng tạo của mình chính là những điều kiện con đã chấp nhận và cho phép chúng hiện hữu trong tâm thức mình.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.5. Chân sư MORE, do đó con quyết định: “Vâng, con sẵn sàng gia tốc mình vượt lên trên các điều kiện này. Con sẵn sàng gia tốc ý niệm bản ngã của mình vượt lên trên tiêu chuẩn con đã chấp nhận, tiêu chuẩn mà bây giờ con thấy là dựa trên tâm thức sa ngã, tâm thức phản-Ki-tô. Con sẽ không bị hạn chế bởi tiêu chuẩn này nữa. Con muốn gia tốc ý niệm bản ngã của mình vượt lên trên tiêu chuẩn đó, và con gia tốc mình vượt lên trên tiêu chuẩn đó.”

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra trở nên hơn nữa là một tiến trình sáng tạo, và một tiến trình sáng tạo thì không ép uổng được. Nó không thể dựa trên sợ hãi, nó phải dựa trên tình thương. Con yêu cái hơn nữa, do đó con sẵn sàng gia tốc mình lên một tầng cao hơn để cái hơn nữa đó có thể chảy qua con.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra Hiện diện TA LÀ của con là nguồn gốc của sự sáng tạo của con, và Hiện diện TA LÀ muốn thể hiện đầy đủ sáng tạo của nó như món quà giúp nâng trái đất lên một mức cao hơn.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra Hiện diện TA LÀ của con chỉ có thể thể hiện sự sáng tạo của nó qua con. Con có tiềm năng. Con, là cái Ta Biết có tiềm năng trở về trạng thái nhận biết thuần khiết, khi đó nó trở thành cánh cửa mở, cánh cửa hoàn toàn mở.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra, vì tiêu chuẩn của con, vì các điều kiện của con, con chưa là cánh cửa mở hoàn toàn. Con chỉ mở một phần, đôi khi chỉ mở chút xíu.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 6

6.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con trải nghiệm tình thương vô điều kiện mà Hiện diện TA LÀ thương con và muốn biểu hiện qua con, như vậy con có thể lấy quyết định từ cốt lõi của bản thể mình, dựa trên tình thương, không dựa trên sợ hãi.

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra quyết định dựa trên sợ hãi là quyết định phản ứng lại một điều gì mà con cảm thấy đang bị áp đặt lên con, và con quyết định né tránh phản ứng tiêu cực từ người khác.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi con sợ phản ứng tiêu cực, con lấy quyết định né tránh nó. Hầu hết các quyết định của con là quyết định né tránh; con tìm cách né tránh không cho chuyện xấu xảy ra.

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao, 
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra có một mức quyết định không phải vì sợ, không phải vì né tránh cái xấu. Con lấy quyết định tích cực dựa trên tình yêu cái hơn nữa và lòng mong muốn trải nghiệm cái gì đó tích cực.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con đã bị lập trình để tin rằng Thượng đế sợ hãi. Nếu thượng đế giận dữ, cái giận đến từ sợ hãi. Nếu thượng đế phê phán, nhu cầu phê phán đến từ sợ hãi.

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra hình ảnh phổ biến của một Thượng đế giận dữ và phê phán ở trên trời là một hình ảnh dựa trên sợ hãi miêu tả Thượng đế như một Thượng đế hành xử dựa trên sợ hãi.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất,
Serapis Bey, vạch trần cái ngã
Cứ muốn cướp đi đời sống hài hòa.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra ý muốn của Thượng đế không dựa trên sợ hãi; quyết định của Thượng đế không dựa trên sợ hãi. Và ý muốn của Thượng đế là con có quyền tự quyết, và ý muốn của Thượng đế là con thực thi quyền tự quyết theo ý muốn của con.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra ý muốn và viễn quan cao nhất của Thượng đế là con thực thi quyền tự quyết dựa trên tình thương và tất cả quyết định của con giúp con trở nên hơn nữa, giúp bầu cõi vật chất trở nên hơn nữa, và cuối cùng là giúp đấng Sáng tạo trở nên hơn nữa. Đây là tiến trình của sự sống khi tất cả mọi thứ đều trở nên hơn nữa.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.9. Chân sư MORE, do đó con tập trung ý chí để gia tốc mình vượt lên trên tiêu chuẩn của mình, cái tiêu chuẩn hạn chế sáng tạo của con. Quyết định này không dựa trên tâm vỏ ngoài thấm đậm sợ hãi. Nó dựa trên tình thương gia tốc ý niệm bản ngã của con, bởi vì CON LÀ HƠN NỮA.

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế chúng con rải truyền.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

10 | Thỉnh cầu uy lực và tình thương (9 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Hercules và Amazonia và Heros và Amora, Đại thiên thần Michael và Faith và Đại thiên thần Chamuel và Charity, Chân sư MORE và Paul người Venice yêu dấu, hãy giúp con trải nghiệm và chấp nhận tình thương vô điều kiện. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Chân sư MORE và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra bản chất của tâm thức rắn là nó tạo ra một tiêu chuẩn giả về tốt và xấu, sau đó nó nói nếu con sống theo tiêu chuẩn vỏ ngoài này – tìm cách tránh xấu và làm tốt – con được bảo đảm lên thiên đàng.

Hercules Xanh ngắt, ý chí thày duy nhất,
Trong con còn khoảng trống, thày đổ đầy Lửa Xanh,
Ngọn hải đăng sáng rực, tỏa rạng trên trái đất,
Phục hồi lại sự sống cho tất cả hành tinh.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi sống trên trái đất, con đã phần nào theo tư duy sa ngã này và chấp nhận một tiêu chuẩn nào đó. Xin thày giúp con nhận ra nếu con nghĩ con có thể tới khóa nhập thất của thày và áp đặt tiêu chuẩn của mình lên thày.

Hercules Xanh ngắt, thày trí tuệ cao xa,
Tạo cảm giác trong con hiểu biết nơi tất cả.
Nay tâm con rất mới bỗng nhận được khung nền,  
Để vượt qua giới hạn của đau đớn nhị nguyên.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.3. Chân sư MORE, con không dính mắc vào tiêu chuẩn của mình và sẵn sàng để thày phơi bày nó và giúp con vượt qua nó. Khi thày không tuân theo tiêu chuẩn của con, con sẽ không lý luận rằng thày là thày giả hay thày tu không đủ cao để dạy con.

Hercules Xanh ngắt, với tất cả tình thương,
Con dâng lên Thượng đế, hằng hà lời tán thưởng,
Bây giờ con thấy rõ khi cảm được lửa sáng,
Cái ta cũng thăng vượt như đá hóa thành vàng.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra tiêu chuẩn của con dựa trên một ảo tưởng, trong khi thày thực sự là thật. Vì thày đã thăng vượt tư duy sa ngã và cho con một khung tham chiếu ở bên ngoài tư duy sa ngã.

Hercules Xanh ngắt, chữa lành muôn sự sống,
Bao bọc quanh tất cả, Xanh ngọn lửa Niêm phong.
Con biết ơn quá đỗi được tự tay góp phần
Trong tác phẩm của Ngài đẹp tinh xảo vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con vươn ra ngoài hộp tư duy đóng kín của tâm mình, để tới được một vị thày cho con một khung tham chiếu vượt lên trên tâm thức sa ngã. Xin thày giúp con trở thành người mà chân sư thăng thiên có thể dạy được.

Hercules Xanh ngắt, ngôi Đền của Ánh sáng,
Được tỏ lộ cho con lúc dõi nhìn vào trong,
Khi uy lực của thày giục con bước mạnh dạn,
Băng qua bao rặng núi, xuyên qua mọi tấm màn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con dùng khả năng lý luận để nhận ra là mức nhận biết hiện nay của mình tạo thành cái hộp chung quanh tâm mình, một hộp tư duy. Cách duy nhất để vượt quá tầng tâm thức hiện nay và lên tầng kế tiếp là con với tới cái gì bên ngoài hộp tư duy hiện nay của con.

Hercules Xanh ngắt, con dâng hiến cuộc đời
Giúp cho cả hành tinh vượt tranh chấp loài người,
Khi lọc lừa nhị đối bị ánh sáng chọc thủng,
Trả lại cho trọn vẹn cái nhìn ở thâm cung.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra bất kỳ ai đã vươn lên tầng tâm thức cao hơn trong quá khứ đều đã dùng cách này. Bất kỳ ai có thể vươn lên tầng tâm thức cao hơn trong tương lai sẽ phải dùng cách này. Không ai có thể gian lận được.

Hercules Xanh ngắt, chúng con sẽ cởi xiềng,
Mọi sự sống thoát khỏi vi tế nhất nhị nguyên,
Hoàng tử của trần thế không còn gì để nắm,
Khi con đã cùng thày vượt lên trên hoàn toàn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.8. Chân sư MORE, con không muốn sống toàn bộ kiếp này bị giam trong một hộp tư duy. Con nhận ra là con đường giả đưa tới cứu rỗi mà các thày giả hứa hẹn sẽ không tự động đưa con lên thiên đàng sau kiếp này.

Hercules Xanh ngắt, với thày con hợp nhất,
Để con mở tim ra cho thực tại của thày,
Ngọn lửa xanh như điện mở mắt cho con thấy
Rằng sống trong chân thực: khát vọng của con đây.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra bất kể con đang ở tầng tâm thức nào, con có khả năng lý luận để nhận ra nó tạo thành một hệ thống đóng kín và cách duy nhất để vươn lên tầng kế tiếp là tìm một vị thày có thể cho con một cái gì bên ngoài hộp tư duy của con.

Hercules Xanh ngắt, nơi nơi thày đổ tràn
Quyền năng vô bờ bến với Hồng ân vô hạn,
Chìa khóa của sáng tạo, chính thày là hiện thân,
Biểu lộ qua ý chí vượt thăng đến Vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

Phần 2

2.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra tầng tâm thức hiện nay của con giống như cát lún, và con càng vùng vẫy thì càng lún nhanh hơn. Chỉ có một cách thoát là ngừng vùng vẫy và để tâm lắng yên xuống, nhờ vậy con có thể thấy thày đang cho con một sợi dây.

Heros-Amora, trong tình thương màu hồng,
Con không cần biết đến ai nghĩ gì về con,
Trong hợp nhất với thày, con gọi một ngày mới,
Như trẻ thơ trong trắng, con đùa giỡn vui chơi.  

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.  

2.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra thày đang cho con một điểm neo vững chắc giúp con có thể tự kéo mình lên.

Heros-Amora, đời mới đã khởi sự,
Con cười vào mặt quỷ, là đứa luôn nghiêm nghị,  
Với rắn bị kẹt cứng trong nhị đối của y,
Nhưng con thì thoát được nhờ Tình thương vô kỷ.  

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.  

2.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con dùng khả năng lý luận để nhận ra thày là một vị thày thật. Thày đang cho con một sợi dây. Nhưng nếu con cho phép mình dính mắc vào một tiêu chuẩn giả hay một giáo lý giả khiến con không chấp nhận thày hay một số khía cạnh giáo lý của thày, thì thày không giúp con được.

Heros-Amora, tỉnh ngộ con phát hiện
Rằng tình thương đích thực không hề có điều kiện,  
Con tắm trong Mặt trời màu Hồng Đỏ lộng lẫy,
Biết rằng Thượng đế muốn cuộc đời vui thơ ngây.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.  

2.4. Chân sư MORE, con nhận ra là thày cho con một cái gì vượt lên trên hộp tư duy của con. Xin thày giúp con tận dụng những gì thày cống hiến.

Heros-Amora, cuộc đời thật vui thay,
Tưởng chừng như thế giới là đồ chơi vĩ đại,  
Tâm con phóng thế nào thì đời như thế nấy,
Vì tấm gương cuộc sống phản chiếu đúng như vậy.  

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.  

2.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi con nhận lời hướng dẫn từ một vị thày tâm linh, trong con sẽ có hai phản ứng. Cho tới khi con thăng thiên, trong con luôn luôn có một sự phân chia, vì sẽ có một yếu tố nào đó của tự ngã giữ con hiện thân trên trái đất.

Heros-Amora, đốt hết mọi điều kiện,
Con biết con toàn quyền được lật sang trang mới,  
Trầm mình trong dòng chảy của Tình yêu vô biên,
Con biết rằng Tánh linh đã từ Trên xuống đời.  

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.  

2.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra, vì trái đất là một hành tinh rất dày đặc, ngày nào con còn hiện thân ở đây, cần có một yếu tố nào đó của tâm thức con người giữ con trong thân thể vật lý này.

Heros-Amora, rốt cuộc con cảm thấy
Mình đã vượt lên trên vùng dĩ vãng sa lầy.  
Trong tình yêu chân thật con tự do phát triển,
Mãi mãi con là một với Dòng Từ vô biên.  

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.  

2.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra bất kể tầng tâm thức của con, khi con nhận lời hướng dẫn từ tầng tâm thức kế tiếp, trong con sẽ luôn luôn có hai phản ứng.

Heros-Amora, điều kiện vốn trói buộc,
Chúng hình thành mạng lưới những lừa dối gian manh,  
Nhưng thày giải cứu con nhờ sẵn thuốc giải độc,
Và đem con vượt khỏi mọi điều kiện khởi sanh.  

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.  

2.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra có một phản ứng cao, khao khát cái cao hơn tầng tâm thức hiện nay. Thứ hai là phản ứng thấp, muốn chối bỏ cái cao hơn để biện minh tại sao nên bám víu vào tầng tâm thức hiện nay.

Heros-Amora, tình yêu không buộc trói,
Nó chỉ muốn vượt qua, giải thoát con ra khỏi,  
Nó bay xa mãi mãi vì nó không biên giới,
Nâng cao muôn sự sống vào trời Hồng ngọc tươi.  

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.  

2.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con phân biện phản ứng nâng con lên và phản ứng chống lại lời hướng dẫn của thày.

Heros-Amora, tình yêu ngập cõi trần,
Đổ đầy tim ai nấy một niềm vui bất tận,
Vì không thể còn chỗ cho tuyệt vọng sợ hãi,
Khi tất cả tỉnh giấc: Tình yêu nổ bùng dậy!  

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.  

Phần 3

3.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra có một phản ứng muốn nhập một với vị thày, và một phản ứng muốn chối bỏ vị thày. Phản ứng này muốn biện minh tại sao con tránh xa vị thày, thay vì chấp nhận lời hướng dẫn và dùng nó để thăng vượt tầng tâm thức hiện nay của con.

Đại thiên thần Michael, trong ngọn lửa xanh ngắt,
Không còn bao đêm tối mà chỉ thày có mặt.
Trong hợp nhất với thày, con đã ngập ánh sáng,
Cảnh rực rỡ nhiệm màu hiện ra ngay trước mắt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra phản ứng chối bỏ vị thày và lời hướng dẫn của thày luôn luôn dựa trên một tiêu chuẩn mà con đã chấp nhận với tâm vỏ ngoài, và tiêu chuẩn này luôn luôn do tâm rắn thiết kế.

Đại thiên thần Michael, thày cho con che chở,
Sau tấm khiên màu xanh con được sống muôn thuở.
Niêm con khỏi hồn bóng đang lang thang đêm tối,
Con ở trong cõi thày, rực sáng màu xanh tươi.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con cảm nhận hai phản ứng trong con khi nghe lời khẳng định rằng bất kể tiêu chuẩn nào con đã chấp nhận trên trái đất, tiêu chuẩn này luôn luôn dựa trên hay bị ảnh hưởng bởi tâm rắn.

Đại thiên thần Michael, thày đem bao uy lực,
Mà hàng triệu thiên thần sẽ ca ngợi công đức.
Thiêu đốt muôn loài quỷ của nghi ngờ sợ hãi,
Con biết thày Có Mặt ở bên con hoài hoài. 

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra sự kiện giản dị là nếu tiêu chuẩn của con có thể đưa con lên thiên đàng thì con đâu cần thày hướng dẫn.

Đại thiên thần Michael, ý Thượng đế thày yêu,
Từ Trên thày đem xuống ánh sáng của thiên triều.
Thượng đế chỉ muốn thấy mọi sự sống chuyển vọt,
Vươn cao trên bản ngã là quyền linh chót vót.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là sự kiện con tới khóa nhập thất của thày cho thấy tiêu chuẩn của con sẽ không đưa con lên thiên đàng được. Do đó, thày không thể giúp con vươn lên tầng tâm thức cao hơn bằng cách xác nhận hay tuân theo tiêu chuẩn của con. Thày phải chất vấn tiêu chuẩn của con nếu thày muốn giúp con.

Đại thiên thần Michael, là bạn thân con đó,
Bao cạm bẫy thế gian, thày dang tay phù hộ.
Ác quỷ không thể sánh được quyền năng ánh sáng,
Nên linh hồn tất cả được bay bổng thênh thang.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra không một vị thày nào có thể giúp con vươn lên tầng cao hơn bằng cách xác nhận tiêu chuẩn mà con có ở tầng tâm thức hiện nay của con.

Đại thiên thần Michael, như bày trẻ đùa chơi,
Chúng con dìu trái đất thức dậy trong ngày mới,
Nâng địa cầu ra khỏi lề lối đã ăn sâu,
Cho câu chuyện hành tinh được kể lại từ đầu.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra liệu con có đã dùng một phong trào tâm linh hay tôn giáo và giáo lý của phong trào để xây dựng một tiêu chuẩn và dùng nó để đánh giá hành động và nỗ lực sáng tạo của mình.

Đại thiên thần Michael, Thượng đế tỏ quyền năng,
Mà chúng con biết thày không ai thể chiến thắng,
Thày không còn tách biệt nên vượt qua chắc chắn,
Mọi mưu mô hung tợn và thâm độc của rắn.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là một kết quả điển hình của tiêu chuẩn vỏ ngoài là con muốn có quy luật cho mọi thứ. Con muốn có quy luật và khi con tuân theo quy luật, Thượng đế phải nhận con vào thiên đàng.

Đại thiên thần Michael, thày đến nâng địa cầu,
Để khắp nơi khắp chốn được tái sinh cùng thấu,
Để tâm của tập thể cùng đi lên một lượt,
Cho chúng con vui mừng mà ngợi ca không ngớt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra tiêu chuẩn của con nói rằng những ai không tuân theo quy luật sẽ bị kết án khổ hình vĩnh viễn trong địa ngục. Đây là một lập luận nhị phân đơn giản. Có hay không. Tốt hay xấu. Bật hoặc tắt. Và đây là tâm nhị nguyên.

Đại thiên thần Michael, trái đất nay đổi mới,
Lửa xanh dương bao phủ giống như hạt sương rơi,
Hành tinh nay lóng lánh giữa không gian rộng lớn,
Để chúng con hứng lấy những hồng ân vô tận.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

Phần 4

4.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra nhiều người nghĩ tự do là khi mình làm được bất cứ điều gì mình muốn. Các nhà độc tài có vẻ có tự do hành động, nhưng tâm họ không có tự do vì họ bị đóng khung bởi những quy luật mà họ tạo ra và dùng để phán xét người khác.

Đại thiên thần Chamuel, uy lực tia ngọc hồng,
Con biết con đang tắm trận mưa ban sự sống,
Bao ý chí sa đọa đốt sạch bởi tình thương,
Bỗng nhiên bao ham muốn như chìm nghỉm lắng xuống.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra tự ngã muốn có thể làm bất cứ gì nó muốn mà không bị trừng phạt, nhưng tự ngã không thật sự khao khát tự do, vì nó không biết tự do là gì và sẽ không bao giờ biết được.

Đại thiên thần Chamuel, ánh sáng dâng cuồn cuộn,
Tia hồng ngọc rực lửa đâm xuyên qua đêm trường,
Mọi thế lực bóng tối bị lửa thày thiêu nướng,
Thiêu sạch cả những ai không chịu bước cao hơn.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra định nghĩa tự do của tự ngã không phải là vượt lên trên quy luật. Tự ngã tìm cách cho mình tự do bằng cách quy định một bộ luật có tiêu chuẩn hai hàng. Một tiêu chuẩn áp dụng cho người khác và tiêu chuẩn kia áp dụng cho tôi, như vậy tôi có thể làm bất cứ gì tôi muốn mà không bị trừng phạt, nhưng người khác thì không được làm vậy.

Đại thiên thần Chamuel, tình yêu thày bao la,
Cuộc sống nay ý nghĩa do tầm nhìn sáng tỏ,
Khi mục đích cuộc đời con nhận ra quá rõ,
Nhận cả đấng Duy nhất trong tình thương chan hòa.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi con có bộ luật với hai tiêu chuẩn, con phải sống theo tiêu chuẩn này để được tự do do tiêu chuẩn quy định.

Đại thiên thần Chamuel, đem bình an bất nhị,
Thậm chí cả cái chết mà cũng chẳng là chi,
Thật sự trong tình thương không thể có phân hủy,
Tình thương là thăng vượt vào ngày mới vô thỉ.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là tuy tự ngã đã quy định được một tiêu chuẩn cho nó quyền làm dường như bất cứ gì nó muốn, nó vẫn bị mắc kẹt trong tiêu chuẩn, nó bị giam cầm trong chính tiêu chuẩn của nó.

Đại thiên thần Chamuel, Lửa Thượng đế ban xuống,
Cho người người khao khát được nếm trọn yêu thương,
Mọi hoàn cảnh trong đời, con biết đều không thực,
Khi tình yêu Thượng đế được chứng trong tâm thức.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cái thật sự khao khát tự do là cái Ta Biết vì nó là một nối dài của Hiện diện TA LÀ của con. Nó là Tánh linh (Spirit), và Tánh linh luôn luôn cảm thấy bị giam hãm khi nó phải quy thuận vật chất vì Tánh linh có tự do sáng tạo.

Đại thiên thần Chamuel, hạt yêu thương thày gieo,
Trong trái tim của người không màng chuyện sở hữu,
Tình nào cố sở hữu sẽ sợ hãi ưu phiền,
Đâm vào tim nhức nhối là ngọn giáo nhị nguyên.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra tự do sáng tạo không phải là tự do làm bất cứ gì con muốn dựa trên một bộ quy luật được định trong thế giới hình tướng.

Đại thiên thần Chamuel, con sẽ không kiểm soát,
Vì đó là quỷ dữ muốn hồn con giam chặt,
Bẻ gẫy vòng dây xích mà rắn đã cài đặt,
Con tìm lại Thượng đế trong tình yêu giải thoát.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra các quy luật được định ra bởi một hình tướng, và một khi con chấp nhận chúng là quy luật, con không thể thay đổi hình tướng. Hình tướng bị giam trong một khuôn đúc, và khi con còn tin vào quy luật thì con không thể thăng vượt hình tướng.

Đại thiên thần Chamuel, thày sao tài tình thật,
Giúp con nhận tình yêu của Thượng đế chân thực,
Con thừa biết tình yêu mà con hằng mong ước,
Không cần phải xứng đáng hay bỏ công tìm được.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra Tánh linh không được tạo ra để bị giam trong hình tướng. Tánh linh được tạo ra để sáng tạo hình tướng, và nó tạo hình tướng hơn cái nó đã sáng tạo trước đó bằng cách học hỏi từ những sáng tạo này.

Đại thiên thần Chamuel, để nhận được tình thương,
Con không cần toàn hảo hay giỏi giang phi thường,
Tình thương luôn chảy xiết, không bao giờ im đứng,
Chỉ đòi hỏi con chịu tiến bước lên không ngừng.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

Phần 5

5.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra sự sáng tạo – động lực sáng tạo của Tánh linh – tạo ra hình tướng nhưng không bị giam lâu trong hình tướng, mà dùng kinh nghiệm mình có để sáng tạo một hình tướng hơn trước đó.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi con theo tiến trình sáng tạo, học hỏi và sau đó sáng tạo cái hơn nữa, con tăng trưởng sự tự nhận biết. Đây là mục đích sự sống. Đây là cách sự sống tiến bộ: qua tiến trình sáng tạo.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là các thày giả đã khiến con người tin rằng họ phải giết động lực sáng tạo của họ. Khi con tìm cách tuân theo quy luật thì con ngừng sáng tạo.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con không thể nào sáng tạo bằng cách tuân theo quy luật được quy định dựa trên hình tướng vì như vậy con không thể thăng vượt hình tướng. Làm sao con sáng tạo được nếu con không thăng vượt hình tướng đang hiện hữu bây giờ?

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra các thày giả đã tạo ra một tiêu chuẩn giả cho rằng con phải tuân theo một bộ luật được quy định bởi một thẩm quyền tối hậu, chẳng hạn như vị thượng đế giận dữ ở trên trời.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra có những quy luật thiên nhiên. Có những nguyên tắc sáng tạo được đấng Sáng tạo sử dụng.  Con có thể học cách sử dụng những nguyên tắc này một cách càng ngày càng sáng tạo hơn để nâng cao toàn thể.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra đó chính là sáng tạo, trong khi định nghĩa quy luật thiên nhiên và quy luật Thượng đế như một chiếc áo khóa tay giam chặt sự sáng tạo, thì không phải là sáng tạo. Đây là tâm thức chết. Nó không phải là tâm thức Sống, tâm thức Ki-tô tìm cách nâng cao mọi sự sống.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.8. Chân sư MORE, con sẵn sàng để thày dẫn con vượt lên trên tiêu chuẩn hiện nay của con. Xin thày giúp con nhận ra tiêu chuẩn mà con đã chấp nhận trên trái đất chỉ có một mục đích duy nhất là giới hạn sự sáng tạo của con để con không thể dùng khả năng sáng tạo của mình để vươn lên tầng tâm thức cao hơn.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra điều quan trọng không phải là con dùng khả năng sáng tạo để tạo ra kết quả nào đó trên trái đất. Xin thày giúp con học cách sử dụng khả năng sáng tạo để vươn lên tầng tâm thức kế tiếp. Xin thày giúp con thay đổi ý niệm bản ngã vì chỉ khi nào con thay đổi ý niệm bản ngã con mới vươn lên tầng tâm thức kế tiếp được.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 6

6.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con không cần tạo ra kết quả vỏ ngoài nào cả để vươn lên tầng cao hơn. Con cần thay đổi ý niệm bản ngã của mình. Con không thể làm điều này bằng cách tuân theo quy luật của tiêu chuẩn hiện nay của con, vì tiêu chuẩn này sẽ giữ ý niệm bản ngã của con ở cùng tầng tâm thức. Cách duy nhất để tái tạo ý niệm bản ngã của con là sử dụng khả năng sáng tạo của mình.

Ôi chân sư Paul, thày là giấc mơ,
Thày yêu cái đẹp hằng chảy tuôn ra.
Ôi chân sư Paul, tình mang trong dạ
Quyền năng đập vỡ nấm mồ tự ngã.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con bỏ qua một bên tiêu chuẩn của mình để con nối kết lại với khả năng sáng tạo của mình. Xin thày giúp con hiểu là có cái gì cao hơn tầng tâm thức hiện nay của con, và con có tiềm năng vươn lên tầng này bằng cách dùng khả năng sáng tạo của chính mình.

Ôi chân sư Paul, là nguồn khuyên nhủ,
Tâm con bay vút lên đỉnh trời cao.
Ôi chân sư Paul, minh triết ấp ủ
Cái đẹp chảy xuống từ Trên nhập vào.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra có nhiều người tâm linh hay ngoan đạo đã chấp nhận một tiêu chuẩn cho rằng họ cần một vị thày hay một vị cứu tinh bên ngoài làm điều gì đó giúp họ. Nhưng con thấy thày, chân sư MORE, sẽ không làm hết mọi thứ hộ con.

Ôi chân sư Paul, yêu là nghệ thuật,
Mở trái tim ra căn phòng mật thất.
Ôi chân sư Paul, ào ào chảy xuống,
Cho tim tràn ngập ánh sắc yêu thương.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con cần một vị thày ở tầng tâm thức cao hơn con, có thể cho con một khung tham chiếu cao hơn tầng tâm thức hiện nay của con. Nhưng điều này không có nghĩa là vị thày sẽ làm công việc hộ con.

Ôi chân sư Paul, gia tốc mài miệt,
Trụ vào từ bi, con thiền nhận biết.
Ôi chân sư Paul, ý định thuần khiết
Sẽ được bảo đảm thăng lên siêu việt.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra vị thày sẽ cho con điều con cần, nhưng con phải thể nhập nó. Con sẽ không nhận giáo lý thày dạy con rồi ép nó phải thuận theo tiêu chuẩn hiện nay của con. Con sẽ không biến giáo lý của thày thành một quy luật khác.

Ôi chân sư Paul, tình yêu hàn gắn,
Thày mở lộ ra ánh sáng nội tâm.  
Ôi chân sư Paul, tình yêu an ủi,
Để con nguyên vẹn trong một niềm vui.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra thày không dạy con giáo lý để con biến nó thành một quy luật. Thày dạy con giáo lý để chất vấn một quy luật nào đó và giải thoát khả năng sáng tạo của con. Con sẽ không lên thiên đường bằng cách tuân theo quy luật, mà bằng cách đồng-sáng tạo một ý niệm bản ngã cao hơn.

Ôi chân sư Paul, phụng sự Tất cả,
Giúp mọi chúng sinh thăng vượt sa ngã.
Ôi chân sư Paul, an bình ra khơi,
Mặc cho tự ngã tất phải tàn hơi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là điều con làm cho người khác, con đã làm cho chính mình trong tâm thức mình. Con chỉ có thể ép buộc người khác khi con đã ép buộc mình tuân theo một tiêu chuẩn trong tâm mình.

Ôi chân sư Paul, tình yêu giải phóng,
Thày yêu mãi mãi, cho con nhập dòng.
Ôi chân sư Paul, thày là vị Chủ
Giúp cho hành trình của con hứng thú.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cái nâng năng lượng là tình thương, cái hạ năng lượng là sợ hãi.

Ôi chân sư Paul, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư Paul, thày tô bầu trời,
Cái ta mừng rỡ trong màu vui tươi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra bất kỳ điều kiện nào hạn chế con đều có một nguyên nhân, nhưng nguyên nhân không phải là một điều kiện bên ngoài. Nguyên nhân là một cảm nhận bên trong, và điều kiện bên ngoài chỉ giản dị là hình ảnh phóng chiếu của cái gì xảy ra trong tâm thức con. 

Ôi chân sư Paul, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tình yêu Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

Phần 7

7.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con có ý thức chuyện gì đang xảy ra ở các tầng tình cảm, lý trí và bản sắc của tâm con, như vậy con nhận ra là tâm thái nơi ba tầng cao của tâm con đã tạo ra hoàn cảnh bên ngoài của con.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi con phản ứng lại hoàn cảnh bên ngoài, con đang phản ứng lại cái gì con đã tạo ra. Xin thày giúp con nhận ra bất kỳ cái gì hạn chế con đều do con tạo ra khi con sử dụng khả năng sáng tạo qua sự sợ hãi.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con đang biểu lộ khả năng sáng tạo với thái độ thương yêu hay với thái độ sợ hãi.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra sợ hãi là bạn đồng hành không tránh được của việc áp dụng tiêu chuẩn khi con sáng tạo. Ngay lúc con chấp nhận tiêu chuẩn, với cái nhìn nhị nguyên, con lượng định xem mình đang tuân thủ hay vi phạm tiêu chuẩn.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra tác dụng chung là tạo ra nơi con nỗi sợ không thể tránh, sợ vi phạm tiêu chuẩn và sợ những hậu quả nghiêm trọng quy định bởi tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn luôn luôn có hai mặt: phần thưởng khi tuân theo nó và hình phạt khi vi phạm nó.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cách thực sự để đánh giá hậu quả của các nỗ lực sáng tạo của con là tự hỏi: “Tôi muốn thứ này nhiều hơn, hay tôi muốn cái gì cao hơn thứ này?”

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra không cần phải sợ hãi vì con có thể thăng vượt bất kỳ lựa chọn nào con đã lấy trong quá khứ. Con có thể thăng vượt bất kỳ lựa chọn quá khứ nào bằng một lựa chọn tốt hơn.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con chất vấn tiêu chuẩn của con. Xin thày giúp con đứng ra ngoài tiêu chuẩn của mình, nhìn nó từ bên ngoài, và nhận ra, mặc dù tiêu chuẩn này cho tự ngã con một số điều thuận lợi, con cảm thấy bị giam cầm trong tiêu chuẩn đó. Cái Ta Biết của con, Tánh linh, cảm thấy bị giam cầm trong tiêu chuẩn này.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra nếu con có thể bỏ lại đằng sau tầng tự ngã đó, con có thể vươn lên một tầng tâm thức mới, nơi con thoát khỏi tiêu chuẩn cũ của con. Con có thể vẫn còn một tiêu chuẩn nào đó, nhưng ít ra, con thoát khỏi một số hạn chế đã giam cầm mình.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 8

8.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra tiêu chuẩn của tâm thức nhị nguyên, tâm thức rắn, áp đặt lời dối trá tinh vi là con bị giam hãm bởi các lựa chọn quá khứ của mình. Việc tạo ra một tiêu chuẩn ngụ ý rằng một số chọn lựa của con đã sai lầm theo nghĩa tối hậu.

Ôi chân sư Paul, thày là giấc mơ,
Thày yêu cái đẹp hằng chảy tuôn ra.
Ôi chân sư Paul, tình mang trong dạ
Quyền năng đập vỡ nấm mồ tự ngã.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

8.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con rắn nói rằng một số chọn lựa của con vi phạm tiêu chuẩn, do đó chính việc con dùng quyền tự quyết một cách sáng tạo đã khiến con vi phạm tiêu chuẩn.

Ôi chân sư Paul, là nguồn khuyên nhủ,
Tâm con bay vút lên đỉnh trời cao.
Ôi chân sư Paul, minh triết ấp ủ
Cái đẹp chảy xuống từ Trên nhập vào.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

8.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhìn thấu lời hứa giả là nếu con ngưng dùng quyền tự quyết của mình một cách sáng tạo, mà thay vào đó giam quyền tự quyết vào một tiêu chuẩn vỏ ngoài, thì con sẽ được bảo đảm lên thiên đàng. Vì Thượng đế phải chấp nhận con khi con sống theo tiêu chuẩn do rắn quy định trên trái đất.

Ôi chân sư Paul, yêu là nghệ thuật,
Mở trái tim ra căn phòng mật thất.
Ôi chân sư Paul, ào ào chảy xuống,
Cho tim tràn ngập ánh sắc yêu thương.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

8.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra đây là lời dối trá tiềm ẩn đằng sau con đường giả. Họ nói: Bạn sai lầm khi dùng khả năng sáng tạo của bạn. Do đó, cách duy nhất tránh xuống địa ngục là ngừng sáng tạo và làm theo quy luật sẽ đưa bạn lên thiên đàng. Nhưng đây là lời dối trá.

Ôi chân sư Paul, gia tốc mài miệt,
Trụ vào từ bi, con thiền nhận biết.
Ôi chân sư Paul, ý định thuần khiết
Sẽ được bảo đảm thăng lên siêu việt.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

8.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra toàn bộ mục đích cuộc đời là để con học cách dùng khả năng sáng tạo của mình để tự thăng vượt liên tục và trở nên hơn nữa. Điều rắn nói là con không thể tự thăng vượt, con không thể thăng vượt chọn lựa cũ của mình.

Ôi chân sư Paul, tình yêu hàn gắn,
Thày mở lộ ra ánh sáng nội tâm.  
Ôi chân sư Paul, tình yêu an ủi,
Để con nguyên vẹn trong một niềm vui.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

8.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra rắn nói rằng con có thể vào thiên đàng bằng cách tuân theo quy luật thay vì thăng vượt ý niệm bản ngã của mình. Rắn nói rằng con có thể kiện toàn ý niệm bản ngã hiện nay của mình bằng cách tuân theo quy luật vỏ ngoài. Nhưng đây là lời dối trá.

Ôi chân sư Paul, phụng sự Tất cả,
Giúp mọi chúng sinh thăng vượt sa ngã.
Ôi chân sư Paul, an bình ra khơi,
Mặc cho tự ngã tất phải tàn hơi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

8.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cách duy nhất để vào thiên đàng là thăng vượt ý niệm bản ngã của mình, bằng cách dùng khả năng sáng tạo để tái tạo một ý niệm bản ngã mới, một ý niệm bản ngã cao hơn.

Ôi chân sư Paul, tình yêu giải phóng,
Thày yêu mãi mãi, cho con nhập dòng.
Ôi chân sư Paul, thày là vị Chủ
Giúp cho hành trình của con hứng thú.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

8.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con làm điều này bằng cách học hỏi từ chọn lựa quá khứ và sau đó chọn lựa tốt hơn. Con không làm điều này bằng cách từ chối chọn lựa, từ chối học hỏi, hay nghĩ rằng con có thể tuân theo một tiêu chuẩn vỏ ngoài.

Ôi chân sư Paul, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư Paul, thày tô bầu trời,
Cái ta mừng rỡ trong màu vui tươi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

8.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con thay đổi toàn diện cái nhìn của con về cuộc đời và nhận ra con không tăng triển bằng sợ hãi, mà chỉ tăng triển bằng tình thương. Vì vậy, nhiệm vụ chính của con là giải thoát khả năng sáng tạo của mình để con có thể sử dụng nó trong tình thương thay vì sợ hãi.

Ôi chân sư Paul, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tình yêu Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

Phần 9 

9.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra nhiều người sử dụng khả năng sáng tạo của họ trong sợ hãi vì lúc nào họ cũng phản ứng lại tiêu chuẩn. Họ tìm cách né tránh điều gì hoặc bù đắp cho một hành động quá khứ.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

9.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con không cần bù đắp cho những chọn lựa quá khứ của mình. Con cần học hỏi từ những chọn lựa này và thăng vượt tầng tâm thức lúc ấy.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

9.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra không có gì cần bù đắp trong bãi chơi cát trên trái đất. Con cần thăng vượt ý niệm bản ngã thay vì tiếp tục đồng-sáng tạo qua bản ngã đó. Đây là điều một đệ tử tâm linh cần làm.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

9.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con dùng khả năng cảm nhận điều gì nâng cao hay hạ thấp năng lượng và áp dụng nó vào cách con nhìn cuộc đời và tiêu chuẩn của con. Xin thày giúp con nhận ra một số khía cạnh của tiêu chuẩn của con dựa trên sợ hãi.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

9.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con xem xét con sợ điều gì. Xin thày giúp con tiếp cận nỗi sợ này và cảm nhận là chỉ nghĩ về nó thôi cũng đã hạ năng lượng của mình. Xin thày giúp con nhận ra bất kỳ điều gì hạ năng lượng đều đến từ sợ hãi, và bất kỳ điều gì đến từ sợ hãi đều giết chết sự sáng tạo.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

9.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra ý muốn của Thượng đế không phải là cái áo khoá tay đòi hỏi con phải từ bỏ quyền tự quyết của mình. Ý muốn của Thượng đế là con có quyền tự quyết! Quyền này được cho không! Thượng đế cho con quyền tự quyết và ý muốn của Thượng đế là con được tự do dùng nó.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

9.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra thực thi quyền tự quyết của con một cách tự do có nghĩa là con nhìn vào kết quả của lựa chọn quá khứ của mình. Và sau đó con đánh giá: Con muốn nhiều thêm kết quả này hay con muốn cái gì khác cao hơn kết quả này?

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

9.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi con muốn điều gì cao hơn, con dùng chọn lựa quá khứ của mình để học hỏi cách tái tạo chính mình để đồng-sáng tạo cái hơn nữa. Đây là cách con dần dần nâng cao quyền tự quyết của mình để nó thực sự tự do.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

9.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra bất kể điều gì con đã chọn trước đây, con có thể thăng vượt mức tâm thức đó và chọn cái gì cao hơn. Con không bị ràng buộc bởi chọn lựa quá khứ của mình. Con không bị ràng buộc bởi quy luật. Con không bị ràng buộc bởi một tiêu chuẩn vỏ ngoài trên trái đất. Chìa khóa để tiến bộ trên con đường tâm linh là tránh xa sợ hãi và tiến vào tình thương.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

8 | Thỉnh cầu uy lực và minh triết (6 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Hercules và Amazonia và Apollo và Lumina, Đại thiên thần Michael và Faith và Đại thiên thần Jophiel và Christine, Chân sư MORE và Lanto yêu dấu, hãy giúp con tác động khả năng suy luận cao của con. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Chân sư MORE và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khung tham chiếu giả đánh giá uy lực qua kết quả hay hậu quả vật lý mà nó tạo ra.

Hercules Xanh ngắt, ý chí thày duy nhất,
Trong con còn khoảng trống, thày đổ đầy Lửa Xanh,
Ngọn hải đăng sáng rực, tỏa rạng trên trái đất,
Phục hồi lại sự sống cho tất cả hành tinh.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra ý tưởng giả cho rằng người có uy lực là người làm được việc, bất kể những tổn hại hay hậu quả khác trên người khác.

Hercules Xanh ngắt, thày trí tuệ cao xa,
Tạo cảm giác trong con hiểu biết nơi tất cả.
Nay tâm con rất mới bỗng nhận được khung nền,
Để vượt qua giới hạn của đau đớn nhị nguyên.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra Thày là Thượng sư của Uy lực, nhưng thày không đánh giá uy lực dựa trên kết quả vật lý trên trái đất. Đối với thày, kết quả vật lý không quan trọng chút nào.

Hercules Xanh ngắt, với tất cả tình thương,
Con dâng lên Thượng đế, hằng hà lời tán thưởng,
Bây giờ con thấy rõ khi cảm được lửa sáng,
Cái ta cũng thăng vượt như đá hóa thành vàng.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con tránh nhìn Tia thứ Nhất của uy lực xuyên qua phin lọc của tiêu chuẩn thế gian, tiêu chuẩn giả về uy lực.

Hercules Xanh ngắt, chữa lành muôn sự sống,
Bao bọc quanh tất cả, Xanh ngọn lửa Niêm phong.
Con biết ơn quá đỗi được tự tay góp phần
Trong tác phẩm của Ngài đẹp tinh xảo vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra vũ trụ vật chất là một lớp học, một môi trường học hỏi. Vũ trụ là một tấm gương toàn vũ. Những gì con phóng ra ngoài sẽ được phản chiếu lại dưới dạng hoàn cảnh vật lý.

Hercules Xanh ngắt, ngôi Đền của Ánh sáng,
Được tỏ lộ cho con lúc dõi nhìn vào trong,
Khi uy lực của thày giục con bước mạnh dạn,
Băng qua bao rặng núi, xuyên qua mọi tấm màn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là mục đích của sự phản chiếu lại những gì con phóng ra ngoài là để phơi bày một cách không thể chối cãi những gì con không thấy trong tiềm thức hay tâm ý thức của mình.

Hercules Xanh ngắt, con dâng hiến cuộc đời
Giúp cho cả hành tinh vượt tranh chấp loài người,
Khi lọc lừa nhị đối bị ánh sáng chọc thủng,
Trả lại cho trọn vẹn cái nhìn ở thâm cung.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra mục đích cuộc sống là tăng triển tâm thức con người. Xin thày giúp con nhận ra môi trường vật lý trên hành tinh trái đất cũng giả như môi trường trong cặp kính thực tại ảo (virtual reality goggles).

Hercules Xanh ngắt, chúng con sẽ cởi xiềng,
Mọi sự sống thoát khỏi vi tế nhất nhị nguyên,
Hoàng tử của trần thế không còn gì để nắm,
Khi con đã cùng thày vượt lên trên hoàn toàn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra hành tinh trái đất chỉ giản dị là một phóng chiếu của tâm thức. Không có gì thật một cách tối hậu, không có gì trường tồn, vì đây chỉ là một môi trường thử nghiệm.

Hercules Xanh ngắt, với thày con hợp nhất,
Để con mở tim ra cho thực tại của thày,
Ngọn lửa xanh như điện mở mắt cho con thấy
Rằng sống trong chân thực: khát vọng của con đây.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra không có gì trường tồn cho tới khi bầu cõi thăng thiên. Đó là lý do tại sao thày không hề quan tâm tới những kết quả vật lý mà con tạo ra hay không tạo ra.

Hercules Xanh ngắt, nơi nơi thày đổ tràn
Quyền năng vô bờ bến với Hồng ân vô hạn,
Chìa khóa của sáng tạo, chính thày là hiện thân,
Biểu lộ qua ý chí vượt thăng đến Vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

Phần 2

2.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra trạng thái tâm thức của con quyết định con có thể thăng thiên hay vào cõi tâm linh.

Apollo yêu dấu, trong tia sáng thứ hai,
Thày mở mắt con ra để con nhìn ngày mới,
Vượt lên trên khuôn đúc tư duy gây thảm bại,
Con nhìn thấu xuyên qua lừa lọc của nhị đối.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con sẽ không vào cõi tâm linh cho tới khi con đạt tầng tâm thức 144. Con sẽ không đạt tầng này nếu con nghĩ chỉ cần tạo ra một số kết quả bên ngoài.

Apollo yêu dấu, trong ánh lửa con biết
Có dòng nước hằng chảy là dòng sông minh triết,
Kìa ý chí cao nhất nay con đã phát hiện,
Trầm mình trong dòng nước không bao giờ đứng yên.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là cách duy nhất để đi xuống thấp hơn tầng tâm thức 48 là con bắt đầu lạm dụng quyền lực.

Apollo yêu dấu, ánh sáng thày soi rõ
Tại sao chúng con lại hiện thân ở đây nhỉ,
Rõ cả những lọc lừa đã khiến mình sa ngã,
Thày giúp con tìm lại duy nhất với tất cả.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra lạm dụng quyền lực xảy ra khi con dùng động lượng của mình, những thành tựu của mình, để khởi lên ý định hung hãn muốn tạo ra một kết quả bên ngoài bằng cách kiểm soát hay áp lực người khác. Đó là cách khiến con đi xuống dưới tầng tâm thức 48.

Apollo yêu dấu, vạch trần từng dối trá,
Từng sợi dây tự ngã chúng con nay buông bỏ,
Và hiểu ra thật sự nhận thức là chìa khóa
Để vượt qua nhị đối cho nội tâm sáng tỏ.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cách duy nhất để tâm thức sa ngã là con dính mắc vào một kết quả bên ngoài đến độ con sẵn sàng dùng sức mạnh để khiến người khác tuân theo cái nhìn của mình.

Apollo yêu dấu, con nghe lời thày gọi,
Ở Đại sảnh Minh triết tiếng gọi dìu con tới,
Đây bầu cõi vũ trụ chúng con phải nâng cao,
Và cùng nhau hình thành mũi đầu của ngọn giáo.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra tâm thức sa ngã là sự lạm dụng quyền lực để khiến người khác dùng quyền tự quyết của họ làm theo cái nhìn của con – dù rằng đó không phải là cái nhìn của họ.

Apollo yêu dấu, trí tuệ thày sáng rỡ,
Trong hợp nhất với thày, rắn độc con chẳng sợ,
Cái đà trong con mắt, con nay thấy lồ lộ,
Thoát khỏi vùng nhị đối, con tìm được tự do.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con đã được ban cho quyền tự quyết cá nhân. Con có quyền thử nghiệm quyền tự quyết này và khả năng sáng tạo của mình. Thử nghiệm quyền năng sáng tạo không có nghĩa là làm bất cứ điều gì con muốn.

Apollo yêu dấu, thày giúp con nhìn rõ,
Bằng chính mắt của thày, con mới thực tự do,
Khi mắt thày soi rọi, con tình nguyện đứng đó,
Rồi bước khỏi mê cung với uy lực thày cho.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con không sinh ra như một sinh thể cá biệt sống một mình trong một môi trường. Lúc nào con cũng đang chia sẻ môi trường với những sinh thể cá biệt khác. Do đó, con không bao giờ ở trong hoàn cảnh có thể làm bất cứ gì mình muốn mà không cần quan tâm đến hậu quả.

Apollo yêu dấu, chúng con nâng viễn kiến
Và dõi nhìn trái đất bước vào tân kỷ nguyên,
Không gì ngăn cản được hiểu biết mà thày truyền
Phơi bày ra sự thật: Chẳng gì đứng tách riêng.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con là một phần của tổng thể, và bất cứ điều gì con làm ảnh hưởng đến tổng thể, và ngược lại tổng thể cũng ảnh hưởng đến con. Do đó, bất cứ điều gì con làm cũng ảnh hưởng chính mình.

Apollo yêu dấu, chúng con đang chung sức,
Để nâng cao địa cầu trong niềm vui nối kết,
Khi thày đem tỏ lộ Ngọn lửa của Minh triết,
Người người thấy tận mắt cái gì là chân thực.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

Phần 3

3.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra điều này không hạn chế quyền tự quyết hay quyền năng sáng tạo của con vì con là một phần của tổng thể. Bất cứ điều gì con làm ảnh hưởng đến tổng thể và mỗi người trong tổng thể, kể cả chính con.

Đại thiên thần Michael, trong ngọn lửa xanh ngắt,
Không còn bao đêm tối mà chỉ thày có mặt.
Trong hợp nhất với thày, con đã ngập ánh sáng,
Cảnh rực rỡ nhiệm màu hiện ra ngay trước mắt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là trên trái đất này chúng con không thấy chúng con là những sinh thể nối kết với nhau. Chúng con thấy mình là sinh thể tách biệt và nghĩ có thể tách nguyên nhân ra khỏi hậu quả. Chúng con nghĩ chúng con có thể hành động mà không ảnh hưởng đến chính mình.

Đại thiên thần Michael, thày cho con che chở,
Sau tấm khiên màu xanh con được sống muôn thuở.
Niêm con khỏi hồn bóng đang lang thang đêm tối,
Con ở trong cõi thày, rực sáng màu xanh tươi.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhìn thấu ảo tưởng cho rằng con có thể làm một điều có ảnh hưởng rõ trên người khác và môi trường, nhưng nó sẽ không ảnh hưởng đến chính mình.

Đại thiên thần Michael, thày đem bao uy lực,
Mà hàng triệu thiên thần sẽ ca ngợi công đức.
Thiêu đốt muôn loài quỷ của nghi ngờ sợ hãi,
Con biết thày Có Mặt ở bên con hoài hoài. 

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra đây là bản chất của ảo tưởng tách biệt. Tâm thức nhị nguyên có tác dụng biện minh cho ảo tưởng này, từ đó biện minh cho những hành động dựa trên ảo tưởng này.

Đại thiên thần Michael, ý Thượng đế thày yêu,
Từ Trên thày đem xuống ánh sáng của thiên triều.
Thượng đế chỉ muốn thấy mọi sự sống chuyển vọt,
Vươn cao trên bản ngã là quyền linh chót vót.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhìn thấu ảo tưởng là con có quyền áp lực người khác nhân danh một đại nghĩa nào đó – tỷ dụ như cứu rỗi thế giới hay truyền bá một ý thức hệ.

Đại thiên thần Michael, là bạn thân con đó,
Bao cạm bẫy thế gian, thày dang tay phù hộ.
Ác quỷ không thể sánh được quyền năng ánh sáng,
Nên linh hồn tất cả được bay bổng thênh thang.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cái sai lầm trong lý luận này là khái niệm có “người khác”. Khi con xuống trong sự ngây thơ thiêng liêng, con không thấy những sinh thể có tự nhận biết khác trong môi trường là người khác, theo nghĩa họ tách biệt với con.

Đại thiên thần Michael, như bày trẻ đùa chơi,
Chúng con dìu trái đất thức dậy trong ngày mới,
Nâng địa cầu ra khỏi lề lối đã ăn sâu,
Cho câu chuyện hành tinh được kể lại từ đầu.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra mọi người là một phần của tổng thể và con là một phần của tổng thể, và như vậy hiển nhiên là những gì con làm ảnh hưởng đến người khác. Tuy con có quyền ảnh hưởng người khác, con không có quyền áp lực họ.

Đại thiên thần Michael, Thượng đế tỏ quyền năng,
Mà chúng con biết thày không ai thể chiến thắng,
Thày không còn tách biệt nên vượt qua chắc chắn,
Mọi mưu mô hung tợn và thâm độc của rắn.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra quy luật toàn vũ là cái gì tốt nhất cho con và cho người khác là cái gì tốt nhất cho tổng thể.

Đại thiên thần Michael, thày đến nâng địa cầu,
Để khắp nơi khắp chốn được tái sinh cùng thấu,
Để tâm của tập thể cùng đi lên một lượt,
Cho chúng con vui mừng mà ngợi ca không ngớt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi con xuống như một người đồng-sáng tạo mới, con không có kinh nghiệm về quyền năng sáng tạo của mình. Con chỉ có kinh nghiệm này bằng cách thử nghiệm, và đó là lý do vì sao con xuống trong một môi trường được bảo bọc, là Trường Bí giáo.

Đại thiên thần Michael, trái đất nay đổi mới,
Lửa xanh dương bao phủ giống như hạt sương rơi,
Hành tinh nay lóng lánh giữa không gian rộng lớn,
Để chúng con hứng lấy những hồng ân vô tận.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

Phần 4

4.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là trong Trường Bí giáo, con có thể làm bất kỳ điều gì với quyền năng sáng tạo của mình. Con có thể tự do thử nghiệm vì các chân sư thăng thiên giám sát Trường Bí giáo đã tạo ra một môi trường ảo nằm bên trong môi trường ảo vĩ đại của vũ trụ vật chất.

Đại thiên thần Jophiel, trong ánh sáng minh triết,
Mọi lừa dối gian xảo đã phơi bày trước mặt.
Thường thường trong tâm người, chúng tinh vi luồn lách,
Nhưng con có thày rồi, là vị thày thượng sách.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra trong môi trường như thế con có thể làm bất kỳ điều gì con muốn mà không tạo ra hậu quả lâu dài, không tạo ra nghiệp quả lâu dài cho mình.

Đại thiên thần Jophiel, con đón mừng minh triết,
Tấm màn của nhị nguyên, thày lấy gươm chặt đứt,
Khi được thày chỉ lối, con biết đâu là thực,
Con hóa giải tức khắc bùa mê với ngờ vực.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra vị chân sư của Trường Bí giáo cho con một môi trường an toàn giống như một bãi cát nơi con có thể làm bất kỳ điều gì con muốn. Con không thể đả thương cát, con không thể đả thương chính mình, con không thể đả thương những trẻ em khác đang chơi trong bãi cát.

Đại thiên thần Jophiel, thực tại của thày đó,
Là liều thuốc thần diệu giải độc chất nhị nguyên,
Dối trá không thể còn khi có thày Hiện diện,
Với thày đứng bên cạnh, tà kiến con cắt liền.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của vị thày thăng thiên, con nhìn kết quả của hành động sáng tạo của mình và học bài học của mỗi ngày sáng tạo.

Đại thiên thần Jophiel, tâm Thượng đế trong con,
Con nhận trí tuệ thày, ánh sáng rạng đầu non,
Con gặp được Duy nhất khi tách biệt tiêu mòn,
Và tâm này toàn vẹn, là chiến thắng của con.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là một khi con đã học xong bài học, thì đâu có lý do gì nữa để con phải chịu nghiệp quả quay về ám ảnh con. Vì mục đích của nghiệp quả là giúp con học hỏi.

Đại thiên thần Jophiel, chỉ cho con đường tiến,
Dẫn chúng con vượt khỏi tranh chấp của nhị nguyên,
Chúng con muốn phân biện đâu là giả, là chân,
Và tháo gỡ tất cả bao nút nhợ của rắn.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra nghiệp quả chỉ cần thiết khi con không chịu nhìn hậu quả của hành động của mình dưới sự hướng dẫn của vị thày.

Đại thiên thần Jophiel, ngay đây thày Hiện diện,
Vì vậy tâm chúng con được hoàn toàn minh mẫn,
Nhập nguồn suối trí tuệ chúng con bước vào tắm,
Và đủ sức cưỡng lại quỷ dữ đang nổi giận.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra một khi các đệ tử quyết định không chịu xem hậu quả của những nỗ lực sáng tạo của mình, họ không thể ở lại trong Trường Bí giáo.

Đại thiên thần Jophiel, công việc thày là chính,
Để nâng cao nhân loại nếu người ta chịu thỉnh,
Vậy nhân danh mọi người đang mang bệnh mù quáng,
Chúng con yêu cầu thày hãy giúp họ khôn ngoan.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là bên ngoài Trường Bí giáo, chúng con không học được nếu hành động của chúng con không có hậu quả. Tuy thế, nếu hành động của chúng con có hậu quả tức khắc, trong nhiều trường hợp, chúng con sẽ tự hủy hoại tức khắc.

Đại thiên thần Jophiel, thày Hiện diện con mừng,
Vì tấm màn đang được Ánh sáng thày chọc thủng,
Những con rắn không thể tung ra lời gạt gẫm,
Khi mọi người đã nhận Lửa Minh triết trong tâm.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra vũ trụ vật chất được thiết kế để hành động của con có hậu quả vật lý tức khắc trên môi trường và người khác; nhưng nó có thể không có hậu quả vật lý tức khắc trên con.

Đại thiên thần Jophiel, con không đi đâu khác,
Khi chân lý tối thượng con vẫn mong chứng đạt,
Thày vui lòng chia sẻ toàn bản thể cùa thày,
Cho con được viễn kiến càng rộng lớn hơn thay.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

Phần 5

5.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là thay vào đó, con phóng ra một xung lực nghiệp, một xung lực năng lượng, đi vào các tầng bản sắc, lý trí và tình cảm. Xung lực đi qua các tầng này trước khi nó trở về con, biểu hiện như một hoàn cảnh vật lý.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra lý do có sự trì hoãn này là để con có cơ hội nâng cao tâm thức mình trong khoảng cách thời gian trước khi nghiệp báo trở về con.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi nghiệp báo trở về, con có thể đáp ứng với một tầng tâm thức cao hơn tâm thức khi con phóng xung lực ra ngoài.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là bằng cách này, phản ứng của con với nghiệp báo sẽ ở tầng tâm thức cao hơn, có nghĩa là bây giờ con tạo ra một xung lực nghiệp mới ở một tầng cao hơn.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi xung lực kế tiếp quay trở về con, con ở tầng tâm thức cao hơn lúc đầu. Con vẫn tiến bộ, dù là chậm và khó khăn, và thường với nhiều đau khổ. Tuy thế chính con đã lựa chọn rời khỏi Trường Bí giáo.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.6. Chân sư MORE, con đang ghi danh học với Thượng sư Tia thứ Nhất vì con muốn ghi danh xin trở lại Trường Bí giáo của thày Maitreya. Con muốn hội đủ điều kiện bằng cách đi trên con Đường Bảy Tia sáng dưới sự hướng dẫn của bảy Thượng sư.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra trực giác đi đôi với lý luận. Lý luận không phải là kẻ thù của tăng trưởng tâm linh; vì nếu con không biết lý luận, thì cách tăng trưởng duy nhất là trải nghiệm tất cả mọi việc.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cách duy nhất để biết một sinh hoạt gây tổn hại cho sự tăng trưởng tâm linh của con là cảm nhận: “Sinh hoạt này nâng năng lượng của tôi lên hay hạ năng lượng của tôi xuống?”

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra đây là một khả năng trực giác, một khả năng trải nghiệm. Con phải sống trong hoàn cảnh thì mới biết là nó nâng hay hạ năng lượng của mình. Như vậy có nghĩa là nếu con muốn biết thì con phải trải nghiệm hết mọi chuyện.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 6

6.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cách duy nhất để không phải trải nghiệm mọi hoàn cảnh là sử dụng khả năng lý luận cao. Khi con đã làm một số thí nghiệm đưa tới cùng kết quả, con có thể suy luận là điều này sẽ xảy ra trong tất cả hoàn cảnh tương tự và như vậy con không cần trải nghiệm mọi hoàn cảnh.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi con dùng lý luận cao của tâm Ki-tô, con có thể nói: “Tôi nay đã biết đủ về tầng tâm thức 48 rồi. Tôi đã khám phá đủ tầng này của tòa nhà rồi. Tôi sẵn sàng tìm ra cầu thang và đi lên tầng trên, nơi tôi có cái nhìn bao quát hơn về môi trường chung quanh và nhiều tự do hơn để sáng tạo.”

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là con không cần trải nghiệm mọi hình thức lạm dụng quyền lực, trong cương vị hung thủ hay nạn nhân. Con dùng khả năng lý luận để nói: “Thưa thày MORE, xin thày chỉ cho con quyền lực được lạm dụng như thế nào. Xin thày chỉ cho con lạm dụng quyền lực vận hành như thế nào để con vượt lên trên nó và vươn lên tầng kế tiếp.”

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi con xuống dưới tầng 48, những gì tiên đoán về con trở thành sự thật vì tâm con là một hệ thống đóng. Con phóng ra một xung lực, và khi tấm gương vũ trụ phản chiếu nó trở về, con phản ứng lại với cùng tầng tâm thức, tạo nên một xung lực khác – và cứ tiếp tục như thế.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con tạo xung lực qua một phàm linh, và con phản ứng lại xung lực quay về với cùng phàm linh đó. Phàm linh mà con tạo ra không thể thăng vượt chính nó, vì nó không có khả năng lý luận vượt quá tầng tâm thức và khuôn đúc quy định nó.

Chân sư Lanto, chúng con viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là con, cái Ta Biết, có khả năng lý luận vượt lên trên phàm linh. Cho dù con đang ở tầng tâm thức nào, con vẫn có khả năng rút mình ra khỏi phàm linh đang điều khiển cách con nhìn cuộc đời.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nối kết với tâm Ki-tô ở trên tầng tâm thức hiện tại của con và nhận ra có tầng tâm thức cao hơn. Xin thày giúp con phá vỡ vòng vây của phàm linh đang kềm giữ tầm nhìn và sự chú ý của con, để con vươn lên tầng kế tiếp.

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con lý luận cách con dùng quyền lực đã đưa con tới tình trạng hiện nay. Và điều duy nhất giúp con thoát khỏi tình trạng hiện nay là học dùng quyền lực một cách cao, để con lên tầng kế tiếp.

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, chúng con cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con hòa điệu với thày và học dùng quyền lực cùng với lý luận cao, bằng cách nghe thày giảng về cách dùng quyền lực đúng và sai.

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

6 | Thỉnh cầu uy lực và ý chí (7 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Hercules và Amazonia, Đại thiên thần Michael và Faith và Chân sư MORE yêu dấu, hãy giúp con vượt qua mọi lạm dụng quyền lực, đặc biệt liên quan đến cách con dùng giọng nói của mình. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Chân sư MORE và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con trải nghiệm là con nối kết với một cái gì lớn hơn và thấy được Hiện diện TA LÀ của con.

Hercules Xanh ngắt, ý chí thày duy nhất,
Trong con còn khoảng trống, thày đổ đầy Lửa Xanh,
Ngọn hải đăng sáng rực, tỏa rạng trên trái đất,
Phục hồi lại sự sống cho tất cả hành tinh.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con trải nghiệm mong muốn thử nghiệm các khả năng sáng tạo của con.

Hercules Xanh ngắt, thày trí tuệ cao xa,
Tạo cảm giác trong con hiểu biết nơi tất cả.
Nay tâm con rất mới bỗng nhận được khung nền,  
Để vượt qua giới hạn của đau đớn nhị nguyên.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.3. Chân sư MORE, con có ý chí muốn thử nghiệm, ý chí muốn thử cái gì mới, và nhìn xem vũ trụ vật chất đáp ứng ra sao.

Hercules Xanh ngắt, với tất cả tình thương,
Con dâng lên Thượng đế, hằng hà lời tán thưởng,
Bây giờ con thấy rõ khi cảm được lửa sáng,
Cái ta cũng thăng vượt như đá hóa thành vàng.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con chấp nhận là vũ trụ vật chất là một máy phản hồi vĩ đại. Bất cứ cái gì con gửi ra sẽ được tấm gương vũ trụ phản chiếu lại con.

Hercules Xanh ngắt, chữa lành muôn sự sống,
Bao bọc quanh tất cả, Xanh ngọn lửa Niêm phong.
Con biết ơn quá đỗi được tự tay góp phần
Trong tác phẩm của Ngài đẹp tinh xảo vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là ý chí muốn thử nghiệm được đức Phật gọi là “sơ tâm” (beginner’s mind). Đó là cái tâm mà Giê-su nói tới khi thày nói rằng trừ phi chúng con trở thành trẻ thơ, chúng con không thể bước vào vương quốc.

Hercules Xanh ngắt, ngôi Đền của Ánh sáng,
Được tỏ lộ cho con lúc dõi nhìn vào trong,
Khi uy lực của thày giục con bước mạnh dạn,
Băng qua bao rặng núi, xuyên qua mọi tấm màn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là trạng thái tâm của con khi xuống trái đất ở tầng 48 là sự ngây thơ, một sự ngây thơ thiêng liêng.

Hercules Xanh ngắt, con dâng hiến cuộc đời
Giúp cho cả hành tinh vượt tranh chấp loài người,
Khi lọc lừa nhị đối bị ánh sáng chọc thủng,
Trả lại cho trọn vẹn cái nhìn ở thâm cung.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là trong kịch bản lý tưởng, con có thể mở rộng khả năng sáng tạo của mình, tăng trưởng nhận biết về khả năng sáng tạo của mình, mà không bao giờ phải gặp tâm thức muốn chê bai và phê phán con.

Hercules Xanh ngắt, chúng con sẽ cởi xiềng,
Mọi sự sống thoát khỏi vi tế nhất nhị nguyên,
Hoàng tử của trần thế không còn gì để nắm,
Khi con đã cùng thày vượt lên trên hoàn toàn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là qua nhiều kiếp, con đã bị phê phán dựa trên một tiêu chuẩn tương đối nhị nguyên, theo đó con phải hoặc đúng hoặc sai. Và khi con làm điều gì sai thì có nghĩa là con có cái gì sai.

Hercules Xanh ngắt, với thày con hợp nhất,
Để con mở tim ra cho thực tại của thày,
Ngọn lửa xanh như điện mở mắt cho con thấy
Rằng sống trong chân thực: khát vọng của con đây.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là mục đích của con Đường Bảy bức Màn không phải là để tâm đạt được một số khả năng tinh vi làm chủ vật chất qua đó con có thể tạo ra những hiện tượng khác thường nhìn thấy được, khiến người khác nể phục.

Hercules Xanh ngắt, nơi nơi thày đổ tràn
Quyền năng vô bờ bến với Hồng ân vô hạn,
Chìa khóa của sáng tạo, chính thày là hiện thân,
Biểu lộ qua ý chí vượt thăng đến Vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

Phần 2

2.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là mục đích của con đường tu không phải là đạt được sự minh triết đặc biệt nào hay sự tinh xảo đặc biệt nào khi làm việc này hay việc kia.

Hercules Xanh ngắt, ý chí thày duy nhất,
Trong con còn khoảng trống, thày đổ đầy Lửa Xanh,
Ngọn hải đăng sáng rực, tỏa rạng trên trái đất,
Phục hồi lại sự sống cho tất cả hành tinh.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là mục đích chính của con đường của bảy tia sáng trong tình trạng hiện nay của trái đất là để lấy lại sự ngây thơ và biểu lộ các năng lượng sáng tạo của bảy tia sáng trong sự ngây thơ hoàn toàn.

Hercules Xanh ngắt, thày trí tuệ cao xa,
Tạo cảm giác trong con hiểu biết nơi tất cả.
Nay tâm con rất mới bỗng nhận được khung nền,  
Để vượt qua giới hạn của đau đớn nhị nguyên.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là mục đích thật của con đường tu là lấy lại sự ngây thơ đã bị đánh mất, sự ngây thơ thực sự là thiên đàng trên trái đất.

Hercules Xanh ngắt, với tất cả tình thương,
Con dâng lên Thượng đế, hằng hà lời tán thưởng,
Bây giờ con thấy rõ khi cảm được lửa sáng,
Cái ta cũng thăng vượt như đá hóa thành vàng.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là Giê-su có nói là Nước Trời ở trong con, như vậy cách biểu hiện thiên đàng trên trái đất là đạt được một trạng thái tâm thức nào đó.

Hercules Xanh ngắt, chữa lành muôn sự sống,
Bao bọc quanh tất cả, Xanh ngọn lửa Niêm phong.
Con biết ơn quá đỗi được tự tay góp phần
Trong tác phẩm của Ngài đẹp tinh xảo vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là trước khi con ăn trái cấm và tự đưa mình ra khỏi thiên đàng là Trường Bí giáo của thày Maitreya, con ở trong trạng thái ngây thơ.

Hercules Xanh ngắt, ngôi Đền của Ánh sáng,
Được tỏ lộ cho con lúc dõi nhìn vào trong,
Khi uy lực của thày giục con bước mạnh dạn,
Băng qua bao rặng núi, xuyên qua mọi tấm màn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra đó là một trạng thái ngây thơ thiêng liêng trong đó con tự do thử nghiệm khả năng sáng tạo của mình mà không đánh giá chúng dựa trên một tiêu chuẩn do tâm thức tách biệt nhị nguyên tạo ra.

Hercules Xanh ngắt, con dâng hiến cuộc đời
Giúp cho cả hành tinh vượt tranh chấp loài người,
Khi lọc lừa nhị đối bị ánh sáng chọc thủng,
Trả lại cho trọn vẹn cái nhìn ở thâm cung.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là cái con gặp khi con xuống trái đất là tiêu chuẩn do sa nhân tạo ra, được đặc biệt tạo ra để phá tan sự ngây thơ của những kẻ ngây thơ thiêng liêng. Nó được tạo ra để đảm bảo rằng một khi con đánh mất sự ngây thơ ấy, con sẽ khó lòng lấy lại được.

Hercules Xanh ngắt, chúng con sẽ cởi xiềng,
Mọi sự sống thoát khỏi vi tế nhất nhị nguyên,
Hoàng tử của trần thế không còn gì để nắm,
Khi con đã cùng thày vượt lên trên hoàn toàn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra tâm thức này và thấy nó đã thấm đẫm mọi khía cạnh của xã hội, của sự tương tác giữa con người, và chính con cũng đã gặp nó.

Hercules Xanh ngắt, với thày con hợp nhất,
Để con mở tim ra cho thực tại của thày,
Ngọn lửa xanh như điện mở mắt cho con thấy
Rằng sống trong chân thực: khát vọng của con đây.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.9 Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra tình trạng của con ngày nay ngược lại với kịch bản nguyên thủy. Bây giờ con khôn ngoan và trưởng thành, theo nghĩa con biết nhiều chuyện và có nhiều kinh nghiệm sống trên trái đất, nhưng con đã đánh mất sự ngây thơ.

Hercules Xanh ngắt, nơi nơi thày đổ tràn
Quyền năng vô bờ bến với Hồng ân vô hạn,
Chìa khóa của sáng tạo, chính thày là hiện thân,
Biểu lộ qua ý chí vượt thăng đến Vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

Phần 3

3.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là con chỉ có cơ hội lấy lại sự ngây thơ của mình khi con đi qua cả bảy tia sáng và đạt tới tầng 96, là nơi con hoàn toàn lấy lại sự ngây thơ khi con xuống trái đất lần đầu.

Đại thiên thần Michael, trong ngọn lửa xanh ngắt,
Không còn bao đêm tối mà chỉ thày có mặt.
Trong hợp nhất với thày, con đã ngập ánh sáng,
Cảnh rực rỡ nhiệm màu hiện ra ngay trước mắt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra đây là cách duy nhất để đạt sự khai ngộ ở mức 96 mà không dùng những khả năng sáng tạo của mình một cách ích kỷ, hay tệ hơn là một cách hung hãn, với mục đích kiểm soát người khác hay đấu tranh cho một lý tưởng cuồng đại nào đó.

Đại thiên thần Michael, thày cho con che chở,
Sau tấm khiên màu xanh con được sống muôn thuở.
Niêm con khỏi hồn bóng đang lang thang đêm tối,
Con ở trong cõi thày, rực sáng màu xanh tươi.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con luôn ghi nhớ là mỗi bước con đi trên con đường tu, khi tiến lại gần hơn sự ngây thơ, thì con cần suy xét: “Cái gì ngay bây giờ đang lấy đi sự ngây thơ của mình, ở mức tâm thức hiện tại của mình?”

Đại thiên thần Michael, thày đem bao uy lực,
Mà hàng triệu thiên thần sẽ ca ngợi công đức.
Thiêu đốt muôn loài quỷ của nghi ngờ sợ hãi,
Con biết thày Có Mặt ở bên con hoài hoài. 

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra những phàm linh nói năng với miệng lưỡi tinh vi của rắn, tìm cách dụ dỗ con rơi vào những khuôn nếp cũ, kéo con ra khỏi sự ngây thơ thiêng liêng là quyền bẩm sinh của con.

Đại thiên thần Michael, ý Thượng đế thày yêu,
Từ Trên thày đem xuống ánh sáng của thiên triều.
Thượng đế chỉ muốn thấy mọi sự sống chuyển vọt,
Vươn cao trên bản ngã là quyền linh chót vót.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con tốt nghiệp Trường đời Cay đắng để con có thể nhớ được xung lực con đã phóng ra và nhận ra sự liên hệ giữa xung lực này và nghiệp quả vật lý đang quay ngược trở về con.

Đại thiên thần Michael, là bạn thân con đó,
Bao cạm bẫy thế gian, thày dang tay phù hộ.
Ác quỷ không thể sánh được quyền năng ánh sáng,
Nên linh hồn tất cả được bay bổng thênh thang.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cách thay đổi tâm thức để tránh không bị nghiệp quả từ vũ trụ quay ngược trở về con.

Đại thiên thần Michael, như bày trẻ đùa chơi,
Chúng con dìu trái đất thức dậy trong ngày mới,
Nâng địa cầu ra khỏi lề lối đã ăn sâu,
Cho câu chuyện hành tinh được kể lại từ đầu.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con có cái biết nội tâm khiến con không cần có quá nhiều hành động vật lý. Xin thày giúp con nhận ra và tỉnh ngộ: “À há cái này đưa tới kết quả tốt, cái kia không đưa tới kết quả tốt.”

Đại thiên thần Michael, Thượng đế tỏ quyền năng,
Mà chúng con biết thày không ai thể chiến thắng,
Thày không còn tách biệt nên vượt qua chắc chắn,
Mọi mưu mô hung tợn và thâm độc của rắn.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con kềm lại sự biểu lộ uy lực của mình và cân nhắc trước khi con biểu lộ điều gì, đặc biệt là khi con dùng giọng nói và luân xa cổ họng của mình.

Đại thiên thần Michael, thày đến nâng địa cầu,
Để khắp nơi khắp chốn được tái sinh cùng thấu,
Để tâm của tập thể cùng đi lên một lượt,
Cho chúng con vui mừng mà ngợi ca không ngớt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

3.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận biết có ý thức khả năng cảm nhận năng lượng nơi luân xa trái tim của con, đang được nâng lên hay bị hạ xuống.

Đại thiên thần Michael, trái đất nay đổi mới,
Lửa xanh dương bao phủ giống như hạt sương rơi,
Hành tinh nay lóng lánh giữa không gian rộng lớn,
Để chúng con hứng lấy những hồng ân vô tận.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

Phần 4

4.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con ý thức hơn khi con áp dụng khả năng này vào việc phát ngôn, tức là nội dung lời nói và cách con nói.

Đại thiên thần Michael, trong ngọn lửa xanh ngắt,
Không còn bao đêm tối mà chỉ thày có mặt.
Trong hợp nhất với thày, con đã ngập ánh sáng,
Cảnh rực rỡ nhiệm màu hiện ra ngay trước mắt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi người khác nói với một giọng khiến con cảm thấy năng lượng xuống thấp, khiến con cảm thấy giận, bực bội, xuống tinh thần, chán chường hay không xứng đáng.

Đại thiên thần Michael, thày cho con che chở,
Sau tấm khiên màu xanh con được sống muôn thuở.
Niêm con khỏi hồn bóng đang lang thang đêm tối,
Con ở trong cõi thày, rực sáng màu xanh tươi.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi người khác phóng một làn sóng năng lượng tới con, và khi con phóng một xung lực năng lượng vào trường năng lượng của họ.

Đại thiên thần Michael, thày đem bao uy lực,
Mà hàng triệu thiên thần sẽ ca ngợi công đức.
Thiêu đốt muôn loài quỷ của nghi ngờ sợ hãi,
Con biết thày Có Mặt ở bên con hoài hoài. 

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là điều con nói với người khác có một tác dụng tức khắc trên con. Lời nói của con không chỉ ảnh hưởng người khác; nó ảnh hưởng luôn cả chính con.

Đại thiên thần Michael, ý Thượng đế thày yêu,
Từ Trên thày đem xuống ánh sáng của thiên triều.
Thượng đế chỉ muốn thấy mọi sự sống chuyển vọt,
Vươn cao trên bản ngã là quyền linh chót vót.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cách con dùng lời nói và giọng nói như một phương tiện chuyên chở năng lượng, một máy phát sóng năng lượng gửi tới người khác và có thể tới toàn vũ trụ.

Đại thiên thần Michael, là bạn thân con đó,
Bao cạm bẫy thế gian, thày dang tay phù hộ.
Ác quỷ không thể sánh được quyền năng ánh sáng,
Nên linh hồn tất cả được bay bổng thênh thang.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là kinh nghiệm đọc bài chú bài thỉnh cho con một khung tham chiếu để biết khi nào giọng nói của con nâng cao năng lượng hay ngược lại.

Đại thiên thần Michael, như bày trẻ đùa chơi,
Chúng con dìu trái đất thức dậy trong ngày mới,
Nâng địa cầu ra khỏi lề lối đã ăn sâu,
Cho câu chuyện hành tinh được kể lại từ đầu.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con cảm được là điều con nói và giọng nói có thể hạ năng lượng con xuống tức khắc. Xin thày giúp con lượng định: “Điều này có đưa tôi đến nơi tôi muốn tới, hay sẽ cản trở sự tiến bộ của tôi?”

Đại thiên thần Michael, Thượng đế tỏ quyền năng,
Mà chúng con biết thày không ai thể chiến thắng,
Thày không còn tách biệt nên vượt qua chắc chắn,
Mọi mưu mô hung tợn và thâm độc của rắn.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con đi theo một vòng xoắn tích cực trong đó con bắt đầu hành động và phản ứng dựa trên một tâm thức cao hơn tâm thức hiện thời của con.

Đại thiên thần Michael, thày đến nâng địa cầu,
Để khắp nơi khắp chốn được tái sinh cùng thấu,
Để tâm của tập thể cùng đi lên một lượt,
Cho chúng con vui mừng mà ngợi ca không ngớt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra quy luật tự nhiên là nếu con gửi ra một xung lực năng lượng ở một tần số rung động tương ứng với một tầng tâm thức nào đó, cái gì quay ngược trở về con là một phản ứng cùng tần số rung động.

Đại thiên thần Michael, trái đất nay đổi mới,
Lửa xanh dương bao phủ giống như hạt sương rơi,
Hành tinh nay lóng lánh giữa không gian rộng lớn,
Để chúng con hứng lấy những hồng ân vô tận.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

Phần 5

5.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là khi phản ứng từ vũ trụ quay ngược trở về, con phản ứng với tầng tâm thức của con lúc đó, có nghĩa là con tạo ra một xung lực khác ở cùng tầng tâm thức.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cách để không bị cỗ máy lôi cuốn khiến con liên tục phản ứng lại một phản ứng của một phản ứng của một phản ứng – có thể đã bắt đầu từ rất lâu trước đó như một hành động. Nhưng sau đó thì chỉ toàn là phản ứng.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con phá vòng phản ứng này bằng cách làm chủ tâm mình một cách ý thức, để lần sau khi tấm gương vũ trụ gửi trả điều gì, con sẽ không phản ứng với cùng tầng tâm thức đã tạo ra xung lực.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con phản ứng ở tầng cao hơn, có nghĩa là con tạo ra một xung lực ở tầng tâm thức cao hơn – và đây là điều con gửi ra ngoài, như vậy điều được trả về cũng cao hơn, phá vỡ vòng tròn luẩn quẩn của phản ứng lại phản ứng.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là để thay đổi phản ứng, con phải ngừng không phản ứng nữa và thay vào đó, hành động ở tầng cao hơn. Nhưng con chỉ làm được điều này khi con vươn lên một tầng tâm thức cao hơn.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là đầu tiên hết, con cần thẩm định mọi thứ con gửi ra, đặc biệt là lời nói, và cân nhắc: câu này nâng năng lượng lên hay hạ xuống?

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra những cách con nói tạo ra vòng xoắn năng lượng đi xuống, nhập vào các vòng xoắn năng lượng tiêu cực của hành tinh, mở đường cho các phàm linh trong tâm thức tập thể xâm nhập trường năng lượng của con.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra nếu con bị giam hãm trong một khuôn nếp khiến con không thể ngừng nói một đề tài và không tự kềm chế được; khiến con lặp đi lặp lại một chuyện vì nó khuấy động năng lượng.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là mỗi khi con cảm thấy bắt buộc phải nói một số chuyện, đặc biệt là chuyện không tích cực, đó là vì trường năng lượng của con bị một phàm linh hung hãn xâm nhập. Nó muốn con nói chuyện này vì nó được năng lượng.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 6

6.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra khi năng lượng bị hút ra khỏi các luân xa của con. Xin thày giúp con biết là có một phàm linh hung hãn đang hút năng lượng ra khỏi trường năng lượng của con.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra mô thức là khi con nói một cách giận dữ hay khinh miệt, con cảm thấy mình tạm thời có thêm uy lực, vì cơn giận hay sự khích động cho giọng nói của con nhiều sức mạnh hơn thường ngày.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con đã bị một phàm linh hung hãn xâm nhập. Nó dùng con để tạo ra sự bùng nổ, lúc đó con nói với nhiều năng lượng hơn nhưng năng lượng này thật ra đến từ phàm linh.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra cái giá con phải trả là khi sự bùng nổ chấm dứt, cảm giác xung khởi nhân tạo sẽ biến đi, và con cảm thấy xuống tinh thần.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra mô thức xung khởi và xuống tinh thần này, và nhận ra trạng thái gọi là xung khởi không nâng năng lượng của con lên, nó không phải là năng lượng cao tuôn chảy qua con.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là tuy con phóng ra nhiều dung lượng hơn, nhiều năng lượng hung hãn hơn, nó không nâng năng lượng nơi tim con lên, vì nó không nâng độ rung của năng lượng.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy có sự khác biệt giữa tần số và âm lượng của sóng âm thanh. Một âm thanh thấp có tần số thấp vẫn có thể nghe to. Nhưng tần số không cao hơn khi con nâng âm lượng lên.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận biết là lời nói và cách nói của con nâng cao và hạ thấp năng lượng của con mà không lên án, chỉ trích, hay trừng phạt mình.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là thày chỉ có thể giúp con bằng cách chỉ cho con thấy điều con cần sửa. Tuy nhiên, con có thể cảm thấy tội lỗi là đã tiếp xúc với năng lượng rất hung hãn và lên án này.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 7

7.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là dù con có những vết thương xúc cảm khiến con cảm thấy tội lỗi về chuyện này, thày sẽ không lên án con. Thày không có nhu cầu phán xét con vì đây không phải là đức tính của Tia thứ Nhất hay các tia khác.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra thày chỉ tìm cách giúp con ý thức rõ hơn, để con quyết định muốn tiếp tục khuôn nếp cũ hay thăng vượt nó một cách ý thức.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra: “Cái này không phù hợp với tôi nữa. Nó không biểu hiện con người tôi nữa. Nó không phản ánh hình ảnh tôi có về mình nữa. Vì tôi đã trải nghiệm sự hiện diện của Chân sư MORE, và tôi biết Chân sư MORE không lên án, chỉ trích hay chê bai tôi.”

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra phương trình là khi con đã sẵn sàng nghe lời thày dạy, thì con đã xứng đáng thăng vượt, con có khả năng thăng vượt và con muốn thăng vượt tầng tâm thức hiện tại của mình.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.5. Chân sư MORE, con sẵn sàng thực thi lời thày dạy một cách ý thức và bỏ lại đằng sau ý niệm bản ngã cũ, phàm linh cũ, ở tầng tâm thức hiện tại của con. Con sẵn sàng tu tập để thấy được phàm linh và sau đó tách mình ra khỏi nó.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhìn thấy phàm linh từ bên ngoài, như vậy con nhận ra nó không phải là con. Xin thày giúp con biết phàm linh không phải là con, để con có thể cho nó chết đi và con không chết. Con sẽ tái sinh với một ý niệm bản ngã cao hơn.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con hòa điệu với sự sẵn sàng và ý muốn đã có mặt nơi các tầng cao của tâm con. Xin thày giúp con đem những thành đạt ở ba tầng cao xuống tâm ý thức của con, và nhận ra con là đệ tử của chân sư MORE.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra những khuôn nếp nói năng không đưa con đến chỗ con muốn tới. Xin thày dẫn con tới khóa nhập thất Darjeeling và giúp con vượt qua chúng.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con phá tan vòng xoắn cũ, để con xây dựng một vòng xoắn tích cực trong đó giọng nói của con chỉ nâng cao năng lượng của mình và trở thành cánh cửa mở để năng lượng của bảy tia sáng biểu lộ trong cõi vật chất.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu tự do khỏi đồng hóa với phàm linh

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi các thày Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, Astrea, Shiva, Surya, Godfre, Padmasambhava và Đại thượng sư yêu dấu, hãy giúp con rút ra không tự đồng hóa mình với các phàm linh nội tại của con. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Đại thượng sư và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con được thiết kế để đồng-sáng tạo. Con có khả năng hình thành một hình ảnh trong tâm – hình ảnh về một cái gì mà con không kinh nghiệm qua giác quan vật lý và tâm thức vỏ ngoài.

Ôi Đại thượng sư, con muốn tăng trưởng,
Con cảm uy lực của dòng sông lớn.
Ôi Đại thượng sư, tấm màn rơi xuống,
Do chí sáng tạo từ cõi thiên đường.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

1.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là hình tư tưởng mà con hình thành bị hạn chế bởi trí tưởng tượng của con. Tuy thế con có tiềm năng hình thành bất cứ hình tư tưởng nào, bất cứ khuôn đúc tư tưởng nào, có thể hình dung được và có được.

Ôi Đại thượng sư, trí tuệ chảy xuống,
Đánh thức mọi người khỏi giấc ngủ quên.  
Ôi Đại thượng sư, quân bình khởi xướng,
Hồi chuông thể nhập lại được gióng lên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

1.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là Thượng đế đã không quy định bất cứ hạn chế nào cho sự tự nhận biết và trí tưởng tượng của con. Điều duy nhất có thể hạn chế trí tưởng tượng của con là những giới hạn mà con cho phép có mặt trong bầu tâm thức của con.

Ôi Đại thượng sư, tiếng gọi tình thương,
Đập tan ngục tối sập bốn vách tường.
Ôi Đại thượng sư, cởi hết xích xiềng,
Sự sống thênh thang trong vô điều kiện.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

1.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con đồng-sáng tạo bằng cách hình thành một hình tư tưởng và sau đó dùng sự tự nhận biết của mình để phóng chiếu hình này lên ánh sáng Mẫu-Vật. Khi sự phóng chiếu này đi xuyên qua bốn tầng của vũ trụ vật chất, thì con đồng-sáng tạo một hình tướng vật lý.

Ôi Đại thượng sư, ý con trong suốt,
Con nay chắc chắn sự sống là một. 
Ôi Đại thượng sư, con luôn tỉnh thức,
Bỏ lại tất cả để theo Duy nhất.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

1.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là lúc nào con cũng đang đồng-sáng tạo. Con không thể ngưng đồng-sáng tạo vì con không thể ngưng có ý thức.

Ôi Đại thượng sư, giúp loài người nhìn,
Xuyên qua tấm màn ảo ảnh lung linh.
Ôi Đại thượng sư, trong mắt thuần đơn,
Con biết con là cái Ta rộng lớn.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

1.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là lúc nào con cũng tạo ra những hình tư tưởng ở một tầng nào đó của bản thể của con, và dòng chảy tâm thức từ Hiện diện TA LÀ được phóng chiếu lên ánh sáng Mẫu-vật.

Ôi Đại thượng sư, con đã bình an,
Nhờ Maitreya dạy con hiền lành.
Ôi Đại thượng sư, tuyệt mọi chinh chiến,
Khắp nơi tràn ngập hòa bình thiêng liêng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

1.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tất cả những gì con đồng-sáng tạo ở các tầng bản sắc, lý trí và tình cảm tạo ra các phàm linh. Các phàm linh này trở thành một phần của bản thể toàn bộ của con, một phần của phần thấp của bản thể của con.

Ôi Đại thượng sư, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Đại thượng sư, giải thoát sự sống,
Để nó thăng vượt mãi mãi không ngừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

1.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con tạo ra một phàm linh như thế, thì ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ sẽ chảy xuyên qua nó, và do đó con sẽ không ngừng đồng-sáng tạo xuyên qua phàm linh này. Con sẽ củng cố phàm linh này và nó trở nên càng ngày càng mạnh mẽ hơn.

Ôi Đại thượng sư, ngọn Lửa thần thánh,
Vẻ đẹp rực rỡ mà thày mang tên.
Ôi Đại thượng sư, khi dòng xối đến,
Cuộc đời ở dưới nhập với cõi trên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

1.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con đã tạo ra phàm linh trong quá khứ, và các phàm linh này đã trở thành một phần của bản thể của con, và nếu con tự đồng hóa với chúng thì con không thể giải thoát mình khỏi chúng.

Ôi Đại thượng sư, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Phần 2

2.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi dòng tâm thức của con chảy xuyên qua một phàm linh, thì con không thể đồng thời thấy nó là một phàm linh và nhìn nó từ bên ngoài. Nhưng nếu con không thấy nó, thì con không thể giải thoát mình khỏi nó.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nay con biết,
Cả thế gian chỉ là cõi huyễn ảo,
Trong tim con cảm nhận rõ làm sao,
Không có gì ngoài Tánh linh là thật. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi dòng tâm thức của con chảy xuyên qua một phàm linh, thì năng lượng của con bị hút vào nó và con củng cố nó, do đó con khó rút tâm thức mình ra khỏi nó và nhìn thấy nó từ bên ngoài.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, giúp con nhìn, 
Con muốn sống trong viễn kiến quang minh,
Con đã thấy được Sứ vụ Thiêng liêng,
Hiểu kế sách độc đáo của chính mình. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là cái Ta Biết có khả năng phóng chiếu nó vào bất cứ chỗ nào nó muốn. Bất cứ lúc nào con cũng có thể phóng chiếu mình ra khỏi một phàm linh nào đó, để sự tự nhận biết của con không tập trung vào phàm linh và dòng tâm thức của con không chảy xuyên qua phàm linh đó.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, cho con thấy, 
Những trò chơi uẩn khúc của ngã này,
Giúp con thoát lồng giam của tự ngã,
Để đem lại một thời mới thăng hoa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nâng con đường tu của mình lên một mức hoàn toàn mới. Con quyết định một cách có ý thức là con sẽ bắt đầu tiến trình rút mình không tự đồng hóa với các phàm linh, nhờ vậy con có thể thấy được phàm linh từ bên ngoài.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nhập với thày, 
Viễn quan con là một, chẳng còn hai,
Thày xua tan tấm màn của nghiệp quả,
Nguyên vũ trụ hiện ra sao mới quá. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là trong kiếp này, và có lẽ trong các kiếp trước, con đã có những trường hợp qua đó con thấy được một phàm linh và con đã chuyển vọt.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con không quản,   
Chén con ngập điện từ với ánh sáng,
Thày tiêu hủy hồn bóng của dĩ vãng,
Và cho con tầm nhìn rất bạo dạn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.6. Đại thượng sư, con không muốn ở trong trạng thái tâm thức này nữa. Con không muốn tiếp tục lặp đi lặp lại các khuôn nếp cũ này nữa. Con muốn thay đổi. Con muốn hơn thế này.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, tim chân thành, 
Con bắt tay làm phần vụ thần thánh.
Con thấy rồi, thày ơi, trong phút ngẫu,
Sứ vụ con sẽ dẫn tới nơi đâu. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra phàm linh một cách có ý thức và xoay chuyển ra khỏi nó, nhờ vậy con không còn tự đồng hóa với phàm linh chính đại diện cho tầng tâm thức hiện tại của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con ân huệ, 
Thấy vai trò mình trong công cuộc lớn,
Và cũng thấy ngọn lửa của cá thể,
Nét độc đáo của con do Thượng đế. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con đi một cách có ý thức trên con đường rút ý niệm bản sắc của mình ra khỏi các phàm linh này. Vì chỉ làm vậy con mới thực sự tiến bộ.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, mắt đơn nhất, 
Thấy TA LÀ chính Mặt trời Thượng đế.
Khi thày ban chỉ đạo Thiêng liêng nhất,
Con cũng tỏa ánh sáng thật tràn trề. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là việc học hỏi giáo lý tâm linh hay thực hành kỹ thuật tâm linh của con có đang củng cố một phàm linh ở tầng nào đó của đường tu và tầng nào đó của tâm thức.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ôi hân hạnh, 
Được đóng góp cho Tánh linh cất cánh,
Nâng loài người ra khỏi đêm cùng quạnh,
Để tắm nắng trong tình yêu Linh thánh. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

Phần 3

3.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra liệu con có dạy dỗ phàm linh để nó có vẻ trở nên tâm linh hơn. Xin thày giúp con nhận ra liệu con có nghĩ là con đã tiến bộ trên con đường tâm linh, nhưng thật ra không phải cái Ta Biết của con tiến bộ, mà chỉ là phàm linh của con tiến bộ mà thôi.

Astrea, trinh trắng và yêu thương,
Thày Có Mặt khiến con ngập vui mừng.
Gươm, vòng tròn của thày xanh và trắng,
Cõi trung giới, thày vung kiếm chặt phăng.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

3.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là phàm linh không cần tiến bộ tâm linh, vì nó không bao giờ lên được Thiên đàng. Chỉ có cái Ta Biết mới lên được Thiên đàng, và con chỉ lên được cõi tâm linh khi con ngưng tự đồng hóa mình với bất kỳ phàm linh nào.

Astrea, xin làm dịu cơn bão
Để thanh tịnh trong con luôn thể hiện,
Hào quang con màu trắng xanh thánh thiện
Như vị tướng chói lọi trong chiến bào.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

3.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra liệu con có đang đi trên con đường tu giả và bị các thày giả, tự ngã và các phàm linh của con lừa gạt, khiến con thực sự nghĩ rằng con đang tiến triển. Nhưng trên thực tế, con đang không tiến triển vì con vẫn còn tự đồng hóa mình với một phàm linh.

Astrea, hãy đến và cắt đứt,
Giải vây con khỏi tà lực dính mắc,
Lực trung giới, thày trói giam cho chắc
Con tìm về trong tự do chân thực. 

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

3.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con ngưng tự đồng hóa mình với phàm linh này, thì lúc đó con có thể tiến nhanh lên tầng cao hơn nhờ những nỗ lực con đã làm. Tuy nhiên chuyện này chỉ xảy ra khi con ngưng tự đồng hóa mình với phàm linh mà con đã dạy dỗ, và con sẵn sàng rũ bỏ nó.

Astrea, con thành thực kêu gọi,
Xin tẩy sạch mọi quỷ dữ trong con,
Chúng tiêu đi, con cao bước bon bon,
Con nhận chịu ngọn lửa đốt sạch hồn.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

3.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là thày không dạy con bài này để khiến con cảm thấy nặng chiũ. Thày dạy con bài này để giúp con tự giải thoát khỏi tất cả những cảm xúc như thế.

Astrea, xin trói mọi phàm linh
Để giúp con thoát khỏi kiếp mù lòa.
Khi phàm linh với song sinh hiện ra,
Trong chiến thắng Ki-tô con cũng thắng.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

3.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là những cảm xúc này đến từ một phàm linh nào đó trong trường năng lượng của con. Cái Ta Biết không cảm thấy sợ hãi, chán nản, xấu hổ, hãnh diện hay hơn người khác. Đây chỉ có thể là cảm xúc của một phàm linh, và phàm linh này đã được lập trình với một khuôn đúc tư tưởng khiến nó cảm xúc như vậy.

Astrea, làm sạch mỗi tế bào
Khỏi tà lực của cái chết ngục sâu,
Thân con sẽ tăng trưởng khi giải phóng,
Từng tế bào lóng lánh ánh bên trong.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

3.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra con là cái Ta Biết, và con cần một cái ta để có thể biểu lộ chính mình và tương tác với thân thể vật lý. Và khi con sáng tạo và khoác lên cái ta này, thì con thật sự đã tạo ra một phàm linh.

Astrea, xin làm sạch cảm thể,
Nhờ thanh lọc mà con được bình an,
Khi thày rải cảm xúc cao hơn thế,
Con đồng tạo trong an lạc vẹn toàn.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

3.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là điều này không thể tránh được, đây là tiến trình đầu thai. Con không thể đầu thai như một dòng sống mới mà không tạo ra những phàm linh như thế. Chuyện này hoàn toàn tự nhiên và phải phép.

Astrea, xin làm sạch cõi trí,
Tâm Ki-tô cầm tay lái chỉ huy,
Nay con biết cách thị hiện trong đời
Khuôn mẫu kia đẹp nhất cho mọi người.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

3.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con đi theo tiến trình cho phép một phàm linh chết đi, thăng vượt lên tầng tâm thức kế tiếp, và sau đó lại cho phép phàm linh ở tầng tâm thức này chết đi, và thăng vượt lên tầng kế tiếp và cứ tiếp tục như thế.

Astrea, nay con đà biết thực,
Cõi ê-the, nhìn được mẫu tiềm tàng,
Để con đồng sáng tạo trong ý thức,
Rõ ràng rồi bản sắc mới con mang.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

Phần 4

4.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra liệu con có bị mắc kẹt vào việc củng cố một phàm linh nào đó, dựa trên ảo tưởng rằng con có thể phát triển hay kiện toàn phàm linh đó cho tới khi nó được Thượng đế chấp nhận.

Ôi Shiva, Thần linh của Lửa Thánh, 
Đã đến lúc cho quá khứ đi thôi, 
Bỏ chuyện cũ, con muốn vượt ra khơi, 
Để mở ra tương lai huy hoàng mới. 

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng, 
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương, 
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con. 

4.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra liệu con có bị mắc kẹt trong suy nghĩ là con có thể đi vào trạng thái thăng thiên mà vẫn còn tự đồng hóa với phàm linh, thay vì đi vào trạng thái thăng thiên bằng cách từ bỏ hồn ma cuối cùng của bất cứ phàm linh nào trong phàm ngã của con.

Ôi Shiva, thày đến đây giải cứu, 
Khỏi những lực kềm chế con đủ kiểu, 
Mọi thấp kém bị lửa thày hỏa thiêu, 
Để lát đường đưa con tới thành tựu. 

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng, 
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương, 
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con. 

4.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra sự khác biệt cơ bản giữa con đường tu nội tâm chân chính tự thăng vượt và con đường tu giả vỏ ngoài tìm cách kiện toàn một phàm linh nào đó. Phàm linh này không phải là một linh thể có tự nhận biết đã từ trên đi xuống, mà là một phàm linh không tự nhận biết được tạo ra ở dưới này.

Ôi Shiva, Maya đã cạn kiệt,
Cả vũ trụ nội tâm, thày dọn hết, 
Thày xua tan toàn bộ tâm thức chết, 
Trong Hơi thở Thần thánh, nó phải diệt. 

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng, 
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương, 
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con. 

4.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là điều này không có nghĩa là phàm linh đó không có đôi chút tâm thức, nhưng nó không có sự tự nhận biết, và đây là lý do vì sao nó không thể tự thăng vượt một cách có ý thức. Đây là khả năng cốt yếu của cái Ta Biết: khả năng tự thăng vượt một cách có ý thức.

Ôi Shiva, con buông chuyện vô thường,
Bao vướng mắc giữ con ở dưới này, 
Sạch tà thể nghiện ngập bấy lâu nay, 
Con bước tới và vươn lên thẳng hướng. 

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng, 
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương, 
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con. 

4.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con không thể thăng vượt ý niệm bản ngã của mình nếu con không thấy là ý niệm bản ngã này chỉ là một cái ngã, một phàm linh, nó không phải là con.

Ôi Shiva, tên thày con đọc lớn, 
Đuổi sợ hãi, nghi ngờ và xấu hổ, 
Ngọn lửa thày phơi bày ra lồ lộ
Bao ngõ ngách tự ngã ưa lẩn trốn. 

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng, 
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương, 
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con. 

4.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con sử dụng một cách có ý thức khả năng rút mình ra khỏi ý niệm bản ngã hiện tại của mình, đưa sự tu tập của con lên một mức cao hơn, và gia tốc nó vượt quá bất cứ những gì con mơ ước trước đây.

Ôi Shiva, con hết sợ nghiệp xưa,
Bao món nợ chồng chất con đem trả,
Quá khứ không làm chủ được con nữa,
Con mừng rỡ trong hơi thở Shiva.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng, 
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương, 
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con. 

4.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con đã khám phá ra tiến trình ngưng đồng hóa mình với một phàm linh nào đó và vượt lên trên nó một cách có ý thức. Xin thày giúp con có ý thức hơn về tiến trình này và gia tốc nó.

Ôi Shiva, đây những cặp phàm linh, 
Đã đánh bẫy con vào vòng dục ái,
Con quyết định nhìn rõ trong tâm mình,
Từng phàm linh để thày đem trói lại.

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng, 
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương, 
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con. 

4.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là vì con là một người tâm linh, con không bị các phàm linh tập thể thông thường trên trái đất khống chế. Con không hoàn toàn tự đồng hóa mình với phàm linh tập thể chế ngự nền văn hóa nơi con lớn lên.

Ôi Shiva, trần trụi con đứng đó, 
Nếm tự do, tâm con cứ nở ra, 
Con hóa giải tất cả mọi hồn ma, 
Vì bí quyết bình an là từ bỏ. 

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng, 
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương, 
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con. 

4.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là có những phàm linh tập thể khác không dễ nhận diện qua các đặc tính bề ngoài như chủng tộc, tôn giáo hay nhóm sắc tộc. Những phàm linh này đã tìm được cách lẩn trốn hầu hết mọi người vì họ không nhận ra chúng là phàm linh.

Ôi Shiva, ngọn hỏa thiêu thần bí, 
Thày nâng con lên với Parvati, 
Khi thăng lên để ngắm ánh sáng thày, 
Con cũng kéo mọi người lên theo đây. 

Ôi Shiva, thày giải tỏa năng lượng, 
Ôi Shiva, đem lại thế hỗ tương, 
Ôi Shiva, ma quỷ trốn không còn,
Ôi Shiva, trả yên bình cho con. 

Phần 5

5.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là có nhiều phàm linh như thế, nhưng người ta không nhận ra chúng vì chúng không liên kết với đặc tính vật lý, nhưng với những đặc tính tình cảm và lý trí mà hầu hết mọi người không nhận ra.

Surya, thày soi sáng vũ trụ, 
Tạo cân bằng khiến con sao vui thế, 
Con nhập vào quỹ đạo Sao Thượng đế, 
Thày với con trong kết hợp mọi bề. 

Surya, đuổi hết mọi cực đoan, 
Surya, đập vỡ mưu của Rắn,
Surya, cho con sự cân bằng,
Surya, tim con hát vang vang.

5.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra liệu con có bị ảnh hưởng bởi một hay nhiều phàm linh đó khi con tham gia những nhóm tâm linh.

Surya, sự sống hơn thế nhiều, 
Hơn chinh chiến, xung đột với đấu tranh. 
Trong cân bằng, con bình an nội thành, 
Khiến cuộc chiến ngoài kia phải kết liễu.

Surya, đuổi hết mọi cực đoan, 
Surya, đập vỡ mưu của Rắn,
Surya, cho con sự cân bằng,
Surya, tim con hát vang vang.

5.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là có nhiều nhóm tâm linh, tôn giáo hay Thời đại Mới đã bị dính liền với một loại phàm linh tập thể. Nhiều người đã bị trói buộc nhiều hơn với một phàm linh tập thể khi họ theo học một giáo lý tâm linh hay tham gia một tổ chức tâm linh.

Surya, ôi quang cảnh tuyệt vời, 
Từ Sirius, ánh sáng thày gửi tới, 
Trong nhất tâm, tên thày con thầm gọi, 
Xin làm đứa tập sự của thày thôi. 

Surya, đuổi hết mọi cực đoan, 
Surya, đập vỡ mưu của Rắn,
Surya, cho con sự cân bằng,
Surya, tim con hát vang vang.

5.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là dù con đã thăng vượt một số phàm linh cá biệt mà con đã tạo ra, nhưng con vẫn còn bị một số phàm linh khác ảnh hưởng. Nếu con không có phàm linh nào thì con đã thăng thiên.

Surya, ánh sáng hãy tỏa ra, 
Trong bình quân, mọi chuyện được ổn thỏa,
Khi bợn nhơ năng lượng bị tiêu nát,
Thì buông bỏ đâu có gì mất mát.

Surya, đuổi hết mọi cực đoan, 
Surya, đập vỡ mưu của Rắn,
Surya, cho con sự cân bằng,
Surya, tim con hát vang vang.

5.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con sẽ vẫn còn phải đối phó với một phàm linh nào đó cho tới khi con dứt bỏ hồn ma cuối cùng và thăng thiên. Đây giản dị là thực tế của con đường tâm linh trên trái đất.

Surya, ánh sáng thày sống động, 
Để quân bình nội tâm, con nuôi dưỡng,
Thuật hóa kim đã bắt đầu xuôi hướng,
Và tim con hóa thành một thái dương.

Surya, đuổi hết mọi cực đoan, 
Surya, đập vỡ mưu của Rắn,
Surya, cho con sự cân bằng,
Surya, tim con hát vang vang.

5.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là không có lý do gì để con cảm thấy chán nản, sợ hãi hay xấu hổ về chuyện này. Con chấp nhận nó là như vậy, và con quyết định sẽ mài sắc khả năng nhìn thấu suốt phàm linh càng nhanh càng tốt và nhờ vậy tự giải thoát khỏi chúng.

Surya, hãy giúp con giác ngộ, 
Cho con thấy nhị nguyên là bể khổ,
Khi đối cực không thể nào cám dỗ,
Với Trung đạo, con chiến thắng đồng bộ.

Surya, đuổi hết mọi cực đoan, 
Surya, đập vỡ mưu của Rắn,
Surya, cho con sự cân bằng,
Surya, tim con hát vang vang.

5.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra đây là một tiến trình có một sắc thái cá nhân, vì con phải là người thấy được nó trong tâm thức mình. Con phải xoay chuyển tâm thức khi con rút cái Ta Biết ra khỏi phàm linh. Lúc đó con thấy được phàm linh từ bên ngoài, và con thấy được nó không phải là con.

Surya, bầu hoàn vũ lồng lộng, 
Với Cuzco, ánh sáng con tôn kính.
Từ quang cảnh hùng vĩ mà thày nhìn,
Con rốt cuộc mới hiểu ra sự sống.

Surya, đuổi hết mọi cực đoan, 
Surya, đập vỡ mưu của Rắn,
Surya, cho con sự cân bằng,
Surya, tim con hát vang vang.

5.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tiến trình này không thể dạy được. Nó đã được cài đặt sẵn vào cái Ta Biết, nhưng con phải tự mình khám phá ra nó qua sự trải nghiệm.

Surya, chỉ cho con dự tính
Của Thượng đế, ôi hiền từ vô lượng,
Cảm thể con giông bão, thày an định,
Cho con chứng Thượng đế vô hình tướng.

Surya, đuổi hết mọi cực đoan, 
Surya, đập vỡ mưu của Rắn,
Surya, cho con sự cân bằng,
Surya, tim con hát vang vang.

5.9. Đại thượng sư, con sẽ không chán nản, con sẽ tiếp tục suy ngẫm đề tài này và tiếp tục dùng các dụng cụ tâm linh để con giảm thiểu lực hút từ tính (magnetic pull) của phàm linh đó. Lúc đó cái Ta Biết sẽ rút nó ra khỏi phàm linh một cách tự nhiên, nhẹ nhàng và tưởng như tự phát.

Surya, con đến từ rất xa, 
Khi thày chỉ tinh tú kia là nhà,
Con thấy được ánh sáng ở nội tâm,
Bởi chính con là tinh tú mọi phần.

Surya, đuổi hết mọi cực đoan, 
Surya, đập vỡ mưu của Rắn,
Surya, cho con sự cân bằng,
Surya, tim con hát vang vang.

Phần 6

6.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là sự việc cái Ta Biết chuyển động không ngừng và nhìn cuộc sống một cách có ý thức dưới nhiều góc độ khác nhau là điều tự nhiên. Đó là lý do vì sao con đã đi tìm con đường tâm linh.

Ôi Godfre, ánh sáng thày chứng đạt, 
Dẫn chân con qua vùng đêm tối ác, 
Là lối đường chính chân thày đã tạc, 
Mở tự do cho những ai khao khát. 

Ôi Godfre, con an nhiên tự tại, 
Là một với Thượng đế, một với thày, 
Không tình yêu nào lớn mà con thấy 
Bằng tình yêu Thượng đế trong con đây. 

6.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra chuyện tự nhiên là con tự đồng hóa với một phàm linh nào đó và trải nghiệm cuộc sống xuyên qua phin lọc nhận thức của phàm linh đó trong một thời gian. Nhưng chuyện tự nhiên khác là con không ở lại với phàm linh đó nhưng xoay chuyển sang một tầm nhìn khác.

Ôi Godfre, con từ bỏ mọi chuyện,
Theo tiếng gọi nội tâm, con cứ tiến,
Khi đã có một mệnh trời Thiêng liêng
Chỉ cho mình thấy rõ sứ vụ riêng.

Ôi Godfre, con an nhiên tự tại, 
Là một với Thượng đế, một với thày, 
Không tình yêu nào lớn mà con thấy 
Bằng tình yêu Thượng đế trong con đây

6.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là chỉ khi nào phàm linh thu được đủ động lượng thì nó mới có thể tạo một lực hút từ tính trên sự chú ý của con, và giam con ở tầng đó trong một thời gian.

Ôi Godfre, chỉ cho con đời đời,
Làm sao thoát được tham vọng làm người.
Một mình ngã không thể làm gì nổi,
Con muốn học điều đó từ thày ơi.

Ôi Godfre, con an nhiên tự tại, 
Là một với Thượng đế, một với thày, 
Không tình yêu nào lớn mà con thấy 
Bằng tình yêu Thượng đế trong con đây. 

6.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là một phàm linh hung hãn sẽ tìm cách giữ con ở lại tầng đó một cách hung hãn. Xin thày giúp con cảm nhận được lực hung hãn đang kéo con hay đẩy con về một hướng nào đó.

Ôi Godfre, cho con chạm ngọn lửa,
Không bao giờ con là con người cũ,
Con muốn tăng và tăng trưởng hơn nữa,
Cho Nước Trời quang phục sau cơn mưa.

Ôi Godfre, con an nhiên tự tại, 
Là một với Thượng đế, một với thày, 
Không tình yêu nào lớn mà con thấy 
Bằng tình yêu Thượng đế trong con đây. 

6.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con có ý thức về chuyện này hơn, và biết rằng mỗi khi con cảm thấy sự hung hãn này, thì có một phàm linh đang ảnh hưởng con.

Ôi Godfre, giúp cho con nhìn thấy,
Rằng chìa khóa là phải buông bỏ hẳn,
Con có thể giải quyết mọi khó khăn
Khi con đem dâng hiến hết cho thày.

Ôi Godfre, con an nhiên tự tại, 
Là một với Thượng đế, một với thày, 
Không tình yêu nào lớn mà con thấy 
Bằng tình yêu Thượng đế trong con đây. 

6.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là thay vì con chạy xa nó, kháng cự lại nó hay đánh nhau với nó, bây giờ con nói: “Đây là một phàm linh đang lẩn trốn tôi, tôi sẽ bắt nó phải lộ diện để tôi có thể thấy nó và như vậy tôi ngưng không tự đồng hóa mình với nó, để nó không còn quyền lực trên tôi nữa.”

Ôi Godfre, lửa thày con thỉnh gọi,
Làm tấm gương ngời sáng cho con soi,
Thày trụ vững trong những lúc hoạn nạn,
Khi con cần thượng lộ thật bình an.

Ôi Godfre, con an nhiên tự tại, 
Là một với Thượng đế, một với thày, 
Không tình yêu nào lớn mà con thấy 
Bằng tình yêu Thượng đế trong con đây. 

6.7. Đại thượng sư, con sẽ dùng những dụng cụ mà các thày cho con, để con có thể lôi những phàm linh đó ra khỏi nơi ẩn náu và con có thể thấy được chúng không phải là con và nhờ vậy con tự giải thoát mình khỏi ảnh hưởng của chúng.

Ôi Godfre, tâm thày con tìm đến,
Cố nhận ra bí mật thày phát hiện,
Lúc nào cần ngừng lại, lúc nào tiến,
Để con không bao giờ ngừng đi lên.

Ôi Godfre, con an nhiên tự tại, 
Là một với Thượng đế, một với thày, 
Không tình yêu nào lớn mà con thấy 
Bằng tình yêu Thượng đế trong con đây. 

6.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là ở các tầng tâm thức thấp, không có sự khác biệt đáng kể nào giữa tự ngã và phàm linh chủ yếu đang khống chế con người.

Ôi Godfre, tự do giản dị quá,
Đối với thày, vâng lời là chìa khóa.
Con sẽ vượt mọi tật xấu con người
Bằng cách giữ mọi quy luật của trời.

Ôi Godfre, con an nhiên tự tại, 
Là một với Thượng đế, một với thày, 
Không tình yêu nào lớn mà con thấy 
Bằng tình yêu Thượng đế trong con đây. 

6.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra sự sai lầm khi con nghĩ bởi vì con đã vượt qua một phàm linh nào đó và con đã giải thoát mình khỏi phàm linh đó, thì giờ đây con được giải thoát khỏi tự ngã. Vì tự ngã không phải là phàm linh; nó hơn phàm linh.

Ôi Godfre, ánh sáng càng sáng hơn
Khi Hiện diện TA LÀ đã thật gần.
Cùng với thày, con ra khỏi đấu trường,
Theo gót, con cũng thành một tấm gương.

Ôi Godfre, con an nhiên tự tại, 
Là một với Thượng đế, một với thày, 
Không tình yêu nào lớn mà con thấy 
Bằng tình yêu Thượng đế trong con đây. 

Phần 7

7.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con thắng được một phàm linh ở tầng nào đó, con sẽ chuyển lên nhìn cuộc sống xuyên qua phàm linh ở tầng kế tiếp. Thách đố lúc đó là con có thấy nhu cầu giải thoát mình khỏi phàm linh đó luôn không, hay con lại bắt đầu quy trình củng cố phàm linh đó qua sự chú ý của con.

Con thấy rõ giác quan chỉ phỉnh gạt lừa dối.
Những gì nó bảo con, làm sao con tin nổi?
Đằng sau mọi hình dáng, chỉ có một ánh sáng,
Chúng trông như thực đó, do cái nhìn giới hạn. 

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

7.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là có nhiều phàm linh và khi con thăng vượt một phàm linh thì phàm linh đó chết đi. Nhưng con vẫn chưa là một sinh thể thăng thiên, có nghĩa là con vẫn còn tự ngã. Tự ngã là cái giữ con hiện thân và giữ con không đi vào trạng thái thăng thiên.

Tâm này với giác quan chỉ là những công cụ,
Cho nên con nhất quyết không là một đứa ngu.
Cái ngã cá nhân đó có phải là con đâu?
Bản sắc ở trần thế, một trò lừa hư cấu.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

7.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là có nhiều tầng của tự ngã. Con sẽ chưa hoàn toàn giải thoát khỏi tự ngã cho tới khi con thăng thiên, vì cần có cái gì buộc con lại cõi vật lý. Khi con không còn tự ngã, thì con không thể duy trì mình trong một thân thể vật lý.

Bỏ nhận thức giác quan, con muốn được tự do,
Với nội giác trong sạch, con mới thật nhìn rõ.
Chính quan điểm nhân gian khiến con bị mù loà,
Con thấy viễn quan mới trong nhận biết trung hoà.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

7.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con sẽ không thoát khỏi tự ngã cho tới khi thăng thiên. Xin thày giúp con không mắc bẫy những khía cạnh vi tế của tự ngã tương ứng với những tầng tâm thức cao và có thể khiến con bị mắc kẹt ở tầng đó.

Quan điểm có vẻ thực là do một cái ngã,
Nó phóng ra vấn đề để con phải đối phó.
Khi nào còn mắc bẫy thì không thể tự do,  
Con sẽ nói với nó: Ta cho mi chết nhá.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

7.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là lúc nào cũng có nhu cầu tự thăng vượt, vì tự thăng vượt là sự sống. Tự thăng vượt là Thánh linh.

Con không thể ngộ được bằng quan điểm con người
Thực tại của Ki-tô trong tầm nhìn cao ngất.
Khi cái ngã nhị nguyên, con để cho nó mất,
Tâm Ki-tô sẽ mở, mắt bên trong sáng ngời.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

7.6. Ôi Đại thượng sư, xin thày chỉ cho con thấy phàm linh đang kềm giữ con ngay lúc này và quyết định nào của con đã tạo ra nó.

Padmasambhava, thế giới ôi đảo điên,
Khi suy nghĩ nhị nguyên định ra ác và thiện.
Ki-tô sẽ phán quyết những tà lực u minh,
Nhóm lại nơi mỗi người cái đốm lửa tâm linh.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

7.7. Ôi Đại thiên thần Michael, xin thày trói chặt phàm linh này, để nó không ảnh hưởng con hay bất cứ phần nào của sự sống.

Padmasambhava, hãy giải phóng nhân loại
Khỏi tâm thức nhị nguyên và tâm thức cuồng đại.
Hãy cắt con ra khỏi lời rắn ôi sai trái,
Với Giê-su Ki-tô, con sẽ xích gần lại.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

7.8. Hiện diện TA LÀ hùng mạnh, xin phá tan khuôn đúc tư tưởng đằng sau phàm linh này.

Rắn gian manh bảo rằng đời con sẽ không thể
Là nhiều hơn hiện tại, và địa cầu cũng thế.
Nhưng trong tâm Ki-tô, con thấy cái Hơn Nữa,
Hành tinh sẽ xán lạn chưa từng thấy bao giờ.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

7.9. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con hoàn toàn xuôi theo Dòng sông sự Sống.

Tâm con phải rời chuồng thì mới mong nhận thỉnh,
Hoạch định Saint Germain cho một Thời Hoàng kim.
Padmasambhava, với Ngọn lửa Hòa bình,
Và viễn quan Hợp nhất, thày rải khắp chúng sinh.

Padmasambhava, trong Ngọn lửa Bình an,
Con thấy được chân lý tối thượng mà thày ban,
Mọi quan điểm trần thế, con cho chúng đi tất,
Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật. 

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu tự điều ngự không ngừng

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi thày Giê-su, Maitreya, Phật Gautama, Sanat Kumara và Đại thượng sư yêu dấu, hãy giúp con không bao giờ ngừng ở bất cứ điểm nào nhưng tiếp tục tìm tự điều ngự ở các tầng cao. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Đại thượng sư và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là bản chất của Thánh linh là nó luôn luôn tuôn chảy. Nó không phải là một linh thể đứng yên. Nó là một Tánh linh luôn luôn tự thăng vượt, nó không bao giờ y nguyên dù chỉ trong một tích tắc.

Ôi Đại thượng sư, con muốn tăng trưởng,
Con cảm uy lực của dòng sông lớn.
Ôi Đại thượng sư, tấm màn rơi xuống,
Do chí sáng tạo từ cõi thiên đường.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

1.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là giữa tầng 48 và 96, công việc của con là thử nghiệm khả năng đồng-sáng tạo của mình và xây dựng một cái ta có một số khả năng điều ngự bảy tia sáng.

Ôi Đại thượng sư, trí tuệ chảy xuống,
Đánh thức mọi người khỏi giấc ngủ quên.  
Ôi Đại thượng sư, quân bình khởi xướng,
Hồi chuông thể nhập lại được gióng lên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

1.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con không tạo ra một cái ta đứng yên. Con tạo ra một cái ta có thể tuôn chảy với Thánh linh.

Ôi Đại thượng sư, tiếng gọi tình thương,
Đập tan ngục tối sập bốn vách tường.
Ôi Đại thượng sư, cởi hết xích xiềng,
Sự sống thênh thang trong vô điều kiện.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

1.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là các thày giả muốn con đi vào một ngõ bí khiến con ngừng tăng triển hoặc còn khiến con rơi sâu vào tách biệt.

Ôi Đại thượng sư, ý con trong suốt,
Con nay chắc chắn sự sống là một. 
Ôi Đại thượng sư, con luôn tỉnh thức,
Bỏ lại tất cả để theo Duy nhất.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

1.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là một trong những mưu đồ chính của họ là lời gian dối cho rằng con có thể tạo ra một cái ngã tách biệt, một phàm linh, và phàm linh này có thể đi lên cõi tâm linh.

Ôi Đại thượng sư, giúp loài người nhìn,
Xuyên qua tấm màn ảo ảnh lung linh.
Ôi Đại thượng sư, trong mắt thuần đơn,
Con biết con là cái Ta rộng lớn.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

1.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra đây là giấc mơ tối hậu của tự ngã, của các sa nhân và các phàm linh tách biệt.

Ôi Đại thượng sư, con đã bình an,
Nhờ Maitreya dạy con hiền lành.
Ôi Đại thượng sư, tuyệt mọi chinh chiến,
Khắp nơi tràn ngập hòa bình thiêng liêng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

1.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là theo định nghĩa, một phàm linh tách biệt phải chịu luật sinh diệt, nhưng nó mơ được bất tử. Nó mơ hội đủ điều kiện nào đó giúp nó được Thượng đế chấp nhận và được phép tham dự tiệc cưới với Ki-tô.

Ôi Đại thượng sư, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Đại thượng sư, giải thoát sự sống,
Để nó thăng vượt mãi mãi không ngừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

1.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là sinh thể duy nhất có thể lên thiên đàng là cái Ta Biết, và nó chỉ làm được điều này khi nó đã lột bỏ hết tất cả các lớp da rắn của các phàm linh tách biệt, những phàm linh rắn không thật, dụ dỗ con nghĩ rằng con sẽ trở thành giống một thần nhân có thể lên thiên đàng.

Ôi Đại thượng sư, ngọn Lửa thần thánh,
Vẻ đẹp rực rỡ mà thày mang tên.
Ôi Đại thượng sư, khi dòng xối đến,
Cuộc đời ở dưới nhập với cõi trên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

1.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là sa nhân đã cố gắng tạo ra những cái ngã tách biệt mà họ cho rằng có thể trở nên bất tử. Nhưng không có gì có thể lên Thiên đàng ngoại trừ những cái đã từ Thiên đàng xuống, đó là nhận biết thuần khiết.

Ôi Đại thượng sư, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Phần 2

2.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con sẽ không bao giờ có thể đem những phàm linh tách biệt này theo con lên thiên đàng, cho dù chúng có vẻ rất hoàn hảo dựa trên tiêu chuẩn thế gian nào đó. Tuy nhiên một phàm linh tách biệt vẫn có thể được thiết kế để tăng triển và tự kiện toàn.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con có thể đến với một giáo lý tâm linh và tạo ra một lý tưởng trong tâm con cho rằng nếu con cứ tiếp tục áp dụng giáo lý này, con sẽ tới chỗ đạt được một trạng thái hoàn hảo và sau đó con sẽ được phép vào thiên đàng.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con sẽ không được cứu rỗi, con sẽ không đạt được giác ngộ, con sẽ không thăng thiên, bằng cách tạo ra một cái ngã cố định và hoàn hảo. Sự hoàn hảo trên Thiên đàng không giống những gì mà hầu hết mọi người coi là hoàn hảo.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con người có khuynh hướng xem sự hoàn hảo là một cái gì cố định. Vì nếu một cái gì đó hoàn hảo, thì làm sao nó có thể cải thiện được? Nếu nó có thể cải thiện được, thì nó không thể hoàn hảo – đây là theo tâm thức rắn.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là sự hoàn hảo thật sự là tuôn chảy với Tánh linh. Không có gì đứng yên cả. Hoàn hảo là thăng vượt liên tục. Đây là định nghĩa thực của sự hoàn hảo.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là Thánh linh hoàn hảo vì nó không có mục đích đạt được một trạng thái cố định tối hậu. Mục đích của nó là tự thăng vượt liên tục và bất tận. Nó không bao giờ tìm cách giữ chặt cái cũ, vì nó luôn luôn sẵn sàng lột bỏ da rắn cũ và thăng vượt lên một trạng thái mới.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là có một khác biệt cơ bản giữa việc đi theo con Đường của Bảy Tia sáng với mục đích tạo ra một cái ta hoàn hảo, và mục đích khác là tạo ra một cái ta uyển chuyển có thể tuôn chảy với Thánh linh bằng cách tự thăng vượt liên tục.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con cần có mục đích. Nhưng con sẽ không cho phép các thày giả lường gạt con để con quy định một mục đích cố định, dựa trên một tiêu chuẩn nào đó do họ thiết lập.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.9. Đại thượng sư, con sẽ không đi trên con Đường của Bảy Tia sáng để trở nên giỏi hơn người khác dựa trên một phán xét giá trị nhị nguyên nào đó.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 3 

3.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là trong tâm thức tập thể, một tập đoàn khổng lồ các phàm linh tách biệt đã được tạo ra, và chúng đều không muốn chết.

Maitreya, con là đứa rất hiền,
Thày khuyên bảo, con quý trọng biết mấy, 
Viễn quan thày, con thực tình muốn thấy, 
Với thày, con sẽ ở vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con học cách buông bỏ phàm linh tách biệt tại mỗi tầng trên con đường tu. Nhờ vậy khi con lên tới tầng 96, con không phải đối đầu với động lực chết của toàn hành tinh, mà chỉ đối đầu với động lực ở tầng đó mà thôi.

Maitreya, hãy giúp con trở về,
Học từ thày, con thật chỉ muốn thế. 
Khi Duy nhất chiếm trọn lòng khao khát, 
Con cảm được ngọn lửa tâm ngộ đạt. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con tạo ra một cái ngã tách biệt từ tâm thức nhị nguyên, con đã tạo ra một cái ngã tin rằng nó chỉ có thể được Thượng đế chấp nhận khi nó đạt được một tiêu chuẩn hoàn hảo và không bao giờ sai trái dựa trên tiêu chuẩn đó.

Maitreya, bây giờ con xin hẹn,
Đối với thày, không bao giờ che giấu, 
Hãy phơi bày sự lừa lọc hư xấu 
Đã làm chết cái ta vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là cái ngã tách biệt lúc nào cũng sợ mình sai. Nhưng thày không phán xét con dựa trên thang điểm đúng và sai. Thày không hề mong muốn chứng minh con sai. Thày cũng không hề mong muốn thấy con chứng minh mình đúng.

Maitreya, vị Đạo sư chân phúc,
Tim sâu nhất, con trao cả cho thày, 
Con xin nguyện lắng nghe trọn tỉnh thức, 
Để bẻ gẫy bùa ngải của rắn đây. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là thày chỉ quan tâm một chuyện, là con sẵn sàng thăng vượt tầng tâm thức hiện tại của con, thăng vượt ý niệm bản ngã hiện tại của con, cho phép phàm linh hiện tại của con chết đi và tuôn chảy vào một ý niệm bản ngã khác, cao hơn.

Maitreya, giúp con thấy tà thuật,
Vì lời rắn mà sợi dây phải đứt, 
Nay trong con, nó chẳng nắm gì được, 
Con đã tìm tự do trong Duy nhất. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là một phàm linh được tạo ra từ tiêu chuẩn nhị nguyên có trong chính mẫu đồ thiết kế ra nó sự phân chia đúng sai. Nó tin rằng nếu nó bị chứng minh là nó sai, thì một tai họa nào đó sẽ xảy ra. Nhưng nếu nó được chứng minh là nó đúng, thì một điều tốt lành nào đó sẽ phải xảy ra.

Maitreya, tự do nhờ sự thực,
Mà thoát khỏi sai lầm của nhị đối, 
Con rũ hết thành quả của kiến thức, 
Để chỉ biết chân tánh của thày thôi. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là phàm linh tin rằng nó có thể ép Thượng đế phải chấp nhận nó khi nó chứng minh nó đúng. Và nó tìm cách chứng minh nó đúng bằng cách duy nhất mà nó biết: bằng cách so sánh nó với người khác dựa trên tiêu chuẩn đã tạo ra nó. Do đó, nó tìm cách chứng minh nó đúng bằng cách chứng minh người khác sai, bằng cách kéo người khác xuống.

Maitreya, con cúi đầu quy phục,
Ý định sạch và tim con chân thực, 
Cả tự ngã con cũng bỏ lại nốt,
Và trọn vẹn con với thày là một. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra lý luận trong tiềm thức của phàm linh tách biệt là: “Nếu tôi có thể chứng minh là tất cả các phàm linh khác đều sai, thì tôi chắc chắn phải đúng và Thượng đế sẽ phải chấp nhận tôi.” Đây là một ảo tưởng.

Maitreya, thiện tâm là chìa khóa,
Thày dạy con lòng tốt đủ mọi diện, 
Nay con là cánh cửa đã mở ra, 
Để phục hồi Nghệ thuật của Tâm thiện. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tầng nguy hiểm nhất trên con đường tu là khi con tới gần tầng 96, nhưng vẫn còn mắc kẹt trong mong muốn chứng minh mình đúng dựa trên một tiêu chuẩn nào đó.

Maitreya, ôi bí ẩn ngọt ngào,
Con trầm mình trong thực tại của thày, 
Trường huyền bí giờ đây sẽ trở lại, 
Khiến lòng con đang bừng cháy làm sao. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

Phần 4

4.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là thày khó tiếp cận những đệ tử đang tiến gần tới tầng 96, nhưng họ tin cái ngã tách biệt của họ đúng, dựa trên tiêu chuẩn mà họ không chịu từ bỏ.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là các đệ tử mà các Thày khó tiếp cận nhất là những người đã xây dựng lòng kiêu hãnh mà họ không thấy vì họ nghĩ họ đúng.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Đại thượng sư, con sẵn sàng chấp nhận sự tỉnh ngộ là không có tiêu chuẩn nào quy định trên trái đất có thể đưa con lên thiên đàng. Vì những tiêu chuẩn nhị nguyên tách biệt này không thể nào hiện hữu trên thiên đàng.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con đang không chứng minh con đúng dưới mắt các Thượng sư vì các thày không ở trong tâm thức nhị nguyên. Con chỉ đang chứng minh con đúng dưới mắt phàm linh tách biệt mà con đã tạo ra, dựa trên một tiêu chuẩn đặc trưng của con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là phàm linh này không thể thấy bất cứ cái gì vượt lên trên tiêu chuẩn. Nó không bao giờ thấy được là tiêu chuẩn có điều gì sai. Nó không bao giờ thấy là tiêu chuẩn có bất cứ hạn chế nào. Nó không bao giờ thấy là tiêu chuẩn được tạo ra bằng cách loại trừ một số thành phần của bức tranh thực tại rộng lớn hơn.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là các phàm linh thấp định ra một tiêu chuẩn bằng cách loại trừ một cái gì đó. Chúng tạo ra một tiêu chuẩn bằng cách loại trừ một hoặc nhiều trong số 360 góc độ của chu vi là những gì có thể nhìn thấy trên trái đất.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con quy định một số góc độ nào đó là sai, và do đó không chịu nhìn chúng, thì theo định nghĩa con sẽ có một cái nhìn hạn chế, chọn lọc, chủ quan, thiên lệch, và thiếu sót về sự sống.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con sẽ luôn luôn có thể chứng minh là phàm linh tách biệt của con đúng. Vì một khi con chấp nhận định nghĩa một số góc độ sai và không được nhìn tới, thì con sẽ không thể nhận ra là phàm linh mà xuyên qua đó con nhìn thực tại đang cho con một cái nhìn hạn chế và méo mó về tổng thể sự sống.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là nếu con sẵn sàng loại bỏ một số góc độ trên chu vi của vòng tròn sự sống, thì con luôn luôn có thể chứng minh là cái ngã, vốn chỉ bao hàm những góc độ còn lại, là đúng.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 5

5.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con chưa thấy được toàn bộ chu vi của tâm thức có thể có được trên trái đất, thì con chưa giác ngộ, và con chưa sẵn sàng thăng thiên.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Con nhập đoàn hợp xướng của tình thương, 
Mở tâm ra, hát bài ca tán thưởng, 
Và cùng nhau nâng hành tinh gia tốc. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

5.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là cái Ta Biết không có tính cá biệt nào trụ trong nó khiến nó cần phải loại bỏ một số góc độ.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Được khai ngộ – điều con muốn trước tiên, 
Shamballa – nhà con ở cõi thiên,
Cho thày, con chỉ xin làm cực điện.

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

5.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra con là nhận biết thuần khiết. Và khi con là nhận biết thuần khiết, thì con có thể nhìn bất cứ cái gì và tất cả mọi thứ. Con không cần loại bỏ bất cứ cái gì. Con không cần phán xét bất cứ cái gì.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Thày vạch đường cho con cứ theo chân, 
Khai mở con bằng tình yêu vô tận, 
Làm cửa mở cho Bồ câu Thánh thần. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ,  
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

5.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con sẵn sàng nhìn bất cứ cái gì thì không có cái gì có quyền lực trên con.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Gương của thày, cả một nguồn linh hứng. 
Không dính mắc, con ngập nỗi vui mừng  
Đóng góp cho địa cầu lại được sống. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ,  
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

5.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con quy định cái gì đó là sai và không chịu nhìn nó, thì cái mà con không chịu nhìn có quyền lực trên con. Nó quy định con, vì con nghĩ rằng nếu con có những đặc tính của nó, con sẽ sai theo nghĩa tối hậu.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Là bộ máy để địa cầu thanh lọc, 
Mọi tà thể tiêu hết khỏi hành tinh,
Từ bên trong hiển lộ Đốm Tánh linh. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ,
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

5.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là cách duy nhất để vượt qua nỗi sợ bị sai là nhìn vào đáy sâu của nỗi sợ, và nhận ra nó chỉ là một góc độ khác trên chu vi của la bàn sự sống. Và con không bị nó ràng buộc.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Là bộ máy vũ trụ đang khuếch lớn, 
Đoàn người đến từ Kim tinh rung động,
Khiến tà lực không thể nào cưỡng chống. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ,  
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

5.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tiềm năng lớn nhất của cái Ta Biết là trở nên mũi kim la bàn luôn luôn chỉ hướng Bắc. Nó luôn luôn chỉ ngôi sao bắc đẩu là Hiện diện TA LÀ.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc đỏ, 
Con là máy khuếch trương của thày đó,
Con khôi phục tình yêu không gò bó, 
Luân xa này là cửa mở thật to. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ,  
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

5.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con đi tới những điểm trên la bàn cá nhân của con nơi con đã loại bỏ một số góc độ trên chu vi. Xin thày giúp con diệt trừ những phàm linh này và nhờ vậy mở rộng chu vi, khiến cho mũi kim la bàn có thể xoay tự do.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Là cái loa cho điệp khúc Kim tinh,
Khi tình yêu vang dội khắp cùng chốn,
Thâm nhập cả những tâm hồn vô minh. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ,  
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

5.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là có cái gì đó mà con không thấy. Xin thày giúp con nhìn vào chu vi của la bàn cá nhân của con, để thay vì đi từ khủng hoảng này sang khủng hoảng khác, con đường tu của con trở thành vòng xoắn ốc suôn sẻ đi lên.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc đỏ, 
Nhờ thày đến, chúng sinh được thánh hóa, 
Nguyên hành tinh biến thành miền cao cả,
Do hồng ân toàn vũ mà thăng hoa. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ,
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu tự do khỏi ý định hung hãn

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Arcturus và Victoria, Đại thiên thần Zadkiel và Amethyst, Saint Germain và Đại thượng sư yêu dấu, hãy giúp con tự giải thoát khỏi ý định hung hãn từ bên trong và bên ngoài. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Đại thượng sư và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1 

1.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là các sa nhân có mưu đồ lôi kéo càng nhiều người càng tốt vào vòng xoáy hướng hạ đổ lỗi cho người khác.

Arcturus yêu dấu, con nay xin thày phóng
Dòng Lửa Tím của thày cho sự sống tăng triển.
Những vòng tròn ánh sáng cứ không ngừng tỏa rộng,
Trong mỗi hạt nguyên tử cũng đồng nhịp sáng lên. 

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

1.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con sẽ phải đối phó với tâm thức sa ngã ở mỗi tầng cho tới tầng 96 và ngay cả trên đó nữa.

Arcturus yêu dấu, Elohim Tự do,
Chúng con mở tim ra cho thực tại Tánh linh,
Khi cuộc đời nhân thế không còn gì gắn bó,
Con gọi sự sống mới trong Ngọn lửa Tái sinh. 

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

1.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là không nhất thiết con sẽ cho tà lực thêm sức mạnh khi con nhận biết chúng. Con cho chúng thêm sức mạnh nếu con sợ hay tìm cách đánh nhau với chúng, nhưng con cũng cho tà lực sức mạnh khi con phớt lờ hay phủ nhận chúng.

Arcturus yêu dấu, ở với con mãi mãi,
Ngày mới con sẵn lòng chào đón khi sống lại,
Trái tim con lan rộng ra Vô biên dang trải,
Và bí quyết chiến thắng là ngọn lửa của thày. 

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

1.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là hành động phớt lờ một cái gì và phủ nhận nó hiện hữu không có tính chất thụ động. Đây là một hành động tích cực vì tà lực hung hãn. Chúng tìm cách ảnh hưởng bất cứ ai trên hành tinh này.

Arcturus yêu dấu, màu tím và ánh lửa
Ngập từng hạt nguyên tử và nâng nó lên cao,
Ánh sáng đổ đầy hết khoảng không gian ở giữa,
Và ngay cả vật chất cũng sáng rực làm sao. 

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

1.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con không thể sống trên hành tinh này mà không bị một lực hung hãn phóng vào con. Con chỉ có thể phớt lờ hay phủ nhận lực này bằng cách hướng một lực ngược lại khiến con mù quáng không thấy cái gì đang phóng tới con.

Arcturus yêu dấu, Hồng ân biến đổi cả,
Trao cho con uy lực đương đầu mọi thách đố,
Tai con luôn văng vẳng Bài hát của Tự do,
Và con biết Thượng đế yêu thương mình lắm đó. 

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

1.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là cái đang phóng tới con từ các sa nhân và tâm thức tập thể là một dòng sóng năng lượng. Con chỉ có thể phớt lờ hay phủ nhận nó bằng cách phóng ra một dòng năng lượng ngược lại.

Arcturus yêu dấu, con buông mọi sợ hãi,
Thày Hiện diện thật gần, tưởng chạm được bằng tay,
Khi ánh sáng màu tím ngập toàn cõi bên trong,
Con nhắm hướng thăng thiên, tự nguyện và nhanh chóng.

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

1.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là dòng năng lượng của con sẽ không vô hiệu hóa dòng năng lượng tiêu cực, mà chỉ vô hiệu hóa nó ở mức tâm ý thức của con, khiến con không ý thức về nó. Và như vậy con có thể phớt lờ hay phủ nhận tà lực.

Arcturus yêu dấu, đem lại thời đại mới,
Trái đất và nhân loại lật qua trang đổi đời,
Ánh sáng thày chuyển hóa, cho con niềm chắc chắn,
Hoàng kim Saint Germain là thực tại hoàn toàn.

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

1.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tà lực vẫn ảnh hưởng tiềm thức của con. Nếu con không ý thức về tà lực, thì con đang bị tà lực đó ảnh hưởng.

Arcturus yêu dấu, chọc thủng cái ảo ảnh
Là rắn có thể địch bao thiên thần dũng mãnh.
Không có tà lực nào ngăn được lửa hùng mạnh
Sẽ lập tức dẹp yên mọi hiềm khích đua tranh.

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

1.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là một khi tà lực đã đưa con vào con đường giả, thì chúng sẽ hoặc để yên con hoặc cho phép con tiếp tục ở trong ảo tưởng là con đang đi đúng đường.

Arcturus yêu dấu, vì yêu Saint Germain
Nên con cứ thỉnh hoài, một lần thêm một lần,
Ngọn lửa Tím của thày trên trái đất tràn lan,
Cho đôi mắt của thày cũng hạnh phúc ngập tràn.

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

Phần 2

2.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là nhiều người tâm linh tin rằng nếu họ nhân từ và thương yêu tất cả mọi người và không chú tâm tới bất cứ những gì tiêu cực, thì chắc chắn sẽ có một ngày họ đạt được giác ngộ.

Đại thiên thần Zadkiel, dòng chảy nhanh đến nỗi
Trong lửa tím của thày, con lập tức chuyển đổi,
Nhập vào tầng rung động của tự do phơi phới,
Con thoát khỏi kềm chế của cái ta kém cỏi.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

2.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra đây là một sự gian dối mà sa nhân đã tạo ra để đặc biệt gài bẫy những người đã bắt đầu thức tỉnh, nhưng chưa nhận ra sự thực tuyệt đối rằng con đường tâm linh là một con đường có ý thức.

Đại thiên thần Zadkiel, con khao khát từng ngày
Được cai quản ngọn lửa màu tím của thày đây,
Khi con dùng sức mạnh luyện kim để chuyển hóa,
Và gọi tên Thiên ngữ để giải vây tất cả.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

2.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con không thể đi trên con đường tu mà không có ý thức. Con không thể đi trên con đường tu mà tiếp tục phớt lờ hay phủ nhận bất cứ điều gì. Con chỉ có thể đi trên con đường tu bằng cách sẵn sàng nhìn bất cứ mọi điều và tất cả mọi việc.

Đại thiên thần Zadkiel, ngọn lửa tím quyền năng
Biến đổi cả thế giới trong lực chuyển vô song.
Trái đất khi thức dậy, bắt đầu quay nhanh chóng,
Với đoàn quân thiên thần, ta cùng nhau chiến thắng.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

2.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con không thể đi trên con đường tâm linh mà không thấy và nhìn nhận rằng hành tinh nơi con sống là loại hành tinh nào. Trái đất không phải là một hành tinh lý tưởng. Đây là một trong những hành tinh thấp trong vũ trụ vật chất.

Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu vừa thoát khỏi
Biết bao nhiêu gánh nặng do tâm thức loài người,
Bao day dứt nội tâm giờ đây đã mở lối,  
Tự do ta ôm lấy mà tái tạo cuộc đời.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

2.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con không cần phải sợ tà lực hay đánh nhau với chúng. Con cần nhận ra chúng vì chỉ như vậy con mới đáp ứng lời kêu gọi của Giê-su nên khôn ngoan như rắn và vô hại như bồ câu.

Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu nâng tốc độ,
Quay nhanh hơn một bậc trong chiến thắng Ki-tô,
Vì chỉ trong Ki-tô, người tù mới giải phóng
Và địa cầu được tắm trong ánh sáng thong dong.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

2.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con không thể vô hại như bồ câu nếu con không khôn ngoan như rắn, và nhìn thấu những con rắn đang tìm cách dẫn con vào ngõ bí không đưa tới sự tự thăng vượt.

Đại thiên thần Zadkiel, bao thế lực đêm tối,
Bị Ánh sáng phân biện của Tự do cột trói,
Hành tinh đã sạch bóng bao tà lực ám muội,
Khi Lửa Tím của thày nhóm lên một đốm mới.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

2.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là sa nhân tấn công mọi dòng sống trên trái đất với một lực hung hãn. Bằng sức mạnh vật lý nếu có thể, nhưng cũng bằng phương tiện tâm lý để tấn công các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con.

Đại thiên thần Zadkiel, con yêu thày chân chất,
Cả với Saint Germain con sẽ luôn trung thực,
Hãy giúp con nhìn thấy sứ vụ Thiêng liêng nhất,
Để con tỏa ánh sáng trọn vẹn trên trái đất.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

2.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là mục đích của sự tấn công này không phải để tiêu diệt con. Mục đích của họ là khiến con phản ứng lại sự tấn công. Họ muốn lôi kéo con vào trò chơi hành động và phản ứng, trong đó họ hành động và con phản ứng lại.

Đại thiên thần Zadkiel, bóng tối đã lắng chìm,
Khi ngày mới ra đời trong Ánh sáng màu Tím,
Mọi biểu hiện sợ hãi giờ đây đã hoán chuyển,
Đây là lúc con biết Thời Hoàng kim đã đến.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

2.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là chẳng bao lâu con sẽ rơi vào vòng xoáy hướng hạ, rơi thấp khiến con quên đi mục đích tâm linh của mình, và rơi xuống dưới tầng tâm thức 48, xuống trạng thái tâm thức hung hãn, khi con lúc nào cũng cảm thấy mình đang bị tấn công và cần chống trả lại.

Đại thiên thần Zadkiel, trong lửa tím thánh thiện,
Nhân loại với hành tinh không bao giờ như trước,
Thời Hoàng kim mà thày Saint Germain mơ ước
Thành sự thật tuyệt vời, con mừng vui chứng kiến.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

Phần 3

3.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là kế hoạch thứ nhì của họ là khiến con cảm thấy thoải mái, cảm thấy mình là người tâm linh hay ngoan đạo, và sau đó họ muốn giữ con ở đó mãi mãi.

Ôi Saint Germain, nghệ thuật luyện kim, 
Giải phóng con ngay với ngọn lửa tím.
Ôi Saint Germain, con tăng liên tục,
Dòng chảy tự do không sao khuất phục. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

3.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là Thánh linh, con đường tu chân chính, là Dòng sông sự Sống lúc nào cũng thăng vượt chính nó, liên tục và mãi mãi.

Ôi Saint Germain, điều khiển tài tình
Hình dạng kỷ hà của ngọn lửa tím.
Ôi Saint Germain, ở thày con tìm
Thấy được công thức giải thoát chúng sinh. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

3.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là nếu con đứng yên ở một tầng nào đó, thì con có thể cảm thấy mình được cứu rỗi và là người tâm linh, nhưng con đang không tăng triển, con bị kẹt trong thế giới vật chất. Nếu sa nhân không khiến con đi xuống được thì ít nhất họ muốn con bị mắc kẹt.

Ôi Saint Germain, Tự do bao la,
Chính là tình thương giải thoát tất cả.
Ôi Saint Germain, chúng con yêu quá
Lửa tím cứ giục con càng hơn xa. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

3.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là sa nhân tấn công con với một lực hung hãn, và lực này là một phàm linh. Sa nhân đã tạo ra một phàm linh xông tới tấn công con.

Ôi Saint Germain, chúng con nối kết,
Từ bỏ nhị nguyên, thăng lên siêu việt.
Ôi Saint Germain, cái ta tinh khiết,
Khoa học lửa tím vững tay cầm trịch.

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

3.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con phản ứng lại sự tấn công này, thì con cũng tạo ra một phàm linh. Con tạo ra một phàm linh của riêng mình, và mỗi bước con đi xuống dưới tầng 48, con tạo ra một phàm linh mới.

Ôi Saint Germain, sự thật rõ ràng, 
Trong ánh sáng tím, chẳng gì băn khoăn.
Ôi Saint Germain, niêm kỹ hào quang,
Luân xa con được lửa thày hàn gắn. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

3.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là nếu con muốn leo trở lên các tầng cao hơn, con phải đi theo hành trình đối đầu các phàm linh mà con đã tạo ra và tiêu diệt chúng.

Ôi Saint Germain, là thuật biến hóa,
Lửa tím giải phóng nguyên tử thăng hoa.
Ôi Saint Germain, biến chì thành vàng,
Biến cả viễn kiến mà chúng con mang. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

3.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là hành trình trở về nhà và sự tiếp xúc với Hiện diện TA LÀ của con đòi hỏi con phải gặp gỡ, đối đầu và khắc phục từng phàm linh mà chính con đã tạo ra.

Ôi Saint Germain, nghệ thuật vượt thăng,
Với thày con sẽ hợp nhất vĩnh hằng.
Ôi Saint Germain, thoát khỏi tâm hồn,
Ôi niềm vui sướng biết thày trong con.

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

3.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con cảm thấy bị các tà linh đen tối do sa nhân tạo ra chống đối, thì đây chỉ là những phàm linh mà con đã tạo ra. Vì chỉ phàm linh tách biệt mới cảm thấy bị phàm linh tách biệt khác chống lại.

Ôi Saint Germain, tinh thần cao thượng,
Là chìa khoá cho hóa học tâm linh.
Ôi Saint Germain, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

3.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là Tánh linh Duy nhất (the One Spirit), Tánh linh không phân chia, Tánh linh không thể phân chia, Thánh linh (Holy Spirit), không cảm thấy bị các phàm linh tách biệt chống đối. Nó biết nó ngoài tầm với của chúng vì nó chỉ cần thăng vượt chính nó để trở thành trong suốt đối với lực đang phóng tới.

Ôi Saint Germain, thày đang Hiện diện, 
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tự do Thượng đế chúng con rải truyền. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

Phần 4

4.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là trước khi con có thể tiến lên trên tầng 48, con phải tiêu trừ những phàm linh con đã tạo ra ở dưới tầng này.

Ôi Đại thượng sư, con muốn tăng trưởng,
Con cảm uy lực của dòng sông lớn.
Ôi Đại thượng sư, tấm màn rơi xuống,
Do chí sáng tạo từ cõi thiên đường.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là ngoài các phàm linh của riêng con, có một phàm linh khác mà con cần tiêu trừ, đó là phàm linh cảm thấy bị đe đọa, do đó có nhu cầu phóng chiếu vào tâm người khác và muốn thay đổi người khác thay vì thay đổi chính mình.

Ôi Đại thượng sư, trí tuệ chảy xuống,
Đánh thức mọi người khỏi giấc ngủ quên.  
Ôi Đại thượng sư, quân bình khởi xướng,
Hồi chuông thể nhập lại được gióng lên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là trước khi con tới tầng 96, con leo con đường tu như một sinh thể cá biệt. Con cần hoàn toàn chú tâm vào việc thay đổi chính mình và không tìm cách thay đổi bất kỳ ai khác.

Ôi Đại thượng sư, tiếng gọi tình thương,
Đập tan ngục tối sập bốn vách tường.
Ôi Đại thượng sư, cởi hết xích xiềng,
Sự sống thênh thang trong vô điều kiện.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con ngưng quan tâm tới cái giằm trong mắt người anh em, vì con đang tập trung mọi sự chú ý vào cái đà trong chính mắt mình.

Ôi Đại thượng sư, ý con trong suốt,
Con nay chắc chắn sự sống là một. 
Ôi Đại thượng sư, con luôn tỉnh thức,
Bỏ lại tất cả để theo Duy nhất.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là dưới tầng 48, con bắt đầu tạo ra những phàm linh hung hãn có mục đích điều khiển tâm người khác. Con biện minh là con làm vì một đại nghĩa cao cả chớ không phải vì lý do ích kỷ.

Ôi Đại thượng sư, giúp loài người nhìn,
Xuyên qua tấm màn ảo ảnh lung linh.
Ôi Đại thượng sư, trong mắt thuần đơn,
Con biết con là cái Ta rộng lớn.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Đại thượng sư, con muốn lên tới tầng tâm thức 96, con muốn theo con đường tu tâm linh chân chính, con muốn hội đủ điều kiện để đạt khai ngộ dưới sự hướng dẫn của bảy vị Thượng sư và con sẵn sàng ngưng không chú tâm vào việc thay đổi người khác hay thay đổi thế giới!

Ôi Đại thượng sư, con đã bình an,
Nhờ Maitreya dạy con hiền lành.
Ôi Đại thượng sư, tuyệt mọi chinh chiến,
Khắp nơi tràn ngập hòa bình thiêng liêng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Đại thượng sư, con sẽ rút mọi chú tâm muốn thay đổi bất cứ gì bên ngoài con. Con sẽ tập trung hết sự chú ý vào việc thay đổi trạng thái tâm thức của chính mình, tiêu trừ những phàm linh mà con đã tạo ra và thể hiện những bài học tích cực của bảy tia sáng, ngõ hầu xây dựng cái ta cá biệt.

Ôi Đại thượng sư, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Đại thượng sư, giải thoát sự sống,
Để nó thăng vượt mãi mãi không ngừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là bước kế tiếp trên con đường tu cá nhân của con là con tập trung vào các khai ngộ của bảy vị Thượng sư. Con sẽ không đánh lừa mình mà cho rằng con không cần được bảy vị Thượng sư khai ngộ.

Ôi Đại thượng sư, ngọn Lửa thần thánh,
Vẻ đẹp rực rỡ mà thày mang tên.
Ôi Đại thượng sư, khi dòng xối đến,
Cuộc đời ở dưới nhập với cõi trên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Đại thượng sư, con sẽ đủ khiêm nhường, thực tiễn và trung thực để bắt đầu ở mức khởi đầu, bắt đầu với vị Thượng sư của Tia thứ Nhất, và dần dần học lên cao hơn, như vậy con không nhảy bước và bỏ sót bất cứ phàm linh nào còn lởn vởn trong tiềm thức của mình.

Ôi Đại thượng sư, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Phần 5

5.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là nếu con phớt lờ hay phủ nhận sự hiện hữu của những tà linh đen tối, thì chúng vẫn phóng năng lượng vào tiềm thức của con. Bất kể phàm linh nào ở đó sẽ tiếp tục tăng trưởng trong những nơi ẩn náu được duy trì vì con không chịu nhìn vào chính mình.

Ôi Saint Germain, nghệ thuật luyện kim, 
Giải phóng con ngay với ngọn lửa tím.
Ôi Saint Germain, con tăng liên tục
Dòng chảy tự do không sao khuất phục. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

5.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con không chịu nhìn vào tâm thức của mình, tiềm thức của mình, thì đó là cách chắc chắn nhất để nuôi dưỡng những phàm linh trong đó.

Ôi Saint Germain, điều khiển tài tình
Hình dạng kỷ hà của ngọn lửa tím.
Ôi Saint Germain, ở thày con tìm
Thấy được công thức giải thoát chúng sinh. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

5.3. Đại thượng sư, cho nên nơi đây, con quyết định ngưng cố ý phớt lờ và con soi rọi ánh sáng của Hiện diện TA LÀ, ánh sáng của bảy tia sáng vào những hang động trong tiềm thức, xối rửa những phàm linh này ra ánh sáng để con nhìn thấy chúng. Và sau đó, với sự hướng dẫn của bảy vị Thượng sư, con sẽ tiêu trừ từng phàm linh một.

Ôi Saint Germain, Tự do bao la,
Chính là tình thương giải thoát tất cả.
Ôi Saint Germain, chúng con yêu quá
Lửa tím cứ giục con càng hơn xa. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

5.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con không cần phải sợ chuyện này, vì con sẽ không phải đối đầu với tất cả phàm linh cùng một lượt, và con sẽ không phải đối đầu với bất cứ phàm linh nào cho tới khi con sẵn sàng tiêu trừ nó. Và con cũng không phải đối đầu nó một mình.

Ôi Saint Germain, chúng con nối kết,
Từ bỏ nhị nguyên, thăng lên siêu việt.
Ôi Saint Germain, cái ta tinh khiết,
Khoa học lửa tím vững tay cầm trịch.

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

5.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con sẽ không phải đối đầu các phàm linh một mình. Con sẽ có vị Thượng sư ở bên con. Con cũng sẽ có vị Đại thiên thần và Elohim của tia sáng đó bên con. Con sẽ có mọi sự hướng dẫn, mọi dụng cụ và kiến thức cần thiết để nhìn thấu suốt các phàm linh và tiêu diệt chúng từng con một.

Ôi Saint Germain, sự thật rõ ràng, 
Trong ánh sáng tím, chẳng gì băn khoăn.
Ôi Saint Germain, niêm kỹ hào quang,
Luân xa con được lửa thày hàn gắn. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

5.6. Đại thượng sư, con nhìn nhận có một phàm linh khiến con hướng sự chú tâm của mình ra bên ngoài.

Ôi Saint Germain, là thuật biến hóa,
Lửa tím giải phóng nguyên tử thăng hoa.
Ôi Saint Germain, biến chì thành vàng,
Biến cả viễn kiến mà chúng con mang. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

5.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là cái đi xuống từ thiên đàng là cái Ta Biết, là trạng thái nhận biết thuần khiết. Cái mà con đã tạo ra sau đó là cái ngã tách biệt, là một ý niệm bản sắc tách biệt gồm nhiều phàm linh đơn lẻ.

Ôi Saint Germain, nghệ thuật vượt thăng,
Với thày con sẽ hợp nhất vĩnh hằng.
Ôi Saint Germain, thoát khỏi tâm hồn,
Ôi niềm vui sướng biết thày trong con.

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

5.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là các vị Thượng sư không có trách vụ nâng cao các phàm linh đó. Các thày sẽ không giúp con nâng cao cái ngã tách biệt. Con nhận ra rằng mục tiêu thật của con đường tu là nâng cao cái ta chân chính.

Ôi Saint Germain, tinh thần cao thượng,
Là chìa khoá cho hóa học tâm linh.
Ôi Saint Germain, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

5.9. Đại thượng sư, con nhìn nhận sự kiện là con ở đây để nâng mình lên tới tầng 96. Do đó, con ngưng không chú tâm vào việc thay đổi bất cứ ai và bất cứ điều gì ở bên ngoài con.

Ôi Saint Germain, thày đang Hiện diện, 
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tự do Thượng đế chúng con rải truyền. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

Phần 6

6.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con nhìn thế giới và chính con xuyên qua phin lọc của một phàm linh tách biệt, thì con nghĩ rằng con có thể khiến thế giới tuân theo con.

Ôi Đại thượng sư, con muốn tăng trưởng,
Con cảm uy lực của dòng sông lớn.
Ôi Đại thượng sư, tấm màn rơi xuống,
Do chí sáng tạo từ cõi thiên đường.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con tìm cách thay đổi thế giới hay người khác, thì con đang tìm cách khiến thế giới hay người khác công nhận giá trị của cái ngã tách biệt của con, phàm linh tách biệt của con.

Ôi Đại thượng sư, trí tuệ chảy xuống,
Đánh thức mọi người khỏi giấc ngủ quên.  
Ôi Đại thượng sư, quân bình khởi xướng,
Hồi chuông thể nhập lại được gióng lên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là cái ngã tách biệt và tự ngã nghĩ rằng nếu toàn thể thế giới công nhận sự toàn hảo của phàm linh của con, thì Thượng đế sẽ phải cho phép nó vào Thiên đàng. Đây là ảo tưởng chủ yếu trên con đường tu.

Ôi Đại thượng sư, tiếng gọi tình thương,
Đập tan ngục tối sập bốn vách tường.
Ôi Đại thượng sư, cởi hết xích xiềng,
Sự sống thênh thang trong vô điều kiện.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con quá đồng hóa với phàm linh tách biệt và bị nó làm mù quáng, thì con nghĩ rằng phàm linh này có thể lừa Thượng đế.

Ôi Đại thượng sư, ý con trong suốt,
Con nay chắc chắn sự sống là một. 
Ôi Đại thượng sư, con luôn tỉnh thức,
Bỏ lại tất cả để theo Duy nhất.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con nghĩ rằng con có thể khiến Thượng đế và các chân sư thăng thiên, trong đó có các vị Thượng sư, nhìn đời xuyên qua phin lọc nhận thức của phàm linh, nhưng chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra.

Ôi Đại thượng sư, giúp loài người nhìn,
Xuyên qua tấm màn ảo ảnh lung linh.
Ôi Đại thượng sư, trong mắt thuần đơn,
Con biết con là cái Ta rộng lớn.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là thày sẽ không bao giờ công nhận phin lọc nhận thức của con là sự thật. Và thày cũng sẽ không bao giờ cho phép phàm linh tách biệt được vào các cõi cao của các trường bí giáo và các khóa nhập thất ở cõi bản sắc của thày.

Ôi Đại thượng sư, con đã bình an,
Nhờ Maitreya dạy con hiền lành.
Ôi Đại thượng sư, tuyệt mọi chinh chiến,
Khắp nơi tràn ngập hòa bình thiêng liêng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là thày không ở đây để nâng cao phàm linh tách biệt. Thày không ở đây để nâng cao cái ngã không thật của con.

Ôi Đại thượng sư, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Đại thượng sư, giải thoát sự sống,
Để nó thăng vượt mãi mãi không ngừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là thày ở đây để nâng cao cái ta thật của con. Đây là công việc của thày. Đây là tình thương của thày. Thày có một tình thương vô tận và vô điều kiện cho cái ta thật của con.

Ôi Đại thượng sư, ngọn Lửa thần thánh,
Vẻ đẹp rực rỡ mà thày mang tên.
Ôi Đại thượng sư, khi dòng xối đến,
Cuộc đời ở dưới nhập với cõi trên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là thày cũng có tình thương vô tận và vô điều kiện cho cái ngã không thật của con, và đó là lý do vì sao thày nhìn thấu tất cả những ảo tưởng của nó. Do đó, thày sẽ không cho phép các phàm linh tách biệt đem điều kiện của chúng vào cõi tâm linh, cõi của vô điều kiện và vô tận.

Ôi Đại thượng sư, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu phơi bày tâm thức chết (7 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Peace và Aloha, Đại thiên thần Uriel và Aurora, Nada và Đại thượng sư yêu dấu, hãy giúp con nhận ra các khía cạnh của tâm thức chết đang ngăn trở con trên đường tu. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Đại thượng sư và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tâm thức chết đã ảnh hưởng con bằng nhiều cách, có khi hiển nhiên, có khi không hiển nhiên.

Ôi Elohim Peace, trong Ngọn lửa Kết hợp,
Nhị nguyên không còn chỗ để bày trò cuộc chơi, 
Con biết mọi hình tướng tuôn ra từ một cội,
Con lấy uy lực đó định ra hướng đi mới. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.2. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tâm thức chết không phải là một lực thụ động. Nó là một lực hung hãn, nhưng nó có khả năng ngụy trang, cho nên hầu hết mọi người không nhận ra là họ bị nó tấn công.

Ôi Elohim Peace, hồi chuông đã vang rền,
Khiến từng hạt nguyên tử ca hát và rung lên.
Con nay bỏ lại hết ý niệm ngã riêng biệt
Khi con vượt biển cả của luân hồi trùng điệp. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.3. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là trên hành tinh này, tâm thức chết ảnh hưởng tất cả mọi thứ, cho nên rất khó tìm được một điều gì không bị nó ảnh hưởng.

Ôi Elohim Peace, thày hãy giúp con ngộ
Rằng Giê-su giáng thế để ban con Ngọn lửa,
Rải cho ai sẵn lòng rũ hết chuyện ganh đua,
Nhập sự sống bất tận mà theo chân Ki-tô. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.4. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là hậu quả sâu sắc và vi tế nhất của tâm thức chết là con không còn một khung tham chiếu nào cho con biết là có một cái gì bên ngoài tâm thức chết.

Ôi Elohim Peace, qua mắt thày con biết
Rằng chỉ trong cái Một con mới mong giải thoát,
Và cũng thấy được rằng chẳng vật gì tách biệt,
Khi cái ngã phàm phu con buông bỏ đoạn tuyệt. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.5. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là một chức năng chủ yếu của tâm linh là cho con một trải nghiệm trực tiếp về Thánh linh (Holy Spirit) từ trong nội tâm, trải nghiệm tâm thức của sự sống.

Ôi Elohim Peace, thày chỉ con lối đi,
Ngừng đấu đá nhị nguyên, con thông sạch tâm trí,
Thày đâm xuyên ảo giác thời gian lẫn không gian,
Đem Hồng ân Bất tận tiêu hủy mọi phân ly. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.6. Đại Thượng sư, xin thày giúp con trải nghiệm có cái gì ở ngoài tâm thức chết, nhờ đó con có một khung tham chiếu để chuyển đổi tâm thức của mình.

Ôi Elohim Peace, tên thày sao đẹp quá,
Nỗi nhị nguyên tủi hổ trong con thày giải tỏa,
Trút gánh nặng sợ hãi, địa cầu được tự do,
Và chào đón thái bình hiển hiện khắp đây đó. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con
thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.7. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nâng cao tâm thức và vứt bỏ một số ảo tưởng của tâm thức chết, cho tới khi con có kinh nghiệm thoát khỏi trạng thái tâm thức bình thường của mình và trải nghiệm cái gì hơn nữa.

Ôi Elohim Peace, với Ki-tô bên cạnh,
Không thế lực nhị nguyên nào có thể lẩn tránh,
Chính qua sự rung động của Ngọn lửa Hoàng kim
Mà ảo ảnh sự chết được Ki-tô nhận chìm. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.8. Đại Thượng sư, xin thày giúp con trải nghiệm là thày hơn tâm thức chết, và vì thày không ở trong tâm thức chết, nên thày không bị bó buộc phải tuân theo nó.

Ôi Elohim Peace, thày đem vào thế giới
Lửa Tái sinh Vũ trụ mà chẳng ai ngăn nổi,
Chúng con từ bỏ hẳn mọi ý niệm “cái tôi”,
Để Ánh sáng của thày trong chúng con chiếu rọi. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.9. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra liệu con có những kỳ vọng mà con phóng chiếu lên thày và bảy Thượng sư. Xin thày giúp con phá tan các kỳ vọng của con bằng cách không làm theo chúng, thách đố chúng, và cố ý vượt lên trên chúng.

Ôi Elohim Peace, hòa bình con cảm được,
Mọi ký ức chiến tranh thày đã khuây khỏa hết,
Bao thế lực xung khắc, địa cầu đã thăng vượt,
Và phục hồi hành tinh trở về với thanh khiết. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

Phần 2 

2.1. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con không thể tự mình thoát khỏi tâm thức chết một khi con đã bị chìm đắm trong nó. Tâm con đã trở thành một hệ thống đóng, vì tác dụng tối hậu của tâm thức chết là nó là một hệ thống đóng. Nó bị cắt đứt khỏi năng lực ban sự sống của Dòng sông sự Sống, của Thánh linh.

Đại thiên thần Uriel, với uy lực dũng mãnh,
Các thiên thần hòa bình nuốt trọn hết chiến tranh. 
Bọn quỷ dữ hung hăng không thể nào địch nổi
Ánh sáng đang thiêu chúng, lửa rực lên sáng ngời.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

2.2. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tâm thức chết bao gồm vô số phàm linh giả, vô số phàm linh tách biệt, và chúng không thể nhìn thấy Thánh linh.

Đại thiên thần Uriel, âm thanh vang cùng thấu,
Khi hàng triệu thiên thần góp giọng ca hợp tấu, 
Tiếng hát nâng cường độ chọc thủng qua đêm thâu,
Và mọi người bỗng thấy sự duy nhất nhiệm màu.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

2.3. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là nếu chúng thấy và nhìn nhận Thánh linh, thì ngay tức khắc chúng sẽ không còn tồn tại như phàm linh tách biệt. Con không thể cùng một lúc vừa tách biệt vừa hợp nhất được.

Đại thiên thần Uriel, từ trên Ngai Cao ngất,
Hàng triệu cái kèn đồng vang lên Âm Duy nhất, 
Tan hết mọi bất hòa trong ca khúc hài hòa,
Là âm của mọi âm, đời giải thoát mở ra.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

2.4. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là nếu con muốn một cái gì hơn cái con hiện có, thì con không thể tiếp tục ở trong trạng thái tâm thức hiện tại của mình. Con không thể tiếp tục thoải mái nếu con muốn tăng triển tâm linh.

Đại thiên thần Uriel, mọi chiến tranh chấm dứt,
Khi thày đem thông điệp từ trái tim Duy nhất, 
Hòa bình trong tim người trổi lên thành hợp xướng
Cứ thế lớn thêm mãi trong vòng xoáy yêu thương.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

2.5. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tâm thức chết có thể khiến con người thoải mái đến độ họ tin chắc rằng nếu họ tiếp tục làm những gì họ đang làm ngay lúc này, thì Thượng đế sẽ phải đưa họ lên thiên đàng.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình thày vô biên,
Giải vây hành tinh khỏi mọi sinh thể hiếu chiến, 
Chiến tranh là nhà tù mà con đã vượt ngục,
Ôm chầm lấy bình an của đoàn kết chân thực.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

2.6. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tâm thức chết cũng có thể khiến con người vô cùng bất an. Tâm thức chết phải trở nên càng ngày càng cực đoan cho tới khi nó khiến con người càng ngày càng cảm thấy bất an.

Đại thiên thần Uriel, con thỉnh cầu thiết tha,
Thày lộ ra Duy nhất sẽ kết hợp tất cả, 
Giúp con thấy viễn ảnh của hòa bình không xa,
Khi tranh chấp xung đột, chúng con đã buông xả.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

2.7. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là nếu con muốn thay đổi, con có thể thử kiểm soát thế giới chung quanh con, nhưng con đã làm chuyện này rồi và con chỉ bị kẹt cứng như hiện nay, khiến con cảm thấy con chẳng đi đâu được hết và cuộc đời của con là một sự vật lộn không ngừng.

Đại thiên thần Uriel, sự sống thày phụng sự,
Giải vây con thoát khỏi đấu tranh và phân hóa,
Việc quên đi tự ngã đích thực là chìa khóa
Để sống cuộc đời mình cho thật sự thuận hòa.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

2.8. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là có phương cách khác với vật lộn. Thay vì tìm cách thay đổi một người hay một chuyện bên ngoài con, con có thể nhìn vào tấm gương và lấy cái đà trong mắt mình và thay đổi tâm thức của mình.

Đại thiên thần Uriel, địa cầu nâng tâm thức,
Khỏi mây mù nhị nguyên chỉ đem đến tiêu diệt,
Lửa Hòa bình của thày, con thỉnh cầu tha thiết,
Ra lệnh cho tranh cãi nhỏ mọn phải dứt tuyệt.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

2.9. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con không thể thay đổi tâm thức của mình mà vẫn thoải mái và tiếp tục tin những gì con đang tin ngay lúc này.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình là chuyện thường
Khi địa cầu hưởng ứng một viễn kiến cao hơn,
Hòa bình ở bên trong, người mở tâm rộng lớn,
Thì Thời đại Hoàng kim sẽ là phần giải thưởng.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

Phần 3

3.1. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là đường tu giả là con đường vỏ ngoài theo đó con làm một số chuyện vỏ ngoài và học giáo lý vỏ ngoài nhưng không nhìn vào chính con. Đây vẫn là tâm thức chết.

Chân sư Nada, cái đẹp quyền năng,
Nở ra như một đóa hoa tuyệt trần.
Chân sư Nada, ôi sao thâm trầm, 
Ý chí chinh phục được cả thời gian. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng. 

3.2. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con đang nhìn mọi chuyện xuyên qua một phin lọc nhận thức và phin lọc nhận thức này bị ảnh hưởng bởi tâm thức chết.

Chân sư Nada, thày là cội nguồn
Minh triết chảy ra như dòng nước cuốn.
Chân sư Nada, tâm thày cường tráng, 
Dâng lên theo cánh bài ca thường hằng. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng. 

3.3. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là cách duy nhất để con tăng triển vượt qua mức tâm thức hiện tại của mình là con sẵn sàng để cho một vị thày tâm linh chất vấn phin lọc nhận thức đó. Vị thày này không ở trong hộp tư duy của con và cũng không ở trong tâm thức chết.

Chân sư Nada, hương thơm tuyệt hảo,
Tình thương của thày từ cõi thiên thai.
Chân sư Nada, hiền dịu từ ái, 
Nương cánh tình yêu con vươn lên hoài. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng. 

3.4. Đại Thượng sư, con muốn thày là khung tham chiếu của con, để con có thể chất vấn một cách có hệ thống những kỳ vọng của con, sự thoải mái của con và tâm thức chết. Con sẵn sàng chịu đựng chuyện này.

Chân sư Nada, ánh sáng Mẹ đây,
Như diều phơi phới, tim con bay nhảy.
Chân sư Nada, trong mắt của thày,
Sự sống trinh bạch như hạt sương mai. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng. 

3.5. Đại Thượng sư, con sẽ ngừng không đi tìm cây gậy thần và bắt đầu nhìn vào chính mình. Con sẵn sàng để cho các vị thày thật trong số các chân sư thăng thiên hiện ra trong đời con. Con muốn nghe tiếng thày, cảm nhận thày, cảm nhận sự hiện diện của thày, cảm nhận sự rung động của thày.

Chân sư Nada, thày đem chân lý,
Như chim buổi sáng hát bản tình ca.
Chân sư Nada, bốn thể phàm ngã, 
Tình yêu của thày hàn gắn được cả. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng. 

3.6. Đại Thượng sư, xin thày giúp con cảm nhận sự rung động của một vị chân sư thăng thiên, để con đạt được một khung tham chiếu là Hạt Ngọc trai Quý giá, là cơ hội vươn lên cao hơn và hòa điệu tâm thức của mình với rung động của thày. Con muốn vươn lên trên tâm thức chết.

Chân sư Nada, yên tâm phục vụ,
Bao nhiêu tình cảm giải hóa sạch rồi.
Chân sư Nada, cuộc đời hứng thú, 
Và đám rối dương* sáng như mặt trời.
(*: solar plexus) 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng. 

3.7. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con đã tiếp cận tâm thức chết vì nó là một lực rất hung hãn trên hành tinh này.

Chân sư Nada, tình yêu tự do,
Không còn điều kiện, không còn so đo.
Chân sư Nada, vươn lên buông bỏ
Sắc thái phàm phu tình yêu thấp nhỏ.

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng. 

3.8. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là những người ở dưới tầng tâm thức 48 có khuynh hướng tách mình ra khỏi người khác. Họ tự đặt mình vào một thành phần riêng biệt, đặc biệt hơn và cao cấp hơn người khác.

Chân sư Nada, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Nada, vươn lên rọi sáng, 
Vẻ đẹp thần thánh ôi sao huy hoàng. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng. 

3.9. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là ở các tầng thấp của tâm thức chết, con người nghĩ rằng họ hơn người khác vì một đặc tính thế gian nào đó.

Chân sư Nada, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Hoà bình Thượng đế chúng con rải truyền. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng. 

Phần 4 

4.1. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là trong Dòng sông sự Sống, con còn không có thì giờ để xem xét người này giỏi hơn người kia vì chuyện này hoàn toàn vô nghĩa. Con luôn luôn chú tâm thăng vượt chính mình và giúp mọi sự sống khác tự thăng vượt.

Ôi Đại thượng sư, con muốn tăng trưởng,
Con cảm uy lực của dòng sông lớn.
Ôi Đại thượng sư, tấm màn rơi xuống,
Do chí sáng tạo từ cõi thiên đường.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là trong Dòng sông sự Sống không có sự so sánh. Làm sao có sự so sánh khi con biết mọi người đều là một và tất cả là biểu hiện của cái Một?

Ôi Đại thượng sư, trí tuệ chảy xuống,
Đánh thức mọi người khỏi giấc ngủ quên.  
Ôi Đại thượng sư, quân bình khởi xướng,
Hồi chuông thể nhập lại được gióng lên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con rơi vào tâm thức nghĩ mình hơn người khác, thì tự động con sẽ phải trả một cái giá, như với mọi thành phần khác của tâm thức chết.

Ôi Đại thượng sư, tiếng gọi tình thương,
Đập tan ngục tối sập bốn vách tường.
Ôi Đại thượng sư, cởi hết xích xiềng,
Sự sống thênh thang trong vô điều kiện.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con đi vào tâm thức chết, thì con phải trả một cái giá. Cái giá mà con phải trả là sẽ luôn luôn có điều gì đó mà con phải bù đắp.

Ôi Đại thượng sư, ý con trong suốt,
Con nay chắc chắn sự sống là một. 
Ôi Đại thượng sư, con luôn tỉnh thức,
Bỏ lại tất cả để theo Duy nhất.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là cái Ta Biết xuất phát từ bản thể của đấng Sáng tạo. Nó biết nó xuất phát từ cái Một, và do đó nếu nó muốn đi vào tách biệt, thì nó phải biện minh và giải thích mọi chuyện. Đây là cái giá mà con phải trả.

Ôi Đại thượng sư, giúp loài người nhìn,
Xuyên qua tấm màn ảo ảnh lung linh.
Ôi Đại thượng sư, trong mắt thuần đơn,
Con biết con là cái Ta rộng lớn.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con lúc nào cũng phải duy trì sự biện minh này. Khi con đi vào tâm thức muốn mình hơn người khác, thì ngay lập tức con sẽ cảm thấy bị đe dọa bởi những người khác mình, những người có vẻ hơn mình, xét theo một thước đo nào đó mà con đã thiết lập.

Ôi Đại thượng sư, con đã bình an,
Nhờ Maitreya dạy con hiền lành.
Ôi Đại thượng sư, tuyệt mọi chinh chiến,
Khắp nơi tràn ngập hòa bình thiêng liêng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là trong tâm thức chết, con luôn luôn cảm thấy bị đe dọa, và để tránh mối đe đọa này, con phải khóa chặt vào lực hung hãn luôn luôn tìm cách phóng chiếu ra ngoài, tìm cách kiểm soát người khác và kềm giữ họ lại.

Ôi Đại thượng sư, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Đại thượng sư, giải thoát sự sống,
Để nó thăng vượt mãi mãi không ngừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra liệu con có còn sót lại một tàn dư của khía cạnh thấp hơn của tâm thức chết, đó là mong muốn chứng minh người khác sai, muốn chứng minh một số ý kiến sai, muốn thấy người khác bị hạ nhục, vạch trần, hạ bệ hay bị phán xét.

Ôi Đại thượng sư, ngọn Lửa thần thánh,
Vẻ đẹp rực rỡ mà thày mang tên.
Ôi Đại thượng sư, khi dòng xối đến,
Cuộc đời ở dưới nhập với cõi trên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhìn lại đời mình và nhận ra là ngoài những lực vật lý trực tiếp, con đã tiếp cận một lực hung hãn vi tế hơn, đã phóng chiếu lên thể tình cảm của con. Nó tìm cách khuấy động và kích động con rơi vào những cảm xúc thấp dựa trên sợ hãi chứ không dựa trên tình thương.

Ôi Đại thượng sư, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Phần 5

5.1. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là có một phóng chiếu liên tục lên thể lý trí của con, khiến con rơi vào những suy nghĩ tạo thành các vòng khép kín khiến tâm con chạy loanh quanh.

Chân sư Nada, cái đẹp quyền năng,
Nở ra như một đóa hoa tuyệt trần.
Chân sư Nada, ôi sao thâm trầm, 
Ý chí chinh phục được cả thời gian. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng. 

5.2. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra phàm linh đang phóng chiếu là sự thay đổi cần phải xảy ra ở ngoài kia, những người kia là người cần thay đổi, ngõ hầu mục tiêu cao cả của con được hoàn thành.

Chân sư Nada, thày là cội nguồn
Minh triết chảy ra như dòng nước cuốn.
Chân sư Nada, tâm thày cường tráng, 
Dâng lên theo cánh bài ca thường hằng. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng. 

5.3. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con đã tiếp cận lực này trong nhiều kiếp rồi. Nó đã đập vào các luân xa của con, đập vào tiềm thức của con, nó đập con cho tới khi con chịu tùng phục và nói: “Thôi được rồi, tôi chịu đầu hàng để tôi có được chút yên ổn cho phần còn lại của kiếp sống này.”

Chân sư Nada, hương thơm tuyệt hảo,
Tình thương của thày từ cõi thiên thai.
Chân sư Nada, hiền dịu từ ái, 
Nương cánh tình yêu con vươn lên hoài. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng. 

5.4. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là ngay cả các vị đã thăng thiên cũng đã từng tùng phục lực này. Xin thày giúp con nhận ra là thày hiểu được là lực này hung hãn như thế nào và thày không phê phán hay lên án con.

Chân sư Nada, ánh sáng Mẹ đây,
Như diều phơi phới, tim con bay nhảy.
Chân sư Nada, trong mắt của thày,
Sự sống trinh bạch như hạt sương mai. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng. 

5.5. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi thày giúp con thấy là con đã bị tâm thức chết ảnh hưởng, thì có nguy cơ là con phủ nhận điều này. Và điều này sẽ cản trở sự tiến bộ của con.

Chân sư Nada, thày đem chân lý,
Như chim buổi sáng hát bản tình ca.
Chân sư Nada, bốn thể phàm ngã, 
Tình yêu của thày hàn gắn được cả. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng. 

5.6. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra liệu con có quá sốt sắng thấy những khuyết điểm của mình để rồi tự lên án mình và cảm thấy tội lỗi. Điều này cũng sẽ cản trở sự tiến bộ của con.

Chân sư Nada, yên tâm phục vụ,
Bao nhiêu tình cảm giải hóa sạch rồi.
Chân sư Nada, cuộc đời hứng thú, 
Và đám rối dương sáng như mặt trời. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng. 

5.7. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tâm thức chết tìm cách tạo ra thế kẹt cứng khiến thày không thể nâng con lên được.

Chân sư Nada, tình yêu tự do,
Không còn điều kiện, không còn so đo.
Chân sư Nada, vươn lên buông bỏ
Sắc thái phàm phu tình yêu thấp nhỏ.

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng. 

5.8. Đại Thượng sư, xin thày giúp con thấy là khi thày giúp con nhận ra tâm thức chết, thì tâm thức chết sẽ dùng điều đó để kềm con lại trên con đường tu, để hạ thấp con xuống, hay dụ dỗ con phủ nhận, để rồi con không thực sự vượt lên trên tâm thức chết được.

Chân sư Nada, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Nada, vươn lên rọi sáng, 
Vẻ đẹp thần thánh ôi sao huy hoàng. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng. 

5.9. Đại Thượng sư, con sẽ nhìn nhận một cách công khai và có ý thức là có tâm thức chết. Con sẽ không phủ nhận nó hay cảm thấy tội lỗi vì điều đó sẽ cản trở sự tiến bộ của con.

Chân sư Nada, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Hoà bình Thượng đế chúng con rải truyền. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.
Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng. 

Phần 6 

6.1. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là cả hai thái độ phủ nhận lẫn cảm thấy tội lỗi đều là biểu hiện của tâm thức chết. Con không thể vượt qua tâm thức chết bằng cách dùng tâm thức chết.

Ôi Đại thượng sư, con muốn tăng trưởng,
Con cảm uy lực của dòng sông lớn.
Ôi Đại thượng sư, tấm màn rơi xuống,
Do chí sáng tạo từ cõi thiên đường.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.2. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con không tệ hơn bất cứ ai khác đã từng đầu thai trên hành tinh này. Không có cách chi đầu thai trên hành tinh này mà không tùng phục hay thỏa hiệp với tâm thức chết một cách nào đó.

Ôi Đại thượng sư, trí tuệ chảy xuống,
Đánh thức mọi người khỏi giấc ngủ quên.  
Ôi Đại thượng sư, quân bình khởi xướng,
Hồi chuông thể nhập lại được gióng lên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.3. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là chưa từng có ai đầu thai ở đây mà không bị ảnh hưởng bởi tâm thức chết. Ngay cả Giê-su, Phật hay Krishna đều đã có những tiền kiếp tùng phục tâm thức chết.

Ôi Đại thượng sư, tiếng gọi tình thương,
Đập tan ngục tối sập bốn vách tường.
Ôi Đại thượng sư, cởi hết xích xiềng,
Sự sống thênh thang trong vô điều kiện.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.4. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con không thể nào đầu thai ở đây mà không tùng phục tâm thức chết một cách nào đó, vì nếu không thì dòng sống của con, cái Ta Biết của con, không thể nhập vào một thân thể vật lý trên một hành tinh như trái đất này.

Ôi Đại thượng sư, ý con trong suốt,
Con nay chắc chắn sự sống là một. 
Ôi Đại thượng sư, con luôn tỉnh thức,
Bỏ lại tất cả để theo Duy nhất.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.5. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con đã vào tâm thức chết. Con chấp nhận sự kiện con đã tùng phục tâm thức chết, và mọi người đều đã làm như thế, nhưng bây giờ đã đến lúc con quay lại.

Ôi Đại thượng sư, giúp loài người nhìn,
Xuyên qua tấm màn ảo ảnh lung linh.
Ôi Đại thượng sư, trong mắt thuần đơn,
Con biết con là cái Ta rộng lớn.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.6. Đại Thượng sư, bảy vị Thượng sư, xin các thày hãy chỉ đường cho con. Con sẵn sàng vươn lên trên tâm thức chết. Con nhận ra rằng ngay bây giờ con không thấy được con đã bị tâm thức chết ảnh hưởng như thế nào. Con muốn thày dạy con. Con muốn thày chỉ cho con thấy. Con muốn lên cao hơn.

Ôi Đại thượng sư, con đã bình an,
Nhờ Maitreya dạy con hiền lành.
Ôi Đại thượng sư, tuyệt mọi chinh chiến,
Khắp nơi tràn ngập hòa bình thiêng liêng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.7. Đại Thượng sư, con sẵn sàng nhìn vào chính mình và nhìn vào những kỳ vọng, những hình tư tưởng và phin lọc nhận thức của mình. Và con sẵn sàng để thày chất vấn chúng. Có thể là con chưa đủ sức để thày chất vấn chúng cùng một lúc, nhưng con sẵn sàng để thày chất vấn từng mảnh một, để con có thể dần dần lên cao hơn trong khi con vẫn giữ được sự liên tục của ý niệm mình là ai.

Ôi Đại thượng sư, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Đại thượng sư, giải thoát sự sống,
Để nó thăng vượt mãi mãi không ngừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.8. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con đang trải nghiệm bài giảng của thày xuyên qua phin lọc nhận thức mà con đang có ngay bây giờ. Xin thày giúp con nhận ra những khó khăn mà con phải đương đầu.

Ôi Đại thượng sư, ngọn Lửa thần thánh,
Vẻ đẹp rực rỡ mà thày mang tên.
Ôi Đại thượng sư, khi dòng xối đến,
Cuộc đời ở dưới nhập với cõi trên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.9. Đại Thượng sư, xin thày giúp con vừa đi trên con đường tâm linh vừa gia nhập cuộc sống trên hành tinh này, để con có thể chứng minh đặc tính tâm linh của Thời đại Hoàng kim của Saint Germain.

Ôi Đại thượng sư, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Phần 7

7.1. Đại Thượng sư, con sẵn sàng tách ra khỏi tâm thức chết. Con sẽ trải qua một giai đoạn con phải tách mình ra khỏi những người đang ở trong tâm thức đại chúng.

Ôi Đại thượng sư, con muốn tăng trưởng,
Con cảm uy lực của dòng sông lớn.
Ôi Đại thượng sư, tấm màn rơi xuống,
Do chí sáng tạo từ cõi thiên đường.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

7.2. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con cần tách riêng ra để có thể lên cao hơn. Nhưng mục đích tối hậu không phải là con tiếp tục tách mình riêng ra hoài.

Ôi Đại thượng sư, trí tuệ chảy xuống,
Đánh thức mọi người khỏi giấc ngủ quên.  
Ôi Đại thượng sư, quân bình khởi xướng,
Hồi chuông thể nhập lại được gióng lên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

7.3. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con sẽ tới một điểm khi con đã tách mình đủ ra khỏi tâm thức chết và không còn bị nó kéo xuống hay làm mù quáng.

Ôi Đại thượng sư, tiếng gọi tình thương,
Đập tan ngục tối sập bốn vách tường.
Ôi Đại thượng sư, cởi hết xích xiềng,
Sự sống thênh thang trong vô điều kiện.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

7.4. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra đó là lúc con cần bước ra ngoài và đi vào xã hội, tích cực tham gia vào xã hội và thể hiện tâm thức sống.

Ôi Đại thượng sư, ý con trong suốt,
Con nay chắc chắn sự sống là một. 
Ôi Đại thượng sư, con luôn tỉnh thức,
Bỏ lại tất cả để theo Duy nhất.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

7.5. Đại Thượng sư, xin thày giúp con sống một đời sống tích cực và vẫn biểu lộ được tâm linh của mình. Xin thày giúp con tự giải thoát thêm khỏi tâm thức chết để con có thể biểu lộ tâm linh của mình rõ hơn nữa.

Ôi Đại thượng sư, giúp loài người nhìn,
Xuyên qua tấm màn ảo ảnh lung linh.
Ôi Đại thượng sư, trong mắt thuần đơn,
Con biết con là cái Ta rộng lớn.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

7.6. Đại Thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tự ngã của con sẽ cảm thấy nó đang bị xé banh ra, đang bị phá vỡ ra từng mảnh. Bởi vì tự ngã tin rằng nó biết tất cả và nó nắm tất cả trong tầm kiểm soát của nó dựa trên hệ thống niềm tin này hay hệ thống niềm tin nọ. Cho nên thày cần phá vỡ nó từng phần một, bởi vì con không thể chế ngự toàn thể nó cùng một lúc.

Ôi Đại thượng sư, con đã bình an,
Nhờ Maitreya dạy con hiền lành.
Ôi Đại thượng sư, tuyệt mọi chinh chiến,
Khắp nơi tràn ngập hòa bình thiêng liêng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

7.7. Đại Thượng sư, xin thày giúp con chú tâm vào cái gì con có thể chế ngự hôm nay và không quan tâm đến phần còn lại. Vì thày sẽ dẫn con đi từng bước một, theo các nấc thang vòng xoắn của con đường tâm linh cho cá nhân con.

Ôi Đại thượng sư, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Đại thượng sư, giải thoát sự sống,
Để nó thăng vượt mãi mãi không ngừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

7.8. Đại Thượng sư, xin thày giúp con bắt đầu suy ngẫm về việc con đã tiếp cận tâm thức chết là một lực hung hãn tấn công những cảm xúc và tư tưởng của con, tạo ra những vòng xoáy đi xuống, hút năng lượng tâm lý của con vào những khuôn nếp tưởng chừng không thoát ra được.

Ôi Đại thượng sư, ngọn Lửa thần thánh,
Vẻ đẹp rực rỡ mà thày mang tên.
Ôi Đại thượng sư, khi dòng xối đến,
Cuộc đời ở dưới nhập với cõi trên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

7.9. Đại Thượng sư, xin thày giúp con bắt đầu nhận ra một số các khuôn nếp này. Xin thày đặc biệt giúp con nhận ra mong muốn tách mình ra khỏi người khác và mong muốn cảm thấy mình hơn người bằng cách thấy người khác bị chứng minh là sai. Xin thày giúp con ý thức hơn về khía cạnh này của tâm thức chết.

Ôi Đại thượng sư, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu tự do khỏi tâm thức chết (6 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Cyclopea và Virginia, Đại thiên thần Raphael và Mẹ Mary, Hilarion và Đại thượng sư yêu dấu, hãy giúp con nhận ra là tâm thức chết đã ảnh hưởng con như thế nào. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Đại thượng sư và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tâm thức chết muốn con phản ứng lại nó, tương tác với nó và thậm chí là đánh nhau với nó.

Cyclopea yêu dấu, thày phơi ra sự thực, 
Rằng phiền não nhị nguyên rồi sẽ được hàn gắn, 
Ánh sáng màu Lục bảo của thày như thần dược, 
Chữa lành cảm thể con cho bình an mỹ mãn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là Thánh linh, là Tánh linh của sự Sống, không muốn con đánh nhau với tâm thức chết, không muốn con chống đối nó, không muốn con tiêu diệt bất cứ ai, bất cứ vật gì hay coi rẻ bất cứ một phần nào của sự sống. Thánh linh muốn con tuôn chảy với Tánh linh, vì Tánh linh chính sự sống.

Cyclopea yêu dấu, con cùng thày tháo gỡ 
Những vòng xoáy tiêu cực đang phủ tâm mây mờ, 
Con biết mình cốt lõi là cái biết thuần sơ,
Là chìa khóa để thành cánh cửa luôn rộng mở.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là nỗ lực gộp chung của tất cả các sinh thể tự nhận biết đã thăng vượt chính họ và trở nên hơn nữa, đã tạo thành dòng chảy hướng thượng của Thánh linh. Đó chính là Dòng sông sự Sống kéo mọi thứ theo nó.

Cyclopea yêu dấu, thanh lọc mắt bên trong, 
Uy lực đó giúp con xuyên thủng đêm trong hồn,
Nay con nhìn cuộc sống với con mắt thuần đơn,
Vượt lên trên bệnh tật con sẽ bay cao hơn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là Dòng sông sự Sống là một dòng chảy liên tục, lúc nào cũng tuôn chảy. Không có gì trong Dòng sông sự Sống đứng yên. Bởi vì trong Dòng sông sự Sống, sự chuyển động luôn thăng vượt chính nó.

Cyclopea yêu dấu, cuộc sống chỉ phản ánh 
Những hình tướng mà tâm cứ phóng ra địa cầu, 
Giữ tâm mình trong sáng là bí quyết chữa lành, 
Không còn một tâm ảnh để ngã trốn đằng sau. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là trong Dòng sông sự Sống con thăng vượt, con tăng triển, con gia tốc, con nhân gấp bội năng khiếu của mình và con trở nên hơn nữa. Và đây là tinh túy của tâm thức sống, tâm thức của sự sống, Dòng sông sự Sống.

Cyclopea yêu dấu, chúng con nhắm thật cao, 
Ngày càng xích lại gần với ngọn lửa hàn gắn,
Xuyên tấm màn nhị nguyên bây giờ con cất cánh, 
Và tắm trong Ánh sáng thâm sâu màu Lục bảo. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là có cái biết đằng sau tâm thức chết là cuộc sống là một tiến trình liên tục không ngừng. Sâu thẳm trong bản thể của con, con biết ý nghĩa của sự sống là Dòng sông sự Sống không ngừng thăng vượt chính nó.

Cyclopea yêu dấu, Lửa Lục bảo phanh phui 
Từng trò chơi quyền lực tinh vi của nhị đối, 
Kể cả âm mưu cũ là trò chơi gian dối, 
Cứ định nghĩa chân lý theo một cách mà thôi. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra đó là một cái biết nội tại đến từ sự kiện cái Ta Biết là một nối dài của Hiện diện TA LÀ, là một nối dài của các chân sư thăng thiên, đi ngược trở lên tới tận đấng Sáng tạo.

Cyclopea yêu dấu, dòng chảy con cảm được, 
Của Chân lý Hằng sống mà thày ban liên tục, 
Con nay đã giải thoát khỏi cái nhìn đối cực, 
Và khuôn đúc hành tinh lại trinh nguyên như trước. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra mục đích cao nhất của sự có mặt của con là gia tốc sự tự nhận biết của mình và tuôn chảy với Dòng sông sự Sống. Con không thể trốn tránh cái biết nội tâm là cuộc sống được tạo ra như một tiến trình liên tục.

Cyclopea yêu dấu, sự thật con đã thấy, 
Rõ mục đích cao hơn tại sao con ở đây, 
Con biết chân lý vượt mọi hệ thống dưới này, 
Con bơi trong ánh sáng và tăng trưởng gấp mấy. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tâm thức chết không thể nào hoàn toàn vứt bỏ cái biết nội tâm này. Nó có thể che phủ nó, nó có thể ngụy trang nó, nó có thể lệch hướng nó. Nhưng nó không thể hoàn toàn dập tắt tiếng nói của cái biết nội tâm là cuộc sống được tạo ra như một tiến trình liên tục không ngừng.

Cyclopea yêu dấu, con thấy thày hân hoan, 
Khi viễn kiến sáng tạo con đem ra thực hành, 
Để nhấc địa cầu lên khỏi lồng giam của rắn, 
Và thị hiện Hoàng kim của thày Saint Germain. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

Phần 2

2.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tâm thức chết thể khiến con tạo ra sự chờ đợi là tiến trình này phải như thế nào, bước kế tiếp phải đi tới chỗ nào, và đi tới mục đích tối hậu nào.

Đại thiên thần Raphael, thày sáng rỡ làm sao, 
Thày nâng con lên khỏi tuồng sân khấu cuộc đời. 
Mẹ Mary và thày, viễn quan sao táo bạo, 
Muốn con đạt tiềm năng cao nhất có thể với. 

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

2.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tâm thức chết chỉ làm được điều này vì nó chính là sự kháng cự chống lại cái liên tục không ngừng của Dòng sông sự Sống. Khi con kháng cự cái liên tục không ngừng thì con tạo ra một khoảng cách giữa điểm con đang ở và điểm mà con ở nếu con theo Dòng sông sự Sống.

Đại thiên thần Raphael, trong quả cầu lục bảo, 
Niệm tinh khôi con giữ cho mãi mãi thanh cao, 
Mẹ Mary bao bọc chúng con trong Tim Thánh, 
Không bao giờ xa cách trong tình Mẹ chân thành.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

2.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là trong khoảng cách đó, có chỗ trống để con tạo nên sự chờ đợi là sự sống phải như thế nào và phải đi về đâu.

Đại thiên thần Raphael, mọi đau ốm trị lành, 
Từng tế bào trong thân niêm lại trong ánh sáng, 
Chợt thấy niệm tinh khôi của đức Mẹ Mary, 
Con sống hiện thực mới là sức khỏe thần kỳ.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

2.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là sự chờ đợi này khiến con tách rời khỏi sự sống. Con nghĩ về nó, con trải nghiệm sự sống xuyên qua phin lọc của tâm, xuyên qua các sinh hoạt, chờ đợi và hình tư tưởng của tâm.

Đại thiên thần Raphael, ánh sáng vô cùng thực, 
Lộ ra cho con thấy Ki-tô trong thần thức, 
Mẹ Mary đang giúp để con thăng liên tục, 
Cùng thày con thăng lên trong ánh sáng bảo lục.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

2.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con tuôn chảy với Dòng sông sự Sống, trong kinh nghiệm sống của con không có chỗ để con đút vào những chờ mong, sợ hãi, lo lắng và phê phán muốn chuyện này phải xảy ra và chuyện kia không được xảy ra.

Đại thiên thần Raphael, tiêu tan hết bệnh tật, 
Khi thày giúp con ngộ sự sống là Duy nhất, 
Con không còn chối bỏ tình yêu thày chân chất, 
Và niệm tinh khôi ấy, con phóng ra mọi vật.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

2.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là có một sự khác biệt tinh tế giữa việc nghĩ về chuyện tương lai và việc đánh giá mọi sự dựa trên một thang giá trị về điều gì phải xảy ra hay không được xảy ra, về điều gì đúng hay không đúng, về điều gì tốt hay xấu.

Đại thiên thần Raphael, con hàn gắn địa cầu,
Cho trái đất hồi sinh khi con tỏa tinh khôi, 
Một ngày mới đã đến, một kỷ nguyên bắt đầu, 
Và ánh sắc lục bảo sáng như thể mặt trời.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

2.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là một khía cạnh của tâm thức chết là khuynh hướng cho rằng con phải phán xét, phân tích và đánh giá tất cả mọi chuyện đang xảy ra chung quanh mình, như người khác đang làm gì và nói gì và chuyện gì đang xảy ra trên thế giới.

Đại thiên thần Raphael, sa ngã là quá khứ,
Khi mọi người tìm thấy đường Ki-tô thoát tử, 
Nay ta giục ai nấy mau chữa lành đi chứ, 
Khi cả bốn thể phàm được niêm trong tình tự.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

2.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là có sự khác biệt tinh tế giữa nhận biết mà không phán xét và trạng thái lúc nào cũng phán xét, chỉ trích, đánh giá điều này tốt điều kia xấu.

Đại thiên thần Raphael, thày đem ánh bình minh,
Khiến thế lực bóng tối phải vội vàng lẩn tránh, 
Chúng kết liễu cuộc đời, ta đòi lại hành tinh, 
Và trên môi ai nấy nở nụ hoa thanh bình.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

2.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tự ngã thích cảm giác nó không thể nào xấu như các người xấu nếu nó không làm những gì người xấu đang làm. Nhưng đây không phải là Dòng sông sự Sống bởi vì lúc đó con bị dính mắc vào những đánh giá đúng sai và mong chờ.

Đại thiên thần Raphael, ta giải phóng viễn kiến,
Khi ta thấy thực tại của Thượng đế thiêng liêng, 
Viễn tượng Saint Germain giờ đây đã thị hiện, 
Và trái đất niêm lại trong quả cầu trinh nguyên.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

Phần 3

3.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tâm thức chết muốn con lúc nào cũng đang phê phán chính mình và hành vi của mình, dáng vẻ mình ra sao, mặc quần áo trông thế nào.

Hilarion, trên bờ lục bảo, 
Chúng con bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả 
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tâm thức chết đã dựng lên một tiêu chuẩn thế gian cho rằng làm người thì phải như thế nào. Con đã bị lập trình để sống theo bất kỳ tiêu chuẩn nào đã được nền văn hóa của con quy định.

Hilarion, chìa khóa bí mật, 
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con đã tới chỗ nghĩ rằng muốn trở thành một người tốt thì con phải đạt được tiêu chuẩn đó.

Hilarion, tình yêu sự sống, 
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con tìm ra con đường tâm linh, con lại đem lối suy nghĩ đó áp dụng lên giáo lý của các thày. Con nghĩ rằng cách con tuân thủ giáo lý là con phải trở nên một người tâm linh tốt sống theo một tiêu chuẩn nào đó.

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng, 
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền, 
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con có một tiêu chuẩn mà con đã đem vào tâm của con, và con dùng cái trí vỏ ngoài để đánh giá liên tục mọi hành động của mình: “Điều này có đúng không? Tôi sống vậy có được không? Tôi có thực sự là người tâm linh nếu tôi làm điều này chăng? Nếu tôi nói điều này, mọi người có sẽ phê phán tôi là người không tâm linh chăng?”

Hilarion, thương yêu đón chào, 
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là trong tâm con có một khoảng cách nơi đó có một quan tòa đang phán xử mọi hành động, lời nói và ngay cả suy nghĩ và cảm xúc của con.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là quan tòa đang phê phán các ý tưởng và cảm xúc sâu kín nhất của con không phải là ác quỷ, Thượng đế hay các chân sư thăng thiên. Nó là cái gì trong tâm của chính con.

Hilarion, thông sạch luân xa, 
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà, 
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra nhu cầu gia tốc mình để vượt lên trên tâm thức chết. Con nói với thày, với các Thượng sư: “Xin thày chỉ đường cho con! Con sẵn sàng đi theo con đường mà các thày đã đi và đã chứng minh. Con sẵn sàng đi theo con Đường của Bảy bức Màn, con Đường của Bảy Tia sáng.”

Hilarion, thày sẽ quân bình 
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

3.9. Đại thượng sư, con nói: “Xin thày hãy chỉ cho con đường đi, con sẽ đặt một bàn chân trước bàn chân kia và làm theo mỗi lời hướng dẫn mà con nhận được, dù rằng con không thấy nó sẽ dẫn con tới đâu, dù rằng nó không hoàn toàn tương ứng với mong đợi của con. Vì con bắt đầu nhận ra rằng mong đợi của con rất hạn hẹp.”

Hilarion, thày đang Hiện diện, 
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế chúng con rải truyền. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

Phần 4

4.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là nền văn hóa của con, cách con nhìn cuộc đời bị hạn chế và ảnh hưởng bởi tâm thức chết một cách vi tế. Con bắt đầu nhận ra là tâm thức của con bị ảnh hưởng bởi tâm thức chết và con muốn thoát khỏi ảnh hưởng này.

Ôi Đại thượng sư, con muốn tăng trưởng,
Con cảm uy lực của dòng sông lớn.
Ôi Đại thượng sư, tấm màn rơi xuống,
Do chí sáng tạo từ cõi thiên đường.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con chỉ thoát được nếu con có một khung tham chiếu từ các sinh thể đã gia tốc chính họ vượt lên trên tâm thức chết. Đó là lý do tại sao con sẵn sàng đi theo các thày, các Thượng sư. Xin thày chỉ cho con bước kế tiếp, và con sẽ đi bước kế tiếp đó.

Ôi Đại thượng sư, trí tuệ chảy xuống,
Đánh thức mọi người khỏi giấc ngủ quên.  
Ôi Đại thượng sư, quân bình khởi xướng,
Hồi chuông thể nhập lại được gióng lên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là trong vũ trụ này có những sinh thể đã quyết định dùng những giới hạn của tâm thức chết để nô lệ hóa và kiểm soát tất cả những sinh thể có tự nhận biết khác. Những kẻ lừa đảo thuộc chưởng giáo đoàn giả này sẽ dùng tâm thức chết với tất cả sự tinh vi của nó để trói buộc con.

Ôi Đại thượng sư, tiếng gọi tình thương,
Đập tan ngục tối sập bốn vách tường.
Ôi Đại thượng sư, cởi hết xích xiềng,
Sự sống thênh thang trong vô điều kiện.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là các thày giả sẽ chỉ cho con một con đường tu giả khiến con chờ đợi là nếu con đi theo con đường tu ấy, thì một ngày kia như một phép lạ con sẽ bỗng nhiên chuyển hóa thành một sinh thể hoàn hảo.

Ôi Đại thượng sư, ý con trong suốt,
Con nay chắc chắn sự sống là một. 
Ôi Đại thượng sư, con luôn tỉnh thức,
Bỏ lại tất cả để theo Duy nhất.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là trong khoảng cách đó, các thày giả có thể xây dựng đủ loại tôn giáo giả và giáo lý tâm linh giả. Họ rất giỏi tạo ra kỳ vọng là họ sẽ đưa con tới đích.

Ôi Đại thượng sư, giúp loài người nhìn,
Xuyên qua tấm màn ảo ảnh lung linh.
Ôi Đại thượng sư, trong mắt thuần đơn,
Con biết con là cái Ta rộng lớn.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là các thày giả sẽ không bao giờ đưa con tới đích. Bởi vì cái được tạo ra trong khoảng cách giữa con và Dòng sông sự Sống không thể giúp con thăng vượt khoảng cách đó và trở về Dòng sông sự Sống.

Ôi Đại thượng sư, con đã bình an,
Nhờ Maitreya dạy con hiền lành.
Ôi Đại thượng sư, tuyệt mọi chinh chiến,
Khắp nơi tràn ngập hòa bình thiêng liêng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là các thày giả đã tạo ra cảm tưởng có cái gì sai trái trong vũ trụ và đó là lý do tại sao con tách biệt khỏi Dòng sông sự Sống. Họ tạo ra cảm tưởng là có cái gì sai trái bên ngoài con và đó là lý do tại sao con bị tách biệt khỏi Dòng sông sự Sống.

Ôi Đại thượng sư, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Đại thượng sư, giải thoát sự sống,
Để nó thăng vượt mãi mãi không ngừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là các thày giả tìm cách làm lệch hướng sự khao khát của con. Họ khiến con tin rằng có cái gì sai trái ở bên ngoài con. Có một vấn đề nào đó trong thế giới này cần phải giải quyết.

Ôi Đại thượng sư, ngọn Lửa thần thánh,
Vẻ đẹp rực rỡ mà thày mang tên.
Ôi Đại thượng sư, khi dòng xối đến,
Cuộc đời ở dưới nhập với cõi trên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là các thày giả tìm cách kéo con gia nhập nỗ lực giải quyết vấn đề đó bằng cách thay đổi người khác, hoặc họ tìm cách thu hút con vào ý nghĩ con chỉ cần đi theo con đường tu nào đó, chỉ cần thực tập một lối nào đó, tiếp tục đi theo vị thày vỏ ngoài nào đó, thì sẽ có một ngày con tự động đạt được mục đích.

Ôi Đại thượng sư, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Phần 5

5.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là họ hứa hẹn với con là sẽ có một ngày con lấp được khoảng cách nhờ một phép kỳ diệu nào đó xảy ra ở bên ngoài con. Vấn đề trong vũ trụ là con đã tạo ra một khoảng cách giữa tâm thức con đang hiện có và trạng thái mà con muốn là, nếu con tuôn chảy theo Dòng sông sự Sống.

Hilarion, trên bờ lục bảo, 
Chúng con bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả 
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là vấn đề đối với riêng con là con muốn lấp đầy khoảng trống và khoảng trống chỉ hiện hữu ở trong tâm con mà thôi. Bởi vì con không hề tách biệt khỏi Dòng sông sự Sống, con chỉ nghĩ là con đang tách biệt.

Hilarion, chìa khóa bí mật, 
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con chỉ tự tách biệt trong tâm của mình mà thôi. Và do đó, nơi duy nhất mà con có thể lấp đầy khoảng trống là nơi mà con đã tạo ra khoảng trống: đó là trong tâm của con.

Hilarion, tình yêu sự sống 
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là không có câu đố nào con cần giải đáp và sau đó mọi vấn đề sẽ biến mất. Vấn đề duy nhất mà cá nhân con cần giải quyết là lấp khoảng trống để con có thể tuôn chảy với Dòng sông sự Sống.

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng, 
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền, 
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra đây là mục đích thật của con, đây chính là điều con khao khát. Con khao khát tuôn chảy với Dòng sông sự Sống, thay vì đứng bên ngoài nó và nhìn nó chảy qua bên cạnh mình.

Hilarion, thương yêu đón chào, 
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con bắt đầu tiến trình phá tan những hình tư tưởng và mong đợi đã tạo nên khoảng cách và cho con cảm tưởng là con tách biệt khỏi Dòng sông sự Sống.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt .

5.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là bước đầu tiên con cần làm là ngưng không chú ý tới việc thay đổi cái gì xảy ra bên ngoài con, và thay vào đó chú ý tới chuyện gì đang xảy ra bên trong con.

Hilarion, thông sạch luân xa, 
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà, 
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt .

5.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là cho dù con sống đúng theo tiêu chuẩn thế gian của chính con một cách tuyệt đối toàn hảo, con vẫn không ở trong Dòng sông sự Sống. Con vẫn tách ra khỏi Dòng sông sự Sống vì chính tiêu chuẩn đã tách con ra.

Hilarion, thày sẽ quân bình 
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt .

5.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con có phin lọc nhận thức của riêng mình, qua đó con nhìn cuộc đời và qua đó con phán xét và đánh giá mọi thứ kể cả chính mình.

Hilarion, thày đang Hiện diện, 
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế chúng con rải truyền. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt .

Phần 6

6.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con có quyền tạo ra phin lọc này, vì nó cho con một kinh nghiệm Sống độc đáo. Nhưng phin lọc nhận thức tách con ra khỏi Dòng sông sự Sống và con đã chán ngán kinh nghiệm này rồi. Con sẵn sàng trở về con Đường của Hợp nhất.

Ôi Đại thượng sư, con muốn tăng trưởng,
Con cảm uy lực của dòng sông lớn.
Ôi Đại thượng sư, tấm màn rơi xuống,
Do chí sáng tạo từ cõi thiên đường.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con lắng nghe những gì thày nói và ngưng phê phán những gì thày nói dựa trên một tiêu chuẩn đang ngăn cản không cho con làm theo những điều thày nói.

Ôi Đại thượng sư, trí tuệ chảy xuống,
Đánh thức mọi người khỏi giấc ngủ quên.  
Ôi Đại thượng sư, quân bình khởi xướng,
Hồi chuông thể nhập lại được gióng lên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là hoàn toàn không có ích lợi gì nếu con đến với một vị thày tâm linh, nhưng lại muốn áp đặt tiêu chuẩn của con lên vị thày và giáo lý của thày.

Ôi Đại thượng sư, tiếng gọi tình thương,
Đập tan ngục tối sập bốn vách tường.
Ôi Đại thượng sư, cởi hết xích xiềng,
Sự sống thênh thang trong vô điều kiện.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là mục đích có một vị thày tâm linh chân chính là để giúp con thăng vượt tiêu chuẩn của mình. Làm sao vị thày làm được điều này nếu con áp đặt tiêu chuẩn của mình lên vị thày, và như thế con không nghe được lời giảng của thày, mà chỉ nghe một phiên bản được lọc lựa cho phù hợp với tiêu chuẩn của con?

Ôi Đại thượng sư, ý con trong suốt,
Con nay chắc chắn sự sống là một. 
Ôi Đại thượng sư, con luôn tỉnh thức,
Bỏ lại tất cả để theo Duy nhất.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.5. Đại thượng sư, con nhận ra là điều này hoàn toàn vô lý bởi vì con là một đệ tử tâm linh chân chính muốn tiến lên trên con đường tu.

Ôi Đại thượng sư, giúp loài người nhìn,
Xuyên qua tấm màn ảo ảnh lung linh.
Ôi Đại thượng sư, trong mắt thuần đơn,
Con biết con là cái Ta rộng lớn.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.6. Đại thượng sư, con không muốn tìm tâm linh như một trò tiêu khiển giải trí. Con không muốn dùng tâm linh để giúp con có cảm giác thoải mái.

Ôi Đại thượng sư, con đã bình an,
Nhờ Maitreya dạy con hiền lành.
Ôi Đại thượng sư, tuyệt mọi chinh chiến,
Khắp nơi tràn ngập hòa bình thiêng liêng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.7. Đại thượng sư, con sẵn sàng thăng vượt tâm thức của con, thăng vượt chính con để lấp khoảng trống và trở về với Dòng sông sự Sống.

Ôi Đại thượng sư, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Đại thượng sư, giải thoát sự sống,
Để nó thăng vượt mãi mãi không ngừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là thày không có một tiêu chuẩn theo đó thày đánh giá con, vì thày cho phép con có được kinh nghiệm mà con mong muốn.

Ôi Đại thượng sư, ngọn Lửa thần thánh,
Vẻ đẹp rực rỡ mà thày mang tên.
Ôi Đại thượng sư, khi dòng xối đến,
Cuộc đời ở dưới nhập với cõi trên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.9. Đại thượng sư, con mong thày đón con trở về, vì con quyết định là con sẵn sàng và con muốn HƠN NỮA, con muốn một kinh nghiệm sống sâu sắc và phong phú hơn những gì con đang có với tiêu chuẩn hiện tại của con.

Ôi Đại thượng sư, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu nhận biết cao hơn về trái đất (6 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Astrea và Purity, Đại thiên thần Gabriel cùng Hope, Serapis Bey và Đại thượng sư yêu dấu, hãy giúp con gia tăng sự nhận biết hành tinh nơi con sống thuộc loại nào. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Đại thượng sư và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con tiến lên tầng tâm thức kế tiếp, con tạo ra một phàm linh. Sau đó con cho phép phàm linh này tái sinh thành phàm linh cao hơn và điều này cho phép con tiến lên tầng tâm thức kế tiếp.

Astrea yêu dấu, tim của thày thực chân,
Vòng tròn và Gươm báu của thày xanh và trắng,
Chém phăng dây buộc trói của bi kịch vô minh,
Để hành tinh dâng mãi trên đôi cánh Thanh tịnh.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

1.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là trong kịch bản lý tưởng, con không cần cho phàm linh cũ chết đi, hiểu theo nghĩa chết của trái đất.

Astrea yêu dấu, trong Thanh tịnh Thượng đế,
Xin gia tốc năng lượng cho đời con tràn trề,
Chúng con vượt lên trên từng ô uế bợn nhơ,
Để Ánh sáng Thanh tịnh hoài hoài trong con tỏ.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

1.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là chúng con có khuynh hướng nhìn cái chết như một cái gì kết thúc vĩnh viễn cuộc sống, phá vỡ nó, ngưng nó lại. Con đã coi cái chết như một cái gì do một lực bên ngoài áp đặt lên con.

Astrea yêu dấu, từ Tia sáng Thuần khiết,
Mọi sự sống hôm nay, thày giải thoát thấu triệt.
Khi thanh tịnh gia tốc thì con là tự do,
Khỏi luyến ái ô trọc, con thăng lên buông bỏ.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

1.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là trong kịch bản lý tưởng, con không cần trải qua tiến trình cho phép phàm linh cũ chết đi. Thay vào đó, con cho phép mình tái sinh vào một ý niệm bản ngã cao hơn.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc chúng con,
Thày ra tay giải cứu, con thành khẩn cầu mong,
Vượt quan điểm ô trọc, tất cả sẽ thênh thang,
Bỏ nghi ngờ sợ hãi, con nhất định vượt thăng.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

1.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là từ tầng tâm thức 48 tới tầng 96, con cho phép một phàm linh thăng vượt thành phàm linh kế tiếp.

Astrea yêu dấu, con sẵn sàng nhìn rõ
Vào mọi lời gian dối khiến con mất tự do.
Nay con đã buông bỏ mọi lọc lừa sa ngã,
Và mãi mãi khẳng định duy nhất của Tất Cả.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

1.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tiến trình đó không đưa tới một sự ngưng lại đột ngột, giống như khi con liên tưởng tới cái chết ngày nay. Con chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn tới và con dễ dàng thấy được là có sự liên tục giữa phàm linh ở tầng tâm thức này và phàm linh ở tầng kế tiếp.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc sự sống,
Vượt lên trên nhị nguyên, hiềm khích và tấn công,
Xóa hết mọi ranh giới giữa Thượng đế và người,
Ý toàn hảo của Ngài, mau hoàn tất xinh tươi.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

1.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là điều này giúp con thấy được là con đang xây dựng một phàm linh liên tục thay vì đi từ phàm linh này sang phàm linh kế tiếp.

Astrea yêu dấu, con trìu mến thỉnh gọi,
Cho cái vách vô hình của ngăn cách đổ rơi,
Nâng cao tâm chúng con vào hợp nhất chân thực
Với Chân sư yêu dấu của tình thương Vô cực.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

1.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con tới tầng 96, con phải trải qua một sự thay đổi đột ngột. Ở tầng này con phải “hy sinh mạng sống mình cho một người bạn” như Giê-su đã nói.

Astrea yêu dấu, thày giúp con khám phá
Bí ẩn rằng chúng con vốn sáng tạo bằng tâm,
Nếu trong tâm ngu dốt đã sai lầm tạo ra,
Thì trong tâm minh triết con tạo lại dễ quá.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

1.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con phải có tình thương lớn hơn khiến con muốn hy sinh phàm linh mà con đã tạo ra trong 48 tầng tâm thức đầu tiên. Vì phàm linh này không thể đưa con quá tầng 96, vì nó là một phàm linh chú tâm vào việc nâng cao chính nó như là một linh thể cá biệt.

Astrea yêu dấu, con vô cùng khao khát,
Học hỏi cách sử dụng ngọn lửa của thanh tịnh,
Để nâng từng hình tướng lỡ gieo trong lầm lạc,
Khác gì Saint Germain tạo lại cả hành tinh.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

Phần 2

2.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là nếu con muốn đi xa hơn tầng 96, con cần bắt đầu tạo ra một phàm linh mới có mục đích lớn hơn là chỉ nâng cao cá nhân mình, mà có mục đích nâng cao tổng thể.

Đại thiên thần Gabriel, ánh sáng con kính mến,
Chẳng còn gì sợ hãi, trầm mình trong Hiện diện,
Làm đệ tử Ki-tô nay con đã thật quên
Tự ngã với tham vọng đáp trả miếng từng miếng.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn.

2.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là trong kịch bản lý tưởng, sự thay đổi này đột ngột hơn những gì con trải nghiệm trước đó, nhưng vẫn không giống những gì con hình dung về cái chết hiện nay. Đây không phải là một sự mất mát đối với cái Ta Biết.

Đại thiên thần Gabriel, con không sợ ánh sáng,
Trong lửa trắng thanh tẩy, sao con thấy rộn ràng,
Tay con trong tay thày, mỗi thử thách trực diện
Là ân huệ không ngớt để con cứ theo lên.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn.

2.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con ý thức sự kiện là con sẽ không chết khi phàm linh chết vì con hơn phàm linh. Phàm linh không phải là con. Con đã không tạo ra một cái “ta”, con cũng đã không tái tạo mình thành phàm linh.

Đại thiên thần Gabriel, lửa trắng thày thiêu cháy,
Bước ra khỏi đêm tối, con thăng lên cùng thày.
Chẳng còn một nơi chỗ cho tự ngã trốn chạy,
Con trụ vững trong thày, thăng thiên theo ốc xoáy.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn.

2.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là phàm linh chỉ là một cỗ xe mà con dùng để biểu hiện mình trong thế giới vật chất. Nếu phàm linh này chết đi, con vẫn không chết. Ngay cả sự chấm dứt tâm thức cũng không có. Sẽ không có một thay đổi hay mất mát đột ngột.

Đại thiên thần Gabriel, con nghe thấy tiếng kèn,
Báo hiệu ngày đản sanh của Ki-tô gần đến.
Trong bản thể nhẹ nhõm con đang được tái sinh,
Cùng Ki-tô con bước vào buổi sáng Phục sinh.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn.

2.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con có thể buông bỏ cái cũ một cách suôn sẻ. Con có thể hy sinh mạng sống của mình cho một cứu cánh lớn hơn việc nâng cao cá nhân mình. Con có thể chuyển tiếp qua giai đoạn kế tiếp một cách suôn sẻ.

Đại thiên thần Gabriel, địa cầu nay giải thoát,
Ôm chầm lấy thực tại của bất nhị quang minh.
Đây phán xử Ki-tô đập xuống lực tà ác,
Luôn phủ nhận mỗi người có đốm lửa tâm linh.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn.

2.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con không có kịch bản lý tưởng trên trái đất. Trong kịch bản lý tưởng, con không phải đương đầu với những phàm linh hung hãn.

Đại thiên thần Gabriel, bao thiên sứ trắng ngần
Đang nâng cao địa cầu khỏi vùng đêm u ẩn,
Khi Lời của Thượng đế được ai nấy cùng ngân,
Thì những kẻ sa ngã bị trói bởi kiếm thần.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn.

2.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con rơi vào tâm thức nhị nguyên, thì con bắt đầu thấy mình là một sinh thể tách biệt. Để có thể thấy mình là một sinh thể tách biệt, con phải chối bỏ là con có nối kết với cái gì lớn hơn bản thân mình.

Đại thiên thần Gabriel, nay chúng con gọi thày
Đem ánh sáng hỏa thiêu, khắp trung giới thanh tẩy.
Những tà thể, hồn bóng với ma quỷ trói lại,
Khi thày cùng chúng con ngân Lời Thánh quyền oai.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn.

2.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là vì cái Ta Biết được tạo ra như một nối dài của Hiện diện TA LÀ, con phải cố ý chối bỏ sự nối kết với cái gì lớn hơn bản thân mình. Để làm được điều này, con cần phải biện minh cho sự chối bỏ này.

Đại thiên thần Gabriel, một ngày mới huy hoàng
Khi thiên thần rạng rỡ ở lại với nhân gian,
Ngọn lửa thày thanh tẩy bừng lên ánh lửa trắng,
Ý muốn con tinh sạch, tim con bay ngút ngàn.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn.

2.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con phải tìm ra một cách để biện minh tại sao con rời bỏ con đường đưa tới sự hợp nhất lớn hơn, và thay vào đó quẹo sang con đường đưa tới sự tách biệt càng ngày càng sâu.

Đại thiên thần Gabriel, hành tinh quá trong lành,
Ai ai cũng yên ổn nhìn tương lai sáng lạng,
Bao bọc quanh địa cầu là một dải ánh sáng,
Khai mở thời hoàng kim của thày Saint Germain.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn.

Phần 3

3.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là lúc đó con phải nâng cao cái ngã tách biệt, không phải như một sinh thể nối kết có quyền năng sáng tạo, nhưng là một sinh thể tách biệt với quyền năng lớn mạnh để kiểm soát bằng vũ lực môi trường của mình.

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con đi vào tách biệt và chối bỏ sự nối kết với cái gì lớn hơn chính mình, thì năng lượng dùng để thúc đẩy nỗ lực sáng tạo của con không còn đến từ Hiện diện TA LÀ, như vậy nó phải đến từ một nguồn khác.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con vẫn cần năng lượng để làm bất cứ việc gì, và như vậy có nghĩa là bây giờ con cần lấy năng lượng từ nơi con đang chú tâm, tức là cõi vật chất.

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao, 
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là điều này có nghĩa là con cần lấy năng lượng từ các dòng sống khác vẫn còn nối kết với cội nguồn của họ. Do đó con phải tìm cách dùng vũ lực hay lừa đảo để các dòng sống này cho con năng lượng của họ.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là điều này có nghĩa là bây giờ con tạo ra một loại phàm linh mới chú tâm vào việc lấy năng lượng từ thế giới chung quanh nó, và nó cũng chú tâm khuếch trương nó thành một sinh thể quyền uy trong thế gian.

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là thay vì con tìm cách trở nên hơn cái con đang là, thì nay con có một phàm linh tìm cách trở nên nhiều hơn cái nó đã là rồi – nó muốn có nhiều quyền uy hơn để làm những gì con có thể làm trong cõi vật chất.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất,
Serapis Bey, vạch trần cái ngã
Cứ muốn cướp đi đời sống hài hòa.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là những sinh thể sa ngã vào tâm thức tách biệt đã tạo ra vô số phàm linh dựa trên ảo tưởng tách biệt. Đây là những phàm linh tách biệt tìm cách ảnh hưởng các dòng sống khác một cách hung hãn.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là ý đồ của chúng hoàn toàn nhằm vào việc lấy năng lượng từ người khác một cách hung hãn. Một số làm chuyện này qua vũ lực rõ rệt, một số dùng sợ hãi và một số thì dùng lừa đảo.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

3.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là các phàm linh này đều nhắm tới cùng một mục đích, đó là phóng chiếu khuôn đúc của chúng một cách hung hãn, cái khuôn đúc tư tưởng đã tạo ra chúng, phóng lên các dòng sống khác với mục tiêu kiểm soát họ.

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế chúng con rải truyền.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

Phần 4

4.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là trên trái đất ngày nay con không có kịch bản lý tưởng. Trong kịch bản hiện nay con có những phàm linh giả được tạo ra ở mỗi tầng tâm thức từ 48 lên 96.

Ôi Đại thượng sư, con muốn tăng trưởng,
Con cảm uy lực của dòng sông lớn.
Ôi Đại thượng sư, tấm màn rơi xuống,
Do chí sáng tạo từ cõi thiên đường.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là cứ mỗi bước con tiến lên trên con Đường của Bảy Tia sáng đều có một phàm linh giả. Và phàm linh giả này sẽ hung hãn tìm cách ngăn chặn không cho con bước lên bước kế tiếp trên đường tu. Nó sẽ tìm cách giữ con ở mức hiện thời của con và giữ con ở đó vĩnh viễn.

Ôi Đại thượng sư, trí tuệ chảy xuống,
Đánh thức mọi người khỏi giấc ngủ quên.  
Ôi Đại thượng sư, quân bình khởi xướng,
Hồi chuông thể nhập lại được gióng lên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là có nhiều sinh thể đã đi xuống dưới tầng tâm thức 48, và họ cũng đã tạo ra phàm linh giả ở mỗi tầng từ 48 xuống tới tầng tâm thức thấp nhất.

Ôi Đại thượng sư, tiếng gọi tình thương,
Đập tan ngục tối sập bốn vách tường.
Ôi Đại thượng sư, cởi hết xích xiềng,
Sự sống thênh thang trong vô điều kiện.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là có sự tương tác giữa các phàm linh giả ở trên tầng 48 và các phàm linh hung hãn ở dưới tầng này.

Ôi Đại thượng sư, ý con trong suốt,
Con nay chắc chắn sự sống là một. 
Ôi Đại thượng sư, con luôn tỉnh thức,
Bỏ lại tất cả để theo Duy nhất.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là để có thể đi từ một tầng tâm thức lên tầng kế tiếp, không những con phải đối phó với phàm linh mà con đã tự tạo ra ở tầng hiện tại của con, mà con cũng phải đối phó với phàm linh giả ở tầng này, cộng thêm phàm linh hung hãn ở tầng tương ứng dưới tầng tâm thức 48.

Ôi Đại thượng sư, giúp loài người nhìn,
Xuyên qua tấm màn ảo ảnh lung linh.
Ôi Đại thượng sư, trong mắt thuần đơn,
Con biết con là cái Ta rộng lớn.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là phàm linh giả ở tầng trên 48 của con có mục đích biện minh cho con thấy tại sao con không cần lên cao hơn tầng tâm thức đó. Nhưng phàm linh hung hãn ở dưới tầng 48 thì có mục đích lôi kéo con vào một trận chiến nhị nguyên với một đối thủ nào đó.

Ôi Đại thượng sư, con đã bình an,
Nhờ Maitreya dạy con hiền lành.  
Ôi Đại thượng sư, tuyệt mọi chinh chiến,
Khắp nơi tràn ngập hòa bình thiêng liêng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là phàm linh giả sẽ nói với con: “Bạn không cần tăng triển vượt quá tầng này, đây là tất cả những lý do tại sao bạn không nên tăng triển. Bạn phải ở lại đây và vui hưởng tầng này và mở rộng nhận biết của bạn ở tầng này mà thôi.”

Ôi Đại thượng sư, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Đại thượng sư, giải thoát sự sống,
Để nó thăng vượt mãi mãi không ngừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là phàm linh hung hãn tương ứng thì lại bị giam hãm trong tâm thức nhị nguyên. Nó thấy nó bị một kẻ thù bên ngoài chống lại nó, và do đó nó thấy nó lúc nào cũng đang trong một trận chiến liên tục với kẻ thù này.

Ôi Đại thượng sư, ngọn Lửa thần thánh,
Vẻ đẹp rực rỡ mà thày mang tên.
Ôi Đại thượng sư, khi dòng xối đến,
Cuộc đời ở dưới nhập với cõi trên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là ở các tầng tâm thức thấp nhất, con tìm thấy những phàm linh bị kẹt trong tâm thức cuồng đại (epic mindset), là quan niệm cho rằng có một cuộc chiến giữa các lực tối hậu của thiện và ác.

Ôi Đại thượng sư, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Phần 5

5.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là vẫn có một phàm linh giả chú tâm vào con như một dòng sống cá biệt, nhưng lại có một phàm linh hung hãn khiến con không chú tâm vào mình nữa mà chú tâm vào chuyện đối phó với một đối thủ bên ngoài.

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây. 

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

5.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là sự tăng triển cá nhân của con từ một tầng lên tầng kế tiếp tạo sự dễ dàng cho các dòng sống khác tăng triển vượt quá phàm linh hung hãn và các ảo tưởng đằng sau nó.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

5.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con đã tới điểm trên con đường tu cá nhân của con khi con sẵn sàng không còn bước đi một cách hầu như hoàn toàn vô ý thức nữa mà là bước đi một cách có ý thức và chủ ý.

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao,
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

5.4. Đại thượng sư, con thật sự có sự khiêm nhường và óc thực tế để nhận biết rằng con cần bắt đầu ở mức cơ bản. Con cần bắt đầu với khai ngộ đầu tiên mà một dòng sống mới xuống nhận được ở tầng 48.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

5.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con sẵn sàng đi qua tiến trình học hỏi với mỗi vị trong bảy vị Thượng sư mà không lo lắng mình đang ở tầng nào, thì con sẽ đi qua các bước này một cách ý thức.

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

5.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là điều này sẽ giúp con ý thức nhiều hơn về sự khai ngộ và sự khai ngộ này được neo chặt vào bản thể con. Những gì con đã đạt được trong các kiếp trước được neo chặt vào ba thể cao của con.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất,
Serapis Bey, vạch trần cái ngã
Cứ muốn cướp đi đời sống hài hòa.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

5.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con cần đem những thành tựu mà con đã đạt được trong quá khứ xuống tầng ý thức để con có thể sử dụng chúng một cách ý thức. Và đây là điều con sẽ đạt được khi con đi qua các tầng đó.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

5.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con bắt đầu ở tầng 48 với Tia thứ Nhất, thì con giúp người khác đi qua tiến trình này dễ dàng hơn. Đó là vì con đóng góp vào động lực đi qua con Đường của Bảy Tia sáng và đây là một phần của động lực của Thánh linh cho trái đất.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

5.9. Đại thượng sư, con sẵn sàng giúp người khác hòa điệu với Thánh linh dễ dàng hơn, và như thế giúp họ thăng vượt tầng tâm thức hiện thời của họ, bằng cách hòa điệu với động lực do con và tất cả những sinh thể khác trên trái đất tạo ra khi trải qua các khai ngộ của bảy tia sáng.

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế chúng con rải truyền.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

Phần 6

6.1. Đại thượng sư, con sẵn sàng nhìn vào chính mình và nói: “Cái ta không chịu nổi hoàn cảnh hiện tại nữa là ai? Ai không chịu nổi nữa? Có thể nào có nhiều hơn một cái ta ở đây?”

Ôi Đại thượng sư, con muốn tăng trưởng,
Con cảm uy lực của dòng sông lớn.
Ôi Đại thượng sư, tấm màn rơi xuống,
Do chí sáng tạo từ cõi thiên đường.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là có sự khác biệt giữa cái ta thật của con và cái ta đang kinh nghiệm nó không chịu nổi hoàn cảnh hiện tại. Ở tầng tâm thức hiện tại của con, con đã tạo ra một phàm linh. Phàm linh đó không phải là con vì con vẫn là cái Ta Biết, là nhận biết thuần khiết.

Ôi Đại thượng sư, trí tuệ chảy xuống,
Đánh thức mọi người khỏi giấc ngủ quên.  
Ôi Đại thượng sư, quân bình khởi xướng,
Hồi chuông thể nhập lại được gióng lên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con đã không trở thành phàm linh đó. Con chỉ đang nhìn cuộc đời xuyên qua phin lọc nhận thức của phàm linh đó.

Ôi Đại thượng sư, tiếng gọi tình thương,
Đập tan ngục tối sập bốn vách tường.
Ôi Đại thượng sư, cởi hết xích xiềng,
Sự sống thênh thang trong vô điều kiện.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra không phải là con đang không chịu nổi hoàn cảnh, mà là phàm linh không chịu nổi hoàn cảnh. Tại vì nó đã tự đưa nó vào ngõ bí mà có vẻ không có lối thoát dù rằng nó nhìn đủ mọi hướng.

Ôi Đại thượng sư, ý con trong suốt,
Con nay chắc chắn sự sống là một. 
Ôi Đại thượng sư, con luôn tỉnh thức,
Bỏ lại tất cả để theo Duy nhất.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là nếu con nhìn hoàn cảnh của con qua phin lọc nhận thức của phàm linh, thì con không thể thoát được, thật sự là không có lối thoát. Cách duy nhất thoát ra là con nhận ra rằng: “Con không phải là phàm linh, con Hơn phàm linh.”

Ôi Đại thượng sư, giúp loài người nhìn,
Xuyên qua tấm màn ảo ảnh lung linh.
Ôi Đại thượng sư, trong mắt thuần đơn,
Con biết con là cái Ta rộng lớn.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con có thể tiến lên tầng tâm thức cao hơn, nhưng con chỉ có một cách để làm được điều này: con phải để cho phàm linh hiện tại của con chết đi!

Ôi Đại thượng sư, con đã bình an,
Nhờ Maitreya dạy con hiền lành.  
Ôi Đại thượng sư, tuyệt mọi chinh chiến,
Khắp nơi tràn ngập hòa bình thiêng liêng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là phàm linh hung hãn sẽ trải nghiệm chuyện này như một cái chết, như chúng con hiểu cái chết trên trái đất, nơi mà mọi hệ thống tư tưởng đều bị ảnh hưởng bởi tâm thức chết, tâm thức của tách biệt và nhị nguyên.

Ôi Đại thượng sư, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Đại thượng sư, giải thoát sự sống,
Để nó thăng vượt mãi mãi không ngừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là trong kịch bản không lý tưởng hiện nay, cách duy nhất giúp con tăng triển lên tầng kế tiếp của con đường tu là con phải đối phó với phàm linh tiêu cực và hung hãn tương ứng với tầng hiện tại của con.

Ôi Đại thượng sư, ngọn Lửa thần thánh,
Vẻ đẹp rực rỡ mà thày mang tên.
Ôi Đại thượng sư, khi dòng xối đến,
Cuộc đời ở dưới nhập với cõi trên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

6.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là nếu con muốn giải thoát khỏi lực kéo xuống của phàm linh này, con phải nhìn vào phàm linh của con, con phải thấy nó là phàm linh khác với cái Ta Biết của con, khác với con người thật của con. Con nói với phàm linh này: “Tôi không phải là bạn, tôi không muốn nhìn đời xuyên qua phin lọc mà bạn là. Tôi nhìn nhận là bạn không thật, và tôi sẵn sàng cho bạn chết để tôi được tự do tiến lên tầng cao hơn.”

Ôi Đại thượng sư, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu nhận biết năng lượng (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Heros và Amora, Đại thiên thần Chamuel cùng Charity, Paul người Venice và Đại thượng sư yêu dấu, hãy giúp con nhận ra cách con dùng năng lượng vật lý và phi-vật lý. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Đại thượng sư và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là phàm linh không thể thăng thiên, con phải để cho nó chết đi thì cái Ta Biết mới lên được một mức cao hơn và vượt quá tầng 96.

Heros-Amora, trong tình thương màu hồng,
Con không cần biết đến ai nghĩ gì về con,
Trong hợp nhất với thày, con gọi một ngày mới,
Như trẻ thơ trong trắng, con đùa giỡn vui chơi.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

1.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là nếu con muốn lên được một mức cao hơn, thì con phải cho phép phàm linh mà con đã tạo ra chết đi, nhờ vậy mà con có thể tái sinh, tái sinh từ nước.

Heros-Amora, đời mới đã khởi sự,
Con cười vào mặt quỷ, là đứa luôn nghiêm nghị,
Với rắn bị kẹt cứng trong nhị đối của y,
Nhưng con thì thoát được nhờ Tình thương vô kỷ.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

1.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con tái sinh từ nước, con mang vào một cái ngã mới không hoàn toàn khác biệt cái ngã cũ. Nhưng nó rõ ràng là một cái ngã mới và con có ý thức nó là một cái ngã mới.

Heros-Amora, tỉnh ngộ con phát hiện
Rằng tình thương đích thực không hề có điều kiện,
Con tắm trong Mặt trời màu Hồng Đỏ lộng lẫy,
Biết rằng Thượng đế muốn cuộc đời vui thơ ngây.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

1.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con tới tầng 144, giống như Giê-su đã chứng minh trên thập tự giá, con sẽ bị đóng đinh bởi chính tạo vật của con.

Heros-Amora, cuộc đời thật vui thay,
Tưởng chừng như thế giới là đồ chơi vĩ đại,
Tâm con phóng thế nào thì đời như thế nấy,
Vì tấm gương cuộc sống phản chiếu đúng như vậy.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

1.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là không có ai sẽ tới và cứu con khỏi chính tạo vật của mình và giải thoát con khỏi phàm linh mà con đã tạo ra.

Heros-Amora, đốt hết mọi điều kiện,
Con biết con toàn quyền được lật sang trang mới,
Trầm mình trong dòng chảy của Tình yêu vô biên,
Con biết rằng Tánh linh đã từ Trên xuống đời.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

1.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là chính con là người phải dứt bỏ hồn ma và để cho phàm linh này chết thêm lần nữa, nhờ vậy con được tái sinh từ lửa trong nghi thức của Ngọn lửa Thăng thiên gia tốc bản thể con bằng cách phá tan khuôn đúc của phàm linh đã dẫn con tới điểm đó.

Heros-Amora, rốt cuộc con cảm thấy
Mình đã vượt lên trên vùng dĩ vãng sa lầy.
Trong tình yêu chân thật con tự do phát triển,
Mãi mãi con là một với Dòng Từ vô biên.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

1.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra đây cũng là tiến trình đã xảy ra trong các bầu cõi trước. Các sinh thể có tự nhận biết bắt đầu với một ý niệm tự nhận biết nhỏ như cái chấm và mở rộng nó ra bằng cách tạo ra một phàm linh.

Heros-Amora, điều kiện vốn trói buộc,
Chúng hình thành mạng lưới những lừa dối gian manh,
Nhưng thày giải cứu con nhờ sẵn thuốc giải độc,
Và đem con vượt khỏi mọi điều kiện khởi sanh.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

1.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là phàm linh này không đen tối hay tà ác; nó có thể là một phàm linh đẹp và sáng được tạo ra từ một động lực tích cực.

Heros-Amora, tình yêu không buộc trói,
Nó chỉ muốn vượt qua, giải thoát con ra khỏi,
Nó bay xa mãi mãi vì nó không biên giới,
Nâng cao muôn sự sống vào trời Hồng ngọc tươi.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

1.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là nó vẫn là một phàm linh mà con phải để cho chết đi để cái Ta Biết có thể vươn lên cao hơn, và tiến gần hơn tới sự hợp nhất tối hậu với đấng sáng tạo ra nó, với cội nguồn của nó, là Hiện diện TA LÀ.

Heros-Amora, tình yêu ngập cõi trần,
Đổ đầy tim ai nấy một niềm vui bất tận,
Vì không thể còn chỗ cho tuyệt vọng sợ hãi,
Khi tất cả tỉnh giấc: Tình yêu nổ bùng dậy!

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

Phần 2

2.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tất cả các sinh thể trong tất cả các bầu cõi trước đều đã đi qua cùng tiến trình tạo ra phàm linh từ bảy tia sáng, rồi cho phép nó chết đi, rồi làm việc với các tia sáng cao hơn, cho phép phàm linh này chết đi và tái sinh từ lửa của Ngọn lửa Thăng thiên. Cuối cùng là gia tốc thành những dòng sống bất tử. Tiến trình này là một phần của tiến trình tạo nên Thánh linh.

Đại thiên thần Chamuel, uy lực tia ngọc hồng,
Con biết con đang tắm trận mưa ban sự sống,
Bao ý chí sa đọa đốt sạch bởi tình thương,
Bỗng nhiên bao ham muốn như chìm nghỉm lắng xuống.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là ngay khi con đang tạo ra phàm linh trước khi thăng thiên, thì con đã đóng góp vào sự tăng triển của bầu cõi của con. Lúc đầu con đem xuống ánh sáng của bảy tia sáng và sau đó con đem xuống ánh sáng của các tia sáng cao hơn.

Đại thiên thần Chamuel, ánh sáng dâng cuồn cuộn,
Tia hồng ngọc rực lửa đâm xuyên qua đêm trường,
Mọi thế lực bóng tối bị lửa thày thiêu nướng,
Thiêu sạch cả những ai không chịu bước cao hơn.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con đang đóng góp vào việc xây dựng và nâng cao bầu cõi của con, xây dựng động lực thăng thiên của bầu cõi của con.

Đại thiên thần Chamuel, tình yêu thày bao la,
Cuộc sống nay ý nghĩa do tầm nhìn sáng tỏ,
Khi mục đích cuộc đời con nhận ra quá rõ,
Nhận cả đấng Duy nhất trong tình thương chan hòa.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là cái làm cho tánh linh thiêng liêng, cái đóng góp vào Thánh linh, là khi con thấy một cách có ý thức phàm linh con đã tạo ra và con chọn lựa cho nó chết đi để con được tái sinh.

Đại thiên thần Chamuel, đem bình an bất nhị,
Thậm chí cả cái chết mà cũng chẳng là chi,
Thật sự trong tình thương không thể có phân hủy,
Tình thương là thăng vượt vào ngày mới vô thỉ.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con để phàm linh cũ chết đi, con đã bước gần hơn tới cái duy nhất. Đóng góp cuối cùng của con vào Thánh linh là lúc con cho phép hồn ma cuối cùng chết đi và con gia tốc vào Ngọn lửa Thăng thiên.

Đại thiên thần Chamuel, Lửa Thượng đế ban xuống,
Cho người người khao khát được nếm trọn yêu thương,
Mọi hoàn cảnh trong đời, con biết đều không thực,
Khi tình yêu Thượng đế được chứng trong tâm thức.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là mỗi lần con rút cái Ta Biết ra khỏi một phàm linh, nhìn thấy phàm linh từ bên ngoài và cho phép nó chết một cách ý thức, thì con đóng góp vào động lực hướng thượng qua đó các Đốm sáng Tánh linh tách biệt bước một bước gần hơn tới sự hợp nhất với đấng Sáng tạo.

Đại thiên thần Chamuel, hạt yêu thương thày gieo,
Trong trái tim của người không màng chuyện sở hữu,
Tình nào cố sở hữu sẽ sợ hãi ưu phiền,
Đâm vào tim nhức nhối là ngọn giáo nhị nguyên.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là đấng Sáng tạo quyết định tạo ra những phần nối dài riêng biệt của Bản thể của ngài, gửi chúng xuống với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm, khác xa ý niệm cái Ta toàn khắp, quả cầu, không theo đường thẳng, của đấng Sáng tạo.

Đại thiên thần Chamuel, con sẽ không kiểm soát,
Vì đó là quỷ dữ muốn hồn con giam chặt,
Bẻ gẫy vòng dây xích mà rắn đã cài đặt,
Con tìm lại Thượng đế trong tình yêu giải thoát.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là đấng Sáng tạo biết là các Đốm sáng Tánh linh này có thể bị lạc trong chính những tạo vật của chúng. Chúng có thể tự đồng hóa với tạo vật của chúng và như vậy ở trong đó mãi mãi, nếu không có một cơ chế nào kéo chúng trở về nguồn.

Đại thiên thần Chamuel, thày sao tài tình thật,
Giúp con nhận tình yêu của Thượng đế chân thực,
Con thừa biết tình yêu mà con hằng mong ước,
Không cần phải xứng đáng hay bỏ công tìm được.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là mục đích của sự sáng tạo là để các Đốm sáng Tánh linh đi ra và sau đó trở về nguồn. Không phải là trở về thành hư vô mà trở về Hơn khi chúng đi ra. Và đây là cách khiến sự sáng tạo mở rộng và cách khiến Thượng đế được khuếch đại.

Đại thiên thần Chamuel, để nhận được tình thương,
Con không cần toàn hảo hay giỏi giang phi thường,
Tình thương luôn chảy xiết, không bao giờ im đứng,
Chỉ đòi hỏi con chịu tiến bước lên không ngừng.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

Phần 3

3.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là ý muốn trở nên Hơn nữa, ý muốn mở rộng hơn, đã có sẵn trong dòng sống của con. Đó chính là ý muốn đã thúc đẩy đấng Sáng tạo sáng tạo lúc khởi thủy.

Ôi chân sư Paul, thày là giấc mơ,
Thày yêu cái đẹp hằng chảy tuôn ra.
Ôi chân sư Paul, tình mang trong dạ
Quyền năng đập vỡ nấm mồ tự ngã.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là bên trong con có động lực muốn trở nên Hơn nữa và đó là lý do vì sao con đồng-sáng tạo. Đó là lý do vì sao con hình thành một hình ảnh và thấm đẫm nó với tâm thức. Đó cũng là lý do vì sao bất cứ phàm linh nào con tạo ra đều có động lực muốn trở nên Hơn nữa, muốn mở rộng, muốn tăng trưởng và muốn thêm cường độ.

Ôi chân sư Paul, là nguồn khuyên nhủ,
Tâm con bay vút lên đỉnh trời cao.
Ôi chân sư Paul, minh triết ấp ủ
Cái đẹp chảy xuống từ Trên nhập vào.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con theo tiến trình khai ngộ với bảy vị Thượng sư, thì con học cách rút ánh sáng của bảy tia sáng từ bên trong con và đem tới cái ngã vỏ ngoài, là phàm linh mà con đang sáng tạo.

Ôi chân sư Paul, yêu là nghệ thuật,
Mở trái tim ra căn phòng mật thất.
Ôi chân sư Paul, ào ào chảy xuống,
Cho tim tràn ngập ánh sắc yêu thương.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra đây là một tiến trình sáng tạo, vì con không cần lấy bất cứ gì từ các dòng sống khác hay từ thế giới vật chất để thúc đẩy nỗ lực sáng tạo của mình.

Ôi chân sư Paul, gia tốc mài miệt,
Trụ vào từ bi, con thiền nhận biết.
Ôi chân sư Paul, ý định thuần khiết
Sẽ được bảo đảm thăng lên siêu việt.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con càng ngày càng không dính mắc vào phàm linh mà con tạo ra, con biết rằng nó chỉ là một cỗ xe, biết rằng nó là một đày tớ mà con tạo ra và con là người chỉ huy.

Ôi chân sư Paul, tình yêu hàn gắn,
Thày mở lộ ra ánh sáng nội tâm.
Ôi chân sư Paul, tình yêu an ủi,
Để con nguyên vẹn trong một niềm vui.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con không cho phép phàm linh này mang một tự ngã riêng của nó. Xin thày giúp con nhận ra rằng mỗi lần con bước lên một tầng tâm thức cao hơn, con làm được việc này bằng cách cho phàm linh cũ chết đi và con tái sinh với một phàm linh mới cao hơn phàm linh cũ.

Ôi chân sư Paul, phụng sự Tất cả,
Giúp mọi chúng sinh thăng vượt sa ngã.
Ôi chân sư Paul, an bình ra khơi,
Mặc cho tự ngã tất phải tàn hơi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con quen thuộc với tiến trình cho cái cũ chết đi mà không nắm giữ nó vì con biết rằng con sẽ được tái sinh Hơn thế nữa.

Ôi chân sư Paul, tình yêu giải phóng,
Thày yêu mãi mãi, cho con nhập dòng.
Ôi chân sư Paul, thày là vị Chủ
Giúp cho hành trình của con hứng thú.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con để khi con tới tầng 96, con có thể buông bỏ động lực mà con có với bảy tia sáng, và con nhận ra rằng con muốn cái gì cao hơn, chính là các tia sáng bí mật.

Ôi chân sư Paul, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư Paul, thày tô bầu trời,
Cái ta mừng rỡ trong màu vui tươi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

3.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là các tia sáng cao không nhằm mục đích sáng tạo hình tướng vật chất, nhưng có mục đích sáng tạo cái gì vượt lên trên hình tướng vật chất và như thế góp phần vào việc nâng cao tâm thức tập thể, thay vì tạo ra những biểu hiện vật lý thấy được qua giác quan.

Ôi chân sư Paul, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tình yêu Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

Phần 4

4.1. Đại thượng sư, con sẵn sàng để cho cái cũ chết đi, con sẵn sàng dứt bỏ hồn ma. Con từ bỏ ngay tại đây mọi ý muốn chứng minh tâm làm chủ vật chất và tạo ra những hiện tượng làm choáng mắt người khác.

Ôi Đại thượng sư, con muốn tăng trưởng,
Con cảm uy lực của dòng sông lớn.
Ôi Đại thượng sư, tấm màn rơi xuống,
Do chí sáng tạo từ cõi thiên đường.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là những người không còn đi trên con đường tự thăng vượt nữa sẽ trở thành những thày phù thủy tà đạo sử dụng năng khiếu của họ với mục đích hoàn toàn vị kỷ. Do đó họ bị cắt đứt khỏi dòng chảy của Tánh linh.

Ôi Đại thượng sư, trí tuệ chảy xuống,
Đánh thức mọi người khỏi giấc ngủ quên.
Ôi Đại thượng sư, quân bình khởi xướng,
Hồi chuông thể nhập lại được gióng lên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là những người này không còn nhận được ánh sáng từ bảy tia sáng. Họ phải đi theo con đường của các thày phù thủy tà đạo, ăn cắp ánh sáng từ những ai vẫn còn nhận được ánh sáng từ bên trong họ.

Ôi Đại thượng sư, tiếng gọi tình thương,
Đập tan ngục tối sập bốn vách tường.
Ôi Đại thượng sư, cởi hết xích xiềng,
Sự sống thênh thang trong vô điều kiện.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con xuống dưới tầng nhận biết thứ 48, thì phàm linh mà con đã tạo ra cho tới điểm đó bây giờ trở thành một phàm linh không còn thấy được là nó có thể nhận được năng lượng từ bên trong chính nó.

Ôi Đại thượng sư, ý con trong suốt,
Con nay chắc chắn sự sống là một. 
Ôi Đại thượng sư, con luôn tỉnh thức,
Bỏ lại tất cả để theo Duy nhất.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là phàm linh đó ngay tức khắc trở thành một phàm linh biết nó phải lấy ánh sáng từ bên ngoài nó. Tuy thế nó vẫn còn động lực cơ bản muốn gia tăng, động lực muốn Hơn nữa.

Ôi Đại thượng sư, giúp loài người nhìn,
Xuyên qua tấm màn ảo ảnh lung linh.
Ôi Đại thượng sư, trong mắt thuần đơn,
Con biết con là cái Ta rộng lớn.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là phàm linh đó phải tìm cách trở nên Hơn nữa bằng cách lấy năng lượng ở tầng nó đang sống trong cõi vật chất. Bây giờ nó trở thành một phàm linh có bản chất hung hãn phải lấy, và sẽ lấy, ánh sáng từ các phàm linh khác.

Ôi Đại thượng sư, con đã bình an,
Nhờ Maitreya dạy con hiền lành.
Ôi Đại thượng sư, tuyệt mọi chinh chiến,
Khắp nơi tràn ngập hòa bình thiêng liêng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là phàm linh đó không thể sống và để yên cho người khác sống. Nó phải lấy ánh sáng từ bên ngoài bằng lừa đảo hay bằng vũ lực. Một số phàm linh tìm cách lấy ánh sáng bằng vũ lực trắng trợn và một số khác tìm cách lấy ánh sáng bằng lừa đảo.

Ôi Đại thượng sư, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Đại thượng sư, giải thoát sự sống,
Để nó thăng vượt mãi mãi không ngừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là Thánh linh chính là một Tánh linh hằng sống của sự thăng vượt, lấy năng lượng từ cõi tâm linh để cống hiến cho cõi vật chất. Thánh linh duy nhất luôn luôn tiến gần hơn tới cái một.

Ôi Đại thượng sư, ngọn Lửa thần thánh,
Vẻ đẹp rực rỡ mà thày mang tên. 
Ôi Đại thượng sư, khi dòng xối đến,
Cuộc đời ở dưới nhập với cõi trên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là có rất nhiều phàm linh tách biệt càng ngày càng tách xa khỏi cái một khi chúng càng lấy thêm quyền năng về chúng. Mỗi một lần chúng lấy từ một người, chúng tách xa hơn sự hợp nhất với người đó. Vì làm sao con có thể dùng vũ lực hay lừa đảo để lấy từ người khác mà lại tiến gần hơn tới hợp nhất với người đó?

Ôi Đại thượng sư, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu chứng ngộ (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Hercules và Amazonia, Đại thiên thần Michael cùng Faith, Chân sư MORE và Đại thượng sư yêu dấu, hãy giúp con trải nghiệm thế nào là chứng ngộ. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Đại thượng sư và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhìn quá phin lọc nhận thức của cái ngã tách biệt của con và biết thày như một sinh thể cá biệt. Xin thày giúp con vượt thăng phin lọc nhận thức và nhập một với thày.

Hercules Xanh ngắt, ý chí thày duy nhất,
Trong con còn khoảng trống, thày đổ đầy Lửa Xanh,
Ngọn hải đăng sáng rực, tỏa rạng trên trái đất,
Phục hồi lại sự sống cho tất cả hành tinh.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là nếu con chú tâm vào những đặc tính của một Thượng sư hay một tia sáng tâm linh, thì chúng sẽ ngăn trở không cho con biết vị Thượng sư hay tia sáng đó. Vì vị Thượng sư hay tia sáng không thể bị giới hạn vào đặc tính vỏ ngoài.

Hercules Xanh ngắt, thày trí tuệ cao xa,
Tạo cảm giác trong con hiểu biết nơi tất cả.
Nay tâm con rất mới bỗng nhận được khung nền,
Để vượt qua giới hạn của đau đớn nhị nguyên.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con chỉ biết được một tia sáng khi con nhập một với nó, nhập một với vị Thượng sư, Đại thiên thần hay Elohim của tia sáng đó.

Hercules Xanh ngắt, với tất cả tình thương,
Con dâng lên Thượng đế, hằng hà lời tán thưởng,
Bây giờ con thấy rõ khi cảm được lửa sáng,
Cái ta cũng thăng vượt như đá hóa thành vàng.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con nhập một với một tia sáng, con không nhìn nó như con nhìn một vật trên trái đất, tức là con không nhìn nó như một chủ thể tách biệt tìm hiểu một khách thể tách biệt từ bên ngoài.

Hercules Xanh ngắt, chữa lành muôn sự sống,
Bao bọc quanh tất cả, Xanh ngọn lửa Niêm phong.
Con biết ơn quá đỗi được tự tay góp phần
Trong tác phẩm của Ngài đẹp tinh xảo vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con sử dụng khả năng cơ bản nhất mà con có, là khả năng của cái Ta Biết có thể rút ra không tự đồng hóa với phàm ngã và thay vào đó nhập một với cái gì cao hơn phàm ngã.

Hercules Xanh ngắt, ngôi Đền của Ánh sáng,
Được tỏ lộ cho con lúc dõi nhìn vào trong,
Khi uy lực của thày giục con bước mạnh dạn,
Băng qua bao rặng núi, xuyên qua mọi tấm màn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con nhập một với một tia sáng tâm linh hay vị Thượng sư của tia sáng đó, thì con không nhìn vào tia sáng đó từ bên ngoài. Con không nhìn nó như một vật mà con phải tìm hiểu.

Hercules Xanh ngắt, con dâng hiến cuộc đời
Giúp cho cả hành tinh vượt tranh chấp loài người,
Khi lọc lừa nhị đối bị ánh sáng chọc thủng,
Trả lại cho trọn vẹn cái nhìn ở thâm cung.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con quên mình là một chủ thể tách biệt đang tìm hiểu một vật bên ngoài con, tách biệt khỏi con, đứng riêng khỏi con.

Hercules Xanh ngắt, chúng con sẽ cởi xiềng,
Mọi sự sống thoát khỏi vi tế nhất nhị nguyên,
Hoàng tử của trần thế không còn gì để nắm,
Khi con đã cùng thày vượt lên trên hoàn toàn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con hòa tâm thức của con vào tâm thức của vị Thượng sư để không nhìn tia sáng từ bên ngoài; con nhìn nó từ bên trong. Con nhìn sự sống từ góc nhìn của tia sáng đó.

Hercules Xanh ngắt, với thày con hợp nhất,
Để con mở tim ra cho thực tại của thày,
Ngọn lửa xanh như điện mở mắt cho con thấy
Rằng sống trong chân thực: khát vọng của con đây.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con hòa nhập với một tia sáng, thì tia sáng đó không còn là tấm màn che. Khi con còn nhìn một tia sáng như một chủ thể tách biệt tìm hiểu một khách thể bên ngoài, thì con không thể nhìn xuyên qua ánh sáng của tia sáng đó vì nó là một tấm màn.

Hercules Xanh ngắt, nơi nơi thày đổ tràn
Quyền năng vô bờ bến với Hồng ân vô hạn,
Chìa khóa của sáng tạo, chính thày là hiện thân,
Biểu lộ qua ý chí vượt thăng đến Vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

Phần 2

2.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là cõi vật chất được tạo bằng năng lượng của bảy tia sáng, nhưng độ rung của các năng lượng đó đã được hạ xuống và chúng khoác vào một độ dày đặc che giấu chúng là biểu hiện của bảy tia sáng.

Đại thiên thần Michael, trong ngọn lửa xanh ngắt,
Không còn bao đêm tối mà chỉ thày có mặt.
Trong hợp nhất với thày, con đã ngập ánh sáng,
Cảnh rực rỡ nhiệm màu hiện ra ngay trước mắt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

2.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là những vật trông rắn đặc thực ra được tạo nên bởi ánh sáng, là một pha trộn của bảy tia sáng.

Đại thiên thần Michael, thày cho con che chở,
Sau tấm khiên màu xanh con được sống muôn thuở.
Niêm con khỏi hồn bóng đang lang thang đêm tối,
Con ở trong cõi thày, rực sáng màu xanh tươi.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

2.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con tránh chú tâm quá nhiều vào việc tìm hiểu các đặc tính vỏ ngoài và không nhìn ra ánh sáng và nhập một với ánh sáng.

Đại thiên thần Michael, thày đem bao uy lực,
Mà hàng triệu thiên thần sẽ ca ngợi công đức.
Thiêu đốt muôn loài quỷ của nghi ngờ sợ hãi,
Con biết thày Có Mặt ở bên con hoài hoài. 

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

2.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là nếu con chú tâm vào đặc tính vỏ ngoài, thì các tia sáng tâm linh tạo nên bảy chiếc màn ngăn con không nhìn được vào cõi tâm linh. Xin thày giúp con đạt được chứng ngộ (gnosis), có nghĩa là “nhập một với”.

Đại thiên thần Michael, ý Thượng đế thày yêu,
Từ Trên thày đem xuống ánh sáng của thiên triều.
Thượng đế chỉ muốn thấy mọi sự sống chuyển vọt,
Vươn cao trên bản ngã là quyền linh chót vót.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

2.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con nhìn xuyên qua phin lọc của cái ngã vỏ ngoài dựa trên ảo tưởng tách biệt và các đối cực nhị nguyên, thì con đã thực sự phóng chiếu hình ảnh định sẵn, các niềm tin, và quan điểm lên vật con đang tìm hiểu.

Đại thiên thần Michael, là bạn thân con đó,
Bao cạm bẫy thế gian, thày dang tay phù hộ.
Ác quỷ không thể sánh được quyền năng ánh sáng,
Nên linh hồn tất cả được bay bổng thênh thang.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

2.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con nhìn sự vật qua phin lọc đó, thì con không thấy nó với hình tướng thuần khiết của nó. Cái con nhìn thấy là rung động của vật phối hợp với các rung động trong tâm con – là phin lọc nhận thức của con.

Đại thiên thần Michael, như bày trẻ đùa chơi,
Chúng con dìu trái đất thức dậy trong ngày mới,
Nâng địa cầu ra khỏi lề lối đã ăn sâu,
Cho câu chuyện hành tinh được kể lại từ đầu.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

2.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con phóng chiếu bất cứ hình tư tưởng nào vào một vật thì con không thấy vật đó. Cái con thấy là một ảo tưởng – một hình ảnh được tạo ra bởi mô thức giao thoa (interference) giữa cái con phóng chiếu và tâm thức đằng sau vật đó.

Đại thiên thần Michael, Thượng đế tỏ quyền năng,
Mà chúng con biết thày không ai thể chiến thắng,
Thày không còn tách biệt nên vượt qua chắc chắn,
Mọi mưu mô hung tợn và thâm độc của rắn.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

2.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là hiểu biết đường thẳng và dựa trên phân tích không phải là minh triết, không phải là chứng ngộ. Cái con biết chỉ là cách tâm con tương tác với vật.

Đại thiên thần Michael, thày đến nâng địa cầu,
Để khắp nơi khắp chốn được tái sinh cùng thấu,
Để tâm của tập thể cùng đi lên một lượt,
Cho chúng con vui mừng mà ngợi ca không ngớt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

2.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là tâm con có thể trở thành một hệ thống đóng kín vì con không thể nhìn thấy quá những gì con phóng chiếu. Những phóng chiếu của con đã tạo nên một hộp tư duy dày đặc khiến con không thấy được những gì ngoài hộp đó.

Đại thiên thần Michael, trái đất nay đổi mới,
Lửa xanh dương bao phủ giống như hạt sương rơi,
Hành tinh nay lóng lánh giữa không gian rộng lớn,
Để chúng con hứng lấy những hồng ân vô tận.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

Phần 3

3.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là điều đó có thể khiến con tưởng là con đã đạt được hiểu biết tối hậu vì con nghĩ là con đã nhét được cả vũ trụ vào trong hệ thống tư tưởng của con, hệ thống niềm tin của con, hộp tư duy của con.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con bắt đầu theo học với thày và bảy vị Thượng sư thì con không đến với tâm tự do, nhưng với tâm bị che mờ bởi các hình ảnh được tạo nên bởi quan niệm của con về thế giới, Thượng đế, và chính con.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.3. Đại thượng sư, con chấp nhận để thày và các Thượng sư thách đố các hình ảnh, niềm tin, và lý thuyết cưng yêu của con về cuộc đời. Con nhất quyết sẵn sàng để vị thày xuất hiện.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi tâm con trở thành một hệ thống đóng kín thì con sẽ chịu quy luật thứ nhì của nhiệt động học (thermodynamics), tức là Trường đời Cay đắng. Khi tâm con còn đóng kín thì con không sẵn sàng đón nhận vị thày tâm linh, và không vị Thượng sư nào sẽ có thể giúp được con.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.5. Đại thượng sư. xin thày giúp con nhận ra sự thực thâm sâu là không có vị thày nào có thể làm gì thay con được. Vị thày chỉ có thể cho con cảm hứng để con tự mình làm một điều gì đó, vì lý do giản dị là con đường tu chân chính là con đường tự điều ngự (self-mastery).

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là con phải là người chủ động. Thày không thể điều ngự tâm con thay con được! Chỉ có con mới có thể điều ngự tâm con.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là khi con còn tin rằng con có thể nhét vũ trụ hay các chân sư thăng thiên vào trong hộp tư duy của con thì các thày không tới được với con, các Thượng sư không thể dạy con.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.8. Đại thượng sư, con sẵn sàng đón nhận lời dạy của các vị Thượng sư vì con sẵn sàng chất vấn nhận thức của mình, con sẵn sàng chất vấn cách con nhìn cuộc đời.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.9. Đại thượng sư, con nhìn nhận là mình vô minh. Con nhìn nhận là dù con có một bồ kiến thức to lớn theo quan niệm thế gian, nhưng kiến thức này đang tạo một nhà tù xung quanh tâm con và kềm giữ con lại.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 4

4.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là quan niệm bình thường trong thế gian về vô minh là có điều gì con không biết. Nhưng tại sao con không biết điều đó?

Ôi Đại thượng sư, con muốn tăng trưởng,
Con cảm uy lực của dòng sông lớn.
Ôi Đại thượng sư, tấm màn rơi xuống,
Do chí sáng tạo từ cõi thiên đường.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra không phải vì bình chứa tâm con trống trơn mà con không biết. Đó chính là vì bình chứa tâm con quá đầy, khiến con không thể nhìn thấy những gì ngoài nội dung tâm con.

Ôi Đại thượng sư, trí tuệ chảy xuống,
Đánh thức mọi người khỏi giấc ngủ quên.
Ôi Đại thượng sư, quân bình khởi xướng,
Hồi chuông thể nhập lại được gióng lên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là nếu con tới được điểm mà các Thượng sư có thể làm bất cứ điều gì để giúp con, thì con phải sẵn sàng chất vấn và nhìn vượt lên trên nội dung của tâm mình.

Ôi Đại thượng sư, tiếng gọi tình thương,
Đập tan ngục tối sập bốn vách tường.
Ôi Đại thượng sư, cởi hết xích xiềng,
Sự sống thênh thang trong vô điều kiện.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Đại thượng sư, con sẵn sàng chất vấn các lý thuyết cưng yêu của con, các niềm tin sâu thẳm của con, những điều mà con coi là đương nhiên. Con sẵn sàng để các vị Thượng sư thách đố các niềm tin của con.

Ôi Đại thượng sư, ý con trong suốt,
Con nay chắc chắn sự sống là một. 
Ôi Đại thượng sư, con luôn tỉnh thức,
Bỏ lại tất cả để theo Duy nhất.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con bắt đầu chất vấn các ý tưởng của con và dần dần tiến tới chỗ chất vấn những ý tưởng then chốt quy định ý niệm bản sắc của con. Những ý tưởng này không phải là nội dung trong bình chứa cái ta mà chính là thành của bình chứa cái ta.

Ôi Đại thượng sư, giúp loài người nhìn,
Xuyên qua tấm màn ảo ảnh lung linh.
Ôi Đại thượng sư, trong mắt thuần đơn,
Con biết con là cái Ta rộng lớn.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con bắt đầu ngưng không tự đồng hóa với các niềm tin của mình và nhận ra rằng con không phải là các niềm tin của mình, con hơn các niềm tin của mình.

Ôi Đại thượng sư, con đã bình an,
Nhờ Maitreya dạy con hiền lành.
Ôi Đại thượng sư, tuyệt mọi chinh chiến,
Khắp nơi tràn ngập hòa bình thiêng liêng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhận ra là cái “ta” mà con là không phải là cái ta vỏ ngoài được quy định bởi các niềm tin và kinh nghiệm sống trong thế gian. Con vượt quá cái ta vỏ ngoài đó, con vượt quá các hình tướng và hoàn cảnh thế gian.

Ôi Đại thượng sư, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Đại thượng sư, giải thoát sự sống,
Để nó thăng vượt mãi mãi không ngừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con bắt đầu nhận ra con có khả năng đứng ra ngoài phàm ngã. Xin thày giúp con trải nghiệm một trạng thái tâm thức trong đó con nhìn một vật không qua phin lọc nhận thức của cái ngã tách biệt. Con không phóng chiếu gì hết lên vật đó.

Ôi Đại thượng sư, ngọn Lửa thần thánh,
Vẻ đẹp rực rỡ mà thày mang tên. 
Ôi Đại thượng sư, khi dòng xối đến,
Cuộc đời ở dưới nhập với cõi trên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con có một thoáng trải nghiệm vật đó như nó là. Xin thày giúp con bắt đầu tiến trình thật của hiểu biết, tiến trình thật của chứng ngộ.

Ôi Đại thượng sư, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu nhận biết đồng-sáng tạo (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Apollo và Lumina, Đại thiên thần Jophiel cùng Christine, Lanto và Đại thượng sư yêu dấu, hãy giúp con nhận ra khả năng đồng-sáng tạo của con. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Đại thượng sư và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng khi con còn nhìn một vật xuyên qua phin lọc nhận thức của cái ngã tách biệt, thì con phải thấy vật đó tách biệt khỏi con và con không thể nào nhập một với vật đó và tâm thức đằng sau nó.

Apollo yêu dấu, trong tia sáng thứ hai,
Thày mở mắt con ra để con nhìn ngày mới,
Vượt lên trên khuôn đúc tư duy gây thảm bại,
Con nhìn thấu xuyên qua lừa lọc của nhị đối.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

1.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng con không thể nhập một với vị Thượng sư của một tia sáng khi con còn nhìn tia sáng đó qua phin lọc nhận thức của con. Xin thày giúp con bước ra ngoài phin lọc nhận thức và thoáng thấy vị Thượng sư thực sự là ai.

Apollo yêu dấu, trong ánh lửa con biết
Có dòng nước hằng chảy là dòng sông minh triết,
Kìa ý chí cao nhất nay con đã phát hiện,
Trầm mình trong dòng nước không bao giờ đứng yên.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

1.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con dần dần nhập một với Tia sáng thứ Nhất và Thượng sư là Chân sư MORE, để tia này không còn tạo thành tấm màn che tầm nhìn của con. Xin thày giúp con dần dần làm chuyện này với tất cả các tia sáng.

Apollo yêu dấu, ánh sáng thày soi rõ
Tại sao chúng con lại hiện thân ở đây nhỉ,
Rõ cả những lọc lừa đã khiến mình sa ngã,
Thày giúp con tìm lại duy nhất với tất cả.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

1.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng chỉ có một cái ta. Chỉ có một cái tâm; chỉ có một tâm thức. Chỉ có một Tánh Linh (Spirit), và đó là Thánh Linh (Holy Spirit) đang nâng cao mọi sự sống, đang kéo mọi sự sống theo với nó, giống như dòng sông chảy về đại dương vô tận.

Apollo yêu dấu, vạch trần từng dối trá,
Từng sợi dây tự ngã chúng con nay buông bỏ,
Và hiểu ra thật sự nhận thức là chìa khóa
Để vượt qua nhị đối cho nội tâm sáng tỏ.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

1.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng Tánh linh Duy Nhất (the One Spirit), Thánh linh (the Holy Spirit), sẽ không bao giờ khép mình vào bất kỳ khuôn đúc nào do tâm tách biệt tạo ra! Nó sẽ mãi mãi tiến tới, nó sẽ mãi mãi thăng vượt và nó sẽ mãi mãi tuôn chảy.

Apollo yêu dấu, con nghe lời thày gọi,
Ở Đại sảnh Minh triết tiếng gọi dìu con tới,
Đây bầu cõi vũ trụ chúng con phải nâng cao,
Và cùng nhau hình thành mũi đầu của ngọn giáo.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

1.6. Đại thượng sư, con muốn tiến tới, con muốn thoát ra khỏi ngục tù do con tự dựng lên và con sẵn sàng tuôn chảy. Con thấy là các Thượng sư đang có mặt để giúp con tuôn chảy, chớ không phải để cho con có kiến thức cố định về mỗi tia sáng.

Apollo yêu dấu, trí tuệ thày sáng rỡ,
Trong hợp nhất với thày, rắn độc con chẳng sợ,
Cái đà trong con mắt, con nay thấy lồ lộ,
Thoát khỏi vùng nhị đối, con tìm được tự do.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

1.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng nếu con muốn biết các Thượng sư là ai, con phải sẵn sàng tuôn chảy với các thày, vì các thày lúc nào cũng đang tuôn chảy.

Apollo yêu dấu, thày giúp con nhìn rõ,
Bằng chính mắt của thày, con mới thực tự do,
Khi mắt thày soi rọi, con tình nguyện đứng đó,
Rồi bước khỏi mê cung với uy lực thày cho.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

1.8. Đại thượng sư, con sẵn sàng để cho các thày, các vị Thượng sư, giúp con nhìn mỗi hòn đá trong dòng tâm thức của mình, thấy nó thực sự là gì, nhận ra ảo tưởng đằng sau nó. Sau đó, con lấy nó ra, vứt nó đi và nói: “Tôi không cần cái này trong dòng tâm thức của tôi nữa.”

Apollo yêu dấu, chúng con nâng viễn kiến
Và dõi nhìn trái đất bước vào tân kỷ nguyên,
Không gì ngăn cản được hiểu biết mà thày truyền
Phơi bày ra sự thật: Chẳng gì đứng tách riêng.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

1.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con bắt đầu an trụ vào sự tĩnh lặng đằng sau tiếng róc rách của tâm con, tiếng lảm nhảm liên tục không ngừng của tự ngã. Hãy giúp con thấy mà không thấy xuyên qua phin lọc nhận thức của cái ngã tách biệt. Đây là cái thấy thuần khiết, thấy như thật, nhận biết trần trụi, nhận biết thuần khiết.

Apollo yêu dấu, chúng con đang chung sức,
Để nâng cao địa cầu trong niềm vui nối kết,
Khi thày đem tỏ lộ Ngọn lửa của Minh triết,
Người người thấy tận mắt cái gì là chân thực.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

Phần 2

2.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng tiến trình sáng tạo gồm hai phần. Trong tiến trình này, đấng Sáng tạo Duy nhất tạo ra các phần nối dài cá biệt có tự nhận biết của chính ngài, gửi chúng xuống bầu cõi mới nhất, và sau đó họ đồng-sáng tạo thế giới hình tướng từ bên trong, tạo nên dòng chảy hình số tám với đấng Sáng tạo.

Đại thiên thần Jophiel, trong ánh sáng minh triết,
Mọi lừa dối gian xảo đã phơi bày trước mặt.
Thường thường trong tâm người, chúng tinh vi luồn lách,
Nhưng con có thày rồi, là vị thày thượng sách.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng con đã bị lập trình để nhìn vũ trụ vật chất như cái gì tách biệt khỏi Tánh linh. Con nghĩ rằng Thượng đế là một Tánh linh, nhưng Thượng đế đã sáng tạo một thế giới hình tướng không phải là Tánh linh, và thế giới này tách biệt với Tánh linh.

Đại thiên thần Jophiel, con đón mừng minh triết,
Tấm màn của nhị nguyên, thày lấy gươm chặt đứt,
Khi được thày chỉ lối, con biết đâu là thực,
Con hóa giải tức khắc bùa mê với ngờ vực.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng hình ảnh này không giúp con phát triển tâm linh, vì Tánh linh không thể sáng tạo cái gì tách biệt khỏi Tánh linh. Tánh linh không thể nào sáng tạo cái không phải là Tánh linh. Tánh linh (Spirit) sáng tạo bằng cách tạo ra các linh thể (spirit) khác.

Đại thiên thần Jophiel, thực tại của thày đó,
Là liều thuốc thần diệu giải độc chất nhị nguyên,
Dối trá không thể còn khi có thày Hiện diện,
Với thày đứng bên cạnh, tà kiến con cắt liền.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng đấng Sáng tạo vượt lên trên mọi hình tướng, nhưng để sáng tạo thế giới hình tướng, đấng Sáng tạo không tạo ra một hình tướng tách biệt với chính ngài. Đấng Sáng tạo là một Tánh linh, và chỉ có thể tạo hình tướng bằng một cách là tạo ra một linh thể. Linh thể này được tạo ra qua hai giai đoạn.

Đại thiên thần Jophiel, tâm Thượng đế trong con,
Con nhận trí tuệ thày, ánh sáng rạng đầu non,
Con gặp được Duy nhất khi tách biệt tiêu mòn,
Và tâm này toàn vẹn, là chiến thắng của con.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng đấng Sáng tạo phải mường tượng một khuôn đúc, rồi sau đó đấng Sáng tạo cho phép dòng sống của chính Bản thể ngài, tâm thức ngài và Tánh linh của ngài chảy qua khuôn đúc này.

Đại thiên thần Jophiel, chỉ cho con đường tiến,
Dẫn chúng con vượt khỏi tranh chấp của nhị nguyên,
Chúng con muốn phân biện đâu là giả, là chân,
Và tháo gỡ tất cả bao nút nhợ của rắn.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng khuôn đúc này trở nên sống động nhờ Tánh linh của đấng Sáng tạo và do đó nó trở thành một linh thể có hình tướng khác biệt. Linh thể này bây giờ có trách nhiệm duy trì hình tướng đó.

Đại thiên thần Jophiel, ngay đây thày Hiện diện,
Vì vậy tâm chúng con được hoàn toàn minh mẫn,
Nhập nguồn suối trí tuệ chúng con bước vào tắm,
Và đủ sức cưỡng lại quỷ dữ đang nổi giận.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng đấng Sáng tạo tạo ra các hình thể vô tri giác được một linh thể duy trì, chúng có tâm thức (consciousness) nhưng không có tự nhận biết (self-awareness).

Đại thiên thần Jophiel, công việc thày là chính,
Để nâng cao nhân loại nếu người ta chịu thỉnh,
Vậy nhân danh mọi người đang mang bệnh mù quáng,
Chúng con yêu cầu thày hãy giúp họ khôn ngoan.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng đấng Sáng tạo tạo ra những sinh thể đồng-sáng tạo, có hình tướng và như vậy họ bắt đầu như một khuôn đúc trong tâm của đấng Sáng tạo, được ngài phú cho một Tánh linh cô đặc đến độ họ có tự nhận biết.

Đại thiên thần Jophiel, thày Hiện diện con mừng,
Vì tấm màn đang được Ánh sáng thày chọc thủng,
Những con rắn không thể tung ra lời gạt gẫm,
Khi mọi người đã nhận Lửa Minh triết trong tâm.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng đấng Sáng tạo tạo ra những linh thể có nhận biết nhưng không có tự nhận biết, và những Tánh linh có tự nhận biết.

Đại thiên thần Jophiel, con không đi đâu khác,
Khi chân lý tối thượng con vẫn mong chứng đạt,
Thày vui lòng chia sẻ toàn bản thể của thày,
Cho con được viễn kiến càng rộng lớn hơn thay.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

Phần 3

3.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng một linh thể “vô tri vô giác” không thể thăng vượt khuôn đúc cơ bản từ đó nó được tạo ra. Nó không thể nào, một cách cố ý và có ý thức, thăng vượt chính nó, tái tạo chính nó, hay tự quy định lại chính nó.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng một linh thể có thể tiến hóa trong phạm vi các thông số đã được quy định bởi khuôn đúc ban đầu của nó, có nghĩa là nó có thể trở thành hơn khuôn đúc này. Nó có thể thu thập năng lượng, ngay cả tâm thức và do đó nó có thể có thêm quyền lực.

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng một Tánh linh có tự nhận biết và có “tri giác”, một sinh thể đồng-sáng tạo, có khả năng bước lùi lại, nhìn chính mình và quyết định nó muốn hơn cái gì nó đang là lúc đó. Và vì vậy, nó có thể làm lại chính nó, tái tạo chính nó và thăng vượt chính nó.

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng một Tánh linh đồng-sáng tạo có cùng khả năng như đấng Sáng tạo, tức là nó có thể tạo ra một khuôn đúc trong tâm của nó và hướng dòng tâm thức của nó chảy xuyên qua khuôn đúc. Như thế, một Tánh linh đồng-sáng tạo có thể tạo ra hình tướng, ngay cả một hình tướng mới chưa từng thấy.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng cho dù một Tánh linh đồng-sáng tạo có thể hình dung một khuôn đúc mới, nó vẫn bị hạn chế bởi khuôn đúc đã quy định ra nó như một Tánh linh đồng-sáng tạo.

Chân sư Lanto, chúng con viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng có hai giai đoạn trong sự tiến hóa của một Tánh linh đồng-sáng tạo. Trong giai đoạn đầu con chú tâm vào việc sáng tạo hình tướng, trong giai đoạn nhì con nhận ra rằng muốn tạo ra hình tướng hoàn toàn mới thì con phải tái tạo chính mình.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng con bắt đầu khám phá khả năng đồng-sáng tạo của mình và mở rộng sự tự nhận biết của mình, nhưng con không làm điều này một cách có ý thức.

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng sự tự nhận biết của con, ý niệm bản ngã của con được mở rộng qua các kinh nghiệm mà con có khi con tương tác với vũ trụ vật chất, khi con đồng-sáng tạo trong khuôn khổ khuôn đúc do cha mẹ tâm linh của con quy định.

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, chúng con cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

3.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng khi con tới tầng 96, con cần bước lui lại, nhìn vào khuôn đúc và nhận ra là bước tới trên con đường tu của con là mở rộng ý niệm bản ngã của con một cách cố ý và có ý thức.

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

Phần 4

4.1. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng mọi việc con làm đều làm bằng năng lượng. Mọi việc con làm đều làm bằng tâm thức.

Ôi Đại thượng sư, con muốn tăng trưởng,
Con cảm uy lực của dòng sông lớn.
Ôi Đại thượng sư, tấm màn rơi xuống,
Do chí sáng tạo từ cõi thiên đường.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng khía cạnh năng lượng là ánh sáng Mẫu-Vật. Con hình thành một khuôn đúc trong tâm của con, và sau đó con cho phép dòng tâm thức của con chảy xuyên qua khuôn đúc và như vậy con phóng chiếu khuôn đúc này lên trên ánh sáng Mẫu-Vật, sau đó ánh sáng sẽ khoác lên hình tướng.

Ôi Đại thượng sư, trí tuệ chảy xuống,
Đánh thức mọi người khỏi giấc ngủ quên.
Ôi Đại thượng sư, quân bình khởi xướng,
Hồi chuông thể nhập lại được gióng lên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhìn thấy rằng mọi thứ có tâm thức chảy xuyên qua nó đều được tâm thức khiến trở nên sinh động. Điều mà con thực sự đang làm là sáng tạo một phàm linh.

Ôi Đại thượng sư, tiếng gọi tình thương,
Đập tan ngục tối sập bốn vách tường.
Ôi Đại thượng sư, cởi hết xích xiềng,
Sự sống thênh thang trong vô điều kiện.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng một người đồng-sáng tạo mới thường mang một vai tuồng đã được định sẵn để làm nền tảng bắt đầu nỗ lực sáng tạo của mình. Tuy nhiên, khi con tiếp tục đồng-sáng tạo xuyên qua vai tuồng này, con dần dần bắt đầu tạo ra một phàm linh.

Ôi Đại thượng sư, ý con trong suốt,
Con nay chắc chắn sự sống là một. 
Ôi Đại thượng sư, con luôn tỉnh thức,
Bỏ lại tất cả để theo Duy nhất.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng phàm linh này không có tự nhận biết, nhưng nó là một sinh thể có một ý niệm nhận biết nào đó, một loại bản năng sinh tồn, và do đó trong nó có ham muốn tăng triển.

Ôi Đại thượng sư, giúp loài người nhìn,
Xuyên qua tấm màn ảo ảnh lung linh.
Ôi Đại thượng sư, trong mắt thuần đơn,
Con biết con là cái Ta rộng lớn.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng khi con tăng triển qua bảy tia sáng, thì con tạo ra một cái ngã vỏ ngoài là một phàm linh. Tuy rằng cái Ta Biết đã tạo ra phàm linh vỏ ngoài đó, nhưng cái Ta Biết không phải là phàm linh đó.

Ôi Đại thượng sư, con đã bình an,
Nhờ Maitreya dạy con hiền lành.
Ôi Đại thượng sư, tuyệt mọi chinh chiến,
Khắp nơi tràn ngập hòa bình thiêng liêng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng cái Ta Biết không trở thành phàm linh và không bị phàm linh thay đổi. Cái Ta Biết được tạo ra như cánh cửa mở và nó vẫn luôn luôn là cánh cửa mở, không hơn không kém.

Ôi Đại thượng sư, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Đại thượng sư, giải thoát sự sống,
Để nó thăng vượt mãi mãi không ngừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Đại thượng sư, xin thày giúp con thấy rằng thử thách của con lúc đó là con có chấp nhận để cho phàm linh mà con đã tạo ra chết đi, để con có thể tái sinh với một ý niệm bản ngã cao hơn.

Ôi Đại thượng sư, ngọn Lửa thần thánh,
Vẻ đẹp rực rỡ mà thày mang tên. 
Ôi Đại thượng sư, khi dòng xối đến,
Cuộc đời ở dưới nhập với cõi trên.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Đại thượng sư, xin thày giúp con nhìn thấy rằng phàm linh mà con đã tạo ra, thường được gọi là tâm hồn (soul) không thể nào thăng thiên. Cái có thể thăng thiên là những kinh nghiệm tích cực mà con đã có được xuyên qua phàm linh này và các kinh nghiệm này trở nên một phần của căn thể (causal body) của con.

Ôi Đại thượng sư, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

2 | Giới thiệu Đại Thượng sư Maha Chohan

“Maha” nghĩa là đại, điều này có nghĩa là Đại thượng sư Maha Chohan là người lãnh đạo hay người điều khiển bảy vị thượng sư. Đại thượng sư thật ra là tên chức vụ và không phải danh tánh của một cá thể. Do đó, trong dòng thời gian, đã có những vị chân sư khác nhau nắm giữ chức vụ này. Vị chân sư hiện thời nắm giữ chức vụ này đã không công bố danh tánh thăng thiên của thày.

Vị chân sư hiện nay nắm giữ chức vụ Đại thượng sư đã từng hiện thân như nhà thơ Hy lạp Homer, nổi tiếng là tác giả trường thi Iliad và Odyssey. Các thiên anh hùng ca này biểu trưng cho hành trình mà tất cả chúng ta sẽ đi qua, đối mặt với các “quái vật” trong tiềm thức mình để tìm đường về nhà hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của mình. Trong kiếp cuối cùng, Đại thượng sư hiện thân như một người chăn cừu tầm thường, chứng tỏ là không phải lúc nào các chân sư thăng thiên cũng hiện thân như những nhân vật lỗi lạc trong lịch sử. Điều này có nghĩa là những người như chúng ta cũng có thể thăng thiên.

Đại thượng sư là vị giám đốc của Đền thờ Xoa dịu, địa điểm ở cõi bản sắc bên trên hòn đảo Tích Lan. Đền thờ này cũng là điểm kết tụ hành tinh cho các năng lượng của đấng Thánh linh, và Đại thượng sư là vị đại diện hành tinh của lực tâm linh này.

Thánh linh là một năng lượng hay một lực chuyển động được tạo ra từ nỗ lực sáng tạo gộp chung tất cả những sinh thể đã nâng cao tâm thức của họ từ khi thế giới hình tướng được sinh tạo. Nói cách khác, mỗi lần chúng ta biểu lộ sự sáng tạo trong tình thương người để nâng cao toàn thể sự sống, chúng ta gia nhập dòng chảy sáng tạo của Thánh linh, cũng được gọi là Dòng sông sự Sống.

Điều này có nghĩa là khi động lực và ý định của chúng ta trong sáng, Thánh linh sẽ khuếch đại các nỗ lực sáng tạo của chúng ta. Chúng ta cũng có thể thỉnh cầu Thánh linh giúp chúng ta nhìn thấy bất cứ yếu tố không trong sáng nào trong bản thể chúng ta. Và chúng ta có thể thỉnh cầu năng lượng chuyển hóa toàn khắp của Thánh linh để thanh tẩy bốn thể phàm của chúng ta khỏi mọi bất toàn. Cầu thỉnh Thánh linh rất hiệu nghiệm vì nó được tạo ra từ nỗ lực sáng tạo của cả bảy tia sáng, có nghĩa là nó kết hợp đặc tính tích cực của cả bảy tia sáng một cách hoàn toàn quân bình.

Vậy ta có thể nói là Đại thượng sư là nguyên mẫu của một sinh thể có sự quân bình toàn hảo giữa bảy tia sáng. Khi con gặp Hiện diện của Đại thượng sư, ngay lập tức con kinh ngạc thấy thày khác biệt bảy vị Thượng sư. Một vị Thượng sư đã đạt được thành tựu trên cả bảy tia sáng, nhưng vì vị Thượng sư là đại diện chính của một tia sáng, lẽ tự nhiên thày tỏa rạng đức tính của tia sáng đó nhiều hơn.

Đại thượng sư đã điều ngự được cả bảy tia sáng, kết hợp với Tia thứ Tám của Phối hợp. Cho nên, con sẽ trải nghiệm Hiện diện của thày dưới hai dạng. Nếu hiện thời con đang dụng công với một tia đặc thù, Đại thượng sư có thể điều chỉnh dáng vẻ của thày để tỏa rạng đặc tính của tia sáng đó mạnh hơn. Nhưng nếu con nhìn kỹ hơn, con sẽ thấy Hiện diện của thày thay đổi hay lung linh liên tục khiến cho thày không duy trì lâu ánh sáng rực rỡ của một tia đặc thù. Thay vào đó, con có thể thấy rõ là Hiện diện của thày sẽ thay đổi, tỏa rạng một màu rồi chuyển sang tỏa rạng cầu vồng có cả bảy màu.

Đứng trong sự Hiện diện của Đại thượng sư, con nhanh chóng nhận ra là con được hoàn toàn bao bọc trong một vòng năng lượng rất ư thoải mái và xoa dịu. Đó là vì Đại thượng sư luôn luôn hòa điệu với dòng chảy của Thánh linh, và do đó thày có thể thấy được là mọi dáng vẻ bên ngoài trên trái đất tối hậu không có thật, và chúng cũng đang ở trong một tiến trình thay đổi liên tục. Con có thể đến với Thượng sư với tâm nặng chĩu hay có vấn đề, nhưng nếu con cố gắng làm cho tâm vỏ ngoài yên lắng và hòa điệu với Hiện diện của thày, thì con sẽ nhanh chóng cảm nhận là tất cả các vấn đề này đều thăng vượt được.

Con nhanh chóng nhận ra là Đại thượng sư có khả năng xoa dịu rất cao vì thày tuyệt đối không có một chút nào dấu vết của chỉ trích, lên án hay phán xét. Làm sao thày có thể phê phán bất cứ ai khi thày biết là mọi dáng vẻ bên ngoài đều tạm bợ và không tránh khỏi chuyện chúng sẽ thay đổi vì lực hút từ tính của Thánh linh?Để có thể cảm nhận được lực này, con hãy để ý là chúng ta không thực sự cảm nhận được là trái đất lúc nào cũng đang di động trong không gian. Tuy nhiên khoa học đã khám phá rằng toàn bộ vũ trụ đang nở ra, như thế thái dương hệ của chúng ta lúc nào cũng được kéo đi theo dòng sông vũ trụ khổng lồ này. Lẽ tự nhiên, không có lực nào trên trái đất có thể cưỡng lại hay ngưng lại lực chuyển động vũ trụ này. Và tương tự, không có lực nào trong tâm con người có thể ngưng dòng chảy của Thánh linh được.

Dĩ nhiên là chúng ta có quyền tự quyết, do đó chúng ta có thể đóng cửa lại để Thánh linh không thể nào tuôn chảy qua bản thể của cá nhân chúng ta. Tuy nhiên, sự cưỡng chống lại Thánh linh không thể kéo dài mãi mãi, bởi vì khi toàn thể vũ trụ tiếp tục chuyển động, việc chống lại dòng chảy càng ngày càng khó hơn và khó hơn cho chúng ta. Cho nên, chúng ta sẽ tới một điểm tâm quá hỗn loạn đến độ chúng ta không còn chịu đựng được nó nữa, và rốt cuộc chúng ta sẽ buông bỏ phần nào nỗ lực cưỡng chống dòng chảy của Thánh linh. Vì biết được điều này, Đại thượng sư không có nhu cầu chỉ trích chúng ta, nhưng thày luôn luôn sẵn sàng giúp chúng ta buông bỏ sự chống cự và buông mình xuôi theo dòng chảy của Dòng sông sự Sống. Đại thượng sư tìm cách giúp con biết là con có thể buông bỏ bất cứ khía cạnh nào của ngã tách biệt, và khi con làm thế, Thượng đế sẽ “không còn nhớ tội lỗi của con nữa.” Như thế, Thượng sư giúp con thấy là thực sự chẳng có vấn đề gì cần giải quyết, chẳng có nhu cầu bù đắp cho bất kỳ thiếu sót nào, lỗi lầm nào hay bất toàn nào.

Con chỉ đơn giản buông bỏ các ảo tưởng và cầu thỉnh bảy tia sáng và Thánh linh chuyển hóa tất cả các năng lượng tha hóa và sau đó con được tự do tuôn chảy trở lại với lực luôn luôn thăng vượt phấn chấn mà Đại thượng sư là một với. Nếu con cho phép Đại thượng sư, thày sẽ giúp con cũng cảm thấy mình là một với lực đó. Khi ấy con sẽ biết rằng cảm nhận hợp nhất này đáng để con buông bỏ mọi khía cạnh của cái ngã vỏ ngoài. Vì quả thực không có gì so sánh được với sự hợp nhất đó; nó là Hòn ngọc rất Quý giá và đối với Đại thượng sư, không niềm vui nào lớn lao bằng khi thày có thể ban Hòn ngọc này cho những học viên đã đạt được các khai ngộ của Thánh linh. Buổi lễ này diễn ra tại sảnh đường chính của đền nhập thất của thày, nơi có sự tập trung mạnh mẽ của các năng lượng của Thánh linh.

37 | Hành tinh địa cầu là một bộ máy giả thực tại

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 1/12/2019 tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Thày sẽ trở ngược về một câu thày đã nói cách đây 2500 năm vào thời thày còn hiện thân trong một cơ thể vật lý trên địa cầu. Một trong những lời dạy cốt yếu của Phật giáo là mọi thứ đều là Phật tánh. Câu này thật sự nghĩa là gì? Nhiều người đã bị bối rối vì câu này. Nhiều Phật tử chân thành và thiện tâm đã suy đoán về câu này, đưa ra những thuyết cùng những cách diễn giải khác nhau, trong số đó có nhiều thuyết phần nào cũng có căn cứ. Thày hoàn toàn không muốn chỉ trích hay thay thế những thuyết này, nhưng thày muốn cho con một cái nhìn dựa trên tâm thức tập thể ngày hôm nay cũng như những giáo lý mà các chân sư thăng thiên đã trao truyền cho tới giờ.

Nếu con hiểu mọi thứ đều là Phật tánh, điều này có nghĩa là Phật tánh phải vượt khỏi hình tướng. Con thử nhìn hình tướng trong vũ trụ, nhìn cái ghế này, nhìn tấm thảm kia, nhìn cửa sổ, nhìn cái bàn; liệu con có thể nói cái bàn đó là Phật tánh hay không? Con sẽ không nói như vậy, nhưng con sẽ nói là cái bàn được tạo ra từ Phật tánh. Nói cách khác, nếu con có thể nhìn đằng sau hình tướng, nhìn vượt khỏi hình tướng, thì Phật tánh sẽ ở đó. Điều này khó hiểu cho con người cách đây 2500 năm.

37.1. Phật tánh và hạt nguyên tử

Với trí năng thời nay, việc nắm bắt điều này dễ hơn một chút vì con đã lớn lên và được dạy khái niệm rằng cái ghế này, cái bàn này được cấu tạo bằng những đơn vị nhỏ hơn gọi là phân tử, nguyên tử, ngay cả hạt hạ nguyên tử. Cho nên con có thể nói mọi thứ đều là nguyên tử, và do đó cái ghế này cũng là nguyên tử. Tất nhiên, không có nghĩa là các hạt nguyên tử trông giống như cái ghế. Con cũng biết nguyên tử không thể nhìn thấy bằng mắt trần trụi và do đó nguyên tử không có cái mà bình thường con gọi là hình dạng. Chúng không có hình dạng của bàn ghế. Chúng có thể có một hình dạng nào đó như con đã được dạy suy nghĩ, nhưng đó không phải là cái gì con nhìn thấy bằng giác quan. Cho nên con có thể nhảy vọt một bước và bảo rằng y như cái ghế được tạo bằng nguyên tử thì nguyên tử được tạo bằng Phật tánh. Nhưng sự khác biệt ở chỗ là Phật tánh không có hình tướng. Nó không có hình tướng nào mà con có thể nhận thức, mà con có thể nhận thức bằng tâm vẫn tập trung vào vũ trụ vật chất này.

Điều con có thể nói là Phật tánh có tiềm năng khoác lấy hình tướng. Nhưng nếu Phật tánh không có hình tướng, tại sao con lại cần đến Phật tánh? Con cần đến nó bởi vì nếu không có một bản tánh vô hình tướng có khả năng khoác lấy hình tướng, thì hình tướng được tạo ra như thế nào?

Con có thể suy ra điều gì từ những khám phá của khoa học? Con lấy một vật mà mắt có thể nhìn thấy, một hình dạng hữu hình như một cái ghế và con nhận ra là cái ghế đó không bỗng xuất hiện một cách hoàn toàn bất ngờ trong hình tướng hiện thời của nó, nó không xuất hiện từ tự nhiên, hay từ hư vô. Không lúc nào con có thể nói: “À bây giờ không có ghế, à bây giờ có ghế. Đùng một cái, thế là ghế hiện ra.” Đó không phải là cách thức vật được tạo ra. Con biết chuyện này, con biết cái ghế làm bằng kim loại. Kim loại đó khởi đầu là các loại quặng dưới đất, nó phải được đào lên, phải được nấu chảy, phải được biến thành sắt, và chất sắt này phải được chế tạo thêm nữa để có hình dạng nhất định và trở thành chân ghế. Xong lại cần thêm gỗ cũng được chế tạo và ghép vào. Rồi thêm lớp đệm, thêm lớp vải, tất cả những thứ đó phải được chế tạo để làm cái ghế.

Nhưng tất cả những thứ đó mà con gọi là nguyên liệu cũng không xuất hiện hoàn toàn bất ngờ. Quặng sắt nằm dưới đất được tạo bằng phân tử sắt, nhưng phân tử được tạo bằng những đơn vị nhỏ hơn gọi là nguyên tử, nguyên tử được tạo bằng hạt hạ nguyên tử, và thậm chí hạt hạ nguyên tử được tạo bằng sóng năng lượng. Cho nên khi con đi vào từng giai đoạn cần thiết để tạo ra một hình tướng, một hình tướng mà mắt thấy được, con bước xuống những tầng cấp ngày càng vi tế hơn. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là con lần hồi tiến tới những hình tướng đơn giản hơn. Một cái ghế, hay ngay cả một công trình công phu hơn như toàn bộ tòa nhà này, là một cái gì vô cùng phức tạp. Nhưng phân tử thì ít phức tạp hơn, nguyên tử ít phức tạp hơn nữa, và hạt hạ nguyên tử còn ít hơn nữa. Cho nên con hướng về một trạng thái càng ngày càng ít phức tạp, một hình tướng càng ngày càng ít rõ rệt.

Vì thế, thật khó mà nhảy được bước nhảy vọt kia và nói: Phải tới một điểm chúng ta có một chất cơ bản, ít ra là chất cơ bản mà chúng ta có thể nhận thức từ vũ trụ này, và chất cơ bản này không có hình tướng nhưng lại có tiềm năng khoác lấy bất kỳ hình tướng nào. Chất này, chúng ta có thể gọi là Phật tánh. Phật tánh, một cách nào đó, là nhiều hơn thế, nhưng ít ra – để giúp con hình dung hay nhận thức được – chúng ta có thể nói Phật tánh là chất cơ bản mà từ đó mọi hình tướng được nặn ra.

37.2. Nhận thức bất nhất của chủ nghĩa duy vật

Bây giờ sẽ có người bảo là điều trên không phù hợp với cái nhìn tổng quan của khoa học hiện thời, nhưng đó là vì cái nhìn của khoa học hiện thời dựa trên một sự bất nhất nhận thức (cognitive dissonance). Khoa học đã chứng minh là con có thể bước xuống những tầng ngày càng sâu hơn, vượt khỏi những hình thể mà mắt người có thể thấy. Kết luận hợp lý là phải có một chất cơ bản nào đó mà từ đó tất cả mọi thứ được tạo ra.

Vấn đề với khoa học là khoa học bị hệ tư tưởng duy vật chi phối đến độ cho rằng không thể có bất cứ gì ngoài vũ trụ vật chất. Và theo cách nhận thức của các nhà chủ nghĩa duy vật, điều này có nghĩa là không thể có một chất nào mà không có hình tướng, bởi vì cái đó sẽ là hư vô, và như người ta hay nói, không gì có thể hiện ra từ hư vô. Điều này hoàn toàn đúng: không gì có thể hiện ra từ hư vô, hay chính xác hơn, không vật gì có thể hiện ra từ hư vô, mà mọi vật hiện ra từ Phật tánh, tức là chất cơ bản. Ý tưởng một chất cơ bản vô hình tướng nhưng lại là nguồn gốc của mọi hình tướng, hoàn toàn phù hợp với các khám phá của khoa học. Có lẽ nó không phù hợp với hệ tư tưởng duy vật, nhưng chẳng qua hệ tư tưởng duy vật chỉ là một trong nhiều cách diễn giải các khám phá của khoa học. Thậm chí hệ tư tưởng duy vật còn không giải thích được tất cả mọi khám phá của khoa học hiện thời, và qua đó con có thể thấy được sự thiếu sót của nó.

Cho nên có một chất cơ bản gọi là Phật tánh mà từ đó mọi hình tướng được tạo thành. Điều này thật sự nghĩa gì? À, có một khái niệm mà nhiều người rất gắn bó và xem là vô cùng quan trọng. Đó là khái niệm “thực tại.” Một vật hoặc có thật, hoặc không có thật. Nhưng nếu tất cả mọi thứ mà con nhìn thấy trong vũ trụ vật chất được hình thành từ một chất cơ bản vô hình tướng, thì liệu con có thể nói rằng mọi hình tướng mà con thấy là thực hay không? Chúng không có hiện hữu riêng biệt, chúng không có hiện hữu độc lập.

Nếu không có Phật tánh, nếu không có chất cơ bản, thì sẽ không thể có hình tướng. Mỗi hình tướng mà con thấy, cái bàn, cái ghế, mặt trời, các vì sao, tất cả đều được tạo ra từ cùng một chất cơ bản. Chất cơ bản cấu tạo cái ghế này có thể được biến hóa, hay đúng hơn, nó có thể được đem trở lại trạng thái vô hình tướng của nó, rồi được dùng để nặn ra một hình tướng hoàn toàn khác như một đóa hoa hay một ngôi sao ở xa tít, đó là vì trong Phật tánh đó, trong sự vô hình tướng cơ bản đó, không có thời gian, không có không gian, không có tính địa phương (locality) nào cả. Một khi hình tướng, một khi chất cấu tạo cái ghế này, được đem trở lại trạng thái vô hình tướng, nó có thể tức khắc (tức là vượt thời gian) được sử dụng để hình thành một ngôi sao ở xa hàng triệu năm ánh sáng.

Vậy liệu con có thể bảo cái ghế này là thực khi nó không có sự hiện hữu độc lập, tự đủ nào hay không? Nó có một sự hiện hữu lệ thuộc, vì rốt cuộc nó phụ thuộc vào Phật tánh, nhưng tự thân nó không thể hiện hữu. Cái ghế này sẽ có nghĩa là gì nếu không có sàn nhà để đặt ghế trên sàn, hay không có một người để ngồi vào ghế? Liệu ghế có đi vào được hiện thực nếu không có những người nghĩ ra nhu cầu ngồi cao hơn sàn nhà? Cho nên, đúng vậy, không có vật gì có thể hiện ra từ hư vô, nhưng Phật tánh không phải là hư vô.

37.3. Lý duyên khởi

Cho nên con thấy là mọi vật, mọi hình tướng, đều có một nguồn gốc lệ thuộc, một nguồn gốc phụ thuộc lẫn nhau – một nguyên nhân liên khởi, một lý duyên khởi. Vật không hiện ra trong hư không, nó không hiện ra từ hư không. Nó được tạo bằng một chất cơ bản, nhưng nó được tạo ra vì một lý do, một mục đích. Ghế đã không thể hiện hữu nếu không có sàn, nếu không có tường, nếu không có mái, nếu không có người, nếu không có tất cả những thứ đó. Nó đã không thể được tạo ra nếu không có một địa cầu với quặng sắt, nếu không có cây cối mọc lên thành gỗ, vân vân…

Cho nên con thấy là không có gì, không có hình tướng nào, có thể được xem là thực trong ý nghĩa tối hậu. Không một vật nào hiện hữu tự thân nó, hiện hữu một cách độc lập. Mọi thứ đều nối kết. Mọi thứ đều nối kết lẫn nhau. Toàn bộ vũ trụ là một tổng thể nối kết duy nhất, một tổng thể tương kết duy nhất. Thật ra điều này phù hợp với các khám phá của khoa học. Các nhà khoa học đã phát hiện là ý niệm địa phương và tách biệt không hiện hữu. Thực tại sâu xa hơn là tính phi địa phương (non-locality), tính tương kết (interconnectedness). Thực tại mà con nhìn thấy khi con đạt được cái mà thày gọi là “giác ngộ” là một thực tại nơi không có vật gì tách biệt ở bất cứ nơi nào trong vũ trụ. Mọi thứ đều tương kết. Không chỉ có vậy, mà con còn thấy không có vật nào là thường hằng.

Khoa học đã cho thấy điều gì mà nhiều tôn giáo đã không chỉ ra? Khoa học cho thấy là có một tiến trình rất dài đã lần hồi hình thành những hình dạng khác nhau. Không có sự sáng tạo tức khắc, mà sự sáng tạo xảy ra lần hồi khi những gì được tạo ra trước – hay đã đi vào hiện hữu trước – trở thành nền tảng cho những gì đi sau vào hiện hữu. Cho nên một lần nữa, nguồn gốc hình thành tương kết có thể đi trở ngược về rất, rất xa. Thày biết là tâm đường thẳng sẽ nói là phải có một điểm khởi đầu tuyệt đối, nhưng chúng ta hãy gác lại chuyện này một bên để xét thấy rằng chúng ta có thể đi trở ngược lại thời gian trong quá trình lần hồi đó, thì một lần nữa, nó chứng minh tính tương kết của tất cả.

Vậy đâu là mục đích của toàn bộ tiến trình duyên khởi đó, là nơi thực tại sâu xa của Phật tánh khoác vào tất cả những hình tướng khác biệt đó? Mục đích là gì? Các nhà duy vật quả quyết là không có mục đích gì hết; tất cả chỉ xảy ra tình cờ. Tình cờ là gì chứ? Họ có thể giải thích tình cờ là gì chăng? Thế nào là tính ngẫu nhiên (randomness)? Hãy định nghĩa đi. Không thể được. Tại sao vậy? Tại vì tính ngẫu nhiên thực sự không có hình tướng, và trong hệ tư tưởng duy vật, chỉ có những gì có hình tướng mới được xem là thực. Bất nhất nhận thức. Họ tuyên bố là họ có một thế giới quan, nhưng thế giới quan nhằm giải thích mọi vật đã có thể ra đời như thế nào thì phải dựa vào một điều gọi là sự tình cờ, sự ngẫu nhiên. Thế giới quan của họ bảo rằng chỉ vật nào có hình tướng mới thực, nhưng tình cờ và ngẫu nhiên không có hình tướng thì làm sao chúng là thực được đây? Và nếu chúng không thực, làm thế nào chúng có thể tạo ra tất cả những hình tướng mà họ bảo là có thực? Bất nhất nhận thức.

Thêm một tầng lớp bất nhất nhận thức nữa: Con là ai mà tuyên bố chỉ có thế giới vật chất là hiện hữu? Con là ai? Con là sinh thể có khả năng tự nhận biết (self-awareness). Lý do duy nhất con có thể bảo một cái gì đó có thực hay không thực là vì con tự nhận biết. Tự nhận biết đến từ đâu? Liệu con có thể giải thích làm thế nào sự tình cờ và ngẫu nhiên sản xuất được khả năng tự nhận biết, là khả năng tìm kiếm trật tự ở mọi nơi? Làm thế nào chuyện này có thể xảy ra? Con có giải thích được không? Nếu con không giải thích được thì có lẽ cách giải thích của con không trọn vẹn, thậm chí có thể là không thực nữa. Vì vậy, nếu con cởi mở đi tìm một cách giải thích nào khác, thì đó là như sau.

37.4. Mục đích có vũ trụ là để có trải nghiệm

Tất cả những hình tướng mà con thấy trong thế giới vật chất, vật lý, hữu hình, đã được tạo ra vì một mục đích duy nhất: để đem lại cho các sinh thể tự nhận biết một trải nghiệm nào đó. Các con là con người, các con tự xem mình là dạng sống tiến bộ nhất trên địa cầu. Một lần nữa, bất nhất nhận thức. Con tuyên bố, con nghĩ con là một trong những dạng sống chót hết nếu không là dạng sống xuất hiện chót hết trên trái đất. Có nghĩa lý gì mà bảo rằng dạng sống tiến bộ nhất đã được tạo ra chót hết?

Sẽ chẳng hữu lý hơn mà nói rằng tất cả những gì đã được tạo ra, tất cả các hình tướng đã xuất hiện, đều xoay quanh dạng sống tiến bộ nhất hầu mang lại cho các sinh thể tự nhận biết này một trải nghiệm nhất định nào đó? Con thử nhìn một nhà hát, mục đích của nhà hát là gì? Để mang lại cho khán giả một trải nghiệm. Liệu nhà hát có xuất hiện từ một tiến trình ngẫu nhiên? Liệu nhà hát có tự nó xây dựng lên, rồi sau khi xây dựng, tự dưng có khán giả ngẫu nhiên hiện ra? Sẽ chẳng hữu lý hơn mà nói rằng ngay từ đầu, nhà hát đã được xây dựng với một trọng tâm là khán giả?

Thế giới là gì? Trong thế giới ngày nay, người ta có một khái niệm dựa trên công nghệ và do khoa học đề xướng, gọi là máy giả thực tại (reality simulator). Con có thể đeo vào một cặp kính, đi vào một căn phòng được xây đặc biệt, và bỗng nhiên con nhìn thấy trước mắt một môi trường nhân tạo. Mục đích sáng chế máy giả thực tại là gì? Là đem lại cho người dùng máy một trải nghiệm cụ thể.

Có thể con sẽ nói trải nghiệm này không dựa trên thực tại, và người đó không đang trải nghiệm một thế giới có thực. Nhưng y cho đó là thế giới thực, y trải nghiệm như thể đó là thế giới thực, và do đó dưới nhãn quan của y, y đang có một trải nghiệm thực. Và bởi vì y có trải nghiệm đó cho nên y có thể thay đổi tâm thức, xoay chuyển tâm thức của mình – tức là y có một thế giới quan đổi khác. Y có thể cảm thấy mình đã chán ứ một loại trải nghiệm nào đó và rốt cuộc y quyết định mình đã chán chê rồi, bây giờ mình muốn một trải nghiệm khác hơn.

Một số người có thể sẽ hoài nghi và bảo: “Ồ chuyện này hoàn toàn vô lý, không có gì người đó trải nghiệm là thực cả, vậy điều gì khiến bạn chắc chắn là những gì bạn trải nghiệm trong thế gian là thực?” Liệu có khó lắm không để làm bước nhảy và nói: “Những gì tôi trải nghiệm trong máy giả thực tại có vẻ thực khi tôi ngồi trong máy.” Vậy chẳng phải là hành tinh địa cầu là một bộ máy giả thực tại tinh xảo hơn bất cứ gì loài người từng chế ra?

Chắc chắn con có thể nói là khi con ở trong địa cầu, ở trong một cơ thể vật lý trên địa cầu, những gì con trải nghiệm qua cơ thể đó và giác quan đó dường như vô cùng hiện thực, phải không con? Và nếu con là một nhà duy vật, con có thể nói: “Nhưng đâu là ích lợi của một trải nghiệm không thực?” Thật chẳng quan trọng gì hết nếu thế giới mà con trải nghiệm trong máy giả thực tại có thực hay không. Điều quan trọng là: trải nghiệm mà con đang có, trải nghiệm nhất thời mà con đang có, ảnh hưởng thế nào đến tâm thức của con? Trải nghiệm thì nhất thời nhưng tâm thức con thì cứ tiếp nối, và một trải nghiệm nhất thời có thể tác động tâm thức con, đặt nó vào một con đường mới, tạo cho nó một hướng đi mới, mang lại cho nó một ý niệm mới về cái ta. Đây chính là công dụng của máy giả thực tại.

37.5. Giai đoạn trầm mình của máy giả thực tại

Điều duy nhất con cần làm là nhảy được bước đó và nhận ra địa cầu là một bộ máy giả thực tại. Con có thể nói, bởi vì mọi thứ đều là Phật tánh cho nên mọi thứ cũng có thể được đem về trạng thái thuần khiết vô hình tướng của nó rồi chuyển thành một hình tướng khác. Không một hình tướng nào trên trái đất là thực ở mức tối hậu. Các nhà khoa học cũng biết ngay cả trái đất cũng đã không luôn luôn hiện hữu và sẽ không tồn tại mãi mãi. Cho nên theo một định nghĩa khoa học, chúng ta phải nói là không có gì trên địa cầu là thực. Nhưng điều này có quan trọng lắm không? Điều quan trọng là đối với mấy tỷ sinh thể tự nhận biết đã bước vào máy giả thực tại có tên là trái đất, thế gian có vẻ thực, và vì nó có vẻ thực cho nên nó đem lại cho họ một trải nghiệm khiến tâm thức của họ, ý niệm cái ta liên tục của họ xoay chuyển. Đó là toàn bộ mục đích.

Cho nên chúng ta có thể nói, hành tinh địa cầu là một bộ máy giả thực tại được thíết kế để đem lại cho các sinh thể tự nhận biết một loại trải nghiệm đặc thù. Vậy đâu là trải nghiệm mà địa cầu đã được thiết kế để cho con? Có hai loại trải nghiệm, hai loại rất khác nhau mà địa cầu được thiết kế để cho con. Một loại là những trải nghiệm “trầm mình”, là khi con có cảm giác mình đang sống trong một thế giới có thực. Trong tâm, con hoàn toàn đồng hóa với cơ thể vật lý và con tự xem mình là một sinh thể có thực, sinh sống trong một thế giới có thực, và thế giới này tác động đến cách nhìn của con về chính con. Nói cách khác, con bị thế gian quy định. Đây là trải nghiệm trầm mình – tuyệt đại số loài người trên hành tinh vẫn ở trong loại trải nghiệm này, vẫn ở trong giai đoạn trầm mình. Họ nghĩ thế giới là thực, họ nghĩ trải nghiệm của họ là thực, và không những họ tin chắc mình ở trong một thế giới thực, mà ngay cả nhận thức của họ về thế giới, ý tưởng của họ về loại thế giới mà họ đang sống, cũng là thực.

Đây là điểm độc đáo của chiếc máy giả thực tại của địa cầu: nó có thể chứa bảy tỷ sinh thể tự nhận biết, họ đều sống trong cùng một môi trường – mặc dù môi trường vỏ ngoài khắp hành tinh có thể khác, nhưng họ sống trên cùng một hành tinh – vậy mà mỗi người lại có một trải nghiệm chủ quan cá nhân về hành tinh này. Nói cách khác, đối với số đông thì môi trường vỏ ngoài giống nhau, nhưng đối với mỗi cá nhân thì trải nghiệm bên trong lại khác nhau.

Tại sao như vậy? Bởi vì như thày đã trình bày, toàn bộ mục đích của thế giới hình tướng là để đem lại cho các sinh thể tự nhận biết một trải nghiệm đặc thù. Làm thế nào họ có được trải nghiệm này? À, họ không có trải nghiệm này bên ngoài tâm họ đâu. Cho dù các triết gia có nói gì, con không thể trải nghiệm thế giới như nó là, vì con trải nghiệm thế giới qua tâm con, và điều này có nghĩa là các đặc tính của tâm con sẽ ảnh hưởng cách con nhìn thế giới. Ngay cả khoa vật lý lượng tử cũng đã chứng minh là tâm của nhà khoa học ảnh hưởng những đo đạc mà họ quan sát trong thử nghiệm. Cho nên mỗi con người đều có một trải nghiệm đặc trưng của mình. Mỗi con người đều tin chắc trải nghiệm của mình là thực.

Nhưng cảm nhận thực tại đó đến từ đâu? Nếu thật là mọi thứ được tạo ra từ một chất cơ bản và không có hình tướng nào là thường hằng hay độc lập, thì không hề có thực tại nào bên ngoài tâm con người. Cho nên cảm nhận thực tại phải đến từ bên trong tâm con người – chứ nó đến từ đâu nữa? Vậy làm thế nào hai người có thể sống trong cùng một môi trường mà lại có trải nghiệm rất khác nhau về môi trường này, chẳng hạn như một tín đồ sùng đạo Cơ đốc tin chắc thế giới vận hành y như Kinh thánh mô tả, trong khi người thứ hai có thể là một người cũng không kém sùng bái nhưng lại sùng bái chủ nghĩa duy vật, sẽ tin chắc thế giới vận hành y như được mô tả trong thánh kinh duy vật?

Đó là vì mỗi người mang trong tâm mình cái mà chúng ta có thể gọi là một bộ phin, nó lọc lựa ra một số tín hiệu đến với mình qua giác quan. Tâm loại bỏ đi một số tín hiệu, và đối với những tín hiệu được phép đi qua, tâm áp chồng lên đó một hình ảnh. Cho nên đối với tín đồ Cơ đốc, thế giới quan Cơ đốc sẽ có vẻ thực, trong khi đối với người duy vật thì thế giới quan duy vật sẽ có vẻ thực. Theo nghĩa tối hậu thì cả hai thế giới quan đều không thực.

Thậm chí, chuyện tranh luận xem cái nào thực hơn cái nào – cái nào đúng hơn cái nào – cũng không nghĩa lý gì hết. Giản dị, chúng chỉ là những thế giới quan được tạo ra trong máy giả thực tại trên địa cầu, và máy giả thực tại là một cái máy chuyên làm đồ giả. Đó không phải là thực tại mà chỉ mô phỏng thực tại. Có nghĩa là không một thế giới quan nào có thể được chế tạo trong máy là thực. Nó chỉ có vẻ thực khi con nhìn nó từ một góc cạnh nào đó qua một phin lọc nào đó trong tâm – một bộ phin hay một trạng thái của tâm lọc lựa ra một số tín hiệu, hay áp chồng lên các tín hiệu còn lại một cách diễn giải nào đó. Khi con không chất vấn phin lọc này, khi thậm chí con không nhận ra đó là một phin lọc, thì những gì con trải nghiệm xuyên qua phin lọc sẽ có vẻ rất thực đối với con. Đây là “giai đoạn trầm mình” của máy giả thực tại có tên là địa cầu.

37.6. Giai đoạn tỉnh ngộ

Vậy giai đoạn kia là gì? Là “giai đoạn tỉnh ngộ”. Giờ đây con đang bắt đầu thức tỉnh từ cảm nhận mình sống trong một môi trường thực nơi mọi chuyện mình trải nghiệm đều thực. Nhưng làm thế nào con thức tỉnh khỏi cảm nhận này chứ? Chỉ sau khi con sẵn lòng tra vấn thế giới quan, tra vấn phin lọc của con – là phin lọc đã loại bỏ một số tín hiệu và áp đặt một cách diễn giải trên những tín hiệu mà nó để cho lọt qua.

Khi con khởi sự tra vấn thế giới quan này, đó là lúc con bắt đầu tỉnh ngộ. Con thấy gì trên địa cầu? Con thấy là mọi người đã tạo dựng nhiều thế giới quan khác nhau. Đi ngược dòng thời gian, con thấy một số nền văn minh đã tồn tại trên địa cầu nhưng bị phân rẽ bởi một khoảng cách, bởi đại dương. Đã có một nền văn minh Maya với thế giới quan khác hẳn thế giới quan của châu Âu vào cùng thời, nhưng do bị chia cách bởi Đại tây dương, cả hai thế giới quan đều không hay biết gì về nhau. Cho nên một nền văn minh có thể tồn tại nhiều thế kỷ mà thế giới quan không hề bị thách thức. Chuyện này cũng tốt thôi, vì nó hoàn toàn phù hợp với công dụng của bộ máy giả thực tại.

Đã có một thời có sự cần thiết là những nền văn minh bị chi phối bởi những thế giới quan cá biệt phải sống tách biệt và không tương tác với nhau để thế giới quan không bị thách thức. Đã có một thời con người cần sống trong bộ máy giả thực tại gọi là địa cầu và không có gì sẽ thách đố thế giới quan của họ. Suốt một thời gian rất đài, họ được phép có trải nghiệm xuyên qua thế giới quan của họ. Nhưng con thấy đó, tâm con người không bao giờ chịu ngồi yên. Con người là một sinh thể không được sinh tạo trong một trạng thái tĩnh tại, mà đã mang sẵn trong bản chất một niềm khao khát vô cùng sâu sắc muốn tăng trưởng.

Do mong muốn tăng trưởng này mà con người không thể nếm mãi cùng một trải nghiệm. Con người không thể trầm mình mãi mãi trong kinh nghiệm đó mà vẫn cứ bảo: “Ôi sao trải nghiệm này quá tuyệt vời!” Có thật không? Con không thể có trải nghiệm đó mãi mãi. Con không thể ở trong cùng trải nghiệm mãi mãi vì sẽ tới lúc con bị chán ngấy. Con muốn cái gì hơn thế.

Đến một giai đoạn con sẽ chán chê một loại trải nghiệm, và giờ đây con muốn một loại trải nghiệm khác. Con muốn một cái gì khác. Đó là tại sao con thấy có những người từng đầu thai trong một nền văn minh suốt nhiều kiếp lại muốn thay đổi, và họ đầu thai trong một nền văn minh khác để họ nếm một trải nghiệm khác mặc dù họ vẫn ở trên trái đất. Cũng sẽ tới một điểm khi giờ đây con không chỉ muốn một loại trải nghiệm khác trong khả năng cống hiến của máy giả thực tại địa cầu, mà con muốn nhiều hơn những gì con có thể có được trên địa cầu. Đây là thời điểm một dòng sống khởi sự giai đoạn tỉnh ngộ.

Yếu tố nào định đoạt loại trải nghiệm mà người ta muốn có? Bao lâu họ cần trải nghiệm như vậy? Phải, đó là quyền tự quyết. Tuy nhiên, điều gì cho con khả năng có loại trải nghiệm mà con có thể có trên địa cầu? Như thày vừa nói, cái ghế không tự dưng hiện ra từ hư vô. Một người không hiện ra từ hư vô. Để có thể chế tạo những loại trải nghiệm có mặt trong máy giả thực tại địa cầu, phải cần có nhiều người. Đó là khi con thấy một nền văn minh xuất hiện, có thể với hàng triệu người, và trải nghiệm mà họ có được sẽ tùy thuộc vào sự có mặt và tương tác của tất cả những con người đó. Điều này tạo ra một sự nối kết nào đó giữa các sinh thể này.

37.7. Các sinh thể tiến hóa như thế nào

Có thể nói mỗi sinh thể tự nhận biết đã, như các thày có giảng, khởi đầu với một ý niệm bản sắc chỉ nhỏ như cái chấm. Nếu con sống một mình trong toàn vũ trụ, con sẽ khó lòng nào mở rộng ý niệm bản sắc này – chắc chắn con sẽ cần một thời gian rất dài. Nhưng vì con không một mình, vì có những sinh thể tự nhận biết khác trong thế giới của con, cho nên bằng cách tương tác với các sinh thể này, con sẽ khuếch trương ý niệm cái ta của mình nhanh chóng hơn. Do con phần nào bị thách đố, con thấy được nhiều cách khác để nhìn cuộc sống, nhiều cách khác để giải thích thế giới. Đây chính là yếu tố giúp cho máy giả thực tại thực hiện mục đích dễ dàng hơn, là khiến cho sự nhận biết của những sinh thể đang ngụ trong máy được tăng triển và ý niệm cái ta của họ được mở rộng. Cho nên có một điểm khi một nhóm người cần sống chung với nhau dưới hình thức nhóm, nhưng họ vẫn cần sống biệt lập để xây dựng ý niệm bản sắc mà họ đã tạo ra trong nhóm.

Cũng đến một thời điểm khi mong muốn trải nghiệm một cái gì hơn nữa trở thành một nét chủ yếu trong tâm của ít nhất một số người, nhưng làm thế nào chuyện này xảy ra đây? Làm thế nào con có thể trải nghiệm một điều gì khác lạ hay một điều gì hơn nữa nếu mọi người đều bị kẹt trong cùng một thế giới quan? Trong một số trường hợp, người ta có thể đặt lại vấn đề thế giới quan của mình, nhưng chuyện này chỉ xảy ra khi người ta bắt đầu chuyển sang giai đoạn tỉnh ngộ – đây chính là thời điểm con bắt đầu tra vấn thế giới quan của mình một cách tự nguyện trong nội tâm.

Nhưng sự chuyển đổi trực tiếp từ giai đoạn trầm mình sang giai đoạn tỉnh ngộ không dễ thực hiện. Đại khái có một bước chuyển tiếp giữa hai giai đoạn, đó là khi một nền văn minh không thể tiếp tục đứng cô lập mãi, và nó tiếp xúc với một nền văn minh khác đã phát triển riêng rẽ suốt một thời gian rất dài. Như con thấy ví dụ nền văn minh Maya đã trải qua hàng bao thế kỷ phát triển tới mức những năm 1500. Nền văn minh châu Âu cũng đã bỏ ra một thời gian rất dài để phát triển cho tới điểm mốc đó. Nhưng giờ đây cả hai gặp gỡ và đây là cơ hội cho cả hai thăng vượt trạng thái cũ. Thày cũng biết một số người sẽ bảo là cuộc gặp gỡ này đã đem đến hậu quả thảm khốc cho người Maya khi văn minh của họ bị người châu Âu tiêu diệt tàn bạo. Tuy vậy, đó vẫn là một cơ hội cho cả hai khám phá một cách sống khác, một cách nhìn khác về cuộc sống, và đó là một cơ hội tăng triển.

Tất nhiên, con có thể nói là khi hai nền văn minh với thế giới quan khác hẳn nhau bỗng nhiên gặp gỡ, chuyện gì sẽ bắt buộc xảy ra? Cả hai đều đang cảm nhận thế giới quan của mình không chỉ là một thế giới quan mà còn là thực tại – một thực tại dựa trên một thẩm quyền cao hơn, một chân lý tối hậu nào đó. Do đó sẽ không thể tránh được xung đột, không tránh được va chạm, và ai nấy đều cảm thấy thế giới quan của mình bị đe dọa. Mục đích là gì chứ? Mục đích là khi một nhóm dòng sống, ví dụ mấy tỷ người liên hệ với máy giả thực tại địa cầu, đã phát triển tới một mức nào đó, thì sẽ có một số dòng sống đã đến gần hơn giai đoạn tỉnh ngộ, trong khi những dòng sống còn lại vẫn bám vào thế giới quan cũ cùng cảm nhận về thực tại mà thế giới quan này cung cấp, cho nên họ từ chối đặt lại vấn đề.

Nếu những người bám víu này cứ được để yên, có thể họ sẽ ở lại trong máy một thời gian rất, rất dài. Thật sự, họ có thể bị kẹt cứng trong thế giới quan này. Chính vì mọi người sinh sống trong một bộ máy giả thực tại được nối kết với nhau cho nên mới có sự kiện một số sẽ kéo theo những người kia đi lên, và điều này phù hợp với định luật tự quyết.

Hơn thế nữa, khi con sống trong một nền văn minh biệt lập với một thế giới quan nhất định, con có thể có một trải nghiệm nào đó, nhưng chuyện gì xảy ra khi hai nền văn minh đụng độ? Phải chăng đó cũng chỉ là một trải nghiệm khác, một loại trải nghiệm khác mà con có thể có trong máy giả thực tại?

37.8. Chất vấn mọi thế giới quan

Đầu tiên, con trải nghiệm là chỉ có một thế giới quan, tức là thế giới quan của nền văn minh của con. Sau đó con trải nghiệm là có những thế giới quan khác nữa – và quả thật là có rất nhiều thế giới quan khác hẳn nhau. Tất cả đều quả quyết là mình thực, là mình dựa trên một thẩm quyền cao hơn.

Chuyện gì xảy ra khi người ta nhìn ra điều này? Đúng vậy, một số sẽ cố bám vào niềm tin rằng chỉ có thế giới quan của mình là chân chính và họ phải ép người khác tuân theo. Nhưng có những dòng sống khác sẽ bắt đầu suy nghĩ: “Nếu từng nấy thế giới quan khác nhau đều quả quyết là mình thực, thì lôgíc cho thấy tất cả đều không thể thực cùng một lúc. Tất cả đều không thể nào thực khi chúng khác nhau đến như vậy, thậm chí còn đối chọi lẫn nhau.” Đây là lúc sinh thể khởi đầu giai đoạn thức tỉnh. Y bắt đầu chất vấn một cách ý thức những thế giới quan khác nhau, rồi y đạt tới điểm bắt đầu tự vấn: “Tại sao con người lại tạo ra thế giới quan? Tại sao chúng ta cần đến thế giới quan?” Y bắt đầu đặt vấn đề: “Có phải tất cả mọi thế giới quan trên địa cầu đều hạn chế, có phải chúng không mô tả toàn bộ cách vận hành của thế giới? Có chăng một thế giới quan cao hơn chưa được thị hiện trên địa cầu?”  

Sau đó sẽ đến một giai đọan cao hơn khi con bắt đầu hỏi: “Nếu như không có thế giới quan nào là thực một cách tối hậu thì sao? Nếu như chuyện bàn cãi xem thế giới quan nào là thực, là tối hậu, cũng là vô nghĩa? Nếu như tôi chỉ ngừng cảm thấy mình bị đe dọa bởi các loại thế giới quan khác biệt? Nếu như tôi nhìn nhận và nhận ra là một thế giới quan chỉ có một công dụng mà thôi, và công dụng này không phải để quy định thực tại là gì, không phải để mô tả cách vận hành tối hậu của thế giới là gì? Mà công dụng duy nhất của một thế giới quan là để đem lại cho một nhóm người một trải nghiệm nào đó? Vậy tại sao tôi phải lo ngại người khác có thế giới quan khác với tôi? Tại sao tôi không nghĩ: Mình hãy tập trung vào thế giới quan của mình cũng như trải nghiệm mình có qua thế giới quan này? Mình hãy vui hưởng trải nghiệm này, trầm mình vào trải nghiệm này, nếm mùi trài nghiệm này cho tới khi mình chán chê, và khi mình chán chê, đâu là những chọn lựa mở ra cho mình? Phải, khi đó mình sẽ đi tìm một thế giới quan khác sẽ cho mình một trải nghiệm khác.” Chuyện này không có gì sai trái.

Con có thể xoay chuyển như vậy chỉ trong một kiếp đầu thai, nhưng nếu không, chắc chắn con có thể xoay chuyển thế giới quan từ kiếp này sang kiếp khác. Cuối cùng có thể con sẽ tới điểm nhận ra nếu địa cầu thật sự là một bộ máy giả thực tại, thì nếu như có gì ở ngoài bộ máy đó thì sao? Nếu như có một thế giới khác ở ngoài máy thì sao? Khi con bước vào căn phòng được xây đặc biệt trên trái đất để chiếu lên môi trường giả tưởng, con biết là bên ngoài vẫn có một thế giới mà con gọi là thế giới thực. Nếu như tất cả những gì con đã coi là thực chỉ là một cái máy giả thực tại lớn hơn? Nếu như có gì đó bên ngoài bộ máy đó? Và nếu cái đó là thực hơn, có thể đó chính là thực tại bên ngoài bộ máy?

Nói cách khác, những gì các thày gọi là hành tinh tự nhiên – là những hành tinh đã bước vào vòng xoáy hướng thượng luôn luôn tự thăng vượt – có thể được xem là thế giới thực, trong khi các hành tinh phi tự nhiên là máy giả thực tại. Con cũng có thể nói, toàn bộ bầu cõi chưa thăng thiên là một loại máy giả thực tại, và chỉ cõi thăng thiên mới là thế giới thực, cho dù con muốn nhìn thế nào.

37.9. Đặc điểm của máy giả thực tại địa cầu

Dẫu vậy, con cũng có một chọn lựa là đạt tới điểm nhận ra: “Tôi đã chán chê máy giả thực tại trên địa cầu, tôi đã chán chê những loại trải nghiệm mà tôi có thể có trong máy này rồi. Nếu như tôi ‘tốt nghiệp’ thì sao? Nếu như tôi có thể vĩnh viễn bước ra khỏi bộ máy này thay vì cứ đầu thai lại hoài hoài?” À, làm thế nào con thực hiện chuyện này? Con yêu dấu, con phải nhận ra là mỗi thế giới quan – bất kỳ thế giới quan nào mà con có thể có bên trong máy giả thực tại tên là địa cầu – cuối cùng cũng không thực. Mỗi thế giới quan như vậy được cung cấp, hay được tạo ra, được sản sinh ra, để tạo điều kiện cho một loại trải nghiệm nhất định nào đó.

Giờ đây con có thể nhìn địa cầu và nói: “Thế còn tất cả những xung đột và cuộc chiến thì sao? Mục đích để làm gì?” Địa cầu là một loại máy giả thực tại đặc biệt. Con thử nghĩ xem, các sinh thể tự nhận biết được sinh tạo với một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm rồi được ban cho quyền tự quyết để khuếch trương ý niệm bản sắc này. Khi con mang một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm, làm thế nào con có thể nhận ra là mọi thứ đều liên kết với nhau? Làm thế nào con có thể nhận ra lý duyên khởi mà thày vừa nói đến?

Đó, con hiện ra như một sinh thể tự nhận biết, con tự trải nghiệm như một sinh thể riêng biệt, khác với mọi sinh thể khác. Con sống trong một môi trường và con cũng khác với môi trường đó. Vậy làm thế nào con bắt đầu xây dựng một ý niệm bản sắc? Con phải khởi sự bằng cách xem mình là một sinh thể tách biệt. Đây chính là điều mà một máy giả thực tại như địa cầu được thiết kế để giúp con làm. Nó chỉ được thiết kế để cho con một loại trải nghiệm đặc biệt của một sinh thể tách biệt.

Các thày có nói là có những hành tinh tự nhiên, và trên hành tinh tự nhiên con cũng khởi đầu với một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm. Con xem mình phần nào là một sinh thể tách biệt, nhưng con nhận ra bản sắc của mình là nhiều hơn cái bản sắc nhỏ như chấm đó. Đó là tại sao trên hành tinh tự nhiên, con không có những xung đột giữa các sinh thể tự nhận biết với nhau. Trên trái đất, con có xung đột vì như các thày đã giải thích, một hệ quả cùng cực của quyền tự quyết được ban cho con là con phải có khả năng thám hiểm tất cả mọi cõi lựa chọn mà con có thể. Điều này có nghĩa là con phải có khả năng trải nghiệm trạng thái của một sinh thể hoàn toàn tách biệt có thể làm bất cứ gì mình muốn bất kể hậu quả cho những sinh thể tách biệt khác. Con có thể làm bất cứ gì con muốn và tin tưởng là mình sẽ tránh được hậu quả của việc mình làm.

Hành tinh địa cầu cho con trải nghiệm đó khi con không cảm thấy là mình kết nối với cái ta cao của mình. Con không có cảm giác kết nối nào với những sinh thể khác. Con phủ nhận hành động của con sẽ gây hậu quả cho người khác, hay nó có tầm quan trọng và nó sẽ tác động đến chính con. Trên một hành tinh tự nhiên nơi các sinh thể nhận biết mọi thứ đều nối kết, họ biết mọi chuyện mình làm sẽ ảnh hưởng đến tổng thể. Trên địa cầu, con có thể có trải nghiệm mình không liên quan gì đến tổng thể, mình là một sinh thể tách biệt sinh sống giữa những sinh thể tách biệt khác, cho nên mặc dù con thấy được hành động của mình gây ra hậu quả vật lý, nó vẫn không gây ra bất kỳ hậu quả nào xa hơn, và nó không tác động đến tổng thể.

Vấn đề là một khi người ta bước vào cảm nhận tách biệt này, họ có một cảm nhận mạnh mẽ về thực tại rằng: “Chuyện này thực. Chúng ta thực sự là những sinh thể tách biệt. Chúng ta đang sống thực sự trong một thế giới tách biệt. Chúng ta là những sinh thể cao trội trên địa cầu. Chúng ta quan trọng hơn mọi người khác. Tôn giáo chúng ta là tôn giáo chân chính duy nhất và do đó điều cần thiết và chính đáng là chúng ta giết hết những ai không theo tôn giáo chúng ta.” Đây là một trải nghiệm mà con có thể có trong máy giả thực tại trên trái đất và nó nằm trong toàn bộ phạm vi của quyền tự quyết.

37.10. Cơ chế an toàn của máy giả thực tại

Nhưng điều gì xảy ra khi người ta bị mắc kẹt trong loại trải nghiệm đó? Đúng vậy, có một cơ chế an toàn là mặc dù họ trải nghiệm mình là sinh thể tách biệt nhưng kỳ thực họ không tách biệt chút nào, vì họ luôn tương kết với tất cả mọi sinh thể khác trong cùng bộ máy giả thực tại, và do đó khi có một số người tỉnh ngộ, điều này sẽ kéo mọi người khác lên theo.

Đó là tại sao con đã thấy trong nhân loại, trong xã hội loài người, có một chiều hướng tiến hóa. Nhiều công nghệ mới đã được khởi xướng cho phép những nền văn minh biệt lập bắt đầu tương tác với nhau, và con thấy được thế giới đã trở nên ngày càng nối kết như thế nào, và mạng lưới internet là giai đoạn mới nhất của chiều hướng này. Bây giờ con thấy các thế giới quan của loài người sẽ bắt đầu chạm trán với nhau nhiều hơn, và đó là vì tập thể loài người đã bước vào khởi đầu của giai đọan tỉnh ngộ. Có mốt số người vẫn còn bám chặt vào tâm thức tách biệt, nhưng chuyện này hoàn toàn phù hợp với luật tự quyết, qua đó có những người trong máy giả thực tại bị thế giới quan khác thách đố hầu được cơ hội chất vấn thế giới quan của mình.

Có thể con sẽ nói: “Nhưng rất nhiều người không đang nắm lấy cơ hội này”. Điều này tất nhiên cũng đúng cho kiếp sống này, hay có lẽ cho nhiều kiếp sống, nhưng dù sao trong giai đoạn mà địa cầu đang trải qua, hay nhân loại đang trải qua, thì cách cấu trúc của địa cầu khiến con không thể sống trên hành tinh này mà không nhận thức những thế giới quan khác đang có mặt, hay không bị thách đố trong thế giới quan của mình. Sẽ tới một điểm, một thời điểm khi hầu hết mọi người sẽ cởi mở hơn để chất vấn thế giới quan của mình. Điều này sẽ xảy ra đặc biệt là vì con sẽ không mãi mãi đầu thai với cùng thế giới quan. Nhiều người khi tái đầu thai sẽ chuyển sang một nền văn minh khác hay một thế giới quan khác, cho nên mọi người sẽ đều có cơ hội chất vấn thế giới quan của mình. Sự kiện này nằm trọn trong phạm vi của quyền tự quyết bởi vì mọi người trên địa cầu đều nối kết, cho nên khi một số bắt đầu thức tỉnh thì điều hoàn toàn tự nhiên là họ sẽ kéo theo số còn lại, sẽ thách đố số còn lại cũng phải đặt lại vấn đề thế giới quan của mình.

Dựa vào đó, chúng ta có thể nói: “Liệu điều này có đem lại ý nghĩa gì cho nỗ lực khiến người khác chất vấn thế giới quan của họ hay không?” Con nhìn xem khi tín đồ các tôn giáo tin chắc là mình nắm chân lý duy nhất, hay khi người cộng sản tin chắc là họ có hệ thống chính trị chân chính duy nhất, hay người duy vật tin chắc là họ nắm thế giới quan đúng đắn duy nhất, rồi họ trở thành những nhà truyền giáo ráo riết đi cải đạo người khác, liệu điều này có đem lại ý nghĩa gì không? Tất nhiên là có vì đó là thêm một trải nghiệm mà con có thể có. Trong nguyên tầm trải nghiệm mà máy giả thực tại cống hiến, con có thể cảm nhận: “Tôi có thế giới quan cao nhất cho nên tôi cần đi cải đạo mọi người”. Và con mang cảm nhận này suốt mấy kiếp sống cho tới khi con chán chê và con bước lên một tầm nhìn cao hơn. Hiện nay con đang tập trung vào trải nghiệm thế giới quan mà con đã chọn, nhưng cuối cùng con sẽ bước lên và bắt đầu tra vấn mọi thế giới quan hiện hành trên trái đất để tìm cái gì cao hơn.

37.11. Kết nối với các vị điều khiển máy giả thực tại

Đây là lúc cuộc xoay chuyển có thể xảy ra trong tâm con, vì bước kế tiếp trong nhận biết cao hơn là khi con nhận ra địa cầu là một bộ máy giả thực tại. Đúng là vậy đó. Nhưng điều con thấy với máy giả thực tại địa cầu là con nhìn thấy máy, con nhìn thấy căn phòng con đã bước vào, nhưng máy không chạy được một mình. Bên ngoài căn phòng có nhân viên điều khiển máy, và những vị điều khiển máy giả thực tại trên địa cầu là những sinh thể đã từng phần lớn ở trong máy đó và đã tốt nghiệp, nếu có thể gọi như vậy. Họ đã chán chê những trải nghiệm trong máy và họ đã bước ra ngoài, nhưng thay vì bỏ đi luôn, họ đã hiến thân mình để giúp những ai vẫn còn trong máy.

Cho nên ở một mức nào đó, chọn lựa mở ra cho con là con nhìn vào thật nhiều những thế giới quan có mặt trên trái đất và nhận ra là chúng đều được tạo ra trong máy giả thực tại. Có lẽ một số đã nhận được sự đóng góp từ bên ngoài bộ máy, nhưng sau đó người đời đã sử dụng khả năng tâm thức cố hữu của họ mà phóng chiếu lên các xung lực đến từ ngoài, rồi dựng lên một thế giới quan mới, và thế giới quan này thì được tạo ra bên trong bộ máy. Cho nên một khi con ngộ ra điều này, con có thể nói: “À, nếu như tôi có thể nhận được trực tiếp từ những vị điều khiển máy ở ngoài thì sao?” Khi đệ tử sẵn sàng, vị thày sẽ xuất hiện. Đó là tại sao suốt bao nhiêu thời đại, một số người đã sẵn sàng tiếp nhận từ ngoài bộ máy và họ đã nhận được.

Khi thày, Gautama, bước chân trên trái đất trong một cơ thể vật lý 2500 năm về trước, có phải thày đã tự mình nghĩ ra giáo lý đạo Phật hay chăng? Liệu thày là một sinh thể vẫn sống trong máy giả thực tại mà lại đưa ra được giáo lý đó? Không đâu con. Thày nhận ra sự giới hạn của những thế giới quan mà thày tiếp cận thời đó, và thày đã mở tâm ra để với lên những gì nằm vượt ngoài bộ máy. Và thày đã nhận được, và điều này đã trở thành giáo lý đạo Phật. Giáo lý này được ban truyền từ bên ngoài bộ máy, và tất nhiên kể từ thời đó đã có những người không trực tiếp liên lạc với các vị điều khiển máy bên ngoài đã sử dụng thế giới quan cố hữu của họ để áp chồng lên những ý tưởng tạo ra giáo lý mà ngày nay con gọi là đạo Phật. Một số người đã giữ được một độ thuần khiết nào đó của lời dạy ban đầu. Một số khác đã áp đặt một cách diễn giải rất khác với lời dạy ban đầu. Nhưng rất, rất ít người đã dùng lời dạy ban đầu của Phật giáo để nối kết với các vị điều khiển ở ngoài bộ máy.

37.12. Giáo lý đến từ ngoài bộ máy

Khi Giê-su bước chân trên trái đất 2000 năm về trước, thày cũng đã đạt đến mức tâm thức chất vấn mọi thế giới quan mà thày nhìn thấy trên địa cầu. Thày cũng ngộ ra là rất nhiều thế giới quan được tạo dựng hoàn toàn bên trong máy giả thực tại. Chúng dựa trên trải nghiệm của những người bên trong bộ máy. Họ lấy những trải nghiệm này và đè chồng lên thế giới quan. Điều này cũng tốt thôi vì nó đem lại cho họ một trải nghiệm, và cảm giác trải nghiệm đó là thực. Vấn đề là, nếu thế giới quan do các điều kiện hiện hành trong máy tạo ra không thể giúp con bước ra ngoài bộ máy, thì nó sẽ giữ chặt con lại ở trong đó.

Cho nên Giê-su đạt tới điểm khi thày sẵn lòng nhìn ra điều đó. Và thày đã nhìn ra. Thày ngộ được sự giới hạn của những thế giới quan đó. Thày sẵn sàng chất vấn chúng. Thày sẵn sàng tới điểm nói rằng: “Có thể nào tự mình ta không thể làm được gì? Hay có gì đó mà Cha ở bên ngoài ta con thể cho ta, một viễn quan khác hơn những gì ta có thể nhận được từ bên trong thế gian này?” Và Giê-su đã với tay ra, và như định luật nói rõ, khi đệ tử sẵn sàng thì vị thày phải xuất hiện, và Giê-su được ban cho một lời dạy từ bên ngoài bộ máy. Người đời đã làm gì với lời dạy đó chứ? Phải, như Giê-su vừa nói trong bài giảng của thày hôm nay, người đời đã hoàn toàn bóp méo nó đi.

Điều mà Giê-su gọi là “tâm thức Sa-tăng” là cái mà thày đây gọi là “tâm thức hiện hữu bên trong máy giả thực tại”. Tâm thức này có khả năng nhận thức một gì đó bên ngoài bộ máy, nhưng một khi nó bắt được liên lạc với bên ngoài, nó lại muốn ép buộc sáng ngộ này phải chui vào thế giới quan được tạo ra trong máy. Nói cách khác, thay vì dùng sự tiếp xúc với bên ngoài để thăng vượt máy giả thực tại, nó lại dùng để củng cố và xác chứng chính cái thế giới quan đã giam nó trong máy.

Có người sẽ bảo: “Nhưng đó chẳng phải là một trải nghiệm khác mà người ta có thể có hay sao, khi người ta cảm thấy thế giới quan của mình được xác nhận bởi một thẩm quyền tối thượng, dù họ gọi đó là Thượng đế hay một cái tên nào khác?” Tất nhiên đó là một loại trải nghiệm khác, nhưng một lần nữa, vì mọi sinh thể trong máy được nối kết với nhau, điều hoàn toàn bình thường là một số người sẽ với lên một trải nghiệm cao hơn và đem xuống được một điều gì đó có thể thách đố thế giới quan hiện hữu.

37.13. Có gì sai trái với trái đất hay không?

Dựa vào đó có thể con sẽ nói: “À, có một số thế giới quan bảo là có gì sai trái với tạo vật Thượng đế, và đó là lý do chúng ta chứng kiến biết bao cảnh khốn cùng, biết bao đau khổ và xung đột trên trái đất.” Nhưng nếu dựa vào viễn quan thày vừa cho con, không có gì đã đi trật đường.

Địa cầu là một máy giả thực tại được thiết kế để đem lại cho các sinh thể ở bên trong một loạt những trải nghiệm khác nhau. Họ có quyền tự quyết chọn lựa loại trải nghiệm nào họ muốn. Theo một nghĩa nào đó, họ không chọn giữa những trải nghiệm từng có, mà họ phần nào tự do ấn định trải nghiệm của họ, và đây là điều họ làm khi tạo ra tất cả những thế giới quan kia đụng độ với nhau. Không có gì đã bị trật đường rày.

Vấn đề duy nhất là: “Liệu cá nhân con đã đủ chán chê những trải nghiệm con thấy trên địa cầu hay chưa?” Nếu con đã đủ chán thì con có thể làm hai chuyện. Con có thể tìm cách bắt liên lạc với những vị điều khiển máy bên ngoài bộ máy, và đem xuống một xung lực sẽ giúp con định ra một thế giới quan khác sẽ mang lại cho con một trải nghiệm mà chưa ai trên địa cầu từng nếm. Việc này hoàn toàn chính đáng thôi. Nhưng chọn lựa thứ hai là con nhận ra con đã chán ngán tất cả mọi loại trải nghiệm – loại trải nghiệm mà con có thể có trên trái đất, loại trải nghiệm mà con có thể có như một sinh thể tách biệt. Con muốn bước lên cao hơn và đi vào nhận thức sâu xa là mặc dù con đã khởi sự như một sinh thể nhỏ như cái chấm, giờ đây con đã khuếch trương ý niệm bản sắc của mình đến mức con ngộ ra là con không phải là một sinh thể tách biệt, mà con là thành phần của một tổng thể tương kết. Thay vì trải nghiệm những gì con có thể trải nghiệm như một sinh thể tách biệt, con muốn có trải nghiệm là mình nối kết.

Cho nên khi con đạt đến điểm này, đó là lúc con có thể khởi sự giai đoạn chót của tiến trình tỉnh ngộ có thể dẫn con tới điểm vĩnh viễn bước ra khỏi bộ máy giả thực tại của địa cầu, mà hiển nhiên các thày gọi là thăng thiên. Liệu có tên gọi nào khác hay không? Tất nhiên là có, nhưng các thày đang trao cho con một lời dạy mà các thày không bảo là lời dạy tối hậu, mà là một lời dạy được thiết kế đặc biệt để giúp những ai sẵn lòng bước ra khỏi bộ máy càng nhanh càng tốt. Đối với nhiều người, việc này có thể thực hiện trong một kiếp người, vì con đã làm xong nhiều chuyện trong các kiếp trước rồi. Cho nên đó là mục đích duy nhất. Các thày không có mục đích cho con chân lý tối thượng vì một lý do vô cùng giản dị. Mục đích giáo lý của các thày không phải là cho con thêm một loại trải nghiệm để con có thể nếm mùi trong máy giả thực tại địa cầu. Mục đích giáo lý của các thày là để giúp con vĩnh viễn rởi khỏi máy giả thực tại.

Liệu có những giáo lý nào khác có thể giúp con rời khỏi máy hay chăng? Chắc chắn là có. Đạo Phật là một giáo lý đã giúp được một số người. Đạo Cơ đốc trong dạng thuần khiết cũng đã giúp được một số người. Ngay cả đạo Hồi cũng đã giúp được một số người khi họ đi theo con đường thần bí. Có những giáo lý khác cũng đã giúp được con người. Nhưng những gì các thày ban truyền ngày hôm nay dựa trên tâm thức tập thể của ngày hôm nay. Do đó nó được thiết kế cho những ai đã đạt tới những mức tỉnh thức cao hơn và đã sẵn sàng đi những bước chót. Đó là điều mà thày muốn trao cho con trong bài giảng này.

Đối với một số người, đây chỉ là chuyện tầm phào. Một số khác sẽ đọc bài này và bảo là chuyện ngớ ngẩn, vô nghĩa lý. Một số khác sẽ đọc và bảo bài này không thể nào đến từ Phật. Một số khác sẽ đọc và bảo bài này không thể nào đến từ các chân sư thăng thiên. Hãy mặc cho họ có trải nghiệm đó. Điều quan trọng là bài này là gì đối với con?

Con đi theo những lời dạy đánh động nội tâm của con, những lời dạy mà con biết có thể giúp con bước ra khỏi máy giả thực tại, và khi con thật sự rời khỏi bộ máy đó, chắc chắn thày sẽ ở đó để đón chào con, cùng với Giê-su, Saint Germain, chân sư More, Mẹ Mary và nhiều chân sư khác nữa. Thật ra các thày có thể sẽ đứng xếp hàng để đón chào con. Nhưng một lần nữa, vì các thày ngụ trong tâm duy nhất cho nên chuyện này cũng hoàn toàn tốt thôi.  

Với lời này, con yêu dấu, thày biết ơn con đã cho phép thày đưa ra lời dạy, bài giảng vừa rồi. Lời dạy này đã không thể trao cho bất cứ ai, mà chỉ cho những người đã mở tâm mình để có khả năng và lòng mong muốn tiếp nhận được. Và con thấy đó, luôn luôn có lý duyên khởi đang vận hành. Các chân sư thăng thiên không thể bỗng dưng truyền rải một điều gì trên địa cầu “từ hư vô”. Các thày phải cần đến một ai đó bên trong máy giả thực tại nâng cao tâm thức của mình đến mức có khả năng nhận được. Và vì thế thày vô cùng biết ơn. Thày niêm buổi hội nghị này trong Ngọn lửa Biết ơn của Phật.

19 | Một câu hỏi về thời gian

Câu hỏi: Xin các chân sư trao cho chúng con một lời dạy sâu xa hơn về sự không hiện hữu của thời gian và về thực tại tâm linh. Chúng con biết là một số sự việc diễn ra theo trình tự thời gian, chẳng hạn như việc đổ đầy một bầu cõi tân lập với ánh sáng. Nếu thời gian không hiện hữu và mọi sự đều xảy ra cùng một lúc, làm thế nào chúng con có thể gắn liền việc này với ý chí tự quyết, vì ý chí tự quyết có cơ hội bước theo hướng hoàn thành con đường quả vị Ki-tô hoặc theo hướng ngược lại? Từ nhãn quan thế tục của chúng con, việc đó xảy ra ở một thời điểm cụ thể. Các sinh thể ở cõi tâm linh cảm nhận thời gian trôi qua trên trái đất như thế nào?

Trả lời của Phật Gautama: Con yêu dấu, thày chính là người đã nói: “Thời gian không có,” và tất nhiên câu này là một công án. Chắc chắn thời gian hiện hữu ở một mức độ nào đó. Chắc chắn thế gian mang tính chất đường thẳng ở một mức độ nào đó. Có một sự trải bày tuần tự từ giai đoạn trước sang giai đoạn sau. Con có thể nói là toàn bộ thế giới quan mà các thày đã trao cho con là sự kiện Đấng Sáng tạo đã khởi sự sáng tạo qua việc tạo ra một khoảng trống, xong ngài tạo ra một tiến trình cho các sinh thể đồng sáng tạo lấp đầy khoảng trống này – và đây là một tiến trình hoàn toàn đường thẳng. Từ nhãn quan này, con có thể nói là con có thể xem thời gian như một trình tự tiến hành từ một giai đoạn sang giai đoạn kế tiếp, qua đó một giai đoạn tạo ra một biểu hiện đặc thù sẽ đặt nền tảng cho sự phát triển tiếp theo của các biểu hiện trong giai đoạn kế tiếp. Nếu con nhìn thời gian theo cách này thì chắc chắn thời gian hiện hữu. Điều thày muốn con và mọi người nói chung quán chiếu qua câu “Thời gian không có” là sự kiện thời gian không nhất thiết phải giống hệt cách nhìn hiện thời của con bằng tâm thức gọi là “bình thường” trên trái đất. Không như cách nhận thức bình thường của con, thời gian không hẳn là đường thẳng, khắc sâu vào đá, không thể tránh khỏi hay không thể thay đổi.

Một khía cạnh của vấn đề này là toàn bộ giáo lý các thày đã trao cho con về cách làm thế nào con loại bỏ các ngã tách biệt và nhờ vậy chữa lành bốn thể phàm của con. Chúng ta có thể nói là ở một thời điểm trong quá khứ xa xôi con đã trải qua một chấn thương nhập đời, và thời điểm này không còn nữa, thời điểm này đã đi qua. Bây giờ con đang ở một thời điểm khác nhưng con vẫn mang chấn thương nhập đời này theo con. Con vẫn bị nó tác động vì các khoảnh khắc sau đó, các khoảnh khắc đến sau chấn thương nhập đời, đã bị chấn thương nhập đời đưa vào một hướng đi nhất định. Mọi chuyện xảy ra sau đó được xây dựng trên nền tảng chấn thương nhập đời.

Nếu con không thể thay đổi thời gian, nếu con không thể thay đổi quá khứ, nếu con không có một cỗ máy vượt thời gian – mà qua đó con có thể đi trở ngược quá khứ để giải quyết chấn thương nhập đời – thì làm thế nào con sẽ giải thoát khỏi chấn thương được đây? Con thấy là ngay khoảnh khắc Đấng Sáng tạo ban quyền tự quyết cho các sinh thể đồng sáng tạo, phải có một sự trải bày diễn ra một cách đường thẳng, mà con gọi là thời gian, để các sinh thể này sử dụng quyền tự quyết của họ. Như vậy họ mới thấy được là khi họ phóng chiếu một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì sau đó một thời gian Ánh sáng Mẫu-vật sẽ trình diễn nó ra thành những hoàn cảnh vật lý. Những hoàn cảnh vật lý này không chỉ biến mất sau một tích tắc mà chúng có thể tồn tại trong một khoảng mà con gọi là thời gian.

Để sử dụng quyền tự quyết, phải có thời gian hiện hữu để một số biểu hiện được duy trì. Tuy nhiên để đảm bảo quyền tự quyết không trở thành một hệ thống tự hạn chế – tức một hệ thống nơi con lần lần càng tạo thêm hậu quả cho chính mình, rồi với thời gian con mang các hậu quả này theo con cho tới mức chúng trở nên khắc nghiệt đến độ chẳng bao lâu con không còn chọn lựa nào nữa, con không còn quyền tự quyết nữa – để tránh kịch bản này xảy ra, thời gian không thể chỉ đi theo một hướng độc nhất. Phải có cách nào đó để con quay lại thay đổi quá khứ. Cách đây hai triệu năm có thể đã có một tình huống vật lý nơi con phải chạm mặt với chấn thương nhập đời, nhưng khía cạnh tích cực của thời gian là thời gian đã trôi qua. Và tình huống vật lý này không còn nữa.

Đây là một ân huệ, vì ngược với những gì các tác giả khoa học viễn tưởng muốn con tin, con không thể chế tạo một cỗ máy vật lý có khả năng quay trở lại một tình huống xảy ra hai triệu năm trước để con du hành về đó trong cõi vật lý và thay đổi vật lý. Chuyện này không thể làm được, không bao giờ có thể làm được. Nhưng điều con có thể làm được là tạo ra một cỗ máy vượt thời gian trong chính tâm con. Kỳ thực trong bài tập mà Mẹ Mary dẫn con đi qua bảy khu vườn trở về rạp hát nơi chấn thương nhập đời của con đã diễn ra, Mẹ đã trao cho con một cỗ máy như vậy để con có thể quay về khung cảnh khi tình huống đó vẫn tồn tại. Tình huống không còn tồn tại trong cõi vật lý nhưng nó còn tồn tại trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. [Xem bài tập này trong sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]

Con có thể quay trở về đó trong cỗ máy vượt thời gian xuyên qua các thể này, làm tan biến những vết tích còn sót lại ở đó, những khuôn đúc, những giới hạn, những cái ngã, bất kể con muốn gọi là gì cũng được. Con làm nó tan biến đi, thế là con thay đổi quá khứ cho dù thời gian đã trôi qua. Con đã thay đổi quá khứ của con. Qua việc loại bỏ ngã gốc của mình, con không còn là cùng con người mà con đã từng là, khi chính ý niệm bản sắc của con, cách con tư duy về cuộc sống và cách con cảm nhận cuộc sống bị ngã gốc đó pha màu. Con đã trở thành một sinh thể mới trong Ki-tô. Đây ít nhất là một tầng cấp cho thấy tại sao thày bảo rằng thời gian không có. Thời gian không phải là một lượng gì cố định.

Bây giờ nói về quyền tự quyết, luôn luôn đã có bàn cãi về đề tài này trong số những người tâm linh lẫn các triết gia. Chẳng hạn những ai theo tôn giáo sẽ nói: “Nếu Thượng đế là đấng toàn tri thì ngay từ khởi thủy ngài đã phải biết rõ kết cuộc. Thượng đế phải biết kết quả chung cuộc của vũ trụ sẽ ra sao trước khi ngài khởi đầu tiến trình sinh tạo vũ trụ. Và nếu Thượng đế biết hết mọi chuyện sẽ xảy ra thì làm sao con người có quyền tự quyết được?”

Và câu trả lời là như sau: đó là một cái nhìn sai lạc về Thượng đế, một hình ảnh sai lạc về Thượng đế mà sa nhân đã cốt ý đưa ra nhằm gây bối rối theo kiểu này. Thượng đế không toàn tri theo nghĩa ngài biết chính xác tất cả mọi chuyện sẽ diễn bày. Ngài biết một số sự việc tổng quát nhưng ngài không biết rõ mọi chi tiết. Kỳ thực ngài đã nói, Đấng Sáng tạo đã nói: “Ta ban quyền tự quyết cho các con. Ta ban cho các con khả năng làm cho ta ngạc nhiên.” Cho nên từ một quan điểm truyền thống, Thượng đế không toàn tri.

Thậm chí con có thể thấy các nhà duy vật bảo rằng mọi chuyện đều được quy định bởi các định luật tự nhiên. Có một hình ảnh cố hữu cho rằng thế giới giống như một chiếc đồng hồ vĩ đại, và nếu con biết tất cả các điều kiện ban đầu khi thế giới khởi sự, thì bằng cách biết rõ mọi định luật tự nhiên con có thể tiên đoán chính xác thế giới sẽ như thế nào ở bất kỳ thời điểm nào trong tương lai. Con có thể đoán trước được tương lai nếu con biết rõ các điều kiện nguyên thủy cùng các định luật tự nhiên. Cách nhìn này cũng hoàn toàn sai lạc vì quan điểm duy vật không ngó gì đến quyền tự quyết, nó bỏ qua thực tế rằng vũ trụ vật lý chỉ là hệ quả của những gì xảy ra trong ba thể cao hơn. Sự biểu hiện vật lý chỉ là sản phẩm của những gì xảy ra ở mức tâm thức. Như các thày đã nói, tâm thức có trước, biểu hiện vật lý có sau. Cho nên đơn giản những quan điểm như trên đều sai lạc. Con quả là quyền tự quyết.

Con sắp sửa làm gì đây trong một phút nữa: Thượng đế không làm sao biết được, Thượng đế không quy định được, Thượng đế không giới hạn được, và các định luật tự nhiên cũng không giới hạn được. Con có thể nhìn một người nào đó, nhìn vào trạng thái tâm lý của họ, nhìn vào các ngã tách biệt mà họ đang mang, và con có thể tiên đoán với một độ chính xác rất cao là họ sắp sửa làm gì trong một phút nữa. Tuy nhiên với thời gian, con không thể biết được liệu họ sẽ quyết định thay đổi hay không. Ngay cả những người hoàn toàn không biết đến các chân sư thăng thiên, họ vẫn có thể lấy quyết định: “Tôi đã chán chê loại trải nghiệm này rồi. Tại sao tôi cứ làm đi làm lại cùng một chuyện này mãi mãi? Tôi chọn lựa thay đổi. Tôi sẽ ngừng làm chuyện đó.”

Suốt chiều dài lịch sử, con người đã có những chọn lựa như vậy và chính điều này đã đem lại tiến bộ cho bản thân họ cũng như cho nền văn minh của họ. Một khi con hiểu rõ ngã tách biệt, con có thể loại bỏ chúng, con có thể để cho chúng chết đi, và sau đó với mỗi cái ngã chết đi như vậy, con sẽ có thêm quyền tự quyết. Quả là con có quyền tự quyết nhưng con chỉ có thể chọn các chọn lựa mà con nhìn thấy. Các chọn lựa mà con nhìn thấy ngay bây giờ tùy thuộc vào toàn bộ bốn thể phàm của con, vào các ngã tách biệt, vào sự pha màu mà con đang mang. Một số những ngã tách biệt này sẽ che chắn nhiều tùy chọn khỏi mắt con, cho nên con chỉ không thể thấy chúng, và nếu con không thấy chúng là chọn lựa thì con không thể nắm lấy chọn lựa đó. Nói cho cùng, quyền tự quyết và sự nhận biết gắn liền rất chặt chẽ với nhau. Con có thể nói là con luôn luôn có quyền tự quyết chọn lựa các tùy chọn mà con thấy được ở mức tâm thức hiện thời của con. Ý chí tự do của con chỉ tự do như những gì con có thể nhìn thấy.

Hẳn nhiên quyền tự quyết là một thực tế, và bất kỳ triết lý nào, hệ tư tưởng nào mà bác bỏ quyền tự quyết hay tìm cách giới hạn quyền tự quyết qua một yếu tố nào đó mà con không có khả năng chủ động, bất kỳ hệ thống nào như vậy đều xuất phát từ tâm trí của sa nhân. Các thày không bảo là tất cả những ai đề xướng những loại hệ thống như vậy đều là sa nhân, nhưng ý tưởng nguyên thủy đã khởi lên từ tâm  trí sa nhân. Mục đích chủ yếu của chúng không phải là giới hạn dân số loài người mà giới hạn các chọn lựa mà quần chúng có thể lấy, hay đúng hơn, mà mỗi cá nhân có thể lấy. Chúng muốn hạn chế quyền tự quyết của con.

45 | Tất cả đều phụ thuộc lẫn nhau

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 21/9/2019 tại Kyiv, Ukraine.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Thật là một niềm vui rất lớn cho thày được niêm hội nghị chân sư thăng thiên này tại quốc gia Ukraine. Và thày cũng rất vui nói với các con là các con đã vượt quá tiềm năng cao nhất mà các thày đã dự đoán cho hội nghị này. Các con đã làm được như vậy là do đã sẵn sàng đến với nhau, và mặc dù những khác biệt về ngôn ngữ, quốc gia hay văn hóa, các con đã đạt được một mức độ kết hợp cao hơn là các thày có thể dự đoán. Điều này đã mở ra khả năng cho các thày truyền rải nhiều ánh sáng hơn những gì có thể.

Bởi vì điều gì định đoạt lượng ánh sáng mà các thày truyền rải tại một hội nghị? Phần lớn, đó là khả năng của luân xa các tham dự viên – kể cả những tham dự viên nối kết qua mạng internet – để tỏa rạng, phát sóng ánh sáng vào tâm thức tập thể. Nếu các thày ban ra nhiều ánh sáng hơn là luân xa các con có khả năng tiếp nhận thì sẽ quá nhiều cho các con, và nếu ánh sáng không thể tỏa ra thì không chắc nó sẽ hoàn thành được mục đích của nó. Qua sự kiện các con vừa nhận được những bài truyền đọc với uy lực rất lớn, các con có thể biết là mình đã sẵn lòng đến với nhau trong hợp nhất – là sự hợp nhất đạt được khi không chỉ luân xa của từng cá nhân được các thày sử dụng, mà các con đã hình thành tâm Một và tim Một rộng lớn hơn, khiến luân xa mọi người được phối hợp lại, được đồng bộ với nhau để nhân lên gấp nhiều lần những gì các thày truyền rải.

Thày không bảo là mọi hội nghị đều như vậy, hoặc các con phải bắt đầu đánh giá xem hội nghị nào mà không nhận được bài truyền đọc đầy uy lực thì tham dự viên đã không kết hợp. Có những hội nghị mang những mục tiêu khác. Có những bài truyền đọc mà mục đích chủ yếu là để giảng dạy giáo lý. Và do đó, vì phần nào chúng ta ở một khu vực có tâm thức tập thể rất dày đặc nên mới có nhu cầu phóng ra một lực thúc đẩy thật mạnh mẽ hầu đâm thủng, phá vỡ một số khuôn đúc trong tâm tập thể.

Trong hội nghị này, các thày đã gợi ý một số khái niệm mà các thày chưa đề cập trước đây. Con đã nghe các thày trình bày về một khái niệm – lý duyên khởi – có lẽ xa lạ đối với đa số các con nhưng lại khá phổ biến trong một số giới đạo Phật. Tất nhiên đó là một cách gọi hơi hoa mĩ vì con có thể diễn tả một cách khác: Tất cả mọi thứ đều nối kết với nhau. Khái niệm này mang nhiều hệ quả mà các thày sẽ có dịp trình bày chi tiết hơn trong thời gian tới. Thật ra các thày cũng đã có đề cập bằng những từ ngữ và ý tưởng khác rồi, nhưng như con cũng biết, các thày thường trở lại một đề tài đã bàn đến trước đây để đưa nó lên một tầng cao hơn, bởi vì tiến trình truyền pháp có một số chu kỳ, và tiến trình tăng trưởng của con cũng có một số chu kỳ nhất định. Cho nên thỉnh thoảng, các thày sẽ giảng lại về một đề tài đã được giảng trước đó để đem lại một cái gì mới và đưa nó lên một tầm nhìn cao hơn.

45.1. Nhìn vượt khỏi ảo tưởng tách biệt

Khi bảo rằng tất cả mọi thứ đều nối kết thì câu này có nghĩa là gì? Có nghĩa là ảo tưởng, hay ấn tượng do giác quan của con tạo ra là một ảo tưởng. Con nhìn qua giác quan của con, và với tâm vỏ ngoài giới hạn giác quan, con thấy mọi thứ đều tách biệt. Con có thể bảo rằng cái loa bên này tách biệt với cái loa bên kia, rằng mặt trời tách biệt với mặt trăng, địa cầu tách biệt với sao Thủy hay sao Kim. Một người bên Nga tách biệt với một người bên Mỹ, vân vân.

Thế giới chú tâm vào sự khác biệt, chú tâm vào những vật tách biệt. Đây là một ảo tưởng mà con có thể bắt đầu luyện tâm để nhìn vượt lên trên. Và con có thể làm điều này một cách cao hơn hầu hết mọi người đã làm trước đây nhờ con được học rất nhiều giáo lý mà các thày đã cho con. Trước tiên là giáo lý về bốn tầng của vũ trụ vật chất. Nó cho thấy là dải tần số vật chất, quang phổ vật lý, cũng giống như phần nổi của một tảng băng hiển lộ trên mặt nước, trong khi phần còn lại thì không thấy được bởi nó ẩn dưới mặt nước.

Cũng vậy, ba thể cao của con người phàm của con không thấy được. Nhưng như con cũng biết, nếu 90% băng đá bên dưới chuyển động thì chẳng phải là phần nổi bên trên cũng sẽ chuyển động theo hay sao? Cho nên nếu bên dưới có dòng nước ngầm di chuyển về hướng Nam, thì dù cho bên trên có một ngọn gió thật mạnh thổi về hướng Bắc, phần nổi của tảng đá vẫn sẽ trôi ngược gió về hướng Nam.

Và như vậy nếu trong ba thể cao của con có sự chuyển động về một hướng nào đó, thì có thể tâm ý thức của con sẽ rất khó lòng đi ngược về hướng kia. Con sẽ đi theo những ngọn sóng ngầm trong tiềm thức. Và đó là tại sao con có tiềm năng nắm quyền chủ động đời mình bằng cách giải tỏa những năng lượng đó, giải quyết tâm lý và buông bỏ những cái ngã, vân vân. Nhưng con cũng có thể luyện tâm để cảm nhận sự nối kết sâu hơn bên dưới cho dù con không nhất thiết nhìn thấy được.

Điều này sẽ đem lại rất nhiều ích lợi cho đường tu của con. Sơ khởi thày sẽ đưa ra một ví dụ. Sứ giả này đang dang hai bàn tay ra khá xa. Nếu giả dụ con lấy một tấm vải che phần dưới cơ thể của ông thì con có thể thấy hai bàn tay này tách biệt với nhau. Bây giờ hai bàn tay bắt đầu chuyển động nhịp nhàng với nhau và chúng gặp nhau ở giữa – con có thể nghĩ chúng là hai vật tách biệt đang di động nhịp nhàng. Nhưng tất nhiên vì không có tấm vải nào đang che cơ thể của ông, cho nên con thấy rõ chúng thuộc về, chúng gắn liền với cùng một cơ thể. Và do đó, thật không có gì lạ lắm khi cơ thể này có thể làm cho chúng chuyển động.

Nhưng bây giờ con hãy tưởng tượng hai vật có vẻ tách biệt đối với giác quan của con. Nếu một vật di chuyển về hướng này và vật kia di chuyển về hướng kia, con có thể nghĩ có hai nguyên nhân khác nhau đang làm chúng chuyển động. Và con có thể nghĩ, như khoa học đã nghĩ như vậy từ mấy thế kỷ qua, rằng thế giới được tạo thành bởi những vật tách biệt, những vật không nối kết với nhau, không trao đổi tín hiệu với nhau. Và do đó nếu chúng di chuyển về hướng khác nhau, nhất định là phải có những nguyên nhân khác nhau khiến chúng chuyển động.

45.2. Không có nguyên nhân tách biệt và kết quả tách biệt

Nhưng thật là không phải vậy. Không có vật nào tách biệt cả. Và cũng không có nguyên nhân nào tách biệt. Không có hậu quả tách biệt lẫn nguyên nhân tách biệt.

Điều gì có thể giải thích chuyện này? Làm thế nào con hình dung được đây? Một lần nữa, con hãy lấy ví dụ hai bàn tay của sứ giả này đang chuyển động nhịp nhàng với nhau trước khi chúng chụm lại. Dựa trên giác quan, con có thể bảo là có hai bàn tay đang hiện hữu trong thời gian và không gian. Chúng đang di chuyển cùng với nhau liên tục trước khi gặp gỡ. Nhưng như các thày đã gợi ý, điều xảy ra không thực là vậy. Bởi vì quang phổ vật lý giống như hình ảnh trên một màn hình chiếu phim. Những chuyển động mà con thấy trên màn hình không liên tục vì chúng do cuộn phim tạo ra, và cuộn phim thì có nhiều tấm ảnh tách rời được ánh sáng chiếu xuyên qua. Chính các tấm ảnh này chuyển động, nhưng chúng chuyển động nhanh đến độ con không thấy có một tấm ảnh đang thay thế một tấm khác. Nhưng dĩ nhiên con cũng biết, trong phim cũ thời xưa quay chậm hơn, con có thể nhận thấy hình bị nhảy giật giật, khiến diễn viên đi đứng trong phim cũng giật giật như thế – và nhờ vậy con dễ nhận ra đó là những tấm ảnh cố định riêng lẻ đang được trình chiếu ở một tốc độ khiến con có cảm giác chúng là phim xi-nê [“motion picture” dịch nghĩa đen là hình cử động].

Khi con biết mọi chuyện xảy ra trong cõi vật lý là kết quả của những nguyên nhân trong ba cõi cao hơn, con có thể bắt đầu thấy được là không có hai bàn tay đang chuyển động cùng với nhau trong một động tác liên tục. Nếu con có thể chiếu chậm lại, con sẽ thấy: đây, có một tấm ảnh đang được trình chiếu ngay bây giờ bởi những gì đang xảy ra trong ba cõi tình cảm, lý trí và bản sắc, tức là sự tương tác giữa những năng lượng và khuôn đúc trong ba cõi này. Nếu con hình dung được và chiếu thật chậm, con có thể nói: đây, có một tấm ảnh nữa đang được tạo ra bởi tương tác trong ba cõi cao. Và đây, lại thêm một tấm ảnh nữa. Và đúng vậy, đối với con hai bàn tay có vẻ như xích lại gần với nhau. Nhưng câu hỏi đặt ra là: liệu có phải là cùng hai bàn tay đó không? Có phải là cùng hai bàn tay đang chuyển động từ tấm ảnh này sang tấm ảnh kia rồi sang tấm ảnh nọ? Hay phải chăng nó giống như những tấm ảnh riêng lẻ trên một cuộn phim đang quay và được chiếu lên màn hình, hết tấm này sau tấm nọ?

Nói cách khác, thực tế là cho dù con thấy cái đó như một vật liên tục và một chuyển động liên tục, thật ra nó giống như một chuỗi ảnh được chiếu lên màn hình, nhưng nó nhanh đến độ các giác quan vỏ ngoài của con, tâm vỏ ngoài của con không thể nắm bắt được.

45.3. Không có gì là không thể thay đổi

Tại sao chuyện này lại quan trọng? À vì nhiều lý do. Nhưng sơ khởi, vì con hiểu ra là nếu con thực sự muốn thay đổi cõi vật lý thì con sẽ cần thay đổi nguyên nhân, con cần làm việc trên nguyên nhân thay vì trên kết quả. Đây là điều các thày đã dạy con làm qua việc làm sạch bốn thể phàm của con. Và khi thời điểm thích hợp, các thày sẽ dạy con nhiều hơn, không những về cách làm sạch bốn thể phàm mà vượt ra ngoài năng trường của con để bắt đầu làm sạch một số khuôn đúc, hình ảnh, năng lượng cùng mô thức sóng đang ảnh hưởng đến hoàn cảnh vỏ ngoài của con. Nhưng điều này các thày chưa thể trao cho con cho đến khi các thày dạy con về cách khắc phục ngã gốc (primal self). Bởi vì nếu không, có thể con sẽ bị rất nhiều ngã tách biệt xúi giục con lạm dụng lời dạy đó để đạt được quyền năng thay đổi hoàn cảnh vật lý, cho dù con sẽ xen vào quyền tự quyết của người khác.

Nhưng điều con hiểu ra khi con suy ngẫm về lời dạy trên là sự kiện con đã bị lập trình để nghĩ rằng một khi một nguyên nhân đã được khởi động thì không gì sẽ có thể lật ngược lại được. Không gì có thể thay đổi nó được. Sứ giả này đã lớn lên với một người ông rất ham thích săn bắn và súng ống, nhưng ông cũng rất quan tâm đến an toàn. Phương châm của ông là: “Đừng bao giờ quên, một khi viên đạn đã rời khỏi nòng súng thì không một thế lực nào trên địa cầu sẽ có thể quay nó ngược trở lại.” Đây là điều mà khi lớn lên con đã được dạy suy nghĩ. Một khi một nguyên nhân được kích hoạt thì không một thế lực nào trên địa cầu có thể lật ngược. Một khi trận tuyết lở đã khởi động thì không gì có thể ngăn nó đổ xuống sườn núi.

Nhưng làm thế nào Ki-tô đã làm yên được cơn bão chứ? Ki-tô đã làm được vì tâm của thày không rơi vào ảo tưởng thường tình cho rằng cơn bão là một hiện tượng liên tục được tạo ra bởi một nguyên nhân nào đó, và một khi nó đã khởi động thì nó bắt buộc phải tiếp diễn cho đến khi kiệt sức. Giê-su nhận ra là rất nhiều lần trong mỗi giây, thế giới vật lý lại được tái tạo, được trình chiếu lại một lần nữa. Giữa hai lần trình chiếu riêng rẽ đó có một khoảng thời gian – một khoảnh khắc rất, rất ngắn, nhưng không phải là không có. Có một khoảng cách im lặng. Và nếu con có thể uốn tâm mình hay kéo tâm ra khỏi tập trung vào sự kiện, và nếu thay vào đó con tập trung vào sự im lặng giữa hai hình chiếu cá biệt, thì con có thể thay đổi hình chiếu ở cõi vật lý. Hay đúng hơn, con thay đổi ở các cõi cao hơn và sau đó cõi vật lý cũng thay đổi theo.

Tuy thời nay không phải là một thời con cần sản xuất loại hiện tượng mà Giê-su đã làm 2000 năm về trước, nhưng con có thể dùng lời dạy này để thị hiện những hoàn cảnh vỏ ngoài tốt đẹp hơn cho mình, kể cả việc chữa lành cơ thể vật lý. Nếu con quán chiếu về lời dạy, con sẽ nhận ra là trong thế gian này không có hiện tượng nào là liên tục, mà chỉ có những hình ảnh riêng rời được phóng chiếu, và ở giữa thì có im lặng. Im lặng này, mặc dù có vẻ ngắn ngủi hơn cả một khoảnh khắc, thật ra vượt khỏi thời gian. Điều này có nghĩa là khi con luyện tâm, con có khả năng dùng khoảng cách im lặng đó để thay đổi các khuôn đúc trong cõi bản sắc, lý trí và tình cảm và khiến cho sự thị hiện vật lý cũng thay đổi theo.

Thày tuyệt nhiên không bảo là lúc đầu con sẽ cần làm được chuyện này trong tích tắc. Nhưng với thời gian, con sẽ lần hồi chấp nhận những hình ảnh khác hơn về hoàn cảnh đời sống của con có thể thay đổi ra sao, về những gì con có thể thị hiện trong đời mình, những gì con có thể thu hút về phía mình – và con làm chuyện này trước hết trong thể bản sắc, xong trong thể lý trí, xong trong thể tình cảm. Với thời gian, có thể những hoàn cảnh tốt hơn đó sẽ thị hiện.

45.4. Ý thức mình có tiềm năng thay đổi

Con có thể cho rằng chuyện này thật là khó tin, nhưng hãy để thày hỏi con câu này. Con có cảm thấy con đã từng trải nghiệm là mình đã cải thiện hoàn cảnh đời sống của mình hay không? Nếu có thì con chỉ có thể làm vậy một cách mà thôi, và cách đó là cách thày vừa mô tả. Có điều là con đã không ý thức, và vì vậy con không thể thực hiện một cách đều đặn, chắc chắn. Nhưng đó chính là cách con có thể luyện tập để thực hiện.

Con thấy đó, sự kiện một hình ảnh được chiếu ra nhiều lần mỗi giây trên màn hình của thế giới vật chất có nghĩa là ngay khi nó được thay đổi trên màn hình của ba thể cao, rồi khi nó được chiếu lên màn hình vật lý, thì sự thị hiện vật lý cũng thay đổi theo. Và bởi vì rõ ràng ba cõi cao là một dạng năng lượng cao hơn – một dạng năng lượng ít vật lý hơn và do đó cũng lỏng hơn dạng vật lý – cho nên sẽ rất hữu lý nếu con chấp nhận chúng dễ thay đổi hơn. Chúng linh hoạt hơn, mềm lỏng hơn, không cứng đặc như đá. Vả lại, ngay cả cái đặc như đá cũng không đặc như đá hoài hoài, và đó là tại sao nó có khả năng được thay đổi khi hình ảnh do ánh sáng rọi xuyên qua thay đổi.

Chuyện này nghe có vẻ như là hóa phép, nhưng không đâu con. Chẳng có phép lạ gì trong chuyện này. Nhưng trên thực tế, đó không phải là một lời dạy có thể được nắm bắt hay thực hiện bởi một người mới cất bước trên đường tu. Nó đòi hỏi một sự trưởng thành nào đó. Nó đòi hỏi kinh nghiệm. Nhưng nhiều người trong số các con đã sẵn sàng để ít ra bắt đầu quán chiếu, trước hết bằng cách nhận ra là không có gì là không thể thay đổi. Và thêm vào đó, con cũng cần được cảnh báo là tất cả mọi thứ đều nối kết với nhau.

Điều này có nghĩa là nếu con muốn thay đổi hoàn cảnh đời con, đó sẽ không chỉ là chuyện nhìn vào ba thể cao của mình. Chắc chắn con cần bắt đầu ở đó. Con cần bắt đầu thanh lọc năng lượng ở đó, chữa lành tâm lý của mình và vứt bỏ những cái ngã tách biệt. Nhưng ngay cả khi con đạt đến một mức tâm thức cao như Giê-su hay như chính thày đã đạt được, thì điều này không có nghĩa là con chỉ cần búng ngón tay là sẽ thay đổi được tuyệt đối bất kỳ hoàn cảnh vật lý nào. Bởi vì có những hoàn cảnh mà con không muốn thay đổi do chúng sẽ ép buộc quyền tự quyết của người khác. Và đó là tại sao các thày đã cho con tất cả những lời dạy kia về nhu cầu thanh lọc tâm thức cho sạch ngã tách biệt, hầu con không sử dụng hiểu biết này để đoạt một số ưu thế cho cá nhân mình, khiến con quên mất tổng thể rộng lớn hay thậm chí làm hại cả người khác.

Để áp dụng lời dạy này cho đúng đắn, con cần có phần nào cái mà các thày gọi là khả năng nhận biết Ki-tô, tính nhân bản cơ yếu, cảm nhận nối kết với mọi người, để con nhận ra là có những điều con sẽ không làm. Có những điều mà con sẽ không thay đổi, bởi vì người khác có quyền trình chiếu ra những chọn lựa mà họ đã chọn. Nói cách khác và để cho con một ví dụ hiển nhiên, nếu con có con cái thì con có thể muốn tránh cho con mình một số biến cố đau lòng. Nhưng nếu đứa con đã kết đọng [precipitate] biến cố đó qua chính tâm thức của nó thì nó sẽ cần trải nghiệm hậu quả để mà tăng triển. Nếu con tránh cho nó không bị đau lòng và do đó cản trở sự tăng triển của nó, thì đây không phải là một cách dùng giáo lý và hiểu biết cao lắm.

Trước khi con có thể thực sự dùng được lời dạy này, con sẽ cần đạt được một trình độ buông bỏ, lãnh đạm nào đó, một sự không dính mắc nào đó, và con đã bỏ được ý thức cá nhân trong cuộc sống.

Thày cũng biết những gì thày đưa ra ở đây chỉ là một thoáng hé mở về một giáo lý rộng lớn hơn nhiều. Nhưng vì con đã thực hiện những gì con đã thực hiện nơi đây, cho nên thày quyết định cho con thêm một chút quà đặc biệt mặc dù nó không nhất thiết nằm trong chương trình hội nghị này. Nhưng bây giờ thì lời dạy này đã được đặt vào cõi vật lý, và đối với những ai trong số các con đã sẵn sàng thì các con hãy suy ngẫm về lời dạy. Chắc chắn với thời gian, các thày sẽ còn ban ra nhiều lời dạy nữa khi thấy thời điểm cũng như cộng đồng đệ tử đã sẵn sàng.

45.5. Những người còn muốn đau khổ

Và như vậy, thật là một niềm vui rất lớn cho thày được niêm hội nghị này, niêm các con ngồi đây lẫn các tham dự viên trên mạng internet. Thày niêm ánh sáng đã được rải truyền đến những quốc gia từng là thành viên của Liên bang Sô viết, để các quốc gia này bước lên cao hơn và để những ai sẵn sàng tự do tìm được tự do. Tất nhiên, có thể có một số người ở đâu đó vẫn muốn tiếp tục đau khổ, và bởi vì các thày tôn trọng quyền tự quyết cho nên các thày cũng sẽ tôn trọng quyền muốn đau khổ, quyền tự do đau khổ của mọi người. Nhưng chắc chắn con cũng thấy được, quyền tự do đau khổ không nằm trong Ngọn lửa Tự do của Saint Germain và do đó nó không đến từ các chân sư thăng thiên, nó không phải là một ngọn lửa tâm linh. Chính sự vắng mặt của Ngọn lửa mới tạo ra đau khổ.

Đau khổ không có thực chất. Ngọn lửa thì có thực chất – mặc dù không phải là một chất vật lý – vì đó là một ngọn lửa tâm linh. Nhưng đau khổ, oán giận, mọi loại hận thù, mọi loại năng lượng xuất phát từ sợ hãi đó, thực sự không có thực chất của một chất trường tồn.

Đó là tại sao những gì có vẻ mang chất vật lý có thể được thay đổi bởi một năng lượng cao hơn. Nó có thể được thay đổi chính vì mặc dù nó có vẻ có chất liệu, nó có vẻ là vật chất rắn đặc hay là năng lượng cảm xúc dày đặc, nhưng nó chỉ hiện ra như vậy khi được nhận thức qua phin lọc những cái ngã vỏ ngoài, qua tâm vỏ ngoài. Khi con nhìn vượt khỏi nó, con sẽ thấy là nó không hề có chất liệu liên tục. Nó chỉ là một ảo ảnh được trình chiếu lên màn hình. Và ở giữa các hình ảnh được trình chiếu thì màn hình vẫn trắng tinh. Và như con cũng biết trên một màn hình trắng tinh, bất cứ hình ảnh nào cũng có thể được trình chiếu. Khi con nhìn thấy màu trắng tinh ở giữa các hình ảnh, con biết là bất cứ lúc nào – hay đúng hơn ngay lúc sau đó – một hình ảnh mới có thể được trình chiếu.

Điều này không nhất thiết có nghĩa là con có thể thay đổi toàn bộ hoàn cảnh trong một tích tắc – bởi vì một phần của giáo lý duyên khởi là có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng một tình huống có vẻ giản dị – nhưng bằng cách thay đổi các yếu tố này lần hồi, con có khả năng thay đổi hoàn cảnh một cách đáng kể.

Như con có thể thấy, thày hân hoan trao cho con lời dạy này đến độ gần như thày không thể ngừng nói. Nhưng bây giờ thày sẽ niêm hội nghị này trong tim vui mừng và thày trao cho con niềm vui đó. Niềm vui của thày tràn đầy. Và thày mong niềm vui của con cũng tràn đầy.

Gautama TA LÀ.

20 | Thỉnh cầu tiềm năng Phật của con

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con nhìn ra liệu việc đạt đến một mức độ quả vị Phật có là tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Hãy giúp con nhìn ra những gì đang ngăn cản con chấp nhận tiềm năng này, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Gautama, hãy giúp con thấy liệu trong Sứ vụ Thiêng liêng, con có tiềm năng biểu hiện một mức độ quả vị Phật trong kiếp này hay không.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Gautama, hãy giúp con thấy liệu con có đang ở trong giai đoạn hướng nội, khi con hít vào chính bản thân mình cho thoát khỏi mọi vướng mắc với thế gian này. Con rút ra khỏi vướng mắc với các hoàn cảnh nghiệp tạo, lựa bỏ những điều khiến con xao lãng Sứ vụ của con, và giải quyết chấn thương nhập đời để con ở trong một tâm thái trung hòa.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Gautama, hãy giúp con biết là quả vị Phật không phải là giai đoạn tối hậu. Hãy giúp con giải quyết tâm lý của con, kể cả chấn thương nhập đời, để trong bốn thể phàm có rất ít lực kháng cự lại ánh sáng đang tuôn chảy xuyên qua con. Hãy giúp con dời chuyển vào sự nhận biết của Phật.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Gautama, hãy giúp con nhìn ra là Phật có thể năng động trong xã hội. Hãy giúp con tìm ra một cách cá nhân để biểu đạt quả vị Phật.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Gautama, hãy giúp con ngộ ra là những gì con làm bên ngoài không thật sự quan trọng. Con vẫn có thể sống một “cuộc đời bình thường,” có gia đình, có việc làm và sự nghiệp, nhưng con làm vậy một cách khác.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Gautama, hãy giúp con nhìn ra là các hoạt động vỏ ngoài không quy định được con. Chúng không thu hút toàn bộ sự chú ý của con. Con tham gia vào hoạt động nhưng có một phần trong tâm con không bị hấp thu vào đó.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Gautama, hãy giúp con đạt tới điểm con không còn nghĩ tới chuyện mình đang ở tầng tâm thức nào. Con đang làm hết sức để nâng cao tâm thức, nhưng con không quan tâm mình đang ở đâu trên thang điểm. Con cố gắng mà không cố gắng, con không vật lộn.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Gautama, hãy giúp con đạt tới điểm con không có cả mục tiêu. Con không ở trong một tâm thái so sánh. Con xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Con xuôi chảy với cuộc sống.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Gautama, hãy giúp con đạt tới điểm con không có cả một tầm nhìn sáng tỏ về một sứ vụ dường như đang chỉ ra những bước mà con phải bước theo, để đạt tới một mục tiêu nhất định. Con chảy theo cuộc sống, và dù tình huống nào có xảy đến, con cũng không quyết định bằng tâm vỏ ngoài là mình sẽ làm gì. Con chỉ trực nhận rồi con làm theo.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng
.

Phần 2

2.1. Gautama, hãy giúp con làm cuộc xoay chuyển cách mạng là con an bình với bất kỳ hoàn cảnh nào con gặp.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Gautama, hãy giúp con nhận ra là con không thể bước qua một tình huống, cho tới khi con có thể ở trong tình huống mà không bị dính mắc và nhờ vậy được an bình. Con đã làm hòa với tình huống.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Gautama, hãy giúp con đạt tới điểm con không còn vết thương cá nhân nào để cố bênh vực hay đền bù. Con để cho mọi người tự do đi vào bất cứ tâm thức nào mà họ đi vào, tự do trải bày ra bất cứ gì họ trải bày ra.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Gautama, hãy giúp con thấy điều này không có nghĩa là con phải ở lại trong hoàn cảnh đó. Nhưng con cũng không chạy trốn khỏi hoàn cảnh để che chở các vết thương riêng của mình.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Gautama, hãy giúp con đạt đến một mức độ toàn vẹn, không dính mắc, nơi con có thể an bình trong một tình huống cho dù người khác có không an bình. Hãy giúp con thấy khi nào đã đến lúc con bước ra khỏi tình huống.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Gautama, hãy giúp con thấy trong tâm con liệu có một tấn tuồng, một truyện kể mà con cảm thấy phải sống theo hay thực hiện. Hãy giúp con thấy liệu con có mang cái ngã tách biệt đã dựng lên một hình ảnh về con người tâm linh mà con phải là.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Gautama, hãy giúp con nhìn ra liệu con có một ngã tách biệt cảm thấy cho dù con có chọn làm gì, con cũng phải có khả năng đưa ra một lời giải thích tại sao con làm vậy – một lời giải thích phải hữu lý đối với ngã tách biệt đó, có lẽ đối với người khác và thậm chí đối với cả sa nhân.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Gautama, hãy giúp con thấy liệu con có một vấn đề giải thích. Liệu con có một cái ngã cảm thấy con phải có thể tự biện hộ, con phải có thể giải thích động lực và lý do tại sao mình làm công việc mình đang làm.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Gautama, hãy giúp con thấy liệu con có một cái ngã dính liền với một tấn tuồng cuồng đại hay một cốt truyện, mà qua đó như một người tâm linh, con làm một số chuyện và không làm một số chuyện khác – con làm vì một lý do đặc thù, và con không làm bất cứ gì mà không giải thích được tại sao.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng
.

Phần 3

3.1. Gautama, hãy giúp con thấy liệu con có một câu chuyện, một tấn tuồng cuồng đại phải trải bày ra. Hãy giúp con nhìn ra liệu con có cảm thấy luôn luôn phải sống trọn với câu chuyện đó, nếu không thì con phải có thể giải thích tại sao lại không.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Gautama, hãy giúp con thấy động cơ của Hiện diện TA LÀ không thể biểu đạt bằng ngôn từ, đặc biệt những ngôn từ mà tâm vỏ ngoài có thể hiểu được. Con không thể đưa ra một lời giải thích hợp lý, thường tình, dựa trên thực tế và nhân quả, về lý do tại sao con biểu đạt một khía cạnh của cá thể Thiêng liêng của con.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Gautama, hãy giúp con thấy liệu con đã sẵn sàng biểu hiện một mức độ quả vị Phật, nhưng con vẫn có một ngã tách biệt có cái nhìn về con người tâm linh mà con phải là, dựa trên chấn thương nhập đời của con. Dù con đã giải quyết chấn thương nhập đời, con cũng cần giải quyết cái ngã tách biệt đang cầm giữ hình ảnh cho rằng con phải là người như thế nào.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Gautama, hãy giúp con thấy là các chấn thương, vết thương, ngã tách biệt, phàm linh nội tại, giống như những thỏi nam châm đang thu hút sự nhận biết của cái Ta Biết để nó đồng hóa với những thứ rất cá biệt đó.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Gautama, hãy giúp con nhìn ra là vượt quá những thứ đó là cách nhìn tổng thể của con về cuộc sống trên địa cầu, và cách con nhìn chính mình trong quan hệ với cuộc sống trên địa cầu.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Gautama, hãy giúp con thấy liệu con có mang một tư duy rất đường thẳng cho rằng luôn luôn có nhân và có quả. Mỗi khi con làm việc gì thì đó là quả. Cho nên con phải có một lý do mà con có thể giải thích cho người khác và cho chính con.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Gautama, hãy giúp con thấy liệu con có những cái ngã tách biệt sẽ chất vấn việc con đang làm, có lẽ còn buộc tội con đã làm gì sai trái.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Gautama, hãy giúp con nhìn vào cái nhìn tổng thể của con về cuộc sống, liệu con có khái niệm là khi con làm việc gì, con phải có một lý do mà con có thể giải thích.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Gautama, hãy giúp con chấp nhận là con không phải tự biện hộ. Con là một sinh thể độc lập với quyền tự quyết y như mọi người. Con gần như hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết của người khác. Chẳng phải là con cũng phải hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết của con hay sao? Và như vậy, con có thể nói là con không có bổn phận giải thích tại sao con làm việc gì. Thậm chí con không cần giải thích cả cho con.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng
.

Phần 4

4.1. Gautama, hãy giúp con thấy là nếu con hành động theo sự thôi thúc từ Hiện diện TA LÀ, tại sao con phải biện minh và giải thích để tâm đường thẳng có thể nhét nó vào hệ thống tin tưởng mà nó đã bị nhồi sọ trong kiếp này lẫn nhiều kiếp trước?

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Gautama, hãy giúp con nhìn vào tâm này, xem nó là một ngã tách biệt, và con còn xem nó là một cái nhìn tổng thể về cuộc sống mà con đã bước vào. Hãy giúp con nói: “Tôi không muốn tuân theo thế giới quan này, hệ thống tin tưởng này nữa. Tôi không muốn đóng vai trong tấn tuồng cuồng đại này nữa. Tôi không muốn kéo dài truyện kể cá nhân về con người mà tôi phải là trong vũ trụ vật chất này nữa. Tôi sẵn sàng đập tan hàng rào và vượt ra ngoài.”  

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Gautama, hãy giúp con đạt đến trạng thái tự do nội tâm khi con có thể suy nghiệm ý nghĩa thực sự của việc là Phật trong hiện thân, hay việc đạt đến một mức tâm thức Phật khi con còn đầu thai.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Gautama, hãy giúp con nhìn ra khi nào con đạt được một mức quả vị Phật, nơi đó con có thể trải nghiệm thực tại của việc đức Phật cầm giữ không gian cho một biểu hiện đặc thù trên địa cầu.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Gautama, hãy giúp con ngộ ra là khi con đạt đến một mức tâm thức Phật trong khi còn đầu thai vật lý, thì con có khả năng hình thành một dòng chảy hình số 8 với thày.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Gautama, hãy giúp con nhận ra là vì con đang đầu thai vật lý, vì con đã đạt đến mức không dính mắc khiến con không còn tìm cách trải bày ra một câu chuyện cá nhân hay một tấn tuồng cuồng đại, cho nên con có sự tùy chọn để quyết định rút không gian ra khỏi một số biểu hiện nhị nguyên.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Gautama, hãy giúp con tìm ra một biểu hiện hấp dẫn đối với cá nhân con. Hãy giúp con trước hết suy ngẫm về nó, xong con rút không gian khỏi biểu hiện đó trong bốn thể phàm của con. Nhưng sau đó con mở rộng tầm hoạt động, lần hồi đạt tới điểm con rút không gian khỏi tâm thức tập thể.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Gautama, hãy giúp con thấy liệu con đã xoay chuyển cái nhìn tổng thể của mình về cuộc sống, đến mức con chấp nhận là mình đã có tiến bộ. Hãy giúp con đứng lui lại để nhìn xem có một cái ngã tách biệt đang khiến con không nhận ra mình đứng ở đâu trên đường tu, cũng như tiềm năng của con ở mức hiện tại.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Gautama, hãy giúp con xoay chuyển và nhìn nhận: “Tôi là một đệ tử đã tiến khá xa trên đường tu. Tôi đã phần nào trưởng thành. Tôi có một số chứng đạt tâm linh, cho nên tôi có khả năng làm cánh cửa mở. Tôi có khả năng phụng sự. Tôi có khả năng vun bồi sự hòa điệu với các chân sư thăng thiên. Tôi biết được bước kế tiếp của tôi trong Sứ vụ Thiêng liêng. Tôi thực sự có khả năng làm gì đó trên địa cầu, không phải vì tôi là tác nhân mà vì tôi có thể đồng sáng tạo với Hiện diện TA LÀ của tôi và cống hiến một cái gì chính đáng, có giá trị, đáng trân trọng, xây dựng và tốt đẹp.”     

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng
.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

18 | Thỉnh cầu sự an bình khi ở đây

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Mẹ Mary, hãy giúp con khắc phục mọi điều trong tâm lý của con đang ngăn cản con cảm thấy an bình khi có mặt nơi đây, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy có phải mỗi khi con nghe nói về việc đem lại phán xử Ki-tô và thách thức sa nhân, thì trong con khởi lên một phản ứng cưỡng lại.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.2. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy liệu phản ứng đó phát xuất từ lòng ngờ vực, vũ khí chủ yếu của sa nhân. Hãy giúp con nhìn ra liệu con có do dự vì con chưa giải quyết ngã gốc của con.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.3. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn xem có phải trong Sứ vụ Thiêng liêng của con không có việc thăng thiên sau kiếp này, hay không có việc xông ra thách thức sa nhân một cách công khai.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.4. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn ra liệu trong Sứ vụ của con có việc thách thức sa nhân và đem lại phán xử Ki-tô theo cách omega. Hãy giúp con thấy liệu con đã chọn có mối quan hệ với sa nhân.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.5. Mẹ Mary, hãy giúp con hòa nhập và không vội thách thức bất cứ ai cho đến khi con biết trong Sứ vụ của mình có gì, và con cảm thấy điều này đến từ bên trong. Nếu con nhận được thúc giục của trực giác để thách thức ai đó thì con cứ làm, nhưng con sẽ không quyết định với tâm vỏ ngoài.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.6. Mẹ Mary, con sẵn sàng làm việc trên chấn thương nhập đời của con. Hãy giúp con thấy việc xông ra thách thức người khác có phải là chọn lựa của con, hay chọn lựa của con là thương yêu họ.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.7. Mẹ Mary, hãy giúp con nhận ra là để hoàn thành ý muốn và tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ, con không thể thương yêu sa nhân theo cách thế phàm, mà một cách vô điều kiện.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.8. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy tình yêu vô điều kiện chỉ có thể được trao khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời của mình, vì tình yêu có điều kiện xuất phát từ một tâm lý chưa giải quyết.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.9. Mẹ Mary, hãy giúp con nhận diện tình yêu sở hữu là khi con nghĩ con yêu ai đó, nhưng con làm vậy vì con cho rằng người kia có thể cho con một điều gì sẽ giúp con trở nên trọn vẹn, hoặc sẽ che lấp vết thương của con để con không cảm thấy vết thương.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 2

2.1. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy liệu trong phạm vi ảnh hưởng của con có những người mà vai trò của con không phải là thay đổi họ. Vai trò của con là khi bày tỏ tình yêu vô điều kiện, con giúp họ nhìn ra một cách khác hơn.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.2. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy khía cạnh omega của quả vị Ki-tô là chứng tỏ một trạng thái tâm thức khác hơn qua tình yêu vô điều kiện, qua việc thương yêu người khác.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.3. Mẹ Mary, hãy giúp con tránh nhìn mỗi người con gặp và cố đặt ra trong tâm mình những tiêu chuẩn để xét đoán họ có là sa nhân hay không.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.4. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn ra liệu con đã có quan hệ với một sa nhân nào đó trong nhiều kiếp. Hãy giúp con nhận diện điều này, rồi phơi bày các vết thương và cơ chế đã buộc con vào sa nhân đó.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.5. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy các tin tưởng nằm đằng sau điều này, và nhận ra là ở một tầng cấp nào đó của bản thể con, con đã nghĩ mình có khả năng thay đổi sa nhân đó qua việc quan hệ và yêu thương họ.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.6. Mẹ Mary, hãy giúp con bước lên cao hơn và thể nhập bản chất tuyệt đối của quyền tự quyết. Con không ở đây để thay đổi bất cứ ai, dù là sa nhân hay không. Con đặc biệt không ở đây để thay đổi sa nhân.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.7. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy là nếu con cố thay đổi sa nhân, chúng sẽ dùng ý muốn đó của con để buộc chặt con lại với chúng, đánh cắp năng lượng của con, khuynh đảo con hay tìm cách tiêu diệt con.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.8. Mẹ Mary, hãy giúp con nhận diện xem con đã rơi vào khuôn nếp đó hay không, con có ý muốn thay đổi sa nhân hay không. Hãy giúp con hoàn toàn buông bỏ và để cho ngã đó chết đi.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.9. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy là con không thể biểu hiện quả vị Ki-tô nếu con ở trong một khuôn nếp phản ứng lại sa nhân. Ý muốn cải tạo sa nhân nảy sinh từ chấn thương nhập đời khi lần đầu tiên con đã phải đối mặt với chúng.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 3

3.1. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy là sau chấn thương nhập đời, con đã tạo ra một quá trình lập luận dẫn con đến kết luận là cách tốt nhất để giúp thay đổi hành tinh là con lựa ra một sa nhân, con có quan hệ thân thiết và nỗ lực cải tạo sa nhân đó.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.2. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy liệu trong ngã gốc của con có ý muốn thay đổi một sa nhân hay không. Hãy giúp con thấy là con không thể thực sự giải quyết ngã gốc cho đến khi con nhìn vào ý muốn đó và buông nó ra. Hãy giúp con từ bỏ ý muốn đó, vì con nhìn nhận đó không phải là lý do con ở đây.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.3. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn ra cốt lõi của ngã gốc là phản ứng của con đối với chấn thương, đối với sự tàn bạo hay lừa dối. Hãy giúp con thấy có phải vì muốn đối phó với chấn thương mà con đã tạo ra cái ngã muốn cải tạo một sa nhân. Hãy giúp con buông bỏ ý muốn cải tạo một sa nhân.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.4. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn ra và chấp nhận là con không thể cải tạo một sa nhân. Không có gì con có thể làm hay nói sẽ cải tạo được một sa nhân – hay bất cứ ai khác.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.5. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy điều này không có nghĩa là con bất lực, hay sự có mặt của con ở đây là bằng thừa. Mặc dù con không có quyền năng hay mong muốn ép buộc chọn lựa của người khác, con vẫn có khả năng tạo cảm hứng, bằng cách cho họ thấy một trạng thái tâm thức khác hơn để họ chọn lựa cao hơn.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.6. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy là con có thể cho họ một sự tùy chọn, nhưng con không thể cưỡng ép chọn lựa của họ. Hãy giúp con hoàn toàn rũ bỏ ý muốn cải tạo hay thay đổi bất cứ ai, hầu con là cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.7. Mẹ Mary, hãy giúp con chiêm nghiệm là con không thể sở hữu tình yêu vô điều kiện, nhưng con có thể mở tâm ra với nó như con mở tâm ra với quả vị Ki-tô. Tình yêu vô điều kiện là khía cạnh omega của tâm thức Ki-tô.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.8. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy nếu con có ý muốn thay đổi người khác, thì sẽ không có khe hở trong bản thể con để tình yêu vô điều kiện có thể chảy vào.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.9. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy là nếu con biểu lộ tình yêu vô điều kiện với một sa nhân, rất có thể y sẽ chối bỏ tình yêu đó. Hãy giúp con thấy liệu con có một ngã tách biệt đang bị dính mắc. Ngã này cảm thấy nếu con là cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện thì người ta không được chối bỏ con.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 4

4.1. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy liệu con đã biểu lộ tình yêu vô điều kiện để rồi tình yêu này bị chối bỏ, cho nên ngã tách biệt quyết định sẽ không bao giờ biểu lộ tình yêu vô điều kiện nữa.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.2. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn nhận là cho dù con có khả năng làm cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện, con vẫn có thể còn một ngã tách biệt cầm giữ một hình ảnh nào đó về những gì phải xảy ra khi con biểu lộ tình yêu vô điều kiện.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.3. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn xem con có còn một cái ngã hay một ảo tưởng khiến con cảm thấy mình bị chối bỏ, hay bị rơi vào nhiều phản ứng tiêu cực khi người ta không đáp ứng theo cách mình chờ đợi.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.4. Mẹ Mary, con sẵn sàng nhìn vào chính mình và nắm lấy đó như một cơ hội để khắc phục thêm một ảo tưởng, buông bỏ thêm một ngã tách biệt. Hãy giúp con vươn lên tầng kế tiếp nơi con có thể biểu hiện tình yêu vô điều kiện nhiều hơn, và không dính mắc với cách người ta tiếp nhận.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.5. Mẹ Mary, hãy giúp con hoàn toàn không dính mắc với cách phản hồi của người khác, vì con không có bất kỳ ý định nào khi biểu lộ tình yêu.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.6. Mẹ Mary, hãy giúp con chấp nhận là con sẽ kinh qua một giai đọan tạm thời khi con xoay vào rồi lại xoay ra khỏi tâm thức Ki-tô, khiến con không thể tránh phản ứng lại trong tâm thức bình thường của mình những hậu quả của việc bày tỏ quả vị Ki-tô.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.7. Mẹ Mary, hãy giúp con học cách nhìn xuyên thấu và nhận ra phản ứng này là một cơ hội để bước lên tầng tâm thức kế tiếp. Hãy giúp con vượt qua ảo tưởng gắn liền với tầng tâm thức hiện thời, và bước lên một tầng cao hơn nơi con có khả năng thể hiện nhiều quả vị Ki-tô hơn.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương..

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.8. Mẹ Mary, hãy giúp con trở nên ý thức về quá trình này, để con có thể mau chóng xoay chuyển và không còn tự trách mình nữa. Ngược lại, con nhận ra sự thật tuyệt đối là con không cần toàn hảo để thể hiện quả vị Ki-tô.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.9. Mẹ Mary, hãy giúp con làm hòa với con người mà con đang là ngay lúc này. Hãy giúp con làm hòa với tầng tâm thức nơi con đang đứng, thay vì cứ tự trách móc hay cảm thấy mình bị chậm trễ và mình đúng lý phải ở tầng cao hơn.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 5

5.1. Mẹ Mary, hãy giúp con chấp nhận là con tốt đủ ở tầng tâm thức mà con đang đứng. Con không có lý do gì để lên án mình đã phản ứng ở tầng tâm thức này, thậm chí phản ứng lại việc mình đã biểu lộ quả vị Ki-tô cùng cách hồi đáp của người khác.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.2. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy phản ứng của con là cơ hội để con nhìn ra ảo tưởng ở tầng hiện thời rồi vươn lên tầng kế tiếp. Đường tu luôn luôn đã là như vậy và sẽ luôn luôn là như vậy.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.3. Mẹ Mary, hãy giúp con chấp nhận cơ chế căn bản của đường tu là con đang ở một tầng nào đó. Con phản ứng theo cách như vậy. Bằng cách xem xét phản ứng, con có thể nhìn thấy ảo tưởng ở tầng đó hầu con vươn lên tầng sau.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.4. Mẹ Mary, con đã chán chê ảo tưởng rồi, con đã chán chê những mơ tưởng hoành tráng. Con chỉ muốn biết đường tu vận hành như thế nào để con có thể tiến bước nhanh nhất, vượt lên trên những phản ứng mất quân bình, tiêu cực, tự trách, để con cảm thấy an bình khi ở đây.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.5. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn thấy ngã tách biệt mà con đã tạo ra khi con phản ứng lại cõi vật chất, đặc biệt là chọn lựa của con có thể tạo ra một hậu quả vật lý mà con không thể khắc phục cho đến hết kiếp này.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.6. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy liệu con đã tạo ra một ngã tách biệt phản ứng khi con rơi vào một phản ứng tiêu cực đối với cõi Mẹ. Con cảm thấy mình không thể thoải mái, không thể an bình trong cõi Mẹ. Con suy luận là có gì không ổn với cõi Mẹ, rằng cõi Mẹ không được như vậy.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.7. Mẹ Mary, con sẵn sàng xem xét điều này và xoay chuyển cách mạng, qua đó con chấp nhận hành tinh địa cầu là một công cụ giáo huấn. Để cho con người những bài học mà họ cần học, vật chất cần phải dày đặc như nó vốn dày đặc. Vật chất cần phải ù lì đối với tâm con người như nó vốn ù lì, bởi vì nếu không, hầu hết mọi người trên trái đất sẽ không học được bài học của họ.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.8. Mẹ Mary, hãy giúp con chấp nhận là không có gì không ổn với vật chất. Chính phản ứng của con đối với vật chất đã khiến con nghĩ vật chất có gì không ổn. Cho nên việc giải quyết ngã tách biệt này là trách nhiệm của con. Chỉ khi nào con làm vậy thì con mới tự do đón nhận sự hiện thân của mình trong cõi vật lý.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.9. Mẹ Mary, hãy giúp con vươn lên mức quả vị Ki-tô nơi con an bình với việc mình hiện thân trong cõi vật lý. Hãy giúp con khắc phục mong muốn thoát khỏi nơi đây. Hãy giúp con khắc phục cảm giác là có gì không ổn khi vật chất đang là cái nó là. Hãy giúp con chấp nhận mình có mặt ở đây, chấp nhận vật chất như nó vốn là.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

14 | Thỉnh cầu khả năng nhìn nhận mình “sai lầm”

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Saint Germain, hãy giúp con khắc phục mọi khuynh hướng không muốn, hay không thể, nhìn nhận mình đã “sai lầm”, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Saint Germain, hãy giúp con thấy khả năng quan trọng nhất của một đệ tử trên đường tu tâm linh là khả năng nhìn nhận mình đã sai lầm.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

1.2. Saint Germain, hãy giúp con nhìn ra cái “tôi” có thể sai lầm là ngã tách biệt. Ngã tách biệt không bao giờ có thể nhìn nhận nó đã sai lầm. Chỉ cái Ta Biết mới có thể nhìn nhận nó đã sai lầm – khi nó ý thức.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

1.3. Saint Germain, hãy giúp con thấy rằng cái Ta Biết, cùng khi nó nhìn nhận nó đã sai lầm, cũng có khả năng thấy được cái đã sai lầm là ngã vỏ ngoài, ngã tách biệt. Khi nhìn ra điều này, nó có thể tách mình ra khỏi ngã đó.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
từ Cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

1.4. Saint Germain, hãy giúp con nhận ra là cùng lúc con nhìn nhận không phải mọi chuyện con từng làm trong đời đều hoàn hảo, thì con cũng tách mình ra khỏi cái ngã đã khiến con hành xử như vậy. Đây là vì sao con có thể nhìn lại đời mình mà không hối tiếc.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
hào quang của con toàn một màu tím,
luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

1.5. Saint Germain, hãy giúp con thấy một số điều con từng làm trong đời là sai lầm. Hãy giúp con học hỏi từ đó, và xét xem tâm lý của ngã tách biệt đã khiến con làm vậy là gì.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

1.6. Saint Germain, hãy giúp con phát hiện tâm lý đó, thấy được quyết định nằm ẩn đằng sau nó, và thay đổi quyết định đó một cách ý thức, hầu con có thể để cho ngã tách biệt chết đi. Khi đó, con sẽ không hối tiếc gì nữa vì con đã bước lên cao hơn, và đây chính là mục đích của cuộc sống.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu,
đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

1.7. Saint Germain, hãy giúp con thấy sẽ tới một điểm khi con minh mẫn hơn về Sứ vụ Thiêng liêng, nhưng vẫn có thể có điều gì cầm chân con lại khiến con không thấy được mức kế tiếp. Đó chính là sự kiện con không thể hay không muốn nói: “Việc đó là sai lầm.”

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
vận hội mới mở ôi sao mới quá,
nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

1.8. Saint Germain, hãy giúp con nhận diện là con đã có một cái nhìn về cuộc sống, về bản thân và về giáo lý tâm linh không là cao nhất.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
cho thày con xin là mặt trời tím,
chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

1.9. Saint Germain, hãy giúp con nhìn ra cơ chế tâm lý khiến con cảm thấy là nếu con nhìn nhận các niềm tin mà con đã có không phải là cao nhất, thì điều này có nghĩa là con đã sai lầm.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng kim huy hoàng lộ diện.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

Phần 2

2.1. Saint Germain, hãy giúp con thấy liệu con có từ chối nhìn nhận một điều gì đó vì con sợ nó có nghĩa là trực giác của con đã sai lầm. Và nếu con không thể tin vào trực giác của mình thì con có thể tin vào gì nữa đây?

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

2.2. Saint Germain, hãy giúp con nhìn xem trong tiềm thức, con có lo sợ bị ném vào một tâm trạng ngờ vực, một vùng hoang địa nơi con cảm thấy mình không thể tin vào bất cứ gì.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

2.3. Saint Germain, hãy giúp con nhìn ra là trên con đường tâm linh, vấn đề không phải là mình có lý theo cách nhìn của tự ngã, mà mình có được một số trải nghiệm xoay chuyển tâm thức của mình. Cho nên trực giác của con có thể chính đáng ngay cả khi tâm vỏ ngoài diễn giải là nó đã sai lầm.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
từ Cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

2.4. Saint Germain, hãy giúp con nhận diện khi nào thái độ và các tin tưởng của con không đồng thuận với một thực tại cao hơn. Hãy giúp con tránh rơi vào cái bẫy cho rằng điều này có nghĩa là con sai lầm.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
hào quang của con toàn một màu tím,
luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

2.5. Saint Germain, hãy giúp con khắc phục vết nhơ gắn liền với sự sai lầm mà sa nhân đã tạo ra, cụ thể là nếu con sai lầm thì điều này thật “xấu xa”, nó sẽ dẫn đến những hậu quả tàn khốc.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

2.6. Saint Germain, hãy giúp con nhận ra là khi con sai lầm, con sẽ không bị đày xuống địa ngục, vì không có gì con không thể vượt qua được. Tuy nhiên, con không thể vượt qua một điều gì nếu con không nhìn nó và không thành thật nhìn nhận là con cần buông nó ra thay vì cứ nắm chặt lấy nó.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu,
đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

2.7. Saint Germain, hãy giúp con thấy là nếu con không thể nhìn nhận mình đã sai lầm, thì con sẽ tự đặt mình vào tâm trạng phủ nhận, và trong phủ nhận, con không thể nào nhìn ra các khía cạnh cao hơn của Sứ vụ của con.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
vận hội mới mở ôi sao mới quá,
nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

2.8. Saint Germain, hãy giúp con thấy nguyên liệu cốt yếu cho một đệ tử trên đường tu muốn nhìn thấy các tầng cao hơn của Sứ vụ mình, chính là sự sẵn lòng nhìn nhận: “Các niềm tin của tôi giới hạn, cho nên tôi cần để cho chúng ra đi, tôi cần mở tâm ra một chứng ngộ cao hơn, một trải nghiệm cao hơn.”

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
cho thày con xin là mặt trời tím,
chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

2.9. Saint Germain, hãy giúp con nhận ra là con sẽ chỉ thấy được các tầng cao hơn của Sứ vụ bằng cách vươn lên một tầng tâm thức cao hơn. Con sẽ chỉ vươn đến tầng tâm thức này bằng cách xem xét các niềm tin mà con đã khoác vào ở một tầng tâm thức thấp hơn, rồi nhìn nhận một cách ý thức là chúng không cao nhất.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng kim huy hoàng lộ diện.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

Phần 3

3.1. Saint Germain, hãy giúp con tránh chui vào ngõ cụt không lối thoát khi con cố biện giải tại sao niềm tin của mình không sai, hay tại sao con đã không sai khi khoác vào niềm tin đó. Hãy giúp con nói: “Tôi đã có những niềm tin đó vì đó là những gì tôi có thể thấy vào thời đó. Giờ đây tôi đã vươn lên một mức tâm thức cao hơn và tôi có thể thấy nhiều hơn, nhưng để thực sự thực hiện những gì tôi thấy, tôi phải buông bỏ các niềm tin cũ.”

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

3.2. Saint Germain, hãy giúp con thấy liệu con đã đạt mức tăng triển tối đa mà con có thể đạt được trong một phong trào hay một hệ thống tín ngưỡng. Hãy giúp con lắng nghe trực giác đang hướng dẫn con đến một giáo lý hay một cách tiếp cận giáo lý khác hơn.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

3.3. Saint Germain, hãy giúp con vượt qua ảo tưởng là con đã đạt được một tầm hiểu biết tối thượng, một niềm tin tối hậu. Hãy giúp con nhìn ra đó chỉ là tự ngã muốn cảm thấy an toàn.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
từ Cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

3.4. Saint Germain, hãy giúp con thấy rằng người tiến bước trên đường tâm linh là người sẵn sàng xem xét chính mình và nhìn ra: “Tự ngã của tôi, những cái ngã tách biệt của tôi, đều mang một xu hướng nào đó. Không thật là tôi tin rằng mình không cần đi tìm một giáo lý nào khác, mà một cái ngã tách biệt trong tự ngã tin như vậy. Tôi không là ngã tách biệt đó. Tôi là nhiều hơn thế!”

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
hào quang của con toàn một màu tím,
luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

3.5. Saint Germain, “cái ta” mà con thực là đang sẵn sàng nhìn vào ngã đó và thấy rằng các niềm tin của ngã đã sai lầm! Chúng đã lỗi thời, chúng giới hạn, và con đang rũ bỏ chúng đây! Con đang mở tâm ra để nhìn thấy một điều gì mà con đã không thể nhìn thấy qua phin lọc các niềm tin giới hạn đó! Con đang làm cho tâm lỏng ra để tâm không đông đặc lại xung quanh một điểm, một niềm tin nào đó!

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

3.6. Saint Germain, hãy giúp con thấy là mặc dù con đã dùng lửa tím để tiêu hủy năng lượng và cho ngã tách biệt chết đi, nhưng có thể vẫn còn một ngã tách biệt ghi nhớ những gì con đã làm và phóng chiếu là con cần tiếp tục ghi nhớ nó. Rằng con cần cảm thấy hối hận về nó, đền bù cho nó hay chú ý đến nó.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu,
đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

3.7. Saint Germain, hãy giúp con bước lui lại và thấy có một ngã tách biệt đang phóng chiếu lên con, xong con nói: “Mi không phải là ta. Ta không muốn mi trong đời ta nữa! Ta đang để cho mi chết đây!”

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
vận hội mới mở ôi sao mới quá,
nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

3.8. Saint Germain, con chấp nhận là con không cần nhớ lại điều đó nữa. Con hoàn toàn không cần dành cho nó bất kỳ chú ý nào.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
cho thày con xin là mặt trời tím,
chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

3.9. Saint Germain, hãy giúp con tôn trọng quyền tự quyết của chính con, rằng con có quyền bỏ lại chuyện đó đằng sau. Hãy giúp con buông những ai không chịu buông bỏ quá khứ. Hãy giúp con chấp nhận là con có quyền làm những gì mình cảm thấy là điều phải đối với mình.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng kim huy hoàng lộ diện.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

Phần 4

4.1. Saint Germain, hãy giúp con thấy liệu con vẫn còn một vài con “bò thiêng” đang lang thang trong cánh đồng của tâm thức con. Có thể con sẽ chỉ nhìn ra chúng khi có một điều gì, chẳng hạn một lời dạy tâm linh, khiến con dao động.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

4.2. Saint Germain, hãy giúp con thấy tại sao cái đó khiến con dao động, xong con dõi bước theo nó, đi xa hơn cảm xúc, và nhìn ra đâu là niềm tin đang khiến mình thoải mái. Con mở tâm ra cho tầm hiểu cao hơn mà thày đang cố truyền đạt cho con.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

4.3. Saint Germain, hãy giúp con rà xét chính mình và nhìn xem có điều gì vẫn làm con xáo trộn. Hãy giúp con dõi bước theo nó, đi xa hơn cảm xúc, và nhìn ra niềm tin ẩn đằng sau. Hãy giúp con buông bỏ niềm tin đó.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
từ Cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

4.4. Saint Germain, có còn điều gì con chưa nhìn thấy chăng? Hãy giúp con thấy nó, vì con thực sự muốn bước lên viễn quan cao hơn của Sứ vụ của con. Con muốn tiến bước tối đa. Con muốn đạt đến mức tâm thức nơi con có thể là chính mình.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
hào quang của con toàn một màu tím,
luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

4.5. Saint Germain, hãy giúp con thấy những con bò thiêng đang ngăn con là chính mình, ngăn con biểu đạt chính mình mà không sợ phản ứng. Hãy giúp con nhìn thấy thái độ của con đối với cõi vật chất là gì và liệu con có thoải mái ở đây hay không.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

4.6. Saint Germain, hãy giúp con khắc phục ảo tưởng con có thể đạt tới một giai đoạn tối hậu nào đó khi vẫn hiện thân trên trái đất. Hãy giúp con buông ảo tưởng con có thể đạt tới điểm cải sửa xong tâm lý của mình, và giờ đây con giải thoát khỏi mọi chuyện.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu,
đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

4.7. Saint Germain, hãy giúp con lấy cái quyết định sẽ đem lại xoay chuyển cách mạng, là con không còn mong mỏi trạng thái “tới đích” đó nữa trong khi đầu thai. Con tìm cái ảo tưởng kế tiếp sẽ đưa con lên tầng tâm thức kế tiếp. Hãy giúp con mang vào một bản chất thứ hai, dõi tìm ảo tưởng kế tiếp và nhìn nhận: “À, cái đó giới hạn, nó phải ra đi.”

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
vận hội mới mở ôi sao mới quá,
nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

4.8. Saint Germain, hãy giúp con vượt ra khỏi lực kháng cự không muốn nhìn thấy một niềm tin giới hạn. Con chỉ cần nhìn nhận đó là một niềm tin giới hạn, xong con bước lên tiếp. Hãy giúp con làm lỏng và mở rộng tâm ra để con thấy một tầm hiểu cao hơn, hầu thày có thể thực sự làm việc với con.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
cho thày con xin là mặt trời tím,
chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

4.9. Saint Germain, hãy giúp con có trải nghiệm nhận được sáng ngộ mới từ thày mỗi ngày. Hãy giúp con thấy rằng việc buông bỏ một niềm tin cố hữu, một niềm tin giới hạn, chỉ có thể là một sự giải thoát, một niềm vui, một sự trút bỏ nhẹ nhõm, một tầng cấp tự do mới. Hãy giúp con chiêm nghiệm tự do mà con đạt được là phần thưởng của chính nó, và con không cần một phần thưởng nào khác để bước trên đường tu.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng kim huy hoàng lộ diện.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
lửa tím của thày đem theo hồi phục,
chúng sinh khai mở, tâm thức hơn xa.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

12 | Thỉnh cầu sự nhận biết các chọn lựa của mình

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Chỉ đạo Thiêng liêng, hãy giúp con có được một nhận biết rõ hơn về cách con chọn lựa như thế nào, và những chọn lựa nào đang mở ra cho con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con ý thức hơn về những chọn lựa con đang lấy.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nay con biết,
Cả thế gian chỉ là cõi huyễn ảo,
Trong tim con cảm nhận rõ làm sao,
Không có gì ngoài Tánh linh là thật. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.2. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con ý thức hơn về các phản ứng của con, và thấy được khi nào con bị một hoàn cảnh kích hoạt một khuôn nếp phản ứng nhất định.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, giúp con nhìn, 
Con muốn sống trong viễn kiến quang minh,
Con đã thấy được Sứ vụ Thiêng liêng,
Hiểu kế sách độc đáo của chính mình. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.3. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con nhìn ra bất kỳ khuôn nếp phản ứng nào xuất phát từ một phàm linh nội tại, một cái ngã, có thể từ ngã gốc của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, cho con thấy, 
Những trò chơi uẩn khúc của ngã này,
Giúp con thoát lồng giam của tự ngã,
Để đem lại một thời mới thăng hoa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.4. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con gia tăng nhận biết về cái gì đứng đằng sau khuôn nếp phản ứng đó, và con thoát ra khỏi nó để không còn phản ứng cách đó nữa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nhập với thày, 
Viễn quan con là một, chẳng còn hai,
Thày xua tan tấm màn của nghiệp quả,
Nguyên vũ trụ hiện ra sao mới quá. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó.

1.5. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con nhận ra là khi con khắc phục các khuôn nếp phản ứng đó, con có thể nhìn ra những khía cạnh mới trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con có thể lấy những quyết định ý thức hơn về cách mình muốn phản ứng như thế nào đối với một cảnh huống hay một người.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con không quản,   
Chén con ngập điện từ với ánh sáng,
Thày tiêu hủy hồn bóng của dĩ vãng,
Và cho con tầm nhìn rất bạo dạn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó.

1.6. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con thể nhập là khả năng sáng tạo dựa trên việc chọn lựa! Con thực sự sáng tạo không chỉ bằng cách sử dùng năng lượng sẵn có trong cõi vật chất và khả năng sẵn có trong tâm phàm, mà con thực sự sáng tạo bằng cách kết nối với một cái gì cao hơn ngã của con, và làm cánh cửa mở cho dòng chảy Tánh linh.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, tim chân thành, 
Con bắt tay làm phần vụ thần thánh.
Con thấy rồi, thày ơi, trong phút ngẫu,
Sứ vụ con sẽ dẫn tới nơi đâu. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.7. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con nhìn ra dòng chảy đó không phải là cái gì xảy ra hoặc không xảy ra. Sáng tạo đòi hỏi một số quyết định nơi con. Con có thể làm rất nhiều để mở tâm ra đón nhận dòng chảy Tánh linh.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con ân huệ, 
Thấy vai trò mình trong công cuộc lớn,
Và cũng thấy ngọn lửa của cá thể,
Nét độc đáo của con do Thượng đế. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.8. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con thấy là con không thể ép buộc Thánh linh, nhưng con cũng không thể nhận được Thánh linh bằng cách ngồi chờ thụ động. Hãy giúp con tìm ra con đường trung đạo, nơi con giải quyết các chấn thương riêng của mình và gia tăng sự cởi mở trong tâm.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, mắt đơn nhất, 
Thấy TA LÀ chính Mặt trời Thượng đế.
Khi thày ban chỉ đạo Thiêng liêng nhất,
Con cũng tỏa ánh sáng thật tràn trề. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.9. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con ý thức hơn là con phải chọn trở thành cánh cửa mở, con phải chọn “làm” cánh cửa mở trong một số hoàn cảnh đặc thù. Điều này đòi hỏi con lấy quyết định ý thức là con sẵn lòng là Ki-tô trong một hoàn cảnh đặc thù.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ôi hân hạnh, 
Được đóng góp cho Tánh linh cất cánh,
Nâng loài người ra khỏi đêm cùng quạnh,
Để tắm nắng trong tình yêu Linh thánh. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

Phần 2

2.1. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn lòng nhìn nhận là con có một khả năng nào đó, con sẵn sàng với lên một ý tưởng cách mạng, hay một ý tưởng cao hơn tâm thức hiện thời của con một bực, hay cao hơn tâm thức người chung quanh một bực.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nay con biết,
Cả thế gian chỉ là cõi huyễn ảo,
Trong tim con cảm nhận rõ làm sao,
Không có gì ngoài Tánh linh là thật. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.2. Chỉ đạo Thiêng liêng, con lấy quyết định ý thức mở tâm ra để làm cánh cửa mở. Con biết là Thánh linh sẽ chảy xuyên qua con khi nào có một khe mở.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, giúp con nhìn, 
Con muốn sống trong viễn kiến quang minh,
Con đã thấy được Sứ vụ Thiêng liêng,
Hiểu kế sách độc đáo của chính mình. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.3. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con khắc phục ảo tưởng là có một số người xứng đáng được làm công cụ cho Thánh linh và một số người khác thì không. Con cởi mở, con sẵn lòng, và con xứng đáng một khi con nỗ lực chuyên tâm.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, cho con thấy, 
Những trò chơi uẩn khúc của ngã này,
Giúp con thoát lồng giam của tự ngã,
Để đem lại một thời mới thăng hoa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.4. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con vượt qua cuộc khai ngộ của Thời đại Song ngư và khắc phục sự sùng bái thần tượng do sa nhân tạo ra cho rằng chỉ có một số người xứng đáng.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nhập với thày, 
Viễn quan con là một, chẳng còn hai,
Thày xua tan tấm màn của nghiệp quả,
Nguyên vũ trụ hiện ra sao mới quá. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó.

2.5. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con hoàn toàn chấp nhận là tự thân con đã xứng đáng do con có tự nhận biết. Đây không phải là vấn đề xứng đáng mà là vấn đề rộng mở để đón nhận Tánh linh.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con không quản,   
Chén con ngập điện từ với ánh sáng,
Thày tiêu hủy hồn bóng của dĩ vãng,
Và cho con tầm nhìn rất bạo dạn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó.

2.6. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con lấy quyết định sẵn lòng làm cánh cửa mở, con sẵn lòng nhận được một điều gì và sẵn lòng biểu đạt điều đó – bất kể phản ứng của người khác là gì.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, tim chân thành, 
Con bắt tay làm phần vụ thần thánh.
Con thấy rồi, thày ơi, trong phút ngẫu,
Sứ vụ con sẽ dẫn tới nơi đâu. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.7. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con đi thấu việc chữa lành tâm lý, giúp con xem xét và tách ra khỏi ngã gốc. Hãy giúp con khắc phục ngã gốc để con sẵn sàng chấp nhận rủi ro khi bày tỏ một điều gì mới.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con ân huệ, 
Thấy vai trò mình trong công cuộc lớn,
Và cũng thấy ngọn lửa của cá thể,
Nét độc đáo của con do Thượng đế. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.8. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con nhìn vào ngã gốc và tách mình ra khỏi nó, để lòng sợ hãi hậu quả và ý niệm rủi ro tan biến mất.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, mắt đơn nhất, 
Thấy TA LÀ chính Mặt trời Thượng đế.
Khi thày ban chỉ đạo Thiêng liêng nhất,
Con cũng tỏa ánh sáng thật tràn trề. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2.9. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con đạt tới điểm con không còn cơ chế đền bù, không còn mong muốn trừng phạt sa nhân. Con cũng không mong muốn được người khác chấp nhận hay công nhận, vì con không còn bất an nào trong con nữa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ôi hân hạnh, 
Được đóng góp cho Tánh linh cất cánh,
Nâng loài người ra khỏi đêm cùng quạnh,
Để tắm nắng trong tình yêu Linh thánh. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

Phần 3

3.1. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con nhìn nhận là con hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết. Khi con tôn trọng quyền tự quyết của người khác, điều này có nghĩa là khi con phát biểu để thể hiện một ý tưởng cao hơn, con sẽ để cho mọi người tự do phản hồi hay không phản hồi theo bất cứ cách nào họ muốn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nay con biết,
Cả thế gian chỉ là cõi huyễn ảo,
Trong tim con cảm nhận rõ làm sao,
Không có gì ngoài Tánh linh là thật. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.2. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con nhận ra là trong khi con tôn trọng quyền tự quyết của người khác, con cũng cần có sự tôn trọng bình đẳng đối với quyền tự quyết của con. Con quyết định là chọn lựa của con sẽ độc lập với chọn lựa của người khác.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, giúp con nhìn, 
Con muốn sống trong viễn kiến quang minh,
Con đã thấy được Sứ vụ Thiêng liêng,
Hiểu kế sách độc đáo của chính mình. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.3. Chỉ đạo Thiêng liêng, nếu có ai chối bỏ con, con sẽ không rơi vào phản ứng tiêu cực đối với những gì mình đã làm. Con không phải có phản ứng tiêu cực nào hết, và con không cần cảm thấy bị người khác chối bỏ.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, cho con thấy, 
Những trò chơi uẩn khúc của ngã này,
Giúp con thoát lồng giam của tự ngã,
Để đem lại một thời mới thăng hoa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.4. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con khắc phục tâm thái nhị nguyên nghĩ rằng mỗi khi con phát biểu thì người khác phải phản ứng, và phản ứng này sẽ tích cực hay tiêu cực. Hãy giúp con đạt tới điểm con không nghĩ cả tới chuyện phản ứng có thể như thế nào. Con để cho người khác tự do muốn phản ứng thế nào cũng được, vì con biết con đã tự do không phản ứng lại.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nhập với thày, 
Viễn quan con là một, chẳng còn hai,
Thày xua tan tấm màn của nghiệp quả,
Nguyên vũ trụ hiện ra sao mới quá. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó.

3.5. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con đạt tới điểm con không tự biểu đạt vì con muốn cứu nguy thế giới, thay đổi người khác, hay được người khác chứng thực. Con chỉ tự biểu đạt vì đang biểu đạt con người mà con là, cùng Bản thể cao hơn của con. Đó là điều đem lại cho con niềm vui tột bực trên trái đất.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con không quản,   
Chén con ngập điện từ với ánh sáng,
Thày tiêu hủy hồn bóng của dĩ vãng,
Và cho con tầm nhìn rất bạo dạn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó.

3.6. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con nhận biết một cách ý thức là con nối kết với Hiện diện TA LÀ của con. Có một dòng chảy từ Hiện diện TA LÀ, và những gì chảy xuyên qua con là một biểu hiện của cá thể tâm linh của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, tim chân thành, 
Con bắt tay làm phần vụ thần thánh.
Con thấy rồi, thày ơi, trong phút ngẫu,
Sứ vụ con sẽ dẫn tới nơi đâu. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.7. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con trải nghiệm một niềm vui lớn hơn mọi niềm vui đã trải nghiệm khi con chỉ hành động qua ngã phàm. Hãy giúp con nghiệm thấy là không hoạt động nào có thể đem lại cùng niềm vui, cùng cảm nhận tràn đầy như khi con cảm được dòng chảy của Tánh linh và biết mình đang đồng sáng tạo.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con ân huệ, 
Thấy vai trò mình trong công cuộc lớn,
Và cũng thấy ngọn lửa của cá thể,
Nét độc đáo của con do Thượng đế. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.8. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con đạt tới điểm khi việc biểu hiện Bản thể cao hơn tự thân nó đã là một phần thưởng. Hãy giúp con giải thoát người khác, giải thoát chính mình, và bước vào trạng thái liên tục mở rộng với Tánh linh.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, mắt đơn nhất, 
Thấy TA LÀ chính Mặt trời Thượng đế.
Khi thày ban chỉ đạo Thiêng liêng nhất,
Con cũng tỏa ánh sáng thật tràn trề. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.9. Chỉ đạo Thiêng liêng, con thấy việc làm cánh cửa mở chỉ là vấn đề chọn lựa và ngày càng làm thêm nhiều chọn lựa ý thức. Hãy giúp con ý thức hơn về nhu cầu lựa bỏ, chọn ra những gì mình không cần nữa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ôi hân hạnh, 
Được đóng góp cho Tánh linh cất cánh,
Nâng loài người ra khỏi đêm cùng quạnh,
Để tắm nắng trong tình yêu Linh thánh. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

Phần 4

4.1. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con cảm nhận một hoạt động hay một người nào đó đang khiến con xao lãng. Hãy giúp con nhận diện những sinh hoạt do sa nhân cố tình lập ra để đánh lạc hướng con khỏi Sứ vụ.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nay con biết,
Cả thế gian chỉ là cõi huyễn ảo,
Trong tim con cảm nhận rõ làm sao,
Không có gì ngoài Tánh linh là thật. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4.2. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con nhận diện những sinh hoạt có vẻ vui nhộn, bổ ích hay ngay cả lợi lạc, vị tha, nhưng đối với con, đó là một sự phân tâm lôi kéo sự tập trung của con ra khỏi Sứ vụ Thiêng liêng cùng các khía cạnh sáng tạo hơn của Sứ vụ.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, giúp con nhìn, 
Con muốn sống trong viễn kiến quang minh,
Con đã thấy được Sứ vụ Thiêng liêng,
Hiểu kế sách độc đáo của chính mình. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4.3. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con thấy rõ hơn vai trò đặc trưng mà con muốn cống hiến trong kiếp này. Hãy giúp con cảm được hoạt động nào không đang hỗ trợ việc làm mà con đã tới đây để làm, và con tự động lựa bỏ nó ra.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, cho con thấy, 
Những trò chơi uẩn khúc của ngã này,
Giúp con thoát lồng giam của tự ngã,
Để đem lại một thời mới thăng hoa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4.4. Chỉ đạo Thiêng liêng, con quyết định một cách ý thức là con sẵn lòng xem xét hoạt động nào chỉ là sự xao lãng, và hoạt động nào thật sự nằm trong Sứ vụ của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nhập với thày, 
Viễn quan con là một, chẳng còn hai,
Thày xua tan tấm màn của nghiệp quả,
Nguyên vũ trụ hiện ra sao mới quá. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó.

4.5. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con nhìn ra là nhiều sinh hoạt được trình bày là tâm linh, nhưng mục đích chủ yếu của hầu hết sinh hoạt đó là khiến cho con người xao lãng mục tiêu tâm linh và Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con không quản,   
Chén con ngập điện từ với ánh sáng,
Thày tiêu hủy hồn bóng của dĩ vãng,
Và cho con tầm nhìn rất bạo dạn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó.

4.6. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con nhìn ra liệu mong muốn cải thiện địa cầu có chính là điều con cần khắc phục bằng cách đến địa cầu hay không. Hãy giúp con vượt qua mong muốn thay đổi người khác – ngay cả thay đổi bất cứ gì.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, tim chân thành, 
Con bắt tay làm phần vụ thần thánh.
Con thấy rồi, thày ơi, trong phút ngẫu,
Sứ vụ con sẽ dẫn tới nơi đâu. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4.7. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con nhận ra sự khác biệt cơ bản giữa ý định thay đổi người khác và việc làm cánh cửa mở để Hiện diện TA LÀ tự biểu đạt xuyên qua con. Hãy giúp con tôn trọng hoàn toàn quyền tự quyết.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con ân huệ, 
Thấy vai trò mình trong công cuộc lớn,
Và cũng thấy ngọn lửa của cá thể,
Nét độc đáo của con do Thượng đế. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4.8. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con nhìn ra liệu con có bị dính mắc với mong muốn thay đổi điều gì, liệu đây có phải là một phần vi tế của tư duy cuồng đại khi con sẵn sàng thúc ép người khác để họ phải khắc phục khổ đau của họ.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, mắt đơn nhất, 
Thấy TA LÀ chính Mặt trời Thượng đế.
Khi thày ban chỉ đạo Thiêng liêng nhất,
Con cũng tỏa ánh sáng thật tràn trề. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4.9. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con nhận ra là rất nhiều đại nghĩa được miêu tả để thu hút sự chú ý của người tâm linh. Hãy giúp con nhìn ra liệu mong muốn cải thiện tình trạng trái đất có khiến con bị kiệt sức và chú ý của con bị phân tán.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ôi hân hạnh, 
Được đóng góp cho Tánh linh cất cánh,
Nâng loài người ra khỏi đêm cùng quạnh,
Để tắm nắng trong tình yêu Linh thánh. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

Phần 5

5.1. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con bước vào giai đoạn sáng tạo hơn trong Sứ vụ, giúp con nhìn vào những đại nghĩa đáng theo đuổi trên thế giới, để xem chúng có nằm trong các tầng cao của Sứ vụ hay không.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nay con biết,
Cả thế gian chỉ là cõi huyễn ảo,
Trong tim con cảm nhận rõ làm sao,
Không có gì ngoài Tánh linh là thật. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

5.2. Chỉ đạo Thiêng liêng, con sẵn sàng lựa bỏ những việc nào không thuộc về Sứ vụ cao hơn của con. Hãy giúp con có viễn quan minh mẫn hơn về trọng tâm của mình, về chuyên môn của mình, về lãnh vực mình có thể tạo sự thay đổi.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, giúp con nhìn, 
Con muốn sống trong viễn kiến quang minh,
Con đã thấy được Sứ vụ Thiêng liêng,
Hiểu kế sách độc đáo của chính mình. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

5.3. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con lựa bỏ mọi hoạt động không góp phần vào chuyên môn của con. Hãy giúp con hòa điệu tâm con cho thẳng hàng, hài hòa hơn với Hiện diện TA LÀ. Giúp con cảm thấy niềm vui và sự quyết tâm, để nó không là một ý chí vỏ ngoài, mà là một mong muốn tự phát tập trung vào lãnh vực này hầu đem nó vào hiện thực.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, cho con thấy, 
Những trò chơi uẩn khúc của ngã này,
Giúp con thoát lồng giam của tự ngã,
Để đem lại một thời mới thăng hoa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

5.4. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con sống một cuộc đời tương đối bình thường, năng động trong xã hội, mặc dù trong tâm, con vẫn biết có một hoạt động là trọng điểm chính yếu. Có một lãnh vực mà con cần học hỏi nghiên cứu vì con có tiềm năng đưa ra một số ý tưởng mới.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nhập với thày, 
Viễn quan con là một, chẳng còn hai,
Thày xua tan tấm màn của nghiệp quả,
Nguyên vũ trụ hiện ra sao mới quá. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó.

5.5. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con thấy là con không thể tập trung hoài vào một thứ. Con vẫn cần có thời gian thư giãn, làm điều gì khác hơn. Để có một đời sống tương đối năng động, bình thường, con cần dành thời gian làm điều gì thư giãn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con không quản,   
Chén con ngập điện từ với ánh sáng,
Thày tiêu hủy hồn bóng của dĩ vãng,
Và cho con tầm nhìn rất bạo dạn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó.

5.6. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con nhìn ra liệu con đã tình nguyện và ghi vào Sứ vụ của mình là con sẽ chứng tỏ làm thế nào bước chân trên đường tu tâm linh mà vẫn sống một cuộc đời năng động trong xã hội.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, tim chân thành, 
Con bắt tay làm phần vụ thần thánh.
Con thấy rồi, thày ơi, trong phút ngẫu,
Sứ vụ con sẽ dẫn tới nơi đâu. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

5.7. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con đạt được một viễn quan chọn lọc hơn về những gì con cần tập trung trong kiếp này, rồi lựa bỏ đi những hoạt động không phù hợp với viễn quan đó. Hãy giúp con duy trì một cách sống bình thường hoặc thay đổi cách sống, để nhổ đi những sinh hoạt đang làm tiêu hao năng lượng cùng sự chú ý của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con ân huệ, 
Thấy vai trò mình trong công cuộc lớn,
Và cũng thấy ngọn lửa của cá thể,
Nét độc đáo của con do Thượng đế. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

5.8. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con nhìn ra là một người thực sự giàu có là một người còn sót lại đủ chú ý để tập trung vào những điều quan trọng mà người đó muốn cống hiến.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, mắt đơn nhất, 
Thấy TA LÀ chính Mặt trời Thượng đế.
Khi thày ban chỉ đạo Thiêng liêng nhất,
Con cũng tỏa ánh sáng thật tràn trề. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

5.9. Chỉ đạo Thiêng liêng, xin thày giúp con để ý là trong thế gian có rất nhiều hoạt động đang lôi kéo sự chú ý của con. Hãy giúp con tập trung chú ý vào điểm tinh túy trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ôi hân hạnh, 
Được đóng góp cho Tánh linh cất cánh,
Nâng loài người ra khỏi đêm cùng quạnh,
Để tắm nắng trong tình yêu Linh thánh. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

10 | Thỉnh cầu khía cạnh cách mạng trong Sứ vụ Thiêng liêng

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Saint Germain, hãy giúp con nhìn ra khía cạnh cách mạng trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Saint Germain, hãy giúp con nhận diện liệu con có đang đối mặt với một trong những thời điểm then chốt trong đời con, khi con không thể bước lên mức kế tiếp một cách tiệm tiến bằng những bước nhỏ. Con không thể bước lên mức kế tiếp với trạng thái tâm thức tiệm tiến.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.2. Saint Germain, hãy giúp con nhận diện tiềm năng trải nghiệm một sự xoay chuyển trong tâm thức, một xoay chuyển trong thái độ, một xoay chuyển trong cách nhìn cuộc sống, sẽ dẫn con lên một mức dứt khoát cao hơn đến độ đó là một bước cách mạng.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.3. Saint Germain, hãy giúp con nhận diện là song song với thay đổi tiệm tiến, con cần phải kinh qua một chuyển vọt sâu đậm hơn, cách mạng hơn trong tâm thức. Con sẵn lòng thực hiện cuộc chuyển vọt này. Con quyết định mở tâm ra để nhận lấy sáng ngộ mà giờ đây con đã sẵn sàng tiếp nhận.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.4. Saint Germain, hãy giúp con tránh diễn giải một cách mất cân bằng một trải nghiệm thần bí, tâm linh chân chính. Hãy giúp con tránh phản ứng một cách mất cân bằng khi con che hai bên mắt lại và chỉ chú mục vào đúng một mục tiêu thôi.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.5. Saint Germain, hãy giúp con nhận ra là một sự xoay chuyển cách mạng không thể xảy ra cho tới khi con đã sử dụng giáo lý về ngã gốc và chữa lành tâm lý của mình đến một độ nào đó.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.6. Saint Germain, hãy giúp con nhận diện khi nào con đã đủ chữa lành, khi nào con phải xoay chuyển dứt khoát trong cách con nhìn cuộc sống. Hãy giúp con nhìn ra: Là Ki-tô trong hành động có nghĩa gì đối với con? Và đâu là tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của con?

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.7. Saint Germain, hãy giúp con thấy liệu con đã cất bước trên đường tu phần nào là do niềm tham vọng phàm phu muốn hoàn thành một việc gì quan trọng, đem lại một thay đổi quyết định và cảm thấy đời mình đã đáng sống.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.8. Saint Germain, hãy giúp con thấy liệu con đã đến địa cầu để đem lại một sự khác biệt tích cực, và vì con không thể tạo ra sự khác biệt đó cho nên con mới mang nỗi thất vọng này trong con.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.9. Saint Germain, hãy giúp con xoay chuyển dứt khoát để buông bỏ tham vọng đó và rũ bỏ nó hoàn toàn.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 2

2.1. Saint Germain, hãy giúp con nhận diện một phần trong Sứ vụ của con là tiềm năng bước lên một tầm nhìn cao hơn về cuộc sống và chính mình, và chấp nhận tiềm năng cao hơn mà con có thể đem lại. Con thấy con không thể làm điều này một cách tiệm tiến.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.2. Saint Germain, hãy giúp con nhận ra là nếu con cảm được một dạng phụng sự cao hơn nhưng con lại không thấy nó được, đó là vì con chưa quyết định mình sẽ sẵn lòng nhìn thấy nó, cho dù nó là gì và nó sẽ đòi hỏi ở con những thay đổi gì.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.3. Saint Germain, con sẵn sàng không còn cảm thấy an toàn. Con sẵn lòng kinh qua cuộc xoay chuyển cách mạng của sự chấp nhận rằng mình là Ki-tô Hằng sống trong hiện thân.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.4. Saint Germain, hãy giúp con nhìn ra là mặc dù con đường quả vị Ki-tô có một khía cạnh tiệm tiến, nhưng con không thể mãi mãi tiến gần lại với mục tiêu. Con không thể trở thành Ki-tô Hằng sống bằng cách bước tới dần dần ngày càng gần hơn. Sẽ tới một điểm con phải quyết định và chấp nhận là con đã thể hiện được một mức độ nào đó của quả vị Ki-tô.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.5. Saint Germain, hãy giúp con nhìn ra và buông bỏ mọi tham vọng vỏ ngoài, mọi tham vọng thế phàm muốn trở thành một người quan trọng, có vai trò quan trọng, có địa vị quan trọng. Con buông bỏ sự  tìm cầu địa vị vỏ ngoài đó, sự công nhận vỏ ngoài đó, vì con thấy Ki-tô Hằng sống không đi tìm cái đó.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.6. Saint Germain, hãy giúp con nhận diện nơi con tiềm năng làm cánh cửa mở để đem lại một cái gì mới mẻ quyết định trong một lãnh vực nào đó. Hãy giúp con hòa điệu vào đó.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.7. Saint Germain, hãy giúp con làm cuộc xoay chuyển cách mạng trong cách con nhìn thế giới vật chất. Hãy giúp con khắc phục ảo tưởng xem vật chất là một thứ rắn đặc mà tâm không có khả năng thay đổi.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.8. Saint Germain, hãy giúp con thể nhập là năng lượng của Thượng đế có thể thay đổi vật chất. Khi con đạt một mức quả vị Ki-tô nào đó, con trở thành cánh cửa mở cho những năng lượng này. Hãy giúp con làm cuộc xoay chuyển cách mạng đó và chấp nhận vật chất có thể được tâm thay đổi!

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.9. Saint Germain, hãy giúp con thấy liệu bước cách mạng đó có nằm trong Sứ vụ của con hay không, và nó có nghĩa thế nào đối với cá nhân con. Hãy giúp con thấy liệu con có tiềm năng đem lại sáng kiến mới trong bất kỳ lãnh vực nào, như các loại công nghệ mới không dựa trên sức mạnh.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 3

3.1. Saint Germain, hãy giúp con thấy là con không thể hiển thị một ý tưởng cách mạng nếu con cứ ở trong một tâm thái tiệm tiến. Hãy giúp con xoay chuyển và mở tâm ra để làm cánh cửa mở cho một số sáng ngộ cách mạng – công nghệ, tư tưởng, thậm chí cả thái độ, niềm tin hay cách nhìn cách mạng về cuộc sống.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.2. Saint Germain, hãy giúp con thấy bất kỳ sự kháng cự nào bên trong con đối với ý tưởng trên. Hãy giúp con nhìn ra ngã gốc, hay một cái ngã tách biệt khác, bảo con là chuyện này nguy hiểm, viển vông, không thể nào xảy ra, và con không được làm theo vì con sẽ trở nên kiêu ngạo, hay bất kỳ lý cớ nào khác.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.3. Saint Germain, hãy giúp con nhìn ra cơ chế đứng đằng sau cái đó, niềm tin đứng đằng sau, và sự giới hạn mà niềm tin này dựa trên. Hãy giúp con dùng phân biện Ki-tô để giải quyết ngã đó, tách mình ra khỏi nó và để nó chết đi.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.4. Saint Germain, hãy giúp con dùng phân biện Ki-tô để mở tâm ra hầu thật sự trải nghiệm thực tế của những gì con có thể hiển thị. Con sẵn lòng có trải nghiệm đó, con sẵn lòng buông bỏ những niềm tin, thái độ, cách nhìn của con về chính mình, cách nhìn của con về thế giới.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.5. Saint Germain, con sẵn lòng thực hành cách nhìn mới, và con làm vậy trong tinh thần vừa không kiêu mạn, vừa không rơi vào đối nghịch của kiêu mạn là tự bài bác. Hãy giúp con tìm được sự cân bằng, vừa không có tham vọng phàm phu khiến con kiêu mạn, vừa không chối bỏ bản thân khiến con hạ thấp chính mình.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.6. Saint Germain, hãy giúp con đi theo rung động của Bản thể mà thày là, cùng tình thương mà thày dành cho con. Hãy giúp con gắn chặt và trải nghiệm tình thương đó, trải nghiệm thực tại của tình thương có khả năng làm cho vật chất ca hát.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.7. Saint Germain, hãy giúp con trải nghiệm ánh sáng của Thượng đế, tình thương của Thượng đế, có khả năng xoay chuyển vật chất, vì nó làm cho vật chất ca hát trong một giai điệu khác hơn là giai điệu của sa nhân!

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.8. Saint Germain, hãy giúp con nhận ra là con ở đây để biểu đạt một khía cạnh của quả vị Ki-tô của mình, qua đó con là cánh cửa mở gửi ra ngoài một rung động làm cho vật chất ca hát! Nó làm cho các phân tử và nguyên tử của vật chất vật lý khởi sự gia tốc ở một tầng cao hơn.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.9. Saint Germain, hãy giúp con có một vai trò hoàn toàn mới trong việc đem lại Thời Hoàng kim, bằng cách làm cực điện xoay chuyển tâm thức tập thể, là khi mọi người bắt đầu chấp nhận trong ý thức sự hiện hữu của một cái gì cao hơn.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 4

4.1. Saint Germain, hãy giúp con góp phần mình vào nhiều cuộc xoay chuyển sẽ cần phải xảy ra khi chúng ta bước vào Thời Hoàng kim, để thày có thể truyền rải các ý tưởng và công nghệ sẽ khiến cho Thời Hoàng kim trở thành hiện thực vật lý.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.2. Saint Germain, hãy giúp con nhìn ra là phải có sự nhận thức và chấp nhận trước khi sự thị hiện vật lý có thể xảy ra. Phải có đủ túc số những con người chấp nhận tiềm năng cao hơn trước khi tiềm năng này có thể hiển thị. Con sẵn lòng trở thành một cực điện cho công cuộc này.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.3. Saint Germain, hãy giúp con nhìn ra liệu con có thể giúp đem lại sự thay đổi qua hành động trực tiếp hay qua những lời thỉnh gọi. Hãy giúp con nhận ra là con có thể làm cực điện để truyền rải năng lượng có khả năng nâng cao tâm thức tập thể, làm cho vật chất ca hát, và kích hoạt cuộc xoay chuyển.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.4. Saint Germain, hãy giúp con nhìn ra là ngay cả khi con không thể hành động trực tiếp trong vật lý, con vẫn có thể hành động trực tiếp trong tâm linh bằng cách đưa ra những lời thỉnh gọi, và mở tâm ra để trở thành cực điện cho năng lượng đó, hầu nó xoay chuyển tâm thức tập thể, thậm chí xoay chuyển cả vật chất vật lý.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.5. Saint Germain, hãy giúp con làm cực điện để đem lại xoay chuyển trong cõi cảm xúc, cõi lý trí, cõi bản sắc, hầu mọi người chuyển đổi tâm thức mình và bắt đầu chấp nhận rằng tiềm năng không chỉ là tiềm năng, mà có thể xảy ra thực sự.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.6. Saint Germain, hãy giúp con chấp nhận Thời Hoàng kim của thày không là chuyện khoa học giả tưởng, không là một giấc mơ xa vời hão huyền may ra sẽ biểu lộ trong tương lai xa lắc. Khi có đủ túc số những người chấp nhận thì nền công nghệ mới sẽ được thị hiện trong một thời gian rất ngắn.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.7. Saint Germain, hãy giúp con nhìn nhận là bất cứ lúc nào cũng có một tâm thức tập thể nghĩ rằng: “Ồ, chúng ta đã đạt tới mức cao nhất rồi, chúng ta không thể nào lên cao hơn được.”

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.8. Saint Germain, con yêu Thời Hoàng kim của thày, và con làm cuộc xoay chuyển cách mạng trong tâm thức, qua đó con nhận ra là những gì con đang có ngay bây giờ không đặt giới hạn cho những gì có thể hiển thị trong tương lai! Con xoay chuyển cách mạng trong tâm thức, và chấp nhận là điều đó hoàn toàn khả thi, rằng thày có khả năng và đã có những sáng kiến đó rồi.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.9. Saint Germain, con thay đổi để trở thành một trong những kẻ chấp nhận điều đó. Con chấp nhận sự thay đổi là trào lưu của ngày nay, vì thày, Saint Germain, đang tuyên bố điều đó và con cũng chấp nhận lời tuyên bố của thày! Qua sự tương tác giữa thày nơi cõi thăng thiên và con nơi cõi hiện thân vật lý, lời tuyên bố này sẽ không thể nào không thị hiện! Con chấp nhận nó và con góp phần để khiến nó trở thành hiện thực. Con cảm thấy vật chất trong bốn thể phàm của mình đang hát lên một giai điệu mới.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

8 | Thỉnh cầu phân biện Ki-tô về Sứ vụ Thiêng liêng

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Giê-su, hãy giúp con phát triển phân biện Ki-tô và nhìn thấy trong con những gì đang ngăn cản Sứ vụ Thiêng liêng của con trải bày ra, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Giê-su, hãy giúp con khắc phục bất kỳ loại tiếc nuối hay cảm giác tiêu cực nào về những điều con đã kinh qua trong đời con. Hãy giúp con nhìn lại đời mình mà không xét đoán với tâm vỏ ngoài, rằng rất nhiều điều kinh qua đã không hẳn là tâm linh.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.2. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra những việc con từng làm là một phần của Sứ vụ của con, vì con đã cần đến trải nghiệm đó để hoàn tất giai đoạn công phu, là khi con chuẩn bị bản thân cho giai đoạn sáng tạo hơn của Sứ vụ.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.3. Giê-su, hãy giúp con nhận ra là con đã bước vào kiếp này ở một mức tâm thức thấp hơn tiềm năng của con. Hãy giúp con xoay chuyển tâm thức càng nhanh càng tốt, để con vươn lên những tầng cao hơn và thấy được các khía cạnh sáng tạo hơn của Sứ vụ.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.4. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là con không thể thực sự dời chuyển tâm thức một cách lý thuyết. Con cần có một số trải nghiệm để dời chuyển tâm thức, cho nên con đã làm những gì con đã làm, vì trong tiềm thức con biết là con cần đến những trải nghiệm đó. Con muốn có trải nghiệm đó càng mau sớm càng tốt để có thể dời chuyển tâm thức.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.5. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là khi con có một trải nghiệm khó khăn, con đã phản ứng lại ở mức tâm thức của con vào lúc đó. Giờ đây con đã nâng cao tâm thức thì con nhìn lại trải nghiệm đó với đôi chút hối tiếc. Cảm giác hối tiếc này xuất phát từ một cái ngã nội tại là một thành phần của ngã gốc.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.6. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra liệu con đã tạo ra ngã đó phần nào do một lời dạy tâm linh. Con đã diễn giải lời dạy và tạo ra cái ngã đang trách móc con, đang xấu hổ như thể con không đủ tốt, đang cảm thấy một người tâm linh đích thực không thể làm những gì con đã làm.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.7. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là các chân sư không nhìn con như con nhìn chính mình. Các thày không trách móc con như con đang tự trách móc, cho nên con luôn luôn có thể đến gần thày vì thày chỉ muốn giải thoát con.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.8. Giê-su, hãy giúp con đạt được phân biện Ki-tô qua đó con trải nghiệm mình được tha thứ và cứu chuộc, và như vậy con có thể khắc phục bất cứ gì đã xảy ra trên trái đất này.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.9. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là con đã nhận trách nhiệm cao độ về bản thân, nhưng có một cái ngã tách biệt đã chụp lấy tinh thần trách nhiệm này và biến nó thành tiêu cực, bằng cách khiến con nghĩ mình luôn luôn phải toàn hảo.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 2

2.1. Giê-su, hãy giúp con thấy là sa nhân đã phóng chiếu ra là con có thể có một số chọn lựa mà con không thể nào khắc phục được qua chọn lựa khác hơn. Kỳ thực, con luôn luôn có thể lấy một chọn lựa mới sẽ hoàn toàn thay thế chọn lựa cũ.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.2. Giê-su, hãy giúp con thể nhập sự kiện là không có một điều kiện vật chất nào có thể ngăn cản con thăng thiên hay tiến đến tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của con. Lý do là vì không có một điều kiện vật chất nào có thể ngăn cản con xoay chuyển tâm thức.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.3. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là mặc dù có những hậu quả có thể sẽ tồn tại trong suốt kiếp này, nhưng nó không thể giới hạn con tăng triển tâm thức. Hãy giúp con nắm bắt và trải nghiệm Ki-tô đấng Cứu chuộc, là Ki-tô có khả năng biến con thành một sinh thể mới.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.4. Giê-su, hãy giúp con trải nghiệm là không có điều gì từ quá khứ mà con không thể khắc phục, một khi con nhận ra Ki-tô không ở ngoài con. Ki-tô chỉ có thể đến bên trong con. Con có khả năng vượt qua mọi sự việc của quá khứ, bằng cách sẵn lòng nhìn vào chính mình và phát hiện trong con cái ngã tách biệt bị dính mắc với quá khứ.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.5. Giê-su, hãy giúp con thấy cái ngã nội tại bảo con phải cư xử thế nào như một học trò tâm linh. Con nhận ra là con không thể chứng được các giai đoạn cao hơn của Sứ vụ bằng cách tuân thủ những tiêu chuẩn nội tại đó mà con đã tạo ra cho mình.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.6. Giê-su, hãy giúp con thấy điều đó ăn khớp như thế nào với lời dạy về chấn thương nhập đời và ngã gốc, cũng như cách con đã phản ứng khi hứng chịu chấn thương nhập đời. Hãy giúp con nhìn ra mình đã có quyết định: “Tôi không bao giờ muốn trải nghiệm lại điều này nữa.” Cho nên con đã tạo ra cái ngã lý luận rằng nếu con không tái phạm một số chuyện thì con sẽ không bao giờ bị hành hạ nữa.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.7. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra cái ngã cứ năng động đánh giá xã hội nơi con sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào, để tìm xem những điều cấm kỵ, những tiêu chuẩn là gì. Xong nó định ra một chuẩn mực cho những gì con phải làm và những gì con không được làm. Rồi nó phóng chiếu ra là nếu con tuân thủ cái đó thì con sẽ được an toàn.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.8. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu con đã lấy một giáo lý của chân sư thăng thiên rồi sử dụng để lập ra một chuẩn mực khác cho những gì con phải làm hay không được làm. Hãy giúp con thấy đó là một chuẩn mực phản ứng.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.9. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra mục đích của việc Giê-su hiện thân là để trao cho con người một khung tham chiếu mà họ có thể nhìn thấy và không thể phủ nhận, rằng có một cái gì vượt khỏi các điều kiện của thế giới vật chất.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 3

3.1. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận tiềm năng của con là Ki-tô có thể hiện thân trong con khi con đạt được một mức tâm thức nào đó.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.2. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là khi Ki-tô bắt đầu tự biểu hiện trong thế gian, Ki-tô không làm vậy một cách hoàn toàn độc lập với các điều kiện trong thế gian. Ki-tô không đi vào thế gian để cho con người một giáo lý tuyệt đối mà tìm cách giúp con người bước lên bước kế tiếp.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.3. Giê-su, hãy giúp con giải quyết ở mức cá nhân câu hỏi là con sẽ phải thích nghi tới đâu và con sẽ vượt xa hơn bao nhiêu? Con thấy việc thể hiện quả vị Ki-tô của con không phải là chuyện thích nghi với các điều kiện của thế gian, mà là chứng tỏ rằng sự thăng vượt các điều kiện đó là điều khả dĩ.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.4. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là để chứng tỏ cho người khác rằng việc thăng vượt một mức tâm thức là khả dĩ, trước tiên con phải khoác vào mức tâm thức đó. Con phải trầm mình vào một nền văn hóa, rồi vượt ra khỏi nó, hầu con chứng tỏ việc vượt ra khỏi là khả dĩ.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.5. Giê-su, hãy giúp con thấy là quả vị Ki-tô rất cá nhân. Đó là tại sao con không thể tạo ra một chuẩn mực cho cách hành xử của một sinh thể Ki-tô. Con đã đầu thai trong một hoàn cảnh đặc thù để chứng tỏ có một cái gì cao hơn chuẩn mực đó.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.6. Giê-su, hãy giúp con thấy là ở những giai đoạn sơ khởi, quả vị Ki-tô là một cái gì rất thực tiễn liên quan đến những điều kiện hàng ngày trong môi trường của con, và không tự xem mình hay xem cuộc sống là quá hệ trọng.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.7. Giê-su, hãy giúp con nhận biết và công nhận là con đã từng biểu hiện quả vị Ki-tô của mình trong nhiều tình huống rồi. Hãy giúp con chấp nhận là con thực sự có thể là Ki-tô trong hành động. Con thực sự có khả năng biểu hiện quả vị Ki-tô trên địa cầu, và đây không nhất thiết là một điều gì xa vời, lý tưởng.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.8. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra cái ngã nội tại mang nỗi ám ảnh cưỡng chế phải chỉ ra những thiếu sót và lầm lỗi của con. Hãy giúp con khắc phục sự phóng chiếu cho rằng bởi vì con đã phạm tất cả những lầm lỗi đó, cho nên con không thể nào là Ki-tô trong kiếp đầu thai này được.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.9. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận làm Ki-tô là một tiến trình. Nó bắt đầu thật nhỏ xong nó càng ngày càng lớn hơn. Nó xảy ra khi con bước đi từng bước một, dần dần nhận ra là con có khả năng làm cánh cửa mở cho Ki-tô.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 4

4.1. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là trong hoàn cảnh đặc thù của con, không có chuẩn mực nào cho cách con phải thể hiện quả vị Ki-tô như thế nào. Ngay cả Sứ vụ Thiêng liêng cũng không là một chuẩn mực cho cách thể hiện quả vị Ki-tô của con.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.2. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là Sứ vụ Thiêng liêng không giống như một chiếc áo tù bó tay sẽ khiến cuộc đời con phải chạy theo một đường rày máy móc. Sứ vụ được lập ra để con nâng cao tâm thức. Con nâng cao tâm thức bằng cách tiếp cận mỗi hoàn cảnh ở mức tâm thức hiện thời của mình, rồi con lấy một chọn lựa để vươn lên khỏi tâm thức đó hầu đối phó với một vấn đề nhất định.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.3. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là khi con vươn lên và trải nghiệm một cách nhìn cao hơn về một vấn đề, thì con đã nâng cao tâm thức lên nấc kế tiếp. Sứ vụ của con không xác định con phải phản ứng lại các điều kiện như thế nào.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.4. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là Sứ vụ của con không đặt cuộc đời con trên một đường rày sẽ hạn chế các chọn lựa của con. Con luôn luôn có nhiều chọn lựa trong những gì con làm cũng như trong cách con làm.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.5. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là con có một nhận thức nào đó về thế giới, và con sẽ cần thăng vượt nó để có nhiều tự do, nhiều chọn lựa hơn. Điều cầm giữ con lại là một cái ngã mang một nhận thức nào đó, và nhận thức này xoay quanh cách con nhìn và phản ứng lại tình huống vỏ ngoài như thế nào.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.6. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra một khía cạnh khác của quả vị Ki-tô là con không ở đây để làm nô lệ cho tình huống vỏ ngoài. Con ở đây để thăng vượt tình huống – có nghĩa là con tìm được một cách nhìn cao hơn về đời mình và không quá mắc kẹt trong khuôn nếp hiện thời.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.7. Giê-su, hãy giúp con có phân biện Ki-tô để nhìn thấy trong Sứ vụ của con khả năng thị hiện một hoàn cảnh vật lý cao hơn hiện tại, một hoàn cảnh nơi con có nhiều tự do hơn.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.8. Giê-su, hãy giúp con phân biện Ki-tô để nhìn ra là đôi khi các mong muốn hay viễn quan của mình xuất phát từ ngã gốc. Ngã gốc của con mang một cơ chế đền bù có thể khiến con ước muốn trốn thoát khỏi một số điều kiện nào đó.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.9. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra ngã gốc mang cảm nhận: “Tôi không thể là chính tôi trên hành tinh này, tôi không thể là con người mà tôi là, tôi không thể biểu hiện bất cứ gì tôi muốn, tôi không thể sáng tạo vì tôi luôn luôn phải nhìn xem người ta sẽ phản ứng ra sao. Liệu người ta sẽ làm gì, nói gì, nghĩ gì? Họ sẽ chối bỏ tôi như thế nào? Họ sẽ làm gì với tôi đây?”

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 5

5.1. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là con vẫn có mong muốn biểu đạt chính mình, nhưng con lại có một cơ chế ngăn cản con tự biểu đạt. Hãy giúp con nhìn ra là cảm nhận rằng mình không thể là chính mình trên trái đất đến từ ngã gốc.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.2. Giê-su, hãy giúp con khắc phục nhận thức của ngã gốc cho rằng chính các điều kiện vỏ ngoài trên địa cầu mới ngăn cản con là người mà con là, ngăn cản con tự biểu đạt. Hãy giúp con phân biện Ki-tô để nhìn ra không phải các điều kiện vỏ ngoài ngăn cản mình là chính mình, mà là ngã gốc.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.3. Giê-su, hãy giúp con chất vấn các rào cản đang bảo là con không thể là chính mình, rằng con không thể tự biểu đạt. Hãy giúp con hòa điệu với cá thể tâm linh trong Hiện diện TA LÀ của con, và nhìn ra việc biểu đạt cá thể tâm linh đó ở đây trên trái đất có nghĩa là gì.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.4. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận và trải nghiệm là con có khả năng là chính mình trên địa cầu, và như vậy con khắc phục được mong muốn trốn chạy, cứ muốn làm một người khác hay sống ở một nơi khác. Hãy giúp con buông ảo tưởng: “Nếu như điều kiện vỏ ngoài thay đổi và xảy ra như tôi nghĩ nó phải xảy ra, thì khi đó tôi mới có thể là chính tôi.”

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.5. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là Ki-tô không cần có những điều kiện vỏ ngoài lý tưởng, vì chức năng của Ki-tô chính là để chứng tỏ có một cái gì cao hơn bất kỳ điều kiện nào mà Ki-tô trải nghiệm. Không có điều kiện lý tưởng nào để biểu hiện quả vị Ki-tô.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.6. Giê-su, hãy giúp con ngưng chờ đợi một số điều kiện vỏ ngoài trước khi con có thể là chính mình hay biểu hiện quả vị Ki-tô. Hãy giúp con hiểu: “Ồ, đáng lý tôi đã phải bắt đầu ngay nơi tôi đang đứng và biểu hiện quả vị Ki-tô ở ngay tầng này, và đó là cách tôi bước lên một tầng cao hơn.”

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.7. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là các điều kiện vỏ ngoài sẽ bắt đầu thay đổi một khi con quyết định mình sẽ khởi sự nơi mình đang đứng, và cả gan biểu hiện một sắc thái nào đó của cái ta cao hơn, ngay ở đây, ngay lúc này.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.8. Giê-su, hãy giúp con bước vào tâm thái cho phép các điều kiện vỏ ngoài thay đổi, cho tới điểm con không cảm thấy là chúng hạn chế con là chính con, hạn chế con biểu đạt những gì con ở đây để biểu đạt.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.9. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là để đạt đến các tầng cao của Sứ vụ Thiêng liêng, con cần xoay chuyển tâm thức và nhìn nhận rằng con không thể thay đổi điều kiện vỏ ngoài bằng ngã vỏ ngoài cùng quyền năng của ngã vỏ ngoài. Nhưng bằng cách nối kết lại với Ki-tô trong con, nhận diện Ki-tô trong con, khi đó con sẽ có khả năng thay đổi điều kiện vỏ ngoài của con.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 6

6.1. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là để nối kết lại với Ki-tô trong con, con cần quyết định một cách ý thức: “Tôi sẽ không làm nô lệ cho các điều kiện vỏ ngoài của tôi. Tôi sẽ là cánh cửa mở, tôi sẽ tự biểu đạt cho dù điều kiện vỏ ngoài có là gì. Tôi sẽ làm điều gì đó ngay lập tức, tôi sẽ nhân lên các ta-lăng mà tôi được ban cho, tôi sẽ nhân lên hoàn cảnh mà tôi đang gặp ngay lúc này.”

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.2. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là một khi con đã đi bước nhỏ đầu tiên đó, định luật sẽ trải bày ra không sai sót: Sẽ có một sự nhân lên từ cõi tâm linh. Và khi con tiếp tục làm vậy, các điều kiện vỏ ngoài của con sẽ bắt đầu xoay chuyển.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.3. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu có một số điều kiện vỏ ngoài mà con không trù liệu thay đổi, vì công dụng của chúng là để con chứng tỏ một cách ứng phó cao hơn đối với chúng. Đây là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng qua đó con biểu hiện quả vị Ki-tô trong các điều kiện đó, hầu người khác thấy được là chúng có thể được thăng vượt.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.4. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là một khi con sẵn sàng xoay chuyển tâm thức, thì con không thể không làm tròn Sứ vụ của con, vì cốt lõi của Sứ vụ chính là sự dời chuyển tâm thức lên mức cao nhất có thể.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.5. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra liệu trong Sứ vụ Thiêng liêng, con có khả năng vươn tới tầng 144 trong kiếp này hay không.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.6. Giê-su, hãy giúp con trải nghiệm là việc xoay chuyển tâm thức đòi hỏi con sẵn lòng nhìn ra một điều gì đó mà con chưa nhìn thấy trước đây, sẵn lòng quyết định là mình sẽ không bị giam trong mức tâm thức này. Con sẵn lòng bước ra ngoài.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.7. Giê-su, hãy giúp con học cách sử dụng khả năng của cái Ta Biết để bước ra ngoài bốn thể phàm của nó và nhìn ra: “Tôi không là cái này, tôi là hơn cái này.”

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.8. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là không có gì được quy định từ cõi thăng thiên hay từ Sứ vụ Thiêng liêng để giới hạn con chỉ tiến được bao xa trong tiến trình này, nếu con sẵn lòng xoay chuyển. Không có gì giới hạn con tiến bước nhanh bao nhiêu nếu con sẵn lòng.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.9. Giê-su, giờ đây con nhận ra: “Tôi không được quy định bởi bất cứ điều gì trên địa cầu. Tôi là một sinh thể tâm linh. Cái Ta Biết của tôi không bị quy định bởi bất cứ gì có hình tướng. Tôi có khả năng thăng vượt bất kỳ hình tướng nào, kể cả những hình tướng trong ngã gốc và các ngã tách biệt của tôi. Đây là cốt lõi của quả vị Ki-tô, mà tôi hoàn toàn tự quyết trong việc thực hiện và áp dụng trong kiếp này.”

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

6 | Thỉnh cầu tự do khỏi việc giải quyết các vấn đề

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Chân sư MORE, hãy giúp con vượt qua ảo tưởng là con ở trên địa cầu để giải quyết các vấn đề, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Chân sư MORE, hãy giúp con nhìn ra liệu con có một cái ngã đang tìm cách bù đắp cho chấn thương nhập đời của con bằng cách phục thù, đền bù, chỉnh sửa. Ngã đó bảo: “Sa nhân đã làm chuyện đó với tôi, tôi muốn trả đũa lại.”

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.2. Chân sư MORE, hãy giúp con nhìn ra liệu con có muốn làm gì với sa nhân, con có muốn điều gì đó xảy ra cho chúng để “gỡ huề tỷ số”, hầu con có thể cảm thấy như chúng nhận được hình phạt xứng đáng.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.3. Chân sư MORE, hãy giúp con nhìn ra liệu điều đó đã khiến con trở nên quá nhiệt tình muốn thay đổi thế giới và tập trung vào những thứ vỏ ngoài.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.4. Chân sư MORE, hãy giúp con nhìn ra liệu con đã sử dụng mong muốn thay đổi thế giới qua việc đọc thỉnh, đọc chú, để làm cái cớ không tu sửa tâm lý của con.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.5. Chân sư MORE, hãy giúp con chấp nhận hoàn toàn là mục đích thực sự của chân sư thăng thiên không phải để chế tạo những thay đổi vỏ ngoài đặc thù trên trái đất, mà để nâng cao tâm thức con người. Hãy giúp con dùng điều này để tiếp cận đường tu một cách cân bằng.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.6. Chân sư MORE, con thấy được thực tại là địa cầu đang trình chiếu ra bên ngoài trạng thái tâm thức của con người. Cho nên không điều kiện nào trên địa cầu là thực một cách tối hậu, bền lâu, có tuổi thọ, có giá trị trường cửu liên tục.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.7. Chân sư MORE, hãy giúp con nhìn rõ hơn những gì con đã đặt vào Sứ vụ của con, là những việc con có ý định làm trong cõi vật lý. Hãy giúp con nhìn ra những thay đổi mà con đang ở đây để giúp đem lại.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.8. Chân sư MORE, con biết là nhiều thay đổi vật lý sẽ cần xảy ra, nhưng con cũng thấy là chúng không tối hậu, không chung cuộc. Chúng là những bước đi trên một con đường, những giai đoạn trong tiến trình chuyển tiếp.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.9. Chân sư MORE, hãy giúp con thực sự thể nhập, thực sự nắm bắt, thực sự trải nghiệm sự thật rằng tâm thức đi trước biểu hiện vật lý. Mọi thứ đều là sự trình chiếu ra ngoài của trạng thái tâm thức, cho nên trước khi có thể có bất kỳ thay đổi nào thì phải có thay đổi trong tâm thức.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 2

2.1. Chân sư MORE, hãy giúp con nhìn ra là không có gì xảy ra trong cõi vật lý đã được quyết định hay được khởi phát ở tầng vật lý mà thôi. Luôn luôn có một thay đổi ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc trước khi một thay đổi vật lý có thể xảy đến.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.2. Chân sư MORE, hãy giúp con nhìn vào phản ứng của con đối với ý tưởng Sứ vụ Thiêng liêng, liệu con có nhiệt tình thái quá hay không. Liệu con có tập trung ra ngoài chính mình, tập trung vào chuyện làm thế nào xét xử sa nhân và loại chúng ra khỏi hành tinh, làm thế nào đem lại sáng chế và công nghệ mới, làm thế nào cải tổ lãnh vực chính trị, làm thế nào thay đổi người khác.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.3. Chân sư MORE, hãy giúp con nhìn ra liệu con có mang một sự mất cân bằng khởi lên từ mong muốn trả đũa, đền bù cho sự bất công mà con cảm thấy người ta đã gây cho con khi con hứng chịu chấn thương nguyên thủy.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.4. Chân sư MORE, con buông bỏ mọi mong muốn trừng phạt những kẻ đã hại con. Con muốn được giải thoát khỏi những kẻ đã hại con và bước tiếp trên đường tu tâm linh.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.5. Chân sư MORE, con nhìn ra là chính chấn thương nhập đời của con đã tạo ra một phản ứng, một cái ngã tách biệt là thành phần của ngã gốc của con. Con không muốn vác nó theo con cho đến mãn kiếp, vì con biết con không thể đem nó theo vào cõi thăng thiên. Con sẵn lòng nhìn nó, tách mình ra khỏi nó, và con để cho ngã đó chết đi.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.6. Chân sư MORE, con nhìn ra là một cái ngã khởi lên từ một cảm nhận bất công sẽ không bao giờ được thỏa mãn. Nó luôn luôn tìm thấy một bất công nào đó và phóng chiếu ra là cái đó cũng phải được đền bù.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.7. Chân sư MORE, con nhìn nhận là vấn đề do ngã đó phóng chiếu ra không bao giờ có thể được giải quyết. Con không cần giải quyết nó. Con thấy nó là không thực, và con buông, con từ bỏ mong muốn giải quyết một vấn đề không có giải pháp.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.8. Chân sư MORE, con nhìn ra là con sẽ không giúp cho hành tinh tiến bộ bằng cách giải quyết các vấn đề vỏ ngoài. Con sẽ giúp cho hành tinh tiến bộ khi chính con thăng vượt tâm thức đã phóng chiếu ra các vấn đề đó, và như vậy con kéo tâm thức tập thể đi lên, hầu người khác được giải thoát khỏi các vấn đề.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.9. Chân sư MORE, con nhìn ra là động lực trong gia đình con là sự biểu hiện của một trạng thái tâm thức. Cách duy nhất để con được tự do là rời bỏ tâm thức đó, thăng vượt nó bằng cách giải quyết nó bên trong chính con.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 3

3.1. Chân sư MORE, hãy giúp con chấp nhận chính mình và cho phép mình là con người mà mình là, hầu con có thể cho phép người khác là con người mà họ là. Con không cảm thấy bị đe dọa và cũng không muốn thay đổi người khác hầu con tránh né đương đầu với chính tâm lý của con.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.2. Chân sư MORE, con buông bỏ động lực muốn thay đổi người khác để mình cảm thấy thoải mái, vì người khác không còn “nhấn nút” để con cảm thấy con không phải thay đổi chính mình.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.3. Chân sư MORE, con sẽ thôi không đối xử với người khác theo cách đó nữa, con sẽ thôi không đổ lỗi cho họ, con sẽ thôi không tìm cách thay đổi họ. Con sẽ cho phép người kia là con người mà họ là, vui hưởng thời gian bên nhau – hoặc mỗi người bước theo đường riêng của mình.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.4. Chân sư MORE, hãy giúp con nhìn ra và khắc phục cảm nhận bế tắc do có gì đó bên trong mà con không biết làm thế nào thay đổi, cho nên con cứ cố không chú ý đến nó. Hãy giúp con khắc phục xu hướng phóng chiếu ra là nếu vấn đề bên ngoài được giải quyết thì vấn đề bên trong không còn nữa.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.5. Chân sư MORE, hãy giúp con khắc phục cảm nhận bế tắc khi con trải nghiệm một sự mất cân bằng trong con nhưng con không biết làm thế nào giải quyết. Cho nên con cố giải quyết bằng cách thay đổi tất cả những thứ kia bên ngoài con, vì con không biết cách thay đổi bên trong con.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.6. Chân sư MORE, con sẵn lòng vượt xa hơn bất kỳ trạng thái mất cân bằng nào, để con không cố thay đổi thế giới hay thay đổi người khác như một phương cách bù đắp cho một điều kiện bên trong tâm lý con. Con sẵn sàng nhìn vào điều kiện đó, giải quyết nó, và nối kết với Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.7. Chân sư MORE, hãy giúp con nhìn ra những gì con đã dự trù thay đổi hay đem lại trên địa cầu. Hãy giúp con làm công việc này vì đó chính là sự biểu lộ con người mà con là.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.8. Chân sư MORE, con thấy là những gì sẽ đem lại an bình và niềm vui cho sự hiện thân trên trái đất chính là việc biểu lộ con người mà con là. Con không dính mắc vào kết quả vỏ ngoài vì con tìm thấy niềm vui khi con thể hiện bản thể cao hơn của mình.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.9. Chân sư MORE, hãy giúp con bước vào giai đoạn sáng tạo của Sứ vụ Thiêng liêng, để con trao món quà và biểu đạt cái Ta của con, cái tiềm năng cao nhất mà con muốn biểu đạt trước khi đi vào hiện thân, dựa trên trạng thái tâm thức cao hơn mà con có tiềm năng đạt được.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 4

4.1. Chân sư MORE, hãy giúp con tạo ra một vòng xoáy tích cực nơi con an bình làm người đầu thai. Con buông bỏ thái độ khiếm khuyết cho rằng mình luôn luôn bị chậm trễ, rằng mình phải ở một nơi nào khác, rằng có điều gì mà đáng lý mình đã phải làm nhưng lại chưa làm, và có nhiều điều hơn mà mình đã có thể làm.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.2. Chân sư MORE, hãy giúp con an bình làm con người mà con là, biết rằng con sẽ tiếp tục tiến cao hơn từng bước một cho đến hết kiếp này. Hãy giúp con sáng tạo hơn khi thể hiện sự sáng tạo của mình, và an bình hơn khi tận hưởng tiến trình dõi nhìn đời mình trải bày ra.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.3. Chân sư MORE, con muốn vui hưởng sự đầu thai của mình trên địa cầu. Con muốn an bình với sự có mặt của con ở đây, nhưng cũng an bình với việc thăng thiên. Hãy giúp con giải quyết bất kỳ cảm nhận phi-an-bình nào, hầu con có thể hoàn toàn bỏ lại trái đất và bước vào trạng thái thăng thiên – nếu Sứ vụ của con trù liệu con thăng thiên sau kiếp này.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.4. Chân sư MORE, hãy giúp con an bình và vui hưởng cuộc sống ở đây, hầu con nêu gương là người tâm linh có thể an bình. Người tâm linh có thể vui hưởng cuộc sống và biểu lộ niềm vui đó, và rồi họ cũng an bình khi bước đi tiếp.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.5. Chân sư MORE, hãy giúp con thực hiện cuộc xoay chuyển này trong nhận biết. Con sẵn lòng xem xét thái độ của mình về thế nào là một người tâm linh, thế nào là một học trò của chân sư thăng thiên, thế nào là đạt được một mức tâm thức cao hơn, thế nào là tỏ lộ quả vị Ki-tô của mình hay thị hiện quả vị Phật. Con bỏ lại mọi hình ảnh đã được tạo ra trong quá khứ về cách hành xử mà một người tâm linh phải có.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.6. Chân sư MORE, con sẽ không đi theo các tiêu chuẩn trong thế gian, các tiêu chuẩn của sa nhân, các tiêu chuẩn của tâm thức tập thể, hay ngay cả các tiêu chuẩn mà cho tới giờ con đã tạo ra trong kiếp này. Con sẽ nhìn vào những gì con đã ghi trong Sứ vụ của con. Con sẽ kéo nó vào nhận biết ý thức của mình, và con sẽ cả gan là con người như vậy, con người mà con muốn là trước khi đầu thai – chứ không phải con người mà người khác hay sa nhân muốn con là, không phải con người mà các ngã tách biệt của con muốn con là.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.7. Chân sư MORE, con nhìn ra là Sứ vụ của con là một tiến trình trực giác chứ không đường thẳng. Đó không phải là chuyện hiểu biết, lên kế hoạch rồi quyết định với tâm vỏ ngoài, mà là thăng vượt tâm vỏ ngoài và có được những trải nghiệm không đường thẳng, không phân tích, không dựa trên tâm vỏ ngoài.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.8. Chân sư MORE, hãy giúp con biết được bước kế tiếp trong Sứ vụ của con. Hãy giúp con xuôi chảy với Sứ vụ, để khi con có một sáng ngộ, con không có nhu cầu biện minh cho nó và cũng không chống cự lại để thực hiện nó. Con chỉ xuôi chảy vào với nó, để khi một sáng ngộ tự phát, ngay tức khắc con xuôi chảy theo và đưa nó vào thị hiện.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.9. Chân sư MORE, con quyết định một cách ý thức là con sẽ tự gia tốc vượt khỏi tâm đường thẳng. Con sẽ ngừng đồng hóa với nó và con tìm cái sáng ngộ hình cầu sẽ có thể giải quyết bất kỳ mâu thuẫn hay nghịch lý nào mà tâm đường thẳng có thể nghĩ ra. Con vô hiệu hóa mong muốn của tâm đường thẳng nhằm hoạch định từng chi tiết nhỏ nhặt trong phần đời còn lại của con. Con sẵn lòng xuôi chảy với Sứ vụ Thiêng liêng, tin tưởng rằng một khi con chuyên cần chữa lành tâm lý và mở tâm ra để nhận sáng ngộ, thì con sẽ nhận được những sáng ngộ đó. Và khi con nhận được, con sẽ tự động bắt tay thực hiện.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

4 | Thỉnh cầu tự do khỏi nỗi sợ sai trái

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Mẹ Mary, hãy giúp con vượt qua mọi nỗi sợ là mình sai trái, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Mẹ Mary, con thấy được là nếu có ai bên ngoài bảo con Sứ vụ Thiêng liêng của con là gì, thì điều này sẽ không xây dựng. Toàn bộ mục tiêu của Sứ vụ Thiêng liêng là dẫn con kinh qua một loạt những sáng ngộ nội tâm, giải quyết tâm lý và trải nghiệm vỏ ngoài sẽ tạo điều kiện cho con tăng triển tâm thức, từ mức thấp nhất lên tiềm năng cao nhất.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.2. Mẹ Mary, để khám phá những tầng cao hơn trong Sứ vụ của con, con cần đưa tâm thức mình đi lên. Đây không là một việc con có thể làm trong một bước, mà một tiến trình lần hồi, tuần tự, sẽ tiếp tục suốt đời con.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.3. Mẹ Mary, con thấy được là cái biết và cái hiểu về một giáo lý tâm linh không đồng nghĩa với sự xoay chuyển tâm thức. Chỉ khi nào con xoay chuyển tâm con thì con mới có thể nhìn thấy và thực hành tầng kế tiếp của Sứ vụ. Việc phát hiện và thực hiện Sứ vụ là một tiến trình tác động qua lại sẽ tiếp diễn suốt đời con.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.4. Mẹ Mary, con nhìn nhận là nếu con đã xoay chuyển tâm thức từ khi con bước vào kiếp đầu thai cho đến mức tâm thức hiện tại, thì con đã đi theo Sứ vụ của con rồi.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.5. Mẹ Mary, con chấp nhận là con sẽ không thấy được trọn vẹn Sứ vụ của mình ở bất kỳ điểm nào trong đời mình. Con luôn luôn nhìn thấy từng chặng một, vì mục đích của Sứ vụ là dời chuyển tâm thức con lên cao hơn.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.6. Mẹ Mary, con thấy việc bước lên một mức cao hơn trên đường tu không phải là chuyện thu hoạch hiểu biết. Con dời chuyển tâm thức bằng cách sử dụng mức tâm thức mà con đang có, nhưng một cách cao hơn hầu con thăng vượt mức này.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.7. Mẹ Mary, con không tìm một sáng ngộ tối hậu. Con tìm một sáng ngộ mà con có thể nắm bắt với mức tâm thức hiện thời, nhưng nó sẽ đưa con lên tầng kế tiếp.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.8. Mẹ Mary, con thấy được là con chỉ xoay chuyển tâm thức khi con có một trải nghiệm trực giác, thần bí, trọn vẹn và bao hàm tất cả, cho nên con xoay chuyển cách con trải nghiệm chính mình. Thế là giờ đây con ở tầng kế tiếp.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.9. Mẹ Mary, con thấy đây không phải là chuyện dời điểm tập trung của tâm ý thức, mà dời chuyển ý niệm bản sắc của con. Thày hãy giúp con ngày càng ý thức hơn khi nào con dời chuyển bản sắc. Con sẵn lòng dời chuyển bản sắc, và con tìm kiếm những sáng ngộ sẽ giúp con dời chuyển bản sắc.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 2

2.1. Mẹ Mary, con sẵn sàng để cho cái Ta Biết bước ra ngoài bốn thể phàm, với lên Hiện diện TA LÀ của con, với lên các chân sư thăng thiên và trải nghiệm trực tiếp sự hiện hữu của một thực tại cao hơn tâm vỏ ngoài. Con sẵn lòng xoay chuyển.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.2. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn thấy con thoải mái như thế nào đối với ý tưởng là nếu con làm một số việc và không làm một số việc khác, thì con không thể sai trái, con sẽ được yên ổn, con sẽ được chấp thuận.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.3. Mẹ Mary, hãy giúp con phơi bày sự lập trình là con có thể sai trái, giúp con phơi bày cái tư duy là có đúng và có sai, vì nó khiến con vun trồng nỗi sợ sai trái.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.4. Mẹ Mary, hãy giúp con phơi bày sự lập trình của sa nhân rằng con đã sai lầm khi đến trái đất, con đã sai lầm khi con là chính con như một avatar trên trái đất, con đã sai lầm khi con biểu lộ con người thực, sự sáng tạo thực của con trên trái đất.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.5. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn ra là để sống còn về mặt tâm lý sau khi bị sa nhân tấn công, con đã tạo ra những cái ngã nội tại, tạo ra ngã gốc. Một phần của ngã gốc là con đã quyết định không muốn liên tục trải nghiệm cảm nhận là mình sai.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.6. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn ra làm thế nào con đã tìm được một cách riêng để tạo ý niệm: “Nếu tôi đứng yên trong vòng ranh giới này thì tôi sẽ không sai trái.”

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.7. Mẹ Mary, hãy giúp con phơi bày cảm nhận là chừng nào con đứng trong ranh giới đó, thì con sẽ thoải mái là mình không sai trái theo chuẩn mực của xã hội – tức rốt cuộc cũng là chuẩn mực của sa nhân.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.8. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn ra là việc chất vấn một số ý tưởng khiến cho con bị mất thoải mái vì con sợ mình có thể sai lầm rồi bị lên án. Hãy giúp con nhìn ra là nỗi sợ cá nhân đó dựa trên những trải nghiệm trong tiền kiếp khi con bị người ta bức hại thật khắc nghiệt.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.9. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn ra là con đã đạt một mức tâm thức nơi thử thách của con là phải biểu lộ một cách ý thức hơn quả vị Ki-tô mà con đã đặt vào Sứ vụ Thiêng liêng, cụ thể là việc thách thức hiện trạng.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 3

3.1. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy là con ở đây để thách thức hiện trạng một cách nào đó. Con nhất quyết thực hiện điều này, và con sẵn lòng nhìn vào nỗi sợ sai trái của con.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.2. Mẹ Mary, con nhận diện đây là một thành phần không thể thiếu của chấn thương nhập đời, một thành phần dính liền với ngã gốc của con. Con sẵn lòng dùng các dụng cụ để chữa lành nỗi sợ sai trái đó.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.3. Mẹ Mary, con quyết định là con muốn sống phần đời còn lại của mình dựa trên sự thấu hiểu giáo lý của các thày, rằng con không bao giờ sai trái khi con thách thức ý tưởng của sa nhân. Thế gian có thể bảo con sai, nhưng các thày thì không.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.4. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy nỗi sợ sai trái mà con đang đương đầu ngay lúc này là gì. Đâu là cái ý tưởng mà con có thể biểu lộ ở mức tâm thức hiện thời sẽ dẫn con lên mức cao hơn? Nỗi sợ sai trái đang ngăn cản con biểu lộ ý tưởng này như thế nào?

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.5. Mẹ Mary, con thấy con không thể vươn lên mức kế tiếp của Sứ vụ Thiêng liêng mà không bày tỏ tầm hiểu cao hơn mà con đã ngộ và không trao cái hiểu đó cho người khác. Con không thể vươn lên mức kế tiếp mà không thách thức chính mình.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.6. Mẹ Mary, con thấy chỉ khi nào con bày tỏ tầm hiểu của con và trải nghiệm phản ứng từ người khác, thì con mới bị bắt buộc phải xoay chuyển nhận thức và thái độ của mình. Chỉ bằng cách đương đầu với thách thức này thì con mới có thể dời chuyển lên mức kế tiếp.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.7. Mẹ Mary, con sẽ chỉ xoay chuyển khi nào con bày tỏ sáng ngộ của con, trải nghiệm phản ứng của người khác, rồi sau đó giải quyết phản ứng nội tại nơi chính con đối với họ. Chỉ khi nào con khắc phục các khuôn nếp, các nỗi sợ, các dính mắc, cách phản ứng trong cảm xúc lẫn lý trí của con, thì con mới dời chuyển tâm thức lên mức kế tiếp.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.8. Mẹ Mary, con đang bước vào tâm thái không sợ nhận trải nghiệm, ngay cả khi trải nghiệm khiến con mất thoải mái, ngay cả khi nó khiến con sợ hãi.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.9. Mẹ Mary, con sẵn lòng nhận lấy trải nghiệm vì con nhận ra chỉ trong trải nghiệm thì con mới có thể xử lý các bế tắc trong tâm lý mình, nhìn ra chúng, rồi thăng vượt chúng.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 4

4.1. Mẹ Mary, con nhận ra là con không thể ngồi đó trong phòng riêng của mình, đọc sách và đọc thỉnh miên man rồi chứng được sự tăng triển tối đa. Con cần có sự xen kẽ, sự tương tác giữa việc tu tập tâm linh và việc trải nghiệm thực tế nơi con bị thách đố, con bị thử thách, và con nhìn thấy một phản ứng trong con.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.2. Mẹ Mary, con đang thực hiện sự xoay chuyển khi con nói: “Tôi là ai? Tôi có là một học trò của chân sư thăng thiên hay không? Tôi có là một người quyết tâm tinh tấn tối đa trong kiếp này hay không? Nếu tôi là một người như vậy thì tôi không cần thoải mái.”

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.3. Mẹ Mary, con nhận ra là trong tâm lý con có một yếu tố mong muốn ngồi yên nơi mình thoải mái, mong muốn trốn chạy những thứ khiến mình bị day dứt. Con nhận diện yếu tố đó và con đâm thẳng vào nó, hầu con thấy được điểm bế tắc trong tâm lý con.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.4. Mẹ Mary, con đang nhận diện ngã, con tách mình ra khỏi ngã và để cho ngã chết đi. Con buông ý tưởng cho rằng sự tinh tấn tâm linh là một tiến trình dễ dàng, tích cực, phấn chấn, không đòi hỏi khó nhọc, không đòi hỏi con hạ mình xuống chạm trán với tâm lý của mình.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.5. Mẹ Mary, con nhận ra là cho dù sa nhân có phóng chiều gì lên con, cho dù người khác có phóng chiếu gì lên con, thì con không bao giờ sai lầm khi con dời chuyển tâm thức lên cao hơn.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.6. Mẹ Mary, con bước vào một giai đoạn mới trong cách tương tác với các chân sư thăng thiên, nơi các thày trở thành khung tham chiếu của con thay vì sa nhân hay người đời – hay thậm chí cả những cái ngã, những ngã tách biệt, những phàm linh nội tại – làm khung tham chiếu cho con.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.7. Mẹ Mary, con nhận ra các thày là chân sư thăng thiên đích thực đã vượt khỏi nhị nguyên. Các thày không phán xét con dựa trên tiêu chuẩn đúng hay sai. Các thày không chỉ trích, không kết án con. Các thấy hoàn toàn chấp nhận con. Các thày chấp nhận con như con là, một cách vô điều kiện.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.8. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn chính mình với cùng sự chấp nhận vô điều kiện mà thày nhìn con. Điều quan trọng là con tiếp tục bước từng bước một và xoay chuyển đi lên. Thày chấp nhận con như con đang là, chấp nhận con ở mức con đang đứng.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.9. Mẹ Mary, con thấy là con không thể lên cao hơn trên đường tu cho tới khi con khắc phục tâm phê phán cứ không ngừng tự chỉ trích. Ngã này mang độ rung nhị nguyên của sự chỉ trích và nó không thể đưa con lên cao hơn trên đường tu. Con tách cái Ta Biết ra khỏi ngã đó, con nhìn vào nó và nói: “Ta không cần đến mi nữa! Ta để cho mi chết đây!”

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

2 | Thỉnh cầu viễn quan cao hơn về Sứ vụ Thiêng liêng

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Mẹ Mary, hãy giúp con vượt qua mọi điều kiện trong tâm lý của con đang ngăn chặn tầm nhìn về Sứ vụ Thiêng liêng của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Mẹ Mary, con sẵn lòng nhìn thấy những gì con chưa nhìn thấy. Hãy giúp con bước ra ngoài tâm cảm xúc, tâm lý trí và tâm bản sắc, để con nhận được bằng tâm ý thức ý tưởng mà thày muốn trao cho con ngay trong lúc này.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.2. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn vượt ra ngoài các phin lọc, rào cản, tin tưởng, thái độ, cảm xúc đang ngăn chặn các ý tưởng mà thày rải truyền, để chúng đến được tâm ý thức của con.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.3. Mẹ Mary, hãy giúp con tránh cho các tầng cao trong tâm con ngăn chặn hay lọc lựa các khái niệm của thày, khiến chúng không đến được tâm ý thức của con. Hãy giúp con nối kết với các ý tưởng của thày để chúng có tác dụng. Con muốn hấp thụ, nắm bắt và nối kết với chúng.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.4. Mẹ Mary, con sẵn lòng vượt xa hơn cái hiểu, và thực sự nối kết với ý tưởng để nó xoay chuyển tâm thức của con. Hãy giúp con ngừng tập trung vào tâm lý trí, để con trải nghiệm được ý tưởng qua trực giác.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.5. Mẹ Mary, hãy giúp con vô hiệu hóa tâm lý trí cứ muốn tìm hiểu, phân loại và gắn nhãn cho ý tưởng, hầu lý trí có thể bỏ nó vào kho dữ liệu nơi nó có vẻ nằm dưới sự kiểm soát của lý trí.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.6. Mẹ Mary, con nhìn nhận là nếu tự ngã và tâm lý trí cảm thấy nó kiểm soát được một ý tưởng tâm linh, thì ý tưởng này không thể xoay chuyển tâm thức của con. Những gì con biết và hiểu ở mức trí thức không xoay chuyển được tâm thức của con.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.7. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn ra khía cạnh nào trong tâm đang nắm giữ những ý tưởng cơ bản nhất, đáng tin cậy nhất, cưng yêu nhất, mà cho tới giờ con chưa sẵn lòng hay không có khả năng chất vấn. Con sẵn sàng chất vấn các ý tưởng này để phát hiện Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.8. Mẹ Mary, hãy giúp con bước lên một trải nghiệm cao hơn về Sứ vụ của con, bằng cách khắc phục sự tập trung vào tâm đường thẳng và mong muốn hiểu một cách phân tích.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.9. Mẹ Mary, con thấy là con không thể dùng phân tích để thoát khỏi tâm phân tích. Hãy giúp con mở khả năng trực giác để con có thể trực nghiệm các ý tưởng trong tâm bản sắc của con.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 2

2.1. Mẹ Mary, hãy giúp con dời chuyển vào tâm quả cầu, trực nhận – là tâm nhìn vào tổng thể, nhìn vào bức tranh rộng lớn, sẵn lòng nắm bắt, trải nghiệm sự thật rằng thày không cố trao cho con một chân lý tuyệt đối, đường thẳng duy nhất.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.2. Mẹ Mary, hãy giúp con thật sự nhìn ra là tâm đường thẳng có thể có khả năng hiểu được tâm đường thẳng, nhưng nó sẽ không bao giờ thấy được chính nó từ ngoài. Tâm đường thẳng không thể bước ra ngoài chính nó. Hãy giúp cái Ta Biết của con bước ra ngoài tâm đường thẳng, bước ra ngoài sự đồng hóa hiện thời của con.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.3. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn xem con có biết quá nhiều giáo lý đến độ con đâm ra thoải mái, nghĩ rằng các thày không thể làm con ngạc nhiên được nữa. Hãy giúp con thấy khía cạnh nào trong tâm con không muốn các thày tạo ngạc nhiên cho con vì con đã trở nên thoải mái với trình độ hiện tại của mình.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.4. Mẹ Mary, con muốn biết Sứ vụ của con nhiều hơn là con muốn thoải mái. Hãy giúp con nhận ra là trong Sứ vụ có những khía cạnh mà con chưa thấy. Con sẵn lòng thấy những gì con chưa thấy và từ bỏ sự thoải mái của mình để mà thấy.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.5. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn ra là con đã thích nghi như thế nào với một cách nhìn, một thái độ, một cách hiểu nhất định, và con không nghĩ con cần vượt xa hơn những thứ đó. Con nhận ra là nếu con không vượt xa hơn, con sẽ không thể thấy được các khía cạnh của Sứ vụ vẫn ẩn giấu khỏi mắt con.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.6. Mẹ Mary, con xin thày chỉ cho con – hầu con có thể nhớ lại một cách ý thức – điều gì đã khiến con quá thoải mái đến độ làm nghẽn tầm nhìn của con về Sứ vụ Thiêng liêng. Con không bám giữ niềm thoải mái này.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.7. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy bất kỳ cảm giác thoải mái vi tế nào do con nghĩ rằng có những điều con không cần thay đổi. Con thực sự muốn biết các khía cạnh ẩn giấu trong Sứ vụ của con, và con sẵn lòng nhận biết là chúng ẩn giấu vì trong chính tâm con có một mức độ thoải mái đang ngăn cản con nhìn thấy chúng.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.8. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn xem con có đâm ra thoải mái với tâm đường thẳng và đã dùng giáo lý của chân sư thăng thiên để tạo dựng một cái nhìn đường thẳng về thế giới, qua đó con cảm thấy mình đã hiểu hết cách vận hành của thế giới.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.9. Mẹ Mary, con sẵn sàng bước lên cao hơn để nắm lấy tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của mình. Con nhận diện mục tiêu của Sứ vụ là con chứng được mức tâm thức cao nhất mà con có tiềm năng chứng được.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 3

3.1. Mẹ Mary hãy giúp con biết, liệu kiếp này có tiềm năng là kiếp hiện thân chót của con hay không, liệu con có thể thăng thiên ngay sau kiếp này hay một thời gian ngắn sau đó.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.2. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn ra cách xoay chuyển tâm ý thức của con từ mức thấp nhất lên mức cao nhất. Đâu là những thành kiến, phin lọc và điều cấm kỵ trong bốn thể phàm mà con cần thách đố và nhìn vượt qua để có thể xoay chuyển tâm thức lên mức cao nhất? Con cần kinh qua những trải nghiệm nào để xoay chuyển lên mức cao nhất?

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.3. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy là con cần có trải nghiệm nội tâm nào, loại kinh nghiệm sâu xa nào – một trải nghiệm chuyển vọt, có lẽ cả một trải nghiệm chấn động – để vươn tới tiềm năng trọn vẹn nhất của con trong kiếp đầu thai này. Con cần từ bỏ những gì để đạt đến đó?

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.4. Mẹ Mary, con nhận ra là cách con nhìn đời sống trên địa cầu chỉ là sản phẩm của nội dung trong bốn thể phàm của con. Những gì trong bốn thể phàm không thực là con. Con không bị dính mắc vào nội dung bốn thể phàm vì con muốn biểu lộ con người thực của con.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.5. Mẹ Mary, nội dung bốn thể phàm không đến nỗi quan trọng đến độ con sẵn sàng gác bỏ con người thực của con để bênh vực cho những ý tưởng đó, cho những cái ngã đó, vì chúng không thực một cách tối hậu.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.6. Mẹ Mary, con nhận ra tiềm năng cao nhất cho Sứ vụ của con là con từ bỏ các giới hạn đó, những sự đồng hóa đó, cái tâm vỏ ngoài đó, các khuôn nếp cảm xúc đó, các thói quen vật lý đó. Con buông bỏ chúng vì con muốn một cái gì cao hơn. Con muốn biểu lộ con thực sự là ai.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.7. Mẹ Mary, hãy giúp con khắc phục nỗi sợ khi con tự hỏi mình thực sự là ai. Con thấy con không là cái nhân cách vỏ ngoài đã được uốn nắn khi con lớn lên hay ngay cả trong những kiếp trước, và con sẵn sàng tự hỏi: “Tôi là ai? Tôi muốn là ai đây?”

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.8. Mẹ Mary, hãy giúp con nhớ lại phần nào sự nhận biết về Sứ vụ Thiêng liêng của con và tiềm năng cao nhất cho Sứ vụ đó.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.9. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn ra các khía cạnh mà con đã trở nên quá thoải mái đang chặn nghẽn viễn kiến tiếp theo mà con có khả năng hoàn thành, đặc biệt trong việc chữa lành chấn thương nhập đời của con.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

26 | Thỉnh cầu tự do khỏi ham muốn quá đáng (5 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả mọi đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con khắc phục mọi ham muốn quá đáng chủ trương dùng vũ lực để đem lại một thay đổi trên trái đất. Xin thày giúp con khắc phục mọi ham muốn dựa trên một viễn quan giới hạn mà con có khi con tới trái đất, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Gautama, xin thày giúp con thấy là con đã đi vào một khuôn nếp phản ứng khi con tới đây và thấy là thiện tâm của mình bị bác bỏ và chê bai.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Gautama, xin thày giúp con thấy là con đã càng thêm thiết tha, càng thêm dính mắc, muốn làm một việc mà các sa nhân và các cư dân trái đất không thể phớt lờ hay chối bỏ.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có mong muốn có khả năng siêu nhiên, tạo ra một biểu hiện mà cư dân trái đất và sa nhân không thể phớt lờ, không thể chối bỏ.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có mong muốn thấy một biểu hiện không thể chối cãi chứng tỏ giá trị của cái nhìn tâm linh về đời sống. Xin thày giúp con thấy liệu con có mong muốn có được thần nhãn hay quyền năng siêu nhiên khác khiến con làm được một chuyện mà con người không thể phớt lờ, chối bỏ, hay giải thích bẻ quẹo.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có ngờ vực vi tế là có tà ác trên trái đất, hay Thượng đế có hiện hữu hay không. Xin thày giúp con thấy là sa nhân cảm thấy họ đã hoàn tất một trong những thành quả lớn nhất khi khiến được một avatar nghi ngờ sự hiện hữu của Thượng đế.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Gautama, con thấy là điểm thấp nhất mà con có thể rơi xuống, trong tư cách một avatar, là con nghi ngờ có một đấng tối cao, có một mục đích cao và con có mục đích khi tới đây.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Gautama, xin thày giúp con nhận ra liệu con có mong muốn có quyền năng siêu nhiên. Xin thày giúp con xem xét con sẽ đạt được gì nếu con có quyền năng đó. Nếu con sử dụng quyền năng đó, thì con sẽ thực sự đạt được kết quả gì?

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Gautama, xin thày giúp con nhận ra là không có bất cứ điều gì mà tâm vỏ ngoài, tâm xác thịt, tâm con người, tâm lý trí, phân tích, đường thẳng không thể nghi ngờ.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Gautama, xin thày giúp con chấp nhận là con không bao giờ có thể chứng minh bất cứ điều gì trên một hành tinh có vật chất dày đặc, có tâm thức dày đặc như trái đất. Chức năng cốt yếu của một hành tinh có vật chất dày đặc là cho con người một trải nghiệm trầm mình trong đó họ có thể trải nghiệm họ là một sinh thể tách biệt.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Gautama, xin thày giúp con thấy là để có được trải nghiệm đó, con không thể có khung tham chiếu mà con có trên một hành tinh tự nhiên, là nơi con cảm thấy sự kết nối với một cái gì lớn hơn là ý niệm bản ngã hiện thời của con, con cảm thấy cái một trong mọi sự sống.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Gautama, xin thày giúp con thấy là những người trong giai đoạn trầm mình không có ý niệm cái một trong mọi sự sống. Đó chính là lý do vì sao họ không có khung tham chiếu giúp họ có được cảm nhận không thể chối cãi là cuộc sống có cái gì cao hơn những gì họ trải nghiệm qua cái ngã tách biệt.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Gautama, xin thày giúp con chấp nhận là con người không thể thấy điều mà con thấy khi con thức tỉnh và nhận ra khía cạnh tâm linh của đời sống. Không có gì con có thể nói, không có gì con có thể làm, có thể giúp những người đang trong giai đoạn trầm mình trải nghiệm một thực tại cao hơn. Họ không thể thấy điều mà các con coi là đương nhiên,

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Gautama, xin thày giúp con chấp nhận là những người đang trong giai đoạn trầm mình bắt buộc phải bác bỏ tầm nhìn cao hơn của con. Vì nếu không họ không thể tiếp tục trầm mình, tiếp tục tự đồng hóa với trái đất và cái ngã vỏ ngoài.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Gautama, xin thày giúp con thấy là vì con người không có cách cư xử nào khác khuôn nếp phản ứng, nên điều chính đáng là các avatar tới đầu thai ở đây để chứng minh là có chọn lựa khác.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Gautama, xin thày giúp con chấp nhận là mục đích của các avatar khi đầu thai trên trái đất không phải là để thực hiện một thay đổi đặc thù trên hành tinh này. Con chỉ tới đây để chứng minh có chọn lựa khác.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Gautama, xin thày giúp con chấp nhận là con cần cho phép những người chưa sẵn sàng hay chưa chịu bước ra khỏi giai đoạn trầm mình, chối bỏ con và bác bỏ những gì con nói – và con không phản ứng lại.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Gautama, xin thày giúp con thấy là khi con xuống đây và gánh chịu chấn thương nhập đời nguyên thủy và tạo ra cái ngã gốc (primal self), thì con không hoàn toàn nắm vững thực tế của luật tự quyết. Con không hoàn toàn chấp nhận là vai trò của con chỉ là nêu tấm ngương mà không thực hiện một thay đổi đặc thù.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Gautama, xin thày giúp con thấy là con đã tạo ra ngã gốc vì con mong muốn thực hiện một thay đổi nào đó, và điều này đã khiến con mong muốn có được quyền năng đặc biệt mà con người không thể phớt lờ hay bác bỏ.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Gautama, xin thày giúp con thấy là để buông bỏ ngã gốc, con cần nhận ra là nó không thật. Xin thày giúp con nhận ra là vì có luật tự quyết, con đã có một mong muốn quá quắt, trái luật. Con có mong muốn ép buộc con người thức tỉnh vì như vậy tốt cho họ.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Gautama, xin thày giúp con thấy là sa nhân mong muốn ép buộc con người vì đây là điều tốt cho sa nhân. Xin thày giúp con nhận ra là, trong cương vị một avatar, con không nên có mong muốn ép buộc con người thức tỉnh vì như vậy tốt cho họ.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Gautama, xin thày giúp con tiến thêm bước nữa và nhìn vào ngã gốc có mong muốn áp đặt một thay đổi nào đó trên trái đất, ép buộc con người thay đổi, ép buộc họ thức tỉnh.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Gautama, xin thày giúp con thấy là con đã tới đây với hiểu biết đúng đắn là trái đất cần thay đổi và con người nên rốt cuộc thức tỉnh. Nhưng con có một hiểu biết không thực tế về cách thực hiện chuyện này.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Gautama, xin thày giúp con thấy là con đã nghĩ rằng vì sa nhân đã dùng bạo lực để ru ngủ con người, thì con được quyền dùng một bạo lực nhẹ hơn để thức tỉnh họ.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Gautama, xin thày giúp con thấy ngã tách biệt đó và nhận ra là tuy ngã tách biệt tin chắc là nó chỉ muốn thức tỉnh con người vì như vậy tốt cho họ, nhưng sự thực là ngã tách biệt muốn thức tỉnh con người vì như vậy tốt cho .

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Gautama, xin thày giúp con thấy là mong muốn thức tỉnh con người thực sự là để con cảm thấy con đã hoàn thành những gì con muốn hoàn thành khi tới trái đất này, nhưng con vẫn chưa hoàn thành được.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Gautama, xin thày giúp con thấy là ngã tách biệt tin chắc là nó làm thế vì như vậy tốt cho mọi người, nhưng thực ra đó là vì như vậy tốt cho con, vì con sẽ thực hiện được mục đích mà con đã tự định ra.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Gautama, xin thày giúp con thấy là con còn nhìn đời qua ngã gốc, thì con sẽ tiếp tục nghĩ là con muốn thức tỉnh con người vì như vậy tốt cho họ, nhưng đó là vì như vậy “tốt” cho con, vì con được cảm thấy thoải mái với việc mình đã tới trái đất.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Gautama, xin thày giúp con thấy việc con mong muốn tới được điểm con cảm thấy thoải mái với việc mình ở đây, là điều tự nhiên. Nhưng khi con còn ngã tách biệt đó, thì con có cảm tưởng là cách duy nhất để cảm thấy thoải mái với việc mình đã đến đây là thực hiện mục đích mà con đã định ra khi tới đây.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Gautama, xin thày giúp con nhận ra là nhận biết mà con có khi con tới đây không phải là nhận biết cao nhất. Con lúc đó ở trạng thái tâm thức cao hơn đa số cư dân trái đất, nhưng con không có hiểu biết cao nhất về luật tự quyết và cách nó vận hành.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Gautama, xin thày giúp con thấy là khi con còn nắm chặt viễn quan nguyên thủy đó, thì con không thể cảm thấy thoải mái với việc mình đã đến đây cho tới khi mục đích đó được hoàn thành. Vì mục đích đó không bao giờ hoàn thành được vì có luật tự quyết, nên khi con còn nắm chặt mong muốn đó, thì con không thể nào cảm thấy thoải mái với việc mình ở trên trái đất.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Gautama, xin thày giúp con thấy và chấp nhận là con cần để cho cái ngã đó chết đi. Xin thày giúp con chấp nhận là con tới đây để là người con là, để tỏa chiếu ánh sáng của con, để cho con người một tấm gương, một khung tham chiếu.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Gautama, xin thày giúp con xoay chuyển tầm nhìn và trút bỏ được gánh nặng cảm thấy không thoải mái với việc mình ở đây. Xin thày giúp con vượt qua ảo tưởng cho rằng nếu thay đổi này hay thay đổi kia xảy ra thì con sẽ cảm thấy thoải mái với việc mình ở đây.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Gautama, xin thày giúp con trút bỏ hết gánh nặng trách cứ mình đã tới đây, cảm thấy: “Tôi đã quá ngu dốt khi tôi tình nguyện xuống một hành tinh như thế này”. Xin thày giúp con trải qua tiến trình tuần tự cho tới khi con tới điểm con có thể rũ bỏ các cảm nhận đó.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Gautama, xin thày giúp con thấy là khi con còn cái ngã muốn làm điều gì trên trái đất, thì con không thể là người con là. Dù ngã đó hoàn thành mục đích của nó, con vẫn không thể cảm thấy thoải mái với chính mình hay với việc con ở đây.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Gautama, xin thày giúp con thấy là con chỉ có thể cảm thấy thoải mái với việc mình ở đây khi con cảm thấy thoải mái với chính mình, và cảm giác này chỉ có thể tới từ bên trong. Nó không thể tùy thuộc bất cứ thành quả bên ngoài nào, bất cứ kết quả bên ngoài nào mà con có thể thực hiện trên hành tinh này hay bất cứ hành tinh nào khác.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Gautama, xin thày giúp con thấy là ngay cả trên một hành tinh tự nhiên, con không thể cảm thấy thoải mái một cách tối hậu với chính mình qua những thành quả bên ngoài của mình. Con phải phát triển cảm nhận từ bên trong cảm thấy thoải mái với chính mình giản dị dựa trên con là ai.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 5

5.1. Gautama, xin thày giúp con thấy, là trên cương vị một avatar, con đã chọn tới một hành tinh thấp hơn vì con chưa hoàn toàn phát triển cảm nhận quý trọng mình là ai từ bên trong chính mình. Con vẫn còn nghĩ là phẩm giá của mình dính liền với các thành tựu, thành quả của mình.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.2. Gautama, xin thày giúp con thấy là con đã quyết định cho mình một mục đích khác, đặt mình vào một chu kỳ khác, và lần này đặt cho mình một mục đích khó hơn là đạt được điều không thể đạt được trên một hành tinh tự nhiên.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.3. Gautama, xin thày giúp con thấy là thách đố mà con đối mặt là để có thể thăng thiên, con cần tới điểm buông bỏ mong muốn cảm thấy thoải mái với chính mình trên căn bản những thành tựu và thành quả của mình, trên căn bản những gì mình đã làm.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.4. Gautama, xin thày giúp con tới điểm cảm thấy thoải mái với chính mình trên căn bản mình là ai, mình là , Sinh thể mà con là.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.5. Gautama, xin thày giúp con thấy là khi thày ngồi dưới cội Bồ đề và bị Ma vương thử thách, thày có quyền năng siêu nhiên nhưng thày chọn lựa không sử dụng quyền năng đó.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.6. Gautama, xin thày giúp con tới điểm buông bỏ mong muốn làm bất cứ điều gì trên trái đất.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.7. Gautama, xin thày giúp con thấy là điều này không có nghĩa là con sẽ ngồi dưới một gốc cây phần còn lại của cuộc đời và không làm gì cả. Con vẫn có thể có một cuộc đời bình thường và biểu hiện bản thể cao của con qua cuộc đời thoạt trông bình thường đó.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.8. Gautama, xin thày giúp con thấy là con cũng có thể làm một số chuyện tạo được thành quả trong thế gian và cải thiện điều kiện sống trên trái đất, nhưng con không làm từ cái ngã tách biệt lúc nào cũng cảm thấy thiếu thốn, bất toại nguyện

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.9. Gautama, xin thày giúp con là gì con là và để ánh sáng của Dòng sông sự Sống tuôn chảy xuyên qua con. Xin thày giúp con để ánh sáng làm công việc của nó thay vì con làm với tâm vỏ ngoài cảm thấy phải làm việc này, hay cảm thấy chính mình đã hoàn thành việc này. Con nhận ra với Giê-su: “Tự ta, ta không làm được điều gì cả.”

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Gautama, con nhập một với thày, chạm tay vào mặt đất và nói:

VAJRA! (Kim cương) (33 lần)

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

15 | Thỉnh cầu tự do khỏi cái nhìn cá nhân về cuộc sống

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Quan Âm, hãy giúp con khắc phục những cái ngã khiến con xem quá nhiều điều là chuyện cá nhân của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Có một giai đoạn trên đường tu con cần nhận trách nhiệm về bản thân. Rồi đến một điểm con cần bước lui lại, nhìn từ một góc độ khác và nói: “Bây giờ thật ra tôi cần ngừng nhận trách nhiệm.”

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.2. Con vẫn là người trách nhiệm ở chỗ con nhận trách nhiệm về việc tạo ra ngã tách biệt và con cũng nhận trách nhiệm về việc cho nó chết. Nhưng khi con cho ngã tách biệt chết rồi, con không còn trách nhiệm gì về hành vi của nó hay xuyên qua nó nữa.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.3. Giờ đây con hòa điệu với Ngọn lửa Từ bi đích thực và ngộ ra: “Tôi cần từ bi với chính tôi. Tôi cần tha thứ mình hoàn toàn và vô điều kiện về những việc mình đã làm trong quá khứ, đến độ tất cả mọi việc tôi đã làm không còn quan trọng gì nữa.”

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.4. Khi con nhận ra là nó không quan trọng gì nữa, con có thể xóa hẳn hình ảnh là con đã làm việc đó, cho nên ngay cả ký ức cũng không còn.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.5. Có thể việc xóa bỏ hình ảnh sẽ khó khăn cho tới khi con đã tự tha thứ mình, đã hòa điệu với Ngọn lửa Từ bi, đã sử dụng Ngọn lửa Từ bi để tẩy xóa cảm nhận tội lỗi, xấu hổ và tủi thẹn.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.6. Quan Âm, con thỉnh cầu Ngọn lửa Từ bi của thày để tẩy xóa loại cảm xúc đó. Quan Âm, con hoà nhập vào Bản thể của thày và con xin thày giúp con trải nghiệm là con đã tự tha thứ hoàn toàn. Con nói: “Tôi đã không làm chuyện đó. Tôi là một sinh thể vô hình tướng và tôi đã không làm chuyện đó!”

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.7. Những gì con đã nhập tâm về bản thân mình, con nay áp dụng vào người khác. Người khác đã làm những gì họ làm là vì họ hành xử xuyên qua một ngã tách biệt.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.8. Con không cần tha thứ cho một ngã tách biệt, vì nói cho cùng thì nó không thực, nhưng con cần tha thứ cho tất cả những ai đã làm hại con. Con cần có lòng từ bi với họ.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.9. Con nhận ra là dù họ có đã làm gì con, không phải cái Ta Biết trong họ đã làm điều đó mà là một ngã tách biệt. Cho nên con có thể tha thứ, con có thể từ bi với họ bằng cách không cầm giữ hình ảnh họ là ngã tách biệt, hay họ hành xử giống như ngã tách biệt đã hành xử với con. Con tẩy xóa phản ứng cho rằng: “Bạn con người như vậy, bạn loại người như thế.”

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Phần 2

2.1. Quan Âm, xin thày giúp con đạt tới điểm tha thứ cho những ai đã làm hại con. Khi con tha thứ, chính con được giải phóng vì chừng nào con còn cầm giữ một hình ảnh nhất định về ai đó thì làm sao con tự do cho được?

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.2. Con chỉ có thể cầm giữ một hình ảnh có hình tướng về một người khác nếu con có một cái ngã hữu hình đang cầm giữ hình ảnh này. Là cái Ta Biết, con không thể cầm giữ một hình ảnh đặc thù về một ai khác. Nếu con thực sự ở trong cái Ta Biết và không có ngã tách biệt nào, con sẽ không mang một hình ảnh hay một ấn tượng định sẵn về con người của họ.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.3. Quan Âm, con muốn tăng trưởng đến giai đoạn không còn mang theo mình bất kỳ hình ảnh định sẵn nào nữa. Con sống trong hiện tại, theo nghĩa là mỗi hiện tại đều là một khoảnh khắc mới.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.4. Con không đòi hỏi người kia phải thỏa mãn một hình ảnh nhất định. Con không đổ lỗi cho họ về những sự việc đã xảy ra trong quá khứ. Con gặp họ mỗi lần như một người mới vì con cho phép chính mình là một người mới mỗi ngày.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.5. Khi con đạt đến các tầng tâm thức cao hơn, con thức dậy buổi sáng, nhìn vào gương và nói: “Người này là ai vậy?” Con tự do khi con hỏi: “Hôm nay tôi muốn là ai đây?”

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.6. Quan Âm, xin thày giúp con đạt tới mức con không thức dậy buổi sáng với một khuôn nếp đem theo từ tối hôm trước bảo rằng: “Đây là con người tôi sẽ phải là hôm nay! Tôi phải là đúng như thế này.”

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.7. Quan Âm, xin thày giúp con càng ngày càng có nhiều tự do hơn, và con cũng trao tự do cho người khác. Hãy giúp con nói: “Bạn có quyền hành xử giống như bạn đã hành xử hôm qua, nhưng tôi sẽ không phản ứng giống như tôi đã phản ứng hôm qua. Tôi sẽ không hành xử theo cách bạn chờ đợi tôi hành xử. Tôi sẽ hoàn toàn tự do khi tôi chọn: Hôm nay tôi sẽ muốn là ai đây?”

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.8. Khi con đã tha thứ cho mình và cho người khác, con ngộ ra: “Không ai đã làm gì tôi cả.” Con theo dõi tâm con, và nếu con thấy có giọng nói lên tiếng phản đối câu vừa rồi, con sẽ biết là có một ngã tách biệt cần phải khắc phục.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.9. Con cần ngừng nhận trách nhiệm về hành động của mình, nhưng con cũng cần ngừng nhận trách nhiệm về cách phản ứng của người khác đối với con. Sa nhân đã tấn công con là do chúng có ngã tách biệt, cho nên con nói: “Ồ, vậy có nghĩa là kỳ thực chúng đã không nhắm vào tôi vì chúng chỉ hành xử theo ngã tách biệt của chúng. Nếu có ai khác đứng ở chỗ của tôi thì chúng cũng đã hành xử y như vậy với họ, có nghĩa đây không phải là chuyện cá nhân nhắm vào tôi. Đơn giản tôi đã tạo ra một ngã tách biệt xem đó là chuyện cá nhân.”

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Phần 3

3.1. Quan Âm, xin thày giúp con nhận diện trong con có một ngã tách biệt đang phản ứng. Bất cứ khi nào có gì xảy ra cho con, con cảm thấy chính cá nhân con đã phạm lỗi lầm này và do đó con phải có cảm xúc này.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.2. Đây chỉ là một ngã tách biệt giống như mọi ngã tách biệt khác. Vì đây là cái ngã xem mọi chuyện là cá nhân, nó sẽ cố khiến con cá nhân hóa cả sự kiện con mang cái ngã đang cá nhân hóa mọi chuyện.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.3. Quan Âm, xin thày giúp con bước lui lại hai lần và thấy nó là một ngã tách biệt đã khiến con bực bội với tất cả mọi ngã tách biệt khác cùng mọi việc con đã làm. Tuy nhiên đó chỉ là một ngã tách biệt.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.4. Cái ngã cá nhân hóa mọi chuyện đã được tạo ra để phản ứng lại việc người khác trách cứ con. Con nhận ra là họ không trách cứ bản thân con mà họ chỉ hành xử xuyên qua tâm lý chưa giải quyết của họ. Cho dù họ đã làm gì con thì họ chỉ hành xử xuyên qua tâm lý chưa giải quyết của họ.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.5. Dù bất cứ ai đã làm gì tiêu cực cho con thì họ chỉ đang hành xử xuyên qua tâm lý chưa giải quyết của họ. Nếu họ hành xử xuyên qua tâm lý chưa giải quyết và họ trách cứ con, tại sao con lại phải nhận lời trách cứ đó, xem đó là chuyện cá nhân và nói: “Ồ, chắc tôi là người đã làm họ bực mình.”

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.6. Con đã không tạo ra ngã tách biệt của họ. Con không chịu trách nhiệm về các ngã đó, cho nên con không cần xem đó là chuyện cá nhân. Con không cần cảm thấy mình trách nhiệm chuyện đó.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.7. Con nhận ra là không có gì nhắm vào cá nhân con. Họ mang một ngã tách biệt khiến họ bực bội, xong họ có một ngã tách biệt khác khiến họ nghĩ sự bực bội này không phải là lỗi của họ mà là lỗi của con đã làm gì đó, cho nên ngã tách biệt này phóng lời trách móc vào con.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.8. Nếu không phải là con mà có ai khác đang đứng ngay đó thì họ đã phóng trách móc vào người kia. Không có gì cá nhân nhắm vào con. Cái họ phóng ra là chuyện cá nhân của họ, có nghĩa là con không phải nhận lấy và biến nó thành chuyện cá nhân của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.9. Bây giờ con nói: “À, hóa ra không ai đã làm gì tôi cả.” Thật sự không có ai đã bực bội với con hay trách móc gì con. Chỉ đơn giản là chuyện tâm lý chưa giải quyết của họ mà họ đã hướng về con.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Phần 4

4.1. Trong lời trách móc đó không có gì cá nhân nhắm vào con, nhưng con vẫn đã buồn bực vì lời này. Nhưng có phải là họ đã khiến con buồn bực không? Không. Con buồn bực là vì con có một ngã tách biệt mà con đã tạo ra trong quá khứ đang làm con buồn bực trong loại hoàn cảnh đặc thù này.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.2. Cho nên chẳng có ai đã làm gì con cả, vì điều duy nhất đã tác động đến con không phải là việc làm của người khác, mà là phản ứng của con đối với việc làm này. Chính trải nghiệm nội tâm của con về việc làm của họ đã tác động đến con, chứ không phải hành động vỏ ngoài của họ.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.3. Con ngộ ra là có một sự khác biệt căn bản giữa những gì người ta làm bên ngoài bốn thể phàm của con và những gì xảy ra bên trong bốn thể phàm của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.4. Không có sự chê trách nào ở đây. Khi con đi xuống tầng 48 và chạm trán với sự hung hãn của sa nhân, con chỉ có thể phản ứng dựa trên tầng 48. Vì vậy con không thể tránh cá nhân hóa và tạo ra những ngã tách biệt để ứng phó.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.5. Không có lý do gì con phải tự trách mình đã làm vậy, nhưng khi con công nhận là con đã làm vậy, con nhận lãnh một loại trách nhiệm khác. Con không trách nhiệm về những việc con đã làm xuyên qua một ngã tách biệt, nhưng con trách nhiệm về việc tạo ra ngã tách biệt.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.6. Con đã tạo ra ngã đó dựa trên tầng tâm thức của con lúc đó, nhưng giờ đây con đã vươn lên một tầng tâm thức cao hơn. Cho nên con có thể xem lại ngã tách biệt này và nói: “Ta không còn cần đến mi nữa vì ngày hôm nay ta không phản ứng theo cách đó. Ngày hôm nay ta đã hiểu biết hơn, ta đã trưởng thành hơn.”

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.7. Con vẫn còn cái ngã này mà con đã đem theo suốt bao nhiêu kiếp sống. Bây giờ là lúc con nhìn thấy nó, bây giờ là lúc con sa thải nó, và như vậy con khoá nó lại trong Ngọn lửa Từ bi, con sử dụng Ngọn lửa Từ bi và tự giải thoát khỏi cái ngã có hình tướng này.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.8. Con tự giải thoát để là sinh thể vô hình tướng mà con là. Con ngộ ra là cho dù có ai làm gì con, con không phải phản ứng lại theo một cách nhất định nữa. Con không phải phản ứng theo cách quen thuộc trước kia nữa. Trên thực tế cho dù có ai làm gì con, con cũng không phải phản ứng lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.9. Có một ngã tách biệt vô cùng mạnh mẽ trong tâm thức tập thể trên địa cầu. Nó bảo là khi có ai tiếp cận con thì con phải phản ứng, con phải đáp trả. Con không thể chỉ làm ngơ.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Phần 5

5.1. Con có quyền tự quyết. Sự kiện con đang đầu thai và gặp nhiều người không có nghĩa là con phải phản ứng. Nếu họ ném vào con một điều gì mà con cảm thấy không muốn hồi đáp, con có tự do không hồi đáp.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

5.2. Con có quyền tự do bước đi, không tương tác với họ cùng sự tiêu cực của họ. Đây là một quyền con có. Và con sử dụng quyền này cho dù người ta gọi con là ích kỷ.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

5.3. Quan Âm, xin thày giúp con nhận diện một số người trong vòng ảnh hưởng của con luôn tìm cách lôi kéo con vào một khuôn nếp tiêu cực với mục đích giành sự chú ý của con để họ có thể đoạt lấy năng lượng của con. Giờ đây con quyết định: “Tôi sẽ không đáp lại chuyện này nữa.”

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

5.4. Có những người con sẽ không bao giờ thỏa mãn được vì họ không thực sự muốn thay đổi mà chỉ muốn lôi kéo con vào tương tác với họ. Con có quyền nói: “Có những người tôi không thể giúp đỡ và tôi chọn không giao tiếp với họ. Ngay cả việc hồi đáp tôi cũng sẽ không làm.”

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

5.5. Nếu có ai đó đến gặp con, muốn lôi kéo con vào một khuôn nếp tiêu cực và con không hồi đáp, thì con đang từ bi với họ. Từ bi là khi con không cầm giữ một hình ảnh cố định về chính con hay về người khác.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

5.6. Khi có một người đến gặp con với một tâm thái tiêu cực, con có thể nói: “Tôi sẽ không hồi đáp lại chuyện này, vì nếu tôi hồi đáp theo cách họ chờ đợi thì tôi sẽ chỉ xác chứng cho ngã tách biệt đó và họ sẽ không thể nào nhìn ra ngã này. Họ chỉ bị cuốn hút vào việc lặp lại khuôn nếp này mãi mãi.”

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

5.7. Nhưng nếu con không hồi đáp theo cách họ chờ đợi, có lẽ họ sẽ nhìn lại cách phản ứng của họ, họ sẽ ngạc nhiên và có cơ hội xem xét phản ứng này rồi tự hỏi tại sao nó lại xảy ra. Chính điều này mới có tiềm năng giải thoát được họ.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

5.8. Nếu con hồi đáp theo cách họ chờ đợi thì đảm bảo họ sẽ không thoát ra được, nhưng nếu con hồi đáp theo cách họ không chờ đợi, ít ra có chút khả năng là điều này sẽ giúp được họ. Và đây chính là lòng từ bi.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

5.9. Con chọn không cầm giữ một hình ảnh cố định nào về cách con hồi đáp họ như thế nào, ngay cả khi con đã quen biết họ cả đời. Con có thể chọn làm điều gì đó mà con chưa từng làm bao giờ. Con có thể chọn một cách hồi đáp khác hẳn cách hồi đáp trước kia của con, và đây là từ bi.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Phần 6

6.1. Quan Âm, xin thày giúp con thấy liệu con có một ngã tách biệt đang chặn đứng tầm nhìn của con về nhu cầu tự thăng vượt không ngưng nghỉ. Ngã này cho rằng toàn bộ mục đích của việc tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên là để xác chứng cho hình ảnh cao trội mà ngã cầm giữ. Con sẵn lòng nhìn ra ngã này cho dù nó đã khiến con phê phán người khác.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

6.2. Phê phán là một cạm bẫy vì nó dựa trên thái độ xem mình là cao trội. Nếu con nhìn ra là con đã phê phán thì rất có thể con sẽ nhìn việc này xuyên qua cùng trạng thái tâm thức như trước, nghĩa là con sẽ bắt đầu phê phán chính con cũng nghiêm khắc y như con đã phê phán người khác.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

6.3. Quan Âm, con biết là thày cầm giữ Ngọn lửa Từ bi cho trái đất. Không có một đặc tính nhân gian nào mà Ngọn lửa Từ bi không thể tiêu hủy, không thể giúp con khắc phục. Cho dù con đã quá xét đoán người khác, con sẽ không ngần ngại đến gần thày.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

6.4. Quan Âm, con biết là thày sẽ không phê phán con như con đang tự phê phán. Thày hãy giúp con khắc phục cảm nhận cao trội, cảm nhận phê phán bản thân, và thấy đó là một ngã tách biệt.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

6.5. Có một ngã tách biệt cho con nhu cầu cảm thấy hơn người, có một ngã tách biệt cho con nhu cầu phê phán. Hai ngã này làm việc đồng hành với nhau, nhưng con có khả năng khắc phục sự hợp lực của chúng khi con có thuốc giải độc là Ngọn lửa Từ bi.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

6.6. Con thấy là khi con mới tìm thấy đường tu, con có một cái ngã rất cần đến sự xác chứng vỏ ngoài. Con sẽ không khắc phục được nó trừ khi con bắt đầu có lòng từ bi với chính con. Con neo trụ vào Ngọn lửa Từ bi và nhận ra tất cả những chuyện vỏ ngoài đó là không thực. Và vì chúng không thực cho nên chúng không quan trọng gì.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

6.7. Quan Âm, xin thày giúp con nhìn vào một sự việc trên trái đất, một việc gì con đã làm, và nói: “Thì đã sao đâu? Thật không quan trọng, không quan trọng gì hết.” Hãy giúp con ngộ ra là so với Ngọn lửa Từ bi vô cùng thực, tất cả mọi chuyện phù phiếm kia của nhân gian đều không thực. Chúng hoàn toàn vô nghĩa.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

6.8. Quan Âm, con xin nhận Ngọn lửa Từ bi của thày giúp con ngừng cá nhân hóa cuộc sống. Con xin: “Quan Âm, hãy giúp con nhìn ra điều này. Quan Âm hãy giúp con trải nghiệm Ngọn lửa Từ bi, giúp con có được tầm nhìn, giúp con thấy được như thày đang thấy. Giúp con có được khung tham chiếu qua việc trải nghiệm sự thực của Ngọn lửa Từ bi và sự không thực của thân phận con người.”

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

6.9. Quan Âm, xin thày giúp con bước vào tâm thái trung hòa và hoà điệu trực tiếp với thày trong tim. Con sẽ gặp thày với một tầm nhìn mới. Con giải phóng thày và con giải phóng con. Con gặp thày như một con người mới. Con trải nghiệm Hiện diện của thày nơi con.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

14 | Thỉnh cầu lòng tha thứ cách mạng

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Quan Âm, hãy giúp con khắc phục mọi yếu tố không từ bi và không tha thứ trong tâm lý của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Con là một sinh thể vô hình tướng. Con đã đi xuống một thế giới hình tướng. Con đã lấy nhiều quyết định và các quyết định này đã dẫn đến hậu quả vật lý. Là một người đồng sáng tạo, con phải có thể đồng sáng tạo nhưng tạo vật của con không quy định được con.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.2. Con tạo ra một cái gì có độ bền bỉ trong thời gian lẫn không gian. Mặc dù con đã tạo ra nó, nó đúng lý không quy định được con. Con đúng lý vẫn là một sinh thể vô hình tướng.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.3. Việc xảy ra trên trái đất là khi con tạo ra điều gì có một độ bền bỉ nào đó, thì con bắt đầu tự nhận diện dựa theo cái con đã tạo ra. Người khác cũng bắt đầu nhận diện con dựa theo cái đó.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.4. Vấn đề này khởi sự với sa nhân, chúng biết rõ là khi một avatar đi xuống địa cầu, con đi xuống tầng tâm thức 48. Con chưa có quả vị Ki-tô trọn vẹn cho nên con sẽ lấy một số quyết định, con sẽ tạo ra một số điều không phải là cao nhất.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.5. Sa nhân lập ra chuẩn mực về đúng và sai, về toàn hảo và tồi tệ, để chúng có thể dễ dàng chê con là bất cứ gì con đồng sáng tạo cũng không đủ tốt, không toàn hảo và sai trái dựa theo tiêu chuẩn của chúng.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.6. Xong chúng hung hãn dùng lý cớ này để áp đặt lên con ý tưởng là chính bản thân con có gì không ổn. Nếu tạo vật của con dở thì chính con cũng dở.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.7. Con bắt đầu phản ứng lại sự tấn công vô cùng hung dữ này bằng cách tạo ra những cái ngã tách biệt. Các ngã tách biệt này là ngã phản ứng, chúng được tạo ra để đáp lại một điều kiện nhất định có sự bền bỉ trong thời gian và không gian.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.8. Con đã tạo ra một cái gì, rồi con bị chỉ trích hay nhục mạ vì cái đó. Con phản ứng lại bằng cách tạo ra một cái ngã và ngã này cũng có sự bền bỉ. Khi con nhận chịu chấn thương nhập đời, thế là mọi chuyện trở thành cá nhân đối với con. Con xem tấn công của sa nhân là một tấn công cá nhân nhắm vào con.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.9. Đối nghịch của từ bi là khi bất cứ ai, cho dù là con hay một người khác, cầm giữ trong tâm họ một hình ảnh cố định về con như một sinh thể vô hình tướng. Họ lấy một hình ảnh có hình tướng, phóng chiếu lên con là một sinh thể vô hình tướng và nói: “Bạn là thế này này.”

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Phần 2

2.1. Phi từ bi là làm đông đặc lại một hình ảnh của Dòng sông sự Sống, lấy một hình chụp của Dòng sông sự Sống và nói: “Dòng sông như thế này này. Bạn có thể biết mọi chuyện về dòng sông khi bạn nhìn tấm hình tĩnh vật này.” Đây là điều họ làm với con. Đây là điều chính con làm với con.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.2. Từ bi là khi con nhận biết có một hình ảnh cố định về một sinh thể vô hình tướng cho dù là con hay một người khác, xong con nhả nó ra. Khi con nhìn một hình ảnh về một sự việc trong quá khứ, con có thể buông nó ra, gạt bay nó đi. Con có thể từ bỏ nó, rũ bỏ nó. Đó là từ bi.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.3. Con nhận ra là khi con tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên, con ở một tầng tâm thức nào đó. Con có một tâm lý, một số ngã tách biệt nào đó, và con đến với giáo lý xuyên qua tầng tâm thức này. Con không làm gì khác được.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.4. Quan Âm, xin thày giúp con thấy liệu con đã hình thành một quan điểm và một niềm tin rất mạnh mẽ về các chân sư thăng thiên, về giáo lý của các thày và về chính con như một đệ tử.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.5. Quan Âm, xin thày giúp con thấy liệu con có một ngã tách biệt có nhu cầu cảm thấy mình tốt đủ hay cao trội. Hãy giúp con thấy liệu ngã tách biệt đã dựng lên hình ảnh này về con là một đệ tử cao cấp.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.6. Quan Âm, xin thày giúp con thấy liệu con có một cái ngã như vậy, sau đó giúp con nhìn nó như một cái ngã. Con sẵn lòng cho ngã này chết đi để con mở tâm ra với một tầng giáo lý cao hơn.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.7. Con thừa nhận là nếu cái nhìn nguyên thủy của con về các thày, về đường tu và về chính con bị một giáo lý mới thách thức, thì nó xuất phát từ một ngã tách biệt và con sẵn lòng buông bỏ nó.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.8. Con sẵn lòng chất vấn hình ảnh mình là một đệ tử cao trội, mình nắm chắc đường tu trong tay. Con sẵn lòng với lên một tầm hiểu mới về giáo lý sẽ thách thức ngã tách biệt này.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.9. Con nhận ra là nếu con bám giữ một hình ảnh cố hữu về bản thân và về đường tu, thì đây là một hình thức phi từ bi. Thay vào đó, con muốn neo chặt vào Ngọn lửa Từ bi và thực sự nắm bắt từ bi là gì. Như vậy con nhận ra con đường tâm linh, con đường quả vị Ki-tô, là một tiến trình đi qua mấy giai đọan.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Phần 3

3.1. Khi con từ bi với chính con và người khác, con nhận ra là những gì áp dụng cho một giai đoạn chỉ nhằm đưa con đến một tầng nào đó của đường tu. Khi con đạt đến tầng này, thách thức của con là bước lên một tầng mới, và con không thể vươn lên tầng mới bằng cách tiếp tục làm giống như tầng cũ.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.2. Con đang ở một điểm nào đó trên đường tu. Những gì con đã làm để đạt đến điểm này hoàn toàn có giá trị, nhưng những gì đã đưa con đến đây không thể đưa con đi xa hơn. Nếu con không có lòng từ bi, con sẽ có xu hướng bám giữ một cái nhìn cố định về đường tu, về các chân sư, về chính con.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.3. Con cần có lòng từ bi vì đây là cách duy nhất để con tránh giam mình trong một hình ảnh cố định về mình. Con sẵn lòng buông bỏ tư duy cùng những ngã cứng nhắc cho nên cũng thiếu từ bi.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.4. Là một đệ tử của chân sư thăng thiên, con sẵn lòng bước lên cao hơn. Con sẵn lòng xem xét mình và nói: “Liệu tôi có mang một yếu tố phi từ bi nào với chính mình, hay thậm chí với cái nhìn của mình về người khác? Liệu tôi có xu hướng bám giữ một hình ảnh cố định về bản thân, về đường tu hay về các chân sư? Tôi nhìn chính tôi như thế nào?”

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.5. Đường tu tâm linh, con đường quả vị Ki-tô, có những giai đoạn riêng biệt. Con không thể cho phép mình cầm giữ hình ảnh trong tâm: “Tôi đã nắm được căn bản đường tu rồi. Tôi phải làm thế này và tôi cứ việc làm tiếp như thế cho đến hết kiếp thì tôi sẽ tiến bộ tối đa.”

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.6. Nhưng đơn giản là không phải vậy. Sẽ tới một điểm khi những gì con từng làm cho đến giờ sẽ không đưa con vào giai đoạn kế tiếp. Con cần đủ uyển chuyển để buông hình ảnh đó về đường tu và nói: “Tôi sẽ thực sự cần gì để tăng triển lên giai đoạn kế tiếp?”  

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.7. Sa nhân đã rất khéo léo gài bẫy các đệ tử tâm linh. Chúng đã tạo ra một loại cỗ máy nhằm mục đích đánh bẫy con người.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.8. Tới một giai đoạn con phải có biện pháp khắc phục một ngã tách biệt đặc thù, và có vẻ như biện pháp này rất khác với cách nhìn cố hữu của con về đường tu. Có vẻ như biện pháp này gần như cách mạng so với những gì con đã làm trước đó.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.9. Ở một thời điểm con đã cảm thấy mình sai lầm khi đến hành tinh này. Cảm giác này dựa trên trải nghiệm là tất cả những gì con làm hay đem lại đều đã bị sa nhân “đập dí xuống” và quy ghép là sai lầm.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Phần 4

4.1. Để khắc phục ngã tách biệt này, con cần linh hoạt uyển chuyển. Con cần ngừng nhận trách nhiệm về bất cứ việc gì con đã từng làm trên trái đất.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.2. Sa nhân đã khuynh đảo để con tạo ra một ngã tách biệt khiến con cảm thấy chính con đã làm gì sai trái. Tuy nhiên con là cái Ta Biết. Con là một sinh thể vô hình tướng. Con có quyền đi xuống địa cầu.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.3. Con khoác vào hình tướng của bốn thể phàm, con đi xuống tầng tâm thức 48, con hành xử dựa trên tầng này, con nhận được hồi đáp, xong trong kịch bản lý tưởng con tăng triển cho đến khi con lại nhận biết: “Tôi là một sinh thể vô hình tướng. Hình tướng không quy định được tôi.”

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.4. Sa nhân đã cưỡng bức con tạo ra cái ngã tách biệt giờ đây đang cầm giữ một hình ảnh cố định về chính con – rằng con không phải là một sinh thể vô hình tướng mà là một sinh thể có hình tướng đặc thù, và hình tướng này thì sai trái dựa theo một tiêu chuẩn nào đó.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.5. Ngã này có thể đã có mặt ngay từ kiếp đầu tiên của con. Con đã kéo lê nó theo con suốt một thời gian rất dài. Nó là một trong những yếu tố chủ yếu ngăn con vươn lên một tầng quả vị Ki-tô cao hơn. Con không thể vươn lên quá một mức nào đó trên đường tu chừng nào con còn lê nó theo con.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.6. Tại sao con đã làm bất cứ gì trên trái đất? Khi con đi xuống tầng 48, con đã khoác vào tất cả những ảo tưởng kia giống như những tấm màn mà con trùm vào. Con nhìn cuộc sống xuyên qua những tấm màn đang bóp méo và tô màu tầm nhìn của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.7. Tại sao con làm những gì con đã làm? Có phải là con, cái Ta Biết xem mình như một sinh thể vô hình tướng, làm những gì con đã làm? Không! Con, cái Ta Biết, làm những gì con đã làm không phải trong nhãn quan mình là một sinh thể vô hình tướng, mà trong nhãn quan mình có một hình tướng dựa trên các ảo tưởng con đã khoác vào. Đó có thực là con, có là con người thực của con, có là sinh thể vô hình tướng, hay đó là một ngã tách biệt con đã tạo ra để đi xuống cõi hiện thân vật lý?

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.8. Để đi xuống tầng 48 và hiện thân, con đã phải tạo ra những ngã tách biệt đó, cái cỗ xe linh hồn đó, bốn thể phàm đó của con. Tới một điểm trên đường tu tâm linh, con cần đương đầu với vấn đề này.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.9. Nếu con thực là cái Ta Biết, nếu con thực là một sinh thể vô hình tướng, thì con không phải là bất kỳ ngã tách biệt nào của con. Con đã chỉ đồng hóa là ngã tách biệt thôi, vì con đã chui vào trong ngã và nhìn xuyên qua phin lọc đó.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Phần 5

5.1. Giờ đây khi con bắt đầu cảm nhận mình là một sinh thể vô hình tướng, đã đến lúc con bước lui lại và nói: “Phải, tôi đã hành động khi tôi mới đến địa cầu. Tôi đã hành xử hoàn toàn trong sáng với ý định tốt đẹp nhất để giúp đỡ người khác. Tôi đã bị những cú giáng tàn bạo của sa nhân và tôi đã phản ứng bằng cách tạo ra ngã tách biệt này, nó cảm thấy là tôi đã sai lầm khi đến hành tinh này. Chính tôi đã thiết kế ngã này, và sau khi tôi tạo ra nó, tôi đã bắt đầu lấy quyết định xuyên qua nó.”

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

5.2. Sa nhân đã cho con cảm tưởng là con sai lầm khi biểu đạt con người thực của con. Con đã quyết định: “Tôi không thể biểu hiện con người thực của tôi,” cho nên các quyết định của con nhằm tránh sai lầm lần nữa. Toàn bộ mục đích của ngã này là không sai lầm nữa, và con đã dựa vào nó để quyết định.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

5.3. Bây giờ con có thể nói: “Phải, tôi đã làm một chuyện sai lầm. Từ một góc cạnh thường tình chính tôi đã làm chuyện đó, nhưng từ một nhãn quan cao hơn, có thực là tôi đã làm hay không? Có phải là tôi, sinh thể vô hình tướng, hay kỳ thực là một ngã tách biệt đã quyết định làm? Ai đã làm, tôi hay ngã tách biệt?”

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

5.4. Khi con suy ngẫm câu hỏi này, con bắt đầu tách mình ra khỏi ngã tách biệt đó. Con tách cái Ta của con ra khỏi ngã tách biệt. Sau khi con làm vậy, con ngộ ra: “Tôi không là ngã tách biệt đó, tôi là nhiều hơn, tôi là một sinh thể vô hình tướng.”

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

5.5. Con sẵn lòng hé thoáng trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết này, là cảm nhận mình đang ý thức, nhưng mình không ý thức về chính mình như một sinh thể đặc thù hay về một tình huống đặc thù.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

5.6. Con không là ngã tách biệt. Và nếu con không là ngã tách biệt thì đương nhiên con cũng không làm những gì ngã tách biệt đã làm. Nếu chính con không làm những gì ngã tách biệt đã làm, tại sao con lại cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm?

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

5.7. Sa nhân muốn con cảm thấy là con đã phạm phải lỗi lầm khủng khiếp kia trong quá khứ và điều này chứng tỏ là con xấu xa. Con sẽ xấu xa vĩnh viễn vì con sẽ không bao giờ vượt qua nó được. Từ một góc độ nào đó, con không thể thay đổi sự kiện là việc đó đã xảy ra.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

5.8. Nhưng bây giờ con nói với ác quỷ: “Được rồi ác quỷ, mi bảo là việc đó đã xảy ra và không thể tháo gỡ. Tại sao mi lại nói điều này với ta? Ta có làm chuyện đó đâu. Đó là ngã tách biệt, nhưng ngã này không phải là ta.”

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

5.9. “Phải, mi nói đúng, ác quỷ, ta đã tạo ra ngã tách biệt này. Ta nhận hoàn toàn trách nhiệm về việc tạo ra ngã tách biệt này. Mi có biết điều tuyệt diệu là gì không, ác quỷ? Cái gì ta đã tạo ra thì ta có thể giải thể. Mi không có quyền năng gì trên ngã tách biệt này. Hay đúng hơn, có thể mi có khả năng thao túng ngã tách biệt nhưng mi đã không tạo ra nó và mi không thể giải thể nó – nhưng ta đây có khả năng giải thể nó. Ta có khả năng để nó chết đi, và mi biết gì không? Ta đang để nó chết đi ngay bây giờ, và bây giờ nó không còn nữa. Vậy tại sao mi lại đến phiền ta? Mi hãy đi chỗ khác, hãy tìm ai khác mà làm phiền, một ai khác vẫn còn ngã tách biệt. Hãy lui ra sau ta, Satan.”

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

24 | Thỉnh cầu tự do khỏi ngã gốc (6 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả mọi đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Giê-su, hãy giúp con vượt lên trên ngã gốc của con. Xin các thày giúp con thấy ngã gốc đã pha màu cách con nhìn đời như thế nào, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Giê-su, xin thày giúp con nối kết lại với chấn thương nhập đời mà con gánh chịu khi con xuống đầu thai lần đầu trên trái đất. Xin thày giúp con thấy là con đã tạo ra một cái ngã tách biệt để đối phó với chấn thương này.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy ngã gốc là một ý niệm sâu thẳm về bản ngã mà hầu hết không ai thấy được. Nó bám chặt, nó ăn sâu, nó vi tế đến độ con xem nó là đương nhiên. Con nghĩ đây là cách duy nhất để kinh nghiệm cuộc sống trên trái đất.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy là ngã gốc cũng chỉ giống như các ngã khác mà con đã khắc phục. Nó dựa trên một ảo tưởng cho nên cách khắc phục nó là nhận diện nó là một cái ngã vỏ ngoài và sau đó quyết định không muốn mang nó trong mình nữa.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.4. Giê-su, xin thày giúp con có được một nhận biết rộng hơn về ngã gốc để con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi nó. Xin thày giúp con thấy ngã này từ bên ngoài thay vì nhìn cuộc sống xuyên qua cái ngã, từ bên trong cái ngã.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.5. Giê-su, xin thày giúp con chuyển đổi nhận thức và nhận ra ngã gốc không phải là con người thật của con. Nó là một cái ngã được tạo ra để đáp ứng lại một tình huống rất khó khăn, làm con bị chấn thương mạnh, xảy ra cho con trên trái đất. Con không mang nó theo con khi con tới đây.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy là ngã gốc được tạo ra với một mục đích đặc trưng, với một tầm nhìn đặc trưng. Do đó, nó có một vấn đề cố hữu và khi con nhìn từ bên trong cái ngã, con có cảm tưởng là con phải giải quyết vấn đề đó.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy giải quyết vấn đề không phải là cách giúp con khắc phục ngã gốc. Ngay cả nếu con giải quyết được vấn đề mà ngã phóng chiếu ra, thì con vẫn không tự động khắc phục được cái ngã vỏ ngoài này.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.8. Giê-su, xin thày giúp con bắt đầu thấy là con sẽ không vượt lên trên ngã gốc bằng cách giải quyết vấn đề hay thay đổi điều kiện đã khiến con phản ứng lại và tạo ra ngã gốc.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con sẽ chỉ khắc phục ngã gốc khi con nhận ra nó là một ngã tách biệt, nó dựa trên một ảo tưởng và không có vấn đề nào cần giải quyết. Con cần giải quyết cơ cấu bên trong con khiến con nghĩ rằng cuộc sống của con trên hành tinh này, ý niệm bản ngã của con và việc con rời khỏi hành tinh này, tùy thuộc vào bất kỳ điều kiện nào ở đây.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 2

2.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con đã tạo ra một ngã gốc cảm thấy mình bị sa nhân bác bỏ. Xin thày giúp con thấy liệu ngã gốc của con có cảm thấy một nỗi buồn chung về cuộc sống, cảm thấy rất thất vọng và rất bị chấn động vì những điều kiện ở đây, cảm thấy mình quá bất lực không thay đổi được bất cứ điều gì, và do đó việc con tới đây đã là một sai lầm.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy ngã gốc của con là gì, cốt lõi của nó là gì, phản ứng và niềm tin đằng sau nó là gì. Xin thày giúp con nhận ra là ngã gốc đã cho con một cảm nhận gốc, một ý niệm gốc về trái đất và đời sống trên trái đất.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.3. Giê-su, xin thày giúp con nhận diện cảm giác và niềm tin đó để con thấy quyết định mà con đã lấy khi con gánh chịu chấn thương nhập đời, quyết định đó là: “Tôi không bao giờ muốn kinh nghiệm điều này nữa.”

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy điều mà con không muốn kinh nghiệm nữa. Xin thày giúp con thấy quyết định của con về điều gì con có thể làm và điều gì con muốn làm trên trái đất kể từ lúc đó – nghĩa là con sẽ tiếp cận cuộc sống như thế nào.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.5. Giê-su, xin thày giúp con thấy là chấn thương nhập đời đã cho con một cú sốc lớn đến độ con cảm thấy sứ vụ nguyên thủy của con khi xuống đây không thể hoàn thành được. Con cảm thấy con đã sai lầm khi tới đây vì con không thể đem lại thay đổi, con không thể thay đổi bất cứ điều gì trên trái đất.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con tới đây với ý định trong sáng nhất. Con giả định là nếu con người đang đau khổ, thì họ muốn thoát khỏi đau khổ. Khi con ở dưới này, con trải nghiệm trọn vẹn hiện thực tuyệt đối, không thay đổi được của quyền tự quyết. Con nhận ra là dù con biết cách khắc phục các vấn đề và giới hạn của nhân loại, nhưng con không làm gì được vì con người không hưởng ứng.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con bị cú sốc lớn khi nhận ra có một số sinh thể, các sa nhân, không muốn thay đổi và tìm cách tiêu diệt con.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là điều đó đã khiến con lấy quyết định rằng: “Đáng lẽ tôi không nên tới đây, đó là một sai lầm, tôi chẳng làm được gì ở đây, tôi có mặt ở đây vô ích, tôi không thay đổi được sa nhân, tôi còn không thay đổi được con người vì họ không muốn thay đổi, họ không muốn vượt lên trên đau khổ của họ, họ còn không muốn lắng nghe tôi. Quả thực họ không muốn tôi ở đây.”

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy là trải nghiệm này khiến con có nỗi bất mãn sâu xa. Ngay lúc sự bất mãn của con lên tới cùng cực, thì con lấy một quyết định là từ nay về sau con sẽ tiếp cận cuộc sống ra sao.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 3

3.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con đã lấy quyết định rằng: “Tôi sẽ không can thiệp vào quyền tự quyết của con người.” Hoặc: “Tôi sẽ không bao giờ ép buộc ai. Tôi sẽ không bao giờ lấy quyết định ảnh hưởng tới người khác vì tôi không muốn ép buộc ai cả.” Hoặc: “Tôi sẽ không thách thức sa nhân.”

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con có lấy quyết định chống lại sa nhân; hay quyết định con muốn hiểu sa nhân và tại sao họ phản ứng như thế.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy là các quyết định đó đã tạo ra một cái ngã đã pha màu cách con nhìn mình như thế nào như một sinh thể trên trái đất. Đây là cái ngã cuối cùng mà con có thể buông bỏ, và con có thể buông bỏ nó. Con có thể buông bỏ nó từng phần một.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con có thể tới điểm con cho ngã gốc chết đi và sau đó, con tái sinh trong một ý niệm bản sắc mới dựa trên hiểu biết mà con có lúc này và dựa trên sự việc con đã phần nào tiếp xúc được với Hiện diện TA LÀ của con.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.5. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con có thể được tái sinh trong Ki-tô, tạo ra một cái ngã không phải là ngã vỏ ngoài dựa trên sợ hãi và phản ứng lại trái đất. Đây là cái ta hoà điệu với Hiện diện TA LÀ và là nối dài của Hiện diện TA LÀ của con. Nó đặt căn bản trên thực tại Ki-tô là con là một sinh thể tâm linh, là nhận biết thuần khiết không thể bị ảnh hưởng hay thay đổi bởi bất cứ điều gì trên trái đất.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con có thể vượt lên trên ngã gốc và tái sinh trong ý niệm bản sắc mới qua đó con thấy cuộc sống trên trái đất là điều tích cực. Giờ đây con có cái nhìn tích cực, một mục tiêu tích cực, một cảm nhận tích cực. Con không còn một vấn đề mà con nhất định phải giải quyết bằng được.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con có tạo ra một chuẩn mực cho phép con sống còn. Xin thày giúp con thấy liệu con có tìm ra một cách sống trên trái đất giúp con tránh được những cảnh huống khơi dậy cảm xúc mà con có khi trải qua chấn thương nhập đời của mình.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con có tìm ra một cách ru ngủ ngã gốc vì con đã học cách tạo ra những hoàn cảnh bên ngoài không đánh thức nó dậy. Xin thày giúp con thấy là điều này không giúp con tới gần hơn điểm giải thoát khỏi ngã gốc.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.9. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm sẵn sàng nhìn vào ngã gốc vì con đã khắc phục cảm nhận có điều gì trong con mà con không muốn đối phó vì chuyện này khó quá.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 4

4.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy là nếu con buông bỏ ngã gốc thì con sẽ cảm thấy mình bị chết. Xin thày giúp con thấy cái bị chết là cái “ngã” qua đó con nhìn mình như một sinh thể trên trái đất.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.2. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm con đã phá vỡ phần lớn ngã gốc của mình và đã tạo ra một cái ngã mới. Xin thày giúp con thấy ngã gốc và buông bỏ nó. Xin thày giúp con cho ngã gốc chết đi.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.3. Giê-su, xin thày giúp con dời chuyển trọng tâm bản sắc của con từ ngã gốc sang cái ta mới mà con đã gày dựng bấy lâu nay. Xin thày giúp con bỗng nhiên thoát khỏi cái nhìn tiêu cực về cuộc đời và nhìn cuộc sống qua cái nhìn tích cực. Xin thày giúp con cho cái tiêu cực chết đi.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy là chuyện xảy ra ở đây không phải là cái ta thật của con chết, nhưng có một cái “ta”, một cái ngã đúng thực chết. Cái ngã này sẽ chống trả không muốn chết. Nó sẽ phóng chiếu lên con là con sẽ chết khi nó chết. Xin thày giúp con xét lại quan điểm cái chết là một kẻ thù.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.5. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là cốt lõi bản sắc của con là Hiện diện TA LÀ ở trên cõi tâm linh. Do đó, Hiện diện TA LÀ của con không thể chết, và vì cái Ta Biết là một nối dài của Hiện diện nên nó cũng không thể chết.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.6. Giê-su, xin thày giúp con kết nối với ý niệm nhận biết thuần khiết, ý niệm biết mình hơn cái ta vỏ ngoài, hơn bất cứ điều gì trên trái đất. Xin thày giúp con chuyển đổi nhận thức và nhận ra rằng con không thể chết.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy là cái có thể chết chỉ là ý niệm cái “ta”, ý niệm cái ngã, ý niệm mình là ai. Bởi vì ý niệm bản ngã của con giới hạn nên con không mất mát khi cái ngã đó chết đi. Trái lại, đó là một thắng lợi cho con vì cái nhìn tiêu cực về mình đã chết, và con tái sinh trong cái nhìn tích cực.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là câu nói “kẻ thù cuối cùng mà mình chinh phục là cái chết” có nghĩa là cái chết không phải là kẻ thù của mình. Cái chết là bạn của mình. Cái chết là một dụng cụ giúp cho cái ngã giới hạn chết đi và nhờ vậy mình được tự do.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.9. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm thay vì sợ và kháng cự cái chết của ngã tách biệt, thì con cho phép nó xảy ra. Con đón mừng nó vì con nhận ra con sẽ tự do hơn sau cái chết của ngã tách biệt này. Đây là ý nghĩa đích thực của phục sinh.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 5

5.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy phục sinh không phải là phục sinh thân xác. Nó là một khai ngộ tâm linh, khi ta buông bỏ ngã gốc để được phục sinh tâm linh.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy là trước khi con xuống đầu thai lần đầu tiên trên trái đất, con biết là cần có người đầu thai trên trái đất để làm cánh cửa mở cho uy lực của Thượng đế. Con tình nguyện làm chuyện này, nhưng con cũng có kỳ vọng là khi con làm việc phụng sự Thượng đế thì Thượng đế sẽ can thiệp không để điều gì quá tệ hại xảy ra cho con.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi con bị chấn thương nhập đời, thì con nhận ra chuyện này sẽ không xảy ra. Thượng đế sẽ không dùng phép lạ để giải cứu con khỏi hoàn cảnh rất khó khăn đó. Con phản ứng lại bằng cách tạo ra một ngã gốc giải thích tại sao Thượng đế đã không cứu con trong hoàn cảnh đó.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy toàn bộ thực tế của quyền tự quyết và nhận ra là Thượng đế sẽ không giải cứu con. Sau đó, thay vì tạo ra một cái ngã khác để đối phó với chuyện này, thì con nhận ra đó là một cái ngã không thật. Nó chỉ là một ảo tưởng và con thấy nó từ bên ngoài, và đó là lúc con “buông bỏ hồn ma.”

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.5. Giê-su, con buông bỏ cái ngã cho rằng nó đặc biệt và do đó nó được quyền nhận phép lạ từ Thượng đế vì nó đã phụng sự Thượng đế trên trái đất này. Con buông bỏ nó. Con buông bỏ nó và sau đó con tái sinh theo nghĩa tâm linh.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.6. Giê-su, xin thày giúp con chấp nhận là khi con cho ngã gốc chết đi, thì con phải trải qua kinh nghiệm cảm thấy mình sẽ chết. Con cảm thấy con đang chết, nhưng con sẽ không biến đi.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.7. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm nhận diện ra ngã gốc, con biết nó cần phải chết đi, con biết bây giờ là đúng lúc và sau đó, thay vì chống lại cái chết của ngã gốc, thì con quy thuận. Con hàng phục. Con cảm thấy bình an trong lòng và con nói: “Hãy cho nó chết đi; bất chấp chuyện gì sẽ xảy ra. Xin ý cha được hoàn thành, không phải ý con.”

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.8. Giê-su, xin thày giúp con trải qua tiến trình đó tuy rằng con có thể cảm thấy như mình đang chết. Xin thày giúp con chuyển dời bản sắc của mình tới một cái ta mới, một cái ta được xây dựng trong Ki-tô để trở thành “một sinh thể mới trong Ki-tô.”

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.9. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm con đã phá vỡ hầu hết ngã gốc của mình, con đã tạo dựng một cái ta mới và quả thực để ngã gốc chết đi không phải là một chuyện lớn lao nữa.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 6

6.1. Giê-su, xin thày giúp con đón mừng cái chết, đón mừng cái chết của ngã gốc. Xin thày giúp con đón mừng cái chết như người bạn của mình, ngưng chống lại nó, ngưng hờn trách hay chống cự nó. Xin thày giúp con đón mừng nó, không phải như sự chết mà là sự tái sinh, là một khởi đầu mới.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con không cần giải quyết vấn đề nào và không cần hoàn tất mục tiêu nào. Con chỉ cần ở đây là đã làm điều con tới đây để làm. Sự việc con là cái con là không lệ thuộc vào chọn lựa của người khác. Con không cần thay đổi chọn lựa của người khác để là cái con là.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy là niềm tin cốt lõi của ngã gốc là sự việc con là chính mình, con là cái con là, không tốt đủ hay sai. Hành tinh này không muốn thấy điều đó.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy là trước khi con xuống đây, con chờ đợi là mọi người sẽ đón mừng con. Khi con nhận ra là sa nhân và luôn cả hầu hết con người không đón mừng con, thì con quyết định là con không được phép là cái con là trên hành tinh này. Sự việc con là cái con là vẫn chưa đủ.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.5. Giê-su, xin thày giúp con thấy là sau chấn thương nhập đời, con đã dồn nén không cho phép con là cái con là. Xin thày giúp con giành lại điều này, và không dính mắc tới ảnh hưởng mà con có trên hành tinh vì con không là cái con là để thay đổi bất cứ điều gì trên trái đất. Con là cái con là vì nó đem lại cho con niềm hỷ lạc và mãn nguyện lớn lao nhất.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.6. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra niềm hỷ lạc lớn nhất mà con có thể có trên trái đất là con là cái con là trước mọi điều kiện trên hành tinh này. Con có thể đứng yên và không gì ảnh hưởng được con, giống như Phật ngồi dưới cội bồ đề đối mặt với quỷ dữ của Ma vương đang cám dỗ để thày phản ứng lại chúng.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.7. Giê-su, xin thày giúp con nhìn màn xiếc trên trái đất, nhìn vào quỷ dữ của Ma vương mà không phản ứng. Con vẫn tỏa chiếu ánh sáng của mình, vẫn sinh hoạt trong cuộc sống thường nhật của mình, tương tác với người khác. Con cảm thấy dòng chảy, niềm hỷ lạc, khi con cảm thấy con đang biểu lộ cái con là trong mọi việc con làm. Bỗng nhiên rào cản giữa sinh hoạt tâm linh và không tâm linh trở nên hoàn toàn vô nghĩa vì tất cả trở thành sinh hoạt tâm linh.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.8. Giê-su, xin thày giúp con chú tâm là cái con là, với thái độ là bất cứ chuyện gì xảy ra, con chỉ nói “bất chấp chuyện gì xảy ra.” Con không có ý định gì, con không có ý muốn vỏ ngoài nào. Con cho phép cuộc sống trải bày ra. Đây là ở trong Dòng sông sự Sống. Đây là trôi theo Dòng sông sự Sống.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.9. Giê-su, xin thày giúp con biểu lộ một khía cạnh của quả vị Ki-tô bằng cách tham gia đời sống thường nhật với một thái độ và cách nhìn đời hoàn toàn tích cực.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

19 | Thỉnh cầu liệu pháp tâm linh khắc phục nỗi giận (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả mọi đại diện của Mẹ Thiêng liêng. đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con khắc phục mọi giận dữ và các năng lượng tiêu cực khác trong bốn thể phàm của con. Xin các thày giúp con tái lập dòng chảy năng lượng tự nhiên và vượt qua mọi khuôn nếp đang ngăn trở dòng chảy này, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có tạo ra một lập trình trong thể lý trí được thiết kế để đè nén những cảm xúc mà con dán nhãn là “không muốn có.”

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có một lập trình phản ứng trong thể tình cảm khiến con phản ứng với sự giận dữ trong một số tình huống.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có không dám nhìn nhận điều đang xảy ra, và thay vào đó khởi động lập trình trong thể lý trí, ngay cả đôi khi một lập trình trong thể bản sắc, để đè nén cảm xúc nóng giận.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có làm việc này giỏi đến độ không nhận ra được một cách ý thức là con cảm thấy nóng giận khi nó xảy ra.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có tạo ra một bề ngoài che giấu nỗi giận, nhưng nó vẫn có đó trong hào quang của con, lúc nào cũng chực bùng nổ như một núi lửa.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con không khắc phục được nỗi giận bằng cách đè nén nó. Con không khắc phục được bất cứ điều gì bằng cách đè nén nó.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Gautama, xin thày giúp con nhận ra là có một giai đoạn trên đường tu khi đè nén nỗi giận là điều xây dựng vì nó ngăn cản con không liên tục rơi vào khuôn nếp phản ứng càng ngày càng tạo thêm năng lượng giận dữ.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Gautama, xin thày giúp con thấy là đè nén cơn giận với một lập trình trong thể lý trí là điều cần thiết và xây dựng. Nhưng đối với con, nó không còn xây dựng nữa.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Gautama, xin thày giúp con ra khỏi chỗ bế tắc và giải thoát mình khỏi năng lượng tình cảm mà con đang kéo lê theo con.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Gautama, xin thày giúp con thấy là khi con còn giận dữ, thì con không thể đi vào tâm trạng chấp nhận con ở đây, bình an với chuyện con ở đây, cảm thấy thoải mái là con ở đây.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Gautama, xin thày giúp con thấy là con đã đầu thai trên một hành tinh cực kỳ khó khăn. Nó rất không tự nhiên, nhưng chính vì nó quá sức không tự nhiên, nên điều “tự nhiên” là con cảm thấy một nỗi giận và oán trách nào đó về chuyện con ở đây, chuyện con phải trải nghiệm những gì con đã trải nghiệm.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Gautama, xin thày giúp con khám phá liệu con có còn chất chứa nỗi giận hay oán trách trong thể tình cảm của con.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Gautama, xin thày giúp con thấy điều con coi là biểu hiện xốn xang nhất trên hành tinh này, điều mà con thật sự cảm thấy không được có mặt ở đây.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Gautama, xin thày giúp con nhận ra là vì con có cảm xúc mạnh mẽ về vấn đề này, nên rất có thể con đã trải nghiệm nó trong nhiều kiếp sống và con không thể tránh cảm thấy giận dữ.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Gautama, xin thày giúp con hòa điệu vào cái gì đang ẩn náu trong thể tình cảm của con, điều con chưa thấy ra hay chưa thấy rõ trong đó.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Gautama, xin thày giúp con nhìn nhận là con đã tiến lên một tầng nào đó trên con đường tâm linh. Do đó, con có thể chuyển đổi tâm thức và thấy đây là một phản ứng hoàn toàn tự nhiên. Không có gì sai trái với nó, không có gì không tâm linh về nó.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Gautama, xin thày giúp con nhận ra là con đã tiến lên một tầng cao hơn trên con đường tu. Do đó, con không cần lên án mình vì con đã nổi giận. Con chỉ cần nhận ra con có cảm xúc đó và bây giờ đã tới lúc con vượt lên trên nó.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Gautama, xin thày giúp con tiếp xúc với nỗi giận và sau đó thấy được những gì ẩn náu dưới cái biết bề mặt.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Gautama, xin thày giúp con vượt qua mọi ước muốn che giấu nỗi giận hay ảo tưởng cho rằng nếu con không nhìn vào nó, thì thày cũng không thấy được nó.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Gautama, con chấp nhận là con không có nhu cầu che giấu bất cứ điều gì với các chân sư thăng thiên, và do đó con không có nhu cầu che giấu bất cứ điều gì với chính mình.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Gautama, con biết các chân sư sẽ không lên án con, nên con không cần lên án chính mình. Bây giờ con có thể bước một bước mà hầu hết mọi người sợ không dám làm, đó là con nối kết với nỗi giận, và sau đó thay vì không muốn nhìn nó, thì con nhìn nhận nó có mặt và con đi thẳng vào trong nó.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Gautama, xin thày giúp con bước vào cơn giận và trải nghiệm đứng giữa vũng nước xoáy của cơn giận.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Gautama, xin thày giúp con nối kết một cách ý thức với nhân tính cơ bản của con, là sự liên tục của bản thể con, là phần của bản thể của con vượt lên trên mọi thứ trên trái đất và không thể bị quy định bởi bất cứ điều gì trên trái đất.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Gautama, xin thày giúp con nhận ra là bên trên nỗi giận là nhân tính cơ bản của con. Nó không bị thay đổi bởi nỗi giận và do đó con có thể nhìn vào cơn giận và nhận ra: “Đây không phải là con. Nó còn không phải là nỗi giận của con, nó là phản ứng của tự ngã của con.”

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Gautama, xin thày giúp con thấy phản ứng của con là chuyện tự nhiên, nhưng bây giờ con tiến lên một ý niệm bản sắc cao hơn trong đó con không cần phản ứng như vậy nữa. Con buông bỏ nó.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Gautama, xin thày giúp con thấy là tuy sa nhân đã ép con vào những tình huống vật chất tạo phản ứng tình cảm đi ngược lên tầng bản sắc, nhưng những phản ứng này đã không ảnh hưởng cái Ta Biết của con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Gautama, xin thày giúp con nối kết với nhân tính cơ bản, với nhận biết thuần khiết, với ý niệm bản sắc như cái chấm, và sau đó con giải hóa nỗi giận, khiến sự xâm nhập của sa nhân vào bốn thể phàm của con bị tan biến.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Gautama, xin thày giúp con tái lập dòng chảy tự nhiên qua đó con làm chủ thể bản sắc, con làm chủ thể lý trí, con làm chủ thể tình cảm.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Gautama, xin thày giúp con tới điểm con có thể quyết định một cách ý thức sẽ phản ứng ra sao, bất kể điều gì xảy ra ở tầng vật lý.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Gautama, xin thày giúp con nhìn nhận những cảm xúc con có và xem xét với tâm trung hòa những cảm xúc trong thể tình cảm. Xin thày giúp con khắc phục chúng và bỏ chúng lại đằng sau để con tránh không bị dòng năng lượng chảy ngược.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Gautama, xin thày giúp con tái lập lại dòng chảy năng lượng tự nhiên cho phép con chọn một cách ý thức phản ứng của mình trước bất cứ điều kiện hay hoàn cảnh vật lý nào. 

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Gautama, xin thày giúp con chọn một cách ý thức phản ứng với tình thương, ngay cả trong những hoàn cảnh mà hầu hết mọi người khác phản ứng với sợ hãi.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Gautama, xin thày giúp con hoàn thành mục tiêu cao nhất của con khi con xuống đây, là làm gương và kéo tâm thức tập thể lên.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Gautama, xin thày giúp con tới điểm con biết tại sao con ở đây và con biết con đang hoàn thành lý do vì sao con ở đây.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Gautama, xin thày giúp con bình an với chuyện con ở đây, và giúp con chấp nhận con đang đầu thai trên hành tinh này ở thời điểm này.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Gautama, xin thày giúp con cảm thấy thoải mái với chính mình, giúp con cảm điều Phật cảm, là một cảm nhận vượt lên trên an bình, vượt lên trên sự tốt lành, vượt lên trên tình thương, vượt lên trên ngôn từ.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

17 | Thỉnh cầu an bình với việc con có mặt trên trái đất (5 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả mọi đại diện của Mẹ Thiêng liêng. đặc biệt là Sanat Kumara, hãy giúp con khắc phục mọi thái độ tiêu cực liên quan đến việc con có mặt trên trái đất. Xin các thày giúp con khắc phục mọi trở ngại ngăn cản con chấp nhận mình có mặt ở đây, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Sanat Kumara, con đang kết nối lại với nhân tính cơ bản có trong con và trong tất cả mọi người. Con nhìn mọi người như anh chị em tâm linh của con. Con không còn nhìn họ như người “khác”.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Con nhập đoàn hợp xướng của tình thương, 
Mở tâm ra, hát bài ca tán thưởng, 
Và cùng nhau nâng hành tinh gia tốc. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

1.2. Sanat Kumara, con nhận ra là đã tới lúc con phải tiến lên cao hơn. Đã tới lúc con ý thức nhận ra tại sao con ở trên hành tinh này. Con ở đây để làm một điểm neo và để cống hiến một khung tham chiếu tích cực cho những cư dân khác của hành tinh.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Được khai ngộ – điều con muốn trước tiên, 
Shamballa – nhà con ở cõi thiên,
Cho thày, con chỉ xin làm cực điện.

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

1.3. Sanat Kumara, việc con từ đâu đến và tâm thức con cao tới đâu trước khi con tới trái đất, không phải là điều quan trọng. Một khi con mang vào những ảo tưởng khi xuống đây, thì con sẽ nhìn đời trên trái đất qua phin lọc của các ảo tưởng đó.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Thày vạch đường cho con cứ theo chân, 
Khai mở con bằng tình yêu vô tận, 
Làm cửa mở cho Bồ câu Thánh thần. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

1.4. Sanat Kumara, con ở trong cùng tình trạng như các cư dân khác trên trái đất. Con không cao hơn họ vì con phải đối mặt cùng những khai ngộ.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Gương của thày, cả một nguồn linh hứng. 
Không dính mắc, con ngập nỗi vui mừng  
Đóng góp cho địa cầu lại được sống. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

1.5. Sanat Kumara, con sẽ không cho phép mình có ý niệm là con khác, con không thực sự thuộc về nơi đây, hành tinh này ban sơ hay con không thể giao tiếp được với những người trên hành tinh. Con sẽ không cho phép mình cảm thấy xa cách hay cao hơn những người khác trên trái đất.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Là bộ máy để địa cầu thanh lọc, 
Mọi tà thể tiêu hết khỏi hành tinh,
Từ bên trong hiển lộ Đốm Tánh linh. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

1.6. Sanat Kumara, con nhận ra là con đã bị cú sốc lớn bởi chuyện xảy ra cho con khi con xuống đây nên con đánh mất nhân tính cơ bản trong con. Con cũng không thấy được nhân tính cơ bản này nơi những người trên trái đất và nơi các sa nhân.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Là bộ máy vũ trụ đang khuếch lớn, 
Đoàn người đến từ Kim tinh rung động,
Khiến tà lực không thể nào cưỡng chống. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

1.7. Sanat Kumara, con nâng mình một cách có ý thức lên khỏi mọi trạng thái tâm tiêu cực, khuynh hướng chê bai trái đất, mọi ý niệm vũ trụ vật chất chống lại sự tăng triển tâm linh của con, mọi ý niệm con người trên hành tinh này ban sơ, các xã hội ở đây ban sơ.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc đỏ, 
Con là máy khuếch trương của thày đó,
Con khôi phục tình yêu không gò bó, 
Luân xa này là cửa mở thật to. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

1.8. Sanat Kumara, con nâng mình lên khỏi khuynh hướng chỉ trích chọn lọc trong đó con nhìn một số nhóm người đặc thù như rất tiêu cực, lạc hậu, không tăng triển, hay không xứng đáng để con kính trọng, thương yêu hay quan tâm.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Là cái loa cho điệp khúc Kim tinh,
Khi tình yêu vang dội khắp cùng chốn,
Thâm nhập cả những tâm hồn vô minh. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

1.9. Sanat Kumara, con nâng mình lên khỏi ảo tưởng cho rằng, vì điều kiện thấp trên trái đất và đặc biệt là điều kiện thấp của một số nhóm người, cần dùng những biện pháp quyết liệt để nâng trái đất lên.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc đỏ, 
Nhờ thày đến, chúng sinh được thánh hóa, 
Nguyên hành tinh biến thành miền cao cả,
Do hồng ân toàn vũ mà thăng hoa. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

Phần 2

2.1. Sanat Kumara, con nâng mình lên khỏi mọi khuynh hướng bị thu hút và say mê một ý tưởng, một lý tưởng. Con bác bỏ ảo tưởng cho rằng để đẩy mạnh một lý tưởng, việc giết hay ép buộc một số người là chuyện chính đáng.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Con nhập đoàn hợp xướng của tình thương, 
Mở tâm ra, hát bài ca tán thưởng, 
Và cùng nhau nâng hành tinh gia tốc. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

2.2. Sanat Kumara, con sẵn sàng ngưng không coi cá nhân mình là trung tâm của cuộc đời và con đường tu của mình, để tìm ra nhân tính cơ bản trong con.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Được khai ngộ – điều con muốn trước tiên, 
Shamballa – nhà con ở cõi thiên,
Cho thày, con chỉ xin làm cực điện.

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

2.3. Sanat Kumara, con sẽ không tiếp tục chú tâm vào việc nâng cao chính mình. Con sẽ xoay chuyển và bắt đầu chú tâm vào việc nâng cao tổng thể.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Thày vạch đường cho con cứ theo chân, 
Khai mở con bằng tình yêu vô tận, 
Làm cửa mở cho Bồ câu Thánh thần. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

2.4. Sanat Kumara, con nhận ra tâm thức Ki-tô trong chính con. Con hiểu tâm thức Ki-tô là sợi dây nối kết mọi sự sống.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Gương của thày, cả một nguồn linh hứng. 
Không dính mắc, con ngập nỗi vui mừng  
Đóng góp cho địa cầu lại được sống. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

2.5. Sanat Kumara, con không ở đây để nâng cao tâm thức mình lên một tầng cao hơn rất nhiều các cư dân khác trên trái đất để con có thể cảm thấy mình hơn họ. Con ở đây để nâng cao tâm thức của tổng thể.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Là bộ máy để địa cầu thanh lọc, 
Mọi tà thể tiêu hết khỏi hành tinh,
Từ bên trong hiển lộ Đốm Tánh linh. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

2.6. Sanat Kumara, con nâng mình lên khỏi ảo tưởng cho rằng, vì con đã tiến tới một tầng nào đó của con đường tâm linh và vì con đến từ một thế giới tốt đẹp hơn, nên con hơn những cư dân khác trên trái đất.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Là bộ máy vũ trụ đang khuếch lớn, 
Đoàn người đến từ Kim tinh rung động,
Khiến tà lực không thể nào cưỡng chống. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

2.7. Sanat Kumara, con khám phá yếu tố của tâm thức Ki-tô kết nối con với mọi sự sống, kể cả những cư dân trên trái đất, bất kể họ đang ở tầng tâm thức nào.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc đỏ, 
Con là máy khuếch trương của thày đó,
Con khôi phục tình yêu không gò bó, 
Luân xa này là cửa mở thật to. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

2.8. Sanat Kumara, con nâng mình lên khỏi mọi ý tưởng hơn người bằng cách neo mình vào yếu tố của tâm thức Ki-tô hoàn toàn vượt lên trên ý niệm thứ bậc do con người tạo lập trên trái đất.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Là cái loa cho điệp khúc Kim tinh,
Khi tình yêu vang dội khắp cùng chốn,
Thâm nhập cả những tâm hồn vô minh. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

2.9. Sanat Kumara, con nâng mình lên khỏi ảo tưởng cho rằng có một thứ bậc thế gian trong đó một số người được xem là thuộc một giai cấp tách biệt vì họ trong bản chất giỏi hơn, cao cấp hơn người khác.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc đỏ, 
Nhờ thày đến, chúng sinh được thánh hóa, 
Nguyên hành tinh biến thành miền cao cả,
Do hồng ân toàn vũ mà thăng hoa. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

Phần 3

3.1. Sanat Kumara, con có sự phân biện, chỉ có thể làm được với tâm Ki-tô, là sự kiện con ở một tầng cao hơn trên con đường tu và ở một tầng tâm thức cao hơn, không khiến con hơn những người ở các tầng thấp hơn.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Con nhập đoàn hợp xướng của tình thương, 
Mở tâm ra, hát bài ca tán thưởng, 
Và cùng nhau nâng hành tinh gia tốc. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

3.2. Sanat Kumara, con thấy là khi con càng lên cao về hướng tầng 144 của tâm thức, thì con càng ít cảm thấy mình hơn người, con càng cảm thấy mình là một với mọi sự sống và con càng muốn nâng cao mọi sự sống.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Được khai ngộ – điều con muốn trước tiên, 
Shamballa – nhà con ở cõi thiên,
Cho thày, con chỉ xin làm cực điện.

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

3.3. Sanat Kumara, con nâng mình lên khỏi nhu cầu muốn đạt một địa vị trong thứ bậc thế gian khiến cho người khác hay chính con nghĩ là con hơn người. Con nâng mình lên khỏi nhu cầu muốn đi trên con đường tâm linh để được các chân sư thăng thiên công nhận.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Thày vạch đường cho con cứ theo chân, 
Khai mở con bằng tình yêu vô tận, 
Làm cửa mở cho Bồ câu Thánh thần. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

3.4. Sanat Kumara, con nâng mình lên khỏi nhu cầu muốn ở địa vị cao nhất trong thứ bậc, là nơi con không thể nào bị người ở cấp thấp hơn chất vấn hay phản bác.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Gương của thày, cả một nguồn linh hứng. 
Không dính mắc, con ngập nỗi vui mừng  
Đóng góp cho địa cầu lại được sống. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

3.5. Sanat Kumara, con nhận ra là các chân sư thăng thiên không muốn thiết lập loại thứ bậc này trên trái đất.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Là bộ máy để địa cầu thanh lọc, 
Mọi tà thể tiêu hết khỏi hành tinh,
Từ bên trong hiển lộ Đốm Tánh linh. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

3.6. Sanat Kumara, con đáp ứng thách đố của thời Song ngư và khắc phục mọi ý niệm mình cao hơn người khác, mọi ý niệm về cấp bậc. Con khám phá ra nhân tính cơ bản gắn bó con với tất cả mọi người.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Là bộ máy vũ trụ đang khuếch lớn, 
Đoàn người đến từ Kim tinh rung động,
Khiến tà lực không thể nào cưỡng chống. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

3.7. Sanat Kumara, con thức tỉnh và vượt qua sự khai ngộ đó, vượt qua khuynh hướng tự tôn xen lẫn tự ti. Con không đi theo con đường tâm linh để nâng cao mình lên, để khiến mình cảm thấy hơn người khác.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc đỏ, 
Con là máy khuếch trương của thày đó,
Con khôi phục tình yêu không gò bó, 
Luân xa này là cửa mở thật to. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

3.8. Sanat Kumara, con nâng mình lên khỏi cảm nhận mình thuộc thiểu số người đang cứu nguy hành tinh và đang làm một việc quan trọng cho các chân sư thăng thiên. Con nhận ra rằng đã đến lúc con vượt lên trên tầng tâm thức đó và hoàn toàn nhìn nhận đó không phải là lý do tại sao con ở đây.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Là cái loa cho điệp khúc Kim tinh,
Khi tình yêu vang dội khắp cùng chốn,
Thâm nhập cả những tâm hồn vô minh. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

3.9. Sanat Kumara, con nâng mình lên khỏi mọi thái độ chỉ trích hành tinh này và các người sống ở đây, và mọi mong muốn thoát ra khỏi nơi đây.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc đỏ, 
Nhờ thày đến, chúng sinh được thánh hóa, 
Nguyên hành tinh biến thành miền cao cả,
Do hồng ân toàn vũ mà thăng hoa. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

Phần 4

4.1. Sanat Kumara, con nhận ra là con tới trái đất để đem lại sự thay đổi tích cực, nhưng con không thể đem lại thay đổi tích cực khi con ở trong một trạng thái tâm tiêu cực. Con không thể đem lại thay đổi tích cực trên trái đất nếu con có một thái độ tiêu cực đối với hành tinh này và những người sống trên đó.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Con nhập đoàn hợp xướng của tình thương, 
Mở tâm ra, hát bài ca tán thưởng, 
Và cùng nhau nâng hành tinh gia tốc. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

4.2. Sanat Kumara, con nhận ra là đã tới lúc con vượt lên trên toàn bộ tâm thức đó và tới điểm động cơ cá nhân thúc đẩy con đi trên con đường tâm linh không có những yếu tố tiêu cực trong đó, những yếu tố muốn nâng mình lên trên người khác hay những yếu tố muốn thoát khỏi nơi đây.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Được khai ngộ – điều con muốn trước tiên, 
Shamballa – nhà con ở cõi thiên,
Cho thày, con chỉ xin làm cực điện.

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

4.3. Sanat Kumara, con nhận ra là chỉ khi nào con hoàn toàn bình an với sự kiện con ở trên hành tinh này, khi nào con hoàn toàn chấp nhận con đang ở trên hành tinh này và khi nào con cảm thấy thoải mái là con đang ở trên hành tinh này, thì con mới ra khỏi hành tinh này được.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Thày vạch đường cho con cứ theo chân, 
Khai mở con bằng tình yêu vô tận, 
Làm cửa mở cho Bồ câu Thánh thần. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

4.4. Sanat Kumara, con nâng mình lên khỏi ý niệm con không phải theo những luật lệ hiện hành trên trái đất. Con buông bỏ mong muốn trốn tránh đối mặt hậu quả của những chọn lựa của mình, không phải chịu trách nhiệm những phản ứng của mình.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Gương của thày, cả một nguồn linh hứng. 
Không dính mắc, con ngập nỗi vui mừng  
Đóng góp cho địa cầu lại được sống. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

4.5. Sanat Kumara, con nâng mình lên khỏi giấc mộng là con có thể tìm ra một ngõ tắt, một công thức thần thông khiến con bỗng nhiên có thể thoát khỏi việc phải đi trên con đường tu giống như mọi người.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Là bộ máy để địa cầu thanh lọc, 
Mọi tà thể tiêu hết khỏi hành tinh,
Từ bên trong hiển lộ Đốm Tánh linh. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

4.6. Sanat Kumara, con buông bỏ ý muốn nâng mình lên trên sự khốn khổ, xung đột, đấu tranh, đau khổ trên hành tinh này bằng cách khiến mình trở thành bất bại.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Là bộ máy vũ trụ đang khuếch lớn, 
Đoàn người đến từ Kim tinh rung động,
Khiến tà lực không thể nào cưỡng chống. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

4.7. Sanat Kumara, con nâng mình lên khỏi ảo tưởng là con nên dùng sự thành đạt tâm linh và uy lực của mình để đặt mình vào vị thế bất bại. Con buông bỏ ý muốn dùng con đường tu của các chân sư thăng thiên để đặt mình vào vị thế bất bại.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc đỏ, 
Con là máy khuếch trương của thày đó,
Con khôi phục tình yêu không gò bó, 
Luân xa này là cửa mở thật to. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

4.8. Sanat Kumara, con sẵn sàng thấy một cách có ý thức ảo tưởng muốn mình bất bại hay hơn người. Con nâng mình lên khỏi nhu cầu đi từ đối cực hoàn toàn hơn người sang đối cực hoàn toàn thấp kém.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Là cái loa cho điệp khúc Kim tinh,
Khi tình yêu vang dội khắp cùng chốn,
Thâm nhập cả những tâm hồn vô minh. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

4.9. Sanat Kumara, con chấp nhận thách đố của thày muốn con bước lên một tầng cao hơn và nhận ra là không có sự an toàn tối hậu khi con bất khả xâm phạm trên trái đất, cũng như không có sự nhục nhã tối hậu khi con hoàn toàn không có khả năng bảo vệ mình.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc đỏ, 
Nhờ thày đến, chúng sinh được thánh hóa, 
Nguyên hành tinh biến thành miền cao cả,
Do hồng ân toàn vũ mà thăng hoa. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

Phần 5

5.1. Sanat Kumara, con nhận ra là khi so sánh với sự liên tục của bản thể của con, với nhân tính cơ bản hay với tâm Ki-tô trong bản thể của con, thì tất cả những điều kiện bên ngoài kia chẳng có gì quan trọng.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Con nhập đoàn hợp xướng của tình thương, 
Mở tâm ra, hát bài ca tán thưởng, 
Và cùng nhau nâng hành tinh gia tốc. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

5.2. Sanat Kumara, con thấy là nếu các điều kiện bên ngoài không quan trọng, thì con không cần tiếp tục đi trên đường tu của các chân sư thăng thiên với động cơ muốn cảm thấy mình cao hơn, giỏi hơn, có một cấp bậc hay nhiệm vụ quan trọng nào đó.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Được khai ngộ – điều con muốn trước tiên, 
Shamballa – nhà con ở cõi thiên,
Cho thày, con chỉ xin làm cực điện.

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

5.3. Sanat Kumara, con đi trên đường tu với động cơ tình thương, tình thương đã chính là động cơ khiến con tới đây. Con nối kết lại với động cơ nguyên thủy đưa con tới đây, và con tìm ra một động cơ hoàn toàn mới để đi trên con đường tu.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Thày vạch đường cho con cứ theo chân, 
Khai mở con bằng tình yêu vô tận, 
Làm cửa mở cho Bồ câu Thánh thần. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

5.4. Sanat Kumara, con nâng mình lên khỏi mọi ghiền nghiện cứ mãi đi tìm trải nghiệm tột đỉnh cao hơn và cao hơn. Con tìm ra con đường trung đạo thật, con vượt lên trên các cặp, các đối cực và do đó càng ngày con càng có bớt những tương phản trên đường tu.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Gương của thày, cả một nguồn linh hứng. 
Không dính mắc, con ngập nỗi vui mừng  
Đóng góp cho địa cầu lại được sống. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

5.5. Sanat Kumara, con đang phát triển đức tính kiên nhẫn vô biên và vô điều kiện. Con không tìm cách đặt ra mục tiêu cho chính con, hay đặt ra mục tiêu muốn thấy một số chuyện xảy ra ở cấp hành tinh.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Là bộ máy để địa cầu thanh lọc, 
Mọi tà thể tiêu hết khỏi hành tinh,
Từ bên trong hiển lộ Đốm Tánh linh. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

5.6. Sanat Kumara, con nhận ra rằng con ở đây để tiếp tục nâng cao tâm thức mình, để làm điều mà trực giác bên trong bảo con làm. Con không dính mắc vào kết quả vật lý. Con vui mừng khi thấy chúng nhưng con không bất toại nguyện hay hoài nghi nếu không thấy chúng.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Là bộ máy vũ trụ đang khuếch lớn, 
Đoàn người đến từ Kim tinh rung động,
Khiến tà lực không thể nào cưỡng chống. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

5.7. Sanat Kumara, con nhận ra là con phải hành động trong khuôn khổ luật tự quyết, như các chân sư thăng thiên vẫn làm. Con làm việc với con người để giúp họ tới được điểm họ có thể chọn lựa một cách ý thức, tự do là họ muốn lên cao hơn.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc đỏ, 
Con là máy khuếch trương của thày đó,
Con khôi phục tình yêu không gò bó, 
Luân xa này là cửa mở thật to. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

5.8. Sanat Kumara, con nâng mình lên khỏi trạng thái tâm tiêu cực, chỉ trích, và con tìm thấy sự bình an khi sống trên hành tinh này. Con chấp nhận đang ở trên hành tinh này. Con chấp nhận hành tinh này như nó là: một trường học cho những dòng sống ở đây.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Là cái loa cho điệp khúc Kim tinh,
Khi tình yêu vang dội khắp cùng chốn,
Thâm nhập cả những tâm hồn vô minh. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

5.9. Sanat Kumara, con tôn trọng luật tự quyết và cách nó vận hành. Con bình an với việc con đang ở đây. Con cho phép mình cảm thấy thoải mái về chuyện con là một con người đang đầu thai ở đây, không vượt lên trên các luật lệ của hành tinh này, nhưng là một với mọi người. Con đồng hóa mình với họ ở mức tâm Ki-tô, con thấy nhân tính cơ bản của họ và con luôn luôn tìm cách nâng nó lên cao hơn.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc đỏ, 
Nhờ thày đến, chúng sinh được thánh hóa, 
Nguyên hành tinh biến thành miền cao cả,
Do hồng ân toàn vũ mà thăng hoa. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

Thỉnh cầu viễn kiến về lối hành xử của con (5 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả mọi đại diện của Mẹ Thiêng liêng. đặc biệt là Giê-su, hãy giúp con thấy là con liên hệ với chính mình, các chân sư thăng thiên và vũ trụ vật chất như thế nào. Xin các thày giúp con thấy những chờ mong vi tế đang kiềm chế sự tăng triển tâm linh của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con liên hệ ra sao với vũ trụ vật chất. Xin thày giúp con thấy lối hành xử của con khi con liên hệ với cõi vật chất. Xin thày giúp con thấy con chờ đợi những gì, con nghĩ chuyện gì có thể xảy ra và không thể xảy ra, con nghĩ chuyện gì phải xảy ra và không được xảy ra?

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy lối hành xử tâm linh của con, xin thày giúp con thấy là khi con gặp một số hoàn cảnh trong thế giới vật lý, thì dường như con bị kích hoạt để đi vào lối hành xử đó, khuôn nếp phản ứng đó.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con mặc nhiên đi vào một phản ứng xúc cảm đặc trưng cho rằng chuyện này không được xảy ra, chuyện này quả thật không đúng.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy là dù sự chờ đợi này có thể rất phải chăng nhưng thực tế là nó thật sự giới hạn mối liên hệ của con với cõi mẹ.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.5. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con lấy một số điều kiện trong xã hội, các điều kiện này có thể do con người tạo ra hay do sa nhân gây nên, và con phóng chiếu một chờ đợi dựa trên những điều kiện đó.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con phóng chiếu lên cõi mẹ là cõi mẹ là như vậy, và kết quả này lúc nào cũng xảy ra. Xin thày giúp con thấy là sự phóng chiếu này ngăn trở con chấp nhận là một cái gì cao hơn có thể xảy ra.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con trở nên một tiên đoán tự trở thành hiện thực. Điều con chờ đợi nơi cõi mẹ là điều con gửi tới tấm gương hoàn vũ, và tấm gương chỉ có thể phản ánh lại con điều con gửi tới nó.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.8. Con thấy là nếu con muốn tránh những hoàn cảnh như vậy, thì con phải xem xét lối hành xử của mình. Con sẵn sàng khám phá xem con chờ đợi chuyện gì phải xảy ra và chuyện gì không được xảy ra, và con sẵn sàng tự hỏi con có muốn mang theo những chờ mong này với con hay không, khi con biết rằng chúng sẽ trở nên những tiên đoán tự trở thành hiện thực.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.9. Con sẵn sàng xem xét là con đang sống trong một vũ trụ thân thiện hay một vũ trụ thù địch. Con đang sống trong một vũ trụ đang tìm cách hại con hay con đang sống trong một vũ trụ trong đó có một lực đang hết lòng hỗ trợ con, hỗ trợ sự tăng trưởng của con, hỗ trợ hạnh phúc của con, và giúp con cảm thấy thoải mái với chính mình?

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 2

2.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy là dù hành tinh này có tăm tối đến đâu thì cõi mẹ vẫn sẵn sàng hỗ trợ con và hỗ trợ sự tăng triển của con. Cõi mẹ chỉ có thể phản ánh lại con những gì con phóng chiếu ra ngoài. Nếu con muốn nhận được phản hồi khác, thì con phải thay đổi điều con phóng chiếu ra. Không có cách nào khác.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy lối hành xử của con khi con liên hệ với các chân sư thăng thiên. Xin thày giúp con thấy điều gì đã thúc đẩy con tìm hiểu giáo lý chân sư thăng thiên, và động lực này nói gì về cách con nhìn tiềm năng của việc liên hệ với các thày hay không liên hệ với các thày.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu quan niệm của con về các thày có dựa trên cách một số tôn giáo mô tả Thượng đế chăng. Xin thày giúp con giải thoát tâm mình khỏi điều đó bằng cách khám phá những chờ đợi, phàm linh nội tại, mà con chưa nhận ra và loại bỏ.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con có sẵn sàng đón nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên, nhưng con không muốn các thày tới gần con quá chăng? Xin thày giúp con thấy liệu con có nói trong tiềm thức: “Con muốn giữ một khoảng cách vì con không muốn thày thấy con như con đang là ngay bây giờ.”

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.5. Giê-su, con sẵn sàng tiến lên cao hơn và nhìn vào lối hành xử của con đối với các chân sư thăng thiên, cách con liên hệ với các thày, điều con chờ đợi và không chờ đợi, điều con chờ đợi sẽ xảy ra và không xảy ra.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con đã có một hiểu biết cao hơn về con đường tâm linh, và bây giờ thì cách con nhìn các chân sư thăng thiên lúc ban đầu là một gánh nặng mà con đang kéo lê theo mình.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy điều đó và loại bỏ nó, và khắc phục sự chia rẽ trong bản thể của con, khi có điều gì kéo con về phía các thày và điều gì khác kéo con ra khỏi các thày. Con sẵn sàng tiến lên một bước nữa và liên hệ với các thày một cách mật thiết hơn.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.8. Con nói: “Con muốn nhiều hơn nữa. Con muốn liên hệ mật thiết hơn với các thày. Con muốn tương tác trực tiếp với các thày. Giê-su, thày có thể thỉnh thoảng nhìn con và nói cho con một số điều về chính con.”

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.9. Giê-su, xin thày giúp con tách mình ra khỏi cái ngã đang nghĩ là để liên hệ được với một vị thày cao xa như vậy thì con phải tới được một trình độ toàn hảo nào đó. Vì con chưa đạt tới trình độ đó, nên cái ngã đó muốn trốn tránh các thày. Xin thày giúp con tách mình ra khỏi cái ngã đang cảm thấy nhục nhã, tội lỗi, hay hổ thẹn khi thày thấy các bất toàn của con.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 3

3.1. Giê-su, xin thày giúp con xoay chuyển tâm thức và nhận ra là con không bị đau đớn khi các thày nhìn vào con và chỉ cho con thấy vài điều. Các thày luôn luôn chỉ làm vậy với mục đích giúp con tăng triển và được tự do hơn. Nếu con tự do hơn thì con cảm thấy thoải mái hơn với chính mình.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy lối hành xử của mình và thấy liệu con vẫn còn mong muốn giữ khoảng cách với các chân sư chăng. Con có thể nói với cái ngã đó: “Tôi không cần bạn nữa. Tại sao bạn vẫn còn lẩn quẩn ở đây. Tránh xa ra!”

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.3. Hình ảnh mà sa nhân đã phóng chiếu lên tâm thức tập thể từ mấy ngàn năm nay là Thượng đế là một Thượng đế thù địch. Do đó, bất cứ ai trên cõi tâm linh và là đại diện Thượng đế chắc chắn phải là một sinh thể thù địch.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.4. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra hình ảnh này trong chính mình, tách mình ra khỏi nó, đứng lui lại và buông bỏ nó. Xin thày giúp con cảm thấy tức khắc nhẹ nhàng hơn và nhận ra là các thày không phải là thù địch. Các thày không chực bắt lỗi con. Các thày không chực phơi bày con. Các thày không chực hạ nhục con.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.5. Giê-su, xin thày giúp con bước lui lại và thấy cảm xúc và phàm linh nội tại đang quy định lối hành xử của con, cách con liên hệ với các chân sư thăng thiên, cách con nhìn các chân sư, cách con nghĩ con có thể liên hệ với các thày. Xin thày giúp con thấy đây là phàm linh, chứ không phải con, đang cảm thấy như vậy. Xin thày giúp con đuổi phàm linh đi và chuyển đổi tâm mình.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.6. Con nói: “Tại sao tôi lại phải cảm thấy hổ thẹn nếu một chân sư thăng thiên phơi bày một bất toàn trong tâm lý của tôi? Đây là phàm linh cảm thấy như vậy, vậy tại sao tôi lại tiếp tục nhìn vị chân sư và hy vọng là vị ấy sẽ không tới và khiến tôi hổ thẹn? Tôi không cần cảm thấy hổ thẹn về việc này, hay nhục nhã, hay sợ hãi. Tại sao tôi lại cần cảm thấy như vậy?”

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy con có chờ đợi được điều gì khi con trở thành một đệ tử chân sư thăng thiên. Xin thày giúp con thấy những chờ đợi được vinh danh, công nhận hay tuyên dương bởi các chân sư thăng thiên.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là điều con vừa sợ một người vừa muốn được người đó vinh danh là điều không hợp lý. Xác suất người đó vinh danh con so với xác suất người đó làm chuyện con sợ nhất và chê bai con như thế nào?

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.9. Giê-su, xin thày giúp con vượt lên trên mối liên hệ rất giả tạo với các thày đã khiến các thày không thể tới được con vì các thày không thể lại gần con một cách trực tiếp. Con muốn nhận được trải nghiệm trực tiếp và hướng dẫn nội tâm từ thày.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 4

4.1. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm con vừa không sợ giáp mặt trực tiếp một chân sư thăng thiên, vừa không hy vọng được giáp mặt trực tiếp để được thêm hãnh diện và để tự ngã cảm thấy đặc biệt.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.2. Giê-su, xin thày giúp con liên hệ với các thày mà không có chờ đợi dựa trên sợ hãi hay dựa trên hãnh diện, để con có thể trung hòa, cởi mở và không có chờ đợi nào chắn lối phía con hay phía thày.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.3. Giê-su, xin thày giúp con giảm thiểu khoảng cách giữa con và các thày, khoảng cách trong tâm con, khoảng cách mà con phóng chiếu là có giữa con và các thày.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.4. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là các thày vượt quá không gian và thời gian, do đó thày lúc nào cũng ở bên con nếu con đặt chú tâm vào thày. Vấn đề không phải là con cần vượt qua một khoảng cách vật lý. Vấn đề chỉ giản dị là con loại bỏ tất cả những hình ảnh và chờ đợi trong tâm mình.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.5. Giê-su, xin thày giúp con khắc phục phàm linh nội tại đang mơ ước thấy một diễn biến kỳ diệu xảy ra trong đời con, đang mơ ước có một cuộc gặp gỡ kỳ diệu với các thày sẽ bỗng nhiên thay đổi mọi chuyện và khiến người khác nhìn con là người đặc biệt.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.6. Giê-su, xin thày giúp con khắc phục mọi phàm linh nội tại đang mơ ước có một diễn biến kỳ diệu qua đó các thày xuất hiện trên trời hay con nhận được Thánh linh và có quyền năng siêu nhiên.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.7. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là con đã trải nghiệm là mình có Thánh linh khi con nói chuyện với người khác về một đề tài mà con thật sự coi là quan trọng, một đề tài gần kề với tim mình.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.8. Giê-su, xin thày giúp con ở trong trạng thái tâm trung hòa, không tìm cách thuyết phục hay cải đạo người khác một cách hung hãn, và cũng không mong muốn được công nhận. Con nói từ một tầng cao của bản thể của mình, và đó là một biểu hiện của Thánh linh.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.9. Giê-su, xin thày giúp con là cánh cửa mở để diễn đạt ý tưởng một cách khiến người nghe có thể hiểu các khái niệm và ý tưởng. Xin thày giúp con đi vào trạng thái tâm trung hòa và có khả năng nói chuyện với nhiều người có quá trình khác nhau.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 5

5.1. Giê-su, xin thày giúp con bước lui và khám phá vị chân sư thăng thiên gần con nhất. Xin thày giúp con tìm ra một cách mới để liên hệ với vị chân sư đó, để con giảm thiểu khoảng cách, lại gần hơn, có một trải nghiệm trực tiếp hơn.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.2. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là con đã sẵn sàng có một trải nghiệm trực tiếp với một vị chân sư thăng thiên. Con nhận ra là vì các thày có thể nói chuyện xuyên qua một sứ giả, thì các thày cũng có thể tương tác trực tiếp với con, trong tâm và trái tim của con.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy những gì con chờ đợi sẽ xảy ra khi một chân sư thăng thiên tới gần con hơn. Xin thày giúp con thấy là có một phần tự ngã của con đang sợ sẽ có những điều mà con phải thay đổi và từ bỏ.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.4. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là có một phàm linh đang phóng chiếu là khi con tiến cao hơn trên con đường tâm linh thì con phải từ bỏ một cái gì đó, và có một phàm linh đang chống đối điều đó. Xin thày giúp con nhận ra là chúng chỉ là phàm linh, chúng không phải là con. Giê-su, xin thày giúp con thăng vượt cả hai phàm linh đó và nhận ra rằng con chỉ cần giản dị xoay chuyển tâm để có thể vẫn vui hưởng cuộc đời vừa theo đuổi con đường tâm linh.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.5. Giê-su, xin thày giúp con thấy là nếu con không hoàn toàn chấp nhận con đang ở trong thân thể vật lý, nếu con không vui hưởng những sinh hoạt mà con có thể có với thân thể vật lý, thì con không thể bỏ trái đất lại đàng sau, con thực sự không thể thăng thiên.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con đang nghĩ con đang sống trong một thân thể thân thiện hay thù nghịch. Xin thày giúp con thấy phàm linh đang nghĩ rằng thân thể vật lý là thù nghịch của sự tăng triển tâm linh của con.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.7. Giê-su, xin thày giúp con chấp nhận là con đang sống trong một thân thể thân thiện có khả năng và mong muốn hỗ trợ sự tăng triển tâm linh của con. Xin thày giúp con hoặc chữa lành bệnh tật hoặc làm hòa với chúng để chúng không cản trở sự tăng triển tâm linh của con.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.8. Giê-su, con muốn được tự do và con chấp nhận là thày cho phép con được tự do khỏi mọi ý kiến nhân gian. Con muốn được giải thoát khỏi máy chạy bộ cứ lôi cuốn con đi, vì có một phàm linh nội tại cảm thấy là ý kiến của nó luôn luôn bị đe dọa, và con cần phải đề phòng các mối đe dọa và tìm cách phản bác chúng.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.9. Giê-su, xin thày giúp con từ bỏ những ý kiến đang thực sự không khiến con thoải mái với chính mình và với thế gian. Chúng không giúp con cảm thấy con đang sống trong một vũ trụ thân thiện, chúng không giúp con cảm thấy con đang tương tác với các chân sư thân thiện, chúng không giúp con cảm thấy con đang sống trong một thân thể thân thiện.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

Thỉnh cầu tự do lấy quyết định (9 đoạn)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả mọi đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Mẹ Mary, hãy giúp con khắc phục những chấn thương liên quan đến việc lấy quyết định. Xin các thày giúp con thấy và khắc phục tất cả những vòng xoáy kéo con lấy quyết định trốn tránh, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Mẹ Mary, con nhận ra rằng mục đích căn bản của sa nhân là khiến con lấy những quyết định mà sa nhân có thể dùng để chi phối con.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.2. Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra liệu sa nhân có khiến con lấy một quyết định làm con đau đớn, và sau đó con rơi vào một vòng xoáy vô tận trong đó hoặc con tìm cách che giấu nỗi đau của quyết định đầu, tìm cách biện minh cho nó, tìm cách giải thích tại sao hoặc con tìm cách tránh không lấy quyết định nữa.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.3. Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra liệu sa nhân có dàn xếp để con rơi vào những hoàn cảnh khiến con phải lấy quyết định. Vì muốn tránh không lấy những quyết định đã khiến con đau đớn,  con lấy những “quyết định né tránh” với mục đích né tránh những quyết định đã khiến con đau đớn.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.4. Mẹ Mary, con nhất quyết đi ra khỏi cái màng nhện lấy những quyết định né tránh. Như vậy là quá đủ rồi và đã tới lúc con tiến lên cao hơn trên con đường tâm linh.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.5. Mẹ Mary, con sẵn sàng lấy những quyết định không nhắm mục tiêu né tránh một quyết định lớn hơn và không tìm cách né tránh nỗi đau.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.6. Mẹ Mary, con sẵn sàng lấy những quyết định sâu xa hơn, tỷ dụ như con là loại sinh thể nào, con muốn sống trong một thế giới như thế nào, con sẵn sàng muốn nhìn vào những gì trong chính mình để thay đổi hoàn cảnh bên ngoài và để thay đổi hoàn cảnh nội tâm và để giải thoát mình khỏi những khuôn nếp do sa nhân lập trình.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.7. Mẹ Mary, bây giờ con lấy quyết định con muốn xin Mẹ hướng dẫn con để con khám phá ra quyết định nào đã làm nghẽn luân xa của con, đã ngăn chận ánh sáng không biểu lộ được trọn vẹn trong các luân xa của con.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.8. Mẹ Mary, con hình dung Mẹ đang ngồi trên một chiếc ghế và con giống một trẻ thơ. Con đi lại gần Mẹ và con giơ hai cánh tay lên. Mẹ cúi xuống, bế con lên và đặt con vào lòng Mẹ và Mẹ ôm con trong vòng tay Mẹ.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.9. Mẹ Mary, bây giờ, con được hoàn toàn bảo bọc bởi vòng tay đầy tình thương của Mẹ, bởi hào quang đầy tình thương của Mẹ, bởi rung động đầy tình thương của Mẹ. Con được bảo vệ khỏi mọi hiểm nguy của thế gian này.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 2

2.1. Mẹ Mary, hãy chỉ cho con thấy quyết định nào đang làm nghẽn luân xa tim của con. Con hòa điệu với Bản thể của Mẹ và con mở tâm ra để nghe Mẹ.

Ôi Mẹ Mary, chúng con ca tụng
ánh sáng của Mẹ, dấy trong tâm chúng.
Quân bình toàn hảo, ánh sáng tuôn ra,
hồn con lóng lánh trong sự hài hòa.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

2.2. Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là trong quá khứ con cảm thấy tình thương của mình bị bác bỏ và con quyết định là con sẽ không biểu lộ tình thương nữa trên hành tinh này.

Tất cả muộn phiền trong tim đã dứt,
nhờ tình yêu Mẹ, con vơi buồn bực.
Bông hồng nở rộ mười hai cánh xinh,
tâm hồn tự do gặp rể của mình.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

2.3. Mẹ Mary, xin giúp con thấy được quyết định đó và giải quyết vấn đề. Xin giúp con thấy nó rõ ràng.

Khi Ánh sáng Mẹ và Phật gặp nhau,
hai thày đánh bại tà ma hư xấu,
cùng với Giê-su và Saint Germain,
mở ra thời đại Hoàng kim cất cánh.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

2.4. Mẹ Mary, con đang tháo gỡ quyết định ban đầu đó vì bây giờ con biết con đã tiến lên cao hơn trên con đường tâm linh. Con sẽ không cảm thấy lại nỗi đau mà trước kia con cảm thấy khi tình thương của con bị bác bỏ.

Con cảm nụ hôn của Mẹ dịu dàng,
chìm trong hỉ lạc, trường cửu mênh mang,
lơ lửng không gian diệu vời miên viễn,
hòa điệu cùng với tiếng chuông thánh thiện.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

2.5. Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra rằng con là một sinh thể khác và do đó con không sợ khi nhìn lại quyết định của mình và thay đổi nó. Con không sợ biểu tỏ tình thương của con nữa.

Hồng ân bất tận Mẹ Mary ban
giúp con làm chủ không gian thời gian.
Bản thể là Phật ở trong tất cả,
con nghe tiếng gọi, đứng lên giục giã
để thành Ki-tô đi trên trái Đất,
Thời đại Hoàng kim hiện ra rất thật.

Phần 3

3.1. Mẹ Mary, xin chỉ cho con thấy quyết định nào đã làm nghẽn luân xa cổ họng của con. Con hòa điệu với Bản thể của Mẹ và con mở tâm ra để nghe Mẹ.

Ôi Mẹ Mary, chúng con ca tụng
ánh sáng của Mẹ, dấy trong tâm chúng.
Quân bình toàn hảo, ánh sáng tuôn ra,
hồn con lóng lánh trong sự hài hòa.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

3.2. Mẹ Mary, xin giúp con thấy được là trong quá khứ con cảm thấy mình đã lầm lẫn khi biểu lộ uy lực của mình và con quyết định sẽ không bao giờ biểu lộ uy lực trên hành tinh này nữa.

Luân xa cổ họng ôi xanh sáng ngần,
ý chí Thượng đế mãi mãi thực chân.
Uy lực Thượng đế thương yêu tràn vào
qua tâm Ki-tô điều hướng từ cao.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

3.3. Mẹ Mary, xin giúp con thấy được quyết định đó và giải quyết vấn đề. Xin giúp con thấy nó rõ ràng.

Khi Ánh sáng Mẹ và Phật gặp nhau,
hai thày đánh bại tà ma hư xấu,
cùng với Giê-su và Saint Germain,
mở ra thời đại Hoàng kim cất cánh.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

3.4. Mẹ Mary, con đang tháo gỡ quyết định ban đầu đó vì bây giờ con biết con đã tiến lên cao hơn trên con đường tâm linh. Con sẽ không cảm thấy lại nỗi đau mà trước kia con cảm thấy khi con biểu lộ uy lực của mình.

Con cảm nụ hôn của Mẹ dịu dàng,
chìm trong hỉ lạc, trường cửu mênh mang,
lơ lửng không gian diệu vời miên viễn,
hòa điệu cùng với tiếng chuông thánh thiện.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

3.5. Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra rằng con là một sinh thể khác và do đó con không sợ khi nhìn lại quyết định của mình và thay đổi nó. Con sẵn sàng biểu lộ uy lực Thượng đế của con, dùng ý chí của con để bảo vệ lập trường và nói: “Tới đây là đủ rồi, không được xa hơn nữa, từ đây con sẽ tiến lên phía trước.”

Hồng ân bất tận Mẹ Mary ban
giúp con làm chủ không gian thời gian.
Bản thể là Phật ở trong tất cả,
con nghe tiếng gọi, đứng lên giục giã
để thành Ki-tô đi trên trái Đất,
Thời đại Hoàng kim hiện ra rất thật.

Phần 4

4.1. Mẹ Mary, xin chỉ cho con thấy quyết định nào đã làm nghẽn luân xa rối dương (solar plexus) của con. Con hòa điệu với Bản thể của Mẹ và con mở tâm ra để nghe Mẹ.

Ôi Mẹ Mary, chúng con ca tụng
ánh sáng của Mẹ, dấy trong tâm chúng.
Quân bình toàn hảo, ánh sáng tuôn ra,
hồn con lóng lánh trong sự hài hòa.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

4.2. Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là trong quá khứ con đã đứng lên đòi hòa bình và việc ấy khiến con bị đau đớn và con quyết định sẽ không biểu lộ điều này nữa trên hành tinh này.

Luân xa rối dương bình an rộng lớn,
vì con từ bỏ sợ hãi giận hờn.
Mười cánh hoa thiêng giờ đây hé nở,
tỏa ánh tím vàng sáng lên rực rỡ.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

4.3. Mẹ Mary, xin giúp con thấy được quyết định đó và giải quyết vấn đề. Xin giúp con thấy nó rõ ràng.

Khi Ánh sáng Mẹ và Phật gặp nhau,
hai thày đánh bại tà ma hư xấu,
cùng với Giê-su và Saint Germain,
mở ra thời đại Hoàng kim cất cánh.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

4.4. Mẹ Mary, con đang tháo gỡ quyết định ban đầu đó vì bây giờ con biết con đã tiến lên cao hơn trên con đường tâm linh. Con sẽ không cảm thấy lại nỗi đau mà trước kia con cảm thấy khi con đứng lên đòi hòa bình.

Con cảm nụ hôn của Mẹ dịu dàng,
chìm trong hỉ lạc, trường cửu mênh mang,
lơ lửng không gian diệu vời miên viễn,
hòa điệu cùng với tiếng chuông thánh thiện.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

4.5. Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra rằng con là một sinh thể khác và do đó con không sợ khi nhìn lại quyết định của mình và thay đổi nó. Con không sợ biểu lộ bình an của con và phụng sự cuộc sống.

Hồng ân bất tận Mẹ Mary ban
giúp con làm chủ không gian thời gian.
Bản thể là Phật ở trong tất cả,
con nghe tiếng gọi, đứng lên giục giã
để thành Ki-tô đi trên trái Đất,
Thời đại Hoàng kim hiện ra rất thật.

Phần 5

5.1. Mẹ Mary, xin chỉ cho con thấy quyết định nào đã làm nghẽn luân xa con mắt thứ ba của con. Con hòa điệu với Bản thể của Mẹ và con mở tâm ra để nghe Mẹ.

Ôi Mẹ Mary, chúng con ca tụng
ánh sáng của Mẹ, dấy trong tâm chúng.
Quân bình toàn hảo, ánh sáng tuôn ra,
hồn con lóng lánh trong sự hài hòa.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

5.2. Mẹ Mary, xin giúp con thấy là trong quá khứ con cảm thấy viễn kiến của con đã bị bác bỏ và con quyết định không biểu lộ nó nữa trên hành tinh này.

Với mắt thứ ba, màu xanh lục bảo,
con tìm viễn quan Ki-tô toàn hảo.
Kế hoạch Thượng đế vẹn toàn nhận ra,
con cảm tình yêu Ngài cho tất cả.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

5.3. Mẹ Mary, xin giúp con thấy được quyết định đó và giải quyết vấn đề. Xin giúp con thấy nó rõ ràng.

Khi Ánh sáng Mẹ và Phật gặp nhau,
hai thày đánh bại tà ma hư xấu,
cùng với Giê-su và Saint Germain,
mở ra thời đại Hoàng kim cất cánh.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

5.4. Mẹ Mary, con đang tháo gỡ quyết định ban đầu đó vì bây giờ con biết con đã tiến lên cao hơn trên con đường tâm linh. Con sẽ không cảm thấy lại nỗi đau mà trước kia con cảm thấy khi con đứng lên bảo vệ chân lý và viễn kiến của con bị bác bỏ.

Con cảm nụ hôn của Mẹ dịu dàng,
chìm trong hỉ lạc, trường cửu mênh mang,
lơ lửng không gian diệu vời miên viễn,
hòa điệu cùng với tiếng chuông thánh thiện.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

5.5. Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra rằng con là một sinh thể khác và do đó con không sợ khi nhìn lại quyết định của mình và thay đổi nó. Con không sợ biểu lộ viễn kiến của con và đứng lên bảo vệ sự thật mà con thấy.

Hồng ân bất tận Mẹ Mary ban
giúp con làm chủ không gian thời gian.
Bản thể là Phật ở trong tất cả,
con nghe tiếng gọi, đứng lên giục giã
để thành Ki-tô đi trên trái Đất,
Thời đại Hoàng kim hiện ra rất thật.

Phần 6

6.1. Mẹ Mary, xin chỉ cho con thấy quyết định nào đã làm nghẽn trung tâm của luân xa hồn của con. Con hòa điệu với Bản thể của Mẹ và con mở tâm ra để nghe Mẹ.

Ôi Mẹ Mary, chúng con ca tụng
ánh sáng của Mẹ, dấy trong tâm chúng.
Quân bình toàn hảo, ánh sáng tuôn ra,
hồn con lóng lánh trong sự hài hòa.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

6.2. Mẹ Mary, xin giúp con thấy là trong quá khứ con cảm thấy sự sáng tạo của con đã bị bác bỏ và con quyết định không biểu lộ nó nữa trên hành tinh này.

Hồn được tắm nắng vui sướng làm sao,
khi lửa màu tím rực sáng dâng trào.
Hồn thở không khí trong lành Thượng đế,
trong tình Mẹ chăm, tự do tràn trề.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

6.3. Mẹ Mary, xin giúp con thấy được quyết định đó và giải quyết vấn đề. Xin giúp con thấy nó rõ ràng.

Khi Ánh sáng Mẹ và Phật gặp nhau,
hai thày đánh bại tà ma hư xấu,
cùng với Giê-su và Saint Germain,
mở ra thời đại Hoàng kim cất cánh.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

6.4. Mẹ Mary, con đang tháo gỡ quyết định ban đầu đó vì bây giờ con biết con đã tiến lên cao hơn trên con đường tâm linh. Con sẽ không cảm thấy lại nỗi đau mà trước kia con cảm thấy khi sự sáng tạo của con bị bác bỏ.

Con cảm nụ hôn của Mẹ dịu dàng,
chìm trong hỉ lạc, trường cửu mênh mang,
lơ lửng không gian diệu vời miên viễn,
hòa điệu cùng với tiếng chuông thánh thiện.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

6.5. Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra rằng con là một sinh thể khác và do đó con không sợ khi nhìn lại quyết định của mình và thay đổi nó. Con không sợ là một trẻ nhỏ ngây thơ và vui chơi khi cho phép sự sáng tạo của mình tuôn chảy.

Hồng ân bất tận Mẹ Mary ban
giúp con làm chủ không gian thời gian.
Bản thể là Phật ở trong tất cả,
con nghe tiếng gọi, đứng lên giục giã
để thành Ki-tô đi trên trái Đất,
Thời đại Hoàng kim hiện ra rất thật.

Phần 7

7.1. Mẹ Mary, xin chỉ cho con thấy quyết định nào đã làm nghẽn luân xa đỉnh đầu của con. Con hòa điệu với Bản thể của Mẹ và con mở tâm ra để nghe Mẹ.

Ôi Mẹ Mary, chúng con ca tụng
ánh sáng của Mẹ, dấy trong tâm chúng.
Quân bình toàn hảo, ánh sáng tuôn ra,
hồn con lóng lánh trong sự hài hòa.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

7.2. Mẹ Mary, xin giúp con thấy là trong quá khứ con cảm thấy là minh triết của con bị bác bỏ và con quyết định không biểu lộ nó nữa trên hành tinh này.

Luân xa đỉnh đầu như biển vàng chói,
một ngàn cánh hoa nở ra chói lọi.
Con thấy Phật tổ tọa trên đỉnh đầu,
đắp y yên lặng ngồi thiền thật sâu.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

7.3. Mẹ Mary, xin giúp con thấy được quyết định đó và giải quyết vấn đề. Xin giúp con thấy nó rõ ràng.

Khi Ánh sáng Mẹ và Phật gặp nhau,
hai thày đánh bại tà ma hư xấu,
cùng với Giê-su và Saint Germain,
mở ra thời đại Hoàng kim cất cánh.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

7.4. Mẹ Mary, con đang tháo gỡ quyết định ban đầu đó vì bây giờ con biết con đã tiến lên cao hơn trên con đường tâm linh. Con sẽ không cảm thấy lại nỗi đau mà trước kia con cảm thấy khi minh triết của con bị bác bỏ.

Con cảm nụ hôn của Mẹ dịu dàng,
chìm trong hỉ lạc, trường cửu mênh mang,
lơ lửng không gian diệu vời miên viễn,
hòa điệu cùng với tiếng chuông thánh thiện.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

7.5. Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra rằng con là một sinh thể khác và do đó con không sợ khi nhìn lại quyết định của mình và thay đổi nó. Con không sợ biểu lộ minh triết của mình, trực giác của mình, cái biết bên trong của mình.

Hồng ân bất tận Mẹ Mary ban
giúp con làm chủ không gian thời gian.
Bản thể là Phật ở trong tất cả,
con nghe tiếng gọi, đứng lên giục giã
để thành Ki-tô đi trên trái Đất,
Thời đại Hoàng kim hiện ra rất thật.

Phần 8

8.1. Mẹ Mary, xin chỉ cho con thấy quyết định nào đã làm nghẽn luân xa cuối cột sống của con. Con hòa điệu với Bản thể của Mẹ và con mở tâm ra để nghe Mẹ.

Ôi Mẹ Mary, chúng con ca tụng
ánh sáng của Mẹ, dấy trong tâm chúng.
Quân bình toàn hảo, ánh sáng tuôn ra,
hồn con lóng lánh trong sự hài hòa.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

8.2. Mẹ Mary, xin giúp con thấy là trong quá khứ con cảm thấy khả năng biểu hiện của con đã bị bác bỏ và con quyết định không biểu lộ nó nữa trên hành tinh này.

Nơi luân xa gốc, màu trắng trong vắt,
bốn cánh hoa nở, sáng lên trinh bạch.
Mẹ cúi đầu xuống tình yêu chân thật
với Thượng đế Cha ở trên cao ngất.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

8.3. Mẹ Mary, xin giúp con thấy được quyết định đó và giải quyết vấn đề. Xin giúp con thấy nó rõ ràng.

Khi Ánh sáng Mẹ và Phật gặp nhau,
hai thày đánh bại tà ma hư xấu,
cùng với Giê-su và Saint Germain,
mở ra thời đại Hoàng kim cất cánh.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

8.4. Mẹ Mary, con đang tháo gỡ quyết định ban đầu đó vì bây giờ con biết con đã tiến lên cao hơn trên con đường tâm linh. Con sẽ không cảm thấy lại nỗi đau mà trước kia con cảm thấy khi sự biểu hiện của con bị bác bỏ.

Con cảm nụ hôn của Mẹ dịu dàng,
chìm trong hỉ lạc, trường cửu mênh mang,
lơ lửng không gian diệu vời miên viễn,
hòa điệu cùng với tiếng chuông thánh thiện.

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

8.5. Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra rằng con là một sinh thể khác và do đó con không sợ khi nhìn lại quyết định của mình và thay đổi nó. Con không sợ biểu hiện viễn quan cao và ý muốn thật của con.

Hồng ân bất tận Mẹ Mary ban
giúp con làm chủ không gian thời gian.
Bản thể là Phật ở trong tất cả,
con nghe tiếng gọi, đứng lên giục giã
để thành Ki-tô đi trên trái Đất,
Thời đại Hoàng kim hiện ra rất thật.

Phần 9

9.1. Mẹ Mary, xin giúp con tách rời tiến trình lấy quyết định ra khỏi nỗi sợ đau đớn. Xin giúp con chuyển hóa và nhìn nhận rằng mục đích thật của cuộc sống trên trái đất không phải là sống theo một tiêu chuẩn vỏ ngoài.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

9.2. Mẹ Mary, xin giúp con thấy là các chân sư thăng thiên không làm con xấu hổ, không lên án con về bất cứ điều gì con làm. Con không bao giờ có thể làm bất cứ điều gì trong cõi vật chất mà con không thể gỡ bỏ bằng cách lấy một quyết định sáng suốt hơn, tỉnh thức hơn.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

9.3. Mẹ Mary, con chấp nhận là mỗi quyết định mà con làm khiến con trầm mình sâu hơn vào thế giới vật chất đều có thể được chuyển hóa thành một quyết định xây dựng quả vị Ki-tô của con và như thế giúp con thức tỉnh mình và biểu hiện Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

9.4. Mẹ Mary, con nhận ra dù rằng con cảm thấy đau đớn khi nhìn một quyết định mà con xem là sai lầm, nó sẽ chỉ là một nỗi đau tạm thời. Một khi con đi vào nỗi đau đó và gỡ bỏ quyết định, con sẽ thoát khỏi nỗi đau.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

9.5. Mẹ Mary, xin giúp con bước ra khỏi sự đồng hóa mình với bất cứ điều gì trong cõi vật chất để con được tự do, không còn gánh nặng, không còn sợ hãi và một lần nữa con dám là dưới này những gì con là Trên kia.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

9.6. Mẹ Mary, con từ bỏ ảo tưởng cho rằng trong một tình huống đặc thù chỉ có một chọn lựa đúng duy nhất. Có rất nhiều tình huống trong cuộc sống có nhiều chọn lựa đúng. Đây chỉ là vấn đề con muốn lấy chọn lựa nào mà thôi.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

9.7. Mẹ Mary, con sẵn sàng lấy quyết định với tâm ý thức để bước ra khỏi sự hạn chế liên quan tới việc lấy quyết định. Con cho mình tự do tuôn chảy với Dòng sông sự Sống. Con cho phép mình lấy quyết định và xem kết quả là một cơ hội giúp con điều chỉnh hướng đi trong Dòng sông sự Sống. 

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

9.8. Mẹ Mary, con cho phép mình càng ngày càng giống một trẻ thơ dám biểu hiện chính mình, dám nhìn cuộc đời không như một gánh nặng đè lên mình. Cuộc đời là một trò chơi và con có thể tiếp cận cuộc đời như một trẻ thơ đang nô đùa.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

9.9. Mẹ Mary, con đang ngồi trong lòng Mẹ và con đang nhìn sâu vào mắt Mẹ và chấp nhận tình thương vô điều kiện của Mẹ Thiêng liêng mà Mẹ ban cho cá nhân con. Con sẵn sàng cho phép niềm vui của trẻ thơ dâng lên tràn ngập trong trái tim mình, con biểu lộ niềm vui này trong khi con nô đùa với cuộc đời và con nhìn mỗi quyết định như một thử nghiệm sẽ chỉ có thể giúp con lấy quyết định tốt hơn trong tương lai.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

18 | Thỉnh cầu tự do khỏi ách nô lệ thời gian

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con khắc phục mọi ảo tưởng về thời gian, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Thời gian là một trải nghiệm chủ quan. Đó là sản phẩm của một trải nghiệm chủ quan. Thời gian trong cách nhìn của con người trên trái đất không phải là một thực tại khách quan. Nó là một trải nghiệm hoàn toàn chủ quan, được tạo ra một cách tập thể suốt một thời gian rất dài.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Con người đã bỏ ra rất nhiều năng lượng của lý trí-cảm xúc-bản sắc để tạo ra cái nhìn hiện thời về thời gian. Cái nhìn này có thể xem là một ngã tách biệt có mặt trong tâm thức tập thể. Ngã cho rằng thời gian rất đường thẳng và không thể thay đổi. Chúng ta không thể đi trở ngược thời gian, không thể thay đổi quá khứ.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Sa nhân đã muốn đem trải nghiệm chủ quan của chúng về thời gian và phóng chiếu nó lên mọi người trên trái đất, và phần lớn chúng đã thành công trong việc này.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Có một cái nhìn tập thể về thời gian nhưng con là một đệ tử tâm linh trưởng thành. Con đã tu tập rất nhiều, con đã phần lớn tách mình ra khỏi tâm thức tập thể. Con sẵn sàng xem xét: “Đâu là cái nhìn chủ quan của tôi, cái nhìn cá nhân của tôi về thời gian?”

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Con cho rằng con đã làm một việc gì trong quá khứ và việc này đã tạo ra một số hậu quả mà con đem vào cái con xem là tương lai. Con cho rằng hoàn cảnh hiện thời của con bị ảnh hưởng ở một mức độ nào đó bởi quá khứ của con, bởi nghiệp quả của con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Trong nhiều trường hợp, những gì xảy ra cho con không phải là kết quả nghiệp chướng cá nhân của con, mà là kết quả sự kiện con đang hiện thân trên một hành tinh phi tự nhiên rất dày đặc, rất hỗn tạp.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Có rất nhiều chuyện có thể xảy ra do người khác gây ra, do hành động, do trạng thái tâm thức của họ hay một nghiệp chướng tập thể gây ra, nhưng không phải do nghiệp chướng cá nhân của riêng con.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Gautama, xin thày giúp con bước lui lại và xem xét cái nhìn về bản thân mà con đã tạo ra dựa trên giáo lý tâm linh, đặc biệt lời dạy là nếu có điều gì tệ hại xảy ra cho con, đó là do nghiệp quả của con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con đã thỉnh cầu đủ lửa tím để hoán chuyển năng lượng cấu tạo nghiệp chướng của con. Con đã chuyển hóa năng lượng, nhưng nếu con mang hình ảnh là con chưa cân bằng hết nghiệp quả thì thật ra con vẫn chưa thoát khỏi nghiệp quả của con.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có một cái ngã không muốn nhìn nhận là con không còn nghiệp nữa, vì ngã lo sợ là nếu có gì xấu xảy ra cho con, làm sao con sẽ giải thích chuyện này được, ngoại trừ đó là kết quả của nghiệp chướng?

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Gautama, xin thày giúp con bước lên và nhận ra liệu con đã hoàn tất quá trình cân bằng nghiệp quả của con. Nếu có điều gì xấu xảy ra cho con, đó không phải là kết quả của nghiệp chướng cá nhân hay một lầm lỗi con đã phạm phải, mà là vì con sống trên một hành tinh phi tự nhiên rất dày đặc, rất hỗn tạp.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Con không thể tiên đoán chắc chắn và chính xác các sự việc xảy ra. Con không thể bảo là nếu một người đã cân bằng nghiệp quả thì không có gì xấu được xảy ra cho người đó.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Vì con vẫn sống trong một cơ thể vật lý trong một môi trường nhất định, có một mô thức sóng năng lượng vô cùng phức tạp được tạo ra và được duy trì bởi người khác. Con không có cách nào tiên đoán chính xác biến cố nào sẽ xảy đến trong phần đời còn lại của con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Mọi chuyện xảy ra quá hỗn loạn, quá bất ngờ. Vũ trụ không phải là một chiếc đồng hồ hay một cỗ máy. Con không thể biết chính xác người ta sẽ chọn làm gì. Con không thể biết và do đó không thể tiên đoán chính xác phần đời còn lại của con sẽ có hình dạng ra sao. Nó tùy thuộc vào chọn lựa của con và chọn lựa của nhiều người khác, nó tùy thuộc vào tất cả mô thức sóng năng lượng vô cùng phức tạp đó sẽ tương tác như thế nào.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Không thể bảo là nếu con không còn nghiệp quả thì không có gì xấu xa có thể xảy đến cho con trong phần đời còn lại. Con buông bỏ ngã này và con chấp nhận: “Tôi đã cân bằng nghiệp quả của tôi.”

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Con cũng chấp nhận: “Vì tôi sống trên một hành tinh như trái đất nên có những chuyện xảy ra cho tôi mà không phải là nghiệp của tôi. Nhưng tôi sẽ không trách Thượng đế, tôi sẽ không tự trách mình, tôi sẽ không trách ai hết. Tôi sẽ chấp nhận nó như nó là, sử dụng nó tốt nhất và bước đi tiếp.”

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Gautama, xin thày giúp con buông bỏ cái ngã đã xây kỳ vọng là không có gì tệ hại có thể xảy đến cho con, thậm chí nó còn nghĩ rằng một loại phép lạ có thể đến cứu con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Con chấp nhận là con đã đạt một mức quả vị Ki-tô nào đó, và nếu có gì xấu xảy ra cho con thì rất có thể đây là một phần của con đường quả vị Ki-tô. Con phải kinh qua trải nghiệm này, phải chứng tỏ một cách ứng xử cao hơn và không dính mắc. Con chứng tỏ là mình có thể ứng phó với trải nghiệm này mà không còn ngã gốc hay những cái ngã con đã khắc phục.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Thời gian không có, vì thời gian không có một sự hiện hữu khách quan như cách người ta thường nhìn. Thời gian không khác gì các chiều kích kia theo nghĩa là nó không đường thẳng. Con có thể đi tới hay đi lui trong thời gian.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Trong không gian con có thể đi về bất cứ hướng nào, và con cũng có thể đi trở lui nhưng chỉ từng bước một. Ở bất kỳ điểm nào trong không gian, con đều có một tầm nhìn nhất định, một quang cảnh nhất định, thậm chí một ý niệm bản ngã nhất định. Có một cái ngã, một ý niệm bản ngã dựa trên vị trí con đang đứng ngay bây giờ và những gì con có thể nhìn thấy.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Thời gian cũng giống như vậy. Ở bất cứ thời điểm nào con cũng đứng ở một vị trí nhất định trong không gian của thời gian, một điểm trong chiều kích thời gian. Bất cứ lúc nào con cũng ở một vị trí đặc thù và ngay lúc đó con có một ý niệm bản ngã đặc thù.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Đã có một thời điểm khi con hình thành một cái ngã, chẳng hạn ngã gốc. Từ đó trở đi, con đã mang ngã này theo con, và ngã này đã thiết lập một khuôn khổ quy định cách con nhìn cuộc sống trên trái đất, cách con nhìn bản thân con trên trái đất.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Thay vì chụp một tấm ảnh mới cho mỗi lúc, con đã không ngừng bồi đắp thêm cho tấm ảnh cũ. Điều này quyết định cách con nhìn chính con và cuộc đời trong giây phút bây giờ, có nghĩa là trên cơ bản, con đã đem theo con một cái gì đó từ quá khứ và chính cái này là ý nghĩa của thời gian đối với con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Thời gian chủ quan của riêng con chính là các hình ảnh được tạo ra trong quá khứ mà con vẫn mang theo con. Từ một nhãn quan thăng thiên, thời gian chỉ là một chiều kích khác và con có thể học cách di chuyển trong chiều kích này.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Các chân sư đã cho con một cỗ xe vượt thời gian với giáo lý của các thày. Con có khả năng đi trở ngược, nối kết lại với hình ảnh con đã tạo ra trong chấn thương nhập đời hay bất kỳ hình ảnh nào tạo ra trong tiền kiếp. Con có thể nhận biết hình ảnh đó, thấy rõ nó đã tạo ra một ngã tách biệt, và con để cho ngã chết đi mà không cố giải quyết hoàn cảnh con đã không thể giải quyết vào lúc đó.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Con không thay đổi gì trong cõi vật lý. Con chỉ để cho ngã chết đi, và trong tiến trình chót cùng, con nhận ra có một hình ảnh do ngã này cầm giữ và con tẩy xóa hình ảnh này đi, con tẩy xóa ký ức này đi. Đây là một cỗ máy vượt thời gian. Đây là du hành trong thời gian.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Khi con đạt đến các tầng nhận biết cao hơn, con có thể bắt đầu thoáng thấy một số hoàn cảnh tương lai. Tuy nhiên không có lý do chính đáng nào khiến con muốn biết tất cả mọi sự sẽ xảy ra cho con trong phần đời còn lại. Con tăng triển bằng cách đáp ứng một tình huống dựa trên mức tâm thức hiện thời của con, nhưng con vẫn sử dụng tình huống này để với lên một tầm nhìn cao hơn.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Không một viễn quan nào con có thể có về tương lai được tạc vào đá. Giữa thời điểm bây giờ và biến cố tương lai, con sẽ có nhiều quyết định và người khác cũng sẽ có nhiều quyết định. Cho nên việc nhìn thấy tương lai rồi tin tuyệt đối nó sẽ xảy đến, có thể nguy hiểm.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Tại sao con lại cần biết tương lai? Con càng bước lên cao trên đường tu thì con sẽ càng bớt quan tâm đến tương lai, con càng ít mong muốn biết rõ chuyện gì sẽ xảy ra trong tương lai.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Ở một mức quả vị Ki-tô hay quả vị Phật nào đó, con không còn quan tâm đến quá khứ và không còn quan tâm đến tương lai. Con chú tâm vào hoàn cảnh ngay trước mặt, không cứ là giây phút hiện tại như một khoảnh khắc trong thời gian, mà vào hoàn cảnh hiện thời của con có thể kéo dài một khoảng thời gian.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Là một sinh thể tiên tiến, con không nhất thiết sống trong hiện tại như một khoảnh khắc. Con có một khoảng thời gian để làm việc nhưng con không bị gánh nặng của những sự việc đã xảy ra cho con trong quá khứ. Con cũng không quan tâm đến những gì sẽ xảy đến trong mười năm nữa.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Con ngộ ra là con không ở đây để hoàn thành một mục tiêu vật lý đặc thù nào. Mục đích đời con không phải là thực hiện một công việc đặc thù. Mục đích tham gia vào mọi công việc là để cho con một trải nghiệm. Điều gì xảy ra trong cõi vật lý thật không quan trọng gì vì nó luôn luôn cho con một trải nghiệm.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Có một cái ngã rất quan tâm đến việc kiểm soát tương lai vì ngã này đã được thiết kế để đảm bảo là con không bao giờ gặp lại trải nghiệm đau đớn con đã gặp trong quá khứ. Ngã này muốn kiểm soát tương lai để con có thể tự bảo vệ cho chuyện xấu không xảy đến cho con.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Con buông bỏ ngã này cùng các ngã khác. Con thấy rõ là con đang ở trên một hành tinh phi tự nhiên. Thật chẳng nghĩa lý gì trên một hành tinh phi tự nhiên mà lại cố sống cùng loại đời sống mà mình đã quen sống trên một hành tinh tự nhiên.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Con vẫn có thể quyết định: “Tôi muốn có trải nghiệm xây nhà ở đây trên trái đất,” nhưng con nhận ra là nếu căn nhà bị phá hủy thì đây chỉ là thêm một loại trải nghiệm con có thể có trên địa cầu. Do đó con có thể nói: “Ồ, quả là bổ ích khi tôi trải nghiệm chính mình trong hoàn cảnh này khi nhà tôi bị phá tan tành.” Đây chỉ là một cơ hội khác để con là chính con bất kể điều kiện gì trên trái đất.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Xuôi chảy với Dòng sông sự Sống không có nghĩa là không có gì tồi tệ xảy ra cho con, mà có nghĩa là con sẽ không có một trải nghiệm tồi tệ, bởi vì dù điều gì xảy ra, con cũng không trải nghiệm nó xuyên qua cái ngã tách biệt phải xét đoán mọi chuyện là tốt hay xấu. Đó là khi con tự do xuôi chảy với Dòng sông sự Sống do con không có định kiến nào về những gì phải xảy ra hay không được xảy ra.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 5

5.1. Tâm thức Satan là khi con phóng chiếu một hình ảnh chủ quan lên người khác và muốn họ chối bỏ trải nghiệm chủ quan của riêng họ, để hoặc họ có trải nghiệm của con, hoặc ít ra họ sống đời họ dựa trên trải nghiệm chủ quan của con.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.2. Gautama, xin thày giúp con khắc phục cái ngã cứ muốn đánh giá mọi chuyện xảy ra cho mình theo thang điểm tốt hay xấu, đúng hay sai. Hãy giúp con không còn sợ hãi những gì không được xảy ra. Con sẵn lòng xuôi chảy với bất cứ tình huống nào không thể tránh được.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.3. Trải nghiệm chủ quan của con về thời gian dựa trên bất cứ ngã nào con đã tạo ra trong quá khứ mà con vẫn mang theo con, vì chúng đang ảnh hưởng đến cách con nhìn bản thân và cuộc sống trong giây phút hiện tại. Chúng cũng ảnh hưởng đến những gì con nghĩ về tương lai.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.4. Ngay bây giờ, tương lai của con dựa trên các ngã tách biệt mà con đang có. Chúng ảnh hưởng tương lai của con. Khi con bắt đầu vứt bỏ chúng đi thì ngay lúc đó con thay đổi phương trình tương lai của con. Con cũng đang thay đổi quá khứ của con. Con đang triệt tiêu, con đang tẩy xóa, con đang xóa sạch quá khứ của con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.5. Con không thể thăng thiên trong quá khứ. Con không thể thăng thiên trong tương lai. Con chỉ có thể thăng thiên trong hiện tại. Khi con đứng trước cửa thăng thiên, con cần nhìn lại trái đất xem có bất cứ gì níu kéo con trở về đó hay không.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.6. Điều có thể kéo con về là bất cứ dính mắc nào con có, bất cứ ngã nào, bất cứ gì từ quá khứ mà con cảm thấy chưa được giải quyết. Đó chính là quá khứ của con đang kéo con về. Nếu con có bất cứ gì trên trái đất mà con chưa làm, chưa hoàn tất, bất cứ gì mà con muốn làm, muốn trải nghiệm, thì đó là tương lai của con đang kéo con về trái đất.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.7. Để thăng thiên, con phải đạt tới điểm không còn quá khứ nào trên địa cầu, vì không có gì chưa giải quyết mà con kéo lê theo con. Đồng thời, con không có tương lai nào trên địa cầu vì con không có viễn kiến muốn làm bất cứ gì ở đây.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.8. Khi dòng thời gian của sự có mặt của con trên trái đất co sụp lại, và khi thời gian không còn kéo dài được nữa – tức là không có quá khứ, không có tương lai và thời gian co sụp lại thành một khoảnh khắc độc nhất – đây chính là khoảnh khắc con thăng thiên. Đây mới thực sự là ý nghĩa tối hậu của câu nói: “Thời gian không có, thời gian không còn nữa.”

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.9. Sau khi con thăng thiên, thời gian mà con chứng kiến trên địa cầu sẽ không áp dụng cho con nữa. Con có cái người ta gọi là sự vĩnh hằng. Con có một khoảng thời gian dài gần như vô lượng so với khoảng thời gian con có trên trái đất.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 6

6.1. Bây giờ con xoay chuyển và nói: “Tại sao tôi lại vội rời bỏ nơi đây đến như vậy? Có lẽ chăng tôi muốn trải nghiệm cảm giác ở cõi thăng thiên là như thế nào? Phải, nhưng nếu tôi có nguyên một vĩnh hằng để trải nghiệm cõi thăng thiên và chỉ có một thời gian giới hạn trên địa cầu, tại sao tôi lại vội vã lánh xa địa cầu để trải nghiệm những gì tôi sẽ dư thì giờ trải nghiệm?”

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

6.2. Tại sao con không làm hòa với việc mình ở đây trên trái đất khi biết rằng mình sẽ chỉ ở đây ngắn ngủi? Xong con nói: “À, vì tôi chỉ có một thời gian hạn chế trên địa cầu, tại sao tôi không tận dụng thời gian này tốt nhất? Tại sao không tìm những trải nghiệm tốt đẹp nhất mà tôi có thể có trong thời gian còn sót lại trên địa cầu, thay vì cứ luôn cảm thấy như thể mình bị chậm trễ và phải rời khỏi nơi đây cho bằng được?”

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

6.3. Con càng an bình về việc mình ở địa cầu thì con sẽ càng tận dụng được trải nghiệm của mình, càng tác động mạnh mẽ đến tâm thức tập thể, càng kéo tâm thức tập thể đi lên.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

6.4. Con sẽ kéo tâm thức tập thể đi lên khi con thăng thiên, nhưng sức kéo của con sẽ mãnh liệt hơn gấp bội khi con vẫn còn điểm trụ neo của một cơ thể vật lý trong bát cung vật lý, song song với một mức nhận biết cao hơn khi con đón nhận trọn vẹn việc mình ở đây, mình an bình, mình vui hưởng cuộc sống ở đây trên địa cầu.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

6.5. Sau khi Gautama chứng ngộ dưới cây Bồ đề và vượt qua thử thách của quỷ Mara, thày đã đạt tới điểm có thể vui hưởng trọn vẹn việc mình ở đây trên trái đất. Cám dỗ của Mara là khi con phản ứng lại chúng, khiến con không thể an bình trọn vẹn, không thể là chính mình trọn vẹn, không thể vui hưởng trọn vẹn mình là chính mình trên trái đất do tất cả các điều kiện đó.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

6.6. Gautama, xin thày giúp con cảm nhận liên tục là con đang vui hưởng trải nghiệm các tình huống trải bày ra trước mắt con trong cõi vật lý. Con không có chủ đích. Con không có tiếc nuối. Con không có một ý định nào về những gì phải xảy ra. Con chỉ vui hưởng là chính mình trong bất kỳ hoàn cảnh nào con chứng kiến trong cõi vật lý.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

6.7. Làm thế nào con tránh được không hối tiếc quá khứ? Làm thế nào con tránh không chạm đến chấn thương nhập đời và không hối hận việc đó đã xảy ra, hối hận cách phản ứng của con hay những gì con đã làm trong kiếp này và nhiều kiếp trước?

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

6.8. Gautama, xin thày giúp con chấp nhận là dù chuyện gì đã xảy ra trong quá khứ, con có khả năng tẩy xóa nó. Không có biến cố khách quan nào còn hiện hữu trong một khoảng không gian vật lý nào của quá khứ. Bát cung vật lý đã bước đi tới. Tất cả còn sót lại là những gì nằm trong tâm thức con, và con có sự hiểu biết, con có các dụng cụ để tẩy xóa nó đi.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

6.9. Nếu con biết con có thể tẩy xóa bất cứ gì đã xảy ra trong quá khứ, tại sao con phải hối tiếc về quá khứ? À, chính con không đang hối tiếc mà có một ngã tách biệt đang có những hối tiếc này. Con có thể nhìn ra ngã tách biệt đó, buông nó ra và nói: “Mi đã ảnh hưởng ta đủ lâu rồi. Thế là xong. Mi đã ra đi.”

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 7

7.1. Nếu quá khứ không tác động đến con thì tại sao con lại cần lo sợ về tương lai? Tại sao con cần lo sợ mình có thể lầm lỗi trong tương lai?

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

7.2. Bất cứ gì con có thể làm trong tương lai cũng chỉ là thêm một chọn lựa khác. Với trạng thái tâm thức của con hôm nay đã cao hơn, có rất ít xác suất chọn lựa của con hôm nay sẽ trầm trọng như trong quá khứ.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

7.3. Chọn lựa trong quá khứ trầm trọng đến vậy mà còn có thể tẩy xóa được, thì chắc chắn bất cứ gì xảy ra trong tương lai cũng có thể được tẩy xóa. Vậy tại sao con phải lo sợ về tương lai?

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

7.4. Nếu con không có hối tiếc nào về quá khứ thì mặt bên kia của đồng tiền là con cũng không có nỗi sợ nào về tương lai. Con chú tâm vui hưởng giây phút hiện tại trong khoảng thời gian con đang hoạt động.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

7.5. Gautama, xin thày giúp con đạt tới điểm con không là nô lệ cho thời gian. Thời gian không sai khiến được trải nghiệm của con trên địa cầu. Con đang xuôi chảy với Dòng sông sự Sống.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

7.6. Tất nhiên là thời gian hiện hữu. Có một phạm vi thời gian nào đó. Con nhìn về tương lai, hay con nhìn về một thời quá khứ khi con đã quyết định thực hiện một ý định nào đó. Nhưng con không bị thời gian sai khiến. Thời gian không là chủ nhân của con. Con không là kẻ nô lệ.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

7.7. Thời gian chỉ là một công cụ. Chẳng khác gì khi con di chuyển trong không gian. Nếu con di chuyển trong không gian và thấy mình ở một nơi mình không muốn, con chỉ việc di chuyển đến một vị trí khác trong không gian. Thời gian cũng giống như vậy. Con tẩy xóa một việc gì từ quá khứ, xong con di chuyển đến một vị trí khác. Thật không thành vấn đề cho con. Con không bị nó sai khiến.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

7.8. Gautama, con muốn tương tác với thày. Con muốn trải nghiệm chính mình trong Hiện diện của Phật Gautama.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

7.9. Gautama, xin thày giúp con trải nghiệm cuộc sống mà không có kỳ vọng nào cả. Con trải nghiệm với tâm trẻ thơ và không phóng chiếu bất kỳ phin lọc nào lên đó. Gautama, hãy giúp con trải nghiệm cuộc sống như thày đã trải nghiệm trong cương vị là Phật đang hiện thân.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Phật Gautama hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

17 | Thỉnh cầu trải nghiệm không ngừng tăng triển

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con khắc phục mọi cái ngã khiến con cho rằng con đã đạt đến giai đoạn tối hậu của đường tu và không cần bước lui lại mà chất vấn ngã của mình nữa, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Cái ngã con đã có khi con mới tìm thấy giáo lý và thức tỉnh với sự hiện hữu của một đường tu tâm linh, ngã này không thể đưa con đến quả vị Ki-tô hay quả vị Phật.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Ngay cả khi ngã gốc đã chết, ngã mới mà con tái sinh vào đó không phải là cái ngã con sẽ mang theo cho tới khi con thăng thiên. Đây không phải là cái ngã sẽ thăng thiên.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Con cần giải quyết xong xuôi mọi điều con cần giải quyết trên địa cầu trước khi con có thể thăng thiên và trở thành một chân sư thăng thiên.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Khi con kinh qua giai đoạn phát hiện ngã gốc và để cho ngã này chết đi, con được tái sinh vào một ý niệm bản ngã mới. Có những cái ngã con đã tạo ra sau khi con tạo ra ngã gốc.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Con vẫn có một cái nhìn nào đó về bản thân, một cái nhìn về trái đất, có nghĩa là khi con tạo ra một ngã mới sau khi khắc phục ngã gốc thì ngã mới này không phải là cao nhất có thể.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Khi con bước lên cao hơn và cao hơn nữa trong tâm thức, sẽ có những thời điểm con cần đứng lui lại, xem xét ý niệm bản ngã của mình lúc đó và một lần nữa để nó chết đi hầu con có thể lại tái sinh. Con có thể tái sinh trong Ki-tô, con có thể tái sinh trong Phật.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Tinh túy của đường tu tâm linh là thấy mình có một ý niệm bản ngã giới hạn và mình để cho nó chết đi.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Khi con tìm thấy con đường tâm linh, kỳ thực con đang tạo dựng một ngã mới. Điều này con không bao giờ ngừng làm, không những trong kiếp này mà cả trong tiền kiếp. Con tạo dựng một số ngã không phải để phản ứng lại một hoàn cảnh chấn thương đặc thù.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Có những cái ngã được tạo ra để đáp ứng với cái hiểu và cái biết mà con đang có. Con đang vươn lên một tầm nhận biết cao hơn và con tạo ra một ngã mới dựa trên tầm nhận biết cao hơn này. Khi con lên đến những tầng cao của đường tu, con cần trở nên ý thức về quá trình này.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Gautama, xin thày giúp con ý thức về quá trình này và thấy: “Tôi đã kinh qua những gì từ khi tôi nhận biết ý thức về đường tu? Trải nghiệm của tôi là gì, sáng ngộ nào tôi đã thu hoạch?”

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Gautama, xin thày giúp con nhìn lại đường tu của con cho tới điểm này và thấy: “Tôi đã kinh qua những gì, tôi đã chấp nhận những niềm tin nào dựa trên giáo lý tôi đã đi theo, tôi đã tham gia những tổ chức nào? Và kết quả là tôi đã tạo ra những loại ngã nào?”

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Một phần tự nhiên trên hành trình phát triển là con tạo dựng những ngã mới này dựa trên nhận biết và mong muốn của con, những gì con muốn biểu đạt, những gì con muốn trải nghiệm, những gì con muốn thực hiện ở đây trên trái đất. Con sẵn sàng trở nên ý thức về điều này.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Gautama, xin thày giúp con nhìn vào bản thân và xét xem con đã tạo dựng loại ngã nào, và liệu ngã này có dựa trên một tầm nhìn hạn hẹp, một cái hiểu hạn hẹp. Hãy giúp con thấy liệu con có một cái ngã được tạo dựng trên cơ sở một tầm nhìn nhất định về đường tu và về bản thân từ nhiều năm trước.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu trong một phần tâm con, con đã đạt một tầm hiểu cao hơn. Hãy giúp con thấy là cái ngã con đã tạo ra ở một giai đoạn trước trên đường tu không còn giúp con tăng triển nữa. Nó đang giới hạn sự tăng triển, nó đang cầm chân con lại vì cái nhìn của con đã lỗi thời, đặc biệt về các khả năng của con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Con ở đây để là chính mình, để biểu đạt chính mình. Biểu đạt chính mình có nghĩa là con cho phép Hiện diện TA LÀ biểu đạt chính nó xuyên qua con. Là chính mình có nghĩa là con ở trong một trạng thái hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Ngay từ thuở chấn thương nhập đời, con đã tạo dựng một số ngã mang một cái nhìn nhất định về những gì con có thể làm trên trái đất, được phép làm trên trái đất hay phải làm trên trái đất, và khi con tìm thấy con đường tâm linh, những ngã này có thể đã được củng cố hay điều chỉnh cho tinh vi hơn.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Khi con phát hiện một con đường tâm linh, con xem mình là một đệ tử tâm linh. Đây là một điều xây dựng trong một thời gian, nhưng nếu con tiếp tục xem mình là một đệ tử thì sẽ tới một điểm nó không còn xây dựng nữa, bởi vì khái niệm đường tu ngụ ý: “Tôi ở một tầng nào đó. Có một tầng cao hơn tôi có thể leo lên nhưng tôi chưa đến đó.”

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Có thể ở một điểm, con mang trong tâm một hình ảnh mình là một đệ tử đang tiến về hướng quả vị Ki-tô nhưng mình vẫn chưa đến đó. Nếu con mãi mãi bám giữ ý niệm bản ngã này thì làm thế nào con trở thành Ki-tô hiện thân được?

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con đã đạt đến một mức nào đó nhưng con vẫn bám giữ một ý niệm bản ngã được tạo ra ở một mức thấp hơn. Hãy giúp con thấy liệu hình ảnh này đang cầm chân con lại.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Tới một điểm con cần nhìn nhận là con đã đạt đến một cấp độ quả vị Ki-tô nào đó. Không có nghĩa là con đã đến mức tối thượng, nhưng con cần phải thực tế và công nhận điều này.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con đã đạt đến một mức nào đó trên đường tâm linh nhưng con chưa dám thừa nhận, vì con vẫn giữ ý niệm bản ngã mà con đã tạo ra ở mấy tầng thấp hơn điểm hiện thời của con.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Không có ai đã từng thăng thiên với cái ngã mình đã có ở khởi đầu kiếp đầu thai chót hay khi mình tìm thấy đường tu. Không có ai đã từng thăng thiên với ý niệm bản ngã mình có ở tầng 144, vì hành động cuối cùng trước khi thăng thiên chính là việc để cho ngã chót cùng này chết đi và khắc phục ảo tưởng chót cùng này.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Tiến trình thăng thiên là tiến trình để cho hết ngã này tới ngã khác chết đi và sẵn lòng tái sinh vào một ý niệm bản ngã cao hơn. Để cho một cái ngã chết đi, con phải sẵn lòng chất vấn ảo tưởng, thậm chí cả sự nhận biết mà ngã dùng làm cơ sở.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Cái ngã con đang có đã thu hoạch một sáng ngộ. Đây là một sáng ngộ có giá trị nhưng không phải là sáng ngộ cuối cùng. Sáng ngộ này không là một ảo tưởng, nhưng nếu con nghĩ nó là tối hậu, hay cái ngã con đã tạo dựng là tối hậu, thì đây là một ảo tưởng.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Mỗi lần con bước lên tầng tâm thức kế tiếp, có một cái ngã chết đi và một ngã khác sinh ra, nhưng con không nhất thiết ý thức được điều này. Có những thời điểm con cần đứng lui lại và nhìn vào ý niệm bản ngã của mình. Và một trong những thời điểm này là khi con bắt đầu nhìn nhận là con đã đạt được một cấp độ quả vị Ki-tô nào đó.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Cái ngã con có trước đó dựa trên ý tưởng rằng quả vị Ki-tô vẫn nằm đâu đó trong tương lai ở một mức cao hơn. Ngã này phải chết đi. Để ngã này chết đi, con phải thấy nó, thấy sự giới hạn của nó.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Gautama, xin thày giúp con nhìn ra ý niệm bản ngã của con vì con không muốn kẹt lại trong một ý niệm bản ngã nhất định và không thể bước tới cho đến mãn kiếp. Con muốn hoàn thành tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, và con sẵn lòng để cho bất kỳ ngã nào đang cản đường con chết đi.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con đã tạo ra một cái ngã cố nới rộng trải nghiệm chủ quan của con, để nó có vẻ phổ quát khi người ta chấp nhận trải nghiệm chủ quan của con thay vì chính trải nghiệm chủ quan của họ.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con đã tự thuyết phục rằng cách con nhìn giáo lý là cách tối hậu hay cách đúng duy nhất, cho nên nếu người khác chấp nhận quan điểm của con thì sẽ tốt cho họ biết bao.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Gautama, xin thày giúp con bước lui lại và nhận ra là cho dù con ở tầng tâm thức nào, con vẫn đang có một trải nghiệm không tuyệt đối. Trải nghiệm của con không phổ quát theo nghĩa nó phải áp dụng cho mọi người.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Thật không chính đáng nếu con cố khiến người khác phải sống đời họ dựa trên trải nghiệm của con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Gautama, xin thày giúp con đạt tới điểm con không còn có một trải nghiệm chủ quan nhưng con vẫn đang có một trải nghiệm cá nhân.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Ở các tầng nhận biết thấp hơn, con trải nghiệm cuộc sống xuyên qua các ngã vỏ ngoài và con không nối kết với Hiện diện TA LÀ của con. Khi con bước lên cao hơn, con lột bỏ một số ngã vỏ ngoài này. Trải nghiệm của con ngày càng ít chủ quan hơn, ít bị pha màu hơn.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Con ngày càng trở nên hòa điệu hơn với Hiện diện TA LÀ, nhưng Hiện diện TA LÀ của con không phải là một sinh thể phổ quát toàn vũ, đó là một sinh thể biệt. Hiện diện TA LÀ trải nghiệm hoàn cảnh trên địa cầu xuyên qua cá thể này.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Hiện diện TA LÀ của con có một trải nghiệm về trái đất khác với Hiện diện TA LÀ của một người khác, và điều này hoàn toàn chính đáng, hoàn toàn ổn thỏa.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Gautama, xin thày giúp con xoay chuyển và nhìn nhận là người khác không nhằm mục đích có cùng trải nghiệm như con đang có. Họ nhằm có trải nghiệm riêng của họ.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 5

5.1. Điều này không có nghĩa là con không thể nói chuyện với người khác, tìm cách giúp họ hay tạo cảm hứng cho họ, mà có nghĩa là con cần bước cao hơn và tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết, qua đó con không còn tìm cách áp đặt trải nghiệm cá nhân của mình lên người khác.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.2. Điều này cũng không có nghĩa là con cần im miệng mà trái lại, thay vì cố thay đổi cách họ trải nghiệm cuộc đời, con chia sẻ trải nghiệm của con.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.3. Gautama, xin thày giúp con thấy sự khác biệt cơ bản giữa việc áp đặt trải nghiệm của mình lên người khác và việc chia sẻ trải nghiệm. Cách thứ nhất mang một yếu tố ép buộc, còn cách thứ hai thì không. Hãy giúp con vượt qua thử thách này.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.4. Gautama, xin thày giúp con lột bỏ cái ngã đang cho con ý muốn thay đổi người khác, vì đó là một cái ngã phản ứng với các điều kiện trên trái đất.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.5. Ngã chờ đợi là nếu con chỉ cho mọi người cách khắc phục đau khổ thì họ sẽ đón nhận lời con và cố gắng thoát khổ. Việc chờ đợi người khác muốn thoát khổ là lô-gíc trên một hành tinh tự nhiên nhưng không áp dụng được trên một hành tinh phi tự nhiên.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.6. Một số người trên địa cầu đang đau khổ vì họ chưa chán chê trải nghiệm đau khổ. Khi con bảo họ không được đau khổ và làm thế nào họ có thể chấm dứt đau khổ, họ không thấy can hệ đến họ. Đó là chính con đang cố gắng thúc ép trải nghiệm chủ quan của con lên họ rằng họ không được đau khổ.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.7. Gautama, xin thày giúp con làm việc trên ngã này để con nhìn thấy nó. Con sẽ buông nó ra, con từ bỏ mong muốn khiến người khác phải sống theo cách nhìn của con.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.8. Bất cứ khi nào con cảm thấy có sự bó buộc trong cách quan hệ với người khác, bất cứ khi nào con cảm thấy có sự căng thẳng, đó là vì có một cái ngã. Ngã này khởi nguồn từ thái độ, từ ý muốn thúc ép kinh nghiệm chủ quan của con lên người khác, để khiến họ phải sống cuộc đời của họ dựa theo trải nghiệm chủ quan của con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.9. Gautama, xin thày giúp con chấp nhận rằng trải nghiệm chủ quan của con hoàn toàn có giá trị với con, nhưng trải nghiệm chủ quan của họ cũng hoàn toàn có giá trị với họ. Trải nghiệm chủ quan của con không tốt hơn cho họ. Sẽ không bao giờ tốt hơn nếu họ có trải nghiệm của con, hay nếu họ sống đời họ theo trải nghiệm của con thay vì của họ. Sẽ luôn luôn tốt hơn nếu họ có trải nghiệm chủ quan mà chính họ đang có, vì đây là cách duy nhất họ có thể tăng triển.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Phật Gautama hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

12 | Thỉnh cầu sự an bình khi lên tiếng

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Giê-su, hãy giúp con an bình khi con lên tiếng về cách con nhìn cuộc sống, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Con nhìn nhận là trên đường tu có những điều không thể được truyền dạy một cách lý thuyết. Con cần có sự tương tác giữa việc tiếp nhận giáo lý và việc thực hành, biểu đạt giáo lý và thu hoạch trải nghiệm.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.2. Con không trở thành Ki-tô bằng cách ngồi trong lớp học và nhận lời dạy từ một vị thày cho dù vị này đã chứng quả vị Ki-tô. Phải có một yếu tố trải nghiệm qua việc con bước ra ngoài và nếm mùi trải nghiệm.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.3. Con có quyền ở một tầng tâm thức nào đó, và con có quyền biểu đạt chính mình dựa theo tầng này – điều này không có gì sai trái và các thày không chê trách gì con. Các thày chấp nhận con cho dù con ở tầng tâm thức nào, và các thày chỉ nhìn xem làm thế nào giúp con thăng lên tầng kế tiếp.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.4. Con nhìn nhận là con đã đạt đến một mức quả vị Ki-tô nơi con phải chất vấn những gì con đã làm trước đây. Con sẵn lòng nhìn ra là đến một điểm trên con đường quả vị Ki-tô, con cần chất vấn chính những điều đã đưa con đến mức này.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.5. Đây là một công việc con không ngừng làm, vì con càng lên cao hơn về hướng tầng 144 thì nhịp độ con cần tự chất vấn sẽ càng dồn dập hơn. Ở các tầng tâm thức cao hơn, con cần tra vấn tất cả mọi thứ ở tầng hiện tại của con hầu thăng lên tầng kế tiếp.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.6. Ở các tầng thấp hơn của quả vị Ki-tô, điều chấp nhận được là con lên tiếng với mức nhận biết mà con đang có, với các ngã tách biệt mà con đang có. Chính nhờ làm vậy mà con nhận được sự phản hồi cho phép con thấy là con cần điều chỉnh cách tiếp cận của mình như thế nào.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.7. Điều này rốt cuộc sẽ mở tâm con ra để con nói: “Ừ nhỉ, có lẽ tôi đã đến một mức quả vị Ki-tô khi các giáo lý đã đưa tôi đến đây không thể đưa tôi xa hơn được nữa.”

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.8. Liệu con có một cái nhìn thân thiện hay thù địch về chính mình? Sự thù địch đến từ đâu? Nó chỉ có thể đến từ một ngã tách biệt bị tâm thức sa nhân ảnh hưởng, và do đó nó cần được phép chết đi.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.9. Việc khắc phục ngã gốc và các ngã tách biệt không có nghĩa là con không lên tiếng nữa. Đạt được sự an bình khi mình ở trên trái đất không có nghĩa là con sẽ không lên tiếng, mà có nghĩa là con sẽ lên tiếng một cách khác, với một thái độ hoàn toàn khác. Con không bị một ngã tách biệt thúc đẩy con lên tiếng. Con không bị một động lực cưỡng bách con phải lên tiếng.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 2

2.1. Con không lên tiếng với thái độ là mình phải tạo được một kết quả. Con không lên tiếng vì con phải thuyết phục hay cải đổi người khác. Mà con lên tiếng với thái độ là con ở đây để cho họ một khung tham chiếu mà họ không có bây giờ, xong con để họ hoàn toàn tự do chọn xem họ muốn làm gì với khung tham chiếu này.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.2. Con đã cho họ những gì họ không có trước đó. Con cho họ một nền tảng để chọn lựa tốt hơn, chọn lựa cao hơn, chọn lựa nhận biết hơn, nhưng con để yên cho họ chọn như thế nào và chọn những gì.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.3. Chọn lựa giùm người khác không phải là nhiệm vụ của con trong khuôn khổ Luật Tự quyết. Nhiệm vụ của con là cho họ sự tùy chọn, sự chọn lựa để họ chọn tự do hơn, nhưng sau đó con vẫn cho phép họ chọn bất cứ gì họ muốn.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.4. Con buông bỏ toàn bộ thang điểm tương đối, so sánh của sa nhân về thế nào là toàn hảo và bất toàn, thế nào là đúng và sai cùng toàn bộ tư duy này. Con phát biểu từ một trạng thái nội tâm an bình.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.5. Con giải phóng người khác để họ tự do phản ứng theo cách họ muốn. Con giải phóng chính mình để con tự do phản ứng như con muốn cho dù ngươì ta có chọn lựa thế nào. Con không phiền hà, con không nản lòng, con không bực tức, con không cảm thấy bị chối bỏ khi người ta không chấp nhận những gì con nói.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.6. Con cảm thấy an bình nội tại, niềm vui nội tại là con đã nói nó ra. Con đã đem nó ra trước mọi người, con đã đưa nó ra để mọi người sử dụng, và đó chính là mục đích của con. Đó là phần thưởng của con: biết rằng nó đang có mặt trong cõi vật lý và để yên cho mọi người tự do chấp nhận hay bác bỏ.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.7. Con sẵn lòng kinh qua một giai đoạn ngừng lên tiếng, thậm chí con cảm thấy mình không còn có quan điểm về bất cứ gì nữa. Con không lên tiếng do con có một quan điểm mà con muốn người ta chứng thực.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.8. Khi con lên tiếng, con chia sẻ những gì con suy nghĩ, những gì con cảm nhận và cách con trải nghiệm vấn đề như thế nào. Con chia sẻ những việc con làm, những việc con chọn làm hay chọn không làm và tại sao như vậy. Con không cố thuyết phục bất cứ ai. Con không bảo ai phải làm gì. Con chỉ đơn giản chia sẻ suy tư của riêng mình, cái hiểu của riêng mình, ngay cả quá trình đã dẫn con đến cái hiểu đó.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.9. Dù sa nhân có nghĩ gì, dù người khác có nghĩ gì, con vẫn có quyền sống trên hành tinh này, con có quyền biểu đạt chính mình cùng những kết luận con đã đạt được, những sáng ngộ con đã có và quá trình con đã kinh qua. Con có quyền chia sẻ những thứ đó.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 3

3.1. Nếu điều này làm cho người khác bực bội, con tuyệt đối không cần phản ứng lại. Con cho họ tự do chọn cảm thấy như vậy nếu họ muốn, nhưng điều này không ngăn cản con, nó không làm con nản lòng.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.2. Khi người ta bác bỏ những gì con nói, điều này không khiến con khăng khăng muốn thuyết phục họ nhiều hơn. Con không phát biểu với nhu cầu được người ta chứng thực hay đồng ý. Cách họ phản ứng với những gì con nói thật không quan trọng gì với con.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.3. Thay vì bảo điều gì là đúng hay sai, con trình bày về hậu quả của một hành động đặc thù, một quan điểm, một ý thức hệ hay một hệ tư tưởng đặc thù. Con trình bày vấn đề mà không bảo là người khác đúng hay sai, không bảo là họ phải tin gì mà chỉ đơn giản nhìn vào các hậu quả.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.4. Như một sinh thể Ki-tô, con không có một quan điểm cố định về những gì phải xảy ra trong bất cứ tình thế nào. Cái nhìn bao quát của con là con muốn mọi người trở nên ý thức hơn để họ có thể chọn lựa nhận biết hơn.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.5. Mục đích của con là nâng cao nhận biết, không phải là chế tạo một kết quả vỏ ngoài đặc thù. Kết quả thực sự mà con muốn hòa nhập là việc nâng cao nhận biết. Ở các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, con bắt đầu hòa điệu nhiều hơn với các chân sư thăng thiên, và mục đích chủ yếu của các thày là nâng cao tâm thức chứ không phải là tạo ra một kết quả đặc thù.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.6. Để lên tiếng mà vẫn an bình, để giải phóng người khác và giải phóng chính con, con cần chữa lành chấn thương nhập đời của con. Con cần khắc phục các ngã tách biệt đang cưỡng bách con phải ảnh hưởng người khác.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.7. Con sẵn lòng khắc phục cơ chế muốn thay đổi người khác để mình cảm thấy dễ chịu hơn về chính mình, hay để tránh cảm giác tiêu cực khi, nói chung, con muốn thay đổi người khác để con không phải thay đổi chính con.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.8. Con sẽ không nản lòng nếu con chưa hàn gắn được chấn thương nhập đời vũ trụ của con. Con sẽ không nản lòng nếu con vẫn còn ngã tách biệt trong con. Con đã sống rất nhiều kiếp trên trái đất, đã tạo ra nhiều ngã tách biệt, và con sẽ cần thời gian để giải quyết lần lần cho hết.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.9. Con chấp nhận là thày, Giê-su, đã cho phép con bỏ qua bên bất kỳ cảm giác cưỡng bách nào là con phải lên tiếng. Con chấp nhận là con có thể bước lui lại và nói: “Tôi sẽ ngừng lên tiếng một thời gian. Tôi sẽ ngậm miệng lại, vứt bàn phím máy tính đi và không lên tiếng. Tôi cho phép mình không phát biểu, mà thay vào đó tôi tập trung vào bên trong để giải quyết chấn thương nhập đời cùng các ngã tách biệt đã cưỡng bách tôi phải nói ra, đã cho tôi nhu cầu phải thuyết phục người khác, đã khiến tôi muốn được chứng thực, muốn được công nhận, muốn tạo ra một cảm giác bên trong hay muốn né tránh một cảm xúc tiêu cực.”

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 4

4.1. Con muốn có một chút nghỉ ngơi để con có thể chữa lành và khắc phục khuôn nếp quan hệ xung đột hay đối nghịch với người khác.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.2. Thật không cần thiết con phải khích bác người khác để bày tỏ quả vị Ki-tô của con. Có rất nhiều người trong xã hội đang lên tiếng một cách đối nghịch, khiêu khích, hung hãn. Điều cần thiết là một cái gì khác, một tiếng nói khác.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.3. Giê-su, hãy dạy con lên tiếng một cách khác hơn, bằng cách chia sẻ bản thân con, trình bày các hậu quả, ngay cả nói lên một tầm nhìn cao hơn, hay cho mọi người thấy một góc cạnh khác hơn về vấn đề.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.4. Giê-su, hãy dạy con cách nào con có thể giúp thay đổi toàn bộ diễn ngôn công cộng, qua đó chúng ta vứt bỏ kiểu tranh luận công cộng do các nhà báo đề xướng, là luôn luôn mang hậu ý mô tả sự việc theo một cách trong khi tuyên bố là mình khách quan. Hoặc theo kiểu các nhà chính trị bị kẹt trong trò chơi đảng phái muốn đảng mình là đảng vượt trội, đến độ họ không thể hợp tác trong bất cứ chuyện gì.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.5. Giê-su, hãy giúp con thấy cách nào con có thể đưa ra một giải pháp thay thế cho lối suy nghĩ đen trắng nhị nguyên đã chi phối diễn ngôn công cộng từ quá lâu nay. Để phát biểu với một tiếng nói khác, con phải khắc phục các ngã tách biệt, và con đã có các dụng cụ để làm việc này.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.6. Giê-su, hãy giúp con thấy đây là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Thật ra đây là điều con mong muốn. Con không bao giờ muốn lên tiếng theo cách con đã từng lên tiếng, cách này luôn luôn cho con một phản ứng tiêu cực.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.7. Giê-su, hãy giúp con tìm một tiếng nói khác để lên tiếng, hầu con bắt đầu nhìn thấy nó. Con sẵn lòng làm việc trên bản thân con cho đến khi con tìm thấy tiếng nói nội tâm, tiếng nói đích thực của con. Và khi con tìm thấy, con nhất định sẽ lên tiếng.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.8. Giê-su, con biết thày vui mừng được trải nghiệm con, và con biết thày có thể trải nghiệm con bất cứ lúc nào. Cho nên con từ bỏ mọi thái độ muốn trốn tránh thày.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.9. Con quyết định mời thày đến trải nghiệm con, và quả thực con sẵn lòng trải nghiệm thày cùng niềm vui mà thày là. Giê-su, con mời thày đến trải nghiệm con.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

10 | Thỉnh cầu việc tẩy xóa ký ức

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Chân sư MORE, hãy giúp con học cách tẩy xóa ký ức của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Có một cái ngã trong con cảm thấy bị kẹt trong quá khứ, sống trong quá khứ, nhìn lại quá khứ, thậm chí còn ao ước một thiên đàng đã đánh mất ở một thời điểm trong quá khứ.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.2. Con cảm nhận mình đã đánh mất cái gì đó. Thật vậy con đã mất sự trong trắng mà con có trước khi đến đây. Các thày đang cố giúp con hồi lại, giành lại sự trong trắng này.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.3. Có những cái ngã không do con tạo ra để phản ứng lại một tình huống đặc thù, mà được tạo ra để phản ứng lại cảm giác mình là người đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.4. Các ngã này có mặt trong tâm thức tập thể và thật khó lòng mà không bị chúng ảnh hưởng, đặc biệt sau khi con phải chịu chấn thương nhập đời và bị sốc là các điều kiện trên trái đất khác xa đến như vậy so với những gì con đã hình dung trước khi đến đây.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.5. Con đã khoác vào một số trong những ngã tập thể này, chúng được tạo ra suốt một thời gian rất dài để đối phó với một hoàn cảnh mà con người không thể sống chung.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.6. Có một số ngã đã quanh quẩn trong tâm thức tập thể từ rất lâu. Có ngã muốn con nghĩ rằng một khi con đã làm một việc gì con chấp nhận là sai lầm, thì con không thể thoát ra khỏi vì con không thể gỡ bỏ tình huống vật lý đó.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.7. Để thoát khỏi quá khứ, cuối cùng con phải lấy một quyết định để được tự do. Ý chí là một động lực vô cùng dũng mãnh – ý chí muốn là con người mà con là, ý chí muốn là một người sáng tạo, ý chí muốn sáng tạo một điều gì chưa có mặt bây giờ.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.8. Sáng tạo là mối đe dọa to lớn cho sa nhân và sự kiểm soát của chúng trên địa cầu. Chúng không muốn con sáng tạo. Chúng không muốn con khởi lên một điều gì mà chúng không thể đoán trước.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.9. Sa nhân nói là khi con lầm lỗi, đó là vì con đã lấy quyết định. Có một cái ngã trong tâm thức tập thể bảo rằng việc lấy quyết định thật nguy hiểm, rằng con nên ngừng lấy quyết định như một cá nhân. Con nên tuân theo chuẩn mực, tuân theo tiêu chuẩn, tuân theo quy luật, hành xử y như mọi người khác.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 2

2.1. Ngã này bảo là con vẫn có thể lấy quyết định nhưng chỉ trong một khuôn khổ hạn hẹp. Đây không phải là những quyết định sáng tạo, quyết định mới mẻ, quyết định thử nghiệm. Ngã này phóng chiếu là nếu con ở trong quy chuẩn thì con sẽ an toàn.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.2. Với mức tâm thức của con, con không thể an bình nếu con rơi vào tâm thái đó. Nếu con đem ngã này vào bốn thể phàm, con không thể an bình với việc mình ở trên trái đất, vì con biết là con không đang hoàn thành mục tiêu của mình khi đến đây. Con không đang hoàn thành tiềm năng cao nhất của con, con không tăng triển, con không tự thăng vượt.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.3. Con không thể an bình với ngã đó. Chừng nào con không sẵn lòng lấy quyết định thì con sẽ không thể an bình. Để vượt qua bế tắc, vượt qua thế lưỡng nan này, con phải lấy quyết định. Và con sẵn lòng lấy các quyết định này.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.4. Cái “tôi” bị quá khứ lôi kéo là cái Ta Biết. Đây là một phần trong con người phàm của con không phải là bốn thể phàm, không phải là ngã tách biệt, cũng không phải là ý niệm nhân cách của con – nó vượt khỏi những thứ này. Đó là cái cho con sự tự nhận biết, giúp con bước lui lại khỏi hoàn cảnh hiện tại, khỏi ý niệm bản sắc hiện tại và quyết định là con muốn thay đổi.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.5. Chính cái Ta Biết có thể nhận diện: “Ồ, tôi có một ngã tách biệt trong bản thể tôi đang phóng chiếu là có một vấn đề tôi phải giải quyết.” Đó là thành phần trong con có khả năng ý thức được tâm thức của con, ý thức những gì đang diễn ra trong tâm thức con.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.6. Nhân cách vỏ ngoài của con hoàn toàn bị bao trùm trong hoàn cảnh hàng ngày. Nó không thể bước lui lại và nói: “Bây giờ đến lúc tôi cần hành xử khác hơn.” Nhưng đó là điều cái Ta Biết có thể làm khi nó ý thức khả năng này của nó. Nó có khả năng bước lui lại.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.7. Một ngã tách biệt không thể bước lui lại, nó không thể nói: “Ồ, tôi muốn giải thể chính tôi.” Cái Ta Biết có thể bước lui lại và nói: “Tôi muốn giải thể ngã này vì nó không là cái ta của tôi, nó không là con người tôi là.”

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.8. Mỗi khi con nhận biết có một ngã tách biệt, đó chính là cái Ta Biết đang sử dụng khả năng của nó để ý thức những gì đang xảy ra trong tâm con. Cái Ta Biết là thành phần trong tâm con có khả năng ý thức về phần còn lại của tâm.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.9. Để cho một ngã tách biệt chết đi, cái Ta Biết phải lấy một quyết định. Nó cần nhìn ra ảo tưởng đằng sau sự phóng chiếu của ngã, nhìn ra vấn đề do ngã phóng chiếu là không thực và không có giải pháp.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 3

3.1. Không hề có giải pháp nào, đó là một vấn đề không thể giải quyết. Một khi cái Ta Biết thấy được điều này, nó có thể lấy quyết định: “Tôi không còn muốn chú ý của tôi bị buộc chặt vào việc cố giải quyết vấn đề bất khả này.” Và con để cho ngã chết đi.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.2. Có một cái ngã phóng chiếu là con không thể thoát khỏi quá khứ, nhưng nó không phóng chiếu là có điều gì con cần giải quyết – vì theo ngã này, quá khứ được khắc trên đá, nên con không bao giờ có thể thoát ra khỏi.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.3. Ngã này thực sự phóng chiếu là con phải cảm thấy tồi tệ về những gì đã xảy ra trong quá khứ và con phải tiếp tục cảm thấy như vậy. Thật không có vấn đề gì cần giải quyết ở đây, theo nghĩa là ngã không cho con một lối thoát.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.4. Các ngã kia cho con một lối thoát, ít ra ảo tưởng là một ngày con có thể trở nên toàn hảo. Nhưng ngã này không cho con lối thoát vì dựa theo những gì nó phóng chiếu, con không thể thay đổi quá khứ. Con thấy đây là một tình huống bất khả.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.5. Để vượt quanh vấn đề này, con thấy mọi chuyện con làm đều được làm với năng lượng cơ bản, dạng cơ bản của Ánh sáng Mẫu-Vật cấu tạo bốn cõi của vũ trụ vật chất.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.6. Có một năng lượng ở đó, và tất cả những gì con làm đều được làm với năng lượng này. Năng lượng giống như những cái chấm trên một màn hình có thể bật hay tắt, có thể khoác vào màu sắc và hình thù khác nhau, có thể sắp xếp thành mô thức khác nhau.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.7. Con luyện tập để thấy được năng lượng đằng sau các hình ảnh mà tâm con phóng chiếu lên năng lượng. Con nhận ra tất cả đều được tạo bằng năng lượng và năng lượng chỉ là năng lượng. Đó chỉ đơn giản là năng lượng.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.8. Có một cái ngã nhìn vào một tình huống từ quá khứ và bảo rằng con đã phạm lỗi, rằng con không bao giờ có thể chuộc lỗi và con phải xấu hổ. Ngã bảo là tình huống đã có xảy ra, cho nên nó có một thực tế khách quan. Nó không chỉ là một chuyện chủ quan.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.9. Theo sự phóng chiếu của các ngã và sa nhân, một tình huống đã xảy ra trong quá khứ với một thực tế khách quan. Kỳ thực, không có gì là khách quan vì Thượng đế Sáng tạo không ngó đến bất cứ gì xảy ra trong một bầu cõi chưa thăng thiên.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 4

4.1. Thượng đế tạo ra một bầu cõi, gửi sinh thể đồng sáng tạo vào đó rồi nói: “Bây giờ các con hãy đi ra và làm bất cứ gì các con muốn trong bầu cõi này vì ta sẽ không nhìn đến nó.”

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.2. Thượng đế đích thực không phán xét con, không lên án con và không cầm giữ hình ảnh về những gì con đã làm trong quá khứ. Chỉ thượng đế giả do sa nhân tạo ra mới nắm giữ quá khứ của con, nhưng đây không phải là thượng đế mà con cần quan tâm.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.3. Nếu Thượng đế không cầm giữ hình ảnh về các sự việc trong quá khứ, thì hình ảnh những việc con đã làm sẽ tồn tại ở đâu? Đâu là nơi một hình ảnh khách quan sẽ tồn tại?

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.4. Hồ sơ Akasha chỉ đơn giản ghi nhận mà không đưa ra một phán xét nào về cách con nhìn tình huống và những xét đoán mà con gán lên đó.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.5. Ý tưởng bảo rằng con đã lầm lỗi có thể nằm trong tâm người khác, và một số những người này có thể là sa nhân, nhưng cái nằm trong tâm người khác không khách quan. Đó là một xét đoán hoàn toàn chủ quan.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.6. Bản ghi các lỗi lầm cũ của con cũng có thể nằm trong bốn thể phàm của con, trong chính tâm con. Nhưng cái này cũng không phải là một thực tế khách quan, vì nó hoàn toàn tùy thuộc vào nội dung tâm thức con, kể cả những ngã tách biệt đã pha màu nhận thức của con.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.7. Không có một thực tế khách quan nào trong những gì con đã làm trong quá khứ. Đúng là có một mô thức sóng năng lượng nào đó trong Hồ sơ Akasha, nhưng ý tưởng cho rằng con là kẻ có tội, con là người xấu, con đã lầm lỗi, thì cái này không có bất kỳ thực tế khách quan nào. Nó không được ghi lại ở bất cứ đâu.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.8. Các chân sư thăng thiên không giống như Thượng đế của Kinh Cựu ước. Các thày cũng không cầm giữ một hình ảnh nào về con. Các thày không phán xét con với tâm thức nhân gian. Các thày không phán xét con gì hết.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.9. Những gì con đã làm trong quá khứ không hiện hữu trong bất kỳ thực tại khách quan nào. Chỉ có chính con hay người khác mới có thể phú cho nó một sự hiện hữu lâu dài. Con có thể đem theo từ kiếp này sang kiếp khác các hình ảnh cá nhân chủ quan của mình về những gì mình đã làm trong tiền kiếp. Con có thể đem chúng theo con trong bốn thể phàm của con.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 5

5.1. Con mang với con từ tiền kiếp những gì con đã làm và cách nhìn của con, nhưng người khác thì không thể nhớ lại việc con đã làm. Ký ức của con về quá khứ chỉ hiện hữu trong bốn thể phàm của con thôi.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.2. Con không có quyền năng thay đổi các thể phàm của người khác, nhưng con có quyền năng làm chủ bốn thể phàm của con và loại bỏ những gì con muốn loại bỏ ra khỏi chúng.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.3. Liệu con có đang tự mắng nhiếc vì mình đã xây một lâu đài bằng cát, đã phạm một lỗi lầm không bao giờ tẩy xóa được, trong khi kỳ thực bất cứ gì mình đã làm trên hành tinh này đều được làm với năng lượng mềm mại như cát, và mình có thể đưa năng lượng trở về trạng thái không phân biệt của nó cũng dễ dàng như đống cát kia trong bãi chơi cát?

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.4. Con ngộ ra đây chính là điều con đã từng làm – không phải là con mà là một ngã tách biệt đặc thù trong bản thể con đã từng làm, không những trong kiếp này mà cả nhiều kiếp trước. Đó là một trong những ngã tập thể mạnh mẽ nhất trên trái đất khiến con người nghĩ rằng một khi mình đã xây một lâu đài cát bị xem là “sai lầm” hay “tồi tệ” thì lâu đài sẽ không bao giờ tẩy xóa được.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.5. Cho dù con đã làm gì trong tiền kiếp, đó vẫn chỉ là một lâu đài bằng cát và con có thể gạt bay nó đi. Con sẽ dùng các dụng cụ do các thày trao truyền, và đạt tới mức con đã đền bù, đã làm những gì cần làm để được tự do khỏi quá khứ.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.6. Khi đó, chỉ còn sót lại một điều duy nhất cần làm, là lấy quyết định ý thức là con sẽ gạt bay lâu đài cát đi. Lâu đài cát là hình ảnh được giữ trong tâm mà con đang áp chồng lên cát, lên năng lượng, lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Đó là ký ức của con về một sự cố.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.7. Con đạt tới điểm việc làm duy nhất còn sót lại là gạt bay hình ảnh mà con giữ trong tâm. Việc này đòi hỏi con lấy một quyết định, là quyết định ngừng bám lấy hình ảnh mình là một người xấu xa đã phạm lỗi, vân vân.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.8. Đấng Sáng tạo không ngó đến những việc con làm trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Ngài đã nói: “Một bầu cõi chưa thăng thiên là một bãi chơi cát vũ trụ.” Không có gì con làm có thể khiến cho cát bị tổn thương, không có gì con làm có thể trở nên vĩnh hằng.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.9. Con gạt bay hình ảnh con cầm giữ trong tâm rằng mình là người xấu, mình là người có tội, mình là một kẻ thất bại không có quyền ở đây, không muốn ở đây, thù ghét ở đây. Con nhìn vào hình ảnh và gạt bay nó đi. Không có gì phải giải quyết, không có gì phải làm ở đây. Con chỉ gạt bay nó đi và tự cho phép mình quên mất là hình ảnh đã từng hiện hữu.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 6

6.1. Con đang luyện tâm để nhìn xa hơn hình ảnh và thấy được năng lượng đang rung động nhịp nhàng đằng sau hình ảnh.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.2. Con đang luyện tâm để thấy thế giới vật lý là một rạp hát. Tất cả chỉ là chuyện dàn dựng. Không có gì ở đây là thực, không có gì ở đây là thường hằng. Nó chỉ có vẻ thực từ một góc nhìn nào đó, góc nhìn của ngã tách biệt.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.3. Mục đích của một vở kịch trong nhà hát là để cho khán giả một loại trải nghiệm đặc thù. Cũng đúng y như vậy với mọi thứ khác xảy ra trong cái chúng ta gọi là “thế giới thực”.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.4. Ảo tưởng lớn nhất mà sa nhân đã áp đặt lên nhân loại là bảo rằng mọi chuyện xảy ra trên trái đất là “thế giới thực.” Chẳng có gì thực trong đó theo một nghĩa khách quan. Toàn bộ mục đích của trái đất là đem lại cho các dòng sống một trải nghiệm đặc thù.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.5. Để có trải nghiệm này, con phải tin là nó thực. Con sẵn sàng chất vấn cái thực của trải nghiệm mà mọi người khác đang có. Liệu có một thế giới khách quan hay chăng? Liệu thế giới có mặt ở đó hay chăng khi không có ai đang nhìn? Năng lượng có ở đó, nhưng các hình ảnh do tâm con người tạo ra thì không có đó. Chúng không có thực tại khách quan nào cả.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.6. Cách duy nhất để con thoát ra khỏi quá khứ là đạt tới điểm con nói: “Bất cứ gì đã xảy ra chỉ là lâu đài cát. Trong tầm nhìn vũ trụ, nó cũng chỉ đáng kể như một lâu đài cát. Nó chỉ là một tương tác của sóng năng lượng. Thật là vô nghĩa mà cầm giữ một hình ảnh về nó, gọi nó là đúng hay sai, là cái này hay cái nọ.”

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.7. Câu hỏi thật sự ở đây là: Con có muốn thoát khỏi nó hay không? Và nếu con muốn thoát khỏi thì chẳng có gì ở đây con phải giải quyết. Con không phải trừng phạt bất cứ ai. Con không phải thay đổi bất cứ gì trong quá khứ không thể thay đổi. Con chỉ phải nhận ra là điều buộc chặt con với quá khứ là hình ảnh của con về quá khứ. Con quyết định gạt bay nó đi, thế là con tự do.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.8. Tuyệt đối không có gì ngăn cản con nhìn vào quá khứ của con. Con buông bỏ bất kỳ hình ảnh nào mà con nhận biết. Con nhìn nó và để cho nó ra đi, để cho nó chảy tan ra. Con chấp nhận là con có quyền năng và các dụng cụ để thoát ra khỏi quá khứ.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.9. Sẽ tới một điểm khi con đã dùng đủ các dụng cụ đến độ điều duy nhất còn sót lại là con nhận biết là con, trong tâm con, còn bám giữ một hình ảnh và giờ đây con quyết định gạt bay nó đi.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 7

7.1. Điều đem con đến hành tinh này là sự kiện con đã muốn – Hiện diện TA LÀ của con đã muốn – trải nghiệm chính mình trên hành tinh này, trong môi trường này. Những cái ngã con mang, những hình ảnh con giữ về quá khứ đang ngăn con trải nghiệm chính mình trên hành tinh này. Con không trải nghiệm cái ta thực của con mà con trải nghiệm cuộc sống trên trái đất qua một cái ngã đặc thù.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.2. Cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết, nó trung hòa đối với việc con ở trên trái đất. Nó có một sự tò mò nào đó về việc ở trên trái đất và nó nói: “Mình sẽ cảm thấy gì đây, mình sẽ trải nghiệm chính mình như thế nào trong hoàn cảnh này đây?”

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.3. Khi con khoác vào và tạo ra các ngã tách biệt, trải nghiệm của con bị ngã pha màu. Con muốn quay trở về điểm khi cái Ta Biết, trong tư cách là nhận biết thuần khiết, một cái ta trung hòa, sẽ trải nghiệm cuộc sống một cách trung hòa.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.4. Con cũng muốn vươn lên và trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con đang trải nghiệm mọi hoàn cảnh như thế nào. Đây là khung tham chiếu tối hậu cho phép con bước ra khỏi sự đồng hóa với các điều kiện con gặp, ở trong bốn thể phàm lẫn ở ngoài bốn thể phàm của con.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.5. Một ngã tách biệt được cấu tạo bằng sóng năng lượng của Ánh sáng Mẫu-Vật, và ánh sáng mang một mô thức được áp chồng lên nó. Ngã cũng chỉ là một hình ảnh, và con có thể nhìn vào ngã và quyết định gạt bay nó đi, tẩy xóa hình ảnh y như lâu đài cát trong bãi chơi cát.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.6. Điều duy nhất còn sót lại là hình ảnh, và con đang tẩy xoá nó đi. Con cho nó ra đi. Con biết con không thể làm được việc này trong vòng năm phút, nhưng con có thể làm được rất nhanh chóng so với thời gian con đã sống trên địa cầu.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.7. Con sẽ không thiếu kiên nhẫn với chính mình và với tiến trình. Có một cái ngã khiến con nóng lòng, nó bảo con phải có thể thực hiện công việc rất nhanh chóng. Con thấy nó là một ngã tách biệt và con chỉ buông nó ra.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.8. Sự thiếu kiên nhẫn ngăn cản con an bình với việc con ở đây. Con thấy sự thiếu kiên nhẫn là một cái ngã, và con quyết định là con không cần quá khắt khe với chính mình. Con không cần hoàn thành mọi chuyện trong vòng năm phút vì theo một nghĩa nào đó, thời gian không có.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.9. Thời gian là một ảo tưởng tập thể do tâm thức tập thể tạo ra. Nó được phép tồn tại vì một số người cần đến nó. Nhưng con sẽ chấp nhận lời dạy này của Phật Gautama: “Thời gian không có.” Cho nên cái ngã bị vướng kẹt trong thời gian cũng không có.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

8 | Thỉnh cầu sự sáng tạo lượng tử

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Mẹ Mary, hãy giúp con khắc phục mọi điều kiện trong tâm lý con đang ngăn chặn dòng chảy tự do của sáng tạo qua bốn thể phàm của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Cạnh tranh trên trái đất là do sa nhân sinh ra. Chúng bảo là có cái đúng và cái sai, cho nên một người có thể đúng hay có thể sai, một người có thể thắng hay có thể thua.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.2. Điều duy nhất mà sa nhân thật sự cần làm để trái đất bị nát bét là phóng ra ý tưởng có cái đúng và cái sai. Có một chuẩn mực, và con cần dùng chuẩn mực này để so sánh mọi việc con làm hay mọi sự xảy ra, con đánh giá xem nó đúng hay sai.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.3. Một trong những bí ẩn cốt lõi khởi lên từ quyền tự quyết là việc con ở đây trên hành tinh này trong khi có người khác cũng sống trong môi trường của con. Làm thế nào con quân bình được việc thực thi quyền tự quyết của con với quyền tự quyết của mọi người khác?

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.4. Sa nhân chỉ có một giải pháp độc nhất cho vấn đề này. Chúng tìm cách nâng ý muốn của chúng lên thành ý muốn thống trị mà ai ai cũng phải tuân theo.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.5. Con trực nhận là con người phải có thể hợp tác với nhau quanh một mục tiêu chung mà không xung đột. Điều đã che lấp trực nhận này là sa nhân, là chuẩn mực đúng-sai, là bảo rằng một người có thể sai hay đúng và chỉ có một cách đúng thôi.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.6. Trên một hành tinh tự nhiên không có đúng-sai mà có nhiều cách đúng. Mọi cách đều đúng và đều là những biểu đạt sáng tạo cá nhân. Không có gì sai hay đúng, và ngay cả chuyện cân nhắc đúng-sai cũng không khởi lên trong tâm con người trên hành tinh tự nhiên.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.7. Trên hành tinh tự nhiên thật dễ làm việc với Ánh sáng Mẫu-Vật. Con có thể dễ dàng phóng chiếu một tâm ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật và ánh sáng sẽ khoác vào hình tướng này.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.8. Trên trái đất không thể đồng sáng tạo dễ như vậy, một phần vì Ánh sáng Mẫu-Vật dày đặc hơn, và phần khác vì con người trên trái đất hiếm khi nào đến với nhau trong hợp nhất quanh một mục tiêu chung.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.9. Trên trái đất, gần như con không thể tạo thành một hình ảnh trong tâm, gửi nó ra và biểu hiện y như con đã hình dung. Về mặt thực tiễn, chuyện này không thể xảy ra.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 2

2.1. Biết được điều đó là cách duy nhất để con làm hòa với việc mình ở đây. Đó là cách duy nhất để con tránh cảm nhận mình là ngu ngốc, mình bất cập, mình không tốt đủ. Đó là cách duy nhất để con tránh phán xét nỗ lực sáng tạo của mình dựa theo tiêu chuẩn của sa nhân, rằng nỗ lực này phải toàn hảo, nếu không thì nó không tốt đủ.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.2. Sa nhân đã tạo ra một tư duy bảo rằng: Nếu sáng tạo của con không toàn hảo – dựa trên một chuẩn mực không bao giờ được định rõ – thì nó không tốt đủ.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.3. Do sự dày đặc của môi trường trên trái đất, gần như không ai có thể lập ra một hình ảnh trong tâm mà biểu hiện được trong hoàn cảnh vật lý. Cho nên nếu con chấp nhận lối suy nghĩ của sa nhân, con sẽ không thể thoát khỏi tình trạng mãi mãi cảm thấy là bất cứ gì mình sáng tạo cũng không tốt đủ. Nếu con mang tư duy này của sa nhân rằng nó phải toàn hảo theo chuẩn mực, con sẽ không bao giờ thoả mãn với tạo vật mình đã đồng sáng tạo.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.4. Con đang lượng định lại cách tiếp cận của con đối với mọi việc con làm trên trái đất. Con để cho ngã đó chết đi, cái ngã mang tư duy là hoặc con phải toàn hảo, hoặc con không tốt đủ.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.5. Con để cho ngã đó chết đi, cái ngã không dám biểu đạt điều gì từ nội tâm của con, cái ngã luôn chỉ trích nhưng không bao giờ là đối tượng của sự chỉ trích.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.6. Con sẽ không khóa lại dòng sáng tạo của con nữa, và con cũng thôi củng cố cho tư duy phán xét của sa nhân.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.7. Con để cho ngã đó chết đi, cái ngã bị tư duy của sa nhân ảnh hưởng. Con bác bỏ một cách ý thức tư duy sa ngã bảo rằng con là một người đồng sáng tạo không đủ tốt do con không thể biểu hiện những gì con hình dung.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.8. Trên trái đất con không có một con đường thông thoáng để viễn quan của con được gửi ra và quay trở về mà không bị nhiễu sóng. Có một môi trường năng lượng vô cùng hỗn tạp với quá nhiều cảm xúc xuất phát từ lòng sợ hãi, quá nhiều ý tưởng méo mó trong cõi lý trí, quá nhiều hình ảnh sai lạc trong cõi bản sắc. Khi con gửi một sóng năng lượng vào các cõi này, một sự nhiễu sóng khổng lồ phải xảy ra.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.9. Khi con gửi ra một viễn quan sáng tạo, nó gặp phải một năng lượng tiêu cực, nhưng sự tương tác biến đổi cả hai làn sóng. Kỳ thực con đã đóng góp nâng cao tâm thức tập thể qua nỗ lực sáng tạo của con, nhưng con không thấy được điều này. Con nay chấp nhận là con đã giúp ích bằng cách nâng cao tâm thức tập thể.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 3

3.1. Con sẽ thôi không phán xét nỗ lực sáng tạo của mình ở đây theo một trong hai cách, hoặc theo cách con vẫn quen làm trên hành tinh tự nhiên, hoặc theo cách sa nhân muốn con phán xét. Con nhận thức là con đã quen phán xét nỗ lực sáng tạo của con như thế nào trên hành tinh tự nhiên, và sa nhân muốn con phán xét nó như thế nào ở đây, và con vứt bỏ cả hai cách vì cả hai không hiệu lực trên trái đất.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.2. Sa nhân đòi hỏi con phải làm chuyện bất khả thi, nhưng chúng phán xét con như thể cái bất khả thi là khả thi. Điều này không thực tế. Con sẽ không xét mình là bất toàn do con không làm nổi một chuyện không thể làm được – đây là điều vô lý.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.3. Con đã bị lập trình hết kiếp này đến kiếp khác để tự đánh giá mình theo kiểu đó. Đây là một lập trình rất sâu đậm, nó vô cùng mạnh mẽ trong tâm thức tập thể trên địa cầu. Con vươn lên khỏi tâm thức đó bằng cách xoay chuyển tâm mình và để cho các ngã tách biệt chết đi.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.4. Con buông các ngã đó ra, và con thoát khỏi ý tưởng là mình phải làm được chuyện bất khả thi, và nếu mình không làm được chuyện bất khả thi thì mình bất toàn.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.5. Con tìm ra một cách hoàn toàn mới để an bình trên trái đất, một cách hoàn toàn mới để là người sáng tạo và nỗ lực sáng tạo. Con có thể gửi ra một xung lực mà không bị nản lòng bởi những gì quay trở lại, vì con biết xung lực của con đã có tác dụng tích cực, đã nâng cao tâm thức tập thể cho dù những gì quay trở lại không hoàn toàn đúng như con gửi ra.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.6. Khi con nâng cao tâm thức, con trở nên ngày càng sáng tạo hơn, con khởi lên những ý tưởng mới, những cách làm tốt hơn. Con sáng tạo hơn theo nghĩa là con thiện nghệ hơn trong việc biểu hiện cuộc sống thường nhật mà con thực muốn. Con xem đời sống hàng ngày là một hình thức nghệ thuật khi con biểu hiện cách sống mà con muốn có.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.7. Trên một hành tinh phi tự nhiên, thật không thực tế và không xây dựng mà chờ đợi là con có thể thị hiện trong vật lý đúng như con hình dung trong tâm. Con chấp nhận điều này, và con làm hòa với sự kiện là mặc dù con không biểu hiện đúng như con hình dung, nhưng con vẫn giúp cho thế giới tốt đẹp hơn bằng cách gửi ra những xung lực năng lượng nâng cao tâm thức tập thể.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.8. Con nhận ra là con không ở đây để đưa ra một tác phẩm toàn hảo. Con ở đây để đưa ra một cái gì cao hơn những gì hầu hết mọi người có thể hình dung. Không quá cao đến độ họ không thể nối kết, nhưng con chứng tỏ là có một cách tốt hơn, một hình thức sáng tạo cao hơn.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.9. Không có sự toàn hảo nào mà con cần với tới. Con đã vươn lên cao hơn tâm thức tập thể rồi. Dù con ở mức nào thì cũng hoàn toàn chấp nhận được.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 4

4.1. Các chân sư thăng thiên chấp nhận con như con là, ở tầng tâm thức này. Các thày không đòi hỏi con phải ở tầng 144. Các thày chỉ nhìn xem làm cách nào giúp con lên tầng kế tiếp.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.2. Con hiểu và chấp nhận điều này, và con an bình với tầng con đang đứng. Con an bình với việc mình ở trên địa cầu nơi nỗ lực sáng tạo của con không bao giờ tạo được đúng kết quả mà con hình dung. Thay vì tự trách móc, con chấp nhận mọi chuyện là như vậy.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.3. Các nhà vật lý lượng tử đã chứng minh là không thể tiên đoán chính xác. Con có thể lập ra một hình ảnh về cái con muốn biểu hiện, con có thể gửi nó ra ngoài, nhưng con không thể chắc chắn là nó sẽ thị hiện đúng y như vậy. Chỉ có một xác suất nào đó mà thôi.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.4. Con không thể bảo hình ảnh phải thị hiện chính xác. Con cần thực tế và nói: “Chắc chắn cái tôi gửi ra sẽ bị nhiễu sóng, cho nên cái quay trở về sẽ phần nào bị giao thoa làm méo mó, và nó sẽ không hoàn toàn đúng như tôi đã hình dung.”

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.5. Con nhận ra là con đã gửi viễn quan cao nhất mà con có thể vào lúc đó. Con đã phóng nó ra với mãnh lực tối đa mà con có thể, trong trạng thái tâm thức của con lúc đó. Cái quay trở về đơn giản là cái cao nhất mà con có thể chế tạo, trong những điều kiện vốn có là trạng thái tâm thức của con lẫn trạng thái tâm thức tập thể.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.6. Trong những điều kiện con phải làm việc, đó là thành quả tốt nhất có thể. Con không cần đánh giá là nó bất toàn hay tồi tệ vì nó không đúng hẳn như con hình dung. Con nói: “Thôi được, có sự khác biệt giữa những gì tôi gửi ra và nhận trở lại, làm thế nào tôi có thể giảm thiểu sự khác biệt? Làm thế nào tôi cho nó bớt đi?”

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.7. Con nâng cao tâm thức bằng cách loại bỏ một số ngã đã có thể khiến con có một viễn quan bất toàn hay thấp hơn khả năng của con, hay đã có thể khiến con không dùng đủ uy lực khi phóng chiếu nó ra.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.8. Con đang thanh lọc bốn thể phàm để sự nhiễu sóng càng ít càng tốt trong các thể của chính con. Con nói: “Đã có sự khác biệt giữa cái tôi hình dung và cái tôi thị hiện. Tôi cần làm việc trên bản thân tôi và tâm thức của tôi.”

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.9. Điều này không có nghĩa là con bất mãn với chính mình. Trên trái đất, con không có một quả cầu cá nhân nơi tâm con là tâm duy nhất tác động lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Con làm việc trong một không gian chung, và con chấp nhận là con ở một hành tinh có vật chất dày đặc và một tâm thức tập thể cũng dày đặc.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 5

5.1. Con cho phép những thứ đó can thiệp vào viễn quan của con, vì một phần mục đích con sống và sáng tạo ở đây là để nâng cao tập thể. Con làm vậy bằng cách gửi ra viễn quan cao nhất có thể, và con cho phép nó giao thoa, tương tác với tập thể.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.2. Tập thể kéo thấp viễn quan con xuống, nhưng viễn quan con cũng kéo tập thể đi lên. Đây chính là một phần ý nghĩa của việc đồng sáng tạo trên một hành tinh phi tự nhiên. Khi con kinh qua tiến trình sáng tạo này, con giúp nâng cao tâm thức tập thể.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.3. Sự thành công của con như một người đồng sáng tạo trong bát cung vật lý không tùy thuộc vào sự công nhận của 80% quần chúng. Nó cũng không tùy thuộc vào sự công nhận của lớp 10% thấp nhất, đặc biệt của sa nhân. Là một người đồng sáng tạo với chút nhận thức tâm linh, con sẽ không bao giờ được sa nhân công nhận.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.4. Con nhìn nhận là trên hành tinh này có những người con không thể làm cho hài lòng. Con nhìn nhận: “Tôi sẽ không bao giờ làm người đó hài lòng. Vậy tại sao tôi lại bận tâm? Tại sao tôi không chuyển quan tâm sang những người tôi có thể quan hệ tích cực? Tại sao tôi phải ở gần những người hay chỉ trích, tiêu cực hoặc luôn luôn đòi hỏi nhiều hơn? Tôi có quyền chuyển sang những người tôi cảm thấy đồng điệu thay vì những kẻ bị phiền hà bởi rung động của tôi và muốn bài bác tôi.”

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.5. Con ngừng phán xét bản thân theo tiêu chuẩn của sa nhân hay quan điểm của người khác, và con bắt đầu cảm thấy là mình thực sự có thể sáng tạo trên địa cầu.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.6. Con an bình sáng tạo cho dù nỗ lực sáng tạo của con không bao giờ biểu hiện được những gì con có thể hình dung. Con nhìn nhận là khi con là một đệ tử tâm linh tiên tiến, con có thể hình dung vượt xa những gì một người trung bình có thể hình dung, vượt xa những gì có mặt trong tâm thức tập thể.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.7. Khi con gửi ra xung lực này vào bốn tầng của vũ trụ vật chất, nó sẽ gặp nhiễu sóng từ tâm thức tập thể vì nó gặp phải rất nhiều năng lượng thấp hơn. Đây không phải là thảm họa. Không phải là lỗi con nếu nó không thể hiện đúng như con hình dung. Nó vẫn đem lại tác dụng tích cực, cho nên nỗ lực sáng tạo của con vẫn đáng công sức.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.8. Con không còn sáng tạo do con muốn biểu hiện một kết quả đặc thù, hay để người khác công nhận và chứng thực con. Những thứ này không còn thôi thúc con nữa. Tiền bạc không còn thôi thúc con nữa.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.9. Điều thôi thúc con là mục đích thực sự của con khi con đến địa cầu: Đó là trải nghiệm chính mình ở đây.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 6

6.1. Con sáng tạo, nhưng phần thưởng cho sáng tạo của con không phải là những gì thị hiện trong vật lý, không phải là sự công nhận, không phải là tiền bạc.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.2. Phần thưởng của con là kinh nghiệm biết rằng con đã cố gắng trong môi trường đặc thù này. Con đã cố gắng – con đã thị hiện một cái gì cao hơn những gì có trước đó.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.3. Con muốn trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con đang trải nghiệm trái đất như thế nào.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.4. Khi con trải nghiệm Hiện diện TA LÀ đang trải nghiệm các nỗ lực sáng tạo của con như thế nào, đây là hình thức khen thưởng cao nhất cho nỗ lực của con.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.5. Tự thân nỗ lực này trở thành phần thưởng cho chính nó. Nó trở thành một tiến trình tự củng cố, qua đó con không ngừng với lên cao hơn, không phải từ một cảm nhận thiếu thốn mà từ cảm nhận là con biết mình có khả năng hoàn thành một điều gì.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.6. Biết được những gì mình đã hoàn thành đem lại cho con cái biết là con có thể hoàn thành nhiều hơn. Con không bất mãn, con không luôn cảm thấy nó không đủ tốt, mà con cảm thấy những gì con tạo ra thực sự tốt đủ.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.7. Vì con đã tạo ra cái đó, giờ đây con thấy là con có thể tạo ra cái gì cao hơn nữa, và con có thể cứ tiếp tục làm vậy. Không từ một cảm nhận thiếu hụt mà từ một cảm nhận đồi dào, một cảm nhận là con đầy ắp.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.8. Con đầy ắp. Không có “lỗ hổng” nào trong bản thân mà con tìm cách lấp đầy. Niềm vui là cảm thấy ly nước đang tràn ra ngoài – cảm nhận liên tục là cái chén của dòng chảy sáng tạo đang tràn ra ngoài và được gửi vào môi trường của con.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.9. Chính cái đó cho con niềm vui, niềm toại nguyện và sự tràn trề đến độ nó tràn cả ra ngoài. Cái đó, con mong muốn có. Và con dùng những lời dạy này để đạt được. Đó cũng chính là điều con đã quyết định trong Sứ vụ Thiêng liêng của con là tiềm năng cao nhất trong kiếp sống này mà con đã muốn chứng được.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

6 | Thỉnh cầu quyền được quên mà Thượng đế đã ban cho con

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Chân sư MORE, hãy giúp con giành lại quyền thiêng liêng của con là được quên đi quá khứ, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Quá khứ không được tạc trên đá. Thật vậy, quá khứ có thể được thay đổi. Con có thể thoát ra khỏi mọi lỗi lầm, bất kỳ lỗi lầm nào con đã làm trên địa cầu.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.2. Con sẵn sàng đập đổ những bức tường trong chính tâm con đang giam hãm, buộc chặt con vào một khuôn nếp phản ứng với sa nhân.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.3. Con đang hình dung, tưởng tượng, con thấy rõ và chiêm nghiệm là toàn bộ thế giới vật chất được xây dựng bằng năng lượng.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.4. Con tập trung chú ý vào một tình huống đau đớn trong quá khứ của con. Thời gian đã trôi qua và tình huống vật lý không còn hiện diện nữa, nó đã bị thời gian tẩy xóa.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.5. Tình huống đã bị thời gian sơn lên một lớp sơn. Chiếc cọ vĩ đại của thời gian đã biến mọi sự thành cái đang là bây giờ.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.6. Cái đang là bây giờ quả thật có thể bị quá khứ ảnh hưởng, nhưng quá khứ không còn ở đây như một hiện thực vật lý. Nó chỉ ở đây như một dấu in hay một hình ảnh trong tâm con, trong ba thể cao của con, ngay cả trong cơ thể vật lý của con.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.7. Bộ não có tác dụng giúp con tạo ý nghĩa cho thế giới vật lý. Dụng cụ chủ yếu con dùng là khi não áp đặt một số hình ảnh lên các tín hiệu đến từ mắt. Mắt con không đang thấy. Não lấy tín hiệu đến từ mắt, rồi sắp xếp thành một hình ảnh ăn khớp với những gì não đã chứa sẵn trong kho dữ liệu của nó.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.8. Não không nhìn thấy những gì ở trước mặt con. Nó tìm kiếm một mô thức ăn khớp với một cái gì đã nằm sẵn trong kho dữ liệu của nó, một mô thức mà nó có thể nhận diện. Một khi nó có đủ tín hiệu để hình thành một mô thức quen thuộc, nó sẽ ngừng nhìn và áp chồng mô thức lưu trữ này lên những gì con đang nhìn.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.9. Bộ não của con bị buộc chặt vào động lượng tập thể, cho nên nó mang sẵn một số lập trình. Con có sẵn một kho dữ liệu những mô thức mà không những chính con đã nhìn thấy từ trước, mà cả tâm thức tập thể cũng đã nhìn thấy từ trước.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 2

2.1. Con đã quen nhìn mọi thứ dưới dạng hình ảnh và con dán nhãn lên mọi thứ, thường thường con dán nhãn bằng ngôn từ. Điều này bồi thêm một lớp phức tạp nữa, vì từ rất lâu loài người đã có thói quen gọi tên mọi thứ bằng ngôn từ.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.2. Khi con đặt tên cho một vật, con cũng giới hạn chính con vì con củng cố cho hộp tư duy của con. Giờ đây con nghĩ vật sẽ giống như cái nhãn mà con đã dán và nó sẽ luôn luôn như vậy. Con đã buộc mình vào động lượng tập thể, và con đã xây dựng động lượng riêng của mình trong bao nhiêu kiếp sống.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.3. Làm thế nào con có thể thoát khỏi một tình huống từ quá khứ? Chừng nào con còn giữ trong não và ba thể cao của con cái dấu in của tình huống đó, những hình ảnh, những ngôn từ mà con đã gắn liền với tình huống đó, chừng nào những thứ này còn được cất giữ ở đó thì con không thể thoát khỏi tình huống từ quá khứ.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.4. Con đang tái huấn luyện chính mình. Con luyện cho tâm con phản lệnh bộ não. Con không thể tin được bộ não vì trong não có một lập trình khiến con thấy vật theo một cách không phải là cách nó thực là.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.5. Con luyện tập để nhận ra là những hình ảnh được chiếu lên màn hình của tâm con không biểu hiện một thực tại vật lý nào. Chúng chỉ là những mô thức gồm vô số chấm nhỏ đủ màu được mắt con phóng chiếu.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.6. Con luyện tập cho mắt con đổi tiêu cự đôi chút, và thay vì thấy rõ từng người hay từng vật, con chỉ nhìn thấy những mảng tia sáng đủ màu đang đập vào mắt con.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.7. Con luyện tập để thấy vật rắn đặc không là rắn đặc. Chúng không phải là vật thể. Chúng chỉ là những tia sáng hình thành một mô thức nào đó.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.8. Con đang nối kết với một tình huống trong quá khứ của con, với hình ảnh mà bộ não của con khơi dậy, hình ảnh mà ba thể cao của con khơi dậy.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.9. Con luyện tập để đưa các hình ảnh này lên tầm nhìn nội tâm. Xong con thấy chúng, không phải là hình thù và hình ảnh con đang có, mà đơn giản là những mô thức tia sáng, hay mô thức nguyên tử, electron, hạt hạ nguyên tử.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 3

3.1. Con luyện tập để đem lên các hình ảnh từ quá khứ đang ám ảnh con, hay các hình ảnh mà con đã kềm nén, và con đập bể hình ảnh ra thành những mảnh nhỏ hơn.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.2. Con luyện tập để nhận ra một cách ý thức: “Hình ảnh này chỉ là một hình ảnh mà bộ não và các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của tôi đã áp chồng lên ánh sáng. Thực tế là nó không còn là một tình huống vật lý nữa. Nó chỉ là một hình ảnh.”

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.3. Hình ảnh này được cấu tạo bởi những hạt ánh sáng điện từ nhỏ xíu, những cái chấm, những hình ảnh tạo bằng chấm. Con luyện tập để bước vào hình ảnh thị giác mà con có trong tâm.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.4. Con bước vào hình ảnh gần hơn và gần hơn nữa cho đến khi con chỉ còn nhìn thấy chấm. Xong con nhận ra những chấm này chính là thực tại sâu xa hơn. Hình ảnh chỉ là cái gì được áp chồng bởi bộ não và các thể tình cảm, lý trí, bản sắc của con. Còn chấm mới là thực tại.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.5. Con nhận ra là chấm luôn chuyển động, chúng linh hoạt, chúng không ngừng rung động, và chúng có thể biểu diễn bất cứ hình ảnh nào khác dễ dàng như chúng đang biểu diễn hình ảnh hiện thời.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.6. Chấm có thể được giải phóng khỏi cái khuôn đúc đã được áp chồng lên chúng để chúng trở về trạng thái nền, là trạng thái tự do nơi chúng hoàn toàn trung hòa và không biểu hiện bất cứ hình ảnh nào.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.7. Con đang hình dung là hình ảnh dần dần tan thành từng mảnh nhỏ, và những mảnh này bắt đầu rung lên và chuyển động. Chúng chạy tứ phía, làm phân hủy hình dạng của hình ảnh và chỉ còn lại một màu đồng nhất.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.8. Con hình dung là chúng biến thành giống như nước của biển cả, hay cát của sa mạc, hay không khí của trời xanh. Nhưng chúng trở thành vô đặc tính, vô hình dạng.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.9. Hình ảnh được giải thể và con để cho nó ra đi. Con đang lấy một quyết định và nói: “Tôi để cho hình ảnh này chết đi. Tôi để cho nó tan biến. Giản dị là tôi đã quên nó rồi.”

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 4

4.1. Bí quyết để quên là nhận ra ký ức của con được lưu trữ một phần dưới dạng năng lượng, năng lượng cảm xúc, mà con có thể giải thể qua các bài chú, bài thỉnh.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.2. Ký ức của con cũng được lưu trữ dưới dạng hình ảnh trong bộ não, trong ba thể cao của con. Các hình ảnh này đã được áp chồng lên các hạt lượng tử, lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Các hạt này có khả năng khoác vào đủ loại hình thể, hình thù, mật độ và màu sắc khác nhau.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.3. Con có khả năng tháo gỡ các hình ảnh mà tâm con đã phóng chiếu lên hạt và giải phóng hạt khỏi hình ảnh. Khi con thực sự làm vậy, hình ảnh không còn đó nữa, cho nên ký ức cũng biến mất.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.4. Ký ức là một cái gì con mang trong bốn tầng của cõi vật chất. Phải có một cỗ xe để chuyên chở ký ức. Ký ức được lưu trữ dưới dạng hình ảnh thị giác. Trong ba thể cao của con có một môi thể lưu trữ, được tạo bằng những hạt có khả năng khoác vào hình ảnh và duy trì hình thù vĩnh viễn.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.5. Con luyện tập để đi vào bên trong, nhìn lại hình ảnh, nhưng sau đó con nhìn vượt khỏi hình ảnh và giải phóng các hạt để chúng trở về trạng thái nền của chúng. Khi chúng trở về trạng thái nền, hình ảnh tan rã và đó chính là cỗ xe của ký ức. Một khi cỗ xe ký ức tan rã thì ký ức cũng tan theo.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.6. Con luyện tập để tâm con là cánh cửa mở cho Chân Sư MORE, để thày gửi một tia sáng vào hình ảnh, qua đó thày khiến cho hạt rung nhanh hơn đến độ chúng nhảy ra khỏi mô thức định sẵn trong hình ảnh và trở về trạng thái nền của chúng.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.7. Con luyện tập để thấy hình ảnh con có trong tâm được cấu tạo bằng những hạt đó, và vì vậy hình ảnh linh hoạt và uyển chuyển. Nó có thể dễ dàng tan rã, nó không được tạc trên đá, nó không rắn đặc.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.8. Con luyện tập để xóa bỏ các ký ức đau buồn của con từ tiền kiếp hay trong kiếp này. Con chuyển hóa tâm con để chấp nhận là không có gì trong thế giới vật lý, không có gì trong bốn cõi của vật chất, là rắn chắc như đá. Không có gì là không thể thay đổi, vì tất cả mọi thứ đều được tạo bằng những hạt ánh sáng mà trên đó một hình ảnh được áp chồng lên.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.9. Các hạt ánh sáng này kỳ thực không phải là hạt ánh sáng. Thế giới vĩ mô không được tạo bằng hình thù, mà bằng những thực thể nhỏ hơn mà trên đó hình ảnh đã được áp chồng lên. Chúng có thể được giải phóng khỏi mô thức để trở về với trạng thái nền, hay biểu hiện một mô thức khác.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 5

5.1.Con luyện tập để thấy các hình ảnh con cầm giữ trong tâm, các hình ảnh về quá khứ, không được tạo bằng một chất vật lý kiên cố như đá. Chúng được tạo bằng một loại thực thể khác, cho nên chúng linh hoạt uyển chuyển.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.2. Ánh sáng Mẫu-Vật không nằm trong cõi vật lý, nhưng nó có thể được kéo vào quang phổ vật lý. Rồi những chấm nhỏ của Ánh sáng Mẫu-Vật có thể được sắp xếp thành mô thức, nhưng Ánh sáng Mẫu-Vật chỉ ở lại trong mô thức này chừng nào vẫn còn cái gì phóng chiếu hình ảnh lên nó.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.3. Lý do con mang ký ức về quá khứ là vì tâm con đang áp chồng hình ảnh đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Nó ngăn cản không cho các đơn vị của Ánh sáng Mẫu-Vật trở về trạng thái nền và đi ra khỏi cõi vật lý.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.4. Ký ức không chỉ là ký ức có ý thức mà thôi. Tâm tiềm thức của con không ngừng phóng chiếu một hình ảnh nào đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.5. Con luyện tập để nhìn ra là hình ảnh không phải là một hình ảnh vật lý không thay đổi. Nó được tạo bằng những chấm nhỏ li ti của Ánh sáng Mẫu-Vật. Con có thể quyết định trong ý thức để làm cho hình ảnh tan biến.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.6. Con luyện tập để thấy một ngã tách biệt đang duy trì hình ảnh đó, đang muốn duy trì hình ảnh đó. Con quyết định ngừng nuôi nó bằng năng lượng và chú ý của con.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.7. Có một cái ngã nghĩ rằng nó phải bám lấy ký ức, và con nhìn thấy nó. Con xoay chuyển một cách ý thức, con quyết định một cách ý thức: “Tôi không phải bám giữ tất cả mọi ký ức về những chuyện đã xảy ra cho tôi trên hành tinh này.”

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.8. Cho dù con đã kinh qua chuyện gì trên hành tinh này, đã trải nghiệm nó như thế nào qua phin lọc bốn thể phàm, thì Hiện diện TA LÀ của con có một kinh nghiệm hoàn toàn khác. Kinh nghiệm này mới là kết quả vững bền, là thành quả lâu dài mà con muốn thành tựu qua việc hiện thân trên trái đất. Kinh nghiệm này được lưu trữ vĩnh viễn trong căn thể của con. Đấy chính là cái thực. Đấy chính là cái tồn tại. Đấy chính là điều con đã muốn gặt hái từ việc hiện thân trên trái đất.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.9. Những ký ức mà con có trong bốn thể phàm không có giá trị trường tồn. Tại sao chúng phải tồn tại? Tại sao con phải đem chúng theo con? Tại sao con không nhìn chúng và nói: “Vụt, thế là mi đã tan mất”? Con chấp nhận là con có quyền được quên mà Đấng Sáng tạo đã phú cho con. Con chấp nhận là con có quyền thiêng liêng được quên.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

4 | Thỉnh cầu ký ức vì sao con đến đây

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Mẹ Mary, hãy giúp con nhớ lại mục đích nguyên thủy của con khi đến trái đất, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Con sẵn sàng thừa nhận cảm xúc của con về việc con ở đây trên trái đất. Không cảm xúc nào là sai trái. Cảm xúc con có là cảm xúc con có, và đây là một hành tinh rất khó khăn.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.2. Điều quan trọng là con thừa nhận cảm xúc của mình, vì con không thể thực sự khắc phục được cảm xúc, khắc phục được ngã, cho đến khi con ý thức có ngã hiện hữu, ngã có mặt ở đó, và ngã có một số cảm xúc.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.3. Con sẵn lòng xem xét cảm xúc đến từ đâu. Con sẵn lòng đặt câu hỏi: “Ai đang cảm xúc như vậy, là chính tôi hay một cái ngã?”

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.4. Đó là một cái ngã đang cảm xúc như vậy vì cảm xúc có liên hệ đến trái đất. Đây là một cảm xúc phản ứng, và chỉ một ngã phản ứng mới có thể có cảm xúc như vậy.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.5. Trong tư cách cái Ta Biết, con không cảm xúc. Trong cảm thể của con có thể có cảm xúc, và con có thể trải nghiệm thế giới qua sự pha màu của cảm xúc này, nhưng thật ra con không cảm xúc này.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.6. Con cảm thấy như thể mình đang có cảm xúc, và hậu quả là cảm xúc đang con. Lý do là vì con bị đồng hóa với một cái ngã, và con chưa nhìn ra đó là một ngã tách biệt, đó không phải là con.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.7. Con sẵn lòng nhận diện các ngã đó, xoay chuyển ra khỏi chúng và để cho chúng chết đi. Mẹ Mary, xin thày hãy tiêu hủy năng lượng chất chứa trong ngã để con có thể thoát khỏi cảm xúc đó và đón nhận đời mình trên trái đất với một cảm nhận tích cực.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.8. Con sẽ không sống thời gian còn lại của con trên hành tinh này với gánh nặng của các cảm xúc tiêu cực rất mãnh liệt này.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.9. Có sự khác biệt giữa cảm nhận của con về trái đất và cảm nhận của con về con người. Con sẵn lòng nhìn xem con cảm thấy gì về người khác.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 2

2.1. Những cảm xúc mãnh liệt nhất mà con có về người khác đều liên quan đến sa nhân. Cảm xúc này do sa nhân gây ra. Những gì sa nhân đã làm con, hay con đã chứng kiến sa nhân làm người khác, khiến con có cảm xúc rất mãnh liệt về con người.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.2. Con phân biệt và thấy được là con không có cảm xúc này về mọi người. Mẹ Mary, hãy giúp con có một quan hệ khác hơn với hầu hết mọi người con gặp, vì hầu hết mọi người không phải là sa nhân.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.3. Con sẽ dịu bớt cái nhìn của con về người khác để con thấy không phải ai ai cũng như vậy. Con không dựa trên sa nhân để suy diễn về mọi người, và con không để cho sa nhân tô màu cái nhìn và quan hệ của con với mọi người.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.4. Con đã cảm thấy mình bị đa số con người trên địa cầu đối xử một cách thờ ơ. Họ đã không đếm xỉa gì đến con hay họ đã thiếu thân thiện, không muốn bị phiền hà.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.5. Con đã cảm thấy người ta không muốn lắng nghe con. Họ không muốn nghe con trình bày về cái hiểu và cái biết tâm linh của con. Họ không muốn bị xáo trộn mà chỉ muốn sống theo lối sống cũ, họ không muốn thay đổi.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.6. Con đã cảm thấy lẻ loi, bị ruồng bỏ. Con đã cảm thấy mình không thuộc về nơi đây, rằng người ta không muốn nghe con nói bất cứ gì con muốn nói, họ không muốn nghe thông điệp của con đem lại.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.7. Mẹ Mary, hãy giúp con làm hòa với sự kiện là hầu hết mọi người trên địa cầu không muốn nghe một lời dạy tâm linh. Họ không muốn thoát khỏi khổ đau của họ cho dù con có thể chỉ cho họ cách làm thế nào.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.8. Mẹ Mary, hãy giúp con phát triển một lòng tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết, để con tôn trọng quyền tự quyết của người khác và cũng tôn trọng quyền tự quyết của con.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.9. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy là sau khi chạm mặt với sa nhân và chứng kiến họ khuynh loát mọi người như thế nào, liệu con đã quên mất lòng tôn trọng quyền tự quyết hay không. Hãy giúp con thấy liệu con đã khoác vào thái độ là bởi vì con người đã bị sa nhân cưỡng bức và khuynh đảo, nên việc con tìm cách đánh thức họ một cách mạnh bạo cũng chấp nhận được.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 3

3.1. Mẹ Mary, hãy giúp con bước lên mức cao nhất có thể trên trái đất. Con có thể làm bất cứ gì con chọn làm trên trái đất, nhưng hành động của con không dựa trên những ngã phản ứng kia, nó không đến từ ngã gốc cùng tất cả mọi ngã khác mà con đã tạo ra.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.2. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy liệu con đã sống nhiều kiếp trong bực dọc, và sau khi tìm được giáo lý của các thày, con cảm thấy các thày đã cho con toàn quyền xông ra ngoài mà bắt ép người khác hầu hoàn thành mục tiêu con đã đặt ra.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.3. Mẹ Mary, hãy giúp con vươn đến mức con có thể sống trên địa cầu và thách thức người khác, nhưng con làm vậy từ một tâm thái an bình. Con không đang cố thay đổi người khác để tránh một cảm xúc tiêu cực trong chính mình hay về chính mình.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.4. Con sẵn lòng giải quyết cảm xúc đó nơi chính con, loại bỏ các ngã tách biệt đó và nhờ vậy con an bình khi tương tác với người khác.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.5. Mẹ Mary, hãy giúp con đạt tới điểm cảm thấy an bình khi tương tác với người khác, cho dù họ có phản ứng thế nào đối với con.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.6. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy liệu trước khi đến đây, con có nghĩ là con đến để thay đổi địa cầu. Con sẵn lòng nhận ra đó không phải là cách hiểu cao nhất về lý do con đến địa cầu. Kỳ thực con đến địa cầu để thay đổi chính con, để có một số trải nghiệm và nhờ vậy phát triển lòng chấp nhận trọn vẹn đối với quyền tự quyết mà trước đó con không có.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.7. Con nhận ra là mặc dù có những sa nhân ác ý thao túng quyền tự quyết của nhân loại, nhưng cũng có nhiều sa nhân tin rằng chúng thao túng quyền tự quyết của người khác vì lợi ích của những người đó. Chúng tin là chúng đang tranh đấu cho một chính nghĩa cao cả, và cứu cánh này quan trọng đến độ nó có thể biện minh cho phương tiện, là cưỡng ép quyền tự quyết của những người không biết gì hơn.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.8. Con nhận ra là sa nhân, khi chúng khuynh đảo con người trên trái đất, phần lớn cũng mang cùng một nỗi bực dọc giống như con, là người ta không chịu đáp ứng, người ta không ưa thay đổi, và người ta chỉ muốn sống cùng một lối sống hết kiếp này đến kiếp khác.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.9. Con sẽ không cho phép mình có thái độ rằng cứu cánh biện minh cho phương tiện, rằng việc thúc ép người khác vì lợi ích của họ là chuyện chấp nhận được. Mẹ Mary, hãy giúp con hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết là tuyệt đối. Đấng Sáng tạo đã tạo ra một tạo vật, đã gửi những sinh thể tự nhận biết vào đó và trao cho họ quyền tự quyết tuyệt đối. Họ hoàn toàn tự do thăm dò bất cứ việc gì có thể làm được với quyền tự quyết.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 4

4.1. Con hoàn toàn có quyền tự quyết, nhưng con không khởi sự ở mức tâm thức cao nhất. Con khởi sự với một ý niệm bản ngã rất hạn hẹp, nhỏ như cái chấm, và con dùng quyền tự quyết của mình dựa trên bản ngã này.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.2. Bí ẩn ở trung tâm quyền tự quyết là: “Làm thế nào tôi quân bình được quyền tự quyết của tôi với quyền tự quyết của những người quanh tôi?” Mẹ Mary, hãy giúp con suy ngẫm về bí ẩn này và bước về hướng chấp nhận quyền tự quyết, chấp nhận ý nghĩa của tự quyết.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.3. Khi Đấng Sáng tạo ban quyền tự quyết cho những người đồng sáng tạo, ngài ban cho họ quyền tự do thám hiểm bất cứ gì có thể làm được với ý chí tự do. Một trong những điều này là con có thể đóng vai một cái ngã tách biệt. Và câu hỏi thực sự là: Con sẽ cần dấn thân vào tách biệt sâu đến bao nhiêu trước khi con ngộ ra đó không còn là điều con muốn làm nữa?

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.4. Con có quyền tự quyết theo nghĩa là bất kể bản ngã của con là gì, bất kể con đã phát triển bản ngã nào, con vẫn được phép chọn những chọn lựa mà con có thể thấy từ ngã đó. Những chọn lựa này đều mang hậu quả và con sẽ trải nghiệm hậu quả đó.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.5. Con càng đi sâu vào tách biệt, càng khiến cho môi trường của mình dày đặc hơn, thì con sẽ càng phải đấu tranh nhiều hơn để dùng quyền tự quyết xuyên qua ngã đó. Con chán chê cuộc tranh đấu này và con nói: “Nhất định phải có một cách thực thi ý chí của tôi cao hơn cách này. Nhất định phải có một ý chí tự do hơn cái tôi đang có ngay bây giờ.”

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.6. Để quyền tự quyết trải bày ra trong bầu cõi chưa thăng thiên này, phải có một số sinh thể dấn thân vào tách biệt sâu như sa nhân đã dấn thân. Phải có những hành tinh nơi các sinh thể này có thể tự bày tỏ, và địa cầu là một trong những hành tinh đó.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.7. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy tại sao con đã chọn đến hành tinh này. Hãy giúp con nhìn ra là con đã muốn có trải nghiệm sinh sống trên một hành tinh nơi có một số người đã đưa ý chí “tự do” của họ đến những mức vị kỷ và tách biệt cùng cực.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.8. Mẹ Mary, hãy giúp con nhớ lại tại sao con đã muốn có trải nghiệm đó. Hãy giúp con thấy là con đã không đến đây vì con muốn thay đổi người khác hay thay đổi hành tinh. Con không muốn giải cứu hay cứu độ bất cứ ai, con không muốn phán xử hay thay đổi sa nhân.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.9. Mẹ Mary, hãy giúp con nhớ lại con đã đến đây là vì con muốn trải nghiệm bản ngã của con trong loại môi trường này. Con muốn trải nghiệm chính mình là con người như thế nào trong một môi trường dày đặc như trái đất.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 5

5.1. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn ra là con cảm thấy mình đã thám hiểm một hành tinh tự nhiên đầy đủ hết mức rồi. Con đã trải nghiệm mọi chuyện có thể có trên một hành tinh tự nhiên, và con quyết định mình muốn nếm trải mình sẽ ra sao trên một hành tinh phi tự nhiên. Đây là một mong muốn chính đáng và có giá trị, vì nó giúp nâng cao tâm thức tập thể trong toàn bầu cõi.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.2. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy liệu con đã quyết định: “Để đạt một trình độ tự điều ngự cao hơn, tôi muốn trải nghiệm một môi trường hoàn toàn khác lạ vì tôi muốn trải nghiệm chính mình là như thế nào, mình phản ứng như thế nào, mình tự nhìn mình như thế nào trong loại môi trường đó.”

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.3. Để bước vào hiện thân trên một hành tinh như địa cầu, con phải bước xuống tầng tâm thức 48 và khoác vào mọi ảo tưởng trên tầng 48. Không có gì trục trặc sai trái ở đây. Không có gì trục trặc trong quá trình này.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.4. Con chỉ đơn giản làm những gì phải làm để con có thể đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên. Chuyện này không ngu ngốc. Chuyện này không sai trái. Đây là một chọn lựa con đã lấy.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.5. Những gì con muốn trải nghiệm đúng như những gì con đã trải nghiệm trên địa cầu, cụ thể là con đã đến đây với một trình độ tâm thức nào đó tương ứng với hành tinh. Con đã bước xuống tầng 48 để trải nghiệm cảm giác mình là mình trên hành tinh địa cầu.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.6. Con muốn trải nghiệm: “Tôi cảm thấy thế nào khi tôi là tôi trên địa cầu?” Và con đã trải nghiệm chính điều này.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.7. Mặc dù rất nhiều trải nghiệm con đã có trên trái đất bị pha màu bởi một trạng thái tâm thức nào đó, một ngã vỏ ngoài nào đó, nhưng đằng sau tất cả, con vẫn trải nghiệm được cảm giác mình là như thế nào trong một môi trường như thế này.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.8. Mẹ Mary, hãy giúp con kết nối với bản chất tâm linh của con, với cá thể cơ bản trong Hiện diện TA LÀ của con.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.9. Mẹ Mary, hãy giúp con thấy là cái “ta” trải nghiệm chính mình trên địa cầu không phải là ngã vỏ ngoài, không phải là ngã gốc, thậm chí không phải là cái Ta Biết. Cái đã trải nghiệm chính con trong một môi trường như địa cầu là Hiện diện TA LÀ của con. Ở tầng mức này, con đã có trải nghiệm mình là như thế nào trên địa cầu. Con đã có trải nghiệm này ngay từ khi con đến đây lần đầu tiên.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 6

6.1. Con đã có một trải nghiệm khác ở tầng mức cái Ta Biết khi con đồng hóa với các ngã vỏ ngoài, với bốn thể phàm, và con đã trải nghiệm xuyên qua phin lọc đó.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.2. Mẹ Mary, hãy giúp con tới điểm trải nghiệm được những gì Hiện diện TA LÀ của con đang trải nghiệm. Con có khả năng trải nghiệm là chính mình, là Hiện diện TA LÀ hiện thân trên địa cầu, trong khi con đầu thai trên địa cầu. Trải nghiệm này là cách tối hậu để con làm hoà với việc mình ở đây trên trái đất.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.3. Mẹ Mary, hãy giúp con nhìn ra là con đã từng có những thoáng trải nghiệm thế nào là chính mình trên địa cầu. Con đã có một cảm nhận vi tế mình nhìn cuộc sống một cách khác hơn và đã nối kết với Hiện diện TA LÀ.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.4. Mẹ Mary, hãy giúp con cảm thấy hoàn toàn trung hòa đối với mọi sự xảy ra trên địa cầu. Con không phân tích hay phán xét mà con chỉ trải nghiệm. Con đang không trải nghiệm qua tất cả những ngã tách biệt kia, mà con đang trải nghiệm như sinh thể mà con thực là.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.5. Mẹ Mary, hãy giúp con trải nghiệm trạng thái không có phán xét, không có phân tích, không có mục đích. Không có gì mà con phải làm. Con chỉ trải nghiệm địa cầu.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.6. Con sẵn sàng ở trong tâm thái trung hòa, trạng thái hợp nhất, trạng thái nối kết nơi con không cảm thấy mình lẻ loi ở đây trên trái đất. Con không cảm thấy mình không thuộc về nơi đây vì con đang nối kết với Hiện diện TA LÀ, và vì vậy con cũng thuộc về mọi nơi.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.7. Con sẽ tiếp tục làm việc trên các ngã tách biệt kể cả ngã gốc, cho đến khi con có thể nói: “Tại sao tôi lại chọn đến trái đất nhỉ? Bởi vì tôi, sinh thể rộng lớn hơn mà tôi LÀ, đã muốn trải nghiệm chính tôi trong loại môi trường này.”

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.8. Khi con không bị tất cả ngã tách biệt kia lôi kéo vào khuôn nếp phản ứng, con sẽ có trải nghiệm đó. Bất kể hành tinh này như thế nào, bất kể nó gian nan thế nào, con người khó khăn thế nào, con vẫn cảm thấy con đang là chính mình trên hành tinh này.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.9. Con chấp nhận là trong kiếp này, con có khả năng đạt tới điểm cảm thấy như vậy trong mọi lúc. Cảm nhận này trở thành một hậu cảnh cho trải nghiệm của con trên trái đất.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 7

7.1. Con sẵn lòng nhận biết trạng thái nối kết rộng lớn hơn, hầu con không bao giờ cảm thấy đơn độc ở đây. Con không bao giờ cảm thấy là mình không thuộc về nơi đây vì con nhận ra địa cầu không phải là nhà mình. Không có gì trong bát cung vật chất là nhà mình. Hiện diện TA LÀ mới là nhà của con. Khi con kết nối với Hiện diện TA LÀ thì bất cứ nơi đâu con cũng ở nhà, vì môi trường vỏ ngoài không thật quan trọng nữa.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

7.2. Trái đất chỉ đơn giản là một hành tinh cho các sinh thể đã chọn thám hiểm xem họ có thể dấn thân vào tách biệt sâu đến chừng nào trước khi họ không chịu nổi nữa. Thật là vô nghĩa mà đặt ra cái gì phải xảy ra hay không được xảy ra trên một hành tinh như trái đất.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

7.3. Trên một hành tinh phi tự nhiên, thật không xây dựng mà xét đoán là đau khổ không được có mặt. Điều này chỉ đặt con vào một tâm trạng phản xây dựng sẽ ngăn cản con an bình với việc con ở trái đất. Khi con xét đoán là một điều gì không được xảy ra thì ngay lúc đó, con đã tự đặt mình vào một chiếc hộp nơi con không thể an bình.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

7.4. Mẹ Mary, hãy giúp con chuyển tâm để nhận ra là bất cứ điều gì xảy ra trên địa cầu đều là do có ai đó chọn biểu hiện điều đó vì họ cần đến trải nghiệm đó. Nếu con hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết, con sẽ có thể nói: “Tôi cần cho phép những người đó đau khổ như họ đã chọn đau khổ.”

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

7.5. Con cũng cần tôn trọng quyền tự quyết của con để con không phải đau khổ giống như họ. Con không phải đồng cảm với họ. Con không phải thương hại họ. Thậm chí con không phải chú ý đến đau khổ của họ nếu cái đó lấy mất sự an bình của con.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

7.6. Con sẵn sàng kinh qua giai đoạn lựa bỏ ra khỏi đời con một số chuyện không mang tính xây dựng cho sự tăng triển của con. Con nói: “Ngay bây giờ, thật không xây dựng cho tôi nếu tôi cảm thấy thương hại hay trắc ẩn đối với những người đang đau khổ. Vì vậy, tôi chấp nhận là tôi không dành sự chú ý của mình cho nỗi đau khổ của họ.”

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

7.7. Con phải đi muốt cái cơ chế cảm thấy là có điều gì không được xảy ra, và cái đó tước đi an bình của con. Để con tìm thấy an bình, thật cần thiết và cũng chấp nhận được là con kinh qua một giai đoạn, khi trên cơ bản, con bỏ qua sự đau khổ của người khác và tập trung vào việc khắc phục tất cả những ngã phản ứng kia.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

7.8. Một khi con đạt được một mức độ bình an nội tâm thì bấy giờ, con có thể quay ra ngoài và tìm cách giúp đỡ người khác, thách đố người khác hay bất cứ gì con cảm thấy cần làm. Nhưng con làm từ một trạng thái an bình nội tâm thay vì từ một trạng thái bất an, một trạng thái bực dọc, một trạng thái nơi con không ngừng xét đoán là có điều gì không được có mặt ở đây.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

7.9. Khi con cảm thấy mình ngu ngốc đã đến đây, thì tự động con cũng bắt đầu xét đoán là người khác ngu ngốc khi họ không đáp ứng với con và không để cho con giúp họ. Con đang tự giam mình trong một chiếc hộp nơi con tự phán xét là mình có thể ngu ngốc hay sai lầm khi đến địa cầu.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 8

8.1. Chính sa nhân đã đặt ra chuẩn mực này trên địa cầu và con đã dần dà chấp nhận chuẩn mực của sa nhân. Giờ đây con đang tự phán xét mình y như sa nhân phán xét con, chứ không như các chân sư thăng thiên nhìn con.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

8.2. Con đã chọn đến địa cầu vì con muốn tự trải nghiệm chính mình trong môi trường này. Làm thế nào chọn lựa này sai lầm được? Làm sao có chuyện sai lầm khi con mong muốn trải nghiệm chính mình trong một môi trường đặc thù? Đây chính là mục đích và ý nghĩa của một người đồng sáng tạo.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

8.3. Khi con vươn lên những tầng nhận biết cao hơn thì mục đích của con là tự trải nghiệm trong một môi trường đặc thù, và bằng cách nhìn xem mình đáp ứng thế nào với môi trường này thì con tăng trưởng. Không bao giờ có thể có gì sai quấy trong chọn lựa này. Đơn giản, đây là một chọn lựa rất chính đáng và sáng giá. Con đã chọn giúp nâng cao bầu cõi của con bằng cách đến một hành tinh như địa cầu và trải nghiệm chính mình ở đây.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

8.4. Con cũng muốn giúp nâng cao địa cầu, nhưng con không thể giúp nâng cao địa cầu bằng cách làm điều gì đó! Con cần ở đây mà không làm gì, vì con người đã tạo ra tất cả mọi vấn đề kia bằng cách cố làm một cách cưỡng ép. Con nâng cao địa cầu bằng cách ở đây, bằng cách ở ngay đây.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

8.5. Không cứ là những gì con có thể làm hay có thể nói bên ngoài sẽ thay đổi được địa cầu, mà là chính sự kiện con đã đến đầu thai, và vì vậy con là một điểm trụ neo, một cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

8.6. Con muốn đóng góp thay đổi địa cầu bằng cách trở thành một cánh cửa ngày càng mở rộng cho Hiện diện TA LÀ. Con sẽ để cho ánh sáng chiếu tỏa mà không xét đoán trong tâm vỏ ngoài là con phải làm hay không được làm gì, rằng ánh sáng phải chiếu toả như thế nào, rằng thay đổi nào là cần thiết và người khác phải phản ứng ra sao. Con chỉ để cho ánh sáng chiếu tỏa, vì đây là cách thực sự thay đổi địa cầu.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

8.7. Con đã chứng tỏ được tiến trình nâng cao tâm thức của con. Con sẵn sàng đưa tiến trình này xa hơn nữa, cho đến một điểm con chứng tỏ làm cách nào người ta có thể khởi sự ở một tầng tâm thức nào đó, rồi đạt được an bình nội tâm và hoàn toàn an bình với việc mình ở đây trên một hành tinh như thế này. Đó chính là tiềm năng cao nhất của con, là điều con đã ấn định trong Sứ vụ Thiêng liêng là tiềm năng cao nhất của con. Con đã muốn đến đây để chứng tỏ sự an bình.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

8.8. Không có chuyện gì đáng trách, không có chuyện con đã làm gì sai trái. Con đã làm đúng y như những gì con cần làm. Con sẽ đạt được an bình nội tâm khi con vui hưởng trải nghiệm bản thân mình trên hành tinh này. Cho dù khó khăn đến đâu, con vẫn có thể tránh bị lôi kéo vào tất cả những khó khăn đó và trải nghiệm Bản ngã của mình, trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của mình đang nhìn và đang trải nghiệm trái đất như thế nào.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

8.9. Ngay từ lúc con hiện thân ở đây lần đầu – cho dù cái Ta Biết hay ngã vỏ ngoài đã nếm trải những gì – thì Hiện diện TA LÀ của con vẫn hoàn toàn an bình với mọi chuyện xảy ra trên trái đất. Hiện diện TA LÀ biết rõ là cái ta thực của con không thể bị bất cứ sự việc gì tác động. Con đã biết điều này trước khi đến đây, và đó là tại sao con không ngu ngốc khi chọn đến đây. Con đang hồi lại nhận biết này, và con cũng hồi lại niềm an bình mà con đã có trước khi đến đây.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

2 | Thỉnh cầu tự do khỏi xu hướng thích nghi

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Mẹ Mary, hãy giúp con khắc phục mọi điều kiện trong tâm lý khiến con thích nghi với hoàn cảnh và đóng chặt sự sáng tạo của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Khi con lớn lên, dần dà con đã chấp nhận rất nhiều điều kiện trên trái đất là bình thường, là tự nhiên hay không thể tránh khỏi. Phần nào con khoác vào cảm nhận: “Chuyện nó tất phải như vậy thôi.”

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.2. Khi con lớn lên trong môi trường hiện tại trên trái đất, con đã không nhận được khung tham chiếu nào cho con thấy là có những hành tinh khác nơi rất nhiều hiện tượng trên trái đất không hề biểu hiện.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.3. Khi con lớn lên, người ta đã cho con cảm nhận là chẳng ích gì mà chất vấn những chuyện xảy ra, vì hiển nhiên đây là chuyện bình thường và con phải tìm cách sống chung với nó mà thôi.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.4. Khả năng thích nghi của loài người là một điều may theo nghĩa con có thể thích ứng với nhiều môi trường khác nhau. Nhưng chính khả năng này cũng là một điều rủi theo nghĩa nó có thể khiến con nhìn vào tình trạng hiện tại của địa cầu và quyết định: “Ồ, tôi chỉ cần sống chung với nó. Tôi không thể thay đổi nó được. Thật chẳng ích gì mà đặt vấn đề. Tôi chỉ có thể tận dụng nó tốt nhất mà thôi.”

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.5. Con không muốn thích nghi với những điều kiện mà con có thể thay đổi. Con chấp nhận sự nhận biết rằng thay đổi là khả dĩ. Con vươn lên viễn quan là mọi sự có thể thay đổi như thế nào, và con sẵn lòng ra tay thực hiện thay đổi.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.6. Mặc dù con là người tâm linh, con đã kế thừa từ giống loài của con, từ tâm thức tập thể, từ cha mẹ, từ các thế hệ trước, khả năng thích nghi với các điều kiện vật chất, chấp nhận chúng là bình thường và tìm cách sống chung với chúng.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.7. Bây giờ là điểm trên con đường tăng triển khi con sẵn lòng xem xét và quyết định: “Tôi sẽ vươn lên cao hơn động lượng tập thể cứ muốn thích nghi với các điều kiện vật lý.”

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.8. Con không ở đây để chấp nhận các điều kiện hiện thời và thích nghi với chúng. Con ở đây để nâng cao điều kiện hiện thời, nâng cao tập thể, thậm chí nâng cao cả các điều kiện vật lý.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.9. Con không thể làm vậy nếu con là một con thú giỏi thích nghi. Con nhận ra mình là một sinh thể tâm linh và con quyết định: “Tôi sẽ vươn lên khỏi cái kỹ năng chấp nhận và thích nghi với các điều kiện hiện hành.”

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 2

2.1. Con biết trong nội tâm là mọi sự không nhất thiết phải xảy ra như đang xảy ra trên trái đất. Có một giải pháp khác hơn, và mọi sự có thể tốt hơn. Con có một khung tham chiếu cho thấy những gì đang diễn ra không phải là cao nhất.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.2. Con đã cảm thấy mình bị kẹt trong xác thân vật lý dày đặc giữa một thế giới vật lý dày đặc. Quanh con là những người khác cũng mang xác thân vật lý, và cho dù con có cảm gì hay nghĩ gì thì họ cũng có khả năng làm con tổn thương, khả năng sử dụng xác thân vật lý của họ để làm hại xác thân vật lý của con.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.3. Con không thể làm gì để tránh chuyện đó một khi con ở trong cơ thể vật lý. Con không thể tránh ngụ trong cơ thể vật lý và trải nghiệm những gì xảy ra trên trái đất.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.4. Một khi con ở trong xác thân vật lý thì con trải nghiệm năng lượng ở đây quá dày đặc, tâm thức tập thể quá dày đặc với biết bao lòng căm hận, thù địch và sợ hãi.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.5. Cú sốc mà con cảm nhận liên hệ phần nào đến một điều kiện đặc thù, là điều kiện chủ chốt mà con muốn thấy loại trừ khỏi địa cầu.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.6. Khi con nghiệm thấy cú sốc đó dữ dội đến chừng nào thì con phản ứng: “Tôi không thể sống với nó. Tôi không thể sống với điều kiện này có mặt trên trái đất.”

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.7. Con chịu rút vào chính mình. Con bị chấn động đến độ con cố kéo nguyên hào quang của con trở vào bên trong một điểm an toàn, nơi con có thể quên đi sự có mặt của điều kiện đó. Thế nhưng con không thể làm vậy vì con kẹt cứng trong cơ thể vật lý. Không có cách nào thoát ra khỏi cơ thể vật lý.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.8. Sau chấn động ban đầu, con đã phải đối mặt với thực tế phũ phàng. Tất cả mọi thứ trong cảm thể, trí thể lẫn bản sắc thể của con nói với con: “Tôi không thể sống trên hành tinh này khi điều kiện này có mặt. Tôi không thể sống với nó.”  Nhưng cơ thể vật lý bảo con phải sống trên hành tinh này, và con phải làm tất cả để sống còn.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.9. Đây là lúc con trải nghiệm sự phân rẽ giữa cơ thể vật lý và ba thể cao của con. Con phải dựng lên một hàng rào giữa thể vật lý và ba thể cao để bảo vệ các thể cao khỏi những gì xảy ra trong cõi vật lý.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 3

3.1. Con sẵn lòng khắc phục sự phân rẽ này và thăng vượt xu hướng của người tâm linh là xem cơ thể mình như một kẻ thù cho sự phát triển tâm linh.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.2. Con đã chạm mặt với cơ chế khiến con cảm thấy: “Tôi không thể sống với điều kiện này trên trái đất.” Nhưng con phải sống trên địa cầu, cho nên con tự buộc mình vào cơ chế thích nghi tập thể mà mọi người đã tạo ra: gia đình con, dân tộc con, văn hóa con, nền văn minh của con, tâm thức tập thể nói chung.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.3. Con buộc mình vào đó và con nhận ra là trên một hành tinh như thế này, con phải thích nghi thôi. Con phải chấp nhận các điều kiện như chúng đang trải bày, và con tận dụng chúng theo cách tốt nhất. Sâu trong tiềm thức, con đã lấy quyết định: “Tôi không thể sống với chúng nhưng tôi sẽ phải sống với chúng. Và để sống với chúng, tôi phải chấp nhận niềm tin này hay niềm tin kia.”

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.4. Con đã chấp nhận một số điều kiện là không thể tránh. Và con đã cố cách ly khỏi điều kiện để con không phải nếm trải nó, để con vẫn sống được, vẫn sinh hoạt được trên hành tinh này.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.5. Đây chỉ đơn giản là một cơ chế sống còn – có thể một cơ chế sống còn vật lý, nhưng chủ yếu là một cơ chế sống còn ở tầng cấp cảm xúc, lý trí và bản sắc, hầu con có thể tồn tại trên một hành tinh mang sẵn điều kiện mà con không thể chung sống.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.6. Con sẵn sàng xem xét các cơ chế sống còn này, sẵn sàng khởi sự vươn lên cao hơn, để con có thể sống trọn trên địa cầu chứ không chỉ sống còn mà thôi.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.7. Con muốn an bình với việc mình ở đây để con có thể vui hưởng cuộc sống trên địa cầu. Con muốn vui hưởng việc biểu hiện chính mình, biểu hiện cái ta thực của mình ngay đây trên địa cầu.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.8. Con mong muốn biểu hiện bản thể thực của con, khả năng sáng tạo thực của con trên địa cầu, và con biết đây là cách duy nhất địa cầu sẽ cải tiến. Cách duy nhất con có thể giúp địa cầu tiến bộ là con biểu lộ con người mà con thực là, biểu lộ sự sáng tạo của Hiện diện TA LÀ của con.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.9. Khi con tạo ra cơ chế sống còn đó, kỳ thực con đã nói: “Chừng nào cái điều kiện mà tôi không thể chịu nổi còn hiện hữu trên trái đất, thì tôi không thể tự do biểu hiện chính mình, tôi không thể sáng tạo.” Con đã tạo ra một cơ chế sâu đậm trong tiềm thức khi con quyết định: “Tôi không thể an bình, tôi không thể hạnh phúc, tôi không thể sáng tạo, tôi không thể tự biểu đạt chừng nào người ta còn bị đau khổ bởi điều kiện đó.”

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 4

4.1. Đó là một cách phản ứng rất dễ thông cảm. Nhưng mặc dù nó dễ thông cảm, nó vẫn không xây dựng, vì con muốn loại trừ điều kiện đó. Con chỉ có thể giúp loại trừ điều kiện đó bằng cách biểu đạt sự sáng tạo của bản thể cao hơn của con.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.2. Nếu con đóng chặt sáng tạo lại thì con cũng đóng chặt khả năng hoàn thành những gì con đã đến đây để hoàn thành. Con sẽ không giúp loại trừ bất kỳ hạn chế nào bằng cách đau khổ y như người ta đang đau khổ, hay bằng cách cắt đứt sáng tạo để bước vào một trạng thái sống mà vắng bóng niềm vui, vì con cho rằng con không thể vui được khi người khác còn đau khổ. Đây không phải là cách loại trừ một tình trạng mà con đã đến đây để góp phần loại trừ.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.3. Nếu con muốn tác động tích cực đến địa cầu, con sẽ không thể làm được bằng cách nhìn vấn đề y như mọi người khác vốn nhìn. Con không thể giúp khắc phục một điều kiện bằng cách thích nghi với điều kiện đó như mọi người vốn thích nghi.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.4. Con sẵn lòng xét xem điều kiện nào trên địa cầu khiến con xốn xang nhiều nhất, điều kiện nào con không thể chung sống. Con sẵn lòng xét xem con đã làm thế nào để vẫn sống được trên trái đất trong khi điều kiện này hiện hữu, và con đã phải làm gì để đạt đến điểm đó. Con sẵn lòng nhìn xem làm thế nào con có thể tự giải thoát khỏi điều kiện đó.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.5. Khi con hứng chịu chấn thương nhập đời, con ở một tầng tâm thức nào đó. Chuyện này đã xảy ra lâu lắm rồi, và từ đó con đã thu hoạch một nhãn quan khác hơn, một độ trưởng thành cao hơn. Giờ đây con có thể nhìn vào quyết định ban đầu là mình sẽ thích nghi như thế nào với các điều kiện trên trái đất.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.6. Con sẵn lòng xem xét quyết định đó từ một góc độ rộng lớn hơn. Con sẵn lòng nhìn xem nó giới hạn con ra sao, và con tới điểm nhận diện nó là một cái ngã. Con đã tạo ra một cái ngã cho phép con sống trên địa cầu trong khi điều kiện đó vẫn có mặt, nhưng ngã này cũng có chức năng cắt đứt khả năng sáng tạo của con. Con sẵn lòng nhận diện ngã này, nhìn nó từ ngoài và nhận ra nó không phải là con. Con quyết định để cho nó chết đi.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.7. Ngã này nghĩ là con không thể an bình trên địa cầu chừng nào một điều kiện nào đó hiện hữu. Nó phóng chiếu vào con là con phải giải quyết điều kiện đó trước khi con có thể an bình, nhưng thật không phải vậy. Chính con – cái Ta Biết – nhìn thấy nó chỉ là một cái ngã đang phóng chiếu quyết định phi lý này vào con, và con quyết định: “Đây không phải là quyết định mà tôi muốn sẽ quy định tôi, quy định cuộc sống của tôi trên địa cầu này nữa.” Con quyết định để cho ngã chết mà không cần phải giải quyết vấn đề, cái vấn đề mà ngã đã phóng chiếu cho con giải quyết.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.8. Là người tâm linh, con đã cảm thấy mình cần phải tỏ ra tích cực, cho nên con có xu hướng phủ nhận các cảm xúc tiêu cực của mình. Điều hoàn toàn chấp nhận được là con công nhận mình có một số cảm xúc rất mãnh liệt về một số điều kiện trên trái đất. Hoàn toàn chấp nhận được là con đem chúng lên mức nhận biết ý thức, để con có thể thỉnh gọi và làm tan năng lượng. Và nhờ vậy, con nhìn ra cái ngã đã tạo ra những cảm xúc này và để nó chết đi.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.9. Mẹ Mary, hãy giúp con nhận diện các cảm xúc mà con đã không sẵn lòng nhận diện. Hãy giúp con khắc phục chúng và được giải thoát khỏi chúng, để con có thể an bình với việc mình ở đây trên hành tinh này. Và do an bình mà con sẽ có thể thực sự góp phần loại bỏ một điều kiện nhất định.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

Thỉnh cầu Tình thương Thiêng liêng

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện Tình thương hãy giúp con vượt qua mọi chấn thương mà con đã trải nghiệm trong quá khứ, để con có thể cảm và chấp nhận Tình thương Thiêng liêng. Xin các thày giúp con khắc phục những bế tắc đang ngăn cản con hòa điệu với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Ôi Hiện diện Tình thương, con muốn cảm thấy thoải mái với chính mình và con sẵn sàng muốn biết cái gì đang ngăn cản con cảm thấy thoải mái với chính mình.

Hiện diện Tình thương, từ những bầu cao,
Thày bước xuống đây Hiện diện ngọt ngào,
Tất cả những gì kém hơn thương yêu,
Thày tiêu trừ hết trong ngọn lửa thiêu.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

1.2. Ôi Hiện diện Tình thương, con cảm thấy thoải mái với chính mình, không phải bằng cách hoàn thành một điều nào đó trên trái đất, nhưng bằng cách nối kết với con người thật của con, nối kết với Hiện diện TA LÀ của con.

Hiện diện Tình thương, cắt đứt sợi dây,
Gánh nặng quá khứ, con đà bỏ lại.
Cho con trìu mến quy phục cùng thày,
Tâm con là một, chẳng còn là hai.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

1.3. Ôi Hiện diện Tình thương, con đang đi xuyên qua một khu rừng, có nhiều cây rậm rạp hai bên nhưng con không để ý đến chúng.

Hiện diện Tình thương, phục hồi bình an,
Nhờ thày tảy sạch, cả bốn thể phàm,
Giúp con tái tạo một cỗ xe mới,
Để con theo bước tiếng gọi của trời.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

1.4. Ôi Hiện diện Tình thương, con tới một khoảng trống trong khu rừng và ở đó có một cái tháp quan sát, con có thể trèo lên đỉnh tháp đó nhìn phong cảnh khắp chung quanh.

Hiện diện Tình thương, với thày con rõ,
Tình thương chân chính mãi mãi tự do,
Không điều kiện nào có thể gò bó,
Không khuôn đúc nào mà không đập bỏ.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

1.5. Ôi Hiện diện Tình thương, con hình dung con dưới chân một cầu thang đưa lên một mặt phẳng. Trên mặt phẳng có vị chân sư thăng thiên gần gũi nhất với tim con.

Hiện diện Tình thương, trong ánh sáng thày,
Con cứ thăng vượt, bay lên cao mãi,
Từ điểm nối kết hình số tám này,
Hiện diện của con trông sao vĩ đại.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

1.6. Ôi Hiện diện Tình thương, con nhận ra là con không thể bước lên cầu thang vì con có một cái bị nặng trĩu vai con. Con muốn thấy gánh nặng này.

Hiện diện Tình thương, đổ đầy chén thánh,
Mở tâm, con đón Hiện diện của mình.
Không còn tấm màn vật chất vô minh,
Con là cánh cửa mở ra Linh tánh.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

1.7. Ôi Hiện diện Tình thương, con bây giờ lấy quyết định là con muốn bước lên cầu thang và ôm vị thày. Do đó, con lấy cái bị, nâng nó lên khỏi vai và để nó tuột khỏi vai và rơi xuống mặt đất.

Hiện diện Tình thương, con đã thoát ra
Khỏi cái bản sắc hồn định nghĩa giả.
Con tạo dựng lại bốn thể phàm ngã,
Để chúng càng ngày càng cứ hơn xa.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

1.8. Ôi Hiện diện Tình thương, con cảm thấy đã trút bỏ gánh nặng, và con nắm thành cầu thang và bước lên những bậc thang. Trên đầu cầu thang con ôm chầm vị chân sư và con cảm thấy tình thương của vị thày. Con cảm thấy tình thương đó bao phủ toàn thân con, và ngay lúc này, không có chuyện gì hệ trọng nữa.

Hiện diện Tình thương, nay con thật thấy,
Thế gian không thể quy định tình thày, 
Thày không đòi hỏi một điều kiện nào,
Tình thày luôn chảy, xối xuống từ Cao.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

1.9. Ôi Hiện diện Tình thương, con bây giờ thấy là có một cầu thang khác dẫn tới một mặt phẳng thứ hai. Ở đó có một vị chân sư thăng thiên khác đang mở rộng vòng tay chờ đón con.

Hiện diện Tình thương, con nay ngẫm nghĩ,
Làm sao tiếp nhận tình thương thày nhỉ?
Khi trụ trong tim, yên ắng đong đầy,
Tình thương hồng ngọc, thày trao con đây.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

Phần 2

2.1. Ôi Hiện diện Tình thương, con thấy là có một cái bị khác đang đè lên vai con. Con nhẹ nhàng đẩy nó ra để nó tuột xuống cánh tay con. Con tự do đi lên cầu thang.

Hiện diện Tình thương, từ những bầu cao,
Thày bước xuống đây Hiện diện ngọt ngào,
Tất cả những gì kém hơn thương yêu,
Thày tiêu trừ hết trong ngọn lửa thiêu.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

2.2. Ôi Hiện diện Tình thương, ở trên đó có vị chân sư thăng thiên thứ hai ôm chầm lấy con. Con cảm nhận tình thương của vị thày. Con cảm thấy thoải mái với chính mình. Con cảm thấy tình thương nuôi dưỡng của Mẹ tỏa ra từ vị thày và bao trùm toàn thân con.

Hiện diện Tình thương, cắt đứt sợi dây,
Gánh nặng quá khứ, con đà bỏ lại.
Cho con trìu mến quy phục cùng thày,
Tâm con là một, chẳng còn là hai.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

2.3. Ôi Hiện diện Tình thương, con cảm thấy vị thày này biết con, thương yêu con, không phán xét hay chỉ trích con, thương yêu con đúng như con là ngay lúc này. Không có điều kiện nào, ngoại trừ con có ý muốn ôm chầm vị thày, và con muốn trút bỏ gánh nặng mà con vẫn thường mang theo mình.

Hiện diện Tình thương, phục hồi bình an,
Nhờ thày tảy sạch, cả bốn thể phàm,
Giúp con tái tạo một cỗ xe mới,
Để con theo bước tiếng gọi của trời.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

2.4. Ôi Hiện diện Tình thương, bây giờ thì con thấy có một cầu thang nữa, dẫn tới một mặt phẳng thứ ba và một vị chân sư khác.

Hiện diện Tình thương, với thày con rõ,
Tình thương chân chính mãi mãi tự do,
Không điều kiện nào có thể gò bó,
Không khuôn đúc nào mà không đập bỏ.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

2.5. Ôi Hiện diện Tình thương, con cảm thấy có một gánh nặng và con để nó rơi xuống. Con bước lên cầu thang và con ôm chầm vị thày ở đó.

Hiện diện Tình thương, trong ánh sáng thày,
Con cứ thăng vượt, bay lên cao mãi,
Từ điểm nối kết hình số tám này,
Hiện diện của con trông sao vĩ đại.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

2.6. Ôi Hiện diện Tình thương, con vui sướng được ôm vị thày và cảm thấy như thời gian không còn hiện hữu.

Hiện diện Tình thương, đổ đầy chén thánh,
Mở tâm, con đón Hiện diện của mình.
Không còn tấm màn vật chất vô minh,
Con là cánh cửa mở ra Linh tánh.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

2.7. Ôi Hiện diện Tình thương, bây giờ thì con thấy có một cầu thang nữa, dẫn tới một mặt phẳng thứ tư và một vị chân sư khác đang mở vòng tay đợi con.

Hiện diện Tình thương, con đã thoát ra
Khỏi cái bản sắc hồn định nghĩa giả.
Con tạo dựng lại bốn thể phàm ngã,
Để chúng càng ngày càng cứ hơn xa.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

2.8. Ôi Hiện diện Tình thương, con nhận ra là con có một gánh nặng và con chỉ giản dị để nó rơi xuống, vì nay việc này đã dễ làm hơn. Con bước lên cầu thang và ôm chầm vị thày.

Hiện diện Tình thương, nay con thật thấy,
Thế gian không thể quy định tình thày, 
Thày không đòi hỏi một điều kiện nào,
Tình thày luôn chảy, xối xuống từ Cao.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

2.9. Ôi Hiện diện Tình thương, con cảm thấy là mỗi vị thày có một đặc tính riêng của Tình thương Thiêng liêng. Mỗi vị thày cho con một cái gì khác, mỗi thứ này đúng những gì con cần để chữa lành một sắc thái nào đó của tâm lý của con.

Hiện diện Tình thương, con nay ngẫm nghĩ,
Làm sao tiếp nhận tình thương thày nhỉ?
Khi trụ trong tim, yên ắng đong đầy,
Tình thương hồng ngọc, thày trao con đây.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

Phần 3

3.1. Ôi Hiện diện Tình thương, bây giờ thì con thấy có một cầu thang nữa, dẫn tới một mặt phẳng thứ năm và một vị chân sư khác.

Hiện diện Tình thương, từ những bầu cao,
Thày bước xuống đây Hiện diện ngọt ngào,
Tất cả những gì kém hơn thương yêu,
Thày tiêu trừ hết trong ngọn lửa thiêu.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

3.2. Ôi Hiện diện Tình thương, con cảm thấy có một gánh nặng. Con nhận ra nó. Con để nó rơi xuống. Con bước lên cầu thang và con ôm chầm vị thày.

Hiện diện Tình thương, cắt đứt sợi dây,
Gánh nặng quá khứ, con đà bỏ lại.
Cho con trìu mến quy phục cùng thày,
Tâm con là một, chẳng còn là hai.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

3.3. Ôi Hiện diện Tình thương, vị thày này cho con một tính chất hơi khác của Tình thương Thiêng liêng, một hình thức nuôi dưỡng hơi khác. Một lần nữa con cảm thấy thoải mái hơn, nhẹ nhàng hơn, được thương yêu nhiều hơn, được chăm lo nhiều hơn.

Hiện diện Tình thương, phục hồi bình an,
Nhờ thày tảy sạch, cả bốn thể phàm,
Giúp con tái tạo một cỗ xe mới,
Để con theo bước tiếng gọi của trời.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

3.4. Ôi Hiện diện Tình thương, bây giờ thì con thấy có cầu thang thứ sáu và một vị chân sư khác đang mở rộng vòng tay chờ đón con.

Hiện diện Tình thương, với thày con rõ,
Tình thương chân chính mãi mãi tự do,
Không điều kiện nào có thể gò bó,
Không khuôn đúc nào mà không đập bỏ.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

3.5. Ôi Hiện diện Tình thương, con lại có một gánh nặng. Con để cho nó rơi xuống. Con bước lên cầu thang, lên tới tầng thứ sáu, và con ôm chầm vị thày.

Hiện diện Tình thương, trong ánh sáng thày,
Con cứ thăng vượt, bay lên cao mãi,
Từ điểm nối kết hình số tám này,
Hiện diện của con trông sao vĩ đại.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

3.6. Ôi Hiện diện Tình thương, con cảm thấy vị thày đang cho con một tính chất độc đáo của tình thương nuôi dưỡng của Mẹ Thiêng liêng. Con cảm thấy được thương yêu nhiều hơn nữa, trọn vẹn hơn nữa, đang được ôm chặt hơn nữa. Con cảm thấy là không những chỉ có một người chăm lo cho con, mà thực sự là cả vũ trụ đang chăm lo cho con, cho riêng cá nhân con.

Hiện diện Tình thương, đổ đầy chén thánh,
Mở tâm, con đón Hiện diện của mình.
Không còn tấm màn vật chất vô minh,
Con là cánh cửa mở ra Linh tánh.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

3.7. Ôi Hiện diện Tình thương, con bắt đầu cảm thấy là toàn thể vũ trụ, toàn thể cõi Mẹ muốn nuôi dưỡng con, cá nhân con, và cho con điều con thực sự cần để con đi con đường mà con đã vạch ra cho mình trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con cảm thấy sự nuôi dưỡng đó.

Hiện diện Tình thương, con đã thoát ra
Khỏi cái bản sắc hồn định nghĩa giả.
Con tạo dựng lại bốn thể phàm ngã,
Để chúng càng ngày càng cứ hơn xa.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

3.8. Ôi Hiện diện Tình thương, con cảm thấy Mẹ không phải là địch thủ của mình. Mẹ đích thực muốn cho con những gì con cần. Vũ trụ muốn cho con những gì con cần – không nhất thiết là những gì tự ngã hay cái ta vỏ ngoài của con nghĩ nó cần – nhưng vũ trụ muốn cho con những gì con cần để tăng trưởng.

Hiện diện Tình thương, nay con thật thấy,
Thế gian không thể quy định tình thày, 
Thày không đòi hỏi một điều kiện nào,
Tình thày luôn chảy, xối xuống từ Cao.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

3.9. Ôi Hiện diện Tình thương, sau một thời gian chấp nhận là con thực sự đang sống trong một vũ trụ thân thiện, con nhận ra là có một cầu thang thứ bảy và một vị chân sư khác.

Hiện diện Tình thương, con nay ngẫm nghĩ,
Làm sao tiếp nhận tình thương thày nhỉ?
Khi trụ trong tim, yên ắng đong đầy,
Tình thương hồng ngọc, thày trao con đây.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

Phần 4

4.1. Ôi Hiện diện Tình thương, con lại cảm thấy có một gánh nặng, và con lại để nó rơi xuống. Con bước lên cầu thang.

Hiện diện Tình thương, từ những bầu cao,
Thày bước xuống đây Hiện diện ngọt ngào,
Tất cả những gì kém hơn thương yêu,
Thày tiêu trừ hết trong ngọn lửa thiêu.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

4.2. Ôi Hiện diện Tình thương, có một vị chân sư đang đợi con, nhưng vị thày không đứng ở ngay trên bực thềm cuối vì nay mặt phẳng rộng lớn hơn. Khi con lên tới tầng này, con bỗng nhiên nhận ra là con ở trên tất cả những chuyện trên trái đất có vẻ khiến con quan tâm. Con gần như có cảm tưởng là con không còn ở trên trái đất. Con đang ở trong một cõi hoàn toàn khác.

Hiện diện Tình thương, cắt đứt sợi dây,
Gánh nặng quá khứ, con đà bỏ lại.
Cho con trìu mến quy phục cùng thày,
Tâm con là một, chẳng còn là hai.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

4.3. Ôi Hiện diện Tình thương, con nhìn xuống trái đất từ rất cao và con thấy trái đất bên dưới, và con thấy bốn thể phàm của con. Con thấy cuộc đời của mình, kể cả tất cả những người và những hoàn cảnh chung quanh con từ quãng xa, và con nhận ra: “Ồ, có đúng là những người và chuyện này không có tầm quan trọng gì cả nếu ta nhìn từ góc độ hoàn vũ? Có đúng chăng là mọi chuyện con đang trải qua và đang đè nặng lên vai con, và có vẻ rất quan trọng đối với con – có đúng chăng là chúng không quan trọng gì cả nếu nhìn từ góc độ cao này?”

Hiện diện Tình thương, phục hồi bình an,
Nhờ thày tảy sạch, cả bốn thể phàm,
Giúp con tái tạo một cỗ xe mới,
Để con theo bước tiếng gọi của trời.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

4.4. Ôi Hiện diện Tình thương, con cho phép mình cảm thấy có vô số làn sóng năng lượng đang lớp lớp tràn lên con, và tâm thức của con được mở rộng và mở rộng và mở rộng ra thêm nữa.

Hiện diện Tình thương, với thày con rõ,
Tình thương chân chính mãi mãi tự do,
Không điều kiện nào có thể gò bó,
Không khuôn đúc nào mà không đập bỏ.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

4.5. Ôi Hiện diện Tình thương, con nhận ra là những gì xảy ra trên trái đất – những chuyện có vẻ rất quan trọng đối với con nhìn từ góc độ thường nhật của con – chẳng quan trọng gì cả khi nhìn từ góc độ hoàn vũ. Chúng không quan trọng một cách lạ thường.

Hiện diện Tình thương, trong ánh sáng thày,
Con cứ thăng vượt, bay lên cao mãi,
Từ điểm nối kết hình số tám này,
Hiện diện của con trông sao vĩ đại.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

4.6. Ôi Hiện diện Tình thương, các điều kiện trên trái đất không có quyền lực gì trên bản thể thực của con, trên con người mà con thực sự là.

Hiện diện Tình thương, đổ đầy chén thánh,
Mở tâm, con đón Hiện diện của mình.
Không còn tấm màn vật chất vô minh,
Con là cánh cửa mở ra Linh tánh.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

4.7. Ôi Hiện diện Tình thương, chỉ vì con tự đồng hóa mình với hoàn cảnh nên chúng mới trở nên quan trọng và chúng mới có quyền lực trên con.

Hiện diện Tình thương, con đã thoát ra
Khỏi cái bản sắc hồn định nghĩa giả.
Con tạo dựng lại bốn thể phàm ngã,
Để chúng càng ngày càng cứ hơn xa.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

4.8. Ôi Hiện diện Tình thương, nhìn từ góc độ của Hiện diện TA LÀ thì chúng hoàn toàn không có quyền lực gì hết trên Hiện diện TA LÀ. Chúng hoàn toàn không quan trọng, chúng hoàn toàn không có khả năng quy định con.

Hiện diện Tình thương, nay con thật thấy,
Thế gian không thể quy định tình thày, 
Thày không đòi hỏi một điều kiện nào,
Tình thày luôn chảy, xối xuống từ Cao.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

4.9. Ôi Hiện diện Tình thương, con thấy là có một khoảng cách khủng khiếp giữa tầm nhìn từ Hiện diện TA LÀ và tầm nhìn của con khi con ở trong bốn thể phàm.

Hiện diện Tình thương, con nay ngẫm nghĩ,
Làm sao tiếp nhận tình thương thày nhỉ?
Khi trụ trong tim, yên ắng đong đầy,
Tình thương hồng ngọc, thày trao con đây.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

Phần 5

5.1. Ôi Hiện diện Tình thương, con nhận ra là Hiện diện TA LÀ cảm thấy rất thoải mái với chính nó và với con. Con cảm thấy rất thoải mái với chính mình khi con nhìn sự việc từ tầm nhìn của Hiện diện TA LÀ.

Hiện diện Tình thương, từ những bầu cao,
Thày bước xuống đây Hiện diện ngọt ngào,
Tất cả những gì kém hơn thương yêu,
Thày tiêu trừ hết trong ngọn lửa thiêu.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

5.2. Ôi Hiện diện Tình thương, con muốn cảm giác đó. Con thực sự muốn giữ được một phần của cảm giác đó khi con trở về bốn thể phàm của mình. Con muốn bắc nhịp cầu qua khoảng cách.

Hiện diện Tình thương, cắt đứt sợi dây,
Gánh nặng quá khứ, con đà bỏ lại.
Cho con trìu mến quy phục cùng thày,
Tâm con là một, chẳng còn là hai.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

5.3. Ôi Hiện diện Tình thương, con nhận ra có vị chân sư thăng thiên đang đứng trên mặt phẳng, thày giơ ngón tay và nói: “Thày có thể giúp con chăng? Con có cho phép thày giúp con giải tỏa bí ẩn này chăng?”

Hiện diện Tình thương, phục hồi bình an,
Nhờ thày tảy sạch, cả bốn thể phàm,
Giúp con tái tạo một cỗ xe mới,
Để con theo bước tiếng gọi của trời.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

5.4. Ôi Hiện diện Tình thương, con quay về phía vị thày và nói: “Xin thày giúp con thấy những gì trong tâm lý của con, trong thái độ của con, trong các niềm tin của con, trong bốn thể phàm của con, đang ngăn cản không cho con mang theo một phần nào những cảm nhận, tầm nhìn, của Hiện diện TA LÀ khi con trở về bốn thể phàm của con.”

Hiện diện Tình thương, với thày con rõ,
Tình thương chân chính mãi mãi tự do,
Không điều kiện nào có thể gò bó,
Không khuôn đúc nào mà không đập bỏ.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

5.5. Ôi Hiện diện Tình thương, vị thày sẽ cho con một xung lực mà con có thể hiểu và có thể mang theo mình. Con mở lòng ra đón nhận điều mà vị thày trao cho con, và gìn giữ nó, và mang nó theo con khi con đi trở xuống các bậc cầu thang.

Hiện diện Tình thương, trong ánh sáng thày,
Con cứ thăng vượt, bay lên cao mãi,
Từ điểm nối kết hình số tám này,
Hiện diện của con trông sao vĩ đại.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

5.6. Ôi Hiện diện Tình thương, con đang đi xuống những bậc thang của tháp, và nay con đã xuống tới mặt đất. Bây giờ thì con đã trở về bốn thể phàm của mình. Con bước trở ra xuyên qua khu rừng và con dần dần trở về bốn thể phàm của mình. Bây giờ thì con đang ngồi trong chiếc ghế với tâm ý thức bình thường của mình.

Hiện diện Tình thương, đổ đầy chén thánh,
Mở tâm, con đón Hiện diện của mình.
Không còn tấm màn vật chất vô minh,
Con là cánh cửa mở ra Linh tánh.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

5.7. Ôi Hiện diện Tình thương, con đang giải quyết vướng mắc trong tâm lý để con có được tầm nhìn của Hiện diện TA LÀ khi con còn đang sống trong bốn thể phàm của mình.

Hiện diện Tình thương, con đã thoát ra
Khỏi cái bản sắc hồn định nghĩa giả.
Con tạo dựng lại bốn thể phàm ngã,
Để chúng càng ngày càng cứ hơn xa.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

5.8. Ôi Hiện diện Tình thương, không có gì trên trái đất có uy quyền trên con nữa. Không có gì quy định được con. Con không hoàn toàn tự đồng hóa mình với bất cứ gì. Không có gì con thấy quan trọng đến độ con cảm thấy bị bó buộc phải phản ứng lại nó, và lúc nào cũng phải phản ứng cùng một kiểu.

Hiện diện Tình thương, nay con thật thấy,
Thế gian không thể quy định tình thày, 
Thày không đòi hỏi một điều kiện nào,
Tình thày luôn chảy, xối xuống từ Cao.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

5.9. Ôi Hiện diện Tình thương, con nhận ra là con có thể chọn lựa phản ứng của mình. Con có thể chọn lựa không phản ứng.

Hiện diện Tình thương, con nay ngẫm nghĩ,
Làm sao tiếp nhận tình thương thày nhỉ?
Khi trụ trong tim, yên ắng đong đầy,
Tình thương hồng ngọc, thày trao con đây.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

Phần 6

6.1. Ôi Hiện diện Tình thương, con vượt thăng những yếu tố trong tâm thức khiến con phản ứng lại một số người hay một số hoàn cảnh.

Hiện diện Tình thương, từ những bầu cao,
Thày bước xuống đây Hiện diện ngọt ngào,
Tất cả những gì kém hơn thương yêu,
Thày tiêu trừ hết trong ngọn lửa thiêu.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

6.2. Ôi Hiện diện Tình thương, con hòa điệu với Hiện diện TA LÀ, với các chân sư thăng thiên, và con cảm thấy tình thương vượt lên trên trái đất, và do đó khiến mọi chuyện trên trái đất trở nên không quan trọng bằng trải nghiệm và biểu lộ tình thương đó.

Hiện diện Tình thương, cắt đứt sợi dây,
Gánh nặng quá khứ, con đà bỏ lại.
Cho con trìu mến quy phục cùng thày,
Tâm con là một, chẳng còn là hai.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

6.3. Ôi Hiện diện Tình thương, không có gì trên trái đất có thể quan trọng khi so sánh với Tình thương Thiêng liêng. Cảm giác mà con có khi con trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng vượt lên trên bất cứ điều gì con có thể trải nghiệm trên trái đất.

Hiện diện Tình thương, phục hồi bình an,
Nhờ thày tảy sạch, cả bốn thể phàm,
Giúp con tái tạo một cỗ xe mới,
Để con theo bước tiếng gọi của trời.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

6.4. Ôi Hiện diện Tình thương, con càng trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng thì con càng tách mình ra, không còn tự đồng hóa mình với bốn thể phàm nữa.

Hiện diện Tình thương, với thày con rõ,
Tình thương chân chính mãi mãi tự do,
Không điều kiện nào có thể gò bó,
Không khuôn đúc nào mà không đập bỏ.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

6.5. Ôi Hiện diện Tình thương, con rút một phần bản thể của mình không đầu tư vào bốn thể phàm vì con đang làm tan đi cái ta mà con đã tạo ra khi con phản ứng lại thế gian, khiến một phần của bản thể của con bị mắc kẹt trong bốn thể phàm.

Hiện diện Tình thương, trong ánh sáng thày,
Con cứ thăng vượt, bay lên cao mãi,
Từ điểm nối kết hình số tám này,
Hiện diện của con trông sao vĩ đại.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

6.6. Ôi Hiện diện Tình thương, khi con rút một phần bản thể của mình ra khỏi bốn thể phàm, thì con  có nhận biết rõ hơn rất nhiều về Hiện diện TA LÀ. Hiện diện TA LÀ không còn ở trên kia và con thì ở dưới này

Hiện diện Tình thương, đổ đầy chén thánh,
Mở tâm, con đón Hiện diện của mình.
Không còn tấm màn vật chất vô minh,
Con là cánh cửa mở ra Linh tánh.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

6.7. Ôi Hiện diện Tình thương, con bay bổng lên trên và cảm thấy Hiện diện TA LÀ đi xuống nơi con ở. Những hàng rào chắn rơi xuống, và ngay cả khái niệm dòng chảy hình số tám không còn là dòng chảy từ cõi này xuống cõi khác nữa.

Hiện diện Tình thương, con đã thoát ra
Khỏi cái bản sắc hồn định nghĩa giả.
Con tạo dựng lại bốn thể phàm ngã,
Để chúng càng ngày càng cứ hơn xa.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

6.8. Ôi Hiện diện Tình thương, nó giản dị là một nhận biết, ý niệm là một, và dòng chảy chỉ hiện ra khi con là cánh cửa mở để năng lượng chảy tới người khác, và do đó, con là Tình thương Thiêng liêng đang hành động.

Hiện diện Tình thương, nay con thật thấy,
Thế gian không thể quy định tình thày, 
Thày không đòi hỏi một điều kiện nào,
Tình thày luôn chảy, xối xuống từ Cao.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

6.9. Ôi Hiện diện Tình thương, con muốn cảm thấy thoải mái với chính mình và con muốn người khác cũng cảm thấy như vậy. Khi tất cả chúng con đều cảm thấy thoải mái với chính mình và chúng con hiệp lại, thì chúng con sẽ cảm thấy thoải mái hơn là khi chúng con riêng rẽ. Đó chính là cách chân thực để thể hiện thời đại hoàng kim.

Hiện diện Tình thương, con nay ngẫm nghĩ,
Làm sao tiếp nhận tình thương thày nhỉ?
Khi trụ trong tim, yên ắng đong đầy,
Tình thương hồng ngọc, thày trao con đây.

Hiện diện Tình thương, xin tuôn dòng chảy,
con quyết chí tăng triển hơn hoài,
Tình
yêu thấp kém, con vượt lên mãi,
Con thăng lên đến tận tim của thày.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

Thỉnh cầu chữa lành chấn thương tâm linh (8 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất các các đại diện Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Mẹ Mary, hãy giúp con vượt qua mọi chấn thương mà con đã trải nghiệm trong quá khứ. Xin các thày giúp con tha thứ chính mình và tất cả những người dính líu vào những việc này để con có thể làm lỏng tất cả các cái ta và nâng mình lên khỏi các cái ta quá khứ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Mẹ Mary, xin Mẹ giúp con hòa điệu với luân xa gốc của mình và xét xem con có niềm lo lắng nào về thế gian, về chính mình, về cuộc đời của mình. Xin Mẹ giúp con hòa điệu với bất kỳ chấn thương nào con đã trải nghiệm trong cuộc đời mình và còn lưu giữ trong luân xa gốc của con.

Đại thiên thần Michael, sáng xanh ngắt,
Tim con chỉ còn chỗ cho mình thày,
Tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
Tình yêu thày cho con luôn chân chất.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.2. Mẹ Mary, xin Mẹ gửi Ánh sáng của Mẹ Thiêng Liêng vào luân xa gốc của con để tiêu trừ điều kiện này. Xin Mẹ giúp con nhận ra mọi niềm tin đã tạo ra chấn thương và buông bỏ chúng.

Đại thiên thần Michael, con mãi mãi
Luôn là một với thực tại của thày,
Muôn sợ hãi không thể giam con mãi,
Và thế gian phải nhả hết quyền oai.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.3. Mẹ Mary, xin Mẹ giúp con hòa điệu với trung tâm luân xa hồn của con và xét xem con có niềm lo lắng nào về thế gian, về chính mình, về cuộc đời của mình. Xin Mẹ giúp con hòa điệu vào bất kỳ chấn thương nào con đã trải nghiệm trong cuộc đời mình và được lưu giữ trong luân xa hồn của con.

Đại thiên thần Michael, ôm con chặt,
Phá tan đi bóng đêm đen tối nhất,
Sạch luân xa trong ánh sáng thần sầu,
Và phục hồi trong con cái nhìn sâu.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.4. Mẹ Mary, xin Mẹ gửi Ánh sáng của Mẹ Thiêng Liêng vào luân xa hồn của con để tiêu trừ điều kiện này. Xin Mẹ giúp con nhận ra mọi niềm tin đã tạo ra chấn thương và buông bỏ chúng.

Đại thiên thần Michael, con đang đứng
Với thày đây, ánh sáng con ra lệnh,
Tim con sẽ trải rộng mãi không ngừng
Cho đến khi lý tối cao sáng bừng.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.5. Mẹ Mary, xin Mẹ giúp con hòa điệu với luân xa rối dương (solar plexus chakra) của mình và xét xem con có niềm lo lắng nào về thế gian, về chính mình, về cuộc đời của mình. Xin Mẹ giúp con hòa điệu vào bất kỳ chấn thương nào con đã trải nghiệm trong cuộc đời mình và được lưu giữ trong luân xa rối dương của con.

Đại thiên thần Michael, trong tim này,
Không bao giờ con với thày xa cách,
Đoàn chưởng giáo nay con xin trọng trách,
Khởi hành mới, con sẽ bước chân ngay.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.6. Mẹ Mary, xin Mẹ gửi Ánh sáng của Mẹ Thiêng Liêng vào luân xa rối dương của con để tiêu trừ điều kiện này. Xin Mẹ giúp con nhận ra mọi niềm tin đã tạo ra chấn thương và buông bỏ chúng.

Đại thiên thần Michael, gươm sáng xanh,
Bao bóng tối vung tay thày chặt đứt,
Quả Ki-tô nay con theo nao nức,
Dùng phân biện thực chân rõ ngọn ngành.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.7. Mẹ Mary, xin Mẹ giúp con hòa điệu với luân xa tim của mình và xét xem con có niềm lo lắng nào về thế gian, về chính mình, về cuộc đời của mình. Xin Mẹ giúp con hòa điệu vào bất kỳ chấn thương nào con đã trải nghiệm trong cuộc đời mình và được lưu giữ trong luân xa tim của con.

Đại thiên thần Michael, con nương cánh
Của thày đây, bỏ lại chuyện cỏn con,
Tim con rộn tiếng Thượng đế gọi đàn,
Cùng tim thày mà hát mãi vang vang. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.8. Mẹ Mary, xin Mẹ gửi Ánh sáng của Mẹ Thiêng Liêng vào luân xa tim của con để tiêu trừ điều kiện này. Xin Mẹ giúp con nhận ra mọi niềm tin đã tạo ra chấn thương và buông bỏ chúng.

Đại thiên thần Michael, đưa con về
Những bầu cao con muốn được tiêu dao,
Được tái sinh khỏi vũ trụ xôn xáo,
Cho đời sống thành bài thơ dâng trào.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.9. Mẹ Mary, xin Mẹ giúp con hòa điệu với luân xa cổ họng của mình và xét xem con có niềm lo lắng nào về thế gian, về chính mình, về cuộc đời của mình. Xin Mẹ giúp con hòa điệu vào bất kỳ chấn thương nào con đã trải nghiệm trong cuộc đời mình và được lưu giữ trong luân xa cổ họng của con.

Đại thiên thần Michael là ánh sáng
Chiếu rực rỡ như tinh tú xanh ngời,
Thày đến đây từ tinh tú trên trời,
Con cùng thày đi khắp chốn xa xôi. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

Phần 2

2.1. Mẹ Mary, xin Mẹ gửi Ánh sáng của Mẹ Thiêng Liêng vào luân xa cổ họng của con để tiêu trừ điều kiện này. Xin Mẹ giúp con nhận ra mọi niềm tin đã tạo ra chấn thương và buông bỏ chúng.

Đại thiên thần Michael, sáng xanh ngắt,
Tim con chỉ còn chỗ cho mình thày,
Tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
Tình yêu thày cho con luôn chân chất.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.2. Mẹ Mary, xin Mẹ giúp con hòa điệu với luân xa con mắt thứ ba của mình và xét xem con có niềm lo lắng nào về thế gian, về chính mình, về cuộc đời của mình. Xin Mẹ giúp con hòa điệu vào bất kỳ chấn thương nào con đã trải nghiệm trong cuộc đời mình và được lưu giữ trong luân xa con mắt thứ ba của con.

Đại thiên thần Michael, con mãi mãi
Luôn là một với thực tại của thày,
Muôn sợ hãi không thể giam con mãi,
Và thế gian phải nhả hết quyền oai.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.3. Mẹ Mary, xin Mẹ gửi Ánh sáng của Mẹ Thiêng Liêng vào luân xa con mắt thứ ba của con để tiêu trừ điều kiện này. Xin Mẹ giúp con nhận ra mọi niềm tin đã tạo ra chấn thương và buông bỏ chúng.

Đại thiên thần Michael, ôm con chặt,
Phá tan đi bóng đêm đen tối nhất,
Sạch luân xa trong ánh sáng thần sầu,
Và phục hồi trong con cái nhìn sâu.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.4. Mẹ Mary, xin Mẹ giúp con hòa điệu với luân xa đỉnh đầu của mình và xét xem con có niềm lo lắng nào về thế gian, về chính mình, về cuộc đời của mình. Xin Mẹ giúp con hòa điệu vào bất kỳ chấn thương nào con đã trải nghiệm trong cuộc đời mình và được lưu giữ trong luân xa đỉnh đầu của con.

Đại thiên thần Michael, con đang đứng
Với thày đây, ánh sáng con ra lệnh,
Tim con sẽ trải rộng mãi không ngừng
Cho đến khi lý tối cao sáng bừng.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.5. Mẹ Mary, xin Mẹ gửi Ánh sáng của Mẹ Thiêng Liêng vào luân xa đỉnh đầu của con để tiêu trừ điều kiện này. Xin Mẹ giúp con nhận ra mọi niềm tin đã tạo ra chấn thương và buông bỏ chúng.

Đại thiên thần Michael, trong tim này,
Không bao giờ con với thày xa cách,
Đoàn chưởng giáo nay con xin trọng trách,
Khởi hành mới, con sẽ bước chân ngay.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.6. Mẹ Mary, con chấp nhận là con đang ngồi trong lòng Mẹ, con hoàn toàn được bảo vệ, được bảo bọc bởi Hiện diện nuôi dưỡng của Mẹ Thiêng liêng.

Đại thiên thần Michael, gươm sáng xanh,
Bao bóng tối vung tay thày chặt đứt,
Quả Ki-tô nay con theo nao nức,
Dùng phân biện thực chân rõ ngọn ngành.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.7. Mẹ Mary, con đã bỏ lại đằng sau những nỗi lo và bây giờ con là một hài nhi ngây thơ, nằm trong lòng Mẹ Thiêng liêng. Con đang uống dòng nuôi dưỡng của Mẹ Thiêng liêng và con no đủ.

Đại thiên thần Michael, con nương cánh
Của thày đây, bỏ lại chuyện cỏn con,
Tim con rộn tiếng Thượng đế gọi đàn,
Cùng tim thày mà hát mãi vang vang. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.8. Mẹ Mary, chúng ta đang đi ngược lại tiến trình sanh đẻ đã đưa con đầu thai tại đây. Bây giờ con đang nhẹ nhàng lướt ngược dòng ống sinh để tới một chỗ an toàn, ấm áp, nuôi dưỡng là bụng của Mẹ Thiêng liêng. 

Đại thiên thần Michael, đưa con về
Những bầu cao con muốn được tiêu dao,
Được tái sinh khỏi vũ trụ xôn xáo,
Cho đời sống thành bài thơ dâng trào.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2.9. Mẹ Mary, bây giờ con ở trong bụng của Mẹ Thiêng liêng – trong bụng của Mẹ. Con đã vượt qua kiếp đầu thai hiện thời của con, vượt qua mọi dính mắc và mọi nỗi lo lắng thường khiến con chú tâm vào thân thể vật lý hiện thời của mình, cuộc sống hiện thời của mình và thế giới trong đó con sống. Con đã bỏ chúng lại đằng sau, ở bên ngoài cổng.

Đại thiên thần Michael là ánh sáng
Chiếu rực rỡ như tinh tú xanh ngời,
Thày đến đây từ tinh tú trên trời,
Con cùng thày đi khắp chốn xa xôi. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

Phần 3

3.1. Mẹ Mary, bây giờ con được nuôi dưỡng, con cảm thấy an toàn và do đó con sẵn sàng đi xuống một đường hầm dẫn về các kiếp trước của con trên hành tinh này.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.2. Khi con đi với Mẹ, con bị thu hút bởi một cánh cửa dẫn tới một kiếp quá khứ đặc trưng nào đó.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.3. Mẹ Mary, khi chúng ta đi qua khung cửa, chúng ta thấy mình đứng trong một rạp hát và ngay trước mặt là sân khấu.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.4. Mẹ Mary, bây giờ con nắm tay Mẹ và chúng ta ngồi xuống. Buổi trình diễn bắt đầu, những nhân vật xuất hiện từ hai bên, họ đóng những vai trò khác nhau, vở kịch được diễn ra.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.5. Mẹ Mary, con hoàn toàn không nhập vào cảnh trên sân khấu; con chỉ quan sát thôi. Vở kịch đang diễn ra, con có một số cảm giác, một số cảm nhận. 

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.6. Mẹ Mary, con hòa điệu tâm con vào một hoàn cảnh từ một kiếp xưa đã gây chấn thương cho con.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.7. Mẹ Mary, con cảm thấy một số cảm xúc, con có một số ý tưởng, nhưng con hoàn toàn bình tĩnh. Những chuyện này đều được cả vì Mẹ đang ở bên cạnh con. Mẹ đang hướng dẫn con và không điều gì có thể làm con choáng ngợp, không điều gì xấu sẽ xảy ra cho con.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.8. Mẹ Mary, con biết là bất cứ điều gì xảy ra cho con lúc đó không thể xảy ra nữa. Nó không thể xảy ra cho con vì con không còn là con người đã gặp chuyện đó vào lúc đó.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.9. Mẹ Mary, con thấy có một người trên sân khấu đang bị một hoàn cảnh chấn thương, nhưng con không thực sự đồng hóa mình với người đó. Con thấy vở kịch đang diễn ra, nhưng con không bị lôi cuốn vào đó. Con đang không ở trên sân khấu quan sát truyện đang xảy ra, con đang ngồi với Mẹ bên cạnh con và con đang quan sát nó từ bên ngoài.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 4

4.1. Mẹ Mary, vở kịch đã trải bày xong và các nhân vật trên sân khấu đã bị đóng băng tại chỗ.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.2. Mẹ Mary, con nắm tay Mẹ và chúng ta bước vào hậu trường.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.3. Mẹ Mary, bây giờ chúng ta ở hậu trường và con nhận ra rằng điều mà con cảm thấy rất thật khi nhìn từ phía trước bây giờ chỉ vỏn vẹn là cảnh trí và dụng cụ sân khấu, chỉ trông giống thật khi nhìn từ một góc độ nào đó. Bây giờ khi chúng ta đứng trong hậu trường, con thấy là mọi thứ đều là dàn dựng và không có gì trong đó là thật cả. Tất cả như màn ảo thuật, tất cả là một vở kịch đang được diễn ra.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.4. Mẹ Mary, chúng ta bước lên sân khấu và Mẹ nắm tay con. Chúng ta đi về phía nhân vật chính đã trải qua một biến cố chấn thương.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.5. Mẹ Mary, chúng ta thấy là chấn thương lớn đến độ chính vì nó mà người đó bị đóng băng. Người đó, sinh thể đó vẫn còn bị đóng băng ở đó và đã bị đóng băng như vậy từ khi biến cố xảy ra.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.6. Mẹ Mary, tất cả những nhân vật còn lại cũng bị đóng băng nhưng con nhận ra họ không phải là những nhân vật thật bị đóng băng từ lúc đó, họ chỉ là cảm nhận của nhân vật chính.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.7. Mẹ Mary, con nhận ra rằng tuy có những sinh thể đã hành động như thế ở thời điểm quá khứ đó, nhưng họ đã đổi khác với thời gian. Những gì còn lại trong rạp hát là hình ảnh mà nhân vật chính có về các nhân vật đó và những gì họ đã làm đối với nhân vật chính này.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.8. Mẹ Mary, bây giờ chúng ta bước tới gần người này và Mẹ cho con thời gian để con tự điều chỉnh. Con cảm thấy gần giống như con đang nhìn một người lạ nhưng có dáng vẻ gì quen thuộc về người này.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.9. Mẹ Mary, bảo bọc trong tình yêu của Mẹ, con nhận ra là vào thời điểm đó, con đã đồng hóa mình với người này. Ngày hôm nay con thấy con đã hơn người này rất nhiều.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 5

5.1. Mẹ Mary, con nhận ra đây chính là con ở thời điểm đó. Con cũng nhận ra rằng con không còn là người này nữa. Con đã tiến hơn trên biết bao nhiêu mặt.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.2. Mẹ Mary, con nhận ra là rạp hát này hiện hữu trong tâm thức con, trong trường năng lượng của tâm thức con. Con biết là tâm thức con, toàn bộ tâm thức con, ngày nay hơn thế rất nhiều. Ngày hôm nay con hơn rất nhiều con người đã đầu thai trong kiếp sống quá khứ đó.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.3. Mẹ Mary, con thấy được là diễn biến chấn thương đầu tiên này là một cú sốc vô cùng nặng cho con vì sự tương phản giữa những gì con biết trước khi con xuống trái đất và trải nghiệm khốc liệt khi con tới hành tinh này.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.4. Mẹ Mary, dù rằng ở thời điểm đó nó là cú sốc đối với con, con nhận ra rằng bây giờ con hơn trước rất nhiều. Con đã trải nghiệm nhiều hơn nhiều trên hành tinh này, con đã có nhiều trải nghiệm tích cực trên hành tinh này, con đã có những thành tựu trên hành tinh này, con đã điều ngự bảy tia sáng.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.5. Mẹ Mary, diễn biến đầu tiên này, dù nó là một cú sốc vào thời điểm đó, ngày nay không còn quy định con nữa. Con không còn là sinh thể bị đóng băng vào lúc đó. Nó chỉ là một phần của con. Nó vẫn là một phần của con vì nó bị đóng băng vào lúc đó và con chưa trở về để nhìn lại nó.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.6. Mẹ Mary, bây giờ con đang ở đây với Mẹ, con thấy là con hơn thế rất nhiều. Do đó, con có thể nhìn chấn thương trong quá khứ này. Con có thể đi vào trong nó và trải nghiệm nó trở lại. Con sẽ không có cùng trải nghiệm mà con có lần đầu.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.7. Mẹ Mary, con nhận ra là nếu con muốn giải thoát mình khỏi chấn thương, con cần cho phép mình đi vào bên trong con người đã bị đóng băng vào quá khứ trên sân khấu.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.8. Mẹ Mary, con biết là con có thể ra khỏi con người này vì Mẹ sẽ nắm tay con trong suốt thời gian đó. Nếu con không tự mình ra khỏi được, Mẹ sẽ kéo con ra.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

5.9. Mẹ Mary, con nhất quyết: “Con đã mang chấn thương này trong con đủ lâu rồi và do đó con sẽ đi vào trong đó và trải nghiệm nó lại.”

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 6

6.1. Mẹ Mary, con chui vào nhân vật đầu tiên ấy, con người đầu tiên ấy, và bây giờ con đang trải nghiệm lại diễn biến gây chấn thương này. Con cho phép mình trải nghiệm những cảm xúc và ý tưởng khởi lên trong con.

Ôi Mẹ Mary, Bài Ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.2. Mẹ Mary, con cảm thấy Mẹ đang kéo tay con và con chuyển sự chú ý ra khỏi cái đau, khỏi chấn thương và hướng về Mẹ. Bây giờ con nhẹ nhàng chui tuột ra khỏi nhân vật.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.3. Mẹ Mary, con giống một trẻ thơ đang ngồi trong lòng Mẹ. Mẹ đang vỗ về con, Mẹ đang ôm con trong lòng. Bỗng nhiên con có thể nhìn hoàn cảnh với tâm hoàn toàn bình an. Con nhìn hoàn cảnh và con nhận ra nó cũng chỉ là một diễn biến, giống như nhiều diễn biến khác.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.4. Mẹ Mary, con nhận ra có rất nhiều diễn biến khác trên trái đất không ảnh hưởng đến con, không quy định được con. Trong tâm con, con đã coi diễn biến này đặc biệt, tệ hơn thực tại rất nhiều, nhưng nó chỉ là một diễn biến. Nó chỉ là một điều gì đã xảy ra.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.5. Mẹ Mary, con nhận ra là có rất nhiều diễn biến khác mà con đã buông bỏ và chắc chắn con cũng có thể buông bỏ diễn biến này. Con có thể buông nó xuống, con không phải nắm giữ nó. con không phải nắm chặt nó nữa. Nó không có chỗ đứng trong bản thể của con. Con không muốn nó, con không cần nó. Con muốn thoát khỏi nó. Con muốn vui chơi trong các khu vườn mà không bị nó đè nặng và không bị nó lôi kéo trở về diễn biến đó.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.6. Mẹ Mary, dường như là hoàn cảnh thật không còn đó nữa. Nó đã thay đổi với thời gian, nó đã hoàn toàn chuyển biến và không còn ở đó nữa. Nó chỉ có mặt trong tâm của con mà thôi, nó chỉ hiện hữu ở trong tâm của con mà thôi. Con không còn muốn nó trong tâm mình nữa và con có quyền lực thay đổi tâm mình. Con có thể thay đổi bất cứ điều gì xảy ra trong tâm mình.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.7. Mẹ Mary, xin Mẹ giúp con thoát khỏi cái này, hãy giúp con thoát khỏi toàn bộ kịch bản này.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.8. Mẹ Mary, bây giờ con trở về với nhân vật bị tổn thương đó và con thương yêu nhân vật đó, yêu mình như mình là ở thời điểm đó, yêu mình như con cảm thấy Mẹ yêu con. Con yêu phản ứng của mình.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

6.9. Mẹ Mary, con nhận ra là sau khi hoàn cảnh xảy ra, nỗi đau mãnh liệt đến độ con quả thực đã trách mình đã phản ứng như thế. Con trách mình là mình đã phản ứng lại hoàn cảnh và cách phản ứng này đã tạo ra nỗi đau của mình. Con trách mình và con nghĩ lẽ ra con phải có khả năng kinh nghiệm hoàn cảnh đó mà không đau đớn, không phản ứng lại.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Phần 7

7.1. Mẹ Mary, con nhận ra là con không thể tránh phản ứng lại chấn thương khốc liệt như thế và con không cần đòi hỏi mình không phản ứng. Dù con đã phản ứng thế nào chăng nữa, con có thể thoát khỏi nó. Con có thể thoát khỏi nó bằng cách yêu cái ta đã phản ứng.

Astrea, trinh trắng và yêu thương,
Thày Có Mặt khiến con ngập vui mừng.
Gươm, vòng tròn của thày xanh và trắng,
Cõi trung giới, thày vung kiếm chặt phăng.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

7.2. Mẹ Mary, khi con đi vào cái ta đó và yêu nó, con cảm thấy là nhân vật đã đóng băng vào quá khứ bỗng nhiên bắt đầu tan băng, chảy ra, trở nên lỏng. Nó không còn cứng ngắc nữa, nó không còn là cái vỏ cứng nữa. Nó lỏng ra, nó tuôn chảy. Sau đó, con thấy nó lỏng đến độ bỗng nhiên nó trở thành một vũng nước trên sàn.

Astrea, xin làm dịu cơn bão
Để thanh tịnh trong con luôn thể hiện,
Hào quang con màu trắng xanh thánh thiện
Như vị tướng chói lọi trong chiến bào.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

7.3. Mẹ Mary, con lấy miếng vải mà Mẹ đưa con, và con chùi vũng nước khỏi sàn và đưa lại miếng vải ướt cho Mẹ. Mẹ đưa nó vào luân xa tim của Mẹ và chuyển hóa nó.

Astrea, hãy đến và cắt đứt,
Giải vây con khỏi tà lực dính mắc,
Lực trung giới, thày trói giam cho chắc
Con tìm về trong tự do chân thực.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

7.4. Mẹ Mary, con bây giờ cảm thấy một gánh nặng vừa trút khỏi con. Nhưng con vẫn còn ở trên sân khấu vì các nhân vật khác vẫn còn đóng băng trong quá khứ.

Astrea, con thành thực kêu gọi,
Xin tẩy sạch mọi quỷ dữ trong con,
Chúng tiêu đi, con cao bước bon bon,
Con nhận chịu ngọn lửa đốt sạch hồn.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

7.5. Mẹ Mary, con nhận ra là khi chấn thương đầu tiên đó xảy ra, con đã để cho tâm bị ám ảnh bám mắc vào một hình ảnh đặc thù về mình và về những sinh thể đã làm chuyện đó đối với con. Cái nhìn này vẫn còn bị đóng băng trong quá khứ.

Astrea, xin trói mọi phàm linh
Để giúp con thoát khỏi kiếp mù lòa.
Khi phàm linh với song sinh hiện ra,
Trong chiến thắng Ki-tô con cũng thắng.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

7.6. Mẹ Mary, con ngồi trên sân khấu và con nhìn một nhân vật hiện lên trong tâm con, một hình ảnh. Con nhận ra rằng con không phải là sinh thể có mặt ở đó lúc khởi thủy. Con không sợ hãi; con đang ở đây với Mẹ.

Astrea, làm sạch mỗi tế bào
Khỏi tà lực của cái chết ngục sâu,
Thân con sẽ tăng trưởng khi giải phóng,
Từng tế bào lóng lánh ánh bên trong.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

7.7. Mẹ Mary, con tự do bên trong con và do đó con có thể nhìn hình ảnh mà con đã tạo dựng trong tâm vào lúc đó và con yêu hình ảnh đó. Con gửi tình yêu tới nó và cái vỏ cứng bắt đầu mềm đi, chảy ra, trở thành nước. Một lần nữa nó biến thành một vũng nước trên sân khấu.

Astrea, xin làm sạch cảm thể,
Nhờ thanh lọc mà con được bình an,
Khi thày rải cảm xúc cao hơn thế,
Con đồng tạo trong an lạc vẹn toàn.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

7.8. Mẹ Mary, con nhận một miếng vải khác từ Mẹ và con lau vũng nước đó, đưa lại cho Mẹ và Mẹ tiêu trừ nó trong luân xa tim của Mẹ.

Astrea, xin làm sạch cõi trí,
Tâm Ki-tô cầm tay lái chỉ huy,
Nay con biết cách thị hiện trong đời
Khuôn mẫu kia đẹp nhất cho mọi người.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

7.9. Mẹ Mary, chúng ta ở trên sân khấu và ít nhất lúc này không còn nhân vật nào hiện lên trong tâm con. Chúng ta đi ra khỏi cửa và đi vào đường hầm.

Astrea, nay con đà biết thực,
Cõi ê-the, nhìn được mẫu tiềm tàng,
Để con đồng sáng tạo trong ý thức,
Rõ ràng rồi bản sắc mới con mang.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

Phần 8

8.1. Mẹ Mary, chúng ta đã trở về và con lại trải nghiệm tiến trình sinh ra đời một lần nữa. Nhưng lần này, không có gì đau đớn, con còn không cảm thấy bị chật chội trong ống sinh.

Astrea, trinh trắng và yêu thương,
Thày Có Mặt khiến con ngập vui mừng.
Gươm, vòng tròn của thày xanh và trắng,
Cõi trung giới, thày vung kiếm chặt phăng.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

8.2. Mẹ Mary, con trở về hiện thân là một trẻ thơ ngồi trong lòng Mẹ, cảm thấy được ôm ấp và bao bọc trong tình yêu vô điều kiện của Mẹ.

Astrea, xin làm dịu cơn bão
Để thanh tịnh trong con luôn thể hiện,
Hào quang con màu trắng xanh thánh thiện
Như vị tướng chói lọi trong chiến bào.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

8.3. Mẹ Mary, con cảm thấy sẵn sàng, con cảm thấy trọn vẹn, con cảm thấy đã lành lặn đủ để trở về thân vật lý của con và sự nhận biết của kiếp sống hiện nay. Con trở về bằng cách đi qua các cánh cổng tượng trưng cho các luân xa của con.

Astrea, hãy đến và cắt đứt,
Giải vây con khỏi tà lực dính mắc,
Lực trung giới, thày trói giam cho chắc
Con tìm về trong tự do chân thực.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

8.4. Mẹ Mary, con nhận ra là trước khi hiện thân, con biết tình trạng trên hành tinh này và con có cảm nhận là con sẽ gặp khó khăn. Con cũng biết là bất kỳ chấn thương nào mà con phải gánh chịu, con sẽ có thể thoát khỏi nó. Nó không thể thật sự tiêu hủy con, thay đổi con hay chạm tới con.

Astrea, con thành thực kêu gọi,
Xin tẩy sạch mọi quỷ dữ trong con,
Chúng tiêu đi, con cao bước bon bon,
Con nhận chịu ngọn lửa đốt sạch hồn.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

8.5. Mẹ Mary, con nhận ra là những gì xảy ra trong cõi vật chất của trái đất giống như những gì xảy ra trong một rạp hát. Nó không thật.

Astrea, xin trói mọi phàm linh
Để giúp con thoát khỏi kiếp mù lòa.
Khi phàm linh với song sinh hiện ra,
Trong chiến thắng Ki-tô con cũng thắng.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

8.6. Mẹ Mary, con nhận ra là lý do vì sao con đồng hóa mình với trái đất là vì chấn thương nhập đời khốc liệt đến độ nó khiến con nghĩ chấn thương này đã thay đổi con và giờ đây con đã trở thành một sinh thể bị thương tích. Nó đã khiến con tự đồng hóa mình với nhân vật mà con thủ vai trong tất cả các kiếp đầu thai của mình.

Astrea, làm sạch mỗi tế bào
Khỏi tà lực của cái chết ngục sâu,
Thân con sẽ tăng trưởng khi giải phóng,
Từng tế bào lóng lánh ánh bên trong.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

8.7. Mẹ Mary, con không còn tự đồng hóa mình với nhân vật đầu tiên bị tổn thương trong chấn thương nhập đời đầu tiên. Con cũng không tự đồng hóa mình với bất kỳ vai trò nào khác mà con đã thủ vai trong các kiếp đầu thai khác. Con cũng không hoàn toàn tự đồng hóa mình với vai trò con đang thủ vai trong kiếp đầu thai này.

Astrea, xin làm sạch cảm thể,
Nhờ thanh lọc mà con được bình an,
Khi thày rải cảm xúc cao hơn thế,
Con đồng tạo trong an lạc vẹn toàn.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

8.8. Mẹ Mary, con nhận ra rằng con sinh trưởng trong một gia đình nào đó, một quốc gia nào đó, một nền văn hóa nào đó. Các thứ đó có một lịch sử đi ngược dòng thời gian. Con đã bị ảnh hưởng bởi môi trường của mình, bởi gen của mình. Ngoài những yếu tố đó, con cũng đã có nhiều kiếp sống trước đã ảnh hưởng mình.

Astrea, xin làm sạch cõi trí,
Tâm Ki-tô cầm tay lái chỉ huy,
Nay con biết cách thị hiện trong đời
Khuôn mẫu kia đẹp nhất cho mọi người.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

8.9. Mẹ Mary, giờ đây con đạt được tự do tâm trí mới vì tất cả những điều này đã được giải tỏa tới điểm mà chúng không quy định được hướng đi của phần còn lại của kiếp đầu thai này của con. Con có tự do chọn lựa mình sẽ là ai trong phần còn lại của kiếp sống này.

Astrea, nay con đà biết thực,
Cõi ê-the, nhìn được mẫu tiềm tàng,
Để con đồng sáng tạo trong ý thức,
Rõ ràng rồi bản sắc mới con mang.

Astrea, xin thày ban gia tốc
Cho rung động của con được trong lành,
Hào quang con ngập sáng như lửa bốc,
Tỏa ngọn lửa của thày trắng và xanh.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

Thỉnh cầu tự do khỏi phản-tình thương (7 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Mẹ Mary, hãy giúp con vượt qua các ảo tưởng của phản-tình thương. Xin các thày giúp con thấy lời gian dối và các vết thương đã ngăn cản không cho con chấp nhận tình yêu vô điều kiện của Mẹ Thiêng liêng, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con biết Mẹ như là một chân sư thăng thiên và biết Mẹ là Mẹ Thiêng liêng đối với con.

Ôi Mẹ Mary, Mẹ của con nhé,
Không tình yêu nào lớn hơn tình mẹ,
Hợp nhất với Mẹ trong tâm, tim này,
Con thấy chỗ đứng giữa các thày đây.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

1.2. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con biết và thật sự trải nghiệm là Mẹ yêu con.

Cõi trời con xuống nơi trái đất này,
Từ xa con đến hiện thân nơi đây.
Thẩm quyền thiêng liêng, nay con ra lịnh,
Mẹ ơi dũng mãnh, giải phóng hành tinh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

1.3. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con cảm nhận tình yêu của Mẹ cho con và dùng nó làm nền tảng để thương yêu chính mình.

Nhân danh Thượng đế, con kêu gọi Mẹ,
Ngọn Lửa của Mẹ sáng bừng mạnh mẽ,
Đốt tan năng lượng của mọi sợ hãi,
Hài hòa thiêng liêng, hồi phục mãi hoài.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

1.4. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con phân biệt sự khác nhau giữa nhân cách vỏ ngoài, cái ta vỏ ngoài và bản thể bên trong, cái ta bên trong.

Tên Mẹ thiêng liêng, ôi đẹp làm sao,
Tâm thức tập thể, Mẹ nâng lên cao.
Không còn sợ hãi, hổ thẹn nghi ngờ,
Ngọn lửa của Mẹ thiêu đốt sạch trơ.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

1.5. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con bắt đầu chấp nhận là con có thể yêu cái ta, không phải nhân cách vỏ ngoài mà là cái ta mà con là.

Bóng tối trái đất, mẹ lọc cho thanh,
Ánh sáng của Mẹ dấy lên dũng mãnh.
Tà lực tăm tối không sao cản được
vòng xoáy lên cao, hành tinh tiến bước.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

1.6. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con khắc phục lập trình đến từ các sa nhân đã ngăn cản không cho con biết là con hơn cái ta vỏ ngoài.

Mọi tinh linh sống, mẹ ban ân thánh,
Tảy đi muôn vàn ô uế người sanh.
Tinh linh giải thoát ở trong thiên nhiên
thể hiện hài hòa ý lệnh Thiêng liêng.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

1.7. Ôi Mẹ Mary, con kêu gọi sự phán xử của Mẹ Thiêng liêng đối với các sa nhân đã đồng hóa với cái ta tách biệt và bác bỏ sự thật là họ là một thành phần của cái Ta Một của Thượng đế.

Gióng to lập trường, con vùng đứng dậy,
Con truyền lệnh xuống, chiến tranh ngừng ngay.
Chiến tranh hết rồi, thôi hằn trái đất,
Thời đại hoàng kim, sinh ra rất thật.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

1.8. Ôi Mẹ Mary, con kêu gọi sự phán xử của Mẹ Thiêng liêng đối với giáo đoàn tâm linh giả, thiểu số tự tôn quyền lực, những sinh thể đã bác bỏ ý niệm Thượng đế yêu họ.

Ôi Trái đất Mẹ, tự do thật sự,
Thảm họa xa xưa, bóng mờ quá khứ.
Ánh sáng của Mẹ, ôi sao sáng tỏa,
Vật chất dày đặc, giờ trong nhẹ quá.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

1.9. Ôi Mẹ Mary, con kêu gọi sự phán xử của Mẹ Thiêng liêng đối với những sa nhân đã dựng họ thành Thượng đế vì họ đã nói: “Chúng tôi có thể quy định những điều kiện mà ngay cả Thượng đế cũng phải tuân theo trước khi Thượng đế có thể ban phát tình thương cho những người đang hiện thân trên trái đất.”

Trong Ánh sáng Mẹ, trái đất thanh tịnh,
Sung túc giờ đây là chuyện thường tình.
Vòng xoáy lên cao mãi hoài tỏa sáng,
Viễn quan Thượng đế hiện hình sáng lạn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

Phần 2

2.1. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con thăng vượt lời gian dối của sa nhân nói rằng tình yêu Thượng đế có điều kiện, tình yêu này đòi hỏi con phải làm tròn một số điều kiện nào đó mà họ đã quy định.

Ôi Mẹ Mary, Mẹ của con nhé,
Không tình yêu nào lớn hơn tình mẹ,
Hợp nhất với Mẹ trong tâm, tim này,
Con thấy chỗ đứng giữa các thày đây.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

2.2. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con giải quyết những chỗ con không hoàn toàn yêu mình được trong bản thể của con.

Cõi trời con xuống nơi trái đất này,
Từ xa con đến hiện thân nơi đây.
Thẩm quyền thiêng liêng, nay con ra lịnh,
Mẹ ơi dũng mãnh, giải phóng hành tinh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

2.3. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con khắc phục ý niệm là Mẹ cao hơn con rất nhiều dựa trên thang điểm nhị nguyên của sa nhân. Xin giúp con biết là chúng ta đều là một với Tâm Một của Thượng đế.

Nhân danh Thượng đế, con kêu gọi Mẹ,
Ngọn Lửa của Mẹ sáng bừng mạnh mẽ,
Đốt tan năng lượng của mọi sợ hãi,
Hài hòa thiêng liêng, hồi phục mãi hoài.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

2.4. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con khắc phục mọi mong muốn che giấu một số sắc thái của cái ta nhân gian của con vì con nghĩ nếu Mẹ thấy sắc thái đó của cái ta nhân gian, thì Mẹ không thể nào yêu cái ta vỏ ngoài đó.

Tên Mẹ thiêng liêng, ôi đẹp làm sao,
Tâm thức tập thể, Mẹ nâng lên cao.
Không còn sợ hãi, hổ thẹn nghi ngờ,
Ngọn lửa của Mẹ thiêu đốt sạch trơ.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

2.5. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con khắc phục ý niệm là Mẹ sẽ kết án con, ruồng bỏ con, mắng mỏ con hay phát vào mông con. Xin giúp con bắt đầu tách mình ra khỏi nhân cách vỏ ngoài và nối kết với cái ta cao hơn của mình.

Bóng tối trái đất, mẹ lọc cho thanh,
Ánh sáng của Mẹ dấy lên dũng mãnh.
Tà lực tăm tối không sao cản được
vòng xoáy lên cao, hành tinh tiến bước.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

2.6. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhìn cái ta vỏ ngoài của mình một cách khác để con không xem nó như kẻ địch của sự tăng triển tâm linh của mình. Con không xem nó như một cái gì xấu, tà ác hay ô uế đến độ Mẹ sẽ lên án con đã có nó.

Mọi tinh linh sống, mẹ ban ân thánh,
Tảy đi muôn vàn ô uế người sanh.
Tinh linh giải thoát ở trong thiên nhiên
thể hiện hài hòa ý lệnh Thiêng liêng.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

2.7. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con khắc phục khuynh hướng chia cuộc đời thành từng ngăn và muốn giấu một số chuyện không cho Mẹ thấy vì con không chấp nhận là tình yêu Mẹ thật sự là vô điều kiện.

Gióng to lập trường, con vùng đứng dậy,
Con truyền lệnh xuống, chiến tranh ngừng ngay.
Chiến tranh hết rồi, thôi hằn trái đất,
Thời đại hoàng kim, sinh ra rất thật.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

2.8. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con cho phép mình thoát khỏi khuynh hướng phán xét mình. Xin giúp con nhận ra tại sao con phán xét và tại sao con có ý tưởng con phải phán xét hành vi của mình dựa trên một tiêu chuẩn vỏ ngoài.

Ôi Trái đất Mẹ, tự do thật sự,
Thảm họa xa xưa, bóng mờ quá khứ.
Ánh sáng của Mẹ, ôi sao sáng tỏa,
Vật chất dày đặc, giờ trong nhẹ quá.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

2.9. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra con đang sống trong một thời kỳ rất căng thẳng của hành tinh đang chuyển tiếp từ Thời đại Song ngư sang Thời đại Bảo bình. Con đang chịu một áp lực to lớn, một mức độ phóng chiếu to lớn.

Trong Ánh sáng Mẹ, trái đất thanh tịnh,
Sung túc giờ đây là chuyện thường tình.
Vòng xoáy lên cao mãi hoài tỏa sáng,
Viễn quan Thượng đế hiện hình sáng lạn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

Phần 3

3.1. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là có những lực không muốn con thành công. Họ khẩn thiết muốn con bám chặt vào ý tưởng cho rằng, vì con có khuyết điểm nào đó hay vì con đã phạm một lỗi lầm nào đó, nên con không xứng đáng đứng lên đòi hỏi bất cứ điều gì có thể cải thiện đời sống trên trái đất.

Ôi Mẹ Mary, Mẹ của con nhé,
Không tình yêu nào lớn hơn tình mẹ,
Hợp nhất với Mẹ trong tâm, tim này,
Con thấy chỗ đứng giữa các thày đây.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

3.2. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhìn cái ta vỏ ngoài, tự ngã của mình, không như kẻ địch cũng không như một đồng minh của việc tăng triển tâm linh của mình, nhưng coi nó không có ảnh hưởng gì trên việc tăng triển tâm linh của mình.

Cõi trời con xuống nơi trái đất này,
Từ xa con đến hiện thân nơi đây.
Thẩm quyền thiêng liêng, nay con ra lịnh,
Mẹ ơi dũng mãnh, giải phóng hành tinh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

3.3. Ôi Mẹ Mary, bây giờ con nói: “Con nhìn nhận là con có khuynh hướng này. Con thấy đây là một phần của cái ta vỏ ngoài của con, nhưng nó không phải là con. Nó sẽ không quy định được con, nó sẽ không kềm giữ được con trên con đường tâm linh. Nó sẽ không thể khiến con lẩn trốn Mẹ Mary.”

Nhân danh Thượng đế, con kêu gọi Mẹ,
Ngọn Lửa của Mẹ sáng bừng mạnh mẽ,
Đốt tan năng lượng của mọi sợ hãi,
Hài hòa thiêng liêng, hồi phục mãi hoài.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

3.4. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là Mẹ sẽ tôn trọng chọn lựa lẩn trốn của con nhưng như thế thì Mẹ sẽ không giúp được con khắc phục cái ta vỏ ngoài của con.

Tên Mẹ thiêng liêng, ôi đẹp làm sao,
Tâm thức tập thể, Mẹ nâng lên cao.
Không còn sợ hãi, hổ thẹn nghi ngờ,
Ngọn lửa của Mẹ thiêu đốt sạch trơ.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

3.5. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con ngừng chối bỏ sự giúp đỡ của Mẹ trong những hoàn cảnh khi con cần sự giúp đỡ của Mẹ nhiều nhất, những hoàn cảnh khi con mất hài hòa.

Bóng tối trái đất, mẹ lọc cho thanh,
Ánh sáng của Mẹ dấy lên dũng mãnh.
Tà lực tăm tối không sao cản được
vòng xoáy lên cao, hành tinh tiến bước.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

3.6. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra khi Mẹ nói Mẹ yêu con, thì Mẹ không phân biệt giữa cái ta vỏ ngoài và cái ta nội tại của con. Mẹ yêu con như một tổng thể, như toàn bộ sinh thể mà con là.

Mọi tinh linh sống, mẹ ban ân thánh,
Tảy đi muôn vàn ô uế người sanh.
Tinh linh giải thoát ở trong thiên nhiên
thể hiện hài hòa ý lệnh Thiêng liêng.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

3.7. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con chấp nhận là khi con hiện thân trong một bầu cõi chưa thăng thiên, đặc biệt là trên một hành tinh dày đặc như trái đất, thì con không thể tránh có một cái ta vỏ ngoài.

Gióng to lập trường, con vùng đứng dậy,
Con truyền lệnh xuống, chiến tranh ngừng ngay.
Chiến tranh hết rồi, thôi hằn trái đất,
Thời đại hoàng kim, sinh ra rất thật.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

3.8. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là cái ta vỏ ngoài gần như là một cái khiên bảo vệ giúp con có mặt trên hành tinh này và sinh hoạt trong đời sống hàng ngày. Cái ta vỏ ngoài là một cơ chế tự vệ cần thiết.

Ôi Trái đất Mẹ, tự do thật sự,
Thảm họa xa xưa, bóng mờ quá khứ.
Ánh sáng của Mẹ, ôi sao sáng tỏa,
Vật chất dày đặc, giờ trong nhẹ quá.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

3.9. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là không có ai thăng thiên vì đã là người toàn hảo dựa trên một chuẩn mực do sa nhân quy định. Họ đã thăng thiên bằng cách quyết định chuẩn mực sa ngã này không quy định được họ nữa.

Trong Ánh sáng Mẹ, trái đất thanh tịnh,
Sung túc giờ đây là chuyện thường tình.
Vòng xoáy lên cao mãi hoài tỏa sáng,
Viễn quan Thượng đế hiện hình sáng lạn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

Phần 4

4.1. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là khi con đã phần nào tách mình ra khỏi cái ta nhân gian thì bất kể cái ta nhân gian nào còn tồn tại, con cần thương yêu nó.

Ôi Mẹ Mary, Mẹ của con nhé,
Không tình yêu nào lớn hơn tình mẹ,
Hợp nhất với Mẹ trong tâm, tim này,
Con thấy chỗ đứng giữa các thày đây.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

4.2. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là khi con bị cái ta vỏ ngoài làm cho hoàn toàn mù lòa thì nó quy định con. Khi con xem nó là kẻ địch của việc tăng triển tâm linh của mình, thì nó cũng quy định con. Con cần ngưng không cho nó quy định con.

Cõi trời con xuống nơi trái đất này,
Từ xa con đến hiện thân nơi đây.
Thẩm quyền thiêng liêng, nay con ra lịnh,
Mẹ ơi dũng mãnh, giải phóng hành tinh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

4.3. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là khi con không còn xem cái ta vỏ ngoài như một kẻ địch nữa thì bước hợp lý kế tiếp là con thương yêu nó.

Nhân danh Thượng đế, con kêu gọi Mẹ,
Ngọn Lửa của Mẹ sáng bừng mạnh mẽ,
Đốt tan năng lượng của mọi sợ hãi,
Hài hòa thiêng liêng, hồi phục mãi hoài.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

4.4. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra con là một sinh thể tâm linh. Đối với một sinh thể tâm linh hiện thân, lý tưởng nhất là nó là một cánh cửa mở cho tình thương vô điều kiện.

Tên Mẹ thiêng liêng, ôi đẹp làm sao,
Tâm thức tập thể, Mẹ nâng lên cao.
Không còn sợ hãi, hổ thẹn nghi ngờ,
Ngọn lửa của Mẹ thiêu đốt sạch trơ.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

4.5. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là khi con nghĩ con có một kẻ địch mà con không thể thương yêu được, thì con để cho kẻ địch đó cắt đứt dòng chảy của tình thương vô điều kiện chảy xuyên qua bản thể con. Kẻ địch đó đang quy định con bằng cách khiến con cảm thấy con không còn là một sinh thể tâm linh đang mở ra với tình thương vô điều kiện.

Bóng tối trái đất, mẹ lọc cho thanh,
Ánh sáng của Mẹ dấy lên dũng mãnh.
Tà lực tăm tối không sao cản được
vòng xoáy lên cao, hành tinh tiến bước.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

4.6. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là chỉ bằng cách thương yêu kẻ địch của mình thì con mới được giải thoát khỏi tâm thức mà họ đại diện. Con sẽ được tự do là người mà con là, một cánh cửa mở cho tình thương vô điều kiện.

Mọi tinh linh sống, mẹ ban ân thánh,
Tảy đi muôn vàn ô uế người sanh.
Tinh linh giải thoát ở trong thiên nhiên
thể hiện hài hòa ý lệnh Thiêng liêng.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

4.7. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con hoàn toàn chấp nhận là Thượng đế yêu con, Mẹ yêu con. Xin giúp con yêu cái ta của mình, cả phần “cái ta” và phần “của mình” của bản thể của con.

Gióng to lập trường, con vùng đứng dậy,
Con truyền lệnh xuống, chiến tranh ngừng ngay.
Chiến tranh hết rồi, thôi hằn trái đất,
Thời đại hoàng kim, sinh ra rất thật.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

4.8. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là con không còn cần che giấu cái ta không thật của con khỏi mắt Mẹ hay mắt con. Xin giúp con thấy nó không thật, thấy nó không quy định được con. Xin giúp con không còn cảm thấy bị nó đe dọa, không còn thấy nó quan trọng.

Ôi Trái đất Mẹ, tự do thật sự,
Thảm họa xa xưa, bóng mờ quá khứ.
Ánh sáng của Mẹ, ôi sao sáng tỏa,
Vật chất dày đặc, giờ trong nhẹ quá.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

4.9. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là khi con thăng vượt cái ta vỏ ngoài thì không có nghĩa là con không còn cái ta vỏ ngoài. Điều này có nghĩa là cái ta vỏ ngoài còn sót lại chỉ đủ để giữ con hiện thân trong cõi này. Nó không quy định con.

Trong Ánh sáng Mẹ, trái đất thanh tịnh,
Sung túc giờ đây là chuyện thường tình.
Vòng xoáy lên cao mãi hoài tỏa sáng,
Viễn quan Thượng đế hiện hình sáng lạn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

Phần 5

5.1. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con khắc phục tư duy cuồng đại cho rằng vì con đã phạm một lỗi lầm, con không bao giờ vượt qua được nó và Mẹ sẽ không yêu con nữa.

Ôi Mẹ Mary, Mẹ của con nhé,
Không tình yêu nào lớn hơn tình mẹ,
Hợp nhất với Mẹ trong tâm, tim này,
Con thấy chỗ đứng giữa các thày đây.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

5.2. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con vượt qua tư duy cho rằng nếu con tự trừng phạt mình và làm công tác chuộc tội, thì Mẹ sẽ yêu con trở lại.

Cõi trời con xuống nơi trái đất này,
Từ xa con đến hiện thân nơi đây.
Thẩm quyền thiêng liêng, nay con ra lịnh,
Mẹ ơi dũng mãnh, giải phóng hành tinh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

5.3. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là Mẹ không suy nghĩ như vậy vì Mẹ là một chân sư thăng thiên, không phải là một sa nhân.

Nhân danh Thượng đế, con kêu gọi Mẹ,
Ngọn Lửa của Mẹ sáng bừng mạnh mẽ,
Đốt tan năng lượng của mọi sợ hãi,
Hài hòa thiêng liêng, hồi phục mãi hoài.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

5.4. Ôi Mẹ Mary, con sẽ ngưng phóng chiếu lên Mẹ là Mẹ nhìn con giống như sa nhân nhìn con.

Tên Mẹ thiêng liêng, ôi đẹp làm sao,
Tâm thức tập thể, Mẹ nâng lên cao.
Không còn sợ hãi, hổ thẹn nghi ngờ,
Ngọn lửa của Mẹ thiêu đốt sạch trơ.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

5.5. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con vượt qua sự chống kháng của cái ta vỏ ngoài và nhìn nhận là Mẹ không giống hình ảnh của Thượng đế mà sa nhân đã tạo ra. Mẹ là một chân sư thăng thiên và Mẹ từ chối tuân theo hình ảnh của sa nhân.

Bóng tối trái đất, mẹ lọc cho thanh,
Ánh sáng của Mẹ dấy lên dũng mãnh.
Tà lực tăm tối không sao cản được
vòng xoáy lên cao, hành tinh tiến bước.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

5.6. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con biết Mẹ là một sinh thể có tự do của Thượng đế ban cho. Mẹ không bị trói buộc bởi tâm thức của người đang đầu thai hay của sa nhân, dù họ có đang đầu thai trong cõi vật lý hay không.

Mọi tinh linh sống, mẹ ban ân thánh,
Tảy đi muôn vàn ô uế người sanh.
Tinh linh giải thoát ở trong thiên nhiên
thể hiện hài hòa ý lệnh Thiêng liêng.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

5.7. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là Mẹ đã thoát khỏi tâm thức sa ngã. Mẹ muốn con thoát khỏi nó, nhưng con không thể nào hoàn toàn thoát khỏi nó nếu con không nhận ra là Mẹ không bị tâm thức sa ngã ảnh hưởng.

Gióng to lập trường, con vùng đứng dậy,
Con truyền lệnh xuống, chiến tranh ngừng ngay.
Chiến tranh hết rồi, thôi hằn trái đất,
Thời đại hoàng kim, sinh ra rất thật.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

5.8. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là tình yêu của Mẹ không có điều kiện. Những kẻ không nhìn nhận có tình thương vô điều kiện là sa nhân đang đầu thai hay là những kẻ bị tâm thức sa ngã làm cho hoàn toàn mù lòa.

Ôi Trái đất Mẹ, tự do thật sự,
Thảm họa xa xưa, bóng mờ quá khứ.
Ánh sáng của Mẹ, ôi sao sáng tỏa,
Vật chất dày đặc, giờ trong nhẹ quá.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

5.9. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra rằng Thượng đế chưa bao giờ và sẽ không bao giờ tuân theo tâm thức của sa nhân hay của những sinh thể chưa thăng thiên.

Trong Ánh sáng Mẹ, trái đất thanh tịnh,
Sung túc giờ đây là chuyện thường tình.
Vòng xoáy lên cao mãi hoài tỏa sáng,
Viễn quan Thượng đế hiện hình sáng lạn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

Phần 6

6.1. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là một trong những biểu hiện dữ dội nhất của phản tình thương là nghĩ rằng một người đang đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất có thể quy định là Thượng đế sẽ hành xử, suy nghĩ và nhìn cuộc đời như thế nào.

Ôi Mẹ Mary, Mẹ của con nhé,
Không tình yêu nào lớn hơn tình mẹ,
Hợp nhất với Mẹ trong tâm, tim này,
Con thấy chỗ đứng giữa các thày đây.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

6.2. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là trái đất không phải là một hành tinh cao cả lắm và những sa nhân liên hệ với trái đất đều không là sinh thể tinh xảo. Bằng chứng là trên trái đất có rất nhiều biểu hiện phản tình thương như chiến tranh và xung đột. Xin Mẹ giúp con ngưng đi theo các sa nhân.

Cõi trời con xuống nơi trái đất này,
Từ xa con đến hiện thân nơi đây.
Thẩm quyền thiêng liêng, nay con ra lịnh,
Mẹ ơi dũng mãnh, giải phóng hành tinh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

6.3. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con ngưng phóng chiếu hình ảnh sa ngã lên Mẹ để con có thể ngưng chối bỏ sự giúp đỡ của Mẹ lúc con cần nhất.

Nhân danh Thượng đế, con kêu gọi Mẹ,
Ngọn Lửa của Mẹ sáng bừng mạnh mẽ,
Đốt tan năng lượng của mọi sợ hãi,
Hài hòa thiêng liêng, hồi phục mãi hoài.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

6.4. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là cách duy nhất để vào cõi thăng thiên là chuyển đổi tâm thức của mình. Không có cách nào khác giúp con hội đủ tiêu chuẩn để được cứu rỗi hay thăng thiên.

Tên Mẹ thiêng liêng, ôi đẹp làm sao,
Tâm thức tập thể, Mẹ nâng lên cao.
Không còn sợ hãi, hổ thẹn nghi ngờ,
Ngọn lửa của Mẹ thiêu đốt sạch trơ.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

6.5. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là bởi vì tình thương của Thượng đế vô điều kiện, nên không có điều gì con có thể làm trên trái đất này, không có điều kiện nào mà con có thể quy định và làm tròn, có thể ép buộc Thượng đế phải cho con vào Vương quốc của ngài.

Bóng tối trái đất, mẹ lọc cho thanh,
Ánh sáng của Mẹ dấy lên dũng mãnh.
Tà lực tăm tối không sao cản được
vòng xoáy lên cao, hành tinh tiến bước.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

6.6. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là con sẽ vào Vương quốc khi con ngưng ép buộc Thượng đế phải cho con vào. Xin Mẹ giúp con chấp nhận là Thượng đế sẽ cho con vào khi con không còn bất cứ điều kiện nào trong tâm quy định cách con hay Thượng đế phải hành xử.

Mọi tinh linh sống, mẹ ban ân thánh,
Tảy đi muôn vàn ô uế người sanh.
Tinh linh giải thoát ở trong thiên nhiên
thể hiện hài hòa ý lệnh Thiêng liêng.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

6.7. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con tới được điểm con hành động dựa trên cái Một một cách tự nhiên thay vì cố gắng ép mình phải sống theo một lý tưởng do sa nhân quy định.

Gióng to lập trường, con vùng đứng dậy,
Con truyền lệnh xuống, chiến tranh ngừng ngay.
Chiến tranh hết rồi, thôi hằn trái đất,
Thời đại hoàng kim, sinh ra rất thật.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

6.8. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con thỉnh thoảng cho phép mình không toàn hảo và thay vì lên án mình hay phân tích quá mức, con chỉ giản dị tiến lên làm chuyện khác.

Ôi Trái đất Mẹ, tự do thật sự,
Thảm họa xa xưa, bóng mờ quá khứ.
Ánh sáng của Mẹ, ôi sao sáng tỏa,
Vật chất dày đặc, giờ trong nhẹ quá.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

6.9. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là một phần của tiến trình tăng triển trong một bầu cõi chưa thăng thiên, đặc biệt là trên một hành tinh dày đặc như trái đất, là con đi vào tâm thức nhân gian và sống trong đó cho tới khi con chán ngán kinh nghiệm này. Lúc ấy, con tách mình ra khỏi tâm thức đó và con nói: “Tôi không còn muốn tâm thức này nữa. Nó không còn là tôi nữa. Nó không quy định được tôi.”

Trong Ánh sáng Mẹ, trái đất thanh tịnh,
Sung túc giờ đây là chuyện thường tình.
Vòng xoáy lên cao mãi hoài tỏa sáng,
Viễn quan Thượng đế hiện hình sáng lạn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

Phần 7

7.1. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con thoát khỏi tâm thái luôn luôn phán xét, lượng định và phân tích.

Ôi Mẹ Mary, Mẹ của con nhé,
Không tình yêu nào lớn hơn tình mẹ,
Hợp nhất với Mẹ trong tâm, tim này,
Con thấy chỗ đứng giữa các thày đây.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

7.2. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con tới được điểm con thấy mình làm một điều gì không toàn hảo nhưng thay vì lên án và phân tích việc làm của mình, thì con chỉ nhìn nó và nói: “Rồi sao?”. Và sau đó con bỏ nó lại sau và tiến lên làm chuyện khác.

Cõi trời con xuống nơi trái đất này,
Từ xa con đến hiện thân nơi đây.
Thẩm quyền thiêng liêng, nay con ra lịnh,
Mẹ ơi dũng mãnh, giải phóng hành tinh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

7.3. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là sa nhân khẩn thiết muốn con bác bỏ những điều Mẹ nói bởi vì chỉ khi con từ chối tình thương vô điều kiện thì họ mới nắm được con.

Nhân danh Thượng đế, con kêu gọi Mẹ,
Ngọn Lửa của Mẹ sáng bừng mạnh mẽ,
Đốt tan năng lượng của mọi sợ hãi,
Hài hòa thiêng liêng, hồi phục mãi hoài.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

7.4. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con buông bỏ ảo tưởng này và cảm thấy được tự do như chưa bao giờ con được tự do. Xin giúp con được tự do là chính mình.

Tên Mẹ thiêng liêng, ôi đẹp làm sao,
Tâm thức tập thể, Mẹ nâng lên cao.
Không còn sợ hãi, hổ thẹn nghi ngờ,
Ngọn lửa của Mẹ thiêu đốt sạch trơ.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

7.5. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là Mẹ không muốn con là ai khác. Mẹ không muốn con phải sống theo một hình ảnh nào đó về người tâm linh gương mẫu.

Bóng tối trái đất, mẹ lọc cho thanh,
Ánh sáng của Mẹ dấy lên dũng mãnh.
Tà lực tăm tối không sao cản được
vòng xoáy lên cao, hành tinh tiến bước.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

7.6. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là Thượng đế đã phú cho con một cá tính độc đáo. Mẹ muốn con biểu lộ cá tính này đến mức tối đa trong cuộc sống thường ngày của con.

Mọi tinh linh sống, mẹ ban ân thánh,
Tảy đi muôn vàn ô uế người sanh.
Tinh linh giải thoát ở trong thiên nhiên
thể hiện hài hòa ý lệnh Thiêng liêng.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

7.7. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con đem lại món quà của con cho hành tinh này, món quà mà con đã quyết định mang tới trước khi con đầu thai.

Gióng to lập trường, con vùng đứng dậy,
Con truyền lệnh xuống, chiến tranh ngừng ngay.
Chiến tranh hết rồi, thôi hằn trái đất,
Thời đại hoàng kim, sinh ra rất thật.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

7.8. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con nhận ra là Mẹ muốn con là cái con là. Con không thể là cái con là nếu con cứ luôn luôn phê phán, phân tích và nghĩ mình phải sống theo một tiêu chuẩn vỏ ngoài hay mẫu mực nào đó. Xin Mẹ giúp con thấy được là Mẹ không áp đặt tiêu chuẩn đó lên con.

Ôi Trái đất Mẹ, tự do thật sự,
Thảm họa xa xưa, bóng mờ quá khứ.
Ánh sáng của Mẹ, ôi sao sáng tỏa,
Vật chất dày đặc, giờ trong nhẹ quá.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

7.9. Ôi Mẹ Mary, xin giúp con xoay mũi kim của tâm thức của mình cho tới khi nó vào khớp và con được tự do. Xin giúp con để bông hồng của trái tim nở ra cho tới khi con có thể chấp nhận tình yêu của Mẹ, tình yêu không chuyển tải được bằng ngôn từ và không bị ngôn từ hạn chế, tình yêu mà Mẹ là. Xin giúp con yêu mình y như Mẹ yêu con.

Trong Ánh sáng Mẹ, trái đất thanh tịnh,
Sung túc giờ đây là chuyện thường tình.
Vòng xoáy lên cao mãi hoài tỏa sáng,
Viễn quan Thượng đế hiện hình sáng lạn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

Thỉnh cầu tự do khỏi chấn thương nhập đời (7 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi  Chân sư MORE và Mẹ Mary hãy chữa lành chấn thương nhập đời nguyên thủy mà con đã gánh chịu khi con đầu thai lần đầu xuống trái đất và chạm trán tâm thức sa ngã. Xin các thày giúp con vượt qua các vết thương và ảo tưởng đang ngăn cản không cho con hoàn thành mục tiêu nguyên thủy của con khi con đến đây, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là những biểu hiện của phản-tình thương muốn chia chẻ mọi thứ, xếp mọi thứ vào thể loại tách biệt. Rồi chúng muốn nói là chuyện xảy ra trong quá khứ sẽ ảnh hưởng hiện tại và quyết định tương lai.

Ôi Chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi Chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.2. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là mục đích cuộc sống là mở rộng tâm thức của mình. Con mở rộng tâm thức bằng cách chọn lựa. Nếu mọi chuyện trong hiện tại đều bị quá khứ quy định thì còn chỗ nào cho con chọn lựa nữa đây?

Ôi Chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi Chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.3. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là sa nhân đã chế ra một thượng đế giả mà nhiều người trên trái đất thờ phượng vì họ nghĩ vị thượng đế này cần thờ phượng.

Ôi Chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi Chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.4. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là vị thượng đế giả do sa nhân chế ra cần được con người thờ phượng bởi vì thượng đế đó không thật và do đó không thể nào nhận được năng lượng từ cõi tâm linh.

Ôi Chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi Chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.5. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là vị Thượng đế vô hình tướng không bao giờ cần bất cứ gì từ con người trên trái đất. Thượng đế vô hình tướng cần cho ra từ chính ngài và ngài cần có những ai sẵn sàng nhận.

Ôi Chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi Chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.6. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là khi chúng con nhận Thượng đế, chúng con khép kín vòng chảy hình số tám. Thượng đế muốn tuôn chảy, muốn là hơn nữa qua con khi con trở nên hơn nữa.

Ôi Chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi Chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.7. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là đấng Sáng tạo trở nên hơn nữa bằng cách tạo ra những nối dài của chính ngài và gửi các nối dài này xuống một bầu cõi chưa thăng thiên. Khi con tăng triển tâm thức, thì đấng Sáng tạo trở nên hơn nữa qua con.

Ôi Chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi Chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.8. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là đấng Sáng tạo đã không sáng tạo một vũ trụ trong đó con không thể trở nên hơn nữa, con bị giới hạn trong việc trở nên hơn nữa, con bị giới hạn trong việc thăng vượt.

Ôi Chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.9. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là con không cần chú ý tới các thượng đế giả cần năng lượng từ con.

Ôi Chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 2

2.1. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là con mang một hình ảnh giả về thượng đế, không những trong kiếp này mà ngay cả trong các kiếp trước. Con đã bị nhồi sọ, lập trình với hình ảnh giả của thượng đế này.

Ôi Chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi Chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.2. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là con có khuynh hướng nhìn Thượng đế như vậy nhưng con có thể thoát khỏi các hình ảnh này.

Ôi Chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi Chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.3. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là con là một sinh thể tâm linh không được sinh tạo để đầu thai lần đầu trên trái đất. Con đã đầu thai trên những hành tinh khác trước đó.

Ôi Chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi Chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.4. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là có một lúc con nhìn vào trái đất và thấy các cư dân nguyên thủy ở đó đều bị mắc bẫy trong một tấm màn, trong một vòng xoắn ốc đi xuống. Con thấy được là cách thực tế duy nhất để đem lại thay đổi là có người không bị mắc bẫy trong xoáy ốc xuống đầu thai.

Ôi Chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi Chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.5. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là con đã đầu thai trên trái đất vào thời điểm này vì con muốn giúp vào việc chuyển tiếp từ thời đại Song ngư sang thời đại Bảo bình, và con muốn giúp Saint Germain biểu hiện Thời đại Hoàng kim.

Ôi Chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi Chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.6. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là lúc mà con đầu thai lần đầu tiên trên trái đất, và lúc con ý thức chuyện gì xảy ra trên hành tinh này, thì con bị một cú sốc nặng nề, một chấn thương nhập đời.

Ôi Chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi Chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.7. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là một số sa nhân theo dõi con khi con đầu thai lần đầu. Họ hòa điệu vào dòng sống của con và họ ra lệnh cho bộ hạ ở dưới họ trong hàng ngũ giả dàn xếp để con phải chịu đựng một hoàn cảnh khe khắt nhất, kinh khủng nhất, ghê tởm nhất mà con có thể tưởng tượng được.

Ôi Chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi Chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.8. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là sa nhân biết chính xác hoàn cảnh nào đối với con kinh khủng nhất. Họ dùng bộ hạ của họ để bắt con phải chịu hoàn cảnh vật lý mà con xem là kinh khủng nhất có thể xảy ra cho mình.

Ôi Chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.9. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là khi con đầu thai lần đầu, các sa nhân trong cả bốn bát cung đã lạm dụng quyền lực xâm phạm con đến độ con cảm thấy điều này kinh khủng tuyệt đối và làm con bị chấn động tuyệt đối. Con cảm thấy chuyện này không được xảy ra cho bất cứ ai.

Ôi Chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 3

3.1. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là khi con phản ứng như thế là lúc con đi vào tâm thái bị sốc.

Ôi Chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi Chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.2. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là khi con còn ở trên bát cung ê-the, con có thể thấy có những chuyện xảy ra trên hành tinh, nhưng con không sống trong đó và con biết là con không bị ảnh hưởng bởi những gì xảy ra trong bát cung vật lý.

Ôi Chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi Chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.3. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là khi con xuống đầu thai trong xác thân vật lý, thì gần như không tránh được là con đã quên đi mình là một sinh thể tâm linh không thể nào bị ảnh hưởng bởi chuyện gì xảy ra trong bát cung vật lý.

Ôi Chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi Chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.4. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là khi con ở trong xác thân vật lý, con trải nghiệm cái đau, cái chấn thương, cái khổ đau của thân vật lý. Con không giữ được sự nhận biết là: “Ồ, tôi là một sinh thể tâm linh, và không có điều gì xảy ra cho thân thể vật lý quy định được tôi.”

Ôi Chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi Chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.5. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là có một điểm khi xác thân bị tra tấn tới mức đó, bị đau đớn tới mức đó thì gần như con không thể nào không dính mắc vào cái đau này.

Ôi Chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi Chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.6. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là có một điểm khi các sa nhân xâm phạm con, và con bị chấn thương đến độ họ buộc con phải trải nghiệm cơn đau tối đa. Con lúc ấy không thể không dính mắc.

Ôi Chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi Chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.7. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là có một trạng thái đau đớn tối đa mà con đã trải nghiệm khi đầu thai lần đầu trên hành tinh này.

Ôi Chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi Chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.8. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là nó trở thành một vết thương trong bản thể của con, một vết thương trong hồn con, trong bốn thể phàm của con. Ở thời điểm đó, cơn đau này làm con choáng ngợp và nó quả thực đã choáng ngợp con, khi con ở tầng tâm thức của con lúc đó.

Ôi Chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.9. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là con cần nhìn nhận chấn thương nhập đời vũ trụ này và giải thoát mình ra khỏi nó.

Ôi Chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 4

4.1. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là chấn thương nhập đời cá nhân của con liên hệ tới điều làm con bị xáo trộn nhất trên trái đất, hoàn cảnh con muốn trừ tiệt nhất.

Ôi Chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi Chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.2. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là con cần thỉnh cầu các thày để tiêu trừ năng lượng tha hóa được tạo ra qua phin lọc của chấn thương nhập đời của con.

Ôi Chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi Chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.3. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là chỉ có một cách duy nhất để thoát khỏi chấn thương này là con đi thẳng vào nó và trải nghiệm nó lại.

Ôi Chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi Chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.4. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là không cách chi giúp con giải thoát mình khỏi bất kỳ kinh nghiệm nào mà con đã trải qua trên trái đất bằng cách trốn chạy kinh nghiệm này và nỗi đau mà nó đã gây ra.

Ôi Chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi Chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.5. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là con không thể thoát khỏi bất cứ điều gì bằng cách trốn chạy nó. Con chỉ thoát được khi con đi thẳng vào nó, trải nghiệm nó, và vì tâm thức của con đã được nâng lên, nó không còn quy định con nữa.

Ôi Chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi Chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.6. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là sa nhân muốn con tin, tự ngã muốn con tin rằng nếu con đi vào nỗi đau nguyên thủy đó, con sẽ chết. Con sẽ bị choáng ngợp trở lại. Nó sẽ quá sức chịu đựng của con.

Ôi Chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi Chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.7. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là con đã tiến hơn trong tâm thức so với lần đầu tiên khi con xuống hành tinh này. Con có thể đối phó với nó bây giờ vì con không trải nghiệm nó như lúc nó xảy ra lần đầu. Con không bị choáng ngợp.

Ôi Chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi Chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.8. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là con có thể tách mình ra khỏi nỗi đau bằng cách con đi vào chấn thương đó và trải nghiệm rằng nó không tiêu hủy được con.

Ôi Chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.9. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là con có thể nhìn dòng năng lượng xoắn tít này, nhìn những niềm tin, nhìn những sinh linh trong cõi trung giới, và con có thể nhận ra rằng: “Đây không phải là tôi. Đây chỉ là một cái gì mà cái ta vỏ ngoài của tôi đã trải nghiệm. Nhưng tôi hơn kinh nghiệm này, và do đó tôi có thể nhìn nó và nói: “Ngươi không còn sở hữu ta nữa. Ngươi không quy định ta nữa. Đây không phải cái ta là. Ớ Satan, ngươi hãy lui ra đằng sau ta, vì ta thấy được ngươi không thật, ta thấy và ta trải nghiệm cái thật của chính ta và cái thật của các chân sư thăng thiên.”

Ôi Chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 5

5.1. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là con không phải đối phó với chấn thương nhập đời của mình một mình. Thày rất thân thiết trong tim con và thày sẽ giúp con đối phó với nó.

Ôi Chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi Chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.2. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là sẽ tới một điểm mà các thày không thể giúp con thêm nữa. Lúc ấy con phải bước bước cuối cùng một mình, để đối đầu với ác quỷ trong chính mình và thấy chúng không thật.

Ôi Chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi Chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.3. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là sa nhân đã giăng bẫy con bằng cách lạm dụng quyền lực mà họ có trong bát cung vật lý để con bị chấn thương. Đây là cái không thực mà con nghĩ là thực.

Ôi Chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi Chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.4. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là sa nhân giăng bẫy con bằng cách dùng ý tưởng cho rằng những điều đã xảy ra cho con trong quá khứ đang quy định kinh nghiệm sống hiện tại của con và đang quy định chuyện gì sẽ xảy ra cho con trong tương lai.

Ôi Chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi Chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.5. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là sa nhân nói với con là những gì con dùng ý chí làm trong quá khứ đã ngăn cản những gì con có thể dùng ý chí làm trong hiện tại và vĩnh viễn về sau.

Ôi Chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi Chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con phá vỡ ảo tưởng này và nhận ra rằng đây là biểu hiện của phản-tình thương. Xin thày giúp con có ý chí muốn thoát khỏi ảo tưởng này để con có thể nhận được sự hỗ trợ của thày.

Ôi Chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi Chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.7. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là không có chọn lựa nào mà không thể đảo ngược lại được bằng một chọn lựa cao hơn. Đây là một quy luật vĩnh hằng, là quyền tự quyết không có giới hạn và điều này áp dụng cho cả hai chiều.

Ôi Chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi Chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.8. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là con có thể sáng tạo bất cứ khổ đau nào mà con muốn, ngay cả khổ đau mà con không muốn một cách ý thức. Con cũng có thể tháo gỡ bất cứ khổ đau nào mà con đã sáng tạo. Con có thể giải thoát con khỏi nó.

Ôi Chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.9. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là chấn thương nhập đời sẽ là điều cuối cùng con khắc phục trước khi con tự do để thăng thiên vì nó là điều đầu tiên đã giam bẫy con trong trạng thái tâm thức thấp.

Ôi Chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 6

6.1. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là cái bẫy mà sa nhân dùng là khi con bị chấn thương nhập đời, chấn thương đầu tiên, con trải nghiệm là có một lực bên ngoài áp đặt kinh nghiệm này lên con.

Ôi Chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi Chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.2. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là điều mà sa nhân phóng chiếu lên con là con có mặt ở đây để khắc phục, để tống khứ những lực đã bắt con phải chịu chấn thương đó để người khác không bị chấn thương như thế.

Ôi Chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi Chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.3. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là sa nhân phóng chiếu lên con là con phải tham gia vào một cuộc đấu tranh chống lại các lực bên ngoài này. Họ muốn con tin rằng một khi các lực này bị loại trừ ra khỏi trái đất, con sẽ thoát khỏi chấn thương của mình.

Ôi Chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi Chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.4. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là sa nhân đã được những sinh thể khác mời tới trái đất và con không thể tháo gỡ chọn lựa của họ. Điều con có thể làm được là tháo gỡ chọn lựa của chính mình.

Ôi Chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi Chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.5. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là con có mặt ở đây để mang lại thay đổi tích cực cho hành tinh này, nhưng con không mang lại thay đổi tích cực bằng cách đánh nhau với sa nhân và tà lực. Con mang lại thay đổi tích cực bằng cách vượt thăng trạng thái tâm thức của họ.

Ôi Chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi Chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.6. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là con thăng vượt tâm thức sa ngã bằng một cách duy nhất, là con thăng vượt trong con tâm thức đã khiến con phản ứng lại họ, và phản ứng này tạo cho con chấn thương nguyên thủy đó.

Ôi Chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi Chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.7. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là phụng sự cao nhất của con trên trái đất là con giải thoát mình khỏi trạng thái tâm thức sa ngã. Khi đó con sẽ kéo tập thể lên và kéo mọi người khác đang đầu thai lên. Đây là điều con tới đây để làm.

Ôi Chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi Chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.8. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là khi con phản ứng như thế thì điều đó không sai hay không xấu. Con đã mang vào một phần của tâm thức sa ngã, nhưng con không phải mang nó theo con mãi mãi.

Ôi Chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.9. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là con không mang vào tâm thức sa ngã để đánh nhau với sa nhân. Con mang nó vào để chứng minh là bất cứ điều gì con mang vào, con có thể thăng vượt nó. Con có thể thăng vượt nó bằng sức mạnh ý chí của mình, ý chí muốn tự do, ý chí muốn hơn nữa.

Ôi Chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 7

7.1. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là thày chỉ muốn con hơn nữa.

Ôi Chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi Chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.2. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là khi con có ý chí muốn hơn nữa, con đang mời thày vào đời của con để giúp con và hỗ trợ con tối đa.

Ôi Chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi Chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.3. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là Thày không muốn áp đặt con bất cứ cách nào. Thày chỉ muốn con biết là thày có mặt ở đây để giúp con khi con quyết định: “Tôi muốn HƠN NỮA.”

Ôi Chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi Chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.4. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là khi con không muốn hơn nữa, con đang nói trong tiềm thức: “Chân sư MORE, thày hãy để con yên một mình. Con chưa kinh nghiệm đủ trạng thái kém hơn. Con chưa sẵn sàng muốn hơn nữa.”

Ôi Chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi Chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.5. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là lúc mà con quyết định con sẵn sàng hơn nữa, thì đó là lúc thày thật sự có thể giúp con bằng một cách mà con hiện nay không thể nào mơ tưởng được.

Ôi Chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi Chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.6. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là thày không đặt giới hạn cho những gì có thể xảy ra hay mức mà con có thể trở nên hơn nữa. Sẽ không bao giờ có một điểm khi thày muốn kềm giữ không cho con trở nên hơn nữa. Không điều gì khiến thày vui thích hơn là thấy con trở nên hơn nữa.

Ôi Chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi Chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.7. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là con đã bị lập trình để nghĩ rằng con là kém hơn, con nhất thiết phải kém hơn, con phải kém hơn, con chỉ có thể kém hơn, con không được phép là hơn nữa.

Ôi Chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi Chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.8. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật là con được phép là hơn nữa, thày cho phép con là hơn nữa.

Ôi Chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi Chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

7.9. Chân sư MORE, xin thày thức tỉnh con để con nhận ra sự thật thày là Tánh linh và con cũng là Tánh linh. Trong cái biết này, chúng ta là một.

Ôi Chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

Lời mở đầu

Cuốn sách này là sách bài tập đi kèm theo cuốn truyện Các Kiếp Sống Của Tôi Với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su. Cuốn truyện đưa ra ý là nhiều người tâm linh đã tình nguyện đến trái đất và họ được gọi là những avatar. Chúng ta, những người avatar,  đã gánh chịu những chấn thương tâm linh sâu đậm vì những gì những gì chúng trải qua trên trái đất. Nhiều người trong chúng ta vẫn còn mang những chấn thương này. Điều này giải thích tại sao đôi khi chúng ta có thể có cảm tưởng là chúng ta đang không tiến bộ trên con đường tâm linh hay tại sao có một số vấn đề mà chúng ta không khắc phục được.

Cuốn sách này gồm những giáo lý giảng rộng thêm các khái niệm này và đồng thời cho các bạn những dụng cụ thiết thực giúp bạn chữa lành chấn thương và khắc phục bất kỳ nét tiêu cực nào trong thái độ của bạn đối với cuộc sống trên hành tinh này. Xin bạn lưu ý là bạn nên đọc cuốn truyện trước khi dùng cuốn sách này. Lý do là vì cuốn truyện chứa đựng nhiều giáo lý quan trọng có thể giúp bạn khởi sự tiến trình chữa lành. Sau đó, sách này sẽ cho bạn những dụng cụ thiết thực để tiếp tục và hoàn tất tiến trình.

Cuốn sách này bao gồm một số bài thỉnh mà bạn nên đọc to ra tiếng. Nếu bạn không quen thuộc với chuyện đọc thỉnh, bạn có thể tìm thấy những bài viết giảng giải và hướng dẫn đọc thỉnh trên trang mạng www.chansuthangthien.org. Bạn cũng có thể đọc các bài thỉnh cùng với một bản thu âm. Chúng tôi sẽ dần dần thực hiện các bài thu âm và đăng lên trang mạng www.chansuthangthien.org.

26 | Thỉnh cầu sẵn sàng nhận giáo lý (5 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama, hãy giúp con khắc phục mọi ảo tưởng đang ngăn cản con thực sự mở tâm đón nhận giáo lý, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Gautama, xin thày cho con nhận biết sẽ giúp con thấy liệu con có tiềm năng góp phần vào tiến trình đạt tới tầng 144 trước khi con sẵn sàng rời thân vật lý, do đó vẫn tiếp tục tiến cao hơn khi còn hiện thân và giúp nâng tầng này lên.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Gautama, xin thày cho con nhận biết là khi một giáo lý đặc trưng được trao truyền, chính yếu nó được trao truyền dựa trên tầng mức tâm thức của hành tinh vào thời điểm đó. Nếu giáo lý thành công, thì tâm thức sẽ xoay chuyển.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Gautama, xin thày cho con nhận biết liệu con có tiềm năng dùng giáo lý để đạt tầng tâm thức 144 và sau đó thành dụng cụ để đem lại một giáo lý mới hoặc một diễn giải mới của giáo lý cũ. Do đó, con có thể đem lại một giáo lý thích ứng với tầng tâm thức mới đã được đạt tới nhờ giáo lý cũ.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Gautama, xin thày cho con nhận biết là trong hoàn cảnh lý tưởng, tiến trình tiết lộ tuần tự không bao giờ ngưng vì tâm thức tập thể luôn luôn xoay chuyển.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Gautama, xin thày cho con nhận biết sẽ giúp con mở tâm đón nhận các thông điệp mà thày trao truyền, những năng lượng mà thày rải xuống, để con có thể xoay chuyển tâm thức đến mức tối đa.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Gautama, xin thày cho con nhận biết sẽ giúp con khắc phục khuynh hướng dùng giáo lý với tâm đường thẳng, phân tích. Xin thày giúp con khắc phục khuynh hướng phân tích giáo lý, đặt giáo lý vào một bối cảnh đường thẳng hay dòng thời gian.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Gautama, xin thày cho con nhận biết sẽ giúp con tránh dùng giáo lý để xác chứng hay củng cố các ngã tách biệt mà con đã tạo ra do chấn thương nhập đời.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Gautama, xin thày cho con nhận biết là ước muốn hiểu có thể bị pha màu và thậm chí bị phá hoại bởi các ngã tách biệt. Một số ngã có nhu cầu kiểm soát và chúng khiến con tin là bây giờ con đã tìm thấy một giáo lý tuyệt đối.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Gautama, xin thày cho con nhận biết là tâm đường thẳng và phân tích yêu thích ý niệm có giáo lý tuyệt đối. Do đó, khi những đệ tử này trở thành giáo sĩ đoàn của một tôn giáo, thì họ có thể phá hoại sự tiến triển của toàn bộ phong trào bằng cách cản trở sự thăng vượt của giáo lý.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 2

2.1. Gautama, xin thày cho con nhận biết đây chỉ là khuynh hướng của một số ngã tách biệt, hoặc muốn đặt mọi chuyện trong một bối cảnh tuyệt đối, hoặc muốn an toàn, hoặc muốn có cảm giác là mình quan trọng hay đã đạt được thành quả nào đó.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.2. Gautama, xin thày cho con nhận biết giúp con vượt lên trên khuynh hướng tiếp cận giáo lý bằng tâm vỏ ngoài, phân tích, tâm rất đường thẳng bị pha màu bởi các ngã.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.3. Gautama, xin thày cho con nhận biết giúp con tránh đi vào trạng thái tâm cho phép con cảm thấy con hiểu khuôn đúc tổng thể của giáo lý, và tất cả mọi điều khác chỉ là chi tiết phải phù hợp vào khuôn đúc tổng thể đó.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.4. Gautama, xin thày cho con nhận biết là khi con cho phép mình tạo ra khuôn đúc đó trong tâm, thì điều con nắm được dựa trên tầng tâm thức hiện hành của con. Nó không là hiểu biết và trải nghiệm cao nhất.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.5. Gautama, xin thày cho con nhận biết giúp con khắc phục mọi dính mắc vào chuyện nắm bắt tổng thể giáo lý. Con sẵn sàng tiếp cận giáo lý với cái tâm trẻ thơ, tâm của người bắt đầu, cái tâm nhìn mọi sự như mới.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.6. Gautama, con sẽ cho phép mình bỏ qua bên cái mà con nghĩ là sự nắm bắt cơ bản hay nắm bắt tối hậu giáo lý. Con sẽ cho phép mình vào trạng thái tâm trung hòa và con đọc và nghe giáo lý như mới.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.7. Gautama, con sẽ mở tâm ra để nhận một điều gì ngay cả từ một giáo lý mà con đã đọc trước kia nhưng chưa nhận được điều đó. Con sẽ sẵn sàng trải nghiệm sự xoay chuyển tâm, ngay cả từ một giáo lý mà con đã đọc trước đó.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.8. Gautama, xin thày cho con nhận biết là sự tiến triển hay không tiến triển của con không nằm trong tâm các chân sư thăng thiên – nó nằm trong tâm của con.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2.9. Gautama, xin thày cho con nhận biết là khi con khắc phục được ngã gốc và các ngã tách biệt khác phát xuất từ nó, thì con thăng vượt tâm đường thẳng, phân tích. Con không còn nhu cầu phải kiểm soát hết mọi thứ, phải có nắm bắt căn bản về vũ trụ. Con có thể tiếp cận giáo lý với một mức độ tự do cao hơn vì con không bị pha màu bởi các ngã tách biệt này.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 3

3.1. Gautama, xin thày cho con nhận biết là ngã tách biệt cảm thấy nó đang kiểm soát con và đường tu của con, và nó sợ một giáo lý mới có thể đe dọa cảm giác nó đang làm chủ tình hình.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Gautama, xin thày giúp con bước lui lại và nhận ra đây chỉ là một ngã tách biệt đang cảm thấy như vậy. Đây không phải là con vì con không thể bị đe dọa bởi bất cứ điều gì có thể giúp con vượt thăng chính mình. Cái Ta Biết, khi nó ý thức bản thể thực của nó, không thể bị đe dọa bởi bất cứ giáo lý nào.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Gautama, xin thày giúp con xoay chuyển từ chú tâm vào kết quả sang chú tâm vào tiến trình.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con, như một avatar, đã xây dựng một động lượng hình dung một hoàn cảnh hay hình thể nào đó trong cõi vật lý và sau đó thị hiện hình thể đó. Xin thày giúp con thấy liệu con có xây dựng một động lượng khiến vật chất tuân theo những hình ảnh và khuôn đúc trong tâm con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có nhìn xuống trái đất và thấy sự đau khổ, và nghĩ: “Tôi muốn xuống dưới đó và thị hiện một kết quả tích cực để giải thoát con người khỏi khổ đau.”

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Gautama, xin thày cho con nhận biết là động cơ nguyên thủy đưa con xuống đây không phải là động cơ cao nhất. Xin thày giúp con xét lại động cơ của con dựa trên tâm thức cao hơn mà con có bây giờ.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Gautama, xin thày giúp con buông bỏ động cơ lúc trước và các niềm tin đằng sau nó. Xin thày giúp con xoay chuyển từ chú tâm vào thành quả sang chú tâm vào tiến trình.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Gautama, xin thày cho con nhận biết là Đấng Sáng tạo không tạo một kết quả cố định, mà đã tạo ra một tiến trình kéo dài mãi mãi. Đấng Sáng tạo không chú tâm vào việc tạo một kết quả mà chú tâm vào tiến trình. Đấng Sáng tạo đã tạo ra vũ trụ để tạo thuận lợi cho tiến trình tự thăng vượt, là Dòng sông sự Sống.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Gautama, xin thày cho con nhận biết là Dòng sông sự Sống không có khởi đầu và không có kết thúc. Tâm đường thẳng sẽ không bao giờ nắm được điều này. Các ngã tách biệt mà con đã tạo ra trên trái đất sẽ không bao giờ nắm được điều này. Cái Ta Biết có thể nắm điều này. Nó không thể hiểu là không có khởi đầu, không có kết thúc nhưng con có thể trải nghiệm, con có thể trải nghiệm dòng chảy và sự liên tục của dòng chảy.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 4

4.1. Gautama, xin thày cho con nhận biết là nếu con xuống trái đất như một avatar với viễn quan muốn đạt một kết quả nào đó nhưng con vẫn chưa đạt được kết quả đó, thì con không thể thăng thiên.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.2. Gautama, xin thày giúp con chịu thua, buông bỏ, bỏ đi sự dính mắc muốn đạt kết quả đó trên trái đất.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.3. Gautama, xin thày cho con nhận biết là con đang cho phép sự thăng thiên của con tùy thuộc vào chọn lựa của người khác, khi họ ở trong trạng thái tâm thức thấp hơn con rất nhiều.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.4. Gautama, xin thày cho con nhận biết là lý do tại sao con không tạo được kết quả mong muốn trên trái đất là vì những người khác không muốn thay đổi. Điều này có nghĩa là con có thể rơi vào tâm thức sa ngã và tìm cách ép uổng người khác phải thay đổi.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.5. Gautama, xin thày cho con nhận biết là con cũng có thể đi vào trạng thái không biết phải làm gì. Con lơ lửng trong trống không, con đang di động thì bị khựng lại. Xin thày giúp con giải quyết bài toán bí ẩn là có điều gì trên trái đất mà con không thể để dở dang được.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.6. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có nghĩ là điều duy nhất đưa con tới trái đất là để làm dịu nỗi đau khổ ở đây và đem lại một thay đổi tích cực. Con cảm thấy nếu con không tạo được sự thay đổi đó, thì con đã lầm lẫn khi tới đây, con đã lãng phí thời giờ.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.7. Gautama, xin thày cho con nhận biết là cách để con thăng thiên như một avatar, không phải là con thành tựu viễn kiến ban đầu khi xuống đây. Nhưng là con thăng vượt nó, con tiêu tán nó, con vứt nó đi, con buông bỏ nó, con không dính mắc với nó, con cho cái ngã chết đi và con nói: “Nó có đáng gì đâu đối với con? Con sẽ đi theo thày, Gautama.”

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.8. Gautama, xin thày cho con nhận biết là điều này không có nghĩa là con thăng thiên ngay tức khắc. Con có thể tiếp tục hiện thân và làm nhiều chuyện, nhưng con không hành động qua sự pha màu của ngã gốc và các ngã khác nữa. Các ngã này cảm thấy con phải làm điều gì đó, con phải thành tựu điều gì đó, việc con tới trái đất phải đáng công sức mình.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4.9. Gautama, xin thày cho con nhận biết là việc con tới trái đất đã đáng công sức con vì con đã xoay chuyển tâm thức của con và đây chính là mục đích cao hơn. Xin thày giúp con làm hòa với điều này và đạt được một phần của quả vị Phật.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 5

5.1. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con đã sẵn sàng nhận giáo lý này hay con cần tận dụng giáo lý mà con đã có rồi để xoay chuyển tâm thức thêm nữa.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.2. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có rơi vào tâm trạng cảm thấy bực bội vì con biết trong nội tâm là con đã không tiến triển tới mức có thể đạt được với giáo lý mà con đã có.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.3. Gautama, con sẵn sàng nhìn vào chính mình và nhận ra lý do vì sao con không tiến triển. Con nhất định không đổ lỗi rằng lý do con không tiến triển là vì có một giáo lý cao hơn mà con chưa được nhận.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.4. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có học giáo lý nhưng đã dậm chân tại chỗ, không muốn tiến xa hơn vì con không muốn xoay chuyển để đi vào con đường tu nội tâm và nhìn chính mình. Xin thày giúp con thấy liệu con có ngưng trệ và trở nên bực bội, cảm thấy mình là nạn nhân, hay trách cứ người khác về chuyện con không có giáo lý.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.5. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có trách cứ vị đạo sư đã không thăng tiến đủ vì đây là lý do vì sao con không thăng tiến được. Xin thày giúp con thấy liệu con có chỉ trích giáo lý, chỉ trích những người khác.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.6. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có cảm thấy vì con đã học giáo lý từ lâu, nên chắc chắn con đã đạt tới một tầng cao. Do đó, con có quyền phê phán và dùng tia màu xanh để tấn công những người mới tới học.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.7. Gautama, xin thày giúp con thấy liệu con có đổ lỗi cho người thày, giáo lý, người khác, điều kiện vật lý, chiêm tinh, sa nhân, thời tiết hay cái này cái nọ. Xin thày giúp con thấy là khi con còn chỉ tay đổ lỗi cho cái gì ở bên ngoài, nghĩ rằng sự tiến bộ của con tùy thuộc vào điều kiện bên ngoài, thì con chưa hoàn toàn đi theo con đường tu nội tâm.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.8. Gautama, xin thày cho con nhận biết là nếu con chưa hết lòng theo con đường tu nội tâm, thì con chưa sẵn sàng đón nhận giáo lý về ngã gốc. Xin thày giúp con nắm bắt ý nghĩa của con đường tu nội tâm và hết lòng đi theo nó. Con sẵn sàng nhận trách nhiệm về đời mình và nhìn vào tâm mình.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

5.9. Gautama, xin thày giúp con áp dụng giáo lý và nâng mình lên tới điểm có thể nhận các giáo lý này và đồng thời là dụng cụ để lan tỏa các xung lực này vào tâm thức đại chúng. Xin thày giúp con cảm niềm vui lớn của thày vì đã có thể trao truyền giáo lý. Xin thày giúp con cảm niềm biết ơn của thày vì đã được phép trao truyền giáo lý.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

24 | Thỉnh cầu quả vị Ki-tô trong Thời Hoàng kim của Saint Germain (5 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Saint Germain, hãy giúp con khắc phục tất cả mọi điều kiện trong bốn tầng của tâm con đang ngăn cản con hòa điệu với thày và nhận được một ý tưởng sẽ giúp thể hiện thời Hoàng kim của thày, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là Ki-tô Hằng sống hành động trong Thời Song ngư có nghĩa là con hòa điệu với Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô và con đi vào hợp nhất với thày để nhận được một điều gì đó từ thày, hoặc cho đời sống cá nhân của con hoặc để phụng sự người khác và xã hội.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.2. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là trong thời Song ngư, tất cả những người đã có thể đem lại đóng góp tích cực trong bất cứ lãnh vực nào của đời sống và xã hội, những người đó đều đã hòa điệu được phần nào với Ki-tô hành tinh, là Giê-su trong thời đại đó.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.3. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là việc đem tới một ý tưởng mới có khía cạnh alpha và khía cạnh omega. Khía cạnh alpha là ý tưởng đến từ cõi thăng thiên và do đó con phải có khả năng hòa điệu với thày.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.4. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết khía cạnh omega là để có thể nhận được một ý tưởng và áp dụng nó, thì con phải có chuyên môn trong một lãnh vực đặc thù.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.5. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là để nhận được một ý tưởng, con trước tiên phải chú tâm vào vấn đề, sau đó đứng lui lại để tạo một khe hở cho ý tưởng đi xuống tâm ý thức.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.6. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là trực giác có thể được mở khóa khi con đã đi qua giai đoạn tiếp cận vấn đề với tâm vỏ ngoài, hết sức tìm cách hiểu nó, thực sự muốn tìm cách cải thiện, qua đó con tạo ra nền móng.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.7. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết tâm con cần trở nên chén thánh được nâng lên để thuốc tiên của Tánh linh có thể rót vào. Nếu không có chén thánh, thày không thể rót gì vì sẽ chỉ uổng phí mà thôi.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.8. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết giúp con dùng khả năng trực giác thay vì tâm vỏ ngoài để mở tâm con ra đón nhận ý tưởng từ trên xuống.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.9. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là Ki-tô hành động trong Thời Bảo bình có nghĩa là con hòa điệu với thày hay một vị chân sư thăng thiên mà con có đồng cảm.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 2

2.1. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết liệu con có quá nồng nhiệt trong việc thay đổi thế giới cho Saint Germain đến độ bị mất quân bằng. Xin thày giúp con thấy liệu con có cái nhìn đúng về điều cần làm nhưng lại có cái nhìn thiếu sót về cách thực hiện.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.2. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết để theo một hướng quân bằng và dài hạn, tránh trở nên thụ động và cảm thấy mình không thể đóng góp gì cho xã hội.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.3. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết để thấy liệu con có quá chú tâm vào việc đọc thỉnh và đọc chú đền độ trì hoãn quả vị Ki-tô của con, vì con có tiềm năng cao hơn là chỉ đọc chú.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.4. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là thay đổi thế giới cho Saint Germain hay cứu rỗi thế giới không có nghĩa là thuyết phục tất cả người khác theo giáo lý chân sư thăng thiên.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.5. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là trong Thời Bảo bình mọi người không cần nhìn nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên, hay một giáo lý hay một tổ chức chân sư thăng thiên đặc thù.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.6. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là biểu hiện quả vị Ki-tô không có nghĩa là con phải đi ra ngoài xã hội và cải đạo tất cả mọi người theo giáo lý đặc trưng này hay chấp nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên hay giáo lý của các thày.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.7. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là Ki-tô Hằng sống trong Thời Bảo bình có nghĩa con hòa điệu với thày và nhận được một ý tưởng mà con có thể thực hiện trong chính cuộc sống của con, qua đó con giúp ích những người chung quanh con hay đem lại lợi ích nào đó cho xã hội.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.8. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là trong Thời Bảo bình các thày cần con giải quyết ngã gốc để được tự do hòa điệu với Hiện diện TA LÀ của con và các chân sư thăng thiên, vì các ngã này không ngăn chặn sự hòa điệu của con nữa.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.9. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là thày cũng cần con tự do bước ra ngoài xã hội và cống hiến người khác những gì con nhận được từ thày, nhưng con làm việc này một cách hoàn toàn quân bình. Con không làm việc này vì con bị ảnh hưởng của chấn thương nhập đời và ngã gốc của mình.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 3

3.1. Saint Germain, con sẵn lòng sử dụng những giáo lý về avatar, chấn thương nhập đời, ngã gốc và các ngã khác và cách khắc phục chúng. Con sẽ không giả sử là con đã làm những chuyện này rồi.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.2. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết liệu con có một ngã vỏ ngoài đang phản ứng lại một điều kiện trên trái đất và cảm thấy mình phải làm điều gì liên quan tới điều kiện này.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.3. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là nếu con cảm thấy một sự cưỡng bách phải làm điều gì đó, một sự thúc đẩy muốn làm điều gì đó, thì nó đến từ ngã gốc và các ngã khác. Có cái gì đó con chưa giải quyết.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.4. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là khi con bị chấn thương nhập đời thì con coi mọi chuyện như liên hệ thẳng đến cá nhân con. Điểm chính yếu là con trở nên rất nhạy cảm, như có một phần của con người con luôn luôn giám sát mình, phân tích, đánh giá, phán xét.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.5. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết liệu con làm vậy dựa trên quan sát nội tâm hay dựa trên quan sát người khác phản ứng với con ra sao. Xin thày giúp con thấy liệu con có rất nhạy cảm với cách người khác phản ứng với con.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.6. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là khi con bị chấn thương nhập đời và cảm thấy bị chê bai hay phớt lờ, thì con tạo ra một ngã muốn bù đắp điều đó, muốn hủy bỏ vấn đề, hủy bỏ điều sai trái mà con cảm thấy đã xảy ra.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.7. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là con có một ngã muốn được người khác chấp nhận và ngã này thúc đẩy con làm điều gì đó. Mặt khác con lại có ngã nhạy cảm lúc nào cũng lượng định xem người khác phản ứng ra sao với mình.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.8. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết liệu con có ở trong thế kéo-đẩy này và cuộc đời con xoay quanh việc tìm sự chấp nhận của người khác đồng thời né tránh phản ứng tiêu cực của họ. Một ngã thúc đẩy con muốn người khác phản ứng lại con để con được họ chấp nhận, nhưng ngã kia lại sợ mọi phản ứng tiêu cực.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.9. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết liệu con có luôn luôn ở trong trạng thái phải liều lĩnh, bị thúc đẩy tìm cầu sự chú ý của người khác nhưng nếu họ phản ứng không chấp nhận thì con rơi vào ngã kia với phản ứng tiêu cực. Xin thày giúp con thấy liệu cuộc đời con có bị điều khiển bởi hai ngã này.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 4

4.1. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết giúp con tới điểm giải quyết được cả tập đoàn ngã gốc và các ngã khác, khắc phục toàn thể lực kéo-đẩy và trận chiến gay go đang xảy ra trong tâm con.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.2. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết giúp con không còn bị mắc kẹt vì vừa tìm cầu điều bất khả thi vừa hổ thẹn và xốn xang khi không đạt được điều bất khả thi đó. Xin thày giúp con thấy là điều đó bất khả thi, không cần thiết và hoàn toàn không thật.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.3. Saint Germain, xin thày giúp con tách mình ra khỏi các ngã đó, nhìn chúng và giản dị bỏ chúng đi. Xin thày giúp con thấy là con không cần giải quyết vấn đề mà ngã phóng chiếu vào con. Con không cần đạt được điều kiện, con không cần thay đổi toàn thế giới để cảm thấy thoải mái hơn. Con chỉ cần để cho ngã chết đi.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.4. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết liệu con có dùng giáo lý chân sư thăng thiên để chứng thực cách con tiếp cận cuộc sống xuyên qua một ngã tách biệt, do đó tin rằng cách là Ki-tô trên trái đất là hành động xuyên qua ngã tách biệt đó.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.5. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết liệu con có tạo ra một ngã tách biệt khiến con cảm thấy phải thách thức tất cả mọi người, vì nó nghĩ là Ki-tô có nghĩa là thách thức người khác.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.6. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết liệu con có một ngã nghĩ rằng con phải nói chuyện với mọi người với giọng rất mạnh mẽ và nghiêm khắc để họ thức tỉnh. Xin thày giúp con thấy cư xử này bắt nguồn từ chấn thương nhập đời và ý muốn làm điều gì để người khác không thể phớt lờ hay bác bỏ.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.7. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là con sẽ không bao giờ đạt được kết quả, không bao giờ cảm thấy an bình, không bao giờ cảm thấy dễ chịu, không bao giờ cảm thấy hoàn thành điều con tới đây để hoàn thành, nếu con còn hành động xuyên qua các ngã này.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.8. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là con không cần phải toàn hảo để làm một điều nào đó cho các chân sư thăng thiên. Xin thày giúp con thấy là con có một Hiện diện TA LÀ độc nhất, con có tiểu sử độc nhất trên trái đất, con có kinh nghiệm độc nhất trong kiếp sống này và do đó con có thể làm điều mà không ai khác làm được.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.9. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là có một điều con có thể làm là đem lại món quà mà không ai khác đem lại được. Không có so sánh trong sự độc đáo và con không có nhu cầu so sánh mình với bất cứ ai.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 5

5.1. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là con có tiềm năng đi tới một nhóm người mà không ai khác tới được. Con có một mạn đà la gồm một số người mà con tiếp cận được, con có thể giúp tiến lên cao hơn.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.2. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết liệu con có một lãnh vực chuyên môn trong thế giới và con có tiềm năng đem lại một số ý trong lãnh vực này. Xin thày giúp con đem lại ý tưởng cao nhất mà con có tiềm năng đem lại thể theo Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.3. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là con có thể vượt quá tiềm năng cao nhất mà con quy định trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Xin thày giúp con tiếp tục thăng vượt chính mình và vượt quá viễn quan mà con có khi con soạn ra Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.4. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết điều quan trọng nhất không phải là đem mọi người tới chỗ chấp nhận giáo lý chân sư thăng thiên. Điều quan trọng nhất là làm sao con người chấp nhận một số ý tưởng sẽ giúp xã hội hay các cá nhân tiến lên.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.5. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết giúp con tự do trao cho con người các ý tưởng và để cho các ý tưởng này tự làm việc trong tâm họ.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.6. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết sẽ cho con tự do vì con không đến với người khác để tạo nên một cảm xúc trong con hay để né tránh một cảm xúc trong con. Con là cánh cửa mở, có nghĩa là con tự do trao cho họ ý tưởng và con để họ tự do đón nhận nó.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.7. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết là con người thường cần thời gian để hội nhập và chấp nhận một ý tưởng. Xin thày giúp con khắc phục cảm giác bị bắt buộc phải khiến người khác chấp nhận điều con nói với họ.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.8. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết giúp con đối phó với ngã gốc và khắc phục nó, và qua đó khắc phục chướng ngại lớn nhất trong lịch sử các avatar đã ngăn cản họ có ảnh hưởng mà họ có thể có trên trái đất.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.9. Saint Germain, xin thày cho con nhận biết giúp con thiết lập dòng chảy thường trực hình số tám đường dọc giữa con và thày, để con là cánh cửa mở đem lại mọi ý tưởng mà thày muốn trao truyền xuyên qua con trong phần còn lại của kiếp sống này.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

22 | Thỉnh cầu Ý chí Kim cương (90 đoạn)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Vajrasattva, hãy giúp con hòa điệu với Ý chí Kim cương của thày và khắc phục các chất độc, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là cách duy nhất để khắc phục không-muốn và không-là là có một hiểu biết sâu sắc về luật tự quyết hơn đa số con người trên trái đất.

OM VAJRASATTVA HUM

2. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là khi con khởi sự như một người đồng-sáng tạo, con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật xuyên qua ý niệm bản ngã của con lúc đó, và Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ trải bày sự phóng chiếu đó.

OM VAJRASATTVA HUM

3. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là ý niệm bản ngã đương thời của con giới hạn quyền tự quyết của con, theo nghĩa ý niệm bản ngã của con giới hạn những gì con có thể thấy, hình dung, tưởng tượng, chấp nhận là khả thi.

OM VAJRASATTVA HUM

4. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là quyền tự quyết bị giới hạn theo nghĩa các chọn lựa mà con có thể thấy bị giới hạn bởi tầm nhìn của ý niệm bản ngã đương thời của con.

OM VAJRASATTVA HUM

5. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là quyền tự quyết không có giới hạn theo nghĩa con được tự do thăm dò bất cứ gì con có thể làm như một người đồng-sáng tạo trên một hành tinh chưa thăng thiên.

OM VAJRASATTVA HUM

6. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là con được tự do nâng ý niệm bản ngã của mình lên tới mức tối đa có thể đạt được trong một bầu cõi chưa thăng thiên, để sau đó con thăng thiên.

OM VAJRASATTVA HUM

7. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là con cũng có thể chọn đi ngược lại và giới hạn ý niệm bản ngã của mình, thậm chí đi vào nhị nguyên và tạo ra một ngã tách biệt, và sau đó thăm dò toàn bộ những gì con có thể hình dung và làm xuyên qua ngã tách biệt đó.

OM VAJRASATTVA HUM

8. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là nếu con lấy một chọn lựa và chọn lựa này không có hậu quả, thì con đã không thực sự chọn lựa.

OM VAJRASATTVA HUM

9. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là khi con chọn lựa phóng chiếu xuyên qua ý niệm bản ngã đương thời của con, thì nếu Ánh sáng Mẫu-Vật không gửi trả lại con tín hiệu nào thì con đã không thực sự lấy một chọn lựa.

OM VAJRASATTVA HUM

10. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là những gì con đang trải nghiệm trong thế giới vật chất là kết quả của những gì con đã phóng chiếu xuyên qua ý niệm bản ngã của con.

OM VAJRASATTVA HUM

11. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là khi con nới rộng ý niệm bản ngã của mình thì hoàn cảnh vật lý sẽ dần dần thay đổi.

OM VAJRASATTVA HUM

12. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là khi con nới rộng ý niệm bản ngã của mình thì cách con trải nghiệm hoàn cảnh vật lý sẽ thay đổi ngay tức khắc.

OM VAJRASATTVA HUM

13. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là tuy con trải nghiệm hậu quả của những chọn lựa của mình, nhưng con vẫn có quyền tự do thăng vượt hay hạn chế ý niệm bản ngã của mình, thăng vượt hay hạ xuống.

OM VAJRASATTVA HUM

14. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là có một số sinh thể đã xây dựng ảo tưởng là quyền tự quyết có nghĩa là họ có thể làm bất cứ gì họ muốn mà không phải chịu hậu quả.

OM VAJRASATTVA HUM

15. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là ảo tưởng này có thể khiến các sinh thể đó có tâm thái đặc biệt đặt trọng tâm vào chính họ.

OM VAJRASATTVA HUM

16. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là các sinh thể đó có thể có thái độ là: “Nếu tôi thực sự có quyền tự quyết, thì toàn thể vũ trụ phải tuân phục ý chí của tôi.”

OM VAJRASATTVA HUM

17. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết đây là sự trải bày tối hậu của quyền tự quyết. Đây cũng là ảo tưởng tối hậu của quyền tự quyết và quả thật đó là sự chối bỏ quyền tự quyết và do đó là định nghĩa của không-muốn.

OM VAJRASATTVA HUM

18. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là ảo tưởng này chỉ có thể khởi lên nơi một sinh thể hoàn toàn coi mình là trọng tâm của vũ trụ, không có ý niệm hợp nhất, không có lòng từ bi đối với tất cả các sinh thể khác.

OM VAJRASATTVA HUM

19. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là sự trải bày cùng cực của quyền tự quyết đó đặt họ vào trạng thái tách biệt đến độ tin rằng toàn thể vũ trụ, toàn thể cõi tâm linh, và đấng Sáng tạo đều phải tuân phục ý chí của họ.

OM VAJRASATTVA HUM

20. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết điều này có nghĩa là con tin rằng tất cả những sinh thể khác, kể cả các chân sư thăng thiên và đấng Sáng tạo, phải đình chỉ quyền tự quyết của họ để cho con ảo tưởng là ý chí của con hoàn toàn tự do.

OM VAJRASATTVA HUM

21. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết đây là một sự hiểu lầm hoàn toàn chỉ có thể có khi con ở trong trạng thái tách biệt dựa trên nhị nguyên.

OM VAJRASATTVA HUM

22. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là một số sa nhân đã rất tức giận và họ đi vào tâm thái quyết định là họ sẽ làm hết sức mình để chứng tỏ là đấng Sáng tạo đã sai lầm khi ban cho con người quyền tự quyết.

OM VAJRASATTVA HUM

23. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết điều này có nghĩa là họ càng ngày càng tạo thêm nhiều chống đối. Họ tạo ra một cuộc tranh chấp càng ngày càng kịch liệt.

OM VAJRASATTVA HUM

24. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là có một số sa nhân đã chán ngán cuộc tranh chấp này, và vì vũ trụ hiển nhiên không tuân phục ý chí của họ, nên họ quyết định là họ không muốn sống ở đây. Họ không muốn tham gia vào cuộc sống trong vũ trụ này.

OM VAJRASATTVA HUM

25. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết đây là lúc họ tạo ra và đi vào tâm thái không-là. Họ không muốn hiện hữu, họ không muốn có ý thức, họ không muốn có nhận biết.

OM VAJRASATTVA HUM

26. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là động lượng không-muốn không nhất thiết có nghĩa là con không có ý chí.

OM VAJRASATTVA HUM

27. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là có một số người trên trái đất bị ảnh hưởng bởi chất độc không-muốn đến độ họ không còn ý chí.

OM VAJRASATTVA HUM

28. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là những người thần phục sa nhân đã đi vào trạng thái không-muốn, từ bỏ ý chí của họ để tuân theo ý chí của sa nhân.

OM VAJRASATTVA HUM

29. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là sa nhân không đi vào tâm thái không có ý chí. Họ có ý chí lầm lạc khi họ tìm cách ép buộc vũ trụ phải tuân theo ý chí của họ.

OM VAJRASATTVA HUM

30. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết đây là không-muốn theo nghĩa nó đi ngược lại toàn bộ mục đích của luật tự quyết là khi con phóng chiếu điều gì lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì con có tiềm năng nới rộng ý niệm bản ngã của mình.

OM VAJRASATTVA HUM

31. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là con khiến ý chí của mình được tự do hơn khi con nới rộng ý niệm bản ngã của mình. Khi con thu hẹp ý niệm bản ngã thì con khiến ý chí của mình kém tự do.

OM VAJRASATTVA HUM

32. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là có hiểu biết, có minh triết, có hiểu biết trí năng và có trải nghiệm trực tiếp, trải nghiệm trực giác, trải nghiệm thần bí về một trạng thái tâm thức cao hơn.

OM VAJRASATTVA HUM

33. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là, như một avatar, con không có ý niệm mình là một sinh thể tách biệt. Con có ý niệm mình là một sinh thể biệt.

OM VAJRASATTVA HUM

34. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là một số avatar đã trải nghiệm là họ đã tự nâng họ lên trên mức trung bình trong môi trường sống của họ, và họ đã có được khả năng cao hơn những sinh thể khác trên hành tinh tự nhiên của họ.

OM VAJRASATTVA HUM

35. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là một avatar đã có đôi chút khả năng điều ngự, có cảm giác là họ có thể khiến vật chất tuân phục ý chí của họ.

OM VAJRASATTVA HUM

36. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết điều này không có nghĩa là người avatar đã phát triển ý tưởng là toàn thể vũ trụ phải tuân phục ý chí của mình.

OM VAJRASATTVA HUM

37. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là trên một hành tinh tự nhiên không có sự mâu thuẫn giữa việc con thực thi ý chí của mình và những sinh thể chung quanh mình thực thi ý chí của họ.

OM VAJRASATTVA HUM

38. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là khi một avatar xuống trái đất thì người đó muốn tạo một thay đổi tích cực.

OM VAJRASATTVA HUM

39. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là người avatar tới đây với lòng tự tin có thể thực hiện mục tiêu của mình.

OM VAJRASATTVA HUM

40. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là sau đó, người avatar trải nghiệm bị sa nhân tấn công và bị nhân loại phớt lờ.

OM VAJRASATTVA HUM

41. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là người avatar bắt đầu hoài nghi có thể thực hiện mục tiêu của mình, có thể thể hiện ý chí của mình.

OM VAJRASATTVA HUM

42. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết đây cũng là một cú sốc và một phần của chấn thương nhập đời, khi con không thể hiểu vì sao bỗng nhiên vật chất không tuân phục ý chí của con.

OM VAJRASATTVA HUM

43. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con thấy liệu con có bắt đầu hoài nghi: “Tôi có thể thực sự thực hiện mục tiêu đã khiến tôi đến đây chăng, và nếu tôi không thể, thì tôi chắc hẳn đã sai lầm khi tới đây. Tôi chắc hẳn đã sai lầm khi quyết định tới đây.”

OM VAJRASATTVA HUM

44. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con thấy liệu con có bắt đầu tự hỏi: “Vì ý chí con người trên trái đất quá thiếu tự do, vậy thực thi ý chí của tôi trên hành tinh này có ích lợi gì?”

OM VAJRASATTVA HUM

45. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con thấy liệu sự hoài nghi này có tạo khe hở trong tâm con để chất độc không-muốn xâm nhập, chất độc này do sa nhân tạo ra và mang vào hành tinh này.

OM VAJRASATTVA HUM

46. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con thấy liệu con có bắt đầu cảm thấy: “Bày tỏ ý chí của tôi trên hành tinh này có ích lợi gì chăng? Có lẽ tôi không nên thách thức sa nhân. Để sống còn, có lẽ tôi không nên thách thức sa nhân, để tránh bị họ giết và tra tấn trong mọi kiếp sống. Có lẽ tôi không có quyền tìm cách giúp các cư dân trên trái đất thoát khổ nếu họ không muốn thoát khổ.”

OM VAJRASATTVA HUM

47. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con thấy liệu con có quyết định: “Tôi không muốn làm gì cả trên hành tinh này. Tôi không muốn thực thi ý chí của tôi trên hành tinh này.”

OM VAJRASATTVA HUM

48. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con thấy liệu con có đi vào cực đoan ngược lại và bày tỏ ý chí của mình một cách rất mạnh mẽ và rất quyết liệt.

OM VAJRASATTVA HUM

49. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con thấy liệu con có muốn chứng tỏ là sa nhân sai hay muốn chiến đấu chống lại sa nhân.

OM VAJRASATTVA HUM

50. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con thấy liệu con có tới điểm con đánh nhau quá lâu nên bị kiệt sức. Con quá mệt mỏi, con chán ngán đánh nhau.

OM VAJRASATTVA HUM

51. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con thấy liệu con có ở trong trạng thái tâm tiêu cực quá lâu nên bắt đầu cảm thấy là đời sống trên trái đất càng ngày càng vô nghĩa.

OM VAJRASATTVA HUM

52. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là nếu con đang đánh nhau, thì con cảm thấy đánh nhau càng ngày càng vô nghĩa, nhưng điều này cũng nhanh chóng đưa con tới chỗ cảm thấy cuộc sống trên trái đất vô nghĩa.

OM VAJRASATTVA HUM

53. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con thấy liệu con có mở cửa trong tâm để chất độc không-là xâm nhập, lúc đó con có khuynh hướng tạo một ngã cảm thấy cuộc đời không đáng sống.

OM VAJRASATTVA HUM

54. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con thấy liệu con có cảm thấy cuộc đời trên trái đất không đáng sống nhưng con không thấy lối thoát.

OM VAJRASATTVA HUM

55. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con thấy liệu con có cảm thấy là cuộc đời nói chung không đáng sống, không đáng để có ý thức, để có tự nhận biết.

OM VAJRASATTVA HUM

56. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con thấy liệu con có bắt đầu phủ nhận sự tự nhận biết và cảm thấy Thượng đế đáng lẽ không nên cho con tự nhận biết vì nó chỉ tạo khổ đau.

OM VAJRASATTVA HUM

57. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con thấy liệu con có bắt đầu chê trách Thượng đế, hay muốn Thượng đế đổi ý về quyền tự quyết.

OM VAJRASATTVA HUM

58. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết không phải con cảm thấy như vậy, mà là một ngã tách biệt.

OM VAJRASATTVA HUM

59. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là một khi ngã tách biệt được tạo ra thì nó liên tục phóng chiếu tới con là cuộc đời không đáng sống hay không đáng bỏ sức đấu tranh.

OM VAJRASATTVA HUM

60. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết liệu con có trải qua một giai đoạn tìm cách khiến tâm thức bị tê dại, bằng cách theo đuổi đủ loại ghiền nghiện khiến con càng ngày càng bớt ý thức.

OM VAJRASATTVA HUM

61. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết liệu con có tìm cách rút lui khỏi thế gian, tỷ dụ như làm tu sĩ trong nhiều truyền thống tôn giáo.

OM VAJRASATTVA HUM

62. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết liệu con có cảm giác muốn rút lui khỏi đời sống năng động, không muốn tham gia vào cuộc sống năng động.

OM VAJRASATTVA HUM

63. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết liệu con có đang sống một cuộc sống tương đối năng động nhưng không thực sự bỏ tâm trí vào, lúc nào cũng ngồi giữa hai ghế, tìm cách làm tối thiểu để đủ sống nhưng không thực sự tham gia vào bất cứ khía cạnh nào của cuộc sống.

OM VAJRASATTVA HUM

64. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là động cơ đưa con tới trái đất dựa trên một ảo tưởng. Xin thày giúp con khắc phục ngã gốc.

OM VAJRASATTVA HUM

65. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là lý do duy nhất khiến con cảm thấy đời không đáng sống, không đáng bỏ sức tranh đấu hoặc con không thể tỏ bày ý chí của mình trên hành tinh này, là vì con chưa hiểu một số chuyện.

OM VAJRASATTVA HUM

66. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con xem xét những lý do khiến con tới đây.

OM VAJRASATTVA HUM

67. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con thấy là tâm thức đó, chất độc không-muốn và không-là đó, không có giá trị gì cả. Như mọi chất độc, nó dựa trên một ảo tưởng.

OM VAJRASATTVA HUM

68. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết làm cách nào con có thể hấp thu thuốc giải cho độc tố không-muốn và đạt được Ý chí Kim cương.

OM VAJRASATTVA HUM

69. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết ý chí đó không thể bị bất cứ điều gì trên trái đất lay chuyển. Ý chí Kim cương không thể bị ảnh hưởng bởi không-muốn, không-là hay ngay cả phản-ý chí, là ý chí rất hung hãn của sa nhân.

OM VAJRASATTVA HUM

70. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con hòa điệu với thuốc giải đó, cho phép nó thấm vào bản thể của con và tiêu trừ mọi tàn dư của không-muốn và không-là trong con.

OM VAJRASATTVA HUM

71. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con đạt được một cảm giác an bình cao hơn rất nhiều.

OM VAJRASATTVA HUM

72. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con tới điểm con làm hòa với cách trái đất hiện đang vận hành.

OM VAJRASATTVA HUM

73. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là mục đích của trái đất là sự trải bày của luật tự quyết.

OM VAJRASATTVA HUM

74. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là mục đích thực sựcao hơn đã khiến con tới trái đất là để tăng trưởng sự nhận biết tới điểm con có thể thăng thiên từ trái đất.

OM VAJRASATTVA HUM

75. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con trụ vững trong sự kiện là ở tầng Hiện diện TA LÀ của con, có ý chí đi vào một bầu cõi chưa thăng thiên và thăng thiên từ bầu cõi đó.

OM VAJRASATTVA HUM

76. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết đây cũng là ý chí kim cương vì nó cao hơn bất cứ mọi chuyện trên trái đất, có nghĩa là không có gì mà cái Ta Biết trải nghiệm trên trái đất có thể thay đổi ý chí của Hiện diện TA LÀ.

OM VAJRASATTVA HUM

77. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con nối kết lại với Hiện diện TA LÀ và nhận ra rằng, như cái Ta Biết, con là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ, con không hề xa cách nó hay chống đối nó.

OM VAJRASATTVA HUM

78. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết ý chí của Hiện diện cũng là ý chí của con. Con có ý chí tăng trưởng tâm thức của mình. Con có ý chí thăng thiên.

OM VAJRASATTVA HUM

79. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là bất kể mọi điều kiện trên trái đất, các điều kiện này tạo cơ hội toàn hảo để con thăng thiên.

OM VAJRASATTVA HUM

80. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là vì con chưa có những trải nghiệm đa diện mà con có thể có trên một hành tinh phi tự nhiên, nên con đã không thăng thiên từ hành tinh tự nhiên.

OM VAJRASATTVA HUM

81. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là con có một số ngã trong bốn thể phàm của mình và con cần để chúng chết đi.

OM VAJRASATTVA HUM

82. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là vì trên trái đất con có nhiều loại ngã hơn trong bốn thể phàm của mình nên con thực sự thăng thiên với một trình độ nhận biết cao hơn.

OM VAJRASATTVA HUM

83. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết là trong căn thể của con có nhiều kinh nghiệm tích cực hơn. Do đó, khi con thăng thiên từ một hành tinh phi tự nhiên thì Hiện diện TA LÀ của con có một nhận biết cao hơn so với khi con thăng thiên từ một hành tinh tự nhiên.

OM VAJRASATTVA HUM

84. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con thực sự làm hòa với việc mình ở đây và nói: “Bất kể những gì tôi nghĩ trước khi tới đây, hành tinh này cho tôi một cơ hội thăng thiên tuyệt diệu.”

OM VAJRASATTVA HUM

85. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con tới điểm con không còn nhìn lại quá khứ nữa và nghĩ con đã sai lầm khi tới đây.

OM VAJRASATTVA HUM

86. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con nói: “À, tôi ở trạng thái tâm thức đó vào lúc đó và tôi đã lấy quyết định tốt nhất mà tôi có thể lấy lúc đó, vì tôi có cái ngã mà tôi có lúc đó.”

OM VAJRASATTVA HUM

87. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con buông bỏ mọi cảm giác hối tiếc và an bình với sự kiện đây là con đường thăng thiên mà con đã chọn, và nó hoàn toàn thỏa đáng theo bất cứ tiêu chuẩn nào của cõi thăng thiên.

OM VAJRASATTVA HUM

88. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con nói: “Phần còn lại của kiếp sống này là cơ hội toàn hảo, lý tưởng để tôi thăng thiên, để tôi xem xét các phản ứng của mình, nhận diện các ngã còn tồn tại và để chúng chết đi.”

OM VAJRASATTVA HUM

89. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con nói: “Phần còn lại của kiếp sống này là cơ hội toàn hảo để tôi là cánh cửa mở để Hiện diện TA LÀ bày tỏ chính nó, để tôi, như cái Ta Biết, tới điểm giải thoát khỏi tất cả các ngã thấp và có ý chí tự do trải nghiệm và biểu lộ chính mình trên hành tinh này.”

OM VAJRASATTVA HUM

90. Vajrasattva, xin thày rải truyền Ý chí Kim cương để cho con nhận biết giúp con xoay chuyển sự chú tâm của mình từ việc đạt kết quả trên trái đất sang việc thực sự chào đón và vui hưởng tiến trình sống trên trái đất, tiến trình biểu lộ chính mình trên trái đất và tiến trình thăng thiên từ trái đất.

OM VAJRASATTVA HUM

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

18 | Thỉnh cầu Minh triết Phân biện (31 đoạn)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Amitabha, hãy giúp con hòa điệu với Minh triết Phân biện của thày và khắc phục các chất độc, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là tham lam và khát ái thực sự là cảm giác không bao giờ thấy đủ với một thứ nào đó.

OM AMITABHA HRIH

2. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là chất độc tâm linh tham lam và khát ái giăng bẫy để con rơi vào vòng lẩn quẩn, vào cỗ máy chạy không ngừng nghỉ khiến con chạy lòng vòng, có thể con chạy càng ngày càng nhanh nhưng không thực sự đi đến đâu.

OM AMITABHA HRIH

3. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là nếu con không bị ảnh hưởng bởi chất độc tham lam và khát ái thì con có thể tới điểm chán ngán các lạc thú đó và buông bỏ chúng.

OM AMITABHA HRIH

4. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là khi con người đem chất độc đó vào người mình, thì con không thể nào thấy đủ. Con không thể có cảm giác thỏa thuê vì chất độc tham lam và thèm muốn ngăn chặn cảm giác thỏa thuê, cảm giác thấy đủ.

OM AMITABHA HRIH

5. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là như một avatar, rất có thể con đã tạo ra một ngã cảm thấy thiếu khả năng khi sống trên trái đất vì con bị chấn thương nhập đời. Con cảm thấy có cái gì thiếu thốn, có cái gì trống vắng, có cái gì thiếu hụt trong con người mình.

OM AMITABHA HRIH

6. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là ngã đó chủ yếu được lập trình để khỏa lấp lỗ hổng đó và nó tạo ra các ngã khác nói: “Nếu bạn có đủ tiền thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.” “Nếu bạn có đủ tình dục thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.” “Nếu bạn có đủ trọng vọng thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.” “Nếu bạn hoàn thành đủ công việc thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.” “Nếu bạn thay đổi đủ số người khác thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.” “Nếu bạn thay đổi điều kiện này hay điều kiện nọ trên trái đất thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.”

OM AMITABHA HRIH

7. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là con tới trái đất để đem lại một thay đổi tích cực. Con kinh qua một chấn thương và nó khiến con cảm thấy trống vắng. Con tạo ra các ngã phóng chiếu tới con là nếu con có đủ điều kiện này hay điều kiện nọ, thì con sẽ cảm thấy đầy đủ.

OM AMITABHA HRIH

8. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là khi con bị chất độc đó ảnh hưởng, thì con không bao giờ cảm thấy đầy đủ.

OM AMITABHA HRIH

9. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là ước muốn chính đáng có một loại trải nghiệm nào đó bị tha hóa bởi chất độc để trở thành một sự tìm cầu không bao giờ dứt càng ngày ngày càng muốn nhiều hơn mà không bao giờ thấy đủ, không bao giờ khiến con cảm thấy mãn nguyện.

OM AMITABHA HRIH

10. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là có sự khác biệt giữa phán xét giá trị và phân biệt hay phân biện. Phân biệt được dùng với ý nghĩa cao của nó, không phải là ý thường dùng ví dụ như phân biệt đối xử với ai đó.

OM AMITABHA HRIH

11. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là con có ước muốn thấy một thay đổi nào đó trên trái đất. Con mong muốn thấy con người thức tỉnh và không chìm đắm trong một sinh hoạt khiến họ đau khổ.

OM AMITABHA HRIH

12. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là ước muốn đem lại một thay đổi tùy thuộc các chọn lựa của người khác, không phải là một ước muốn xây dựng.

OM AMITABHA HRIH

13. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là con không thể, trong cương vị một avatar, cho phép mình có một ngã phóng chiếu tới con là tâm thái của mình, sự an bình nội tâm của mình, tùy thuộc vào chọn lựa của người khác.

OM AMITABHA HRIH

14. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là con có một ngã đang phóng chiếu tới con là con phải giúp đem lại một sự đổi thay nào đó. Con không thể cảm thấy đầy đủ khi con người vẫn còn bị đau khổ.

OM AMITABHA HRIH

15. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là điều này có nghĩa chính yếu là con không thể cảm thấy đầy đủ cho tới hết kiếp sống này.

OM AMITABHA HRIH

16. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là có ngã đó có nghĩa là cho đến hết kiếp sống này, con phải sống với lỗ hổng đó.

OM AMITABHA HRIH

17. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là con không muốn như vậy. Có một ngã tách biệt đang cho con cảm giác là nhu cầu đó phải được hoàn thành. Con nhận diện ngã đó, tách mình ra khỏi nó và để cho nó chết đi.

OM AMITABHA HRIH

18. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết giống như một lưỡi dao rất mỏng, rất sắc, làm bằng một chất liệu rất cứng. Nó như một tia laser có thể chọc thủng sự dày đặc của tâm thức nhị nguyên, và qua đó phân biện cái thật và cái không thật, cho phép con thấy đâu là một ước muốn bất khả thi không thể nào hoàn thành.

OM AMITABHA HRIH

19. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là động cơ nguyên thủy đã thúc đẩy con tới đây dựa trên một ước muốn không thể hoàn thành.

OM AMITABHA HRIH

20. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là con chỉ có thể hoàn thành ước muốn đó bằng cách ảnh hưởng quyền tự quyết của người khác, và điều này vừa trái luật vừa không phải là điều con muốn làm.

OM AMITABHA HRIH

21. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là con thực sự không có một ước muốn cao khi con muốn thay đổi chọn lựa của người khác. Đó là một ước muốn trái luật, bất khả thi, không thể hoàn thành, dựa trên một trạng thái tâm thức thấp hơn trạng thái tâm thức mà con có ngày hôm nay.

OM AMITABHA HRIH

22. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết giúp con tách những ngã đó ra, tách mình ra khỏi các ngã đó, nhận diện chúng và thấy chúng như chúng là.

OM AMITABHA HRIH

23. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết những động lực khiến con tới đây dựa trên một viễn quan thấp. Chúng dựa trên một ảo tưởng và do đó con có thể buông bỏ nó. Con buông bỏ cái ngã muốn biện hộ cho lý do vì sao con tới đây, muốn biện minh, giải thích, chứng thực là chuyện con làm không có gì sai trái.

OM AMITABHA HRIH

24. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là chuyện con làm không có gì sai trái, nhưng nó dựa trên trạng thái tâm thức mà con có lúc đó, và đó không phải là trạng thái tâm thức cao nhất.

OM AMITABHA HRIH

25. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là vì con đã trải qua một thời gian dài trên trái đất, con có tiềm năng vươn lên một tầng tâm thức cao hơn nơi con có thể thăng thiên.

OM AMITABHA HRIH

26. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là con không thể thăng thiên từ hành tinh tự nhiên nhưng con có thể thăng thiên từ địa cầu.

OM AMITABHA HRIH

27. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là chuyện con xuống địa cầu là điều chính đáng. Đó là một điều chính đáng trong tiến trình tăng trưởng dài hạn của con.

OM AMITABHA HRIH

28. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết là lý do mà lúc đó con nghĩ đã khiến con xuống địa cầu không chính đáng, không tối hậu.

OM AMITABHA HRIH

29. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết giúp con cắt đứt những bợn nhơ trong tâm mình, trong đó cũng có một ngã cảm thấy không bao giờ chán việc tạo thay đổi trên trái đất.

OM AMITABHA HRIH

30. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết giúp con giải thoát mình khỏi các động lượng mà con đã mang theo mình từ rất lâu.

OM AMITABHA HRIH

31. Amitabha, xin thày rải truyền Minh triết Phân biện để cho con nhận biết giúp con khắc phục các động lượng đó, mau chóng tiến bộ và đạt được cảm giác an bình hơn mà con thật sự mong muốn.

OM AMITABHA HRIH

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

16 | Thỉnh cầu Minh triết Bình đẳng (64 đoạn)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Ratnasambhava, hãy giúp con hòa điệu với Minh triết Bình đẳng của thày và khắc phục các chất độc, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là chuyện vừa tự nhiên vừa không thể tránh là khi con đồng-sáng tạo trong một thời gian dài trên một hành tinh tự nhiên, thì con trải nghiệm mình có một sự thiện xảo nào đó, một thành đạt nào đó.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

2. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là hầu như không thể tránh là khi con tăng trưởng nhận biết để sáng tạo, thì con phát triển ý niệm con đã đạt được một trình độ tinh tiến và thiện xảo nào đó.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

3. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là con biết khả năng thể hiện của con không chỉ do các thành đạt của con, tuy nhiên con phát triển ý niệm là con, như cái ngã mà con thấy con là, có khả năng thể hiện.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

4. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết đây là niềm kiêu hãnh tự nhiên khi con cảm thấy hãnh diện về những thành đạt và khả năng của mình. Đây không phải là một chất độc tâm linh xét theo cách dùng từ này trên một hành tinh phi tự nhiên, vì con không tự xem mình là một sinh thể tách biệt.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

5. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là khi con tới trái đất như một avatar, thì con đã tới với cảm nhận mình đã có một số thành đạt, có khả năng thể hiện.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

6. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là khi con xuống trái đất, ngay cả như một avatar, thì con xuống ở tầng tâm thức 48, và mang vào tất cả các ảo tưởng ở mỗi tầng từ tầng tâm thức của con xuống tới tầng đó.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

7. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là khi con tới trái đất như một avatar, con không bắt đầu từ số không khi con tạo ra bốn thể phàm để hiện thân tại đây.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

8. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là con mang theo mình một cái gì đó từ hành tinh tự nhiên. Tuy tâm ý thức của con ở tầng 48, con vẫn có một số cảm giác, một số ký ức.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

9. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là con có một số khả năng, vì con dễ quán triệt tiến trình đồng-sáng tạo hơn một dòng sống hoàn toàn mới.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

10. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là khi con tới trái đất, con trải nghiệm là con khôn ngoan hơn, con có nhiều khả năng hơn đa số những người đang hiện thân trên trái đất.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

11. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là tình trạng trở nên khó khăn khi sa nhân hạ nhục con và con bị chấn thương nhập đời.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

12. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là khi đó con tạo ra ngã gốc, và do đó con không thấy thế khó xử mà sa nhân đã đặt con vào. Điều này khiến con tạo ra những ngã khác có cảm giác là nay con cần phải chứng minh giá trị của mình trên trái đất.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

13. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là các ngã đó nghĩ con cần biện minh, con cần giải thích sự hiện diện của mình. Con cần chứng minh là con xứng đáng, con có quyền ở trên trái đất, con không phải là người xấu, vân vân.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

14. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là tình trạng này dẫn tới việc tạo ra các ngã rất thiết tha được một thành đạt nào đó, một khả năng đặc biệt nào đó trong thế giới vật chất, kể cả với thân thể vật lý.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

15. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là con đã trải qua nhiều kiếp sống cố gắng chứng minh giá trị của mình. Do đó, con trải nghiệm là xét theo quan niệm bên ngoài con không bao giờ thực sự mãn nguyện với những thành đạt của mình.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

16. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là con cũng trải nghiệm con không bao giờ làm vừa ý sa nhân, con không bao giờ chứng minh được giá trị của mình dưới mắt họ. Con cũng không chứng minh được giá trị của mình duới mắt đa số con người trên trái đất. Họ có thể nhìn con với đôi mắt khâm phục vì con có khả năng mà họ không có, nhưng điều này không thực sự khiến con mãn nguyện.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

17. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là con tích lũy một sự bực bội, và điều này có nghĩa là để cảm thấy mình thành đạt, con càng ngày càng phải thành tựu nhiều hơn nữa.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

18. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là nhiều avatar đã trải qua hoàn cảnh này từ kiếp này sang kiếp khác, tốn rất nhiều công sức để xây dựng khả năng nào đó trong kiếp sống này, để rồi mất nó và kết thúc kiếp sống cảm thấy chán nản và thiếu tự tin.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

19. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là điều này có thể khiến một số avatar xây dựng một ngã thường trực hơn cho họ cảm giác tự tôn.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

20. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là các avatar có thể bị rơi vào cạm bẫy của sa nhân và dùng tâm thức nhị nguyên để tạo ra một ngã có niềm tự hào cao vời vợi coi mình đặc biệt, tinh tiến hơn người khác và do đó được quyền có địa vị và đặc quyền nào đó.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

21. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là một số avatar đã bị lừa để hành xử giống như sa nhân, giao tiếp với sa nhân và phát triển tinh thần tương kính lẫn nhau.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

22. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết giúp con cắt đứt dây trói buộc con vào sa nhân.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

23. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết giúp con nhìn nhận mình đã phát triển lòng ngưỡng mộ và kính trọng sa nhân.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

24. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết giúp con nhận ra đây là một cái ngã trong con đã phát triển điều này, và ngã đó là một hậu duệ của ngã đã cho con cảm giác tự hào.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

25. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là con không phải cảm thấy tội lỗi và sẽ không bị lên án khi con nhìn nhận là trong tâm mình có yếu tố tự hào.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

26. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là khi con nhìn sự vận hành tâm lý của một avatar, đã tới một hành tinh như trái đất, đã phải kinh qua những chuyện mà con đã kinh qua, thì con không thể tránh tạo ra ngã đó.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

27. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là con không thể tránh tạo ra các ngã đó, nhưng bây giờ đã đến lúc con để cho chúng chết đi.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

28. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là một trong những chất độc mà con phải khắc phục trên trái đất là lòng kiêu mạn. Con đã tạo ra một ngã có tính kiêu mạn.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

29. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết giúp con xoay chuyển tâm thức và không còn tự đồng hóa với ngã đó nữa.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

30. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là tâm thức nhị nguyên có hai đối cực, nhưng nó lúc nào cũng gán lên các đối cực này một phán xét giá trị: một bên tốt, một bên xấu.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

31. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết giúp con hòa điệu với Hiện diện của thày và thực sự trải nghiệm là nhị nguyên không có thật.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

32. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là ý niệm một đối cực tốt hơn cái kia, bên này tốt bên kia xấu, chỉ giản dị là một ảo tưởng. Nhị nguyên có cái gì không thật.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

33. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là con khó nhìn các khổ đau trên trái đất mà không khởi lên tâm phán xét giá trị. Nhưng với Minh triết Bình đẳng, con có thể bước lui lại khỏi kịch bản rất đa dạng đó.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

34. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là mọi vật thể trên trái đất đều được cấu tạo từ vật chất. Nhưng mọi vật chất đều được cấu tạo bởi nguyên tử.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

35. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là các hiện tượng vật chất mang nhiều hình dạng, nhưng chúng đều được cấu tạo từ các viên gạch căn bản là nguyên tử.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

36. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là khi con nhìn ở tầng vĩ mô với giác quan của con, thì một tình huống có thể giống như một sự lố bịch vì nó tạo khổ đau.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

37. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết giúp con thấy là hiện tượng đó được tạo nên bởi vật chất, và vật chất được cấu tạo bằng nguyên tử.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

38. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết giúp con xoay chuyển viễn quan để thấy là phán xét giá trị mà con gán lên hiện tượng ở cấp vĩ mô không có nghĩa gì ở tầng các nguyên tử.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

39. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là các nguyên tử không nghĩ rằng chúng đang thể hiện một điều xấu. Phán xét giá trị tốt xấu hiện hữu ở cấp vĩ mô trong tâm vỏ ngoài, nhưng nó không hiện hữu ở tầng sâu hơn. Nó không có nghĩa gì cả ở tầng sâu hơn.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

40. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là các nguyên tử không bị trói buộc vào hình tướng. Các nguyên tử có thể dễ dàng thoát khỏi một hình tướng để thể hiện một hình tướng khác.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

41. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là không có gì ở cấp vĩ mô của thế giới vật lý có tính chất thường hằng. Chúng đều phù du.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

42. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là ở tầng sâu hơn, nguyên tử được cấu tạo bởi các hạt cơ bản. Các hạt cơ bản thực sự là sóng năng lượng.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

43. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là mọi thứ đều do sóng năng lượng tạo thành, đều là một mô thức rất rất phức tạp nhiều sóng năng lượng giao thoa với nhau.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

44. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là ở tầng sóng năng lượng, các phán xét giá trị ở tầng vĩ mô không có giá trị, không có ý nghĩa gì. Ở đó chỉ có các sóng năng lượng.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

45. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là các đế quốc oai dũng do con người dựng lên không thường hằng, không có uy lực ở tầng sóng năng lượng.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

46. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là những chuyện xảy ra trên trái đất chỉ là một trò chơi. Đó là một màn kịch mà con người dựng lên để có một số trải nghiệm cho tới khi họ chán ngán trải nghiệm đó.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

47. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là con không thật sự cần cảm thấy mình hơn người khác. Con đã chán chuyện trò chơi hơn kém nhân tạo, phù du và vô nghĩa này.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

48. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết giúp con thấy liệu con có một ngã khác cảm thấy tự ti.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

49. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết đây cũng là một hình thức kiêu mạn vì con vẫn gán một phán xét giá trị lên chính mình.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

50. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là ngã tự ti đang nghĩ là con biết rõ hơn Thượng đế là con thấp kém.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

51. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là Thượng đế không tạo ra con thấp kém. Con không được tạo ra như một sinh thể thấp kém, nhưng nay con nghĩ con biết mình thực sự là một sinh thể thấp kém – và đây là kiêu mạn.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

52. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là con đã chán ngán cảm nhận thấp kém hay cao cả hay bất cứ hình ảnh nào mà con có thể tưởng tượng ra.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

53. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết giúp con xoay chuyển viễn quan quá tầng vĩ mô.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

54. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là ở tầng sâu hơn của nguyên tử, của sóng năng lượng, của Ánh sáng Mẫu-Vật, thì tất cả các hình ảnh này đều không thật, đều vô nghĩa.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

55. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là không phải con tin như vậy, mà là một ngã tách biệt. Ngã tách biệt giống y như một máy điện toán: nó cũng không thật.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

56. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết giúp con thấy ngã đó và nói: “Ta để cho mi chết đi. Ta không muốn mi trong con người ta nữa, ta để cho mi chết đi.”

OM RATNASAMBHAVA TRAM

57. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là dù con cảm thấy tự tôn hay tự ti, thì cảm giác đó, ảo tưởng đó đã trở nên càng ngày càng khó duy trì.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

58. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là mỗi ngày con phải nỗ lực nhiều hơn để duy trì nó, có nghĩa là nó khiến con căng thẳng hơn. Con cần dồn vào đó nhiều năng lượng tinh thần và chú tâm hơn.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

59. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là một khi con ngưng không làm việc đó nữa, thì sự chú tâm của con được giải thoát và con có cảm giác an bình mà con không thể có khi con ở trong vòng vận hành của tự tôn-tự ti.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

60. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là với thời gian, tất cả các ngọn núi sẽ bị bào mòn, tất cả các thành thị sẽ bị đổ nát, tất cả mọi thứ sẽ đều trở thành cát bụi, gạch vụn, nguyên tử, sóng năng lượng.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

61. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là rốt cuộc chỉ còn sự bình đẳng hoàn toàn của Ánh sáng Mẫu-Vật.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

62. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là những cấu trúc được xây dựng từ Ánh sáng Mẫu-Vật trên một hành tinh như trái đất sẽ không bao giờ đạt được tính chất thường hằng.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

63. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết là khi Ánh sáng Mẫu-Vật có tự nhận biết, thì nó sẽ trút bỏ các hình tướng đó. Chúng sẽ dần dần sụp đổ và không còn gì nữa cả cho tới khi chỉ còn ánh sáng thuần khiết tồn tại.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

64. Ratnasambhava, xin thày rải truyền Minh triết Bình đẳng để cho con nhận biết giúp con thoát khỏi vòng vận hành không những của lòng tự tôn-tự ti mà ngay cả tất cả các hậu duệ của tâm thức nhị nguyên lúc nào cũng nâng cái này lên và so sánh cái này với cái kia.

OM RATNASAMBHAVA TRAM

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

14 | Thỉnh cầu Minh triết Như tấm gương (86 đoạn)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Akshobya, hãy giúp con hòa điệu với Minh triết Như Tấm gương của thày và khắc phục các chất độc, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là khi con tới trái đất và nhận ra lý do con tới đây không thể hoàn thành được, thì con tạo ra ngã gốc để tránh không phải đối phó với câu hỏi: “Có gì trong lý do tôi tới đây, thái độ của tôi, cách tôi nhìn trái đất, cần phải thay đổi chăng?”

OM AKSHOBYA HUM

2. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là con đã tạo ra ngã đó để tránh phải xem xét một vấn đề sâu xa hơn.

OM AKSHOBYA HUM

3. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là khi con tiếp tục đầu thai, con trải nghiệm là có một số vấn đề dường như con không thể giải quyết.

OM AKSHOBYA HUM

4. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là lý do con không thể giải quyết vấn đề là vì con không chịu xem xét vấn đề nguyên thủy bị ngã gốc che giấu.

OM AKSHOBYA HUM

5. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là qua hành động tạo ngã gốc, con đã giới hạn cái thấy của mình, và do đó có một số vấn đề con không thể giải quyết.

OM AKSHOBYA HUM

6. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là khi con tiếp tục đầu thai, con tạo ra càng ngày càng nhiều ngã khác là hậu duệ của ngã gốc, và các ngã này tạo thêm càng ngày càng nhiều giới hạn.

OM AKSHOBYA HUM

7. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là mỗi lần con tạo ra một ngã, thì con tạo một giới hạn. Với mỗi giới hạn, con lại có thêm một vấn đề con không thể giải quyết cho tới khi con giải quyết cái ngã.

OM AKSHOBYA HUM

8. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là mỗi ngã giới hạn cái thấy của con. Với một cái thấy giới hạn thì có một vấn đề mà con không thể giải quyết.

OM AKSHOBYA HUM

9. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là con không thể giải quyết vấn đề nhưng con phải phản ứng lại vấn đề. Con xử lý việc này bằng cách tạo thêm một ngã dựa trên một giới hạn khác, và điều này tạo một vấn đề khác mà con không thể giải quyết.

OM AKSHOBYA HUM

10. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là cảm xúc dần dần trở nên càng ngày càng mãnh liệt, và đó là lý do vì sao con càng ngày càng tích lũy thêm sự bực bội.

OM AKSHOBYA HUM

11. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là con trải nghiệm là con đang ở trong một hoàn cảnh không thoải mái. Con cảm thấy bị giới hạn, con cảm thấy bị vây hãm.

OM AKSHOBYA HUM

12. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là con trải nghiệm bị điều kiện vây hãm và con không có uy lực để thay đổi hoàn cảnh. Con bị giới hạn bởi các vấn đề mà con không thể giải quyết – đó là cách con cảm nhận tình hình.

OM AKSHOBYA HUM

13. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là lý do con cảm nhận như vậy là vì con nhìn vấn đề xuyên qua một cái ngã, nhưng con không thấy điều này.

OM AKSHOBYA HUM

14. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là con thấy có một vấn đề mà con không thể giải quyết. Con cảm thấy cá nhân mình bị tấn công vì con cảm thấy bị vây hãm và không thể đi nơi nào khác.

OM AKSHOBYA HUM

15. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết đó là lý do vì sao nỗi giận tích lũy. Nỗi giận tích lũy vì càng ngày càng có nhiều vấn đề mà con không thể giải quyết.

OM AKSHOBYA HUM

16. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là mỗi lần con phản ứng lại một vấn đề, thì con tạo ra một ngã khác và điều này lại tạo thêm một vấn đề khác, và con cảm thấy như vấn đề không bao giờ dứt.

OM AKSHOBYA HUM

17. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết đó là lý do vì sao nỗi giận tích lũy. Đó là sự bực bội, là năng lượng tích lũy, là căng thẳng càng ngày càng mãnh liệt – và đây là lý do khiến con giận dữ.

OM AKSHOBYA HUM

18. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết đó là lúc con tới điểm áp lực trở nên mạnh đến độ con không thể tránh biểu lộ nỗi giận. Con không biểu lộ nỗi giận với chính mình, mà biểu lộ nó tới người khác.

OM AKSHOBYA HUM

19. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là nhiều sa nhân có nỗi giận rất mãnh liệt đối với Thượng đế nhưng vì họ không thể làm gì để trừng phạt Thượng đế nên họ đem nỗi giận này trút lên người khác và tìm cách trừng phạt các người đó.

OM AKSHOBYA HUM

20. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết có một cơ chế tâm lý vận hành là nếu con trải nghiệm con có thể trút cơn giận lên một người khác thì con cảm thấy mình có uy lực.

OM AKSHOBYA HUM

21. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là con không có uy lực để giải quyết vấn đề đã khiến con giận dữ, nhưng con có uy lực khiến người khác cảm thấy khổ sở, và điều này giúp con khuây khỏa được một lúc, vì dù sao con cũng có chút ít uy lực.

OM AKSHOBYA HUM

22. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là với đa số avatar thì lòng thù hận hay nỗi giận của họ hướng về chính họ.

OM AKSHOBYA HUM

23. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là con cảm thấy một sự bực bội nào đó, và nhiều khi có vẻ đây là sự bực bội với một số điều kiện trên trái đất. Sự thực thì cảm xúc này bắt nguồn từ cú sốc khi con nhận ra mục đích nguyên thủy của con không thể hoàn tất được.

OM AKSHOBYA HUM

24. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là con cảm thấy giận chính mình vì đã lấy chọn lựa tới đây: “Tại sao tôi lại có thể ngu dốt như vậy khi quyết định tới hành tinh này?”

OM AKSHOBYA HUM

25. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là con đã tạo ra ngã gốc và các ngã khác để che giấu nỗi giận đó.

OM AKSHOBYA HUM

26. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết sẽ giúp con nhận diện cảm xúc đó trong tâm mình.

OM AKSHOBYA HUM

27. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết sẽ cho phép con nhận ra là con có các ngã đó, con có sự bực bội đó, con có nỗi giận đó.

OM AKSHOBYA HUM

28. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết sẽ giúp con chấp nhận là con đã tìm cách tạo ra các ngã đó để đè nén nỗi giận vì con nghĩ một người tâm linh không được cảm thấy giận dữ.

OM AKSHOBYA HUM

29. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết sẽ giúp con nhận ra là khi con tiếp nhận một giáo lý tâm linh, thì con thực sự có thể tạo ra một số ngã dựa trên giáo lý đó.

OM AKSHOBYA HUM

30. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là khi con tiếp nhận giáo lý Phật an lạc, Phật không dính mắc, thì con cảm thấy, nếu con là một đệ tử của Phật, thì con phải tạo ra một ngã để đè nén nỗi giận.

OM AKSHOBYA HUM

31. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là con đã tạo ra những ngã rất dũng mãnh nhằm đè nén nỗi giận để nó không bao giờ biểu lộ ra – nhưng nó vẫn còn đó.

OM AKSHOBYA HUM

32. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết sẽ cho phép con không sợ nhận ra là trong con người mình có một hay nhiều ngã có sự giận dữ.

OM AKSHOBYA HUM

33. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là con cảm thấy có nỗi giận nào đó với Thượng đế vì ngài đã ban cho con quyền tự quyết: “Tại sao Thượng đế lại để tôi lấy chọn lựa xuống trái đất? Thậm chí, tại sao Thượng đế lại cho tôi quyền tự quyết?”

OM AKSHOBYA HUM

34. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết đây là một phóng chiếu của sa nhân mà con đã mang vào tâm mình, nhưng con cần nhìn nhận mình có ngã đó.

OM AKSHOBYA HUM

35. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con nhận biết là chỉ khi con nhận ra là trong bốn thể phàm của mình có ngã cảm thấy giận dữ đó, thì con mới có thể tách mình ra khỏi ngã đó.

OM AKSHOBYA HUM

36. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết sẽ giúp con nhận ra là ngã tách biệt cảm thấy giận dữ đó đang phóng chiếu một vấn đề, tỷ dụ: “Thượng đế đáng lẽ phải thay đổi luật của ngài và không cho phép quyền tự quyết đem lại khổ đau như thế này.”

OM AKSHOBYA HUM

37. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là khi con còn ở bên trong ngã đó, thì con phóng chiếu ra ngoài, con nghĩ: “Làm sao tôi có thể khiến Thượng đế thấy sai lầm của ngài và thay đổi tình trạng này?” Lẽ tất nhiên con không thể.

OM AKSHOBYA HUM

38. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là ngã đưa ra một vấn đề không thể có giải đáp.

OM AKSHOBYA HUM

39. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là tất cả các ngã mà con đã tạo ra đều đưa ra một vấn đề không thể có giải đáp vì vấn đề chỉ hiện hữu do nhận thức giới hạn của ngã đó.

OM AKSHOBYA HUM

40. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là vấn đề không phải là một vấn đề có thực, nó là một vấn đề nhân tạo, được tạo ra bởi một nhận thức giới hạn. Vấn đề không bao giờ có giải đáp.

OM AKSHOBYA HUM

41. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là cách giải quyết duy nhất là thấy ngã tách biệt có một nhận thức giới hạn. Nó không phải là con.

OM AKSHOBYA HUM

42. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết con là cái Ta Biết. Con có khả năng bước ra ngoài ngã đó và đón nhận một nhận biết cao hơn, mà các thày đã trao truyền với giáo lý về quyền tự quyết.

OM AKSHOBYA HUM

43. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là ngã đó không thật, vấn đề không thật, có nghĩa là con không cần giải quyết vấn đề.

OM AKSHOBYA HUM

44. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết sẽ giúp con thấy ảo tưởng và buông bỏ nó. Sau đó, con có thể nhìn ngã tách biệt và nhận ra là cách giải thoát khỏi nó không phải là giải quyết vấn đề mà là để cho ngã chết đi.

OM AKSHOBYA HUM

45. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là con có thể sợ là nếu con nhìn nhận nỗi giận của mình thì con sẽ tự lên án mình.

OM AKSHOBYA HUM

46. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là nếu con trước hết loại bỏ ngã phán xét đó, thì con sẽ không phán xét mình đã có nỗi giận. Con có thể nhìn nó một cách trung hòa.

OM AKSHOBYA HUM

47. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết sẽ giúp con tới điểm con thấy trong tấm gương những gì bên trong mình mà không phán xét.

OM AKSHOBYA HUM

48. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là chuyện con đến trái đất như một avatar và tạo ra một ngã giận dữ, là điều không thể tránh vì đây là một hành tinh rất dày đặc.

OM AKSHOBYA HUM

49. Akshobya, con muốn nhìn vào tấm gương mà thày cống hiến, thấy ngã giận dữ và loại nó ra khỏi bốn thể phàm, để cho nó chết đi và được giải thoát khỏi nó trong suốt phần còn lại của cuộc đời.

OM AKSHOBYA HUM

50. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là thày chấp nhận con vô điều kiện và không phán xét con.

OM AKSHOBYA HUM

51. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là thày chỉ mong muốn giải thoát con.

OM AKSHOBYA HUM

52. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là khi con hòa điệu với minh triết của thày, thì con có thể thấy mà không phán xét. Con có thể thấy một ngã mà không thấy qua một ngã khác. Con có thể thấy ngã giận dữ mà không thấy nó qua ngã phán xét.

OM AKSHOBYA HUM

53. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết sẽ giúp con thấy một điều kiện nhị nguyên mà không phán xét nó qua một điều kiện nhị nguyên hay một ngã khác.

OM AKSHOBYA HUM

54. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là không có cách nào vượt lên trên sự giận dữ ngoài cách làm tan biến ngã giận dữ.

OM AKSHOBYA HUM

55. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là khi con đã giải quyết ngã gốc, thì con rất dễ nhìn các ngã giận dữ và khiến chúng tan biến đi.

OM AKSHOBYA HUM

56. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là con đã tới trái đất với một chờ đợi không thiết thực, một ước muốn không thiết thực, một ước muốn quá đáng theo nghĩa đó là một ước muốn bất khả thi, không thể hoàn thành.

OM AKSHOBYA HUM

57. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là con không cần thay đổi người khác vì họ có quyền tự quyết.

OM AKSHOBYA HUM

58. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là con không bị đe dọa bởi sự kiện người khác bác bỏ con, người khác không thay đổi.

OM AKSHOBYA HUM

59. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết sẽ giúp con tới điểm không có trong mình một ngã cảm thấy bứt rứt vì người khác vẫn đang đau khổ.

OM AKSHOBYA HUM

60. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết sẽ giúp con tới điểm con không cần phải thay đổi người khác để giải quyết cảm xúc bên trong chính mình.

OM AKSHOBYA HUM

61. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết sẽ giúp con tới điểm con có thể buông bỏ sự phán xét cho rằng đau khổ là không tốt, và các người đó đáng lẽ không được đau khổ.

OM AKSHOBYA HUM

62. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là trong con có một ngã dựa trên nhận thức mà con có trước khi con tới đây, nhưng nó được tạo ra sau khi con thấy độ dày đặc của hành tinh này và nhận ra là con không thể thay đổi người khác vì họ không đáp ứng lại những gì con làm.

OM AKSHOBYA HUM

63. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là sau khi con cảm thấy bị ruồng bỏ thì con đã tạo ra cái ngã cảm thấy đáng lẽ con không nên tới đây.

OM AKSHOBYA HUM

64. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là mỗi khi con thấy người khác đau khổ, thì con cảm thấy sự bực bội bắt nguồn từ ngã đó.

OM AKSHOBYA HUM

65. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là con dấy lên lòng từ bi trước nỗi khổ đau của người khác nhưng con cảm thấy không thể giúp họ thay đổi để không đau khổ nữa.

OM AKSHOBYA HUM

66. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là điều này khiến con đau khổ vì con cảm thấy việc con tới đây vô nghĩa và cảm nghĩ này củng cố cảm giác bực bội nơi con.

OM AKSHOBYA HUM

67. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là phương pháp tối hậu để giải quyết nỗi giận là thấy được ngã đó, và thấy là cảm giác của con về việc con hiện thân trên trái đất vẫn còn dính liền với người khác và sự khổ đau của họ.

OM AKSHOBYA HUM

68. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là cách con cảm nhận chính mình và việc con xuống đầu thai trên trái đất là dựa trên quyết định là khi người khác còn đau khổ, thì con không thể thoải mái với việc mình ở trên trái đất. Con không thể cho phép mình cảm thấy vui tươi và hạnh phúc khi người khác còn đau khổ.

OM AKSHOBYA HUM

69. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết sẽ giúp con giải quyết tầm nhìn hạn hẹp của con về luật tự quyết, vì con nhận ra là người khác có quyền chọn lựa đau khổ trong một thời gian dài cho tới khi họ chán ngán kinh nghiệm đó và sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời họ.

OM AKSHOBYA HUM

70. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là con vẫn có quyền tự quyết, và việc con trói buộc các chọn lựa của mình vào các chọn lựa của người khác là điều không phải.

OM AKSHOBYA HUM

71. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là, như một đệ tử tâm linh, nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời mình có nghĩa là ngưng không để những chọn lựa của mình bị ảnh hưởng bởi chọn lựa của người khác.

OM AKSHOBYA HUM

72. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết sẽ giúp con ngưng không để các chọn lựa của mình chờ đợi người khác lấy một số chọn lựa.

OM AKSHOBYA HUM

73. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết sẽ giúp con nhận ra là trách nhiệm tối thượng của con là giải thoát quyền tự quyết của mình khỏi ý chí của người khác.

OM AKSHOBYA HUM

74. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết sẽ giúp con tới điểm con có thể lấy chọn lựa cho chính mình mà hoàn toàn không tùy thuộc vào người khác.

OM AKSHOBYA HUM

75. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là con có quyền chọn lựa sống an bình, sống hạnh phúc trên trái đất ngay cả khi người khác vẫn chọn lựa đau khổ.

OM AKSHOBYA HUM

76. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là không có lý do gì để con cảm thấy bực bội khi sống trên trái đất.

OM AKSHOBYA HUM

77. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết sẽ giúp con nhìn cái ngã cảm thấy luật tự quyết sai lầm. Xin thày giúp con buông bỏ nó – để cho nó chết đi.

OM AKSHOBYA HUM

78. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là ở đây không có vấn đề gì cần giải quyết. Con chỉ để cho ngã chết đi.

OM AKSHOBYA HUM

79. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là con có thể để ngã chết đi bằng cách nhìn vào tấm gương, vì Minh triết Như Tấm gương giúp con không những thấy những gì có trong tâm thức mình, mà cũng giúp con thấy là con hơn những ngã đó rất nhiều.

OM AKSHOBYA HUM

80. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết con là cái Ta Biết là một sinh thể vô hình tướng. Do đó con không bị mắc kẹt trong các ngã đó – trừ phi con để cho mình bị mắc kẹt.

OM AKSHOBYA HUM

81. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết con hơn các ngã. Con là Hiện diện TA LÀ ở trên, và nó tự nó xứng đáng tự trong bản chất của nó.

OM AKSHOBYA HUM

82. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là giá trị của con trên trái đất không tùy thuộc các kết quả mà con đạt được trong việc thay đổi người khác.

OM AKSHOBYA HUM

83. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết sẽ giúp con tiến thêm một bước tới gần hơn việc chú tâm vào tiến trình thay vì kết quả.

OM AKSHOBYA HUM

84. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là khi con còn bị mắc kẹt trong các ngã phát xuất từ các chất độc tâm linh, thì con không thể chú tâm vào tiến trình thay vì kết quả.

OM AKSHOBYA HUM

85. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết là con chú tâm vào kết quả vì các ngã phóng chiếu tới con là có một kết quả mà con phải thể hiện.

OM AKSHOBYA HUM

86. Akshobya, xin thày rải truyền Minh triết Như Tấm gương để con có nhận biết đó là một kết quả bất khả thi và con chỉ cần để cho các ngã chết đi, từng ngã một.

OM AKSHOBYA HUM

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

12 | Thỉnh cầu Minh triết Toả khắp (70 đoạn)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Vairochana, hãy giúp con hòa điệu với Minh triết Toả khắp của thày và khắc phục các chất độc, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra cái ta, nhận ra con là ai.

OM VAIROCHANA OM

2. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là tìm hiểu giáo lý tâm linh và hiểu giáo lý bằng trí năng không đủ.

OM VAIROCHANA OM

3. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là con có thể dùng một giáo lý tâm linh để tạo ra một hình thức vô minh mới khi với tâm vỏ ngoài con cảm thấy là con biết giáo lý. Do đó, con không tìm một hiểu biết sâu sắc hơn, hay đúng hơn là một trải nghiệm sâu sắc hơn.

OM VAIROCHANA OM

4. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là giáo lý về cái Ta Biết, khi con trải nghiệm thực tại của nó, chỉ là một khái niệm nhưng cũng hơn một khái niệm.

OM VAIROCHANA OM

5. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là con không thể hoàn toàn thể nhập giáo lý khi con nhìn cái Ta Biết với tâm vỏ ngoài, đặc biệt là tâm trí năng phân tích.

OM VAIROCHANA OM

6. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là con chỉ có thể thấy rõ giá trị của giáo lý khi con trải nghiệm mình là một sinh thể vô hình tướng.

OM VAIROCHANA OM

7. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là khi con có trải nghiệm đó, thì con thấy giá trị của giáo lý, con hoàn toàn thể nhập và áp dụng giáo lý.

OM VAIROCHANA OM

8. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là khi con còn tạo trong tâm khái niệm cái Ta Biết và nhìn nó từ ngoài xa, thì con chưa sử dụng giáo lý.

OM VAIROCHANA OM

9. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là nếu con dùng giáo lý để tạo một khái niệm chứng thực cảm nhận xa cách, thì con đã dùng sai giáo lý – ít ra, nếu con không cố gắng vươn lên hơn nữa.

OM VAIROCHANA OM

10. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là phương châm, châm ngôn, câu đầu môi của người đệ tử tâm linh chân chính là hiểu giáo lý không đủ, con cần trải nghiệm thực tại đằng sau giáo lý.

OM VAIROCHANA OM

11. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là một giáo lý được diễn tả bằng lời nói chỉ là một bảng chỉ đường, một biểu tượng dẫn tới một trải nghiệm vượt quá ngôn từ.

OM VAIROCHANA OM

12. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là chỉ khi nào con có trải nghiệm thì con mới tận dụng được giáo lý.

OM VAIROCHANA OM

13. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là vấn đề vô minh lớn nhất nơi các đệ tử tâm linh là khi chúng con nghĩ rằng giáo lý vỏ ngoài, và hiểu nó bằng tâm vỏ ngoài, là đủ và chúng con không vượt lên trên ngôn từ để tới trải nghiệm.

OM VAIROCHANA OM

14. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là phương châm đầu tiên là: “Vượt quá giáo lý để tới trải nghiệm.” Châm ngôn thực là: “Bao giờ ta cũng có thể trải nghiệm nhiều hơn.”

OM VAIROCHANA OM

15. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là không những thày có thuốc giải, mà thày thuốc giải của chất độc vô minh. Bằng cách hòa điệu với thày, trải nghiệm Hiện diện của thày, thì con có thể khắc phục mọi vô minh.

OM VAIROCHANA OM

16. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là con không ở đây để trải nghiệm thức tỉnh trong một khoảnh khắc. Con tới đây để trải nghiệm thức tỉnh dần dần, thức tỉnh từng bước nhỏ bằng cách nâng tâm thức mình lên đến tầng 144.

OM VAIROCHANA OM

17. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là bất kỳ trải nghiệm nào mà con đang hiện có, lúc nào cũng có nhiều điều khác để trải nghiệm.

OM VAIROCHANA OM

18. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là vô minh giống như bức màn trong tâm khiến con không thể thấy những gì đằng sau nó. Có một bức màn cho mỗi tầng trong số 144 tầng tâm thức.

OM VAIROCHANA OM

19. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là chức năng của một hành tinh có vật chất dày đặc là cho con một ý niệm bản ngã khiến con không thấy một số chuyện.

OM VAIROCHANA OM

20. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là mục đích là để con có thể thăm dò tất cả những gì có thể làm được với tự nhận biết và quyền tự quyết.

OM VAIROCHANA OM

21. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là con trải nghiệm bằng cách tạo ra một cái ngã và trải nghiệm thế gian, cuộc đời và chính mình xuyên qua ngã đó.

OM VAIROCHANA OM

22. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là trên một hành tinh tự nhiên, có một số trải nghiệm mà con không thể có. Do đó sự kiện có hành tinh phi tự nhiên hoàn toàn nằm trong phạm vi quyền tự quyết vì những ai muốn trải nghiệm một ý niệm bản ngã hạn hẹp hơn có thể đầu thai nơi đó.

OM VAIROCHANA OM

23. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là, nói một cách tổng quát, vô minh có mặt khi con có rào cản ngăn chặn những gì con có thể thấy, có thể biết, có thể trải nghiệm.

OM VAIROCHANA OM

24. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là con tạo ra một ngã hạn hẹp bằng cách khoác vào các ảo tưởng, dựng lên rào cản trong tâm mình, để có một số chuyện con không thể thấy.

OM VAIROCHANA OM

25. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là luật tự quyết cho phép con đi hết những gì con có thể tưởng tượng trên con đường giới hạn ý niệm bản ngã của mình.

OM VAIROCHANA OM

26. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là con sẽ trải nghiệm các hậu quả của chọn lựa của mình khi ánh sáng Mẫu-Vật biểu hiện những gì con phóng chiếu lên nó xuyên qua ý niệm bản ngã của con. Con cũng sẽ trải nghiệm chính mình.

OM VAIROCHANA OM

27. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là khía cạnh omega của việc là người đồng-sáng tạo, là con có quyền tự quyết. Khía cạnh alpha là con có tự nhận biết.

OM VAIROCHANA OM

28. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là bất kể loại ngã nào mà con tạo ra, con không thể hoàn toàn mất tự nhận biết. Con có thể giới hạn nó, con có thể giới hạn khía cạnh tự, nhưng con vẫn sẽ có một hình thức nhận biết.

OM VAIROCHANA OM

29. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là con không chỉ trải nghiệm những gì Ánh sáng Mẫu-Vật biểu hiện những gì con phóng chiếu lên nó qua cái ngã, con cũng trải nghiệm chính mình xuyên qua ngã đó.

OM VAIROCHANA OM

30. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là khi cái Ta Biết được tạo ra, nó không biết nó phải làm gì với chính nó trong tư cách một sinh thể không hình tướng.

OM VAIROCHANA OM

31. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là con cần trải nghiệm hành trình trầm mình vào một hình thức ngã hạn hẹp và sau đó dần dần thức tỉnh.

OM VAIROCHANA OM

32. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là chỉ khi con đã trải qua tiến trình trầm mình và thức tỉnh, thì con mới có thể hoàn toàn chấp nhận mình là một sinh thể vô hình tướng.

OM VAIROCHANA OM

33. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là chỉ khi con trải nghiệm trở lại mình là một sinh thể vô hình tướng, và hoàn toàn chấp nhận mình là một sinh thể vô hình tướng, thì con mới có thể thăng thiên.

OM VAIROCHANA OM

34. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là ý niệm cái Ta Biết là con thăm dò các lãnh vực của quyền tự quyết cho tới khi con chán ngán những trình độ biểu hiện quyền tự quyết có thể có trong một bầu cõi chưa thăng thiên – và sau đó con thăng thiên.

OM VAIROCHANA OM

35. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là sau khi con thăng thiên, Hiện diện TA LÀ của con có một tầm nhìn hoàn toàn khác sau khi đã gửi một phần của chính nó vào bầu cõi chưa thăng thiên, tầm nhìn này nó không thể có nơi cõi thăng thiên.

OM VAIROCHANA OM

36. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là con người trên trái đất vô minh vì họ vẫn ở trong giai đoạn trầm mình.

OM VAIROCHANA OM

37. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra liệu con có đến trái đất như một avatar. Khi con tới trái đất, con có trong tâm ý tưởng là con đến đây để giải thoát con người khỏi khổ đau, khỏi vô minh.

OM VAIROCHANA OM

38. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là trước khi con tới đây, con nghĩ là con người bị mắc bẫy trong vô minh, và con cần đến đây để giúp họ giải thoát khỏi vô minh.

OM VAIROCHANA OM

39. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là trước khi con thăng thiên như một avatar, con cần khắc phục ý muốn đó, con cần làm hòa với luật tự quyết.

OM VAIROCHANA OM

40. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là con cần làm hòa với sự kiện con người có quyền chọn lựa ở trong một ý niệm bản ngã giới hạn những gì họ có thể thấy. Con không ở đây để thay đổi trải nghiệm của họ, để ép buộc họ phải thay đổi. Con ở đây để cho họ một khung tham chiếu.

OM VAIROCHANA OM

41. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là khi con còn duy trì ý tưởng là con ở đây để tạo thay đổi hay để áp đặt thay đổi lên trái đất, thì con không thể là Phật cũng như là Ki-tô Hằng sống.

OM VAIROCHANA OM

42. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là khi con bị chấn thương nhập đời và tạo ra ngã gốc và các ngã khác, thì các ngã đó đã được tạo ra trong vô minh.

OM VAIROCHANA OM

43. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là khi con còn hành động xuyên qua ngã gốc và các ngã tách biệt khác, thì con là người mù đang tìm cách dắt người mù.

OM VAIROCHANA OM

44. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là khi con vẫn còn bị mù quáng bởi một ngã phản ứng lại các điều kiện con trải nghiệm trên trái đất, thì con không thể thoát khỏi các điều kiện thế gian. Nếu con không giải thoát khỏi điều kiện thế gian, thì làm sao con giúp người khác giải thoát?

OM VAIROCHANA OM

45. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là con đang tìm cách nâng họ ra khỏi trạng thái vô minh của họ và mang vào trạng thái vô minh của con. Đây không phải là cách hành xử của Phật.

OM VAIROCHANA OM

46. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra Phật là người, trước tiên, cải sửa chính mình để khắc phục vô minh mà con khoác vào sau khi con tới trái đất.

OM VAIROCHANA OM

47. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là như một avatar đầu thai xuống trái đất, để có thể làm tấm gương cho người khác noi theo, thì con phải trầm mình vào trái đất. Con làm việc này bằng cách tạo ra ngã gốc.

OM VAIROCHANA OM

48. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là con không thể trải nghiệm, khi ở trên hành tinh tự nhiên, thế nào là sống trên một hành tinh phi tự nhiên. Con phải đầu thai xuống hành tinh phi tự nhiên để có thể trải nghiệm điều đó, và kinh nghiệm đó sẽ cho con một cú sốc.

OM VAIROCHANA OM

49. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là con không có lý do gì để hối tiếc những gì đã xảy ra. Con chỉ cần nhận ra là khi nào con thức tỉnh khỏi những ảo tưởng của ngã gốc, thì con mới có thể hoàn thành mục tiêu mà con có khi con xuống hành tinh này. Con không thể là Ki-tô hành động, con không thể là Phật hành động. Con không thể đem lại ánh sáng, con không thể là tấm gương, con không thể cho con người một khung tham chiếu. Con không thể giúp họ thoát khỏi vô minh vì con bị mắc kẹt trong hình thức vô minh của chính mình.

OM VAIROCHANA OM

50. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là ngã gốc cho phép con quên đi cú sốc ở trên trái đất. Cú sốc lớn đến độ nó khiến con nghĩ: “Tạo sao tôi lại tới hành tinh này?” Điều này khiến con bất an nhưng lúc đó con không có câu giải đáp, và do đó con đã tạo ra ngã gốc như một bức màn để che khuất tình trạng khó xử.

OM VAIROCHANA OM

51. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là khi con còn nhìn cuộc sống trên trái đất xuyên qua ngã gốc, thì con không thấy cú sốc, con không thấy chấn thương.

OM VAIROCHANA OM

52. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là chấn thương vẫn còn đó, và đó là lý do vì sao con không thể hoàn thành mục tiêu khiến con tới đây trừ khi con dùng kinh nghiệm cao hơn mà con đạt được trên trái đất, và sự tăng trưởng mà con đã đạt được ở đây để đi trở về chấn thương nhập đời, nhìn nó và làm hòa với sự việc con ở trên trái đất bằng cách của riêng con.

OM VAIROCHANA OM

53. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là trước khi con xuống đây như một avatar, con có trong tâm một lý do khiến con muốn tới đây. Khi con xuống đây và trải nghiệm đời sống ở đây như thế nào, thì con bắt đầu hoài nghi lý do đó.  

OM VAIROCHANA OM

54. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là con cần đi trở về, nhìn lý do khiến con tới đây và giải đáp tình trạng khó xử mà con phải chạm trán khi ở đây.

OM VAIROCHANA OM

55. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con thấy lý do khiến con tới đây dưới một ánh sáng mới. Xin thày giúp con thấy là một số khía cạnh của lý do khiến con tới đây dựa trên ham muốn quá đáng.

OM VAIROCHANA OM

56. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là con cần buông bỏ nó, từ bỏ nó, quẳng nó đi để con không còn dính mắc vào những gì con hoàn thành hay không hoàn thành trên trái đất.

OM VAIROCHANA OM

57. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là con không thể nào tạo được kết quả mà trước khi con đến đây con nghĩ con có thể hoàn thành.

OM VAIROCHANA OM

58. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để cho con nhận biết sẽ tiêu trừ nỗi bất toại nguyện, và giúp con làm hòa với sự kiện là con tới đây để tăng trưởng, và đây là cách nhanh chóng nhất giúp con tăng trưởng, khi con có tâm thái trước khi con xuống đây.

OM VAIROCHANA OM

59. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để cho con nhận biết giúp con làm hòa với việc con đã tới đây, đã sống ở đây, đang ở đây ngay lúc này.

OM VAIROCHANA OM

60. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là nếu con chưa làm hòa với việc mình tới đây, và mình đang ở đây, thì con không thể làm hòa với việc rời khỏi nơi này vì con nghĩ còn chuyện gì đó con cần thành tựu mà con chưa thành tựu.

OM VAIROCHANA OM

61. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là khi con xuống đây như một avatar, đó là vì con có ước muốn tăng trưởng lớn lao và điều này có nghĩa con không thể để chuyện gì dang dở, chưa hoàn thành.

OM VAIROCHANA OM

62. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là nếu như một avatar con đã định cho mình một mục đích ở tầng thấp, thì con nghĩ mục đích đó phải được hoàn thành trước khi con đi bước tiếp.

OM VAIROCHANA OM

63. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để cho con nhận biết giúp con đạt được một tầng trưởng thành hơn như một avatar, và nhận ra là mục đích của con không phải là mục đích cao nhất. Nó không thực sự biểu đạt con người mà con là.

OM VAIROCHANA OM

64. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là khi con từ bỏ mục đích đó, thì con thấy một mục đích cao hơn. Con thấy mục đích cao nhất luôn luôn là tăng trưởng sự tự nhận biết.

OM VAIROCHANA OM

65. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để cho con nhận biết giúp con làm hòa với việc giá trị của con dựa trên con người mà con là, dựa trên Hiện diện TA LÀ thay vì dựa trên những thành đạt, cho dù những thành đạt này được tạo ra trên trái đất hay trên một hành tinh tự nhiên.

OM VAIROCHANA OM

66. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là những thành đạt của con trong bầu cõi chưa thăng thiên này không quy định giá trị của con. Con người mà con là mới quy định giá trị của con.

OM VAIROCHANA OM

67. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra đây là một hình thức vô minh đặc trưng mà con có trước khi con tới đây. Con không hoàn toàn nắm bắt và chấp nhận là con có giá trị vì con là chính mình chứ không phải do những gì con làm.

OM VAIROCHANA OM

68. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra đây là một thách thức rất vi tế cho các người đồng-sáng tạo vì khi con khởi sự, con nghĩ giá trị của con như một người đồng-sáng tạo dính liền với những gì con đồng-sáng tạo, những kết quả mà con tạo ra.

OM VAIROCHANA OM

69. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra đây là lúc con cần bước lên một tầng cao hơn và bắt đầu giải thoát mình khỏi ý niệm giá trị của mình dính liền với kết quả tạo ra.

OM VAIROCHANA OM

70. Vairochana, xin thày lan tỏa Minh triết Toả khắp để giúp con nhận ra là con cần tới điểm con có thể vui hưởng tiến trình đồng-sáng tạo thay vì kết quả của việc đồng-sáng tạo

OM VAIROCHANA OM

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

10 | Thỉnh cầu viễn quan biểu lộ quả vị Ki-tô (5 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Giê-su, hãy giúp con khắc phục mọi ảo tưởng đang ngăn cản con biểu lộ quả vị Ki-tô, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con có trở nên quá nhiệt thành, quá bất quân bằng trong nhiệt tâm muốn làm một cái gì, khiến con đã hành động một cách bất quân bằng, khác cách hành xử của Ki-tô hành động.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con có một ngã rất quan tâm không muốn bị sai, và một khi nó đã tự thuyết phục là nó làm đúng, thì nó rất ngần ngại xem xét mình có thể bị sai.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy là rất khó giúp những người hoàn toàn tin chắc họ là người tốt và đã làm nhiều điều tốt.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.4. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là sa nhân đã khiến con cảm thấy là con đã làm một việc gì rất sai trên trái đất đến độ con không bao giờ có thể chuộc lại lỗi đó. Xin thày giúp con thấy là con tạo ra một ngã tách biệt, được lập trình để con chắc chắn không bao giờ bị chứng minh là mình sai.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.5. Giê-su, xin thày giúp con thấy là ngã đó đã khiến con xây dựng động lượng làm những chuyện mà con cho là đúng, bằng cách lúc nào cũng làm chuyện được quy định là đúng bởi nền văn hóa hay bởi tôn giáo của con.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi con đứng trước cổng vào cõi thăng thiên thì con phải lấy chọn lựa tự do đi qua cổng đó. Cái Ta Biết của con chỉ có thể lấy một chọn lựa tự do khi con không còn bất cứ ngã nào tô màu viễn quan của con.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy là cái ngã được lập trình để khiến con cảm thấy mình không bao giờ sai đang ngăn cản con thăng thiên. Con không thể thăng thiên nếu con không buông bỏ nó, và con không thể buông bỏ nó nếu con chưa nhìn thấy nó. Con không thể nhìn thấy nó nếu con quá sợ thấy điều gì sai trong con người mình.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi con còn cái ngã không bao giờ muốn bị chứng minh nó sai, thì con không thể thực sự chấp nhận tình thương và sự chấp nhận của thày. Con sẽ luôn luôn sợ mình sai, con không thể thăng vượt nỗi sợ đó nếu con vẫn còn cái ngã không thể chất vấn lập trình cơ bản đã tạo ra nó.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi con còn nhìn mình xuyên qua phin lọc của ngã đó thì con cũng không thể chất vấn lập trình đó. Xin thày giúp con, như cái Ta Biết, bước ra ngoài ngã đó và nhận ra có hai điều ngăn cản con thăng thiên.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 2

2.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy điều thứ nhất ngăn cản con thăng thiên là con ở trong trạng thái tâm rất tiêu cực, vị kỷ, ích kỷ. Điều kia là con là một người tốt muốn giữ hình ảnh đó đến độ con không chịu chất vấn là trong con có thể có cái gì không cho phép con bước vào trạng thái thăng thiên.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.2. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là khi con nhìn mình xuyên qua ngã đó thì con nghĩ là nếu trong con có cái gì không đúng, thì nó chắc hẳn phải sai. Tức là điều này phải có nghĩa là con sai, và do đó con không thể nhìn nó.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.3. Giê-su, xin thày giúp con phá bế tắc bằng cách cho cái Ta Biết cảm hứng bước ra ngoài ngã đó và thấy nó chỉ là một cái ngã. Nó chỉ là cái ngã tin rằng con sẽ tự động vào thiên đàng khi con làm các việc tốt. Nó chỉ là một cái ngã, và như tất cả các ngã, nó dựa trên một ảo tưởng.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.4. Giê-su, xin thày giúp con, như cái Ta Biết, nhận ra là ngã đó không phải là con. Xin thày giúp con nhận ra là con không thể mang ngã đó theo con vào cõi thăng thiên vì con không mang nó theo con khi con xuống trần thế.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.5. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là người tốt, nghĩ mình tốt và đã luôn luôn tốt, có thể là một trở ngại cho việc thăng thiên. Nếu con còn muốn làm điều tốt dựa trên ngã đó, thì con không thể là Ki-tô hành động.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con có đang muốn làm điều tốt để tránh không bị chứng minh mình sai. Xin thày giúp con thấy là hành động của con trụ chung quanh ngã thấp đó, không phải chung quanh cái ta thật của con. Nó là động cơ thúc đẩy con hành động, không phải là tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.7. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là con đã là Ki-tô hành động ở một mức nào đó, và con đã là Ki-tô hành động trong kiếp sống này. Xin thày giúp con ý thức điều này và thấy là con không phải lúc nào cũng là Ki-tô hành động.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con đã tạo ra một cái ngã nghĩ rằng con chỉ có thể được cứu rỗi khi con đạt được một tiêu chuẩn gần như siêu nhân. Ngã đó nghĩ rằng khi con chưa hội đủ chuẩn mực đó, hay con không hội đủ tiêu chuẩn trong mọi lúc, thì con không thể là Ki-tô.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy việc Ki-tô đầu thai vào cõi trần có nghĩa là tâm thức Ki-tô có thể được biểu đạt xuyên qua một cỗ xe chưa hoàn toàn sạch những ngã tách biệt. Khi cái Ta Biết có khả năng bước ra ngoài ý niệm bản ngã hiện tại của con, thì con có thể là cánh cửa mở để tâm thức Ki-tô tự biểu lộ xuyên qua con.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 3

3.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy con là Ki-tô hành động khi con là cánh cửa mở biểu hiện cái gì vượt quá trạng thái nhận biết bình thường của đa số con người, tỷ dụ như trao tặng người khác món quà của sự chấp nhận.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy là chìa khóa để mở tâm, để là dụng cụ cho tâm thức Ki-tô biểu hiện, là không chờ mong và không có định kiến là Ki-tô phải biểu hiện hay không được biểu hiện như thế nào.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con có dùng giáo lý các thày để củng cố một ngã vỏ ngoài là một hậu duệ của ngã gốc. Xin thày giúp con thấy mọi hình ảnh cố định về thế nào là Ki-tô hành động cho riêng con cũng như là về thày khi thày hiện thân trên thế gian.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.4. Giê-su, xin thày giúp con, như cái Ta Biết, nhìn tâm mình và thấy các định kiến và chờ đợi Ki-tô phải như thế nào và không được như thế nào.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.5. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con có một ngã có ý phán xét Ki-tô Hằng sống phải như thế nào. Nếu con cảm thấy là cách Thánh linh biểu hiện phải tuân theo chuẩn mực của con, chuẩn mực mà con có trong ngã đó, thì Thánh linh sẽ không thể tuôn chảy.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy là Thánh linh không tuôn chảy theo ý kiến, chờ mong và chuẩn mực của con người. Thánh linh luôn luôn tuôn chảy, nó chỉ cần một khe mở thì nó sẽ biểu hiện trong bát cung vật lý.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.7. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm con bắt đầu là cánh cửa mở rộng hơn và con không cảm thấy bắt buộc phải biểu lộ quả vị Ki-tô. Con không cảm thấy bị bắt buộc làm điều này, con không sợ làm điều này, con không quan tâm về điều này. Con để nó xảy ra.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.8. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là khi con để nó xảy ra, khi con ở trong trạng thái tâm trung hòa, thì dòng chảy sẽ có mặt và con không có các quan tâm là con có đang làm đúng hay không, làm như vậy có được không, hay có tốt đủ không.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con sẽ bị cám dỗ phân tích khi con cảm thấy dòng chảy của Tánh linh xuyên qua con. Xin thày giúp con dùng điều đó như một cơ hội để nhận ra là có một ngã vỏ ngoài khác đang tạo phản ứng đó nơi con. Xin thày giúp con nhận diện ngã đó, tách mình ra khỏi nó và để nó chết đi.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 4

4.1.Giê-su, xin thày giúp con tới điểm con bắt đầu mở tâm hơn để đón nhận dòng chảy của Ki-tô, và tất cả các mối quan tâm con có đang làm đúng hay không sẽ tan biến đi. Xin thày giúp con nhận ra là: “Chuyện đã xảy ra như nó đã xảy ra.”

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.2. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là không thể có biểu hiện Ki-tô tối hậu và tuyệt đối, vì lý do giản dị là trái đất là một hành tinh phi tự nhiên. Một biểu hiện của Ki-tô lúc nào cũng xảy ra trong một tình huống cá biệt. Nó được biểu lộ cho con người ở một tầng tâm thức nào đó. Nó không có mục đích nâng con người lên tầng tâm thức cao nhất, nó chỉ có mục đích nâng con người lên tầng tâm thức kế tiếp.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi có bất cứ biểu lộ Ki-tô nào trên thế giới, thì tâm phản-Ki-tô có thể xem nó, phân tích nó và tìm thấy lỗi nơi nó. Xin thày giúp con nhận ra là ngoài các ngã của con, còn có động lượng ở cấp hành tinh của phản-Ki-tô lúc nào cũng tìm cách xen vào và thách thức mọi biểu hiện của Ki-tô, và tìm cách hạ thấp nó.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy là các lực phản-Ki-tô muốn gieo nghi ngờ vào tâm con để con nghi ngờ khả năng làm dụng cụ của Ki-tô trong tương lai, và quyết định khóa tâm lại hay áp đặt một chuẩn mực vỏ ngoài lên Ki-tô.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.5. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là lực phản-Ki-tô này có khả năng phóng đại hay sử dụng bất cứ ngã nào mà con có. Xin thày giúp con thấy là dù con đã khắc phục được các ngã trong bốn thể phàm của con, lực này vẫn có thể phóng chiếu tới con từ bên ngoài. Xin thày giúp con nhận ra lực này, biết nó có mặt, và nó sẽ luôn luôn phóng chiếu vào con.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.6. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là con không cần làm gì cả. Con không cần tự bảo vệ mình. Con không cần tìm cách phản bác nó. Con không cần tìm cách trả lời các câu hỏi được nêu lên từ trạng thái tâm này vì các câu hỏi này không bao giờ có giải đáp. Con chỉ cần nhận biết là lực đó có mặt, nhận ra nó như nó là và để nó đi xuyên qua con.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.7. Giê-su, xin thày giúp con tạo thói quen quay về hướng thày, hình dung là con để cho nó đi xuyên qua con, chú tâm vào thày và nói: “Chuyện ấy quan hệ gì tới con, con hãy theo thày.”

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.8. Giê-su, xin thày giúp con tìm ra thăng bằng tế nhị vì con không muốn nghĩ con không thể sai lầm và nhận ra là đôi khi con cần chú ý đến phản hồi của người khác. Xin thày giúp con học phân biện trường hợp một người phát biểu mối quan tâm của họ, và trường hợp lời chỉ trích đến từ tâm phản-Ki-tô.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.9. Giê-su, xin thày giúp con không phân tích mình quá đáng. Xin thày giúp con là cánh cửa mở, giữ tâm trung hòa, ở trong trạng thái tâm trung hòa để Tánh linh tự biểu lộ. Xin thày giúp con không đóng tâm mình nhưng cũng không phân tích quá đáng vì như vậy sẽ mất đi tính linh động tự phát.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 5

5.1. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra rằng bất kể hình thức Ki-tô nào mà con có thể thể hiện đều không sai trái. Rất có thể là có một cách thể hiện Ki-tô cao hơn, nhưng điều này không có nghĩa cách con thể hiện là sai.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy là dù con đã làm tan biến một ngã nào đó, con cần lấy quyết định một cách ý thức: “Tôi sẽ không tham dự vào chuyện này nữa, tôi sẽ còn không chú tâm tới nó nữa. Tôi chú tâm là cánh cửa mở và tôi cho phép người khác phản ứng bất cứ cách nào họ muốn.”

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy ý muốn giúp đỡ người khác có thể là một trở ngại trên đường quả vị Ki-tô. Xin thày giúp con tới điểm con không phản ứng lại người khác. Con quan sát, con học hỏi từ những gì con quan sát nhưng con không phản ứng.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.4. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm con không cảm thấy phải thay đổi chính mình dựa trên phản ứng của người khác. Con nhìn nhận là phản ứng của họ là sản phẩm của trình độ tâm thức của họ, kể cả những ngã mà họ chưa giải tỏa.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.5. Giê-su, xin thày giúp con thấy là một số người sẽ tới con với một ngã chưa được giải tỏa và ngã này pha màu cách họ nhìn con đường tâm linh. Họ muốn con công nhận giá trị của ngã đó, và có khi họ giận dữ khi con không công nhận cái ngã mà họ không chịu tách rời và buông bỏ.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.6. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm con không tìm cách là Ki-tô dựa trên một cảm nhận xa cách, dựa trên một khoảng cách. Xin thày giúp con khắc phục cảm nhận con “ở đây” và Tánh linh ở “trên kia”. Xin thày giúp con khắc phục cảm nhận tách biệt.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.7. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm không có cấu trúc nào trong tâm khiến con nghĩ là con phải hành xử như thế nào khi con là Ki-tô Hằng sống. Con không nhìn sự việc qua tâm trí, con chỉ giản dị trải nghiệm là có khe mở, và con trải nghiệm dòng chảy đang xảy ra.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi không có khoảng cách, thì không có chỗ để tâm thức của con, tâm thức của người khác và tâm thức sa ngã xen vào tiến trình. Xin thày giúp con thấy là trách nhiệm của con là giữ mình trung hòa. Giữ người khác trung hòa không phải là trách nhiệm của con. Trách nhiệm của con là trao món quà, con không có trách nhiệm cách người khác nhận nó.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy cách con có thể dùng mạng Internet để biểu lộ quả vị Ki-tô và dùng giáo lý chân sư thăng thiên vào lãnh vực chuyên môn của con, là lãnh vực mà con đã quy định trong Sứ vụ Thiêng liêng của kiếp sống này.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

8 | Thỉnh cầu thu hẹp khoảng cách (5 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Chân sư MORE, hãy giúp con khắc phục mọi ảo tưởng đang ngăn cản con chấp nhận tiết lộ tuần tự bằng cách khiến con bám chặt vào một số ý tưởng và niềm tin, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy liệu con có đã chứng đạt các khai ngộ của thời Song ngư. Xin thày giúp con tự giải thoát mình khỏi ách thống trị và nô lệ của sa nhân.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là cách duy nhất con giải thoát mình khỏi sa nhân là đạt được tâm thức Ki-tô.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là khi con trải nghiệm chứ không chỉ hiểu tâm thức Ki-tô thì con có được một khung tham chiếu. Con có thể so sánh với tảng đá Ki-tô tất cả các dối trá và ảo tưởng được phóng tới con, được sa nhân lập trình vào tiềm thức của con.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.4. Chân sư MORE, xin thày hãy giúp con noi theo gương của Giê-su, tin tưởng Giê-su, làm công việc mà Giê-su đã làm và sau cùng làm những công việc to lớn hơn những gì Giê-su đã làm.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là sẽ có tiết lộ tuần tự trong suốt hai ngàn năm tới của thời Bảo bình. Do đó, nghĩ rằng có một giáo lý tối hậu, tuyệt đối hay chung cuộc là chuyện hão huyền.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là không có con đường máy móc, tự động dẫn tới quả vị Ki-tô. Không thể vạch ra một con đường tu có thể bảo đảm kết quả.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là khi các thày bắt đầu trao truyền giáo lý về một con đường khai ngộ, thì nhiều người đã diễn giải theo những gì họ được lập trình để nghĩ trong thời Song ngư, là nếu họ theo con đường khai ngộ đó một cách nghiêm túc, thì họ sẽ bảo đảm đạt được kết quả.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là con không thể quy định Ki-tô Hằng sống phải cư xử hay không được cư xử như thế nào. Con không thể chế ra một định nghĩa nói rằng: Ki-tô Hằng sống như thế này, đây là những điều mà Ki-tô Hằng sống làm, và đây là những điều Ki-tô Hằng sống không làm.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là con người muốn một con đường tu máy móc vì họ không muốn làm điều mà Giê-su đã dạy họ: Hãy nhìn vào cái đà trong mắt mình thay vì nhìn vào cái giằm trong con mắt người anh em.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 2

2.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là khai ngộ cốt yếu của thời Song ngư là con người cần ngưng nhìn vào cái giằm trong mắt người anh em và thay vào đó bắt đầu nhìn vào cái đà trong con mắt mình.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là con có một cái ngã đang phóng chiếu là vấn đề ở ngoài kia, và nguyên do đau khổ của con là điều kiện bên ngoài. Xin thày giúp con nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời mình, nhìn vào phản ứng của mình.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là các phản ứng của con phát xuất từ một cấu trúc nào đó trong tâm lý của con. Xin thày giúp con tiếp tục làm công việc quán sát nội tâm, một cách hoàn toàn chân thành, cho đến khi con thấy điều đang giới hạn con và có thể buông bỏ nó.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là các chân sư không thể vạch ra một giáo lý bảo đảm kết quả vì luôn luôn có một khoảng cách. Khoảng cách đó do con người tiếp cận giáo lý một cách máy móc thay vì nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời của mình.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy con có các ngã cảm thấy bực bội vì trong nội tâm con biết con không tiến bộ như con đáng lẽ phải tiến bộ, nhưng đồng thời con cũng quan sát là con vẫn tiến hơn những người chung quanh con.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy và buông bỏ cái ngã có nhu cầu được chứng thực là con có trình độ cao hơn người khác.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy và buông bỏ cái ngã có nhu cầu cảm thấy con đang làm chuyện gì quan trọng trên hành tinh này.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy và buông bỏ cái ngã cảm thấy kiêu hãnh tâm linh và có nhu cầu cảm thấy con là một đệ tử cao cấp bằng cách so sánh với người khác.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy và buông bỏ cái ngã nghĩ rằng nếu con đọc đủ số bài chú, thì con không thực sự cần xem xét tâm lý của mình. Xin thày giúp con chứng đạt các khai ngộ của thời Song ngư và neo chặt con vào con đường nội tâm tự quán sát.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 3

3.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy và buông bỏ cái ngã rất phán xét người khác dựa trên một cấu trúc vỏ ngoài gồm một số quy luật và luật lệ, thậm chí gồm cả khái niệm con đường khai ngộ, hay hình ảnh về cách một đệ tử chân sư thăng thiên phải hành xử.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con hoàn toàn chấp nhận là tuân theo các quy luật vỏ ngoài và nghi thức một cách sùng kính, thậm chí là một cách cuồng tín hay như đang bị bệnh loạn thần ám ảnh và cưỡng bức, sẽ không tự động dẫn tới tiến bộ.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy và buông bỏ cái ngã nghĩ rằng vì con đã chăm chỉ làm theo những nghi thức vỏ ngoài, nên con đã đạt được một cấp bậc uy quyền nào đó, có khả năng phán xét người khác và có uy quyền để nói lên sự phán xét đó.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhìn vào thời Song ngư và thấy biết bao tổ chức tâm linh có mô thức phán xét người khác dựa trên một số tiêu chuẩn được quy định trên trái đất, do sa nhân quy định.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con thật sự chấp nhận là con đường quả vị Ki-tô không máy móc. Điều quan trọng là bước vào con đường nội tâm. Một khi con đã bước vào con đường nội tâm, thì con vượt lên trên mối lo có thể trượt thử thách. Nếu con quan sát phản ứng của mình, thì con không thể trượt thử thách.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là khi con sẵn lòng quan sát chính mình thì con đã đi trên con đường nội tâm, và vấn đề chỉ là con tiến triển bao nhiêu và đi nhanh chừng nào.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con dùng giáo lý để tự giải thoát khỏi cái ngã phản ứng và neo chặt vào con đường quả vị Ki-tô. Xin thày giúp con thấy điều kiện chính yếu để là Ki-tô Hằng sống là con không phản ứng lại những chuyện xảy ra trên thế gian.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con làm hòa với kinh nghiệm giáp mặt với một số tổ chức tâm linh và một số người có tâm rất phán xét. Xin thày giúp con nhận ra là con đã tạo ra một cái ngã để đối phó với sự phán xét của người khác, sự lên án của người khác.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận diện ngã đó và nhận ra cách mà con đã tạo ra cho riêng mình để đối phó và cảm nhận sự phán xét của người khác. Xin thày giúp con thấy niềm tin đằng sau phản ứng của con.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 4

4.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con dõi lên thể bản sắc và thấy là nó phát xuất từ ngã gốc, và con đã phản ứng ra sao khi sa nhân chê bai con. Xin thày giúp con nhận diện ngã đó và tách mình ra khỏi nó.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là bất kể vấn đề nào mà ngã đó nêu lên là con cần giải quyết, hay bất kể điều kiện nào mà con cần hội đủ để tránh bị phán xét, chúng đều không thật, đều là ảo tưởng. Ngay cả khi con hội đủ điều kiện, sa nhân sẽ vẫn kết tội con.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con đi một bước rất quan trọng và không coi cá nhân mình là trọng điểm của con đường tu. Xin thày giúp con thấy là sa nhân đã kết tội con rất mãnh liệt, và điều này đã khiến con tạo ra ngã gốc, là một ngã đặt trọng tâm vào cá nhân mình.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là con chuyển từ không đặt trọng tâm vào cá nhân mình trên hành tinh tự nhiên, sang bị chấn thương trên trái đất, và nay con nhìn cuộc đời mình qua một ngã một cách rất cá nhân.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là trên một hành tinh tự nhiên, ý niệm bản ngã của con rất bao la, nhưng trên một hành tinh phi tự nhiên con bị dồn vào một ý niệm bản ngã rất hạn hẹp coi mình là trung tâm của vũ trụ cá nhân của mình. Con nhìn mọi chuyện từ trung tâm điểm đó, con từ trung tâm điểm đó nhìn ra bên ngoài.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là cuộc sống trở nên cá nhân trên hành tinh này. Bỗng nhiên, con nghĩ là có thể con đã thất bại, có thể con đã làm điều gì sai trái trên hành tinh này. Ngã gốc được tạo dựng chung quanh nỗi sợ thất bại, và đó là lý do vì sao con coi cá nhân mình là trọng tâm khi tiếp giáp mọi sự việc.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy và giải quyết ngã gốc, để con có thể ngưng coi cá nhân mình là trọng tâm của cuộc đời mình trên trái đất. Xin thày giúp con nhìn vào cuộc đời trên trái đất và nói: “Ấy, tôi sẽ chỉ cần xây một lâu đài cát khác, hay tôi sẽ chỉ phá lâu đài cát cũ và bãi cát sẽ trở về trạng thái tinh khôi của nó.”

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là bất cứ mọi chuyện con làm trên trái đất đều giống như dùng gậy đánh vào mặt nước. Con có đánh mạnh đến đâu, thì mặt nước sẽ vẫn trở về trạng thái tĩnh lặng. Xin thày giúp con thấy là chúng ta đang bước vào thời Bảo bình. Xin thày giúp con giống như nước và đạt được các khai ngộ của thời Bảo bình.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhìn vào ngã đó và thấy cách con phản ứng lại sự phán xét. Xin thày giúp con cho ngã đó chết đi, để cuộc đời không còn xoay quanh cá nhân con nữa. Xin thày giúp con thấy là không có lý do nào để phán xét chính mình vì các thày không phán xét con. Xin thày giúp con trải nghiệm sự chấp nhận vô điều kiện mà các thày dành cho con.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 5

5.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy liệu con có khuynh hướng phán xét mọi việc chăng. Xin thày giúp con thấy không phải con đang phán xét, mà là một cái ngã tách biệt. Con đã tạo ra ngã đó khi sa nhân khiến con phải chịu chấn thương nhập đời.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.2. Chân sư MORE, con sẵn lòng đón nhận giáo lý và dùng các dụng cụ tâm linh. Xin thày giúp con tách mình ra khỏi cái ngã đó và nói: “Đúng rồi, tôi nhìn nhận là chuyện này đáng lẽ không được xảy ra, nhưng nó đã xảy ra, tuy nhiên thực sự không phải là tôi đã làm chuyện đó, mà là cái ngã tách biệt và bây giờ tôi biết tôi hơn ngã tách biệt đó. Do đó, tôi có thể tách mình ra khỏi nó, nhìn vào nó và nói: ‘Tôi cho bạn chết đi.’”

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là con không cần bù đắp vì đã có tâm phán xét. Con không cần thay đổi gì nơi vỏ ngoài hay chỉnh sửa điều gì hay giải quyết vấn đề nào. Con chỉ cần nhận diện ra cái ngã và để nó chết đi. Tất nhiên, con cũng cần đọc một số bài chú để chuyển hóa năng lượng đã bị tha hóa xuyên qua ngã đó.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con thực sự chấp nhận là tất cả các đệ tử chân sư thăng thiên đều có một lối thoát nếu họ muốn được giải thoát. Con có thể khắc phục mọi chuyện vì mọi chuyện mà con đã làm đều được làm xuyên qua một ngã tách biệt. Khi con cho ngã đó chết đi thì con được tái sinh, con là một sinh thể mới trong Ki-tô.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là con có thể vẫn còn một số ngã tách biệt khác, nhưng mỗi lần con rũ bỏ một cái ngã thì con được tái sinh vào một ý niệm bản ngã cao hơn. Xin thày giúp con thấy là các chân sư thăng thiên mong muốn thấy con đi vào tiến trình tái sinh liên tục.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy liệu con có một cái ngã đang nhìn vào mục tiêu đạt quả vị Ki-tô và thấy nó ở trên kia, trong khi con ở dưới này, có một khoảng cách giữa nơi con đang là và nơi con phải là, và ngã đó không thấy làm sao thu hẹp khoảng cách.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là con không thể giải quyết bất cứ vấn đề nào mà ngã tách biệt phóng chiếu tới con – con chỉ có thể cho ngã đó chết đi. Con không thể bước vào con đường quả vị Ki-tô khi con còn tìm cách làm việc này xuyên qua một trong các ngã phản ứng đó. Con không thể là Ki-tô xuyên qua một ngã đang phản ứng lại sa nhân.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con khắc phục các ngã đó và bớt coi cuộc đời xoay quanh cá nhân mình, để con không đi trên con đường Ki-tô để cảm thấy an toàn, hơn người, để giải quyết một vấn đề, để bù đắp một sai lầm mà con đã phạm, để được chứng thực hay công nhận. Xin thày giúp con trở lại thuở con ở trên hành tinh tự nhiên và làm việc cho tổng thể.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con trải nghiệm tình thương mà thày dành cho con. Xin thày giúp con trải nghiệm là không có gì trên trái đất dành cho cá nhân con vì không có gì trên trái đất hướng về cái Ta Biết, là cái gì vượt quá hình tướng. Xin thày giúp con trải nghiệm là tình thương của thày dành riêng cho cá nhân con, cái ta thật của con. Ngay cả cái “ta” mà con là trong trạng thái tâm thức hiện tại, thày thương yêu nó như nó là ngay lúc này, và mỗi ngày thày sẽ thương yêu con hơn nữa. Con chấp nhận cái hơn nữa đó và con sẵn lòng buông bỏ các ngã đang là ít hơn để con có thể xoay chuyển tâm và thu hẹp khoảng cách.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

6 | Thỉnh cầu sự chấp nhận của Ki-tô (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Giê-su, hãy giúp con khắc phục mọi ảo tưởng và ngã đang ngăn cản con chấp nhận là Ki-tô chấp nhận con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy Ki-tô Hằng sống là một sinh thể không phản ứng lại điều kiện trên trái đất, không bị lôi cuốn vào vòng xoáy phản ứng lại những gì người ấy trải nghiệm trên trái đất. Con không phản ứng lại trái đất xuyên qua phin lọc của ngã gốc mà con tạo ra khi bị chấn thương nhập đời.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi con còn ngã gốc, thì nó sẽ pha màu cách con tiếp cận cuộc sống trên trái đất. Con không thực sự có tự do là Ki-tô vì ngã gốc được tạo ra như một phản ứng lại những gì con trải nghiệm trên trái đất.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi con còn tìm cầu an toàn, an ninh, muốn bù đắp lại điều con đã làm trong quá khứ, thì mọi việc con làm đều bắt nguồn từ nhu cầu đó: nhu cầu muốn hiểu và đặt sự việc vào bối cảnh, nhu cầu làm chủ tình hình, nhu cầu cảm thấy an toàn, nhu cầu được bù đắp.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy Ki-tô là trung gian giữa Tánh linh và cõi vật chất. Con không thể là trung gian giữa Tánh linh và cõi vật chất khi con chưa tạo được đường dây chắc chắn nối kết con với cõi tâm linh và con dám tự do biểu lộ trong cõi vật chất những điều được truyền qua đường dây nối kết đó.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.5. Giê-su, xin thày giúp con bước lui khỏi tấm màn bao phủ do đạo Công giáo chính thức tạo ra, và thấy là điều thày thực sự muốn cho con người là trải nghiệm có cái gì cao hơn tâm thức hiện tại của họ, có một tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức hiện tại của họ.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.6. Giê-su, xin thày hãy giúp con thấy là con không thể hiểu Ki-tô bằng tâm đường thẳng, phân tích, con không thể hoàn toàn hiểu Ki-tô vì có sự khác biệt giữa hiểunắm bắt. Con không thể nắm bắt Ki-tô bằng cách xem xét các chi tiết, mà chỉ có thể thực sự nắm bắt Ki-tô khi con bước lui lại và trải nghiệm Ki-tô.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy là cách duy nhất để tăng trưởng ý niệm bản ngã là con có quyền tự quyết, con chọn lựa. Con tạo ra một cái gì, con trải nghiệm tạo vật đó và sau đó con lượng định dựa trên kinh nghiệm của mình: “Tôi muốn thêm trải nghiệm này hay tôi muốn một trải nghiệm cao hơn. Tôi muốn có thêm kinh nghiệm tương tự, hay tôi muốn cái gì hơn nữa?”

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là để tiến trình này được trải bày, con phải hoàn toàn có quyền tự quyết, để con được làm bất cứ chuyện gì con có thể tưởng tượng và sau đó trải nghiệm hậu quả. Con đồng-sáng tạo bằng cách tạo ra một cái ngã trong bốn thể phàm của mình, và phóng chiếu qua ngã đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con có thể tránh thoát hậu quả của các chọn lựa trước của con bằng cách thăng vượt cái ngã mà con đã tạo hậu quả xuyên qua nó. Nếu con tiếp tục phóng chiếu qua ngã đó, thì con sẽ tạo lại cùng những hậu quả.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 2

2.1 Giê-su, xin thày giúp con thấy là để tới điểm không còn ý muốn thực thi quyền tự quyết một cách ích kỷ thì con cần làm một số lượng tới hạn của những gì con có thể làm một cách ích kỷ, nên chính con đã chán ngán việc đó.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy là Thượng đế không phán xét cách con tiến hành tiến trình này. Một khi con đã chán ngán đồng-sáng tạo xuyên qua ngã tách biệt, thì tâm thức Ki-tô là trung gian giúp con vươn mình lên khỏi tâm vị kỷ.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.3. Giê-su, xin thày giúp con làm hòa với luật tự quyết để con có thể chấp nhận là những gì con thấy trên trái đất là sự trải bày trong vật chất của những gì có trong bốn thể phàm của đa số nhân loại. Chúng cần thiết, vì con người cần trải nghiệm để có thể tăng triển.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.4. Giê-su, xin thày giúp con chấp nhận là có một số người trên trái đất vẫn chưa trải nghiệm đủ loại kinh nghiệm mà họ đang kinh qua. Xin thày giúp con làm hòa với sự việc đó để con được giải thoát khỏi sự phán xét, khỏi tâm thức tập thể, khỏi con quỷ dữ phán xét mà sa nhân đã tạo ra cho rằng có những chuyện sai trái, có những chuyện đáng lẽ không được xảy ra.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.5. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là ngay cả khi con người bị đau khổ thì các đau khổ này là kết quả của những chọn lựa của họ. Họ không biết một cách có ý thức là họ đã lấy những chọn lựa đó, tuy thế họ vẫn có thể chọn nâng tâm thức mình lên và bắt đầu nhìn vào chính mình thay vì nhìn vào các điều kiện bên ngoài.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.6. Giê-su, xin thày giúp con nhìn phương trình trên trái đất và làm hòa với các việc đang xảy ra trên trái đất. Xin thày giúp con làm hòa với việc con hiện diện trên trái đất.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy là món quà mà thày thực sự muốn đem lại cho mọi người là sự nhận biết Ki-tô chấp nhận con như con là, bất kể trình độ tâm thức của con ra sao. Xin thày giúp con khắc phục sự lập trình của đạo Công giáo chính thức muốn con tin rằng Ki-tô chỉ chấp nhận con khi con hội đủ một số điều kiện.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là Ki-tô vượt lên sa nhân và do đó các điều kiện của sa nhân không thể nào là điều kiện của tâm Ki-tô. Sa nhân không nắm được là tâm Ki-tô không có điều kiện vì đấng Sáng tạo không có điều kiện. Tâm Ki-tô biết là luật tự quyết cần tự trải bày và biết việc này sẽ được hoàn thành như thế nào trên một hành tinh phi tự nhiên.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy tầm nhìn Ki-tô là những gì xảy ra trên hành tinh nhỏ bé này không phải là một thảm họa cho toàn thể vũ trụ. Xin thày giúp con khắc phục ảo tưởng của sa nhân cho rằng trái đất rất quan trọng và Thượng đế rất quan tâm theo dõi những gì đang xảy ra trên trái đất.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 3

3.1. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm tự đặt câu hỏi một cách ý thức: “Giê-su có chấp nhận tôi như tôi đang là ngay bay giờ chăng?” Xin thày giúp con trải nghiệm là thày có chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.2. Giê-su, xin thày giúp con chấp nhận là con không cần hội đủ điều kiện nào để xứng đáng được thày chấp nhận. Thày lúc nào cũng đã chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.3. Giê-su, xin thày giúp con khắc phục cái ngã vỏ ngoài được tạo dựng theo tâm thức phán xét của sa nhân, cho rằng thày không chấp nhận con ngay bây giờ vì con vẫn chưa sống theo đúng chuẩn mực toàn hảo.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.4. Giê-su, xin thày gúp con thấy là ngã gốc chỉ có thể nghĩ là chắc hẳn phải có một số điều kiện mà con phải hội đủ để Ki-tô có thể chấp nhận con. Xin thày giúp con thấy đây là một lời gian dối của sa nhân.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.5. Giê-su, con mở tim đón nhận thày và con sẵn sàng tiếp nhận trải nghiệm trực tiếp là thày chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy đây chính là trải nghiệm mà thày muốn trao cho tất cả mọi người. Thày có thể trao cho họ xuyên qua con, nhưng con không thể là dụng cụ giúp thày trao trải nghiệm đó cho người khác khi con chưa tự mình trải nghiệm và chấp nhận là thày chấp nhận con.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.7. Giê-su, xin thày giúp con trở thành một dụng cụ để trao cho tất cả mọi người mà con gặp trải nghiệm là thày, Giê-su, chấp nhận họ như họ đang là và không phán xét họ.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.8. Giê-su, xin thày giúp con làm công việc quét dọn bằng cách nhìn bất kỳ các ngã khác và thấy khi con đã tạo ra một cái ngã có một chuẩn mực nói rằng: “Mọi chuyện phải được phán xử tùy theo chúng đúng hay sai”. Xin thày giúp con tách mình ra khỏi những ngã đó.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.9. Giê-su, xin thày giúp con ghi chặt trong tâm ý niệm phán xét nhị nguyên không dính dáng gì đến phân biện Ki-tô. Phán xét nhị nguyên không dính dáng gì đến phân biện Ki-tô.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 4

4.1. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là dù con thấy trình độ tâm thức của một người, nhưng khi con ở trong tâm Ki-tô thì con vẫn có thể tỏa ra sự chấp nhận người đó. Không phải là chấp nhận những chuyện họ đang làm, không phải là chấp nhận những điều họ tin, nhưng chấp nhận là đằng sau tất cả các ngã vỏ ngoài đó, có một cái Ta Biết là một phần nối dài của Bản thể của đấng Sáng tạo.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con có thể gặp một người đang ở trong trạng thái tâm thức thấp nhưng người đó vẫn xứng đáng được cơ hội giải thoát. Người đó vẫn xứng đáng được nhận xuyên qua con sự chấp nhận vô điều kiện của Ki-tô Hằng sống, của Ki-tô Hoàn vũ, của Ki-tô thăng thiên mà thày là.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.3. Giê-su, con sẽ để thày phán xét ai xứng đáng được nhận sự chấp nhận, thay vì để tâm vỏ ngoài của con phán xét điều đó. Xin thày giúp con đi một bước quyết định dẫn tới biểu lộ quả vị Ki-tô với tiềm năng cao nhất mà con đã quy định trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.4 Giê-su, con sẽ chịu đình chỉ phán xét với ngã vỏ ngoài của con và để cho thày phán xử ai xứng đáng được nhận một xung lực chấp nhận qua con. Xin thày giúp con trải nghiệm là thày chấp nhận con như con đang là, ngay cả các ngã vỏ ngoài mà con đang có. Thày chấp nhận là Thượng đế đã cho con quyền tự quyết, và điều này đã cho phép con tạo ra ý niệm bản sắc mà con đang có ngay lúc này.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.5. Giê-su, xin thày giúp con trải nghiệm sự chấp nhận vô điều kiện của thày và chấp nhận là bất kể điều gì con đã làm trên trái đất, bất kể những gì con đã trải nghiệm trong các kiếp trước, thày chỉ có một mong muốn: giúp con được tự do khi con muốn được tự do. Và con quả thực mong muốn được tự do.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.6. Giê-su, xin thày giúp con chấp nhận sự thực tuyệt đối là nếu con có thể hoàn toàn tách mình ra khỏi ngã nhị nguyên, thì con thực sự có thể tháo gỡ các hậu quả vật lý mà con đã tạo ra xuyên qua ngã đó. Xin thày giúp con thấy là bất kể các ngã mà con tạo ra có phức tạp đến đâu, thì con vẫn có thể chọn khởi sự tiến trình thức tỉnh và để cho chúng chết đi.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.7. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm chấp nhận mình như con là ngay lúc này và trải nghiệm là thày chấp nhận con. Giê-su, con đình chỉ sự phán xét chính mình. Con ngưng phóng chiếu lên thày là thày đang phán xét con như con phán xét chính con. Con để cho thày là quan tòa xét xử xem thày có chấp nhận con hay không.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.8. Giê-su, con nói ở đây: “Tôi không phải là người phán xét xem Giê-su có sẽ chấp nhận tôi hay không. Giê-su sẽ là người phán xét. Tôi hoàn toàn cởi mở đón nhận bất cứ điều gì Giê-su muốn cho tôi. Tôi không thể phán xét là Giê-su không thể nào chấp nhận tôi, vì như vậy tôi không cởi mở với thày, tôi không để thày là người xét xử.” Xin thày giúp con tới điểm con đặt mình vào trạng thái tâm trung hòa và trải nghiệm là thày chấp nhận con.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.9. Giê-su, con biết là ngay lúc này thày đang đứng cạnh con, và thày đang đưa bàn tay ra và nói: “Con có vui lòng chấp nhận chăng là thày chấp nhận con hoàn toàn và vô điều kiện?” Giê-su, con quả thực sẽ chấp nhận món quà của thày.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

4 | Thỉnh cầu tự do khỏi ngã kiểm soát (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Giê-su, hãy giúp con khắc phục mọi khuynh hướng ép buộc muốn kiểm soát thế giới, người khác và chính mình, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Giê-su, xin thày giúp con khắc phục lập trình chối bỏ mình có tiềm năng trở thành Ki-tô và thực sự bắt đầu thực hiện tiềm năng là Ki-tô. Xin thày giúp con thấy vì sao con chưa thể hiện một trình độ quả vị Ki-tô cao hơn.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.2. Giê-su, xin thày giúp con chấp nhận là các chân sư thăng thiên không phán xét con như sa nhân phán xét con và như sa nhân đã khiến con phán xét chính mình.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy là mục đích của tất cả các chân sư thăng thiên là giải thoát con. Xin thày giúp con thấy là một phần của tâm con sẽ nói: “Giải thoát khỏi cái gì? Các chân sư thăng thiên muốn giải thoát con khỏi cái gì?” Các thày muốn giải thoát con khỏi cái tâm đang đặt ra câu hỏi đó vì chính cái tâm đó đang khiến con bị mắc kẹt.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy cơ cấu đang ngăn chặn con thể hiện quả vị Ki-tô là chấn thương nhập đời hay chấn thương địa cầu. Khi con giáp mặt sa nhân lần đầu và trải nghiệm ý chí vô giới hạn sẵn sàng làm ác của họ, thì con bị một cú sốc, một chấn thương.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.5. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con đã chê trách mình vì đã phản ứng và nghĩ là con đáng lẽ phải tìm ra được một cách để không bị suy suyển bởi những gì xảy ra trên trái đất, con đáng lẽ phải tránh để tay mình lấm bùn.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy là đây chỉ là một cái ngã cảm thấy như vậy. Xin thày giúp con thấy đó là một cái ngã hiện diện trong thể bản sắc của con và lan cả xuống thể lý trí và thể tình cảm. Xin thày giúp con bước lui lại và tách mình ra khỏi ngã đó, là cái ngã nghĩ con đáng lẽ phải hành xử khác hơn.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy là cái duy nhất ngăn cản con thể hiện quả vị Ki-tô là ngã gốc. Khi con giáp mặt sa nhân lần đầu thì con bị một cú sốc. Cú sốc đó lớn đến độ con thực sự không thể sống với nó, con không thể xử lý nó.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là lúc đó con đang ở trong một thân thể vật lý, con nhận ra là có những sinh thể sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì để hại con và các người khác. Con không tránh xa họ được nhưng con không thể sống với ý nghĩ họ đang có mặt ở đây, với nỗi sợ họ sắp làm thêm điều gì đây.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi con quan sát tất cả các khổ đau mà sa nhân tạo ra, thì con bỗng nhiên giáp mặt một tình trạng khó xử. Con đang ở trên trái đất, con không thể rời trái đất và do đó con phải tìm ra một cách để sống ở đây trong khi vẫn biết rằng sa nhân cũng có mặt ở đây. Con giải quyết vấn đề bằng cách tạo ra ngã gốc.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 2

2.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy là ngã gốc có nhu cầu tạo ra một quan niệm tổng quát về trái đất, về cách trái đất vận hành, vì sao Thượng đế lại để cho cái ác có mặt, tại sao cái ác lại có mặt trên trái đất. Xin thày giúp con nhận ra một khía cạnh của ngã gốc có mục đích chính yếu khiến con cảm thấy an toàn, giúp con cảm thấy thăng bằng khi sống trên trái đất này.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy là mục đích chính yếu của ngã gốc là tái lập nơi con một cảm giác thăng bằng nào đó. Nó làm công việc này bằng cách tạo ra một cơ chế phức tạp gồm nhiều cái ngã nhằm cho con cảm giác làm chủ cuộc sống của mình trên trái đất.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.3. Giê-su, xin thày giúp con bắt đầu nhìn vào khía cạnh này của ngã gốc muốn kiểm soát thế giới để nó cảm thấy được an toàn. Cơ cấu rất giản dị: nếu con cảm thấy mình làm chủ tình hình, thì con cảm thấy an toàn.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.4. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là con có khuynh hướng đó, và khuynh hướng đó dễ hiểu và không thể tránh, nhưng điều con có thể tránh là vác cái ngã đó theo mình cho đến hết kiếp sống này.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.5. Giê-su, xin thày giúp con vứt bỏ gông cùm nặng chĩu của sự ghiền nghiện an toàn, của cái ngã muốn kiểm soát một cách bệnh hoạn mà con có trong thể bản sắc của con. Xin thày giúp con tới điểm nhìn vào nó, thấy nó như nó là, bước lui lại và nhận ra: “Đây không phải là tôi. Đây không phải là tôi”.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy đây là một tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Con bị mắc kẹt vì cái ngã đó, nhưng khi con bắt đầu thấy sự hiện diện của nó, thì nó sẽ phản ứng như đây là chuyện sống còn của nó và khiến con không chấp nhận hiểu biết đó.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy cái ngã cảm thấy phần nào nắm được cách thế giới vận hành. Nó làm chủ được tình hình, nó đã tìm ra một hệ thống ấn định rằng nếu con làm một số việc và không làm một số việc khác, thì con sẽ được an toàn.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là cái ngã kiểm soát nghĩ rằng cách duy nhất để cảm thấy an toàn trên trái đất là không là Ki-tô trên trái đất, không thách thức sa nhân. Nếu con không thách thức sa nhân bằng cách là Ki-tô, thì họ sẽ để con yên. Cái ngã kiểm soát cảm thấy được an toàn nếu nó ở trong một số giới hạn và không làm gì để thách thức sa nhân.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con đã sử dụng giáo lý của các chân sư thăng thiên để củng cố cảm tưởng của ngã kiểm soát là nó làm chủ tình hình trên trái đất. Con đã sử dụng giáo lý để củng cố thế giới quan của ngã kiểm soát.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 3

3.1. Giê-su, con nhận ra là mục đích của con trong kiếp sống này là không thoải mái ở trình độ làm đệ tử chân sư thăng thiên và hiểu biết giáo lý. Mục đích của con là hoàn thành tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Mục đích của con là biểu hiện quả vị Ki-tô ở tầng cao hơn những gì con đã làm được cho tới nay.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con không thể là Ki-tô Hằng sống đồng thời duy trì cảm giác được an ninh và làm chủ tình hình. Con không thể thờ hai chúa, con không thể thờ Thượng đế và thế gian. Thế gian ở đây là biểu tượng của khía cạnh của ngã gốc luôn luôn muốn làm chủ tình hình để cảm thấy an toàn.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy khía cạnh kiểm soát của ngã gốc, tách mình ra khỏi nó và để cho nó chết đi.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con có tạo ra động lượng tự cô lập và cách ly khỏi thế giới, ngay cả dùng giáo lý tâm linh để đặt mình vào hoàn cảnh cô lập và cách ly khỏi thế giới.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.5 Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi con nhìn nhận là con có một khía cạnh của ngã gốc muốn làm chủ tình hình, thì con sẽ bị xáo trộn, vì ngã đó sẽ phản ứng như là mạng sống của nó bị đe dọa.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con không cần ngã đó nữa nên có thể để nó chết đi. Con thấy là nó không muốn chết, và nó sẵn sàng giữ con bị mắc kẹt trong cảm nhận bất an toàn để duy trì sự hiện hữu của nó.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.7. Giê-su, xin thày giúp con giải thoát mình khỏi khía cạnh đó của ngã gốc và để nó chết đi, để con được bình an và cảm thấy một niềm tự do mới mà hiện nay con không thể tưởng tượng nổi.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.8. Giê-su, xin thày giúp con trải nghiệm con thực sự đầu thai ở đây như một sinh thể vô hình tướng đã đi xuống thế giới hình tướng. Để phát biểu trong thế giới hình tướng, con cần tạo ra một số cấu trúc trong bốn thể phàm nhưng con không là các tạo vật này.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi con tạo ra ngã gốc thì con bắt đầu nghĩ con là ngã gốc, hay ít ra là con phải là nó để được an toàn trên trái đất. Xin thày giúp con nhận ra con vẫn là một sinh thể vô hình tướng, và với tư cách một sinh thể vô hình tướng, con không thể bị tổn thương bởi bất cứ điều gì xảy ra trên trái đất.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 4

4.1 Giê-su, con chọn vươn lên khỏi tâm thức chết, khỏi cái ngã kiểm soát nghĩ con chỉ có thể an toàn khi con làm chủ thế gian. Con chọn sự sống bằng cách nhận ra là con không cần kiểm soát thế giới để được an toàn. Con cần nối kết trở lại, thức tỉnh trở lại và biết một cách ý thức con là một sinh thể vô hình tướng.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.2. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là con được an toàn trong thế giới này ngay khi thế giới ở trong trạng thái hiện nay. Con có thể an toàn mà không cần kiểm soát thế giới, và chỉ khi nào con cảm thấy an toàn mà không cần kiểm soát thế giới thì con mới có thể bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô. Chỉ lúc đó thì con mới dám thách thức sa nhân.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.3. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm khắc phục nỗi sợ sa nhân. Họ không điều khiển cuộc đời con, họ không là khung tham chiếu của con. Các chân sư thăng thiên, Hiện diện TA LÀ của con, thế giới vô hình tướng là khung tham chiếu của con và con cảm thấy an toàn khi biểu hiện quả vị Ki-tô.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy là một cái ngã nội tại lúc nào cũng được tạo ra để giải quyết một vấn đề nào đó trên trái đất. Ngã đó sẽ tiếp tục phóng chiếu là vấn đề có thật, vấn đề đang ảnh hưởng con và con phải làm điều gì đó để giải quyết vấn đề.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.5. Giê-su, xin thày giúp con thấy ngã đó không thật và nói: “Điều đó đâu có ý nghĩa gì với con, con sẽ theo thày, và để người chết đi chôn những vật chết.” Con sẵn sàng cùng thày đi lên một tầng tâm thức cao hơn.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.6. Giê-su, con nắm lấy bàn tay mà thày chìa ra và con đi với thày cho tới lúc con đã neo mình thật chặt vào Ki-tô nên có thể nhìn ngã kiểm soát và nói: “Tôi không còn cần bạn nữa vì nay tôi đã nắm tay Giê-su Ki-tô thăng thiên, và đó là sự an toàn của tôi. Trong Ki-tô tôi được an toàn, tôi được cứu rỗi, tôi được nối kết với cái Một, tôi biết tôi là một sinh thể vô hình tướng và do đó không thể bị tiêu hủy hay đe dọa bởi bất cứ điều gì trong thế gian này. Tôi về nương tựa nơi Ki-tô, không nương tựa cái ngã vỏ ngoài muốn kiểm soát thế giới.”

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.7. Giê-su, con muốn sự sống, con không muốn cái chết, và con sẵn sàng mở vòng tay đón nhận giáo lý này. Con muốn tách mình ra khỏi ngã gốc, bỏ lại lưới đánh cá của nó để cùng đi với Ki-tô Hằng sống, bỏ ngã đó lại đằng sau.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con đã sẵn sàng và nói: “Đây chỉ là cái ngã kiểm soát muốn con nghĩ là con chưa sẵn sàng. Thực sự thì con đã sẵn sàng và rất mong muốn theo thày.”

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.9. Giê-su, con sẵn sàng tiến một bước quyết định, bỏ lại đằng sau cái cũ và đón nhận một ngày mới. Con sẵn sàng trực tiếp giáp mặt các chân sư thăng thiên. Con sẽ không mãi mãi thụ động ngồi đây và lắng nghe một vị sứ giả có khả năng nối kết với các chân sư thăng thiên, vì con đã sẵn sàng có một nối kết trực tiếp hơn với các chân sư thăng thiên.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

2 | Thỉnh cầu tự do khỏi nhu cầu bù đắp (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Quan Âm, hãy giúp con nhìn ra những ngã đã được xây dựng trên ngã gốc, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con thấy là con không thể trở thành, con không thể , Ki-tô hành động khi con còn sự sợ hãi trong cảm thể, đặc biệt là khi nỗi sợ đó dính liền với vũng nước xoáy sợ hãi của hành tinh.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.2. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con thấy liệu trong một kiếp đầu thai trước trên trái đất con có phải gánh chịu một biến cố chấn thương đã tạo ra một vết nứt trong cảm thể của con khiến các rung động bất hài hòa và hỗn loạn của sợ hãi có lỗ hở tràn vào.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.3. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con nhận ra liệu con có đang ở trong sự rung động, trong vòng xoáy của sợ hãi. Xin thày giúp con thấy là con có thể sử dụng thể vật lý của con để khống chế thể tình cảm bằng cách đọc bài thỉnh và niệm chú.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.4. Mẹ Quan Âm, con kêu gọi sự trợ giúp của các chân sư thăng thiên, Đại thiên thần Michael, Astrea, và Mẹ Mary hãy giúp con cắt đứt sợi dây buộc con vào động lượng sợ hãi của hành tinh.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.5. Mẹ Quan Âm, xin thày hãy giúp con thấy là một cảm xúc không bao giờ tự nó có mặt một mình. Một cảm xúc dựa trên một niềm tin trong thể lý trí, và một niềm tin trong thể lý trí dựa trên một ý niệm bản sắc trong thể bản sắc.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.6. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con nhận ra là sợ hãi không tự nó khởi lên. Nó lúc nào cũng phát xuất từ lòng nghi ngờ. Nghi ngờ là cánh cửa mở đưa sợ hãi vào cảm thể của con. Nghi ngờ bắt đầu trong thể lý trí nhưng nó bắt rễ từ thể bản sắc.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.7. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con thấy là mối nghi ngờ trong thể lý trí đã mở tâm con ra cho nỗi sợ. Xin thày giúp con thấy là con nghi ngờ là con không thể tự bảo vệ khỏi sự ác độc, Thượng đế không thể bảo vệ được con, không có lực nào trên thế gian có thể bảo vệ được con khỏi sa nhân.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.8. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con thấy nghi ngờ là một điều kiện của thể lý trí, và nó bắt nguồn từ sự kiện tâm phân tích có thể xem xét bất cứ vấn đề gì và tìm ra luận cứ ủng hộ hay chống vấn đề đó, và nó có thể tiếp tục như vậy không bao giờ dứt.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.9. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con thấy tình trạng này giống như một trận bóng bàn giữa hai ngã nội tại trong thể bản sắc của con, hai ngã này cứ phóng ra luận cứ chống bác nhau khiến con không biết luận cứ nào là luận cứ tối hậu.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Phần 2

2.1. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con thấy là cái “ta” đang bị hai ngã đó làm tê liệt là cái “ta” mà con thấy con là trong thể bản sắc. Cái “ta” đó được tạo ra khi con nhận chịu chấn thương nhập đời hay chấn thương địa cầu.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.2. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con thấy là bản sắc đó mang theo nó niềm tin là khả năng của con trên trái đất có giới hạn. Có điều gì đó giới hạn khả năng của con. Có điều kiện nào đó trên trái đất, do sa nhân tạo ra, mà con không thể khắc phục, tránh né hay bảo vệ mình khỏi nó. Cái ta đó tin rằng tự bản chất con là một sinh thể giới hạn.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.3 Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con sử dụng tất cả các dụng cụ tâm linh để khắc phục chấn thương nhập đời hay chấn thương địa cầu cho tới khi con cảm thấy là gánh nặng của thế gian đã trút khỏi hai vai con. Đó là gánh nặng thế gian mà con đã mang trên hai vai từ lúc con nhận chịu chấn thương đó.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.4. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con thấy là chấn thương đã tạo một khe hở trong tâm buộc con vào các năng lượng thế gian. Con đã bị buộc vào động lượng đó và do đó con đã mang gánh nặng của các năng lượng này, gánh nặng của năng lượng thế gian. Xin thày giúp con khắc phục nỗi sợ hay bất cứ mọi động lượng khác mà con có trong các thể bản sắc, lý trí và tình cảm, và đạt được một cảm giác tự do mới.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.5. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con thấy là sợ hãi bắt nguồn từ nghi ngờ, nhưng nghi ngờ bắt nguồn từ một ý niệm bản sắc giới hạn. Xin thày giúp con nhận ra là con hơn bản sắc đó, con hơn cái ngã mà con mang theo trong thể bản sắc của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.6. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con thấy là cái “ta” có khả năng nhận ra nó hơn cái ngã là cái Ta Biết. Cái Ta Biết không thể bước ra ngoài “ngã sinh diệt” khi con còn chấn thương nhập đời, vì chấn thương kéo cái Ta Biết vào chỗ tự đồng hóa với ngã sinh diệt, ngã thế gian.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.7. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con giải tỏa chấn thương nhập đời và sau đó bước ra ngoài cái ngã thấp và trải nghiệm nhận biết thuần khiết,

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.8. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con trải nghiệm là nhận biết thuần khiết vượt quá bất cứ gì con thấy hay trải nghiệm trong bát cung vật lý. Nó cũng vượt quá bất cứ mọi cảm xúc, bất cứ mọi lý luận, suy luận hay luận cứ, và bất cứ mọi ý niệm bản sắc.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.9. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con trải nghiệm nhận biết thuần khiết và trải nghiệm dòng chảy từ Hiện diện TA LÀ, để con có một tầm nhìn khác về mọi chuyện đang xảy ra trong bốn thể phàm của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Phần 3

3.1. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con thấy là khi con khắc phục được chấn thương nhập đời thì con chưa khắc phục được mọi khía cạnh của tâm lý của con. Ngã gốc là viên đá đỉnh vòm của vòm hình cung của cấu trúc bốn thể phàm của con, nhưng nó không phải là cái ngã duy nhất.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.2. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con khắc phục mọi ghiền nghiện vật lý hay dây trói buộc con vào một sinh hoạt vật lý mà con cảm thấy mình phải làm. Xin thày giúp con khắc phục mọi dây trói buộc con vào vũng nước xoáy tình cảm của tâm thức tập thể, hay các khuôn nếp cảm xúc khác.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.3. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con khắc phục mọi khuôn nếp lý trí muốn tranh cãi, muốn lý luận, muốn lượng định và phân tích mọi chuyện. Xin thày giúp con nhận ra là con có ước muốn hiểu mọi chuyện.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.4. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con khám phá liệu con có trong thể bản sắc khuôn nếp muốn lượng định mọi chuyện và tìm cách đặt chúng vào một bối cảnh rộng hơn ngõ hầu hiểu được chúng. Xin thày giúp con thấy liệu con có dùng giáo lý chân sư thăng thiên để tạo ra một thế giới quan giúp con hiểu những chuyện con đã kinh qua trên trái đất.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.5. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con khắc phục ảo tưởng cho rằng có một hiểu biết tối hậu có thể giúp con giải thích và hiểu mọi chuyện trên trái đất.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.6. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con chấp nhận là có một số hiện tượng không thể hiểu được. Có một số điều sa nhân làm mà ta không thể giải thích hay hiểu bằng tâm đường thẳng, duy lý, phân tích.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.7. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con bước ra ngoài cái ngã trong thể bản sắc và nối kết thẳng với Hiện diện TA LÀ của con và các chân sư thăng thiên. Xin thày giúp con nhận được trải nghiệm toàn bộ từ các thày và từ Hiện diện TA LÀ của con, và trải nghiệm này vượt lên trên hiểu biết bằng lý trí.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.8. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con khắc phục chấn thương nhập đời, và đi vào tiến trình nới rộng một cách có ý thức khả năng trải nghiệm thực tại cao hơn, vượt lên trên những gì thể bản sắc, thể lý trí, thể tình cảm hay óc vật lý của con có thể xử lý.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.9. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con đạt được một ý niệm thực tại vượt lên trên bốn thể phàm của con và là điều duy nhất giúp con biết được cái thật và cái không thật trên hành tinh này.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Phần 4

4.1. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con thấy khuynh hướng trong thể bản sắc của con muốn tìm cách bù đắp những gì con cảm thấy bị mất mát khi con nhận chịu chấn thương nhập đời hay chấn thương địa cầu. Con đã mất đi sự ngây thơ của trẻ thơ, ý niệm nội tại về thực tại. Từ lúc đó, một cái ngã do con tạo ra đã luôn luôn tìm cách bù đắp sự mất mát đó.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.2. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con khắc phục mong muốn bù đắp đựơc biểu lộ như khao khát tìm cách chứng tỏ mình đặc biệt so với người khác.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.3. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con thấy liệu con có dùng giáo lý chân sư thăng thiên để bù đắp cảm giác mất mát bằng cách nghĩ mình đặc biệt vì đã gia nhập giáo lý chân sư thăng thiên.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.4. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con thấy liệu con có một số ngã trong thể lý trí luôn tìm cách bù đắp bằng cách tỏ ra mình rất thông minh, thông thái, hợp lý, duy lý, rất giỏi biện luận hay suy luận.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.5. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con thấy liệu con có tạo ra cơ chế bù đắp trong thể tình cảm bằng cách dùng thể tình cảm để bù đắp nỗi sợ, khắc phục nỗi sợ, chối bỏ nỗi sợ, đè nén nỗi sợ để con không cảm thấy sợ hãi.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.6. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con nhìn nhận là không phải con có cảm xúc, mà là có một ngã trong thể cảm xúc có cảm xúc, và con không phải là ngã đó. Con để cho ngã đó chết đi và con kêu gọi Đại thiên thần Michael và Astrea tiêu trừ nó cùng với động lượng năng lượng đằng sau nó.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.7. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con thấy liệu con có tạo ra cơ chế bù đắp trong tầng vật lý được thể hiện như mong muốn khiến thân thể vật lý trở nên bất bại. Xin thày giúp con thấy liệu con có một số ghiền nghiện vật lý hay con muốn bù đắp bằng cách trở nên thiện xảo trong một số công việc vật lý, như trong sự nghiệp, trong việc làm, hay có một kỹ năng vật lý.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.8. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con thấy những cơ chế bù đắp trong bốn thể phàm của con để con có thể bắt đầu tháo gỡ chúng, và khắc phục khuynh hướng cảm thấy bị bắt buộc phải theo đuổi một số sinh hoạt. Mỗi khi con cảm thấy bị bắt buộc thì có một ngã đang ngăn trở con trở thành Ki-tô hành động.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.9. Mẹ Quan Âm, xin thày giúp con khắc phục ngã gốc và tháo gỡ tất cả các ngã khác để con trải nghiệm tự do, là nguồn của niềm vui thực sự, niềm vui an bình, niềm vui Thiêng liêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

Thỉnh cầu tự do khỏi cái ngã xem mình là quan trọng

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Saint Germain hãy giúp con khắc phục cái ngã thèm muốn được quan trọng. Hãy giúp con vượt qua lòng ham muốn bất kỳ loại phần thưởng nào trên địa cầu, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Trong con có một cái ngã muốn được quan trọng, một cái ngã có nhu cầu được quan trọng, một nhu cầu ám ảnh-cưỡng chế là mình quan trọng, là mình đem lại sự khác biệt.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.2. Mục đích của khóa tu này là để giúp con vươn lên cao hơn tâm thức tập thể, và đi vào một quỹ đạo nơi con không có nguy cơ bị trượt trở xuống.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.3. Để đi từ tầng tâm thức 48 lên 96, con đã chế tạo một cái ngã tương tự như chiếc hỏa tiễn, phóng con ra khỏi lực hút của tâm thức tập thể.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.4. Thử thách mà con nay đối mặt là ngã này không thể đưa con lên cao hơn tầng 96. Do đó, con cần tách mình ra khỏi ngã và để cho nó chết đi, con để cho nó rơi trở lại trái đất.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.5. Con chấp nhận câu nói: “Tôi không quan trọng”. Cái “tôi” không quan trọng ở đây chính là cái “tôi”, là ngã mà con đã sử dụng làm cỗ xe để lên tới tầng 96.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.6. Ngã đó chủ yếu là một cái ngã phản ứng lại vật chất. Nó đã được tạo ra để phản ứng lại vật chất, hay đúng hơn trạng thái của vật chất được nhìn xuyên qua tâm thức tập thể.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.7. Tâm thức tập thể có một cái nhìn đặc thù về vật chất. Chính tâm thức tập thể đã tạo ra độ dày đặc hiện thời của vật chất, cho nên tâm thức tập thể cũng không thể vượt qua độ dày đặc hiện thời của vật chất.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.8. Con chỉ vượt qua được độ dày đặc hiện thời của vật chất bằng cách vươn lên một cái gì cao hơn, là tâm thức Ki-tô.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.9. Ở mỗi tầng, con nhận được một món quà của tâm thức Ki-tô toàn vũ, hoặc từ tâm thức đã cá thể hóa của một chân sư thăng thiên, hoặc chính cái ta Ki-tô của con. Con không thể tự kéo con lên bằng cách kéo sợi dây giày ở chân con.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 2

2.1. Con xoay chuyển và chấp nhận rằng Ki-tô không phải là một lực ngoại lai đến với con từ ngoài. Ki-tô giờ đây là một lực nội tại đến với con từ bên trong.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.2. Con chuyển từ một cái nhìn ngoại lai về một đấng cứu thế ở ngoài, sang đấng Ki-tô nội tại, và con bắt đầu hiện thân Ki-tô nội tại càng ngày càng trọn vẹn khi con đến gần hơn tầng 144.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.3. Con quyết tâm vượt qua khai ngộ ở tầng 96, là khi con bắt đầu hiện thân Ki-tô thay vì xem Ki-tô là một lực bên ngoài.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.4. Con nhìn nhận là cái ngã mà con đã xây dựng để đưa con lên tầng 96 không có khả năng làm chuyện đó. Nó không có khả năng chuyển đổi và nhìn Ki-tô như một lực nội tại, một thực tại bên trong. Nó sẽ luôn luôn xem Ki-tô là ngoại lai và luôn luôn xem vật chất là ngoại lai. Nó sẽ luôn luôn xem mọi người khác là ngoại lai, và lực hút của tâm thức tập thể cũng là một lực ngoại lai đang cưỡng lại nó.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.5. Cái ngã mà con đã xây dựng đặt trên nền tảng sự cưỡng chống. Nó dựa trên sự chiến đấu chống lại một đối phương, chiến đấu lại một cái gì kháng cự bước tiến của con.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.6. Con đang ở điểm con hàng phục thay vì con cứ cố ép mình bước tới, và con mở tâm ra để tiếp nhận. Con mở tâm ra và để yên cho mọi sự trải bày, ngay cả khi con không thấy được rõ ràng với tâm ý thức vỏ ngoài. 

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.7. Con nắm bắt được nhu cầu để cho ngã này chết đi. Khi con khởi sự ở tầng 48, con đã mang một số giấc mơ, mong mỏi và động lực thúc đẩy con gia nhập khóa tu này.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.8. Con vẫn còn những yếu tố của động lực phàm phu, một tham vọng, một ham muốn phàm phu làm một người đặc biệt có quyền năng đặc biệt, có khả năng làm được những chuyện mà không ai khác làm được. Con sẵn sàng xét xem mong muốn này khoác vào hình dạng nào trong trường hợp cá nhân của con.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.9. Con sẵn sàng xem xét các yếu tố của động lực ngã vỏ ngoài đó. Con sẵn sàng công khai nhìn nhận là con đang mang động lực đó, vì nếu không, con sẽ không thể buông bỏ nó. Con sẵn sàng công nhận là con có mang một yếu tố của động lực phàm phu.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 3

3.1. Ngã vỏ ngoài muốn nhận được phần thưởng cho tất cả những phấn đấu mà nó cho là nó đã trải qua để phóng con lên tầng 96. Ngã đi con đường riêng của nó, và nó có động cơ riêng của nó.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.2. Ngã vỏ ngoài đã kéo con từ tầng 48 lên 96. Nó tưởng là một ngày kia nó sẽ nhận được phần thưởng dành cho nó.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.3. Con hiểu và chấp nhận là ngã vỏ ngoài sẽ không bao giờ nhận được phần thưởng nếu con cứ tiến bước trên con đường quả vị Ki-tô. Không có phần thưởng nào cho ngã vỏ ngoài – chưa từng bao giờ có và cũng sẽ không bao giờ có.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.4. Con buông bỏ mọi mơ mộng vẽ vời chuyện có giải thưởng. Con buông bỏ mọi mong muốn được thấy các chân sư hiện ra trước mắt con, và dẫn con đi dự một buổi lễ điểm đạo mãn khóa nào đó để ban cho con đủ loại quyền năng đặc biệt.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.5. Con buông bỏ mọi dính mắc muốn được phần thưởng, và con để cho ngã vỏ ngoài ra đi. Con sẽ không dùng quyền năng của tâm mà con đã vun bồi cho đến tầng 96, để tự trao phần thưởng đó cho mình ngay trên địa cầu. 

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.6. Con cứ đi lên tiếp để tìm một phần thưởng cao hơn, là thăng thiên. Con buông bỏ phần thưởng mà con định bụng sẽ nhận được khi con leo lên tầng 96.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.7. Con sẵn sàng bước lên cao hơn trên con đường quả vị Ki-tô. Con xem xét trung thực ngã vỏ ngoài và củ cà rốt mà nó đã dùng để kéo cỗ xe bốn thể phàm của con lên đến tầng 96 – xong con buông nó ra.   

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.8. Con nhận ra đó không phải là động lực cao nhất. Thậm chí đó cũng không phải là phần thưởng cao nhất mà con có thể nhận được, và con cho nó đi.    

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.9. Con chuyển trọng tâm của con ra khỏi bản thân, và cho dù con có gặp hoàn cảnh nào đi nữa, con cũng dùng phương châm: “Chuyện này không nhắm vào tôi. Chuyện này không nhắm vào tôi!”

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 4

4.1. Con lần hồi tách mình ra khỏi ngã phàm phu cho tới khi nó không còn lôi kéo con được nữa. Con không làm theo động lực của ngã vỏ ngoài nữa. Nó không còn quan trọng gì nữa. Đơn giản là ngã vỏ ngoài không quan trọng gì nữa.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.2. Cách thực sự để vượt qua ngã vỏ ngoài là ngừng phản ứng, ngừng phản ứng lại sa nhân, ngừng phản ứng lại hầu hết mọi người khác hay các điều kiện của vật chất. Con không phản ứng lại tất cả những điều kiện vỏ ngoài đó.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.3. Con sẽ dùng các dụng cụ tâm linh để đạt tới điểm con thoát ra khỏi các khuôn nếp phản ứng đó, để đời con không biến thành một trận đấu bất tận, nơi có người đánh banh cho con và con cảm thấy mình phải đánh banh trở lại, do mình thấy mình phải phản ứng.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.4. Ngã vỏ ngoài mà con đã dùng từ tầng 48 đến 96, luôn luôn có một vấn đề gì đó với những gì nó thấy trên địa cầu, một vấn đề cần phải giải quyết theo cách nhìn của nó. Ngã phóng chiếu vào con là con phải làm gì đó để giải quyết vấn đề.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.5. Ngã cũng phóng chiếu là vấn đề chỉ có thể được giải quyết khi người khác thay đổi. Nó đặt con vào thế bị kéo-đẩy vì con cảm thấy mình phải làm gì đó để thay đổi người khác.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.6. Nó khiến con bất lực không hoàn thành được mục tiêu vì con luôn luôn chờ cho người khác hoặc điều kiện vỏ ngoài thay đổi. Ngã phản động này đặt con vào một vị thế chờ đợi, nơi con luôn luôn phải chờ một điều gì đó.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.7. Đi lên cao hơn tầng 96 có nghĩa là con bắt đầu buông xả toàn bộ ngã phản ứng này, con buông xả mọi cái ngã phản ứng. Con bắt đầu để cho chúng ra đi để con không phản ứng lại bất cứ gì trên địa cầu. Con không chờ đợi gì cả mà con xem xét: “Ngay bây giờ tôi có thể làm gì, tôi có thể làm gì trong hoàn cảnh vỏ ngoài của tôi để tự cải thiện và vươn lên một mức tâm thức cao hơn?”

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.8. Chừng nào con còn bị kẹt trong tư duy cho rằng hạnh phúc, tâm an tịnh, sự phát triển tâm linh, hay sự biểu đạt quả vị Ki-tô của mình tùy thuộc vào một số điều kiện vỏ ngoài hay vào người khác, thì con sẽ không là Ki-tô trong hành động. Con không thể biểu đạt bất cứ gì.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.9. Không hề có điều kiện lý tưởng nào để biểu lộ quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô là thách thức hiện trạng. Bất kỳ điều kiện nào con đối mặt cũng là điều kiện lý tưởng để con thách thức hiện trạng và biểu hiện một cái gì cao hơn – đó chính là quả vị Ki-tô.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 5

5.1. Con sẽ bắt đầu làm vậy trong bất kỳ hoàn cảnh nào mình gặp, và rồi các điều kiện sẽ thay đổi. Điều kiện sẽ không thay đổi cho tới khi con bắt đầu sử dụng những điều kiện mà con có, và chấp nhận chúng là cơ hội toàn hảo để con biểu đạt quả vị Ki-tô.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.2. Con bắt đầu ngay ở chỗ con đang đứng, con tận dụng nó, con thăng vượt nó, con biểu hiện một cái gì cao hơn – đó chính là cách con bước lên bước kế tiếp.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.3. Con biết có một điều kiện lý tưởng, và con cũng biết hiện trạng địa cầu khác xa với điều kiện lý tưởng đó. Con sẽ không cho phép ngã vỏ ngoài dùng chuyện này để bảo con chỉ có thể là Ki-tô trên địa cầu khi nào địa cầu có điều kiện lý tưởng.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.4. Con không còn đồng hóa với cái ngã vỏ ngoài đã đưa mình tới điểm này. Con sẵn lòng buông bỏ ý niệm phần thưởng mà con nghĩ mình phải nhận được.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.5. Con chấp nhận là không hề có phần thưởng! Cho dù ngã vỏ ngoài có tưởng tượng phần thưởng gì đi nữa khi con leo đến tầng 96, đó hoàn toàn là chuyện giả tưởng, không có chút thực tế nào.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.6. Con xem xét cốt lõi động lực đã khiến con cất bước trên đường tu. Cốt lõi động lực đó là một ngã phản ứng, nó phản ứng lại điều gì đó trên địa cầu. Ngã vỏ ngoài tưởng tượng là khi con đạt đến tầng 96 và nhận được phần thưởng của mình, phần thưởng đó sẽ cho con một sự công nhận nào đó trên địa cầu, vì đó là loại phần thưởng duy nhất mà ngã vỏ ngoài tưởng tượng được.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.7. Cốt lõi của ngã vỏ ngoài là nó mong muốn được người ta công nhận một cách nào đó, hay được một địa vị nào đó, nghĩa là nó được người khác hay các định chế trong xã hội công nhận.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.8. Các chân sư không thể làm chọn lựa đó dùm con. Các thày không thể vượt qua khai ngộ đó dùm con. Con chấp nhận là con đang đứng ở ngã ba đường, và thày Saint Germain đã đặt con trước sống và chết.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.9. Con không chọn ngã rẽ này khiến con cứ muốn tìm phần thưởng trên địa cầu, mà con chọn ngã rẽ kia sẽ đặt con trên đường quả vị Ki-tô.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 6

6.1. Với tâm vỏ ngoài, con làm hòa với sự kiện đường tu tâm linh sẽ không bao giờ có phần thưởng trên địa cầu. Phần thưởng duy nhất của đường tu tâm linh là khi con thăng thiên, nghĩa là phần thưởng của con nằm trên thiên đường khi con bước vào tâm thức thăng thiên.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.2. Bản thân con không quan trọng. Con buông bỏ ham muốn được người khác công nhận trên địa cầu. Con không muốn được công nhận. Con không giữ trong tâm ý tưởng là một ngày kia chuyện đó phải xảy ra. Con cho nó đi, con để cho ngã đó chết đi.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.3. Ngã luôn luôn phóng chiếu ra một vấn đề – chẳng hạn con cần được người khác công nhận thế nào đó. Được công nhận trên địa cầu có nghĩa là người khác phải để ý con và xem con là đặc biệt. Họ phải ghi nhận là con đặc biệt.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.4. Chuyện này vượt ra ngoài quyền tự quyết của con. Con không thể chọn lựa là người khác phải chọn lựa công nhận con.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.5. Con sẽ không tìm cách cưỡng ép họ phải công nhận con. Con sẽ không đi theo con đường tay trái, sẽ không sử dụng ma thuật để ảnh hưởng tâm trí người khác. Đó không phải là ý muốn của con.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.6. Con chọn lựa từ trong nội tâm mình, vì con đã tới điểm rốt ráo nơi con không chọn lựa bằng tâm vỏ ngoài nữa.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.7. Con không thể bước trên đường quả vị Ki-tô qua tâm vỏ ngoài. Giữa tầng 48 và 96 thì con còn có thể bước đi với tâm vỏ ngoài, nhưng con không thể lên cao hơn tầng 96 với tâm vỏ ngoài.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.8. Quyết định bước vào đường quả vị Ki-tô đến từ bên trong. Quyết định đó không duy ý chí mà nó tự phát từ nội tâm. Con không cưỡng ép nó. Con không thể bắt nó xảy ra. Con chỉ có thể để yên cho nó xảy ra bằng cách sử dụng các dụng cụ nhằm hóa giải những ngã vỏ ngoài đang kéo con ra khỏi quyết định và lôi con vào chuyện giải quyết một vấn đề nào đó.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.9. Con để cho ngã chết đi, cái ngã xem đường tu là một bài toán mà con cần giải. Con xoay chuyển toàn bộ cái nhìn của mình về đường tu và nhận ra đó không phải là chuyện giải quyết một vấn đề, mà là ngừng hẳn và không cố giải quyết vấn đề nào. Con để yên cho nó trải bày ra.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 7

7.1. Vấn đề lớn trên địa cầu là tâm thức tách biệt mà sa nhân đã tạo ra qua tâm thức nhị nguyên. Người ta xem mình là những sinh thể tách biệt luôn tranh giành với nhau.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.2. Để gỡ mình ra khỏi tình trạng tranh đấu đó, con phải xem mình đứng tách riêng khỏi nhóm người nơi mình đã sinh trưởng, thậm chí tách ra cả mọi người trong tâm thức tập thể.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.3. Để đi từ tầng 48 lên 96, con đã xây dựng một cái ngã xem mình đứng tách riêng khỏi mọi người trong tâm thức tập thể. Đó là điều tự nhiên, nhưng con sẽ không vượt lên cao hơn tầng 96 nếu con cứ sử dụng ngã này.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.4. Con đường quả vị Ki-tô là khắc phục ảo tưởng tách biệt, và nhìn ra là đằng sau mọi hiện tượng trên trái đất, có một thực tại hợp nhất nằm bên dưới, là sự duy nhất của mọi sự sống. Mọi sự sống là một, và không hề có tách biệt nào.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.5. Để lên đến tầng 96, con đã phải xây dựng một ngã cá nhân thật dũng mãnh. Nhưng để đạt tới trạng thái thăng thiên, con phải đập vỡ ngã đó. Từng bước một từ tầng 48 đến 96, con đã vun bồi một cái ngã, xong con cần chuyển hướng. Giờ đây, từng bước một, từ tầng 97 đến 144, con đang gỡ bỏ ngã đó đi.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.6. Con gỡ bỏ cái ngã tự xem mình là tách biệt. Khi nào con tới chỗ để cho yếu tố cuối cùng của ngã đó ra đi, đó là lúc con bước vào trạng thái hợp nhất là thăng thiên.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.7. Con nhận ra là con cần gỡ bỏ ngã tách biệt đó từng bước một. Khi con làm vậy, phần thưởng là con sẽ cảm được sự duy nhất ngày càng lớn hơn và lớn hơn nữa với Hiện diện TA LÀ của con ở trong con.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.8. Con sẽ không rơi vào cám dỗ cảm thấy mình tốt đẹp hơn người khác. Con sẽ xây đắp một cảm nhận hợp nhất với mọi sự sống. Con bắt đầu cảm thấy mình hợp nhất với mọi người, với mọi sự sống.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.9. Saint Germain, con nguyện sẽ vượt qua cuộc khai ngộ chót của khóa tu này, và con sẽ dùng tất cả mọi dụng cụ mình có để tự đặt mình vào con đường quả vị Ki-tô. Con chọn sự sống!

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu viễn quan về cách con đồng sáng tạo

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Saint Germain hãy giúp con khắc phục sự lập trình khiến con thấy vật tách biệt. Hãy giúp con nhìn ra làm thế nào con đồng sáng tạo hoàn cảnh riêng của mình qua bốn thể phàm, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Thị nhãn là một giác quan chủ động. Mắt con nhìn thấy sóng năng lượng, nhưng tâm con áp đặt mô thức lên sóng năng lượng và gọi đó là vật. Rồi nó gắn cho vật một lượng định và khả năng thay đổi.  

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.2. Có một thực tại năng lượng ở bên dưới tầm mức đồ vật, và tầm mức năng lượng này lỏng. Ngay cả một ngọn núi có vẻ rắn chắc cũng được tạo bằng năng lượng rung động, và năng lượng thì lỏng hơn vật chất rất nhiều.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.3. Năng lượng cấu tạo ngọn núi đó có thể thay đổi. Và nếu năng lượng thay đổi, vật chất cũng phải thay đổi theo. Năng lượng là nhân và vật chất chỉ là quả.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.4. Vật chất, cùng mọi hiện tượng vật chất, đều là kết quả. Chúng là kết quả của một nguyên nhân mà mắt không nhìn thấy, là năng lượng, là thế giới năng lượng. Đồ vật vật lý hiện hữu được là do một nguyên nhân bên dưới, là năng lượng lỏng đang rung động.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.5. Con bác bỏ mục đích khách quan của chủ nghĩa duy vật nhằm loại bỏ ảnh hưởng của tâm. Con chấp nhận là con làm mọi việc bằng tâm, cho nên mọi việc con làm đều là chủ quan.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.6. Con là một đệ tử tâm linh. Con đang ở một tầng tâm thức nào đó. Con nhìn cuộc sống qua phin lọc của một số ảo tưởng. Con chấp nhận cách mình nhìn cuộc sống là hoàn toàn chủ quan. Cách nhìn này là sản phẩm của những ảo tưởng mà con vẫn mang và chưa gỡ bỏ được.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.7. Là một đệ tử tâm linh, con không cần tìm một sự khách quan nào đó. Con công nhận cách con nhìn cuộc sống là sản phẩm của trạng thái tâm hiện thời của con, của những ảo tưởng con đã khoác vào khi con bước xuống dưới tầng 144.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.8. Con không đi tìm chân lý tối hậu mà sự hiểu biết nhằm cải thiện các điều kiện vật chất hiện thời của con. Con muốn biết điều gì ghi trong Sứ vụ Thiêng liêng và điều gì cho phép con nhận được những tư tưởng sẽ giúp thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.9. Con nhìn nhận con đã được dạy dỗ một cái nhìn méo mó về thực tại, một cái nhìn méo mó về nhân và quả, một cái nhìn méo mó về vật chất và năng lượng. Con mang một số tin tưởng về những gì có thể được thay đổi và những gì không thể thay đổi. Con sẵn sàng chất vấn cách nhìn thực tại đó.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 2

2.1. Những gì con xem là vật chất không giống như nó hiện ra xuyên qua giác quan vật lý của con. Con bắt đầu giải phóng viễn quan con ra khỏi giác quan vật lý. Con bắt đầu nhận ra trong tâm ý thức rằng thị nhãn là một giác quan chủ động.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.2. Trong bốn thể phàm có một chương trình nhằm khiến cho nhãn quan trở thành tự động. Chương trình này tìm kiếm những dạng mẫu trong hình ảnh phức tạp hiện ra trên màn hình của vũ trụ vật chất.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.3. Thế giới giống như một màn hình với vô số chấm nhỏ hình thành những hình ảnh vô cùng tinh xảo. Chương trình trong tâm con áp đặt một số mô thức lên những gì mắt con nhìn thấy.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.4. Sau khi loài người bước xuống tâm thức tách biệt, ta đã bắt đầu đặt tên cho những mô thức đó, và bắt đầu xem mọi vật là tách biệt với chính mình.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.5. Con đã được dạy dỗ, ngay cả trong thế giới hiện đại, để dùng quyền năng viễn kiến của mình mà không nhìn thấy năng lượng, không nhìn thấy các mô thức phức tạp của sóng năng lượng, của chấm hay hình dạng.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.6. Con nhìn thấy những “vật” và con đặt tên cho vật đó. Khả năng thị nhãn của con đã phần lớn bị kết dính với ngôn ngữ, là cách dùng ngôn từ đặt tên cho vật.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.7. Con nhìn nhận là những gì đã từng hữu ích ở một mức nào đó sẽ trở thành một trở ngại ở những mức cao hơn trên đường tu. Một khi con đã gọi tên cái gì đó là vật, không những con sẽ nghĩ nó có thực tại khách quan, mà con cũng nghĩ đó là một cái gì tách biệt.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.8. Vật mà tâm con nhìn thấy trở thành tách biệt khỏi tấm thảm thuần nhất của thực tại. Nó là một vật tách biệt nổi trôi trong không gian. Nó không kết nối với bất cứ gì.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.9. Khi con bước xuống nhị nguyên, khi con sử dụng quyền năng thị nhãn để tìm kiếm các hình mẫu đó và đặt tên cho chúng là đồ vật có sự hiện hữu khách quan tách biệt, con đã hoàn toàn che khuất thực tại nằm bên dưới, nơi mọi thứ đều kết nối và là thành phần của một tổng thể.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 3

3.1. Con đã dần dà nhìn thấy một thế giới gồm những vật tách biệt. Con không nhìn ra là tất cả những vật đó đều nối kết với nhau, vì chúng là biểu đạt của một thực tại duy nhất bên dưới.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.2. Khi con nghĩ vật gì tách biệt khỏi con, tách biệt khỏi tâm con, thì con cũng nghĩ con không có cách chi thay đổi được bằng tâm con. Làm thế nào con có thể thay đổi bằng tâm khi không có sự nối kết nào giữa vật và tâm con?

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.3. Con muốn khắc phục ảo tưởng rằng có quá nhiều thứ con không thể thay đổi bằng tâm. Con chất vấn cái nhìn đó và nhận ra là có một cách khác để nhìn.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.4. Con nhận ra là con không thể tin cậy giác quan của mình, hay đúng hơn cái chương trình trong tiềm thức đã chụp lấy dữ liệu do giác quan cung cấp và đè chồng lên một hình ảnh dựa trên khả năng nhận dạng mẫu, quy định vật và tìm kiếm vật.     

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.5. Khi con nhìn cái gì, con không thực sự nhìn cái đang ở đó. Chương trình trong tiềm thức nhìn vào cảnh vật, tìm kiếm những dạng mẫu mà nó đã sẵn nhận diện và lưu trữ trong kho dữ liệu này. Một khi nó tìm ra dạng mẫu đó, nó chỉ đơn giản đè cái này lên những gì con đang nhìn.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.6. Trong nhiều trường hợp, con nhìn thấy một vật với mắt con, nhưng bộ não lại hiển thị một hình ảnh khác trong đầu con, vì bộ não hiển thị hình ảnh được tạo ra bởi chương trình tiềm thức chuyên tìm kiếm khuôn mẫu.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.7. Con không nhìn cái đang ở đó, vì cái đang ở đó là một mô thức phức tạp những sóng năng lượng, những cái chấm, hay những tín hiệu bật-tắt.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.8. Cái ở đó thì lỏng, nhưng trong tâm con, nó bị biến thành một cái gì tuyệt đối, một cái gì khách quan. Con đã bị lập trình để nghĩ rằng cái con đang nhìn là một thực thể khách quan nằm ngoài tâm con, tách biệt khỏi tâm.  

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.9. Con chất vấn ảo tưởng đó. Con sẽ không bao giờ thay đổi được bất cứ gì bằng tâm nếu con thấy nó tách biệt khỏi tâm. Để con có thể thay đổi được gì, phải có một sự nối kết giữa tâm con và vật đó.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 4

4.1. Chừng nào con còn nhìn thế giới qua chương trình tiềm thức đang tô vẽ mọi thứ là tách biệt, con sẽ không bao giờ thay đổi được hoàn cảnh vật lý, vật chất, của con bằng tâm.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.2. Không thể nào thị hiện được vàng bạc từ hư không, vì lý do giản dị là mình không thể thị hiện những đồ vật mà mình xem là tách biệt khỏi chính mình.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.3. Con điều chỉnh cái nhìn, điều chỉnh kỳ vọng của mình, để cố thị hiện những gì con chấp nhận là có thể thay đổi bằng cách thay đổi chính tâm con.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.4. Con nhận ra là ở tầng vật lý, có những thay đổi có thể xảy ra sẽ đòi hỏi con phải xoay chuyển, để con nhìn thấy cái gì đó mà con hiện chưa nhìn thấy.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.5. Con nhìn vào hoàn cảnh của mình và nhận ra là có những khía cạnh mà cho tới giờ con xem là không thể, hoặc khó lòng thay đổi – hay thậm chí, con chưa hề nghĩ đó là chuyện có thể thay đổi vì con đã được dạy dỗ là sự thể phải như vậy.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.6. Có thật là có những cơ hội mà hiện thời con chưa thấy được vì có gì đó trong thái độ của con đang ngăn chặn không cho chúng hiện ra, và con không nghĩ mình có khả năng làm chuyện đó?       

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.7. Khi con lớn lên, con đã khoác vào một số tin tưởng từ gia đình con, từ môi trường chung quanh, từ xã hội của con. Vấn đề không phải là có những thứ con xem là bất khả thi, mà con chỉ không xem chúng là khả thi. Thậm chí con không nghĩ chúng là chuyện có thể, và ai nấy chung quanh con cũng không nghĩ chúng là có thể.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.8. Có những cơ hội đã sẵn thị hiện trong cõi vật lý. Con chỉ cần hòa nhập với chúng, rồi con cần sẵn lòng vươn theo đó và thay đổi.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.9. Con nhìn vào những thứ trong tâm mình nơi tâm không được lỏng, không được linh động. Con cho là có một số lằn ranh, một số giới hạn mà con không thể vượt qua. Con chất vấn các giới hạn đó và khởi sự bước tới xa hơn.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 5

5.1. Con bắt đầu chất vấn chính cách nhìn của con về thực tại vật lý, bằng cách nhìn xa hơn tầng cấp những thứ mà con đặt tên.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.2. Vượt quá những thứ đó, còn có một tầng cấp thâm sâu hơn của thực tại – những sóng năng lượng, những mô thức giao thoa, những tín hiệu bật-tắt, những cái chấm.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.3. Con tu tập bản thân để cảm nhận mọi sự vật nhìn thấy chung quanh là không rắn đặc, không bất khả chuyển đổi. Chúng là những biểu đạt của tầng mức năng lượng lỏng ở bên dưới.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.4. Ở mức vĩ mô, mọi thứ đều có vẻ là vật tách biệt. Chúng có vẻ tách biệt vì một lý do mà thôi. Tâm con đã chồng cái hình ảnh đó lên trên chúng. Chính tâm con đã khiến chúng dường như tách biệt.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.5. Con đã bị lập trình để nghĩ chúng là những thực thể khách quan, là những vật tách biệt, nhưng kỳ thực không phải vậy. Không có nơi nào trong vũ trụ có vật tách biệt. Tất cả sự vật đều là thành phần của tấm thảm thuần nhất của sự sống. Tất cả đều là tạo vật của tâm.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.6. Có rất nhiều thứ hơn nữa có thể được thay đổi ở mức tâm con người, nhiều hơn là đa số con người có thể chấp nhận.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.7. Khía cạnh omega của việc thay đổi hoàn cảnh vỏ ngoài là con thu hút về phía con những điều kiện đã có sẵn trong cõi vật lý. Con thu hút. Con trở thành một thỏi nam châm.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.8. Con trở thành nam châm bằng cách khắc phục cảm nhận tách biệt. Có một số điều kiện đã sẵn thị hiện trong cõi vật lý. Con chỉ cần phát hiện ra chúng, từ hóa chúng về phía con, hấp dẫn con về phía những hoàn cảnh đó.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.9. Không phải là chuyện tạo ra một cái gì chưa có sẵn trong cõi vật lý, mà là khám phá và nhận ra chính tư duy của con ngay bây giờ đang ngăn cản con khám phá cái có sẵn ở đó.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 6

6.1. Khía cạnh alpha là con thị hiện một cái gì đang không có mặt trong cõi vật lý. Điều này có nghĩa là con trở thành một người có khả năng tiếp nhận một tư tưởng từ Saint Germain sẽ giúp thị hiện Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.2. Đây là chuyện nhận được một ý tưởng từ cõi thăng thiên mà con đưa xuống qua ba tầng cao của tâm con cho đến khi nó thị hiện ở tầng vật lý. Việc làm này không quá sức con. Mục tiêu này nằm trong khả năng của con, và con có thể bắt đầu làm ở mức tâm thức hiện thời của con.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.3. Vũ trụ vật chất là một bộ máy giả thực tại, và con sẵn sàng chất vấn cách vận hành cơ bản của máy giả thực tại. Địa cầu không thực sự giả dạng thực tại, mà chính tâm con mới giả dạng thực tại.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.4. Tâm con không chỉ đặt tên cho cái đã sẵn ở đó, mà nó còn đồng sáng tạo. Có một số thứ ở ngoài kia không do tâm con tạo ra, nhưng hoàn cảnh cá nhân của con, ngay cả hoàn cảnh vật lý của con, là do tâm con đồng sáng tạo.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.5. Đây không phải là chuyện con nhìn một cái gì đã sẵn ở đó trước khi con nhìn, mà có một số khía cạnh trong hoàn cảnh cá nhân của con được đồng sáng tạo do hành động nhìn của con. Chính bằng cách nhìn chúng mà con thực sự tạo ra những hoàn cảnh đó.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.6. Cách con trải nghiệm cuộc sống được đồng sáng tạo trong bốn thể phàm của con. Điều duy nhất con có quyền năng thay đổi là chính tâm con, bốn tầng của tâm con. Con có quyền năng thay đổi cái đó, bất kể các chọn lựa của người khác và bất kể các điều kiện vỏ ngoài.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.7. Khi con thay đổi cách nhìn cuộc sống, một số khía cạnh trong hoàn cảnh vỏ ngoài của con sẽ thay đổi. Mặc dù điều này trái ngược với mọi thứ con đã được dạy dỗ và tin tưởng, con sẵn lòng khắc phục ảo tưởng tách biệt giữa tâm và vật chất.   

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.8. Điều quan trọng đối với con là trải nghiệm của con về môi trường chung quanh, trải nghiệm của con về đời con. Để hội đủ tư cách thăng thiên, con không phải thay đổi tình trạng vật lý trên trái đất. Điều duy nhất con phải thay đổi là những điều kiện bên trong bốn thể phàm của con.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.9. Điều duy nhất con phải thay đổi để có một trải nghiệm tích cực hơn về cuộc sống so với ngay bây giờ, là các điều kiện bên trong bốn thể phàm của con. Trong hoàn cảnh cá nhân, có những thứ mà con có khả năng thay đổi bằng cách thay đổi cách con nhìn chúng.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 7

7.1. Con đang ở tầng khai ngộ mà đó là bước kế tiếp của con. Con nhận chân nó, nhìn nhận nó, và như vậy con bắt đầu xem xét mình đang nhìn mọi vật như thế nào, mình nhìn đời mình như thế nào, mình nhìn mọi điều kiện như thế nào.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.2. Con nhìn nhận là bất kể các điều kiện vỏ ngoài có thế nào, bất kể người khác, bất kể thời tiết Nam cực có thế nào, vẫn có một điều gì mà con có thể khởi sự thay đổi ngay bây giờ, và đó chính là cách con nhìn cuộc sống.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.3. Con bắt đầu rời khỏi cái nhìn vật tách biệt. Con bắt đầu nhìn xa hơn hình ảnh rắn đặc đó. Con bắt đầu nhìn ra là tất cả mọi thứ đều nối kết, tất cả đều lỏng.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.4. Bộ máy giả thực tại của địa cầu sản xuất ra tất cả những hiện tượng đó mà giác quan bảo là vật tách biệt rắn đặc. Máy giả thực tại làm vậy vì nó có bốn tầng – bản sắc, lý trí, cảm xúc và vật lý. Tầng vật lý là một màn hình. Có một hình ảnh được chiếu lên màn hình.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.5. Hình ảnh được chiếu lên màn hình của thế giới vật lý là do trong cõi bản sắc có một hình ảnh được hình thành, định ra một khung sườn tổng quát. Xong nó được chiếu vào tầng lý trí nơi nó trở nên cụ thể hơn, chi tiết hơn. Xong nó được chiếu vào tầng cảm xúc nơi nó nhận được động lực, thôi thúc, xung lực năng lượng biến nó thành vật lý.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.6. Con xoay chuyển tâm con một cách ý thức, và nhận ra là bất cứ gì con nhìn thấy cũng không là một thế giới khách quan đang hiện hữu ở ngoài kia. Bất cứ gì con thấy đều là sự phóng chiếu trên một màn hình của những hình ảnh đang hiện hữu ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.7. Trong hoàn cảnh của con, có một số khía cạnh không được tạo ra bởi bốn thể phàm của con. Nhưng có những khía cạnh khác không là gì hơn sự phóng chiếu trên màn hình thế giới vật lý của những hình ảnh mà con mang trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.8. Những hình ảnh này, con có quyền năng khởi sự thay đổi. Khi con làm vậy, một số khía cạnh trong hoàn cảnh vỏ ngoài của con sẽ thay đổi. Chúng sẽ thay đổi!   

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.9. Điều này trái ngược với mọi thứ con đã được dạy dỗ và tin tưởng khi lớn lên. Nhưng toàn bộ mục đích của khóa tu này là để thay đổi, để con không bị kẹt trong những gì con đã được dạy dỗ phải tin vào.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 8

8.1. Con chất vấn cách con nhìn thực tại và nhận ra một số khía cạnh trong hoàn cảnh của con chỉ là sự phóng chiếu của những hình ảnh con đang cầm giữ, những gì con nghĩ là khả thi, những gì con nghĩ có thể thay đổi, những gì con nghĩ không thể thay đổi.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

8.2. Con đã bị lập trình để tin rằng có những khía cạnh trong hoàn cảnh của mình có một thực tại khách quan bên ngoài tâm con. Chúng là những điều kiện vỏ ngoài định đoạt những gì con có thểkhông thể làm.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

8.3. Con là một sinh thể tâm linh. Con không được quy định bởi các điều kiện vật lý, mà bởi những hình ảnh trong chính tâm con. Đó là cái quy định con. Con có khả năng thay đổi những khía cạnh trong hoàn cảnh của con do tâm con tạo ra.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

8.4. Một số điều kiện cứ duy trì mãi trong thời gian là vì trong ba thể cao của con vẫn còn một cuộn phim mà ánh sáng chiếu rọi qua. Ánh sáng khoác vào hình dạng đó và cái đó được chiếu lên màn hình.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

8.5. Chừng nào con chưa đi vào ba thể cao và thay đổi những gì con tin là khả thi, con sẽ tiếp tục phóng chiếu hình ảnh đó, và nó sẽ khoác vào những gì con tưởng là tình huống ngoại cảnh đang giới hạn con.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

8.6. Trong nhiều trường hợp, giới hạn chỉ hiện hữu trong tâm con mà thôi. Giờ đây con nhìn ra là có một cách khác để nhìn. Có hẳn một cơ hội mới, có hẳn một khả năng khác hơn để thị hiện một cái gì mà hiện thời con cho là bất khả thi.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

8.7. Có những điều con có khả năng thay đổi ở mức tâm thức hiện thời của con. Điều duy nhất ngăn cản con thay đổi chúng là con đang có một niềm tin hay một chương trình trong tiềm thức, khiến con nghĩ việc thay đổi là bất khả thi. Con chất vấn lập trình này.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

8.8. Có một phàm linh nội tại, một ngã tách biệt trong con không muốn con phá vỡ hàng rào đó và thoát ra khỏi giới hạn đó – bởi vì khi đó nó sẽ chết. Con để cho nó chết.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

8.9. Đây là một chuyển đổi to lớn, nhưng là một chuyển đổi khả thi ở mức khai ngộ hiện thời của con. Con chuyển đổi, và con biết là một số khía cạnh trong hoàn cảnh của con sẽ thay đổi.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu một cảm nhận mới về thực tại

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Saint Germain hãy giúp con có một cảm nhận mới về cái gì thực và cái gì không thực trên địa cầu. Hãy giúp con vượt qua ảo tưởng cho rằng vật chất có thể thay đổi con như một sinh thể tâm linh, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Tất cả mọi thứ được làm bằng vật chất, và vật chất thực sự được cấu tạo bằng những hạt nhỏ hơn, xuống tận đến năng lượng. Năng lượng là một dạng tín hiệu bật-tắt.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.2. Khi các tín hiệu đó bật lên, chúng có thể khoác vào bảy sắc thái hay bảy màu sắc khác nhau tùy theo bảy tia sáng.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.3. Vũ trụ vật lý được tạo bằng một màn hình. Ánh sáng Mẫu-Vật hình thành một màn hình. Các Elohim đã áp lên màn hình một số khuôn đúc, khiến cho những chấm nhỏ đó bật lên, và chúng bật lên với màu sắc của mỗi tia trong bảy tia sáng.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.4. Ánh sáng Mẫu-Vật là một màn hình với tất cả những chấm nhỏ đó có thể bật hay tắt, có nghĩa là chúng có thể hiển thị ra tuyệt đối bất cứ hình ảnh nào có thể tưởng tượng được. Đây là cách vũ trụ vận hành và là cách hành tinh địa cầu được tạo ra.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.5. Trái đất chỉ đơn giản là một màn hình có khả năng hiển thị nhiều hình ảnh khác nhau trong phạm vi mà các Elohim đã chọn. Trái đất có khả năng hiển thị những sự mất quân bình hiện tại mà con thấy, nhưng nó cũng có cùng khả năng hiển thị một trạng thái hài hòa.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.6. Trái đất không là một thế giới thực mà là một bộ máy giả thực tại. Vũ trụ vật chất là một bộ máy giả thực tại. Bất cứ gì con nhìn thấy trên địa cầu không là thế giới thực, nó chỉ được mô phỏng, nhưng nó không được mô phỏng để hiện ra là đồ mô phỏng, mà nó được mô phỏng để hiện ra như là thực.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.7. Con đã sinh ra trong máy giả thực tại, con đã sống trong máy đó suốt nhiều kiếp trước. Con không có khung tham chiếu nào để biết là bên ngoài máy có bất cứ gì. Con không biết đây là máy giả thực tại thì làm sao con có thể đặt thành vấn đề? Con không có gì để so sánh. Tất cả những gì con đã thấy và trải nghiệm là cảnh giả dạng.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.8. Con có cảm giác trực quan là một thế giới phải có thể sống một cách nào khác hơn, rằng con không thực sự thuộc về nơi đây, rằng đây không là môi trường thực sự của con.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.9. Sâu bên trong, con biết là vượt khỏi vũ trụ vật chất còn có cái gì đó. Con cảm nhận là có một thế giới tâm linh, có những sinh thể trong thế giới tâm linh đó, và có cách tương tác với những sinh thể đó, và đây chính là điều con đang làm ngay bây giờ.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 2

2.1. Con nắm lấy những cảm nhận này và sử dụng làm khung tham chiếu khi con nhìn địa cầu. Giờ đây con nhận chân trong tâm ý thức: “Giản dị đây chỉ là một cái máy giả thực tại.”     

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.2. Tại sao máy giả thực tại địa cầu lại có vẻ thực? Là vì con đã khoác vào những ảo tưởng đã dẫn con xuống từ tầng 144 đến tầng 48. Chính những ảo tưởng này khiến địa cầu có vẻ thực.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.3. Con đã rũ bỏ rất nhiều những ảo tưởng đó. Ở mức ý thức, con đi thêm một bước là nhận diện địa cầu như một bộ máy giả thực tại.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.4. Tuy nhiên, địa cầu không thực sự giả dạng thực tại. Cái đang giả dạng thực tại là tâm con, là bốn thể phàm của con. Ý niệm thực tại mà con từng có về thế giới trên trái đất hoàn toàn là một sản phẩm của tâm con.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.5. Để vượt qua những ảo tưởng đang kéo con chú tâm vào bản thân, con sẽ giữ vững ý tưởng rằng địa cầu không giả dạng thực tại, mà bất kỳ cảm nhận hay quan điểm về thực tại mà con có về địa cầu, là sản phẩm của một ảo tưởng trong tâm con.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.6. Có một điều tuyệt đối về máy giả thực tại, đó là: Tuyệt đối không có gì là thực. Tuyệt đối không có gì có thể ngăn chặn sự tăng triển tâm linh của con – ngoại trừ những gì xảy ra trong tâm con. Không có gì tuyệt đối trong máy giả thực tại ngoại trừ niềm tin tưởng mà con không sẵn lòng chất vấn.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.7. Nếu có một ảo tưởng trong tâm mà con không sẵn sàng chất vấn, đó chính là cái tuyệt đối sẽ giữ con lại ở mức đó cho đến khi một điều gì xảy ra làm tan vỡ ảo tưởng.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.8. Một ảo tưởng không bao giờ tuyệt đối. Nó là một ảo tưởng. Nó không thực. Nó không có bất kỳ tính chất lâu dài nào. Nó không có tuổi thọ, nó không có hiện hữu ngoại trừ trong tâm.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.9. Chính tâm con gán thực tại cho những gì con thấy trên địa cầu.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 3

3.1. Con đã khắc phục một số ảo tưởng so với khi con mới khởi sự khóa tu này, nhưng con hoàn toàn có thể khắc phục một ảo tưởng mà vẫn chưa thật sự đưa nó vào cách con nhìn thế giới.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.2. Con có thể nâng tâm thức nhưng vẫn còn một cái nhìn tổng quát nào đó về cuộc sống mà con chưa chất vấn. Con sẽ chất vấn một cách ý thức cái nhìn của con về thế giới và những gì con cho là thực bên trong máy giả thực tại.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.3. Máy giả thực tại “thật sự” là tự ngã của con vì chính tự ngã khiến cho mọi thứ có vẻ thực. Nó cũng khiến cho mọi thứ có vẻ quan trọng – quan trọng và mang ý nghĩa.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.4. Tự ngã bị kẹt trong tư duy cuồng đại, tư duy cho rằng có cái gì đó tối hậu với tầm hệ trọng cuồng đại.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.5. Con từ chối đưa tư duy cuồng đại vào giáo lý của chân sư thăng thiên hoặc bất kỳ giáo lý hay tổ chức tâm linh nào khác.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.6. Con buông bỏ nhu cầu cảm thấy việc làm của mình là hệ trọng cuồng đại, và con đang “cứu nguy thế giới cho thày Saint Germain.” Con chất vấn tư duy cuồng đại một cách ý thức.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.7. Con muốn học cách kết đọng những hoàn cảnh tốt đẹp hơn cho bản thân và cho hành tinh – trong vật chất. Việc này đòi hỏi con thay đổi vật chất.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.8. Làm thế nào con có được những hoàn cảnh vật chất tốt đẹp hơn nếu con không thay đổi vật chất? Làm thế nào con thay đổi được vật chất bằng tâm nếu con nghĩ vật chất không thể thay đổi và những gì xảy ra trong vật chất hệ trọng đến độ nó có thể ảnh hưởng đến con, một sinh thể tâm linh?    

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.9. Tư duy cuồng đại cho con cảm nhận là tất cả những gì con làm đều hệ trọng, rằng chính con hệ trọng. Cái giá con phải trả là con cũng nghĩ có một số điều kiện trong thế giới vật chất mà con không thể thay đổi.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 4

4.1. Con muốn tự do, con sẵn sàng chất vấn cảm nhận thực tại của con và tại sao con nghĩ các điều kiện trong vật chất là thực.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.2. Con sẽ không dùng bài chú bài thỉnh như một cái cớ. Con sẽ tập trung chú ý để giải quyết những vấn đề trong tâm lý của con.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.3. Chìa khóa để tinh tấn là làm việc trên bản thân, nhìn vào bản thân, khắc phục ảo tưởng của mình. Con sẵn sàng xem xét tại sao con nghĩ có những thứ là thực.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.4. Việc tiếp tục giao tranh cuồng đại không còn tầm quan trọng cuồng đại nào nữa. Quan trọng hơn là con khắc phục các ảo tưởng để vươn lên tầng 96, và vượt quá cả tầng đó trên con đường quả vị Ki-tô.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.5. Con chất vấn mọi thứ, kể cả cái nhìn của mình về đường tu tâm linh và cảm nhận rằng cuộc giao tranh cuồng đại là thực. Sa nhân không là thực tế thực. Các điều kiện trên địa cầu không là thực tế thực. Chúng có mặt ở đây nhưng chúng nhất thời.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.6. Nếu các điều kiện chỉ nhất thời, điều này có nghĩa gì cho con? Con là ai, con là ? Con không là một con người đang bước trên đường tu tâm linh. Con là một sinh thể tâm linh đang bước trên con đường khai ngộ do bộ máy giả thực tại có tên là địa cầu cống hiến.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.7. Những điều kiện có mặt nhất thời trên địa cầu không hề có quyền năng thay đổi tánh linh của con. Cái Ta Biết là nhận biết thuần khiết, nó không thể bị bất cứ gì trên địa cầu thay đổi vĩnh viễn.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.8. Con đã khoác vào một số ảo tưởng, nhưng con đang ở trong tiến trình tỉnh ngộ. Đã đến lúc con tỉnh ngộ khỏi ảo tưởng rằng vật chất có ảnh hưởng trên con như một sinh thể tâm linh.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.9. Con cho phép Saint Germain gia tốc tâm thức của con, để con có được cái trải nghiệm “à ra thế” ở mức ý thức mà con đã có tại nhập thất của thày.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 5

5.1. Con ý thức nhìn nhận là không có điều kiện nào trong vật chất có thể thay đổi con như một sinh thể tâm linh. Điều này quan trọng vì làm thế nào con có thể thay đổi vật chất nếu con nghĩ vật chất thay đổi con?

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.2. Sa nhân muốn con nghĩ là con đã mắc phải một lỗi lầm mà con sẽ không bao giờ hóa giải được, và con sẽ mãi mãi kẹt lại do lỗi lầm này. Con sẽ không bao giờ thoát khỏi cuộc giao tranh với sa nhân chừng nào con còn tin vào ảo tưởng đó.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.3. Con sẽ không còn cho phép sa nhân làm khung tham chiếu cho con về thực tại tối hậu trên trái đất, Con bác bỏ những lời gian dối mà chúng đã bắt loài người phải chịu đựng suốt hàng triệu năm trời.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.4. Khung tham chiếu của con là các chân sư thăng thiên, và con biết những giáo lý và trải nghiệm mà các thày ban cho con trực tiếp nơi tim là thực tại tối hậu.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.5. Con trải nghiệm con là cái Ta Biết. Con là nhận biết thuần khiết. Khi con trải nghiệm mình là nhận biết thuần khiết, không có gì trên địa cầu quan trọng nữa, không có gì trong vật chất quan trọng nữa. Vật chất không quan trọng. Nó đã không thay đổi được con là ai.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.6. Cho dù mọi thứ có là gì trong vật chất, chúng không thay đổi được con, cho nên chúng không quan trọng đối với con một cách tối hậu. Nếu con cảm nhận bất cứ gì trên trái đất là thực tại, đó là vì con đã khoác vào một ảo tưởng.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.7. Ảo tưởng đó bảo rằng có một điều kiện trong vật chất quan trọng đối với con, nhưng tại sao bất cứ gì có thể quan trọng đối với con? Bởi vì con nghĩ là nó quy định được con. Nó quy định con là ai, con có thể làm gì và không thể làm gì. Nó hạn chế con. Nó đánh bẫy con. Nếu không thì đâu có quan trọng gì? Giờ đây con nhìn thấu qua ảo tưởng này.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.8. Con nhìn mọi người chung quanh và thấy họ bị mắc kẹt như thế nào trong một số điều kiện. Liệu những điều kiện đó còn quan trọng với con hay không? Chúng đã từng quan trọng với con khi con lớn lên. Con đã lớn lên trong môi trường đó, con đã có lòng hiếu thảo và đồng cảm nào đó đối với cha mẹ và mọi người quanh con, và điều này cũng tự nhiên thôi.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.9. Con bước lui lại, nhìn chuyện đó và nói: “Liệu nó còn quan trọng với tôi nữa hay không khi giờ đây tôi là con người mà tôi đang là? Liệu các điều kiện đó có quan trọng không? Liệu tôi sẽ để cho chúng cứ quy định mình mãi, quy định những gì mình nghĩ mình có thể làm hay không thể làm?”

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 6

6.1. Những gì con nghĩ không thể thay đổi được bằng tâm là những gì tâm con đã gán cảm nhận thực tại tuyệt đối đó. Chính cảm nhận thực tại tuyệt đối này đang giam con trong một cái lồng mạ vàng.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.2. Con sẽ không để cho giáo lý của chân sư thăng thiên giam con trong lồng mạ vàng, nơi con cảm thấy mình là một đệ tử tâm linh cao cấp nhất trên hành tinh, nhưng mình vẫn bị mắc kẹt.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.3. Con xem xét cách nhìn về thế giới và quan hệ của con với thế giới vật chất. Con gạt bỏ bất kỳ niềm tin nào cho rằng vật chất quy định chính con, vì con hoàn toàn chấp nhận mình là một sinh thể tâm linh.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.4. Những gì là thực đối với con và những gì con nghĩ là không thể thay đổi, đó chính là cái quy định con.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.5. Nó quy định cái nhìn của con rằng con là một sinh thể đang đầu thai vật lý trên địa cầu. Nó quy định cái nhìn của con về chính con.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.6. Cho tới nay, con đã xem mình là một sinh thể tâm linh nhưng một sinh thể tâm linh trong vũ trụ vật chất.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.7. Con có một cảm nhận nào đó về cách con quan hệ với vũ trụ vật chất, về những gì con có thể làm và không thể làm, và cái đó quy định con.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.8. Con sẵn sàng chất vấn cái đang quy định con vì con muốn bước lên cao hơn, và con sẽ ngừng không cho các điều kiện vật chất đó quy định con.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.9. Với sự giúp đỡ của thày Saint Germain, con đang tìm ra một cách mới để quy định mình như một sinh thể trong cõi vật chất.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu lòng yêu thương Sứ vụ Thiêng liêng

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Saint Germain hãy giúp con nhìn ra viễn quan trong Sứ vụ Thiêng liêng của con về ý nghĩa sự sống như một người tâm linh. Xin thày giúp con khắc phục mọi mơ mộng không thực tế đang ngăn cản viễn quan trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Con bác bỏ sự phân chia trong tâm thức tập thể giữa cuộc sống bình thường hàng ngày và cuộc sống tôn giáo hay tâm linh.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.2. Sự phân rẽ giữa “đạo và đời” không còn giá trị, và con thấy được một cách nhìn khác về khía cạnh tâm linh và khía cạnh thực tiễn của cuộc sống.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.3. Con buông bỏ những mơ mộng không thực tế về đời sống tâm linh. Con bác bỏ con quái vật trong tâm thức tập thể mô tả vật chất như kẻ thù của phát triển tâm linh.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.4. Con từ chối đi theo các sa nhân kiểm soát tôn giáo cũng như các sa nhân kiểm soát đời sống thế tục.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.5. Con buông bỏ nỗi thù ghét cõi Mẹ phát xuất từ sa nhân, cùng tin tưởng của chúng là chúng có thể chọn lựa mà không phải đối mặt với hậu quả của chọn lựa.   

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.6. Nếu con chọn lựa mà không bị hậu quả vật lý nào, làm sao con sẽ biết là con đã chọn lựa? Nếu con không trải nghiệm hậu quả, làm sao con có thể dựa theo đó mà điều chỉnh trạng thái tâm mình? Nếu con không thể điều chỉnh trạng thái tâm mình, làm sao con có thể tăng trỉển đây?

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.7. Con là một người tầm đạo tâm linh, và con từ chối có cùng thái độ như sa nhân đối với cõi vật chất.  

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.8. Trên một hành tinh như trái đất với quá nhiều bạo lực và đấu tranh, sự kiện con gần như nảy sinh một nỗi thù ghét, hay ít ra một niềm oán giận, đối với cõi Mẹ, là một chuyện dễ hiểu.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.9. Mặc dù phản ứng của con thông cảm được, giờ đây nỗi oán giận đó đối với cõi của Mẹ không còn xây dựng nữa.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 2

2.1. Mục tiêu của con là thị hiện một hoàn cảnh nơi con có sự hài hòa giữa cái nhìn tâm linh về cuộc sống và hoàn cảnh thực tiễn hàng ngày của con. Làm sao con làm được điều đó nếu con oán giận vật chất?

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.2. Để có hài hòa giữa hai cuộc sống tâm linh và thực tiễn, một cái gì đó phải thay đổi trong vật chất. Để cái gì đó thay đổi trong vật chất, con phải làm việc với vật chất thay vì cưỡng chống lại vật chất.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.3. Con ngừng cưỡng lại vật chất. Con ngừng cưỡng lại cõi Mẹ! Con ngừng cho rằng nếu điều kiện khác đi thì sau đó con có thể sống tâm linh hơn, sau đó con có thể cảm thấy an bình trên trái đất, sau đó con có thể hạnh phúc trên hành tinh này.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.4. Vật chất chỉ có thể trải bày những gì được phóng chiếu lên nó. Nếu muốn thay đổi điều gì thì thay đổi phải bắt đầu trong tâm. Nếu điều phải thay đổi trong tâm liên quan đến hoàn cảnh của con, thì chính tâm con phải thay đổi.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.5. Con buông bỏ ý tưởng là một ngày con sẽ tìm ra công thức bí mật để thay đổi vật chất mà không thay đổi tâm. Con đã vỡ ra điều đó, và con nhận ra là con không thể làm việc với vật chất và thị hiện một hoàn cảnh tốt đẹp hơn trong vật chất nếu con cưỡng chống, oán giận vật chất – con sẽ chỉ đẩy nó ra xa hơn.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.6. Có một cách thần điệu để con thay đổi vật chất, và cách thần diệu này là sử dụng quyền năng của tâm con. Con không thể sử dụng quyền năng thay đổi vật chất đó nếu con oán giận vật chất, nếu con cưỡng lại.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.7. Con chấp nhận là con đang ở trong vật chất, ở trong cõi vật chất. Con chấp nhận là con ở đây vì con đã chọn ở đây, vì con muốn ở đây.  

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.8. Con xoay chuyển trong tâm và nhận ra là tâm con có thái độ kháng cự lại vật chất. Con từng quyết định từ chối làm việc với vật chất, hay ít ra từ chối sử dụng tâm mình để làm việc với vật chất.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.9. Con buông bỏ thái độ đó, và bác bỏ con quái vật bảo người tâm linh tránh không được giao lưu với vật chất trong đời sống thực tiễn hàng ngày, vì như vậy sẽ làm hại đến sự phát triển tâm linh của chúng con. 

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 3

3.1. Công nghệ và lối sống hiện đại đã đem lại một bối cảnh nơi con hoàn toàn có khả năng sống một cuộc đời tương đối năng hoạt giữa xã hội mà vẫn phát triển tâm linh tối đa.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.2. Trong Sứ vụ Thiêng liêng của con có ý muốn hỗ trợ việc thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain. Con sẽ không làm được việc đó bằng cách rút khỏi thế gian và sống trong tu viện, hay một cuộc đời mà nhiều người tâm linh gọi là lối sống tâm linh.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.3. Thời đại Bảo bình là thời đại của cộng đồng. Cộng đồng không có nghĩa là con tự cô lập khỏi thế giới và tạo ra một cộng đồng những người tâm linh có cùng niềm tin và sở thích. Cộng đồng nghĩa là con sống trong cộng đồng rộng lớn hơn. Con dự phần vào đời sống thế gian.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.4. Con sẵn sàng làm việc với người khác, tham gia vào xã hội để Thánh linh có thể tuôn chảy xuyên qua con trong đời sống hàng ngày, như khi con nói điều gì với ai đó và giúp cho người đó nhảy vọt trên đường tâm linh của họ.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.5. Con chỉ có thể đem lại hài hòa giữa đời sống tâm linh và thực tiễn bằng cách thay đổi thái độ đối với ý nghĩa của “đời sống tâm linh” và ý nghĩa của “đời sống thực tiễn”.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.6. Con phá bỏ những rào cản do sa nhân tạo ra. Làm sao con có thể là người tâm linh đích thực nếu con cho phép những rào cản do sa nhân dựng lên tồn tại trong tâm mình? Chúng phải ra đi.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.7. Trong tâm con không còn sự phân rẽ đó giữa đạo và đời. Không còn cách biệt nào giữa những gì con xem là sinh hoạt tâm linh và những gì con xem là sinh hoạt thực tiễn.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.8. Con thay đổi thái độ và ngừng xem các “sinh hoạt tâm linh” là tâm linh. Con phá vỡ khuôn đúc đã được dựng lên trong tâm thức tập thể về ý nghĩa của sinh hoạt tâm linh.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.9. Trong Thời đại Bảo bình, tất cả mọi thứ đều là sinh hoạt tâm linh – và con làm vậy với tư duy xem đó tâm linh.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 4

4.1. Con sẵn sàng nhìn nhận là mình đang mang trong tâm một nỗi oán giận đối với vật chất. Con nhìn nhận là con có nó, và đã đến lúc con thăng vượt nó.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.2. Con nhìn xa hơn mọi hiện tượng vật chất. Con nhận ra vật chất được cấu tạo bằng nguyên tử, phân tử, hạt hạ nguyên tử và sóng năng lượng. Con nhận ra tất cả mọi hiện tượng vật chất đều thật sự làm bằng chất cơ bản này.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.3. Ánh sáng Mẫu-Vật không là kẻ thù của con. Nó không tìm cách trả đũa con, hãm hại con hay kháng cự con!

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.4. Con vượt khỏi tất cả những hình ảnh và khuôn đúc được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và con chạm được Ánh sáng Mẫu-Vật thuần khiết. Ánh sáng Mẫu-Vật này không hề cưỡng lại con chút nào.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.5. Tự thân Ánh sáng Mẫu-Vật không tách biệt khỏi Tánh linh. Là cái Ta Biết, con chạm được Ánh sáng Mẫu-Vật thuần khiết, và con thấy Ánh sáng Mẫu-Vật không hề tách rời khỏi Tánh linh. Giữa Mẹ Thiêng liêng và Cha Thiêng liêng không có ngăn cách.    

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.6. Ánh sáng Mẫu-Vật là một phần nối dài của Cha. Ánh sáng Mẫu-Vật được sử dụng để hình thành hành tinh địa cầu là một phần nối dài của Ánh sáng Mẫu-Vật trong cõi tâm linh, chỉ khác chút xíu về mặt rung động.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.7. Ánh sáng Mẫu-Vật cơ bản đã hình thành địa cầu có khả năng diễn bày ra bất kỳ hình tướng nào được phóng chiếu lên nó. Nó có thể diễn bày một trạng thái địa đàng cũng dễ dàng như tình trạng hỗn loạn hiện nay trên địa cầu.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.8. Không phải Ánh sáng Mẫu-Vật là kẻ thù của con. Nó không cưỡng lại con, vậy tại sao con lại cưỡng lại nó?

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.9. Con thực sự muốn thay đổi hoàn cảnh của con trong vật chất, và cách duy nhất là qua trung gian vật chất. Cách duy nhất để thay đổi vật chất là chấp nhận và ôm lấy vật chất, là ngừng oán giận nó, cưỡng lại nó và đẩy nó xa khỏi con.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 5

5.1. Con vươn lên trên mọi “bất nhất nhận thức”, là sự mâu thuẫn giữa những gì con tin và những gì con làm. Con bác bỏ lời xuyên tạc của tôn giáo bảo rằng có sự tách biệt giữa vật chất và Tánh linh, và do đó vật chất không tâm linh.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.2. Con bác bỏ tin tưởng rằng để thay đổi điều gì trong vật chất, con phải đi qua trung gian cõi tâm linh và tìm một sinh thể tâm linh có quyền năng thay đổi vật chất giùm con.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.3. Tự điều ngự không có nghĩa là con tìm một sinh thể tâm linh giống như một ông thần hay ông Già Nô-en sẽ toại nguyện mọi ước muốn của con. Tự điều ngự nghĩa là chính con có khả năng thay đổi vật chất, nhưng con không thể thay đổi vật chất nếu con cưỡng lại nó.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.4. Con nhìn ra sự kháng cự đó, con thấy đó là một phàm linh nội tại, một ngã tách biệt. Con lui ra khỏi nó. Cái Ta Biết bước ra ngoài phàm linh đó, thấy nó là một phàm linh, thấy nó được tạo ra từ nỗi oán giận vật chất.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.5. Con từ chối bước vào mọi tranh luận với phàm linh vì con sẽ không vứt bỏ được nó bằng cách chứng minh là nó sai. Con thấy nó như nó là, nó là một phàm linh tách biệt trong bản thân con. Con nhận ra mình là cái Ta Biết chứ không là phàm linh đó. Con không muốn nó trong đời con nữa và con giản dị cho nó chết đi.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.6. Khi nào con còn tranh cãi với nó, cố biện minh cho nó hay chứng minh là nó sai, thì con đang cho nó năng lượng. Con ngừng không cho nó năng lượng và để nó chết. Con đã tạo ra nó, đã nuôi dưỡng nó qua sự chú ý và các tin tưởng của con. Khi con ngừng cho nó thức ăn năng lượng của con, nó sẽ chết.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.7. Con thỉnh cầu Đại thiên thần Michael và Astrea tiêu hủy phàm linh oán giận vật chất, và con chấp nhận là nó không còn. Do đó con không còn nuôi dưỡng nó với năng lượng của con.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.8. Con chấp nhận là vật chất không cưỡng lại nỗ lực của con nhằm sống tâm linh hơn. Con cũng chấp nhận là vật chất sẽ không tuân theo mộng mơ hiện thời của con về thế nào là sống tâm linh.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.9. Con nhìn ra ý tưởng bảo đời sống tâm linh phải như thế nào, cũng là một phàm linh nội tại, và con để cho nó chết.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 6

6.1. Chừng nào con còn bám giữ phàm linh nội tại này bảo đời sống tâm linh phải như thế nào, con sẽ không thể thấy những gì chính con đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng về cách con muốn sống đời mình.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.2. Con đã thiết kế Sứ vụ Thiêng liêng là con sẽ sống một cuộc đời tương đối năng hoạt, sẽ tương tác với người khác, và là cánh cửa mở cho việc biểu hiện những ý tưởng từ cõi thăng thiên.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.3. Cuộc sống hàng ngày được cải thiện nhờ những người bình thường hàng ngày đưa ra ý mới về những cách làm hay hơn. Ý mới được đưa ra bởi những người có sự hòa điệu cùng khả năng hay kinh nghiệm trong lãnh vực đó.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.4. Có khác biệt lớn lao giữa mơ mộng về đời sống tâm linh và những gì con đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng. Con buông bỏ ý tưởng về đời sống tâm linh phải như thế nào, buông bỏ nỗi oán giận đối với vật chất, và con nhìn ra những gì mình đã ghi vào Sứ vụ của mình.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.5. Khi con thảo Sứ vụ Thiêng liêng, con xem xét rất thiết thực và nói: “Đâu là tiềm năng tăng triển cho tôi trong kiếp này? Làm thế nào tôi thực hiện được chuyện này tốt nhất dựa trên quá trình của mình, nghiệp quả của mình và những người mà mình có mối ràng buộc? Tôi muốn đầu thai trong loại xã hội như thế nào để làm cánh cửa mở và biểu hiện ý tưởng mới cho các chân sư và Saint Germain?”    

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.6. Yếu tố đã đem lại tiến bộ trong xã hội là sáng kiến mới do những người sống trong cuộc đời thực tiễn. Việc đưa nền văn minh này tiến lên Thời Hoàng kim của Saint Germain không là một vấn đề lý tưởng, mà là một vấn đề thực tiễn.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.7. Có một khoảng cách giữa thực tế và những gì người tâm linh tin tưởng. Con muốn khắc phục khoảng cách này, hầu con thị hiện những gì con đã ghi trong Sứ vụ của con.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.8. Để khắc phục khoảng cách đó, con điều chỉnh nội dung tâm con để đem nó xuống mức thực tiễn và thực tế. Thời Hoàng kim của Saint Germain sẽ được thị hiện bởi rất nhiều người biểu hiện những ý tưởng nhỏ bé.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.9. Thời Hoàng kim không là những xoay chuyển thần diệu lý tưởng, mà là đi từng bước một. Chính con cũng làm như vậy. Con buông bỏ ý tưởng rằng một ngày kia chuyển vọt sẽ xảy đến, và bỗng dưng con sẽ có lối sống tâm linh mà con hiện không có.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 7

7.1. Trong tâm con có một khoảng cách giữa hiện trạng thực tế của con và nơi mà các lý tưởng tâm linh bảo con phải đến. Con thấy trong tâm con không có một cách thực tế nào để đóng lại khoảng cách đó.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.2. Làm thế nào con sẽ đi từ tình trạng thực tiễn hàng ngày đến lối sống tâm linh mà con mường tượng? Con sẽ không bao giờ làm được, vì lối sống tâm linh con mường tượng trái ngược với chính Sứ vụ của con.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.3. Nếu con cố thị hiện một điều gì trái ngược với Sứ vụ Thiêng liêng, có một phần trong tâm tiềm thức sẽ phá hoại nỗ lực của con.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.4. Đối với một người tâm linh, hội chứng tự phá hoại có nghĩa là tâm ý thức đã chọn một mục tiêu đi ngược lại Sứ vụ Thiêng liêng, và trong tiềm thức con sẽ phá hoại chính mình để tránh bị kẹt lại trong một sinh hoạt sẽ khiến mình rời xa Sứ vụ của mình.   

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.5. Con nhìn lại đời mình có những lúc con đã có ý bước vào một lãnh vực nào đó, nhưng rồi con đã phá hoại mục tiêu đó. Con làm hòa với sự kiện là con đã làm vậy vì mục tiêu hay mong muốn ý thức của con đã không đồng thuận với Sứ vụ Thiêng liêng.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.6. Chừng nào tâm con còn bị ám ảnh bởi mộng mơ thiếu thực tế đó, con sẽ không thể lui lại và có tâm tĩnh lặng để mà thoáng nhìn thấy Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.7. Nếu con muốn nhìn thấy một điều gì mà tâm ý thức hiện chưa thấy được, con phải tạo một khoảng không gian trong tâm để viễn quan đó có thể hiện ra.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.8. Có một bức màn năng lượng đang ngăn cản con nhìn thấy. Cái làm con đui mù là bức màn năng lượng mà con đã tạo ra và duy trì trong chính tâm con. Màn năng lượng này được tạo ra do sự chú ý của con tập trung vào một số mơ mộng và hình ảnh không thực tế về người tâm linh phải như thế nào và lối sống tâm linh có nghĩa là gì.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.9. Con xem những ý nghĩ lý tưởng đó như một quả bong bóng, và con đang chọc thủng quả bóng cho nó nổ tung – và bao nhiêu ý nghĩ cũng tan theo.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 8

8.1. Con nhận ra mình là nô lệ cho sự chú ý của mình. Chú ý hướng về đâu, năng lượng của con sẽ theo về đó.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

8.2. Khi con đặt chú ý vào một giấc mộng mơ, năng lượng của con sẽ đi về đó. Một khi con đặt nhiều chú ý hơn vào đó, một bức màn năng lượng được dựng lên, ngăn cản con thấy viễn quan trong Sứ vụ của con. Con quá tập trung vào viễn kiến mà con tạo ra trong tâm ý thức đến độ con không thể hòa điệu với tâm cao hơn.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

8.3. Con càng dành ra nhiều năng lượng cho một điều gì thì bức màn năng lượng sẽ càng kiên cố, và bấy giờ nó trở thành một cục nam châm năng lượng sẽ lôi kéo chú ý của con.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

8.4. Con đặt chú ý vào một khuôn đúc thì con cho phép năng lượng chảy vào khuôn đúc. Khi năng lượng đạt một mức nào đó, khuôn đúc sẽ bắt đầu lôi kéo chú ý của con ngày càng tập trung vào nó. Nó biến thành một vòng xoáy có thể nuốt hết năng lượng và chú ý của con.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

8.5. Con đâm thủng bức màn năng lượng, đập tan bức màn năng lượng, đập tan mơ mộng không thực tế kia, và nhìn ra những gì con đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng, là những điều thực tế và thiết thực cho con trong kiếp này. Con tạo ra khe hở đó, tĩnh lặng đó trong tâm, nơi con có thể bất chợt nhìn xuyên qua bức màn.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

8.6. Khi sự chú ý của con bị thu hút tập trung vào một lãnh vực, con không thể nhìn vượt quá nó nếu con cứ chú tâm vào nó. Con phải rút chú ý ra khỏi nó để tạo tĩnh lặng trong tâm, khi đó những đám mây sẽ tẽ ra và một tia sáng mặt trời từ Hiện diện TA LÀ có thể rọi qua.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

8.7. Chừng nào con còn chú tâm vào mơ mộng thì sẽ không còn chú ý nào sót lại cho Hiện diện TA LÀ nữa. Con ý thức lấy quyết định là mình sẽ xem xét mơ mộng của mình về ý nghĩa người tâm linh. Con sẵn sàng tra vấn cái nhìn này. Con sẵn sàng nhìn xem nó có cao nhất không, đặc biệt nó có đồng thuận với Sứ vụ Thiêng liêng không. Nếu không thì con sẽ muốn biết, và con muốn để cho mơ mộng không thực tế kia ra đi, và con muốn thấy những gì ghi trong Sứ vụ của con.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

8.8. Con nhận ra mơ mộng của con có thể rất chi tiết, trong khi những gì con nhận được từ Hiện diện TA LÀ chỉ cho thấy bước kế tiếp mà con cần bước. Con ý thức lấy quyết định là con sẵn sàng buông bỏ mơ mộng, và từng bước một, con bước theo lời gợi nhắc từ bên trong,

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

8.9. Nếu con nhận được thôi thúc từ Hiện diện TA LÀ để làm một việc gì rất thiết thực, con sẽ đi theo lời gợi nhắc đó từ trực giác nội tâm, bất kể nó dẫn con tới đâu.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 9

9.1. Nếu con tiếp tục đi theo những lời nhắn gọi từ Hiện diện TA LÀ, chúng sẽ đưa con tới mục tiêu con đã định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng. Con muốn đi theo viễn quan thực tiễn và thực tế con đã ghi vào Sứ vụ, chứ không theo mộng mơ lý tưởng nhưng không thực tế mà con đã dần dà chấp nhận với tâm vỏ ngoài.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

9.2. Con sẵn sàng xem xét bất kỳ phong trào tâm linh nào mà con gia nhập, cũng như xét xem Sứ vụ của con bảo con cần học những gì từ phong trào đó.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

9.3. Con muốn biết liệu trong Sứ vụ có ghi là con nên gia nhập phong trào, nhưng lại không bảo con nên chấp nhận viễn kiến của phong trào đó về thế nào là một người tâm linh.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

9.4. Con đã đầu thai nơi con đang đầu thai là vì con thấy đây là cách hay nhất để đẩy mạnh Thời Hoàng kim của Saint Germain. Con với lên viễn quan chỉ cho con thấy làm thế nào con có thể giúp thị hiện Thời Hoàng kim ngay nơi con đang sống, thay vì du hành tới một nơi có vẻ tâm linh hơn.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

9.5. Con yêu trước tiên Hiện diện TA LÀ và viễn quan mà con đã đặt vào Sứ vụ Thiêng liêng của con. Đó là viễn quan mà chính con đã đặt vào đó khi con có tầm nhìn rộng rãi hơn tầm nhìn của con trong lúc này.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

9.6. Con xoay chuyển nhãn quan và con giải thoát khỏi nỗi ám ảnh cưỡng chế của những viễn kiến và mục tiêu vỏ ngoài đó, những mộng mơ đó. Con đạt được minh mẫn về thực tế thiết thực mà con đã đặt vào Sứ vụ của con.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

9.7. Con lấp được khoảng cách vì con không ngồi chờ cho đến khi con nhìn thấy một bước tâm linh rõ ràng để mà bước tới. Con bước theo tất cả những bước nhỏ thiết thực đang cải thiện đời con, đưa con xích gần hơn với những điều con đã ghi trong Sứ vụ Thiêng liêng.  

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

9.8. Con thỏa nguyện khi biết mình đang làm theo tất cả những bước nhỏ trong Sứ vụ Thiêng liêng. Đường tu là đi những bước khả thi, từng bước một, hầu con được toại nguyện ở tầng mức hiện tại của con.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

9.9. Thị hiện tức là có một viễn quan thực tế về những gì mình có thể thị hiện, dựa trên hoàn cảnh cá nhân của mình và hành tinh nơi mình sống. Con tìm thấy vàng thực, là viễn quan trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con bước từng bước một và con sẽ đến nơi con muốn đến.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu ý niệm thực tiễn về cái thực

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Saint Germain hãy giúp con có sự nhận biết nội tâm về cái thực và cái không thực. Xin thày giúp con có được những mục tiêu thực tiễn cho nỗ lực đồng sáng tạo của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Những gì do các chân sư thăng thiên sáng tạo là thực. Những gì do các sinh thể chưa thăng thiên phản-sáng-tạo là không thực.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.2. Rất nhiều điều kiện và đặc điểm hiện hành trên trái đất là không thực, và những gì không thực có thể được thay đổi.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.3. Rất nhiều giới hạn chung quanh con, rất nhiều giới hạn mà con phải đương đầu từ khi con hiện thân lần đầu tiên trên trái đất cũng như trong kiếp này, đều không thực theo nghĩa tối hậu.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.4. Khi con lớn lên, trong kiếp này lẫn những kiếp trước, con đã bị lập trình – bởi cha mẹ, bởi gia đình, bởi người đời trong xã hội, thậm chí bởi cả những định chế trong xã hội của con – để chấp nhận các điều kiện hiện hành là thực.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.5. Con đã bị lập trình để tin rằng các điều kiện hiện hành biểu trưng cho một thế giới có thực, nghĩa là con không có quyền năng trong tâm con để thay đổi chúng. Con nay tra vấn niềm tin này.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.6. Con đồng sáng tạo bằng cách hình thành trong tâm những hình ảnh, những khuôn đúc xuyên qua bốn tầng của tâm con, mà con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.7. Ngay cả những gì con gọi là thực cũng được tạo ra bởi một cái tâm, vì tâm luôn luôn đi trước thị hiện vật lý.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.8. Con bác bỏ một cách ý thức triết lý duy vật cho rằng ý tưởng và cảm xúc của con là sản phẩm của những tiến trình vật chất trong bộ não. Con bác bỏ con quái vật trong tâm thức tập thể tin rằng chỉ có những gì mang chất vật lý mới là thực. 

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.9. Trên thực tế không có vật chất. Vật chất không hiện hữu như một chất riêng biệt, vì vật chất đã được tâm tạo ra. Vật chất là một tạo vật của tâm.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 2

2.1. Con bác bỏ luận điệu duy vật bảo rằng vật chất có một thực tại hiện hữu độc lập với tâm. Con bác bỏ luận điệu cho rằng tâm con chỉ có thể chủ quan, nhưng vật chất thì có một hiện hữu khách quan, độc lập với tâm.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.2. Con bác bỏ luận điệu duy vật bảo rằng tâm không có quyền năng thay đổi vật chất. Con bác bỏ luận điệu cho rằng một khi trái đất đã ở một tình trạng nào đó, một khi vật chất đã rơi xuống một độ dày đặc nào đó, thì không có gì có thể làm được để thay đổi sự thể.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.3. Con bác bỏ luận điệu của tôn giáo bảo rằng các điều kiện hiện hành trên trái đất đã được Đấng Sáng tạo Toàn năng tạo ra, cho nên tâm con người, và ngay cả tâm của tập thể loài người, cũng không có quyền năng thay đổi được.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.4. Một triết lý tước mất quyền năng con người như vậy chỉ có thể đến từ sa nhân. Con biết, dựa trên kinh nghiệm nội tâm trực nhận, là triết lý đó không thật.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.5. Cả tôn giáo truyền thống lẫn khoa học duy vật đều không thật. Các kết luận, các triết lý của họ, đều không thật. Con đưa nhận biết này xuống tâm ý thức hầu con có thể kinh nghiệm sự thật đó trong một ánh chớp trực giác.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.6. Tâm có khả năng ảnh hưởng vật chất vì ngay từ đầu, toàn bộ vũ trụ vật chất là do tâm tạo ra. Từ khi địa cầu đi vào một vòng xoáy hướng hạ, rất nhiều điều kiện cũng do tâm tạo ra, tức là do tâm tập thể của nhân loại.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.7. Tâm tập thể này đã tạo ra một vòng xoáy hướng hạ khiến cho vật chất dày đặc hơn. Vật chất càng dày đặc thì tâm càng khó lòng thay đổi vật chất.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.8. Sa nhân đã thiết lập một tiến trình qua đó chúng đánh lừa và thao túng để loài người kéo tâm thức tập thể đi xuống, cho nên vật chất dày đặc hơn. Vật chất càng dày đặc thì sa nhân càng dễ kiểm soát nhân loại.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.9. Vật chất càng dày đặc thì con người càng ít khả năng cưỡng lại sa nhân qua quyền năng của tâm, nghĩa là con người chỉ còn cách cưỡng lại qua những phương tiện vật lý. Trong địa hạt này, sa nhân luôn chiếm thế thượng phong vì chúng sẵn sàng giết hại một cách không giới hạn.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 3

3.1. Sa nhân đã tìm ra cách kéo vật chất xuống độ dày đặc hiện thời. Với triết lý của chúng trong tôn giáo lẫn chủ nghĩa duy vật, chúng đang cố khiến cho nhân loại chấp nhận là độ rung của vật chất không bao giờ có thể được nâng lên, và các điều kiện hiện thời không thay đổi được trong bản chất.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.2. Con đang gỡ mình ra khỏi sự lập trình mà con đã nhận lãnh suốt những năm tháng lớn lên, cả trong kiếp này lẫn những kiếp trước.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.3. Con nhận ra là con có những phàm linh nội tại tin vào lập trình đó, và con sẵn lòng để cho chúng chết đi.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.4. Con đang thực hiện sự xoay chuyển trong tâm ý thức, qua đó con nhận ra con cần phân biệt khi xem xét các điều kiện vật lý trên trái đất. Có một số điều kiện mà tâm con người không có quyền năng thay đổi. Và có nhiều điều kiện khác, kể cả độ dày đặc của vật chất, có thể được quyền năng của tâm thay đổi.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.5. Bất kỳ điều kiện nào mà con gặp đều có tiềm năng được chuyển đổi qua quyền năng của tâm. Con nhìn nhận là con không có – và con không muốn có – quyền năng lật ngược tâm tập thể.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.6. Con buông bỏ mọi phàm linh nội tại mang ảo mộng quyền năng vĩ đại, nó muốn tâm con có quyền năng tạo ra sự thay đổi hay sự thị hiện thần diệu như trong phép lạ.  

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.7. Con lạc quan một cách thực tế, qua đó con không dựng lên một kỳ vọng là mình sẽ làm được nhiều hơn là mình có thể thật sự làm trong tư thế một cá nhân. Con buông bỏ những phàm linh mang kỳ vọng không thực tế.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.8. Con nhìn nhận là các điều kiện hiện hành là do tâm tập thể tạo ra. Là một cá nhân, con không thể lật bỏ tâm tập thể. Thật không thực tế nếu con dựng lên kỳ vọng là con có thể học được một quyền năng cho tâm lật bỏ tâm thức tập thể.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.9. Là một sinh thể Ki-tô, là một người đang bước chân trên đường quả vị Ki-tô, con không ham muốn thu hoạch quyền năng để thao túng tâm tập thể, hay ngay cả tâm của chỉ một người.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 4

4.1. Con lượng định một cách thực tiễn, và con đặt ra cho mình một mục tiêu không dính dáng gì đến chuyện thao túng quyền tự quyết của người khác. Con cố nâng cao toàn thể chứ không tìm cách gia tăng quyền năng của mình.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.2. Con trụ tâm vào một mục tiêu liên quan chủ yếu đến bản thân, một mục tiêu không đòi hỏi người khác phải thay đổi tâm họ, cuộc đời họ hay cách hành xử của họ để thỏa mãn mục tiêu của con.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.3. Con trụ tâm vào những gì con có thể làm để giúp thăng tiến Thời Hoàng kim của Saint Germain, bằng cách hòa điệu với cõi thăng thiên và đem xuống những tư tưởng hầu cải thiện một số điều kiện sống trên địa cầu.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.4. Con định ra một mục tiêu cho bản thân hầu ở cuối khoá tu này, con ở trong một trạng thái tâm mà qua đó con có khả năng nhận được tư tưởng từ một chân sư thăng thiên, liên quan đến một lãnh vực đời sống mà con quan tâm đặc biệt.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.5. Con định ra một mục tiêu cho bản thân để thay đổi hoàn cảnh cá nhân của mình, hầu không còn mâu thuẫn nào giữa đời sống tâm linh và đời sống thực tiễn, vật lý hàng ngày của con.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.6. Con chấp nhận là việc thị hiện các mục tiêu đó hoàn toàn thực tiễn, ngay cả với các điều kiện hiện hành trên địa cầu và độ dày đặc hiện thời của vật chất.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.7. Con chấp nhận là tâm con có khả năng hoà điệu với Saint Germain, và đem lại sự hài hòa giữa đời sống tâm linh và đời sống vật lý của con.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.8. Con chấp nhận là việc hoàn thành các mục tiêu đó chỉ là chuyện xoay chuyển trong tâm con, và không một điều kiện nào trên địa cầu hay một tà lực nào có thể can thiệp vào tiến trình này.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.9. Con chấp nhận là khi con thay đổi các hình ảnh và niềm tin trong bốn thể phàm bằng cách để cho phàm linh nội tại chết đi, thì các điều kiện vật chất của con phải thay đổi và sẽ thay đổi theo như vậy, bởi vì các điều kiện đó chỉ là sự phóng chiếu của hình ảnh trong tâm con.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu tư duy nghệ thuật

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Saint Germain hãy giúp con khoác vào tư duy nghệ thuật và nhìn ra vật chất là một ảo ảnh, bởi vì mọi thứ đều được cấu tạo bằng những năng lương vi tế hơn. Xin thày giúp con vượt qua mọi tin tưởng cho rằng vật chất có thể hạn chế sự biểu đạt nghệ thuật của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Con là một nghệ nhân và toàn bộ đời con là một tác phẩm nghệ thuật.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.2. Trung gian con dùng để sáng tạo tác phẩm nghệ thuật của con không phải là vật chất. Con điêu khắc năng lượng, là năng lượng khởi nguồn từ cõi tâm linh rồi chảy xuống thể bản sắc của con, rồi vào thể lý trí, rồi vào thể tình cảm, rồi đi vào thị hiện vật lý.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.3. Con nhận năng lượng sáng tạo trực tiếp từ Hiện diện TA LÀ của con, và đối với con, không có gì trên địa cầu quan trọng hơn là việc duy trì và khuếch trương sự kết nối đó.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.4. Khi năng lượng thuần khiết chảy qua ba thể cao, nó khoác vào hình tướng của bất cứ cấu trúc, hình ảnh, biểu tượng, hình dạng nào mà con có nơi ba thể đó. Đây là cách vận hành của tiến trình đồng sáng tạo.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.5. Những hoàn cảnh thị hiện trong đời con ngay lúc này là sản phẩm của ánh sáng đang khoác lấy hình dạng các hình ảnh mà con giữ nơi ba thể cao. Cách thực tế duy nhất để thay đổi hoàn cảnh vật lý của con là tinh luyện các hình ảnh đó.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.6. Công việc nghệ nhân của con không là chuyện đạt được khả năng thần diệu thay đổi vật chất. Công việc của con là tinh luyện hình ảnh trong tâm, rồi vật chất sẽ tuân theo hình ảnh mới đó.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.7. Là nghệ nhân chân chính, con không tìm cách đạt được công thức bí mật, hay biểu tượng bí mật sẽ cho phép con thị hiện bất cứ gì mà ngã vỏ ngoài mong muốn.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.8. Là nghệ nhân chân chính, con tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết, và con buông bỏ mọi ham muốn thị hiện những hoàn cảnh tốt đẹp hơn, hay ngay cả Thời Hoàng kim của Saint Germain, bằng cách cưỡng ép ý chí của người khác.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.9. Là nghệ nhân chân chính, con bước lên tầng cao hơn của quả vị Ki-tô nơi con cố gắng nâng cao toàn thể. Con buông bỏ mọi mơ mộng, đặc biệt là mơ mộng mình sẽ vượt một khai ngộ then chốt rồi từ đó mọi chuyện sẽ dễ dàng và kể như mình tới đích.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 2

2.1. Là nghệ nhân chân chính, con muốn công việc thị hiện của mình dựa trên viễn kiến cao nhất, và con biết viễn kiến này không tìm thấy trong ngã vỏ ngoài. Để làm nền cho nỗ lực sáng tạo, con vươn lên viễn quan mà con đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng trước khi con đầu thai trong kiếp này.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.2. Ngã vỏ ngoài không thể hiểu được viễn quan của Saint Germain về Thời Hoàng kim. Cho nên con muốn nối kết với tâm của Saint Germain và nhận được viễn quan đích thực của chính thày.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.3. Con nhìn nhận là không bao giờ có hoàn cảnh nào mà con, như một người đồng sáng tạo, có thể thị hiện những gì mình muốn mà không xét đến mình là một thành phần của tổng thể rộng lớn. Con đã biết điều này khi thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng, cho nên đây là viễn kiến con muốn dùng để xây dựng tác phẩm nghệ thuật của mình.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.4 Con là một nghệ nhân, một nhà điêu khắc, và con chọn vật liệu điêu khắc trong ý muốn tạo ra cái gì có giá trị lâu dài. Con không chọn các năng lượng thấp kém đã có sẵn trong quang phổ vật lý.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.5. Con chọn năng lượng thuần khiết đến từ Hiện diện TA LÀ, và con tiếp cận năng lượng đó bằng cách nâng ý chí vỏ ngoài cho đồng thuận với ý chí cao hơn mà con đã dùng để thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng, là ý chí đồng nhất với tổng thể, đồng nhất với viễn quan của Saint Germain cho Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.6. Con buông bỏ mơ ước hão huyền muốn thị hiện một cái gì ngoạn mục đến độ không ai có thể bác bỏ. Con chấp nhận là mình đang ở trên hành tinh địa cầu nơi vật chất dày đặc.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.7. Con lấy quyết định ý thức để cho những mộng mơ xa vời đó chết đi. Con để cho chúng ra đi, và con dùng ý chí để chọn cách thị hiện tác phẩm nghệ thuật, dựa trên viễn quan trong Sứ vụ Thiêng liêng về những gì con muốn thị hiện trong kiếp này.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.8. Là nghệ nhân chân chính, không có chuyện con sử dụng mức tâm thức hiện thời, viễn kiến hiện thời của mình, để quyết định với tâm vỏ ngoài những gì mình muốn thị hiện.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.9. Con quyết định với tâm ý thức là con muốn đứng thẳng hàng với ý chí cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng, thẳng hàng với ý chí cao hơn của Saint Germain cùng viễn quan của thày cho Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 3

3.1. Con xoay chuyển trong tâm, và con xem mình là một nghệ sĩ. Con sẵn sàng tự điều chỉnh, và con buông bỏ những cách nhìn mà con đã từng có về đời mình và bản thân mình.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.2. Con sẽ xem xét những lãnh vực đời sống mà con đặc biệt quan tâm. Con sẽ thấy là nhiều lần con đã nhìn vào các cơ chế vận hành trong lãnh vực đó, đã nhận ra một số điều mà con không muốn làm, một số thỏa hiệp mà con không sẵn sàng bước vào, và do đó con đã trở nên chán nản.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.3. Là một nghệ nhân, con sẽ buông bỏ sự chán nản đó, và thay vào đó, con sẽ tìm những cách thức sáng tạo để đem lại những gì con muốn đem lại trong Sứ vụ Thiêng liêng.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.4. Con buông bỏ mọi cảm giác chán nản, cảm giác rằng cơ chế thị hiện một điều gì đó trên địa cầu thật quá khó khăn, quá méo mó, quá thiếu quân bình, đến độ con không thấy làm sao con có thể thị hiện điều gì cao hơn trong lãnh vực đó.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.5. Là nghệ nhân chân chính, con nhìn ra nhu cầu khắc phục lực kéo-đẩy giữa sự mơ mộng về cách thị hiện một cái gì thật quan trọng, và sự chán nản là mình không làm gì được thực tế để đem lại thay đổi.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.6. Con nhìn ra là những thỏa hiệp và khó khăn đó khiến con bị chán nản. Nó đẩy con vào mộng mơ, nghĩ rằng có một công thức thần diệu, một biểu tượng huyền bí sẽ cho phép mình đâm xuyên qua mọi thỏa hiệp để vẫn thị hiện được một thành quả kỳ diệu, ngoạn mục nào đó.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.7. Là nghệ nhân chân chính, con không thấy khoảng cách nào giữa viễn kiến trong Sứ vụ Thiêng liêng và những điều thực tiễn con thấy mình thị hiện được trong đời mình. Con sẽ thị hiện viễn quan cao hơn của con, không bằng một cây gậy thần mà bằng chuyển đổi tâm thức.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.8. Con xoay chuyển cách mình tiếp cận cuộc sống thành tiếp cận nghệ thuật, bằng cách nhìn nhận trong ý thức rằng vật chất không là vật chất. Con vượt cái nhìn vĩ mô để nhìn ở mức các phân tử, nguyên tử, hạt hạ nguyên tử, cho đến mức của sóng năng lượng thuần khiết.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.9. Là nghệ sĩ chân chính, con thấy mọi thứ không là vật chất, vì vật chất là một mô thức giao thoa, một mô thức giao thoa vô cùng phức tạp của sóng năng lượng. Trung gian sáng tạo của con là năng lượng vi tế hơn, tức là năng lượng tình cảm, năng lượng lý trí, năng lượng ở mức bản sắc và năng lượng ở mức tâm linh.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 4

4.1. Là một nghệ nhân, con không xem các mức năng lượng vi tế này là năng lượng, mà là những tín hiệu bật-tắt. Khi bật, chúng khoác vào nhiều màu sắc, và nhiều chiếc diode như thế sẽ tạo chung một hình ảnh. Chỉ có giác quan mới khiến cho những tín hiệu đó có vẻ là vật được cấu tạo bằng vật chất.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.2. Là một nghệ nhân, con biết những gì con thấy bằng giác quan không phải là thế giới thực làm bằng vật tách biệt. “Thế giới thực” không phải là những vật thực làm bằng vật chất, mà giống như hình ảnh trên màn hình tivi có những đơn vị tí hon đang bật hay tắt, và nhiều đơn vị như thế hợp chung lại thành một mô thức phức tạp mà tâm con chuyển thành tấm hình.   

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.3. Là một nghệ nhân, con thấy có một khoảng cách giữa những gì con có thể hình dung và những gì con có thể thị hiện, vì con đang cố thị hiện một cái gì dựa trên những biểu tượng và hình dạng đã có sẵn trong thế giới vật chất.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.4. Là một nghệ nhân, con nhận ra trong ý thức là trên địa cầu, con phải đối diện với một công việc khó khăn do độ dày đặc của vật chất và sức cưỡng lại sự thay đổi. Tâm thức tập thể dày đặc cho nên con không sáng tạo trong những điều kiện lý tưởng.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.5. Là một nghệ nhân, con thận trọng khi chọn trung gian mình dùng để sáng tạo. Con không muốn chọn trung gian vật chất, là trung gian của những hình dạng vĩ mô, rồi tìm cách thị hiện ở mức đó. Con sẽ không khởi đầu với hình dạng có sẵn trong cõi vật lý để cố làm cho tốt đẹp hơn.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.6. Quả vị Ki-tô là con không khởi đầu ở mức vật lý với những điều kiện hiện hành và cố hình dung cách nào làm cho chúng tốt đẹp hơn. Quả vị Ki-tô là biết rằng để thực sự thay đổi sự thể trong cõi vật lý, con cần vươn lên một viễn kiến cao hơn. Con cần giải phóng tâm mình khỏi sự ràng buộc vào những gì đang sẵn thị hiện, hầu con mở tâm ra nhận được từ trên một viễn kiến cao hơn.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.7. Con xoay chuyển bằng cách xem mình là một nghệ nhân, nhưng con không điêu khắc từ vật chất. Con đang điêu khắc bằng cách sử dụng năng lượng thuần khiết, năng lượng vi tế hơn trong cõi bản sắc cao. 

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.8. Là một nghệ nhân, con khởi sự với một khoảng không gian trống rỗng, một trang vở trắng xóa, một trạng thái trinh nguyên. Có những tín hiệu bật-tắt là những đơn vị năng lượng nhỏ nhất có thể có trong cõi chưa thăng thiên của con.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.9. Con khởi sự với màn hình trống trải đó và con vươn lên nắm lấy viễn quan trong Sứ vụ Thiêng liêng. Xong con chồng viễn quan đó lên màn hình trống trải, đem nó xuống qua các tầng bản sắc, lý trí và tình cảm, đưa nó vào thị hiện vật lý. Đây không là một viễn quan dựa trên những gì đang thị hiện, mà những gì có khả năng thị hiện – vì viễn quan của con sạch bong, không có gì đã sẵn thị hiện.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Khi vật chất và chính con không quan trọng

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 16/1/2019.

TA LÀ chân sư Saint Germain, và cho khai ngộ thứ bảy và cũng là cuối cùng tại khóa nhập thất của thày, thày muốn dẫn con theo một hướng hơi khác. Thày có nói trong một bài giảng trước là con cần đạt tới điểm khi “vật chất không còn quan trọng” [matter trong Anh ngữ có nghĩa là vật chất, và cũng có nghĩa là quan trọng]. Cho khai ngộ thứ bảy này, con cần đạt tới điểm khi chính con cũng không quan trọng.

16.1. Trọng lực

Bây giờ con hãy dõi nhìn con xem con phản ứng thế nào khi con nghe hay đọc câu này: “Con không quan trọng.” Phản ứng con cảm thấy trong bản thân mình là thế nào? Nó sẽ phần nào cho con thấy là con có một cái ngã muốn được quan trọng, một cái ngã có nhu cầu được quan trọng, thậm chí một nhu cầu ám ảnh-cưỡng chế là mình quan trọng, là mình đem lại sự khác biệt.

Các thày đã nói gì với con về mục đích của những khai ngộ mà con kinh qua giữa các tầng 48 và 96? Đó là để con vươn mình lên khỏi lực kéo của tâm thức tập thể. Con có thể so sánh lực này với trọng lực. Theo một nghĩa nào đó, tâm thức tập thể vận hành như một lực hấp dẫn tìm cách kéo mọi người xuống mức mà chúng ta có thể gọi là mẫu số chung thấp nhất – không nhất thiết là mức thấp nhất của tâm thức tập thể nhưng là mức trung bình. Chắc chắn trong tập thể cũng có những khác biệt – sẽ có người ở mức thấp hơn và người ở mức cao hơn – nhưng có một mức trung bình nào đó, và lực hấp dẫn của tâm thức tập thể sẽ tìm cách kéo mọi người xuống ít nhất mức trung bình đó.

Để vượt lên trên mức đó và cất bước trên đường tu tâm linh, con cần kéo mình ra khỏi trọng lực đó. Điều này đòi hỏi một sự quyết tâm nào đó, một sức mạnh ý chí, một động lượng và nhiệt tình nào đó. Chúng ta còn có thể nói là nó đòi hỏi một nỗ lực chiến đấu nào đó, mặc dù các vị Thượng sư khác đã cố giúp con nắm ý là con thoát khỏi cảm nhận chiến đấu, rằng con không còn cảm giác là con đang chiến đấu chống lại tâm thức tập thể.   

Làm thế nào con thoát khỏi tâm thức tập thể, tâm thức đại chúng? Chúng ta ở trên một hành tinh có tên là địa cầu nơi vật chất rất dày đặc, nơi tâm thức tập thể cũng rất mạnh mẽ và khá thấp so với mức tâm thức của quả vị Ki-tô. Muốn thoát ra khỏi sẽ đòi hỏi một nỗ lực, một quyết tâm khá lớn. Bây giờ nếu con so sánh với nỗ lực để thoát khỏi trọng lực của trái đất, con sẽ thấy là nếu con dùng phương thức quen thuộc, con sẽ chế tạo một chiếc hỏa tiễn và động cơ của nó phải rất lớn. Nó phải đem theo thật nhiều nhiên liệu để khi đốt cháy, nhiên liệu sẽ đẩy hỏa tiễn ra khỏi vòng kềm toả của trọng lực địa cầu, bay vào quỹ đạo. Một khi tàu vũ trụ đã ở trên quỹ đạo, không còn lực hút nào sẽ kéo nó xuống mặt đất nữa. Nó quay quanh địa cầu trên một tầng quỹ đạo nhất định và nó có thể bay tiếp như vậy gần như vĩnh viễn. Nó không cần đến bất kỳ nỗ lực nào nữa.

Điều thày đang cố giúp con thực hiện với bảy tầng khai ngộ này ở khóa nhập thất của thày là dẫn con đến một điểm nơi con – nếu có thể nói như vậy – sẽ đi vào quỹ đạo, con sẽ thoát ra khỏi lực hút của tâm thức tập thể. Nhưng ngược với phi thuyền không gian, điều này không có nghĩa là thày muốn con ở lại mức đó vĩnh viễn. Thày không muốn con cứ bay vòng vòng ở mức tâm thức đó mãi mãi. Và tất nhiên thày muốn con tiếp tục tăng triển về hướng tầng 144.

Dù sao thì rất có thể sẽ tới điểm con lên được một quỹ đạo nào đó và giờ đây, ít ra là phần nào, ông hoàng của thế gian có thể đến và không tìm được gì nơi con để mà nắm lấy. Nói cách khác, nếu chúng ta gọi ông hoàng thế gian là tâm thức tập thể, thì tâm thức tập thể không tìm được gì nơi con để kéo con trở xuống. Điều này không có nghĩa là một ông hoàng thế gian khác, cụ thể là sa nhân, sẽ không nắm được gì nơi con. Chúng sẽ phần nào nắm được gì đó nơi con cho tới tầng 144, mặc dù tất nhiên, sẽ tới một thời điểm khi con bắt đầu nhìn xuyên thấu qua tất cả mọi mưu kế của chúng. Và do đó, nói một cách thiết thực, con không còn bị mắc lừa để cho chúng lôi kéo mình được nữa.

16.2. Đi vào quỹ đạo

Điều thày nói ở đây là có thể sẽ tới một điểm khi con đã vào quỹ đạo, con đã phóng mình lên cao hơn tâm thức tập thể đến độ con đi vào một quỹ đạo nơi con không có nguy cơ bị trượt trở xuống. Tất nhiên, đó là điểm mà thày muốn con đạt tới sau khi đã bước theo tất cả những tầng khai ngộ của toàn bộ khóa tu này về bảy tia sáng. Con sẽ cần gì để bay vào quỹ đạo và giải thoát khỏi lực hút của tâm thức tập thể? Nhìn vào chiếc hỏa tiễn, con cũng biết đó không chỉ là một chiếc hỏa tiễn rất lớn nằm trên mặt đất, mà nó còn có mấy tầng. Nó mang một động cơ cao áp rất lớn được hoạch định để đưa nó lên một độ cao nào đó, rồi nó làm gì chứ? Phải, nó tự tách ra khỏi động cơ đó, tách ra khỏi nguyên cái thân hỏa tiễn ở phía dưới và nó để cho phần này rơi trở lại mặt đất.

Con đã làm gì khi con vươn lên từ tầng 48 đến tầng 96? Con đã dùng một cỗ máy, một cỗ xe, và cỗ xe này là một cái ngã. Ngã được tạo thành bởi một số phàm linh nội tại, như các thày đã có đề cập trong khóa tu này. Thực sự nó là nhiều hơn một phàm linh nội tại và đó là tại sao thày ưa gọi đó là ngã, bởi vì ngã có thể có nhiều tầng lớp khác nhau. Một phàm linh nội tại có một chương trình hạn hẹp duy nhất, giống như một chương trình trong máy tính của con được thiết kế để thực hiện một công việc rất đặc thù, chẳng hạn như làm toán hay quản lý email. Đó là một phàm linh nội tại với một nhiệm vụ nhất định, một lập trình nhất định. Còn một cái ngã có thể phức tạp hơn, có nhiều thành phần, nhiều mức độ khác nhau, thậm chí nhiều phàm linh nội tại khác nhau hay nhiều ngã khác nhau.

Con đã chế tạo ra một cái ngã để dùng làm cỗ xe đưa con từ tầng 48 lên đến tầng 96. Một lần nữa, không có gì đáng trách ở đây, vì ai ai cũng đã đều phải làm vậy hầu vươn mình lên cao hơn tâm thức tập thể. Con cần nhìn nhận ở đây là nếu con muốn lên cao hơn tầng 96 và vượt qua cuộc khai ngộ then chốt ở tầng 96, cái ngã này phải ra đi. Con cần để nó rơi ra khỏi con, để nó rơi trở lại địa cầu. Làm thế nào con có thể làm được điều này?  

16.3. Cái ngã xem trọng vật chất

Con chỉ có thể làm được điều này bằng cách chấp nhận, bằng cách suy ngẫm về câu này của thày: “Tôi không quan trọng”. “Tôi” ở đây là cái “tôi” nào mà không quan trọng? Đó chính là cáí “tôi”, cái ngã đó mà con đã sử dụng làm cỗ xe để lên tới tầng 96. Ngã đó chủ yếu là một cái ngã phản ứng lại vật chất. Nó đã được tạo ra để phản ứng lại vật chất, hay đúng hơn trạng thái của vật chất được nhìn xuyên qua tâm thức tập thể.    

Thày đã rất cố gắng giúp con thấy được là có một sự khác biệt giữa cái mà khoa học gọi là thực tại khách quan và thực tại được nhận thức. Nói cách khác, có một cái có thể gọi là “thực tại khách quan” theo nghĩa đó là trạng thái của địa cầu do các Elohim sinh tạo. Xong có cái có thể gọi là “nhận thức chủ quan” của thực tại, tức là tâm thức tập thể. Tâm thức tập thể có một cái nhìn đặc thù về vật chất. Chính tâm thức tập thể đã tạo ra độ dày đặc hiện thời của vật chất, và do đó tâm thức tập thể cũng không thể vượt qua độ dày đặc hiện thời của vật chất. Ngay cả Albert Einstein cũng từng nói: “Người ta không thể vượt qua một vấn đề với cùng tâm thức đã tạo ra vấn đề.”

Làm thế nào con vượt qua được độ dày đặc hiện thời của vật chất? Chỉ bằng cách vươn lên một cái gì cao hơn, là tâm thức Ki-tô. Ở tầng tâm thức thứ 48, con có thể vươn lên cao hơn tầng này để đi lên một bước cao hơn. Đó chính là một yếu tố của tâm thức Ki-tô đưa con lên tầng 49. Con có thể cứ tiếp tục làm như vậy cho đến khi con đạt đến tầng 96. Con cần đến Ki-tô, cần đến tâm thức Ki-tô là cái biết toàn vũ. Con cần nó để đi lên từ tầng 48 tới tầng 96. Ở mỗi tầng như vậy, con nhận được một món quà của tâm thức Ki-tô toàn vũ hoặc từ tâm thức đã cá thể hóa qua một chân sư thăng thiên, qua chính cái ta Ki-tô của con, và vân vân.

Con không thể tự kéo con lên bằng cách kéo sợi dây giày ở chân con. Con không thể đi từ tầng 48 đến tầng 96 mà không nhận được điều gì đó từ Ki-tô. Vậy có nghĩa thế nào khi con đi lên cao hơn tầng 96? Đương nhiên con vẫn cần nhận được điều gì đó từ Ki-tô để lên được tầng 144. Cho mỗi tầng ở trên 96, con vẫn cần nhận được một món quà từ Ki-tô, nhưng bên trên tầng 96, con có tiềm năng xoay chuyển và chấp nhận rằng Ki-tô không phải là một lực ngoại lai đến với con từ ngoài. Ki-tô trở thành một lực nội tại đến với con từ bên trong. Có nghĩa là con trở thành một dụng cụ hữu hiệu hơn để Ki-tô tự biểu lộ và giúp được người khác. Con chuyển từ một cái nhìn từ ngoài về một đấng cứu thế ở ngoài mình, sang đấng Ki-tô nội tại, và con bắt đầu hiện thân đấng Ki-tô nội tại này ngày càng rõ rệt và trọn vẹn hơn khi con đến gần hơn với tầng 144.    

16.4. Cái ngã phản Ki-tô

Quan tâm của thày ở đây là làm thế nào cho con vượt qua được khai ngộ ở tầng 96, là khi con bắt đầu hiện thân được Ki-tô thay vì con xem Ki-tô là một lực ngoại lai. Con cần nhìn nhận ở đây là cái ngã mà con đã xây dựng để đưa con lên tầng 96 không có khả năng làm chuyện này. Nó không có khả năng xoay chuyển và nhìn Ki-tô như một lực nội tại, một thực tại bên trong. Nó sẽ luôn luôn nhìn Ki-tô là ngoại lai và cũng sẽ luôn luôn nhìn vật chất là ngoại lai. Nó sẽ luôn luôn nhìn mọi người khác là ngoại lai và nó cũng sẽ nhìn lực hấp dẫn của tâm thức tập thể như một lực ngoại lai đang cưỡng chống lại nó.

Con có thể nói là cái ngã mà con đã xây dựng được đặt trên nền tảng sự cưỡng chống. Nó dựa trên việc chiến đấu chống lại một đối phương, chiến đấu chống lại một cái gì kháng cự bước tiến của con. Đó là tại sao thày có nói tới việc con đạt tới điểm con hàng phục thay vì con cố ép mình cứ bước tới, và con mở tâm ra để tiếp nhận. Con mở tâm ra và để yên cho mọi sự trải bày, ngay cả khi con không thấy được rõ ràng bằng tâm ý thức vỏ ngoài của con.     

Có những đệ tử tâm linh, cho dù là theo giáo lý của chân sư thăng thiên hay những giáo lý khác, đạt đến tầng 96 nhưng vẫn chưa hiểu được những gì mà thày cùng các Thượng sư khác đã chuẩn bị cho con hiểu. Họ không nắm được những điều mà các thày đã chuẩn bị cho con nắm. Họ đã không nắm bắt được nhu cầu để cho ngã này chết đi. Con thấy đó, con yêu dấu, tất cả chúng ta đều cần đến một động lực để bước chân trên con đường tâm linh. Tất cả chúng ta đều cần nỗ lực vươn cao hơn tâm thức tập thể và chúng ta cần động cơ để thực hiện điều đó.

Khi con khởi sự ở tầng 48, con đã mang một số giấc mơ, một số mong mỏi, một số động lực để thúc đẩy con gia nhập khóa tu này. Khi con theo học khóa tu, động lực này của con đã phần nào thay đổi. Con vẫn còn một số yếu tố của cái có thể gọi là một động lực “phàm nhân”, một tham vọng, một ham muốn phàm phu muốn là một người đặc biệt với những quyền năng đặc biệt và khả năng làm được những điều mà không ai khác có thể làm được. Đối với mỗi người, mong muốn này có thể khoác vào rất nhiều hình dạng khác nhau.   

Ở đây con cần nỗ lực xét xem đâu là những yếu tố động lực của cái ngã vỏ ngoài này. Sau đó con cần sẵn lòng nhìn nhận một cách cởi mở rằng con đang mang động lực đó, vì nếu con không công khai nhìn nhận, con sẽ không thể để cho nó ra đi. Những người đã bị rớt cuộc khai ngộ ở tầng này là vì họ không sẵn sàng công nhận là họ có mang một yếu tố nào đó của động lực phàm phu này. Có thể là họ kiêu hãnh chăng? Có thể là họ mong muốn cảm thấy mình tốt đẹp hơn người khác. Có thể là họ mong muốn có khả năng thị hiện một điều gì thần diệu giống như Giê-su để không ai có thể bác bỏ họ, hay có thể bất cứ gì khác.

Nhưng cái đó luôn luôn xoay quanh ngã vỏ ngoài đó, cái ngã muốn nhận được một phần thưởng nào đó cho tất cả những phấn đấu mà nó cho là nó đã trải qua để phóng con lên tới tầng 96. Con có bắt đầu thấy điều thày đang nói ở đây chăng? Ngã này đã là cỗ xe của con đưa con đến tầng 96. Trong cương vị đó, nó đã phục vụ cho một mục tiêu chính đáng, nhưng ngã này đi con đường riêng của nó. Tự thân nó được xây dựng với một động lực. Con có nhớ bức tranh quen thuộc của củ cà rốt treo lủng lẳng trên cây gậy trước mũi con lừa đang kéo xe hay không? Con lừa tưởng là một ngày kia nó sẽ đuổi kịp củ cà rốt. Trên cơ bản, đó cũng chính là tình trạng của cái ngã vỏ ngoài này. Nó đã kéo chiếc xe của con, cái xe bò hay xe ngựa của con, từ tầng 48 đến tầng 96. Nó tưởng là một ngày nó sẽ đuổi kịp củ cà rốt. Nó sẽ bắt được củ cà rốt và cắn lấy phần thưởng.  

16.5. Cái ngã muốn phần thưởng

Điều con cần nắm bắt ở mức này, ở tầng khai ngộ thứ bảy tại khoá nhập thất của thày, là ngã vỏ ngoài sẽ không bao giờ nhận được phần thưởng nếu con tiếp tục tiến bước trên con đường quả vị Ki-tô. Không có phần thưởng nào cho ngã vỏ ngoài, chưa từng bao giờ có và cũng sẽ không bao giờ có. Suốt thời gian qua, con người đã tạo dựng biết bao hình ảnh mộng mơ vẽ vời chuyện đoạt giải thưởng. Các thày đã từng thấy những đệ tử của chân sư thăng thiên nghĩ rằng, chẳng hạn, một khi họ đạt được một trình độ nào đó thì một số chân sư sẽ bỗng nhiên xuất hiện ra trước mắt họ, dẫn họ đi tham dự một buổi lễ điểm đạo mãn khóa, rồi từ đó họ sẽ được ban cho đủ loại phúc lợi mà họ đã ao ước.

Chuyện đó sẽ không xảy ra. Chừng nào con còn mang tham vọng đó, các thày sẽ không thể tiếp cận với con, vì làm vậy sẽ chỉ củng cố cho ngã vỏ ngoài. Chừng nào con còn muốn được các thày công nhận, các thày bắt buộc sẽ phải lánh xa con vì đó là cơ hội duy nhất để các thày giúp con tránh bị mắc bẫy trong ngã vỏ ngoài. Như thày có nói, có những đệ tử đến được tầng này mà vẫn bị thôi thúc bởi lòng ham muốn phần thưởng. Họ đã quá dính mắc với lòng ham muốn phần thưởng này đến độ họ không thể buông ngã vỏ ngoài ra. Vậy họ làm gì sau đó? Họ bắt đầu sử dụng các quyền năng của tâm mà họ đã vun bồi cho đến tầng 96 để cố tặng cho mình phần thưởng đó, ngay đây trên địa cầu.  

Con sẽ thấy ngay cả Giê-su cũng từng nói đến vấn đề nhận phần thưởng trên địa cầu hay ở thiên đường – và quả thực là con có thể! Trong khuôn khổ Định luật Tự quyết, con hoàn toàn có quyền vươn lên tầng 96 với mong muốn nhận được phần thưởng nào đó. Nhưng tới đó thì con phải quyết định: “Giờ đây, liệu tôi có muốn đi lên tiếp để tìm kiếm một phần thưởng cao hơn (là thăng thiên), hay là tôi muốn phần thưởng mà mình đã định bụng sẽ nhận được khi mình đang leo lên tầng 96?” Nếu con muốn phần thưởng mà con đã định bụng trong tâm vỏ ngoài, trong ngã phàm phu, thì con có thể sử dụng các khả năng của con để tìm cầu nó ở đây trên địa cầu. Con đã trông thấy những người làm chuyện đó. Họ đã đạt đến tầng 96 và giờ đây họ cố trở thành một loại đạo sư hay lãnh đạo. Họ cố quy tụ môn đồ cho thật đông đảo để họ được nể trọng và cảm thấy mình sao quá đặc biệt, và môn đồ thì sẽ nhắm mắt theo họ trong bất kỳ cuộc phiêu lưu nào.     

Một lần nữa, chuyện đó không nhất thiết là cấm kỵ trong khuôn khổ Định luật Tự quyết, nhưng chắc chắn đó không phải là quả vị Ki-tô. Thày mong muốn những ai trong số các con hãy sẵn lòng bước lên cao hơn trên con đường quả vị Ki-tô. Con sẽ cần gì để làm được chuyện đó? Tất nhiên, con sẽ cần xem xét ngã vỏ ngoài đó một cách trung thực cùng củ cà rốt mà nó đã dùng để kéo cỗ xe bốn thể phàm của con lên đến tầng 96 – rồi sau đó con buông nó ra. Con nhận ra đó không phải là động lực cao nhất. Thậm chí đó cũng không phải là phần thưởng cao nhất mà con có thể nhận được, và con tìm ra cách để cho nó ra đi.     

16.6. Chuyện đó không nhắm vào con

Sứ giả này nhiều năm trước đây đã kinh qua khai ngộ này. Suốt thời gian mấy năm trời, cho dù ông có sống qua sự cố gì hay gặp phải tình huống gì, ông cũng dùng phương châm: “Chuyện này không nhắm vào tôi. Chuyện này thật không nhắm vào tôi!” (It is not about me!) Kết quả là ông đã lần hồi tách mình ra khỏi ngã phàm phu cho tới khi nó không còn lực kéo nào đối với ông nữa. Ông đạt tới điểm không làm theo động lực của ngã vỏ ngoài nữa. Nó không còn quan trọng gì nữa. Đơn giản là ngã vỏ ngoài không quan trọng gì nữa. Tất nhiên con sẽ có thể nói: “Liệu điều thày vừa dạy con có đủ để con khắc phục ngã vỏ ngoài hay không?” Không, không nhất thiết là vậy, nhưng hiển nhiên các thày không có ý bỏ con ở đó. Cho dù bài giảng này sẽ kết thúc khóa tu, các thày đã ban ra trong hai năm qua những giáo lý mà con có thể bắt đầu sử dụng ngay sau khi hoàn tất khóa này. Những giáo lý đó khởi đầu với quyển “Những cuộc đời của tôi” và tiếp tục với những quyển khác sẽ đào sâu hơn về những đề tài như ngã gốc cũng như tiến trình mà con – trong tư cách một avatar hay một cư dân nguyên thủy của địa cầu – đã tu bồi một cái ngã phản ứng lại sa nhân.

Tất nhiên, phương thức thực sự để vượt qua ngã vỏ ngoài là nhìn vào cái ngã gốc đó và ngừng phản ứng, ngừng phản ứng lại sa nhân, ngừng phản ứng lại hầu hết mọi người khác hay các điều kiện của vật chất. Con không phản ứng lại tất cả những điều kiện vỏ ngoài đó. Con bước tới điểm mình tự do, mình thoát ra khỏi các khuôn nếp phản ứng đó, để đời mình không biến thành một trận đấu bóng bàn bất tận nơi có người đánh trái banh cho con và con cảm thấy mình buộc phải đánh banh trở lại do mình cảm thấy mình phải phản ứng.

Con yêu dấu, ngã, cái ngã vỏ ngoài mà con đã dùng từ tầng 48 đến 96, vận hành theo cùng phương cách như ngã gốc. Thật ra, ngã gốc là một thành phần của ngã vỏ ngoài. Những ngã này luôn luôn có một vấn đề gì đó với những gì chúng thấy trên địa cầu, một vấn đề cần phải giải quyết theo cách nhìn của chúng. Làm thế nào vấn đề đó sẽ được giải quyết đây? Phải, ngã phóng chiếu lên con ý tưởng là con phải làm gì đó để giải quyết vấn đề. Nó cũng phóng chiếu ý tưởng là vấn đề chỉ có thể được giải quyết khi người khác thay đổi. Nói cách khác, con liên tục nằm trong cái thế bị kéo-đẩy vì con cảm thấy mình phải làm gì đó để thay đổi người khác.    

Đương nhiên là người khác đâu có sẵn sàng thay đổi, cho nên con cũng cảm thấy là mình không bao giờ có thể hoàn thành được mục tiêu của mình. Con bất lực, con không thể hoàn thành mục tiêu vì con luôn luôn chờ cho người khác hoặc điều kiện vỏ ngoài nào khác thay đổi. Đây chính là cốt lõi của tình trạng mà cái ngã phản động này, hay tập đoàn những cái ngã này, đặt con vào. Nó đặt con vào một vị thế chờ đợi nơi con luôn luôn phải chờ một điều gì đó. Đi lên cao hơn tầng 96 có nghĩa là con bắt đầu buông xả toàn bộ ngã phản động đó, buông xả mọi ngã phản động. Con bắt đầu để cho chúng ra đi hầu con không phản ứng lại bất cứ gì trên địa cầu. Con không chờ đợi một điều gì mà ngược lại con xem xét: “Ngay bây giờ tôi có thể làm gì, tôi có thể làm gì trong hoàn cảnh vỏ ngoài của tôi để tự cải thiện, để vươn lên một mức tâm thức cao hơn?”  

16.7. Con không thể chờ quả vị Ki-tô

Không phải là chuyện các điều kiện vỏ ngoài hay người khác sẽ làm điều gì đó. Chừng nào con còn bị kẹt trong tư duy nghĩ rằng hạnh phúc của mình, hay tâm an tịnh của mình, hay sự phát triển tâm linh của mình, hay sự biểu đạt quả vị Ki-tô của mình, tùy thuộc vào một số điều kiện vỏ ngoài hay vào người khác, thì con sẽ không là Ki-tô trong hành động. Con không thể biểu đạt bất cứ gì. Con sẽ ngồi chờ và con sẽ nghĩ: “Khi nào điều kiện này hay điều kiện kia được hội đủ thì tôi mới có thể biểu lộ quả vị Ki-tô của tôi.” 

Như thày đã có nói (và các thày đã nói rất nhiều lần), không hề có điều kiện lý tưởng nào để biểu lộ quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô là thách thức hiện trạng. Theo một nghĩa nào đó, bất kỳ điều kiện nào con đối mặt cũng là điều kiện lý tưởng để con thách thức hiện trạng và biểu hiện một cái gì cao hơn – đó chính là quả vị Ki-tô. Khi con bắt đầu làm như vậy trong bất kỳ hoàn cảnh nào mình gặp, con sẽ tuần tự xây dựng được một động lượng, và rồi các điều kiện sẽ thay đổi. Các điều kiện sẽ không thay đổi cho tới khi con bắt đầu sử dụng những điều kiện mà con có và chấp nhận chúng là cơ hội toàn hảo để con biểu đạt quả vị Ki-tô. Con bắt đầu ngay ở chỗ con đang đứng, con tận dụng nó, con thăng vượt nó, con biểu hiện một cái gì cao hơn – đó chính là cách con bước lên được bước kế tiếp.   

Rồi khi con bước lên bước kế tiếp, và cứ thế bước này sau bước khác, sẽ tới một điểm khi con có thể nhìn lại và bảo rằng mình đã thực sự đi được một quãng đường khá dài. Con đã đi được khoảng đó bằng cách đi từng bước nhỏ một, và luôn luôn làm việc với tình huống mà con được đặt vào. Ngược lại, những ai mà nghĩ rằng một khi mình đi một bước thật dài thì mình sẽ có thể là Ki-tô, thì quả thực họ sẽ không bao giờ tới được điểm đó.  

Các thày đã có kể chuyện về nhà hiền triết cổ Hy Lạp tên là Zeno, ông đưa ra nghịch lý về cách làm thế nào con có thể đi từ một điểm A tới điểm B. Trước tiên con phải tới được điểm ở giữa A và B cái đã. Xong con chia đoạn đường còn lại làm hai và con phải tới được điểm ở giữa đó, rồi cứ thế con tiếp tục chia đoạn đường còn lại ra làm hai và con luôn luôn phải tới được điểm giữa. Có nghĩa là con sẽ không bao giờ tới đích – đây chính là tâm thức phàm phu. Theo một nghĩa nào đó, thậm chí con còn không nói được: “Tôi sẽ đi tới điểm giữa”, mà con nhìn vào ngọn núi và nói: “Khi ngọn núi đến với tôi thì tôi sẽ là Ki-tô.” Chuyện đó sẽ không xảy ra trên một hành tinh như địa cầu. Ngay cả trên một hành tinh tự nhiên, chuyện đó cũng sẽ không xảy ra, nhưng trên một hành tinh tự nhiên người ta không chờ đợi chuyện đó xảy ra.

16.8. Hiểu sai tầng 96

Có một khoảng cách ở đây (Chân sư MORE đã có giảng về khoảng cách này cũng như về việc khắc phục khoảng cách trong những cuốn sách thày có nêu lên ở trên). Khoảng cách là đối với các con đã đạt đến tầng 96, con đã nối kết lại với nhận biết trực giác là có một cõi tốt đẹp hơn. Nếu con là một avatar, con biết cuộc sống trên một hành tinh tự nhiên như thế nào. Nếu con là một cư dân nguyên thủy của địa cầu, con cảm nhận được cuộc sống trên địa cầu trước khi sa nhân đến đây. Con biết có một điều kiện lý tưởng và con cũng biết hiện trạng địa cầu khác xa với điều kiện lý tưởng đó. Nếu con cho phép ngã vỏ ngoài dùng chuyện đó để bảo rằng con sẽ có thể là Ki-tô trên địa cầu khi nào địa cầu hoàn thành điều kiện lý tưởng, thì con yêu dấu, con đã hiểu sai hoàn toàn – con hoàn toàn hiểu sai rồi con. Mặc dù chuyện này có thể làm con kinh ngạc, nhưng con có thể lên đến tầng 96 mà vẫn hoàn toàn hiểu sai vì con vẫn quá đồng hóa với cái ngã vỏ ngoài đã đưa con tới điểm này. Con không sẵn lòng buông bỏ ý niệm về phần thưởng mà con nghĩ mình phải nhận được. Một lần nữa, không có phần thưởng đâu con! Cho dù ngã vỏ ngoài có tưởng tượng phần thưởng gì đi nữa khi con leo đến tầng 96, đó hoàn toàn là chuyện giả tưởng. Nó không có chút thực tế nào hết.

Liệu chuyện đó là sai trái? Không! Liệu chuyện đó là vô ích. Cũng không! Nó không vô ich nếu nó đã cho con động lực để con leo tiếp. Con yêu dấu, nếu con chịu quay trở lại và đọc lại những sách đó, học lại những sách đó, con sẽ thấy là từ Chân sư MORE trở đi, tất cả các thày đã cố giúp con khởi sự tháo gỡ tình trạng đồng hóa với ngã vỏ ngoài đó – không tới độ là con bỗng chốc mất hết mọi liên hệ với nó, vì nếu vậy thì con đã không còn cỗ xe để chở con đi. Các thày đã nỗ lực giúp con từ từ ngưng đồng hóa với nó, khắc phục những ham muốn cùng mơ tưởng của ngã vỏ ngoài. Có một điều duy nhất mà các thày không thể giúp con khắc phục ở các tầng thấp hơn, đó là cốt lõi của động lực đã khiến con cất bước trên đường tu. Con thấy không, đâu là cốt lõi của động lực đó, con yêu dấu? Ngã vỏ ngoài là gì chứ? Đó là cái ngã phản ứng, nó phản ứng lại một điều gì đó trên địa cầu. Ngã vỏ ngoài tưởng tượng là khi nào con đạt đến tầng 96 và nhận được phần thưởng của mình, phần thưởng đó sẽ cho con một sự công nhận nào đó trên địa cầu, vì đó là loại phần thưởng duy nhất mà ngã vỏ ngoài có thể tưởng tượng được.

16.9. Cốt lõi của ngã vỏ ngoài

Cốt lõi của ngã vỏ ngoài này là nó mong muốn được người ta công nhận một cách nào đó, hay được một địa vị nào đó (tựu trung cũng là cùng một thứ) trên địa cầu, nghĩa là được công nhận bởi người khác, bởi các định chế trong xã hội hoặc bất cứ gì khác. Đó là cốt lõi của ngã vỏ ngoài này. Nó muốn một phần thưởng trên trái đất. Thày không thể làm chọn lựa đó dùm con, thày không thể vượt qua khai ngộ này dùm con. Đó là tại sao thày phải kết thúc khóa học này, không chỉ phần của thày mà phần của tất cả các Thượng sư khác nữa. Thày phải chấm dứt khóa tu này và bỏ con lại nơi một ngã ba đường. Thày đã đặt con trước sống và chết. Các thày đã đặt con trước sống và chết.

Giờ đây con đứng ở ngã ba đường. Nếu con chọn ngã rẽ nơi con sẽ tiếp tục tìm cầu một phần thưởng trên địa cầu, thì nỗ lực của các thày để đưa con vào con đường quả vị Ki-tô đã thất bại. Đây là rủi ro mà các thày đã biết rõ và sẵn sàng chấp nhận. Đường tu không máy móc tự động. Các thày không thể đảm bảo một kết quả nào. Các thày là chân sư thăng thiên và sẽ không ảnh hưởng đến tâm con hay quyền tự quyết của con.    

Nhưng nếu ở ngã ba này, con lấy ngã rẽ kia, con sẽ tự đặt mình trên con đường quả vị Ki-tô. Khi đó, con sẽ có thể sử dụng các dụng cụ và giáo lý mà các thày đã ban ra, và qua sứ giả này các thày đã ban ra rất nhiều giáo lý về con đường quả vị Ki-tô. Tất nhiên là ở ngoài kia cũng có những giáo lý khác mà con có thể dùng nếu con muốn. Rồi con có thể từ từ bắt đầu leo cao hơn. Một lần nữa, thày không bảo là sẽ có một điểm khi đùng một cái, ngã vỏ ngoài của con thình lình biến mất toàn bộ. Một lần nữa, con sẽ khắc phục từng bước một. Như các thày đã có giảng, có thể nói là ở một mức độ nào đó, con sẽ vẫn còn một số yếu tố của ngã vỏ ngoài với con cho tới khi con thăng thiên. Con có thể gọi con đường từ tầng 96 tới tầng 144 là con đường khắc phục ngã vỏ ngoài này từng bước một.

16.10. Từ bỏ phần thưởng

Dù sao đi nữa, điều thày nói với con là có thể sẽ tới một điểm khi, với tâm vỏ ngoài, con làm hòa với sự kiện là bước chân trên đường tu tâm linh sẽ không bao giờ có phần thưởng nào trên địa cầu. Phần thưởng duy nhất của đường tu tâm linh là khi con thăng thiên, có nghĩa là phần thưởng của con nằm trên thiên đường khi con bước vào tâm thức thăng thiên. Thày có thể cam đoan với con là một khi con ở trong tâm thức thăng thiên và chiêm nghiệm sự khác biệt, sự tương phản giữa hai trạng thái thăng thiên với chưa thăng thiên, đó sẽ là phần thưởng tối hậu. Nhưng tất nhiên, có lẽ câu này mang rất ít ý nghĩa đối với con nếu con vẫn còn đồng hóa với cái ngã vỏ ngoài bị ám ảnh bởi ham muốn một phần thưởng trên địa cầu.  

Một lần nữa, điều quan trọng là bản thân con hay cái gì khác? Nếu điều quan trọng là bản thân con, con sẽ lấy ngã rẽ bên kia và đi tìm một địa vị hay lòng nể trọng nào đó trên địa cầu. Nếu con lấy ngã rẽ bên này, con sẽ buông bỏ ham muốn được người khác công nhận trên địa cầu. Không có nghĩa là người ta sẽ không công nhận con nhưng con không ham được công nhận, con không muốn được công nhận. Con không giữ trong tâm ý tưởng rằng một ngày kia chuyện đó phải xảy ra. Con cho nó đi, con để cho ngã đó chết đi. Ngã luôn luôn phóng chiếu ra một vấn đề – trong trường hợp này là vấn đề được công nhận, rằng con cần được người khác công nhận thế nào đó. À, được công nhận trên địa cầu nghĩa là gì chứ? Nghĩa là người khác phải để ý con và xem con là đặc biệt. Một cách nào đó, họ phải ghi nhận là con đặc biệt.

Đấy, nó có nghĩa là họ phải thay đổi, có đúng không con? Họ phải dùng quyền tự quyết của họ để công nhận con. Chuyện này vượt ra ngoài quyền tự quyết của con. Con không thể chọn lựa là người khác phải chọn lựa công nhận con. Con không thể thay đổi điều đó bằng ý chí tự do của con. Con có thể thay đổi bằng ý chí không tự do của con, tức bằng ý chí của ngã vỏ ngoài. Con có thể tìm cách ép buộc họ, và cho dù con có thể không gọi đó là cưỡng bức, con có thể cưỡng bức họ phải công nhận con. Đó không phải là ý chí tự do của con, vì khi đó con đang đi vào con đường tay trái, sử dụng ma thuật đen để ảnh hưởng lên tâm trí người khác. Con có thể làm vậy và đoạt được sự coi trọng của người khác.  

Nếu đó là mong muốn của con, thày chỉ có thể nói: “Con cứ đi theo con đường đó, rồi khi nào (trong kiếp này hay một kiếp tới) con đạt tới điểm con chán chê chuyện đó, con hãy trở về với thày và thày sẽ giúp con từ điểm đó trở đi” Nếu con đi theo con đường đó, không có một chân sư thăng thiên nào sẽ thực sự giúp được con. Con có thể nghĩ là các thày sẽ giúp được, nhưng sự giúp đỡ sẽ không đến từ các chân sư thăng thiên đích thực mà từ hàng ngũ giả trá của những kẻ giả danh là chân sư thăng thiên.

16.11. Chọn lựa giữa sống và chết

Con thấy đó, con yêu dấu, thày đã chỉ ra cho con một con đường tiến bước. Có những dụng cụ mà con có thể dùng, có sách mà con có thể đọc, nhưng cho dù chuyện này có thể khiến con kinh ngạc, thày phải bỏ con lại mà không cho con bất kỳ loại phần thưởng nào, bất kỳ kết quả chung cuộc nào. Thày không bỏ con lại trong một trạng thái đặc biệt nơi con đã vượt qua cuộc khai ngộ. Thày bỏ con lại ở đây là điểm con đã nhận thức được cuộc khai ngộ mà con đối mặt.

Như thày đã nói, thày không thể chọn lựa dùm con, và ngay cả nếu thày có thể thì thày cũng sẽ không làm, bởi vì tất nhiên nó sẽ không giúp cho con tăng triển. Con tăng triển bằng cách chọn lựa từ trong nội tâm mình, vì con đã tới điểm rốt ráo nơi con không chọn lựa bằng tâm vỏ ngoài nữa. Thày cũng biết có nhiều đệ tử đến được điểm này sẽ phản ứng như thế này: “Tôi đang chọn lựa bằng tâm vỏ ngoài để bước đi trên con đường quả vị Ki-tô. Tôi sẽ lấy tất cả những sách này, tôi sẽ học sách, tôi sẽ đọc bài thỉnh và tôi sẽ đạt tới đích.” Con thấy đó, con yêu dấu, con thực sự không thể bước trên đường quả vị Ki-tô qua tâm vỏ ngoài. Giữa tầng 48 và 96 thì con còn có thể bước trên đường tu qua tâm vỏ ngoài – đó là điều thày đã nói với con. Nhưng con không thể lên cao hơn tầng 96 với tâm vỏ ngoài. Tất nhiên, con có thể quyết định với tâm vỏ ngoài để bước vào con đường quả vị Ki-tô và con nghĩ là mình đang bước vào đường tu, nhưng quyết định đặt mình vào đường tu phải đến từ bên trong. Đó không phải là một quyết định duy ý chí mà là một quyết định tự phát, nội tâm. Con không cưỡng ép quyết định đó. Con không thể bắt nó xảy ra. Con chỉ có thể để yên cho nó xảy ra bằng cách sử dụng các dụng cụ nhằm hóa giải ngã gốc cùng những loại ngã khác đang kéo con ra khỏi quyết định và lôi con vào chuyện giải quyết một vấn đề nào đó.  

Theo một nghĩa nào đó, ta cũng có thể hỏi: “Cho tới giờ, con đã nhìn con đường tâm linh như thế nào?” Cái ngã đã đưa con từ tầng 48 lên tầng 96 đã nhìn con đường tâm linh một cách rất đặc thù: “Đường tu tâm linh là một bài toán mà tôi cần phải giải. Có một cuộc khai ngộ, và để vượt qua khai ngộ, tôi phải nhận biết một điều gì đó, phải nhìn ra một điều gì đó, phải hiểu ra một điều gì đó. Có một vấn đề mà tôi cần giải quyết.” Nói như vậy là chính đáng giữa tầng 48 và 96, nhưng cao hơn tầng 96, nó không còn chính đáng nữa. Ngay cả chuyện đưa con lên tầng 97, nó cũng sẽ không làm được.  

16.12. Từ bỏ ngã chuyên giải quyết các vấn đề

Con cần xoay chuyển toàn bộ cái nhìn của con về đường tu và nhận ra đó không phải là chuyện giải quyết một vấn đề, mà là chuyện ngừng hẳn và không cố giải quyết các vấn đề. Đó là chuyện để yên cho nó trải bày ra. Tại sao vậy? Các thày đã nói gì? Vấn đề to lớn trên địa cầu là tâm thức tách biệt mà sa nhân đã tạo ra qua tâm thức nhị nguyên. Con mang ảo tưởng con là một sinh thể tách biệt, ai ai cũng là sinh thể tách biệt, ai ai cũng chỉ lo cho mình, xem mình là số một và cố vơ tối đa về phần mình.

Trên căn bản, tâm thức tập thể hiện đang ở mức này, mặc dù tại một số quốc gia chắc chắn đã có phát triển được một ý thức phổ thông nhân bản hơn. Nhưng dù sao thì sự tách biệt vẫn đang hiện hữu. Có một tâm thức tập thể nơi ai nấy đều xem mình là những cá nhân tách biệt, nhiều khi lại còn tranh chấp, giao chiến với nhau. Ai nấy cũng xem mình thuộc vào một đoàn nhóm nào đó, và nếu con thuộc nhóm nào thì con phải tuân theo nhóm đó. Nếu con thuộc một nhóm, con sẽ phải thù ghét những ai thuộc những nhóm khác, và vân vân.    

Để gỡ mình ra khỏi toàn bộ tình trạng tranh đấu đó, con phải làm gì đây? Hiển nhiên con phải xem mình đứng tách khỏi những người trong nhóm nơi mình đã sinh trưởng, thậm chí tách cả đối với mọi người trong tâm thức tập thể. Để đi từ tầng 48 lên tầng 96, con làm gì chứ? Con xây dựng một cái ngã xem mình tách riêng khỏi mọi người trong tâm thức tập thể. Đó là điều tự nhiên. Một lần nữa, không có gì chê trách ở đây, vì đó chỉ là điều mà con phải làm, nhưng con sẽ không vượt lên cao hơn tầng 96 được nếu con sử dụng cái ngã này, vì con đường quả vị Ki-tô là gì chứ?   

Con đường quả vị Ki-tô là khắc phục ảo tưởng tách biệt và nhìn ra là đằng sau mọi hiện tượng trên trái đất (tức là mọi thứ vật chất, mọi tâm thức, tâm thức nhị nguyên, tâm thức tách biệt) có một thực tại hợp nhất nằm bên dưới, là sự duy nhất của mọi sự sống. Mọi sự sống là một, và không hề có tách biệt nào. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là để lên đến tầng 96, con phải xây dựng một cái ngã cá nhân thật dũng mãnh. Nhưng để đạt tới trạng thái thăng thiên, con phải đập vỡ ngã đó. Từng bước một từ tầng 48 đến tầng 96, con đã vun bồi một cái ngã, xong con cần chuyển hướng. Giờ đây, từng bước một, từ tầng 97 đến 144, con đang gỡ bỏ ngã đó đi. Con gỡ bỏ cái ngã tự xem mình là tách biệt. Khi nào con tới chỗ để cho yếu tố cuối cùng của ngã đó ra đi, thì đó là lúc con bước vào trạng thái hợp nhất là thăng thiên.   

Giờ đây, con đã làm tất cả những gì con muốn làm trong cương vị một ngã tách biệt trong một bầu cõi chưa thăng thiên, không chỉ trên địa cầu mà nói chung trong bầu chưa thăng thiên. Con đã làm tất cả những gì con muốn làm như một sinh thể tách biệt. Con có thể để cho yếu tố cuối cùng đó của ngã vỏ ngoài ra đi và con thăng thiên. Tất nhiên ở tầng 96 con chưa tới mức đó, nhưng con đã tới mức con có thể bắt đầu nhận ra đây là công việc mình cần làm. Con cần gỡ bỏ từng bước một ngã tách biệt đó. Và khi con làm vậy, phần thưởng là con sẽ cảm nhận được sự duy nhất ngày càng lớn hơn và lớn hơn nữa trong con.

Lúc đầu, việc này có thể hơi khó khăn một chút. Con sẽ cảm thấy hợp nhất với gì chứ? Đương nhiên, không phải với tất cả những người mà con vừa nỗ lực hết mình để tháo gỡ ra khỏi. Cũng không phải với sa nhân. Thày xin gợi ý – một lần nữa, đây là điều mà các thày đã ban cho con giáo lý cùng dụng cụ để con thực hiện – là con bắt đầu chú tâm vào việc tìm kiếm sự hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con ở bên trong chính con.

Rồi nếu điều này dễ dàng hơn cho con, con hãy chú tâm vào việc tìm kiếm hợp nhất với một vị chân sư thăng thiên đặc biệt nào đó. Vị đó không cần phải là thày, mà bất cứ vị nào con cảm thấy gần gũi nhất trong tim con. Xong khi con bước lên cao hơn, con có thể cảm thấy hợp nhất với những người tâm linh khác, mặc dù có thể con sẽ khó lòng tìm được những người tâm linh ở mức tâm thức đó. Con có thể tìm thấy một số và con có thể khởi sự vun bồi một cảm nhận kết hợp với các vị ấy.

Con hãy cẩn thận ở đây, vì như các thày đã chứng kiến trong biết bao phong trào tâm linh, con không thể để nảy lên ý tưởng tự cao tự đại: “Ô chúng ta là những đệ tử cao cấp nhất trên hành tinh, cho nên chúng ta tốt đẹp hơn người khác.” Đây không phải là quả vị Ki-tô, cũng không phải là hợp nhất. Các con có thể vun bồi sự hợp nhất với nhau nhưng không bằng cách mình là người cao siêu hơn mọi người. Rồi khi con bước lên cao hơn trong tâm Ki-tô, con sẽ bắt đầu vun bồi thực sự cảm nhận hợp nhất này với mọi sự sống. Một lần nữa, con có thể nói là con đang đứng riêng ra khỏi tâm thức tập thể khi con lên đến tầng 96, nhưng khi con đến gần hơn tầng 144, con không hề bị lôi kéo nữa, con không có nguy cơ bị lôi kéo vào tâm thức tập thể nữa, và do đó con có thể bắt đầu cảm thấy mình hợp nhất với mọi người, mọi sự sống.

Thày có thể giảng thêm nhiều nữa cho tới bất tận, nhưng các thày đã trao cho con đủ lời dạy trong những cuốn sách khác. Cho nên một lần nữa, thày cần bỏ con lại ở đây, không với một cảm giác chung cuộc, một cảm giác là con đã vượt xong cuộc khai ngộ chót trong khóa tu này, mà con đang đối mặt với cuộc khai ngộ chót trong khóa tu. Thày đã đặt con trước sống và chết – con hãy chọn sự sống!

Vượt qua những điều lấy mất an bình

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 15/1/2019.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain, và ở tầng khai ngộ thứ sáu của khóa nhập thất của thày, dĩ nhiên chúng ta giáp mặt chủ yếu với Tia thứ Sáu của An bình. Con cần gì để an bình ở mức tâm thức của con trên một hành tinh như địa cầu? Câu hỏi thật ra nên được đặt lại như sau: “Đâu là ‘con’ mang tiềm năng an bình đó trên địa cầu?”

14.1. Làm hòa với sự kiện mình có một ngã vỏ ngoài

Suốt khóa tu này, các thày đã cho con thấy rõ là con có một ngã vỏ ngoài, và con cũng có cái các thày đã gọi là cái Ta Biết – mà các thày cũng có thể gọi là cái ta bên trong, hay cái ta thuần khiết. Các thày đã nói rõ là khi con khởi sự khóa tu này ở tầng 48, con đồng hóa khá chặt chẽ với ngã vỏ ngoài, cái Ta Biết khá đồng hóa với ngã vỏ ngoài. Con không hoàn toàn đồng hóa với nó, bởi vì nếu thế thì con đã không khởi sự được khóa tu này. Các thày cũng đã nói rõ là mục đích chính của khóa tu là làm giảm dần cảm nhận đồng hóa của cái Ta Biết với ngã vỏ ngoài. Bây giờ đến tầng này, chúng ta tới điểm hoàn tất vòng tròn, qua đó con sẵn sàng xoay chuyển trong thái độ của con, trong cách con nhìn bản thân mình, và đi một bước thật quan trọng trong tiến trình tiêu trừ sự đồng hóa.

Các thày đã chỉ rõ là khi con bước xuống hiện thân trên trái đất, con đã khoác vào tất cả những ảo tưởng tương ứng với 144 tầng tâm thức. Mặc dù khóa tu này nhằm dẫn con đến tầng 96, con vẫn còn một số ảo tưởng mà con chưa lột bỏ ở tầng này – và cũng không trù định là con lột bỏ. Điều này có nghĩa là chừng nào con còn đầu thai trên trái đất, con sẽ còn mang một số yếu tố của ngã vỏ ngoài với con. Khi con bước lên gần hơn với tầng 144, chính những yếu tố này của ngã vỏ ngoài là cái giữ con lại trong hiện thân. Chúng buộc con lại với xác thân vật lý, bởi vì nếu không thì con đã không thể ở lại trong xác thân vật lý đó và sẽ bước ra ngoài, đến độ con có thể rút đi cả sinh lực. Thậm chí con có thể rút sinh lực quá sớm trước khi con thật sự sẵn sàng thăng thiên, và điều này có nghĩa là con sẽ phải đầu thai một lần nữa. Do đó ở trên một tầng cấp nào đó, cái ngã vỏ ngoài mà con còn sót lại chính là một cơ chế an toàn.

Tất nhiên con nhận ra là dưới tầng 48 – nơi con người bị hoàn toàn đồng hóa với ngã vỏ ngoài – ngã vỏ ngoài không giúp gì hết cho sự phát triển tâm linh của con. Điều con làm giữa tầng 48 và 96 là con khởi sự tiến trình tháo gỡ cảm nhận đồng hóa đó với ngã vỏ ngoài, nghĩa là con không bị tâm thức tập thể lôi kéo xuống. Con không bị trôi theo những dòng nước cuốn của tâm thức đại chúng. Có thể nói là con đang tu bồi một cá thể sẽ giúp con tách mình ra khỏi tâm thức tập thể. Con không làm những chuyện mà mọi người đều làm. Khi con vượt lên trên tầng 48, tới một điểm ngã vỏ ngoài mà con còn sót lại sẽ không thực sự cản trở sự phát triển tâm linh của con. Điều này xảy ra khi con đạt tới điểm con làm hòa với những gì thày vừa nói với con. Con làm hòa với sự kiện là chừng nào con còn ở lại trong hiện thân thì con sẽ vẫn còn một số yếu tố của ngã vỏ ngoài.

14.2. Từ bỏ giấc mơ đạt một mức tối hậu

Điều này có nghĩa là con sẽ phải từ bỏ một giấc mơ mà nhiều người tâm linh vẫn có. Thậm chí đây là một giấc mơ nằm sâu trong tâm thức tập thể và giấc mơ này có thể trình chiếu ra nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, con thấy trong nhiều trò chơi nhi đồng có một khu vực được quy định là vùng đất nhà, là căn cứ an toàn. Nếu em nào chạy vào được vùng đất đó, em không thể bị đội kia bắt được, hay nói cách khác, em đã thoát được về nhà.

Nhiều người cũng có giấc mơ trúng số để một ngày kia họ sẽ dư giả tiền bạc cho đến cuối đời. Hoặc nữa, người ta cũng có giấc mơ đạt được trạng thái bất tử hay sức khỏe toàn hảo, hay bất kỳ trạng thái nào nơi họ cảm thấy mình tuyệt đối an toàn trên trái đất. Có rất nhiều người tâm linh, kể cả đệ tử của chân sư thăng thiên, khi họ tìm được một giáo lý tâm linh dạy về việc nâng cao tâm thức, thì họ liền khởi lên giấc mơ là một ngày kia họ sẽ vươn lên một tầng tâm thức cao đến độ họ sẽ “thoát được về nhà”. Họ sẽ giác ngộ. Họ sẽ đạt đến tâm thức toàn vũ. Họ sẽ là một chân sư thăng thiên chưa thăng. Họ sẽ sạch tự ngã. Họ sẽ là bất cứ gì họ có thể mơ tưởng, nhưng trong một nghĩa nào đó, đây là giấc mơ sống trên địa cầu mà lại không bị tác động bởi bất cứ gì trên địa cầu.

Bây giờ điều quan trọng là con nhìn vào giấc mơ đó và nhìn nhận là con đang có nó. Mọi người đều có giấc mơ đó. Thày cũng từng có giấc mơ đó trong những kiếp đầu thai trước kia khi thày chưa đến gần điểm thăng thiên. Tất cả chúng ta đều có nó vì đó là một phần của tập thể, và chúng ta thì sống trong lòng tập thể. Chúng ta chỉ thoát ra khỏi tập thể bằng cách xem xét những gì có trong tập thể và vượt lên trên.

Điều con cần làm ở đây, ở tầng này của khóa nhập thất của thày, là chỉ đơn giản xoay chuyển tâm con chút đỉnh. Con cần nhìn nhận là chừng nào con còn đầu thai thì con sẽ còn mang một yếu tố ngã vỏ ngoài trong con. Sau đó con cần chấp nhận điều đó và làm hòa với nó. Tất nhiên, con sẽ không đồng hóa với ngã vỏ ngoài vì hiện thời con đã không hoàn toàn đồng hóa với nó rồi. Có nghĩa là ngã vỏ ngoài không còn thật sự quan trọng nữa. Một khi con đạt tới điểm con không đồng hóa với nó và nó không còn điều khiển đời con thì nó chẳng quan trọng gì nữa.

14.3. Ngã vỏ ngoài và Sứ vụ Thiêng liêng của con

Con nhận ra là con có thể đạt tới điểm khi ngã vỏ ngoài còn sót lại không thật sự ngăn cản con thực hiện các mục tiêu con đã định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng. Do đó, con có thể biểu lộ một mức độ ngã vỏ ngoài nào đó mà không bị đi trệch khỏi Sứ vụ Thiêng liêng. Một trong những cách mà điều này có thể thị hiện là khi con còn một số mong muốn chính đáng để trải nghiệm trên trái đất. Hiển nhiên là khi con lên cao hơn tầng 96, con không còn một ngã vỏ ngoài muốn thao túng hay kiểm soát người khác, hoặc làm cho họ buồn phiền hay bất cứ gì khác. Con không còn một ngã vỏ ngoài muốn làm chuyện bất hợp pháp để kiếm tiền chẳng hạn. Con đã vươn lên cao hơn những khía cạnh tương đối vị kỷ của ngã vỏ ngoài.

Có thể là con đã sống rất lâu trên hành tinh này và có một số đồ vật, một số mong muốn hay một số trải nghiệm mà con muốn có, nhưng con cảm thấy mình chưa thỏa nguyện những trải nghiệm đó. Trong trường hợp này, con hoàn toàn có thể tiến bước trên đường tu ở mức cao hơn tầng 96 mà vẫn còn mang một số mong muốn, vẫn còn tìm cách toại nguyện những mong muốn đó, nhưng con sẽ làm vậy một cách quân bình hầu không gây xáo trộn cho sự tiến hành của Sứ vụ Thiêng liêng.

Đây chỉ là một ví dụ nhưng rất rất nhiều người trên địa cầu vẫn không cảm thấy là mình đã thỏa nguyện với mong muốn tình dục của mình. Một lần nữa, các thày không bao giờ nói là một khi con đạt đến tầng 96, con sẽ cần sống độc thân cho đến chết. Đó chưa bao giờ là một mục tiêu mà các thày định ra cho con. Nếu con sinh hoạt tình dục một cách quân bình và trách nhiệm, con tuyệt đối có thể có quan hệ tình dục và chuyện này sẽ không khiến con đi trệch hướng khỏi Sứ vụ Thiêng liêng. Điều này cũng áp dụng cho các loại mong muốn khác, chẳng hạn như muốn có một lối sống vật chất nào đó, sở hữu một căn nhà đẹp, đi du lịch và thăm viếng nhiều nơi trên thế giới, bất kỳ mong muốn nào mà con có thể có mà không là một mong muốn hủy hoại.

Con cần làm hòa với thực tế là con có một cái ngã vỏ ngoài, rằng con sẽ có một cái ngã vỏ ngoài có thể ảnh hưởng đến cách con nhìn cuộc sống, và nó có thể kéo con vào việc toại nguyện một số ham muốn. Con cần biết rằng chuyện đó không sao cả, miễn là nó không làm xáo trộn sự tiến hành của Sứ vụ Thiêng liêng. Điều này có nghĩa là con đi vào trạng thái chấp nhận là mình có một ngã vỏ ngoài. Nhưng con không chấp nhận là điều này sẽ không bao giờ thay đổi.

Con không ngừng theo dõi chính mình cũng như các phản ứng của mình. Con nhận ra là đối với mỗi tầng tâm thức mà con vươn tới ở trên tầng 96, con sẽ phải nhìn ra một ảo tưởng đặc thù nào đó của ngã vỏ ngoài và con buông nó ra. Có một phàm linh nội tại, một cái ngã mà con cần để cho chết đi. Con theo dõi chuyện này liên tục – không phải một cách mất quân bình, mà đơn giản là con tỉnh thức. Con giám sát phản ứng của mình nhưng con không bị nó làm bận tâm. Con không cảm thấy là mình bất toàn hay không đủ tốt do mình mang ngã vỏ ngoài đó. Kỳ thực, như các Thượng sư khác đã có đề cập, con đạt tới điểm khi con chấp nhận con người mà con là, ngay trong lúc này. Con chấp nhận con đang ở một mức nào đó trên đường tu và việc có ngã vỏ ngoài là một chuyện hoàn toàn tự nhiên, tất phải như vậy.

14.4. Tránh sự phủ nhận

Lý do điều này quan trọng đến vậy là vì, như thày đã nói ngay từ đầu, tầng 96 đưa cho con một khai ngộ vô cùng chủ yếu. Nếu con dõi nhìn những người tâm linh, kể cả đệ tử của chân sư thăng thiên, con sẽ thấy một số không nắm được ở mức ý thức cách vận động cơ bản của đường tu tâm linh. Đơn giản là họ không xoay chuyển trong tâm và không nhận ra là ngã vỏ ngoài phải chết đi – và muốn làm vậy thì họ phải nhìn thấy nó. Thay vào đó, họ cứ tiếp tục tìn vào ảo tưởng về con đường công truyền mà các thày đã nói đến biết bao lần, là cho rằng bằng cách tuân thủ một cách tu tập vỏ ngoài thì một ngày kia họ sẽ tự động rũ bỏ tự ngã hoặc ngã vỏ ngoài.

Họ cứ chờ cho thời điểm đó xảy đến. Thậm chí có một số khởi sự khóa tu này với giấc mơ là một khi họ hoàn tất khóa tu, đùng một cái họ sẽ thoát được về nhà. Một số sẽ bị thất vọng khi đến bài học chót của thày, họ sẽ tìm ra là chuyện đó không xảy ra, chuyện đó không xảy ra một cách tự động.

Con cũng thấy một số người rơi vào một hình thái phủ nhận, là họ bắt đầu tìm cầu một số chỉ dấu cụ thể. Khi họ cố leo lên tầng 96, họ nhìn nhận là mình đã có tiến bộ. Họ đã vượt qua được một số điều mà họ đã mang nhiều năm trước đây khi họ mới cất bước trên đường tâm linh. Giờ đây họ bắt đầu tin là mình là đệ tử cao cấp, mình đã đạt đến một tầng cấp nào đó. Một số còn tới độ tự xưng mình là sạch tự ngã hay đã giác ngộ, hay bất kỳ tên nào khác mà hệ tư tưởng tâm linh của họ đặt cho mục tiêu tối hậu trên đường tu. Con thấy khắp các cộng đồng tâm linh, Thời mới hay đệ tử của chân sư, có những người rơi vào trạng thái phủ nhận khi họ thực sự tin mình không còn tự ngã hay ngã vỏ ngoài nữa, nhưng niềm tin đó dựa trên sự phủ nhận những thứ vẫn còn sót lại trong họ.

Thày đang cố giúp con tránh bước vào trạng thái phủ nhận đó, để con chấp nhận là mình vẫn còn một ngã vỏ ngoài, và con sẽ còn mang một ngã vỏ ngoài cho tới khi con thăng thiên. Cho nên bằng cách chấp nhận, con sẽ có thể làm hòa với thực tế đó, con có thể làm hòa với bản thân con là một đệ tử hoàn toàn xứng đáng của chân sư thăng thiên cho dù mình vẫn còn sót lại một ngã vỏ ngoài. Kỳ thực, các thày không bao giờ bảo là các thày chờ đợi con phải sạch ngã vỏ ngoài khi con còn hiện thân. Điểm này, con có thể làm hòa với nó. Khi nào con đã an bình với nó, con sẽ có thể xây dựng thêm từ đó.

14.5. Làm hòa với vật chất

Hiển nhiên là thày có một ý định rộng mở cho bài học này. Trong một bài trước, thày có nói về nỗi oán giận Mẹ, oán giận cõi vật chất, khi con cảm thấy cõi vật chất là kẻ thù đang kháng cự lại mình, vân vân và vân vân. Khi con làm hòa với sự kiện là con không cần toàn hảo để được các chân sư thăng thiên chấp nhận, con cũng xoay chuyển và nhận ra là trái đất, hay cõi vật chất, không cần phải toàn hảo để con có thể cảm thấy an bình khi mình hiện diện nơi đây.

Nói cách khác, một số trong các con là avatar đã đến đây từ một hành tinh tự nhiên nơi vật chất bớt dày đặc hơn hẳn địa cầu. Một số trong các con là những cư dân nguyên thủy của địa cầu vẫn còn giữ được một ký ức nội tâm về một thời trước khi trái đất rơi xuống độ dày đặc hiện thời. Con cảm nhận là mọi chuyện không được như ý. Ở đây con cần xoay chuyển và nhận ra là, đúng vậy, tình trạng địa cầu có tiềm năng cao hơn như bây giờ. Và tất nhiên, các thày là chân sư thăng thiên đang từ từ và lần hồi đưa hành tinh lên trạng thái cao hơn đó, và đương nhiên các con đang ở đây để giúp một tay.

Con sẽ không giúp được các thày nâng địa cầu lên cao hơn nếu con kháng cự lại hiện trạng của nó ngay bây giờ. Nếu con cưỡng chống lại những gì đang ở đây ngay bây giờ thì con đang nói trong tiềm thức: “Tôi không thể là Ki-tô chừng nào hành tinh dày đặc như thế này. Tôi không thể biểu đạt tiềm năng tâm linh của mình chừng nào trên hành tinh còn những biểu hiện khủng khiếp như thế này.” Đây chính là ảo tưởng của sự trụ tâm vào những thứ vỏ ngoài, và nó đã khiến cho biết bao đệ tử tâm linh đi lạc vào con đường quanh co mà thày đã có đề cập, là tìm cách dùng vũ lực để thay đổi người khác hay thay đổi các điều kiện vỏ ngoài.

Điều này dẫn chúng ta đến điểm con cần nhận chân địa cầu là một hành tinh đang ở một độ dày đặc nhất định. Tâm thức tập thể đang ở một độ dày đặc, hỗn mang, biến loạn – một độ entropy nào đó như khoa nhiệt động học sẽ gọi như thế. Con cần chấp nhận đây là hiện trạng. Con không chấp nhận là nó sẽ vĩnh viễn và cứ giữ mãi như vậy. Con chấp nhận là con sẽ làm hòa với các điều kiện hiện hữu. Con sẽ chấp nhận là không những các điều kiện này sẽ cho phép con biểu đạt quả vị Ki-tô của mình mà nó còn là điều kiện lý tưởng để con biểu đạt quả vị Ki-tô của con. Quả vị Ki-tô là gì chứ con? Các thày đã nói nhiều lần: “Quả vị Ki-tô không phải là một tình trạng lý tưởng nào đó, không phải là một trạng thái của tâm chỉ có thể biểu lộ trong những điều kiện lý tưởng.”

Con hãy nhìn Giê-su khi thày bước trên mặt đất 2000 năm trước đây tại Palestine – một vùng đất vô cùng tăm tối, nặng nề với một tâm thức tập thể rất rất dày đặc, dày đặc hơn hẳn so với những gì hầu hết các con đã chứng kiến khi lớn lên trong kiếp này. Thế nhưng thày vẫn biểu lộ được quả vị Ki-tô, vì quả vị Ki-tô là gì? Là khi con thách thức hiện trạng, và cho dù hiện trạng có là gì đi nữa, con vẫn có thể thách thức nó. Thậm chí con còn có thể nói, hiện trạng càng thấp thì thách thức càng dễ. Không có nghĩa là việc biểu lộ quả vị Ki-tô là dễ dàng, nhưng chắc chắn là nó khả thi, và đây là điều con cần chấp nhận. Con cần chấp nhận là mặc dù địa cầu đang rất dày đặc, con vẫn có khả năng hoàn thành những mục tiêu con đã đề ra trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình, bởi vì các mục tiêu đó được đề ra trong sự nhận biết về độ dày đặc hiện tại của vật chất. Con đã không định ra một mục tiêu thiếu thực tế cho bản thân, mà con đã định ra một mục tiêu thực tế. Để thị hiện mục tiêu thực tế này, con cần chấp nhận việc thị hiện là một chuyện khả dĩ ngay cả trong những điều kiện hiện tại.

Sau đó, con cũng cần bắt đầu xem xét các mong muốn, các kỳ vọng vỏ ngoài của mình. Con cần nhận chân rất nhiều những mong muốn vỏ ngoài đó không thực tế (đây là những mong muốn mà có thể con đã đem theo từ những kiếp trước, hay đã khoác vào ở tuổi ấu thơ, hay đã hình thành khi con tìm thấy giáo lý tâm linh, ngay cả giáo lý của chân sư thăng thiên). Chúng dựa trên cái giấc mơ “thoát được về nhà”, khi phần nào con tìm ra một cách hiện diện trên trái đất mà không bị những gì xảy ra trên trái đất chạm vào mình. Con cần nhận diện ở đây là một số những mong muốn đó chỉ đơn giản là thiếu thực tế, và con cần để cho chúng ra đi.

14.6. Kỳ vọng về những gì phải là  

Khi con làm vậy, con có thể thực hiện thêm một cuộc xoay chuyển. Con có thể nhìn nhận là kỳ thực, cản trở lớn nhất để con thị hiện một điều gì đó trên địa cầu (như thày đã nói, thị hiện một lối sống vật chất tốt đẹp hơn, thị hiện Sứ vụ Thiêng liêng của con, thị hiện sự quân bình hay hài hòa giữa cuộc sống tâm linh và cuộc sống vật chất), cản trở lớn nhất để con thị hiện các mục tiêu đó là các kỳ vọng của con – kỳ vọng rằng mọi chuyện phải như thế nào.

Nếu con có một kỳ vọng, một chờ đợi, do ngã vỏ ngoài dựng lên và nếu nó trái ngược với các mục tiêu trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, thì chừng nào con còn giữ chặt kỳ vọng đó trong tâm ý thức, nó sẽ chặn đứng không cho Sứ vụ thị hiện. Con sẽ không thể chấp nhận để cho các mục tiêu trong Sứ vụ đi xuống tầng vật lý. Và do đó, con sẽ ngăn chặn chúng trong tiềm thức, và nhiều người tâm linh đã làm chuyện đó.

Điều này có nghĩa là giờ đây con phải xét lại những điều con có thể đã đọc trong sách về cách thị hiện những thứ mình muốn. Chẳng hạn có sách sẽ bảo là con cần vô cùng chính xác cụ thể khi thiết lập một “bản đồ kho báu”. Nếu muốn thị hiện một căn nhà thì con phải định rõ trong nhà phải có gì, hay thậm chí con tìm một tấm hình thật chính xác cho thấy căn nhà phải như thế nào với tối đa chi tiết. Điều thày nói với con bây giờ là con hãy xoay chuyển trong tâm và làm cho tâm mình lỏng đi. Con khiến cho kỳ vọng của mình lỏng đi.

Con nhìn vào chính con và hỏi: “Liệu tôi có một số mục tiêu và tôi có ý phải hoàn thành chúng như thế nào, và tôi cảm thế nào về chúng?” Con có thể làm bài tập này và thử hỏi: “Được rồi, đây là các mục tiêu của tôi, nếu như bây giờ có một khuôn mặt thẩm quyền bảo tôi là chúng tuyệt đối không thể thị hiện được thì liệu tôi sẽ phản ứng làm sao?”

Nếu con cảm thấy một phản ứng rất mạnh gần như không cưỡng nổi, một cảm giác hoảng sợ rằng các mục tiêu đó không thể thị hiện, thì con sẽ biết là các mục tiêu và kỳ vọng đó xuất phát từ ngã vỏ ngoài. Chúng đến từ cái ngã vỏ ngoài không ứng phó nổi với sự mất mát. Một khi ngã vỏ ngoài đã quyết định về một mục tiêu hay một kỳ vọng, bất cứ gì không hoàn toàn toại nguyện được kỳ vọng đó sẽ được nó trải nghiệm như một mất mát. Nếu con nhận diện phản ứng này nơi con, con biết là nó đến từ ngã vỏ ngoài, và đó là lúc con cần xem xét lại các mục tiêu và kỳ vọng đó và hiểu ra là con cần để cho chúng ra đi.

Con cần nhìn ra đó là một phàm linh nội tại hay ngã vỏ ngoài đặc thù đang cố bám lấy các mục tiêu đó, và con cần để cho ngã đó chết đi. Con sẽ không giải thoát khỏi ngã đó bằng cách hoàn thành mục tiêu, vì nó sẽ chỉ tạo thêm một mục tiêu khác nữa và nó sẽ dời cột gôn ra chỗ khác. Con sẽ chỉ giải thoát khỏi nó nếu con để cho phàm linh đó chết đi. Con cần làm cho kỳ vọng của mình mềm lỏng.

Trong tất cả những quyển sách kia về thị hiện, người ta cũng sẽ bảo con phải định rõ ra mục tiêu, rồi con cần trụ tâm vào đó đều đặn mỗi ngày. Con cần có ý muốn vô cùng vững mạnh để thị hiện mục tiêu này, vô cùng kiên định trong quyết tâm và ý chí. Con cần đem hết sức mạnh ý chí của mình ra để ép nó đi vào hiện thực.

14.7. Không có an bình qua vũ lực

Thày không đang bảo con là những quyển sách và khóa học đó nói dối. Con hoàn toàn có khả năng thị hiện đồ vật theo cách họ mô tả, tuy nhiên nó không dính dáng chút nào với quả vị Ki-tô. Cho nên nếu con muốn thị hiện đồ vật theo cách đó thì con có thể. Đó là tại sao thày đã nói là con có thể đạt tới tầng 96 và bắt đầu sử dụng quyền năng của tâm để thị hiện một số thứ. Con có thể làm được, chuyện đó khả dĩ và có những người đã làm được.

Nhưng nó sẽ không đưa con lên cao hơn tầng 96, có nghĩa là rốt cuộc con sẽ bắt đầu thụt lùi và ngày càng chú trọng nhiều hơn đến bản thân. Kỳ thực, con có thể tuột xuống tầng tâm thức thấp nhất có thể có trên trái đất. Hơn thế nữa, con có thể rơi hẳn vào tâm thức sa ngã. Con thấy được ở đây là thày đang nói điều này cho con để con nhận ra là con đã vươn tới một mức tâm thức nào đó, con đã đạt được một số khả năng của tâm, và con có thể dùng những kỹ thuật vỏ ngoài đó để thị hiện một số điều con muốn. Điều thày mong muốn nhìn thấy, tất nhiên, là thay vì thị hiện những mong muốn, kỳ vọng và mục tiêu vỏ ngoài đó, con sẽ thị hiện những gì nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Và để làm được vậy, con cần từ bỏ các kỳ vọng và mục tiêu vỏ ngoài đó. Con cần quy hàng và buông bỏ chúng.

Làm thế nào con sẽ đạt được an bình ở mức này? Không phải bằng cách tiếp tục sử dụng sức mạnh ý chí, cưỡng ép cho mục tiêu trở thành hiện thực. Cho dù con có thị hiện được một mục tiêu thì một mục tiêu khác sẽ hiện ra. Nghĩa là có thể con phải vĩnh viễn sử dụng ý chí để cưỡng ép mọi chuyện đi vào hiện thực. Con sẽ không an bình vì chừng nào con còn dùng vũ lực, con không thể cùng lúc an bình được. Đơn giản là không thể nào vừa sử dụng vũ lực mà vừa an bình được. Và đương nhiên, con yêu dấu, nếu con không thể an bình thì con cũng không thể tự do, và đó là tầng khai ngộ thứ bảy, là cuộc khai ngộ không những sẽ dẫn con lền tầng 96 mà sẽ còn đưa con đi tiếp cao hơn cả 96.

Làm thế nào con có thể an bình? Con không thể an bình qua vũ lực. Con chỉ có thể – và thày nói CHỈ với chữ hoa – con CHỈ có thể an bình qua buông bỏ.

14.8. Một cách thị hiện cao hơn

Con có thể nhận thấy là trong con có một cái ngã vừa phản ứng lại câu nói vừa rồi. Có thể con có cảm giác như là con sẽ không bao giờ thị hiện được điều gì nếu mình không nhất quyết sử dụng sức mạnh của ý chí, đặc biệt là trên một hành tinh dày đặc như địa cầu. Điều đó đúng! Nếu con ở một mức tâm thức nào đó, cách duy nhất để thị hiện một cái gì đó là dùng ý chí mạnh mẽ để ép uổng nó vào hiện thực. Nhưng khi con xoay chuyển và vươn lên cao hơn mức tâm thức đó, con có khả năng thị hiện những gì được ghi trong Sứ vụ Thiêng liêng của con – không nhất thiết những gì nằm trong ngã vỏ ngoài, nhưng chắc chắn những gì nằm trong Sứ vụ của con. Bây giờ, làm thế nào con làm được đây?

À, con hãy xét xem con muốn thị hiện qua trung gian cái ngã nào? Khi con dùng vũ lực, con cũng đang dùng ngã vỏ ngoài. Con không chỉ thị hiện qua ngã vỏ ngoài mà con đang thị hiện xuyên qua ngã vỏ ngoài cũng như viễn quan của ngã vỏ ngoài. Có những sa nhân đã bị cắt khỏi Hiện diện TA LÀ của chúng. Chúng chỉ có thể thị hiện bằng cách sử dụng những năng lượng đã sẵn đem vào quang phổ vật lý, và chúng có khả năng thị hiện một số chuyện rất ngoạn mục dưới con mắt của hầu hết mọi người. Nhưng con, hiển nhiên, con không bị cắt đứt khỏi Hiện diện TA LÀ của con, cho nên con sẽ không chỉ thị hiện với những năng lượng đã có sẵn trong cõi vật chất, mặc dù con cũng sẽ dùng những năng lượng đó nếu con thị hiện một cách cưỡng chế.

Thật ra con sẽ lấy một số năng lượng từ Hiện diện TA LÀ và sử dụng để thị hiện các mục tiêu của ngã vỏ ngoài. Đây là tại sao con đường gọi là tà đạo, con đường tay trái, có thể quyến rũ đến như vậy. Con thấy không, con vươn lên một mức nào đó và con kết nối chặt chẽ hơn với Hiện diện TA LÀ của con, cho nên con cũng ít đồng hóa hơn với ngã vỏ ngoài. Con có khả năng sử dụng sức mạnh ý chí và cưỡng ép ánh sáng của Hiện diện TA LÀ đi vào khuôn đúc mà ngã vỏ ngoài đã quy định, và như vậy con thị hiện các mục tiêu vỏ ngoài đó.

Tất nhiên, khi con làm vậy, điều sẽ xảy ra là lần hồi ánh sáng chảy xuống từ Hiện diện TA LÀ sẽ giảm thiểu. Đây là một cơ chế an toàn để ngăn cản con tạo ngày càng nhiều nghiệp quả và trở nên đồng hóa nhiều hơn với ngã vỏ ngoài, để rồi con rơi vào một vòng xoáy ốc hướng hạ. Ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ sẽ suy giảm. Đây có thể là một lời cảnh tỉnh, và một số người đã nhận ra lời cảnh tỉnh đó. Khi họ cảm thấy mình không còn quyền năng thị hiện nữa thì họ bắt đầu tự hỏi tại sao lại như thế, và họ quay trở lại con đường chính đạo.

14.9. Con đường tay trái

Nhưng một số khác đã đi theo một con đường khác. Họ đã tiếp tục bước đi trên con đường tay trái. Giờ đây họ bắt đầu sử dụng những năng lượng đã sẵn có mặt trong cõi vật chất  để tiếp tục thị hiện những gì họ muốn. Đây là chuyện khả thi, và nếu họ làm vậy, sẽ tới một điểm khi họ trở thành đệ tử của một sa nhân. Sa nhân này sẽ dạy họ cách thức sử dụng cái gọi là ma thuật đen để thị hiện những gì họ ham muốn.

Con thấy đó, con khởi sự bằng cách sử dụng ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của con, xong khi nó không còn đủ mạnh để thị hiện những gì con muốn, con quay sang sử dụng năng lượng đã có sẵn trong cõi vật chất. Đương nhiên, điều này có nghĩa là con phải đánh cắp năng lượng này từ người khác, và cứ thế chuyện này sẽ kéo con vào vòng xoáy bất tận là tìm cách khuynh đảo và kiểm soát người khác.

Nếu con không muốn bước vào tình trạng đó, con phải đạt tới điểm con nhìn nhận là con không muốn thị hiện bất cứ gì qua ngã vỏ ngoài. Có nghĩa là con phải kinh qua một giai đoạn buông bỏ một cách cố tình các mục tiêu, mong muốn và kỳ vọng của ngã vỏ ngoài. Con từ bỏ các mục tiêu đó bởi vì với ngã vỏ ngoài, con có thể học hỏi cách nhận diện các mục tiêu của nó. Chúng thường mang giấc mơ về một trạng thái tối hậu nào đó – một trạng thái giàu có tối hậu, một trải nghiệm tình dục tối hậu, một trải nghiệm tâm linh tối hậu nào đó. Nó luôn luôn cực đoan. Nó luôn luôn phải cực đoan hơn trước. Nó luôn luôn là một trạng thái cuối cùng nào đó. Đó là tại sao nó trở thành một vòng ốc xoáy bất tận, một cuộc tìm cầu không bao giờ chấm dứt để chinh phục ngày càng nhiều hơn.

Con có thể dần dà nhận diện những mục tiêu đó và sau đó con buông chúng ra. Con có thể buông mục tiêu muốn có trải nghiệm tình dục tuyệt đỉnh mà không phải từ bỏ tình dục hoàn toàn (mặc dù con cũng có thể từ bỏ trong một thời gian nếu con cảm thấy muốn làm vậy). Điều thày muốn nói là sẽ tới điểm khi chìa khóa để tiến bước cao hơn là quy hàng, là buông bỏ – buông bỏ, buông bỏ, buông bỏ.

Điều này có nghĩa là con bước vào một giai đoạn khi con nhận ra là mặc dù con có khả năng thị hiện một số mong muốn qua ngã vỏ ngoài, nhưng con lại không muốn làm vậy. Một số trong các con (kỳ thực, tất cả các con) sẽ gặp cám dỗ này dưới một dạng nào đó, nhưng một số các con sẽ gặp nó dưới một dạng rất cụ thể. Con sẽ chạm trán với một hoàn cảnh nơi con thấy rõ là con có thể thị hiện căn nhà lý tưởng, chẳng hạn, qua việc sử dụng vũ lực. Nhưng thay vào đó, con chọn sự buông bỏ, con buông bỏ giấc mơ có được căn nhà trong mơ. Điều này có nghĩa là cho một thời gian, con sẽ không có căn nhà trong mơ hay ngay cả không có nhà nào hết.

Thế rồi có thể thời điểm sẽ đến khi một căn nhà khác sẽ thị hiện, tuy không đúng hẳn căn nhà trong mơ nhưng nó vẫn tạo điều kiện thuận lợi cho Sứ vụ Thiêng liêng tiến hành tốt hơn là với căn nhà mơ ước kia. Nếu con đã cưỡng ép căn nhà kia vào hiện thực thì con đã phải chịu một số ràng buộc. Nó sẽ đòi hỏi con bỏ ra một số năng lực, thời giờ cũng như chú ý, có nghĩa là con không còn gì sót lại cho những công việc khác, kể cả một số khía cạnh của Sứ vụ của con. Con bắt đầu phân biện rõ hơn là mình nên sử dụng thời gian và năng lực như thế nào để không dành ra quá nhiều cho các nhu cầu của ngã vỏ ngoài đến độ nó kéo con ra khỏi việc thực hiện Sứ vụ Thiêng liêng.

14.10. Mong muốn nội tâm hay mong muốn vỏ ngoài

Xong con cũng có thể bắt đầu làm cuộc xoay chuyển mà Giê-su đã chứng tỏ khi chính thày đã nói cách đây 2000 năm: “Ta không thể tự mình làm nổi việc gì.” Như con thấy đó, dựa trên những gì thày vừa nói, câu này đòi hỏi thêm một chút giải thích. Hiển nhiên là Giê-su đã có thể tự mình làm một điều gì đó, nghĩa là qua ngã vỏ ngoài của thày, thày đã có thể thực hiện một số công việc ở mức tâm thức mà thày có lúc đó. Thày đã có thể thị hiện rất nhiều thứ với ngã vỏ ngoài của thày. Điều mà thày thực sự muốn nói là: “Ta không muốn làm bất cứ gì do ngã của ta.” Và thày cũng nói: “Đó là Cha ở trong ta – chính Ngài làm mọi việc,” có nghĩa: “Chính Hiện diện TA LÀ và viễn quan cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của ta đang quyết định những gì thị hiện ra trong đời ta.”

Con đạt đến một điểm khi con cần đối mặt với sự lượng định: “Liệu tôi có muốn những gì thị hiện trong đời tôi là do quyết định của ý chí ngã vỏ ngoài, hay là tôi muốn ý chí cao hơn – Hiện diện TA LÀ của tôi, những chọn lựa mà tôi đã lấy khi thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng – định đoạt những gì sẽ thị hiện trong đời tôi?” Đây chính là điều đòi hỏi sự buông bỏ. Con buông bỏ, con quy hàng trước ý chí cao hơn đó. Giống như Giê-su, con nói: “Xin ý của Cha được thành, chứ không phải ý của con.” Điều này không có nghĩa là có một Thượng đế ở trên trời, một chúa tể độc tài nào đó đang tìm cách kiểm soát con. Con không quy phục một ý chí ở ngoài con. Khi con thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình, con đã sử dụng ý chí ở bên trong chính con.

Tất nhiên, ngã vỏ ngoài sẽ bảo là con quy phục một ý chí bên ngoài, vì đối với nó, ý chí cao hơn của con nằm bên ngoài. Nhưng kỳ thực, đối với con trong cương vị cái Ta Biết, ý chí của ngã vỏ ngoài mới là nằm bên ngoài. Ngã vỏ ngoài tìm cách cưỡng ép ý chí của nó lên con, ngược với những gì con đã chọn lựa và quyết định khi con ở trong trạng thái cao hơn, trạng thái minh mẫn để thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng. Con thấy đó, đây là chuyện thực hiện cuộc xoay chuyển này: “Tôi thực sự muốn gì?”

Và thực sự, có thể nói đó là chuyện con muốn có những loại trải nghiệm nào cho phần còn lại của đời con? Và ở đây chúng ta bước vào – ít nhất từ một nhãn quan nào đó – trở ngại lớn nhất, thử thách lớn nhất, mà con người phải đối diện trên địa cầu, là thử thách về sở hữu.

14.11. Thử thách sở hữu

Con hãy nhìn hành tinh này! Bước lui lại và nhìn hành tinh này. Nhìn tất cả tình trạng hỗn loạn, tất cả những xáo trộn, tất cả những chuyển biến. Những thiên tai, động đất, bão tố, chiến tranh, tất cả những thứ đang không ngừng khiến con người bị bật rễ, bị mất nhà cửa, phá hủy toàn bộ những thành phố. Đây có thật là một hành tinh nơi con muốn tìm mọi cách để sở hữu một cái gì? Có thật khôn ngoan hay không khi con bước vào tâm trạng tham vọng sở hữu một cái gì?

Một lần nữa, hãy lấy ví dụ căn nhà trong mơ. Không có gì sai trái nếu con ở một căn nhà thoải mái, nhưng liệu con sở hữu căn nhà hay là căn nhà sở hữu con? Theo một nghĩa nào đó, đây là thử thách con đối mặt trên địa cầu. Con có thể sở hữu đồ vật trên địa cầu – đúng là con có thể – nhưng luôn luôn sẽ có một cái giá mà con phải trả. Nó đòi hỏi ở con một số năng lực, thời giờ và chú ý. Thày không đang nói tới cả chuyện tiền bạc cho dù con sẽ cần tiền bạc để sở hữu một cái gì đó. Nó đòi hỏi con dành chú ý cho nó, và để bảo toàn những gì con sở hữu, nó cũng đòi hỏi nơi con sự chú ý.

Câu hỏi đặt ra là: “Con muốn loại trải nghiệm nào cho phần còn lại của đời con?” Liệu con muốn trải nghiệm chuyện sở hữu một đồ vật, hay con muốn trải nghiệm sự tăng triển tâm linh? Con hiểu chứ phải không con, rằng sở hữu là đứng yên một chỗ và tăng triển là chuyển động. Các thày đã có đề cập đến Dòng sông sự Sống. Con không xuôi chảy theo Dòng sông sự Sống khi con sở hữu một cái gì. Điều này không có nghĩa là con không thể vừa sở hữu vừa xuôi chảy với Dòng sông sự Sống – nhưng chỉ khi nào cái con sở hữu không sở hữu con. Chừng nào con còn mong muốn sở hữu thì con sẽ không an bình được trên một hành tinh như địa cầu – chuyện đó không thể. Luôn luôn sẽ có những mối đe dọa mà con tưởng tượng ra, và thày có thể cam đoan với con là khi con sở hữu một cái gì mà con không muốn đánh mất, con sẽ dư khả năng tưởng tượng ra đủ mọi loại đe dọa có thể cướp nó khỏi tay con.

Sứ giả này cách đây ít lâu đã xem một phim tài liệu trên tivi về các nhà tỷ phú. Ông hiểu ra là nếu ông tin tất cả những gì được trình chiếu, mọi người đúng lý phải cảm thấy tội nghiệp cho các nhà tỷ phú bởi vì việc ứng phó với tài sản to lớn như vậy thật là một chuyện khó khăn. Tất nhiên ông đã bật cười, nhưng bên trong ẩn một chân lý, đó là người ta càng sở hữu thì cái họ sở hữu sẽ càng sở hữu họ. Khi họ càng bị sở hữu bởi vật sở hữu, thì họ phải dành ra càng nhiều sức lực và chú ý để lo gom góp nhiều hơn hay để khỏi đánh mất những gì mình đang có. Đối với nhiều người, họ sẽ đạt tới điểm tích tụ được tất cả mọi thứ mà mình mong muốn lúc ban đầu, và giờ đây họ lo lắng sẽ đánh mất nó. Điều này, tất nhiên, sẽ không thuận lợi cho sự phát triển của con trong những mục tiêu đề ra trong Sứ vụ Thiêng liêng.

14.12. Rũ bỏ cái ngã sở hữu

Con cần nhìn vào điểm này và nhận ra đó là một ngã vỏ ngoài. Nó rất dũng mãnh trên hành tinh này vì động lượng trong tâm thức tập thể cũng rất mạnh mẽ – nhưng con đã đến đây để làm gì? Con đến đây để tự nâng mình lên cao hơn tâm thức tập thể và như vậy góp phần nâng cao tâm thức tập thể.

Tất nhiên là ở tầng khai ngộ này, con có khả năng rũ bỏ ngã này. Con có thể nhận ra là mình không muốn thị hiện những mục tiêu của ngã vỏ ngoài và mình cũng không muốn thị hiện bất cứ gì xuyên qua ngã vỏ ngoài. Con không muốn thị hiện bất cứ gì qua vũ lực. Vậy thì làm thế nào con thị hiện được cái gì đây? Nhiều người đã từng đọc những cuốn sách kinh điển kia về thị hiện, sẽ bảo: “Đúng vậy, làm thế nào con có thể thị hiện bất cứ gì nếu con không dùng vũ lực và sức mạnh ý chí, nếu con không trụ tâm và không tập trung năng lượng? Thày bảo con buông bỏ mọi mục tiêu và mong muốn, bảo con không được cụ thể chính xác, bảo con phải làm lỏng tâm mình và kỳ vọng của mình. Vậy làm sao con thị hiện được gì đây?”

Con yêu dấu, khoảng 2500 trước đây có một bậc đại hiền đã giảng dạy về Trung đạo. Thày không đang bảo con không được dùng sức mạnh của ý chí, hay không được tập trung, hay không được quyết tâm. Thày đang bảo con chuyển sự chú tâm của con ra khỏi ngã vỏ ngoài và hòa điệu với Sứ vụ Thiêng liêng. Thày cũng bảo con làm lỏng tâm con, làm lỏng các kỳ vọng của con, ít ra trong một thời gian, vì con sẽ cần chút thời gian để buông xả các kỳ vọng từ ngã vỏ ngoài. Con cần bước vào một giai đoạn tạm thời nơi con sẵn lòng để cho mọi chuyện nổi trôi, như thể nổi trôi không định hướng trên mặt nước, và con để cho dòng nước cuốn con trôi đi.

Con thấy đó, con yêu dấu, có một cách lấy quyết định với ngã vỏ ngoài, là khi con dùng sức mạnh ý chí hay con tập trung vào mục tiêu và trở thành vô cùng cương quyết. Có thể nói, con gạt sang một bên bất kỳ lực chống đối nào ngăn cản con thực hiện mục tiêu của mình. Nhưng cũng có một cách khác là con buông bỏ tất cả những mong muốn vỏ ngoài đó và con đi vào trạng thái mà Giê-su mô tả là: “Xin ý của Cha được thành, chứ không phải ý của con.”

Nói cách khác, con không bảo là con không muốn bất cứ gì thị hiện trong đời con, mà con chỉ nói là con không muốn ý chí của ngã vỏ ngoài thị hiện. Con muốn ý chí cao hơn mà chính con đã định ra khi con thảo Sứ vụ Thiêng liêng. Con sẵn lòng chờ cho điều đó xảy ra. Con sẵn lòng để cho nó xảy ra, để cho nó trải bày. Con sẵn lòng bước vào một trạng thái của tâm nơi con nghĩ là mình không đang thị hiện gì hết. Con không đang cưỡng ép bất cứ gì thị hiện, mà con chỉ để yên cho nó rơi vào thị hiện.

14.13. Để yên cho mọi chuyện thị hiện

Trong thế giới Ả rập, người ta có câu ngạn ngữ về quả cam rơi vào chiếc khăn đóng mình đội trên đầu. Con ngồi dưới cây cam và quả cam rơi xuống một cách tự nhiên. Đây là trạng thái tâm mà con có khả năng bước vào ở mức này. Không tìm cách ép buộc Ánh sáng Mẫu-Vật phải cho con những gì ngã vỏ ngoài mong muốn, con trao cho Ánh sáng Mẫu-Vật khoảng trống để nó thị hiện điều mà chính con, qua ý chí cao hơn của con, đã quyết định mong muốn. Con cho phép các mong muốn cao hơn của con đi xuống thị hiện vật lý thay vì ngăn chặn chúng với tất cả những kỳ vọng vỏ ngoài đó. Con có thấy được không? Cách thị hiện cưỡng bức của ngã vỏ ngoài là một chuyện khả thi, nhưng có một cách khác mà thoạt nhìn tưởng chừng là một cách thụ động (ít ra đối với ngã vỏ ngoài), nhưng nó không thụ động chút nào. Đơn giản, con kết nối lại với Sứ vụ Thiêng liêng và cho phép tự nó thị hiện ra.

Con thấy đó, con yêu dấu, nhiều người theo học những cuốn sách về thị hiện thường làm vậy từ một tâm trạng thiếu thốn, họ thiếu thốn vì họ muốn một cái gì đó. Thường khi là tiền bạc. Họ không đủ tiền, họ muốn thị hiện ra tiền, cho nên họ theo học các khóa đó và họ khiến cho ý muốn vỏ ngoài đó bị đông đặc lại. Sau đó họ dồn tất cả sức lực của ý chí cùng quyết tâm để cố đẩy nó lên các cõi cao hơn. Có lẽ họ không biết gì về ba thể cao như con, nhưng dù sao thì họ cũng cố gắng – từ mức ý thức – đẩy nó lên các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc. Khi họ làm vậy từ tầng ý thức, trước tiên họ phải đẩy lên cõi tình cảm, rồi họ phải đẩy lên cõi lý trí, rồi họ phải đẩy lên cõi bản sắc. Một khi họ đã đẩy được vào cõi bản sắc, xung lực có thể sẽ quay ngược lại và bắt đầu đi trở xuống.

Vấn đề là con chỉ có sẵn một khối năng lượng giới hạn khi con cố gửi xung lực đó đi lên cõi tình cảm. Có thể trong thể tình cảm của con có đủ loại xáo trộn mà con chưa giải quyết, và chúng sẽ tạo ra sức cưỡng chống lại. Sóng năng lượng mà con gửi ra bằng tâm ý thức tạo ra đủ loại mô thức giao thoa với các năng lượng khuếch tán và hỗn loạn hiện diện trong cảm thể con. Đến khi nó tới được cõi lý trí thì không những nó đã bị suy yếu mà phần nào còn bị bóp méo. Một lần nữa, trong trí thể của con lại có đủ loại điều kiện hỗn loạn khác, đủ loại tin tưởng chưa giải quyết. Và khi nó lên tới thể bản sắc, nó lại bị khuếch tán thêm nữa. Nơi thể bản sắc, rất có thể là con không rõ ràng lắm về con người thực mà con là, về những gì mà con thực muốn, cho nên một lần nữa lại có sự suy giảm và biến thái. Cho nên đến khi xung lực sẵn sàng quay trở xuống, nó không còn gì như cũ và sức mạnh của nó đã suy yếu.

Nhiều, rất nhiều người làm như vậy. Họ bỏ thì giờ ra, ngấu nghiến đọc những cuốn sách hứa hẹn cho họ đủ mọi thứ. Họ dành ra nhiều thời gian và sức lực để làm theo nhưng rồi chẳng có gì xảy ra. Họ ngồi đó, không hiểu tại sao chẳng có gì thị hiện, hoặc họ bỏ rơi toàn bộ, thậm chí họ bỏ rơi cả đường tu tâm linh bởi vì sự thật là họ có bao giờ cất bước trên đường tu tâm linh đâu, mà họ chỉ tìm cầu một lối thoát vá víu tạm thời. Hoặc cũng có thể là một phần mục tiêu của họ được thị hiện, và giờ đây họ thực sự nghĩ đó là cách thị hiện mọi chuyện. Họ lại thử một lần nữa, nhưng rồi họ phải đi đến kết luận là nó không hiệu nghiệm. Chuyện đó không hiệu nghiệm chút nào.

Điều thày yêu cầu con làm khác hẳn. Thày yêu cầu con buông bỏ tất cả mọi thứ vỏ ngoài, sẵn lòng để cho mình nổi trôi, để mình xuôi chảy theo Dòng sông sự Sống, để yên cho sự sống cuốn con theo bất cứ hướng nào mà nó muốn. Và khi đó, con vươn lên, con với tới những gì con đã định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Nghĩa là con né tránh được bất kỳ lực kháng cự nào đến từ ngã vỏ ngoài ở các thể tình cảm, lý trí và bản sắc thấp của con. Con đi thẳng tới nguồn cội của những gì con đã thảo ra trước khi con đầu thai trong kiếp này. Xong con kết nối với cái đó, và con sẵn lòng để yên cho nó thị hiện ra cho dù con chưa thấy được nó là gì, cho dù nó có thể không đồng thuận với các kỳ vọng vỏ ngoài mà con đã vun trồng ở một thời điểm nào đó. Con sẵn lòng buông bỏ các kỳ vọng đó và con nói: “Xin ý chí cao hơn của con được hoàn thành cho dù nó có là gì, chứ không phải ý chí vỏ ngoài của con. Dù bất cứ gì có xảy ra, con cũng sẽ chấp nhận, con sẽ đón nhận, và con sẽ biết ơn tất cả những gì con được nhận.”

14.14. Thị hiện qua buông bỏ

Thật ra có nhiều người đã thị hiện một điều gì không đúng hẳn như ý muốn của ngã vỏ ngoài. Họ xem đó là không đủ hay họ đã từ chối thẳng thừng. Có những người đã thị hiện được một số cơ hội mới, nhưng vì nó không đúng với mong ước cho nên họ đã không nắm lấy. Và như thế họ đã bỏ lỡ một cơ hội tăng triển mà họ đã định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng. Ở mức này, thày yêu cầu con hãy sẵn sàng trở nên mềm lỏng, sẵn sàng buông bỏ mọi hình ảnh cố định về đời mình phải trải ra như thế nào. Con hãy kết nối lại với ý chí cao hơn đó, là ý chí đích thực mà con đã có khi con không nhìn mọi chuyện xuyên qua lăng kính dày đặc của bốn thể phàm.

Đây là một hành động buông bỏ có khả năng thực sự đưa con đến một trạng thái an bình vì con chấp nhận một số chuyện. Con chấp nhận khía cạnh omega của sự thị hiện trên địa cầu, nghĩa là địa cầu có một độ dày đặc nào đó, mọi người đều có quyền tự quyết của mình và tâm thức tập thể ở một trình độ nào đó. Những yếu tố này định ra giới hạn cho những gì con có thể thị hiện. Do tất cả những điều kiện vỏ ngoài đó, con không nhất thiết thị hiện được điều kiện lý tưởng mà con có thể hình dung. Nhưng điều mà con luôn luôn thị hiện được là những gì sẽ giúp con tăng triển lên một mức tâm thức cao hơn. Đó là omega – là làm hòa với mọi thứ như chúng hiện là, và tận dụng chúng một cách tối hảo thay vì phàn nàn là chúng không lý tưởng.

Khía cạnh alpha là con vượt ra khỏi các ham muốn của ngã vỏ ngoài. Con tái nối kết với các mong muốn cao hơn mà chính con đã từng có trước khi hiện thân. Con cho phép những mong muốn này thị hiện và con chấp nhận như vậy là tốt đủ, đó là cơ hội mà con muốn và con sẽ ôm lấy nó. Con sẽ tận dụng nó một cách tối hảo và sẽ đặt trọng tâm vào việc tăng triển thay vì sở hữu.

Có một khái niệm rất quan trọng mà Giê-su đã bày tỏ cách đây không lâu trong một bài truyền đọc nơi thày nói là các chân sư thăng thiên giống như những nhân viên bán xe cũ sử dụng kỹ thuật nhử mồi xong đánh tráo. Con người hiện ở một trạng thái tâm thức thấp đến độ khi họ chưa tìm được con đường tâm linh thì họ sẽ tạo ra đủ mọi loại mơ ước và ham muốn. Các thày phải cho họ một cái gì đó mà họ có thể liên hệ và chấp nhận, một cái gì có thể thúc đẩy họ cất bước trên đường tu. Rồi sau đó tất nhiên, khi họ đã tiến xa hơn trên đường tu, các thày phải xoay chuyển họ để họ nhận ra là các mong muốn ban đầu của họ không thực tế lắm, và giờ đây, hy vọng là họ có thể nhận lấy một mong muốn cao hơn sẽ đặt họ trên con đường dẫn đến tầng 144.

Vấn đề ở đây y hệt như vậy. Điều không thể tránh được là khi các con khởi sự khóa tu này, con có một số mong muốn, một số chờ đợi không được cao nhất. Làm thế nào con có thể ở tầng tâm thức thứ 48? Làm thế nào con có được một chờ đợi thực tế  về đường tu tâm linh khi con ở tầng 48? Con không thể. Các Thượng sư khác cũng đã đề cập đến cùng điểm này. Điều vô cùng quan trọng ở mức này là con thực sự đạt tới mức con xem xét các kỳ vọng không thực tế đó và con để cho chúng ra đi.

14.15. Làm hòa với sự bất toàn

Con cần đặc biệt làm hòa với thực tế là chừng nào con còn ở trong hiện thân vật lý, con sẽ không đạt đến một trạng thái giác ngộ hay một tâm thức toàn vũ tối thượng nào đó (hoặc bất kỳ cái tên nào mà con muốn gọi). Cho đến khi con thăng thiên, con sẽ vẫn mang một số yếu tố của tâm thức phàm nhân. Trên thế giới sẽ có những người không đồng ý với câu này. Một số sẽ bảo đó là một lời dạy hoàn toàn sai lầm. Một số sẽ nói: “Nhưng chắc chắn Giê-su hay đức Phật, vị đạo sư này hay vị đạo sư kia, hay vị đạo sư sắp tới, phải đã chứng đạt giác ngộ chứ.” Điều này tùy thuộc vào cách con định nghĩa giác ngộ là thế nào. Nếu con định nghĩa giác ngộ là đã hoàn toàn rũ sạch ngã vỏ ngoài, thì không một ai đã đạt được trạng thái đó cho tới điểm ngay trước khi vị đó thăng thiên. Giê-su đã không đạt đến đó cho tới khi thày bị đóng đinh trên thập tự giá và từ bỏ hồn mình (the ghost), tức là khía cạnh chung cuộc của ngã vỏ ngoài, kỳ vọng chót cùng của ngã vỏ ngoài.

Con thấy ở đây, chắc chắn con có thể nói khi con đạt tới một tầng tâm thức nào đó thì con đã vươn lên cao hơn tầng 48 rất nhiều, cho nên con giác ngộ hơn khi trước. Vấn đề là con thấy trên thế giới có những vị xưng mình là đạo sư đã giác ngộ và vân vân. Giờ đây các vị ấy bắt đầu tin là mình không còn cần soi gương, không cần tìm cái xà trong mắt vì họ không còn xà nào nữa, họ không còn tự ngã, không còn ngã vỏ ngoài nữa. Có nghĩa là từ điểm đó trở đi, họ không còn tăng triển nữa. Điều thày cố trao cho con là ý niệm thực tiễn rằng chừng nào con còn đầu thai thì con vẫn cần soi mình trong gương, vẫn cần tăng triển, vẫn cần vượt qua và buông bỏ nhiều thứ, và con vẫn cần để cho chúng chết đi. Đó là cách duy nhất để con leo đến được tầng 144 và thăng thiên.

Con có nghĩ là thày đã từng làm gì khác hơn hay không, con yêu dấu? Thày đã phải làm y hệt như vậy để hội đủ tư cách thăng thiên. Giê-su cũng vậy, Gautama cũng vậy, Chân sư MORE cũng vậy, Kuthumi cũng vậy, Mẹ Mary cũng vậy, và tất cả những vị đã thăng thiên khỏi trái đất cũng đã đều làm như vậy. Tất cả các thày đều đã bước chân trên con đường mà các thày đang dạy con bước theo. Sự khác biệt là hầu hết các thày đã không có những bậc thăng thiên làm thày giáo cho mình, ít ra những bậc mà các thày ý thức được hay có thể đọc được bài giảng. Nhưng các con thì có. Thày hy vọng con sẽ sử dụng giáo lý vỏ ngoài này một cách hữu ích, sẽ làm cuộc xoay chuyển đó, sẽ làm những xoay chuyển mà thày đã nói đến trong bài giảng này, hầu còn chuẩn bị thực hiện cuộc xoay chuyển to lớn hơn nữa mà thày sẽ đề cập trong bài tới. Thày hẹn gặp lại con để trao bài học đó cho con.

Cách con nhìn vật sẽ đồng sáng tạo vật đó

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 14/1/2019.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain và cho bài học thứ năm này, chúng ta sẽ giáp mặt với Tia thứ Năm của Viễn quan. Con yêu dấu, viễn quan không như người ta thường nghĩ, không như con từng hiểu khi con lớn lên trong thế giới hiện đại. Hình ảnh mà con đã nhận được từ tuổi thơ ấu bảo viễn quan là một cái gì thụ động. Có một vật nào đó hiện hữu khách quan ở ngoài kia, rồi có một cái gọi là ánh sáng đập vào nó, ánh sáng dội ngược lại trên nó, đi vào võng mạc mắt con nơi ánh sáng được chuyển thành một tấm hình mà não bộ của con nhìn thấy và xử lý.

12.1. Viễn quan thay đổi với thời gian

Các thày ta đã có nói, đây là một ảo tưởng vì thị giác không hề thụ động. Sa nhân muốn con nghĩ là nó thụ động, và đó là tại sao chúng đã thành công khiến cho tất cả mọi xã hội trên địa cầu dạy dỗ trẻ em ảo tưởng về tính thụ động của thị giác.

Nhưng như các thày đã đề cập, viễn quan là một cái gì chủ động. Chúng ta cần bàn nhiều hơn về lý do tại sao viễn quan lại chủ động và nó vận hành ra sao, và điều này liên quan tới những danh sách mà thày đã yêu cầu con lập ra trong bài giảng trước. Thày đã xin con lập ra một danh sách những thứ tuyệt đối không thể nào thay đổi được. Về từ ngữ được sử dụng ở đây, thật sự thày đã chơi một mẹo nhỏ với con khi thày bảo là thày muốn con lập danh sách một số “thứ” tuyệt đổi không thể thay đổi được, hay ít nhất không một quyền năng nào trên địa cầu có thể thay đổi được. Thày đã nói trước đó là các Elohim đã quy định và thiết lập một khuôn đúc nhất định cho trái đất và không có một quyền năng nào trên địa cầu, ngay cả toàn bộ tâm thức tập thể cũng không thể nào thay đổi được. Do đó, đúng là những thứ tuyệt đổi không thể thay đổi.

12.2. Công nghệ thay đổi viễn quan

Và tất nhiên, con đã lớn lên trong một thế giợi có rất nhiều công nghệ. Điều này dẫn chúng ta đến danh sách thứ nhì gồm những thứ có thể được thay đổi nhưng chỉ bằng những phương tiện vật lý, công nghệ hay bằng lao động vật lý. Hiển nhiên trong những thập niên vừa qua, công nghệ (do đã nhận được cảm hứng chủ yếu từ thày cũng như từ các chân sư thăng thiên khác) thật sự đã có một số khám phá thách thức những quan điểm trước đây về cuộc sống. Có những thứ mà một trăm năm về trước người ta bảo là tuyệt đối không thể nào thay đổi, nhưng giờ đây con biết rõ là chúng có thể được thay đổi.

Hạt nguyên tử có thể bị đập vỡ, và chính những hòn gạch xây dựng vật chất đó – như trước đây người ta vẫn tưởng – có thể bị đập vỡ. Đã có một thời người ta tuyệt đối bác bỏ đó là chuyện khả dĩ. Con thấy đã có sự chuyển đổi nào đó do công nghệ, và những gì không thể xảy ra cách đây chỉ vài chục năm, giờ đây trở thành khả dĩ. Tất nhiên một cách chung chung, con người đã chưa điều chỉnh được cái nhìn của mình về cuộc sống dựa theo các khám phá đó, vậy thày cần con bắt đầu điều chỉnh cái nhìn của con về cuộc sống. Thày cần con nhận chân ra công nghệ thực sự là gì. Tại sao – một lần nữa chúng ta sẽ dùng ví dụ này – tại sao nền công nghệ thời nay có khả năng đập vỡ nguyên tử? Thậm chí, tại sao con lại có một nền công nghệ có thể đập vỡ cả những hạt hạ nguyên tử thành những mảnh nhỏ hơn nữa? Đó là vì ngày nay con có sự hiểu biết không có mặt vào thời trước.

Trước khi thuyết tương đối của Albert Einstein ra đời vào năm 1905, loài người không có hiểu biết gì, ngay cả trong lý thuyết, về khả năng đập vỡ nguyên tử. Đó là vì vào thời đó, các nhà khoa học còn mang một cái nhìn nhị nguyên về thế giới, qua đó họ thấy một rào cản tuyệt đối giữa vật chất và năng lượng. Thế giới được cấu tạo bởi hai thành phần tách biệt, và cái này không thể biến hóa thành cái kia. Rồi Einstein tìm ra thuyết tương đối và ngộ ra là mọi vật chất thật sự chỉ là một dạng của năng lượng. Điều này hoàn toàn phù hợp với những gì thày đã nói với con trước đây. Con cần bắt đầu nhìn ra là đằng sau mọi hình tướng mà mắt người có thể trông thấy, có một năng lượng thuần khiết. Có một mô hình phức tạp những sóng năng lượng, những tín hiệu bật-tắt, những mô thức giao thoa giữa các năng lượng. Đó chính là thực tại thâm sâu hơn.

12.3. Nhìn thấy tất cả là lỏng

Lý do điểm này quan trọng là một khi con nhìn thấy một thực tại năng lượng bên dưới tầm mức vật chất (hoặc tầm mức đồ vật vĩ mô), con sẽ nhận ra tầm mức năng lượng này là lỏng. Khi con nhìn một hiện tượng vật lý nào đó, chẳng hạn đỉnh Everest hay bất kỳ ngọn núi nào mà con đã chiêm ngưỡng, con nhìn vào khối đá khổng lồ đó và con nghĩ nó vượt khỏi mọi khả năng thay đổi. Nó rắn đặc, nó to lớn khủng khiếp. Nhưng khi con nhìn vượt khỏi tầm mức vật lý, tầm mức đồ vật vĩ mô, con sẽ thấy thực tại thâm sâu hơn, và ngay cả ngọn núi rắn chắc kia cũng được tạo bằng năng lượng đang rung động, và năng lượng thì lỏng hơn vật chất rất nhiều. Ít nhất trên lý thuyết, có một khả năng thay đổi cho năng lượng cấu tạo ngọn núi đó. Tất nhiên, nếu năng lượng thay đổi thì vật chất cũng sẽ phải thay đổi theo. Điều mà Einstein đã làm là thay đổi quan điểm truyền thống, quan điểm vật lý cổ điển, về nhân và quả.

Tiếc thay, đó là điều mà các nhà khoa học nói chung đã không sẵn lòng thừa nhận. Về bề nổi, họ đã không sẵn lòng thừa nhận vì họ không muốn từ bỏ chủ nghĩa duy vật, họ không muốn nhìn thấy một mối liên hệ giữa vật chất và tâm. Ở mức sâu hơn, thực tế là họ bị đui mù bởi các sa nhân đã xâm nhập vào các giới quyền chức khoa học y như chúng đã từng chi phối Giáo hội Công giáo vào thời Trung cổ (nhưng đây chỉ là một vấn đề bên lề vì thật sự thày không muốn bước vào một cuộc tranh luận chính trị ở đây).

12.4. Xem năng lượng là nguyên nhân và vật chất là kết quả

Điều thày muốn chỉ ra cho con là trong quan điểm vật lý cổ điển về thực tại, có một cái được xem là nguyên nhân và một cái được xem là kết quả. Nói cách khác, nếu có một trái banh bi-da di chuyển trên bàn bi-da, đó là một hành động vật lý. Trái banh là một vật vật lý đang di chuyển trong một không gian vật lý, và phải có một nguyên nhân vật lý, cụ thể ở đây là một cây gậy đập vào trái banh khiến nó chuyển động. Đây là cách mà người ta quan niệm nhân và quả trong vật lý cổ điển – một nguyên nhân vật lý phải có một kết quả vật lý.

Einstein đã phá vỡ cách nhìn trên – nếu người ta chịu để cho nó bị phá vỡ trong tâm họ. Ông làm được vậy là vì trên cơ bản, ông nói rằng vật chất, và mọi hiện tượng vật chất, đều là kết quả. Trong quan điểm của Einstein, chúng là kết quả của một nguyên nhân mà mắt không nhìn thấy gọi là năng lượng. Chúng ta có thể đi xa hơn vậy nhưng dù sao thì trong nhãn quan của Einstein, nguyên nhân sâu xa của mọi hiện tượng vật chất là năng lượng, là thế giới năng lượng. Con vẫn có thể bảo là có một đồ vật vật lý gọi là trái banh bi-da và có một cây gậy vật lý đập vào banh, nhưng lý do những vật vật lý đó có thể hiện hữu là vì có một nguyên nhân nằm bên dưới, là năng lượng lỏng đang rung động.

Mọi vật vật lý rắn đặc hiện hữu như là kết quả của một nguyên nhân nằm bên dưới là năng lượng lỏng. Điểm này quan trọng, con cần ghi nhớ. Nhưng chúng ta sẽ đi xa hơn nữa. Lý do khiến cho các nhà khoa học (hay ít ra các nhà khoa học duy vật) không muốn công nhận các thuyết của Einstein hay hệ quả của ngành vật lý lượng tử là vì họ không muốn từ bỏ giấc mộng khách quan. Do ảnh hưởng của sa nhân, họ đã định nghĩa giấc mộng khách quan là sự quan sát không bị ảnh hưởng bởi tâm của nhà khoa học đang quan sát.

Chuyện này trở ngược về một thời điểm khi người ta tìm cách tách rời khoa học khỏi Giáo hội Công giáo và mô tả mọi tôn giáo là chủ quan. Hay nói cách khác, mọi trải nghiệm của tâm đều là chủ quan, và do đó phải loại bỏ tâm ra khỏi khoa học. Điều mà các nhà khoa học hay nhà duy vật không nhìn nhận là tất nhiên, họ không thể làm được chuyện đó, bởi vì cho dù con có làm gì đi nữa thì con cũng phải cần đến tâm. Nếu con thực sự muốn khách quan thì chuyện xây dựng hơn nhiều là con hãy tìm hiểu xem tâm ảnh hưởng đến sự quan sát như thế nào – hay ngay cả tìm hiểu xem tâm ảnh hưởng những quan sát nào mà con chọn lựa, con chọn lựa chúng như thế nào, và sau đó con chọn cách diễn giải như thế nào. Nếu làm vậy thì hiển nhiên con sẽ tìm ra là không có gì có thể gọi là một quan sát khoa học khách quan.

Một quan sát không có nghĩa lý gì trừ phi nó được diễn giải, nghĩa là nó được đặt vào một bối cảnh rộng lớn hơn. Bối cảnh mà các nhà duy vật đã tạo ra vô cùng chủ quan, bởi vì họ chỉ muốn tìm diễn giải trong vũ trụ vật chất. Đó không phải là một thế giới quan khách quan mà họ đã tạo dựng. Nó cũng chủ quan y như thế giới quan thời Trung cổ mà Giáo hội Công giáo đã tạo dựng. Và điều này, họ sẽ không chịu nhìn nhận.

12.5. Chấp nhận là con có một cái nhìn chủ quan

Điều chúng ta cần làm ở đây là nhìn nhận một chuyện thật giản dị. Con là một đệ tử tâm linh. Con đang ở một tầng tâm thức nào đó. Như các thày đã giải thích, con đang nhìn cuộc sống qua một phin lọc gồm có một số ảo tưởng. Do đó cho dù các nhà khoa học có tin gì đi nữa, con vẫn có thể xác định trong tâm ý thức rằng con chấp nhận cách mình nhìn cuộc sống là hoàn toàn chủ quan. Cách nhìn này là sản phẩm của những ảo tưởng mà con vẫn mang và chưa gỡ bỏ được.

Trong cương vị một đệ tử tâm linh và một cá nhân, con không cần tìm kiếm một sự khách quan nào đó. Thày cũng biết là trong con có một cái ngã mong muốn rải truyền các niềm tin và sự hiểu biết tâm linh của mình để khiến cho người khác chấp nhận. Chúng ta hãy tạm gác chuyện đó sang một bên. Chúng ta đơn giản bỏ nó qua một bên và nói rằng trong cương vị một cá nhân, con có thể nhìn nhận là cách con nhìn cuộc sống là sản phẩm của trạng thái tâm hiện thời của con, của những ảo tưởng mà con đã khoác vào khi con bước xuống dưới tầng 144 và vẫn chưa lột bỏ được. Con không cần tìm kiếm một cái nhìn khách quan về thực tại như các nhà khoa học đang tìm.

Do đó, vấn đề đối với con không phải là sự thật tuyệt đối là gì, thực tại khách quan là gì. Vấn đề đơn giản là như sau: Làm thế nào con có thể cải thiện các điều kiện vật chất hiện thời của con? Không phải là vấn đề đạt tới một mức tối hậu nào đó, mà như các thày đã dạy xuyên qua khoá tu này, đó là vấn đề con nhận ra là cuộc sống sẽ cải thiện từng bước nhỏ một. Làm thế nào con có thể đi từ mức của con ngay bây giờ lên mức kế tiếp, rồi cứ thế lên tiếp nữa và lên tiếp mãi, để lần lần cải thiện các điều kiện vật lý và vật chất của mình, hầu chúng đứng đồng bộ với những gì thày đã nói: Trong Sứ vụ Thiêng liêng của con đã ghi những gì, và điều gì cho phép con nhận được những tư tưởng sẽ giúp thị hiện Thời Hoàng kim của thày? Làm thế nào con sẽ thực hiện được chuyện này?

12.6. Nơi nhập thất của Saint Germain không làm bằng đồ vật

Điều con có thể làm là thừa nhận rằng con đã được dạy dỗ một cái nhìn méo mó về thực tại, một cái nhìn méo mó về nhân và quả, một cái nhìn méo mó về vật chất và năng lượng. Tuy không phải là lỗi con, điều đó đã khiến con mang một số tin tưởng về những gì có thể được thay đổi và những gì không thể thay đổi. Khi nào con thừa nhận chuyện này thì con mới có thể nhìn ra bước lôgíc kế tiếp là chất vấn cách mình nhìn thực tại, những gì mình nghĩ có thểkhông thể được thay đổi.  

Đây là khi con đi vào các khía cạnh kia của các danh sách mà thày đã yêu cầu con ghi ra. Thày đã xin con lập ra một danh sách những thứ mà con nghĩ tâm có tiềm năng thay đổi và những thứ con nghĩ tâm không thể thay đổi. Tất nhiên đó là những điều quan trọng hơn để con xem xét trong bài học này, bài học thứ năm tại nhập thất của thày. Điều thày muốn cho con thấy tại khóa nhập thất này là một điều thày ao ước có thể đưa ra cho mọi người trong cõi vật lý được thấy, nhưng chưa sẵn có công nghệ để làm được chuyện đó. Thày cho con thấy rằng những gì con xem là vật chất không hề giống như nó hiện ra xuyên qua giác quan vật lý của con. Tại khóa nhập thất của thày, con ở trong thể bản sắc, con không đang trải nghiệm khóa tu qua trung gian giác quan vật lý. Đây thật là một điểm quan trọng mà con cần suy ngẫm. Thày đã có nói là trong các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên, một số hình ảnh của Hang Biểu tượng đã được ban ra. Nếu con đọc những cuốn sách đó, con sẽ thấy là những hình ảnh đó phần lớn dựa trên cách nhìn theo giác quan con người.

Nói cách khác, do tâm thức tập thể thời đó mà chỉ một cái nhìn nhất định về Hang Biểu tượng có thể được đưa ra. Đó là cái nhìn dựa trên giác quan, được nới rộng thêm chút xíu để con thấy một cái gì bình thường con không thấy được qua giác quan tuy con có tiềm năng thấy được qua giác quan. Tất nhiên khi con ở trong thể bản sắc, con không bị hạn chế bởi nhận thức giác quan. Con có một nhận thức hoàn toàn khác, cho nên quả thực khóa nhập thất của thày không đến nỗi vật lý đường thẳng như con tưởng trong tâm thức tỉnh ngủ.

Thật sự không có cách nào dễ dàng để khép lại khoảng cách đó. Không có cách nào dễ dàng để mô tả bằng ngôn từ khóa nhập thất của thày vì nhận thức của con quá khác lạ. Khi con trở xuống cơ thể vật lý của mình và tỉnh dậy, đương nhiên con lại nhìn cuộc sống qua giác quan vật lý. Đây là một chuyện con có thể bắt đầu thay đổi. Thày không bảo là thày chờ đợi con sẽ thay đổi được hoàn toàn sau khi học xong bài này hay ngay cả hết khóa tu này. Con cần tới gần hơn với tầng 144 trước khi con có thể thực sự giải phóng viễn quan của con khỏi giác quan vật lý. Nhưng con có thể khởi sự. Con có thể khởi sự bằng cách, như thày đã nói, nhận ra trong tâm ý thức rằng viễn quan là một khả năng chủ động.

12.7. Viễn quan bị lập trình như thế nào

Con thấy đó, con yêu dấu, tất cả các con đều đã tập đi xe đạp. Nếu con trở ngược về quá khứ, con sẽ nhớ là lúc ban đầu, giữ thăng bằng là một chuyện rất khó khăn. Rồi đến một điểm nó trở thành tự động. Đó là vì rất rất nhiều chuyện trong cõi vật lý (con dùng cơ thể vật lý để làm rất nhiều chuyện) đòi hỏi nhiều chú ý – trừ phi bốn thể phàm của con có khả năng hoạt động như một máy tính và tạo ra những chương trình có khả năng “làm việc ở đằng sau”, nếu có thể nói như vậy. Giờ đây khi con leo lên chiếc xe đạp, con không cần phải đặt chú ý vào chuyện giữ thăng bằng nữa. Con chỉ ngồi lên xe đạp và có một chương trình trong tâm tiềm thức sẽ tiếp quản, và nó hoàn toàn tự động. Con có dư chú ý để quan sát cảnh vật chung quanh, hay ngay cả rút điện thoại ra đọc tin nhắn, như con thấy nhiều người làm khi họ đạp xe khắp các thành phố trên thế giới.

Điều con cần nhận ra là có nhiều chương trình như thế vận hành. Không phải là thày đang bảo là có gì sai trái hay những chương trình đó có ý hại con. Thày chỉ nói là đã đến lúc con ngộ ra là khi con nhìn bất cứ gì – khi con dùng mắt vật lý của con – thì có một chương trình trong bốn thể phàm đã được trù hoạch để biến thị giác trở thành tự động. Thật ra đây là một lãnh vực mà khoa học đã nghiên cứu phần nào, gọi là khả năng “nhận dạng mẫu” (pattern recognition).

Chức năng của chương trình này là nhìn vào các khuôn mẫu. Thày đã nói gì với con? Thày đã nói là toàn bộ thế giới được tạo thành từ hình ảnh vô cùng phức tạp đó. Thày đã nói nó giống như một màn hình với vô số những cái chấm nhỏ, và chấm đó hình thành những mô thức vô cùng tinh xảo. Điều mà chương trình trong tâm con làm là nó áp đặt một số hình ảnh lên mô thức đó. Hẳn con nhớ khi con còn bé, có lẽ con đã lấy một bức ảnh chụp trên tờ báo và nhìn nó qua kính lúp. Con đã thấy bức ảnh đen trắng trên báo được tạo thành bởi nhiều đốm nhỏ màu đen. Mật độ của đốm tạo ra cảm tưởng là con nhìn thấy những sắc xám khác nhau, và theo một nghĩa nào đó, đây cũng chính là cách hình thành thực tại.

Khi con nhìn vào bức ảnh trên tờ báo cũ, con không thấy từng cái chấm nhỏ riêng lẻ. Không phải vì mắt con không có khả năng nhìn thấy chấm nhỏ mà vì chương trình trong tiềm thức con đã chồng một hình ảnh lên trên các dấu chấm. Con tìm kiếm một hình mẫu. Chương trình tìm kiếm một hình mẫu.

12.8. Con người có xu hướng đặt tên cho mọi thứ

Chuyện này đòi hỏi chúng ta đi trở ngược về một bộ kinh cổ có tên là Sáng thế ký. Trong đó có câu chuyện về Thượng đế tạo ra Adam, con người đầu tiên, như thế nào. Tất nhiên đây không phải là một lời dạy hoàn toàn chính xác. Thật ra, nó chịu ảnh hưởng của sa nhân, như con sẽ thấy qua sự góp mặt của rắn nơi Vườn Địa đàng Eden. Dù sao đi nữa, chuyện kể lại là trước tiên, Thượng đế đã tạo ra tất cả các loài động vật, xong ngài tạo ra Adam, xong ngài ban cho Adam quyền năng đặt tên cho tất cả các loài động vật, thực vật cùng đồ vật trên trái đất. Adam gọi tên là gì thì đó sẽ là tên của chúng. Hiển nhiên tiến trình này bị sa nhân ảnh hưởng một cách sâu đậm – một cách thâm sâu và cơ bản. Chúng ở trong tâm thức tách biệt và chỉ trong tâm thức tách biệt người ta mới có nhu cầu đặt tên.

Bây giờ con thử suy ngẫm chuyện này. Con hãy tưởng tượng con đang ở vùng thảo nguyên châu Phi và con nhìn thấy một mô thức vô cùng phức tạp những màu sắc và hình dạng. Con có thể xem hình ảnh đó duy chỉ là sự tương tác giữa những tia sáng, những chấm nhỏ, hay ngay cả nhiều loại hình dạng khác nhau. Thậm chí con có thể nhận diện một số hình dạng đang di chuyển trên thảo nguyên, hình như đang làm gì đó với các nhánh cỏ. Có những hình dạng khác đang vươn lên cao làm gì đó với cây cối. Con thử nghĩ xem, đối với người dân sơ khai từng sống trên thảo nguyên châu Phi này, câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào anh ta có thể sống sót trên thảo nguyên này? Một trong những thử thách to lớn hiển nhiên là làm thế nào không biến mình thành miếng mồi ngon cho cái mà ngày nay con sẽ gọi là sư tử.

Con người sơ khai đó phải làm gì đây? Anh ta phải tạo ra một mô hình trong tiềm thức có khả năng nhận diện hình dạng con sư tử, nhận diện nó là nguy hiểm để mà có ngay biện pháp trốn chạy trước khi mình có thể suy nghĩ thấu đáo về sự việc. Con thấy đây chính là điểm nảy sinh ra nhu cầu đặt tên. “Sư tử! Nguy hiểm! Chạy trốn!” Chuyện này phải diễn ra thật mau lẹ, mau lẹ đến nỗi tâm ý thức thật không sao làm kịp.

Con thấy ở đây là trong trạng thái Địa đàng nguyên thủy của địa cầu, không có nhu cầu để mà đặt tên và xem mọi thứ là tách biệt như vậy. Chỉ sau cuộc sa ngã vào nhị nguyên mới có nhu cầu đặt tên cho vật và xem vật như một vật tuyệt đối. Chuyện xảy ra là con đã lớn lên và được dạy dỗ, ngay cả trong thế giới hiện đại, để dùng quyền năng viễn kiến của mình mà không nhìn thấy năng lượng, không nhìn thấy các mô thức phức tạp của sóng năng lượng, của những cái chấm hay những hình dạng. Con nhìn thấy những “vật” và con đặt tên cho những vật đó. Quyền năng thị nhãn của con đã phần lớn bị kết dính với ngôn ngữ, là cách dùng ngôn từ đặt tên cho vật.

Điều này không nhất thiết là một vấn đề lớn. Nó trở thành một vấn đề khi con đạt đến những tầng cao hơn của đường tu. Con cần bắt đầu nhìn nhận ở đây là những gì đã từng hữu ích ở một tầng mức nào đó (chẳng hạn cái gì đã giúp con đi xe đạp) sẽ trở thành một trở ngại ở những tầng mức cao hơn. Một khi con đã gọi tên cái gì đó là một vật, thì không những con sẽ nghĩ nó có một thực tại khách quan mà con cũng nghĩ đó là một cái gì tách biệt. Điều này nghĩa là gì?

12.9. Vật trở nên tách biệt như thế nào

Có nghĩa là ở tầm mức trước mặt, vật đó tách biệt với con. “Tôi đang ở đây, và ở kia có một vật gọi là chiếc xe đạp. Nó tách biệt khỏi tôi. Tôi có thể để nó trong ga-ra khi tôi bước vào nhà. Tôi không thể để lại thân thể tôi trong ga-ra khi tôi bước vào nhà nhưng tôi có thể để lại chiếc xe đạp. Đó là một vật tách biệt, nó tách biệt với tôi”. Ở một tầm mức tinh tế hơn, giờ đây chiếc xe đạp đã trở thành tách biệt khỏi bản chất thuần nhất của thực tại. Nó là một vật tách biệt đang nổi trôi trong không gian, hay đúng hơn nó đứng trên mặt đất, nhưng dù sao con đã nắm được ý thày. Bây giờ nó là một vật tách biệt, nó không kết nối với bất cứ gì. Chuyện vừa xảy ra ở đây là khi con bước xuống nhị nguyên, khi con sử dụng quyền năng thị nhãn của mình để tìm kiếm các hình mẫu đó và đặt tên cho chúng là đồ vật có sự hiện hữu khách quan tách biệt nào đó, thì con đã hoàn toàn che khuất thực tại nằm bên dưới, nơi mọi thứ đều kết nối và là thành phần của một tổng thể.

Con hãy tưởng tượng con đi chơi biển vào một ngày gió rất lớn và sóng rất cao. Tưởng tượng con đang nhìn biển cả, và những ngọn sóng hiển nhiên là những thành phần của biển. Sóng có thể rất lớn, rất mạnh, rất cao, và giữa sóng là những vùng lõm rất sâu. Tuy nhiên con vẫn thấy được là sóng được hình thành từ biển và không hề tách biệt khỏi biển. Bây giờ con hãy tưởng tượng con tạo ra một màn sương mù bên dưới, và sương mù nằm dưới thấp khiến con chỉ nhìn thấy đỉnh sóng ở trên mà không nhìn thấy biển cả ở dưới. Trong trường hợp này, con sẽ chỉ thấy những tháp nước, những hình dạng của nước, và con sẽ thấy chúng tách rời nhau. Thậm chí có thể con còn phân vân: “Ủa, tháp nước này từ đâu đến? Tại sao nó bỗng hiện ra nơi đây? Liệu nó có liên hệ gì với cái tháp nước ở đằng kia hay không?”

Trong cốt lõi, đây chính là điều xảy ra cho loài người như là hệ quả của tiến trình thày vừa mô tả. Con đã dần dà nhìn thấy một thế giới gồm những vật tách biệt. Con không nhìn ra là tất cả những vật đó đều nối kết với nhau vì chúng là sự biểu đạt của một thực tại duy nhất bên dưới. Hậu quả của chuyện này là gì? Đó là con nghĩ: “Đây là một vật tách biệt, nó tách biệt khỏi tôi, nó tách biệt khỏi tâm tôi, và do đó tôi không có cách chi ảnh hưởng đến nó hay thay đổi được nó bằng tâm của tôi. Làm thế nào tôi có thể thay đổi bằng tâm tôi khi không có sự nối kết nào giữa vật và tâm tôi?”

12.10. Tìm một cách nhìn khác

Để khắc phục ảo tưởng này – rằng có quá nhiều thứ con không thể thay đổi, và không thể thay đổi bằng tâm – con cần khởi sự chất vấn cái nhìn đó. Con cần bắt đầu rất từ từ nhận ra là có một cách khác để nhìn.

Con có thể tìm xem một số ảo thị (optical illusion) đã được người ta sáng chế để đánh lừa thị giác của con. Thoạt nhìn thì con thấy một vật gì đó, nhưng khi con nhìn kỹ hơn, con lại thấy một vật khác. Có một số tấm hình khá phổ biến chỉ là một đống chấm, nhưng khi con nhìn kỹ, bỗng dưng sẽ hiện ra hình dạng của một con cá heo hoặc bất kỳ hình dạng nào khác. Con có thể dùng những tấm hình này để nhận ra là con không thể hoàn toàn tin cậy giác quan của mình. Thật ra không phải là vấn đề giác quan của con mà là cái chương trình trong tâm tiềm thức đã chụp lấy dữ liệu do giác quan cung cấp và đè chồng lên một hình ảnh dựa trên khả năng nhận dạng mẫu, quy định một số vật và tìm kiếm những vật đó.

Con nhận ra là khi con nhìn một cái gì, con không đang thực sự nhìn cái đang ở đó. Chương trình trong tiềm thức nhìn vào cảnh vật, tìm kiếm những dạng mẫu mà nó đã sẵn nhận diện, đã sẵn lưu trữ trong kho dữ liệu này. Một khi nó tìm ra dạng mẫu đó, nó chỉ giản dị đè cái này lên những gì con đang nhìn. Trong nhiều trường hợp, thật sự con nhìn thấy một vật với mắt con nhưng bộ não lại hiển thị một hình ảnh gì khác trong đầu con. Bộ não hiển thị hình ảnh được tạo ra bởi chương trình tiềm thức chuyên tìm kiếm khuôn mẫu. Đây là một con sư tử. Đây là một con hươu cao cổ. Đây là một con ngựa vằn, vân vân và vân vân. Con không nhìn cái đang ở đó, vì cái đang ở đó là một mô thức phức tạp những sóng năng lượng, những cái chấm, những tín hiệu bật-tắt. Cái ở đó thì lỏng nhưng trong tâm con, nó bị biến thành một cái gì tuyệt đối, một cái gì khách quan. Con đang nghĩ – con đã bị lập trình để nghĩ – rằng cái con đang nhìn là một thực thể khách quan nằm ngoài tâm con, tách biệt khỏi tâm.

Điều thày cần con bắt đầu suy ngẫm ở đây là: Đó là một ảo tưởng. Đã đến lúc con bắt đầu chất vấn nó vì lý do giản dị là con sẽ không bao giờ thay đổi được bất cứ gì bằng tâm nếu con thấy nó tách biệt khỏi tâm. Để con, để tâm con có thể thay đổi được gì, phải có một sự nối kết giữa tâm con và vật đó. Vì vậy, chừng nào con còn nhìn thế giới qua trung gian chương trình tiềm thức này đang tô vẽ mọi thứ là tách biệt, con sẽ không bao giờ thay đổi được hoàn cảnh vật lý, vật chất, của con bằng tâm. Chuyện đó không thể nào làm được.

12.11. Thị hiện những gì có vẻ khả dĩ

Một lần nữa con có thể nhìn lại những cuốn sách hay khóa dạy về thuật kết đọng vàng bạc từ hư không. Những người theo học như vậy không thành công vì lý do giản dị là họ đang cố làm đúng chuyện đó – họ đang cố thị hiện những vật mà họ xem là tách biệt với chính họ. Đó là tại sao điều thày mong muốn cho khóa tu này là con đừng thử làm những chuyện mà ngay từ đầu đã là chuyện bất khả thi, mà thay vào đó, con hãy điều chỉnh lại cái nhìn của mình. Đó là lý do thày đã nói: “Hãy điều chỉnh kỳ vọng của con”, hầu con có thể làm được, thị hiện được một cái gì con sẽ dễ chấp nhận là chuyện khả dĩ. Nói cách khác, các thày muốn con khởi sự với một việc rõ ràng khả thi – một việc mà con có khả năng thay đổi bằng cách thay đổi tâm mình.

Môt lần nữa, con có thể nhìn vào hoàn cảnh vật lý của con và con thấy một số thay đổi con mong muốn xảy ra. Ở điểm này, chúng ta có thể xem xét: Làm thế nào để những thay đổi đó xảy ra? Thày có nói là con không muốn cưỡng ép quyền tự quyết của người khác. Nếu sự thay đổi đòi hỏi người khác phải thay đổi thì đó không phải là điều thày yêu cầu con chú tâm vào. Thày yêu cầu con chọn ra một khía cạnh nào đó của đời con mà sự thay đổi không đòi hỏi con phải cưỡng ép người khác. Sau đó, thày yêu cầu con lấy hoàn cảnh đó và nhận ra là ngay cả ở tầng vật lý, có những thay đổi khả dĩ sẽ không nhất thiết là thay đổi thần diệu. Chúng chỉ đơn giản đòi hỏi con thực hiện một sự xoay chuyển để con nhìn thấy cái gì đó mà con hiện chưa nhìn thấy.

Con có thể nhìn những người trải qua một cơn trầm cảm (và có thể chính con đã từng trải qua trong đời mình hoặc con đã thấy người khác trải qua). Họ đã bước vào một vòng xoáy ốc hướng hạ, đã khoác vào một cái nhìn rất tiêu cực, gây giới hạn, về cuộc sống hay về bản thân họ. Họ nghĩ mình thật tồi tệ: “Không cách chi tôi tìm được việc làm tốt, tôi không đủ giỏi, tôi thiếu khả năng, tôi không được học hành, tôi không có cái này, không có cái kia.” Con sẽ thấy có những người khác ở trong cùng tình cảnh như vậy ở mức vật lý, vật chất, nhưng bỗng dưng có gì xảy ra thay đổi hẳn và họ tìm được việc làm tốt.

Tại sao một người không tìm được việc làm trong khi người kia lại tìm được? Là vì người thứ nhì mở tâm ra với những điều khả dĩ mà người thứ nhất không mở ra và vì vậy không nhìn thấy được. Xoay chuyển đầu tiên mà con cần thực hiện là con bắt đầu nhìn vào hoàn cảnh của mình và nhận ra là có những khía cạnh trong hoàn cảnh mình mà cho tới giờ mình xem là không thể hoặc khó lòng thay đổi. Hay thậm chí, có lẽ con chưa hề nghĩ đó là chuyện có khả năng thay đổi vì con đã được dạy dỗ là sự thể phải như vậy.

12.12. Nhìn thấy khả năng mới

Chẳng hạn, sứ giả này đã lớn lên trong một thị trấn khá nhỏ tại Đan mạch nơi cả gia đình ông đã sinh trưởng. Thân nhân của ông vẫn sống ở đó và sẽ chết ở đó. Họ không bao giờ nảy ra ý tưởng là họ có thể dời đi một thành phố khác để tìm việc làm tốt hơn. Họ chỉ có thể mường tượng những loại công việc có sẵn nơi chôn nhau cắt rốn của họ. Đơn giản, việc dọn đi xa hay đi học hay làm một nghề gì khác không phải là cách nhìn cuộc sống mà họ đã được dạy dỗ. Nhưng con cũng thấy, tất nhiên, có nhiều người khác không ngại di chuyển, không ngại tìm cầu học vấn ở mức cao hơn và do đó họ cũng đã xoay sở để có được công việc tốt hơn. Con thấy là đối với con ở mức này, con cần phải có chút tin tưởng để nhìn vào tình trạng của mình và tự hỏi: “Có thật là có những cơ hội mà hiện thời tôi chưa thấy được vì có gì đó trong thái độ của tôi đang ngăn chặn không cho chúng hiện ra? Tôi không đang nghĩ là mình có khả năng làm được chuyện này.”

Một lần nữa, con lại có thể nhìn vào tuổi thơ ấu của sứ giả này khi ông có ước mơ trở thành một nhà văn. Khi ông lớn lên, người ta bảo ông: “Con không thể nào làm nghề viết văn tại Đan mạch mà kiếm đủ sống, vì chẳng có bao nhiêu người biết đọc tiếng Đan mạch.” Đó không nhất thiết là một lời nhận định hoàn toàn thiếu thực tế, mặc dù một số nhà văn tại Đan mạch đã xoay sở để kiếm đủ sống từ nghề cầm bút. Dù sao đi nữa, sứ giả này đã làm gì? Ngay từ khi còn bé, ông luôn luôn cảm nhận mạnh mẽ là mình cần học tiếng Anh. Thế là nhờ biết viết tiếng Anh mà trong một thời gian ông đã có thể kiếm sống như một nhà văn.

Thày không đang bảo là con phải làm y như thế, nhưng con cần nhìn nhận là khi con lớn lên, con đã khoác vào một số tin tưởng từ gia đình con, từ môi trường chung quanh, từ xã hội của con. Vấn đề không phải là có những thứ con xem là bất khả thi, mà con chỉ không xem chúng là khả thi. Thậm chí con không nghĩ chúng là chuyện có thể, và ai nấy chung quanh con cũng không nghĩ chúng là có thể.

Đây là điều mà con có thể khởi sự xem xét ngay bây giờ và nhận ra là có thể có những cơ hội ở ngoài kia trong cõi vật lý, đã sẵn thị hiện trong cõi vật lý. Con chỉ cần hòa nhập với chúng rồi sau đó con cần sẵn lòng vươn theo đó và thay đổi. Điều này có thể áp dụng trong rất nhiều khía cạnh đời con, chẳng hạn như trong các mối quan hệ, nơi con sinh sống, cách sống của con, sự học tập và giáo dục của con, sự nghiệp của con. Rất rất nhiều người thời nay có nhiều hơn là một sự nghiệp trong một đời người. Một khi họ ra trường hay tìm được việc làm, họ không bị khóa chặt trong cùng một công việc suốt 40 năm trước mặt. Quả thực, xã hội đã trở nên lỏng hơn. Mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ, có tâm lỏng hơn, có cách suy nghĩ linh hoạt hơn rất nhiều so với thế hệ trước.

Thày chỉ yêu cầu con, trong cương vị một học trò tâm linh ở tầng khai ngộ này, nhìn lại một lần nữa những thứ gì mà con có trong tâm nơi tâm con không được lỏng, không được linh động. Con cho là có một số lằn ranh, một số giới hạn mà con không thể vượt qua. Vậy thì con cần chất vấn các giới hạn đó và khởi sự bước đi xa hơn. Đây là một bước rất thực tiễn, rất khả thi. Vượt xa hơn nữa, tất nhiên là thày muốn con vượt xa hơn nữa. Thày muốn con bắt đầu chất vấn chính cách nhìn của con về thực tại vật lý. Thày vừa nói với con làm thế nào con có thể làm được chuyện đó, là bằng cách nhìn xa hơn tầng cấp những thứ mà con đặt tên.

12.13. Tầng thâm sâu hơn của thực tại

Con cần nhìn ra là vượt quá những thứ đó còn có một tầng cấp thâm sâu hơn của thực tại – những sóng năng lượng, những mô thức giao thoa, những tín hiệu bật-tắt, những cái chấm. Đúng thực là con có thể tự đào tạo bản thân để đạt tới mức con thấy được – ít nhất là thấy thoáng hiện và không nhất thiết một cách vật lý – hay con cảm nhận được rằng mọi sự vật con nhìn thấy chung quanh mình là không rắn đặc, không cứng nhắc và bất khả chuyển đổi. Chúng chỉ là những cách biểu đạt của tầng mức năng lượng lỏng bên dưới đó mà thôi. Sau đó con có thể đi thêm một bước và nhìn nhận: “Điều gì khiến cho mọi chuyện ở mức vĩ mô có vẻ là vật tách biệt? Nếu chúng thực sự không tách biệt – như các khoa học gia đã chứng minh rất nhiều lần là không có gì tách biệt, mà mọi thứ đều nối kết với nhau – thì tại sao chúng lại có vẻ tách biệt?”

Chúng có vẻ tách biệt bởi một lý do duy nhất mà thôi. Chính tâm con đã chồng cái hình ảnh đó lên trên chúng. Chính tâm con đã khiến chúng dường như tách biệt. Con đã bị lập trình để nghĩ chúng là những thực thể khách quan, chúng là những vật tách biệt, nhưng kỳ thực không phải vậy. Không có nơi nào trong vũ trụ có vật tách biệt. Tất cả mọi sự vật đều là thành phần của bản chất thuần nhất của thực tại, tấm thảm của sự sống. Một khi con bắt đầu nhập vào và hòa điệu với nó, con sẽ nhận ra, như thày đã bảo con, rằng tất cả đều là tạo vật của tâm.

Các Elohim đã tạo ra hành tinh, và tập thể loài người đã tạo ra rất nhiều trong số các điều kiện hiện hành trên hành tinh, nhưng tất cả đều là những tạo vật của tâm. Có nghĩa là từ một nhãn quan nào đó, không hề có vật nào không thể được tâm thay đổi. Câu hỏi đặt ra là: “Tâm nào?” Có một số thứ chỉ có thể được thay đổi bởi một tâm ở tầng mức Elohim. Có một số thứ không thể thay đổi ở tầng mức tâm con người. Tuy vậy, có rất rất nhiều thứ hơn nữa có thể được thay đổi ở tầng mức tâm con người, nhiều hơn là đa số con người có thể chấp nhận.

Đó là điều thày yêu cầu con khởi sự chất vấn, vì việc thay đổi hoàn cảnh vỏ ngoài của con có hai khía cạnh. Có khía cạnh alpha và khía cạnh omega. Omega là khi con thu hút về phía con những điều kiện đã có sẵn trong cõi vật lý. Con thu hút việc làm đó, con thu hút người phối ngẫu đó trong mối quan hệ. Con thu hút, con trở thành một thỏi nam châm.

Làm thế nào con trở thành một thỏi nam châm? Một lần nữa, con cần khắc phục cảm nhận tách biệt. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là ngay cả khái niệm nam châm cũng tăng cường cho cảm nhận tách biệt vì con xem nam châm như một vật khách quan đang thu hút một vật khách quan khác. Nhưng dù sao thày vẫn muốn sử dụng hình ảnh từ trường ở đây để cho con thấy là có một số điều kiện đã sẵn thị hiện trong cõi vật lý. Con chỉ cần phát hiện ra chúng, từ hóa chúng về phía con, từ hóa chính con về phía chúng, để hấp dẫn chúng về phía con, và hấp dẫn con về phía hoàn cảnh đó.

Không phải là chuyện tạo ra một cái gì chưa sẵn có trong cõi vật lý, mà là chuyện khám phá và nhận ra rằng chính tư duy mà con có ngay bây giờ đang ngăn cản con khám phá cái sẵn ở đó. Đây là khía cạnh omega của việc cải thiện hoàn cảnh của con, khía cạnh omega của thị hiện.

Bây giờ, khía cạnh alpha là khi con thị hiện một cái gì đang không có mặt trong cõi vật lý – chuyên này nghe có vẻ bí hiểm, thậm chí thần diệu, nhưng nó thật không thần diệu đến như vậy. Thày đã nói điều gì là một trong những mục tiêu mà thày mong muốn con đặt ra cho mình? Đó là con trở thành một người có khả năng tiếp nhận một tư tưởng từ thày sẽ giúp thị hiện Thời Hoàng kim. Con hãy nhìn sứ giả này một lần nữa. Tất cả những cuốn sách mà ông đã viết đều nhận linh hứng từ cõi thăng thiên. Ông đã thị hiện một cái gì chưa hiện diện trong cõi vật lý trước đây. Tất nhiên, đây không phải là cách duy nhất để thị hiện nhưng thày chỉ muốn đưa ra một ví dụ cho con.

Không có gì thần bí hay thần diệu gì trong đó. Đơn giản đó chỉ là chuyện nhận được một ý tưởng từ cõi thăng thiên mà con đưa xuống qua ba tầng cao của tâm con cho đến khi nó thị hiện ở tầng vật lý. Việc làm này không quá sức tất cả các con. Thày không đang đặt ra cho con một mục tiêu vượt quá khả năng của con cũng như những gì con có thể bắt đầu làm ở mức tâm thức hiện thời của con. Tất nhiên là thày không đề ra cho con mục tiêu thị hiện vàng bạc từ hư không, bởi vì con không thể làm chuyện đó ở mức tâm thức hiện thời của con. Thật ra, hầu hết những ai ở mức tâm thức đủ cao để thực hiện, sẽ không chọn làm chuyện đó vì nhiều lý do khác nhau. Ở đây thày đang trao cho con một mục tiêu thực tiễn về những gì khả thi, những gì con có thể thực hiện bằng cách khởi sự xoay chuyển viễn quan của mình, xoay chuyển cách mình nhìn cuộc sống.  

12.14. Con đồng sáng tạo hoàn cảnh của con

Con yêu dấu, thày đã trình bày về bộ máy giả thực tại, và vũ trụ vật chất là một bộ máy giả thực tại. Cho tới tầng tâm thức hiện thời của con, đã không có sự cần thiết để con chất vấn cách vận hành cơ bản của máy giả thực tại. Nhưng giờ đây, con cần làm một cuộc chuyển đổi nho nhỏ và đơn giản là nhận ra điều mà thày đã nói với con, tức là địa cầu không thực sự giả dạng thực tại, mà chính tâm con mới giả dạng thực tại. Chính tâm con tạo dựng cảm nhận thực tại đó khiến khi con nhìn sự vật, con sẽ nói: “Đây là một con sư tử, đây là một con hươu cao cổ” rồi con nghĩ cái đó có một thực thể khách quan. Con chỉ đặt tên cho cái đang ở đó.

Con cần nhận ra là con không chỉ đặt tên cho cái đã sẵn ở đó, mà con còn đồng sáng tạo. À, thày biết là con sắp sửa nói (và đây là một câu hỏi hữu lý): “Nhưng chẳng phải là đã có sẵn một số thứ không do tâm con tạo ra hay sao?” Tất nhiên là có. Thày đã giải thích là các Elohim đã tạo ra địa cầu và tập thể loài người đã tạo ra rất nhiều những thứ khác mà con thấy trên trái đất. Có những thứ đã có sẵn ở đó rồi. Con có thể nói là nếu con lìa đời ngay lúc này và không còn hiện thân thì sư tử và hươu cao cổ sẽ không biến mất khỏi châu Phi. Tất nhiên là chúng không biến mất. Điều thày muốn nói là những thứ khách quan, những thứ đang hiện diện trong tâm con, không phải là những thứ quan trọng đối với con.

Thày sẽ nói là những con sư tử và hươu cao cổ kia không phải là thực thể khách quan theo nghĩa các nhà khoa học thường dùng. Chúng vẫn được tạo ra bởi một cái tâm, chúng vẫn là tạo vật của tâm, chỉ có cái là không phải tâm con. Điều thày nói ở đây là: Đúng vậy, có một số thứ ở ngoài kia không do tâm con tạo ra, nhưng hoàn cảnh cá nhân của con, ngay cả hoàn cảnh vật lý của con, là do tâm con đồng sáng tạo. Tâm con đã không toàn bộ tạo ra nó bởi vì, một lần nữa, những hoàn cảnh vỏ ngoài đó cũng được người khác tạo ra, vân vân và vân vân. Con đang sống trong một bộ máy giả thực tại chịu sự ảnh hưởng của nhiều người khác, nhưng chắc chắn có những khía cạnh trong hoàn cảnh cá nhân của con là do tâm con đồng sáng tạo.  

Con yêu dấu, con hãy suy ngẫm điểm này thật cẩn thận – đây không phải là chuyện con nhìn một cái gì đã sẵn ở đó trước khi con nhìn, mà có một số khía cạnh trong hoàn cảnh cá nhân của con được đồng sáng tạo do hành động nhìn của con. Chính bằng cách nhìn chúng mà con thực sự tạo ra những hoàn cảnh đó. Có thể con không tạo ra mọi khía cạnh của tình huống đó, nhưng con tạo ra một số khía cạnh ảnh hưởng đến cá nhân con. Cách con trải nghiệm cuộc sống được đồng sáng tạo trong bốn thể phàm của con.

Như các thày đã nói nhiều lần, điều gì là điều duy nhất mà con có quyền năng thay đổi? Đó là chính tâm con, bốn tầng của tâm con. Con có quyền năng thay đổi cái đó, bất kể các chọn lựa của người khác và bất kể các điều kiện vỏ ngoài. Khi con thay đổi cách con nhìn cuộc đời, một số khía cạnh trong hoàn cảnh vỏ ngoài của con sẽ thay đổi. Tại sao vậy? Làm sao thày nói được điều này khi nó ngược hẳn với mọi điều con đã được dạy dỗ để mà tin theo? Bởi vì thày là một chân sư thăng thiên, con yêu dấu, và thày đã thăng thiên bằng cách khắc phục ảo tưởng mà thày đang cố giúp con khắc phục, cụ thể là sự tách biệt giữa tâm và vật chất.

12.15. Thay đổi trải nghiệm về cuộc sống

Con thấy đó, con yêu dấu, như thày đã nói trong bài giảng trước, thời tiết ở Nam cực không thành vấn đề khi con ngồi đây trong căn phòng ấm áp này. Điều quan trọng đối với con là trải nghiệm của con về môi trường chung quanh, trải nghiệm của con về đời con. Điều đó mới quan trọng với con. Để hội đủ tư cách thăng thiên, con không cần phải thay đổi tình trạng vật lý trên trái đất. Điều duy nhất con cần phải thay đổi để hội đủ điều kiện thăng thiên là những điều kiện bên trong bốn thể phàm của con.

Điều duy nhất con cần phải thay đổi để có một trải nghiệm tích cực hơn về cuộc sống so với trải nghiệm của con ngay bây giờ, là các điều kiện bên trong bốn thể phàm của con. Có một câu thành ngữ phổ biến trong các cộng đồng Thời mới, đó là: “Khi con thay đổi cách con nhìn vật, thì vật mà con nhìn sẽ thay đổi.” Câu đó không nhất thiết là thực tế tuyệt đối (theo nghĩa là con có thể thay đổi mọi thứ) nhưng như thày nói, trong hoàn cảnh cá nhân của con, có những thứ mà con có khả năng thay đổi bằng cách thay đổi cách con nhìn chúng.

Bây giờ con đang ở tầng khai ngộ mà đó là bước kế tiếp của con. Con cần nhận chân nó, nhìn nhận nó, và như vậy con bắt đầu xem xét mình đang nhìn mọi vật như thế nào, mình nhìn đời mình như thế nào, mình nhìn mọi điều kiện như thế nào.

Con hãy nhìn nhận là bất kể các điều kiện vỏ ngoài có thế nào, bất kể người khác, bất kể thời tiết tại Nam cực có thế nào, vẫn có một điều gì mà con có thể khởi sự thay đổi ngay bây giờ, và điều đó chính là cách con nhìn cuộc sống. Con có thể bắt đầu chuyển rời khỏi cái nhìn vật tách biệt. Con có thể bắt đầu nhìn xa hơn hình ảnh rắn đặc đó. Con có thể bắt đầu nhìn ra là tất cả đều nối kết, tất cả đều lỏng, và tại sao nó lỏng chứ?

Làm thế nào bộ máy giả thực tại của địa cầu sản xuất ra tất cả những hiện tượng đó mà giác quan bảo con đó là những vật tách biệt, rắn đặc? Máy giả thực tại trên địa cầu có bốn tầng – bản sắc, lý trí, cảm xúc và vật lý. Tầng vật lý là gì? Đó là một màn hình. Có một hình ảnh được chiếu lên màn hình. Làm cách nào hình ảnh đó được chiếu lên màn hình của thế giới vật lý? Nó được chiếu lên do trong cõi bản sắc có một hình ảnh được hình thành, định ra những thông số tổng quát, một khung sườn toàn bộ nào đó. Xong nó được chiếu vào tầng lý trí nơi nó trở nên cụ thể hơn, chi tiết hơn. Xong nó được chiếu vào tầng cảm xúc nơi nó nhận được động lực, thôi thúc, xung lực năng lượng biến nó thành vật lý.

Thày cần con bắt đầu xoay chuyển tâm con một cách ý thức cho đến chỗ con nhận ra là bất cứ gì con nhìn thấy cũng không là một thế giới khách quan đang hiện hữu ở ngoài kia. Bất cứ gì con thấy đều là sự phóng chiếu trên một màn hình những hình ảnh đang hiện hữu ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Hoàn cảnh của con ngay bây giờ có một số khía cạnh không được tạo ra bởi bốn thể phàm của con, như thày đã nói nhiều lần. Nhưng có những khía cạnh khác của hoàn cảnh đó không là gì hơn sự phóng chiếu trên màn hình thế giới vật lý của những hình ảnh mà con mang trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. Những hình ảnh này, con có quyền năng khởi sự thay đổi. Con không thể búng tay thay đổi tất cả những hình ảnh đó cùng một lúc, nhưng con có thể khởi sự thay đổi chúng. Khi con làm vậy, một số khía cạnh trong hoàn cảnh vỏ ngoài của con sẽ thay đổi. Chúng sẽ thay đổi, con yêu dấu.

Nếu cần, con hãy bước vào một rạp chiếu phim và nhìn lên màn hình. Con sẽ thấy khi không có phim đang trình chiếu, nó chỉ một màu trắng tinh, không có hình gì trên đó. Con sẽ thấy là bất kể bộ phim nào con đặt vào máy chiếu, hình ảnh đó cũng sẽ hiển thị trên màn ảnh. Nếu con thay đổi hình ảnh, thay đổi cuộn phim nơi ba thể cao của con, con sẽ thay đổi hình ảnh được trình chiếu trên màn hình vì hình ảnh đó không bền lâu, và tự thân nó không có thực tại khách quan nào. Đó là một hình ảnh được chiếu lên màn hình của thế giới vật lý và nó được chiếu rất rất nhiều lần mỗi giây. Ánh sáng chỉ đơn giản chiếu rọi qua cuộn phim trong ba cái tâm cao của con. Khi con thay đổi cuộn phim thì con sẽ thay đổi những gì được trình chiếu trên màn ảnh. Không có cách nào khác, con yêu dấu.

Thày biết điều này trái ngược với mọi thứ con đã được dạy dỗ và tin tưởng khi lớn lên. Đương nhiên là trái ngược rồi. Đó chính là toàn bộ mục đích của khóa tu này: thay đổi để con không bị kẹt trong những điều con đã được dạy dỗ phải tin vào. Bởi vì nếu thế, con nhất định sẽ không thể thăng thiên sau kiếp này, vì sa nhân đã làm mọi cách để lập trình tâm thức tập thể rằng thăng thiên là chuyện bất khả thi.

Trong cốt lõi, đó chính là điều mà các thày đã làm ngay từ bài học đầu tiên của Chân sư MORE trong khóa tu này. Đã đến lúc con cần bước lên và thực sự chất vấn cách con nhìn thực tại và nhận ra một số khía cạnh trong hoàn cảnh của con chỉ là sự phóng chiếu của những hình ảnh con đang cầm giữ, những gì con nghĩ là khả thi, những gì con nghĩ là có thể thay đổi, những gì con nghĩ là không thể thay đổi.

12.16. Vật được duy trì bởi tâm

Con yêu dấu, con có thấy điều thày nói ở đây? Con đã bị lập trình để tin rằng có những khía cạnh trong hoàn cảnh của mình có một thực tại khách quan bên ngoài tâm con. Chúng là những điều kiện vỏ ngoài định đoạt những gì con có thểkhông thể làm. Thày đã nói với con: “Con là một sinh thể tâm linh. Các điều kiện vật lý không quy định được con.” Cái gì quy định con chứ? Những hình ảnh trong chính tâm con, đó là cái quy định con. Liệu con có thể thay đổi một số điều kiện ngoại cảnh hay không? Không, vì chúng được tạo ra bởi một cái tâm khác tâm con. Nhưng con có khả năng thay đổi những khía cạnh trong hoàn cảnh của con mà tâm con đã tạo ra.

Tại sao có một số điều kiện cứ duy trì mãi trong thời gian? Là vì trong ba thể cao của con vẫn còn một cuộn phim mà ánh sáng chiếu rọi qua. Ánh sáng sẽ khoác vào hình dạng đó và cái đó được chiếu lên màn hình. Chừng nào con chưa đi vào ba thể cao và thay đổi những gì con tin là khả thi, con sẽ tiếp tục phóng chiếu hình ảnh đó, và nó sẽ khoác vào những gì con tưởng là tình huống ngoại cảnh đang giới hạn con.

Giới hạn chỉ hiện hữu trong tâm con mà thôi (không phải trong mọi trường hợp trong đời con nhưng trong nhiều trường hợp, nhiều khía cạnh của đời con). Con không nhìn ra là có một cách khác để nhìn. Thật ra có hẳn một cơ hội mới, có hẳn một khả năng khác để kết đọng một cái gì mà hiện thời con cho là bất khả thi.

Có những điều con không thể thay đổi trong cương vị một con người. Có những điều con không thể thay đổi ở mức tâm thức hiện tại của con. Con có thể nâng cao tâm thức mình và thay đổi chúng. Nhưng có những điều mà con có khả năng thay đổi ở mức tâm thức hiện thời của con. Điều duy nhất ngăn cản con thay đổi chúng là con đang có một niềm tin hay một chương trình trong tiềm thức khiến con nghĩ việc thay đổi là bất khả thi. Đó chính là điều con cần chất vấn ở tầng khai ngộ thứ năm này tại khóa nhập thất của thày.

Liệu sự chuyện đổi này có dễ thực hiện hay chăng? Không, con yêu dấu! Nó không dễ. Nếu con dõi nhìn con ngay lúc này, con sẽ thấy một phản ứng trong con, một cảm giác nhẹ nhõm khi con nghe thày nói vậy. Có một phàm linh nội tại, một ngã tách biệt trong con không muốn con phá vỡ hàng rào đó và thoát ra khỏi giới hạn đó – bởi vì khi đó nó sẽ chết. Sự chuyển đổi sẽ không dễ dàng nhưng đó là một chuyển đổi khả thi ở mức khai ngộ hiện thời của con.

Đó là tại sao Chân sư MORE đã không bắt con phải đối mặt với vấn đề này ở ngay tầng đầu của khóa tu này, nhưng giờ đây con có khả năng thực hiện cuộc xoay chuyển đó. Khi con bắt tay vào việc, con sẽ nhận thấy con sẽ tin một cách dễ dàng hơn rằng một số khía cạnh trong hoàn cảnh vật lý của mình có thể thay đổi thực sự.

Con sẽ tin dễ dàng hơn rằng mình có thể nhận được một hiểu biết mới, một sáng ngộ mới, một viễn quan mới, một ý tưởng mới về cách thay đổi một điều gì đó trong đời sống cá nhân (hay ngay cả thực hiện một điều gì sẽ giúp thị hiện Thời Hoàng kim của thày) bằng cách thay đổi một điều gì đó mà con nhìn thấy trong thế giới bên ngoài.

Đó là những gì thày muốn trao cho con qua bài học này. Như luôn luôn, bài học rất dài, nhưng khi chúng ta ngày càng đến gần hơn với tầng 96, tất nhiên các khai ngộ, theo một nghĩa nào đó, sẽ tinh tế hơn, gai góc hơn, cho nên đòi hỏi nhiều giải thích hơn một chút. Thày cảm ơn con đã chú ý theo đõi và thày rất mong sẽ trao cho con bài học tới.

Chào mừng con đến máy giả thực tại địa cầu

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 13/1/2019.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain, và trong bài thứ tư tại khóa nhập thất của thày, chúng ta sẽ sử dụng Tia thứ Tư của Thuần khiết hay Gia tốc. Thày có ý định thanh tẩy điều gì chứ? Cái nhìn của con về cõi vật chất, cõi vật lý, vũ trụ vật lý.

Con yêu dấu, thày đã có giảng là tất cả mọi thứ được làm bằng vật chất, mà vật chất thực sự được cấu tạo bằng những hạt nhỏ hơn và nhỏ hơn nữa xuống tận đến năng lượng. Thật sự năng lượng là gì? Năng lượng có thể so sánh với một thứ mà con dùng trong công nghệ máy tính là tín hiệu bật-tắt. Bất cứ gì đều hoặc bật hoặc tắt, chỉ có điều là, tất nhiên, năng lượng cấu tạo vũ trụ vật chất phức tạp hơn so với thiết bị máy tính. Cho tới nay, trình độ hiện thời của ngành tin học còn rất thô sơ vì nó dựa trên số nhị phân, tức chỉ có thể có hai tín hiệu, hoặc bật hoặc tắt.

10.1. Màn hình bật-tắt của vũ trụ vật chất

Hệ thống mà con gặp trong thực tế không chỉ có hai trạng thái bật và tắt. Nó có một trạng thái bật và một trạng thái tắt, nhưng trạng thái bật không chỉ bật thôi, mà nó có thể khoác vào bảy sắc thái hay bảy màu sắc khác nhau tùy theo bảy tia sáng. Nói cách khác, con hãy tưởng tượng vũ trụ vật lý được tạo bằng một màn hình – đây là cách dễ nhất để con hình dung. Ánh sáng Mẫu-Vật hình thành một màn hình. Bình thường, màn hình này trống không – hay đúng hơn, bình thường nó không trống không, nhưng trước khi bất cứ gì được sinh tạo, trước khi trái đất được sinh tạo thì màn hình còn trống không. Sau đó các Elohim đã áp lên màn hình một số khuôn đúc, khiến cho những chấm nhỏ đó bật lên, và chúng bật lên với màu sắc của mỗi tia trong số bảy tia sáng. Thế là con có một màn hình với những chấm nhỏ đó mang màu sắc theo bảy tia.

Tất nhiên con cần hiểu, điều thày đang giải thích ở đây là một biểu diễn tượng trưng không hoàn toàn chính xác trong cái nhìn đường thẳng. Cách trình bày này đã được điều chỉnh cho thích hợp với mức tâm thức hiện thời của con hầu con nắm bắt được với hình ảnh, với hiểu biết con đang có về vũ trụ. Khi con tiến hơn đến tầng 144, thày không muốn con nghĩ đây là cách hiểu tối hậu về cách vận hành của vũ trụ, vì tất nhiên con sẽ có thể đạt tới những trình độ hiểu biết ngày càng thâm sâu hơn.

Dù sao thì cho bài giảng này, con hãy tưởng tượng con đang ở trong một căn phòng tựa như một quả bán cầu. Hình cầu giống như một mái vòm bên trên, và bên trong hình cầu từa tựa như một màn hình tivi gồm có rất nhiều những cái chấm có thể bật hay tắt, có nghĩa là người ta có thể hiển thị ra tuyệt đối bất cứ hình ảnh nào con có thể tưởng tượng được. Con hãy nhận ra đây là cách vũ trụ vận hành trên hành tinh địa cầu. Đây là cách hành tinh địa cầu được tạo ra. Các Elohim đã tạo ra bằng cách bật lên tất cả những tín hiệu nhỏ bé đó và cho chúng một màu sắc tùy theo mỗi tia trong số bảy tia sáng. Điều này không có nghĩa là tất cả mọi thứ con nhìn thấy trên trái đất, kể cả các biểu hiện mất cân bằng, được tạo bằng những màu sắc thuần khiết của một trong bảy tia sáng hay sự phối hợp của bảy tia sáng. Bởi vì bảy tia sáng cũng có dạng tha hóa, và tất nhiên, những dạng tha hóa này được dùng để tạo ra những biểu hiện mất cân bằng mà con thấy ngày nay.

10.2. Địa cầu là một bộ máy giả thực tại

Mục đích thày cho con minh họa này là để giúp con thấy trái đất chỉ đơn giản là một màn hình có khả năng hiển thị nhiều hình ảnh khác nhau. Thày không nói trái đất có thể hiển thị bất kỳ hình ảnh nào vì các Elohim đã chọn ra một khuôn đúc nhất định cho địa cầu, nhưng trong phạm vi khuôn đúc này, trái đất có khả năng hiển thị những hình ảnh rất đa dạng. Có nghĩa là trái đất có khả năng hiển thị những sự mất quân bình hiện tại mà con thấy, nhưng nó cũng có cùng khả năng hiển thị trạng thái hài hòa đã có mặt trước khi loài người bước xuống nhị nguyên và trước khi sa nhân đến đây. Nó cũng có thể hiển thị một trạng thái còn cao hơn cả thời đó, cao hơn những gì có mặt khi các Elohim sinh tạo địa cầu. Hiển nhiên, ý định là con người đồng sáng tạo sẽ nâng hành tinh lên cao hơn trạng thái nguyên thủy, và quả thực các dòng sống trong ba lượt sóng đầu tiên đã làm được việc đó.

Điều này thật sự có nghĩa là gì? Có nghĩa là con có thể đặt ra câu hỏi: “Liệu trái đất có phải là một thế giới thực hay không?” Thày biết chúng ta đã có đề cập sơ đến vấn đề này trong bài giảng đầu của thày nhưng bây giờ thày quay trở lại vì con đã có thời gian để nghiền ngẫm ý tưởng này. Thực tế mà con đi đến là trái đất không phải là một thế giới thực. Vậy trái đất là gì chứ? Chúng ta có so sánh nó như cái mà ngày nay con gọi là một bộ máy giả thực tại (reality simulator). Hẳn con cũng đã nghe nói đến máy mô phỏng hay máy giả bộ lái máy bay (flight simulator). Chắc hẳn con cũng từng có một trình mô phỏng máy bay trên máy tính của con. Màn hình máy tính hiển thị những gì con thấy từ buồng lái của phi công khi con cất cánh, đang bay hay hạ cánh. Con có nhiều loại máy mô phỏng khác, như cặp kính thực tế ảo mà ngày nay con có thể đeo vào và có cảm giác như mình đang ở trong một thế giới hoàn toàn khác lạ.

Điều thày muốn con suy ngẫm với tâm ý thức (vì con đã có nhìn và trải nghiệm điều này tại khóa nhập thất của thày) là sự kiện vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là một bộ máy giả thực tại. Điều này thật sự có nghĩa gì? Trước hết, có nghĩa là bất cứ gì con nhìn thấy trên địa cầu không phải là thế giới thực, nó chỉ được mô phỏng, nhưng nó không được mô phỏng để hiện ra như là đồ mô phỏng, mà nó được mô phỏng để hiện ra như là thực. Con có thể đi xem chiếu phim và con cũng biết màn hình xi-nê có khả năng chiếu bất cứ phim gì. Con thừa biết là dù con đang xem phim gì trong rạp, phim con đang theo dõi không là thế giới thực. Tất cả là tạo dựng, tất cả là giả vờ. Con biết rõ điều đó vì con đã bước vào rạp chiếu phim, và con cũng biết điều đó vì khi con bước ra ngoài rạp, con lại nhìn thấy thành phố quen thuộc của con chứ không phải một ngôi làng nhỏ của dân cao bồi miền Viễn Tây xứ Mỹ.

Bây giờ con hãy tưởng tượng con sinh ra trong rạp chiếu phim, con lớn lên trong rạp và con chưa bao giờ bước ra khỏi rạp. Con hoàn toàn mù tịt mọi thứ bên ngoài rạp, và đó chính là hoàn cảnh của con làm người đầu thai trên địa cầu. Con đã sinh ra trong bộ máy giả thực tại; không những vậy, con đã từng sống trong bộ máy đó suốt nhiều kiếp trước. Khi con sinh ra đời, con không có khung tham chiếu nào để biết là bên ngoài máy có bất cứ gì. Con không biết đây là một bộ máy giả thực tại thì làm sao con có thể đặt thành vấn đề? Con không có gì để mà so sánh. Tất cả những gì con đã thấy và đã trải nghiệm là cảnh giả dạng.

Có thể con đã có những cảm giác trực quan bên trong dựa trên một tiền kiếp, có lẽ đi ngược trở về thời con mới đến hành tinh như một avatar, hay như một cư dân nguyên thủy của địa cầu khi con đã trải nghiệm trái đất trong một trạng thái thuần khiết hơn. Có thể con có nội cảm là nhất định có chuyện gì đó không ổn, nhất định phải có một cái gì khác, nhất định một thế giới phải có một cách sống nào khác hơn. Thậm chí có thể con cảm thấy là mình không thực sự thuộc về nơi đây, rằng đây không phải là môi trường thực sự của mình, rằng đúng lý mình không được ở đây, cùng rất nhiều cảm giác khác giống như vậy mà người tâm linh có thể có. Rất có thể là vì con có những cảm giác đó mà con đã trở thành một người tâm linh đang tu học giáo lý tâm linh này. Sâu thẳm bên trong, con biết là vượt khỏi vũ trụ vật chất còn có cái gì đó, con cảm nhận là phải có một thế giới tâm linh, phải có những sinh thể trong một thế giới tâm linh, và phải có cách tương tác với những sinh thể đó, và đây chính là điều con đang làm ngay bây giờ. Con có thể có những cảm nhận này và điều thày yêu cầu con làm là nắm lấy nó để dùng làm khung tham chiếu khi con nhìn địa cầu. Và giờ đây, con nhận chân trong tâm ý thức của con: “Giản dị đây chỉ là một cái máy giả thực tại.”

10.3. Tại sao máy giả thực tại có vẻ thực

Một khi con bắt đầu suy ngẫm ý tưởng này và nhận được sự xác nhận trực giác đó thật là một ý tưởng đúng đắn, con có thể đi bước kế tiếp. Bây giờ con có thể tự hỏi: “Tại sao máy giả thực tại địa cầu lại có vẻ thực?” Các thày đã cho con một lời giải thích về điểm này rồi. Các thày có nói là có 144 tầng tâm thức, và khi con đi xuống địa cầu lần đầu, hiện thân lần đầu trên địa cầu, con khởi sự ở tầng 48. Các thày cũng nói là khi con xuống đầu thai, con đã khoác vào một ảo tưởng ở mỗi tầng từ 144 xuống đến 48. Nói cách khác, cho mỗi tầng trong số 144, có một ảo tưởng nhất định mà con cần giải quyết, một bí ẩn, một câu đố nhất định mà con cần giải đáp trước khi con được giải thoát khỏi tầng đó.

Để đi xuống tầng 48, con đã khoác vào một ảo tưởng ở mỗi tầng tâm thức từ 144 đến 48, và chính những ảo tưởng này khiến cho địa cầu có vẻ như thế giới thực. Tất nhiên, nếu con bước xuống thấp hơn cả tầng 48 (cho đến tầng tâm thức thấp nhất), con sẽ khoác thêm nhiều ảo tưởng nữa, và chúng sẽ khiến cho ảo tưởng một địa cầu thực càng có vẻ thực hơn nữa – tức là cái thế giới hiện ra cho giác quan và tâm vỏ ngoài của con.

Con đã vươn lên khá gần với tầng 96 và giờ đây chúng ta đối diện với một tầng tâm thức khác hẳn vì con đã rũ bỏ rất nhiều những ảo tưởng đó. Đó là tại sao con cần, ở mức ý thức, đi thêm một bước này là nhận diện địa cầu như là một bộ máy giả thực tại. Con cũng cần nhận ra một hiểu biết thâm sâu hơn về cách làm thế nào địa cầu giả dạng được thực tại, nhưng ở đay, chúng ta cần giải quyết một vấn đề ngôn từ. Thày vừa nói gì chứ? “Làm thế nào địa cầu giả dạng được thực tại.” Con thấy không, con yêu dấu, địa cầu không giả dạng thực tại. Đây là một ý tưởng mà con thực sự cần suy ngẫm để nó ghi chặt trong tâm ý thức của con.

Địa cầu không phải là một vật sống đang làm chuyện gì đó hay đang có ý định gì đó. Cho dù một số nền văn hóa có phóng chiếu thế nào – rằng thiên nhiên là một vật sống và thiên nhiên có tâm thức, một điều mà thày không phủ nhận – trong khuôn khổ cuộc khai ngộ này, điều thày muốn con chú tâm vào là sự kiện địa cầu là một màn hình. Ánh sáng Mẫu-Vật là một màn hình. Nó hiển thị bất kỳ hình ảnh nào được phóng chiếu lên nó. Nó không có ý định, nó không có quan điểm về cách con trải nghiệm những hình ảnh được phóng chiếu như thế nào. Nói cách khác, địa cầu không làm gi con. Nó không điều khiển, khuynh loát tâm con. Trong máy giả thực tại không có gì đang khuynh loát tâm con.

Vậy làm thế nào địa cầu giả dạng được thực tại? Nó không giả dạng gì hết! Vậy cái gì đang giả dạng thực tại? Tâm con. Bốn thể phàm của con giả dạng thực tại. Ý niệm thực tại mà con đã từng có về thế giới ngay đây trên trái đất hoàn toàn là một sản phẩm của tâm con. Đây là ý tưởng then chốt mà con cần lãnh hội, không những ở tầng này mà con cần giữ vững ý tưởng này với con cho tới tuốt tầng 144, vi đây là ý tưởng sẽ chuyên chở con đến tầng 144.

Con sẽ cần đối phó với điều gì khi con lên cao hơn tầng 96? Phải, con sẽ đối phó với một mức khai ngộ khác hơn so với những tầng dưới. Dưới tầng 96, con tập trung chủ yếu vào bản thân, con nhìn mọi thứ từ một nhãn quan nhất định, tụ quanh chính con. Có rất nhiều câu hỏi mà con không thể đặt ra hay nghĩ đến ở dưới tầng đó. Khi con đến tầng 96, như thày đã nói, cuộc khai ngộ then chốt sẽ là: Liệu con sẽ tiếp tục tập trung vào bản thân hay là con sẽ tập trung vào tổng thể?

Để vượt qua những ảo tưởng đó (đang lôi kéo con chú tâm vào bản thân), con cần giữ vững trong tâm ý tưởng rằng địa cầu không giả dạng thực tại, mà bất kỳ cảm nhận hay quan điểm về thực tại mà con có liên quan đến địa cầu, là sản phẩm của một ảo tưởng trong tâm con. Đây là một ý tưởng cốt yếu, tuyệt đối cốt yếu – nếu có gì có thể tuyệt đối đến như vậy trong một bộ máy giả thực tại. Tuy nhiên, một điều tuyệt đối về máy giả thực tại, và điều đó là: Tuyệt đối không có gì là thực. Có nghĩa là tuyệt đối không có gì có thể chặn đứng sự tăng triển tâm linh của con, ngăn cản sự tăng triển tâm linh của con, kềm hãm con ở lại trong một ảo tưởng – ngoại trừ những gì xảy ra trong tâm con. Không có gì tuyệt đối trong máy giả thực tại ngoại trừ cái tin tưởng, ảo tưởng, mà con không sẵn lòng chất vấn.

10.4. Nhà tù ở trong tâm con

Nếu có một ảo tưởng trong tâm mà con không sẵn sàng chất vấn – vì con nghĩ là nó không cần chất vấn, con không được phép chất vấn hay con nghĩ nó thực – thì đó chính là cái tuyệt đối sẽ giữ con lại ở mức đó một cách vô hạn định, ít ra cho đến khi một điều gì xảy ra làm tan vỡ ảo tưởng. Tất nhiên, thày cần con nhìn nhận là một ảo tưởng không bao giờ tuyệt đối. Nó là một ảo tưởng. Nó không thực. Nó không có bất kỳ tính chất lâu dài nào. Nó không có tuổi thọ, không có hiện hữu ngoại trừ trong tâm. Chính tâm con gán thực tại cho những gì con thấy trên địa cầu. Thày cần con suy ngẫm điều này và thày mong muốn con lấy một quyển sổ và ngồi xuống với bài thỉnh. Con hãy học bài giảng trước, xong đọc bài thỉnh đi kèm với giảng này, rồi sau khi con đọc xong bài thỉnh, con hãy tự động ghi xuống bất cứ gì trên trái đất có vẻ là thực đối với con. Thày muốn con làm việc này mỗi ngày trong vòng chín ngày mà con học bài tập này, ít nhất chín ngày (hoặc nhiều hơn nếu con học nhiều hơn, và thày thật sự khuyên con làm nhiều hơn).

Con sẽ thấy là có một sự tuần tự khi con làm bài tập này. Trước hết, con sẽ khám phá ngày càng nhiều thứ hơn mà con cho là thực. Con cũng sẽ nhận ra là khi con làm bài tập, một số thứ mà con xem là thực sẽ tan biến mất. Không phải mọi thứ sẽ tan biến vì con sẽ không nhảy ngay lên được tầng 144 (và thày không yêu cầu con làm chuyện đó, thày không chờ đợi con sẽ làm chuyện đó). Điều thày yêu cầu con làm là nhận ra, giờ đây khi con đến mức này, con đã khắc phục được một số ảo tưởng so với khi con mới khởi sự khóa tu này. Con hoàn toàn có thể khắc phục một ảo tưởng về bản thân để vươn lên tầng tâm thức kế tiếp mà vẫn chưa thật sự đưa nó vào cách con nhìn thế giới. Nói cách khác, con có thể nâng tâm thức bằng cách thay đổi tâm con, nhưng vẫn còn một cái nhìn tổng quát nào đó về cuộc sống mà con chưa chất vấn. Điều thày yêu cầu con làm trong bài tập này là khởi sự chất vấn một cách ý thức cái nhìn của con về thế giới và những gì con cho là thực bên trong máy giả thực tại.

10.5. Tự ngã khiến mọi thứ có vẻ thực

Con yêu dấu, các thày đã từng đàm thoại với con và ban ra những lời dạy rất thâm sâu về tự ngã con người. Con có thể nói, máy giả thực tại “thật sự” đó là tự ngã của con vì chính tự ngã khiến cho mọi thứ có vẻ thực. Thêm vào đó, con yêu dấu, nó còn khiến cho mọi thứ có vẻ quan trọng nữa: cái đó quan trọng, cái đó mang ý nghĩa.

Điểm này có liên hệ đến lời dạy mà các thày đã ban về tâm thức nhị nguyên. Tất cả mọi ảo tưởng mà thày đang nói tới cho đến tầng 144 đều dựa trên tâm thức nhị nguyên và cảm nhận tách biệt. Con sẽ không hoàn toàn khắc phục được ảo tưởng mình là một sinh thể tách biệt cho tới khi con đập vỡ bí ẩn cuối cùng ở tầng 144, nhưng chắc chắn con có thể xích lại gần hơn rất nhiều với viễn kiến mình là môt sinh thể hợp nhất với Tất Cả.

Một điều khác (mà các thày đã nói đến dông dài) cũng xuất phát từ tâm thức nhị nguyên và tự ngã, là tư duy cuồng đại, tư duy cho rằng có cái gì đó tối hậu với tầm hệ trọng cuồng đại. Nhiều học trò tâm linh đã khoác lấy tư duy này và đưa nó vào giáo lý đã giúp họ tìm ra đường tu tâm linh. Nhiều học trò của chân sư thăng thiên đã làm vậy với các giáo lý của chân sư, đặc biệt trong Thời đại Song ngư và những tổ chức mà các thày đã có thể đỡ đầu vào thời đó. Những ai chưa vượt qua được các khai ngộ của Thời đại Song ngư vẫn còn nhu cầu cảm thấy công việc mình làm là hệ trọng một cách cuồng đại và – nếu có thể nói như vậy – họ cho rằng họ đang cứu nguy thế giới cho thày Saint Germain để đưa thế giới vào Thời Hoàng kim, Thời đại Bảo bình.

Nhiều người tâm linh và Thời mới khác cũng đã làm tương tự, và con thấy nhiều nhóm Thời mới dạy thành viên ý tưởng rằng mọi chuyện họ làm là quan trọng cuồng đại. Thày không đang hạ thấp những gì họ làm là không quan trọng, nhưng điều thày yêu cầu con làm ở tầng khai ngộ này là bắt đầu chất vấn thật sự, ở mức ý thức, tư duy cuồng đại đó. Tại sao thày yêu cầu điều này? Vì lý do rất giản dị là mục đích của thày là dạy con cách thị hiện, cách kết đọng, những hoàn cảnh tốt đẹp hơn cho bản thân con và hành tinh – trong vật chất. Nó đòi hỏi ta thay đổi vật chất. Con yêu dấu, làm thế nào con có được những hoàn cảnh vật chất tốt đẹp hơn nếu con không thay đổi vật chất? Làm thế nào con thay đổi được vật chất bằng tâm nếu con nghĩ vật chất không thể thay đổi và những gì xảy ra trong vật chất hệ trọng đến độ nó có thể ảnh hưởng đến con, một sinh thể tâm linh?

10.6. Cái bẫy cuồng đại nuốt hết chú ý của con

Con chẩng thấy sao, con yêu dấu, là có hai khía cạnh, hai mặt với mỗi đồng tiền? Trong nhị nguyên luôn luôn có hai mặt. Tư duy cuồng đại làm gì con? Nó cho con cảm nhận là tất cả những gì con làm đều hệ trọng, rằng chính con hệ trọng. Đâu là mặt kia của đồng tiền, đâu là cái giá con phải trả khi cảm nhận một điều gì là hệ trọng? Đó là con cũng nghĩ có một số điều kiện trong thế giới vật chất mà con không thể thay đổi. Con có thể ngồi đó (và có nhiều học trò tâm linh ở trong đúng tình cảnh này, kể cả nhiều học trò của chân sư thăng thiên) và cảm thấy mình rất quan trọng nhưng đó là một cái lồng mạ vàng.

Con cảm thấy mình quan trọng nhưng con bị đánh bẫy trong lồng và sa nhân đã đặt con vào đúng nơi chúng muốn. Con không ở nơi mà thày muốn vì thày muốn con tự do. Thày muốn con ra khỏi lồng và đó là điều thày nhắm dạy con trong khóa tu này. Trong bài học này, chúng ta khởi sự bằng cách chất vấn cảm nhận thực tại của con.

Con nghĩ các điều kiện trong vật chất là thực. Chẳng hạn – để cho con một ví dụ thô thiển – nếu chúng ta đi ngược trở lại một vài thập niên trước, con nghĩ là tại Liên Xô có những người “ở bên kia” đang chống đối tự do của con nơi các xứ Tây phương. Con nghĩ họ là mối đe dọa cho toàn thế giới và tự do của toàn thế giới. Con cảm thấy mặc dù con sinh ra ở phương Tây nhưng con không thể chỉ hưởng thụ tự do mình đang có ở phương Tây vì ngày mai tự do này có thể không còn nữa. Con phải gia nhập cuộc chiến đấu cuồng đại chống lại Liên Xô và điều này nuốt trọn hết thời giờ cũng như sự chú ý của con. Khi con làm vậy, con cảm thấy mình rất rất quan trọng, nhưng nếu như con đã sử dụng tự do con có không để giao chiến với người khác mà để làm việc trên bản thân mình và khắc phục ảo tưởng của mình thì sao? Nhiều người bị mắc bẫy trong cuộc đấu tranh cuồng đại này nơi họ phải thay đổi một điều gì đó.

Bây giờ con hãy áp dụng điều này vào một học trò của chân sư thăng thiên, và các thày đã thấy chuyện này cứ lặp đi lăp lại hoài. Các học trò của chân sư đã lý luận: “Việc khắc phục một số điều kiện trong vật chất là quan trọng một cách cuồng đại hầu chúng ta bước vào Thời đại Hoàng kim.” Cách họ có thể đóng góp là đọc bài chú mấy tiếng đồng hồ mỗi ngày. Một lần nữa, không phải chuyện này không quan trọng và không có kết quả trên người đọc bài chú bài thỉnh, nhưng vấn đề là đối với nhiều học trò, nó đã trở thành một cái cớ. Họ tập trung quá sức vào việc thực hiện công việc tối quan trọng kia đến độ họ không còn chú ý sót lại để chú tâm vào việc giải quyết những vấn đề trong tâm lý họ.

10.7. Vươn lên con đường quả vị Ki-tô

Con yêu dấu, không bao giờ ý định của các thày là khiến cho một học trò tìm ra giáo lý của chân sư thăng thiên ở tầng tâm thức thứ 60 chẳng hạn, đề rồi khi người đó tu tập giáo lý, vươn lên tới tầng 65 mà lại quyết định: “À bây giờ tôi phải tập trung vào chuyện đọc tất cả những bài chú này để cứu nguy hành tinh cho Saint Germain.” Xong người đó ngừng ở đó. Suốt 20 năm trời, người đó đọc thật nhiều bài chú nhưng không nâng được tâm thức mình lên vì đã không nhìn vào bản thân và vượt qua ảo tưởng của mình. Đây không phải là ý định của các thày. Làm vậy sẽ không thực hiện được tiềm năng của giáo lý bởi vì nó không giúp cho con người tiến gần hơn đến việc hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Cũng có thể việc đọc chú và đọc thỉnh nằm trong Sứ vụ của họ, nhưng không tới mức lấn át hết mọi khía cạnh khác của Sứ vụ Thiêng liêng.

Con thấy đó, con yêu dấu, ngay bây giờ chúng ta đang ở điểm nơi các thày cần con bước lui lại khỏi tất cả những chuyện đó và nhận ra (tất nhiên hầu hết các con đã nhận ra được điều này trong khóa học này) rằng chìa khóa để tinh tấn là làm việc trên bản thân, nhìn vào bản thân, khắc phục ảo tưởng. Điều con cần nhìn ngay lúc này là: “Tại sao tôi nghĩ một số thứ là thực?” Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói: Đương nhiên là có sa nhân trên hành tinh nơi bốn tầng cõi của vũ trụ vật chất. Có nhiều người ở một mức tâm thức thấp hơn đang khởi xướng, bành trướng, gia tăng cuộc giao tranh giữa mình và người khác. Và phải, cuộc giao tranh này có nguyên một con quái vật toàn cầu không ngừng tìm cách lôi kéo hành tinh vào nhiều xung đột hơn và nhiều hơn nữa.

Tuy nhiên đối với con, câu hỏi đặt ra là: “Ý nghĩa chuyện này đối với con là gì?” Không phải là ý nghĩa đối với con ở 10 hay 15 hay 20 tầng tâm thức thấp hơn mức con đang đứng, mà ý nghĩa đối với con ngay trong lúc này? Liệu việc tiếp tục giao tranh cuồng đại có tầm quan trọng cuồng đại cho con hay không? Hay điều quan trọng cho con là con khắc phục các ảo tưởng mà thày đang cố giúp con khắc phục hầu con vươn lên tầng 96 và vượt quá cả tầng 96, là khi con ngừng tập trung vào chính mình để cất bước đi trên con đường quả vị Ki-tô và quả vị Phật dẫn đến tầng 144? Đó là điều mà trong tâm thày mới là quan trọng.

10.8. Chất vấn cái nhìn của con về đường tu tâm linh

Hy vọng của thày là qua những khai ngộ này tại nhập thất của thày, đó cũng là điều quan trọng nhất cho con trong tâm ý thức. Có nghĩa là con cần bắt đầu chất vấn tất cả mọi thứ, kể cả cái nhìn của con về đường tu tâm linh. Cái gì đã dẫn con đến điểm con đang đứng, cái gì đã giúp con? Con đã nhìn đường tu như thế nào? Con đã chú tâm vào những thứ vỏ ngoài hay không? Những thứ đó có vẻ quan trọng với con hay không? Liệu chúng đã có vẻ quan trọng một cách cuồng đại đối với con hay không?

Con thấy đó, con yêu dấu, đúng thật là có những sa nhân trên hành tinh nhưng đối với một học trò tâm linh đang bước trên đường tu, việc chúng có mặt ảnh hưởng đến con như thế nào? Sa nhân muốn làm gì chứ? Chúng muốn kéo con ra khỏi con đường quả vị Ki-tô. Như các thày đã có nhắc nhiều lần, việc tham gia vào cuộc giao tranh nhị nguyên với sa nhân không phải là con đường quả vị Ki-tô mà nó sẽ kéo con ra khỏi con đường đó.

Cho dù con nhập cuộc giao tranh nhị nguyên với sa nhân bằng cách chiến đấu với vũ khí vật lý hay chiến đấu với bài chú và bài thỉnh, con vẫn đã nhập vào cuộc giao tranh. Để con vượt quá khai ngộ ở tầng 96, con cần tháo gỡ mình ra khỏi giao tranh. Điều thày nói là như sau: “Giao tranh cuồng đại có thực hay không?” Phải, điều này tùy theo con định nghĩa thực tại là thế nào. Nó thực theo nghĩa là trên hành tinh sa nhân. Có một tâm thức tập thể nào đó. Có nhiều người ở các tầng tâm thức thấp hơn. Chuyện đó có thực theo nghĩa là một điều kiện tạm thời đang hiện hữu. Nhưng nó không thực theo nghĩa là nó có chút vĩnh hằng nào. Nó không hiện hữu mãi mãi. Đó là một điều kiện tạm thời nhưng nó có mặt trong lúc này.

Câu hỏi là: “Liệu sa nhân có bất kỳ thực tế thực nào hay không? Liệu các điều kiện trên địa cầu có bất kỳ thực tế thực nào hay không?” Chúng có mặt ở đây nhưng chúng nhất thời. Nếu chúng chỉ nhất thời thì điều này có nghĩa gì cho con? À, vậy con là ai, con là ? Con có phải là một con người đang bước trên đường tu tâm linh? Hay con là một sinh thể tâm linh đang bước trên con đường khai ngộ do bộ máy giả thực tại có tên là địa cầu cống hiến? Tất nhiên, con là một sinh thể tâm linh. Có nghĩa là gì? Có nghĩa, con yêu dấu, là những điều kiện đang có mặt nhất thời trên địa cầu ngay lúc này không hề có quyền năng thay đổi Tánh linh của con.

Các thày đã nói điều này bao nhiêu lần rồi! Cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết, có nghĩa là nó không thể bị bất cứ gì trên địa cầu thay đổi vĩnh viễn. Thật ra, thậm chí bất cứ gì trên địa cầu cũng không thể thay đổi cái Ta Biết một cách tạm thời, nhưng tất nhiên, cái Ta Biết có thể khoác vào những ảo tưởng sẽ tô màu cách nó nhìn thế giới. Con đã làm gì chứ? Con đã khoác vào một số ảo tưởng. Một lần nữa, không có trách cứ gì ở đây, không có sai trái gì trong chuyện này, đó là một phần của trải nghiệm sống trong máy giả thực tại. Trước tiên, con trầm mình vào trong đó, rồi sau đó con tỉnh ngộ. Con đang ở trong tiến trình tỉnh ngộ và đã đến lúc, ở tầng khai ngộ này, con tỉnh ngộ khỏi ảo tưởng rằng vật chất có ảnh hưởng trên con, một sinh thể tâm linh.

10.9. Vật chất không thể thay đổi một sinh thể tâm linh

Giọng nói của thày đang cường độ, con yêu dấu. Nó không giận dữ. Thày không đang giận con. Thày không đang bắt lỗi con. Thày chỉ đang đơn giản gia tốc tâm thức con để con dễ dàng hơn có được cái bật sáng, cái trải nghiệm “à ra thế” ở mức ý thức mà con đã từng có ở những tầng cao hơn tại nhập thất của thày, hầu con trải nghiệm thực tại của những điều thày nói. Bước đi mà con cần đi bây giờ là nhìn nhận một cách ý thức rằng không có một điều kiện nào trong vật chất có khả năng thay đổi con như một sinh thể tâm linh. Tại sao điều này quan trọng đến thế? Bởi vì làm thế nào con có thể thay đổi vật chất nếu con nghĩ vật chất thay đổi con?

Sa nhân muốn con nghĩ gì? Chúng muốn con nghĩ (ngay cả khi con nghĩ mình là một sinh thể tâm linh) là con đã đi vào thế gian này và con đã mắc phải một lỗi lầm mà con sẽ không bao giờ lật ngược, hóa giải được. Con bị mắc kẹt ở đây mãi mãi do lỗi lầm này. Con là một kẻ có tội, con đã phạm vào chuyện này và con sẽ không bao giờ vượt qua được. Có thể con đã đến đây như một sinh thể tâm linh nhưng nay con ở đây thì con đã làm một chuyện thay đổi bản chất sinh thể tâm linh của mình, và do đó con sẽ không bao giờ thoát khỏi nơi đây. Chừng nào con còn tin vào ảo tưởng đó, con sẽ không bao giờ thoát khỏi cuộc giao tranh với sa nhân. Đâu là khung tham chiếu của con về thực tại tối hậu trên trái đất? À, khung tham chiếu của con là sa nhân cùng những lời gian dối mà chúng đã bắt loài người phải chịu đựng suốt hàng ngàn, hàng triệu năm trời.

Điều thày muốn, điều mà tất cả các Thượng sư đều muốn, là khung tham chiếu của con, hệ tham chiếu của con, là các chân sư thăng thiên, hầu con biết những giáo lý và trải nghiệm mà các thày có thể ban cho con trực tiếp nơi tim là thực tại tối hậu. Trải nghiệm mà tất cả các thày muốn trao cho con là con là một cái Ta Biết. Con là nhận biết thuần khiết, có nghĩa là khi con trải nghiệm mình là nhận biết thuần khiết, không có gì trên địa cầu quan trọng nữa, không có gì trong vật chất quan trọng nữa [chơi chữ trong Anh ngữ: nothing in matter matters]. Vật chất không quan trọng. Nó đã không thay đổi được con là ai.

Cho dù mọi thứ có là gì trong vật chất, chúng không thể thay đổi con, và do đó một cách tối hậu, chúng không quan trọng đối với con. Con yêu dấu, con thấy đó, tại sao con lại cảm nhận bất cứ gì trên trái đất có thực tại đó? Đúng vậy, vì con đã khoác vào một ảo tưởng, nhưng ảo tưởng đó là gì? Ảo tưởng đó bảo rằng có một điều kiện nào đó trong vật chất quan trọng đối với con. Nhưng tại sao một cái gì có thể quan trọng đối với con? Bởi vì con nghĩ là nó quy định được con. Nó quy định con là ai, con có thể làm gì và không thể làm gì. Nó hạn chế con. Nó đánh bẫy con. Nếu không thì đâu có quan trọng gì?

10.10. Thay đổi nhãn quan

Ngay lúc này con đang ngồi ở một nơi thoải mái, có lẽ trong một căn phòng khá ấm cúng. Bây giờ con thử phóng chiếu con bay tới Nam cực với gió hú và nhiệt độ thấp hơn hẳn điểm đông băng. Con có thể bị đông cứng lại trong vòng mấy phút nếu con ở đó. Các điều kiện đó, con sẽ nói, khá hiện thực phải không? Chúng đang có mặt ở đó nhưng chúng có quan trọng với con không? Không, bởi vì mặc dù chúng có thể thực, chúng không thực ở nơi con ngồi.

Điều thày yêu cầu con làm ở đây là nhìn vào địa cầu, nhìn nơi con đã lớn lên, xã hội, hoàn cảnh nơi con đã khôn lớn. Nhìn vào mọi người và thấy họ đang bị mắc kẹt trong một số điều kiện, xong con nhìn vào những điều kiện đó và nói: “Liệu những điều kiện này còn quan trọng với tôi nữa hay không? Hiển nhiên chúng đã từng quan trọng với tôi khi tôi lớn lên. Tôi đã lớn lên trong môi trường đó, tôi đã có lòng hiếu thảo và đồng cảm nào đó đối với cha mẹ tôi và mọi người quanh tôi, và điều này cũng tự nhiên thôi. Nhưng bây giờ tôi có thể bước lui lại, tôi có thể nhìn vào và nói: ‘Liệu cái đó còn quan trọng với tôi nữa hay không’ khi giờ đây mình là con người mà mình là? Liệu các điều kiện đó có quan trọng không? Vậy liệu tôi sẽ để cho chúng cứ mãi quy định mình, quy định những gì mình nghĩ mình có thể làm hay không thể làm?”

10.11. Lập ra một danh sách

Thày biết thày đang cho con rất nhiều điều để suy ngẫm trong bài giảng này, nhưng đây là Tia thứ Tư của Gia tốc thì thày làm sao khác được? Thày muốn trao cho con thêm một điều nữa. Thày cần con bước lui lại, và một lần nữa điều sẽ ích lợi cho con là con đọc bài thỉnh rồi ghi xuống những gì đến với con sau đó. Thày cần con lui lại và xét xem những điều kiện vật lý nào trong hoàn cảnh nơi con đã lớn lên mà con nghĩ con không thể thay đổi bằng tâm. Sẽ hữu ích nếu con viết ra một danh sách và danh sách này có thể bao gồm một số mục:

  • Danh sách những điều kiện con nghĩ tuyệt đối không thể thay đổi được cho dù có làm gì. Như trong câu ngạn ngữ, không có một quyền năng nào trên địa cầu có thể thay đổi được những điều kiện trên danh sách này.
  • Danh sách những điều kiện có thể thay đổi được nhưng chỉ bằng những phương thức vật lý. Nói cách khác, con có thể nói là con có một thửa đất trống với tiềm năng xây nhà trên đó. Để xây căn nhà này, con phải thực hiện một số công đoạn vật lý như đào móng, đổ bê-tông, xây tường gạch hay dựng sườn gỗ, lợp mái, vân vân và vân vân. Nói cách khác, nó sẽ đòi hỏi lao động thể xác, công nghệ vật lý thì con mới thay đổi được những vật cụ thể đó.
  • Danh sách thứ ba là những thứ mà con nghĩ có tiềm năng thay đổi bằng tâm.

Thày cần con lập ra ba danh sách đó và nhìn vào những điều kiện trong danh sách thứ ba mà con nghĩ có thể thay đổi được bằng tâm. Sau khi con đã nhìn vào những điều kiện có thể thay đổi được bằng tâm, thày cần con làm một danh sách thứ tư, cũng tương tự như danh sách đầu, nhưng đây là danh sách đặc thù những thứ con nghĩ không thể thay đổi được bằng tâm.

Thày cần con lập ra những danh sách đó rồi trong bài giảng tới, thày sẽ hướng dẫn con thêm về cách sử dụng các danh sách này, con sẽ làm gì với chúng, và làm thế nào con kinh qua những xoay chuyển trong tâm sẽ chất vấn cảm nhận thực tại của con. Thày chắc chắn con sẽ nhận ra những thứ con cho là không thể thay đổi bằng tâm, thì đó chính là những thứ mà tâm con đã gán cho cảm nhận thực tại tuyệt đối này. Con yêu dấu, chính cảm nhận thực tại tuyệt đối này đang giam con trong chiếc lồng mạ vàng.

Ngay cả giáo lý tâm linh, thậm chí giáo lý của chân sư thăng thiên, cũng có thể giam con trong một cái lồng mạ vàng nơi con cảm thấy mình nằm trong số những đệ tử tâm linh cao cấp nhất trên hành tinh. Con đang làm những công việc quan trọng cho Saint Germain cho nên con cảm thấy mình quan trọng một cách cuồng đại. Tuy nhiên,  con vẫn đang bị mắc kẹt vì khi con thật sự xem xét thế giới và quan hệ của con với thế giới vật chất, con cho rằng vật chất quy định chính con cho dù con nghĩ mình là một sinh thể tâm linh.

Câu hỏi ở đây là: “Cái gì thực đối với con?” Lý do tại sao câu hỏi này quan trọng là bởi vì những gì con nghĩ là thực và những gì con nghĩ là không thể thay đổi, đó chính là cái quy định con. Nó quy định cái nhìn của con rằng con là một sinh thể đang đầu thai vật lý trên địa cầu. Nó quy định cái nhìn của con về chính con. Con có thể xem mình là một sinh thể tâm linh nhưng con vẫn xem con là một sinh thể tâm linh trong vũ trụ vật chất. Con có một cảm nhận nào đó về cách con quan hệ với vũ trụ vật chất, những gì con có thể làm và không thể làm, và cái đó quy định con.

Thày cần con bắt đầu chất vấn cái đang quy định con, vì để lên cao hơn, con cần ngừng không cho các điều kiện vật chất đó quy định con. Thay vào đó, con tìm ra một cách mới để quy định mình như một sinh thể trong cõi vật chất.

Yêu Sứ vụ Thiêng liêng hơn là mơ mộng

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 12/1/2019.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain. Đây là tầng khai ngộ thứ ba ở khóa nhập thất của thày, tương ứng với Tia thứ Bảy của Tự do và Tia thứ Ba của Tình thương. Tự do và tình thương, hiển nhiên, không có nghĩa là yêu đương tự do như nhiều người diễn giải vào những năm 1960 trở về sau, mà có nghĩa là chúng ta cần nhìn vào tình thương, và đối nghịch của phản-tình-thương, trong quan hệ của con với cõi vật lý, cõi vật chất, cõi của Mẹ. Trong bài giảng vừa rồi, thày có nói là thày mong muốn giảng về cách làm thế nào con đem lại hài hòa giữa đời sống tâm linh và đời sống thực tiễn hàng ngày của con. Đây là một đề tài rất quan trọng cho mọi người tâm linh, đặc biệt khi chúng ta ngày càng bước sâu hơn vào Thời đại Bảo bình.

8.1. Sự phân chia giữa sinh hoạt tâm linh và sinh hoạt hàng ngày

Con yêu dấu, khi con nhìn ngược trở về 2000 năm qua trong thế giới phương Tây, con sẽ thấy là các giáo hội Cơ đốc đã lập ra một lằn ranh tương đối rõ rệt giữa cái mà con có thể gọi là đời sống tâm linh (hay ít ra đời sống tôn giáo) và đời sống thực tiễn hàng ngày. Công bằng mà nói, chuyện đó đã xảy ra phần nào là vì ai nấy đã phải làm lụng thật vất vả để kiếm sống. Con không thể chờ đợi người ta có thể làm việc mười tiếng một ngày mà còn đủ sự chú ý hay sức lực để quan tâm đến chuyện tâm linh. Cứ sáu ngày mỗi tuần, họ đã phải làm lụng mà không thể thật sự để ý tới bất cứ gì tâm linh hay tôn giáo, cho nên họ chỉ có một ngày để đi lễ nhà thờ.

Tuy nhiên hệ quả của sự thể này là trong tâm thức tập thể ở phương Tây, nó đã tạo ra một sự phân biệt rất rõ ràng giữa cái mà con gọi là cuộc sống bình thường hàng ngày và một cuộc sống tôn giáo hay tâm linh. Có rất rất nhiều người nghĩ rằng nếu họ đi lễ nhà thờ vào ngày Chúa nhật, nếu họ xưng tội, nếu họ tham dự Thánh lễ và thắp nến, thì sau đó họ có thể bước ra và sống cuộc đời bình thường theo cách họ muốn trong sáu ngày kia. Theo nhiều cách, họ đã phần nào mặc cả với Thượng đế khi họ nói: “Lạy Chúa, nếu con dành ngày Chúa nhật cho ngài thì ngài hãy cho con sáu ngày còn lại để con làm những gì con muốn. Vậy ngày Chúa nhật tới đây, con sẽ lại đến nhà thờ, lại xưng tội, và con sẽ được tha thứ mọi chuyện con đã làm trong tuần.”

Rất rất nhiều người tâm linh, đặc biệt từ những năm 1960, đã ngộ ra trong nội tâm là cách phân chia rõ rệt như thế giữa “đời và đạo” – nếu có thể nói như vậy – không còn chính đáng nữa khi chúng ta bước sang một thời đại mới. Chúng ta cần tìm một cách nhìn khác về khía cạnh tâm linh và khía cạnh thực tiễn của cuộc sống. Đây là một thử thách to lớn cho nhiều người tâm linh và tất nhiên, nó đã đòi hỏi mỗi người thử nghiệm nhiều cách khác nhau.

8.2. Sự thù ghét cõi của Mẹ

Điều chúng ta cần nói đến trước tiên là sự kiện nhiều người tâm linh đã tạo dựng một loại mộng mơ thiếu thực tế về thế nào là sống tâm linh. Dĩ nhiên, mỗi người mỗi khác, và mỗi nhóm trong các phong trào tâm linh hay Thời mới cũng đã tạo ra biến thể riêng của mình về ý nghĩa của một đời sống tâm linh. Trong số những cách nhìn đó, có một điểm chung là viễn kiến của họ đều dựa trên một thái độ nhất định đối với cõi vật chất. Tất nhiên, đây cũng là một vấn đề đã có mặt từ lâu, không những trong truyền thống đạo Cơ đốc ở Tây phương mà ngay cả ở phương Đông trong các truyền thống đạo Phật và đạo Ấn. Đây là một con quái vật rất mạnh mẽ trong tâm thức tập thể mô tả vật chất như là kẻ thù của sự phát triển tâm linh.

Con yêu dấu, đây hoàn toàn là một ảo tưởng do sa nhân tạo dựng. Thật không có cách nào khác để mà diễn đạt. Đó hoàn toàn là một ảo tưởng, do các sa nhân cố tình tạo ra hầu ngăn cản điều mà chúng coi là mối đe dọa to lớn cho quyền cai trị của chúng trên địa cầu. Con thấy đó, con yêu dấu, điều mà sa nhân đã làm là chúng đã tạo ra sự tách biệt này vì chúng ở trong tâm thức tách biệt, cho nên chúng không thể nào nhịn nổi chuyện tạo ra tách biệt. Chúng đã tạo ra tách biệt giữa những nhóm sa nhân khác nhau, một nhóm chủ ý nắm quyền kiểm soát tôn giáo cùng đời sống tôn giáo, và một nhóm chủ ý nắm quyền kiểm soát đời sống thế tục. Đó là tại sao con có một sự tách biệt ngay đó. Trên cơ bản, chúng bảo là nếu con vâng lời các sa nhân nắm kiểm soát tôn giáo vào ngày Chúa nhật, thì con cũng vâng lời các sa nhân nắm kiểm soát đời sống thế tục vào sáu ngày còn lại.

Thái độ này dựa trên sự kiện là tự thân các sa nhân thù ghét vật chất, chúng thù ghét cõi của Mẹ, tức là cõi vật chất. Chúng thù ghét như vậy chỉ vì vật chất đem lại hậu quả cho chúng, và chúng thì rất ghét hậu quả. Sa nhân thù ghét hậu quả. Nhiều sa nhân tin rằng nếu chúng thật sự có quyền tự quyết thì chúng phải có khả năng lấy bất kỳ chọn lựa nào mà không phải đối mặt với hậu quả.

Hiển nhiên, như các thày đã từng đề cập, nhiều người tâm linh đã phần nào khoác vào thái độ đó, và chuyện này thật là không thực tế. Các thày đã nói rồi: Nếu con làm một sự chọn lựa mà không bị hậu quả vật lý nào, thì làm sao con biết con đã chọn lựa đây? Nếu con không trải nghiệm một hậu quả, làm thế nào con có thể dựa theo đó mà điều chỉnh trạng thái tâm mình? Và nếu con không thể điều chỉnh trạng thái tâm con, làm thế nào con tăng triển được đây?

Con thấy không, đối với sa nhân, tăng triển không phải là mục đích của cuộc sống vì từ rất lâu chúng đã từ chối tăng triển, từ chối tự thăng vượt. Mục đích của chúng là gầy dựng cho bản thân một địa vị quyền thế ưu đãi rồi bám lấy địa vị đó mãi mãi. Con thấy ở đây, mục đích của sa nhân hoàn toàn khác với mục đích của người tầm đạo chân chính. Vậy thì có nghĩa lý gì mà con, một người tầm đạo tâm linh, lại có thái độ đối với cõi vật chất giống như sa nhân?

8.3. Tại sao người tâm linh không ưa vật chất

Tất nhiên, các thày hiểu rõ tại sao quá nhiều người tâm linh lại có thái độ đó. Đó là vì con đã trải nghiệm những hậu quả, hay đúng hơn, con đã trải nghiệm những điều kiện vô cùng khắc nghiệt, khó chịu, trong cõi vật chất.

Các thày có giảng dạy về các avatar đã đến địa cầu và thường bị sa nhân hiếp đáp tàn nhẫn, thậm chí còn bị tra tấn, giết hại tàn bạo ngay trong kiếp đầu tiên. Đây không phải là một hậu quả trực tiếp của một hành vi của con, bởi vì con đã không làm sa nhân bất cứ điều gì. Đó là một hậu quả của sự chọn lựa mà con đã lấy khi con quyết định đến một hành tinh gian nan như trái đất nơi sa nhân có tầm ảnh hưởng to lớn như vậy. Như con thấy, đó không phải là một hậu quả trực tiếp mà là một hậu quả gián tiếp.

Lẽ tự nhiên, trên một hành tinh như trái đất với quá nhiều bạo lực và đấu tranh như thế này, sự kiện con người nảy sinh gần như một nỗi thù ghét, hay ít ra một niềm oán giận, đối với cõi Mẹ hay cõi vật chất, là một chuyện vô cùng dễ hiểu. Chính cõi vật chất đã trải bày những hậu quả rất khắc nghiệt, khó chịu đó ra. Trong nhiều trường hợp, chính cơ thể vật lý đã cho con nỗi đau dữ dội này, và đương nhiên, cơ thể vật lý được cấu tạo bằng vật chất. Một lần nữa, các thày đã nhắc đi nhắc lại điều này rất nhiều lần: Không có lỗi gì từ phía con. Sự kiện bao nhiêu người tâm linh mang lòng oán giận này đối với cõi vật chất, hay cõi vật lý, cõi của Mẹ, là một điều hoàn toàn thông cảm được. Nhưng giờ đây con đã đạt tới một điểm trên đường tu của con, trong khoá học này, khi đã đến lúc con nhận ra là mặc dù phản ứng của con thông cảm được, thái độ đó không còn xây dựng nữa (thật ra nó chưa bao giờ xây dựng).

8.4. Sự oán giận vật chất ngăn chặn việc đồng sáng tạo

Con yêu dấu, điều gì mà thày vừa nói nằm trong mục tiêu của thày ở đây? Đó là giúp con kết đọng, giúp con thị hiện một hoàn cảnh tốt đẹp hơn cho con. Mục tiêu của thày qua bảy tầng khai ngộ này là để giúp con thị hiện một hoàn cảnh nơi con có sự hài hòa hơn giữa cái nhìn tâm linh của con về cuộc sống và hoàn cảnh thực tiễn hàng ngày của con. Làm sao thày làm được điều đó nếu con oán giận vật chất? Để có hài hòa giữa cuộc sống tâm linh và thực tiễn, một cái gì đó phải thay đổi trong vật chất, đúng không con? Nếu một cái gì đó phải thay đổi trong vật chất, con yêu dấu, điều này có nghĩa là con phải làm việc với vật chất thay vì cưỡng chống lại vật chất. Con phải ngừng cưỡng chống vật chất. Con phải ngừng cưỡng chống cõi Mẹ! Con phải ngừng nhìn vào các điều kiện trên địa cầu và tự nhủ (ít ra là trong tiềm thức): “Ồ, nếu điều kiện khác hơn thì sau đó tôi sẽ có thể sống một cuộc đời tâm linh hơn, sau đó tôi sẽ có thể cảm thấy an bình trên trái đất, sau đó tôi có thể hạnh phúc trên hành tinh này.”

Con thấy đó, con yêu dấu, quá nhiều người tâm linh mà con thấy trên địa cầu (trong mọi loại phong trào, dù là tôn giáo truyền thống, tâm linh, Thời mới hay bất cứ gì khác, ngay cả những người không tham gia vào phong trào nào) có thái độ này: “Ước gì vật chất thay đổi thì thái độ của tôi sẽ có thể thay đổi.” Chẳng phải toàn bộ mục đích của khóa học tự điều ngự này là để giúp con nhận ra vật chất chỉ có thể trải bày những gì được phóng chiếu lên nó hay sao? Nếu có gì phải thay đổi ở đây thì sự thay đổi đó phải bắt đầu trong tâm. Như thày đã nói, mọi hiện tượng vật chất đã khởi đầu trong một cái tâm nào đó. Nếu có điều gì cần thay đổi trong tâm liên quan đến hoàn cảnh của con, thì tâm đó là tâm của ai? Chẳng phải là tâm của con hay sao? Liệu con có quyền năng thay đổi được những cái tâm khác, cho dù là tâm Thượng đế hay tâm của người khác?

8.5. Làm thế nào thay đổi vật chất

Con yêu dấu, con hãy nhìn tín đồ các tôn giáo truyền thống mà xem. Họ đến nơi thờ phượng, họ đi lên bàn thờ, họ quỳ gối trước bàn thờ xong họ cầu nguyện Thượng đế. Trong cốt lõi, họ đang cầu nguyện để Thượng đế thay đổi tâm của ngài: “Kính thưa Thượng đế, xin ngài hãy thay đổi tâm của ngài và cho con một hậu quả khác hơn về những chuyện mà con đang phóng chiếu trong tâm của con.” À, tỷ như con có thể thay đổi được tâm Thượng đế, liệu việc thay đổi tâm con có dễ thực hiện hơn chăng? Con yêu dấu, có nghĩa lý gì mà con, một đệ tử của chân sư thăng thiên, vẫn còn giữ ở đâu đó trong tâm mình cái ý tưởng rằng một ngày nào đó mình sẽ tìm ra công thức bí mật (và có lẽ Saint Germain sẽ trao cho con trong khóa học này về kết đọng) hầu con có thể thay đổi vật chất mà không cần thay đổi tâm? Các thày đã dạy con rồi đó, thày biết rõ, nhưng liệu con có nhập tâm hay chưa? Con có vỡ ra hay chưa? Con yêu dấu, con cần đạt tới điểm nó vỡ ra và con nhận ra là con không thể làm việc với vật chất và thị hiện một hoàn cảnh tốt đẹp hơn trong vật chất mà lại vẫn cưỡng chống, oán giận vật chất – con sẽ chỉ đẩy nó ra xa hơn mà thôi.

Nhiều người trong số các con mang ý tưởng là phải có một cách thần diệu nào đó để thay đổi vật chất. Đúng là có một cách, con yêu dấu. Có một cách thần điệu để thay đổi vật chất, và cách thần diệu đó là sử dụng quyền năng của tâm con. Con không thể sử dụng quyền năng thay đổi vật chất này nếu con oán giận vật chất, nếu con cưỡng lại. Con cần tới điểm con chấp nhận là con đang ở trong vật chất, ở trong cõi vật chất. Con chấp nhận là con ở đây vì con đã chọn ở đây, vì con muốn ở đây.

Thày công nhận là việc đạt đến điểm này không hoàn toàn nằm trong ranh giới hay khuôn khổ mà thày đã định ra cho khóa tu này. Các thày đã có ban lời dạy trong những cuốn sách khác (bắt đầu với cuốn “Những kiếp sống của tôi” và những sách bài tập khác theo sau) sẽ giúp con làm hòa với sự kiện mình sống trong vật chất. Nếu con không xoay chuyển được ngay bây giờ, con sẽ cần dùng những sách đó và làm hòa với sự hiện diện của con ở đây. Một số trong các con sẽ có thể sử dụng những điều thày nói ở đây và làm cuộc xoay chuyển trong tâm mình, qua đó it nhất con sẽ nhận ra được (cho dù con chưa hoàn toàn khắc phục được chấn thương nhập đời, nhưng con vẫn nhận ra được) là con đang có thái độ kháng cự lại vật chất trong tâm. Gần như là con đã quyết định từ chối làm việc với vật chất, hay ít ra con đã từ chối sử dụng tâm mình để làm việc với vật chất. Có thể con có làm việc với vật chất bằng những phương cách vật lý nhưng con không dùng tâm để làm việc với vật chất. Trong nhiều trường hợp, chuyện này liên quan tới sự kiện là trên thế giới có một con quái vật rất lâu đời bảo rằng người tâm linh nên tránh không được giao lưu với vật chất trong đời sống thực tiễn hàng ngày vì như vậy sẽ làm hại đến sự phát triển tâm linh của họ.

8.6. Vật chất không chống lại phát triển tâm linh

Con yêu dấu, con hãy nhìn vào mô hình phổ biến tại phương Đông lẫn phương Tây. Mô hình này cho thấy gì? Tại phương Đông có ý niệm khá quảng bá là những người thật sự tâm linh sẽ rút lên núi Himalaya tu tập. Có một giáo phái mật truyền gồm những vị đắc đạo người Ấn mà không ai từng gặp mặt đang sống nơi những vùng núi hẻo lánh đó, và các vị đang cầm giữ sự cân bằng tâm linh cho hành tinh. Tại Ấn độ, con cũng có truyền thống vô cùng lâu đời của những vị đạo sư thiết lập đạo tràng nơi học trò có thể đến nhập thất, rút lui hẳn khỏi thế gian để sống trong hiện diện của thày mình. Có những thiền viện Phật giáo được thiết lập ẩn khuất, như con thấy ở Tây tạng chẳng hạn có những tu viện được lập ra với chủ ý duy nhất là cống hiến điều mà họ xem là pháp tu tâm linh, trong nhiều trường hợp bỏ hẳn đời sống thực tiễn. Và con cũng thấy một điều tương tự ở phương Tây với các vị tu sĩ và nữ tu trong truyền thống Công giáo. Trong cách nhìn đó, nếu con thật sự là người tâm linh thì con không thể gia nhập vào cuộc sống thực tiễn hàng ngày. Con phải rút lui khỏi thế gian, vân vân.

Một lần nữa, nếu là trong các thế kỷ trước thì điều này cũng chính đáng, bởi vì các điều kiện sinh sống vật lý quá khó khăn, khắc nghiệt, đòi hỏi nhiều lao động về thể xác lẫn sự chú ý của con người. Sau một ngày làm lụng vất vả, ai nấy đều mệt mỏi. Nhưng ngày nay, nền công nghệ mà phần lớn do thày đỡ đầu, đã cho phép con có một cuộc sống rảnh rỗi hơn – nếu con đặt chiếc điện thoại đó xuống và ngừng theo dõi mọi chuyện xảy ra trên Facebook. Nếu con muốn, con có thể chọn lựa là mình có nhiều thì giờ rảnh rỗi hơn, dư dả nhiều khả năng chú ý hơn. Con có thể thấy là công nghệ cùng lối sống hiện đại đã đem lại một bối cảnh nơi con hoàn toàn có khả năng sống một cuộc đời tương đối năng hoạt giữa xã hội mà vẫn phát triển tâm linh tối đa.

8.7. Đời sống tâm linh của Thời đại Bảo bình không ở trong tu viện

Bây giờ con yêu dấu, có lẽ ở đây chúng ta cần phân biệt. Có một số người tâm linh trên địa cầu không thật sự có mối liên hệ gì với thày hay với Thời Hoàng kim mà thày mong muốn đem lại. Những gì thày nói ở đây không áp dụng cho những người đó, nhưng đối với tuyệt đại đa số những ai đang đầu thai lúc này và có sự quan tâm về tâm linh, thì họ có một mối quan hệ nào đó với thày. Vì vậy trong Sự vụ Thiêng liêng của họ (mà chính họ đã thảo ra trước khi đầu thai) có một ý muốn hỗ trợ việc thị hiện Thời Hoàng kim của thày.

Con yêu dấu, nếu con là một trong những người muốn đóng góp đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain thì thày nói với con: Con sẽ không làm được chuyện này bằng cách rút khỏi thế gian để sống trong một tu viện. Thày không bảo là con không thể làm vậy trong một thời gian ngắn, nhưng con sẽ không làm được vậy bằng cách sống một cuộc đời mà nhiều người tâm linh gọi là lối sống tâm linh, là lối sống mà họ thường hình dung khi họ nói chuyện rút lui khỏi thế gian. Quá nhiều người đã tìm cách khởi xướng những phong trào nhằm thiết lập một loại tịnh đường nào đó. Rồi họ kêu gọi người ta đến sống và làm việc, và họ nghĩ đó là lối sống tâm linh, nhưng đó không phải lả mô thức tâm linh trong Thời đại Bảo bình.

Thời đại Bảo bình là thời đại của cộng đồng, thời đại của Thánh linh. Cộng đồng không có nghĩa là con tự cô lập khỏi thế giới và tạo ra một cộng đồng những người tâm linh có cùng niềm tin và sở thích. Cộng đồng có nghĩa là con sống trong cộng đồng rộng lơn hơn. Con dự phần vào đời sống ngoài kia trong thế giới. Trong nhiều trường hợp, con vẫn có công ăn việc làm bình thường nơi con làm việc với người khác. Con phần nào gia nhập vào xã hội. Thời đại Thánh linh có nghĩa là Thánh linh có thể tuôn chảy, không chỉ trong những gì mà truyền thống xem là môi trường tôn giáo, mà trong đời sống hàng ngày bởi vì con ở đó. Con không thể biết được khi nào con có thể là cánh cửa mở khi mình thốt ra một lời nói cho ai đó và lời nói này sẽ giúp người kia nhảy vọt trên đường tâm linh của họ, ngay cả khi họ không có vẻ gì là người tâm linh.

8.8. Phá vỡ rào cản giữa đời sống thực tiễn và tâm linh

Làm thế nào con sẽ đem lại hài hòa giữa đời sống tâm linh và đời sống thực tiễn? Con sẽ chỉ làm được nếu con thay đổi thái độ đối với ý nghĩa của “đời sống tâm linh” và ý nghĩa của “đời sống thực tiễn”. Con sẽ phải phá bỏ những hàng rào cản trong tâm con. Thày đã nói ai tạo ra rào cản đó chứ? Sa nhân. Làm thế nào con sẽ có thể là người tâm linh đích thực nếu con cho phép những rào cản do sa nhân dựng lên tồn tại trong chính tâm mình? Chúng phải ra đi, con yêu dấu.

Con phải tới điểm không còn phân rẽ đó giữa đạo và đời trong tâm con. Con không còn cách biệt nào giữa những gì con xem là sinh hoạt tâm linh và những gì con xem là sinh hoạt thực tiễn. Điều này không có nghĩa là phần nào con có thể tìm ra một lối sống nơi mọi sinh hoạt đều là tâm linh dựa theo mô thức tâm linh của con. Không đâu, con yêu dấu, nó có nghĩa là con cần làm điều mà rất ít người sẵn sàng làm (trong số những người tự xem mình là tâm linh). Con cần phải thay đổi thái độ để ngừng xem các “sinh hoạt tâm linh” là tâm linh. Con phá vỡ toàn bộ khuôn đúc đó đã được dựng lên trong tâm thức tập thể về ý nghĩa sinh hoạt tâm linh.

Không phải là chuyện đi nhà thờ hay đi chùa hay đi nhập thất. Không phải là chuyện tham gia một số sinh hoạt nào đó, như tụng kinh, đọc bài chú bài thỉnh, cầu nguyện, tham thiền, trầm tư, tỉnh giác hay bất kể. Đó không phải là ý nghĩa của sinh hoạt tâm linh trong Thời đại Bảo bình. Trong Thời đại Bảo bình, tất cả mọi thứ đều là sinh hoạt tâm linh – nếu con làm với tư duy xem đó là tâm linh.

8.9. Vượt qua nỗi oán giận vật chất

Con yêu dấu, điều này khởi đầu khi con xem xét, con chân thành và sẵn lòng nhìn nhận là mình đang mang trong tâm một nỗi oán giận đối với vật chất. Một lần nữa, sự kiện con có nỗi oán giận này rất dễ hiểu, và thày không trách con. Thày không đang nói là con không nên có hay con không bao giờ được có nỗi niềm đó. Con yêu dấu, thày không biết làm thế nào con có thể, như một avatar, đến một hành tinh dày đặc như thế này mà không nuôi dưỡng nỗi oán giận đối với vật chất. Không phải thày nói con không bao giờ nên như vậy, mà thày chỉ nói là con cần nhìn nhận là con có nỗi niềm đó và đã đến lúc con thăng vượt nó.

Con thăng vượt bằng cách làm việc trên chính con và thực sự nhìn vào cõi vật chất. Thày đã có nói là con cần nhìn xa hơn các hiện tượng vật chất. Con cần nhận ra vật chất được cấu tạo bằng nguyên tử, phân tử, hạt hạ nguyên tử và sóng năng lượng. Ở đây con cần nhận ra là tất cả mọi hiện tượng vật chất mà con thấy đều thật sự làm bằng chất cơ bản đó.

Con yêu dấu, chất cơ bản đó, mà các thày gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật, không phải là kẻ thù của con. Nó không tìm cách trả đũa con, hãm hại con hay kháng cự con! Khi nào con vượt khỏi tất cả những hình ảnh và khuôn đúc đó được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, thì con mới chạm được Ánh sáng Mẫu-Vật thuần khiết. Ánh sáng Mẫu-Vật này không hề cưỡng lại con chút nào. Tự thân Ánh sáng Mẫu-Vật không tách biệt khỏi Tánh linh. Khi con đi xuống và chạm Ánh sáng Mẫu-Vật thuần khiết, như cái Ta Biết hoàn toàn có khả năng làm được (nếu con gạt sang một bên thái độ bình thường của con), thì con sẽ thấy Ánh sáng Mẫu-Vật không hề tách rời khỏi Tánh linh. Giữa Mẹ Thiêng liêng và Cha Thiêng liêng không hề có ngăn cách.

Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là ngay cả sự phân biệt giữa cái gọi là khía cạnh “cha” của Thượng đế và khía cạnh “mẹ” của Thượng đế có khuyng hướng tạo ra, hay ít nhất duy trì, một tính chất nhị nguyên nào đó, nhưng cả hai không hề tách biệt. Ánh sáng Mẫu-Vật là một phần nối dài của Cha. Ánh sáng Mẫu-Vật được sử dụng để hình thành hành tinh địa cầu là một phần nối dài của Ánh sáng Mẫu-Vật trong cõi tâm linh, chỉ khác chút xíu về mặt rung động. Dù sao thì, con yêu dấu, điểm quan trọng ở đây là khi con đi xuống Ánh sáng Mẫu-Vật cơ bản đã hình thành địa cầu, Ánh sáng Mẫu-Vật đó có khả năng diễn bày ra bất kỳ hình tướng nào được phóng chiếu lên nó, trong khuôn khổ cái khuôn đúc bao gồm mọi hình tướng khả dĩ mà các Elohim đã thiết lập.

Điều này có nghĩa Ánh sáng Mẫu-Vật có khả năng diễn bày một trạng thái địa đàng trên trái đất cũng dễ dàng y như tình trạng hỗn loạn mà con chứng kiến trên địa cầu. Khi con thực sự suy ngẫm điểm này, con nhận ra Ánh sáng Mẫu-Vật không phải là kẻ thù của con ở đây. Ánh sáng Mẫu-Vật không hề cưỡng lại con, vậy tại sao con lại cưỡng lại chứ – bởi vì con đang cưỡng lại nó trong tâm đó.

Một lần nữa, điều hoàn toàn thông cảm được là con đã đến hành tinh này và đã nuôi lớn niềm oán giận Ánh sáng Mẫu-Vật (hoặc ngay cả nếu con là một cư dân nguyên thủy, một khi con chạm trán với sa nhân và những gì chúng làm với Ánh sáng Mẫu-Vật tạo ra các hậu quả đau đớn đó, thì con cũng nảy sinh lòng oán giận). Một lần nữa, không có chuyện trách cứ gì ở đây, nhưng đã đến lúc con nhìn lại và nhận ra là nếu con thật sự muốn thay đổi hoàn cảnh của mình trong vật chất, thì đâu sẽ là cách duy nhất để con làm được? Đó là con hành động qua trung gian vật chất. Cách duy nhất để thay đổi vật chất là chấp nhận và ôm lấy vật chất, là ngừng oán giận nó, ngừng cưỡng lại nó, ngừng đẩy nó ra xa con.

8.10. Bất nhất trong nhận thức của người tâm linh

Con thấy chăng, con yêu dấu, nhiều người tâm linh mang cái gọi là “bất nhất nhận thức” (cognitive dissonance)? Họ mang một sự mâu thuẫn giữa những gì họ tin và những gì họ làm. Một mặt, con tin là cuộc sống có một phương điện tâm linh, có một thực tại tâm linh, nhưng con vẫn chấp nhận phần lớn lời xuyên tạc của tôn giáo cho rằng có sự phân biệt, hay sự chia cách, giữa vật chất và Tánh linh. Vật chất ở ngay đây, còn Tánh linh thì ở đâu khác, và do đó vật chất không tâm linh.

Khi con thức tỉnh thấy cuộc sống có một khía cạnh tâm linh, dường như trong con có một thành phần cảm thấy dễ chấp nhận Tánh linh. Con ôm lấy, con chấp nhận có một Tánh linh. Có thể con không có khái niệm rõ ràng Tánh linh là gì, hay con chưa có một trải nghiệm trực tiếp, nhưng con cảm thấy mình dễ dàng chấp nhận một số giáo lý tâm linh bảo con Tánh linh là gì và cõi tâm linh như thế nào. Chẳng hạn nhiều người theo Thời mới có lòng tin và sự quan tâm rất lớn đối với thiên thần và họ nghĩ mọi chuyện trên cõi thiên thần đều tuyệt vời.

Đồng thời, con vẫn tin cõi vật chất cách biệt với cõi tâm linh. Con nghĩ, để thay đổi một điều gì đó trong vật chất, con phải đi qua trung gian cõi tâm linh. Bằng một cách nào đó, con phải với tay tới một sinh thể tâm linh có quyền năng thay đổi vật chất, và sinh thể này sẽ có thể thay đổi vật chất cho con. Tên khóa tu này là gì, con yêu dấu? Là khóa tu tự điều ngự! Tự điều ngự không có nghĩa là con tìm được một sinh thể tâm linh giống như một ông thần hay ông Già Nô-en với quyền năng toại nguyện mọi ước muốn của con.

8.11. Khắc phục phàm linh oán giận vật chất

Tự điều ngự có nghĩa là chính con có khả năng thay đổi vật chất, nhưng một lần nữa, con không thể thay đổi vật chất nếu con kháng cự lại nó. Con phải đạt tới điểm con nhìn ra sự kháng cự đó, nhìn ra đó là một phàm linh nội tại hay một ngã tách biệt, và con phải lui ra khỏi nó. Con phải sử dụng những lời dạy này mà thày trao cho con, sử dụng bài thỉnh cho đến khi cái Ta Biết bỗng nhiên bước ra ngoài phàm linh đó, thấy nó là một phàm linh, thấy chính phàm linh đó đã được tạo dựng từ nỗi oán giận vật chất, từ lực cưỡng lại vật chất. Khi đó, con cần không bước vào bất kỳ kiểu tranh luận nào với nó.

Phàm linh sẽ cố bảo vệ mạng sống của nó, bênh vực sự hiện hữu của nó. Nó sẽ nghĩ ra đủ mọi lập luận (và có thể sa nhân cũng sẽ phóng vào tâm con tất cả những lập luận đó) là tại sao vật chất là như vậy, tại sao vật chất đã tách ra khỏi Tánh linh và tại sao tất cả mọi hậu quả tiêu cực mà con thấy trong vật chất không thể nào đến từ Tánh linh, cho nên vật chất phải được tách rời khỏi Tánh linh, và nhiều luận cứ khác nữa. Con không phải bước vào cuộc tranh luận vì con sẽ không vứt bỏ được phàm linh này bằng cách chứng minh là nó sai. Con sẽ chỉ vứt bỏ nó được khi con thấy nó như cái nó là, thấy nó là một phàm linh tách biệt trong bản thân con, nhận ra con là cái Ta Biết chứ không là phàm linh đó, con không muốn nó trong đời con nữa và con giản dị cho nó chết đi.

Khi nào con còn tranh cãi với nó, cố gắng biện minh cho nó hay chứng minh là nó sai, thì con đang cho nó năng lượng. Con cần ngừng không cho nó năng lượng nữa và để cho nó chết. Ai đã tạo ra nó? Chính con. Ai đã nuôi dưỡng nó? Chính con, qua sự chú ý của con, qua các tin tưởng của con. Khi con ngừng cho nó thức ăn năng lượng của con, nó sẽ chết. Tất nhiên con có thể thỉnh cầu để các chân sư tiêu hủy nó đi, nhưng dù sao thì khi con ngừng nuôi dưỡng nó, nó sẽ chết. Đây là mục tiêu của con ở mức này của khoá nhập thất của thày, là đạt tới điểm khi phàm linh oán giận vật chất của con qua đời. Nó không còn nữa.

8.12. Xét đến các mộng mơ của con

Con phải đạt tới mức chấp nhận là vật chất không cưỡng lại nỗ lực của con nhằm thiết lập một cuộc sống tâm linh hơn. Tuy nhiên, vật chất sẽ không tuân theo những mộng mơ mà con hiện có về thế nào là sống tâm linh. Con phải nỗ lực nhìn ra là ý tưởng bảo đời sống tâm linh phải như thế nào, cũng là một phàm linh. Tất nhiên, giống như phàm linh kia, cái này cũng gắn liền với một phàm linh tập thể, nhưng nó là một phàm linh nội tại và con cũng phải để cho nó chết đi.

Chừng nào con còn bám giữ phàm linh nội tại này bảo đời sống tâm linh phải như thế nào, con sẽ không thể thấy những gì chính con đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng về cách con muốn sống đời con. Một lần nữa, thày có thể cam đoan là hầu hết các con đã không ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng là mình muốn rút khỏi thế gian để sống trong tu viện hay trong tịnh thất. Con đã thiết kế Sự vụ Thiêng liêng để con sẽ sống một cuộc đời tương đối năng hoạt, sẽ tương tác với người khác, để con là cánh cửa mở, như thày đã nói, cho việc biểu hiện một số ý tưởng từ cõi thăng thiên.

Thày không đang nói đến chuyện tất cả các con biểu hiện những phát minh to lớn. Cuộc sống hàng ngày được cải thiện là nhờ những người bình thường hàng ngày đưa ra ý mới về những cách làm hay hơn. Chuyện này xảy ra trong môi trường làm việc hay trong bất kỳ hoàn cảnh nào khác nơi con có mặt. Luôn luôn có chỗ cho sự cải tiến qua sáng kiến mới, nhưng ai sẽ là người đưa ra được đây? Đúng vậy, là một người có sự hòa điệu cùng một khả năng hay kinh nghiệm chuyên môn trong lãnh vực đó.

Con thấy được ở đây là có thể có – và đối với hầu hết người tâm linh, chắc chắn là có – sự khác biệt lớn lao giữa sự mơ mộng về một đời sống tâm linh và những gì con đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng của con. Khi con buông bỏ những ý tưởng về đời sống tâm linh, khi con buông bỏ nỗi oán giận đối với vật chất, con sẽ có thể bắt đầu nhìn ra những gì con đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng. Khi con thảo Sứ vụ đó, con không ở trong cùng một trạng thái tâm như bây giờ. Lúc đó con không mang oán giận đối với vật chất – con không cảm thấy nó – con không mang ý nghĩa lý tưởng xa vời về lối sống tâm linh, mà con xem xét một cách rất thiết thực và nói: “Đâu là tiềm năng tăng triển cho tôi trong kiếp này? Làm thế nào tôi thực hiện được chuyện này tốt nhất dựa trên quá trình của mình, nghiệp quả của mình và những người mà mình có mối ràng buộc? Tôi muốn đầu thai trong loại xã hội như thế nào để có thể làm cánh cửa mở và biểu hiện ý tưởng mới cho các chân sư thăng thiên và Saint Germain?”

8.13. Tiến bộ là một vấn đề thực tiễn

Từ một quan điểm hoàn toàn thực tế, điều gì đã tạo ra tiến bộ trong xã hội mà con thấy trong một ngàn năm qua? Đó là sáng kiến mới! Ai đã đưa ra những sáng kiến đó? Có phải là các tu sĩ và nữ tu trong tu viện? Có phải là những vị tâm linh ngồi trong hang đá núi Himalaya? Hay đó là những người sống ở ngoài kia trong đời sống thực tế, khiến họ trong nhiều trường hợp nghiệm thấy một vấn đề, và nhờ thế họ đã với lên một giải pháp tốt đẹp hơn?

Thày không bảo là không có giá trị nào trong việc ngồi trong hang đá trên núi Himalaya và đạt đến một tầng tâm thức cao hơn. Thày chỉ nói là đối với hầu hết các con, đó không phải là điều mà con đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng, vì con đã nhìn thấy rất rõ là việc đưa nền văn minh này tiến lên Thời Hoàng kim của Saint Germain không phải là một vấn đề lý tưởng, mà là một vấn đề thực tiễn.

Biết bao học trò của chân sư thăng thiên đã từng nghe nói về Saint Germain và một thời hoàng kim, đang có những mộng mơ hoàn toàn không thực tế về ý nghĩa của nó. Họ nghĩ là thày có một cái nhìn lý tưởng, xa vời, tựa như chuyện địa đàng không tưởng nào đó về một xã hội tương lai. Họ nghĩ là một ngày nào đó trong tương lai sẽ có một sự đột phá rồi Thời Hoàng kim sẽ hiện ra. Cũng từa tựa như cơn điên loạn tập thể mà con thấy trước năm 2012 khi bao nhiêu người Thời mới tin rằng địa cầu sẽ xoay hướng một cách thần diệu để bước vào một chiều không gian mới và rồi mọi chuyện sẽ thay đổi.

Con yêu dấu, đây là vấn đề mà chúng ta đã có nói đến gần đây, tức là có một khoảng cách giữa thực tế và những gì mà người tâm linh tin tưởng. Mục đích của khóa tu tự điều ngự là để giúp con khắc phục khoảng cách, hầu con có thể thị hiện những gì con có trong tâm con. Và để khắc phục khoảng cách đó, con phải điều chỉnh những thứ đó trong tâm để đem nó xuống một tầm mức thực tiễn và thực tế. Làm thế nào Thời Hoàng kim của Saint Germain thị hiện được đây? Không phải đùng một cái đâu. Nó sẽ thị hiện qua vô số những bước nhỏ có vẻ không mấy quan trọng. Sẽ có rất rất nhiều người đưa ra những ý tưởng nhỏ bé tự thân sẽ chỉ tác động rất ít trên tầng cấp toàn cầu, nhưng hợp chung tất cả những ý nhỏ bé đó lại, nó sẽ đưa nền văn minh này đi lên.

Con yêu dấu, không phải là sẽ có một thời điểm khi con có thể nói, vào ngày 11 tháng 1 năm 2053 Thời Hoàng kim sẽ xuất hiện. Khi Thơi Hoàng kim trở nên hiện thực, hầu hết mọi người trên địa cầu sẽ không để ý thấy nữa. Họ sẽ nhận thấy các điều kiện sinh sống cải thiện lần hồi, và đó chính là bản chất của Thời Hoàng kim. Đó không là chuyện xoay chuyển duy tâm, thần diệu, mà là chuyện bước đi từng bước một, và chính con cũng sẽ làm như vậy. Quá nhiều người trong các con mang ý tưởng trong tâm là một ngày kia một sự chuyển vọt to lớn sẽ xảy đến và bỗng dưng con có được lối sống tâm linh mà con hiện không có.

8.14. Thu hẹp khoảng cách

Trong tâm con thấy, đây là tình trạng thực tế của con ngay bây giờ, và kia là nơi mà các lý tưởng tâm linh của con bảo con phải đến, và giữa hai điểm đó có một khoảng cách khổng lồ. Nếu con lui lại một bước và nhìn vào khoảng cách, con sẽ thấy là trong tâm con không có một cách thực tế nào để đóng lại khoảng cách đó. Con không thấy làm sao mình đóng lại được khoảng cách. “Làm thế nào tôi sẽ rời hoàn cảnh thực tiễn hàng ngày của tôi – nơi tôi vẫn phải kiếm sống, phải chăm sóc con cái, phải đi làm, phải cái này, phải cái kia trong cõi vật lý – làm thế nào tôi sẽ rời tất cả những bổn phận đó để sống lối sống tâm linh mà tôi mường tượng?” Phải, con sẽ không bao giờ làm được bởi vì lối sống tâm linh mà con mường tượng trái ngược với chính Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Con yêu dấu, thày có thể cam đoan với con là nếu con cố thị hiện một điều gì trái ngược với Sứ vụ của con, có một phần trong tâm tiềm thức sẽ phá hoại nỗ lực của con. Các nhà tâm lý học hay nói về “hội chứng tự phá hoại” và trong một số trường hợp, đó là vì người đó có những vấn đề tâm lý trầm trọng. Nhưng đối với nhiều người tâm linh, hội chứng tự phá hoại có nghĩa là tâm ý thức của họ đã chọn ra một mục tiêu đi ngược lại Sứ vụ Thiêng liêng của họ, và trong tiềm thức họ sẽ tự phá hoại bản thân hầu tránh bị kẹt lại trong một sinh hoạt sẽ khiến họ rời xa Sứ vụ của họ.

Con yêu dấu, con hãy suy ngẫm điểm này thật kỹ, và có thể con nhìn ra một số sự việc trong đời mình khi mình đã có ý bước vào một lãnh vực nào đó nhưng rồi có gì đó đã xảy đến. Một cách nào đó, con đã phá hoại mục tiêu đó. Có thể con sẽ nhìn lại với sự oán giận và nuối tiếc: “Tại sao mình đã làm vậy, và tại sao mình ngu thế?” Rất có thể sự thật là bởi vì mục tiêu, hay mong muốn ý thức của con, đã không đồng thuận với Sứ vụ Thiêng liêng.

8.15. Để ý đến sự chú ý

Do đó con cần nhìn nhận là chừng nào tâm con còn bị ám ảnh bởi mộng mơ thiếu thực tế đó, con sẽ không thể lui lại và có tâm tĩnh lặng để mà thoáng nhìn thấy Sứ vụ Thiêng liêng. Con cần nhận ra là nếu con muốn nhìn thấy một điều gì mà tâm ý thức hiện chưa thấy được, thì con phải tạo một khoảng không gian trong tâm nơi viễn quan đó có thể hiện xuyên qua. Con phải nhận ra là sự chú ý của con vô cùng quan trọng.

Đã có những lời dạy của chân sư thăng thiên nói về một bức màn năng lượng. Cái ác có nghĩa là bức màn năng lượng [trong Anh ngữ, cái ác là “evil” và màn năng lượng là “energy veil”, chơi chữ là “e-veil”]. Có một bức màn năng lượng ngăn cản con nhìn thấy. Nhiều học trò của chân sư thăng thiên đã suy luận là các tà lực đã tạo ra bức màn năng lượng đó. Tất nhiên, tà lực đã tạo ra một bức màn năng lượng. Tâm thức tập thể đã tạo ra một bức màn năng lượng, và đương nhiên con sẽ phải đâm thủng qua. Nếu con đã theo học khóa tu này cho đến tầng tâm thức này thì con đã học được cách đâm thủng qua với các bài chú, bài thỉnh. Con không hoàn toàn bị đui mù bởi bức màn năng lượng của tà lực và tâm thức tập thể.

Vậy thì cái gì làm con đui mù? Đó là bức màn năng lượng mà con đã tạo ra và duy trì trong chính tâm con. Màn năng lượng này được tạo ra do sự chú ý của con đã tập trung vào một số các giấc mơ mộng và hình ảnh không thực tế đó về người tâm linh phải như thế nào và lối sống tâm linh có nghĩa là gì. Con yêu dấu – lý tưởng nhất – thày mong muốn là con sẽ nhìn được những ý tưởng đó như một quả bong bóng và con có thể lấy một cây kim nhỏ chích vào quả bong cho nó nổ tung ra – và bao nhiêu mơ mộng cũng tan theo. Một lần nữa, điều này không hẳn là thiết thực, ít ra là đối với đa số các con. Con sẽ phải nỗ lực một chút để làm chuyện này.

Con sẽ phải sẵn lòng nhận ra một sự thật rất rất giản dị. Như thày đã có nói trong một đợt truyền pháp trước, con người là nô lệ cho sự chú ý của mình. Chú ý hướng về đâu, năng lượng của con sẽ theo về đó. Khi con đặt chú ý vào một điều gì, như ước mơ về lối sống tâm linh, năng lượng con sẽ đi theo đó. Một khi con đặt nhiều chú ý hơn vào đó, một bức màn năng lượng được dựng lên. Nó sẽ ngăn cản con làm gì? Nó ngăn cản con thấy được một viễn quan nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng, bởi vì con quá tập trung vào viễn kiến con tạo ra trong tâm ý thức đến độ con không thể hòa điệu với tâm cao hơn.

Điều cũng xảy ra là càng nhiều năng lượng dành cho điều gì thì bức màn năng lượng sẽ càng kiên cố, và bấy giờ nó không chỉ trở thành một bức màn năng lượng mà một nam châm năng lượng sẽ lôi kéo chú ý của con. Con đặt chú ý vào một khuôn đúc thì con cho phép năng lượng chảy vào khuôn đúc. Khi năng lượng đạt mức tới hạn (critical mass), khuôn đúc sẽ bắt đầu lôi kéo sự chú ý để con ngày càng tập trung nhiều hơn vào nó. Nó biến thành một vòng ốc xoáy có thể nuốt hết tất cả năng lượng, tất cả sự chú ý của con cho đến hết quãng đời còn lại.

Trên lý thuyết, con có thể duy trì viễn quan hiện thời của con về con người tâm linh. Con có thể đeo đuổi viễn quan suốt phần đời còn lại mà không bao giờ đạt được. Điều này, tất nhiên, thày không mong muốn nhìn thấy ở con. Thày mong thấy con đâm thủng bức màn năng lượng, đập tan bức màn năng lượng, đập tan giấc mơ mộng không thực tế kia và nhìn ra những gì con đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng, là những điều thực tế và thiết thực cho con trong kiếp này. Để làm được vậy, con phải sẵn lòng tạo ra khe hở đó, tĩnh lặng đó trong tâm mình nơi con có thể bất chợt nhìn xuyên qua bức màn.

8.16. Công thức bí mật

Thành thật mà nói, con yêu dấu, đây là một bí mật mà con có thể bảo là một trong những công thức bí mật mà nhiều người mơ ước. Chỉ có cái là nó không đúng hẳn như những gì họ ước mơ.

Bí mật là như sau: Khi sự chú ý của con bị thu hút tập trung vào một lãnh vực nào đó, con sẽ không thể nhìn quá nó được nếu con vẫn cứ chú tâm vào nó. Con phải rút chú ý ra khỏi lãnh vực đó – ít ra là đủ lâu để có được một tĩnh lặng nào đó trong tâm khi những đám mây sẽ tẽ ra và một tia sáng mặt trời từ Hiện diện TA LÀ có thể rọi qua. Phải có một khe hở. Chừng nào con còn chú tâm vào giấc mơ thì sẽ không còn chú ý nào sót lại cho Hiện diện TA LÀ của con. Đại ý con bảo rằng: “Hiện diện TA LÀ, hãy đừng làm phiền tôi, hãy đừng quấy rầy tôi, để yên cho tôi tập trung vào viễn kiến vỏ ngoài này!”

Đó không phải là cách con tinh tấn trên đường tu. Ngay đây con phải bắt đầu với một quyết định ý thức: “Được rồi, tôi sẽ xem xét giấc mơ của tôi về ý nghĩa của một người tâm linh và đời sống tâm linh. Tôi sẵn sàng tra vấn viễn kiến này. Tôi sẵn sàng nhìn xem nó có cao nhất hay không. Đặc biệt, tôi sẵn sàng nhìn xem nó có đồng thuận với Sứ vụ Thiêng liêng hay không. Nếu không thì tôi sẽ muốn biết, và tôi muốn để cho mơ mộng đó ra đi, và tôi muốn nhìn thấy những gì ở trong Sứ vụ của tôi.”

Khó khăn ở đây, con yêu dấu, là mơ mộng của con về ý nghĩa người tâm linh có thể là một viễn kiến rất đầy đủ, bao quát, chi tiết mà con mang trong tâm ý thức. Trong nhiều trường hợp, khi con có khe hở qua đó con nhận được điều gì đó từ Hiện diện TA LÀ, thì điều này sẽ không là viễn quan trọn vẹn của Sứ vụ Thiêng liêng cho phần còn lại của kiếp này. Điều con nhận được là bước kế tiếp mà con cần đi, và nó sẽ không có vẻ gì là lý tưởng, lãng mạn, tuyệt vời như giấc mơ mộng vỏ ngoài.

Một lần nữa, con cần phải quyết định trong ý thức là con sẵn sàng để cho mơ mộng này ra đi, con sẵn sàng bước theo lời gợi nhắc nhận được từ bên trong và đi từng bước một. Rất có thể con nhận được một thôi thúc từ Hiện diện TA LÀ để làm một việc gì đó rất thiết thực mà con không thấy có liên hệ nào với viễn kiên vỏ ngoài. Đó là tại sao sau đó, con phải sẵn sàng bỏ sang một bên cái nhìn vỏ ngoài và nói: “Tôi sẽ đi theo lời gợi nhắc này từ trực giác nội tâm cho dù nó có dẫn tôi đi đâu.” Thày cam đoan với con là nếu cứ bền chí đi theo những lời nhắn gọi từ Hiện diện TA LÀ, chúng sẽ đưa con tới mục tiêu mà con đã định ra trong Sứ vụ. Nó có thể không liên quan gì nhiều tới viễn kiến vỏ ngoài nhưng một lần nữa, con cần quyết định: “Tôi muốn đi theo cái nào, viễn quan thực tiễn và thực tế mà tôi đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng, hay những mộng mơ lý tưởng nhưng không thực tế mà tôi đã dần dà chấp nhận với tâm vỏ ngoài?”

8.17. Xét lại phong trào tâm linh của con

Có những người – và sẽ có nhiều người hơn nữa khi giáo lý này phổ biến nhiều hơn – sẽ khám phá ra quyển sách này và họ đang ở trong một phong trào tâm linh nhất định. Dựa trên giáo lý của phong trào đó, họ có một viễn kiến về người tâm linh phải như thế nào. Sẽ có một số người mà viễn kiến vỏ ngoài mà họ nhận được gần như đi ngược lại, hay ít nhất rất xa với những gì họ đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng. Con sẽ có thể nói: “Vậy tại sao họ lại gia nhập phong trào tâm linh đó chứ?” Họ đã gia nhập vì họ phải học hỏi một điều gì đó.

Nói cách khác, trong Sứ vụ của họ có ghi là họ nên gia nhập phong trào này nhưng Sứ vụ không bảo là họ nên tán thành và chấp nhận viễn kiến của phong trào này về ý nghĩa của một người tâm linh. Họ cần phải học một bài học nào đó, và trong một số trường hợp, đó là học làm thế nào mình không nên làm một số chuyện trong một môi trường tâm linh, hay mình không nên sống tâm linh như thế nào. Họ phải học một điều gì đó. Một khi học xong thì đến lúc họ cần bước đi tiếp, đến lúc họ buông bỏ viễn kiến đó về người tâm linh.

Cũng có nhiều người tâm linh đang đầu thai hiện nay đã từng đầu thai trong những kiếp trước trong khung cảnh tu viện hay tịnh thất. Con đã là một người tâm linh trong nhiều kiếp rồi, do đó con đã tự động hướng về lối sống mà thuở đó có vẻ là lối sống tâm linh nhất. Nhiều người trong các con có những lý tưởng mà con đã đem theo từ kiếp này sang kiếp khác, rằng: “Là người tâm linh thì tôi phải sống như thế nào?” Gần như là con bị thúc ép phải sống lối sống tâm linh đó.

Con thấy có biết bao người, chẳng hạn ở phương Tây, gần như quỳ xuống tán dương khi họ gặp các vị lạt ma hay đạo sư từ phương Đông. Họ nghĩ các vị này chắc hẳn đang có một đời sống tâm linh quá tuyệt vời so với những gì họ có được ở phương Tây. Họ nghĩ mọi chuyện ở phương Tây đều phản tâm linh nhưng các vị lạt ma kia, với dáng đi khoan thai trong áo cà sa tha thướt đủ màu, mới là những người tâm linh đích thực. Họ nghĩ là mình phải cố bắt chước theo và cũng sống như thế. Con yêu dấu, thày không bảo là con không nên làm vậy – nếu đó là Sứ vụ Thiêng liêng của con. Thày chỉ muốn gợi cho con là nếu Sứ vụ của con có ghi là con trở thành một vị lạt ma thì có lẽ con đã không hiện thân tại phương Tây.

Tại sao con đã đầu thai tại phương Tây? Chẳng phải con đã thấy đó là cách hay nhất để con giúp đẩy mạnh Thời Hoàng kim của Saint Germain hay sao? Cho nên con hãy khởi sự đi chứ! Hãy với lên viễn quan chỉ ra cho con thấy làm thế nào con có thể giúp thị hiện Thời Hoàng kim ngay nơi con đang sinh sống, thay vì du hành sang Ắn độ, du hành sang Tây tạng hay nhập vào tu viện, nhập vào tịnh thất nơi con có thể cách ly khỏi thế giới Tây phương.

8.18. Con yêu gì hơn?

Thày không đang bảo con làm điều gì mà con không muốn làm trong tâm cao hơn của con. Có thể thày đang bảo con làm điều gì mà tâm vỏ ngoài của con không muốn làm. Đó là tại sao giờ đây con đối mặt với sự chọn lựa trên Tia thứ Ba của Tình thương: “Con yêu cái gì hơn?” Liệu con yêu tâm vỏ ngoài, viễn kiến vỏ ngoài, hay con yêu Hiện diện TA LÀ và viễn quan mà con đã đặt vào Sứ vụ Thiêng liêng của con? Đó là viễn quan mà chính con đã đặt vào đó khi con có tầm nhìn rộng rãi hơn tầm nhìn của con trong lúc này.

Điều thày nói với con là nếu con chịu dùng bài giảng này, con thật sự có khả năng xoay chuyển nhãn quan của con. Con có khả năng giải thoát khỏi nỗi ám ảnh cưỡng chế (obsessive compulsion) của những viễn kiến và mục tiêu vỏ ngoài đó, những mộng mơ đó. Con sẽ có khả năng đạt được minh mẫn về thực tế thiết thực mà con đã đặt vào Sứ vụ Thiêng liêng. Con yêu dấu, con yêu gì hơn? Những lý tưởng xa vời có thể sẽ chẳng bao giờ thành hình hay thực tế thiết thực mà con có thể cải thiện từng bước và từng bước? Chúng ta vừa nói đến khoảng cách. Quá nhiều người tâm linh tuy thấy được khoảng cách nhưng khoảng cách cứ còn đứng mãi ở đó, là vì họ ngồi chờ cho đến khi họ nhìn thấy một bước tâm linh rõ ràng để mà bước tới. Nhưng họ lại coi nhẹ và từ chối rất nhiều những bước nhỏ thiết thực mà họ đã có thể đi theo để cải thiện đời họ.

Có câu ngạn ngữ cổ xưa bảo rằng nếu con ngước mắt lên trời và cố với lấy các vì sao thì ít ra tay con sẽ không bị lấm đầy bùn. Con yêu dấu, nếu con nhìn lên các vì sao mà lại coi nhẹ tất cả những con đường dẫn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn dưới này, thì có ich gì cho con? Sẽ chẳng tốt hơn hay sao nếu con nhập cuộc và làm bẩn tay, nhưng đồng thời con cũng khám phá ra những cách cải thiện đời mình và xích lại gần hơn với những gì con đã viết trong Sứ vụ của con?

8.19. Khoảng cách trong tâm vỏ ngoài

Khi con thảo Sứ vụ Thiêng liêng, con nhìn thấy con sẽ khởi đầu kiếp sống ở mức nào. Con cũng đặt ra một mục tiêu thực tế cho những gì con có khả năng đạt được trong kiếp này, những mức tăng triển mà con có thể vượt qua. Nói cách khác nếu chúng ta dùng hình ảnh 144 tầng tâm thức, con có thể nói là con khởi đầu ở tầng 56 và con có thể lên tới tầng 120. Giữa tầng 56 và 120 có một khoảng cách to lớn, phải không con? Có thể con không hình dung được khoảng cách lớn thế nào nhưng nó rất lớn. Thực tế là con có thể lấp được, nhưng con sẽ làm thế nào đây? Liệu con sẽ nhảy bổng từ tầng 56 vì con đã phát hiện ra một công thức bí mật trong sách cũ? Hay là con sẽ đạt đến tầng 120 bằng cách trước tiên leo lên tầng 57, rồi tâng 58, rồi tầng 59 và cứ thế?

Con có thấy tại sao trong tâm vỏ ngoài có một khoảng cách? Đó là vì con đã không ngó ngàng gì đến những bước nhỏ sẽ dẫn con tới mục tiêu, hay con có một mục tiêu hoàn toàn không thực tế cho nên con không thể sắp đặt một chuỗi bước nhỏ dẫn đến mục tiêu. Rất nhiều người tâm linh có một mục tiêu trong tâm vỏ ngoài hoàn toàn không thực tế. Không một ai, kể cả thày, có thể đưa họ đến mục tiêu từ nơi họ đang đứng và đề ra một tiến trình hợp lý, thực tiễn gồm những bước khả thi sẽ dẫn họ đến muc tiêu. Đơn giản là không có cách nào để tới đó. Đây là tại sao sa nhân đã dựng lên những mục tiêu này vì chúng biết là không ai có thể đạt được. Và do đó người ta cứ không ngừng chạy đuổi theo hũ vàng ở cuối cầu vồng rồi bị bất mãn, thất vọng – và đó chính là điều sa nhân mong muốn. Thày không muốn con bị bất mãn, thất vọng. Thày muốn con được thỏa nguyện khi con biết rằng mình đang làm theo tất cả những bước nhỏ trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Đó là điều thày mong muốn thấy. Đó là điều tất cả các thày đều mong muốn thấy.

Nói thật, liệu con có tin là các thày đã thảo ra nguyên khoá tu này để khi con hoàn tât, con vẫn thấy một khoảng cách và con cảm thấy thất chí? Các thày muốn con khép lại khoảng cách đó. Các thày muốn con nhận ra đường tu là vấn đề bước đi từng bước khả thi một, hầu con được toại nguyện ở tầng mức hiện tại của con. Thày Nada đã nỗ lực rất nhiều để giúp con đến được tầng này, và các vị Thượng sư kia cũng đã đề cập tới điểm này. Thày cũng đề cập vì mục đích của các thày là giúp con đạt tới điểm nơi khoảng cách không còn nữa. Con bằng lòng khi con làm những gì con có thể làm và tiếp tục bước tới cho đến khi con đạt mức cao nhất mà con có thể đạt được trong Sứ vụ Thiêng liêng, có lẽ còn đi xa hơn nữa.

Đối với một số các con, điều đó có nghĩa là con sẽ đạt đến tầng 144 trong kiếp này. Đó là mong muốn của các thày, con yêu dấu. Chắc hẳn con có thể cảm thấy thày hứng khởi như thế nào, phải không? Thày hy vọng con cũng xoay chuyển được và con hứng khởi là mình thực tiễn, thay vì hứng khởi về một mơ mộng viển vông sẽ không bao giờ thị hiện.

Con thấy đó, con yêu dấu, thị hiện tức là có một viễn quan thực tế về những gì mình có thể thị hiện, dựa trên hoàn cảnh cá nhân của mình và hành tinh nơi mình sống. Có những avatar đã bị sa nhân đánh lừa khiến họ chấp nhận viễn kiến về những gì họ muốn thị hiện. Viễn kíến này thực tế trên một hành tinh tự nhiên, nhưng nó không thực tế trên địa cầu – một lần nữa, giống như chuyện chạy đuổi theo hũ vàng ở cuối cầu vồng. Thày muốn con tìm thấy vàng thực kìa, là viễn quan  trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Vàng đó sẽ đến với con, một hạt nhỏ rồi lại một hạt nhỏ, chứ không phải cái hũ vàng nằm nguyên con ở đó. Con hãy bước theo những bước nhỏ đó. Bước từng bước một, và con sẽ đến nơi con muốn đến. Đó chính là điều thày muốn cho con.

Trên địa cầu có gì thực chăng?

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 11/1/2019.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain, và cho phần thứ hai của công việc con đang làm tại khóa nhập thất của thày, thày mong muốn con xem xét trong tâm ý thức: “Cái gì thực và cái gì không thực?” Hiển nhiên suốt hàng thế kỷ, các triết gia đã thảo luận và tranh cãi rất nhiều về bản chất của thực tại, về cái có thể xem là thực và cái không thể xem là thực. Hãy để thày cho con một cái nhìn thực tiễn hơn.

6.1. Phòng máy giả thực tại

Khi con tham dự khóa nhập thất của thày ở tầng này, thày có một căn phòng đặc biệt để con vào thăm. Đó là một căn phòng không những hình tròn mà bên trong nó giống một quả cầu, có nghĩa là con có thể nhìn khắp chung quanh những gì được chiếu lên tường từ bên trong. Các bức tường này tạo thành một màn hình trên đó thày có thể chiếu lên bất cứ hình ảnh nào. Điểm quan trọng trong phần thực tập này khi con bước vào phòng – và tất nhiên thày biết, con không đang ở trong cơ thể vật lý mà trong thể bản sắc của con – là con sẽ có trải nghiệm mình ở trong một thế giới thực.

Không có gì ở đó cho phép con nhận ra là con không đang ở trong một thế giới thực. Ở khởi đầu của bài tập, con nghĩ, con cảm thấy, con trải nghiệm là con ở trong một thế giới thực. Sau khi con tiến xa hơn trong bài tập, các thày dạy con là có những cách thức để con có thể, chỉ bằng quyền năng của tâm mình, ảnh hưởng những gì được chiếu lên bên trong quả cầu. Nói cách khác, con nhận ra là con ở trong một thế giới không thực như nó hiện ra lúc đầu khi con mới bước vào. Nó không hoàn toàn thực theo nghĩa nó được tạo dựng bởi một lực bên ngoài không liên quan gì tới tâm con. Nó không thực theo nghĩa mà con thường coi là “thế giới thực” trên địa cầu khi con nghĩ thế giới đó không thể bị quyền năng của tâm ảnh hưởng.

Từ từ con học được là con thật sự có khả năng sử dụng quyền năng tâm mình để ảnh hưởng cái có vẻ là một thế giới thực. Bây giờ khi con thực tập bài học này, thày cần con suy ngẫm điểm này với tâm ý thức. Lẽ tự nhiên, thày không mong mỏi con đạt được kết luận là không có gì trong cõi vật lý là thực. Có những người, ngay cả một số đệ tử tâm linh, bỗng nhiên nghi ngờ mọi thứ trong thế giới vật lý là thực, và thường khi họ rơi vào một khủng hoảng bản sắc có thể dẫn họ vào cả bệnh viện tâm thần. Điều đó, tất nhiên, không phải là điều thày muốn thấy cho con. Vì vậy chúng ta sẽ xét xem khi chúng ta bảo cái gì đó là thực hay không thực, thì điều đó có nghĩa là gì.

6.2. Thực tại có nghĩa là gì?

Sự phân chia mà thày muốn thiết lập ở đây, như con biết rất rõ vì con là học trò của chân sư thăng thiên, là con không sống trong một thế giới chỉ có con người sinh sống. Con không một mình, con sống với bảy tỷ con người khác, nhưng con cũng biết có những loại sinh thể khác trong thế giới nơi con sống. Có các chân sư thăng thiên, có các Elohim, có các thiên thần và đại thiên thần, và có Đấng Sáng tạo ở trên đỉnh kim tự tháp. Sự phân chia mà thày muốn làm là như sau: Những gì đã được tạo ra bởi những sinh thể ở một mức tâm thức cao hơn con người, là thực. Nói cách khác, những gì do các chân sư thăng thiên, các Elohim tạo ra là thực, theo nghĩa là nó không nằm trong phạm vi ảnh hưởng của quyền năng tâm con người.

Các thày đã ban cho con nhiều lời dạy về tiến trình sáng tạo vũ trụ, sáng tạo các bầu cõi khác nhau. Các thày có nói là hành tinh địa cầu được tạo ra bởi bảy sinh thể tâm linh gọi là Elohim. Các đấng ấy đã chung sức với nhau, sử dụng uy lực đồng sáng tạo để sinh tạo hành tinh này. Họ đã sinh tạo địa cầu trong một trạng thái thuần khiết hơn, cao hơn những gì con thấy được ngày nay. Tạo vật nguyên thủy đó của các Elohim, khuôn đúc nguyên thủy mà các Elohim đã quy định cho địa cầu, chúng ta sẽ gọi đó là thực trong bài tập này. Nó mang thực tại ở trong nó. Thậm chí con có thể đi lên những tầng cao hơn, và tất nhiên, có nhiều sinh thể thăng thiên vượt cả tầng cấp các Elohim đã lập dựng địa cầu. Có những bầu cõi khác nhau đi tuốt lên tới mức của Đấng Sáng tạo.

Tuy vậy, vấn đề ở đây đơn giản là như sau: Trong vũ trụ mà con đang sống, ngay cả trong cõi vật lý, có những thứ đã được tạo ra bởi những sinh thể ở một trạng thái tâm thức thăng thiên. Nói cách khác, đó là những sinh thể thường hằng, không ở trong nhị nguyên, không tự xem mình là sinh thể tách biệt, và hợp nhất với tổng thể. Các sinh thể này đã lập ra một số cấu trúc trong thế giới nơi con sống, và trong khuôn khổ bài tập này, chúng ta sẽ định nghĩa các cấu trúc đó là thực. Dựa trên định nghĩa này, chắc chắn là có một số khía cạnh của địa cầu là thực. Tự thân hành tinh này có một thực tại nào đó, và một số đặc tính và nét đặc trưng của hành tinh này cũng có một thực tại nào đó.

6.3. Làm thế nào địa cầu đã trở thành địa cầu hôm nay

Tuy nhiên, bây giờ chúng ta cần xác định một sự khác biệt vì con cũng biết địa cầu không còn ở trạng thái nguyên thủy, trạng thái trinh nguyên nữa. Địa cầu không trong cùng trạng thái như khi các Elohim tạo lập. Điều này có nghĩa là chúng ta cần xét xem làm thế nào hành tinh đã bước vào tình trạng hiện thời, trạng thái hiện thời. Các thày đã giải thích là sự thể này đã điễn ra  trong một khoảng thời gian rất, rất đài, và khi hành tinh được sinh tạo lúc ban đầu, đã có mấy đợt sóng sinh lực của những vị đồng sáng tạo đi xuống điạ cầu. Các vị này nay đã thăng thiên khỏi địa cầu, nhưng khi còn ở đây, họ đã xây đắp thêm trên nền tảng của các Elohim và biến hành tinh này thành một hành tinh đẹp hơn nữa, sắc nét và chi tiết hơn nữa. Họ đã đồng sáng tạo địa cầu.

Các thày cũng có giải thích là ở một thời điểm, một khúc ngoặt đã xảy ra khi ngày càng nhiều dòng sống đến hiện thân trên điạ cầu bắt đầu rơi vào trạng thái tách biệt và nhị nguyên. Lần hồi, họ khởi sự một vòng xoáy ốc hướng hạ dẫn đến tình trạng hiện nay. Những đợt sóng đó, những dòng sống đó, đã phản-sáng-tạo địa cầu bằng cách kéo nó xuống khỏi tầng cấp của các Elohim, cho nên ngày nay địa cầu ở dưới tầng cấp đó khá xa.

Điều con nhận ra ở đây là khi các thày định nghĩa những gì do các sinh thể thăng thiên tạo ra là thực, thì so với cái thực đó, các thày cũng cần gọi những gì mà các sinh thể chưa thăng thiên phản-sáng-tạo là không thực. Có nghĩa là theo định nghĩa này, rất nhiều điều kiện và đặc điểm mà con hiện chứng kiến trên địa cầu là không thực. Tất nhiên, chúng ta có thể có những cách định nghĩa khác về thực lẫn không thực, nhưng dựa trên định nghĩa này, các thày cần nói là hầu hết các điều kiện mà con thấy trên trái đất ngày hôm nay đều là không thực.

6.4. Những gì không thực có thể được thay đổi

Tại sao phân biệt như vậy lại quan trọng? Bởi vì nhờ đó, con có thể bắt đầu dần dần chuyển đổi thái độ của mình, cách nhìn của mình về cuộc sống, và nhận ra rằng rất nhiều hạn chế mà con thấy chung quanh con, rất nhiều giới hạn mà con đã phải đương đầu từ khi con hiện thân lần đầu tiên trên địa cầu – và chắc chắn trong kiếp này nữa – đều không thực theo nghĩa tối hậu. Mặc dù việc phân biệt như thế là quan trọng, nhưng con sẽ có thể nói từ một quan điểm hoàn toàn thực tiễn: “Phân biệt như vậy không quan trọng lắm vì dù các điều kiện trên địa cầu có thực hay không thực, thì chúng vẫn hiện diện ở đây và con vẫn bị chúng tác động.” Tất nhiên, điều này hoàn toàn đúng thôi, nhưng liệu cách suy nghĩ thực tiễn như vậy có thật là cách duy nhất, hay là cách cao nhất mà con có thể áp dụng hay không?

Con thấy đó, con yêu dấu, khi con lớn lên – trong cả kiếp này lẫn những kiếp trước – con đã bị lập trình để chấp nhận rằng những gì hiện có trên trái đất là thực. Con đã bị lập trình bởi cha mẹ, bởi gia đình, bởi người đời trong xã hội, thậm chí bởi cả những định chế trong xã hội của con, để chấp nhận các điều kiện hiện hành là thực, Chúng biểu trưng cho một thế giới có thực, nghĩa là con không có quyền hạn trong tâm con để thay đổi chúng. Đây là niềm tin mà thày cần con khởi sự tra vấn.

6.5. Làm thế nào một cái gì đó được tạo ra

Để làm vậy, chúng ta cần đi một bước thật đơn giản. Chúng ta cần tự hỏi (như các thày đã có giảng dạy trước đây) làm thế nào một cái gì đó được tạo ra? Các thày đã từng nói là chỉ có Đấng Sáng tạo mới có quyền năng sáng tạo từ hư vô – nếu có thể nói như vậy. Các triết gia và khoa học gia đã từ lâu tranh luận về câu “sáng tạo từ hư vô” này và họ đã đi đến một số kết luận khác nhau. Sự thật là Đấng Sáng tạo có quyền năng tạo ra thế giới nơi con sinh sống, quy định các thông số cho thế giới này, và tạo ra “chất” (the substance) từ chính Bản thể của ngài. Nói cách khác, trước khi Đấng Sáng tạo bắt đầu sáng tạo, không có gì hiện hữu – không có thế giới, không có cả khoảng trống nơi bất cứ gì có thể được tạo lập.

Con sẽ có thể nói, không nhất thiết là “không có gì”, bởi vì các thày có dạy con về cái gọi là Tất Cả. Dù vậy, so với những thứ được xác định trong vũ trụ của con, thật là không có “vật gì” khi Đấng Sáng tạo bắt đầu sáng tạo. Ngược lại thì tất cả những sinh thể khác trong cõi nơi con sống, trong thế giới hình tướng nơi con sống, đều là những sinh thể đồng sáng tạo. Họ không sáng tạo từ hư vô. Họ sáng tạo dựa trên những gì Đấng Sáng tạo đã sáng tạo.

Con đồng sáng tạo như thế nào? Con đồng sáng tạo bằng cách hình thành những hình ảnh, những khuôn đúc trong tâm con. Dù tâm con có như thế nào và tùy theo trình độ đồng sáng tạo của con, con hình thành những hình ảnh đó trong tâm mình, xong con phóng chiếu chúng lên chất cơ bản mà Đấng Sáng tạo đã tạo ra để cho con một cái gì mà từ đó con có thể đồng sáng tạo. Vì những lý do thực tiễn, các thày đã gọi chất đó là Ánh sáng Mẫu-Vật. Con hình thành một hình ảnh trong tâm – trong trường hợp của con, qua trung gian bốn tầng cấp của tâm – và con phóng chiếu nó lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Chúng ta có thể nói, ngay cả các Elohim khi sinh tạo trái đất cũng đã đồng sáng tạo theo cách đó. Các Elohim cũng đã thiết lập những hình ảnh trong tâm mình, phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và với thời gian qua một số lần lặp lại nhịp nhàng, họ đã làm thị hiện trái đất. Cách đó không giống như người ta thường hiểu về sự sáng tạo, là có một loại vật chất vật lý nào đó mà các Elohim đã sử dụng để tạo ra trái đất.

Địa cầu được thị hiện theo nghĩa là trước tiên các Elohim đã tạo ra một hình ảnh của địa cầu nơi cõi bản sắc. Đây là một hình ảnh phức tạp, dựa trên cả bảy tia sáng tâm linh, với mỗi Elohim đại diện cho một tia sáng. Các Elohim đã có hình ảnh này, rồi xây dựng nó lần hồi, củng cố nó, khiến nó rung động ở một mức nhất định (hay cũng có thể nói, ở một độ rung, một tần số nhất định), sau đó đã sử dụng chính rung động này để đẩy khuôn đúc của mình xuống cõi lý trí. Ở đây, các Elohim đã bổ sung cho khuôn đúc, khiến nó thêm chi tiết ở mức lý trí, xong cuối cùng khiến nó rung động ở một mức khác hơn trước khi đẩy nó xuống cõi tình cảm. Một lần nữa ở cõi tình cảm, các Elohim lại làm việc như vậy với khuôn đúc, khiến cho nó chi tiết hơn nữa, khiến cho nó – theo một nghĩa nào đó – năng hoạt hơn, rồi lại gia tăng rung động của khuôn đúc cho tới khi đẩy nó xuống cõi vật lý.

Có thể con sẽ nói, dựa trên những gì con đã được dạy dỗ trong kiếp này: “Vậy chứ quá trình tiến hóa thì để đâu?” Quá trình tiến hóa không hề bị loại bỏ, vì những gì các Elohim đẩy xuống cõi vật lý vẫn chưa là một hành tinh đã được hoàn tất, theo nghĩa là đã có đủ tất cả mọi dạng sống mà con thấy ngày nay hay đã thấy trong quá khứ. Tuy nhiên cái mà các Elohim đẩy xuống cõi vật lý là một hành tinh, dù không có đúng kích thước hiện thời, nhưng ít nhất đã có cái khuôn đúc cơ bản mà con tìm thấy ở mọi hành tinh, ngay cả ở trái đất hiện thời. Như thày vừa nói, cái đó phần nào khác hơn, nhưng nó đã được đẩy xuống cõi vật lý và đã không xuất hiện lần hồi trong cõi vật lý. Không phải là bụi vũ trụ đã lần hồi tụ lại để hình thành trái đất, mà trái đất trong khuôn đúc cơ bản của nó đã được đẩy xuống cõi vật lý, và nếu con nhìn quá trình này ở mức giác quan vật lý thì nó đã xuất hiện ra – trong nghĩa đen – từ “hư vô”. Sau khi khuôn đúc cơ bản của trái đất được đẩy xuống cõi vật lý thì từ từ một quá trình tiến hóa đã khởi sự, cũng do các Elohim hướng dẫn. Rồi sau một khoảng thời gian rất, rất dài, quá trình lần hồi đó đã tạo ra một trái đất đầy đủ điều kiện sinh sống cho các làn sóng của những dòng sống đầu tiên.

6.6. Vật chất không thực

Điều mà thày đang trao cho con ở đây là một ý niệm vô cùng quan trọng. Ngay cả những gì thày gọi là thực vẫn là do một cái tâm tạo ra, hay trong trường hợp này, do bảy cái tâm tạo ra. Con có thể thấy trong thế giới ngày nay, người ta có một triết lý duy vật bảo rằng không có gì hiện hữu ngoài thế giới vật chất. Triết lý này cũng bảo tâm con là một sản phẩm của những tiến trình vật chất trong bộ não của con. Ý tưởng, cảm xúc của con đều là sản phẩm của tiến trình vật chất trong bộ não. Có nghĩa là theo triết lý duy vật, tâm thật ra không có thực – mà chỉ vật chất mới có thực. Việc chúng ta xem xét điểm này quan trọng là vì con không thể lớn lên trong thế giới hiện đại mà không bị nó ảnh hưởng. Có thể nói, có một con quái vật vô cùng hùng mạnh trong tâm thức tập thể tin rằng chỉ có những gì mang chất vật lý mới là thực.

Điều thày cố chỉ ra cho con ở đây là trên thực tế, không có vật chất. Vật chất không hiện hữu như một chất riêng biệt vì vật chất đã được tâm tạo ra. Vật chất là một tạo vật của tâm. Con thấy không, điều mà các nhà duy vật muốn con tin – vì đó cũng là điều họ tin, hay đúng hơn hầu hết bọn họ, nếu chúng ta bỏ ra các sa nhân chỉ sử dụng triết lý duy vật để mà khuynh loát con người – là có một quá trình đã đem vật chất vào hiện hữu. Và một khi vật chất đã được đem vào hiện hữu, nó sẽ tiếp tục hiện hữu mãi mãi hoặc trong một thời gian rất dài. Nói cách khác, vật chất có một thực tại nào đó, và thực tại này hiện hữu độc lập với tâm. Điều mà các nhà duy vật đó muốn con tin là tâm con chỉ có thể là chủ quan, nhưng vật chất thì khách quan. Vật chất có một hiện hữu khách quan, độc lập với tâm.

Lý do chúng ta xem xét ảo ảnh này quan trọng là vì, tất nhiên, nó đã được sa nhân chế tạo ra. Nó đã được chế tạo ra vì một mục đích rõ ràng là tước mất quyền năng của quần chúng. Toàn bộ mục đích của triết lý duy vật là khiến cho mọi người tin rằng tâm mình không có quyền năng thay đổi vật chất. Do đó, một khi trái đất đã ở trong một tình trạng nào đó, một khi vật chất đã rơi xuống một độ dày đặc nào đó, thì không có gì mà loài người có thể làm được để thay đổi sự thể. Chuyện chỉ có thể là như thế vì mọi điều kiện hiện thời đã được tạo nên bởi những định luật tự nhiên khách quan, vượt trên mọi cá nhân, mà không sức mạnh nào của con người có thể thay đổi được.

Con có thể quay sang đối cực ngược lại là tôn giáo truyền thống, và tương tự, con cũng có thể thấy một triết lý đang tước mất quyền năng con người. Người ta bảo con là toàn bộ thế giới đã được sinh tạo bởi Thượng đế, thậm chí Thượng đế Toàn năng. Và đương nhiên, điều này có nghĩa là các điều kiện hiện hành trên trái đất đã được Đấng Sáng tạo Toàn năng tạo ra – một lần nữa lại có nghĩa là tâm con người, ngay cả tâm của tập thể loài người, cũng không có quyền năng thay đổi được.

Con thấy rõ là con đã lớn lên trong một xã hội mặc dù có hai đối cực có vẻ trái ngược nhau, nhưng cả hai lại thật sự giống nhau ở điểm là cả hai đều tước mất quyền năng của con. Cả hai đều truyền bá một triết lý bảo rằng nhân loại không có quyền năng thay đổi các điều kiện hiện hành trên trái đất. Một triết lý như vậy chỉ có thể đến từ sa nhân, và đó là tại sao con cần xem xét điểm này rất cẩn thận. Con cần khởi sự tra vấn tại sao con lại tin vào chuyện đó, liệu nó thực hay không, cho tới khi nào con đạt đến kết luận – không dựa trên suy luận trí thức mà dựa trên một kinh nghiệm nội tâm trực nhận – rằng nó không thật. Làm thế nào con sẽ đến được kết luận đó? Vì khi con tham dự khóa nhập thất của thày, con kinh nghiệm được là cả tôn giáo truyền thống lẫn khoa học duy vật đều không thật. Các kết luận, các triết lý của họ, không thật. Điều duy nhất mà con cần làm là đưa điều này xuống tâm ý thức của con hầu con có thể, trong một sáng ngộ trực giác như ánh chớp, kinh nghiệm thực tại ở đây. Thày cũng biết một số các con đã thực hiện được điều này, nhưng dù sao đi nữa, thật không có gì sai trái nếu con có trải nghiệm thần bí mấy lần, và như vậy con lần hồi tăng cường cảm nhận là họ sai lầm khi họ bảo tâm không thể ảnh hưởng vật chất.

6.7. Tại sao tâm có khả năng ảnh hưởng vật chất

Tại sao tâm có khả năng ảnh hưởng vật chất chứ? Tại vì ngay từ đầu, toàn bộ vũ trụ vật chất là do tâm tạo ra, do tâm của các Elohim và sinh thể tâm linh khác tạo ra. Kể từ khi địa cầu bước vào một vòng xoáy hướng hạ, rất nhiều điều kiện mà con chứng kiến trên địa cầu cũng là do tâm tạo ra, tức là tâm tập thể của nhân loại. Tâm tập thể này phần lớn đã bị sa nhân đánh lừa và khuynh loát sau khi chúng bắt đầu đầu thai ở đây. Giờ đây con có vòng xoáy hướng hạ này trong đó tâm thức tập thể, do sa nhân sai khiến, dần dần kéo địa cầu xuống một mức ngày càng thấp hơn. Sự kiện này mang một số hệ quả, kể cả những xung đột, thiên tai cùng nhiều sự mất quân bình khác trong thiên nhiên. Nhưng trước tiên, nó khiến cho vật chất dày đặc hơn, vì trước khi vòng xoáy hướng hạ này khởi sự, vật chất không đến nỗi dày đặc hơn bây giờ – qua đó thày muốn nói là vật chất từng rung động ở một độ rung cao hơn. Tại sao điều này lại quan trọng? Vì vật chất càng dày đặc thì tâm sẽ càng khó lòng thay đổi vật chất hơn.

Con có hiểu chăng sa nhân đã làm gì? Chúng đã – trong nghĩa đen – thiết lập một tiến trình qua đó chúng đã đánh lừa và thao túng để loài người kéo thấp tâm thức tập thể xuống và do đó cũng khiến cho vật chất dày đặc hơn. Sa nhân được hưởng lợi như thế nào? Chúng có lòng sốt sắng bất tận muốn khuynh loát, kiểm soát, tàn phá và giết hại người khác qua những phương thức vật lý. Cho nên vật chất càng dày đặc thì công việc kiểm soát nhân loại của chúng càng dễ dàng hơn. Vì khi vật chất càng dày đặc thì loài người càng ít khả năng cưỡng lại chúng qua quyền năng của tâm, và do đó chỉ còn cách cưỡng lại qua những phương tiện vật lý mà thôi. Trong địa hạt này, sa nhân luôn luôn có mòi chiếm được thế thượng phong vì chúng sẵn sàng ra tay làm những chuyện mà các cư dân nguyên thủy của địa cầu cũng như những các avatar đã đến địa cầu sau đó không sẵn sàng làm. Cả hai nhóm người này không sẵn lòng giết hại vô số sinh mạng hầu, chẳng hạn, tăng cường thế lực cho một đế quốc, một chủ thuyết chính trị hay một tôn giáo nào đó. Nhưng sa nhân thì sẵn sàng làm chuyên này, và chúng cũng sẵn sàng tiêu diệt những cá nhân nào chống đối chúng. Vì thế mà chúng mới giành được thế thượng phong.

Khi vật chất bớt dày đặc, khi con người nhận thức rõ hơn về quyền năng của tâm mình, sa nhân sẽ không có được cùng những cơ hội để giành lấy quyền kiểm soát. Điều mà sa nhân đã làm là, trong nghĩa đen, chúng đã tìm ra cách kéo vật chất xuống độ dày đặc hiện tại. Và giờ đây, điều mà chúng cố làm với triết lý của chúng trong tôn giáo lẫn trong chủ nghĩa duy vật, là tìm cách khiến cho nhân loại chấp nhận vật chất không bao giờ có thể được nâng lên một độ rung cao hơn, và các điều kiện hiện thời không bao giờ thay đổi được trong cốt lõi, bởi vì: “Mọi chuyện là như vậy đó, không có gì ta có thể làm được để thay đổi. Chắc chắn không có gì ta có thể làm được để thay đổi qua quyền năng của tâm.”

6.8. Hóa giải lập trình trên chính mình

Con yêu dấu, đó là một tâm thức vô cùng thuyết phục đã được áp đặt lên hành tinh này từ quá lâu rồi (ít ra là tôn giáo) và nó đã tác động đến tâm thức tập thể đến độ con không thể khôn lớn ở đây mà không bị nó ảnh hưởng. Điều con cần làm bây giờ là khởi sự giải hóa bản thân khỏi sự lập trình mà con đã nhận lãnh suốt những năm tháng lớn lên, cả trong kiếp này lẫn những kiếp trước. Đây không phải là một công việc con có thể hoàn thành trong một ngày. Thày không yêu cầu con nghĩ rằng sẽ đến một điểm khi đùng một cái, con sẽ bỗng dưng giải thoát khỏi tâm thức đó. Tất nhiên là điểm đó sẽ đến, nhưng nó sẽ không xảy ra trong vòng năm phút. Thày cần con nỗ lực làm việc trên chuyện này, và thày cần con nhận ra là con có những phàm linh nội tại tin tưởng vào sự lập trình đó và con sẽ cần thời gian để tháo gỡ chúng đi.

Dù sao thì thày cũng cần con thực hiện sự xoay chuyển đó ở đây, trong tâm ý thức của con, qua đó con bắt đầu nhận ra là có một sự phân biệt mà con cần làm khi con xem xét các điều kiện vật lý trên trái đất. Trước hết, có một số điều kiện mà tâm con người không có quyền năng thay đổi. Để nói cho đơn giản, khi các Elohim tạo lập trái đất, trái đất tròn. Trong tâm con người không có quyền năng thay đổi hình tròn của trái đất cho dù mọi người trên hành tinh có cố gắng biết mấy với quyền năng tâm mình để biến nó thành hình bầu dục – chuyện này không thể. Con người không thể lật bỏ khuôn đúc cơ bản.

Tuy nhiên, rất nhiều điều kiện khác trên địa cầu, kể cả như thày đã nói, độ dày đặc của vật chất (thày biết điểm này rất khó cho con hình dung, nhưng dù sao thì nó vẫn đúng) có khả năng được thay đổi qua quyền năng của tâm. Điều quan trọng là con bắt đầu làm cuộc xoay chuyển, trên cơ bản con bắt đầu nhận ra, ít nhất con bắt đầu suy ngẫm, rằng bất kỳ điều kiện nào mà con gặp đều mang tiềm năng chuyển đổi qua quyền năng của tâm. Câu hỏi mà giờ đây con cần suy ngẫm là: “Chúng ta đang nói về cái tâm nào?”

6.9. Tâm cá nhân và tâm tập thể

Ở đây chúng ta cần phân biệt giữa tâm cá nhân và tâm tập thể. Thày đã nói là độ dày đặc hiện thời của vật chất đã được tạo dựng trong một khoảng thời gian rất dài bởi tâm tập thể bao gồm tất cả mọi sinh thể đang đầu thai trên hành tinh, không những ở một thời điểm nhất định mà suốt một quá trình rất dài. Là một cá nhân, con sẽ làm sao đây để lật ngược lại? Phải, đương nhiên là một cá nhân, con không có quyền năng lật ngược lại tâm tập thể của tất cả mọi người.

Con có thấy thày đang dẫn con đến đâu? Thày đang cố dẫn con đến điểm con nhận ra là thày đang ở một thế cân bằng rất tinh tế. Một mặt, thày cần giúp con bắt đầu tra vấn những gì con đã được dạy dỗ. Thày cần con bắt đầu nhận ra vật chất là một tạo vật của tâm. Nhưng mặt khác, thày cũng cần con đừng rơi vào những mộng ảo quyền năng vĩ đại mà thày Nada đã có nói đến, là khi quá nhiều người tâm linh hay đệ tử Thời mới, kể cả đệ tử của chân sư thăng thiên, tin rằng một ngày kia mình sẽ đạt được quyền năng của tâm to lớn đến độ mình chỉ cần búng ngón tay là thay đổi trên trái đất sẽ xảy ra như trong phép lạ.

Thày cần con lạc quan, nhưng một sự lạc quan thực tế, qua đó con không dựng lên một kỳ vọng mình sẽ làm được nhiều hơn là mình có thể thật sự làm được trong tư thế của một cá nhân. Nếu con cho phép mình bước vào những kỳ vọng thiếu thực tế đó, thì con đang đẩy mình vào con đường thất vọng. Có những cuốn sách và khóa học ở ngoài kia tuyên bố là chỉ cần một vài chương sách ngắn hay một vài ngày để họ dạy con cách làm kết đọng (precipitate) tiền của hay vàng bạc từ hư không. Tất cả những ai mua sách đó hay học những khóa đó rốt cuộc đều thất vọng vì họ không thể toại nguyện được kỳ vọng đó.

Ở tầng thứ hai này, thày cố gắng cho con sử dụng Tia thứ Hai của Minh triết để xây dựng một dự kiến thực tế về những gì có thể làm được. Con cần nhận ra ở đây là các điều kiện hiện hành trên địa cầu là do tâm tập thể tạo ra. Là một cá nhân, con không thể lật ngược tâm tập thể. Con không có quyền năng đó. Vì vậy thật là không thực tế nếu con dựng lên một kỳ vọng là con có thể học được một loại quyền năng cho tâm lật bỏ tâm thức tập thể. Điều này không chỉ đi ngược lại Luật Tự quyết, mà nó cũng không phải là quả vị Ki-tô.

6.10. Dự kiến thực tế

Con thấy đó, con yêu dấu, các sa nhân đã tìm ra cách đạt được một số quyền năng, ít ra ở một mức độ nào đó, để cưỡng ép hay lật bỏ tâm của tập thể. Đó là cách mà Adolf Hitler đã làm để lôi kéo đa số quần chúng nước Đức ủng hộ ông ta. Tuy vậy, không một sinh thể Ki-tô nào sẽ làm như thế, tất nhiên. Cho nên con thấy là ở vị thế một sinh thể Ki-tô, là một người đang bước chân trên con đường quả vị Ki-tô, con không có mảy may ham muốn nào thu hoạch quyền năng thao túng tâm tập thể, hay ngay cả tâm của đúng một người. Đó không phải là quan tâm của con. Do đó con cần lượng định một cách thực tiễn và nói: “Tôi có thể tập trung vào điều gì? Tôi có thể tập trung vào dự kiến nào tôi có thể thực hiện được khi đi theo những bước khai ngộ của Saint Germain?”

Và đây là gợi ý của thày. Khi con ngày càng bước lại gần hơn với tầng tâm thức 144, sẽ có một giai đọan khi con bắt đầu có những quyền năng của tâm khiến con có thể, ít ra là trong một bản địa giới hạn, thăng vượt độ dày đặc của vật chất. Nếu con xem xét một số lý lẽ được người ta đưa ra, con sẽ thấy chẳng hạn nhiều nhà duy vật sẽ tìm cách hết sức để phủ nhận các phép lạ của Giê-su. Thậm chí con thấy cả một số tín đồ đạo Cơ đốc phủ nhận, hay ít ra bỏ ngoài tai, những phép lạ của Giê-su. Tuy nhiên những công việc mà Giê-su đã làm có một ý nghĩa. Một số phép lạ (không phải mọi phép lạ được ghi chép trong kinh điển mà một số) quả là có thực, theo nghĩa là Giê-su đã thành công vượt qua độ dày đặc của vật chất – ví dụ như biến hóa một chất thành chất khác, làm yên cơn bão, đi bộ trên mặt nước, vân vân và vân vân. Đó là vì Gie-su đã gần đạt đến tầng tâm thức 144. Tất nhiên con cũng biết khóa tu này nhằm đưa con đến tầng 96, và sau tầng 96 vẫn còn một khoảng dài trước khi con lên được tầng 144. Ở mức này, thật là không thực tế nếu con xây dựng ý tưởng là khi con đạt đến tầng 96 thì con sẽ có thể thực hiện phép lạ như Giê-su. Con yêu dấu, chuyện này không thực tế lắm đâu.

Tuy nhiên, con đã thấy Giê-su làm gì khi thày thực hiện những việc gọi là phép lạ đó – thực sự không phải là phép lạ mà chỉ đơn giản là sự áp dụng định luật tự nhiên và quyền năng của tâm? Phải, điều thày Giê-su làm là hoặc thày đã chữa lành ở mức cá nhân, hoặc thày đã làm phép lạ mà không điều khiển tâm người khác. Khi thày biến nước thành rượu, thày đã biến hóa chất vật lý đó, nhưng thày không biến đổi tâm. Thày làm việc trên một chất vật lý chứ không trên tâm của người khác. Khi thày đi bộ trên mặt nước, thày đã không thay đổi tâm của các môn đệ, nhưng tất nhiên thày đã cho phép Peter vươn lên một mức tâm thức cao hơn để Peter cũng đi bộ được trên mặt nước cùng thày. Peter đã không duy trì được tâm thức đó và bắt đầu chìm xuống nước, và điều này cho con thấy là thật sự, việc nâng cao tâm thức của người khác một cách giả tạo không mấy ích lợi.

Đó là lý do tại sao các thày đang trao cho con một khóa học tuần tự sẽ dần dần nâng cao tâm thức con dựa trên chính nỗ lực của con, dựa trên việc xây dựng những chứng đạt nội tâm thay vì dẫn con vào một trạng thái hưng phấn chỉ kéo dài chốc lát vì nó không thể được duy trì. Điều mà Giê-su đã làm cho Peter thật ra là để chứng tỏ rằng một người ở một mức tâm thức thấp hơn có thể được tạm thời nâng lên, nhưng thật sự nó không đem lại tác dụng gì, vì như con cũng thấy sau phiên xét xử, Peter đã chối bỏ Giê-su tới ba lần cho dù ông đã được ban cho kinh nghiệm đó.  

Điều thày cần con làm ở tầng thứ hai này là xây dựng một dự kiến thực tế về những gì mình có khả năng làm được sau khi con hoàn tất khóa tu này. Thày muốn gợi ý cho con, trước tiên con hãy nhận ra là rất nhiều ước mơ mà người ta vẫn có – cho dù con là đệ tử của chân sư thăng thiên hay là người theo Thời mới hay cả những người bình thường – không thể được thỏa mãn trong khuôn khổ Định luật Tự quyết. Nếu con có ước mơ làm cho nhiều người thay đổi đời họ, hay cách hành xử của họ hay trạng thái tâm họ, thì ước mơ đó không nằm trong các thông số của Luật Tự quyết – trừ khi con có thể truyền cảm hứng cho họ làm như vậy. Nhưng rất, rất nhiều người lại mơ ước là chẳng hạn, mình có được quyền năng khiến cho ai nấy bị áp đảo bởi sức mạnh của tánh linh đến độ họ nhận ra nơi con quyền năng to lớn đó và con là nhân vật xuất chúng đó. Chuyện đó không hợp với Luật Tự quyết đâu con. Con thấy là Giê-su đã không làm như vậy ngoại trừ trong một vài trường hợp khi điều kiện rất khác.

Điều con nhận ra ở đây là con cần điều chỉnh kỳ vọng của mình hầu con không tự đặt ra cho mình một mục tiêu có dính dáng đến chuyện thao túng quyền tự quyết của người khác. Nếu con làm vậy, tất nhiên là con sẽ tạo nghiệp, và đây chính là điều có thể dẫn con tới điểm khi ở tầng tâm thức 96, con bị rớt trong cuộc khai ngộ quyết định mà thày đã có nói tới. Con sẽ tìm cách gia tăng quyền năng của mình thay vì tìm cách nâng cao toàn thể.

Ở đây thày cũng mong con xem xét là con muốn đặt ra cho mình một mục tiêu khả thi dựa trên các điều kiện hiện hữu trên trái đất, dựa trên sự kiện con không có khả năng khống chế tâm thức tập thể. Mục tiêu đó cũng cần “hợp pháp”, dựa trên sự cân nhắc về Luật Tự quyết, để con không tìm cách điều khiển tâm người khác. Có nghĩa là trong giai đọan này của đường tu, thày yêu cầu con tập trung thật sự vào một mục tiêu liên quan chủ yếu đến chính bản thân con, một mục tiêu không đòi hỏi người khác phải thay đổi tâm họ, cuộc đời họ hay cách hành xử của họ để thỏa mãn mục tiêu của con.

Thày cũng yêu cầu con xét xem con có thể làm gì để giúp thăng tiến Thời Hoàng kim của thày. Thày đã có nói ở đây là cuộc khai ngộ quyết định ở tầng 96 là liệu con có tiếp tục trụ tâm vào chính mình hay con sẽ bắt đầu tập trung vào toàn thể. Điều thày đang hướng dẫn con đi tới là con cần định ra một mục tiêu không đòi hỏi mình phải áp đặt quyền lực của mình lên người khác, nhưng đồng thời, mục tiêu đó cũng không quá tập trung vào hoàn cảnh cùng những điều kiện cá nhân của con, mà có được tầm quan trọng nào đó đối với toàn thể. Ở điểm này, thày yêu cầu con xem xét là việc đồng sáng tạo có hai yếu tố.

6.11. Hai khía cạnh của đồng sáng tạo

Khía cạnh alpha của đồng sáng tạo là con thị hiện một điều gì đó một cách trực tiếp – giống như thày đã có nói về các Elohim – dưới dạng một chất vật lý hiện ra từ “hư vô”. Trước đó thì không có chất vật lý nào cả, mà giờ đây lại có một hành tinh vật lý. Đây là thuật thị hiện bằng kết đọng (precipitation). Thày cũng yêu cầu con xem xét khía cạnh omega của đồng sáng tạo, là khi con nắm lấy các điều kiện đang hiện diện trên địa cầu và con cải thiện chúng.

Chẳng hạn, con có thể thấy là cho dù vòng xoáy hướng hạ đã từ rất lâu khiến cho vật chất dày đặc hơn cũng như đã kéo xã hội ngày càng thấp xuống hơn, vòng xoáy này đã được đảo ngược. Trong thời gian qua, nền văn minh đã đi vào một vòng xoáy hướng thượng và đã có nhiều tiến triển trong các điều kiện sinh sống. Đó phần lớn là lý do tại sao con có thể ngồi đây mà tận hưởng thú vui đọc một quyển sách. Con có thì giờ đọc quyển sách đó thay vì bỏ hết thì giờ ra cong lưng làm lụng trên đồng ruộng rồi lăn ra ngủ khi về tới nhà.

Đời sống đã cải thiện, nhưng làm thế nào chuyện đó đã xảy ra? Nó đã xảy ra phần lớn là vì một số người đã có khả năng hòa điệu với cõi thăng thiên và đem xuống những tư tưởng đã cải thiện một số điều kiện sống trên địa cầu. Khía cạnh alpha của đồng sáng tạo là sự kết đọng trực tiếp. Còn khía cạnh omega của đồng sáng tạo là đưa ý tưởng tử cõi thăng thiên xuống cõi vật lý.

Thày yêu cầu con, trước tiên, hãy định ra một mục tiêu cho bản thân hầu ở cuối khoá tu này, con ở trong một trạng thái tâm qua đó con có khả năng nhận được tư tưởng từ thày hay từ một chân sư thăng thiên khác mà con đã chọn, là những tư tưởng liên quan đến một lãnh vực đời sống mà con quan tâm đặc biệt. Nói cách khác, đây không phải là chuyện làm thị hiện của cải từ hư vô – đó không phải là muc tiêu của con lúc này – mà là thị hiện một ý tưởng. Thày cũng yêu cầu con xem xét một mục tiêu khác nữa cho bản thân, là thay đổi hoàn cảnh cá nhân trong đời mình hầu không còn mâu thuẫn nào giữa đời sống tâm linh và đời sống thực tế, vật lý hàng ngày của con. Đây thật ra là một điều mà thày sẽ đề cập nhiều hơn trong bài giảng tới, nhưng ở đây thày muốn cho con một ý niệm về mục tiêu của khóa học này:

  • Con trở thành cánh cửa mở cho những ý tưởng từ các chân sư thăng thiên nhằm cải thiện một khía cạnh nào đó của cuộc sống.
  • Con đem lại sự hài hòa giữa đời sống tâm linh và đời sống thực tiễn của con.

Đó chính là điều mà thày mong muốn trao cho con qua bài giảng này, và thày mong sẽ nối lại câu chuyện với con ở tầng kế tiếp.

Con là một nghệ nhân điêu khắc năng lượng thuần khiết

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 10/1/2019.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain và thày vô cùng vui mừng trao cho con phần đầu của các cuộc khai ngộ mà con sẽ đi qua dưới thày tại khóa nhập thất của thày có tên là Hang Biểu tượng. Hãy cho thày bắt đầu với phần trình bày về nơi nhập thất này.

Có thể con đã quen thuộc với các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên cùng các giáo lý mô tả chi tiết hơn về nơi nhập thất này. Có thể con đã được thấy hình ảnh những đại sảnh mà người ta bảo là có tạc ghi nhiều biểu tượng huyền bí hay bí truyền mang một số ý nghĩa đặc biệt, và nếu con hiểu các biểu tượng này, con sẽ có khả năng làm thị hiện (kết đọng) bất cứ gì con muốn. Tất nhiên, đó là một lời dạy nhắm tới một mức tâm thức thấp hơn so với những lời dạy các thày trao truyền ngày hôm nay, cho nên các thày đã phải đánh động đến những gì học viên mong muốn ở mức đó. Các vị thượng sư khác đã cố gắng hết sức để giúp con vượt lên trên mức tâm thức đó, cho nên giờ đây con đã sẵn sàng nhận một giáo lý cao hơn.

4.1. Ý nghĩa thật của các biểu tượng

Thật có nghĩa là gì khi gọi khóa nhập thất của thày là hang “biểu tượng”? Để hiểu, con hãy cho thày trở ngược về một lời dạy của nhà hiền triết Hy lạp cổ Plato nhiều năm trước đây. Plato nói rằng có một cõi cao hơn vượt khỏi thế giới vật lý, vật chất, một cõi mà ông gọi là “những hình dạng lý tưởng”. Chúng ta cũng có thể nói, các hình dạng lý tưởng này là những biểu tượng. Chính sự tương tác giữa các hình dạng lý tưởng này nơi cõi cao hơn định đoạt những gì sẽ thị hiện trong cõi vật lý, cũng như những hình tướng mà mọi vật khoác lấy trong cõi vật lý. Đó là một cách mô tả chính xác hơn về Hang Biểu tượng, nhưng hiển nhiên hôm nay chúng ta có thể đi xa hơn nữa.

Các thày đã giảng dạy là con có một cơ thể vật lý, và vượt lên trên, con còn có một cảm thể, một trí thể và một bản sắc thể. Làm thế nào con đồng sáng tạo? Các thày có dạy là con nhận ánh sáng và năng lượng từ Hiện diện TA LÀ của con. Khi năng lượng này đi qua ba thể cao kia, nó sẽ khoác lấy hình tướng của bất cứ cấu trúc, hình ảnh, biểu tượng, hình dạng nào mà con có nơi ba thể đó. Đây thực sự là cách hình dung tiến trình đồng sáng tạo.

Cái mà Plato gọi là “thế giới hình dạng lý tưởng” phần nào là cõi tâm linh, là cõi thăng thiên, nhưng người ta cũng có thể bảo đó là ba thể phàm cao hơn kia của con. Con có một số hình tướng trong ba thể cao này. Quả thật, trong ba thể đó con có thể có một số hình tướng lý tưởng hơn, thuần khiết hơn, tinh xảo hơn, chi tiết hơn những gì thị hiện ra trong cõi vật lý. Thực tế là hầu hết mọi người đều có một hình dạng lý tưởng, một hình ảnh lý tưởng, một biểu tượng lý tưởng nào đó trong ba thể cao. Và bây giờ câu hỏi trở thành như sau: “Tại sao nó không thị hiện ra được trong cõi vật lý?”

4.2. Những người có tầm nhìn chỉ chú trọng đến mình

Khi con nhìn nhân loại, con sẽ biết là con người đang ở rất, rất nhiều tầng cấp tâm thức khác nhau. Hầu hết mọi người trên hành tinh này ở một mức thấp hơn nhiều so với tâm thức mà con có khi con bắt đầu khóa tu này [quyền sách này], ít ra là nếu con đã làm theo sự hướng dẫn của sáu vị thượng sư kia. Con nhìn vào nhiều người và con có thể thấy là trong ba thể phàm cao hơn của họ, không nhất thiết họ đang mang những hình dạng mà Plato gọi là lý tưởng. Họ có một tầm nhìn rất hạn chế, họ có một số hình ảnh và ý tưởng rất méo mó. Tuy vậy, con sẽ thấy là trong ba thể cao của hầu hết mọi người, những hình tướng đó vẫn còn cao hơn những gì được biểu thị trong cõi vật lý, vật chất, ít ra là trong đời sống riêng tư của họ.

Và câu hỏi trở thành: “Cái gì ngăn cản con người thị hiện vào cõi vật lý những hình dạng mà họ mang trong ba thể cao?” Câu hỏi này có thể ứng dụng đồng đều cho một người ở tầng tâm thức thấp nhất cũng như một đệ tử của chân sư thăng thiên ở mức của con. Hiển nhiên, nếu con đi xuống tầng tâm thức thấp nhất, con sẽ thấy là thật ra có những người ở đó có khả năng thị hiện trong cõi vật lý những thứ rất gần với các hình dạng mà họ có trong ba thể cao, và buồn thay, những gì họ có trong ba thể cao quả thực là những hình dạng vô cùng thấp, vô cùng méo mó và ô uế. Con có thể thấy một số người ở mức tâm thức thấp vẫn có được một viễn kiến cao hơn nào đó, chẳng hạn như một ông vua muốn thị hiện một cung điện lộng lẫy. Ông ta có khả năng hình dung ra cung điện đó và cũng có khả năng đem một cái gì gần giống như vậy vào thị hịên vật lý, nhưng tiếc thay, viễn kiến của ông tất nhiên là hoàn toàn vị kỷ. Việc xây dựng cung điện sẽ đòi hỏi sức lao động của hàng vạn người làm nô lệ cho ông.

Con thấy đó, có một số người có khả năng hình thành một viễn kiến trong ba thể cao và đem nó vào hiện thực vật lý. Có thể đó không phải là một viễn kiến phá hoại. Con không thể bảo là một số cung điện nguy nga mà con tìm thấy tại hầu hết mọi nước đều nhất thiết là xấu xí hay méo mó, và quả thực một số có thể khá đẹp từ một góc nhìn trần thế nào đó. Tuy vậy, khi con biết các cung điện đó đã được tạo dựng như thế nào thì con thấy những kẻ nảy sinh ra viễn kiến đó đã có một mức tâm thức rất thấp, rất vị kỷ, chỉ chú trọng đến bản thân. Để thị hiện viễn kiến của họ, hẳn là họ đã phải dùng đến sức nô lệ của hàng vạn con người.

Và con thấy là ở một tầng tâm thức thấp kém, người ta quả là có khả năng thực hiện một viễn kiến trong cõi vật lý, nhưng thứ nhất, viễn kiến đó vị kỷ, và thứ hai, cách thực hiện của họ cũng vị kỷ.

4.3. Làm thế nào một thời đại hoàng kim có thể thị hiện

Đối với một đệ tử của chân sư thăng thiên, câu hỏi bây giờ trở thành như sau: “Đó có phải là điều con muốn đạt hay không?” Liệu con có nghĩ là bằng cách theo học khóa tu này, thày sẽ trao cho con một công thức bí mật nào đó, một biểu tượng bí mật nào đó sẽ cho phép con thị hiện bất cứ gì con muốn? Con thấy đó, con yêu dấu, ở tầng khai ngộ đầu tiên tại khóa nhập thất của thày, tất nhiên con đang đối mặt với sự phối hợp giữa Tia thứ Nhất của Ý chí và Quyền năng với Tia thứ Bảy của Tự do. Khi con nhìn vào lịch sử nhân loại, con có thể thấy một số kẻ đã tập trung được một động lượng ý chí và quyền năng rất to lớn nhưng họ lại hoàn toàn mất quân bình về mặt tự do. Nói cách khác, để một ông vua thể hiện được ý chí của mình, ông ta đã phải sử dụng quyền lực, tước mất tự do của hàng vạn người hầu ông xây được cung điện đó, công trình kiến trúc đó.

Hiển nhiên, đây không phải là điều thày sẽ dạy con trong khóa này. Không thể nào thày sẽ dạy con sử dụng sức mạnh của ý chí để lật bỏ quyền tự quyết của người khác, cho dù của đúng một người hay của hàng vạn người. Con yêu dấu, con có hiểu là như các thày đã nói rất nhiều lần, các chân sư thăng thiên tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết hay chăng? Từ một góc nhìn nào đó, con có thể nói mục đích của thày là thị hiện một Thời Hoàng kim trên trái đất, và trong Thời Hoàng kim đó, không một ai sẽ thiếu thốn những thức cần thiết của đời sống và không một ai sẽ phải đau khổ. Phải, đó là mục đích của thày, con yêu dấu, nhưng làm thế nào thày sẽ hoàn thành được chứ? Thày không đang hình dung là Thời Hoàng kim sẽ được biểu hiện bởi một vài ông vua, một vài hoàng đế hay một vài nhà lãnh đạo oai phong nào đó, tuy họ có viễn kiến nhưng lại thực hiện viễn kiến của họ qua sự cưỡng ép, thao túng, tước đoạt quyền tự quyết của những người dân mà họ cai trị. Đó không phải là phương thức thị hiện Thời Hoàng kim mà thày hình dung.

Thày biết con có thể nghĩ: “À, đối với con thì chuyện đó tất nhiên rồi.” Vậy liệu đối với con, chuyện có tất nhiên hay chăng là thày cũng không có ý định thị hiện Thời Hoàng kim qua trung gian một số ít người tâm linh, cho dù với ý định tốt lành, sẽ lấn át ý muốn của đa số dân chúng? Chúng ta đã đề cập đến lớp 10% trên cùng, lớp 80% ở giữa và lớp 10% ở dưới cùng, và lẽ tự nhiên, các sa nhân đang đầu thai và những ai đã bị tâm thức sa ngã chiếm đoạt hết tâm trí, hình thành số 10% có tâm thức thấp nhất này. Đây là những người rất nhiều khi sẽ dùng vũ lực để ép uổng ý chí số 80% dân chúng phải đi theo âm mưu của họ. Nhưng cũng có những đệ tử của chân sư thăng thiên tưởng rằng vì mình thuộc lớp 10% cao nhất thì mình cũng có thể ép uổng ý chí số 80% đó theo viễn kiến và ý định cao hơn của mình.

Các thày đã cố giải thích thật rõ ràng cho con, đặc biệt qua các lời dạy về ngã gốc, về các avatar đến địa cầu, và về cách thức con có thể hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình và đạt được tiềm năng tâm linh cao nhất của con. Các thày đã cố nói thật rõ qua các lời dạy đó là các thày không muốn con đi ngược lại hay ép buộc ý muốn của đa số quần chúng. Đây không phải là cách thức thày muốn thị hiện Thời Hoàng kim của thày. Và điều này có nghĩa là ở cuối khóa tu này, nếu con làm theo sự hướng dẫn của thày và sẵn lòng bước lên cao hơn qua cả bảy tầng khai ngộ, thì thày sẽ dẫn con lên tới tầng tâm thức 96.

4.4. Cuộc khai ngộ quyết định ở tầng 96

Các thày đã có nói là ở tầng tâm thức 96, con đối mặt với một cuộc khai ngộ quyết định. Ở tầng 96, con sẽ đạt được một mức điều ngự nào đó để bẻ cong được vật chất bằng tâm mình. Do đó con trực diện với khai ngộ chủ yếu như sau: “Liệu con sẽ bước lên mức cao hơn của quả vị Ki-tô nơi con sẽ tìm cách nâng cao tổng thể, hay là con sẽ bắt đầu đi xuống mức thấp hơn nơi con sẽ sử dụng khả năng điều ngự của mình để bẻ gẫy ý chí người khác, để cưỡng ép ý chí người khác?” Đây là cuộc khai ngộ quyết định. Lẽ tự nhiên, mục tiêu của thày là giúp con vượt qua khai ngộ này và bước lên tới mức quả vị Ki-tô.

Đó là tại sao ngay từ đầu thày đã đề cập đến vấn đề này, bởi vì đối với thày, việc thiết lập một khung cảnh đúng đắn cho những cuộc khai ngộ mà con sẽ đi qua tại khóa nhập thất của thày thật là quan trọng. Con hẳn cũng biết là các thày đã nâng tâm thức con lên một mức cao hơn hẳn so với khi con mới khởi sự khóa tu. Điều này có nghĩa là thày cần tháo gỡ điều mà Nada đã đề cập khi nói về những mơ mộng hão huyền mà đệ tử tâm linh có thể có. Quả thực đó là một loại mộng tưởng rất phổ biến và rất thuyết phục mà nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên thường có, là cho rằng khi con bước lên cao hơn trên đường đạo, các khai ngộ sẽ ngày càng dễ dàng hơn. Có nhiều đệ tử tâm linh, đệ tử Thời mới, đệ tử của chân sư thăng thiên, mơ mộng rằng một ngày kia họ sẽ vượt qua một khai ngộ then chốt nào đó, rồi từ đó trở đi mọi chuyện sẽ dễ dãi – và kể như họ đã tới đích. Tất nhiên, chuyện đó không thực tế chút nào. Đó không phải là cách vận hành của con đường khai ngộ.

4.5. Con đường khai ngộ vận hành thế nào

Chúng ta có thể tiếp cận câu hỏi này một cách khác. Ta có thể nói là với tầng khai ngộ thứ 48, con nhìn cuộc sống xuyên qua phin lọc của một số ảo tưởng mà con đã khoác vào. Do đó, khai ngộ dẫn con từ tầng 48 đến 49 đòi hỏi con nhìn vượt quá các ảo tưởng mà con đang có, rồi đi lên một bước cao hơn khi con lột bỏ ảo tưởng chủ yếu của tầng 48. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là khai ngộ ở tầng 96 cũng từa tựa như thế. Con vẫn đang nhìn xuyên qua một số ảo tưởng đáng kể là những ảo tưởng còn sót lại từ tầng 96 đến 144. Con vẫn phải xem xét hoàn cảnh của mình và nhìn cuộc khai ngộ xuyên qua những ảo tưởng đó, và chúng vẫn khiến con bị đui mù.

Tất nhiên con có thể bảo là ở tầng 96, con không còn nhiều ảo tưởng như ở tầng 48. Ở tầng 48, điều khiến con khó nhìn ra cuộc khai ngộ mà con phải đối mặt ở mức đó không phải là tất cả các ảo tưởng trên mức 48, mà là đúng cái ảo tưởng ở ngay mức đó khiến con khó khăn vượt qua khai ngộ. Và ở tầng 96 cũng vậy, không phải tất cả các ảo tưởng mà con đã buông bỏ cho tới nay sẽ khiến con vượt qua khai ngộ dễ dàng hơn, và cũng không phải tất cả các ảo tưởng ở trên mức đó khiến con gặp khó khăn. Cái tạo khó khăn cho con là chính cái ảo tưởng ở mức con đang cố vượt qua. Nhìn ra ảo tưởng ở tầng 96 thật không dễ gì hơn tầng 48. Và cũng vậy, việc nhìn ra ảo tưởng ở tầng 144 sẽ không dễ gì hơn bất kỳ tầng nào khác. Con thấy đó, con yêu dấu, dù con ở tầng nào đi nữa, ảo tưởng ở tầng đó cũng sẽ khó khăn y như ở mọi tầng khác. Cho nên thật là vô nghĩa mà nghĩ rằng khi con tiến bước cao hơn thì đường tu sẽ trở nên dễ dàng hơn.

Tuy vậy, chúng ta có thể nói là từ một góc độ nào đó, ảo tưởng mà con đối diện ở tầng 48 sẽ trực tiếp hơn, hiển nhiên hơn, rõ rệt hơn, dễ thấy hơn rất nhiều khi con phải xác định cách hành xử nào là phải hay không phải. Điều này đúng theo một nghĩa nào đó. Ở những mức tâm thức thấp hơn, có một sự tương phản nhất định về mặt vượt qua khai ngộ giữa cái phải với cái không phải. Con không thể thấy tương phản đó ở tầng 48. Con dễ dàng thấy được tương phản ở tầng 96, nhưng ở tầng 96 con không thể dễ dàng thấy được sự khác biệt giữa việc vượt qua khai ngộ hay không vượt qua.

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói là các ảo tưởng ngày càng trở nên vi tế hơn khi con bước lên cao hơn. Ở các tầng cao, việc xác định xem chọn lựa nào là đúng đắn hay không mấy đúng đắn trở nên khó khăn hơn so với các tầng thấp. Con cần buông bỏ mơ mộng cho rằng khi con đến tầng 96, mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn kể từ đó. Con cần sẵn lòng đối mặt với cuộc khai ngộ ở mỗi tầng trong số bảy tầng mà thày sẽ cống hiến cho con, và con không được mang hy vọng là một ngày kia thày sẽ trao cho con một công thức tối thượng nào đó sẽ khiến mọi chuyện đều dễ dàng và con có thể thị hiện bất cứ gì con muốn.

4.6. Quân bình trong tự quyết

Con thấy đó, như thày Nada đã có đề cập mấy lần trong các bài giảng của thày, có một nhu cầu thiết yếu là con quân bình ý chí cá nhân của mình với ý chí của người khác cũng như với viễn quan tổng thể về hành tinh. Con có thể nói: “Con là một đệ tử của chân sư thăng thiên và con muốn giúp thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain.” Đây là một mong muốn xây dựng và đáng trân trọng. Con cần xét xem, như Nada cũng có giảng, làm thế nào con có thể có những phàm linh nội tại dựa trên cơ chế bù đắp hay những cơ chế khác, tức là con có một viễn kiến về Thời Hoàng kim của Saint Germain mà lại không đồng thuận với chính viễn quan của thày. Thậm chí thày đã có nói về điểm này trong bài mở đầu của thày sau các bài giảng của Nada, khi thày mong muốn con tẩy sạch khỏi tâm trí con mọi mơ mộng về cách thức Thời Hoàng kim sẽ biểu hiện như thế nào.

Con muốn giúp thị hiện những gì chứ? Đó có phải là Thời Hoàng kim như thày nhìn, hay là Thời Hoàng kim như con nhìn – có lẽ dựa trên một số hình ảnh phổ biến đang chạy lông bông trong tâm thức tập thể? Nói thật trong nhiều trường hợp, đó là những hình ảnh dựa trên những gì sa nhân mường tượng cho một thời vàng son, nghĩa là họ mường tượng chính họ sẽ nắm lấy quyền kiểm soát. Cái nhìn của sa nhân về thời hoàng kim là sẽ có một vài người lãnh đạo tạo dựng những xã hội vô cùng tinh vi và phức tạp được áp đặt lên ý chí của đa số quần chúng. Một số những sa nhân này còn thành thật tin rằng một xã hội như vậy sẽ đem lại lợi ích cho mọi người, vì chúng không thể tin là con người có khả năng biết mình muốn gì hay mình có viễn quan như thế nào về một xã hội tốt đẹp hơn. Tất nhiên đây không phải là viễn quan của thày.

Viễn quan của thày là thị hiện một thời hoàng kim dựa trên tâm thức tập thể được nâng cao hầu đa số dân chúng trên địa cầu có được một viễn quan cho một xã hội tốt đẹp hơn. Con người sẽ thật sự có được một nhận thức bên trong, một sự chấp nhận bên trong, rằng một xã hội như vậy có khả năng thị hiện, và nó đang thị hiện, đang trên đà thị hiện. Đây là điều mà con đã chứng kiến tại rất nhiều quốc gia phát triển trên thế giới khi trong vòng khoảng 100 năm qua, người dân đã tiến bộ rất, rất xa khi họ chấp nhận rằng sự trù phú vật chất là một khả năng mà nước họ có thể đạt được. Con có thể thấy là ba thế hệ về trước, thế hệ ông bà cố của những người dân đó đã không thể nào tin và chấp nhận là xã hội ngày nay có thể hiện hữu. Họ sẽ coi xã hội hôm nay là một giấc mơ hão huyền thật xa vời.

Viễn quan của thày là nâng cao mọi người, và làm thế nào chúng ta thực hiện được chứ? Chúng ta thực hiện không bằng cách cưỡng ép mọi người, mà bằng cách khiến cho lớp 10% ở trên cùng nâng cao viễn kiến của mình, để các con là những người đang đầu thai, đang tham gia vào tâm thức tập thể, có thể kéo đa số đi lên. Không phải là con sẽ ép buộc họ phải nhìn thấy, mà con khiến cho họ có khả năng nhìn thấy. Rồi họ sẽ bắt đầu nhìn thấy và chấp nhận một viễn kiến cao hơn. Vậy con cần làm gì – nếu có thể nói như vậy – để con đặt ý chí của con cho thẳng hàng với ý chí của Saint Germain? Phải, ở đây con cần nhìn nhận là không bao giờ có hoàn cảnh nào mà con, như một người đồng sáng tạo, có thể thị hiện bất cứ gì mình muốn mà không xét đến mình là một phần của một tổng thể rộng lớn hơn.

4.7. Ý chí cá nhân và ý chí rộng lớn hơn

Các thày đã giảng dạy là một số trong các con là avatar đến địa cầu từ một hành tinh tự nhiên. Các thày có nói là trên một hành tinh tự nhiên, vật chất bớt dày đặc hơn, và cũng dễ dàng hơn rất nhiều để con có viễn kiến ở những tầng cao hơn của tâm và thị hiện viễn kiến đó trong cõi vật lý. Nhưng các thày cũng có nói là trên một hành tinh tự nhiên, con không ở trong tâm thức nhị nguyên, cho nên con không bị rơi vào ảo tưởng tách biệt khiến con nghĩ mình là một cá nhân tách biệt sinh sống giữa những cá nhân tách biệt khác. Con không bị ảo tưởng là hành vi của mình đối với người khác không ảnh hưởng gì đến mình. Con biết mình là một phần của tổng thể. Và đối với các cư dân nguyên thủy của địa cầu cũng vậy, họ biết điều đó trước khi sa nhân đến đây.

Nhưng có một sự khác biệt giữa một avatar và một cư dân nguyên thủy, theo nghĩa là các cư dân nguyên thủy đã chưa phát triển được một cá thể mạnh mẽ như các avatar đến địa cầu từ một hành tinh tự nhiên. Đó là lý do tại sao con thấy 80% dân chúng trên trái đất bị tâm thức tập thể ảnh hưởng rất nhiều. Và đó cũng là tại sao các thày nói đến việc nâng cao tâm thức tập thể để cho những người đó, những người thuộc số 80% này, nắm bắt được viễn kiến do số 10% ở trên cùng khởi xướng. Dĩ nhiên, trong số 10% trên cùng đó cũng có một số là dân cư nguyên thủy đã phát triển tới mức đó. Điều thày muốn nói ở đây là khi con đến địa cầu như một avatar, con đã không đến với viễn kiến mình là một loại lãnh đạo chuyên chế sẽ cưỡng bách ý chí của dân chúng.

Con đã đến đây với viễn kiến là mình sẽ tạo cảm hứng cho người khác. Con cũng đã đến đây với sự hiểu biết, với kinh nghiệm từ một hành tinh tự nhiên là mình không dùng khả năng đồng sáng tạo của mình trong chốn không người, như thể việc mình làm không ảnh hưởng đến ai khác. Con dùng khả năng đồng sáng tạo dựa trên ý chí của con nhưng ý chí này không phải là một ý chí tách biệt. Nó đứng thẳng hàng, đồng thuận với tổng thể, với một viễn quan rộng lớn hơn – trước tiên là với Hiện diện TA LÀ của con. Con có thể nói: “Làm thế nào một vị đồng sáng tạo tân lập trên một hành tinh tự nhiên có thể đồng thuận ý chí của mình với một viễn quan toàn bộ khi y chỉ có một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm?” Phải, y không thể, nhưng y có thể đồng thuận ý chí cá nhân với ý chí của Hiện diện TA LÀ của y. Khi con làm vậy, Hiện diện TA LÀ của con sẽ đứng thẳng hàng với tổng thể, với viễn quan toàn bộ của hành tinh đó. Và do đó, con không sử dụng ý chí của mình để đi ngược lại ý chí của những vị đồng sáng tạo khác chung quanh con. Ở mức này, đây là một điểm rất quan trọng mà con cần ghi nhớ.

Con cũng cần nhìn nhận là mặc dù các thày có nói là việc thị hiện những gì mình muốn dễ dàng hơn trên một hành tinh tự nhiên, điều đó không có nghĩa là con có thể có bất kỳ viễn kiến nào con muốn và thị hiện viễn kiến đó. Ngay cả trên một hành tinh tự nhiên, vẫn có một số điều có thể gọi là “điều kiện”, về cách thức con sử dụng khả năng đồng sáng tạo của mình. Một số người sẽ gọi đó là những giới hạn, nhưng thày ưa dùng từ này hơn vì một lý do đặc biệt.

4.8. Làm cho ý chí thấp đồng thuận với ý chí cao

Vì vậy, thày muốn cho con viễn kiến là trên một hành tinh tự nhiên, con không sáng tạo trong hư vô. Con là một nghệ nhân, và thày dùng từ này vì thày muốn đối chiếu với một loại nghệ nhân mà con quen thuộc trên địa cầu – một nhà điêu khắc. Một nghệ sĩ điêu khắc không làm việc với không khí để nặn ra hình dạng; y làm việc với một vật liệu cụ thể. Có nghĩa là khi con xem đến việc đồng sáng tạo một bức tượng, con phải trước tiên dùng sức mạnh ý chí để chọn lựa loại vật liệu nào mà con sẽ dùng. Ngay cả thời xưa, các nhà điêu khắc đã có nhiều loại vật liệu để sử dụng. Họ có thể dùng đất sét. Đất sét là một vật liệu rất mềm, rất dễ nặn thành gần như bất kỳ hình dạng nào. Nếu con thiếu kiên nhẫn và muốn thị hiện thật nhanh thì con dùng đất sét. Vấn đề là đất sét sẽ không giữ được lâu dài, và cho dù nó được nung nóng, tuổi thọ của nó cũng sẽ hạn chế.

Một khi con có nhiều kinh nghiệm điêu khắc hơn, con có thể nói là nhu cầu thị hiện dễ dàng một viễn kiến nào đó sẽ không còn quan trọng lắm đối với con. Vì giờ đây con muốn thị hiện một cái gì có tuổi thọ dài hơn, có nghĩa là con cần chọn một vật liệu bền bỉ hơn. Con có thể chọn đá vôi chẳng hạn. Nó khó nặn tạc hơn đất sét nhưng nó lâu bền hơn, tuy vậy nó không lâu bền nhất và cũng không là vật liệu đẹp nhất. Đá hoa cương lâu bền hơn nhiều, nhưng cũng rất khó đẽo. Đá cẩm thạch dễ đẽo hơn đá hoa cương và, như nhiều người đồng ý, lại mang một vẻ đẹp, một màu sắc, một ánh sắc mỹ lệ hơn.

Con thấy được ở đây, như thày vừa nói, một trong những mơ mộng mà nhiều đệ tử tâm linh thường có, là họ nghĩ bằng cách đạt được một số khả năng thần diệu, họ có thể bù đắp cho sự mất mát mà họ đã cảm thấy khi họ gặp sa nhân lần đầu và bị sa nhân bài bác, Họ mơ ước thị hiện được một cái gì đó ngoạn mục đến độ không ai có thể bác bỏ, không ai có thể làm ngơ. Khi con biết là mình đang ở trên địa cầu nơi vật chất có độ dày đặc nào đó, con sẽ thấy ngay chuyện này cũng không là một ước mơ thực tế.  Cho nên ở tầng đầu tiên này, thày cần con – và thày biết thày đã làm chuyện này trước đây rồi – nhưng thày vẫn cần con lấy một quyết định ý thức là mình sẽ để cho những giấc mơ xa vời kia chết đi. Con hãy để cho chúng ra đi, bởi vì điều con muốn làm ở mức này là con muốn sử dụng sức mạnh ý chí để chọn lựa vật liệu mà con sẽ dùng hầu thị hiện tác phẩm nghệ thuật của con.

Con sẽ có thể nói: “Nhưng liệu con đã có một viễn kiến rõ ràng về những gì con muốn thị hiện hay chưa?” Thày sẽ trả lời: “Có, con đã có một viễn kiến rõ ràng khi con thiết lập Sứ vụ Thiêng liêng về những điều con muốn thị hiện trong kiếp sống này.” Không phải là chuyện con ngồi đây với mức tâm thức hiện thời của con, viễn kiến hiện thời của con, rồi quyết định với tâm vỏ ngoài là mình muốn thị hiện cái gì, mà là chuyện con quyết định với tâm ý thức là con muốn đặt cái tâm ý thức đó đứng thẳng hàng với ý chí cao hơn mà con đã dùng để thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng, thẳng hàng với ý chí cao hơn của Saint Germain cùng viễn quan của thày cho Thời Hoàng kim. Đây là việc mà thày cần con làm ở mức này. Thày cần con xem xét điều này. Thày cần con xem xét những giấc mơ cùng bất kỳ mong muốn nào, viễn kiến nào mà con có thể đã có khi muốn cưỡng ép ý chí của loài người trên địa cầu, ngay cả vì lợi ích của họ.

4.9. Xem mình là một nghệ nhân

Thày cần con thực hiện một sự xoay chuyển trong tâm con khi con bắt đầu xem mình là một nghệ sĩ và đời mình là một tác phẩm nghệ thuật. Đối với nhiều người trong số các con, điều này sẽ đòi hỏi con điều chỉnh to tát, vì cho tới giờ con đã nhìn đời con một cách khác. Một số trong các con có trong đầu một lãnh vực hoạt động đặc thù nào đó mà con muốn bước vào, hoặc con đã bước vào, hoặc con mơ ước bước vào, nơi con có thể phụng sự xã hội. Đó có thể là lãnh vực chính trị, có thể là giáo dục, là khoa học, là kinh tế, là truyền thông, là nhiều thứ khác nữa. Đó cũng có thể là lãnh vực gia đình, chăm sóc gia đình, nuôi nấng con cái và nhiều thứ nữa. Con đã có xu hướng nhìn cuộc đời xuyên qua một phin lọc dựa trên lãnh vực mà con chú ý. Trong nhiều trường hợp, con đã có xu hướng nhìn vào những phương cách hoạt động thực tế của lãnh vực đó. Chẳng hạn trong chính trị, nền chính trị vận hành ra sao? Mình phải cần gì để dấn thân vào chính trị? Hay chẳng hạn mình cần làm gì để trở thành một vị dân cử?

Trong nhiều trường hợp, con đã từng nhìn vào vấn đề như thế, giống như vị sứ giả này chẳng hạn khi ông còn ở tuổi thiếu niên. Ông đã có một viễn kiến bước vào chính trường tại Đan Mạch nơi ông sinh trưởng, và trở thành thủ tướng xứ đó. Con yêu dấu, thày có thể nói với con là với sự chứng đạt của ông trong tiền kiếp, nếu ông đã dành trọn chú tâm vào việc này thì ông đã có thể trở thành Thủ tướng Đan Mạch thật, nhưng đó không phải là viễn kiến cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của ông. Rất may ông đã có thể xem xét chính trị và nhận ra đó là lãnh vực của sự thỏa hiệp. Ở đó, con không thể nhìn vào các nguyên lý cao hơn, nhìn vào viễn kiến cao hơn về những gì thực sự cần thị hiện, mà con phải xét đến những gì có khả năng thành hình trong một tình hình chính trị nhất định. Thường khi con phải đổi chác, phải thỏa hiệp để có được một vị thế quyền lực. Ông đã nhìn ra là ông không sẵn sàng thỏa hiệp, và do đó ông đã quyết định không theo đuổi một sự nghiệp chính trị.

Thày biết, rất nhiều người trong số các con cũng đã làm một điều tương tự trong lãnh vực của con. Con đã nhìn vào các cơ chế vận hành ở đó, con đã nhận ra một số điều mà con không muốn làm, một số thỏa hiệp mà con không sẵn sàng bước vào, và do đó con đã trở nên chán nản. Thày không nói là con phải làm điều mà sứ giả này đã làm và từ bỏ lãnh vực mình quan tâm. Rất có thể đối với đa số các con, Sứ vụ Thiêng liêng của con chính là việc theo đuổi lãnh vực quan tâm đó. Tuy nhiên, để thực sự đem lại những điều mà con muốn đem lại trong Sứ vụ Thiêng liêng, con cần phải khắc phục cảm giác chán nản đó, cảm giác rằng những cơ chế vận hành của những điều con muốn thị hiện trên địa cầu thật quá khó khăn, quá méo mó, quá thiếu quân bình, đến nỗi con không muốn tiếp xúc chút nào với lãnh vực đó, hoặc con không thấy làm thế nào mình có thể thị hiện được điều gì cao hơn trong lãnh vực đó.

4.10. Tránh chán nản

Con hiểu chứ khi Nada bảo rằng sự chán nản là dụng cụ thiện xảo nhất trong hộp dụng cụ của ác quỷ? Sa nhân đã cố hết sức để làm tha hóa mọi lãnh vực sinh hoạt của con người trên hành tinh này, chính là với mục tiêu khiến cho những ai bắt đầu có được chút phân biện Ki-tô phải nhìn vào lãnh vực đó, nhìn vào sự tha hóa đó, nhìn thấy những mất quân bình đó, nhìn thấy những thỏa hiệp đó, rồi trở nên chán nản đến độ họ không muốn bỏ sức ra đem lại thay đổi. Con yêu dấu, con có thấy rất nhiều đệ tử tâm linh bị dằn vặt giữa hai lực kéo-đẩy này, hai đối cực này hay không? Một đằng, con mơ mộng về những cách con muốn thị hiện một cái gì thật quan trọng. Đằng khác, con lại bị chán nản và cảm thấy không có gì mình có thể làm được trên thực tế để đem lại thay đổi. Con có thấy hai đối cực đó tương tác với nhau như thế nào không?

Sự kiện con thấy những thỏa hiệp cùng khó khăn đó khiến con bị chán nản, nhưng chính điều đó – hầu con có thể tiếp tục sống trên hành tinh này – lại đẩy con đi vào mộng mơ và nghĩ rằng có một công thức thần diệu, một biểu tượng huyền bí nào đó sẽ cho phép con đâm xuyên qua mọi thỏa hiệp để vẫn thị hiện được thành quả kỳ diệu, ngọan mục. Con có thấy bao nhiêu người trong số các con đã bị dằng xé giữa hai lực đó, và chuyện này đã không nhất thiết dễ dàng hơn khi con tìm ra giáo lý của chân sư thăng thiên? Các thày cho con một viễn kiến về những gì có khả năng thành hiện thực, các thày đã nhấn mạnh rằng chính con là người có thể khiến nó xảy ra. Thế nhưng con vẫn thấy điều mà Chân sư MORE có nói đến trong một bài giảng trước, là cái “khoảng cách” – khoảng cách giữa giáo lý và trạng thái tâm thức của con, cuộc sống bình thường của con cùng những gì con nghĩ con có khả năng thị hiện.

Mong muốn của thày với bảy tầng khai ngộ này là giúp con khắc phục, đóng lại khoảng cách đó hầu không còn kẽ hở nào giữa những giáo lý mà các thày ban truyền và những gì mà thực tế con thấy mình có khả năng thị hiện trong đời mình. Nhưng thày sẽ không làm vậy bằng cách cho con một cây gậy thần. Thày sẽ làm vậy bằng cách giúp con xoay chuyển tâm thức.

4.11. Chọn trung gian nghệ thuật

Xoay chuyển đầu tiên mà thày yêu cầu con thực hiện là con xoay chuyển cách con tiếp cận cuộc sống thành một cách tiếp cận nghệ thuật. Tất nhiên thày sẽ cho con bảy tầng, nhưng ở tầng cấp đầu tiên này, điều đó có nghĩa là con chọn lựa trung gian nghệ thuật mà con muốn sử dụng. Đâu là phương tiện nghệ thuật mà con muốn sử dụng để biểu đạt sự sáng tạo của con? À, trên địa cầu có trung gian nghệ thuật nào? Con sẽ nói: “Đó, có vật chất, mọi thứ đều là vật chất.” Và thày sẽ trả lời: “Có thật vậy không?”

Các thày đã đưa ra nhiều lời dạy về đề tài này qua các tầng tu học trước. Con có thể nhìn thế giới ở mức vĩ mô nơi mọi thứ được coi là vật chất. Xong con có thể đi xuống mức vi mô của các phân tử, mức của nguyên tử, mức của hạt hạ nguyên tử, mức của các làn sóng năng lượng thuần khiết. Con có thể thấy mọi thứ không là vật chất vì vật chất là một mô thức giao thoa, một mô thức giao thoa vô cùng phức tạp, của những làn sóng năng lượng. Đâu là trung gian sáng tạo? Có phải là vật chất hay là năng lượng? Hay có lẽ đó là một chất vi tế hơn cả cái mà người thường gọi là năng lượng?  

Con thấy không, cái mà thế giới khoa học gọi là năng lượng là một thứ gì giống như điện lực hay ánh sáng mặt trời, nhưng đó vẫn là một chất vật lý – ít ra là phần nào. Có một năng lượng vi tế hơn, là năng lượng tình cảm, năng lượng lý trí, năng lượng ở tầng cấp bản sắc và năng lượng ở tầng cấp tâm linh. Đó là những tầng năng lượng vi tế hơn. Có một cách để nhìn vấn đề này không như cách con nhìn năng lượng trên địa cầu. Chúng chỉ đơn giản là những tín hiệu bật-tắt tí hon – gần giống như khi con nhìn thấy trên màn hình tivi hay máy tính có chiếc diode nhỏ, hoặc bật hoặc tắt. Khi bật, diode có thể khoác vào nhiều màu sắc khác nhau, và nhiều chiếc diode sẽ tạo chung một hình ảnh trên màn hình.

Con yêu dấu, khi con xem tivi, chẳng hạn một bộ phim chiến tranh, liệu con có nghĩ những gì con thấy trên màn ảnh thực sự là những người thật đang chạy quanh bắn súng vào nhau không? Dĩ nhiên là không, bởi vì con dư biết là những gì con nhìn thấy trên màn ảnh tivi chỉ là hình ảnh. Rồi khi con quay mặt khỏi màn hình, hay có lẽ ngay cả khi con nhìn vào chiếc máy tivi, khi con nhìn lên tường sau lưng tivi, nhìn những bức tranh treo trên tường, nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy có nhà hay có đồng ruộng, cây cối – khi con nhìn tất cả những thứ đó, mà con gọi là “thế giới thực”, thì tất cả những thứ con đang thấy là gì? Đó có phải là những vật thực được cấu tạo bằng vật chất, hay chúng thật sự cũng chỉ giống như những hình ảnh mà con vừa thấy trên màn hình tivi nơi có một đơn vị tí hon đang bật hay tắt, và thật nhiều những đơn vị như thế hợp chung lại thành một mô thức phức tạp mà tâm con chuyển thành bức tranh treo trên tường?

4.12. Tại sao khó lòng thị hiện điều mình muốn

Con yêu dấu, tại sao lại có một khoảng cách giữa những gì con có thể hình dung trong viễn quan và những gì con có thể thị hiện? Đó là vì nếu con đang cố thị hiện một cái gì đó dựa trên những biểu tượng và hình dạng đã có sẵn trong thế giới vật chất, thì con sẽ gặp phải sự cưỡng kháng và chống đối toàn diện, không những từ tâm thức tập thể mà cả từ chính vật chất.

Tự thân vật chất trở nên đông đặc thành một hình dạng. Chúng ta có thể nói là năng lượng hoàn toàn lỏng và có thể khoác lấy bất kỳ hình dạng nào, nhưng rồi một biểu tượng, một hình ảnh được phóng chồng lên năng lượng đó. Khi đó, năng lượng bị kéo thấp xuống cõi vật chất nơi nó trở thành cái mà con gọi là vật chất, và vật chất này bị khóa chặt vào hình dạng đó, khóa chặt vào khuôn đúc đó.

Khi con tìm cách lật bỏ khuôn đúc đó đi, có một sự kháng cự xảy ra, vì một khi năng lượng đã khoác lấy một hình dạng nào đó thì sẽ có kháng cự chống lại sự thay đổi. Đây không nhất thiết là một sự kháng cự có ác ý, nhưng khi một tinh linh (elemental being) đã khoác lấy hình dạng một cái cây thì tinh linh cũng đã được thấm nhuần nhu cầu muốn duy trì hình ảnh đó. Do đó mới có một sự kháng cự, ngay cả từ thiên nhiên hay bất cứ gì trong cõi vật lý, chống lại sự thay đổi. Đó là tại sao thày cần con bắt đầu cuộc xoay chuyển này, và tất nhiên thày sẽ nói nhiều hơn về điểm này trong các bài tới.

Ở đây thày cần con nhận ra trong ý thức rằng với cương vị một nghệ sĩ trên hành tinh địa cầu, con phải đối diện với một công việc vô cùng khó khăn do độ dày đặc của vật chất. Sự cưỡng chống vô cùng mạnh mẽ. Tâm thức tập thể dày đặc, và con không sáng tạo trong những điều kiện lý tưởng. Cho nên con cần rất, rất thận trọng khi chọn lựa trung gian mà con sẽ sử dụng để tạo ra tác phẩm điêu khắc của con. Thày cam đoan với con là con không muốn chọn trung gian vật chất, là trung gian của những hình dạng vĩ mô, rồi tìm cách thị hiện ở tầng mức đó.

Đây là điểm mà nhiều người đã theo học các khóa tu tập về thuật thị hịên kết đọng (precipitation) và thuật dùng tâm điều khiển vật chất, đã bị thất bại và không đạt được kết quả mà họ mong muốn. Họ đã khởi đầu ở tầng vật lý với một mong muốn, thường dựa trên sự bù đắp. Họ bắt đầu ở tầng vật lý xong họ quyết định với tâm vỏ ngoài: “Tôi muốn thị hiện căn nhà tuyệt đẹp này.” Xong họ đã tìm cách – dù họ có biết về ba cõi cao của tâm phàm hay không – sử dụng sức mạnh của tâm để phần nào phóng chiếu ra vũ trụ và khiến nó quay ngược trở về như một thị hiện vật lý. Thày không bảo là chuyện này không thể làm được cho những thứ đơn giản như một căn nhà, nhưng cho những thứ nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con thì đó không phải là một cách tiếp cận xây dựng.      

Con không thể khởi đầu với những hình dạng đã có sẵn trong cõi vật lý rồi cố làm cho nó tốt hơn hay cố kiện toàn nó. Là một đệ tử của chân sư thăng thiên, con có thể bảo là con sẽ quyết định với tâm vỏ ngoài: “Tôi muốn thị hiện một căn nhà tuyệt đẹp.” Xong con tạo ra viễn kiến cao nhất mà con có thể nghĩ ra về căn nhà đó. Xong con tập trung vào tâm bản sắc. Con phóng chiếu hình ảnh đó từ tâm ý thức vào tâm bản sắc, xong con hình dung ánh sáng của Hiện diện TA LÀ chảy xuyên hình ảnh đó, chảy xuống cõi lý trí, rồi xuống cõi tình cảm, rồi xuống cõi vật lý. Xong dựa trên những điều mà các thày đã nói, con nghĩ rằng sau khi con đã làm xong tất cả những bước đó thì tạo vật của con sẽ phải thị hiện nơi cõi vật lý. Điều thày nói với con là mặc dù chuyện đó có thể xảy ra, nhưng đó không phải là quả vị Ki-tô.

4.13. Chọn điểm khởi đầu

Quả vị Ki-tô là con không khởi đầu ở cõi vật lý. Con không khởi đầu ở mức vật lý với những điều kiện hiện hành và cố hình dung ra cách thức làm sao cho chúng tốt đẹp hơn. Quả vị Ki-tô là khi con nói: “Các điều kiện trong cõi vật lý không lý tưởng. Tại sao chúng không lý tưởng? Bởi vì có ai đó đã có một viễn kiến hạn chế, một viễn kiến nảy sinh từ nhị nguyên, một viễn kiến có thể đã nảy sinh từ tâm thức sa ngã, và họ đang phóng chiếu hình ảnh này lên năng lượng thuần khiết. Do đó, nếu chúng ta muốn thực sự thay đổi sự thể trong cõi vật lý, chúng ta cần vươn lên một viễn kiến cao hơn. Chúng ta cần giải phóng tâm mình khỏi sự ràng buộc vào những gì đang sẵn thị hiện, hầu chúng ta không khép tâm lại, mà chúng ta có thể mở tâm ra để nhận được một viễn kiến cao hơn từ trên.”  

Viễn quan của thày về Thời Hoàng kim cao hơn tất cả những gì hầu hết mọi người trên trái đất có thể mường tượng được. Do đó không có chuyện lấy những thứ đã có sẵn và làm cho nó đẹp hơn hay công phu hơn hay tinh xảo hơn. Thày đã có đề cập đến những người, những đệ tử của chân sư thăng thiên, đã mơ mộng về những thành phố mỹ lệ với đường phố lát vàng và những tòa nhà cũng làm bằng vàng. Họ chiêm ngưỡng một số đền thờ cổ Hy Lạp cùng những dinh thự tuyệt đẹp hiện có trên trái đất ngày nay, và họ phóng chiếu trong tâm những thành phố với đại lộ còn rộng hơn nữa và cao ốc còn cao hơn nữa, lát vàng hay làm toàn bằng vàng.

Nhưng đó không phải là viễn quan của thày về thành phố trong Thời Hoàng kim. Viễn quan của thày rất, rất khác. Điều thày muốn nói là như sau: Nếu con khởi sự với một cái gì đã sẵn thị hiện và sử dụng làm nền tảng cho những gì con có thể đồng sáng tạo, thì con đang tạo ra khó khăn và kháng cự rất lớn cho con. Có thể con sẽ thị hiện được một cái gì đó theo cạch đó, nhưng đó không phải là cái con đã hình dung trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Đó sẽ không là tiềm năng cao nhất của con, và đó cũng sẽ không là quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô vượt ra ngoài hiện trạng, chứ không làm cho hiện trạng công phu hơn và do đó cũng chai cứng hơn.

Thày cần con làm cuộc xoay chuyển này. Thày cần con khởi sự xoay chuyển và bắt đầu tự xem mình là một nghệ nhân, nhưng con không đang đẽo tượng từ vật chất. Con không đang lấy một tảng đá rồi tạc đẽo cho tới khi con có một bức tượng. Con đang điêu khắc bằng cách sử dụng năng lượng thuần khiết, năng lượng vi tế hơn trong cõi bản sắc cao, mà đôi khi các thày gọi là cõi ê-the để chỉ rõ năng lượng đó vượt khỏi cõi vật lý.

Con đang khởi sự với một khoảng không gian trống rỗng, một trang vở trắng xóa, một trạng thái trinh nguyên. Có những tín hiệu bật-tắt là những đơn vị năng lượng nhỏ nhất có thể có trong cõi chưa thăng thiên của con. Con đang khởi sự với màn hình hoàn toàn trống trải đó và con sắp sửa vươn lên để nắm lấy viễn quan trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Xong một khi con có viễn quan đó, con sẽ chồng nó lên màn hình trống trải, rồi đem nó xuống qua các tầng bản sắc, lý trí và tình cảm đưa vào cõi vật lý.

Đây không phải là một viễn quan dựa trên những gì con nhìn thấy chung quanh con ngay bây giờ. Đây không phải là một viễn quan dựa trên những gì đang thị hiện, mà những gì có khả năng thị hiện – nếu viễn quan của con sạch bong không có gì đã sẵn thị hiện.

16 | Con không là nô lệ của thời gian

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 2/12/2018 nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Điều thày muốn trình bày trong bài giảng này là một số chủ đề có vẻ không liên quan nhưng thật sự có liên quan với nhau. Hãy cho thày bắt đầu với một điều tuyệt đối cần thiết trên con đường quả vị Ki-tô, con đường quả vị Phật, là con hiểu rằng cái ngã mà con đã có khi con tìm thấy giáo lý lần đầu và thức tỉnh với sự hiện hữu của một đường tu tâm linh, ngã này không thể đưa con đến quả vị Ki-tô hay quả vị Phật.

Các con vừa đọc bài thỉnh về ngã gốc qua đó con học được là ngã gốc phải chết đi thì con mới tái sinh vào một ngã mới [từ quyển sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]. Tất nhiên đây là một tiến trình hoàn toàn có giá trị, nhưng con không nên đặt mình vào tâm thái nghĩ rằng ngay cả nếu con cảm thấy ngã gốc đã chết, thì ngã mới mà con tái sinh vào đó là cái ngã con sẽ đem theo con cho tới khi thăng thiên. Chắc chắn con đừng rơi vào ảo tưởng cho rằng đây là cái ngã sẽ thăng thiên.

16.1. Thăng thiên sau khi cân bằng toàn bộ nghiệp quả

Trong đợt truyền pháp này, các thày đã cho con một số lời dạy về tiến trình thăng thiên và cái có thể gọi là “tâm lý của sự thăng thiên” cao hơn hẳn những gì các thày đã trao truyền trong mọi đợt truyền pháp trước đây. Không có nghĩa là các giáo lý trước không có giá trị hay không thể đưa hành giả đến điểm thăng thiên. Có một số người trong tiền kiếp đã gần điểm thăng thiên đến độ các giáo lý trước đã có thể dẫn họ đi những bước chót đến mức sẵn sàng thăng thiên, nhưng loại người như vậy không nhiều lắm. Con cũng biết là trong đợt truyền pháp trước có dạy là con có thể thăng thiên sau khi chỉ cân bằng 51% nghiệp quả của mình. Thày sẽ nói là có rất rất ít người đã có thể dùng giáo lý trước để cân bằng được 100% nghiệp quả (cũng có nghĩa là giải quyết xong tâm lý mình) và nhờ vậy thăng thiên khỏi địa cầu. Có thể nói là họ “sạch bong”, sạch không còn bất kỳ chướng ngại nào và ngay lập tức họ trở thành một chân sư thăng thiên.

Tuy nhiên, với giáo lý các thày trao truyền ngày nay đi sâu hơn hẳn vào tâm lý con người, mục đích của các thày là giúp cho một nhóm đông đảo hơn có thể cân bằng nghiệp quả, giải quyết tâm lý của mình rồi có được một ít thời gian trong trạng thái này trước khi họ rời bỏ thân xác vật lý và thăng thiên khỏi hành tinh. Con cần nhìn nhận việc tiết lộ tuần tự là một tiến trình tuần tự. Điều này hiển nhiên mang nhiều hệ quả, nhưng một hệ quả là một số điều giảng dạy trước đây tuy đúng đắn vẫn chưa đầy đủ và chỉ là một cái nhìn giới hạn, một cái nhìn đơn giản hóa về chủ đề.

Quá nhiều người trong các đợt truyền pháp trước đã không đặt câu hỏi: “Nếu một chân sư thăng thiên là một sinh thể đã cân bằng mọi nghiệp quả thì liệu một người thăng thiên – gọi tạm như vậy – đã cân bằng 51% nghiệp quả có trở thành một chân sư thăng thiên sau khi ‘thăng thiên’ hay không?” Người ta cũng đã không hỏi: “Nếu một người đã cân bằng 51% nghiệp quả và do đó không phải trở lại đầu thai vật lý, liệu vị này đã thực sư thăng thiên và trở thành chân sư thăng thiên hay không?” Câu trả lời hiển nhiên là “Không!” Làm sao con có thể trở thành một chân sư thăng thiên nếu còn vẫn còn nghiệp chưa cân bằng và tâm lý chưa giải quyết từ trái đất? Nếu việc này xảy ra thì thật không lô-gíc, con yêu dấu. Cho nên các con, ít ra một số các con, cần nhìn nhận đó là một lời dạy được giản dị hóa chứ không phải là tầm hiểu trọn vẹn về đề tài này. Lẽ tự nhiên, con yêu dấu, con cần giải quyết xong xuôi mọi chuyện con cần giải quyết trên địa cầu trước khi con có thể thăng thiên và trở thành một chân sư thăng thiên. Như Mẹ Mary có giải thích, tất nhiên cũng có một số người chỉ còn sót lại nghiệp quả đối với chính mình, có nghĩa là nói chung, những gì còn sót lại chỉ là tâm lý chưa giải quyết mà họ có thể giải quyết ngoài hiện thân vật lý.

Vậy tại sao lại có sự đặc miễn chỉ cần cân bằng 51% nghiệp quả? Chính là vì có quá ít người thăng thiên. Với độ dày đặc của tâm thức tập thể, thật quá khó thăng thiên với 100% nghiệp quả đã cân bằng và tâm lý đã giải quyết. Để đẩy nhanh tiến trình nâng cao tâm thức tập thể, một sự đặc miễn đã được ban ra là nếu có ai cân bằng được – giải quyết được – 51% thì người đó không phải trở lại hiện thân vật lý. Họ có thể gia nhập một chương trình đặc biệt ở cõi ê-the nơi họ nhận được sự trợ giúp để giải quyết bất cứ gì còn sót lại. Làm như vậy sẽ dẫn họ đến điểm thăng thiên trọn vẹn nhanh chóng hơn so với tiến trình tái đầu thai trong một cơ thể vật lý, rồi lớn lên cho đến tuổi trưởng thành để có thể đón nhận đường tu tâm linh và bước chân một cách ý thức hơn. Điều này đã gia tốc tiến trình khi một số người đã có thể giải quyết bất cứ gì vẫn chưa giải quyết, rồi thăng thiên nhanh chóng hơn thay vì phải trở lại đầu thai.

Loài người đã bước vào một chu kỳ mới và các thày có chủ ý giúp đỡ một nhóm đông đảo hơn nhiều đi qua tiến trình giải quyết trọn vẹn tâm lý của mình trong khi còn đang hiện thân. Việc này nhắm trước hết vào các avatar, nhưng giáo lý cũng hoàn toàn có giá trị và hữu ích cho những cư dân nguyên thủy của địa cầu đã đạt được một mức tăng triển tâm linh nào đó. Nó cũng hữu ích cho những ai tuy không đúng nghĩa là avatar nhưng có thể đã đến từ một số hành tinh khác đã thăng thiên và họ đã không thể thăng cùng với hành tinh của họ hay cùng với các dòng sống còn lại của hành tinh họ.

16.2. Tinh túy của đường tu là để cho ngã chết

Tất nhiên đây là thách thức mà các thày đã đặt trước mặt con. Con cần nhận ra ở đây là khi con kinh qua một giai đoạn nhất định, chẳng hạn khi con phát hiện ngã gốc như một avatar và con để cho ngã này chết đi, con được tái sinh vào một ý niệm bản ngã mới. Chắc chắn có những cái ngã con đã tạo ra sau khi con tạo ra ngã gốc. Con vẫn có một cái nhìn nào đó về bản thân, một cái nhìn nào đó về trái đất, có nghĩa là khi con tạo ra một ngã mới sau khi khắc phục ngã gốc thì ngã mới này không nhất thiết là cao nhất. Hay nói đúng hơn, ngã này không phải là cao nhất có thể. Khi con bước lên cao hơn và cao hơn nữa trong tâm thức, sẽ có một số điểm nơi con cần đứng lui lại, xem xét ý niệm bản ngã của mình lúc đó và một lần nữa để nó chết đi hầu con có thể lại tái sinh. Con có thể tái sinh trong Ki-tô, con có thể tái sinh trong Phật. Có lẽ con đang bắt đầu nhận ra là tinh túy của đường tu tâm linh là thấy mình có một ý niệm bản ngã giới hạn và mình để cho nó chết đi.

Cho tới giờ các thày đã đề cập đến một số ngã đặc thù là những cái ngã phản ứng được tạo ra để ứng phó với một tình huống đặc thù trên trái đất. Chẳng hạn như khi con tìm thấy con đường tâm linh, con tìm thấy một giáo lý của chân sư thăng thiên – và con bắt đầu học hỏi, bắt đầu thực hành, và có lẽ con gia nhập một tổ chức mang một số nét văn hóa tổ chức – thì kỳ thực con đang tạo dựng một ngã mới. Điều này con không bao giờ ngừng làm, không những trong kiếp này mà cả trong tiền kiếp. Con tạo dựng một số ngã, nói đúng ra không để phản ứng lại một hoàn cảnh chấn thương đặc thù. Kỳ thực con tạo dựng những cái ngã để đáp ứng với cái hiểu và cái biết mà con đang có. Con đang vươn lên một tầm nhận biết cao hơn và con tạo ra một ngã mới dựa trên tầm nhận biết cao hơn này. Khi con lên đến những tầng cao của đường tu, con cần trở nên ý thức về quá trình này, vì suốt một thời gian dài, quá trình xảy ra trong tiềm thức và con không biết là mình đang tạo ra một ngã mới.

Đến một điểm con cần ý thức quá trình này, con cần nhìn thấy: “Tôi đã kinh qua những gì từ khi tôi nhận biết ý thức về đường tu? Trải nghiệm của tôi là gì, sáng ngộ nào tôi đã thu hoạch?” Nói chung con nhìn lại đường tu của con cho tới điểm này và con có thể thấy: “Tôi đã kinh qua những gì, tôi đã chấp nhận những niềm tin nào dựa trên giáo lý tôi đã đi theo, tôi đã tham gia những tổ chức nào? Và kết quả là tôi đã tạo ra những loại ngã nào?” Như Quan Âm có nói, một số người bước vào giáo lý với mong muốn cảm thấy cao trội, và có thể họ sẽ không bao giờ buông được cái ngã cao trội họ đã tạo dựng do là đệ tử của chân sư thăng thiên. Tuy vậy, đa số các con không có vấn đề này nhưng các con đã có tạo dựng những cái ngã khác.

Một lần nữa, không có sự chê trách nào ở đây. Một phần tự nhiên trên hành trình phát triển là con tạo dựng những ngã mới này dựa trên nhận biết và mong muốn của con, những gì con muốn biểu đạt, những gì con muốn trải nghiệm, những gì con muốn thực hiện ở đây trên trái đất. Tất cả các thày cũng từng làm y như vậy. Thày chỉ muốn con nhận biết là nhiều các con đã tới điểm sẵn sàng trở nên ý thức về tiến trình này. Con hãy nhìn vào bản thân và xét xem cho tới giờ con đã tạo dựng loại ngã nào, và liệu ngã này có dựa trên một tầm nhìn hạn hẹp, một cái hiểu hạn hẹp. Khi con làm vậy, một số các con sẽ nhận ra là mình có một cái ngã được tạo dựng trên cơ sở một tầm nhìn nhất định về đường tu, một tầm nhìn nhất định về bản thân từ nhiều năm trước. Nhưng bây giờ trong một phần tâm con, con đã đạt được một cái hiểu cao hơn, một cái nhìn cao hơn, những sáng ngộ cao hơn, một góc độ cao hơn. Cho nên con cần dần dần nhìn thấy là cái ngã con đã tạo ra ở một giai đoạn trước trên đường tu không còn giúp con tăng triển nữa. Thật ra nó còn giới hạn sự tăng triển của con theo một cách nào đó, nó đang cầm chân con lại vì cái nhìn của con đã lỗi thời, đặc biệt về các khả năng của con.

16.3. Những cái ngã giới hạn khả năng của con

Các thày đã từng giảng bằng nhiều cách về việc con cần kinh qua giai đoạn khắc phục sự thúc giục muốn làm một việc gì đó trên trái đất. Tất nhiên việc kinh qua giai đoạn này hoàn toàn cần thiết, nhưng một khi con đã đi muốt giai đoạn này thì con nhận ra mục đích thực sự của con ở đây là để là chính mình, để biểu đạt chính mình. Biểu đạt chính mình có nghĩa là con cho phép Hiện diện TA LÀ của con biểu đạt chính nó xuyên qua con, vì con ngộ ra khi con là chính mình thì cũng có nghĩa con ở trong một trạng thái hợp nhất với Hiện diện TA LÀ. Vậy con có thể được lợi lạc nếu con nhận ra là ngay từ thuở chấn thương nhập đời, con đã tạo dựng một số ngã mang một cái nhìn nhất định về những gì con có thể làm trên trái đất, những gì con được phép làm trên trái đất, những gì con phải làm trên trái đất, và những ngã này có thể đã được củng cố hay điều chỉnh cho tinh vi hơn khi con tìm thấy con đường tâm linh.

Các thày đã có nói là khi con phát hiện một con đường tâm linh, con xem mình là một đệ tử tâm linh. Các thày cũng nói là có một giai đoạn phát triển rất dài khi đường tu tâm linh là một khái niệm hữu ích, xây dựng. Nhưng nếu trong thời gian hiện thân còn lại của con, con vẫn tiếp tục xem mình là một đệ tử thì sẽ tới một điểm nó không còn xây dựng nữa, bởi vì khái niệm đường tu ngụ ý: “Tôi ở một tầng cấp nào đó. Có một tầng cấp cao hơn tôi có thể leo lên nhưng tôi chưa lên đến đó.” Chẳng hạn con có thể nói: “Tôi đang ở tầng tâm thức thứ 88, có tất cả 144 tầng và tôi chưa ở tầng 144.” Tự thân câu nói này không thành vấn đề vì hiển nhiên con sẽ cần thời gian để lên đến tầng 144 và một số các con sẽ không lên đến đó cho tới khi con gần sẵn sàng rời bỏ hành tinh. Nhưng dù sao thì giữa tầng 88 với 144, có một số giai đoạn mà các thày đã đặt tên, chẳng hạn là quả vị Ki-tô. Có thể có một điểm khi con mang trong tâm một hình ảnh mình là một đệ tử đang tiến về hướng quả vị Ki-tô nhưng mình vẫn chưa đến đó. Nếu con mãi mãi bám giữ ý niệm bản ngã này thì làm thế nào con trở thành Ki-tô đang hiện thân được?

Nhưng này con yêu dấu, lại có nhiều ví dụ đệ tử của chân sư thăng thiên đã nghe nói về con đường quả vị Ki-tô và quyết định với tâm vỏ ngoài và tham vọng vỏ ngoài: “Phải, tôi đã là Ki-tô Hằng sống rồi đó.” Thế là họ xông ra ngoài, cho rằng họ phải làm những gì họ phải làm: phán xử sa nhân, đánh thức người khác, phóng tia sáng xanh vào người khác hay bất cứ gì khác. Thày không nói đến những chuyện như vậy mà thày nói đến thời điểm khi con đã tận dụng các dụng cụ mà các thày cho con, con đã chân thành nỗ lực khắc phục ngã gốc cùng nhiều ngã khác, cho nên con đã đạt đến một mức nào đó nhưng con vẫn cứ bám giữ một ý niệm bản ngã được tạo ra ở một mức thấp hơn. Ở mức trước đây, việc đặt quả vị Ki-tô làm mục tiêu là một điều chính đáng khi con chưa đến đó. Giờ đây con đã đạt đến một mức nào đó, ví dụ tầng 110. Có một cấp độ quả vị Ki-tô tương ứng với tầng này. Có một cấp độ quả vị Ki-tô tương ứng với mỗi tầng tâm thức từ 97 trở lên – mặc dù chúng ta có thể nói là sẽ tới điểm các cấp độ quả vị Ki-tô dần dần hoà quyện vào các cấp độ quả vị Phật. Nếu con đến tầng 110 mà vẫn còn giữ hình ảnh mình đã tạo ra ở tầng 95 thì hình ảnh này đang cầm chân con lại.

16.4. Công nhận quả vị Ki-tô của mình

Sẽ tới điểm con cần nhìn nhận, như sứ giả này ở một thời điểm đã sẵn sàng nhìn nhận là ông đã đạt được một cấp độ quả vị Ki-tô nào đó. Điều này không có nghĩa là ông rơi vào hoang tưởng cho rằng mình đã đến mức tối thượng, nhưng ông đã đạt được một mức nào đó và ông cần phải thực tế và công nhận điều này. Sự thể cũng giống như vậy đối với nhiều các con. Thật ra con đã đạt được một mức nào đó trên đường tâm linh nhưng con chưa dám thừa nhận vì con vẫn giữ ý niệm bản ngã con đã tạo ra ở mấy cấp thấp hơn điểm hiện thời của con.

Đúng, tất nhiên là luôn luôn có rủi ro con có thể làm vậy quá sớm khi con chưa hẳn sẵn sàng, nhưng chúng ta cần chấp nhận rủi ro này vì trên thực tế, chuyện xảy ra thường hơn là con không thừa nhận tiến bộ của mình. Điều thày muốn nói ở đây – một lần nữa để khai triển những gì Quan Âm đã giảng – là một số người xây dựng một ý niệm bản ngã vào thời điểm họ khám phá giáo lý lần đầu xong họ cứ nghĩ là họ phải đem nó theo mình. Đây là một ảo tưởng toàn diện và cũng rất nguy hiểm. Không có ai đã từng thăng thiên mà lại thăng thiên với cái ngã họ đã có ở khởi đầu kiếp đầu thai chót hay khi họ tìm thấy đường tu. Không có ai đã từng thăng thiên với ý niệm bản ngã của họ khi họ đạt đến tầng 144, vì hành động cuối cùng trước khi thăng thiên chính là để cho ngã chót cùng này chết đi và khắc phục ảo tưởng chót cùng này.

Tiến trình thăng thiên thật ra là tiến trình để cho hết ngã này tới ngã khác chết đi và sẵn lòng tái sinh vào một ý niệm bản ngã cao hơn. Để cho một cái ngã chết đi, con phải sẵn lòng chất vấn cái mà chúng ta có thể gọi là ảo tưởng, thậm chí cả sự nhận biết mà ngã dùng làm cơ sở. Con có thể nói là ở tầng 88, con đã thu hoạch một sáng ngộ mà con không có ở tầng 87. Đó là một sáng ngộ có giá trị, chỉ có điều đó không phải là sáng ngộ cuối cùng. Nếu con xây dựng một ý niệm bản ngã dựa trên sáng ngộ này, con không thể thực sự bảo rằng sáng ngộ này là một ảo tưởng, nhưng nếu con nghĩ đó là một sáng ngộ tối hậu nào đó, hay một cái ngã tối hậu mà con đã tạo dựng, thì chắc chắn đây là một ảo tưởng. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói mỗi lần con bước lên tầng tâm thức kế tiếp, có một cái ngã chết đi và một ngã khác sinh ra, nhưng con không nhất thiết phải ý thức điều này ở mỗi bước. Nhưng đúng là có những thời điểm con cần đứng lui lại và nhìn vào ý niệm bản ngã của mình. Và một trong những thời điểm này là khi con bắt đầu nhìn nhận là con đã đạt được, con đã chứng được một cấp độ nào đó của quả vị Ki-tô. Hiển nhiên cái ngã con có trước đó dựa trên ý tưởng rằng quả vị Ki-tô vẫn nằm đâu đó trong tương lai ở một mức cao hơn, cho nên ngã này phải chết đi. Và để ngã này chết đi, con phải thấy nó, thấy sự giới hạn của nó.

Giống như trường hợp Quan Âm đã giảng, nếu có ai đã xây dựng cảm nhận là mình cao trội, có thể họ sẽ rất khó lòng chất vấn cái ngã họ có. Đây là tại sao, tiếc thay, các thày chứng kiến một số đệ tử của chân sư thăng thiên bị kẹt cứng trong một ý niệm bản ngã nhất định và đơn giản không thể bước tới cho đến hết kiếp đó. Các thày rất muốn nhìn thấy điều này không xảy ra cho bất cứ ai đã nghe nói hay tìm thấy giáo lý. Có bảo đảm được không? Tất nhiên là không, nhưng ít nhất các thày đã nói ra rất rõ. Giáo lý đã được ban ra và các thày phải trao tự do cho giáo lý, phải trao tự do cho mọi người sử dụng giáo lý theo ý họ.

16.5. Hiện tượng “tiểu đạo sư”

Bây giờ có một chủ đề khác mà thày muốn đề cập ở đây là toàn bộ khái niệm về thời gian. Hôm qua thày đã đưa ra một số nhận xét về thời gian [Xem chương chót trong sách này] nhưng thày muốn nói thêm một chút về chủ đề này. Con có thể lấy nhiều góc nhìn khác nhau về một đề tài như thời gian. Con có thể mô tả nhiều cách khác nhau. Điều thày sẽ trao con ở đây chỉ là một cách thôi, không phải là cách tuyệt đối, chót cùng hay duy nhất.

Thời gian là gì? Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói thời gian không có sự hiện hữu khách quan. Nếu con lấy quyển sách Những kiếp sống của tôi, có rất rất nhiều yếu tố quan trọng trong sách này nhưng từ góc độ thày đang trình bày ở đây, yếu tố quan trọng nhất được đưa ra ở ngay phần giới thiệu, viết rằng: “Mọi người trên trái đất đều đang có một trải nghiệm chủ quan. Tất cả mọi vấn đề trên trái đất đều được gây ra bởi một số người muốn nới rộng trải nghiệm chủ quan của họ để nó trở thành có vẻ phổ quát do sự kiện người khác chấp nhận trải nghiệm chủ quan của họ thay vì chính trải nghiệm chủ quan của mình.”

Đây là điều con thấy lặp đi lặp lại suốt chiều dài lịch sử, rõ ràng và điển hình nhất trong các tôn giáo khi có ai đó đi theo một tôn giáo xong khởi xướng một cuộc thánh chiến để cải đạo mọi người khác, hay trong trường hợp cùng cực, sát hại những người không chịu cải đạo. Con cũng thấy một điều tương tự xảy ra trong số đệ tử của chân sư thăng thiên. Thày không chỉ đang nói đến mong muốn cải đạo người khác để người ta đi theo giáo lý chân sư, mà thày muốn nói đến sự kiện đôi khi các thày chứng kiến đệ tử của mình sử dụng một yếu tố trong giáo lý mà họ xem là rất quan trọng – mà họ xem là đã giúp họ hay có ý nghĩa đối với họ – rồi họ nắm lấy cái này và muốn người khác phải chấp nhận quan điểm này.

Một lần có một đệ tử của chân sư thăng thiên đã gọi đó là hội chứng “tiểu đạo sư”, qua đó người ta có xu hướng – sau khi đã theo học giáo lý được một thời gian – tạo ra một đẳng cấp nào đó hay có thể một bè phái nơi họ cảm thấy mình là đệ tử cao cấp, và họ tự xưng là một loại “tiểu đạo sư” với ý định tập hợp các đệ tử khác thành một đoàn môn đệ sẽ đi theo cách diễn giải và cái nhìn đặc thù của họ về giáo lý.

Thày không chê trách ai ở đây. Thật không thể tránh được chuyện này xảy ra trong bất kỳ phong trào tâm linh hay tôn giáo nào. Điều tự nhiên là một số đệ tử tinh tiến hơn bắt đầu chỉ dạy cho các đệ tử khác. Nhưng điều thày nói đến ở đây là nhiều người như vậy bước vào tâm thái chẳng khác gì cái tâm thái mà con thấy nơi mọi phong trào tôn giáo khi họ tìm cách cải đạo người khác. Con cũng gặp tâm thái này nơi các nhà khoa học duy vật tìm cách cải tạo người khác theo mình. Con chui vào tâm thái này khi con tự thuyết phục là cách mình nhìn giáo lý, nhìn cuộc sống, nhìn Thượng đế, nhìn khoa học hay bất kể gì khác là cách tối hậu hay cách đúng đắn duy nhất, cho nên nếu người khác chấp nhận đi theo quan điểm của mình thì sẽ tốt biết mấy cho họ. Này con, với tất cả những lời dạy mà các thày đã trao cho con, con phải có thể – và tất cả các con sẽ có thể nếu các con sẵn lòng – bước lui lại để nhận ra là cho dù con ở tầng tâm thức nào, thậm chí cả tầng 144, con vẫn đang có một trải nghiệm không tuyệt đối. Trải nghiệm của con không phải là phổ quát theo nghĩa là nó phải áp dụng cho mọi người.

Cho dù con ở tầng 144, thật không chính đáng nếu con cố khiến người khác phải sống đời họ dựa trên trải nghiệm của con. Trong phần giới thiệu sách cũng có nói là con có thể đạt tới điểm con không còn một trải nghiệm chủ quan theo nghĩa thấp, nhưng con vẫn đang có một trải nghiệm cá nhân, và lý do khá giản dị. Ở các tầng tâm thức thấp hơn, con trải nghiệm cuộc sống xuyên qua ngã vỏ ngoài và ngã này là một tập hợp tất cả ngã tách biệt kia. Ở các tầng thấp đó, con không có sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của con. Khi con bước lên cao hơn, con lột bỏ một số ngã vỏ ngoài này. Trải nghiệm của con ngày càng ít chủ quan hơn, ít bị pha màu hơn bởi các ngã tách biệt, bởi tâm thức tách biệt, bởi tâm thức nhị nguyên. Con ngày càng trở nên hòa điệu hơn với Hiện diện TA LÀ, nhưng Hiện diện TA LÀ của con không phải là một sinh thể phổ quát toàn vũ, đó là một sinh thể cá biệt.

Hiện diện TA LÀ trải nghiệm hoàn cảnh trên địa cầu xuyên qua cá thể đó. Hiện diện TA LÀ của con có một trải nghiệm về trái đất khác với Hiện diện TA LÀ của một người khác, và điều này hoàn toàn chính đáng, hoàn toàn ổn thỏa. Điều thày nói ở đây là thế này: Tới một điểm trên đường tu con sẽ cần xoay chuyển và nhìn nhận là người khác không nhằm mục đích có được cùng trải nghiệm như con đang có. Họ nhằm có trải nghiệm riêng của họ. Điều này không có nghĩa là con không thể nói chuyện với họ, tìm cách giúp họ hay tạo cảm hứng cho họ hay bất cứ gì khác, mà có nghĩa là tới một điểm con sẽ bước cao hơn và tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết, qua đó con không còn tìm cách áp đặt trải nghiệm cá nhân của mình lên người khác.

Cũng không có nghĩa là con cần, theo thành ngữ quen thuộc, “câm miệng lại” và không nói năng gì với người khác mà trái lại, thay vì cố thay đổi cách họ trải nghiệm cuộc đời, con chia sẻ trải nghiệm của con. Có một sự khác biệt – thày cũng biết là có khi điều này có vẻ không khác biệt gì hết hay sự khác biệt quá vi tế – nhưng có một sự khác biệt cơ bản giữa việc áp đặt trải nghiệm của mình lên người khác và việc chia sẻ trải nghiệm. Cách thứ nhất mang một yếu tố ép buộc, còn cách thứ hai thì không. Đây là một thử thách, một sự khảo hạch mà con cần vượt qua, và con có khả năng vượt qua với các giáo lý con đã có trong tay.

16.6. Không phải ai ai cũng muốn thoát khổ

Đến một điểm con sẽ chỉ đơn giản lột bỏ cái ngã đang cho con lòng ham muốn đó vì đó là một cái ngã phản ứng với các điều kiện trên trái đất. Các thày có nói, ví dụ con thấy con người đau khổ. Trước khi con đến đây như một avatar, con đã đoán chừng, con đã chờ đợi là nếu con chỉ cho mọi người cách khắc phục đau khổ thì họ sẽ đón nhận lời con và cố gắng thoát khổ. Lý do là vì con, như một avatar và dựa trên trải nghiệm của con, sẵn lòng khắc phục các giới hạn cùng niềm đau khổ của mình. Nếu có ai chỉ cho con cách nào thoát khỏi khổ đau, con sẽ sẵn lòng làm theo và con chờ đợi mọi người cũng giống như con. Một lần nữa, điều này dựa trên trải nghiệm của con. Việc chờ đợi người khác sẽ muốn thoát khổ là chuyện lô-gíc trên một hành tinh tự nhiên nhưng không áp dụng được trên một hành tinh phi tự nhiên.

Tại sao một số người trên địa cầu đau khổ? Tại vì họ chưa chán chê trải nghiệm khổ đau. Khi con bảo họ không được đau khổ và làm thế nào họ có thể chấm dứt đau khổ, họ không thấy nó can hệ đến họ. Đó là chính con đang cố gắng thúc ép trải nghiệm chủ quan của con (rằng họ không được khổ đau) lên họ. Tới một điểm con cần làm việc trên ngã này để nhìn thấy nó. Con buông nó ra, con từ bỏ mong muốn khiến người khác sống theo cách nhìn của con. Một khi con đã buông bỏ ngã này, con có thể bước lui lại một chút và nhận ra là bất cứ khi nào con cảm thấy một sự bó buộc nào đó trong cách mình quan hệ với người khác, bất cứ khi nào con cảm thấy một sự căng thẳng, thì đó là vì có một cái ngã. Ngã này khởi nguồn từ chính thái độ, chính lòng ham muốn thúc ép kinh nghiệm chủ quan của mình lên người khác để khiến họ phải sống cuộc đời của họ dựa theo trải nghiệm chủ quan của con, thay vì đơn giản chấp nhận rằng trải nghiệm chủ quan của con hoàn toàn có giá trị với con, nhưng trải nghiệm chủ quan của họ cũng hoàn toàn có giá trị với họ cho dù trải nghiệm này có là gì ở giai đoạn hiện thời của họ.

Thật ra không bao giờ cần thiết hay chính đáng để con bảo: “Trải nghiệm chủ quan của tôi sẽ tốt hơn cho người khác. Sẽ tốt hơn nếu họ có trải nghiệm của tôi, hay ít ra nếu họ sống đời họ theo trải nghiệm của tôi chứ không theo trải nghiệm của họ.” Việc một người có trải nghiệm chủ quan của một người khác không bao giờ là tốt hơn. Điều luôn luôn tốt hơn cho họ là họ có trải nghiệm chủ quan mà chính họ đang có, vì đây là cách duy nhất họ có thể tăng triển.

16.7. Thời gian là một trải nghiệm chủ quan

Hồi nãy thày đang bắt đầu nói về thời gian thì có vẻ như thày đã chệch sang đề tài ngã tách biệt và vấn đề con áp đặt trải nghiệm chủ quan của con lên người khác, nhưng thày đã nói gì chứ? Thày nói rằng thời gian là một trải nghiệm chủ quan, đó là sản phẩm của một trải nghiệm chủ quan. Thời gian, trong cách nhìn của con người trên trái đất, không phải là một hiện thực khách quan. Nó hoàn toàn là một trải nghiệm chủ quan, tất nhiên được tạo ra một cách tập thể suốt một thời gian rất dài. Con người đã bỏ ra rất nhiều năng lượng của lý trí-cảm xúc-bản sắc để tạo ra cái nhìn hiện thời về thời gian, và cái nhìn này có thể được xem như một ngã tách biệt có mặt trong tâm thức tập thể. Con người nghĩ rằng thời gian rất đường thẳng, rằng họ không thể thay đổi thời gian. Con không thể đi trở ngược thời gian, con không thể thay đổi quá khứ. Như các thày đã giảng, sa nhân muốn con tin là con không thể thoát ra khỏi các lỗi lầm con đã phạm phải trong quá khứ.

Có một trải nghiệm về thời gian đã trở nên rất phổ thông trên địa cầu và tại sao như thế? Thật sự là vì sa nhân đã muốn đem trải nghiệm chủ quan của chúng về thời gian rồi xuất khẩu nó, phóng chiếu nó lên mọi người trên trái đất, và phần lớn chúng đã thành công trong việc này. Đó là tại sao thật ra các phim ảnh, sách báo thách thức quan niệm của con người về thời gian phần nào chính đáng. Mặc dù con không thể chế tạo một cỗ máy vật lý để du hành thời gian như trong phim kể truyện người ta chế được cỗ máy vật lý để trở ngược về quá khứ, nhưng phần nào loại phim như vậy vẫn giúp thách thức cái nhìn rất cứng nhắc về thời gian mà người ta thường có.

Bây giờ câu hỏi là như sau. Phải, đúng là có một cái nhìn tập thể về thời gian nhưng con là một đệ tử tâm linh trưởng thành. Con đã tu tập rất nhiều, con đã phần lớn tách mình ra khỏi tâm thức tập thể. Đến một điểm con cần xem xét: “Đâu là cái nhìn chủ quan của tôi về thời gian, cái nhìn cá nhân của tôi về thời gian?” Hiển nhiên ở một mức cá nhân, con thấy là con đã làm một việc trong quá khứ và việc này đã tạo ra một số hậu quả mà con đem vào cái con xem là tương lai. Con mang quan điểm là hoàn cảnh hiện thời của con bị ảnh hưởng bởi quá khứ của con ở một mức độ nào đó. Thậm chí con có cả những giáo lý tâm linh sẽ củng cố cho quan điểm này, theo nghĩa là con đã tạo nghiệp trong tiền kiếp và nghiệp này đang tác động đến hoàn cảnh hiện thời của con. Rất nhiều người cảm thấy nếu có gì xảy ra cho họ: “Ồ, chắc hẳn đây là kết quả nghiệp chướng của tôi.”

16.8. Một cái nhìn cao hơn về nghiệp quả

Trong nhiều trường hợp, con yêu dấu, những gì xảy ra cho một đệ tử tâm linh không phải là kết quả nghiệp chướng cá nhân của con. Đó là kết quả của sự kiện con đang hiện thân trên một hành tinh phi tự nhiên rất dày đặc, rất hỗn tạp. Có rất nhiều chuyện có thể xảy ra do người khác gây ra, do hành động hay trạng thái tâm thức của họ gây ra, hay do một nghiệp chướng tập thể gây ra nhưng không phải do nghiệp chướng cá nhân của riêng con. Đó là tại sao như thày đã nói, có thể tới một điểm con sẽ lợi lạc nếu con bước lui lại và xem xét cái nhìn về bản thân mà con đã tạo ra dựa trên giáo lý tâm linh, ngay cả dựa trên giáo lý về nghiệp quả. Có thể con đã xây dựng cái nhìn: “Phải, tôi mang nghiệp từ tiền kiếp. Nếu có điều gì tệ hại xảy ra cho tôi, đó là do nghiệp này và tôi cần đọc thỉnh đọc chú hay tập yoga hay bất cứ gì khác hầu chuyển hóa nghiệp quả cho nó không còn nữa.” Nếu như con đã bước trên đường tu được khá lâu và đã thực sự thỉnh cầu đủ lửa tím để hoán chuyển toàn bộ năng lượng cấu tạo nghiệp chướng của con thì điều gì xảy ra? Có nghĩa chăng là con đã cân bằng nghiệp quả của con? À, con đã chuyển hóa năng lượng. Đó là một khiá cạnh của nghiệp quả, nhưng các chân sư kia đã dạy con điều gì về những hình ảnh con còn cầm giữ từ quá khứ?

Nếu con mang hình ảnh về bản thân là con chưa cân bằng hết nghiệp quả thì thật ra con vẫn chưa thoát khỏi nghiệp quả của con. Có lẽ vẫn có một cái ngã thực sự không muốn nhìn nhận là con không còn nghiệp nữa, vì ngã này lo sợ nếu có gì xấu xảy ra cho con, làm sao con sẽ giải thích được ngoại trừ đó là kết quả của nghiệp chướng? Con có thể rơi vào tình trạng khủng hoảng và tự hỏi tại sao Thượng đế lại để cho chuyện xấu kia xảy ra cho mình nếu con không có nghiêp quả. Con cho rằng lý do chuyện xấu xảy ra cho con là vì con đang bị trừng phạt về những việc xấu con đã làm trong quá khứ. Nhiều người suy nghĩ như vậy.

Nhưng con yêu dấu, dựa trên giáo lý các thày đã cho con, con có thể bước lên một bực và nhận ra là nhiều các con thật ra đã hoàn tất quá trình mà nhiều phong trào tâm linh, ngay cả các phiên bản về nghiệp ở Đông phương, đã mô tả là sự cân bằng nghiệp quả. Nếu có điều tệ hại xảy ra cho con, đó không phải là kết quả của nghiệp chướng cá nhân, không phải là kết quả một lầm lỗi con đã phạm phải, mà là sự kiện con sống trên một hành tinh phi tự nhiên rất dày đặc, rất hỗn tạp. Như các chân sư khác đã nói, con không thể nào tiên đoán chắc chắn và chính xác các sự việc xảy ra. Con hãy dùng câu chuyện ẩn dụ về sự khác biệt giữa viên đạn từ cây súng trường và chùm đạn bắn ra từ súng shotgun. Con không thể đoán trước đường bay của một hạt nhỏ trong nguyên chùm đạn từ lúc nó được bắn ra cho đến lúc nó chạm mục tiêu. Không thể nào tiên đoán được vì quá nhiều hạt nhỏ đang chạm vào nhau, giao với nhau và biến đổi nhau và vì thế chúng cũng đổi đường bay.

16.9. Vũ trụ không phải là một cỗ máy

Điều tương tự cũng xảy ra trong hiện tại. Con không thể bảo là một người đã cân bằng nghiệp quả cho nên không có gì tệ hại được phép xảy ra cho họ. Vì con vẫn đang sống trong một cơ thể vật lý trong một môi trường nhất định, có một mô thức sóng năng lượng vô cùng phức tạp được tạo ra bởi người khác và được duy trì bởi người khác. Không có cách nào, ngay cả đối với một chân sư thăng thiên, để tiên đoán chính xác biến cố nào sẽ xảy đến trong phần đời còn lại của con. Mọi sự quá hỗn loạn, quá bất ngờ đến độ nhiều nhà khoa học phải gọi đó là những “biến số ẩn giấu”. Đối với một chân sư thăng thiên, các biến số này không ẩn giấu. Chỉ có điều, con yêu dấu, vũ trụ không phải là một chiếc đồng hồ, nó không phải là một cỗ máy. Có thể có một hoàn cảnh mà các thày là chân sư thăng thiên có thể nhìn thấy tất cả mọi yếu tố góp phần vào đó, nhưng các thày vẫn không biết được chính xác một người sẽ chọn làm gì. Tất nhiên các thày có thể thấy được xác suất họ sắp sửa chọn làm cùng một việc mà họ đã chọn làm suốt 50 kiếp vừa qua, nhưng các thày không thể biết chắc và do đó không thể tiên đoán chính xác phần còn lại của kiếp này sẽ mang hình dạng ra sao. Nó tùy thuộc vào chọn lựa của con cũng như chọn lựa của nhiều người khác, nó tùy thuộc vào cách tất cả mô thức sóng năng lượng vô cùng phức tạp này sẽ tương tác như thế nào, giao thoa như thế nào với nhau.

Thật không có cách nào mà bảo được trên một hành tinh như trái đất là nếu con không còn nghiệp quả thì không có gì xấu xa có thể xảy đến cho con trong phần còn lại của kiếp này. Chuyện này đơn giản không thể có. Cho nên con cần buông bỏ ngã này. Con cần chấp nhận: “Tôi đã cân bằng nghiệp quả của tôi,” xong con cũng cần chấp nhận: “Vì tôi đang sống trên một hành tinh như trái đất cho nên có thể một chuyện gì đó sẽ xảy ra cho tôi mà không phải là nghiệp của tôi. Nhưng tôi sẽ không trách Thượng đế, tôi sẽ không tự trách mình, tôi sẽ không trách ai hết. Tôi sẽ chấp nhận nó như nó là, sử dụng nó tốt nhất và bước đi tiếp.”

Điều này đòi hỏi một sự xoay chuyển, và đây cũng là một phần của sự chấp nhận mình là một sinh thể Ki-tô. Con yêu dấu, khi Giê-su khởi sự kiếp đầu thai chót của thày, thày có mang một ý niệm bản ngã nào đó. Xong thày đã tuần tự bồi đắp và tinh chế ý niệm bản ngã này, cho nên khi thày bắt đầu sứ vụ công chúng, thày đã làm vậy với một ý niệm bản ngã nào đó. Dựa trên bản ngã này, thày đã có một số chờ đợi như khi thày bảo là không có gì thật sự tệ hại có thể xảy ra cho mình. Và nếu có thì Thượng đế sẽ gửi thiên thần xuống làm phép lạ để giải cứu thày khỏi sa nhân. Giê-su đã giải thích đây chính là cái ngã mà thày đã phải cho phép chết đi khi thày treo thân trên thập tự giá.

Con không phải chờ cho đến khi con mãn thời gian hiện thân này để buông bỏ những ngã đó. Con có thể khởi sự làm vậy ngay bây giờ. Con có thể tới điểm thực sự chấp nhận là con đã đạt được một cấp độ quả vị Ki-tô nào đó, và nếu có việc gì “xấu xa” xảy ra cho con thì rất có thể đây là một phần con đường quả vị Ki-tô của con khi con phải kinh qua trải nghiệm đó, phải chứng tỏ một cách ứng xử cao hơn và không dính mắc. Con phải chứng tỏ làm thế nào con có thể ứng phó với trải nghiệm này mà không còn ngã gốc hay những cái ngã con đã khắc phục.

16.10. Thời gian có và cũng không có

Vậy thời gian là gì? Tại sao thày đã nói là thời gian không có? À, là vì thời gian không có một sự hiện hữu khách quan nào, ít ra theo cách nhìn của mọi người. Bây giờ để minh họa cho điểm này, hãy để thày trình bày một điểm thày đã gợi ý trước đây. Theo truyền thống, hình học nói rằng có ba chiều kích trong không gian: chiều dài, chiều rộng, chiều cao. Con có hệ thống tọa độ truyền thống với ba trục và con bàn về một thế giới ba chiều nơi con có thể di chuyển. Con có thể đi bộ ở lầu này, đi tới và đi lui, nhưng con cũng có thể đi lên lầu trên nếu có một lầu trên, hay con có thể đi xuống lầu dưới. Con có thể di chuyển trong cả ba chiều.

Bây giờ cũng theo truyền thống, các nhà khoa học bảo rằng thời gian là chiều thứ tư, nhưng họ cũng nói thời gian hoàn toàn đường thẳng cho nên con không thể đi ngược thời gian. Tất nhiên con không thể nhảy về phía trước bước vào tương lai. Thực tế là từ nhãn quan thăng thiên, các thày nhìn thời gian cũng giống như các chiều kích kia tức là một chiều kích không đường thẳng. Con có thể đi tới hay đi lui trong thời gian. Con hãy tưởng tượng con đang đứng trong một quảng trường rộng lớn, một mặt phẳng rộng lớn, và con bắt đầu bước tới theo một hướng. Bây giờ con tưởng tượng có ai đến nói với con: “Bạn sẽ không bao giờ đi lùi lại được, bạn chỉ có thể bước tiếp theo cùng một hướng.” Phải, đó là điều đã xảy ra cho thời gian. Tất nhiên con cần hiểu điều này thấu đáo. Ví dụ con đến một thành phố. Có một quảng trường ngay trung tâm thành phố. Con đang đứng giữa quảng trường rồi bắt đầu bước tới theo một hướng, giả sử con bước một trăm mét. Con quẹo ở góc phố và quang cảnh con vừa thấy hồi nãy bây giờ không còn nữa, nó khác đi rồi. Con đã di chuyển vị trí của con trong không gian cho nên con có một tầm nhìn khác, một quang cảnh khác so với khi con cất bước. Con đứng ở nơi con đang đứng trong không gian.

Con có thể đi trở về điểm khởi đầu nhưng con không thể trở về đó chỉ bằng một bước nhảy. Con phải đi một số bước để về đó. Con cũng có thể di chuyển về một phía khác nhưng một lần nữa, con không thể nhảy xa đằng trước. Con phải đi từng bước một. Chúng ta có thể nói là ở bất kỳ điểm nào trong không gian, con đều có một tầm nhìn nhất định, một quang cảnh nhất định, thậm chí một ý niệm bản ngã nhất định. Có một cái ngã, một ý niệm bản ngã dựa trên điểm con đang đứng ngay bây giờ và những gì con có thể nhìn thấy. Về cơ bản, hiện tượng này cũng xảy ra y như vậy trong thời gian – thời gian cũng y như vậy trên cơ bản. Ở bất cứ thời điểm nào con cũng đứng ở một vị trí nhất định trên một dòng thời gian – nếu có thể gọi như vậy – nhưng thật sự đó là một điểm trong không gian của thời gian, một điểm trong chiều kích thời gian. Bất cứ lúc nào con cũng ở một vị trí đặc thù và ngay lúc đó con có một ý niệm bản ngã đặc thù.

Bây giờ sự khác biệt trong chiều kích thời gian là như sau: Giả sử con khởi đầu nơi quảng trường đó ở trung tâm thành phố. Con có một chiếc máy ảnh có khả năng chụp hình chính xác những gì mắt con thấy đằng trước khi đầu con hướng về một hướng. Con đứng đó, con chụp hình. Con bước đi một bước, con lại chụp hình và tấm hình cho thấy nhãn quan của con đã thay đổi như thế nào. Tất nhiên quang cảnh sẽ không khác lắm, tuy nhiên với mỗi bước đi nếu con cứ tiếp tục chụp hình thì sau khi con đi được một trăm mét chẳng hạn và đã quẹo quanh góc phố, hình chụp đã thay đổi khá nhiều. Bây giờ giả sử con mang theo con tất cả những hình chụp này, để cái nhìn của con về nơi con đang đứng trong không gian bị tác động bởi tất cả những cái nhìn trước đây mà con đã có trong không gian.

Trong cốt yếu, đây chính là điều con làm trong chiều kích thời gian. Đã có một thời điểm khi con hình thành một cái ngã, chẳng hạn ngã gốc. Từ đó trở đi, con đã mang ngã này theo con và ngã này đã thiết lập một khuôn khổ quy định cách con nhìn cuộc sống trên trái đất, cách con nhìn bản thân con trên trái đất. Thay vì chụp một tấm ảnh mới cho mỗi lúc, cho mỗi bước, con đã không ngừng bồi đắp thêm cho tấm ảnh cũ. Và điều này quyết định cách con nhìn chính con và cuộc đời trong giây phút bây giờ, có nghĩa là trên cơ bản, con đã đem theo con một cái gì đó từ quá khứ, và con yêu dấu, chính cái này là ý nghĩa của thời gian đối với con.

16.11. Cỗ máy du hành thời gian của riêng con

Thời gian chủ quan của riêng con chính là các hình ảnh được tạo ra trong quá khứ mà con vẫn mang theo con. Đây là tại sao từ một nhãn quan thăng thiên, các thày thấy được thời gian chỉ là một chiều kích khác và mình có khả năng di chuyển trong chiều kích này. Con có thể học cách di chuyển trong chiều kích này. Như Chân sư MORE có nói, các thày đã cho con một cỗ xe vượt thời gian với giáo lý của các thày. Các thày đã cho con khả năng đi trở ngược và nối kết lại chẳng hạn với hình ảnh mà con đã tạo ra trong chấn thương nhập đời hay bất kỳ hình ảnh nào con tạo ra trong một kiếp trước. Con có thể nhận biết hình ảnh đó, thấy rõ nó đã tạo ra một ngã tách biệt, và con để cho ngã chết đi mà không cố giải quyết hoàn cảnh con đã không thể giải quyết vào lúc đó. Con không thay đổi gì hết trong cõi vật lý. Con chỉ đơn giản để cho ngã chết đi, và trong tiến trình chót cùng, con nhận ra có một hình ảnh do ngã này cầm giữ và con tẩy xóa hình ảnh này đi, con tẩy xóa ký ức này đi.

Đấy là một cỗ máy vượt thời gian. Đấy là du hành trong thời gian. Tất nhiên khi con đạt đến các tầng nhận biết cao hơn cùng các tầng quả vị Ki-tô cao hơn nữa, con sẽ bắt đầu thoáng nhìn thấy một số hoàn cảnh tương lai. Nhiều các con đã có cái nhìn hé thoáng về một hoàn cảnh, hay con gặp những hoàn cảnh mà con có cảm tưởng mình đã gặp rồi trong quá khứ. Đột nhiên con nhận ra là con ở trong một tình huống vật lý mà con đã nhìn thấy trước đây trong giấc mơ hay trong khải tượng. Đây là một ví dụ làm thế nào con cũng có thể du hành vào tương lai. Có một số trường hợp việc nhìn thấy trước tương lai sẽ hữu ích và thích hợp đối với một sinh thể Ki-tô, tuy nhiên đây là một khả năng con cần sử dụng thận trọng. Thật không có lý do chính đáng nào khiến con muốn biết tất cả mọi sự sẽ xảy ra cho con trong thời gian hiện thân còn lại của con, vì như các thày có nói, làm thế nào con tăng triển từ một tầng tâm thức lên tầng cao hơn? Con tăng triển bằng cách đáp ứng các tình huống dựa trên mức tâm thức hiện thời của con nhưng con vẫn sử dụng tình huống này để với lên một tầm nhìn cao hơn – đó chính là cách con tăng trưởng.

16.12. Sống trong hiện tại khi hiện tại là một khoảng thời gian

Có một lý do khác nữa khiến con phải thận trọng khi dùng khả năng này. Giả sử con đang có một viễn quan về những gì sẽ xảy ra trong mười năm nữa, một tình huống sẽ xảy ra mười năm nữa. Con có thể lấy ví dụ của Giê-su có khải tượng là mình sẽ bị đóng đinh ở thành Jerusalem. Liệu khải tượng này về tương lai có được tạc vào đá hay không? Các thày chẳng đã nói với con là quá khứ không được tạc vào đá và con có thể đi trở ngược để thay đổi nó hay sao? Vậy làm sao tương lai có thể tạc được vào đá? Giữa thời điểm bây giờ và mười năm nữa, con sẽ kinh qua rất nhiều trải nghiệm, rất nhiều bước. Chính con sẽ lấy nhiều quyết định và người khác cũng sẽ lấy nhiều quyết định. Mặc dù con có thể di chuyển trong chiều kich thời gian và hé thấy tương lai, nhưng con không thể biết được điều này sẽ trở thành hiện thực. Đó là tại sao việc nhìn thấy tương lai rồi tin tuyệt đối nó sẽ xảy đến là một điều phần nào phản xây dựng, thậm chí còn nguy hiểm là đằng khác. Rất có thể con sẽ có những quyết định và người khác cũng có những quyết định sẽ chuyển đổi phương trình, chuyển đổi sự tương tác vô cùng phức tạp giữa các sóng năng lượng, khiến cho những gì con hé thấy không trở thành hiện thực. Nói cách khác, nếu con nhìn thấy tương lai thì nó sẽ chỉ xảy ra nếu không có gì thay đổi.

Nhưng trên một hành tinh phi tự nhiên, con có thể đoan chắc là có gì đó sẽ thay đổi, cho nên tấm hình chụp về tương lai mà con đang có rất có thể sẽ không còn chính xác nữa trong vòng mười giây. Vậy tại sao con lại cần đến nó? Tại sao con lại muốn có nó? Thật sự khi con càng bước lên cao hơn trên đường tu, con sẽ càng bớt quan tâm đến tương lai, con càng ít mong muốn biết rõ chuyện gì sẽ xảy ra trong tương lai. Nhiều người đạt đến một cấp độ quả vị Ki-tô hay quả vị Phật nào đó không còn quan tâm đến quá khứ, không còn quan tâm đến tương lai. Họ chú tâm vào hoàn cảnh ngay trước mặt, không cứ là giây phút hiện tại như một khoảnh khắc trong thời gian, mà vào hoàn cảnh hiện thời của họ và hoàn cảnh này có thể kéo dài một khoảng thời gian. Chẳng hạn nếu con cố đạt một mục tiêu như xây một căn nhà chẳng hạn, con không thể xây nhà trong giây phút hiện tại. Con không thể xây nhà nếu con sống trong hiện tại và chỉ chú tâm vào khoảnh khắc hiện tại. Tất nhiên con không bàn đến quá khứ xa xôi hay tương lai xa xôi. Con quyết định: “Tôi sẽ khởi sự tiến trình dẫn tôi đến việc xây căn nhà này.” Rồi có thể con sẽ tốn một năm để xây căn nhà. Nhưng bây giờ con đã kinh qua tiến trình này được ba tháng và con vẫn có thể nhìn trở ngược thời gian và bảo: “Đây là cách tôi đã hoạch định ba tháng trước đây.” Con vận hành trong một khoảng thời gian kéo dài một năm để xây căn nhà.

Đó là tại sao thày nói là con không nhất thiết, như một sinh thể tiên tiến, sống trong hiện tại và hiện tại này là một khoảnh khắc. Con có một khoảng thời gian để làm việc nhưng con không bị gánh nặng của những sự việc xảy ra hai triệu năm trước hay trong kiếp trước hay trong tuổi thơ ấu. Con không vẫn đổ lỗi cho cha mẹ đã nuôi con như thế nào khi con còn nhỏ. Con không quan tâm đến những gì sẽ xảy đến trong mười năm nữa. Con ngộ ra một điều, con ngộ ra tinh túy của những gì các thày đã dạy con. Con không ở đây để hoàn thành một mục tiêu vật lý đặc thù nào. Mục đích đời con không phải là xây căn nhà kia. Mục đích của việc xây nhà là để cho con một trải nghiệm. Thật chẳng có gì quan trọng nếu con xây căn nhà rồi hai năm sau có trận động đất phá sập hoàn toàn, vì con vẫn đã có được trải nghiệm xây dựng căn nhà. Nếu căn nhà bị động đất phá hủy thì con lại có thêm chính trải nghiệm này.

Con có thấy không, con yêu dấu, sẽ tới một điểm con đã khắc phục những cái ngã muốn kiểm soát mọi khía cạnh của đời con và do đó cũng muốn có khả năng kiểm soát tương lai. Có một cái ngã rất rất quan tâm đến chuyện kiểm soát tương lai vì ngã này đã được thiết kế, được lập trình để đảm bảo là con không bao giờ gặp lại trải nghiệm đau đớn con đã gặp trong quá khứ. Cho nên ngã này muốn kiểm soát tương lai để con có thể tự bảo vệ khỏi mọi chuyện xấu xa xảy đến cho mình. Một khi con buông bỏ nó cùng những cái ngã khác, con thấy rõ là con đang ở trên một hành tinh phi tự nhiên. Thật chẳng nghĩa lý gì trên một hành tinh phi tự nhiên mà lại cố sống cùng loại đời sống mà con đã quen sống trên một hành tinh tự nhiên. Trên hành tinh tự nhiên, con có thể xây một căn nhà và nó sẽ ở đó vĩnh viễn. Không có rủi ro động đất, hỏa hoạn, bão lụt hay bất cứ chuyện gì có tiềm năng phá hủy nhà con, nhưng trên hành tinh phi tự nhiên sẽ không như vậy. Cho nên con vẫn có thể quyết định: “Tôi muốn có trải nghiệm xây nhà ở đây trên trái đất,” nhưng khi đó, con sẽ mở tâm để nhận ra là trong trường hợp căn nhà bị phá hủy – và tất nhiên thày không bảo là căn nhà sẽ bị phá huỷ – thì đây chỉ là thêm một loại trải nghiệm con có thể có trên địa cầu. Do đó con có thể nói: “Ồ, quả là bổ ích khi tôi trải nghiệm chính mình trong hoàn cảnh này khi căn nhà của tôi bị phá tan tành.” Đây chỉ là một trải nghiệm khác, một cơ hội khác để con là chính con bất kể điều kiện gì trên trái đất.

16.13. Tự do trải nghiệm cuộc sống

Con thấy đó, con yêu dấu, tới một điểm con sẽ bắt đầu xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Xuôi chảy với Dòng sông sự Sống không có nghĩa là không có gì xấu xa xảy ra cho con – con không thể bị đau ốm, con không thể bị tan nát nhà cửa, con không thể bị mất tiền bạc, con không thể thế này, không thể thế kia – mà thật ra nó có nghĩa là con sẽ không có một trải nghiệm tồi tệ nào, bởi vì cho dù điều gì xảy ra, con cũng không trải nghiệm nó xuyên qua cái ngã tách biệt phải xét đoán mọi thứ là tốt hay xấu. Đấy là khi con tự do xuôi chảy với Dòng sông sự Sống do con không có định kiến nào về những gì phải hay không được xảy ra. Con hãy lấy ví dụ tình cảnh của Giê-su khi thày bảo các tông đồ là thày sẽ đi Jerusalem, sẽ gặp khổ nạn, sẽ bị trấn áp và đóng đinh. Peter nói với thày: “Xin ngài tránh xa, chuyện này sẽ không xảy ra đâu.” Tại sao Peter lại nói như vậy? Vì ông có một ngã tách biệt với một cái nhìn rất đặc biệt, một cái nhìn tôn thờ thần tượng về những gì phải xảy ra hay không được xảy ra cho Ki-tô Hằng sống. Đây là một cái nhìn hoàn toàn chủ quan mà Peter đang cố phóng chiếu lên Giê-su, và vì Giê-su ở một mức quả vị Ki-tô cao hơn Peter nên thày đã từ chối tuân theo hình ảnh chủ quan của Peter. Để giúp Peter bứt ra khỏi hình ảnh chủ quan này, thày mới nói: “Lùi ra sau ta, Satan.”

Theo một nghĩa nào đó, con có thể mô tả tâm thức Satan là khi con phóng chiếu một hình ảnh chủ quan lên người khác và muốn họ chối bỏ trải nghiệm chủ quan của riêng họ để hoặc họ có trải nghiệm của con – mà tất nhiên họ không thể thực sự có được – hoặc ít ra họ sống cuộc đời họ dựa trên trải nghiệm chủ quan của con. Đến một điểm con sẽ khắc phục cái ngã cứ muốn đánh giá từng trải nghiệm, từng sự việc xảy ra cho mình theo thang điểm tốt hay xấu, đúng hay sai, được hay không được xảy ra. Con không còn sợ hãi những gì không được xảy ra. Con sẵn lòng xuôi chảy với bất kỳ tình huống nào xảy đến mà con nhận ra là không thể tránh được.

Bây giờ nếu con nhìn lại một tổ chức của chân sư thăng thiên trước kia, con có một vị sứ giả và trong tổ chức hầu hết mọi người đều xem bà đã đạt được một tầng tâm thức rất cao. Nhiều người đã hành xử đối với bà y như Peter đã hành xử đối với Giê-su. Họ phóng chiếu một cái nhìn lên bà về những gì phải hay không được xảy ra. Thế rồi chuyện gì đã xảy ra? Bà lâm trọng bệnh và nhiều người đâm ra bối rối, xốn xang, tức giận về điều xảy ra. Họ đã có một cái nhìn là bà phải hướng dẫn họ cho hết phần còn lại của đời họ, phải giúp họ bước trên đường tu mà không phải nhận trách nhiệm về bản thân vì họ chỉ cần đi theo chân đạo sư.

Thế rồi khi bà không còn khả năng làm công việc này nữa, họ nổi cơn phẫn nộ và vô cùng xét đoán. Một số còn viện cớ này để bác bỏ cả đường tu, họ từ chối bước đi tiếp trên đường tu, họ quay trở về lối sống ăn chơi, lối sống hưởng thụ, và họ lại làm tất cả những thứ họ đã nhịn không làm suốt một thời gian dài. Con yêu dấu, tại sao lại có chuyện như vậy? À, là vì như các thày đã gợi ý trước đây, có quá nhiều đệ tử không sẵn lòng chuyển bước đi tiếp. Cho nên đây là một cách để bắt buộc họ phải đương đầu với một điều trong tâm họ mà họ đã không sẵn lòng đương đầu cho tới nay.

16.14. Để cho thời gian co sụp

Để quay lại điểm đầu, trải nghiệm chủ quan của con về thời gian dựa trên bất kỳ ngã nào con đã tạo ra trong quá khứ mà con vẫn mang theo con, vì chúng đang ảnh hưởng đến cách con nhìn bản thân và cuộc sống trong giây phút hiện tại. Chúng cũng ảnh hưởng đến những gì con nghĩ về tương lai. Nếu con nhìn thấy tương lai của mình ngay bây giờ, đó sẽ là một tương lai dựa trên các ngã tách biệt con đang có ngay bây giờ và cách chúng ảnh hưởng tương lai của con. Khi con bắt đầu vứt bỏ các ngã này đi thì ngay lúc đó con thay đổi phương trình tương lai của con. Con cũng đang thay đổi quá khứ của con. Theo một nghĩa nào đó, con đang triệt tiêu, con đang tẩy xóa, con đang xóa sạch quá khứ của con.

Các thày đã có nói là con không thể nào thăng thiên trong quá khứ. Con cũng không thể thăng thiên trong tương lai. Con chỉ có thể thăng thiên trong hiện tại. Điều gì xảy ra khi con ở tầng 144 và như các thày đã giảng, con đứng đó và chỉ cần một bước nữa thì con sẽ bước vào cõi thăng thiên? À, ngay lúc đó con cần nhìn lại trái đất, con cần nhìn xem có bất cứ gì níu kéo con trở về đó hay không. Cái có thể níu kéo con trở về đó là bất cứ dính mắc nào con có, bất cứ ngã nào, bất cứ gì từ quá khứ mà con cảm thấy chưa được giải quyết. Đó chính là quá khứ của con đang kéo con về. Đằng khác nếu con có bất cứ gì trên trái đất mà con chưa làm, chưa hoàn tất, bất cứ gì mà con muốn làm, muốn trải nghiệm, thì cái đó là tương lai của con đang kéo con về trái đất.

Con thấy đó, để có thể thăng thiên, con phải đạt tới điểm không còn quá khứ nào trên địa cầu vì không có gì chưa giải quyết mà con kéo lê theo con. Đồng thời, con không có tương lai nào trên địa cầu vì con không có viễn kiến muốn làm bất cứ gì trên địa cầu. Khi, nếu có thể gọi như vậy, dòng thời gian của sự có mặt của con trên trái đất co sụp lại – sự co sụp của một hàm sóng, theo từ được dùng trong vật lý lượng tử – và khi thời gian không còn kéo dài được nữa, tức là không có quá khứ, không có tương lai và thời gian co sụp lại thành một khoảnh khắc độc nhất, thì đó chính là khoảnh khắc con thăng thiên. Đây mới thực sự là ý nghĩa tối hậu của câu nói: “Thời gian không có, thời gian không còn nữa.”

16.15. Làm hòa với việc mình ở đây

Làm thế nào con có thể dùng các lời dạy này để làm hòa với việc mình ở đây trên địa cầu? À, tự thân các lời dạy này có thể giúp con xoay chuyển tầm nhìn của con. Để thày lấy ví dụ một trải nghiệm mà sứ giả này đã có khi ông còn nhỏ và ông kinh qua một trải nghiệm rời khỏi thân xác (out-of-body experience). Ông đã bước ra ngoài cơ thể của ông, đi vào một đường hầm rồi một vùng ánh sáng, sau đó ông trở lại trong cơ thể. Ông nhận ra là mặc dù trải nghiệm này vô cùng thâm sâu, ông không có nhu cầu lặp lại. Trải nghiệm này đã chứng tỏ cho ông – không phải về mặt lý thuyết mà ở một mức độ trải nghiệm – là có gì đó vượt khỏi thế giới vật chất, và cái đó giúp ông ngộ ra là mình sẽ không mãi mãi ở lại trong thế giới vật chất. Cho nên ông đã từ bỏ nhu cầu cố gắng có thêm trải nghiệm tâm linh, và kể từ đó ông đã không làm bất cứ gì để có trải nghiệm tâm linh. Có một số trải nghiệm tâm linh đã xảy ra tự phát nhưng ông chưa bao giờ nỗ lực hay cưỡng ép để có trải nghiệm như vậy. Con có thể làm giống như thế.    

Con có thể xoay chuyển và ngộ ra là sau khi con thăng thiên, thời gian mà con chứng kiến trên địa cầu sẽ không áp dụng cho con nữa. Theo nghĩa đen, con có cái người ta gọi là sự vĩnh hằng, nhưng đó không thật là vĩnh hằng bởi vì ở cõi thăng thiên luôn luôn có sự tiến bộ. Con có một khoảng thời gian dài gần như vô lượng so với khoảng thời gian con có trên trái đất. Ngay cả khi con nhìn vào chiều dài hai triệu năm con đã sống trên trái đất, thời gian con có ở cõi thăng thiên dài hơn vậy một cách bất tận.

Con có tiềm năng làm cuộc xoay chuyển là nói: “Tại sao tôi lại vội rời bỏ nơi đây đến như vậy? Có lẽ chăng tôi muốn trải nghiệm cảm giác ở cõi thăng thiên là như thế nào?” Phải, nhưng nếu con có nguyên một vĩnh hằng để trải nghiệm cõi thăng thiên và con chỉ có một thời gian giới hạn trên địa cầu, tại sao con lại vội vã lánh xa địa cầu để trải nghiệm những gì con sẽ dư thì giờ trải nghiệm? Tại sao con không làm hòa với việc mình ở đây trên trái đất, biết rằng mình sẽ chỉ ở lại ngắn ngủi, và sau đó con nói: “À, vì tôi chỉ có một thời gian hạn chế trên địa cầu, tại sao tôi không tận dụng tốt nhất thời gian tôi có? Tại sao tôi không tìm kiếm những trải nghiệm tốt đẹp nhất mà tôi có thể có trong thời gian sót lại trên địa cầu, thay vì cứ luôn cảm thấy như thể mình bị chậm trễ và phải rởi khỏi nơi đây cho bằng được?”

Con yêu dấu, các thày đã nói điều này trước đây rồi. Có những chân sư đã thăng thiên (và họ đã cần thăng thiên trong một thời hạn nào đó) nhưng họ đã nhìn lại địa cầu từ cõi thăng thiên và nghĩ: “À, ước gì tôi đã thong thả, ước gì tôi đã có nhận biết để vui hưởng cuộc sống trên địa cầu trọn vẹn hơn, vui hưởng các trải nghiệm tôi có thể có, vui hưởng mình là chính mình trong các hoàn cảnh mình sống qua trong cõi vật lý.” Thày hy vọng một số các con sẽ được cảm hứng từ sự kiện này để sử dụng cuộc sống tối đa hầu con không nghĩ như thế sau khi thăng thiên.

Thày cũng có thể nói là con càng an bình với việc mình ở địa cầu thì con sẽ càng tận dụng được trải nghiệm của mình, càng tác động mạnh mẽ đến tâm thức tập thể, càng kéo tâm thức tập thể đi lên. Đương nhiên con sẽ kéo tâm thức tập thể đi lên khi con thăng thiên, nhưng thày có thể cam đoan với con là sức kéo của con sẽ mãnh liệt hơn gấp bội khi con vẫn còn điểm trụ neo của một cơ thể vật lý trong bát cung vật lý, song song với một mức nhận biết cao hơn khi con đón nhận trọn vẹn việc mình ở đây, mình an bình, mình vui hưởng cuộc sống ở đây trên địa cầu.

Con yêu dấu, như chính thày đây sau khi chứng ngộ dưới cây Bồ đề và vượt qua thử thách của quỷ Mara, thày cũng đã đạt tới điểm có thể vui hưởng trọn vẹn việc mình ở đây trên trái đất. Cám dỗ của Mara là gì? Đó là thày phản ứng lại chúng, khiến thày không thể an bình trọn vẹn, không thể là chính mình trọn vẹn, không thể vui hưởng trọn vẹn mình là chính mình trên trái đất do tất cả các điều kiện đó. Trong những năm chót của thày khi thày giảng dạy, thày đã có một cảm nhận liên tục là mình vui hưởng sự trải nghiệm các tình huống trải bày ra trước mắt mình trong cõi vật lý, vui hưởng việc tương tác với các đệ tử, nhìn thấy đệ tử tăng triển hay không tăng triển cho dù trường hợp của họ là gì. Thày không có chủ đích. Thày không có tiếc nuối. Thày không có một ý định nào về những gì phải xảy ra. Thày chỉ vui hưởng là bản thân mình trong bất kỳ hoàn cảnh nào thày chứng kiến trong cõi vật lý. Con yêu dấu, đó là một niềm vui rất lớn. Và điều này cũng có nghĩa là tất nhiên, thày không có hối tiếc nào về quá khứ.

16.16. Không tiếc quá khứ, không sợ tương lai

Chủ đề chót mà thày muốn đề cập – và thày biết thày đã lạm dụng sự kiên nhẫn của con rồi đó – nhưng con thấy không, mục đích đưa ra bài truyền đọc dài dòng này là để dạy con về tính kiên nhẫn. Thày không thể làm vậy một cách lý thuyết. Con phải trải nghiệm. Liệu con có đang vui hưởng trải nghiệm mà con đang có, trải nghiệm chính con đang lắng nghe bài truyền đọc của Phật? Con có vui hưởng trải nghiệm này không? [cử tọa: “Có.”] À, riêng thày chắc chắn đang vui hưởng trải nghiệm trao truyền bài giảng này cho con.

Chủ đề chót của thày. Quá nhiều đệ tử tìm thấy một giáo lý của chân sư thăng thiên rồi nghĩ: “Ồ, tại sao tôi đã không tìm thấy giáo lý này sớm hơn? Tôi đã lãng phí bao nhiêu thời giờ. Tôi đã đến tuổi này rồi, tôi chỉ còn bấy nhiêu năm nữa thôi. Tại sao tôi đã không tìm ra giáo lý sớm hơn?” Xong họ nói: “Bây giờ tìm thấy giáo lý rồi, tôi cần tận dụng mỗi giây phút trong ngày để đọc chú và theo đuổi tăng triển tối đa.” Nói chung, họ quên không vui hưởng hiện tại, vui hưởng trải nghiệm của mình. Con yêu dấu, điều này liên quan đến một chủ đề rộng lớn hơn nhiều, là khi con bắt đầu suy nghĩ trong viễn quan dài hạn của một người avatar rằng có lẽ con đã ở đây hai triệu năm rồi. Con đã kinh qua đủ mọi trải nghiệm, làm thế nào con có thể tránh chuyện hối tiếc quá khứ? Làm thế nào con có thể tránh chạm đến chấn thương nhập đời và không hối hận việc này đã xảy ra, hối hận cách phản ứng của con, hay những gì con đã làm nhiều kiếp trước đây và những gì con đã làm trong kiếp này, vân vân và vân vân? À, chìa khóa cho vấn đề này các thày đã trao con rồi đó, cụ thể là con biết rõ dù chuyện gì đã xảy ra trong quá khứ, con vẫn có khả năng tẩy xóa nó đi.

Như các thày đã giảng, không có biến cố khách quan nào còn hiện hữu trong một khoảng không gian vật lý nào của quá khứ. Bát cung vật lý đã bước tới rồi. Tất cả còn sót lại là những gì nằm trong tâm thức của con, và con có sự hiểu biết, con có các dụng cụ để tẩy xóa nó đi. Nếu con biết con có khả năng tẩy xóa bất cứ gì đã xảy ra trong quá khứ, tại sao con lại phải hối tiếc về quá khứ? À, chính con thì không hối tiếc mà có một ngã tách biệt đang có những hối tiếc này. Chính con có thể nhìn ra ngã tách biệt đó, buông nó ra và nói: “Mi đã ảnh hưởng ta đủ lâu rồi. Thế là xong. Mi đã ra đi.”

Đây là lúc con có thể bắt đầu vui hưởng cuộc sống vì giờ đây con đạt tới điểm nhận ra là nếu quá khứ không tác động đến con nữa thì tại sao con lại cần lo sợ về tương lai? Tại sao con cần lo sợ mình có thể lầm lỗi trong tương lai?

Một số các con đã đạt đến một mức nào đó trên đường tu tâm linh khi con cảm thấy mình đã vứt bỏ được một số điều đau buồn từ quá khứ, nhưng vẫn còn một nỗi sợ hãi những gì có thể xảy ra trong tương lai. “Nếu như tôi phạm lỗi lầm thì sao? Nếu như tôi làm một việc gì mà tôi không nên làm?” Con biết không, con yêu dấu, bất cứ gì con có thể làm trong tương lai cũng chỉ là thêm một chọn lựa khác. Với trạng thái tâm thức của con hôm nay đã cao hơn, có rất ít xác suất chọn lựa của con hôm nay sẽ trầm trọng như trong quá khứ. Nếu các chọn lựa quá khứ trầm trọng đến vậy mà còn có thể tẩy xóa được – như con đã trải nghiệm – thì chắc chắn bất cứ gì xảy ra trong tương lai cũng có thể được tẩy xóa. Vậy tại sao con phải lo sợ về tương lai?

Nếu con không có hối tiếc nào về quá khứ thì mặt bên kia của đồng tiền là con cũng không có nỗi sợ nào về tương lai. Đây là lúc con có thể bắt đầu vui hưởng giây phút hiện tại, như thày vừa nói, trong khoảng thời gian mà con đang hoạt động. Khoảng thời gian này không phải là một khoảng cố định. Nó uyển chuyển tùy theo con đang làm gì. Như thày đã giảng, nếu con chú tâm xây một căn nhà, con sẽ cần đến một khoảng thời gian để hoàn tất căn nhà trong cõi vật lý. Nếu con chú tâm vào việc đánh răng thì tất nhiên con sẽ không cần đến nguyên một năm, vân vân. Con có cái nhìn rất linh hoạt uyển chuyển này về thời gian, nó đi vào rồi nó đi ra và nó thay đổi trong những tình huống khác nhau.

16.17. Đừng trở thành kẻ nô lệ của thời gian

Đó cũng là một khía cạnh trong việc đạt tới điểm con không là kẻ nô lệ của thời gian. Thời gian không sai khiến được trải nghiệm của con trên địa cầu. Con có thể nói là hầu hết mọi người đều là nô lệ của thời gian. Thời gian là ông chủ của họ. Con có thấy biết bao người luôn nhìn đồng hồ không, vì họ phải có mặt ở một nơi nhất định vào một thời điểm nhất định. Con đạt tới điểm con chỉ xuôi chảy với Dòng sông sự Sống.

Tất nhiên là thời gian hiện hữu. Có một phạm vi thời gian nào đó. Con nhìn về tương lai. Hay con nghĩ trở ngược về một thời quá khứ khi con đã quyết định thực hiện một ý định nào đó, vân vân. Nhưng con không bị thời gian sai khiến. Thời gian không là chủ nhân của con. Con không là kẻ nô lệ. Thời gian chỉ là một công cụ.

Chẳng khác gì khi con di chuyển trong không gian. Nếu con di chuyển trong không gian và thấy mình ở một nơi mình không muốn, con chỉ việc di chuyển đến một vị trí khác trong không gian, và thời gian cũng giống như vậy. Con tẩy xóa một chuyện gì đó từ quá khứ. Con di chuyển đến một vị trí khác. Thật không thành vấn đề cho con. Con không bị nó sai khiến.

Một lần nữa, đây là một niềm vui lớn cho thày được trải nghiệm chính mình đang tương tác với các con. Thày đã tương tác với mỗi người và từng người trong số các con như con đã cho phép thày làm như vậy suốt bài truyền đọc này. Thày có thể lại làm vậy nữa khi con nghe lại hay khi con đọc bài giảng. Có lẽ con đã không để ý điều này nhưng con có thể dần dần để ý thấy trong tương lai. Con có thể đạt tới điểm trải nghiệm: “Làm thế nào tôi thực sự trải nghiệm chính mình trong Hiện diện của Phật Gautama?” Con có thể có cùng trải nghiệm này với bất kỳ vị chân sư thăng thiên nào khác gần gũi nhất với tim con. Con yêu dấu, đó là ý nghĩ chót mà các thày mong muốn cho con trong đơn vị, trong khóa giảng này mà các thày vừa trao cho con về cách làm thế nào con khởi sự với ngã gốc rồi khắc phục được nó để con có thể an bình với việc mình ở đây trên trái đất.

Các thày vô cùng biết ơn các con đã sẵn lòng tổ chức và tham gia vào các buổi hội nghị dẫn đến hội nghị hôm nay. Hiển nhiên các thày rất mong chờ những gì các thày sẽ có thể trao cho con trong tương lai. Các thày có rất rất nhiều lời dạy khác mà thày sẽ không tiết lộ bây giờ vì một phần của toàn bộ trải nghiệm là con trải nghiệm giáo lý mà không có lời báo trước hay kỳ vọng nào cả. Con sẽ dễ trải nghiệm hơn với tâm trẻ thơ không phóng chiếu bất kỳ phin lọc nào lên đó. Và như vậy, lời dạy sẽ có tác động tối đa trên con. Và như vậy các thày gửi lòng biết ơn sâu xa nhất đến các con.

7 | Sáng tạo trong một thế giới lượng tử

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 1/12/2018, nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary, và như các con cũng bắt đầu nhận thấy, ý định của thày là bắt được chú ý của con và khiến các chân sư khác phải chờ phát biểu trong hội nghị này. Dù sao thì các thày ở cõi thăng thiên không có chuyện cạnh tranh với nhau, ngược hẳn với những gì con thấy quá thường trên địa cầu với quá nhiều ganh đua. Cạnh tranh sinh ra từ đâu? Nó sinh ra từ một số ý tưởng rất vi tế do sa nhân cài đặt cho rằng có cái đúng và cái sai, có cái gì tuyệt đối, có cái gì tối thượng. Cho nên một người có thể đúng hay có thể sai, có thể thắng hay có thể thua. Chính tư duy này đã xâm nhập, đã thấm sâu vào hầu như mọi khía cạnh của xã hội.

Con có thể nói là có sự cạnh tranh rõ rệt trong một cuộc thi đấu thể thao khi ai nấy tranh đua để xem ai là người chạy nhanh nhất, ai là người nhảy cao nhất, v. v… Trong trường hợp này, sẽ có một người chiến thắng còn những người kia thì phải tìm chỗ đứng thấp hơn trong tôn ti đẳng cấp vừa xuất hiện. Dựa trên những gì con có thể thấy trong các cuộc tranh tài thể thao, con có thể nói là không có sự cạnh tranh giữa các tôn giáo, ít ra không phải là cùng kiểu cạnh tranh. Nhưng kỳ thực có sự cạnh tranh giữa các tôn giáo để xem tôn giáo nào nắm được chân lý cao nhất, tôn giáo nào là tôn giáo chân chính duy nhất. Nếu con nhìn Giáo hội Công giáo tuyên bố chỉ có tôn giáo họ có thể đảm bảo sự cứu rỗi của con, thì đây là một tư duy cạnh tranh: ”Chúng tôi là số một, thật ra chỉ có độc nhất chúng tôi, chúng tôi là kẻ chiến thắng, còn mọi người khác là kẻ thua cuộc. Những người kia không theo đạo chúng tôi là kẻ thua cuộc và họ sẽ bị xuống địa ngục.”

Ý tưởng này thâm nhập rất sâu xa vào tư duy của hành tinh. Như các thày đã từng nói, điều duy nhất mà sa nhân thật sự cần làm để trái đất bị nát bét là phóng ra ý tưởng có cái đúng và cái sai. Có một chuẩn mực, và con cần phải so sánh mọi việc mình làm hay mọi sự xảy ra với chuẩn mực này, con đánh giá xem nó đúng hay sai.

7.1. Hành tinh tự nhiên không có cạnh tranh

Trong hội nghị này các thày trình bày về việc giúp con người làm hòa với việc mình ở trên địa cầu. Điều thày sẽ nói ở đây cũng áp dụng cho các cư dân nguyên thủy. Thày sẽ dùng ví dụ của các avatar vì đây là ví dụ rõ nét nhất. Con thấy đó, con yêu dấu, một trong những khác biệt tinh tế giữa hành tinh tự nhiên và phi tự nhiên là trên một hành tinh tự nhiên không có sự cạnh tranh. Các thày đã có nói là một trong những bí ẩn cốt lõi khởi lên từ quyền tự quyết là việc con ở đây trên hành tinh này trong khi có người khác sống trong môi trường gần kề bên con và cả trên hành tinh. Làm thế nào con quân bình được việc thực thi quyền tự quyết của con với quyền tự quyết của mọi người khác?

Sa nhân chỉ có một giải pháp độc nhất cho chuyện này, đó là chúng tìm cách nâng ý muốn của chúng lên thành ý muốn thống trị mà ai ai cũng phải tuân theo. Đây không phải là cách vận hành ở hành tinh tự nhiên. Ở hành tinh tự nhiên không có cạnh tranh. Làm thế nào các sinh thể trên hành tinh tự nhiên, những người đồng sáng tạo trên hành tinh tự nhiên, tránh được xung đột, tránh bị cảm thấy đối chọi với nhau? Thật ra họ không tránh làm vậy, mà họ chỉ không tạo ra cạnh tranh do họ không ở trong tâm thái tách biệt. Họ không tự xem mình là sinh thể tách biệt.

Trên một hành tinh tự nhiên, con không xem mình có một ý chí tách biệt với ý chí của mọi người khác. Con thấy mình là thành phần của một tổng thể và có nhiều sinh thể khác cũng là thành phần của tổng thể này. Tổng thể này lớn đến đâu tùy thuộc vào mức độ tăng triển của con, mức độ nhận biết mà con đã đạt được. Đối với một số người trên hành tinh tự nhiên, tổng thể mà họ là thành phần có thể là một nhóm nhỏ, từa tựa giống như cái con gọi là gia đình trên trái đất. Trên hành tinh tự nhiên có những người chỉ mới khởi đầu là người đồng sáng tạo và họ sống trong những nhóm nhỏ như vậy, trên nhiều phương diện cô lập với phần còn lại của dân cư trên hành tinh của họ. Họ bắt đầu tăng triển trong một nhóm nhỏ nơi họ có thể dễ dàng quân bình ý chí cá nhân của họ với ý chí của những người đồng sáng tạo khác. Họ tránh khỏi xung đột vì họ đều quen biết nhau, họ biết rõ người khác muốn gì và họ có thể hợp tác.

Khi các sinh thể tăng triển nhận biết trên hành tinh tự nhiên, họ mở mang nhận thức về các sinh thể khác trên hành tinh, và giờ đây họ nhận thức được một nhóm lớn hơn. Điều xảy ra là bấy giờ họ tụ họp lại ở những nơi có người với cùng sở thích. Ngay cả trong sách Những kiếp của tôi, con cũng đọc thấy lời tường thuật về vai chính trong truyện tham gia vào kịch nghệ, rồi sau đó vào chính quyền, rồi sau nữa vào việc tu tập tâm linh. Con có thể nói là trên hành tinh tự nhiên, con có thể có chẳng hạn một số thành phố dành riêng cho nghệ thuật biểu diễn, một số thành phố dành riêng cho âm nhạc, một số cho nghệ thuật thẩm mỹ, một số cho khoa học, vân vân.

Người nào có cùng sở thích như vậy sẽ tập hợp lại và hình thành một đơn vị. Có thể trong một thành phố sẽ có nhiều đơn vị khác nhau và họ đều quen biết nhau, họ không xung đột và ý chí của họ không đụng độ. Họ đến với nhau quanh một mục tiêu chung mà họ cùng đeo đuổi. Mỗi người biết rõ là mình có một khu vực, một quả cầu nơi mình biểu đạt sự sáng tạo cá nhân của mình, và ở đó, họ tự do biểu đạt sáng tạo của họ mà vẫn ăn khớp, phù hợp với tổng thể rộng lớn. Giữa người này với người kia không có đụng độ, không có tranh đua, mà họ cùng làm việc với nhau hướng đến một mục tiêu chung.

Đây cũng chính là điều đã xảy ra trên trái đất trước khi con người rơi xuống nhị nguyên. Ngay cả các cư dân nguyên thủy của trái đất cũng cảm nhận được điều này trong bản thân mình – cảm giác vô cùng vi tế, trực nhận, là họ phải có thể hợp tác với nhau chung quanh một mục tiêu chung mà không bị xung đột. Yếu tố đã phần lớn che lấp trực nhận này là sa nhân, là chuẩn mực đúng-sai. Một người có thể sai hay có thể đúng, và chỉ có một cách đúng thôi. Trên một hành tinh tự nhiên không có đúng-sai mà có nhiều cách đúng. Mọi cách đều đúng và mọi cách đều là những biểu đạt sáng tạo cá nhân. Không có gì sai hay đúng, và ngay cả chuyện cân nhắc đúng-sai cũng không khởi lên trong tâm con người trên hành tinh tự nhiên.

7.2. Đồng sáng tạo xảy ra thế nào trên hành tinh tự nhiên

Vậy khi con đến một hành tinh phi tự nhiên như trái đất thì chuyện gì xảy ra, con trải nghiệm thế nào như một avatar? Ở hành tinh tự nhiên con làm việc trong một đơn vị với người khác, với các sinh thể khác. Đây là một đơn vị hài hòa vì các con có một mục tiêu chung. Hãy thử lấy một ví dụ thực tế. Các con có mục tiêu chung là xây cất một toà nhà thật đẹp. Con có một viễn kiến toàn bộ về tòa nhà nhưng toà nhà đòi hỏi nhiều kỹ năng khác nhau: có thợ nề, có thợ mộc, có thợ sơn, có thợ làm đồ sắt, có người trang trí, có người lo về nghệ thuật, người này người nọ. Đủ loại kỹ năng cá nhân sẽ cần thiết để hoàn tất tòa nhà. Không có cạnh tranh vì mỗi nhóm người như vậy đều có một lãnh vực riêng nơi họ có thể biểu lộ sáng tạo, một phạm vi ảnh hưởng riêng của mình. Họ không đụng độ với nhau mà họ cộng tác để thực hiện mục tiêu chung là xây tòa nhà. Con hiểu là trên một hành tinh tự nhiên có một khoảng không gian chung, một viễn quan chung, một mục đích chung, và ở trong đó có những khu vực cá nhân cho sáng tạo. Là một cá nhân đồng sáng tạo, con là một phần của tổng thể, con biết con làm việc với người khác nhưng con cũng cảm thấy là mình có dư không gian để biểu đạt sự sáng tạo của mình.

Hệ quả là gì? Con yêu dấu, hệ quả là một người đồng sáng tạo làm việc với Ánh sáng Mẫu-Vật trên hành tinh tự nhiên cũng y hệt như trên trái đất. Có Ánh sáng Mẫu-Vật, và con dùng tâm con để tạo thành một hình ảnh, con áp chồng hình ảnh này lên Ánh sáng Mẫu-Vật, thế rồi Ánh sáng Mẫu-Vật khoác vào hình tướng đó. Và sự khác biệt giữa hành tinh tự nhiên với trái đất là như sau. Ở một hành tinh tự nhiên, con không dùng cơ thể vật lý của mình nhiều lắm; hầu hết tạo vật của con trên hành tinh tự nhiên đều được kết đọng (precipitate). Cơ thể vật lý có một số công dụng vì nó không được con xem là tách biệt với ba thể kia. Con ý thức, con nhận biết mình đang đồng sáng tạo với tâm mình – với tâm bản sắc, lý trí lẫn cảm xúc – để đưa vật thể vào cõi vật lý. Không giống như trên trái đất nơi con nghĩ là hầu hết mọi chuyện con cần làm để đem vật vào cõi vật lý phải được thực hiện bởi cơ thể – hay bởi một phần nối dài của cơ thể là một loại máy móc hay công nghệ – thì trên hành tinh tự nhiên, con nhận biết rõ hơn hẳn là con dùng tâm con. Con nhận biết là con đang đồng sáng tạo bằng cách hình thành những hình ảnh, những khuôn đúc trong tâm con và phóng chiếu chúng ra, áp chồng lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Khi một nhóm người hội tụ xung quanh một mục tiêu chung, điều xảy ra là tâm họ phối hợp lại với nhau ở mức bản sắc, và sau đó họ sáng tạo trong khuôn khổ Ánh sáng Mẫu-Vật. Cũng gần giống như khi các thày nói về cách sáng tạo của Đấng Sáng tạo, thì trước tiên Đấng Sáng tạo tạo ra một khoảng trống, xong phóng chiếu một bầu cõi vào khoảng trống, và trong bầu cõi này các hình tướng có thể được sinh tạo. Tương tự như vậy trên hành tinh tự nhiên, những người đã quyết định đồng sáng tạo, chẳng hạn xây một toà nhà, thì họ sẽ đến với nhau. Trước tiên họ cùng thiền định với nhau và họ hình dung, họ tạo ra khoảng trống. Họ tạo ra khoảng trống xong họ dùng tâm phóng chiếu ra một quả cầu. Họ đổ đầy khoảng trống với Ánh sáng Mẫu-Vật đã được khởi động tới một mức nào đó, tức là Ánh sáng Mẫu-Vật đã sẵn sàng khoác lấy hình tướng nhưng hình tướng chưa được phân biệt. Giờ đây, tất cả những người có chân trong tổng thể đó biết rõ là họ đang làm việc với Ánh sáng Mẫu-Vật này. Họ có sự kết nối trong tâm họ nhưng đồng thời mỗi sinh thể cũng biết là mình có một quả cầu riêng nơi mình đang làm việc với Ánh sáng Mẫu-Vật, và vì vậy mình đang dùng tâm mình để tạo thành hình ảnh được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

7.3. Việc đến địa cầu tạo cảm giác như thế nào

Điều xảy ra trên hành tinh tự nhiên là Ánh sáng Mẫu-Vật rất dễ khoác vào hình tướng được một cá nhân đồng sáng tạo phóng chiếu lên nó. Ở đó không có sự chống đối. Cho nên khi con đến như một avatar từ một hành tinh tự nhiên, con mang sẵn thói quen là làm việc với Ánh sáng Mẫu-Vật thật dễ dàng. Con có thể dễ dàng phóng chiếu một tâm ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật và nó sẽ lấy ngay hình tướng này. Một trong những cú sốc lớn mà con gặp phải khi con đến địa cầu như một avatar là trên địa cầu tiến trình đồng sáng tạo nhàn nhã này không thể xảy ra. Nó không thể xảy ra vì mấy lý do. Một lý do là vì Ánh sáng Mẫu-Vật ở một hành tinh tự nhiên có độ rung cao hơn Ánh sáng Mẫu-Vật cấu tạo trái đất. Độ rung càng cao thì ánh sáng càng linh hoạt, càng dễ khoác vào hình tướng mà con phóng chiếu lên nó với ba thể cao của con. Ánh sáng có rung động cao sẽ uốn theo tâm ảnh dễ hơn vì nó không dày đặc, không đông cứng bằng.

Con đến trái đất và cú sốc đầu tiên con gặp phải là vật chất ở đây sao dày đặc đến thế, Ánh sáng Mẫu-Vật sao dày đặc đến thế. Con cũng cần nhận ra ở đây là trên điạ cầu thật hiếm hoi – không phải là không có nhưng khá hiếm hoi – một nhóm người có thể tụ lại xung quanh một mục tiêu chung, một viễn quan chung. Cũng có một số ví dụ khi hàng triệu người cộng tác với nhau để xây kim tự tháp hay xây dựng một thành phố, v. v… Nhưng trong hầu hết trường hợp, điều này đã xảy ra theo một cách mà chúng ta có thể gọi là quản lý từ trên xuống, tức là có một người giống như một nhà độc tài phán quyết: “Chúng ta sẽ xây cung điện này.” Thế là ông ta cưỡng bách mọi người phải tuân theo viễn quan này và xây cung điện. Không có nghĩa là ai ai cũng đã đồng tình với viễn quan này hay đã chấp nhận đó là điều họ muốn làm. Họ bị buộc phải làm cho nên họ làm theo. Con có thể nói là mặc dù họ làm việc với nhau nhưng họ không hợp tác trong cùng tinh thần hợp nhất mà con thấy trên hành tinh tự nhiên.

Con yêu dấu, kết quả của sự thể này là khi người ta không có viễn quan chung, khi người ta không chấp nhận viễn quan và nó bị áp đặt lên họ, thì họ không thể phối hợp tâm họ để trước hết tạo ra khoảng trống rồi sau đó đổ đầy khoảng trống này với Ánh sáng Mẫu-Vật đã được khởi động. Con không thể tiếp cận cái chúng ta có thể gọi là “nguyên liệu thô” có thể rất dễ dàng khoác vào hình tướng. Nguyên liệu này có khả năng được tạo ra trên trái đất, như nếu con có một nhóm người đến được với nhau trong một trạng thái hợp nhất hài hòa thì họ có khả năng tạo ra nguyên liệu này. Sẽ khó hơn là trên một hành tinh tự nhiên nhưng có thể làm được. Trên trái đất rất hiếm khi người ta làm được vì thường thường sa nhân đã có thể chen chân vào tiến trình và buộc mọi người phải tạo ra một cái gì sẽ tôn vinh sa nhân. Lẽ tự nhiên, trên một hành tinh tự nhiên con sẽ không thấy ai tạo ra một cung điện để vua chúa hay hoàng đế ngồi trên ngôi báu ra vẻ oai phong lẫm liệt.

Trên trái đất, con không có một nguyên liệu thô có thể dễ dàng khoác vào hình tướng. Song song với việc con không có một nguồn năng lượng chung, con cũng không có một tình trạng nơi mỗi người đồng sáng tạo, mỗi một cá nhân đều có quả cầu riêng, lãnh vực riêng của mình để có thể sáng tạo. Con không có một không gian chung và con không có một không gian cá nhân để đồng sáng tạo. Điều con thấy trên trái đất là khi người ta muốn sáng tạo một cái gì, họ không thể tạo ra quả cầu riêng biệt chứa Ánh sáng Mẫu-Vật đã được khởi động. Họ phải làm việc với quả cầu chung, với năng lượng chung, với cái các thày đã gọi là sự rung động cơ bản hay rung động nền của hành tinh. Đây là nguyên liệu thô của họ. Hay nói cách khác, tất cả mọi người trên trái đất phải dùng cùng một nguyên liệu thô.

Đồng thời con cũng thấy là trên trái đất, con rất khó có quả cầu sáng tạo riêng của con. À, con có thể nhìn lịch sử và thấy được một số người đã xoay sở để tạo ra một quả cầu sáng tạo nào đó. Có thể đây là những nhà văn có khả năng viết một tác phẩm vượt khỏi tâm thức tập thể. Có thể là những họa sĩ đã vẽ những bức tranh hoàn toàn mới lạ, không theo cách truyền thống chút nào. Đó là vì những người này đã có thể tạo ra một khoảng trống trong tâm họ được phần nào che chắn khỏi tâm thức tập thể. Con cũng thấy được là những hình thức sáng tạo này là nỗ lực sáng tạo cá nhân. Một họa sĩ ngồi trong xưởng vẽ của ông tạo ra bức tranh mà không có ai khác ở đó.

Nhưng khi con có một hoàn cảnh với hai hay nhiều người hơn cộng tác thì lập tức con có một cơ chế vận hành hoàn toàn khác, qua đó họ không còn không gian cá nhân của họ nữa. Họ cùng nhau làm việc trong một không gian chung, và trong bản chất, điều này có nghĩa là những gì cá nhân con làm sẽ bị ảnh hưởng bởi tâm thức tập thể của mọi người trên hành tinh. Một lần nữa, con có thể tìm thấy những tình huống có một nhóm người đã xoay sở để tách ra riêng rẽ, chẳng hạn nơi một tu viện hay một cộng đồng hẻo lánh, cho nên họ đã có thể phần nào cách ly khỏi tập thể, nhưng họ vẫn phải làm việc với cái năng lượng cơ bản dày đặc hơn. Họ vẫn phải làm việc trong một môi trường nơi mặc dù họ đã tự cách ly đôi chút, họ vẫn không được tự do khỏi tâm thức tập thể, cho nên có sự nhiễu sóng không ngừng từ tâm thức tập thể.

7.4. Đồng sáng tạo vận hành như thế nào trên địa cầu

Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang xem xét làm thế nào con có thể thực sự đồng sáng tạo một điều gì trên một hành tinh như trái đất. Về cơ bản, đây là cùng một tiến trình như ở hành tinh tự nhiên nhưng với một vài khác biệt. Trên hành tinh tự nhiên, con hình thành một hình ảnh trong tâm ý thức của con. Con sử dụng tâm bản sắc, tâm lý trí, tâm cảm xúc, nhưng còn hình thành hình ảnh này trong tâm ý thức. Xong con gửi một xung lực vào hệ thống năng lượng. Con gửi vào đó một sóng năng lượng, hay đúng hơn một sóng năng lượng phức tạp, một khuôn đúc sóng năng lượng mang một hình ảnh trên đó. Con gửi nó từ cõi vật lý, từ tâm ý thức, vào cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc, nơi nó đi nguyên chu trình quay trở về qua cõi bản sắc, lý trí và cảm xúc, rồi vào cõi vật lý. Điều đáng nói là trên một hành tinh tự nhiên không có gì can thiệp vào tiến trình này. Những gì con gửi ra từ tầng vật lý, từ tầng ý thức, sẽ trở lại tầng vật lý trong dạng thuần khiết của nó.

Nhưng trên trái đất thì khác hẳn. Con lập ra hình ảnh với tâm ý thức, phóng chiếu nó vào cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc trên trái đất rồi cho nó đi hết quy trình trở lại cõi vật lý. Vì trái đất là một môi trường vẩn đục và dày đặc đến như vậy cho nên sóng năng lượng mà con gửi ra gặp phải nhiều sự nhiễu sóng, cả trên đường đi lên lẫn đường đi xuống trở lại vật lý. Điều này có nghĩa là gần như con không thể nào hình thành một hình ảnh trong tâm rồi gửi nó ra mà biểu hiện được nó y như con đã hình dung. Đứng về mặt thực tiễn thì chuyện này không thể xảy ra.

Tại sao thật quan trọng con nên biết điều này trong tư cách một avatar, hay một cư dân nguyên thủy của địa cầu đã tinh tiến trên đường tâm linh? Bởi vì đây là cách duy nhất con có thể làm hòa với việc con ở đây. Đây là cách duy nhất con có thể tránh khỏi cảm nhận là mình ngu ngốc, mình bất cập, mình không tốt đủ. Đây là cách duy nhất con có thể tránh phán xét nỗ lực sáng tạo của mình dựa theo tiêu chuẩn của sa nhân, tức là nỗ lực này phải toàn hảo, nếu không thì nó không tốt đủ. Trên cơ bản, đây là điều sa nhân đã tạo ra. Chúng đã tạo ra trên trái đất một tư duy bảo rằng: Nếu sáng tạo của con không toàn hảo – dựa trên một chuẩn mực không bao giờ được định rõ – thì nó không tốt đủ. Do sự dày đặc của môi trường trên trái đất, gần như không ai có thể lập ra một hình ảnh trong tâm mà biểu hiện ra được hoàn cảnh vật lý. Cho nên nếu con chấp nhận lối suy nghĩ của sa nhân thì con không thể thoát khỏi tình trạng mãi mãi cảm thấy là bất cứ gì mình sáng tạo cũng không tốt đủ. Nếu con mang tư duy này của sa nhân rằng nó phải toàn hảo theo một chuẩn mực nào đó thì con không bao giờ có thể thoả mãn với tạo vật mình đã đồng sáng tạo.

7.5. Sẽ bao giờ có gì tốt đủ hay không?

Đó chính là tại sao thày cho con lời dạy này để con khởi sự tái lượng định cách tiếp cận của con đối với mọi chuyện con làm – bất cứ chuyện gì con làm trên trái đất. Con thử nhìn xem cách mình làm cha mẹ, nhìn xem xã hội mang tư duy con phải là bậc cha mẹ toàn hảo, nếu không thì con không tốt đủ. Thế nào là bậc cha mẹ toàn hảo? Có người sẽ bảo đó là cha mẹ có con cái toàn hảo, nhưng con dư biết là con cái của con đã đến đây với một tâm lý từ rất nhiều tiền kiếp, và nhiệm vụ của con làm cha mẹ không phải là thay đổi hay kìm nén tâm lý đó. Có bao giờ con có được một đứa con toàn hảo – nếu có chuyện toàn hảo nơi một đứa trẻ? Với thái độ thường thấy như vậy trong xã hội ngày nay, làm cha mẹ có nghĩa là con tự buộc mình phải cảm thấy bất mãn cho đến hết kiếp, vì con mình sẽ không bao giờ thỏa mãn được tiêu chuẩn toàn hảo đó.

Nếu con muốn là một nhà văn thì cũng tương tự như vậy. Nhiều người mong muốn viết lách gì đó nhưng họ bị ám ảnh bởi nhu cầu đánh giá xem tác phẩm của mình có đủ tốt hay không, đến độ họ cảm thấy: “Ồ, nó sẽ không bao giờ tốt đủ,” và họ không dám phổ biến. Rốt cuộc nhiều người trong số đó trở thành những nhà bình phẩm hay biên tập viên chuyên nghề lượng định tác phẩm của người khác để không bao giờ mình có rủi rỏ bị người ta bình phẩm – nhưng đây là một vấn đề khác.

Thật sự đây là một khuôn nếp con gặp trong mọi khía cạnh của đời sống khi con thấy rất rất nhiều người mang tư duy là hoặc mình toàn hảo, hoặc mình không đủ tốt. Do đó họ không dám biểu đạt một cái gì từ nội tâm của họ. Thay vào đó, họ đi tìm một vị thế đánh giá công việc của người khác. Họ là người luôn luôn chỉ trích nhưng chính họ thì không bao giờ là đối tượng của sự chỉ trích. Có ai bình phẩm người bình phẩm bao giờ đâu? Thế là họ khóa chặt dòng sáng tạo của họ và củng cố cho tư duy phán xét của sa nhân.

Nhưng một lần nữa, con ở đây như một avatar đã đến địa cầu. Từ hành tinh tự nhiên, con đã quen có thể thị hiện bất cứ gì mình hình dung. Xong con đến địa cầu, con hình dung cái gì đó, con gửi xung lực vào bốn tầng của vũ trụ vật chất nhưng cái quay trở lại, cái được thị hiện, thì không đúng y như cái con đã hình dung. Thật là dễ cho nhiều người trong chúng ta – thật ra hầu hết chúng ta – bị ảnh hưởng bởi tư duy sa ngã và nói: “Ồ, nếu cái thị hiện khác xa cái tôi hình dung đến vậy thì chắc chắn tôi không tốt đủ. Bỗng nhiên tôi là một người đồng sáng tạo không tốt đủ vì tôi không thể thị hiện những gì tôi hình dung.”

Thày vừa nói con điều gì, con yêu dấu? Trên trái đất con không có một con đường thông thoáng để viễn quan con được gửi ra và quay trở về mà không bị nhiễu sóng. Con có một môi trường năng lượng vô cùng hỗn tạp với quá nhiều cảm xúc xuất phát từ lòng sợ hãi, quá nhiều ý tưởng méo mó trong cõi lý trí, quá nhiều hình ảnh sai lạc trong cõi bản sắc. Khi con gửi một sóng năng lượng vào các cõi này, một sự nhiễu sóng khổng lồ sẽ xảy ra. Con biết rất rõ là khi hai sóng năng lượng gặp nhau, chúng tạo ra một mô thức giao thoa làm thay đổi cả hai sóng.

Chúng ta có thể nói là khi con gửi ra một xung lực sáng tạo, xung lực này là một làn sóng năng lượng. Khi nó di chuyển qua bốn tầng của cõi vật chất, nó chạm mặt một số sóng năng lượng khác từ tâm thức tập thể. Khi hai sóng tương tác thì cả hai đều biến đổi. Có nghĩa là khi con gửi ra một viễn quan sáng tạo, nó gặp phải một năng lượng tiêu cực và sự tương tác này biến đổi cả hai làn sóng. Kỳ thực con đã đóng góp vào việc nâng cao tâm thức tập thể qua nỗ lực sáng tạo của con, nhưng con không thấy được chuyện này. Điều con thấy là cái quay trở về con thấp hơn rất nhiều những gì con đã hình dung, cho nên con cảm thấy: “Liệu mình đã làm được gì hữu ích hay không?” Nhưng con đã. Con đã nâng cao năng lượng đến giao thoa với viễn quan của con. Tất nhiên là năng lượng này cũng đã làm nhiễu viễn quan của con khiến nó không được biểu hiện trong dạng thuần khiết của nó.

Tại sao thày lại nói điều này cho con? Một lần nữa, là vì đơn giản con không thể phán xét nỗ lực sáng tạo của mình ở đây trên trái đất theo một trong hai cách, hoặc theo cách con vẫn quen làm trên hành tinh tự nhiên, hoặc theo cách sa nhân muốn con phán xét nỗ lực của con. Con phải nhận thức con đã quen phán xét nó như thế nào trên hành tinh tự nhiên, cũng như sa nhân muốn con phán xét nó như thế nào ở đây, và con vứt bỏ cả hai cách. Con khẳng định là cả hai không hiệu lực trên một hành tinh như trái đất.

7.6. Phán xét nỗ lực sáng tạo của mình trên trái đất

Sứ giả này đã lớn lên trong một môi trường quen sử dụng súng ống, cho nên thày đã cho ông hình ảnh này mà thày sẽ dùng ở đây. Có hai loại súng thông thường được người ta dùng để săn bắn trên trái đất. Một loại gọi là súng trường, loại kia gọi là shotgun. Súng trường bắn ra một viên đạn, còn súng shotgun bắn ra cả chùm đạn nhỏ hơn. Hẳn các con đã thấy những mục tiêu ở trường bắn – mục tiêu làm bằng giấy có những vòng tròn đồng tâm và ở giữa là vòng tròn số 10. Khi con nhắm mục tiêu bằng súng trường, con có thể đặt viên đạn ngay vòng số 10 vì đó là viên đạn độc nhất và đường đạn tương đối chính xác. Bây giờ con tưởng tượng con đứng trước mục tiêu với khẩu shotgun và người ta bảo con đặt một hạt nhỏ tí ngay điểm số 10 y như con vừa làm với súng trường, chuyện này có thể làm được không?

Có thể chứ, nhưng con sẽ không có cách chi đoán trước được kết quả của phát bắn, vì con bắn ra một chùm đạn nhỏ với đường đạn không rập khuôn và không chính xác lắm, ít ra là một đường đạn con không thể tính trước được. Trong số mấy trăm hạt nhỏ đó có thể có một hạt sẽ trúng số 10, nhưng cũng có thể không có hạt nào. Con có thể bắn một trăm lần mà vẫn không có hạt nào trúng số 10. Con không thể làm gì khác được. Vấn đề không ở chỗ con sẽ nhắm nòng súng cho chính xác hơn, mà vấn đề là thực tế vật lý của súng shotgun.

Ý thày muốn nói ở đây là sa nhân bảo con: “Bạn phải bắn trúng số 10 mỗi lần như một,” nhưng súng của con là một khẩu shotgun. Thật chẳng nghĩa lý gì mà con phải phán xét nỗ lực của mình như thể con có một cây súng trường, bởi vì con không thể chắc chắn là con sẽ bắn trúng số 10. Nếu chuyện này xảy ra thì nó hoàn toàn ngẫu nhiên, chúng ta có thể nói như vậy, vì chắc chắn đây không phải là chuyện khoa học chính xác. Con yêu dấu, sa nhân đòi hỏi con phải làm chuyện bất khả thi, thế nhưng chúng phán xét con như thể cái bất khả thi đó là khả thi. Điều này không thực tế, giản dị là nó không thực tế. Con không thể xét mình là bất toàn do con đã không làm nổi một chuyện không thể làm – đó là điều vô lý. Ấy thế nhưng con đã bị lập trình hết kiếp này đến kiếp khác để con tự đánh giá mình theo kiểu đó.

Đây là một lập trình rất sâu đậm, nó vô cùng mạnh mẽ trong tâm thức tập thể trên địa cầu. Con yêu dấu, con đã có các dụng cụ rồi đó và con sẵn sàng nâng mình lên khỏi tâm thức đó. Đối với một số các con, đây chỉ là vấn đề xoay chuyển tâm con. Đối với một số khác, nó sẽ đòi hỏi một chút nỗ lực vì con mang những cái ngã tách biệt mà con cần nhìn thấy, con cần thấy chúng như chúng là, và để cho chúng chết đi. Một lần nữa, con đã có các dụng cụ rồi, và điều con nhận ra là khi con buông các ngã đó ra, khi con thoát ra khỏi ý tưởng là mình phải có thể làm chuyện bất khả thi – ý tưởng là nếu mình không làm được chuyện bất khả thi thì mình bất toàn – thì con có thể tìm ra một cách hoàn toàn mới để an bình trên trái đất, một cách hoàn toàn mới để là người sáng tạo và nỗ lực sáng tạo. Con có thể gửi ra một xung lực mà không bị nản lòng bởi những gì quay trở lại, vì con biết xung lực của con đã có tác dụng tích cực trong việc nâng cao tâm thức tập thể, cho dù những gì quay trở lại không hoàn toàn đúng như con đã gửi ra.

7.7. Trở nên ngày càng sáng tạo hơn

Con yêu dấu, khi con nâng cao tâm thức của con, lý tưởng là con nên ngày càng sáng tạo hơn. Điều này không có nghĩa là con phải trở thành một nghệ sĩ, một nhạc sĩ hay bất cứ gì khác. Con có thể trở nên ngày càng sáng tạo hơn khi con khởi lên những ý tưởng mới, những cách làm tốt hơn. Thậm chí con trở nên sáng tạo hơn theo nghĩa là con thiện nghệ hơn trong việc biểu hiện cuộc sống thường nhật mà con thực muốn. Đây không luôn luôn là chuyện biểu hiện một cái gì giống như một tác phẩm nghệ thuật chẳng hạn, mà con xem đời sống thường nhật là một hình thức nghệ thuật khi con biểu hiện cách sống mà con muốn có. Đây cũng là một hình thức sáng tạo.

Con yêu dấu, con nhìn xem bao nhiêu nghệ sĩ, bao nhiêu nhà văn, vân vân… và con thấy một số đã rất lập dị, thậm chí còn hơi ngông cuồng nữa. Nhiều người vô cùng bất mãn với chính tác phẩm của họ, họ chưa bao giờ cảm thấy những gì họ tạo ra là đủ tốt, họ chưa bao giờ vẽ được nàng Mona Lisa với nụ cười đúng y như họ muốn nàng phải có. Thực tế ở đây là hầu hết các nghệ sĩ vĩ đại nhất, danh tiếng nhất, mặc dù họ có thể được quần chúng ái mộ nhưng chính họ lại không toại nguyện với nỗ lực của họ, và lý do thật giản dị. Con nhìn vào Mona Lisa và con nhìn vào bức tranh. Con không thể thấy được viễn quan mà Leonardo da Vinci đã có trong tâm khi ông vẽ bức tranh. Con không thể thấy được là những gì ông vẽ xuống tấm vải không đúng như những gì ông mường tượng trong tâm và do đó ông không hài lòng với nó. Điều tương tự cũng xảy ra với hầu hết mọi nghệ sĩ khác.

Tác phẩm không đúng hoàn toàn như những gì họ muốn. Một lần nữa, trên một hành tinh phi tự nhiên, thật không thực tế và không xây dựng mà chờ đợi là con có thể thị hiện trong vật lý đúng như những gì con hình dung trong tâm. Đơn giản là nó không thực tế. Khi con chấp nhận sự thể này, con có thể bắt đầu làm hòa với sự kiện là mặc dù con không biểu hiện đúng như con hình dung, nhưng con vẫn đang giúp cho thế giới tốt đẹp hơn vì con đang gửi ra những xung lực năng lượng nâng cao tâm thức tập thể.

Con có thể đi xa hơn và đơn giản nhận ra là con không ở đây để đưa ra một tác phẩm toàn hảo nào đó. Con ở đây để đưa ra một cái gì cao hơn những gì hầu hết mọi người có thể hình dung. Không quá cao đến độ họ không thể nối kết, nhưng con chứng tỏ là có một cách tốt hơn, có một hình thức sáng tạo cao hơn. Không có toàn hảo nào mà con cần với tới, con yêu dấu. Như các thày đã nói rất nhiều lần, nếu con đạt được tầng tâm thức thứ 96 thì con đã tự nâng mình lên cao hơn hẳn tâm thức tập thể rồi. Thật chẳng ích gì mà con phải tự mắng nhiếc vì mình chưa đến được tầng 144.

Dù con có đang ở tầng nào thì cũng hoàn toàn chấp nhận được. Các thày chấp nhận con như con người con là, ở tầng tâm thức đó. Các thày không đòi hỏi con phải ở tầng 144. Các thày chỉ nhìn xem làm cách nào đưa con lên tầng kế tiếp. Một khi con hiểu điều này, một khi con chấp nhận điều này, con sẽ có thể an bình với việc mình ở nơi mình đang đứng. Do đó con cũng có thể an bình với việc mình ở trên địa cầu nơi các nỗ lực sáng tạo của con không bao giờ tạo được đúng kết quả con hình dung. Thay vì tự trách móc, con chỉ chấp nhận mọi chuyện là như vậy.

7.8. Cách tiếp cận lượng tử đối với sự sáng tạo

Chúng ta thử trở về với ngụ ngôn về súng trường và súng shotgun. Có thể con không bắn trúng số 10 với súng shotgun nhưng chắc chắn con có thể bắn trúng mục tiêu nói chung, và điều này cũng giống vậy trên trái đất. Con cần cảm thấy thỏa mãn nếu con bắn trúng mục tiêu chứ không nhất thiết phải trúng hồng tâm ở chính giữa. Con có thể đi xa hơn một chút và nhìn vào những gì các nhà khoa học đã khám phá về thế giới lượng tử, thế giới của các hạt hạ nguyên tử. Họ phát hiện ra electron là một hiện tượng kỳ lạ. Họ phát hiện ra sự hiện hữu của một điều họ gọi là “vấn đề đo đạc lượng tử.” Con có thể đo vị trí của một electron nhưng khi đó, nếu con biết vị trí này thật chính xác, con sẽ hoàn toàn không biết gì về vận tốc của nó, động lượng của nó. Và ngược lại, con có thể dùng một phương pháp khác để đo động lượng, nhưng nếu vậy thì con không biết gì về vị trí của nó. Con không thể biết mọi chuyện cùng một lúc. Có nghĩa là con không thể tiên đoán chính xác electron sẽ ở đâu trong tương lai.

Điều này, một lần nữa, ngược lại với hình ảnh cố hữu về một vũ trụ tựa như cỗ máy đồng hồ, theo đó nếu con biết các điều kiện sơ khởi thì con có thể tiên đoán mọi chuyện xảy ra trong tương lai. Trong gần một thế kỷ qua, các nhà vật lý lượng tử đã chứng minh là việc tiên đoán như vậy không thể xảy ra trong thế giới lượng tử. Và ngay cả trong thế giới vĩ mô, điều này cũng không thể làm được. Các nhà khoa học đã tưởng điều này có thể làm được chỉ vì họ nghĩ là họ chỉ cần xem đến một số rất ít điều kiện. Kỳ thực, có rất nhiều điều kiện hơn là khoa học thời Newton biết đến, và do đó có những ẩn số mà họ đã không thể xem xét. Ngay cả ở mức vĩ mô họ cũng không thể tiên đoán được, nhưng với vật lý lượng tử thì các nhà khoa học đã chứng minh là việc tiên đoán chính xác không thể xảy ra. Điều con có thể làm là con có thể đo đạc một số lớn electron, rồi sau đó suy ra một giá trị trung bình để nhờ vậy con tiên đoán xác suất một electron đơn lẻ có thể ở vị trí nào ở một thời điểm nào đó. Con có thể tiên đoán một xác suất chứ không phải một kết quả chính xác. Điều này cũng có thể áp dụng cho các nỗ lực sáng tạo của con. Con có thể lập ra một hình ảnh về cái con muốn biểu hiện, con có thể gửi nó ra ngoài, nhưng con không thể tuyệt đối chắc chắn là nó sẽ thị hiện đúng y như vậy. Chỉ có một xác suất mà thôi.

Như vậy có nghĩa là con không thể bảo hình ảnh phải thị hiện chính xác. Con cần thực tế và nói: “Chắc chắn cái tôi gửi ra sẽ bị nhiễu sóng, cho nên cái quay trở về sẽ phần nào bị sự giao thoa làm cho méo mó đi, và nó sẽ không hoàn toàn đúng như cái tôi đã hình dung.” Rồi con cần đạt tới điểm nhận ra là con đã gửi ra viễn quan cao nhất mà con có thể vào thời điểm đó. Con đã phóng nó ra với mãnh lực tối đa mà con có thể trong trạng thái tâm thức của con lúc đó. Cái quay trở về đơn giản là cái cao nhất mà con có thể sản xuất trong những điều kiện vốn có là chính trạng thái tâm thức của con lẫn trạng thái tâm thức tập thể. Trong những điều kiện con phải làm việc, đó là thành quả tốt nhất có thể. Con không cần phải đánh giá là nó không toàn hảo hay tồi tệ vì nó không đúng hẳn như con hình dung. Vậy điều con có thể làm là nói: “Thôi được, có sự khác biệt giữa những gì tôi gửi ra và nhận trở lại, làm thế nào tôi có thể giảm thiểu sự khác biệt đây? Làm thế nào tôi cho nó bớt đi?”

Con có thể làm vậy bằng cách nâng cao tâm thức của con, loại bỏ một số ngã đó đã có thể khiến con có một viễn quan bất toàn hay thấp hơn khả năng của con, hay chúng đã có thể khiến con không dùng đủ uy lực khi con phóng chiếu nó ra. Con có thể thanh lọc bốn thể phàm để sự nhiễu sóng càng ít càng tốt trong các thể của chính con. Lẽ tự nhiên, những gì có mặt trong các thể cao của con sẽ giao thoa với viễn quan con gửi ra, ngay cả với khả năng hình thành viễn quan của con. Đấy là điều con có thể làm, và sẽ thật chính đáng nếu con nói: “Đã có sự khác biệt giữa cái tôi hình dung và cái tôi thị hiện. Tôi cần làm việc trên bản thân tôi và tâm thức của tôi.” Điều này không có nghĩa là con bất mãn với chính con. Con yêu dấu, cho dù con có đạt đến tầng tâm thức 144 thì trên địa cầu con vẫn không thể thị hiện đúng y như con hình dung. Tại sao vậy? Là vì như thày đã nói, trên trái đất con không có một quả cầu cá nhân nơi tâm con là tâm duy nhất tác động lên một phần cụ thể của Ánh sáng Mẫu-Vật và nhờ vậy nội dung trong tâm là hình tướng chính xác mà Ánh sáng Mẫu-Vật khoác vào. Ở đây con làm việc trong một không gian chung. Con phải chấp nhận là con đang ở trên một hành tinh với vật chất dày đặc và một tâm thức tập thể cũng dày đặc.   

7.9. Hãy bằng lòng với việc nâng cao tâm thức

Con phải cho phép những thứ đó can thiệp vào viễn quan của con vì một phần mục đích con sống và sáng tạo ở đây là để nâng cao tập thể. Con làm vậy bằng cách gửi ra một viễn quan cao nhất có thể và cho phép nó giao thoa, tương tác với tập thể. Có lẽ con chỉ thấy được là tập thể đang kéo thấp viễn quan con xuống, nhưng sự thật là viễn quan con cũng kéo tập thể đi lên. Đây chính là một phần ý nghĩa của việc đồng sáng tạo trên một hành tinh phi tự nhiên. Khi đồng sáng tạo trên hành tinh tự nhiên, con có quả cầu riêng của con, con có thể thị hiện đúng y như trong tâm con. Nhưng đây không phải là sự thể trên một hành tinh phi tự nhiên. Con không có quả cầu riêng của mình, cho nên con không thị hiện đúng được như con hình dung. Dẫu sao thì khi con kinh qua tiến trình này, tiến trình sáng tạo này, con cũng giúp nâng cao tâm thức tập thể.

Sứ giả này trong những năm đầu làm sứ giả đã cảm thấy phần nào bất mãn vì sách của ông đã không trở thành sách bán chạy nhất – hay đúng hơn không phải là sách của ông vì ông không xem là sách của mình mà là sách của các chân sư. Ông nghĩ: “Tại sao mọi người không chịu đọc lời dạy của các chân sư thăng thiên?” Và ông đã học cách nhận ra đây chỉ đơn giản là một viễn quan không thực tế. Thật không thực tế mà chờ đợi mọi người trên trái đất sẵn sàng nhận giáo lý của chân sư thăng thiên, vậy tại sao con lại chờ đợi là một quyển sách của chân sư thăng thiên sẽ đứng đầu trên danh sách bán chạy?

Sách bán chạy là sách phù hợp với mức tâm thức của mọi người, bởi vì nếu không, họ sẽ không thể thấy được trong sách có gì, thậm chí không thể nhìn nhận điều này. Ông đã học được là ông không thể đánh giá nỗ lực sứ giả của mình dựa trên sự kiện sách bán chạy hay không. Ông chỉ đơn giản bằng lòng với sự kiện sách đã có mặt trong bát cung vật lý, nơi người ta có thể tìm đọc ngay bây giờ hay mai hậu trong những thập niên tới. Đây không phải là vấn đề có bao nhiêu người, vì sự thành công của con như một người đồng sáng tạo trong bát cung vật lý không tùy thuộc vào sự công nhận của 80% quần chúng. Thày tin rằng con cũng thấy là nó không tùy thuộc vào sự công nhận của lớp 10% thấp nhất, đặc biệt là của sa nhân. Như một người đồng sáng tạo với một nhận thức tâm linh nào đó, con sẽ không bao giờ, không bao giờ có được sự công nhận từ sa nhân. Chuyện này giản dị sẽ không xảy ra, con yêu dấu. Con sẽ không bao giờ có sự công nhận đó được, cho nên việc chờ đợi chỉ là một kỳ vọng không thực tế. Con phải buông nó ra.

7.10. Nhìn nhận là con không thể làm hài lòng một số người

Con phải đạt tới điểm nhìn nhận là trên hành tinh này có những người con không thể làm hài lòng. Một số các con có thể có người thân thiết trong gia đình thuộc loại này. Vấn đề không nhất thiết là bảo họ là sa nhân, mà vấn đề là nhìn nhận: “Tôi sẽ không bao giờ làm hài lòng được người đó. Vậy tại sao tôi lại bận tâm? Tại sao tôi không chuyển quan tâm sang những người tôi có thể quan hệ tích cực? Tại sao tôi phải ở gần những người hay chỉ trích, tiêu cực hoặc luôn luôn đòi hỏi nhiều hơn? Tôi có quyền chuyển sang những ai tôi cảm thấy đồng điệu thay vì những kẻ bị phiền hà bởi rung động của tôi và muốn bài bác tôi.” Khi con ngừng phán xét bản thân theo tiêu chuẩn của sa nhân hay quan điểm của người khác – là những người có thể bị ảnh hưởng bởi tiêu chuẩn của sa nhân – thì con có thể bắt đầu cảm thấy là mình thực sự có thể sáng tạo trên địa cầu.

Con có thể an bình sáng tạo cho dù nỗ lực sáng tạo của con không bao giờ biểu hiện được những gì con có thể hình dung. Con cần nhìn nhận ở đây là khi con là một avatar hay một đệ tử tâm linh tiên tiến – kể cả khi con là một cư dân nguyên thủy của địa cầu – con có khả năng hình dung một điều gì đó vượt xa những gì một người trung bình có thể hình dung, vượt xa những gì có mặt trong tâm thức tập thể. Lẽ tự nhiên khi con gửi ra xung lực này vào bốn tầng của vũ trụ vật chất, nó sẽ gặp nhiễu sóng từ tâm thức tập thể vì nó gặp phải rất nhiều năng lượng thấp. Nhưng đây không phải là một thảm họa. Không phải là lỗi con nếu nó không thể hiện đúng như con đã hình dung. Con cần nhận ra là nó vẫn đem lại tác dụng tích cực, cho nên nỗ lực sáng tạo của con vẫn đáng công sức.

7.11. Một động lực cao hơn khi sáng tạo

Tất nhiên khi con nhận ra điều này, khi con xoay chuyển như vậy, con đạt tới điểm con không còn sáng tạo bởi vì con muốn: (1) biểu hiện một kết quả đặc thù nào đó, và (2) được người khác công nhận và chứng thực.

Những thứ đó không còn thôi thúc con nữa. Tiền bạc không còn thôi thúc con. Cái thôi thúc con là điều thày đã đề cập trong một bài giảng trước và cũng là mục đích thực sự của con khi con đến địa cầu, đó là con trải nghiệm chính mình ở đây. Con có thể tới điểm làm người sáng tạo mà phần thưởng cho sự sáng tạo của con không phải là những gì được thị hiện trong vật lý, không phải là sự công nhận, không phải là tiền bạc, mà là kinh nghiệm biết rằng con đã cố gắng trong môi trường đặc thù này. Con đã cố gắng – con đã thị hiện một cái gì cao hơn những gì có trước đó.

Phần thưởng của con chỉ đơn giản là thu hoạch kinh nghiệm này. Con có thể đạt tới điểm, cho dù con đang hiện thân trong vật lý, là con trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con đang trải nghiệm trái đất như thế nào. Khi con trải nghiệm Hiện diện TA LÀ đang trải nghiệm các nỗ lực sáng tạo của con như thế nào, đây là hình thức khen thưởng cao nhất cho nỗ lực của con. Tự thân nỗ lực này trở thành phần thưởng cho chính nó. Nó trở thành một tiến trình tự củng cố mà qua đó con sẽ không ngừng với lên cao hơn, không phải từ một cảm nhận thiếu thốn mà từ cảm nhận là con biết mình có khả năng hoàn thành một điều gì đó. Biết được những gì mình đã hoàn thành đem lại cho con cái biết là con có thể hoàn thành nhiều hơn. Con không bất mãn, con không luôn cảm thấy nó không đủ tốt, mà con cảm thấy những gì con đã tạo ra thực sự tốt đủ.

Vì con đã tạo ra cái đó, giờ đây con thấy là con có thể tạo ra cái gì cao hơn nữa, và con có thể cứ tiếp tục làm vậy. Không từ một cảm nhận thiếu hụt mà từ một cảm nhận dồi dào, một cảm nhận là con đầy ắp. Con đầy ắp. Con không có “lỗ hổng” nào trong bản thân mà con tìm cách lấp đầy. Niềm vui bây giờ là cảm thấy ly nước đang tràn ra ngoài. Đây là cảm nhận liên tục là cái chén của dòng chảy sáng tạo của con đang tràn ra ngoài và được gửi vào môi trường của con. Chính cái đó cho con niềm vui, niềm toại nguyện và sự tràn trề đến độ nó tràn cả ra ngoài. Cái đó, thày mong muốn con có được, con yêu dấu, và thày hy vọng một số các con sẽ dùng những lời dạy này để đạt được. Vì đó cũng chính là điều con đã quyết định trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, là tiềm năng cao nhất của con trong kiếp sống này mà con đã muốn chứng được.

9 | Tự dạy mình tẩy xóa ký ức

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels ngày 1/12/2018, nhân một hội nghị ở Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên MORE, và thày muốn khai triển những gì thày đã trao con hôm qua cùng những gì Mẹ Mary đã trao con và hướng về đề tài làm thế nào con có thể khắc phục quá khứ của con. Trong số các con hôm nay có một người nói với sứ giả này là ông vẫn cảm thấy bị kẹt trong quá khứ, sống trong quá khứ, nhìn lại quá khứ, thậm chí còn ao ước một thiên đàng đánh mất mà mình đã trải nghiệm ở một thời điểm trong quá khứ. Nhiều, rất nhiều người tâm linh khắp nơi trên thế giới mang cảm nhận là mình đã đánh mất cái gì đó và tất nhiên, đúng là con đã mất một cái gì. Con đã mất sự trong trắng mà con có trước khi đến đây, và theo một nghĩa nào đó, giáo lý của các thày cũng có thể gọi là một nỗ lực để giúp con hồi lại, giành lại sự trong trắng này.

Bây giờ, làm thế nào con thoát ra khỏi cảm giác mình sống trong quá khứ, bị vướng buộc vào quá khứ? À tất nhiên, các thày đã trao cho con nhiều dụng cụ và giáo lý rồi. Rõ ràng là một khi con làm tan năng lượng, năng lượng cảm xúc, đã cuốn hút con vào những nghĩ ngợi về một số tình huống đã qua thì việc này sẽ giúp con thoát ra khỏi. Khi con giải thể một số ngã, khi con thấy chẳng hạn nếu con đã phải chịu một chấn thương, đã tạo ra một cái ngã để đáp trả lại nó, để phản ứng lại nó, thì khi nhận diện được ngã và để cho nó chết đi, ít nhất con sẽ thoát ra khỏi tình huống đó.

9.1. Khắc phục nỗi sợ phải lấy quyết định

Hơn vậy, có những cái ngã không thực sự do con tạo ra để phản ứng lại một tình huống đặc thù. Chúng được tạo ra để phản ứng lại cảm giác mình là người đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất. Chúng ta còn có thể nói là những ngã này có mặt rất rõ ràng trong tâm thức tập thể. Thật khó lòng mà không bị chúng ảnh hưởng, đặc biệt sau khi con phải chịu một chấn thương nhập đời và bị sốc là các điều kiện trên trái đất có thể khác xa đến vậy so với những gì con đã hình dung trước khi đến đây. Thật quá dễ để con khoác vào một số những ngã tập thể này đã được tạo ra suốt một thời gian rất dài, và như các thày đã nói, chúng được tạo ra để đối phó với một hoàn cảnh mà con người không thể sống chung. Con không thể sống nổi với hoàn cảnh, con không thể trốn chạy khỏi nó, cho nên con phải tìm được cách ứng phó với nó, để ít nhất con có thể sống cho dù là không thoải mái hay an bình.

Có những cái ngã đã quanh quẩn trong tâm thức tập thể từ rất lâu, và một trong những ngã này tất nhiên – để khai triển những gì Mẹ Mary vừa giảng – là cái ngã bảo rằng con phải toàn hảo, nếu không thì con không tốt đủ. Ngã này khiến con cảm thấy là nếu con đã làm chuyện gì mà chính con hay người khác gọi là lỗi lầm, thì con sẽ không thể trốn thoát khỏi nó. Thậm chí tôn giáo còn thường bị người ta sử dụng để lập ra chuẩn mực cho cách cư xử của mọi người. Nếu con làm chuyện gì mà tôn giáo của con liệt vào loại tội lỗi, con cảm thấy mình bị ô uế bởi tội lỗi này cho đến ngàn đời. Người ta còn đưa ra khái niệm về tội tổ tông, qua đó con sinh ra đã là người có tội do những gì cha mẹ con đã làm hay tổ tiên con đã làm, đi ngược về tận thời Adam và Eva. Rõ ràng con có thể thấy những loại tư tưởng như vậy vi phạm hoàn toàn thực tế của quyền tự quyết. Nhưng chúng ta không nên đi quá sâu vào chuyện này mà hãy tập trung vào sự kiện là có đủ loại ngã muốn con nghĩ rằng một khi con đã làm một việc gì con chấp nhận là sai lầm thì con không thể thoát ra khỏi, và như các thày đã nói, con không thể gỡ bỏ tình huống vật lý đó.

Vậy thì làm sao con có thể thoát khỏi quá khứ con đây? À, thày là chân sư, là Thượng sư của Tia thứ Nhất của Ý chí Thượng đế, vậy làm thế nào con thoát khỏi quá khứ của mình? Nói cho cùng, con phải lấy một quyết định để được tự do. Hiển nhiên thày đã không giúp con nhiều lắm khi thày nói: “Con phải lấy một quyết định để được tự do khỏi quá khứ.” Đa số các con sẽ cảm thấy: “Nhưng con làm thế nào chứ?” Thậm chí con có thể sợ lấy quyết định nữa là đằng khác. Nhưng con cần nhận ra ý chí là một động lực vô cùng đũng mãnh – cái ý chí muốn là con người mà con là, ý chí muốn là một người sáng tạo, ý chí muốn sáng tạo một điều gì chưa có mặt bây giờ.

Đây là một mối đe dọa to lớn cho sa nhân cùng sự kiểm soát của chúng trên địa cầu. Chúng không muốn con sáng tạo. Chúng không muốn con khởi lên một điều gì mà chúng không thể đoán trước. Nếu chúng không thể đoán trước thì chúng không thể kiểm soát. Để dùng cách diễn tả của Nada, chúng muốn “đập dí” sự sáng tạo của con để nó không phá rối hiện tình trong xã hội mà chúng kiểm soát. Một cách để chúng làm vậy là qua cái chuẩn mực bảo rằng con phải toàn hảo nếu không thì con tồi tệ, và chúng khiến con cảm thấy là con đã lầm lỗi. Nhưng làm thế nào con đã lầm lỗi chứ? Bằng cách lấy một quyết định.

Có một cái ngã đã có mặt trong tâm thức tập thể từ lâu đời, nó bảo rằng việc lấy quyết định thật nguy hiểm, và như một cá nhân, con thật sự nên ngừng lấy quyết định. Con nên tuân theo chuẩn mực, tuân theo tiêu chuẩn, tuân theo quy luật, hành xử y như mọi người khác. Theo một nghĩa nào đó, con vẫn lấy quyết định nhưng trong một khuôn khổ được quy định rất hạn hẹp. Con không đang có những quyết định sáng tạo – những quyết định mới mẻ, những quyết định thử nghiệm. Con chỉ đang “làm”, đang quyết định giống y như mọi người khác đã từng quyết định. Ngã này phóng chiếu vào con là nếu con làm vậy, con sẽ an toàn, con sẽ chuẩn, con sẽ không lầm lỗi, con sẽ không bị lên án, con sẽ không bị coi rẻ. Con thấy ở đây có một cái ngã tập thể rất mạnh mẽ không muốn ai có những quyết định sáng tạo cá nhân. Ngã này nói: “Bạn đừng lấy quyết định, bạn không thể phạm lỗi.”

9.2. Quyết định là mình không sợ quyết định

Đương nhiên nếu con đã đến trái đất như một người đồng sáng tạo, như một avatar, hay nếu con là một cư dân nguyên thủy đã phát triển đến một tầng tâm thức nào đó, con không thể an bình nếu con rơi vào tâm thái đó. Nếu con đem ngã này vào bốn thể phàm của con, con không thể an bình với việc mình ở trên trái đất vì con thừa biết là con không đang hoàn thành mục tiêu của mình khi đến đây. Con không đang hoàn thành tiềm năng cao nhất của con, con không tăng triển, con không tự thăng vượt. Con không thể an bình với ngã đó. Chừng nào con không sẵn lòng lấy quyết định thì con sẽ không thể an bình – chỉ giản dị vậy thôi. Con cần làm gì để vượt qua bế tắc, vượt qua thế lưỡng nan này? À con yêu dấu, con cần lấy quyết định – chỉ giản dị vậy thôi.

Và đây cũng là điểm mà ngay cả giáo lý các thày trao truyền đôi khi cũng có thể cho con một cái nhìn hơi méo mó. Con chỉ việc trở về thời thập niên 1930 khi Saint Germain lần đầu tiên ban truyền kỹ thuật thỉnh cầu ngọn lửa tím, con thấy một số học trò của chân sư thăng thiên suy luận rằng tất cả những gì họ cần làm là thỉnh cầu đủ ngọn lửa tím thì một buổi sáng họ sẽ thức dậy sẵn sàng thăng thiên. Tất nhiên là chuyện này không bao giờ xảy ra, và như các thày đã nói, đây không phải là một con đường máy móc.

Con có thể lấy các lời dạy mà các thày ban ra ngày nay và bảo: “À, tôi chỉ cần cầu thỉnh đủ năng lượng qua các bài chú, bài thỉnh, thì tôi sẽ giải tỏa năng lượng cảm xúc đang kéo tôi trở về quá khứ, rồi tôi cần giải thể những ngã này thì một ngày kia tôi sẽ được tự do khỏi quá khứ.” Tất nhiên, việc giải tỏa năng lượng và loại bỏ ngã sẽ giúp con giảm thiểu lực kéo của quá khứ trên con. Nhưng đâu là cái “tôi” mà quá khứ lôi kéo? Các thày đã gọi đó là cái Ta Biết, đơn giản để diễn tả là có một thành phần trong con người phàm của con – cái bản thể đang hiện thân – và thành phần này không phải là bốn thể phàm của con, không phải là ngã tách biệt của con, cũng không phải là ý niệm nhân cách của con, mà là cái gì vượt khỏi những thứ đó. Đó là cái cho con sự tự nhận biết giúp con bước lui lại khỏi hoàn cảnh hiện tại, khỏi ý niệm bản sắc hiện tại của mình, và quyết định là con muốn thay đổi.

Mỗi khi con nhận diện: “Ồ, tôi có một ngã tách biệt trong bản thể tôi đang phóng chiếu là có vấn đề này tôi phải giải quyết,” cái gì là cái có khả năng nhận ra như vậy? Đó là cái Ta Biết. Đó là thành phần trong con có khả năng ý thức được tâm thức của con, ý thức được những gì đang diễn ra trong tâm thức con. Con thấy là nhân cách vỏ ngoài của con, chẳng hạn, hoàn toàn bị bao trùm trong hoàn cảnh hàng ngày. Nhân cách vỏ ngoài không thể bước lui lại và nói: “Bây giờ đến lúc tôi cần hành xử khác hơn.” Nhưng đó là điều cái Ta Biết có thể làm khi nó ý thức được khả năng này của nó. Nó có khả năng bước lui lại.

Một ngã tách biệt không thể bước lui lại, nó không thể nói: “Ồ, tôi muốn giải thể chính tôi.” Cái Ta Biết có thể bước lui lại và nói: “Tôi muốn giải thể ngã này vì nó không phải là cái ta của tôi, nó không phải là con người tôi là.” Mỗi khi con nhận biết có một ngã tách biệt, đó chính là cái Ta Biết đang sử dụng khả năng của nó để ý thức những gì đang xảy ra trong tâm con. Con có thể nói đó là thành phần trong tâm con có khả năng ý thức về phần còn lại của tâm. Đây chỉ là một cách diễn tả.

Vậy con sẽ cần gì để cho một ngã tách biệt chết đi? Ấy, cái Ta Biết phải lấy một quyết định, và đâu là quyết định con phải lấy để cho bất kỳ ngã nào chết đi? Như các thày đã giảng, có một cái ngã phóng chiếu ra là có một vấn đề cần giải quyết. Chẳng hạn để khai triển thêm bài giảng vừa rồi của Mẹ Mary, lấy ví dụ có một ngã tách biệt phóng chiếu là con cần phải toàn hảo, nếu không thì con rất tệ. Ngã không bao giờ có thể chất vấn chuyện này, nó sẽ tiếp tục phóng chiếu vào con là con cần cố gắng trở nên ngày càng tốt hơn để có thể toàn hảo. Hoặc có một ngã khác phóng chiếu là khi con không toàn hảo – và hiển nhiên, con không bao giờ toàn hảo được – thì con phải cảm thấy tủi hổ. Rồi có một ngã khác nữa phóng chiếu là con phải ngừng cố gắng vì rõ ràng con không đủ tốt, hay có gì đó sai quấy với con, vân vân.

Các ngã này không bao giờ có thể khắc phục được sự lập trình của chúng. Điều cái Ta Biết cần làm là nhìn ra ảo tưởng đằng sau sự phóng chiếu của ngã, nhìn ra vấn đề do ngã phóng chiếu là không thực và vì vậy không có giải pháp. Không hề có giải pháp nào. Toàn hảo là gì? Chưa bao giờ có ai định nghĩa được toàn hảo là gì vì nó không thể được định nghĩa, vì đó là một khái niệm vô nghĩa. Cho nên con yêu dấu, đó là một vấn đề không thể giải quyết. Con không thể trở nên toàn hảo. Một khi cái Ta Biết thấy được điều này, nó có thể lấy quyết định: “Tôi không còn muốn chú ý của tôi bị buộc chặt vào việc cố giải quyết vấn đề bất khả này.” Và con để cho ngã chết đi.

9.3. Con đường thoát khỏi quá khứ

Đối với việc khắc phục quá khứ thì có lẽ nó hơi khác một chút. Cho dù con cũng có một cái ngã phóng chiếu là con không thể thoát khỏi quá khứ, nhưng đâu là vấn đề mà ngã này phóng ra? Đó không hẳn là một vấn đề đơn giản vì ngã không thật sự phóng chiếu là có gì đó con cần giải quyết – vì không có chuyện gì để giải quyết. Quá khứ, theo ngã này, đã được khắc trên đá nên con không bao giờ có thể thoát ra khỏi. Điều mà ngã thật sự phóng chiếu là con phải cảm thấy tồi tệ về những gì đã xảy ra trong quá khứ và con phải tiếp tục cảm thấy như vậy. Thật không có vấn đề gì cần giải quyết ở đây, theo nghĩa là ngã không cho con một lối thoát.

Một số các ngã kia, chúng cho con một lối thoát, ít ra ảo tưởng là một ngày con có thể trở nên toàn hảo. Nhưng ngã này không cho con lối thoát vì con không thể thay đổi quá khứ dựa theo những gì nó phóng chiếu. Tất nhiên con có thể nhìn ra đây cũng là một tình huống bất khả, nhưng hầu hết mọi người đều đã được lập trình từ nhiều tiền kiếp để tin rằng có một sự thật nào đó ở đây, theo nghĩa là con không thể thay đổi những gì đã xảy ra trong quá khứ, con không thể gỡ bỏ những gì con đã làm. Nếu con đã phạm vào cái gọi là lỗi lầm thì con không thể hoàn nguyên.

Vậy con có thể làm gì để vượt quanh vấn đề, để nhìn nó một cách khác? Con có thể khai triển những gì thày đã trao cho con trong bài giảng trước khi thày nói là mọi chuyện con làm đều được làm với năng lượng cơ bản, dạng cơ bản của Ánh sáng Mẫu-Vật cấu tạo bốn thể phàm của trái đất, bốn tầng cõi của vũ trụ vật chất trên trái đất. Có một năng lượng ở đó, và tất cả những gì con làm đều được làm với năng lượng này. Đơn giản, như các thày đã giảng, năng lượng này giống như những cái chấm trên một màn hình có thể bật hay tắt, có thể khoác vào những màu sắc và hình thù khác nhau, có thể sắp xếp thành những mô thức khác nhau.

Như thày đã nói, con cần bắt đầu luyện tập để thấy được năng lượng đằng sau các hình ảnh mà tâm con phóng chiếu lên năng lượng. Hiển nhiên đây không phải là một công việc dễ dàng như các thày mô tả, vì một lần nữa, từ rất lâu tâm thức tập thể đã bị đông đặc lại chung quanh một số hình ảnh như chẳng hạn thế nào là tội lỗi, thế nào là sai trái. Con phải xấu hổ vì đã làm chuyện sai trái, và con phải cảm thấy là mình không bao giờ có thể được chuộc lỗi. Tất cả những thứ này và nhiều, rất nhiều thứ nữa có mặt trong tâm thức tập thể, nhưng con vẫn có thể luyện tập để nhận ra là tất cả đều được tạo bằng năng lượng và năng lượng thì chỉ là năng lượng. Đó chỉ đơn giản là năng lượng.

Con có thể nhìn vào một tình huống nào đó, như trong ví dụ thày đã cho là màn hình chiếu bóng có một số hình ảnh con đang xem, nhưng thực sự đó chỉ là những mô thức ánh sáng. Con có thể nhìn vào một tình huống nào đó trong quá khứ xuyên qua một cái ngã đặc thù bảo rằng con đã phạm lỗi lầm và con không bao giờ có thể chuộc lỗi và con phải xấu hổ. Con có thể nghĩ là tình huống đó đã xảy ra cho nên nó có một thực tế khách quan nào đó. Nó không chỉ là một chuyện chủ quan. “Không, chuyện đó đã xảy ra. Người khác đã thấy nó xảy ra. Thượng đế đã thấy nó xảy ra.” Mắt trời nhìn thấy mọi chuyện và mắt trời đã thấy nó xảy ra, và Thượng đế sẽ mãi mãi cầm giữ hình ảnh lỗi lầm của con và con sẽ không bao giờ thoát ra được. Mọi người khác sẽ mãi mãi cầm giữ lỗi lầm của con và con sẽ không bao giờ thoát ra được. Nói cách khác theo sự phóng chiếu của các ngã và sa nhân, một tình huống đã xảy ra trong quá khứ với một thực tế khách quan. Và đây là điểm con có thể bắt đầu chất vấn điều này và ngộ ra một sự thật vô cùng, vô cùng đơn giản.

9.4. Quá khứ của con không có thực tế khách quan

Thượng đế, như các thày đã nói: Thượng đế Sáng tạo không ngó đến bất cứ gì xảy ra trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Cho đến khi bầu cõi thăng thiên thì Đấng Sáng tạo sẽ hoàn toàn không nhìn đến nó. Tâm thức Thượng đế mãnh liệt đến độ nó sẽ có đủ loại tác động, và ngài đã ban quyền tự quyết cho các sinh thể đồng sáng tạo của ngài. Nói chung, một bầu cõi chưa thăng thiên ra đời khi Thượng đế tạo ra một bầu cõi, gửi sinh thể đồng sáng tạo vào đó rồi nói: “Bây giờ các con hãy đi ra và làm bất cứ gì các con muốn trong bầu cõi này vì ta sẽ không nhìn đến nó.” Khi bầu cõi thăng thiên thì Đấng Sáng tạo sẽ nhìn, nhưng trước đó thì không. Thượng đế đích thực không phán xét con, không lên án con và không cầm giữ hình ảnh về những gì con đã làm trong quá khứ. Loại thượng đế nào mới cầm giữ? À, các thượng đế giả do sa nhân tạo ra, nhưng liệu đó có phải là thượng đế mà con cần quan tâm hay không? Thày không nghĩ vậy, con yêu dấu, khi con biết những gì con biết.

Nếu Thượng đế không cầm giữ hình ảnh về sự việc trong quá khứ, thì hình ảnh những việc con đã làm sẽ tồn tại ở đâu? Đâu là nơi một hình ảnh khách quan sẽ tồn tại? À, con có thể nói: “Trong các Hồ sơ Akasha.”

Phải, trong Hồ sơ Akasha có ghi lại những gì con đã làm trong quá khứ, nhưng đó không phải là một bản ghi những gì con đã nhìn thấy, hay sa nhân đã nhìn thấy, hay người khác đã nhìn thấy. Đó là một bản ghi những sóng năng lượng, những mô thức sóng năng lượng. Hồ sơ Akasha chỉ đơn giản ghi nhận mà không đưa ra một phán xét nào về cách con nhìn tình huống xảy ra. Những hình ảnh mà con gán lên đó, những xét đoán mà con gán lên đó bảo rằng con đã lầm lỗi, không hề được ghi lại trong Hồ sơ Akasha. Các mô thức sóng năng lượng được ghi lại ở đó nhưng chỉ vậy thôi. Hồ sơ Akasha không nhìn sự việc một cách ý thức và đưa ra lời phán xét việc làm của con là sai trái và con phải cảm thấy như thế nào.

Vậy thì những ý tưởng kia bảo rằng con đã lầm lỗi, chúng được cất ở đâu chứ? À, chúng có thể nằm trong tâm của người khác, và một số những người này có thể là sa nhân. Vậy cái nằm trong tâm người khác – và chắc chắn cũng nằm trong tâm sa nhân – cái đó có khách quan không? Không đâu, đấy là một xét đoán hoàn toàn chủ quan.

Có một nơi khác nữa mà bản ghi các lầm lỗi cũ của con có thể được cất giữ là trong bốn thể phàm của chính con, trong chính tâm con – nhưng cái này có khách quan không? Cũng không, đấy không phải là một thực tại khách quan vì nó hoàn toàn tùy thuộc vào nội dung tâm thức con, kể cả những ngã tách biệt đã pha màu nhận thức của con.

Hẳn con thấy được điều thày đang nói chứ, con yêu dấu? Không hề có một thực tế khách quan nào trong những gì con đã làm trong quá khứ. Phải, có một mô thức sóng năng lượng nào đó trong Hồ sơ Akasha, nhưng toàn bộ ý tưởng cho rằng con là kẻ có tội, rằng con là người xấu, rằng con đã lầm lỗi, thì cái này không có bất kỳ thực tế khách quan nào. Nó không được ghi lại ở bất cứ đâu.

Các thày là chân sư thăng thiên, các thày không giống như Thượng đế của Kinh Cựu ước. Các thày cũng không cầm giữ một hình ảnh nào về con. Các thày có thể thấy một số điều con làm nhưng các thày không phán xét con với tâm thức nhân gian. Các thày không phán xét con gì hết. Các thày chỉ nhìn con từ nhãn quan các thày, và điều này thì các thày đã cho con hé thấy nhiều lần, nó rất khác với nhãn quan con người. Một lần nữa, những gì con đã làm trong quá khứ không hiện hữu trong bất kỳ thực tại khách quan nào cả. Chỉ có chính con hay những người khác mới có thể phú cho nó một sự hiện hữu lâu dài. Đây tất nhiên là một trong những ân sủng của việc tái đầu thai – nếu có thể nói như vậy. Nếu con sống thọ một ngàn năm và có những người con đã quen biết cả ngàn năm, thì họ vẫn có thể giơ ngón tay lên bảo rằng: “Bạn có nhớ bạn làm gì cách đây 992 năm không?” Nhưng với tuổi thọ ngắn ngủi mà các con có, họ chỉ có được vài chục năm để giơ ngón tay như vậy. Ở đây con thấy được là có một thực tế đi đôi với việc đầu thai, và thực tế này là như sau: Con có thể đem theo con từ kiếp này sang kiếp khác các hình ảnh cá nhân chủ quan của mình về những gì mình đã làm trong một tiền kiếp, con có thể đem chúng theo con trong bốn thể phàm của con – thường thường thì con không ý thức, nhưng con có thể đem chúng theo với con. Còn những người khác, họ không đem theo các hình ảnh này với họ. Họ có thể mang theo một cảm nhận nào đó về mối quan hệ với con nhưng không phải là chi tiết cụ thể.

9.5. Biết ký ức được lưu trữ ở đâu

Nói cách khác, nếu con lấy một tình huống đã xảy ra cho con cách đây 300 năm có liên quan đến hai người khác, con có thể đặt mình vào một trạng thái hồi quy thôi miên (hypnotic regression), quay trở lại tiền kiếp đó và lấy lại ký ức đó. Con có thể đưa hai người kia cũng trở về tiền kiếp, lấy lại và đánh thức lại ký ức của họ về kiếp đó, và họ sẽ nhớ lại những gì chính họ đã làm cùng cách nhìn của họ về tình huống. Nhưng họ sẽ không nhớ được chi tiết những gì con đã làm cùng cách nhìn của con về tình huống. Con cần hiểu ở đây là con mang với con từ tiền kiếp những gì chính con đã làm và cách nhìn của con, nhưng người khác thì không thể nhớ lại việc con đã làm 300 năm về trước. Con cần nhìn nhận ở đây là ký ức của con về quá khứ chỉ thực sự hiện hữu trong bốn thể phàm của con mà thôi.

Như các thày đã có nói, con không có quyền năng thay đổi các thể phàm của người khác, nhưng con quyền năng làm chủ bốn thể phàm của con và loại bỏ những gì con muốn loại bỏ ra khỏi chúng. Trở về với câu nói của thày rằng Hồ sơ Akasha không ghi lại cách con nhìn việc làm của con mà chỉ ghi lại một số mô thức sóng năng lượng. Bây giờ con hãy tưởng tượng con đang đi dạo trong công viên gần nhà nơi đó có một sân chơi cho trẻ em, con nghe thấy tiếng ồn ào rất lớn ở đó và con lại gần để tìm hiểu xem chuyện gì. Con thấy một người đàn ông đứng đó nhìn xuống bãi chơi cát, la hét rất to tiếng. Con tiến lại gần và nhận ra một người cha đang nói chuyện với đứa con hai tuổi đang xây một lâu đài cát xinh xinh trên bãi chơi cát. Ông ta quở trách đứa con hai tuổi sao lại xây lâu đài cát xấu xí, sao nó hư đốn vì lâu đài sẽ không bao giờ được xóa bỏ, sao nó đã làm hỏng cát, sao tội của nó rất lớn – đủ lời mắng nhiếc mà người cha đổ lên đầu con mình. Đứa bé trông rất sợ hãi, nó không thích bị la mắng.

Thoạt đầu con rất bối rối trước tình huống này, nhưng rồi con nhận ra là điều người cha thực sự muốn nói là đứa bé khi xây lâu đài bằng cát đã phạm một lỗi lầm sẽ không bao giờ tẩy xóa được. Bất chợt không suy nghĩ, con bước vào nói: “Này ông bạn, ông hãy nhìn này,” và con lấy tay gạt phăng chiếc lâu đài cát đi, khiến cho cát trở lại tình trạng nguyên sơ của nó. Không còn hình thù gì ở đó nữa mà chỉ còn cát thôi. Con nói: “Đấy, ông có còn trách con ông là nó đã phạm một lỗi lầm không bao giờ xóa bỏ được hay chăng?” Người cha tất nhiên không biết nói gì cho nên con bước đi, và trong khi con bước ra khỏi sân chơi thì con nghĩ: “Hay thật, mình vừa chặn họng được ông này.”

Thế rồi trước sự ngỡ ngàng của con, con nhận thấy một tấm gương đứng ngay ở đó, con chợt soi vào gương và con ngộ ra: “Ủa, mình có đang làm y như vậy đối với chính mình hay chăng? Mình có đang tự mắng nhiếc vì mình đã xây một lâu đài bằng cát, đã phạm một lỗi lầm không bao giờ tẩy xóa được, trong khi kỳ thực bất cứ gì mình đã làm trên hành tinh này đều được làm với năng lượng mềm mại như cát, và mình có thể đưa năng lượng trở về trạng thái không phân biệt của nó cũng dễ dàng như đống cát mình vừa gạt phăng hồi nãy?” Con ngộ ra đây chính là điều con đã từng làm – không phải là con mà là một ngã tách biệt đặc thù trong bản thể con đã từng làm, không những trong kiếp này mà rất có thể trong nhiều tiền kiếp, có lẽ suốt hai triệu năm trời. Đây là một trong những cái ngã tập thể mạnh mẽ nhất ở đây trên trái đất, nó khiến con người nghĩ rằng một khi mình đã xây một lâu đài cát bị dán nhãn là “sai lầm” hay “tồi tệ” thì lâu đài sẽ không bao giờ tẩy xóa được.

9.6. Quyết định xóa bỏ lâu đài cát

Nhưng đó là một lâu đài cát. Thày không cần biết con đã làm bất cứ gì trong một kiếp trước. Một số đệ tử của chân sư thăng thiên đã có những hé thoáng hay hồi tưởng hay hồi quy về tiền kiếp, và họ nhìn thấy họ đã khiến cho cả một nền văn minh sụp đổ. Nhưng thày không cần biết con đã làm gì, con yêu dấu, đó vẫn chỉ là một lâu đài bằng cát và con có thể gạt bay nó đi. Con sẽ cần gì để gạt bay nó đi? Trong nhiều trường hợp khi con làm gì đó tác động đến người khác, con đã tạo ra điều các thày gọi là nghiệp, mà thực sự chỉ là một dạng năng lượng tha hóa. Con có thể làm một số chuyện. Con có thể hối chuộc với người kia, và nhiều người trong các con đã làm điều này trong các kiếp trước. Cho dù con đã làm ai tổn thương trong một dĩ vãng xa xôi, con đã đền bù trong kiếp trước rồi.

Con có thể đọc chú, đọc thỉnh để làm tan năng lượng. Con có thể giải thể cái ngã đã khiến con hành xử như vậy, và con yêu dấu, nhiều người trong các con đã làm rất nhiều việc như vậy rồi trong các kiếp trước. Nhiều người trong các con có khả năng sử dụng các dụng cụ do các thày trao truyền đã rất nhanh chóng đạt tới mức con đã đền bù, con đã làm những gì cần làm để được tự do khỏi quá khứ, ngoại trừ chỉ một điều thôi, và điều này là lấy quyết định ý thức là con sẽ gạt bay lâu đài cát kia đi. Lâu đài cát là hình ảnh con cầm giữ trong tâm mà con đang áp chồng lên cát, lên năng lượng, lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Như thày đã nói, đó là ký ức của con về một sự cố. Đó chính là hình ảnh con đang cầm giữ, và khi con nhận biết mình đã làm gì đó trong quá khứ vẫn đè nặng lên mình, thì con hãy dùng các dụng cụ, con hãy làm những gì cần làm. Con phải nhận biết, con phải nhạy cảm với sự kiện là sẽ tới điểm khi điều duy nhất, điều tuyệt đối duy nhất, còn sót lại cho con làm là gạt bay hình ảnh con cầm giữ trong tâm con.

Cái đó đòi hỏi con lấy một quyết định, quyết định ngừng bám lấy hình ảnh đó về bản thân, rằng mình là một người xấu xa đã phạm phải lỗi lầm hay những chuyện như vậy. Con có nhận ra điều thày vừa nói cách đây mấy phút? Đấng Sáng tạo không ngó đến những việc con làm trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Ngài đã nói: “Một bầu cõi chưa thăng thiên là một bãi chơi cát vũ trụ.” Không có gì con làm có thể khiến cho cát bị tổn thương, không có gì con làm có thể trở nên vĩnh hằng. Con hãy đơn giản gạt bay cái hình ảnh con cầm giữ trong tâm rằng mình là người xấu, mình là người có tội, mình là một kẻ thất bại không có quyền ở đây, không muốn ở đây, thù ghét ở đây – tất cả hình ảnh loại đó. Sẽ tới điểm con phải đơn giản nhìn vào hình ảnh và gạt bay nó đi. Không có gì phải giải quyết, không có gì phải làm ở đây, hãy chỉ gạt bay nó đi và cho phép mình quên mất là hình ảnh đã từng hiện hữu.

9.7. Chất vấn thực tế của “thế giới thực”

Con có thể luyện tâm mình để nhìn xa hơn các hình ảnh và thấy được năng lượng đang rung động nhịp nhàng đằng sau hình ảnh. Con còn có thể luyện tâm để thấy thế giới vật lý là một rạp hát. Khi con bước lên sân khấu và đi ra phía sau dàn trang trí, con thấy tất cả chỉ là chuyện dàn dựng. Không có gì ở đây là thực, không có gì ở đây là thường hằng. Nó trông có vẻ thực từ một góc nhìn nào đó, cụ thể là từ góc nhìn của khán giả. Đâu là mục đích của một vở kịch trong nhà hát? À, là để cho khán giả một loại trải nghiệm đặc thù. Nếu con đang theo dõi kịch Hamlet của Shakespeare và có những diễn viên xuất sắc hiểu cách nhập vào vai diễn, thì con cũng có thể nhập vào vai đó và có một trải nghiệm độc đáo khi xem màn trình diễn. Cũng đúng y như vậy với mọi thứ khác xảy ra trong cái con gọi là “thế giới thực”.

Có lẽ ảo tưởng lớn nhất mà sa nhân đã áp đặt lên nhân loại là bảo rằng mọi chuyện xảy ra trên trái đất là “thế giới thực.” Chẳng có gì thực trong đó theo một nghĩa khách quan. Toàn bộ mục đích của trái đất là đem lại cho các dòng sống một trải nghiệm đặc thù. Tất nhiên, con yêu dấu, để có được trải nghiệm này thì con phải tin là nó thực. Là một đệ tử tâm linh tinh tiến, sẽ tới điểm con sẵn sàng chất vấn cái thực của trải nghiệm mà mọi người khác đang có. Liệu có một thế giới khách quan chăng? Như các nhà vật lý học đã đặt câu hỏi, liệu thế giới có mặt ở đó hay không khi không có ai đang nhìn? Câu trả lời là năng lượng có ở đó, nhưng các hình ảnh do tâm con người tạo ra khi họ nhìn năng lượng thì không có đó. Chúng không có thực tại khách quan nào cả.

9.8. Tẩy xóa quá khứ

Con yêu dấu, con có hiểu những gì thày nói ở đây? Không, con không hiểu, và đó là tại sao con cần suy nghiệm điều này và suy nghiệm thêm nữa. Nếu có cây đổ trong rừng và không có ai ở đó, thì liệu nó có tạo tiếng động hay không? Nếu cây đổ thì sẽ có một số sóng năng lượng hiện hữu, là sóng năng lượng cấu tạo cái con gọi là cây. Các sóng này chuyển động cho tới khi chúng tương tác với các sóng năng lượng cấu tạo mặt đất. Điều này tạo ra một mô thức giao thoa sẽ gửi ra những sóng năng lượng khác nữa mà con nhận thức là âm thanh. Các sóng năng lượng vẫn ở đó nhưng đó không phải là âm thanh. Đó chỉ là sóng năng lượng mà thôi.

Bây giờ con thử lấy tình huống này. Chúng ta đang ở Đông Âu cho nên chúng ta hãy thử nhìn vào việc Liên Xô chiếm đóng Đông Âu. Nếu không có người nào ở đây thì liệu chuyện này đã có xảy ra hay không? À, nếu không có ai ở đây thì nó đã không xảy ra, sẽ không có ai để khiến nó xảy ra. Vấn đề ở đây là, liệu đã có một sự cố khách quan nào diễn ra hay không? Có, đã có một mô thức nào đó, một sự tương tác nào đó, một mô thức sóng năng lượng vô cùng phức tạp, nhưng trải nghiệm mà người ta có không nằm ở mức sóng năng lượng, nó nằm trong tâm con người. Người ta gọi đó là cái gì đó, người ta nhìn nó theo một cách nào đó.

Thày không đang chê trách ai ở đây, con yêu dấu. Thày không chê trách các dân tộc Đông Âu cảm thấy mình bị Liên Xô đàn áp, ức chế. Thày không đổ lỗi cho họ mà thày chỉ muốn nói là đã có một tình huống khách quan theo nghĩa là một số người đã thực hiện điều con gọi là chiếm đóng Đông Âu, trấn áp người dân nước khác. Có những người đã làm công cụ cho việc thực hiện điều này trong cõi vật lý. Nhưng cách con người trải nghiệm điều này là sản phẩm của một mô thức giao thoa, một sự tương tác giữa các sóng năng lượng được kích hoạt bởi đoàn quân chiếm đóng của Liên Xô với các sóng năng lượng trong tâm những người bị chiếm đóng. Đã có một trải nghiệm mà mọi người ở cả hai bên đã nếm trải, nhưng đây không phải là một trải nghiệm khách quan. Kỳ thực con có khả năng bước lui lại để có được một tầm nhìn hoàn toàn mới lạ về chuyện này. Thay vì nhìn các biến cố mà mọi người đều đồng ý là đã diễn ra, con có khả năng nhìn các sóng năng lượng để thấy chúng giống như hạt cát trong bãi chơi cát. Bất kể có bao nhiêu người đã tham gia vào biến cố này, các năng lượng vẫn có thể dễ dàng được tẩy xóa và đem trở về trạng thái nền của chúng.

Tất nhiên, đây sẽ là một công việc phức tạp vì mọi người liên hệ sẽ phải quyết định buông bỏ các hình ảnh của mình về quá khứ. Nếu chẳng hạn như dân tộc Estonia hội tụ lại, nhìn vào quá khứ của mình và nói: “Chúng tôi như một tập thể sẽ buông bỏ mọi cảm xúc mình đã có về quá khứ. Chúng tôi sẽ hoàn toàn để cho các cảm xúc này ra đi. Thậm chí chúng tôi sẽ không tha thứ cả cho người Nga về những gì họ đã gây cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ buông bỏ toàn bộ ý tưởng là có gì đó cần phải tha thứ. Chúng tôi sẽ gạt bay các hình ảnh mình còn cầm giữ.” Nếu mọi người đều làm vậy thì rất có thể dân tộc Estonia sẽ vô cùng mau chóng thoát ra khỏi quá khứ của họ.

Thày không nói đây là một kịch bản có nhiều xác suất xảy ra trong vòng hai tuần tới. Nhưng thày sẽ nói, cách duy nhất để bất cứ ai hay bất cứ nhóm người nào thoát ra khỏi quá khứ là đạt tới điểm họ có thể nói: “Bất cứ gì đã xảy ra chỉ là lâu đài cát. Trong tầm nhìn vũ trụ dài hạn thì nó cũng chỉ đáng kể như một lâu đài cát. Nó chỉ là một tương tác của sóng năng lượng. Thật là vô nghĩa mà cầm giữ một hình ảnh về nó, gọi nó là đúng hay sai, là cái này hay cái nọ. Câu hỏi thật sự ở đây là: Chúng ta có muốn thoát ra khỏi nó hay không? Và nếu chúng ta muốn thoát ra thì chẳng có gì ở đây phải giải quyết. Chúng ta không phải trừng phạt bất cứ ai. Chúng ta không phải thay đổi bất cứ gì trong cái quá khứ không thể thay đổi. Chúng ta chỉ phải nhận ra là điều buộc chặt chúng ta với quá khứ là hình ảnh của chúng ta về quá khứ. Chúng ta phải quyết định gạt bay nó đi. Thế là chúng ta tự do.”

Tất nhiên, họ sẽ phải làm công việc dọn sạch tất cả các năng lượng cần được tiêu hủy, tất cả các ngã cần được giải quyết cùng tất cả những thứ như vậy. Thày không bảo là nó rất có thể xảy ra, con yêu dấu, mà thày chỉ nói là nó có khả năng xảy ra, và thày nói vậy để con – ở mức cá nhân của con – có thể nhận ra là mặc dù việc khiến mọi người đồng ý là một chuyện phức tạp, nhưng tuyệt đối không có gì ngăn cản con nhìn vào quá khứ của chính con. Con có khả năng buông bỏ bất kỳ hình ảnh nào mà con nhận biết, khi con dùng dụng cụ của các thày để quay trở về các chấn thương trong tiền kiếp, để nhìn lại hoàn cảnh trong rạp hát, xem lại buổi trình diễn, và con có thể thấy sinh thể đó bị đóng băng trong thời gian và các sinh thể kia cũng bị đóng băng trong thời gian là vì con còn cầm giữ một hình ảnh về nó. Con có khả năng nhìn thấy nó và để cho nó ra đi, để cho nó chảy tan ra, con yêu dấu. Đây là những gì con có quyền năng làm được và con có thể dùng các dụng cụ này.

9.9. Gạt bay đi hình ảnh ký ức

Như thày đang nói với con ngay bây giờ, sẽ tới một điểm khi con đã dùng đủ các dụng cụ đến độ điều duy nhất còn sót lại là con nhận biết là con, trong tâm con, còn bám giữ một hình ảnh và con quyết định gạt bay nó đi. Khi con lấy bài giảng vô cùng thâm thúy của Mẹ Mary, điều con đã thực sự quyết định làm, điều đã đem con đến hành tinh này chính là sự kiện con đã muốn – Hiện diện TA LÀ của con đã muốn – trải nghiệm chính mình trên hành tinh này, trong môi trường này. Đấy, những cái ngã con mang, những hình ảnh con giữ về quá khứ bảo rằng con đã lầm lỗi, chúng đang ngăn chặn con trải nghiệm chính mình trên hành tinh này. Con không đang trải nghiệm cái ta thực của con mà con đang trải nghiệm cuộc sống trên trái đất qua một cái ngã đặc thù.

Các thày đã giảng là cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết – đây chỉ là từ ngữ thôi con – nhưng theo một nghĩa nào đó, cái Ta Biết trung hòa đối với việc con ở trên trái đất. Nó có một sự tò mò nào đó về việc ở trên trái đất: “Khi mình trải nghiệm tình huống này thì mình sẽ cảm thấy gì?” Đây là tại sao con đã bước vào rất nhiều hoàn cảnh trong tiền kiếp, vì cái Ta Biết bảo rằng: “Mình sẽ cảm thấy gì đây, mình sẽ trải nghiệm chính mình như thế nào trong hoàn cảnh này đây?” Khi con khoác vào và tạo ra các ngã tách biệt thì trải nghiệm của con bị những ngã này pha màu. Điều các thày nói với con là con có khả năng quay trở về điểm khi cái Ta Biết, trong tư cách là nhận biết thuần khiết, một cái ta trung hòa, sẽ chỉ đơn giản trải nghiệm các điều kiện một cách trung hòa. Con cũng có thể vươn lên cao hơn và trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con đang trải nghiệm hoàn cảnh đó như thế nào. Đây là khung tham chiếu tối hậu cho phép con bước ra khỏi sự đồng hóa với các điều kiện con gặp, ở trong bốn thể phàm của con lẫn ở ngoài bốn thể phàm của con.

Các thày đã dạy con là con mang những ngã đó trong bốn thể phàm. Ngã đó là gì chứ? Chúng được cấu tạo bằng sóng năng lượng của Ánh sáng Mẫu-Vật này, những cái chấm này mà một mô thức đã được áp chồng lên. Thế thì ngã chỉ là một hình ảnh, và con có thể nhìn vào ngã và quyết định gạt bay nó đi. Các thày đã bảo con trước đây là con hãy để cho ngã chết đi, nhưng nếu con thấy sự hữu ích trong việc xem ngã là một hình ảnh và tưởng tượng con chỉ cần tẩy xóa hình ảnh này y như một lâu đài trên bãi cát, thì con hãy sử dụng cách hình dung này thay vào đó. Cách nào hiệu quả hơn cho con thì con cứ dùng.

Con cần tìm ra cách để dần dần nhận diện là thực tế duy nhất ở đây, điều duy nhất còn sót lại, là hình ảnh và con đang tẩy xoá hình ảnh này đi. Con cho nó ra đi. Điều này, con yêu dấu, không đến nỗi khó khăn lắm nếu con dùng tất cả các dụng cụ mà con có. Thày hoàn toàn công nhận là con không thể làm vậy trong vòng năm phút. Không có ai trong các con có thể làm được ngay lập tức, nhưng vậy thì đã sao? Nếu con đã đầu thai trên trái đất này suốt hai triệu năm trời và chỉ trong vòng vài năm con có thể khắc phục tất cả những tập khí cũ đó, tất cả những ngã đó mà con đã khoác vào, thì thật nhanh quá sức rồi đó. Khi con nhìn trong chiều dài thời gian vũ trụ thì nó ngắn chưa bằng một chớp mắt.

9.10. Khắc phục sự nóng lòng

Chỉ còn một điều nữa mà thày muốn nói. Thày cũng biết là thày đã cho con rất nhiều rồi, nhưng thày là chân sư MORE cho nên thày sẽ cho con nhiều hơn, và điều này đơn giản là như sau. Ở một mức độ nào đó, điều này cũng áp dụng cho các cư dân nguyên thủy của địa cầu đã đạt đến một tầng nào đó, nhưng trước hết nó áp dụng cho các avatar. Nếu con nhìn một avatar đã đến trái đất và sống ở đây rất lâu đời – hai triệu năm không phải là thời gian tất cả các con đã sống ở đây, nhưng một số – nhưng dù sao thì tất cả các con đã ở đây rất lâu. Đâu là đặc tính mà con thấy nơi mọi avatar? Đơn giản là điều này, con yêu dấu: sự thiếu kiên nhẫn. Các con đều rất, rất thiếu kiên nhẫn.

Trước hết, các con thiếu kiên nhẫn với chính mình. Một lần nữa, câu này không có ý chê trách gì con. Con yêu dấu, nếu con đã quen biết thày khi thày còn trong hiện thân vật lý thì con đã có thể thấy tính thiếu kiên nhẫn gần như lên đến cực điểm – nếu con đã thấy Saint Germain, hay thậm chí con có thể thấy câu chuyện về Giê-su nóng lòng đối với các tông đồ như thế nào. Con yêu dấu, các thày không chê trách gì con nhưng các thày sẽ nói là tất cả các con đều có thể được lợi lạc nếu con nhận biết là mình mang xu hướng vô cùng nóng lòng đối với bản thân mình. Khi có ai nói là con có khả năng thực hiện một điều gì, con cảm thấy mình chỉ cần búng tay là phải làm được ngay. Con hãy cho con một chút thời gian – cho con một chút thời gian.

Thậm chí con có thể ngẫm xem là sa nhân rất lão luyện trong việc khiến cho các sinh thể tâm linh bị trật đường rày trên con đường phát triển quả vị Ki-tô, đặc biệt là các avatar. Chúng rất giỏi làm chuyện này. Khi con đạt đến một tầng nhận biết nào đó, chúng sẽ cố khiến con khoác vào một số ngã nhất định sẽ làm trật bánh xe tăng triển của con. Một trong những ngã này là ý tưởng khiến con nóng lòng, rằng con phải có khả năng thực hiện một việc gì đó rất nhanh. Con có thể nhận ra đây là một ngã tách biệt và để cho nó chết đi, con yêu dấu. Hãy cho con một chút thời gian. Con hãy thiền quán về Phật Gautama vì thày thật sự là vị chân sư có thể giúp con khắc phục tính thiếu kiên nhẫn, giúp con nhận ra rằng thời gian mặc dù nó có ở đó nhưng nó không quan trọng gì lắm. Liệu con sẽ tốn năm phút hay năm năm? Thật chẳng quan trọng gì lắm, và như vậy con có thể khắc phục tính nóng lòng này. Con có thể cho mình một chút thời gian.

Thày nói ra điều này vì đối với hầu hết các con, vấn đề không phải là con hóa ra dễ dãi và nói: “Ồ chân sư bảo là tôi có rất nhiều thời gian, cho nên tôi sẽ thư giãn và thôi không đọc thỉnh và cũng không học sách về ngã gốc nữa. Tôi sẽ không quan tâm đến chuyện đó. Tôi sẽ chỉ lo vui hưởng cuộc đời và tự ban cho mình một ly sô-cô-la ngon lành.” Đây không phải là mối nguy cho hầu hết các con. Nó có thể là mối nguy cho một số, và con cũng thấy nhiều người trong lãnh vực Thời mới có đúng cái tư duy này: “Mọi chuyện đều tốt đẹp cho nên chúng ta hãy thư giãn và tận hưởng cuộc đời.” Dẫu vậy, vấn đề của con là con thiếu kiên nhẫn, và tính thiếu kiên nhẫn sẽ làm gì con? Nó ngăn cản không cho con an bình với việc mình ở đây.

Chủ đề của hội nghị này là gì? An bình với việc mình ở đây trên trái đất. Con hãy để ý tính thiếu kiên nhẫn, thấy nó là một cái ngã, và con chỉ quyết định là con không cần quá khắt khe với chính mình. Con không cần hoàn thành mọi chuyện trong vòng năm phút vì theo một nghĩa nào đó, thời gian không có. Thời gian là một ảo tưởng tập thể do tâm thức tập thể tạo ra. Nó được phép tồn tại vì đối với một số người, ý tưởng rằng thời gian có thể cạn kiệt chính là động lực duy nhất sẽ khiến họ ngừng làm những gì họ đang làm.

Với lời này, thày đã nói xong những gì thày muốn trao cho con – ít nhất trong bài giảng này – cho nên thày cảm ơn sự chú ý của con. Thày muốn các con biết, con yêu dấu, là với số người có mặt ở đây lẫn số người trên chương trình phát sóng, các con đã tạo được một tầm ảnh hưởng to lớn trên tâm thức tập thể, ở Đông Âu lẫn ở tất cả mọi quốc gia nơi các con sinh sống hay kết nối. Các bài thỉnh mà các con vừa đọc rất nhiều uy lực, rất sâu sắc và chúng tác động rất mạnh mẽ, đặc biệt khi có thật nhiều người cùng đọc tạo nên một hiệu ứng nhân lên gấp bội. Thày có thể cam đoan với con là con đã hoàn tất một công việc rất tuyệt vời trong hội nghị này, và thày muốn bày tỏ lòng biết ơn cùng sự khen ngợi của các thày. [Các tham dự viên trong hội nghị cùng đọc các bài thỉnh trong sách Chữa lành chấn thương tâm linh]

11 | Lên tiếng từ một tâm thái an bình

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 1/12/2018 nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su, và ở đây thày muốn đưa ra một số nhận xét về một chủ đề có thể gây bối rối. Thày hiểu hoàn toàn là chủ đề này gây bối rối cho một số các con. Đó là chủ đề quả vị Ki-tô, làm thế nào con thực thi quả vị Ki-tô của con khi lên tiếng trên trái đất. Nếu con ở trong tư duy đường thẳng, con có thể nói là các lời dạy mới nhất mà các thày trao truyền – trong năm qua hay lâu hơn một chút – mâu thuẫn với giáo lý các thày đã trao truyền trước đây. Các thày đã nói là một phần của quả vị Ki-tô của con là lên tiếng, và bây giờ có vẻ như các thày lại bảo rằng con không nên lên tiếng và thay vào đó con nên làm việc trên các phàm linh nội tại, các ngã tách biệt của con và khắc phục chúng.

Con yêu dấu, chìa khóa để giải quyết điều có vẻ bí ẩn như vậy là nhận ra con đường tâm linh có một số giai đoạn. Có một số tầng khai ngộ mà con kinh qua trên con đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Các thày đã trao con một khóa học về tự điều ngự, và khoá học này được thiết kế để đưa con người từ tầng tâm thức thứ 48 lên tầng 96. Tầng 96 là điểm con bắt đầu thực thi quả vị Ki-tô, nhưng hiển nhiên, có một khoảng cách giữa tầng 96 với tầng 144. Con có thể thấy là tất nhiên, những gì con đạt được hay có khả năng đạt được ở tầng 96 chưa phải là quả vị Ki-tô trọn vẹn. Khi con bước lên cao hơn và cao hơn nữa cho đến tầng 144, con có khả năng thể hiện và biểu lộ – nếu có thể gọi như vậy – những trình độ cao hơn của quả vị Ki-tô.

11.1. Khía cạnh trải nghiệm của quả vị Ki-tô

Điều này có nghĩa là khi các thày đưa ra một giáo lý áp dụng cho đệ tử ở tầng 96 hay khoảng đó, dĩ nhiên đây không phải là cùng giáo lý các thày sẽ đưa ra cho những ai ở các tầng cao hơn. Chẳng hạn như khi thày đưa ra khóa học về quả vị Ki-tô [Chìa khóa Chỉ đạo cho quả vị Ki-tô Cá nhân] cùng nhiều giáo lý lúc ban đầu trong đợt truyền pháp này, thì giáo lý đã được đưa ra cho tầng tâm thức khởi sự. Những gì các thày trao truyền bây giờ nhắm đến các tầng quả vị Ki-tô cao hơn, qua đó con cần nhìn nhận là trên đường tu tâm linh có những điều không thể được truyền dạy một cách lý thuyết. Con cần một sự tương tác giữa một đằng là việc tiếp nhận giáo lý cùng sự hiểu biết, và đằng khác là việc thực hành, biểu đạt các giáo lý này và thu hoạch trải nghiệm. Con không trở thành Ki-tô bằng cách ngồi trong lớp học và nhận lời dạy từ một vị thày cho dù vị này đã chứng quả vị Ki-tô. Phải có một yếu tố trải nghiệm nào đó qua sự kiện con bước ra ngoài và nếm mùi trải nghiệm.

Trong những giai đoạn sơ khởi của đợt truyền pháp này, điều mà thày cùng các chân sư khác đã bảo học trò làm là hãy đi ra ngoài và lên tiếng với tầm hiểu biết và nhận biết mà mình có lúc đó. Nhưng tất nhiên, các thày cũng dư biết là học trò sẽ bước ra với một khối lượng ngã tách biệt nào đó và sẽ cảm thấy một sự cưỡng bách phải lên tiếng. Các thày biết là một số đã rất bất đắc dĩ lên tiếng vì những ngã tách biệt mà họ đã vun trồng trong tiền kiếp bảo họ là chuyện lên tiếng thật nguy hiểm, thật không an toàn, và họ không nên lên tiếng gì hết.

Các thày biết là một số người khác lại có tham vọng lên tiếng, hoặc vì họ muốn làm việc gì quan trọng, hoặc họ muốn được các chân sư thăng thiên công nhận, được người khác hay thế giới công nhận, hay đủ loại động cơ khác mà con người có thể có. Các thày cũng biết mình cần phải trao giáo lý cho con người rồi để yên cho mọi người muốn dùng thế nào cũng được, vì cho dù họ có lên tiếng hay không, họ vẫn có được một số trải nghiệm sẽ giúp họ tiến bộ tới mức họ sẵn sàng nhận một giáo lý cao hơn.

Và đó là điều đã xảy ra. Đã có đủ số người vươn lên tới mức họ sẵn sàng nhận được giáo lý cao hơn mà các thày đang ban ra bây giờ. Chúng ta có thể nói là một khối tới hạn (critical mass) trong số các con đã vươn đến mức này, nhưng thày cũng ưa nói là một khối người không phán xét (uncritical mass) trong số các con đã vươn đến mức này vì các con đã vươn lên bằng cách khắc phục thái độ phán xét mà qua đó con cảm thấy phải chỉ trích, phải xét đoán, phải đánh giá mọi chuyện. Đây chính là điểm đặc trưng cho các tầng quả vị Ki-tô cao hơn.

11.2. Quả vị Ki-tô không là một tiến trình đường thẳng

Ở các tầng quả vị Ki-tô thấp hơn, con bắt đầu nhận biết là theo cách nhìn của con ở tầng này, có nhiều sự việc không phải lẽ trên trái đất. Chúng không phù hợp với tầm nhìn cao hơn, chúng không phù hợp với cách mọi chuyện nên diễn ra và chúng cần được thay đổi. Như các thày đã có nói về các avatar đến hành tinh này với cảm nhận mình phải thay đổi nhiều thứ trên trái đất, thì trong những giai đoạn sơ khởi của quả vị Ki-tô con thường bước ra với thái độ là con phải thay đổi một điều gì đó. Con phải khiến cho mọi người nhìn thấy những gì họ chưa thấy, con phải đem lại một sự khác biệt và tạo sự thay đổi.

Đây chính xác là thái độ nhiều avatar đã có khi đến trái đất. Kỳ thực con cần trải nghiệm này trong kiếp sống này để gắn kết lại với động lượng đó. Có những avatar khác đến trái đất mà không lên tiếng, họ không muốn lên tiếng và họ quyết định là họ không muốn lên tiếng trên hành tinh này. Một số những người này đã không bước ra lên tiếng, nhưng điều này vẫn cho họ trải nghiệm nhận được giáo lý và làm gì với giáo lý.

Tuyệt đối không có gì sai trái khi con làm vậy. Như các thày đã nói rất nhiều lần, con có quyền ở một tầng tâm thức nào đó và con có quyền tự biểu đạt dựa theo tầng tâm thức này – không có gì sai trái và các thày hoàn toàn không chê trách gì con. Như Nada đã giải thích cặn kẽ trong sách của thày, các thày chấp nhận con cho dù con có ở tầng tâm thức nào và các thày chỉ nhìn xem làm thế nào giúp được con thăng lên tầng kế tiếp.

Đương nhiên điều này không có nghĩa là các thày muốn con ở lại tầng thấp của quả vị Ki-tô cho đến mãn kiếp. Các thày muốn con có một trải nghiệm nào đó về các tầng thấp, thế rồi phối hợp với những lời dạy các thày đang cho con, các thày muốn giúp con vươn lên những tầng quả vị Ki-tô ngày càng cao hơn. Rồi sẽ tới điểm con đạt đến tầng quả vị Ki-tô nơi con phải chất vấn những gì mình đã làm trước đó. Thày biết là một số người sẽ rơi vào một tư duy đường thẳng vì họ muốn nghĩ là nếu họ đã nhận được một giáo lý chân truyền từ một chân sư thăng thiên về quả vị Ki-tô, thì giáo lý này là tuyệt đối, do đó tất cả những gì họ cần làm là cứ việc đi theo cho đến hết kiếp này.

Thày biết có những người muốn nghĩ như vậy, nhưng đơn giản là họ không nắm bắt được ý nghĩa của quả vị Ki-tô trong tiến trình tự thăng vượt không ngưng nghỉ, và do đó thày không thể cung ứng cho họ. Các thày là chân sư thăng thiên có thể ban một số lời dạy cho những người mang tư duy này, nhưng nếu họ không lưu ý đến lời dạy, nếu họ không xoay chuyển thái độ của họ, thì theo quy luật – thậm chí cả Luật Tự quyết – các thày phải để yên cho họ và không tìm cách bắt họ nhìn ra những gì họ không muốn nhìn thấy.

Vì vậy cho nên các thày sẽ tập trung nỗ lực vào những ai sẵn lòng nhìn ra là trên con đường quả vị Ki-tô sẽ đến lúc con cần chất vấn chính những điều đã đưa con đến mức này của quả vị Ki-tô. Đây không phải là một chuyện con làm chỉ một lần. Đây là một công việc con không ngừng làm, vì con càng lên cao hơn về hướng tầng 144 thì nhịp độ con cần tự chất vấn sẽ càng dồn dập hơn. Thật ra ở những tầng tâm thức cao hơn, con cần tra vấn tất cả mọi thứ ở tầng hiện tại của con hầu thăng lên tầng kế tiếp.

11.3. Đặc tính tuần tự của quả vị Ki-tô

Điều các thày nói với con bây giờ với các giáo lý về avatar, về việc khắc phục chấn thương nhập đời, khắc phục các ngã tách biệt, là ở các tầng thấp hơn của quả vị Ki-tô, điều chấp nhận được – điều cần thiết vì đây là một phần của đường tu – là con lên tiếng với mức nhận biết mà con có, với các ngã tách biệt mà con có lúc đó. Ngay cả nếu nó khiến con bước ra ngoài và cư xử một cách hơi mất cân bằng, có thể quá mạnh mẽ, có thể quá ngoan cố, có thể quá “lửa xanh” (như Chân sư MORE gọi như vậy), thì cách hành xử này của con vẫn chấp nhận được vì con không thể làm gì khác hơn. Chính nhờ con làm vậy mà con nhận được sự phản hồi, con nhận được một khung tham chiếu cho phép con nhìn ra là có lẽ mình phải điều chỉnh cách tiếp cận của mình.

Đó chính là điều sẽ mở tâm con ra để con nói: “Ừ nhỉ, có lẽ tôi đã đến một mức quả vị Ki-tô khi các giáo lý đã đưa tôi đến đây không thể đưa tôi xa hơn được nữa.” Trong bản chất, như các thày đã có giảng, điều này cũng giống như trường hợp một đứa trẻ mới học đi xe đạp phải cần đến hai bánh xe nhỏ ở hai bên (bánh xe tập) để giúp nó giữ thăng bằng. Phải tới một điểm đứa trẻ đã học được cách giữ thăng bằng trên xe đạp thì nó có thể vứt bỏ hai bánh xe tập đi. Nếu con thấy một người lớn đi xe đạp mà vẫn gắn bánh xe tập thì con sẽ nghĩ người này vẫn chưa nắm được một điều gì đó.

Đường tu tâm linh cũng tương tự như vậy. Đó là vì sao các thày đã nói là con cần xem xét phương thức vận hành của con [modus operandi, xem sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]. Con cần xét xem con nhìn trái đất như thế nào: Đây có là một hành tinh thân thiện hay thù địch? Cơ thể này thân thiện hay thù địch? Thượng đế thân thiện hay thù địch? Các chân sư thăng thiên là những vị thày thân thiện hay thù địch? Con cần xem xét những điều đó. Con cần nhìn vào bản thân. Thậm chí con có thể nói: “Tôi có một cái nhìn thân thiện hay một cái nhìn thù địch về chính mình?” Sự thù địch đến từ đâu? Nó chỉ có thể đến từ một ngã tách biệt bị tâm thức sa nhân ảnh hưởng, và do đó tất nhiên nó cần được phép chết đi.

Điều thày muốn cho con ở đây về quả vị Ki-tô và việc lên tiếng là như sau: Việc khắc phục ngã gốc của con, khắc phục tất cả hay hầu hết các ngã tách biệt không có nghĩa là con không lên tiếng nữa. Đạt được sự an bình với việc mình ở trên trái đất – là mục đích của chúng ta trong hội nghị này – không có nghĩa là con sẽ không lên tiếng. Nhưng có nghĩa là con sẽ lên tiếng một cách khác, với một thái độ hoàn toàn khác. Con không bị một ngã tách biệt thúc đẩy con lên tiếng. Con không bị một động lực cưỡng bách con phải lên tiếng. Con không lên tiếng với thái độ là mình phải tạo được một kết quả nào đó. Con không lên tiếng vì con phải thuyết phục hay cải đổi người khác.

Con lên tiếng với thái độ là con ở đây để cho người khác một khung tham chiếu mà họ không đang có bây giờ, xong con để họ hoàn toàn tự do chọn xem họ muốn làm gì với khung tham chiếu này. Con cho họ những gì trước đó họ không có. Con cho họ một nền tảng để họ chọn lựa tốt hơn, chọn lựa cao hơn, chọn lựa nhận biết hơn, nhưng con để yên cho họ chọn như thế nào và chọn những gì. Đây không phải là nhiệm vụ của con trong khuôn khổ Luật Tự quyết. Nhiệm vụ của con là cho họ sự tùy chọn, sự chọn lựa để họ chọn tự do hơn, nhưng sau đó con vẫn cho phép họ chọn bất cứ gì họ muốn. Đó là tại sao điều cốt yếu là con buông bỏ toàn bộ thang điểm tương đối, so sánh của sa nhân về thế nào là toàn hảo và bất toàn, thế nào là đúng và sai cùng toàn bộ tư duy này. Con sẽ tốn một chút thời gian, các thày cũng biết vậy, nhưng điều quan trọng là con bắt tay vào việc để vươn lên tới mức con có thể phát biểu từ một trạng thái nội tâm an bình khi con lên tiếng.

11.4. Phát biểu từ sự an bình nội tâm

Khi con làm vậy, con sẽ hoàn thành hai chuyện: Con sẽ giải phóng người khác để họ tự do phản ứng theo cách họ muốn đối với những gì con nói. Và con sẽ giải phóng chính mình để con tự do phản ứng như con muốn cho dù người ta có chọn lựa thế nào. Con không phiền hà, con không nản lòng. Con không bực tức, con không cảm thấy mình bị chối bỏ khi người ta không tiếp nhận những gì con nói. Kỳ thực con cảm thấy an bình nội tại, niềm vui nội tại là con đã nói nó ra, con đã đem nó ra trước công chúng, con đã đưa nó ra để mọi người sử dụng, và đó chính là mục đích của con. Đó là phần thưởng của con: biết rằng nó đang có mặt trong cõi vật lý và để yên cho mọi người tự do chấp nhận hay bác bỏ.

Con yêu dấu, một số các con có thể cần phải kinh qua một giai đoạn ngừng lên tiếng nếu con đã lên tiếng, để con chỉ nói rất ít. Sứ giả này có mô tả ông cảm nhận như thế nào: ông không còn có quan điểm về bất cứ gì nữa. Dù vậy ông vẫn lên tiếng về đủ loại đề tài, nhưng ông không lên tiếng vì ông có một quan điểm mà ông muốn người ta chứng thực. Đây là điểm con cũng có thể đạt tới, và ở đây thày khuyên con nên xem xét hai điều khi con lên tiếng.    

Một là con có thể chia sẻ những gì con suy nghĩ, những gì con cảm nhận, cách con trải nghiệm vấn đề như thế nào. Con có thể chia sẻ những việc con làm, những việc con chọn làm hay chọn không làm và tại sao như vậy. Con không cố thuyết phục bất cứ ai. Con không bảo ai phải làm gì. Con chỉ đơn giản chia sẻ suy tư của riêng con, cái hiểu của riêng con, ngay cả quá trình đã dẫn con đến cái hiểu đó.

Điều này hoàn toàn khác với việc con đi ra bảo người khác là họ phải nghĩ gì hay tin gì và tìm cách thuyết phục hay cải đạo họ. Con chỉ đơn giản chia sẻ tiến trình của con, và như các thày có nói nhiều lần con yêu dấu, cho dù sa nhân có nghĩ gì, cho dù người khác có nghĩ gì và họ không muốn con làm phiền họ như thế nào, con vẫn có quyền sống trên hành tinh này, con vẫn có quyền biểu đạt bản thân con cùng những kết luận con đã đạt được, những sáng ngộ mà con đã có và quá trình mà con đã kinh qua. Con có quyền chia sẻ những thứ đó.

Nếu điều này làm cho người khác bực bội, con tuyệt đối không cần phải phản ứng lại. Con có thể cho họ tự do chọn cảm thấy như vậy nếu họ muốn, nhưng điều này không ngăn cản con, nó không làm con nản lòng. Đồng thời nó cũng không khiến con khăng khăng muốn thuyết phục họ nhiều hơn. Con không phát biểu với nhu cầu được người khác chứng thực hay đồng ý với con. Cách họ phản ứng lại những gì con nói thật không quan trọng gì với con. Đây là một khía cạnh của việc lên tiếng. Con hãy chia sẻ bản thân con, chia sẻ sáng ngộ của con, tiến trình của con. Hãy chia sẻ cái đó.

Còn cách kia để lên tiếng mà thày đề nghị với con là thay vì con trình bày điều gì là đúng hay sai, là cái này hay cái nọ, con nói về hậu quả của một hành động đặc thù, một quan điểm hay một ý thức hệ hay một hệ tư tưởng đặc thù. Con có thể làm vậy bằng nhiều cách. Chỉ lấy một ví dụ, hôm qua có một người hỏi sứ giả này về vấn đề người nhập cư vào châu Âu, và ông bày tỏ quan điểm đây là hậu quả của việc các nước giàu có ở Âu châu đã không làm đủ. Các nước này đã không sử dụng sự giàu có của mình để trợ giúp người dân châu Phi đạt được mức sống cao hơn ở ngay xứ họ. Cho nên thật sự các biến cố này đang ép buộc các nước giàu phải nhìn ra những gì họ không chịu nhìn thấy, để họ nhận lãnh trách nhiệm mà của cải của họ đã giao phó cho họ. Ông bày tỏ là thật ra tình thế đã bó buộc các nước giàu phải lấy một số chọn lựa. Hoặc họ có thể tiếp tục cho phép người di dân nhập cư với tất cả các hậu quả gây ra cho xã hội họ – họ sẽ làm gì đây với quá nhiều người như vậy? Liệu họ sẽ giam giữ hết trong “trại tập trung” hay họ sẽ tìm cách hội nhập, nhưng làm thế nào hội nhập quá nhiều người như vậy đến từ một nền văn hóa khác lạ? Rõ ràng là hầu hết các nước này sẽ hiểu ra là nếu họ cứ tiếp tục cho phép người di dân vào nước thì họ sẽ khiến cho các hệ thống hiện hữu của họ bị quá tải.

Hoặc vấn đề này sẽ đòi hỏi nhiều nguồn lực hơn hẳn, hoặc có một chọn lựa khác là họ phải tìm cách chặn đứng làn sóng di dân, và ở đây lại có hai chọn lựa. Họ có thể dùng lực lượng hải quân đem tàu vào Địa trung hải đánh chìm bất cứ thuyền bè nào chở người di dân từ Phi châu. Đây là một cách chặn đứng làn sóng, nhưng tất nhiên nó không phù hợp với cách nhìn của hầu hết các nước Âu châu về chính mình. Nếu đây không là một biện pháp khả thi thì đâu là chọn lựa duy nhất còn lại? Đó là xây dựng một cách giải quyết hoàn toàn mới mẻ, là đi đến các nước Phi châu và cải thiện mức sống ở ngay đó hầu người dân không còn muốn bỏ nước ra đi. Không phải là những ai sinh ra ở châu Phi đều có một mong muốn tối thượng và vô độ muốn di dân sang châu Âu. Hầu hết đều thích ở lại châu Phi hơn do họ đã quen với khí hậu nóng ấm, và họ thật không muốn đến sống ở những nước như Đan Mạch chẳng hạn nơi mùa đông thật ảm đạm lạnh lẽo. Họ thà ở lại xứ họ nếu họ có thể có được một mức sống tạm đủ. Đây chính là điều sẽ đòi hỏi các nước Âu châu, ngay cả Liên Âu, có một cách tiếp cận hoàn toàn mới mẻ và dành ra nguồn lực để thực hiện, thay vì như hiện nay chỉ có một chương trình viện trợ nước ngoài mang tính chất vá víu mà chẳng giải quyết được vấn đề.

Trên đây chỉ là một ví dụ về cách con có thể trình bày một vấn đề mà không bảo người khác đúng hay sai, không bảo người khác phải tin gì mà chỉ đơn giản nhìn vào các hậu quả. Đâu là hậu quả của sự việc đang xảy ra? Vì hẳn là ở đây có một tình trạng đang diễn ra. Chúng ta không thể búng ngón tay để làm cho nó biến mất, cho nên chúng ta sẽ đối phó như thế nào? Chúng ta tự nhìn mình như thế nào, và điều này có nghĩa thế nào đối với những chọn lựa mà chúng ta có thể chọn trong thực tế?

11.5. Ki-tô không có quan điểm cố định

Con có thể chuyển cách thức vừa rồi sang nhiều lãnh vực khác của xã hội bởi vì, con yêu dấu, con không nhất thiết – như một sinh thể Ki-tô – phải có một quan điểm cố định về những gì phải xảy ra trong tình thế này. Cái nhìn bao quát của con như một sinh thể Ki-tô ở các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô là con muốn mọi người – mọi người can hệ đến tình trạng này, ngay cả một xã hội hay một dân tộc hay Liên Âu hay Hoa Kỳ hay ai khác nữa – trở nên ý thức hơn để họ có thể có những chọn lựa nhận biết hơn. Và đó là mục đích của con: nâng cao sự nhận biết, chứ không cứ là chế tạo một kết quả vỏ ngoài đặc thù. Kết quả thực sự mà con muốn hòa nhập là việc nâng cao nhận biết. Ở các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, con bắt đầu hòa điệu nhiều hơn với các chân sư thăng thiên. Cho nên con sẽ hòa nhập một cách tự nhiên vào mục đích chủ yếu là nâng cao tâm thức, chứ không phải tạo ra một kết quả đặc thù như Saint Germain đã nói mấy lần.

Đó là một số gợi ý rất sáng giá cho một số các con đang ở tầng mức này. Thày hoàn toàn nhận ra đây cũng là một thử thách cho con, vì để bước ra ngoài và lên tiếng mà vẫn an bình, để giải phóng người khác và giải phóng chính con, nó đòi hỏi con phải chữa lành chấn thương nhập đời của con. Nó đòi hỏi con phải khắc phục các ngã tách biệt đó đang cưỡng bách con phải ảnh hưởng người khác. Như các thày đã nói mấy lần, con cần khắc phục cơ chế muốn thay đổi người khác để cảm thấy dễ chịu hơn về bản thân, hay để tránh cảm giác tiêu cực khi, nói chung, con muốn thay đổi người khác để con không phải thay đổi chính con.

Một lần nữa con yêu dấu, tại sao các thày đã không cho con những lời dạy này mười năm về trước? Bởi vì vào lúc đó, các thày chưa cho con các dụng cụ để con có thể thực hành lời dạy. Giờ đây các thày đã cho con các dụng cụ và đó là tại sao các thày cũng cho con lời dạy. Một lần nữa, các thày đã phải làm việc một cách tuần tự. Các thày làm vậy vì nhiều lý do và như các thày có giảng, các thày rất vui mừng có được một số lượng không phán xét trong các con đã vươn lên đến mức sẵn lòng tiếp nhận lời dạy, suy ngẫm lời dạy, học sách, áp dụng các kỹ thuật và thực sự bỏ ra nỗ lực mà nhiều các con đã bỏ ra để chữa lành chấn thương nhập đời đó.

Hãy đừng nản lòng nếu con chưa hàn gắn được chấn thương nhập đời vũ trụ của con. Đừng bị nản lòng nếu con vẫn còn ngã tách biệt khởi lên trong con. Sứ giả này đã làm việc trên tâm lý mình nhiều hơn hầu hết mọi người suốt 40 năm trời và ông đã khắc phục được chấn thương nhập đời của ông, nhưng ông vẫn có ngã tách biệt khởi lên. Lẽ tự nhiên nếu con đã sống nhiều, rất nhiều kiếp trên trái đất này, đã có rất nhiều trải nghiệm khó khăn trong nhiều kiếp, thì con đã tạo ra nhiều ngã tách biệt và con sẽ cần thời gian để giải quyết lần lần cho hết. Vậy có sao đâu, con yêu dấu?

11.6. Con được phép không lên tiếng

Điều thày sẽ làm bây giờ với bài truyền đọc này là thày cho phép con bỏ qua một bên bất kỳ cảm giác cưỡng bách nào là con phải lên tiếng. Thày cho phép con, nếu con muốn, bước lui lại và nói: “Tôi sẽ ngừng lên tiếng một thời gian. Tôi sẽ ngậm miệng lại, vứt bàn phím máy tính đi và không lên tiếng. Tôi cho phép mình không phát biểu, mà thay vào đó tôi tập trung vào bên trong để giải quyết chấn thương nhập đời cùng các ngã tách biệt đã cưỡng bách tôi phải nói ra, đã cho tôi nhu cầu phải thuyết phục người khác, đã khiến tôi muốn được chứng thực, muốn được công nhận, muốn tạo ra một cảm giác bên trong hay muốn né tránh một cảm xúc tiêu cực.”

Thày làm điều này vì thày muốn con có một chút nghỉ ngơi để con có thể chữa lành và khắc phục khuôn nếp mà một số các con đã xây dựng, qua đó con đã phần nào xung đột hay ít ra có mối quan hệ đối nghịch với nhiều người khác. Con yêu dấu, thật không cần thiết con phải đi ra khích bác mọi người để bày tỏ quả vị Ki-tô của con. Nếu con nhìn quanh thế giới, con có thể thấy rất nhiều người ở ngoài kia đang lên tiếng một cách đối nghịch, khiêu khích, hung hãn – rất nhiều người như vậy.

Nếu con cứ tiếp tục làm cùng một chuyện và mong đợi là kết quả sẽ khác đi thì con điên rồi đó. Đã có rất nhiều người lên tiếng kiểu này từ rất lâu nay. Chúng ta cần khác hơn. Chúng ta cần một tiếng nói khác. Chúng ta cần những người có khả năng phát biểu một cách khác, như thày vừa vạch ra, bằng cách chia sẻ chính bản thân của mình và trình bày các hậu quả. Nhưng vượt khỏi cả những thứ đó, chúng ta cần những cách lên tiếng khác, chẳng hạn khi con trình bày về một tầm nhìn cao hơn. Thay vì tạo ra cảm tưởng: “Đây là sự thật duy nhất, đây là những gì bạn phải tin, nếu không thì bạn ngu lắm,” thì con có thể nói: “Nhưng giả sử có một cách khác để nhìn sự việc này thì sao? Nếu như có một góc cạnh khác về vấn đề này thì sao? Thế còn điều kia, và thêm điều kia, và điều kia nữa thì sao?”

Đây có thể là một điều quá mới mẻ, quá khác lạ, quá hiếm khi áp dụng, đến độ người ta sẽ ngạc nhiên và bất chợt người ta sẽ nói: “Ừ nhỉ, đây là một điểm chúng ta chưa bao giờ nghe nói tới. Chúng ta lắng nghe xem.” Kỳ thực nó có thể đem vào hiện thực điều mà các thày đã có đề cập về nước Mỹ là các thày mong muốn thay đổi toàn bộ diễn ngôn công cộng, không những ở Mỹ mà ở mọi quốc gia. Chúng ta vứt bỏ kiểu tranh luận công cộng do các nhà báo đề xướng, qua đó họ luôn luôn mang sẵn hậu ý muốn mô tả sự việc theo một cách mặc dù họ tuyên bố là họ khách quan. Hoặc theo kiểu các nhà chính trị bị kẹt trong trò chơi đảng phái muốn đảng mình là đảng vượt trội, đến độ họ không thể hợp tác trong bất cứ chuyện gì.

Toàn bộ lối suy nghĩ đen trắng nhị nguyên này từng chi phối diễn ngôn công cộng từ quá lâu nay, các thày mong muốn nhìn thấy nó được thay thế bởi một tiếng nói khác. Thẳng thắn mà nói, nếu chính các con không thể đưa ra tiếng nói khác biệt này thì ai đây sẽ có thể? Để lên tiếng với một tiếng nói khác, con phải khắc phục những ngã tách biệt kia, và các con đây là những người trên toàn hành tinh này đang đến gần nhất với mục tiêu đó. Thày không đang nói vậy để áp lực con mà để cho con một lượng định thực tế. Một số các con khi nghe hay đọc câu nói này của thày sẽ biết liền: “Phải, đây chính là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của tôi. Thật ra đây là điều tôi mong muốn. Tôi không bao giờ muốn lên tiếng theo cách tôi đã từng làm, cách này luôn luôn cho tôi một phản ứng tiêu cực. Tôi đã muốn tìm một tiếng nói khác để lên tiếng và giờ đây tôi bắt đầu nhìn ra. Chắc chắn tôi sẽ làm việc trên bản thân mình cho đến khi tôi tìm được tiếng nói nội tâm của tôi, tiếng nói đích thực của tôi. Và khi tôi tìm thấy, tôi sẽ lên tiếng. Tôi nhất định sẽ lên tiếng.”   

Với lời này, con yêu dấu, thày cảm ơn con đã dành sự chú ý, đã hiện diện ở đây hay trên làn sóng trực tuyến. Thày cảm ơn tất cả những ai đã đón nhận các lời dạy mới từ quyển sách Các kiếp của tôi trở đi và đã sẵn lòng đem ra áp dụng. Thày biết là nhiều người trong các con đã nghiệm thấy những tiến bộ to lớn. Một số các con còn bày tỏ là ngày hôm nay con không thể nào tin được mình đã đổi khác đến chừng nào so với một năm trước. Đây là niềm vui lớn nhất của các thày: nhìn thấy học trò của mình đón nhận giáo lý và sử dụng để vươn lên cao hơn, qua đó con cảm thấy mình có tiến bộ, mình có an bình. Sự kiện một số người đã ngộ đạt như vậy trong vòng một năm có nghĩa là tất cả các con cũng đều có thể làm được trong một thời gian vừa phải. Không có một người nào ở đây, không có một người nào đã đón nhận các lời dạy này mà không mang tiềm năng đạt được trạng thái an bình đó trong một thời gian tương đối ngắn – ngắn hơn rất, rất nhiều so với thời gian con đã bước chân trên đường tu tâm linh, ít ra đối với những ai đã bước chân được vài năm.

Lẽ tự nhiên, nếu con chỉ mới nhập cuộc vào tuần rồi thì sẽ không hẳn là như vậy. Dẫu sao thì con yêu dấu, các thày vô cùng phấn khích – nếu chúng ta có thể dùng từ này cho một chân sư thăng thiên không thể nào nản chí. Các thày rất vui mừng nhìn thấy tiến bộ mà tất cả các con đã có. Mặc dù một số các con có thể cảm thấy mình tiến bộ chưa đủ, nhưng thày có thể cam đoan với con là con đã có tiến bộ, và bước đột phá mà con đang tiến đến, nó gần hơn là con tưởng. Với lời này, con hãy nhận sự biết ơn của thày. Con hãy nhận Ngọn lửa Vui mừng của thày, vì thật là một niềm vui cho thày được tương tác với các con theo cách này, được trải nghiệm các con, con yêu dấu. Trải nghiệm chính các con.

Đây là niềm vui lớn cho thày. Thày sẽ nói là tất nhiên con không nên nghĩ là khi thày phát biểu qua trung gian một người sứ giả, đây là thời điểm duy nhất thày có thể trải nghiệm con. Thày có thể trải nghiệm con bất cứ lúc nào nhưng thày luôn luôn tôn trọng quyền tự quyết. Nếu con lấy nội dung bài thỉnh này cùng với bài truyền đọc trước về cách vận hành của con – mong muốn trốn tránh các chân sư – thì tất nhiên là thày sẽ tôn trọng. Kỳ thực, một số các con có thể được trợ giúp bằng cách quyết định mời thày đến trải nghiệm con. Có thể con sẽ chỉ cần, một lúc nào đó khi con yên lặng, nhắm mắt lại, trụ vào tim và nói: “Giê-su, con mời thày đến trải nghiệm con.” Có lẽ khi làm vậy, con sẽ có thể trải nghiệm được thày và thày nghĩ việc này sẽ làm con vui.

5 | Giành lại quyền được quên mà Thượng đế đã ban cho con

Bài truyền đọc của Chân sư MORE qua trung gian Kim Michaels ngày 30/11/2018 nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên MORE, và thày rất vui mừng trao cho con bài giảng tiếp nối bài năm ngoái về đề tài vô cùng sâu xa và quan trọng này, là chấn thương nhập đời và làm thế nào con khắc phục được chấn thương đó. Con có thể xem những gì Phật Gautama vừa giảng trong phần vấn đáp về thời gian và sự kiện là nếu con không thể đi trở ngược thời gian để thay đổi những gì đã xảy ra trong quá khứ, nếu con không có một cỗ máy du hành thời gian, thì con không thể tự giải thoát khỏi quá khứ [Xem chương chót trong sách này]. Như Gautama vừa nói, quả thật Mẹ Mary đã cho con một cỗ máy vượt thời gian qua bài thực tập của thày về cách con có thể quay trở về trải nghiệm chấn thương nhập đời đó [Xem sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh].

Thày muốn cho con thêm một cỗ máy vượt thời gian nữa. Con thấy đó, con yêu dấu, điều sa nhân muốn con nghĩ là quá khứ đã được tạc vào đá và không thể thay đổi. Một khi con đã lầm lỗi trên trái đất, con sẽ không bao giờ thoát ra khỏi lỗi lầm. Bây giờ con hãy tưởng tượng con đang đứng trước một bức tường đá thật lớn. Nếu con đã đi thăm Vạn lý Trường thành ở Trung quốc hay Kim tự tháp ở Ai cập, hay Bức tường Than khóc ở Jerusalem hay bất kỳ thành vách nào ở đây nơi thành phố Tallinn và bất kỳ thành phố cổ nào trên thế giới, thì thật ra con không cần tưởng tượng. Con biết rõ cảm giác đứng trước một bức tường đá đồ sộ. Làm thế nào con có thể đập vỡ vách tường đó với hai bàn tay trần? Phải, con không thể, và tại sao như vậy? Một phần là vì đá rất cứng, và phần khác là vì những viên đá được dán chặt lại với nhau.

Trước tiên con hãy tưởng tượng con có thể gỡ vữa ra, là chất xi-măng giữ đá dính chặt với nhau. Tất nhiên nếu đá dính không chặt, công việc phá bỏ bức tường sẽ dễ hơn một bực. Thế nhưng cũng không dễ lắm, tùy theo kích thước những viên đá. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như con có thể đập đá ra thành vụn nhỏ như cát? Và giả sử con có một cái máy phóng tia sáng có khả năng biến đá thành vụn nhỏ như cát thì chuyện gì sẽ xảy ra?

À, đây chính là quyền năng mà các thày đã trao cho con qua các bài chú, bài thỉnh. Tất nhiên con không thể dùng bài chú để đập vỡ tường đá thành vụn, mặc dù trên lý thuyết nếu có đủ số người đứng trước tường đá thì việc này cũng khả dĩ. Nhưng dù sao thì các thày không có ý định gửi học trò của mình đi vòng quanh thế giới đập đổ tường đá rồi bị bỏ tù về tội phá hoại di tích lịch sử. Điều các thày quan tâm hơn nhiều là giúp con đập đổ những bức tường kiên cố trong chính tâm con đang giam hãm và buộc chặt con vào một khuôn nếp phản ứng lại sa nhân.

Đương nhiên, con có những bài chú và bài thỉnh mà như các thày đã nói nhiều lần, con có thể sử dụng để làm tan năng lượng, và khi năng lượng giảm bớt, con sẽ dễ dàng hơn thoát khỏi khuôn nếp. Tuy nhiên như các thày cũng đã dặn nhiều lần, con cần phải có một trải nghiệm ý thức, một quyết định ý thức, trước khi con được thực sự tự do. Đây không phải là một tiến trình máy móc.

5.1. Ý thức được tiến trình thấy

Đây là điều thày muốn cống hiến cho con. Con cần khởi sự – mới đầu có thể từ từ – nhưng con cần khởi sự huấn luyện tâm con cho nó có thể hình dung, tưởng tượng, và cuối cùng thấy rõ và chiêm nghiệm một điều mà cho tới giờ con chỉ biết qua trí năng, rằng toàn bộ thế giới vật chất được xây dựng bằng năng lượng. Bây giờ con hãy tưởng tượng là con biết trong quá khứ con đã trải qua một tình huống vô cùng đau đớn và con đang mang chấn thương nhập đời này trong con. Tình huống đó được cấu tạo bằng chất gì? Như Phật Gautama có nói, thời gian đã trôi qua và tình huống vật lý không còn hiện diện nữa, đơn giản là nó đã bị thời gian tẩy xóa. Hay có thể nói, nó đã bị thời gian sơn lên một lớp sơn – do cái cọ vĩ đại của thời gian đã biến mọi sự thành cái đang là bây giờ. Như Gautama nói: Cái đang là bây giờ quả thật có thể bị quá khứ ảnh hưởng, tuy nhiên quá khứ không còn ở đó như một hiện thực vật lý nữa. Nó chỉ ở đó như một dấu in hay một hình ảnh trong tâm con, trong ba thể cao của con, và theo một nghĩa nào đó cũng trong cơ thể vật lý của con.

Câu hỏi bây giờ là làm thế nào con thoát khỏi dấu in đó? Điều con cần suy ngẫm trước hết là làm thế nào bộ não vật lý, đôi mắt vật lý của con (nhưng đặc biệt là bộ não) và tâm vỏ ngoài của con nhìn và nhận thức tình huống – nói chung, nhận thức mọi chuyện? Ngay bây giờ con đang ngồi ở đây, con đang nhìn bức tường sau lưng vị sứ giả này, là một bức tường khá vững chắc, và cái con thấy thật ra là một hình ảnh. Các thày đã có giảng là mắt con không thực sự nhìn thấy bức tường mà nó chỉ đơn giản nhận được những xung động gửi vào trong mắt, đập vào võng mạc (retina) dưới dạng những tia sáng. Mắt con không thực sự thấy mà phản ứng lại tia sáng. Phản ứng này trong mắt được chuyển thành một tín hiệu, giống như tín hiệu số trong máy tính. Tín hiệu này được gửi đến cái mà con gọi là vỏ thị giác (visual cortex) trong não.

Bây giờ bộ não có tác dụng giúp con tạo ý nghĩa cho thế giới vật lý. Dụng cụ chủ yếu giúp con tạo ý nghĩa cho thế giới vật lý là khi bộ não áp đặt một số hình ảnh lên trên các tín hiệu đến từ mắt. Mắt con không đang thấy. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là não cũng không đang thấy. Não chỉ đơn giản lấy tín hiệu đến từ mắt rồi sắp xếp lại thành một hình ảnh ăn khớp với những gì não đã chứa sẵn trong kho dữ liệu của nó. Như được chứng minh trong vô số hiện tượng ảo thị (optical illusion) mà con đã được thấy, não không thực sự thấy cái ở trước mặt con. Nó tìm kiếm một mô thức ăn khớp với một cái gì đã nằm sẵn trong kho dữ liệu của nó. Nó không nhìn chính xác những tín hiệu đến từ mắt mà tìm kiếm một mô thức mà nó có thể nhận diện. Một khi nó có đủ xung động để hình thành một mô thức quen thuộc, thì nó sẽ ngừng phản ứng, ngừng nhìn vào xung động từ mắt, và bây giờ nó áp chồng cái mô thức lưu trữ này lên những gì con đang nhìn và nói: “À, đây là cái đó.”

Tất nhiên, chuyện này đã tiếp diễn trên trái đất suốt hàng triệu năm qua. Khi con đầu thai trong kiếp này, bộ não của con không khởi sự từ số không, nó không phải tự huấn luyện từ đầu và xây dựng từng hình ảnh về cái này là gì, cái kia là gì. Não bị buộc chặt vào động lượng tập thể đó, cho nên nó đã mang sẵn một số lập trình: “Đây là ngọn cây, đây là hòn đá, đây là biển cả, đây là bầu trời, vân vân và vân vân”. Con có sẵn một kho dữ liệu những mô thức mà không những chính con đã nhìn thấy từ trước mà cả tâm thức tập thể cũng đã nhìn thấy từ trước. Cho nên con đã quen nhìn mọi thứ dưới dạng hình ảnh và con dán nhãn lên mọi thứ. Con thường dán nhãn bằng ngôn từ, và điều này lại bồi thêm một lớp phức tạp nữa, khi nói chung, vỏ não thị giác nhận ra hình thù. Vỏ não thị giác có thể nhìn vào hình thù, màu sắc và chất liệu của bức tường, nhưng bộ não có thêm chức năng khác là chuyển thành lời nói, chẳng hạn: “Đây là một bức tường”. Thêm một lớp phủ được đắp lên hình ảnh, và như vậy loài người đã có một động lượng rất lâu đời áp chồng ngôn từ lên mọi thứ.

5.2. Con bị kẹt trong nhận thức như thế nào

Trong Thánh kinh có kể rằng Thượng đế ban cho Adam quyền năng đặt tên cho từng loài động vật trên địa cầu. Một số người tin rằng nếu con biết tên của vật thì con có quyền năng trên vật đó. Thực tế sâu sắc hơn là một khi con đặt tên cho một vật, thật ra con đã tự giới hạn mình vì con củng cố cho hộp tư duy của con. Con nghĩ vật sẽ giống như cách con dán nhãn và nó sẽ luôn luôn như vậy. Con không thể nhìn xa hơn sự lập trình – ít ra là hầu hết mọi người không thể. Và do đó con nghĩ: “Cái đó là như thế này.” Con đã buộc mình vào động lượng tập thể, và con đã xây dựng động lượng riêng của con trong bao nhiêu tiền kiếp.

Khi các thày nói là có một giai đoạn hay một tình huống trong quá khứ con phải trải qua một kinh nghiệm vô cùng đau đớn – và các thày có cho con một ví dụ, như trong sách Những kiếp  của tôi mô tả nhân vật chính trong truyện phải nếm mùi một hoàn cảnh vô cùng khó khăn – thì con bị lập trình, bộ não của con bị lập trình để nó áp chồng một hình ảnh và ngôn từ lên trên kinh nghiệm đó, và nó nói: “Kinh nghiệm này như thế đó”. Và bây giờ câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào con có thể thực sự thoát khỏi một tình huống trong quá khứ của con? Chừng nào con còn giữ trong não, ngay cả trong ba thể cao của con, cái dấu in của tình huống đó cùng những hình ảnh hay những ngôn từ mà con đã gắn liền với tình huống, chừng nào những thứ này còn được cất giữ ở đó thì con không thể thoát khỏi tình huống từ quá khứ.

Điều thày nói với con là con có thể bắt đầu tái huấn luyện chính mình. Con có thể rèn luyện tâm con để nó phản lệnh bộ não. Sẽ có thể hữu ích nếu con thử lấy một vài trong số rất nhiều những ảo thị đã được đăng tải. Ảo thị điển hình là một hình vẽ mang hình dáng hoặc một cô gái trẻ đẹp, hoặc một bà cụ da dẻ nhăn nheo tùy theo con chú mục như thế nào. Có những ảo thị với đủ loại màu sắc, hình thù, vân vân. Nếu con chưa bao giờ xem ảo thị thì con nên xem thử để nó giúp con hiểu là con thực sự không thể nào tin vào giác quan của mình. Con không thể tin được bộ não vì trong não có một lập trình khiến con thấy vật theo một cách không phải là cách nó thực là.

Con có thể tiến thêm một bước và tưởng tượng con đang ngồi trong một rạp chiếu phim. Con nhìn thấy gì đó trên màn hình, và bởi vì rạp chiếu bóng tối om cho nên rất có thể con hoàn toàn mải mê với bộ phim đến độ con có cảm giác mình đang sống trọn cốt truyện đang được trình chiếu trên màn hình. Chắc chắn con bị cuốn hút vào đó đến nỗi con quên hết mọi chuyện. Con có thể luyện tập để nhận ra là những hình ảnh đang được chiếu lên màn hình không những không biểu hiện một thực tại vật lý nào (vì con dư biết là chúng chỉ là những tấm hình trên một cuộn phim đặt trong máy chiếu) mà hơn vậy, con có thể tập nhìn chúng như những mô thức gồm có vô số chấm nhỏ đủ màu được chiếu lên màn ảnh. Con có thể tới mức luyện tập cho mắt đổi tiêu cự đôi chút, và thay vì con thấy rõ từng người hay từng vật, thì con chỉ nhìn thấy những mảng tia sáng đủ màu được chiếu lên màn ảnh. Khi con tập như vậy một thời gian, con sẽ lần hồi đạt đến mức con áp dụng được vào cuộc sống hàng ngày. Con có thể luyện tập để thấy bức tường này sau lưng sứ giả không thực là bức tường. Đó chỉ là một số tia sáng tạo thành một số mô thức mà thôi.

Hồi con còn nhỏ, chắc đã có người chỉ con dùng kính lúp để nhìn kỹ một tấm ảnh in trên báo. Và con thấy được những gì có vẻ là một số mảng hình hay một số hình thù kỳ thực chỉ là những chấm đen được sắp xếp theo những mật độ khác nhau. Màu đen càng đậm thì chấm càng xít lại gần nhau. Màu đen càng lạt thì chấm càng cách xa nhau. Tất cả chỉ là những chấm đen đã đánh lừa bộ não của con nhìn thấy hình thù. Cho nên con có thể luyện tập để tập trung vào chấm thay vì hình ảnh. Rồi con có thể áp dụng kỹ thuật này vào mọi tình huống trong đời, tuy ngay lúc này việc áp dụng vào những tình huống đặc thù trong đời chưa quan trọng lắm.

5.3. Đập vỡ hình ảnh quá khứ thành đơn vị nhỏ hơn

Điều thày mong muốn con khởi sự làm là nhìn vào những tình cảnh trong quá khứ của con. Có thể là con cảm được chấn thương nhập đời và con cảm thấy nó chưa được giải quyết. Cũng có thể con đã gặp một tình huống nào khác, ngay cả một tình huống trong kiếp này khi con cảm thấy một sự việc đau đớn đã xảy ra. Bây giờ con có thể xem xét: Khi con nghĩ lại tình huống đó, hình ảnh mà bộ não của con khơi dậy là gì, hay hình ảnh mà ba thể cao của con khơi dậy là gì? Hình ảnh đó là gì? Con có thể nói từ một nhãn quan đường thẳng là nếu con còn ký ức, nếu con còn một hình ảnh từ quá khứ, thì con sẽ không bao giờ thoát ra khỏi hình ảnh đó, vì những gì đã xảy ra thì đã xảy ra, và con không thể thay đổi nó được. Không có gì con có thể làm để thay đổi nó.

Tất nhiên, đây là điều sa nhân muốn con tin chứ không phải là sự thật. Con có khả năng luyện tập để đưa những hình ảnh này lên tầm nhìn nội tâm của con. Xong con có thể tập nhìn thấy chúng, không phải như là hình thù và hình ảnh mà con đang có, mà chỉ đơn giản là những mô thức tia sáng, hay những mô thức nguyên tử, hạt electron, hạt hạ nguyên tử – hay bất cứ cách nào con có thể hình dung. Con đập vỡ hình ảnh ra thành bộ phận nhỏ bằng bất cứ cách hình dung nào có thể. Như thày nói ở trên, nếu con đứng trước một bức tường đá, con có thể đập vỡ các viên đá cho vụn ra thành hạt cát để con có thể dời chuyển viên đá dễ dàng hơn. Đây là điều con có thể luyện tập để giải quyết những hình ảnh từ quá khứ vẫn ám ảnh con, hay những hình ảnh mà con đã kềm nén nhưng mỗi lần con chạm vào chấn thương nhập đời thì con lại khơi nó dậy.

Con có thể luyện tập để nhận ra một cách ý thức: “Hình ảnh này chỉ là một hình ảnh mà bộ não và các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của tôi đã áp chồng lên ánh sáng.” Thực tế là nó không còn là một tình huống vật lý nữa. Nó chỉ là một hình ảnh. Hình ảnh này được cấu tạo bởi những hạt ánh sáng điện từ nhỏ xíu, là những cái chấm. Hình ảnh được tạo bằng chấm. Thậm chí con có thể ngắm một bức tranh của trường phái Ấn tượng, và nếu con đứng ở xa, con sẽ không thể nhìn thấy những cái chấm mà hoạ sĩ đã sử dụng để vẽ tranh. Khi con lại gần và gần hơn nữa, con bắt đầu nhìn thấy chấm, và khi con xích lại thật sát thì tất cả những gì con thấy chỉ là chấm, vì con không thể thấy hình ảnh nữa. Vậy thày yêu cầu con hãy luyện tập, và một lần nữa, điều này liên quan đến việc con bước vào nỗi đau, tuy nhiên bây giờ con không bước vào nỗi đau nhưng con bước vào một hình ảnh thị giác mà con có trong tâm.

Con bước tới hình ảnh gần hơn và gần hơn nữa cho đến khi con chỉ còn nhìn thấy những cái chấm. Rồi con nhận ra những cái chấm này chính là thực tại sâu xa hơn. Hình ảnh chỉ là cái gì được áp chồng lên bởi bộ não và bởi các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Còn chấm mới là thực tại. Và con cũng nhận ra là chấm luôn chuyển động, chúng linh hoạt, chúng không ngừng rung động, và chúng có thể dễ dàng biểu diễn bất cứ hình ảnh nào khác y như chúng đang biểu diễn hình ảnh con đang có. Hơn thế nữa, thật ra những chấm này có thể được giải phóng khỏi cái khuôn đúc đã được áp chồng lên chúng, hầu chúng trở về với trạng thái nền (ground state), là trạng thái tự do nơi chúng hoàn toàn trung hòa và không biểu hiện bất cứ hình ảnh nào.

Con có thể hình dung hình ảnh đó dần dần tan ra thành từng mảnh nhỏ, và những mảnh này bắt đầu rung lên và chuyển động. Chúng chạy tứ phía, làm phân hủy hình dạng của hình ảnh, chỉ còn lại một màu đồng nhất. Con có thể thấy chúng biến thành giống như nước của biển cả, hay cát của sa mạc, hay không khí của trời xanh. Nhưng chúng trở thành vô đặc tính, vô hình dạng. Hình ảnh được giải thể và con để cho nó ra đi. Giống như thể con đang lấy một quyết định, và ở một điểm nào đó con đang lấy một quyết định, và con nói: “Tôi để cho hình ảnh này chết đi. Tôi để cho nó tan biến. Giản dị là tôi đã quên nó rồi.”

5.4. Bí quyết để lãng quên

Con yêu dấu, quá nhiều người khắp thế giới bị những tình huống từ quá khứ ám ảnh một cách liên tục, hay ít ra một cách thường xuyên, và dường như họ không thể nào quên được. À, vậy bí quyết để lãng quên là gì chứ? Đó là con nhận ra ký ức của con được lưu trữ (như các thày đã nói) một phần dưới dạng năng lượng, năng lượng cảm xúc. Chẳng hạn, lòng sợ hãi, sự tức giận hay bất cứ gì khác đều được cất giữ, và con có thể giải thể năng lượng qua các bài chú, bài thỉnh của con. Hơn vậy, ký ức cũng được lưu trữ dưới dạng hình ảnh trong bộ não, trong ba thể cao của con. Các hình ảnh này đã được áp chồng lên những hạt mà con có thể gọi là hạt lượng tử, là Ánh sáng Mẫu-Vật, hay bất kỳ tên gọi nào con muốn. Đây là những hạt có khả năng khoác vào, hay được sắp xếp thành đủ loại hình thể, đủ loại hình thù, đủ loại mật độ và màu sắc khác nhau. Con có khả năng tháo gỡ các hình ảnh mà tâm con đã phóng chiếu lên hạt và giải phóng hạt khỏi hình ảnh. Khi con thực sự làm như vậy, hình ảnh sẽ không còn đó nữa và, thần diệu thay, ký ức cũng biến mất.

Khi con suy ngẫm về điều này, ký ức là một cái gì con có trong cõi vật chất, trong bốn tầng của cõi vật chất. Phải có một cỗ xe có khả năng chuyên chở ký ức. Hầu hết các ký ức được lưu trữ như thế nào? Dưới dạng hình ảnh thị giác. Các thày đã có đề cập đến các Hồ sơ Akasha và có một sự tương đồng nào đó với ba thể cao của con, ở chỗ là có một môi thể lưu trữ – là những hạt nói trên – có khả năng khoác vào hình ảnh và nhờ vậy duy trì hình thù này vĩnh viễn.

Con có thể luyện tập để đi vào bên trong, nhìn lại hình ảnh đó, nhưng sau đó con nhìn vượt khỏi hình ảnh và giải phóng các hạt để chúng trở về trạng thái nền của chúng. Khi chúng trở về trạng thái nền, hình ảnh tan rã và chính cái đó là cỗ xe của ký ức. Một khi cỗ xe của ký ức tan rã thì ký ức cũng tan theo, con yêu dấu. Đây là cách làm thế nào con có thể quên được.

Công việc này có thể đòi hỏi nỗ lực từ con, nhưng thú vị ở đâu nếu con không có việc gì để mà nỗ lực? Có thể con sẽ chán ở đây trên hành tinh này, và như nhiều các con đã bày tỏ, thật không có nhiều việc lắm để cá nhân con làm hay trải nghiệm, không có nhiều công việc cho con. Tất nhiên là có việc này là con muốn được tự do. Nhiều người trong các con muốn tiến bước, nhưng con không thể tiến bước cho đến khi con cũng tự do khỏi ký ức.

Con yêu dấu, trong một quyển sách được trao truyền trong một đợt truyền pháp trước có một lời tường thuật về ba người đệ tử đến khóa nhập thất của thày ở Darjeeling, và họ được cho xem Hồ sơ Akasha trình chiếu một tình huống trong quá khứ của họ. Thế rồi thày đã lấy một viên ngọc, dùng viên ngọc này để phóng tia sáng vào tình huống đó và xóa bỏ nó trong Hồ sơ Akasha. Đây là một lối minh họa được sử dụng trong quá khứ khi các thày giảng dạy cho một tầng tâm thức thấp hơn. Nó có một độ thực tế nào đó, theo nghĩa là con có thể huấn luyện tâm mình để trở thành cánh cửa mở cho một tia sáng từ một cõi cao hơn. Tia sáng có thể đến từ Hiện diện TA LÀ của con, nó có thể đến từ một chân sư thăng thiên mà con đã lựa chọn – và lẽ tự nhiên, thày cống hiến sự trợ giúp của thày ở đây. Nếu con hòa điệu với thày và con hình dung là thày đang gửi đến con một tia sáng vào hình ảnh đó, và qua đó thày khiến cho các hạt rung động nhanh hơn đến độ chúng nhảy ra khỏi mô thức định sẵn trong hình ảnh và trở về trạng thái nền của chúng, thì đây cũng có thể là một bài hình dung hữu ích cho con.

5.5. Không có gì là rắn đặc

Con cần trước tiên luyện tập để thấy được hình ảnh mà con mang trong tâm thật sự được cấu tạo bằng những hạt đó, và vì vậy hình ảnh sẽ linh hoạt uyển chuyển. Nó có thể dễ dàng tan rã, nó không được tạc trên đá, nó không phải là một bức tường kiên cố. Tất nhiên con có thể tiếp tục làm vậy và nhận ra là một bức tường không có gì kiên cố, nhưng quan tâm của thày ở đây là thày không muốn con làm những loại thủ thuật này mà con dành nỗ lực để thực hiện kỳ công thực sự sáng giá là xóa bỏ các ký ức đau buồn của con, cho dù từ những kiếp trước hay từ kiếp này.

Con yêu dấu, tất nhiên đây không phải là một điều con đã được dạy ở lớp mẫu giáo. Vì vậy, có thể nó sẽ đòi hỏi ở con một nỗ lực nào đó, một sự suy tư nào đó. Nó đòi hỏi con tái trang bị, chuyển hóa tâm con để dần dần chấp nhận là không có gì trong thế giới vật lý và vật chất, không có gì trong cả bốn cõi của vật chất, là rắn chắc như đá. Không có gì là không thể thay đổi, vì tất cả mọi thứ đều được cấu tạo bằng những hạt ánh sáng kia mà trên đó một hình ảnh đã được áp chồng lên.

Những hạt ánh sáng này kỳ thực không phải là hạt ánh sáng như khoa học bảo con là ngay cả hạt hạ nguyên tử cũng đều là hạt. Nếu con đã đọc về vật lý lượng tử, con sẽ biết là các nhà khoa học bị bối rối bởi sự kiện một electron có thể hiện ra dưới cả hai dạng hạt lẫn sóng. Họ gọi đó là lưỡng tính sóng-hạt và họ không làm sao giải thích được. Thực tế là ý tưởng cho rằng cái lưỡng tính hạ nguyên tử kia là một hạt, chỉ là một hình ảnh mà các nhà khoa học mang theo trong tâm họ vì nó gắn liền với một cái gì họ có thể thấy được bằng giác quan vật lý. Họ mang theo hình ảnh này trong tâm và họ muốn áp chồng hình ảnh này lên thế giới lượng tử mà họ vừa khám phá. Cách duy nhất để hiểu được tầng cấp lượng tử là nhận ra rằng nó tuyệt đối không liên hệ gì đến thế giới vĩ mô mà con thấy với giác quan của con.

Cách duy nhất để thực sự hiểu được thế giới lượng tử cùng mối tương quan của nó với thế giới vĩ mô là nhận ra thế giới vĩ mô không được tạo bằng hình thù. Nó được tạo bằng hạt, hay đúng hơn, bằng những thực thể nhỏ hơn mà trên đó hình ảnh đã được áp chồng lên. Một hòn đá không phải là hòn đá, đó là một tập hợp những thực thể ánh sáng, những đơn vị ánh sáng, đã bị cưỡng ép vào một mô thức nhất định và chúng đang biểu hiện mô thức này ra bên ngoài. Rất có thể chúng sẽ được giải phóng khỏi mô thức để trở về với trạng thái nền của chúng, hay chúng có thể biểu hiện một mô thức khác. Một lần nữa, có thể các con hơi bị đuối sức khi phải hình dung toàn bộ thế giới vật lý là linh hoạt và được tạo bằng hạt hay bằng những thực thể nhỏ hơn, nhưng chắc chắn con thấy được là những hình ảnh con cầm giữ trong tâm, những hình ảnh về quá khứ, cũng không được tạo bằng một chất vật lý kiên cố như đá. Thật vậy, chúng được tạo bằng một loại thực thể khác, cho nên chúng linh hoạt uyển chuyển.

Kỳ thực, toàn bộ vũ trụ vật chất được cấu tạo bằng cái mà các thày gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật có những đơn vị cực nhỏ. Nếu chúng ta muốn dùng cùng thuật ngữ của khoa học, chúng ta có thể nói là thật vô nghĩa mà bàn về hạt, vì một hạt trải ra trong không gian. Đó là một cái chấm với một kích thước nào đó. Còn các đơn vị cấu tạo Ánh sáng Mẫu-Vật, măc dù chúng không nhỏ một cách vô hạn, nhưng chúng nhỏ đến độ chúng vượt khỏi khả năng phát hiện của giác quan vật lý hay ngay cả các loại dụng cụ dựa trên ánh sáng khả kiến (visible light), bước sóng (wavelength) của ánh sáng khả kiến.

Con cũng biết là kính hiển vi có khả năng phóng lớn các vật thể nhỏ. Nó giúp con nhìn thấy những vật con không thể thấy bằng mắt trần. Dẫu vậy, những gì con có thể thấy bằng kính hiển vi có giới hạn vì kính hiển vi quang học chỉ có thể hoạt động với ánh sáng khả kiến. Ánh sáng khả kiến có một bước sóng tối thiểu, và bất kỳ vật nào nhỏ hơn bước sóng của ánh sáng sẽ không thể thấy được trong kính hiển vi quang học. Chuyện này không thể làm được. Vấn đề cũng tương tự như vậy với các thực thể nói trên, các đơn vị của Ánh sáng Mẫu-Vật, chúng không thể được phát hiện bởi bất kỳ dụng cụ nào do khoa học chế tạo vì đây là những dụng cụ vật chất, mà Ánh sáng Mẫu-Vật thì không vật chất. Nó trở thành vật chất khi có một hình ảnh được áp chồng lên nó.

Ngay cả trong thế giới lượng tử, con cũng có tình trạng một hạt có thể xuất hiện từ hư vô rồi lại biến mất. Các nhà khoa học bàn về một trạng thái chân không (vacuum state), một trường lượng tử (quantum field) hay một số tên gọi khác, là khi một hạt có thể đột nhiên xuất hiện rồi biến mất vì nó đi vào hay đi ra khỏi một trạng thái nào đó. À, đây là cách con có thể hình dung Ánh sáng Mẫu-Vật. Con có thể nói là Ánh sáng Mẫu-Vật không nằm trong cõi vật lý nhưng nó có thể được kéo vào quang phổ vật lý (physical spectrum). Thế rồi những cái chấm nhỏ đó của Ánh sáng Mẫu-Vật có thể được sắp xếp lại thành một mô thức nào đó, nhưng Ánh sáng Mẫu-Vật chỉ ở lại trong mô thức này trong cõi vật lý chừng nào còn có cái gì phóng chiếu hình ảnh lên nó. Lý do trái đất có một số biểu hiện do con người tạo ra kéo dài trong thời gian là vì tâm thức tập thể liên tục phóng chiếu một số hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

5.6. Con có những ký ức tiềm thức

Điều thày đang giảng cho con là lý do con mang ký ức về quá khứ – hay một hồ sơ, một ghi nhận về quá khứ hay bất kỳ tên gọi nào khác – là vì tâm con đang áp chồng hình ảnh đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Sự thể này ngăn cản không cho các đơn vị của Ánh sáng Mẫu-Vật trở về trạng thái nền của chúng và lại đi ra khỏi cõi vật lý. Con có thể phản bác: “Nhưng làm sao con làm chuyện này được khi con không mang một ký ức ý thức nào về chấn thương nhập đời của con?” Con có mang một ký ức tiềm thức.

Ký ức không chỉ là ký ức có ý thức mà thôi, và đây là tại sao chúng ta có thể nói là những gì con nhớ một cách ý thức thì gọi là ký ức, còn những gì con không nhận biết ý thức gọi là hồ sơ. Đôi khi các thày đã dùng cách phân biệt này. Con cũng có thể nói là có ký ức ý thức hay vô thức. Tất cả các con đều biết là thỉnh thoảng có một sự kiện nào đó mà con biết rõ con đã nghe nói trong quá khứ nhưng con không thể hồi tưởng ngay bây giờ một cách ý thức. Thế rồi khi con suy nghĩ thêm, nó bỗng bật lên và bây giờ con nhớ lại. À, hiển nhiên ký ức này đã có mặt ở đó cho dù nó không nằm trong tâm ý thức của con, và các tình huống từ quá khứ cũng tương tự như vậy. Chúng còn nằm đó là vì tâm tiềm thức của con không ngừng phóng chiếu một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Điều con có thể luyện cho tâm con làm là nhìn ra hình ảnh không phải là một hình ảnh vật lý, một hình ảnh cố định không thay đổi. Nó được cấu tạo bằng những cái chấm nhỏ li ti của Ánh sáng Mẫu-Vật. Xong con có thể quyết định trong ý thức và nói: “Vụt” và làm cho hình ảnh tan biến. Để điều này có thể xảy ra, có thể con sẽ cần đọc một lượng bài chú và bài thỉnh để làm tan năng lượng cảm xúc. Như các thày đã nói, có thể con sẽ phải tới điểm xem nó như là một ngã tách biệt, nhìn ra là có một cái ngã tách biệt kỳ thực đang duy trì hình ảnh đó, đang muốn duy trì hình ảnh đó. Con có thể quyết định ngừng nuôi dưỡng nó với năng lượng và chú ý của con. Khi con làm theo những bước khác mà các thày đã cho con trước đây, thì có thể sẽ tới điểm khi tất cả những gì còn sót lại chỉ là ký ức. Con đã làm tan năng lượng, năng lượng cảm xúc, con đã làm tan ngã tách biệt, con đã để cho nó chết đi, nhưng vẫn còn lại một ký ức mà vì một lý do nào đó con nghĩ con phải bám lấy.

Trong một số trường hợp, có một cái ngã nghĩ rằng nó phải bám lấy ký ức và con có thể đạt tới điểm nhìn ra ngã này. Thậm chí, thỉnh thoảng, đây chỉ là vấn đề làm cuộc xoay chuyển ý thức, một quyết định ý thức là: “Tôi không phải bám giữ tất cả mọi ký ức về những chuyện đã xảy ra cho tôi trên hành tinh này.”

Tại sao, con yêu dấu, tại sao con không phải nhớ lại? Các sa nhân và tự ngã của con sẽ la hét vào mặt con: “Không, bạn không thể đơn giản quên nó đi! Chuyện đó đã thực sự xảy ra! Chính bạn đã làm chuyện đó, bạn phải ghi nhớ mãi mãi!” Tại sao con cần ghi nhớ mãi mãi chứ con? Các thày đã dạy con điều gì? Cho dù con đã kinh qua chuyện gì trên hành tinh này, đã trải nghiệm nó như thế nào xuyên qua phin lọc bốn thể phàm của con, thì Hiện diện TA LÀ của con có một kinh nghiệm hoàn toàn khác. Kinh nghiệm này mới là kết quả vững bền, là thành quả lâu dài mà con muốn thành tựu qua việc hiện thân trên trái đất. Kinh nghiệm này được lưu trữ vĩnh viễn trong căn thể của con. Đấy chính là cái thực. Đấy chính là cái tồn tại. Đấy chính là điều con đã muốn gặt hái từ việc hiện thân trên trái đất.

Còn những ký ức kia mà con mang trong bốn thể phàm không có giá trị nào trường tồn. Tại sao chúng lại phải tồn tại? Tại sao con lại phải đem chúng theo con? Tại sao con không nhìn chúng và nói: “Vụt, thế là mi đã tan mất”?  

Con yêu dấu, con hãy đơn giản chấp nhận là con có quyền quên đi. Chừng nào con còn có năng lượng tha hóa và ngã tách biệt thì con không thể quên được, nhưng một khi con đã làm tan cả hai thì con có quyền được quên. Đây là một quyền con người, một nhân quyền – chúng ta có thể nói như vậy – và quyền này phải nằm trong danh sách những quyền hạn bất khả xâm phạm mà Đấng Sáng tạo đã phú cho mọi con người. Con có quyền được quên, một quyền mà Thiêng liêng đã ban cho con.

Thày hy vọng là con sẽ nắm lấy lời dạy này và bắt đầu sử dụng quyền này. Nếu con muốn thày giúp đỡ, thày HƠN là sẵn sàng giúp con.

1 | Sống với những gì con không thể chung sống

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 30/11/2018, nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary. Thật là niềm vui và đặc ân rất lớn cho thày được khai mạc hội nghị này và được chào đón các con – những người có mặt ở đây trong vật lý cũng như những người nối kết qua internet. Chủ đề nguyên thủy được đề nghị cho hội nghị này là: “Làm thế nào giúp cho con người ở Đông Âu được hòa bình,” nhưng các thày cảm thấy không chỉ người ở Đông Âu mới có thể được lợi lạc từ những bài giảng các thày muốn ban truyền. Chắc chắn con người ở khắp mọi nơi đều gặp khó khăn để cảm thấy an bình với việc mình sống trên trái đất. Con yêu dấu, điều các thày mong muốn đạt được trong hội nghị này là trao cho con một số lời dạy không chỉ dành riêng cho các avatar hay các đệ tử của chân sư thăng thiên, mà về lâu dài có thể dành cho tất cả mọi người trên địa cầu, ngay cả các cư dân nguyên thủy của địa cầu hoặc những ai tới đây từ những hành tinh khác đã rơi xuống dưới mức tự nhiên của hành tinh đó.

1.1. Xét lại cái gì là bình thường

Hiển nhiên, con yêu dấu, con đã lớn lên trên địa cầu và hầu hết các con đã lớn lên với một hình ảnh cho rằng có lẽ trái đất là hành tinh duy nhất trong vũ trụ có bất kỳ dạng sống nào. Có lẽ đây là một hành tinh rất quan trọng đối với Thượng đế – nếu con đã lớn lên trong một môi trường Cơ đốc giáo. Có lẽ con đã lớn lên với ý tưởng mình là một loài vượn đã tiến hóa, và xác suất để sự sống hiện diện nhỏ đến độ nó chỉ xảy ra trên rất ít hành tinh. Do con đã lớn lên với quan điểm cho rằng rất có thể địa cầu là hành tinh duy nhất, dần dà con đã chấp nhận rất nhiều điều kiện được thấy trên trái đất mà không hay biết. Điều này không có nghĩa là con đã chấp nhận chúng là tốt, nhưng có thể con đã chấp nhận chúng là bình thường, là tự nhiên hay không thể tránh khỏi. “Chuyện nó tất phải như vậy thôi.”

Tất nhiên, điều này dính liền với giáo lý các thày đã trao cho con những năm qua rằng một khi con bị kẹt vào một trạng thái tâm thức nhị nguyên thì con không thể thoát ra khỏi trừ khi con có một khung tham chiếu chỉ cho con thấy là ở ngoài trạng thái tâm thức này có một cái gì, có một cách nhìn khác hơn về cuộc sống. Con yêu dấu, lẽ tự nhiên khi con đã lớn lên trong môi trường hiện thời trên trái đất, con đã không nhận được một khung tham chiếu như vậy. Ví dụ, không ai nói cho con biết là có những hành tinh tự nhiên nơi rất nhiều hiện tượng con thấy trên trái đất không hề biểu hiện, không hề xảy ra. Con đã lớn lên với cảm giác là thật chẳng ích gì mà chất vấn những chuyện đang xảy ra, vì hiển nhiên đó là chuyện bình thường. Điều cần làm là con tìm cách sống chung với nó mà thôi.

1.2. Khả năng thích ứng có may lẫn rủi

Con thấy đó, con yêu dấu, ở đây chúng ta đang chạm đến một đề tài – theo một nghĩa nào đó – vừa là một điều may lẫn một điều rủi. Tất nhiên, nó liên hệ phần nào đến một hiện tượng đã được các nhà tiến hóa học nói đến, là làm thế nào một giống loài có thể thích ứng với môi trường của nó. Mặc dù nhiều nhà tiến hóa học luôn luôn bênh vực chủ thuyết về sự tồn tại của kẻ mạnh nhất, nhưng nếu con thực sự nhìn vào lịch sử tiến hóa, con sẽ thấy kẻ sống còn không phải là kẻ mạnh nhất, không phải là kẻ hung hãn nhất như một số nhà khoa học đó muốn con nghĩ. Không đâu con yêu dấu, người sống còn là những người dễ thích nghi nhất. Lý do loài người đã lan tràn đến mọi nơi trên trái đất và là giống loài thành công nhất trên trái đất – ít ra từ một góc nhìn tiến hóa – là vì con người có khả năng thích nghi cao hơn bất kỳ loài nào khác mà con gặp trên địa cầu. Tại sao loài người thích nghi giỏi hơn mọi loài động vật? Vì con người không phải là một con thú. Con không phải là một loài cao hơn loài vượn một bước như các nhà tiến hóa học muốn con tin. Con là một sự nhảy vọt lượng tử so với loài vượn vì con có sự tự nhận biết, và chính khả năng tự nhận biết này đã giúp con người thích nghi với rất nhiều điều kiện khác nhau.

Một loài thú phần lớn được lập trình để cư xử một cách nhất định. Có nghĩa là con thú, nếu nó gặp phải một môi trường thù địch, sẽ không thể bước lui lại và nói: “Tôi cần thay đổi cách cư xử của mình như thế nào để có thể sống sót trong môi trường này?” Và nó cũng không thể bước lui lại và nói: “Tôi cần thay đổi môi trường như thế nào để có thể sống sót trong môi trường này?”  Một loài thú không có khả năng đó, nhưng con người thì có, và điều này chứng tỏ cho bất cứ ai sẵn sàng nhìn vào dữ kiện, là con người không phải là con thú. Con không là một con thú đã tiến hóa xa hơn, vì người ta không thể tìm thấy một loài thú nào có khả năng này ở một cấp độ thấp hơn. Thày biết sẽ có người nghĩ ra một vài ví dụ, nhưng sự thật là con không thể tìm thấy loài thú nào có một cấp độ tự nhận biết thấp hơn loài người để từ cấp độ đó nó có thể từ từ tiến hoá đến cấp độ tự nhận biết của loài người. Để những loài thú cao cấp nhất đến được mức loài người, chúng sẽ phải thực hiện một bước nhảy vọt lượng tử ví chúng phải được trao cho khả năng tự nhận biết đó từ một nguồn cao hơn – khả năng này không thể do tiến hóa.

Khả năng thích nghi của loài người là một điều may theo nghĩa con có thể thích ứng với nhiều môi trường khác nhau. Nhưng đó cũng là một điều rủi theo nghĩa chính khả năng này có thể khiến con nhìn vào điều kiện hiện tại của địa cầu và quyết định: “Ồ, tôi chỉ cần sống chung với nó. Tôi không thể nào thay đổi nó được. Thật chẳng có ích gì mà đặt nó thành vấn đề. Tôi chỉ có thể sử dụng nó tốt nhất mà thôi.” Và do đó suốt chiều dài lịch sử, loài người đã thích ứng với rất nhiều điều kiện mà họ đã có thể thay đổi nếu họ ý thức là họ có khả năng thay đổi, nếu họ có viễn quan là mọi chuyện có thể thay đổi như thế nào cùng sự sẵn lòng thực hiện cuộc thay đổi. Đây chính là khả năng mà các sa nhân đã dùng để kiểm soát quần chúng hết thời này đến thời khác, hết văn minh này đến văn minh khác, thậm chí từ thuở xưa hơn cả lịch sử được ghi chép. Những gì con gọi hiện nay là lịch sử, tất nhiên, là một sự xuyên tạc do sa nhân vì chúng không muốn con biết đến quá trình lịch sử của các nền văn minh đã biến mất nhưng đã tiến xa hơn hẳn nền văn minh hiện đại.

Lý do là vì, một lần nữa, chúng không muốn con có một khung tham chiếu cho thấy là đã từng có những nền văn minh quá khứ tiến hóa cao gấp bội nền văn minh hiện tại nhưng các văn minh đó đã sụp đổ do ảnh hưởng của sa nhân. Và như vậy, nền văn minh của con không những có khả năng tiến hoá xa hơn nữa mà cũng có khả năng suy tàn – nếu con cho phép sa nhân tiếp tục sai khiến mọi chuyện. Chúng không muốn con có khung tham chiếu này mà con đã có thể nhận được nếu con biết lịch sử các nền văn minh đã qua. Chúng muốn con tin rằng các con là một giống loài với một quá trình rất ngắn, cho dù là một vài triệu năm theo như khoa học công nhận, hay là 6000 năm theo người Cơ đốc cực chính thống cũng như hầu hết các tín đồ tin vào kinh Cựu ước cho rằng Thượng đế đã tạo ra địa cầu trong dạng hiện hữu chỉ mới gần đây thôi. Lẽ tất nhiên, Thượng đế (trong tư cách là sinh thể cao nhất trong vũ trụ mà chúng ta gọi là Đấng Sáng tạo) không hề tạo ra địa cầu trong dạng hiện thời, vì chắc chắn ngài đã có thể hình dung ra một hành tinh không có bóng dáng chiến tranh, loạn lạc, bạo lực cùng tất cả mọi thứ khác.

Con yêu dấu, điều thày đang nói với con ở đây – những người tâm linh, cho dù con là một avatar hay một cư dân nguyên thủy của địa cầu đang bắt đầu nâng cao tâm thức mình – là một điều vô cùng giản dị. Con đã kế thừa từ giống loài của con, từ tâm thức tập thể, từ cha mẹ, từ các thế hệ trước, khả năng thích nghi với các điều kiện vật chất, khả năng chấp nhận các điều kiện này là bình thường và tìm được cách sống chung với chúng. Đây là một khả năng đã phục vụ nhân loại một cách nào đó, nhưng đối với con là người tâm linh, đã đến lúc trên bước đường tăng triển con phải xem xét nó và quyết định: “Tôi sẽ vươn lên cao hơn động lượng tập thể muốn thích nghi với các điều kiện vật lý.” Các thày đã nói với con những gì suốt những năm qua qua các lời giảng? Rằng con không ở đây để chấp nhận các điều kiện hiện thời và thích nghi với chúng. Con ở đây để nâng cao điều kiện hiện thời, nâng cao tập thể, thậm chí nâng cao cả các điều kiện vật lý. Con không thể làm điều này nếu con là một con thú có kỹ năng thích nghi. Con chỉ có thể làm được khi con công nhận mình là một sinh thể tâm linh và con quyết định: “Tôi sẽ vươn lên khỏi cái kỹ năng chấp nhận, thích nghi với các điều kiện hiện hành.”

1.3. Các điều kiện con không thể sống chung

Để hiểu điều này đầy đủ và thực hiện những gì thày đang trình bày với con, con cần nắm vững bối cảnh các thày đã rất cẩn thận trao cho con – bắt đầu từ trước hội nghị năm ngoái ở đây tại Estonia nhưng chắc chắn cũng ngay trong hội nghị đó – là các giáo lý về chấn thương nhập đời và ngã gốc [Xem sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]. Dù con là avatar hay cư dân nguyên thủy của địa cầu, đã tới một lúc con phải chạm mặt với những điều kiện khốc liệt đến độ con phải gánh chịu chấn thương nhâp đời đó – hay chấn thương điạ cầu đó, là từ mà các thày dùng đối với các cư dân nguyên thủy. Sau đó con đã tạo ra ngã gốc là một cái ngã phản ứng. Điều con cần bắt đầu suy nghiệm ở đây là cho dù con là avatar hay cư dân nguyên thủy, một khi con đạt đến một nhận biết nào đó thì trong nội tâm, con biết là mọi sự không nhất thiết phải xảy ra như chúng đang xảy ra trên trái đất. Có một giải pháp thay thế, có một cách khác hơn, và mọi sự có thể tốt hơn. Có thể con không diễn đạt được điều này bằng lời nói, ngay cả con không ý thức được rõ ràng, nhưng con có một khung tham chiếu rằng những chuyện đang diễn ra ở đây trên địa cầu không phải là cao nhất.

Điều lạ lùng ở đây – và điều này rõ rệt nhất nơi các avatar cho nên thày sẽ dùng ví dụ này – là như một avatar con đến hiện thân lần đầu trên địa cầu, và cho dù con không giữ được ký ức ý thức về cuộc sống trên hành tinh tự nhiên, con vẫn mang một cảm nhận mạnh mẽ rằng nhiều điều mình gặp trên trái đất không phải là cao nhất và có một cách sống khác hơn. Mọi sự không cứ phải y như vậy. Thế là giờ đây con bị mắc kẹt – nếu có thể nói như vậy vì đây là điều hầu hết chúng ta đều cảm nhận – mắc kẹt trong xác thân vật lý dày đặc này giữa thế giới vật lý dày đặc này. Chung quanh con là những người khác cũng mang một xác thân vật lý, và cho dù con có cảm gì hay nghĩ gì thì họ cũng có khả năng làm con tổn thương, khả năng sử dụng xác thân vật lý của họ để làm hại xác thân vật lý của con.

Con không thể làm gì để tránh chuyện này một khi con ở trong cơ thể vật lý. Cho dù người ta có làm gì con, con cũng không thể tránh khỏi sự kiện con đang ở trong một cơ thể vật lý và con nhìn, con trải nghiệm những gì xảy ra trên trái đất. Các thày đã từng nói là con có thể là một avatar nhìn xuống địa cầu và con quyết định mình muốn đến đây đầu thai, và hiển nhiên con có thể thấy được nhiều điều kiện không phải lẽ, nhưng con không thể kinh nghiệm các điều kiện này từ xa. Con sẽ không trải nghiệm địa cầu bằng xương bằng thịt cho đến khi con bị mắc kẹt, bị dính chặt trong một xác thân vật lý. Một khi con ở đây, một khi con ở trong xác thân này thì bỗng chốc con trải nghiệm địa cầu là như thế nào. Thậm chí con trải nghiệm năng lượng ở đây quá dày đặc, tâm thức tập thể quá dày đặc với biết bao lòng căm hận, thù địch lẫn sợ hãi. Con trải nghiệm nó một cách con không bao giờ tưởng tượng nổi như một avatar. Thực tế là một phần nỗi chấn động mà con cảm thấy liên hệ đến một điều kiện đặc thù – một điều kiện với nhiều xác suất nhất hay có lẽ là điều kiện chủ chốt – mà con đã xem xét trước khi đến địa cầu rồi quyết định là mình muốn góp phần loại trừ nó khỏi địa cầu. Giờ đây con ở trong cơ thể, con đang trải nghiệm điều kiện này, con thấy nó dữ dội đến chừng nào, nó nặng nề đến chừng nào, nó khó khăn đến chừng nào, thì con phản ứng: “Tôi không thể sống nổi với nó. Tôi không thể sống với điều kiện này có mặt trên trái đất.”

Có thể cá nhân con không bị tra tấn như được mô tả trong sách Những kiếp của tôi. Không phải tất cả các con đều phải hứng chịu kiểu tấn công cá nhân hung ác đến vậy. Một số các con bị cú sốc chỉ do đã chứng kiến người ta phải sống và khổ đau như thế nào. Là avatar, con chưa bao giờ chạm trán với sự thể như vậy trên một hành tinh tự nhiên và con cảm thấy không một ai phải sống trong điều kiện như thế. Cho nên con phản ứng: “Tôi không thể sống nổi với tình trạng này trên hành tinh này. Tôi không thể sống trong một môi trường có tình trạng này hiện hữu.”

Đó là phản ứng của con. Con chiu rút vào chính mình, theo nghĩa đen. Con bị chấn động đến độ gần giống như con cố kéo nguyên hào quang của mình trở vào bên trong một điểm an toàn nơi con có thể quên đi sự có mặt của điều kiện đó. Thế nhưng con không thể làm vậy vì như thày vừa nói, con bị kẹt cứng trong cơ thể vật lý của mình. Không có cách nào thoát ra khỏi cơ thể vật lý. Thế rồi khi cú sốc ban đầu tan đi đôi chút, con phải đối mặt với một thực tế vô cùng phũ phàng. Tất cả mọi thứ trong cảm thể, trí thể lẫn bản sắc thể của con nói với con: “Tôi không thể sống trên hành tinh này khi điều kiện này có mặt. Tôi không thể sống với nó.”  Nhưng cơ thể vật lý của con khi nó đói meo, nó sẽ bảo con phải sống trên hành tinh này và con phải làm mọi điều cần thiết để giữ cho cơ thể sống còn.

1.4. Xem cơ thể là kẻ thù

Đây là lúc nhiều người trong các con trải nghiệm một sự phân rẽ giữa cơ thể vật lý và ba thể phàm cao hơn. Gần như thể con phải dựng lên một loại hàng rào nào đó giữa thể vật lý và ba thể cao để bảo vệ các thể cao khỏi những gì xảy ra trong cõi vật lý, có lẽ cả những gì cơ thể vật lý trải nghiệm. Nếu con đã bị tra tấn chẳng hạn, con sẽ phải tạo ra rào cản này để nỗi đau của cơ thể không tác động quá dữ dội lên ba thể cao. Hầu hết các con đã dựng lên sự phân rẽ này mà con vẫn mang theo cho đến giờ. Con có thể thấy làm thế nào suốt các thời đại, người tâm linh đã xem cơ thể mình là một kẻ thù cho sự phát triển tâm linh. Họ thường nói đến những ham muốn của thể xác, ham ăn, ham tình dục, đủ loại dục vọng khác nhau, và họ xem đó là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh.

Nền tảng của điều này là cú sốc tiên khởi khi con toan dựng lên hàng rào đó như một cơ chế phòng thủ. Tất nhiên ở một mức độ nào đó, con nhận ra là xác thân vật lý của con nằm trong cõi vật lý và người khác cũng có xác thân của họ. Họ có thể xông tới làm hại xác thân con nhưng họ không thể làm tổn thương ba thể cao của con dễ như vậy. Nếu con có thể phóng chiếu hay tạo ra một rào cản thì phần nào con có thể tự bảo vệ mình. Điều thày nói với con là tất cả các con đều đã chạm mặt cơ chế đó và con đã cảm thấy: “Tôi không thể sống với điều kiện này trên trái đất.” Thực tế phũ phàng là con phải sống ở đây trên trái đất. Vậy con làm gì đây? Làm thế nào đối phó đây? Như thày vừa nói, con thường hay đối phó bằng cách buộc mình vào cái cơ chế thích nghi tập thể đã được tạo ra bởi mọi người khác trong gia đình con, trong dân tộc con, trong văn hóa của con, trong nền văn minh của con – thậm chí trong toàn bộ giống loài và có thể nói trong tâm thức tập thể nói chung. Con tự buộc mình vào đó và con nhận ra là trên một hành tinh như thế này, con phải thích nghi thôi. Con phải chấp nhận các điều kiện như chúng đang trải bày, và con tận dụng theo cách tốt nhất. Phần nào đó sâu thẳm trong tiềm thức của con, con đã lấy quyết định: “Tôi không thể sống với chúng nhưng tôi sẽ phải sống với chúng, và để sống với chúng, tôi phải chấp nhận niềm tin này hay niềm tin kia.”

Có thể con đã chấp nhận chuyện này không thể tránh, không thể né khỏi, và nếu con làm một số việc thì con sẽ tránh được cái điều kiện mà con không thể chung sống. Con có thể tránh không đích thân trải nghiệm nó, con có thể cách ly khỏi nó. Con thấy nhiều người ở các nước tiền tiến đã tự cách ly khỏi rất nhiều điều kiện đang diễn ra trong thế giới thứ ba, chẳng hạn nhiều người ở nước tiền tiến không thể sống nổi nếu chính con mình bị chết đói hay thiếu ăn, nhưng họ lại có thể sống nổi nếu hàng triệu trẻ em trong thế giới thứ ba bị chết đói hay thiếu ăn. Một lần nữa, thày không đang chê trách mà thày chỉ đưa ra một ví dụ về cơ chế mà qua đó con có thể tự cách ly khỏi một điều kiện để vẫn sống được trên hành tinh này, vẫn sinh hoạt được trên hành tinh này.

1.5. Cơ chế sống còn

Điều chúng ta đi đến ở đây chỉ đơn giản là một cơ chế sống còn. Thậm chí nó có thể là một cơ chế sống còn vật lý, qua đó con cố gắng tự cách ly bằng cách tránh đầu thai nơi những khu vực trên địa cầu gặp nhiều chiến tranh, nhiều bệnh tật hay nạn đói hay bất cứ gì khác. Đối với đa số các con, nó chủ yếu là một cơ chế sống còn ở tầng cấp cảm xúc, lý trí hay bản sắc hầu con có thể tồn tại trên một hành tinh mang sẵn điều kiện mà con không thể chung sống. Bởi vì nếu phần nào con cách ly khỏi nó và cá nhân con không chạm mặt trực tiếp với nó, thì con có thể sống với sự có mặt của nó trên hành tinh – nhưng ở một nơi nào khác chứ không ở ngay nơi con sống.

Một lần nữa, con yêu dấu, thày không nói điều này để trách móc con. Các thày đều đã đầu thai trên địa cầu và đã từng làm y hệt như con để có thể sống ở đây. Điều thày muốn nói là đối với các con đã theo học giáo lý cho đến điểm này, các con đã sẵn sàng nhìn vào vấn đề này. Con đã sẵn sàng nhìn vào các cơ chế sống còn và con cũng sẵn sàng khởi sự vươn lên cao hơn để con có thể sống trọn trên địa cầu chứ không chỉ sống còn mà thôi. Con thực sự an bình với việc mình ở đây và do con đã an bình, con có thể vui hưởng cuộc sống trên địa cầu. Thậm chí con vui hưởng việc biểu hiện chính mình, biểu hiện cái ta thực của mình ngay đây trên địa cầu.

Lẽ tự nhiên con yêu dấu, khi con tới đây và nếu con là một avatar (hay ngay cả một cư dân nguyên thủy), các con đều có mong muốn biểu hiện bản thể thực của con, khả năng sáng tạo thực của con trên địa cầu và con biết đó là cách duy nhất địa cầu sẽ cải tiến. Cách duy nhất con có thể giúp địa cầu tiến bộ là khi con biểu lộ con người mà con thực là, biểu lộ sự sáng tạo của Hiện diện TA LÀ của con.

Nhưng khi con tạo ra cái cơ chế sống còn đó, kỳ thực con đã nói: “Chừng nào cái điều kiện mà tôi không thể chung sống còn hiện hữu trên trái đất, tôi sẽ không thể tự do biểu hiện chính mình, tôi không thể sáng tạo.” Nhiều các con thậm chí đã cảm thấy – nếu có thể gọi như vậy – một tình đoàn kết nào đó với những người đang đau khổ trên trái đất. Nhiều các con đã tạo ra một cơ chế vô cùng sâu đậm trong tiềm thức nơi con có lòng trắc ẩn đối với một nhóm người đặc thù đang đau khổ vì một điều kiện đặc thù. Nói chung, ở một thời điểm con đã quyết định: “Tôi không thể an bình, tôi không thể hạnh phúc, tôi không thể sáng tạo, tôi không thể tự biểu đạt chừng nào những người kia còn bị đau khổ bởi điều kiện đó.”

1.6. Đóng chặt sáng tạo không phải là giải pháp

Con yêu dấu, đó là một cách phản ứng rất dễ thông cảm. Như thày vừa nói, tất cả chúng ta đều đã bước vào đó. Các thày đã thăng thiên cũng đã đạt tới một điểm khi các thày nhận ra là mặc dù phản ứng đó dễ thông cảm, nó không xây dựng, vì tại sao con đã đến địa cầu như một avatar chứ? À, vì con muốn loại trừ chiến tranh chẳng hạn. Làm thế nào con có thể đóng góp loại trừ chiến tranh? Chỉ bằng cách biểu lộ sự sáng tạo của bản thể cao hơn của con. Nếu con đóng chặt sáng tạo lại (vì con cảm thấy gắn kết với người đau khổ) thì con cũng đóng chặt khả năng thực hiện những gì con đã đến đây để thực hiện. Con sẽ không giúp loại trừ chiến tranh bằng cách đau khổ y như những người đang đau khổ, và con sẽ không giúp loại trừ chiến tranh bằng cách cắt đứt sáng tạo của mình, bước vào một trạng thái sống vắng bóng mọi niềm vui vì con cho rằng con không thể vui được khi người khác còn đau khổ. Đây không phải là cách thức loại trừ một tình trạng mà con đã đến đây để góp phần loại trừ.

Con thấy đó, con yêu dấu, một lần nữa nếu con muốn tác động tích cực đến địa cầu, con sẽ không thể làm được điều này bằng cách suy nghĩ hay nhìn vấn đề y như mọi người khác vốn nhìn. Con không thể giúp khắc phục một vấn đề, một điều kiện, bằng cách thích nghi với điều kiện đó như mọi người vốn thích nghi. Các thày cần con bắt đầu suy ngẫm điều này và như thày đã nói, bắt đầu xét xem: “Đâu là những điều kiện trên địa cầu khiến tôi xốn xang nhiều nhất? Đâu là những điều kiện khiến tôi xốn xang nhiều nhất?” Thày Nada đã có giảng điều này trong sách của thày [Những Khai ngộ Thần bí về An bình] khi Nada yêu cầu con làm bài tập trong sách, nhưng các thày cũng đã yêu cầu con xem xét vấn đề này trong một bối cảnh rộng lớn hơn. Bây giờ thày đây lại yêu con lần nữa. Thày yêu cầu các con trong tư cách nhóm hãy duyệt lại và thảo luận về vấn đề này. Đâu là những điều kiện trên trái đất khiến con không thể chung sống trong phần sâu thẳm của bản thể con? Rồi có lẽ các con thảo luận xem con đã làm thế nào để vẫn sống được trên trái đất trong khi điều kiện đó vẫn hiện hữu và con đã phải làm gì để đạt đến điểm đó. Xong con có thể bắt đầu xét xem làm thế nào con có thể tự giải thoát khỏi điều kiện đó.

Con thấy đó con yêu dấu, một lần nữa, điều vô cùng quan trọng là con cần nhìn nhận những gì các thày đã nói ở đây. Khi con đến địa cầu – dù con là avatar hay một cư dân nguyên thủy phải chạm mặt với sa nhân lần đầu – con ở một tầng tâm thức nào đó. Chuyện này xảy ra đã lâu lắm rồi, và do sự kiện con ở đây (mặc dù như thày vừa nói, có thể con đã thích nghi với một số điều kiện hay con đã rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ) thì con vẫn đã thu hoạch một nhãn quan khác hơn, một độ trưởng thành cao hơn sau khi sinh sống trên một hành tinh như thế này. Có nghĩa là giờ đây con có thể nhìn vào quyết định ban đầu của mình khi con quyết định sẽ thích nghi thế nào với hoàn cảnh. Con có thể nhìn nó từ một góc độ rộng lớn hơn. Con có thể thấy nó giới hạn con ra sao và do đó con đạt tới điểm nhận diện nó là một cái ngã. Con đã tạo ra một cái ngã cho phép con sống trên địa cầu trong khi điều kiện đó vẫn có mặt, nhưng ngã này cũng có chức năng cắt đứt khả năng sáng tạo của con. Con có thể nhận diện ngã đó, xem xét nó từ ngoài, nhận ra nó không phải là con và do đó con có thể quyết định để cho nó chết đi.

1.7. Thoát khỏi vấn đề mà không giải quyết vấn đề

Con hãy ghi nhận tất cả mọi điều các thày vừa trình bày. Ngã này có thể nghĩ là con không thể an bình trên địa cầu chừng nào một điều kiện nào đó hiện hữu. Do đó nó có thể phóng chiếu vào con là con cần phải giải quyết điều kiện đó trước khi con có thể an bình, nhưng như các thày đã nói, thật sự không phải vậy. Chính con – cái Ta Biết – có khả năng nhìn ra đó chỉ là một cái ngã đang phóng chiếu quyết định phi lý này vào con, và con có khả năng quyết định: “Đây không phải là quyết định mà tôi muốn sẽ quy định tôi, quy định cuộc sống của tôi trên địa cầu này nữa.” Con có thể quyết định để cho ngã chết mà không cần phải giải quyết vấn đề, cái vấn đề mà ngã đã phóng chiếu cho con giải quyết.

Vì vậy con yêu dấu, công việc đầu tiên, nhiệm vụ đầu tiên mà thày giao cho con trong hội nghị này là mở ra cuộc thảo luận về các đề tài này. Trước hết con hãy nhận diện các điều kiện con không thể sống với. Con yêu dấu, con cần nhận thức là có một phần của cơ chế thích nghi qua đó nhiều người trong các con, những người tâm linh, đã cảm thấy mình cần phải tỏ ra tích cực, mình cần có một cái nhìn tích cực về cuộc sống trên trái đất. Cho nên đôi khi con có xu hướng phủ nhận các cảm xúc tiêu cực của mình. Con đi vào phủ nhận, con che giấu chúng, và con không nhìn nhận là mình đã có cảm xúc tiêu cực. Như ngay cả Phật Gautama cũng có nói, điều hoàn toàn chấp nhận được là con công nhận mình có một số cảm xúc rất mãnh liệt về một số điều kiện trên trái đất. Hoàn toàn chấp nhận được là con đưa chúng lên mức nhận biết ý thức để con có thể thỉnh gọi và làm tan biến năng lượng. Và nhờ vậy, con nhìn ra cái ngã đã tạo ra những cảm xúc này và để cho ngã đó rốt cuộc chết đi.

Con không thể làm được điều này nếu con luôn luôn muốn duy trì cái cảm nhận cực đoan của một số người theo phong trào Thời Mới: “Ô mọi chuyện đều tốt hết.” Như các thày đã nói, con là một người biết suy nghĩ thì con không thể nhìn vào các điều kiện trên trái đất rồi bảo là mọi chuyện đều tốt hết, vì rõ ràng là không. Là đệ tử của chân sư thăng thiên, con biết rõ điều này nhưng thỉnh thoảng con vẫn có những cảm xúc mà con không nhận diện – mà con không thật sự sẵn lòng nhận diện vì chúng làm con sợ hãi đôi chút. Con không biết làm gì với chúng nhưng thày nói với con điều này: Con hãy nhận diện các cảm xúc này, đây là một phần bài tập của con cho hội nghị này. Và một khi con đi vào sâu hơn, các thày sẽ giúp con đối phó với chúng, khắc phục chúng và giải thoát khỏi chúng để con có thể an bình với việc mình ở đây trên hành tinh này. Và nhờ con an bình cho nên con có thể thực sự góp phần vào việc loại trừ một điều kiện nhất định.

Và như vậy, thày cảm ơn con với bài truyền đọc khai giảng này, thày cảm ơn con đã hiện diện, đã tham dự hội nghị này, đã sẵn lòng làm thành viên của mạn đà la này. Con có khả năng thực hiện một điều gì đó cho tâm thức tập thể mà chưa một nhóm người nào đã từng làm theo cách này – một nhóm người sẵn lòng thực hiện việc này một cách ý thức trong bát cung vật lý. Và thày cảm ơn con đã làm vậy.

23 | Là Ki-tô trong Thời Hoàng kim của Saint Germain

Chân sư Thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 24 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Saint Germain. Thày muốn giảng thế nào là Ki-tô Hằng sống và Phật Hằng sống đang hành động trong Thời Bảo bình. Thế nào là Ki-tô Hằng sống đang hành động trong Thời Song ngư? Nó có nghĩa là con hòa điệu với Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô và con đi vào một trạng thái hợp nhất với thày để nhận được một điều gì đó từ thày, hoặc cho đời sống cá nhân của con hoặc để phụng sự người khác và xã hội.

23.1. Cần làm gì để đưa ra một ý mới

Giờ đây con có thể nhìn vào những thay đổi đã được đem lại trong Thời Song ngư và con có thể thấy là tất cả những người đã có thể đem lại đóng góp tích cực trong bất cứ lãnh vực nào của đời sống và xã hội, những người đó đã hòa điệu được phần nào với Ki-tô hành tinh, là Giê-su trong thời đại đó. Lẽ tất nhiên, điều này không có nghĩa là tất cả những ý được đưa ra trong 2,000 năm qua đều chỉ đến từ Giê-su nhưng chúng đến xuyên qua Giê-su như vị trưởng giáo của Thời Song ngư. Do đó ta có thể nói là nếu con nhìn vào nhiều người đã đem lại ý mới trong một số lãnh vực, thì họ đã hòa điệu được với Giê-su, do đó họ đã mở tâm ra đón nhận một số ý.

Giờ đây nếu con nhìn một số những người này, thì con có thể thấy là nhiều người còn không phải là tín đồ tôn giáo hay tâm linh. Nhiều người có một số vấn đề tâm lý chưa giải quyết, một số thói quen khác lạ, ngay cả một số niềm tin chắc chắn là không phù hợp hay không thẳng hàng với giáo lý chân sư thăng thiên. Tuy nhiên, họ phần nào hòa điệu được với các thày nên xuyên qua đám mây mờ của tất cả những chuyện vỏ ngoài trong tâm của họ, đã có một khe hở để ý tưởng có thể đi xuống tâm họ – và điều này tất nhiên cũng sẽ xảy ra trong Thời Bảo bình. Để có thể hòa điệu với Chân sư Thăng thiên Saint Germain, con người không cần biết là thày hiện hữu, tin giáo lý các chân sư thăng thiên, đi theo giáo lý này, thực tập giáo lý này. Họ không cần giải quyết hết các vấn đề tâm lý của họ. Lý do thật giản dị. Việc đem tới một ý tưởng mới có khía cạnh alpha và khía cạnh omega. Khía cạnh alpha là ý tưởng đến từ cõi thăng thiên. Khía cạnh omega là để có thể nhận được một ý tưởng và áp dụng nó, thì những người này phải có chuyên môn trong một lãnh vực đặc thù. Nếu thày muốn đem lại một ý mới trong ngành giáo dục, thày cần người có kiến thức, có chuyên môn, có kinh nghiệm nào đó trong ngành này. Lẽ tất nhiên thày cũng cần một người có thể hòa điệu với thày, ít nhất là trong một khoảng khắc ngắn và do đó nhận được ý đó.

Có rất nhiều người chân thật mong muốn thấy một lãnh vực nào đó của đời sống được cải thiện. Những người đó có kinh nghiệm trong đời sống hàng ngày của họ, họ đã nghiên cứu và bỏ tâm trí vào tiến trình đem lại một ý mới, một sự cải tiến. Nhưng trong một số trường hợp, họ có thể có một hiểu biết không hoàn hảo về lãnh vực của họ hay về sự cải thiện cần đem lại nhưng họ có một mong muốn chân thật.

Khi con tìm hiểu về một số khoa học gia đã đem lại ý tưởng mới trong lãnh vực khoa học, con sẽ thấy là có đôi lúc họ bị choáng ngợp. Họ căng thẳng quá và họ quyết định ngưng nghỉ, không chú tâm vào đề tài nghiên cứu hàng ngày của họ. Khi họ rút lui và buông không nghĩ về đề tài thì bỗng nhiên có một khe hở mở ra cho một “lóe sáng cảm hứng” giáng xuống và ngay lúc đó họ nhìn vấn đề với một góc nhìn mới. Họ thấy được một ý mới và lúc đó họ có thể tiến tới.

23.2. Cảm hứng vượt quá bộ óc vật lý

Ngay cả những nhà khoa học duy vật nhất cũng nhìn nhận rằng họ cần một cảm hứng nào đó. Họ không muốn suy đoán xem cảm hứng này từ đâu tới, nhưng ta không cần suy đoán nhiều để nhận ra là cảm hứng đó không đến từ bộ óc vật lý. Nếu bộ óc đã có thể đem lại ý tưởng thì chắc chắn trong thời gian nhà khoa học dốc sức dùng bộ óc vật lý để tìm giải đáp cho vấn đề thì bộ óc vật lý đã phải đưa ra cho vị đó đáp số.

Nhà khoa học có được lời giải khi đứng lui lại, không dùng tâm vỏ ngoài nữa, và khi ấy có một khe hở cho cảm hứng tràn vào từ một cõi cao hơn. Do đó trong Thời Bảo bình, ta có thể nói tiến trình này sẽ càng ngày càng được biết nhiều hơn, trở nên thông thường hơn, theo nghĩa con người bắt đầu hiểu và công nhận trực giác thực sự là chìa khóa.

Trực giác thường chỉ được mở khóa khi con đã đi qua giai đoạn tiếp cận vấn đề với tâm vỏ ngoài, hết sức tìm cách hiểu nó, thực sự muốn tìm cách cải thiện và khi ấy con tạo nền móng. Giống như ý tưởng các thày đã đưa ra trong Thời Song ngư về Chén Thánh được nâng lên để thuốc tiên của Tánh linh có thể rót vào. Nếu không có chén thánh, thày không thể rót gì vì sẽ chỉ uổng phí mà thôi. Ở đây có tác động alpha và omega. Omega nâng chén thánh của tâm lên và sau đó alpha mở tâm ra, dùng khả năng trực giác thay vì tâm vỏ ngoài để mở tâm ra đón nhận ý tưởng từ trên xuống.

Có thể nói đây là tiến trình là Ki-tô hành động trong Thời Bảo bình. Con hòa điệu với thày, vì dù có những chân sư khác (và chắc chắn sẽ có những chân sư khác sẽ mang lại ý tưởng mới), họ sẽ sẽ đi thông qua chức vụ mà thày là. Lẽ tất nhiên, nếu con là đệ tử chân sư thăng thiên và biết mình đặc biệt đồng cảm với một chân sư nào đó, con nên chú tâm vào chân sư đó và không nhất thiết vào thày. Thày không muốn nói là con chỉ chú tâm vào riêng thày mà thôi nhưng thày muốn nói là những ý tưởng mới sẽ đi thông qua chức vụ mà thày là người lãnh đạo.

23.3. Kết quả nỗ lực của các chân sư

Bây giờ thày muốn gia tốc sang một đề tài khác. Thày muốn nhìn trở lại những tổ chức chân sư thăng thiên trước mà các thày đã bảo trợ, như thày MORE đã làm hôm trước. Thày muốn con xem xét câu hỏi: thày đã bước ra làm việc công khai trong thập niên 1930 và bảo trợ Phong trào TA LÀ (I AM Movement) và sau đó các thày đã bảo trợ một số tổ chức khác, vậy kết quả của những nỗ lực này là gì? Có bao nhiêu đệ tử chân sư thăng thiên đã thực sự tới điểm biểu lộ quả vị Ki-tô, nhận được ý mới từ các chân sư thăng thiên và mang chúng vào một lãnh vực nào đó của xã hội? À, thày không muốn ở đây bàn luận số lượng. Điều thày muốn chỉ cho con thấy là quả thực số người biểu lộ quả vị Ki-tô không nhiều như các thày hy vọng. Thày muốn bàn thảo nguyên nhân vì sao lại như vậy.

Điều thày muốn cho các con thấy là trong hai ba năm vừa qua, các thày đã cho các con một cái nhìn sâu sắc hơn về cách các thày nhìn vấn đề làm sao làm việc với nhân loại khi chưa thăng thiên. Các thày đã nói tới những khó khăn gặp phải, giống như khi thày Giê-su nói các thày giống như những người bán xe cũ dùng chước “nhử hàng thấp mời hàng cao.” Các thày cần đưa ra giáo lý hấp dẫn mức tâm thức hiện hành của con người để họ chịu học giáo lý. Sau đó, khi họ đã đi vào rồi, thì các thày hy vọng có thể trao cho họ một giáo lý cao hơn giúp họ tăng triển thay vì ve vuốt tự ngã và khiến nó cảm thấy hơn người khác.

Điều các thày đã phải làm trong những giai đoạn trước – vấn đề mà các thày đối diện lúc ấy – là tâm thức tập thể rất, rất dày đặc. Để các đệ tử chịu tham gia (thậm chí để thức tỉnh họ thấy được con đường đạo, để khiến họ bước vào đường đạo), các thày phải truyền cho họ một cảm giác phấn khởi, một mong muốn làm điều gì đó. Một số đệ tử mô tả trạng thái này như là họ “đang bốc lửa”, họ đang “nổ lửa”. Các thày cần làm thế vì lý do đơn giản là tạo động lượng giúp các đệ tử thoát khỏi tâm thức tập thể, tâm thức đại chúng. Tuy thế, vấn đề không tránh được là đệ tử quá nồng nhiệt trong việc thay đổi thế giới cho Saint Germain đến độ bị mất quân bằng. Các thày có nói trước đây là nhiều đệ tử có cái nhìn đúng về điều cần làm nhưng lại có cái nhìn sai lệch hay thiếu sót về cách thực hiện.

23.4. Đệ tử mất quân bằng

Các thày đã thấy nhiều người đệ tử biết đến sự hiện hữu của Saint Germain và ước muốn đem lại thời đại hoàng kim của thày. Các đệ tử này bừng bừng hứng khởi muốn bước ra ngoài xã hội, muốn phất tay thay đổi toàn thế giới và họ tiếp cận người khác một cách rất bất quân bằng nên họ đã khiến người khác tránh xa họ hoặc họ đã gánh chịu phản ứng tiêu cực từ người khác.

Các thày thấy nhiều đệ tử bước ra ngoài xã hội với phong cách bán hàng rất bất quân bằng giống như cách hành xử của các nhóm Cơ đốc tái sinh và nhiều nhóm khác. Họ bỗng nhiên cải đạo theo một hệ thống niềm tin nào đó và sau đó bước ra ngoài xã hội và nghĩ rằng họ phải cải đạo toàn thế giới theo đạo của họ. Họ bị tâm thức tập thể chống đối và gặp phản ứng tiêu cực của những người khác, do đó họ từ trạng thái hưng phấn giả tạo rơi xuống chỗ chán nản. Một số trở nên nản chí, ngay cả bỏ giáo lý đi hay quyết định rút lui. Lẽ tất nhiên các thày không muốn thấy phản ứng này nơi đệ tử, nhưng vào thời điểm đó, không thể tránh được điều này xảy ra nơi một số đệ tử.

Một số đệ tử khác chọn một hướng quân bằng và dài hạn hơn. Họ tìm cách cân bằng nghiệp quả hay làm những gì họ thấy cần làm để tiến triển trên đường tu tâm linh. Tiếc thay, nhiều người trong số đó lại trở nên thụ động và không thực sự cảm thấy mình có thể đóng góp gì cho xã hội. Nhiều người lý luận rằng điều họ có thể đóng góp cho xã hội là qua việc đọc chú. Lẽ tất nhiên, việc đọc chú có giá trị nhưng điều đó khiến họ trì hoãn hay hủy bỏ quả vị Ki-tô của họ, vì họ có tiềm năng cao hơn là chỉ đọc chú. Con có thể nhìn lại các phong trào đó và thấy họ bỏ ra rất nhiều thì giờ đọc chú. Tuy nỗ lực này có kết quả tích cực, nhưng trong một số trường hợp nó đã khiến người đệ tử trì hoãn quả vị Ki-tô của họ. Họ không biểu hiện quả vị Ki-tô, và để tránh phản ứng tiêu cực họ lý luận trong tâm rằng: “Tôi cầu thỉnh ngọn lửa tím là đủ rồi, tôi không cần bước ra ngoài và tiếp cận với xã hội.”

Mặt khác, có những đệ tử quá háo hức bước ra ngoài để cải đạo người khác đến độ rơi vào phản ứng bất quân bằng. Để tránh đề tài này trở nên quá nghiêm nghị, thày muốn thêm vào đây một chút hài hước. Bên Hoa Kỳ có một tổ chức tên là Những Người Theo dõi Cân nặng (Weight Watchers) và có một câu chuyện hài hước về những người này là khi họ hội họp, tất cả nắm tay nhau và hát vì đấy là cách duy nhất để bảo đảm là không ai ăn uống được! Con cũng có thể chế ra câu chuyện hài hước tương tự về đệ tử chân sư thăng thiên: Vì sao họ phải đọc chú nhiều giờ như vậy? Bởi vì đấy là cách duy nhất khiến họ không ra ngoài và gặp rắc rối! Đây là một phần lý do các thày phải khuyên các đệ tử của các tổ chức trước đọc nhiều giờ chú như vậy. Đó là cách duy nhất để ngăn cản một số người đi ra ngoài xã hội và hành động với phản ứng rất bất quân bằng vì họ đã quá hăng hái, quá bốc lửa muốn thay đổi thế giới cho Saint Germain.

Họ tức khắc nghĩ rằng thay đổi thế giới cho Saint Germain hay cứu rỗi thế giới có nghĩa là thuyết phục tất cả người khác theo giáo lý chân sư thăng thiên và tổ chức cá biệt của họ. Thày muốn nói thật rõ, dù các thày đã nói điều này từ trước, là trong Thời Bảo bình các thày không hề mong muốn mọi người nhìn nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên. Chắc chắn là các thày không mong muốn tất cả mọi người nhìn nhận một giáo lý hay một tổ chức chân sư thăng thiên đặc thù, kể cả giáo lý mà các thày đang trao truyền qua vị sứ giả này.

23.5. Không có mục đích cải đạo mọi người

Có thể là khi xã hội tiến sâu hơn vào Thời Bảo bình sẽ có một sự công nhận phổ quát về sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên và một sự đón nhận phổ quát giáo lý chân sư thăng thiên. Thày nói “có thể” vì không thể nào tiên đoán khoảng thời gian. Khi nào thì chuyện này xảy ra? Nó sẽ xảy ra ở một thời điểm nào đó nhưng khi nào? Trong tương lai gần, chắc chắn là trong thời gian còn lại của kiếp sống các con, con cần phải minh định rõ trong tâm là biểu hiện quả vị Ki-tô không có nghĩa là con phải đi ra ngoài xã hội và cải đạo tất cả mọi người theo giáo lý đặc trưng này hay chấp nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên hay giáo lý của các thày. 

Là Ki-tô Hằng sống trong Thời Bảo bình có nghĩa là, trước tiên hết, như thày đã nói, con hòa điệu với thày và nhận được một ý tưởng mà con có thể thực hiện trong chính cuộc sống của con, qua đó con giúp ích những người chung quanh trong vòng ảnh hưởng cá nhân của con, hay đem lại lợi ích nào đó cho xã hội. Đây không phải là chuyện bước vào một cuộc thánh chiến để cải đạo người khác đi theo một hệ thống tin tưởng đặc trưng.

Quả thực một trong những thử thách của Thời Song ngư là khắc phục được tâm thức thánh chiến này. Lẽ tất nhiên con có thể thấy được nhiều người trong đó có cả nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã không vượt qua được thử thách này. Điều chúng ta cần trước tiên hết trong Thời Bảo bình là các đệ tử làm việc giải quyết tâm lý cá nhân của mình, dùng giáo lý (đặc biệt là giáo lý về chấn thương nhập đời và về tất cả những ngã mà con đã tạo ra, từ ngã gốc đến các ngã khác) để giải quyết ngã gốc và các ngã khác. Điều này có nghĩa là theo khía cạnh alpha của đường tu, con được tự do hòa điệu với Hiện diện TA LÀ của con và các chân sư thăng thiên, vì các ngã này không ngăn chặn sự hòa điệu của con nữa.

Mặt khác, theo khía cạnh omega, con có tự do bước ra ngoài xã hội và cống hiến người khác những gì con nhận được từ các thày, nhưng con làm việc này một cách hoàn toàn quân bình. Nói cách khác, con không làm việc này vì con bị ảnh hưởng của chấn thương nhập đời và ngã gốc của mình. Con không làm việc này vì con muốn bù đắp bất cứ gì, con muốn được trọng vọng, con muốn người khác công nhận giá trị của con hay bất cứ lý do nào phát xuất từ các ngã tách biệt mà con đã tạo ra khi con phản ứng lại chuyện con tới đây và cảm thấy bị hất hủi.

Khi con nhìn lại các đệ tử chân sư thăng thiên trong quá khứ, tại sao họ đã không biểu hiện và không thể biểu hiện quả vị Ki-tô của họ? Ấy chính là vì họ chưa giải quyết ngã gốc của họ. Tại sao thời ấy các thày không trao truyền các giáo lý liên hệ? Bởi vì các giáo lý này, vì nhiều lý do, không thể trao truyền được trong Thời Song ngư và qua một tổ chức đã được đặc biệt thành lập để đạt mục tiêu mà thày More đã mô tả khi trước. Hành tinh, tâm thức tập thể, các đệ tử chân sư thăng thiên giản dị là chưa sẵn sàng nhận các giáo lý này.

23.6. Làm việc với các ngã tách biệt của con

Các con có thể thấy là các thày đã đợi mười lăm năm với người sứ giả này để trao truyền các giáo lý này. Các thày đã cẩn thận dẫn con từ từ tới điểm có hiểu biết giúp con chấp nhận và áp dụng các giáo lý này. Thày muốn nói một điều rất rất rõ và rất rất thẳng: tất cả các con đã học hỏi các giáo lý được trao truyền qua người sứ giả này, thày mạnh mẽ khuyên bảo các con sử dụng những giáo lý mới nhất về avatar, chấn thương nhập đời, ngã gốc và các ngã khác và cách khắc phục chúng.

Con đừng giả sử là con đã làm những chuyện này rồi. Nếu con chưa học và áp dụng các giáo lý này, con đừng giả sử là con không cần làm việc với chúng. Nếu con xem trọng chuyện hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng và phụng sự các chân sư thăng thiên thì con phải dùng các giáo lý này. Con hãy tuần tự làm việc để khắc phục ngã gốc và các ngã khác để việc phụng sự của con không bị pha màu hay thậm chí bị điều khiển bởi các ngã ngày và chấn thương nhập đời. Con sẽ không hoàn thành tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của con cho tới khi con thoát khỏi tất cả tập hợp các ngã này. Thày muốn trao cho các con lời giảng về chuyện này, một lần nữa dựa trên các tổ chức chân sư thăng thiên trước đây.

Làm sao con nhận ra con có ngã gốc hay con chưa giải quyết nó? Lẽ tất nhiên các thày đã trao truyền nhiều giáo lý về đề tài này nhưng thày muốn giảng thêm. Điều các thày thấy nơi nhiều đệ tử là các con gia nhập giáo lý chân sư thăng thiên vì có cảm nhận rõ ràng là mình có mặt trên trái đất để làm một chuyện gì, các con cảm thấy phải làm một điều gì. Giờ đây, các thày đã nói với các con là nhiều người trong các con (đa số các con) đã tới trái đất như một avatar muốn tới trái đất để làm điều gì đó. Các thày cũng đã giảng là tầm nhìn mà con có trước khi xuống đây không phải là tầm nhìn cao nhất, do đó quả thực con đã tới đây với cảm giác bắt buộc phải làm điều gì đó.

Sau đó, khi con bị chấn thương nhập đời, thì một số các con đã xây dựng một ngã khác cho con một cưỡng bách mới, hoặc một chuyển hướng mới cho cưỡng bách đầu tiên, qua đó bây giờ con phản ứng lại một điều kiện trên trái đất và cảm thấy mình phải làm điều gì liên quan tới điều kiện này. Thày chỉ muốn cho con thấy là nếu con cảm thấy một sự cưỡng bách phải làm điều gì đó, một sự thúc đẩy muốn làm điều gì đó (mà con cảm thấy con phải làm), thì con biết nó đến từ ngã gốc và các ngã khác. Con biết có cái gì đó con chưa giải quyết.

23.7. Cá nhân hóa cuộc sống trên trái đất

Giờ đây, một chuyện khác cũng xảy ra khi con bị chấn thương nhập đời (như các chân sư khác, đặc biệt là thày MORE đã giải thích), là tất cả mọi chuyện trên trái đất, cuộc sống của con trên trái đất, đều giống như liên hệ thẳng đến cá nhân con, và con bắt đầu cá nhân hóa mọi chuyện. Điều đó thực sự nghĩa là gì? Ấy, điểm chính yếu là con trở nên rất nhạy cảm về cái ta của mình, con rất nhạy cảm về cái ta của mình.

Gần như có một phần của con người con luôn luôn giám sát mình, phân tích, đánh giá, phán xét cách con đang sống, nhưng con không làm vậy dựa trên quan sát nội tâm – con làm vậy dựa trên quan sát người khác phản ứng với con ra sao. Nhiều người trong các con có thể nhận ra điều này trong tâm mình. Có một phần của con luôn luôn đang giám sát con và lượng định và phê phán. Có một phần của con làm chuyện này vì sau khi bị chấn thương nhập đời, con đã tạo ra ngã tách biệt để làm chuyện đó.

Các thày đã nói là Cái Ta Biết có khả năng tự nhận biết nhưng điều thày đề cập ở đây không phải là tự nhận biết – ta có thể gọi nó là sự nhạy cảm về cái ta vì con nhạy cảm về cái ta của mình. Con rất rất nhạy cảm với cách người khác phản ứng với con. Chuyện xảy ra ở đây là khi con tới trái đất, con bị chấn thương nhập đời và cảm thấy bị chê bai hay phớt lờ. Con tạo ra một ngã muốn bù đắp điều đó, muốn hủy bỏ vấn đề, hủy bỏ điều sai trái mà con cảm thấy đã xảy ra.

Có một ngã thúc đẩy con muốn được chú ý. Một phần động lực thúc đẩy con làm điều gì trên trái đất đến từ mong muốn được chú ý, con muốn làm điều gì quan trọng mà người khác sẽ nhìn nhận và công nhận. Con có một ngã muốn được người khác chấp nhận và ngã này thúc đẩy con làm điều gì đó. Có thể là nó đã thúc đẩy con suốt đời làm người khôi hài luôn luôn kể chuyện diễu, hay làm người thông tuệ luôn luôn biết điều người khác không biết. Có vô số những ngã này nhưng căn bản là con muốn được người khác nhìn nhận và xác chứng giá trị của mình cho nên con làm những việc đó để được điều này.

Mặt khác con lại có ngã nhạy cảm lúc nào cũng lượng định xem người khác phản ứng ra sao với mình. Khi họ không hoàn toàn chấp nhận con, con cảm thấy mình không thoải mái bằng nhiều cách. Con có thể cảm thấy mắc cở, con có thể cảm thấy bị hất hủi, con có thể cảm thấy mình kém cỏi, con có thể cảm thấy mình đã sai lầm. Bất kể dạng nào, lúc nào cũng có một cảm xúc đi kèm theo.

Con ở trong thế kéo-đẩy này và cuộc đời con xoay quanh cơ chế đó. Một mặt, con đi tìm sự chấp nhận của người khác và mặt kia con né tránh phản ứng tiêu cực của họ. Con thấy chăng là có một ngã thúc đẩy con muốn người khác phản ứng lại con để con được họ chấp nhận, nhưng ngã kia lại sợ mọi phản ứng tiêu cực? Con luôn luôn ở trong trạng thái phải liều lĩnh. Đây là một chuyện nhiều rủi ro vì con bị thúc đẩy tìm cầu sự chú ý của người khác nhưng nếu họ phản ứng không chấp nhận thì con rơi vào ngã kia với phản ứng tiêu cực. Cả cuộc đời con có thể bị điều khiển bởi hai ngã này. Lẽ tất nhiên điều này đã xảy ra với nhiều người, nhưng các thày đã thấy nhiều đệ tử chân sư thăng thiên rơi vào khuôn nếp này.

Quả thật, vị sứ giả này đã rơi vào khuôn nếp đó trong phần đầu cuộc đời ông, lúc nào ông cũng bị thúc đẩy để cư xử theo cách đó. Với một số các con, khuynh hướng này bắt đầu từ tuổi thơ ấu nhưng lẽ tất nhiên với tất cả các con, nó đã có từ nhiều kiếp. Nhiều người trong các con kinh nghiệm là khi mình còn nhỏ, con tìm ra rất nhanh là con có thể làm cho người lớn cười. Con cảm thấy thoải mái khi con làm cho người lớn cười. Con tiếp tục làm vậy cho đến ngày hôm nay nhưng nếu họ không cười, con cảm thấy xốn xang. Một lần nữa, có lực kéo và đẩy này.

Một số các con nhận ra khi còn nhỏ, con khôn hơn trẻ em khác cho nên con có thể có những ý mà trẻ em khác không nghĩ ra được. Con tiếp tục làm vậy cho đến ngày nay để người khác nể phục con vì con đưa ra những ý hay, và một số các con đã dùng giáo lý chân sư thăng thiên để làm việc này. Nhưng khi người khác không đồng ý, con rơi vào phản ứng tiêu cực.

Điều thày mong muốn là con tới điểm giải quyết được cả tập đoàn ngã gốc và các ngã khác. Toàn thể lực kéo và đẩy này, toàn thể trận chiến gay go đang xảy ra trong tâm con tan biến đi. Con không còn bị mắc kẹt vì vừa tìm cầu điều bất khả thi, vừa hổ thẹn và xốn xang khi không đạt được điều bất khả thi đó. Con thấy là điều đó bất khả thi, không cần thiết và hoàn toàn không thật.

Khi con thấy được điều này, khi con tách mình ra khỏi các ngã này, thì con có thể nhìn chúng và giản dị bỏ chúng đi. Con không cần giải quyết vấn đề mà ngã phóng chiếu vào con. Con không cần đạt được điều kiện, con không cần thay đổi toàn thế giới để cảm thấy thoải mái hơn. Con chỉ cần để cho ngã chết đi. Đây là điều thày mong thấy nơi con. 

23.8. Con không phải là Ki-tô qua một ngã tách biệt

Đây là cách con có thể bắt đầu là Ki-tô Hằng sống trong Thời Bảo bình. Thay vì bị điều khiển bởi những ngã vỏ ngoài này thì con có thể nhận sự điều khiển từ bên trong, từ thày. Con thấy chăng, con yêu dấu, đâu là vấn đề chính mà thày thấy nơi các đệ tử chân sư thăng thiên khiến họ không ảnh hưởng được thế giới ở mức họ có thể làm được? Lý do chính xác là vì họ có những ngã đó, những ý tưởng đó trong tâm vỏ ngoài của họ. Họ đến với một giáo lý chân sư thăng thiên, họ lấy một điều gì đó từ giáo lý mà họ nghĩ chứng thực cách họ tiếp cận cuộc sống xuyên qua một ngã tách biệt này. Lúc đó, họ thực sự tin rằng cách là Ki-tô trên trái đất là hành động xuyên qua ngã tách biệt đó.

Một số đã tạo ra một ngã tách biệt khiến họ cảm thấy phải thách thức tất cả mọi người. Các người khác sống trong một trạng thái ảo tưởng, họ không muốn bước ra khỏi trạng thái đó – con phải thách thức họ (con nghĩ thế). Giờ đây con đã gia nhập giáo lý chân sư thăng thiên, và con có nhiệt tâm muốn bước ra ngoài xã hội và thức tỉnh mọi người. Bỗng nhiên cái ngã dựa trên mong muốn thách thức người khác nghĩ nó là Ki-tô đang thách thức người khác.

Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên cảm thấy là chính họ đã trải nghiệm mình thức tỉnh khi nghe một bài truyền đọc trong đó các thày nói một điều gì với giọng mạnh mẽ và nghiêm khắc. Điều này khiến họ thấy một điều mà trước đó họ không thấy. Đôi khi các thày cần phải nói với một giọng nói đầy uy lực để đâm thủng sự dày đặc của tâm thức đại chúng và tâm thức con người. Giờ đây các đệ tử này mong muốn tạo trải nghiệm này nơi người khác. Họ nghĩ rằng họ phải bước ra ngoài xã hội và phóng tia sáng xanh tới người khác và nói chuyện với họ với giọng rất mạnh mẽ và nghiêm khắc để họ thức tỉnh. Nhưng lối cư xử này bắt nguồn từ đâu? Nó đến từ cái ngã cảm thấy bị hất hủi khi bị chấn thương nhập đời và kể từ ngày ấy nó tìm cách làm điều gì để người khác không thể phớt lờ hay bác bỏ. Đây là một phản ứng bất quân bằng. Nó sẽ không đem lại kết quả và con sẽ không bao giờ cảm thấy an bình, không bao giờ cảm thấy dễ chịu. Con sẽ không bao giờ cảm thấy hoàn thành điều con tới đây để hoàn thành khi con còn hành động xuyên qua các ngã này. 

Một lần nữa, như các chân sư khác đã nói trong hội nghị này, các thày đã trao cho con các giáo lý, các thày đã trao cho con dụng cụ. Con yêu dấu, thày xin con dùng chúng vì khi con dùng chúng và khi con khắc phục được ngã gốc đó, thì con sẽ cảm thấy giống như người sứ giả này. Ông đã nói rằng trong bốn mươi năm nỗ lực trên đường tâm linh, dùng đủ loại giáo lý và bài tập, dùng đủ loại dụng cụ tâm lý và pháp trị liệu, không thứ nào đem lại cho ông sự tiến triển đột phá như các giáo lý về ngã gốc này. Điều này cũng có thể xảy ra cho con và đã xảy ra cho một số các con đã dùng nó. Con yêu dấu, con biết là Giê-su đã cho con nhiều ý tưởng và đã nói rằng con không cần phải chú tâm vào tất cả các ý này. Con chỉ cần lấy ý nào hấp dẫn con, nhưng thày hy vọng là ý về ngã gốc sẽ hấp dẫn tất cả các con vì tất cả các con đều được lợi lạc từ nó.

Giờ đây thày có thể bảo đảm với con là nhiều người trong các con, và nhiều người sẽ bị thu hút bởi giáo lý trong tương lai, các con có tiềm năng làm điều có giá trị và quan trọng trong xã hội. Để con hoàn thành được điều mà các thày ở Hòa Lan gọi là tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, giản dị là con phải khắc phục được ngã gốc và các ngã khác, như thế sự đóng góp vào xã hội của con không bị pha màu bởi các ngã này. Nếu như thế, con sẽ không đạt được tiềm năng cao nhất của con và con yêu dấu, các thày mong muốn con đạt được tiềm năng cao nhất, tiềm năng cao nhất mà con đã chọn. Con chọn nó vì con biết con có thể làm được, vì con sẽ gặp được giáo lý này và sẽ chấp nhận nó. Cố nhiên thày trông chờ con, tất cả các con sẽ đóng góp gì đó vào Thời Bảo bình.

23.9. Tôn sùng người sứ giả

Giờ đây con biết các thày có nói về sự sùng bái Giê-su trong Thời Song ngư. Các thày đã nói tới điều này trong 70-80 năm qua trong các tổ chức chân sư thăng thiên. Giê-su đúng lý là một tấm gương cho người đi trên con đường tu dẫn tới quả vị Ki-tô nhưng nhiều, nhiều đệ tử chân sư thăng thiên vẫn chưa giải thoát họ khỏi hình ảnh sùng bái Giê-su, do sa nhân dựng lên và phóng chiếu qua giáo hội Công giáo và các giáo hội Cơ đốc giáo khác. Họ vẫn nghĩ Giê-su ở trên cao tít và không cách chi họ làm được điều Giê-su đã làm. Các thày đã cố gắng xua tan sự sùng bái này và chắc chắn quyển sách Các Kiếp sống của Tôi là một bước quan trọng để giúp mọi người phá bỏ sự sùng bái Giê-su.

Các thày cũng muốn đoan chắc là các đệ tử đã mở tâm đón nhận các giáo lý được trao truyền qua người sứ giả này không dựng lên một sự sùng bái nào đó đối với ông. Nếu con nhìn lại cuộc đời của ông, thì con sẽ thấy ông sinh ra trong một gia đình bình thường, được nuôi dạy bình thường. Các thày không bao giờ nói và ông cũng không bao giờ nói là ông có gì đặc biệt, hay vì lý do nào đó ông đã tiến hóa hơn khi tới trái đất hay trong các kiếp trước ông đã trải qua những tiến trình khiến ông tiến hóa hơn ngày hôm nay. Thày cũng biết là trong các đợt truyền giảng trước, người ta đã nói rằng làm một sứ giả rất rất là khó và phải được huấn luyện trong hàng triệu năm. Các thày không bao giờ nói điều này về người sứ giả này vì các thày không muốn dựng lên sự sùng bái ông. Con biết là ông tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên, ông áp dụng giáo lý này, ông cố gắng giải quyết các vấn đề tâm lý của mình và ông tuần tự tiến trên đường tu cho tới khi ông tới điểm mở tâm ra để làm điều gì đó, để có một quan hệ trực tiếp hơn với các chân sư thăng thiên. Trước khi ông bắt đầu trang mạng Hãy Hỏi Giê-su Thật (Ask Real Jesus), ông trải qua kinh nghiệm mà ông đã mô tả là ông cảm thấy ông buông bỏ các tham vọng nhân gian của mình và lúc đó ông cảm nhận được Hiện diện của Giê-su.

Lúc đó, có thể nói ông ở trong cùng tình thế như Giê-su trong bữa tiệc cưới ở Cana. Ông đứng trước ngã ba đường và ông có thể đi đường này hay đường kia. Ông có thể nói: “Ồ, tôi không thể làm điều này được” hay ông có thể làm điều ông đã làm và nói: “Tôi sẵn sàng làm điều này mặc dù tôi nhìn nhận mình chưa toàn hảo, tôi chưa hoàn toàn giải quyết tâm lý mình, tôi chưa hoàn toàn biểu hiện quả vị Ki-tô.” Điều này có nghĩa là khi ông bắt đầu trang mạng Hãy Hỏi Giê-su Thật, chắc chắn là ông chưa hoàn toàn trong tâm thức Ki-tô. Chắc chắn là ông ở một mức tâm thức thấp hơn nhiều so với ngày hôm nay.

23.10. Con không cần phải toàn hảo

Câu hỏi ở đây là: Con có cần phải toàn hảo để làm một điều nào đó cho các chân sư thăng thiên? Câu trả lời là “Không.” Các thày mong đợi tất cả các con không dựng lên một sự tôn sùng nào đó đối với người sứ giả này và nói: “Ồ, con không thể làm điều người sứ giả này đã làm.” Giờ đây, con có thể nhìn những gì người sứ giả này đã làm trong công việc đón nhận giáo lý, thêm giáo lý, thêm giáo lý, thêm giáo lý, thêm giáo lý và thêm giáo lý cho tới khi số lượng trở nên, thành thật mà nói, choáng ngợp đối với đa số các con. Con có thể nói: “Nhưng tôi sẽ không bao giờ có thể mang lại nhiều giáo lý đến thế, tôi không bao giờ có thể làm điều mà người sứ giả này đã làm.” Con hoàn toàn đúng, con yêu dấu, con không thể làm điều người sứ giả này đã làm. Điều con có thể làm là làm điều người sứ giả này không thể làm vì tất cả các con đều là những cá thể độc nhất. Con có một Hiện diện TA LÀ độc nhất, con có tiểu sử độc nhất trên trái đất, con có kinh nghiệm độc nhất trong kiếp sống này và do đó con có thể làm điều mà người sứ giả này không làm được.

Có một điều con có thể làm là đem lại món quà mà không ai khác đem lại được. Như các thày đã nói trước đây, không có so sánh trong sự độc đáo. Con hãy nhìn vị sứ giả này như một nguồn cảm hứng nhưng con đừng thần tượng ông và cho rằng mình không thể làm được điều gì đặc biệt so với điều ông đã làm. Không có lý do gì để con so sánh mình với bất cứ ai. Trọng tâm là: Giải quyết tâm lý của mình, hòa điệu với Hiện diện TA LÀ của mình, là cánh cửa mở để  biểu lộ cá thể độc đáo của mình. Con hãy lấy những chọn lựa mà con, như Cái Ta Biết đang hiện thân, hoàn toàn được phép chọn lựa: đó là điều con muốn biểu hiện, điều con muốn trải nghiệm, điều con muốn vui huởng trên trái đất.

Mỗi người và tất cả mọi người trong chúng con đều có tiềm năng đi tới một nhóm người nào đó mà không ai khác tới được. Có thể nói rằng người sứ giả này có thể tới một mạn đà la gồm một số người nào đó. Có rất nhiều người khác trên trái đất ông không tới được. Nhiều người trong các con có thể tới được những người này. Mỗi người trong các con đều có một mạn đà la gồm những người mà con có thể tiếp cận được, con có thể giúp tiến lên cao hơn.

Do đó, thày giản dị nói với con: Hãy lấy cảm hứng từ người sứ giả nhưng đừng nản chí khi nhìn người sứ giả. Hãy dùng ông như nguồn cảm hứng và nói: “Tôi nhìn thấy đây là một người đã tìm được sứ mệnh độc đáo của mình, món quà độc đáo của mình. Tôi muốn xét xem ông ta làm như thế nào và tôi ứng dụng được điều gì, tôi học được điều gì từ hành trình của ông.” Sau đó, con chú tâm vào việc đem lại món quà của con, sự đóng góp của con. 

Con yêu dấu, một số các con có một lãnh vực chuyên môn trong thế giới và con có tiềm năng đem lại một số ý trong lãnh vực chuyên môn này. Ngay cả nếu trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, tiềm năng của con là đem lại một ý tưởng, thì con hãy chú tâm vào ý tưởng đó và bình an biết rằng đây là cống hiến của con. Con hãy đoan chắc đây là ý tưởng cao nhất mà con có tiềm năng đem lại thể theo Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Con yêu dấu, con cũng hãy nhìn nhận là điều con có thể thấy nơi người sứ giả này là, khi con xuống đầu thai trên trái đất, con có một Sứ vụ Thiêng liêng, và sứ vụ đó có một tiềm năng thấp và một tiềm năng cao. Lẽ tất nhiên con muốn đoan chắc là con biểu hiện tiềm năng cao nhất, nhưng người sứ giả này đã biểu hiện tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của ông một thời gian trước đây rồi. Những gì ông đã mang lại từ lúc ấy vượt quá tiềm năng đó. Nhiều người trong các con cũng có thể vượt quá tiềm năng cao nhất mà con quy định trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình vì con soạn ra Sứ vụ với tầm nhìn con có lúc ấy. Bây giờ thì con đã nâng tâm thức lên cao hơn, hay ít nhất con có tiềm năng nâng tâm thức bằng cách khắc phục ngã gốc, thì con có thể lên cao hơn thế. Lẽ tất nhiên, các thày luôn luôn vui mừng khi thấy các đệ tử của mình vượt thăng chính họ. Không phải là các thày mong cầu kết quả đặc trưng nào nhưng các thày mong thấy các đệ tử thăng vượt chính họ.

Con yêu dấu, khi một đệ tử đạt tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của mình, các thày không muốn người này ngừng ở đó trong phần còn lại của kiếp sống. Lẽ tất nhiên, các thày muốn người đệ tử đó tiếp tục thăng vượt chính mình và đây là điều mà một số các con quả thực có tiềm năng làm được. Với tất cả những giáo lý các thày đã trao truyền, các con có tiềm năng né tránh những cạm bẫy mà các thày đã thấy trong các đợt truyền giáo trước, khi các đệ tử chân sư thăng thiên rơi vào tư duy mà các thày đã mô tả.

23.11. Tìm ra một hướng đi quân bằng

Con có tiềm năng theo một hướng đi quân bằng hơn khiến con có thể bắt đầu thực sự tạo được ảnh hưởng. Con có thể bước ra ngoài và biểu hiện mình như Giê-su đã khuyến khích con làm qua mạng Internet. Một lần nữa con không cần lúc nào cũng nói đến chân sư thăng thiên hay giáo lý chân sư thăng thiên. Con hoàn toàn tự do dùng một số ý tưởng của các thày và trình bày chúng trong một bối cảnh trung hòa mà không cần nói chúng phát xuất từ các chân sư thăng thiên. Nói cách khác, vấn đề các thày thấy trong quá khứ là các đệ tử nghĩ rằng điều quan trọng nhất là làm sao đem con người tới chỗ chấp nhận giáo lý chân sư thăng thiên. Không đâu, con yêu dấu, điều quan trọng nhất là làm sao con người chấp nhận một số ý tưởng sẽ giúp xã hội hay các cá nhân tiến lên.

Con đừng dựng lên rào cản trước mặt những người này và bắt họ phải nhảy qua rào cản và chấp nhận chân sư thăng thiên trước khi họ nhận ý tưởng. Con cứ thoải mái trao cho họ ý tưởng và để cho các ý tưởng này tự làm việc trong tâm họ. Con không làm vậy để gặt hái một kết quả bởi vì, con yêu dấu, khi con đã loại bỏ ngã gốc và các ngã khác, thì con không đến với mọi người để tạo nên một cảm xúc trong con hay để né tránh một cảm xúc trong con. Con có thể là cánh cửa mở, có nghĩa là con tự do trao cho họ ý tưởng và con tự do để họ tự do đón nhận nó. Nhiều nhiều lần, con yêu dấu, một ý tưởng đi vào tâm của họ, họ có thể gạt bỏ nó ở tầng tâm ý thức nhưng nó đi vào tâm họ và bắt đầu một tiến trình hóa kim cần thời gian để nó trồi lên trên tâm ý thức. Đôi khi nó cần vài năm và bỗng nhiên một hôm tâm những người này xoay chuyển và giờ đây họ chấp nhận ý tưởng đó mà không thực sự hiểu tại sao.

Con hãy an vui với việc trao ý tưởng và để cho ý tưởng làm việc của nó. Trên cơ bản, đây là chuyện đã xảy ra cho con khi con tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên. Có ý tưởng nào đó đã thu hút con vào giáo lý nhưng có một số ý khác cần một thời gian dài để trổ mầm và giúp con tới chỗ của con ngày hôm nay. Con sẵn sàng đối phó với ngã gốc và khắc phục nó, và qua đó khắc phục chướng ngại lớn nhất trong lịch sử các avatar đã ngăn cản họ có ảnh hưởng mà họ có tiềm năng có trên trái đất.

Tới đây thì thày muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với hội nghị này, đối với những người tổ chức và những người tham dự. Tất cả các con đều là một phần của khía cạnh omega khi các con tương tác với các thày trong hội nghị và các con trở thành các trạm phát sóng các ý tưởng vào tâm thức đại chúng.

Con có thể thấy là có dòng chảy hình số tám giữa các thày Ở Trên và các con ở đây trong hội nghị. Có dòng chảy số tám theo đường dọc và có dòng chảy số tám theo đường ngang giữa các con ở đây và những người khác trên thế giới và tâm thức đại chúng. Đây là điều các thày muốn thiết lập một cách thường trực. Lẽ tất nhiên nó đã có phần hiện hữu nhưng các thày muốn dòng chảy số tám đường ngang này mạnh mẽ hơn nhiều. Nó chỉ có thể xảy ra khi mỗi cá nhân các con thiết lập dòng chảy số tám với các thày và nó chỉ có thể xảy ra khi con gỡ bỏ các rào cản (một lần nữa) và con đã có sẵn giáo lý để hoàn thành việc này.

Con yêu dấu, thày gửi tới con niềm biết ơn sâu xa. Với tư cách Trưởng giáo của Thời Bảo bình, lòng biết ơn của thày bao gồm sự biết ơn của tất cả các chân sư thăng thiên, đặc biệt là quý thày đã có thể nói chuyện trong hội nghị này và lẽ tất nhiên thày Gautama sẽ nói sau đây. Tới đây thì thày niêm các con trong tình yêu mà Thày LÀ, thực sự là tình yêu có thể khiến vật chất ca hát. Vật chất trong bốn thể phàm của các con đã ca hát trong hội nghị này, và thày hy vọng con sẽ giữ cho nó ca hát một thời gian dài, đúng thực là ca hát trong một thời gian vô hạn định, trong suốt thời gian còn lại của con ở đây – và xa hơn nữa.

25 | Sẵn sàng nhận giáo lý

Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 24 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Phật. Gautama là danh hiệu ta dùng khi làm việc với các dòng tiến hóa trên trái đất. Một số chân sư thăng thiên đã cho con tầm nhìn ngược trở về các đợt truyền pháp trước kia của các chân sư thăng thiên và nhìn kết quả của những lần ấy. Thày muốn mở rộng tầm nhìn thêm, trở về thời gian thày còn hiện thân và truyền pháp ở cõi vật lý cách đây 2,500 năm.

25.1. Tôn sùng Phật

Kinh điển nói là sau khi thày tu tập theo con đường khổ hạnh và nhận ra những hạn chế của nó, thày khám phá bát chánh đạo hay con đường đạo của Phật, và thày đạt niết bàn, thày giác ngộ. Nhiều, nhiều Phật tử, ngay cả bây giờ sau nhiều thế kỷ nhìn các điều này với tâm sùng bái. Hoặc họ cho rằng thày là sinh thể duy nhất đạt giác ngộ từ xưa tới nay, hoặc thày là sinh thể cao nhất hoặc thày đạt được một trạng thái giác ngộ tối hậu, tuyệt đối.

Nói cách khác, họ nghĩ trạng thái giác ngộ mà thày đạt được cách đây 2,500 năm là một trạng thái tuyệt đối, cao nhất có thể đạt được và không bao giờ vượt qua được. Tuy thế, nếu con xét đến hiện thực mà các thày truyền dạy cho các con về 144 tầng tâm tức, thì con có thể tự đặt câu hỏi: Khi thày đạt giác ngộ cách đây 2,500 năm, thì lúc đó thày đạt tới tầng tâm thức 144. Tầng tâm thức 144 cách đây 2,500 năm có giống y hệt tầng tâm thức 144 ngày nay chăng? Giờ đây, nếu câu trả lời là: “Đúng, giống y hệt nhau,” thì hệ quả là gì? À, hệ quả là hành tinh đã không tiến bộ gì cả trong 2,500 năm vừa qua. Hệ quả là giáo lý mà thày đã trao truyền 2,500 năm trước đây đã không nâng tâm thức của hành tinh lên và do đó đã không đạt được mục đích. Sự thực là tầng 144 ngày nay cao hơn rất nhiều tầng 144 vào 2,500 năm trước, hay 2,000 năm trước khi Giê-su đạt tầng đó, hay ngay cả khoảng 100 năm trước khi chân sư MORE và Kuthumi đạt được tầng này, và sẽ tiếp tục như thế.

25.2. Tâm thức được nâng lên như thế nào

Vậy thì điều gì nâng tầng tâm thức đó lên? À, trước tiên thì tâm thức tập thể được nâng lên và đây là khía cạnh omega. Chuyện này xảy ra khi đủ túc số tới hạn các cá nhân đã nâng cao tâm thức của họ và kéo theo 80% hay 90% thành phần thấp nhất và do đó tầng tâm thức thấp nhất được nâng lên. Cũng có thể có lúc tâm thức tập thể xoay chuyển và con người quyết định là họ không còn nhấp nhận một sự biểu hiện nào đó nữa. Hệ quả là tầng tâm thức thấp nhất được nâng lên và những người ở tầng tâm thức thấp nhất cũ không được phép hiện thân nữa.

Tuy nhiên điều gì nâng tầng tâm thức cao nhất lên? Ấy, một ai đó phải đạt được tầng 144 của thời của họ và sau đó tiến lên cao hơn trước khi thăng thiên. Đó là điều thày đã làm 2,500 năm trước đây, dù rằng thày nhập niết bàn ở tầng 144 của thời đó. Khi thày trở lại để làm sứ vụ giáo hóa, thày không trở lại với trạng thái tâm thức tuyệt đối. Trong những năm thày giáo hóa, thày vẫn tiếp tục tăng trưởng, tiến triển và thăng vượt chính mình. Thày nâng tầng 144 lên một mức cao hơn. Lẽ tất nhiên, Giê-su cũng làm như thế, các chân sư khác cũng làm như thế và đó là cách tầng 144 được nâng lên. Một số các con có tiềm năng góp phần vào tiến trình đạt tới tầng 144 trước khi con sẵn sàng rời thân vật lý, do đó vẫn tiếp tục tiến cao hơn khi còn hiện thân và nhờ vậy con giúp nâng tầng này lên.

Con thấy chăng là toàn bộ khái niệm cho rằng một giáo lý có thể tuyệt đối, một trạng thái tâm thức có thể tuyệt đối, hoàn toàn là một ảo tưởng, nó là màn huyễn của Maya, lẽ tất nhiên nó là phóng chiếu của sa nhân. Họ không thể thăng vượt chính họ và vì vậy họ không muốn ai khác thăng vượt chính mình. Họ đã chế ra đủ loại mánh khóe tinh xảo để khiến con người nghĩ rằng điều này bất khả thi. Họ muốn con nghĩ rằng thày đã đạt được một trạng thái tâm thức tối hậu, tuyệt đối, thày là một trường hợp ngoại lệ, không ai có thể tiến xa hơn thày. Họ cũng muốn con nghĩ rằng Giê-su đạt được một tầng tâm thức không ai làm theo được.

Trong 2,500 năm qua, quả thực đã có một số tương đối nhỏ cá nhân đã dùng giáo lý Phật giáo để cũng đạt tới tầng 144 và vượt quá tầng này. Một số người được biết tới trong truyền thống Phật giáo, một số người khác không được biết tới vì họ không có sứ vụ công cộng. Điều chắc chắn là khi thày nhìn trở về quá khứ, Phật giáo đã đóng góp vào sự tiến triển của tâm thức tập thể và nâng cao các tầng tâm thức.

25.3. Mỗi giáo lý đều nhắm tới một tầng tâm thức

Như vậy, khi con nhận ra là tâm thức ngày nay cao hơn tâm thức cách đây 2,500 năm (toàn bộ 144 tầng tâm thức đã dời lên cao hơn ngày trước) thì con cũng có thể thấy là giáo lý được trao truyền rất lâu trước đây thực sự đã được trao truyền cho một tầng tâm thức thấp hơn là tầng tâm thức trung bình ngày nay. Lẽ tất nhiên điều này phần nào cho thấy nhu cầu tiết lộ tuần tự. Điều này cũng cho thấy là bất cứ giáo lý được trao truyền ở một thời điểm nào cũng chỉ có thể được trao truyền cho một tầng tâm thức lúc đó. Điều này không có nghĩa là giáo lý được trao truyền cho tầng tâm thức trung bình hay tầng tâm thức thấp nhất, vì có một số giáo lý nhắm tới những người ở tầng 10% cao nhất.

Tuy nhiên, con luôn cần nhận ra rằng khi một giáo lý đặc trưng được trao truyền, chính yếu nó được trao truyền dựa trên tầng mức tâm thức của hành tinh vào thời điểm đó. Nếu giáo lý thành công, thì tâm thức sẽ xoay chuyển. Lý tưởng thì chuyện gì sẽ xảy ra sau đó? À, trong hoàn cảnh lý tưởng thì có một số người hấp thu giáo lý đó, dùng giáo lý để đạt tầng tâm thức 144. Sau đó họ trở thành dụng cụ để đem lại một giáo lý mới, hay đem lại một khía cạnh mới của giáo lý cũ, một cách diễn giải mới về giáo lý cũ. Do đó, họ có thể đem lại một giáo lý thích ứng với tầng tâm thức mới đã được đạt tới nhờ giáo lý cũ. Lẽ tất nhiên, điều này cũng có nghĩa là trong hoàn cảnh lý tưởng, tiến trình tiết lộ tuần tự không bao giờ ngưng. Điều này cũng có nghĩa là một điều đáng buồn (nếu chúng ta muốn dùng từ ngữ này) là khi các môn đồ của một giáo lý trở nên giáo điều, đóng tâm lại với bất cứ điều gì mới và do đó họ trở nên công cụ quả thực phá hủy hiệu lực của giáo lý. Họ không cho phép giáo lý thăng vượt.

Khi thày truyền pháp 2,500 năm trước đây, con thấy (nếu con đọc một số kinh điển) là thày kể một câu truyện hay một giai thoại. Sau đó cũng giai thoại này, dùng cùng lời lẽ, được nhắc lại ba lần. À, điều này cần thiết vì sự dày đặc của tâm thức vào thời điểm đó và cũng vì thời đó không có văn bản ghi lại. Lúc đó chỉ có truyền thống truyền khẩu và thay vì con người có một văn bản để đọc nhiều lần thì họ nghe ba lần và nhờ vậy nắm bắt rõ hơn. Điều này dẫn tới một đề tài mà thày muốn đề cập là đề tài lặp đi lặp lại.

25.4. Các chân sư có lặp đi lặp lại không?

Các thày có bao giờ lặp đi lặp lại khi trao truyền các bài truyền giảng chăng? Một số các con sẽ nói ngay tức khắc: “Có, các thày thường nói về cùng đề tài, các thày thường trao truyền một giáo lý gần như y hệt giáo lý đã được dạy trước đó.”

Ấy, con yêu dấu, vậy các thày lặp đi lặp lại không? Hay các thày luôn luôn trao truyền một giáo lý dựa trên tâm thức lúc đó và tâm thức người đón nhận – những người mà các thày nhắm tới. Khi con nhìn trái đất, thì con thấy sự chuyển động không ngừng của khuôn đúc rất rất phức tạp của tâm thức đại chúng, cũng như là của tâm thức cá nhân của tất cả những người ở trên một tầng tâm thức nào đó – tầng thứ 48. Những người ở dưới tầng này thường không chuyển động hay họ chuyển động theo tâm thức đại chúng vì họ bị tâm thức đại chúng chế ngự.

Khi con đi lên trên tầng 48, con bắt đầu giành lại được cá tính của con và điều này có nghĩa là con luôn luôn di động. Nếu con có thể nhìn một hình ảnh biểu trưng cho trái đất ở tầng tâm thức, thì con sẽ thấy một mô hình vô cùng phức tạp những dòng sóng năng lượng và hình ảnh. Để minh họa điều này (thày nhấn mạnh đây là một minh họa, không hoàn toàn sát sự thật và chính xác), ta có thể nói là tâm thức tập thể trên trái đất trông giống mô hình rất tinh vi của những sóng năng lượng đang rung động để tạo thành một số hình ảnh. Giống như con người có thể có hình ảnh trong tâm họ, tâm tập thể cũng có thể có hình ảnh. Nó giống như mấy tấm hình chụp mà từ xa trông như một tấm hình nhưng khi lại gần thì con thấy là hình lớn được tạo thành từ nhiều hình chụp nhỏ riêng rẽ. Ta cũng có thể so sánh nó với khái niệm ảnh ba chiều (hologram), duy có điều là tất cả những hình nhỏ tạo nên tổng thể không giống nhau vì những nhóm người khác nhau và những cá nhân khác nhau có những hình ảnh khác nhau, ít nhất là khác nhau một chút, ở trong tâm họ. Đây là một tấm hình vô cùng phức tạp. Giờ đây, nếu con thấy được nó, con sẽ thấy là nó không bao giờ đứng yên, nó luôn luôn di động. Nói cách khác, đây là một tiến trình. Có lúc đi lên, có lúc đi xuống, nhưng không bao giờ đứng yên.

Sẽ không bao giờ có trường hợp con có thể chụp một bức hình của tâm thức tập thể và hai giờ đồng hồ sau con chụp lại và có cùng một tấm hình. Con có thể chụp tấm hình với khoảng thời gian ngắn nhất và tốc độ màn trập ngắn nhất mà máy hình của con có thể làm được, giả dụ như một phần 5,000 của một giây. Ngay sau đó con chụp lại và hai tấm hình sẽ không giống nhau. Mọi chuyện di động nhanh đến độ đó. Khi các thày trao truyền một bài truyền đọc, nó dựa trên phương trình rất phức tạp đang hiện hữu trong tâm thức tập thể của toàn thể, nhưng đặc biệt hơn là trong tâm thức tập thể của nhóm người mà các thày đang hướng dẫn.

Giờ đây, những người nghe bài giảng hay đọc bài giảng, nếu họ thực hiện tiềm năng cao nhất của bài giảng thì họ dùng bài giảng để xoay chuyển tâm thức của họ. Điều này có nghĩa là một khi họ cho phép tâm xoay chuyển, thì phương trình của tâm thức đại chúng lẫn tâm thức nhóm và tâm thức cá nhân đều xoay chuyển. À, lẽ tất nhiên, ngày nay ta có công nghệ cho phép con thu âm bài truyền đọc và in nó ra. Con có thể đọc bài truyền đọc lần đầu tiên, con có thể hấp thu nó ở mức cao nhất mà con có thể có ở tầng tâm thức hiện hành của con. Con có thể trải nghiệm sự xoay chuyển và lúc đó phương trình tâm thức của con đã xoay chuyển. Sau đó, con có thể trở lại, đọc bài truyền đọc lần thứ nhì, và dù các từ ngữ vẫn y hệt như trước, nhưng trải nghiệm của con khi đọc lần thứ nhì không giống trước vì tâm con đã xoay chuyển khi đọc lần đầu. Có nghĩa là lần thứ nhì này con có thể hấp thu điều gì đó mà con không hấp thu lần đầu.

Thày không nói là lần đầu tiên con đọc một bài truyền đọc, thì con cần rút tỉa được hết mọi thứ theo khả năng của mình. Thày chỉ muốn nói là con cần cho phép bài truyền đọc xoay chuyển tâm thức của con, để con có một trải nghiệm xoay chuyển. Nếu con làm vậy, con có thể đọc trở lại cùng bài truyền đọc đó (năm phút sau đó hay năm tháng sau đó) và con sẽ không có cùng trải nghiệm. Có nghĩa là con có thể xoay chuyển tâm thức lần thứ nhì, nắm bắt nhiều hơn từ bài truyền đọc và có nghĩa là lần thứ ba con cũng có một trải nghiệm khác và tiếp tục như thế. Điều này có thể tiếp tục xảy ra trong một thời gian dài cho nhiều người trong các con. Điều này có nghĩa là khi con tới điểm con đọc một bài truyền đọc và con không cảm thấy xoay chuyển thì có thể có hai nguyên do. Một là con đã rút tỉa được hết những gì con có thể lấy được từ bài truyền đọc đó vào lúc này và do đó con cần học cái gì khác để tiếp tục xoay chuyển tâm thức. Nguyên do thứ hai là con đã đóng tâm lại vì con cảm thấy là con đã biết điều mà bài truyền đọc đang cố nói.

Giờ đây, ta lấy trường hợp con không nghe lại cùng một bài truyền đọc nhưng con nghe các thày trao truyền một bài truyền đọc khác nói về cùng một số khái niệm. Một lần nữa câu hỏi là: Con có xoay chuyển tâm thức khi nghe bài truyền đọc đầu tiên trong đó các thày đề cập đến chủ đề đó? Nếu con có xoay chuyển, thì con có thể nghe bài truyền đọc thứ nhì và sẽ rút tỉa được điều gì mà con không rút tỉa được khi nghe bài đầu. Do đó, con thực sự không cảm thấy là các thày đang lặp đi lặp lại.

25.5. Sự phức tạp của các bài truyền đọc

Con nhận ra rằng trong buổi hội nghị này, những người trong các con thực sự muốn mở tâm với các thông điệp mà các thày trao truyền, với năng lượng mà các thày tỏa xuống, thì các con đã xoay chuyển tâm thức nhiều vô cùng. Điều này có nghĩa là nếu con quay trở lại và nghe lại bài truyền đọc đầu tiên của thày Quan Âm, thì con sẽ rút tỉa được nhiều hơn từ bài này so với lần con nghe trực tiếp. Đó là vì bài truyền đọc kích động tiến trình xoay chuyển dẫn con tới tình trạng hiện hành.

Giờ đây một lần nữa, các thày thực sự không bao giờ lặp đi lặp lại cho dù các thày dùng từ ngữ rất tương tự và nói về cùng các khái niệm. Trong một số trường hợp, đó là vì các thày quả thực đang nói chuyện với một cử tọa khác một chút. Có thể nói là một số điều mà các thày đã nói trong hội nghị này đã được nói ra vì các thày ở một vị trí địa dư đặc thù và đang nói với những người sống trong khu vực này, là vùng Á châu nới rộng.

Giáo lý các thày không bị giới hạn bởi vị trí địa dư. Có một số yếu tố trong các bài truyền đọc được trao truyền trong hội nghị này thích nghi cho riêng vị trí địa dư này. Một số yếu tố khác thích ứng với sự kiện là ngay cả trong khoảng thời gian tương đối ngắn từ khi giáo lý về ngã gốc được trao truyền ở Estonia, đã có sự xoay chuyển, không những trong tâm thức tập thể mà cũng có trong tâm thức của nhóm đệ tử. Những đệ tử đã thu nhập những bài truyền đọc này và áp dụng chúng, đã góp phần lớn tạo nên sự xoay chuyển đó.

Điều mà các thày trao truyền bây giờ dựa trên phương trình rất phức tạp đang có mặt bây giờ và ở đây. Lẽ tất nhiên các con không trải nghiệm nó vì sẽ bị choáng ngợp. Các thày thực sự trải nghiệm nó khi các thày lên kế hoạch trao truyền một bài truyền đọc. Đó là lý do tại sao thày giản dị cho con biết để con biết các thày làm việc như thế nào, tại sao đôi khi các thày nói về cùng các khái niệm nhưng từ những góc độ khác. Con hầu như có thể nói là tuy các từ ngữ giống nhau, nhưng khuôn đúc, hình học trên các cõi cao hơn (cõi tình cảm, lý trí và bản sắc) có thể rất khác. Điều này có nghĩa là từ tầm nhìn của các thày, các thày thấy rõ ràng những khác biệt và các thày cũng thấy là đôi khi từ ngữ chủ yếu là chén thánh để các thày rót những khuôn đúc hình học vào ba thể cao hơn.

25.6. Lạm dụng một giáo lý tâm linh

Giờ đây, chúng ta lấy giáo lý này và nhìn trở về khoảng thời gian 2,500 năm từ khi thày giảng Kinh Pháp Cú và Bát Chánh Đạo. Điều đạt được, lẽ tất nhiên, là có sự xoay chuyển tâm thức nhưng sự xoay chuyển này không đạt được tiềm năng cao nhất – tại sao vậy?  À, lý do chính là lúc nào cũng có một nhóm đệ tử có khuynh hướng dùng giáo lý với tâm đường thẳng, phân tích. Họ muốn phân tích giáo lý, đặt giáo lý vào một bối cảnh đường thẳng hay dòng thời gian. Họ đã làm điều mà các chân sư khác đã nói tới trong hội nghị này: họ dùng giáo lý để xác chứng và củng cố các ngã tách biệt mà họ đã tạo ra do chấn thương nhập đời.

Các avatars luôn luôn muốn hiểu, và đây là một mong muốn lành mạnh và chính đáng. Điều con cần nhận ra là mong muốn này có thể bị pha màu và thậm chí bị phá hoại bởi các ngã tách biệt này. Một số ngã có nhu cầu kiểm soát để chúng có thể tin là bây giờ chúng đã tìm thấy một giáo lý tuyệt đối giải thích sự vận hành của vũ trụ, đây có thể là pháp Phật hay Cơ đốc giáo, Hồi giáo, thuyết Cộng sản, thuyết duy vật hay bất cứ gì khác.

Sau đó họ sẽ dùng giáo lý trước để xây dựng ý niệm giáo lý này tuyệt đối. Lẽ tất nhiên, tâm đường thẳng và phân tích yêu thích điều này. Do đó, không những họ phá hoại sự tiến triển của chính họ, nhưng (ta có thể nói như vậy) khi những đệ tử này trở thành giáo sĩ đoàn của một tôn giáo, thì họ có thể phá hoại sự tiến triển của toàn bộ phong trào bằng cách cản trở sự thăng vượt của giáo lý. Đây là điều con đã thấy xảy ra với nhiều tôn giáo và đó là lý do vì sao con thấy thày thách thức các thày Bà la môn của Ấn giáo. Con cũng thấy Giê-su thách thức các thày Thông giáo và Pha-ri-si của Do thái giáo.

Mục đích của thày là chỉ cho các con, những đệ tử chân sư thăng thiên, là đây chỉ là khuynh hướng của một số ngã tách biệt, hoặc muốn đặt mọi chuyện trong một bối cảnh tuyệt đối, hoặc muốn an toàn, hoặc muốn có cảm giác là mình quan trọng hay đã đạt được thành quả nào đó. Bất cứ điều gì ngã vỏ ngoài cần, nó có thể dùng tâm đường thẳng. Kết quả là bắt đầu từ thời điểm 2,500 năm trước (lẽ tất nhiên từ cả trước đó từ thời Ấn độ giáo và suốt tận các tổ chức chân sư thăng thiên), các thày đã thấy một tỷ lệ đệ tử có tâm thức này: họ mở tâm với giáo lý nhưng họ tiếp cận giáo lý bằng tâm vỏ ngoài, phân tích, tâm rất đường thẳng tất nhiên bị pha màu bởi các ngã. Tâm đường thẳng rất nhạy cảm với sự lặp đi lặp lại vì tâm đường thẳng, tất nhiên, mang tính chất đường thẳng vì nó có một dòng thời gian. Nó luôn luôn so sánh hiện tại với quá khứ và trong một số trường hợp phóng chiếu tới tương lai.

Khi tâm đường thẳng gặp một giáo lý tâm linh, thì nó rút tỉa từ đó những gì nó rút tỉa được, chủ yếu là một hiểu biết vỏ ngoài, trí năng, thuận lý, lý luận. Nó dùng hiểu biết này để phân tích giáo lý, phân rẽ nó thành nhiều thành phần và nói: “Được rồi, phần này đi vào danh mục này trong kho dữ liệu của tôi, phần kia đi vào danh mục kia.” Lúc đó, khi người đệ tử nghe một giáo lý khác nói về những khái niệm tương tự, tâm đường thẳng sẽ nói: “Ồ, tôi không cần cất ý niệm này vào danh mục vì tôi đã có nó trong kho dữ liệu rồi, đây là một sự lặp lại.” Nó lờ khái niệm đó, nó không nhận ra điểm vi tế là khái niệm này được giảng một cách khác. Tâm đường thẳng không thể nhận ra bất cứ điểm gì mới mẻ khi nghe lại.

Đó là lý do vì sao con có những đệ tử trong mọi tổ chức chân sư thăng thiên, trong mọi tôn giáo và triết lý thần bí khác mà các thày đã trao truyền (lẽ tất nhiên trong cả những giáo lý mà các thày không trao truyền, nhưng do sa nhân và đoàn chưởng giáo giả chế ra). Các thày đã thấy các đệ tử đó đi vào trạng thái tâm cho phép họ tới điểm cảm thấy: “Giờ đây, tôi nắm được căn bản của giáo lý.” Kể từ đó, trên cơ bản họ ngưng tiến triển. Hoặc nếu có điều mới lạ hiện ra mà họ chưa có trong kho dữ liệu thì họ sắp xếp nó vào một danh mục. Người đệ tử sẽ tới điểm cảm thấy: “Tôi đã hiểu được khuôn đúc tổng thể của giáo lý.” Kể từ điểm đó, họ nghĩ là tất cả mọi điều khác được giảng sau đó chỉ là chi tiết phải phù hợp vào khuôn đúc tổng thể đó.

25.7. Sơ tâm

Tuy nhiên, con yêu dấu, khi con cho phép mình tạo ra khuôn đúc đó trong tâm (là bây giờ con đã nắm được căn bản của giáo lý), thì điều con nắm được dựa trên tầng tâm thức hiện hành của con. Nó không là – nó không là – hiểu biết và trải nghiệm cao nhất. Quả thật, sự khác biệt giữa các đệ tử đến với một giáo lý, sau đó ngưng tiến triển và dậm chân tại chỗ và các đệ tử vẫn tiếp tục tiến triển là các đệ tử loại thứ hai không dính mắc vào chuyện nắm bắt tổng thể giáo lý. Họ quả thực sẵn sàng tiếp cận giáo lý với cái tâm mà Giê-su gọi là tâm trẻ thơ hay người Phật tử gọi là Sơ tâm (tâm của người bắt đầu), cái tâm nhìn mọi sự như mới.

Thoảng hoặc, con cho phép mình bỏ qua bên cái mà con nghĩ là sự nắm bắt cơ bản hay nắm bắt tối hậu giáo lý. Con cho phép mình vào trạng thái tâm trung hòa và con đọc và nghe giáo lý như mới. Lúc ấy con sẽ nhận được một điều gì ngay cả từ một giáo lý mà con đã đọc trước kia nhưng chưa nhận được điều đó. Đó là lúc giáo lý, ngay cả khi con đã đọc nó nhiều lần, có thể tạo sự xoay chuyển tâm con. Nói cách khác, sự lặp lại (mà một số đệ tử nhận thấy) ở trong tâm chân sư thăng thiên hay trong tâm người đệ tử?

Thày góp ý với con là câu trả lời thật sự không quan trọng. Vì điều quan trọng là sự tiến triển hay không tiến triển của con không nằm trong tâm các chân sư thăng thiên – nó nằm trong tâm của con. Điều này nghĩa là gì? Nó có nghĩa là, như các chân sư khác đã gợi ý, khi con khắc phục được ngã gốc và các ngã tách biệt khác phát xuất từ nó, thì con thật sự có thể thăng vượt tâm đường thẳng, phân tích. Con không còn nhu cầu phải kiểm soát hết mọi thứ, phải có nắm bắt căn bản về vũ trụ. Lúc ấy con có thể tiếp cận giáo lý với một mức độ tự do cao hơn trước kia nhiều vì con không bị pha màu bởi các ngã tách biệt này.

25.8. Các ngã tách biệt sợ giáo lý mới

Trên cơ bản, tất cả các con có thể thấy là ở một số điểm trên con đường tu, con đã nhận được một giáo lý mới khuấy động điều gì đó trong con, kích động điều gì đó trong con. Thí dụ, khi Giê-su giảng về tự ngã, thì một số đệ tử bị kích động bởi các bài giảng này. Thậm chí có một số đệ tử sợ phải đọc bài giảng kế tiếp về tự ngã vì tự ngã của họ lo sợ bài giảng sẽ phơi bày khía cạnh đó của tự ngã.

Con sẽ luôn luôn có khuynh hướng là ngã tách biệt cảm thấy nó đang kiểm soát con và đường tu của con, và nó sợ một giáo lý mới có thể đe dọa cảm giác nó đang làm chủ tình hình. Nếu con nhận ra điều này trong con, thì con chỉ cần dùng các dụng cụ mà các thày đã trao truyền để bước lui lại và nhận ra đây chỉ là một ngã tách biệt đang cảm thấy như vậy. Đây không phải là con vì con không thể bị đe dọa bởi bất cứ điều gì có thể giúp con vượt thăng chính mình. Cái Ta Biết, khi nó ý thức bản thể thực của nó, không thể bị đe dọa bởi bất cứ giáo lý nào.

25.9. Từ kết quả tới tiến trình

Khi con đã khắc phục được ngã gốc và các ngã khác, thì con có thể tiến tới điểm con có tiềm năng xoay chuyển. Các chân sư khác đã đặt nền móng, đã nói về điều này và thày không có gì nhiều hơn để nói thêm ngoại trừ chỉ cho con thấy sự xoay chuyển là con chuyển từ chú tâm vào kết quả sang chú tâm vào tiến trình. Các thày đã trao cho các con giáo lý là con bắt đầu (đa số các con) như những avatars trên các hành tinh tự nhiên. Con bắt đầu với một ý niệm bản ngã giới hạn. Con đã mở rộng nó bằng cách thử nghiệm khả năng đồng-sáng tạo của con. Nhiều người trong các con đã xây dựng một động lượng mạnh mẽ hình dung một hoàn cảnh hay hình thể nào đó trong cõi vật lý và sau đó thị hiện hình thể đó.

Quả thực con đã xây dựng một động lượng mạnh mẽ khiến vật chất tuân theo những hình ảnh và khuôn đúc trong tâm con. Con đã tu tập để đạt được tâm làm chủ vật chất. Khi con nhìn xuống trái đất và thấy sự đau khổ, thì con nghĩ: “Tôi muốn xuống dưới đó và thị hiện một kết quả tích cực để giải thoát con người khỏi khổ đau.” Các chân sư khác đã nói là động cơ nguyên thủy đưa con xuống đây không phải là động cơ cao nhất. Để thực sự có tự do thăng thiên, con cần xét lại động cơ của con dựa trên tâm thức cao hơn mà con có bây giờ. Qua đó, con buông bỏ động cơ lúc trước và các niềm tin đằng sau nó. Như một avatar thì niềm tin chính mà con cần buông bỏ để thăng thiên là gì? À, đó là con cần xoay chuyển từ chú tâm vào thành quả sang chú tâm vào tiến trình.

Các thày có nói với con là trên cõi thăng thiên có sự phát triển không ngừng, và con có thể tiến triển đến tận tâm thức Đấng Sáng tạo. Các thày có nói là không ai trên trái đất sẽ đạt được trạng thái giác ngộ tối hậu mà sau đó không thể tiến triển nữa. Con hãy tự hỏi: “Đấng Sáng tạo đã tạo ra cái gì? Phải chăng là một kết quả, một kết quả cố định, hay một tiến trình kéo dài mãi mãi, mãi mãi?” Lẽ tất nhiên câu trả lời là Đấng Sáng tạo không chú tâm vào việc tạo một kết quả mà chú tâm vào tiến trình. Đấng Sáng tạo đã tạo ra vũ trụ để tạo thuận lợi cho tiến trình này. “Tiến trình nào?,” con có thể hỏi. Tiến trình tự thăng vượt, mà các thày đã gọi là Dòng sông sự Sống.

Tâm đường thẳng sẽ hỏi: “Ấy, nhưng sự thăng vượt hàm ý có sự chuyển động từ một giai đoạn lên giai đoạn kế tiếp. Nếu tôi cứ tiếp tục hết đoạn đường phía trước, thì sẽ phải tới một điểm tối hậu của sự thăng vượt nơi tôi đạt đến tầng tối hậu và không thể thăng vượt nữa. Nếu tôi phóng chiếu ngược về sau, phải có một điểm mà trước đó không có thăng vượt vì thăng vượt khởi sự ở đó lần đầu tiên.” Con yêu dấu, đây là giới hạn chính của tâm đường thẳng. Dòng sông sự Sống không có khởi đầu và không có kết thúc. Tâm đường thẳng sẽ không bao giờ nắm được điều này. Các ngã tách biệt mà con đã tạo ra trên trái đất sẽ không bao giờ nắm được điều này. Cái Ta Biết có thể nắm điều này. Nó không thể hiểu, con không thể hiểu là không có khởi đầu, không có kết thúc nhưng con có thể trải nghiệm, con có thể trải nghiệm dòng chảy và sự liên tục của dòng chảy.

25.10. Làm sao các avatars có thể ngăn chặn sự thăng thiên của mình

Con có tiềm năng dùng các giáo lý và dụng cụ để xoay chuyển, và sự xoay chuyển này là chuyển từ chú tâm vào kết quả sang chú tâm vào tiến trình. Tại sao điều này lại quan trọng nhiều như vậy? Bởi vì, con yêu dấu, các thày đã nói gì về sự thăng thiên? Con tới điểm con đứng trước cánh cổng dẫn vào cõi thăng thiên. Nếu con bước qua thì con thăng thiên, nhưng để có thể bước qua, con phải quay đầu nhìn lại trái đất để xem có điều gì thu hút con trở lại không.

Chuyện gì xảy ra nếu con xuống trái đất như một avatar với viễn quan muốn đạt một kết quả nào đó nhưng con vẫn chưa đạt được kết quả đó? À, như vậy làm sao con thăng thiên được? Câu trả lời đơn giản là: Con không thể! Điều này có nghĩa là con có thể tới điểm là trong mọi diện khác con đã hội đủ điều kiện thăng thiên. Nhưng trong lãnh vực đặc biệt này con chưa hội đủ điều kiện vì con chưa chịu thua, con chưa buông bỏ, con chưa bỏ đi sự dính mắc muốn đạt kết quả đó trên trái đất.

Điều này cũng có nghĩa là con đang cho phép sự thăng thiên của con tùy thuộc vào chọn lựa của người khác trên trái đất, khi họ ở trong trạng thái tâm thức thấp hơn con rất nhiều. Hiển nhiên, lý do tại sao con không tạo được kết quả mong muốn trên trái đất là vì những người khác không muốn thay đổi. Điều này có nghĩa là trong vị thế một avatar, con nay có thể rơi vào tâm thức sa ngã và bước ra tìm cách ép uổng người khác phải thay đổi, nhưng lẽ tất nhiên, làm điều này sẽ không cho phép con thăng thiên.

Con cũng có thể đi vào trạng thái không biết phải làm gì. Con như đang lơ lửng trong trống không, con đang di động thì bị khựng lại, như người ta nói. Con quả thật có thể ngồi yên một thời gian (thậm chí trong nhiều kiếp sống) không biết làm sao giải quyết bài toán bí ẩn là có điều gì trên trái đất mà con không thể để dở dang được.

Con thấy chăng ở đây câu hỏi trọng yếu cho người avatar? Con nghĩ rằng (hay ít nhất con có khuynh hướng nghĩ như vậy cho tới khi con khắc phục được các ngã gốc) điều duy nhất đưa con tới trái đất là để làm dịu nỗi đau khổ ở đây và đem lại một thay đổi tích cực. Con cảm thấy nếu con không tạo được sự thay đổi đó, thì có thể là con đã lầm lẫn khi tới đây, có thể là con đã lãng phí thời giờ, có thể là con không thể rời nơi đây, hay bất cứ điều gì khác. Con bất an, con không toại nguyện. Cách duy nhất để con thăng thiên như một avatar, không phải là con thành tựu viễn kiến ban đầu khi xuống đây, nhưng là con thăng vượt nó, con tiêu tán nó, con vứt nó đi, con buông bỏ nó, con không dính mắc với nó, con cho cái ngã chết đi và con nói: “Nó có đáng gì đâu đối với con? Con sẽ đi theo thày – Giê-su, Phật, Saint Germain, thày MORE,” hay bất cứ ai mà con xem là vị thày riêng của con. 

Bằng cách dùng các giáo lý về ngã gốc, con có thể tới điểm giải quyết vấn đề. Người sứ giả này đã trải nghiệm điều này sau nhiều tháng làm việc với các giáo lý này. Trong ông có sự xoay chuyển và bỗng nhiên ông nhận ra, ông trải nghiệm, ông hoàn toàn chấp nhận: “Tôi không phải làm gì hết trên trái đất.”

Điều này không có nghĩa là con thăng thiên ngay tức khắc. Con có thể tiếp tục hiện thân, con có thể sống một cuộc đời năng động. Thậm chí, con có thể, từ một nhãn quan vỏ ngoài, làm nhiều chuyện nhưng con không hành động qua sự pha màu của ngã gốc và các ngã khác nữa. Các ngã này cảm thấy con phải làm điều gì đó, con phải thành tựu điều gì đó, việc con tới trái đất phải đáng công sức mình. Việc con tới trái đất đã đáng công sức con vì con đã xoay chuyển tâm thức và như các thày khác đã nói, đây chính là mục đích cao hơn. Khi con làm hòa với điều này, đấy là lúc con đã đạt được một phần của quả vị Phật, nếu ta có thể nói quả vị Phật có nhiều mức độ.

25.11. Là Phật hành động

Lúc đó, con có thể là Phật hành động trên trái đất nhưng điều này không thể xảy ra cho tới khi con khắc phục điều mà ta có thể gọi là sự dính mắc gốc đó. Thày mong muốn có thể trao truyền giáo lý này 2,500 năm trước đây nhưng không làm được lúc ấy vì phương trình của khuôn đúc trong tâm thức tập thể chưa sẵn sàng. Bây giờ thì nó đã sẵn sàng. Lẽ tất nhiên, dù các thày nhấn mạnh nhiều đến các giáo lý này tại hội nghị này và hội nghị trước, không có nghĩa là tất cả mọi người đã sẵn sàng nhận các giáo lý này.

Con có thể nhìn đoàn đệ tử theo học giáo lý được trao truyền qua người sứ giả này và các giáo lý chân sư thăng thiên khác, và không phải tất cả đệ tử đều sẵn sàng nhận giáo lý về ngã gốc. Họ chưa áp dụng hết các giáo lý trước bởi vì, như các chân sư khác đã nói, các thày đã cẩn thận xây dựng để tới mức có thể trao truyền các giáo lý này. Con cần có giáo lý về tự ngã. Con cần có giáo lý về nhị nguyên và tư duy cuồng đại. Con cần có giáo lý về 144 tầng tâm thức. Con cần có khái niệm về xoay chuyển lên cao hơn, khắc phục các phàm linh nội tại và tự ngã tách biệt và do đó xoay chuyển từ một tầng tâm thức lên tầng trên.       

25.12. Mơ mộng một giáo lý cao hơn

Một lần nữa, sẽ có những đệ tử sẽ dùng tâm vỏ ngoài để quyết định: “Chúng tôi cần những giáo lý này và cần chúng ngay bây giờ.” Nhưng họ có thể chưa sẵn sàng đón nhận giáo lý vì họ chưa dùng đủ các giáo lý mà họ đã có rồi, họ chưa xoay chuyển tâm thức đủ. Nói chung, con có thể nói là điều mà các thày thấy (khi nhìn lại khoảng thời gian 2,500 năm qua và xa hơn nữa) là lúc nào cũng có một số đệ tử không nắm bắt được cơ chế căn bản mà thày mô tả ở đây: Là con cần lấy một giáo lý và cho phép nó xoay chuyển tâm thức của con.

Chỉ khi nào con làm xong điều đó thì con mới sẵn sàng nhận giáo lý cao hơn. Sẽ luôn luôn có một nhóm đệ tử rơi vào trạng thái tâm cảm thấy chút ít bực bội vì họ biết trong nội tâm là họ đã không tiến triển tới mức có thể đạt được với giáo lý mà họ đã có. Thay vì chịu nhìn vào chính mình và nhận ra lý do vì sao họ không tiến triển, thì họ đổ lỗi rằng lý do họ không tiến triển là vì có một giáo lý cao hơn mà họ chưa được nhận. Phải chi họ có được giáo lý cao hơn đó, thì sau đó họ sẽ sáng ngộ, họ sẽ tiến bộ. Đây là một vòng xoáy bất tận.

Các thày đã thấy một số người đến với một giáo lý chân chính, đón nhận giáo lý này, đạt tiến bộ nhưng sau đó dậm chân tại chỗ, không muốn tiến xa hơn vì họ không muốn xoay chuyển để đi vào con đường tu nội tâm và nhìn chính mình. Họ ngưng trệ và họ đứng tại chỗ. Đôi khi họ trở nên bực bội, cảm thấy mình là nạn nhân, hay trách cứ người khác về chuyện họ không có giáo lý. Thậm chí họ trách cứ vị đạo sư đã không thăng tiến đủ vì đây là lý do vì sao họ không thăng tiến được. Hoặc họ chỉ trích giáo lý, chỉ trích những người khác. Hoặc, như các chân sư khác đã nói, họ cảm thấy vì họ đã học giáo lý từ lâu, nên chắc chắn họ đã đạt tới một tầng cao. Do đó, họ cảm thấy có quyền phê phán và dùng tia màu xanh để tấn công những người mới tới học.

Tất cả những tình huống này có thể xảy ra nhưng con yêu dấu, con thấy chăng, sự thật là như sau. Nếu con đổ lỗi cho người thày, giáo lý, người khác, điều kiện vật lý, chiêm tinh, sa nhân, thời tiết hay cái này cái nọ – khi con còn chỉ tay đổ lỗi cho cái gì ở bên ngoài, nghĩ rằng sự tiến bộ của con tùy thuộc vào điều kiện bên ngoài, thì con chưa hoàn toàn đi theo con đường tu nội tâm. Nếu con chưa hết lòng theo con đường tu nội tâm, thì con chưa sẵn sàng đón nhận giáo lý về ngã gốc – con chưa sẵn sàng nhận các giáo lý này. Con hãy đoan chắc là con đã nắm bắt ý nghĩa của con đường tu nội tâm, hết lòng đi theo nó, sẵn sàng nhận trách nhiệm về đời mình và nhìn vào tâm mình trước khi con nhận các giáo lý này.

Lẽ tất nhiên, các thày trao truyền các giáo lý này vì quả thực có một số đông đệ tử đã theo học các giáo lý và áp dụng chúng một thời gian, và họ sẵn sàng. Cho nên, các thày rất hân hoan, các thày rất, rất biết ơn là các con đã nâng mình lên tới điểm có thể nhận các giáo lý này và đồng thời là dụng cụ để lan tỏa các xung lực này vào tâm thức đại chúng.

Khi đệ tử sẵn sàng thì vị thày xuất hiện – nghĩa là khi đệ tử chưa sẵn sàng thì vị thày không thể xuất hiện. Niềm vui lớn nhất của chân sư thăng thiên là gì? Là có thể xuất hiện và trao truyền giáo lý. Niềm biết ơn lớn nhất mà các thày có là gì?  Đó là khi các đệ tử đã làm cho họ sẵn sàng, cho phép các thày xuất hiện với một giáo lý mới. Các con yêu dấu, thày có lòng biết ơn sâu xa với các con vì các con đã làm như vậy. Các thày biết ơn các con vì có hội nghị này. Tất cả các con, những người tổ chức hội nghị cho đến những người tham dự, các thày biết ơn tất cả các con. Trong ngọn lửa Biết ơn này, lòng biết ơn của tâm Phật, thày niêm các con và thày niêm hội nghị này trong tình yêu của tim thày.

13 | Nỗi giận tiềm ẩn của người tâm linh

Chân sư Thăng thiên Akshobya qua trung gian Kim Michaels, ngày 23 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Phật Thiền định Akshobya, TA LÀ Chân sư Thăng thiên Akshobya nhưng tất nhiên, thày hơn mọi tên gọi. Chất độc mà thày đã chọn làm việc giữ quân bằng cho trái đất là giận dữ và thù hận. Giận dữ là gì? À, ngôn ngữ bị giới hạn khi mô tả cảm xúc vì cảm xúc thường phức tạp, chúng hơn ngôn từ.

13.1. Dồn mình vào góc tường

Chúng ta hãy chú tâm vào hai loại sinh thể. Chúng ta có sa nhân, chúng ta có avatar. Sa nhân có nỗi giận sâu thẳm đối với Thượng đế, các sa nhân khác, con người, các avatar, các sinh thể Ki-tô, các sinh thể Phật. Nói tóm lại họ giận mọi thứ trừ chính họ. Ấy, thực ra nỗi giận của họ sự giận dữ chính họ nhưng họ không thấy điều này.

Giờ đây, nếu con nhớ lại bài giảng trước thì con thấy là vô minh tạo ra một bức màn, và con không thấy những gì đằng sau bức màn. Khi một avatar tới trái đất và bắt đầu hoài nghi, hay nhận cú sốc khi nhận ra lý do nguyên thủy khiến mình tới đây sẽ không thể hoàn thành, thì con tạo ra ngã gốc để che giấu cú sốc là con phải duyệt lại cách hành xử của mình.

Giống như vậy, trong bầu cõi đầu khi một sinh thể sa ngã, sa nhân đó đã xây dựng một ý niệm bản ngã cao đẹp vì cho rằng mình đang làm điều tốt. Khi các chân sư thăng thiên khiến họ phải đối đầu sự thực là điều họ làm không tốt, vì nó chỉ vị kỷ, thì sa nhân đó cũng trải nghiệm một cú sốc và đã tạo ra một ngã để che giấu cú sốc từ lúc đó. Sa nhân đó đã có thể tránh duyệt lại cách hành xử của y và tới điểm xem xét: “Ồ, có gì trong thái độ, cách hành xử, niềm tin của tôi, cách tôi nhìn đời, cách tôi nhìn thế gian, không phải là cách cao nhất? Phải chăng tôi phải thay đổi cách tôi nhìn thế gian?”

Ta có thể nói rằng khi con tới trái đất như một avatar, con bị cú sốc khi nhận ra lý do con tới trái đất không thể hoàn thành được. Con tạo ra ngã gốc để tránh không phải đối phó với câu hỏi: “Có gì trong lý do tôi tới đây, thái độ của tôi, cách tôi nhìn trái đất, cần phải thay đổi chăng?” Con đã tạo ra ngã đó để tránh phải xem xét một vấn đề sâu xa hơn. Nhưng chuyện xảy ra khi con tiếp tục đầu thai (như một sa nhân từ một bầu cõi cao hơn hay như một avatar xuống trái đất) thì qua kinh nghiệm sống, con trải nghiệm là có một số vấn đề dường như con không thể giải quyết.

Lý do con không thể giải quyết vấn đề là vì con không chịu xem xét vấn đề nguyên thủy bị ngã gốc che giấu. Qua hành động tạo ngã gốc, con đã giới hạn cái thấy của mình, và do đó có một số vấn đề con không thể giải quyết. Khi con tiếp tục đầu thai, con tạo ra càng ngày càng nhiều ngã khác là hậu duệ của ngã gốc, và các ngã này tạo thêm càng ngày càng nhiều giới hạn. Vì mỗi lần con tạo ra một ngã, thì con tạo một giới hạn. Với mỗi giới hạn, con lại có thêm một vấn đề con không thể giải quyết cho tới khi con giải quyết cái ngã.

Con có thể nói là mỗi ngã giới hạn cái thấy của con. Với một cái thấy giới hạn thì có một vấn đề mà con không thể giải quyết, nhưng con làm gì? Con không thể giải quyết vấn đề nhưng con phải phản ứng lại vấn đề. Con xử lý việc này ra sao? Con tạo thêm một ngã dựa trên một giới hạn khác, và điều này tạo một vấn đề khác mà con không thể giải quyết.

13.2. Nỗi giận tích lũy

Cảm xúc dần dần trở nên càng ngày càng mãnh liệt, và đó là lý do vì sao, như Chân sư MORE có nói, ngay cả đệ tử tâm linh cũng có thể càng ngày càng tích lũy thêm sự bực bội. Con trải nghiệm là con đang ở trong một hoàn cảnh không thoải mái. Con cảm thấy bị giới hạn, con cảm thấy bị vây hãm. Con trải nghiệm bị điều kiện vây hãm và con không có uy lực để thay đổi hoàn cảnh. Con bị giới hạn bởi các vấn đề mà con không thể giải quyết – đó là cách con cảm nhận tình hình. Lý do con cảm nhận như vậy là vì con nhìn vấn đề xuyên qua một cái ngã, nhưng con không thấy điều này. Do đó, con thấy có một vấn đề mà con không thể giải quyết. Như các thày đã nói, con cảm thấy cá nhân mình bị tấn công vì con cảm thấy bị vây hãm và không thể đi nơi nào khác. Đó là lý do vì sao nỗi giận tích lũy.

Nỗi giận tích lũy vì càng ngày càng có nhiều vấn đề mà con không thể giải quyết. Vì mỗi lần con phản ứng lại một vấn đề, thì con tạo ra một ngã khác và điều này lại tạo thêm một vấn đề khác, và con cảm thấy như vấn đề không bao giờ dứt. Đây là câu chuyện con quái vật trong hang động cứ mọc lên bảy cái đầu mới mỗi khi con chặt đứt một đầu của nó. Đó là lý do vì sao nỗi giận tích lũy. Đó là sự bực bội, là năng lượng tích lũy, là căng thẳng càng ngày càng mãnh liệt, và đây là lý do khiến con giận dữ. Đó là lúc con tới điểm áp lực trở nên mạnh đến độ con không thể tránh biểu lộ nỗi giận. Lẽ tất nhiên, con không biểu lộ nỗi giận với chính mình, mà biểu lộ nó tới người khác.

Nhận ra các điểm khác biệt giữa trường hợp sa nhân và avatar có lợi ích nào cho con? Sa nhân đã có một khoảng thời gian dài hơn rất nhiều để tích lũy sự bực bội của họ, và do đó nỗi giận của họ mãnh liệt hơn. Nỗi giận của họ có cường độ cao đến độ nó đã chuyển dạng thành thù hận. Khác biệt này vi tế và không quan trọng lắm. Lẽ tất nhiên thù hận có cường độ hơn giận dữ rất nhiều và nó hướng thẳng tới một số điều kiện mà con đã nhận diện là nguyên do, nguyên do chính của vấn đề. Đối với nhiều sa nhân, đối tượng này là Thượng đế vì họ nghĩ Thượng đế là nguyên do các vấn đề của họ. Nhiều sa nhân có nỗi giận rất mãnh liệt đối với Thượng đế nhưng vì họ không thể làm gì để trừng phạt Thượng đế (tuy đó là điều họ muốn làm) nên họ đem nỗi giận này trút lên người khác và tìm cách trừng phạt các người đó. Đó là lý do vì sao, khi con là một avatar xuống trái đất, họ nhìn con như một mối đe dọa và họ tìm cách trừng phạt con.

13.3. Các avatar giận chính mình

Con thực sự làm gì với nỗi giận? À, nỗi giận bắt nguồn từ cảm giác bực bội vì con không có quyền lực để giải quyết một vấn đề. Sau đó, có một cơ chế tâm lý vận hành là nếu con trải nghiệm con có thể trút cơn giận lên một người khác (và khiến người đó cảm thấy khổ sở với chính họ như chính con cảm thấy với chính mình) thì con cảm thấy mình có uy lực. Con không có uy lực để giải quyết vấn đề đã khiến con giận dữ, nhưng con có uy lực khiến người khác cảm thấy khổ sở. Điều này giúp con khuây khỏa được một lúc, vì dù sao con cũng có chút ít uy lực.

Đó là lý do vì sao con thấy một số người (ngay cả trong các phong trào tâm linh, như Chân sư MORE có đề cập đến) đã biểu lộ hành động mà họ cho là dùng ánh sáng xanh để giúp người khác thức tỉnh, nhưng kỳ thực họ đang biểu lộ nỗi giận của họ. Nếu con đi sâu vào tâm lý con người, thì con thấy vì sa nhân đã có rất nhiều thời gian để tạo ra thật nhiều ngã, nên họ thù hận người khác, Thượng đế, Ánh sáng Mẫu-Vật, hay bất cứ gì khác.

Với nhiều avatar thì lòng thù hận hay nỗi giận của họ hướng về chính họ. Họ cảm thấy một sự bực bội nào đó, và nhiều khi, trong tâm con, con thấy đây là sự bực bội với một số điều kiện trên trái đất. Thí dụ, nhiều khi con cảm thấy có một số điều kiện trên trái đất đang giới hạn con và khiến con cảm thấy không vui với chính mình. Sự thực là nếu con nhìn sâu hơn, thì cảm xúc này bắt nguồn từ cú sốc khi con nhận ra mục đích nguyên thủy khiến con tới trái đất không thể hoàn tất được. Do đó, con cảm thấy giận chính mình vì đã lấy chọn lựa tới đây: “Tại sao tôi lại có thể ngu dốt như vậy khi quyết định tới hành tinh này?” Nhiều người trong các con sẽ nhận ra là con đã tạo ra ngã gốc và các ngã khác để che giấu nỗi giận đó. Nay các thày đã trao truyền cho các con giáo lý về chấn thương nhập đời, thì một số các con đã thực sự tới điểm sẵn sàng nhận diện cảm xúc đó trong tâm mình, và đây là một điều rất quan trọng mà con cần làm.

13.4. Tạo ra ngã để đè nén nỗi giận

Như một người tâm linh, điều rất quan trọng là con cho phép mình nhận ra là con có các ngã đó, con có sự bực bội đó, con có nỗi giận đó. Như một người tâm linh, điều quan trọng khác là con chấp nhận là con đã tìm cách tạo ra các ngã đó để đè nén nỗi giận vì con nhận ra, ở một tầng nào đó của con người mình, là một người tâm linh không được cảm thấy giận dữ. Điều quan trọng, như vị bào huynh quý của thày có nói, là con nhận ra là khi con tiếp nhận một giáo lý tâm linh, thì con thực sự có thể tạo ra một số ngã dựa trên giáo lý đó. Con tiếp nhận giáo lý Phật an lạc, Phật không dính mắc, do đó, con cảm thấy, nếu con là một đệ tử của Phật, thì con phải tạo ra một ngã để đè nén nỗi giận. Con có thể đi về phương Đông và thấy nhiều vị tăng ni đã là đệ tử trung thành và nhiệt tình của Phật giáo trong nhiều chục năm trong kiếp sống này, thậm chí trong nhiều kiếp trước. Họ có vẻ rất an bình, rất hài hòa và một số quả thực như thế. Nhiều người trong các vị đó đã quả thực tạo ra những ngã rất, rất dũng mãnh nhằm đè nén nỗi giận để nó không bao giờ biểu lộ ra – nhưng nó vẫn còn đó. Các thày kêu gọi các con, là đệ tử chân sư thăng thiên đã mở tâm đón nhận giáo lý này, đừng sợ nhận ra là trong con người mình có một hay nhiều ngã có sự giận dữ.

Một số các con đã kinh qua khổ đau mãnh liệt đến độ đã lấy vào một số phóng chiếu của sa nhân và hỏi: “Tại sao Thượng đế không thay đổi phương trình tự quyết, tại sao Thượng đế lại để con người bị đau khổ, tại sao Thượng đế lại để tôi bị đau khổ?” Con cảm thấy có nỗi giận nào đó với Thượng đế vì ngài đã ban cho con quyền tự quyết. Con có thể cảm thấy (khi con kinh qua đau khổ cùng cực trên trái đất, là điều không thể có trên hành tinh tự nhiên): “Tại sao Thượng đế lại để tôi lấy chọn lựa xuống trái đất? Thậm chí, tại sao Thượng đế lại cho tôi quyền tự quyết?” Đây là một phóng chiếu của sa nhân mà con đã mang vào tâm mình, nhưng điều quan trọng là con nhìn nhận mình có ngã đó. Chỉ khi con nhận ra là trong bốn thể phàm của mình có ngã cảm thấy giận dữ đó, thì con mới có thể tách mình ra khỏi ngã đó.

13.5. Khắc phục nỗi giận

Vậy con có thể làm gì? À, lẽ tất nhiên con có thể theo phương pháp mà các thày đã trao truyền, nhận diện ngã tách biệt, nhận ra là ngã tách biệt cảm thấy giận dữ đó đang phóng chiếu một vấn đề. Tỷ dụ, nó có thể phóng chiếu vấn đề là: “Thượng đế đáng lẽ phải thay đổi luật của ngài và không cho phép quyền tự quyết đem lại khổ đau như thế này.” Khi con còn ở bên trong ngã đó, thì con phóng chiếu ra ngoài, con nghĩ: “Làm sao tôi có thể khiến Thượng đế thấy sai lầm của ngài và thay đổi tình trạng này?” Lẽ tất nhiên con không thể. Khi con hiện thân trên một hành tinh như trái đất, con không thể nói chuyện với đấng Sáng tạo và nói: “Tại sao ngài không thay đổi luật của ngài?”

Đấng Sáng tạo không thể nghe con, con không thể vươn tới tâm thức đấng Sáng tạo. Ngã đưa ra một vấn đề không thể có giải đáp. Tất cả các ngã mà con đã tạo ra đều đưa ra một vấn đề không thể có giải đáp vì vấn đề chỉ hiện hữu do nhận thức của ngã đó, một nhận thức giới hạn. Vấn đề không phải là một vấn đề có thực, nó là một vấn đề nhân tạo, được tạo ra bởi một nhận thức giới hạn. Vấn đề không bao giờ có giải đáp. Cách giải quyết duy nhất là thấy ngã tách biệt có một nhận thức giới hạn. Nó không phải là con. Con là cái Ta Biết. Con có khả năng bước ra ngoài ngã đó và đón nhận một nhận biết cao hơn, mà các thày đã trao truyền với giáo lý về quyền tự quyết.

Do đó, con có thể tới điểm thấy ngã đó không thật, vấn đề không thật, có nghĩa là con không cần giải quyết vấn đề. Con không cần khiến đấng Sáng tạo thấy luật tự quyết là một sai lầm. Do đó, con có thể tới điểm thấy ảo tưởng và buông bỏ nó. Sau đó, con có thể nhìn ngã tách biệt và nhận ra là cách giải thoát khỏi nó không phải là giải quyết vấn đề mà là để cho ngã chết đi.

13.6. Thuốc giải chất độc giận dữ

Giờ đây các thày đã trao truyền cho các con các dụng cụ để giải trừ chất độc giận dữ, nhưng thày vẫn muốn giúp con bằng cách cống hiến thuốc giải độc tố giận dữ của thày. Thuốc giải này gọi là Minh triết Như Tấm gương. Con yêu dấu, khi thày yêu cầu con xem xét sự kiện con có một cái ngã giận dữ, thì ban đầu con có thể cảm thấy rất quan ngại. Con sợ là nếu con, như một đệ tử tâm linh, nhìn nhận nỗi giận của mình thì con sẽ tự lên án mình. À, Chân sư MORE đã trao cho các con chìa khóa để khắc phục ngã phán xét.

Nếu con chú tâm vào chuyện này trước và loại bỏ ngã phán xét đó, thì con sẽ không phán xét mình đã có nỗi giận. Con có thể nhìn nó một cách trung hòa. Điều thày cống hiến con là Minh triết Như Tấm gương. Nếu con bỏ thời gian đọc câu chú, hòa điệu với Sinh thể của thày, thì thày sẽ giúp con nhận ra chuyện đó. Thày sẽ giúp con hòa điệu với Minh triết Như Tấm gương để con có thể tới điểm con thấy trong tấm gương những gì bên trong mình mà không phán xét.

Giờ đây thày biết rất rõ là con có thể xem xét tình trạng trái đất, và có lẽ phụ nữ dễ nghĩ theo chiều hướng này hơn nam nhân. Nhiều phụ nữ không thích tấm gương vì nó cho họ thấy như họ là, không như điều họ cảm thấy họ phải biểu hiện ra. Có một chấn thương liên quan đến phụ nữ đã được tạo ra trên trái đất nhưng con cũng có thể khắc phục nó bằng Minh triết Như Tấm gương của thày bằng cách tự đặt cho mình một câu hỏi. Con yêu dấu, nếu con đang ăn điểm tâm và có một miếng thức ăn giắt vào răng, thì con có muốn sinh hoạt suốt ngày với miếng thức ăn giắt vào răng mà mọi người đều thấy, hay con muốn nhìn vào tấm gương trước khi con ra khỏi nhà, thấy miếng thức ăn, gỡ nó đi và được giải thoát khỏi nó suốt cả ngày?

Lẽ tự nhiên, với nỗi giận cũng vậy. Con có một ngã cảm thấy giận dữ. Con yêu dấu, chuyện con đến trái đất như một avatar và tạo ra một ngã giận dữ, là điều không thể tránh vì đây là một hành tinh rất thấp, rất dày đặc. Điều này không thể tránh. Tất cả chúng ta đều đã tạo ra một ngã tương tự, kể cả Giê-su, như được chứng minh trong quyển Các kiếp sống. Con có muốn sống phần còn lại cuộc đời với ngã đó hay con muốn nhìn vào tấm gương mà thày cống hiến, lấy nó ra khỏi răng, loại nó ra khỏi bốn thể phàm, cho nó chết đi và được giải thoát khỏi nó trong suốt phần còn lại của cuộc đời?

13.7. Minh triết Như Tấm gương không phán xét

Một lần nữa, điều này dính liền với việc các thày chấp nhận con vô điều kiện và không phán xét con. Con yêu dấu, thày là một Phật Thiền định, thày hiện diện ở một tầng tâm thức cao hơn tâm thức trái đất rất, rất nhiều. Tuyệt đối không có gì trên trái đất xáo trộn thày. Không có gì trên trái đất ảnh hưởng thày. Vì không có gì trên trái đất ảnh hưởng thày, nên thày không cảm thấy bị đe dọa bởi bất cứ gì trên trái đất. Vì thày không cảm thấy bị đe dọa, nên thày không cần phán xét điều gì trên trái đất, do đó thày không phán xét con. Thày chỉ mong muốn giải thoát con. Thày cống hiến Minh triết Như Tấm gương vì khác với các tấm gương trên trái đất, Minh triết Như Tấm gương mà thày là giúp con có thể, khi con hòa điệu với nó, thấy mà không phán xét. Con có thể thấy một ngã mà không thấy qua một ngã khác. Nói cách khác, con có thể thấy ngã giận dữ mà không thấy nó qua ngã phán xét. Con chỉ thấy nó.

Minh triết Như Tấm gương là như thế. Nó không nhị nguyên, nó giúp con thấy một điều kiện nhị nguyên mà không phán xét nó qua một điều kiện nhị nguyên hay một ngã khác. Không có cách nào vượt lên trên sự giận dữ ngoài cách làm tan biến ngã giận dữ. Khi con đã giải quyết ngã gốc, thì con rất dễ nhìn các ngã giận dữ và khiến chúng tan biến đi. Lúc đó, con có thể bắt đầu xem xét: “Tại sao tôi lại tới trái đất? Tôi có một chờ đợi thiết thực, hay tôi đã có một ước muốn không thiết thực, một ước muốn quá đáng theo nghĩa đó là một ước muốn bất khả thi, không thể hoàn thành.”

Lúc đó, con có thể bắt đầu xem xét: “Tại sao tôi lại muốn thay đổi người khác khi họ có quyền tự quyết?” Sau đó, con có thể tới điểm không cảm thấy bị đe dọa bởi sự kiện người khác bác bỏ con, người khác không thay đổi. Con không có trong mình một ngã cảm thấy bứt rứt vì người khác vẫn đang đau khổ. Do đó, con không cần phải thay đổi họ để giải quyết cảm xúc bên trong chính mình. Con có thể buông bỏ sự phán xét cho rằng đau khổ là không tốt, và các người đó đáng lẽ không được đau khổ.

13.8. Giải thóat ý chí của mình khỏi ý chí của người khác

Con yêu dấu, con thấy chăng là trong con có một ngã dựa trên nhận thức mà con có trước khi con tới đây, nhưng nó được tạo ra sau khi con thấy độ dày đặc của hành tinh này và con cảm thấy: “Nhưng tôi không thể thay đổi người khác, họ không chịu lắng nghe tôi, họ không đáp ứng lại những gì tôi làm.” Lúc đó, con tạo ra cái ngã cảm thấy đáng lẽ con không nên tới đây. Mỗi khi con thấy người khác đau khổ, thì con cảm thấy sự bực bội bắt nguồn từ ngã đó. Con dấy lên lòng từ bi trước nỗi khổ đau của người khác nhưng con cảm thấy không thể giúp họ thay đổi để không đau khổ nữa.

Điều này khiến con đau khổ. Nó khiến con đau khổ vì con cảm thấy việc con tới đây vô nghĩa và điều này dính liền với cảm giác bực bội nơi con. Phương pháp tối hậu để giải quyết nỗi giận là thấy được ngã đó, và thấy là cảm giác của con về việc con hiện thân trên trái đất vẫn còn dính liền với người khác và sự khổ đau của họ. Cách con cảm nhận chính mình và việc con xuống đầu thai trên trái đất là, một lúc nào đó, con đã quyết định là khi người khác còn đau khổ, thì con không thể thoải mái với việc mình ở trên trái đất, con không thể cảm thấy an bình sống trên trái đất. Thậm chí con không thể cho phép mình cảm thấy vui tươi và hạnh phúc khi người khác còn đau khổ.

À, bây giờ con có thể tới điểm giải quyết tầm nhìn hạn hẹp của con về luật tự quyết. Con nhận ra là người khác có quyền chọn lựa đau khổ trong một thời gian dài cho tới khi họ chán ngán kinh nghiệm đó và sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời họ. Con vẫn có quyền tự quyết, và việc con trói buộc các chọn lựa của mình vào các chọn lựa của người khác, là điều không phải, là điều phạm luật. Như một đệ tử tâm linh, nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời mình có nghĩa là ngưng không để những chọn lựa của mình bị ảnh hưởng bởi chọn lựa của người khác. Con ngưng không để các chọn lựa của mình chờ đợi người khác lấy một số chọn lựa. Con nhận ra là con cần hoàn toàn (và đây là trách nhiệm tối thượng khi con đầu thai trên trái đất) giải thoát quyền tự quyết của mình khỏi ý chí của người khác.

Con cần tới điểm con có thể lấy chọn lựa cho chính mình mà hoàn toàn không tùy thuộc vào người khác. Con cần nhận ra là con có quyền chọn lựa sống an bình, sống hạnh phúc trên trái đất ngay cả khi người khác vẫn chọn lựa đau khổ. Khi con có thể nhận ra điều này, thì con nhận ra không có lý do gì để con cảm thấy bực bội khi sống trên trái đất. Lúc đó, con có thể nhìn cái ngã cảm thấy luật tự quyết sai lầm, luật tự quyết phải được thay đổi. Con có thể nhìn cái ngã (tất cả mọi ngã cảm thấy bực bội, cảm thấy giận dữ) và con buông bỏ nó – con để cho nó chết đi.

Con có thể thấy là ở đây không có vấn đề gì cần giải quyết. Con chỉ để cho ngã chết đi. Con có thể để nó chết đi bằng cách nhìn vào tấm gương vì Minh triết Như Tấm gương giúp con không những thấy những gì có trong tâm thức mình, mà cũng giúp con ngước nhìn lên và thấy là con hơn những ngã đó rất nhiều. Con là cái Ta Biết là một sinh thể vô hình tướng, do đó con không bị mắc kẹt trong các ngã đó – trừ phi con để cho mình bị mắc kẹt. Con hơn thế, con là Hiện diện TA LÀ ở trên, và nó tự nó xứng đáng tự trong bản chất của nó. Do đó, giá trị của con trên trái đất không tùy thuộc các kết quả mà con đạt được trong việc thay đổi người khác.

Một lần nữa, con có thể tới điểm con tiến thêm một bước tới gần hơn việc chú tâm vào tiến trình thay vì kết quả. Đây là một chủ đề mà các chân sư khác sẽ khai triển thêm, vì tất cả các thày đang xây dựng chủ đề tiến trình thay vì kết quả.

Khi con còn bị mắc kẹt trong các ngã phát xuất từ các chất độc tâm linh, thì con không thể chú tâm vào tiến trình thay vì kết quả. Con sẽ chú tâm vào kết quả vì các ngã phóng chiếu tới con là có một kết quả mà con phải thể hiện. Đó là một kết quả bất khả thi và các thày muốn giúp con thấy điều này bằng cách phơi bày các ngã phát xuất từ các chất độc tâm linh. Tới đây thì thày đã trao cho các con món quà của thày.

15 | Bình đẳng làm tan biến lòng tự cao và tự ti

Chân sư Thăng thiên Ratnasambhava qua trung gian Kim Michaels, ngày 23 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Ratnasambhava. Thày là thuốc giải của độc tố kiêu mạn. Kiêu mạn là gì? À, lẽ đương nhiên kiêu mạn có nhiều cấp độ, có nhiều dạng. Ta cần khẳng định là ngay cả trên hành tinh tự nhiên cũng có kiêu mạn. Lý do giản dị là khi con bắt đầu hiện thân như một người đồng-sáng tạo, thì con có một ý niệm bản ngã rất bé nhỏ (như các thày đã nói: nhỏ như cái chấm), và phận sự của con là dần dà phát huy nó bằng cách thử nghiệm. Con đồng-sáng tạo dựa trên cái ngã mà con có, trải nghiệm kết quả, sau đó nới rộng cái ngã, đồng-sáng tạo tiếp, và cứ như thế.

15.1. Kiêu hãnh tự nhiên và phi tự nhiên

Chuyện hoàn toàn tự nhiên và không thể tránh là khi con trải qua tiến trình đó trong một thời gian dài, thì con trải nghiệm mình có một sự thiện xảo nào đó, một thành đạt nào đó. Con đã đạt được khả năng hình dung và biểu hiện nào đó, không những chỉ là các vật thể mà thậm chí cả hoàn cảnh sống. Hầu như không thể tránh (và sự thực là không có gì đáng chê trách) là khi con tăng trưởng nhận biết để sáng tạo, thì con phát triển ý niệm con đã thành tựu được gì đó. Con đã đạt được một trình độ trưởng thành, tinh tiến và thiện xảo nào đó. Lẽ tự nhiên, con có thể quay lại nhìn ý niệm bản ngã mà con có khi trước và thấy là con đã phát huy nó như thế nào, con đã tăng trưởng như thế nào, con có cảm nhận là con thực sự có thể thể hiện một cái gì đó.

Con có thể lấy lời dạy của Giê-su: “Tự ta không làm được gì.” Trên một hành tinh tự nhiên, con trải nghiệm trực tiếp là con không đang thể hiện với tư cách một ngã tách biệt mà con là một phần của tổng thể, năng lượng của con tới từ Hiện diện TA LÀ của con. Con biết khả năng thể hiện của con không chỉ do các thành đạt của con, tuy nhiên con phát triển ý niệm là con, như cái ngã mà con thấy con là, có khả năng thể hiện. Điều này tất nhiên hoàn toàn đúng – con quả thực có khả năng đó. Con đã phát huy ý niệm bản ngã và con có khả năng thể hiện một cái gì đó mà con không thể thể hiện lúc ban đầu.

Ta có thể nói con có một niềm kiêu hãnh tự nhiên khi con cảm thấy hãnh diện về những thành đạt và khả năng của mình. Đây có là một chất độc tâm linh theo sát nghĩa chăng? À, quả thực là không nếu xét theo cách con dùng từ chất độc tâm linh trên một hành tinh phi tự nhiên, vì con không tự xem mình là một sinh thể tách biệt. Con không ở trong nhị nguyên và do đó con không có niềm tự hào như con thấy trên trái đất.

Con cần hiểu là những người trong các con đã tới trái đất như một avatar, thì các con đã tới với cảm nhận mình đã có một số thành đạt, có khả năng thể hiện – tuy rằng, khi con xuống đầu thai thì con mất đi nhận biết có ý thức về các khả năng này. Con cần nhận ra là con mang theo mình một cái gì đó từ khoảng thời gian con sống trên hành tinh tự nhiên.

15.2. Các avatar đầu thai trên trái đất

Các thày có giảng là khi con xuống đầu thai trên trái đất, ngay cả khi con là một avatar, bất kể trước đó con đã có thành đạt gì, thì con phải xuống ở tầng tâm thức 48, và mang vào tất cả các ảo tưởng ở mỗi tầng từ tầng tâm thức của con xuống tới tầng đó. Điều này có nghĩa là tâm ý thức của con ở tầng tâm thức 48.

Con làm gì trên một hành tinh tự nhiên? À, con cũng xây dựng một cái gì tương tự như cái các thày đã gọi là bốn thể phàm trên trái đất. Con xây dựng một ý niệm bản sắc, con xây dựng một hiểu biết về cách vận hành của tiến trình đồng-sáng tạo, và con xây dựng một số cảm xúc. Con mang theo những thành phần này, ít ra là một phần, khi con xuống trái đất và con dùng chúng để hình thành các thể bản sắc, tư tưởng và cảm xúc của con. Nói cách khác, khi con tới trái đất như một avatar, con không bắt đầu từ số không khi con tạo ra bốn thể phàm để hiện thân tại đây. Con mang theo mình một cái gì đó từ hành tinh tự nhiên. Điều này có nghĩa là, tuy tâm ý thức của con ở tầng 48 (và do đó con không nhớ một cách ý thức là con tới từ một hành tinh tự nhiên), con vẫn có một số cảm giác, một số ký ức. Con cũng có một số khả năng, vì lẽ tất nhiên, con dễ quán triệt tiến trình đồng-sáng tạo hơn một dòng sống mới được tạo ra ở tầng đó.

Khi con tới trái đất, con trải nghiệm là con khôn ngoan hơn, tài ba hơn, con có nhiều khả năng hơn đa số những người đang hiện thân trên trái đất. Giờ đây, điều rối rắm là như một avatar, lẽ tất nhiên, con bị chấn thương nhập đời. Chuyện đã xảy ra là sa nhân tìm cách hạ nhục con và nói là con không có quyền ở trên trái đất, con đáng lẽ không được tới đây, vân vân. Khi đó con tạo ra ngã gốc, và do đó con không thấy thế khó xử mà sa nhân đã đặt con vào. Điều này khiến con tạo ra những ngã khác có cảm giác là nay con cần phải chứng minh giá trị của mình trên trái đất. Con cần biện minh, con cần giải thích sự hiện diện của mình. Con cần chứng minh cho chính mình là con xứng đáng, con có quyền ở trên trái đất, con không phải là người xấu, vân vân.

15.3. Lòng tương kính đối với sa nhân

Tình trạng này có thể dẫn tới việc tạo ra các ngã rất thiết tha được một thành đạt nào đó, một khả năng đặc biệt nào đó trong thế giới vật chất, kể cả với thân thể vật lý. Con thấy có nhiều avatar trong nhiều kiếp sống đã trở nên thiện xảo với thân thể của họ. Có những trường hợp họ đã trau dồi võ thuật và trở nên những chiến sĩ thượng thặng. Họ đã phát triển khả năng đặc biệt trong các lãnh vực nghệ thuật, âm nhạc, thể dục, thể thao vân vân.

Khi con trải qua nhiều kiếp sống cố gắng chứng minh giá trị của mình, thì có hai chuyện có thể xảy ra. Thứ nhất, con sẽ trải nghiệm là xét theo quan niệm bên ngoài con không bao giờ thực sự mãn nguyện với những thành đạt của mình. Con không bao giờ làm vừa ý sa nhân, con không bao giờ chứng minh được giá trị của mình dưới mắt họ. Đồng thời, con cũng không chứng minh được giá trị của mình duới mắt đa số con người trên trái đất. Họ có thể nhìn con với đôi mắt khâm phục vì con có khả năng mà họ không có, nhưng điều này không thực sự khiến con mãn nguyện.

Con tích lũy một sự bực bội, và điều này có nghĩa là để cảm thấy mình thành đạt, con có nếp sống mà người ta gọi là chuột chạy đua hay chạy trên máy chạy. Con phải chạy càng ngày càng nhanh, làm càng ngày càng nhiều, thành tựu càng ngày càng hơn. Sự thực là ngày nay con thấy nhiều người không bao giờ cảm thấy đủ dù họ thành tựu bao nhiêu. Bất kể số tiền họ kiếm được, bất kể thành quả họ gặt hái trong lãnh vực nào đó, bất kể bao nhiêu danh vọng họ đạt được, họ vẫn không bao giờ cảm thấy đủ.

Tỷ dụ, con thấy một số thể tháo gia lúc trẻ đã đi dự Thế vận hội và đoạt được nhiều huy chương và phá nhiều kỷ lục thế giới. Họ cảm thấy hưng phấn tột bực vì họ cảm thấy được sự chứng nhận tối hậu. Sau đó, vì dòng chảy tàn nhẫn của thời gian dần dần đuổi bắt họ nên họ không còn đạt được những thành quả đó nữa. Lúc đó, họ rơi vào trầm cảm vì họ không còn được chứng nhận nữa nhưng họ vẫn cảm thấy cần sự chứng nhận này.

Nhiều avatar đã trải qua hoàn cảnh này từ kiếp này sang kiếp khác, tốn rất nhiều công sức để xây dựng khả năng nào đó trong kiếp sống này, để rồi mất nó và kết thúc kiếp sống cảm thấy chán nản và thiếu tự tin. Điều này có thể khiến một số dòng sống dần dần xây dựng một ngã thường trực hơn mà họ mang từ kiếp này sang kiếp khác, và ngã này cho họ cảm giác tự tôn. Lúc đó họ dùng tâm thức nhị nguyên, lẽ tất nhiên lúc nào cũng hàm ý hay dính liền với tâm phán xét giá trị. Họ đã bị rơi vào cạm bẫy của sa nhân và dùng tâm thức nhị nguyên để tạo ra một ngã có niềm tự hào cao vời vợi coi mình đặc biệt, tinh tiến hơn người khác và do đó được quyền có địa vị nào đó, đặc quyền nào đó, vân vân. 

Điều thày muốn nói là qua tiến trình này một số avatar đã bị lừa để hành xử giống như sa nhân. Con có thể nhìn về thời Trung cổ và thấy là có một số vị vua và giới quý tộc cảm thấy họ xứng đáng được hưởng đặc quyền. Một số trong các người đó là sa nhân và một số là avatar. Họ thường giao tiếp với nhau, như quyển sách Các kiếp sống của tôi đã mô tả, vì con thường thấy là sa nhân thực ra cũng có nhiều khả năng thể hiện kết quả vật lý, do quá trình rất dài của họ. Sa nhân và avatar đã hầu như phát triển tinh thần tương kính vì cả hai nhóm nhận ra là nhóm kia đã có một số thành đạt.

15.4. Nhìn nhận là trong con có ngã tự hào

Điều này tất nhiên không áp dụng cho sa nhân trên cõi bản sắc và cũng không áp dụng cho mọi sa nhân đầu thai trên trái đất. Nhưng con có thể có tình huống một số sa nhân trên trái đất (không nhất thiết là các sa nhân xấu ác nhất) đã phát triển một tình bằng hữu với các avatar vì họ tôn trọng khả năng thể hiện thành quả vật lý mà cả hai nhóm đều có. Do đó, họ củng cố lẫn nhau niềm tự hào của họ.

Có những avatar đã cảm thấy rất khó cắt đứt dây trói buộc họ vào các dòng sống đó, các sa nhân đó. Một avatar có thể cảm thấy rất, rất khó cắt đứt những dây trói đó. Con không dễ nhìn nhận mình đã phát triển lòng ngưỡng mộ và kính trọng sa nhân. Con có thể làm chuyện này bằng cách nhận ra đây là, lẽ tất nhiên, một cái ngã trong con đã phát triển điều này, và ngã đó là một hậu duệ của ngã đã cho con cảm giác tự hào.

Giờ đây, giống như trường hợp giận dữ, con không phải cảm thấy tội lỗi. Không ai lên án con vì con nhìn nhận là trong tâm mình có yếu tố tự hào. Khi con nhìn sự vận hành, sự vận hành tâm lý, trong đời sống của một avatar, đã tới một hành tinh như trái đất, đã phải kinh qua những chuyện mà con đã kinh qua, thì con không thể tránh tạo ra ngã đó. Giản dị là con sống trên trái đất, con ở trong một thân thể vật lý, con phải giáp mặt các điều kiện trên trái đất (mà các thày đã nhiều lần nhắc lại là rất khó khăn, rất dày đặc). Khi con ở tầng tâm thức nào đó, thì con cần phản ứng lại các điều kiện đó với tầng tâm thức đó. Cách duy nhất để phản ứng ở tầng 48 là con tạo ra một ngã dựa trên ảo tưởng ở tầng 48. Một lần nữa, con có thể thấy là con không thể tránh tạo ra các ngã đó. Các thày chỉ giản dị kêu gọi con nhìn nhận là con có các ngã đó, và nhận ra là đã đến lúc con để cho chúng chết đi. Một lần nữa, các thày đã trao cho con giáo lý và dụng cụ để làm công việc này.

Lẽ tất nhiên, sa nhân có niềm tự hào ăn sâu, rắn đặc hơn rất nhiều những gì một avatar có thể tạo ra trong một thời gian ngắn. Dù con có đầu thai trong hai triệu năm trên trái đất, thì đây vẫn là một khoảng thời gian rất ngắn so với sự có mặt của sa nhân từ các bầu cõi trước. Điều con nhận ra ở đây là niềm tự hào của họ mãnh liệt hơn rất nhiều và rất dính liền với giận dữ.

Lẽ tất nhiên đây là một hình thức vô minh rất dày đặc mà họ có. Thày không nói là lòng tự hào của con tương đương với lòng tự hào của sa nhân, tuy chúng có điểm tương đồng và con có thể có lòng tương kính đối với họ. Con có thể rũ bỏ lòng tự hào dễ hơn sa nhân rất nhiều. Tuy lẽ tất nhiên họ cũng có tiềm năng dùng cùng tiến trình mà con đã dùng: nhận diện một ngã, để cho nó chết đi. Lẽ tất nhiên, một sa nhân rất khó bước ra ngoài ngã mà họ đang mang, nhìn nó từ bên ngoài, nhận diện nó là một ngã không thực, và để cho nó chết đi, nhưng việc này vẫn khả thi và trên căn bản tiến trình vẫn là một.

15.5. Bình đẳng làm tan biến kiêu mạn

Món quà mà thày muốn cống hiến các con là minh triết của thày, là Minh triết Bình đẳng, vì đây là chất giải tối hậu cho độc tố kiêu mạn. Lẽ tất nhiên, minh triết này có nhiều tầng. Như một avatar, ở tầng thứ nhất con nhận ra một cách ý thức là một trong những chất độc mà con phải khắc phục trên trái đất là lòng kiêu mạn. Con đã tạo ra một ngã có tính kiêu mạn. Vậy con có thể làm gì để xoay chuyển tâm thức và không còn tự đồng hóa với ngã đó nữa?

À, con bắt đầu bằng cách sử dụng Minh triết Bình đẳng để nhận ra điều mà các thày đã dạy về tâm thức nhị nguyên. Tâm thức nhị nguyên luôn luôn có hai đối cực, nhưng nó lúc nào cũng gán lên các đối cực này một phán xét giá trị: một bên tốt, một bên xấu. Con có thể sử dụng, hòa điệu và kêu gọi sự Hiện diện của thày bằng cách dùng câu chú của thày để thực sự trải nghiệm là nhị nguyên không có thật.

Do đó, con nhận ra ý niệm một đối cực tốt hơn cái kia, bên này tốt bên kia xấu, chỉ giản dị là một ảo tưởng. Con có thể thấy là nhị nguyên có cái gì không thật. Thày biết rất rõ là nhiều người trong các con đã học giáo lý của các thày về nhị nguyên, nhưng vẫn có cái mà Chân sư MORE gọi là “khoảng cách” giữa giáo lý và trải nghiệm sự hiện thực của giáo lý. Đây là chỗ Minh triết Bình đẳng có thể giúp con.

Chúng ta hãy tiến thêm một bước nữa trong việc dùng Minh triết Bình đẳng. Con ngồi đây, con có giác quan vật lý, con có nhận biết có ý thức. Thày muốn con nhìn vào trái đất, nhìn vào cuộc sống với mắt tâm của con. Con thấy tất cả những điều kiện đa dạng mà con đã trải nghiệm trong cuộc đời mình. Con thấy sự đa dạng lạ thường đó. Con thấy có một số người đang khổ đau, một số người đang giao chiến, một số người đang có cuộc sống an bình, vân vân. Lẽ tự nhiên, con khó nhìn tất cả các điều này mà không khởi lên tâm phán xét giá trị, nói rằng một số điều kiện không cao nhất vì chúng tạo khổ đau, và một số điều kiện khác chắc chắn phải cao hơn vì chúng không tạo khổ đau. Giờ đây, với Minh triết Bình đẳng, con có thể bắt đầu bước lui lại khỏi kịch bản rất đa dạng đó. Thày muốn con xem xét sự kiện mọi vật thể mà con thấy trên trái đất đều được cấu tạo từ vật chất. Cái gì cấu tạo ra vật chất? À, khoa học cho con biết là vật chất được cấu tạo bởi nguyên tử. Các hiện tượng vật chất mang nhiều hình dạng, nhưng chúng đều được cấu tạo từ các viên gạch căn bản là nguyên tử. 

Con biết là có 108 nguyên tử – đúng ra thì có nhiều hơn nhưng khoa học chỉ mới khám phá ra 108 nguyên tử. Con biết là bất cứ hiện tượng vật chất nào mà con có thể phát hiện bằng giác quan đều do các nguyên tử đó tạo thành, hoặc từ một nguyên tử hay nhiều nguyên tử phối hợp với nhau. Con yêu dấu, khi con nhìn ở tầng vĩ mô với giác quan của con, thì con có thể thấy có một người đang có một vết thương chưa lành đang chảy mủ và trong đó lúc nhúc ruồi và dòi bọ. Với tâm ý thức bình thường của con, hiện tượng này giống như một sự lố bịch vì nó tạo khổ đau.     

15.6. Nhiều tầng lớp ý nghĩa

Giờ đây, con hãy cho phép mình thấy là hiện tượng đó được tạo nên bởi vật chất, và vật chất được cấu tạo bằng nguyên tử. Nếu con có thể xoay chuyển viễn quan của con để chỉ thấy các nguyên tử (nói cách khác, thay vì thấy một vết thương chưa lành thì con thấy một tổ hợp nguyên tử, thay vì thấy dòi bọ đang bò trong vết thương thì con thấy một tổ hợp nguyên tử), thì phán xét giá trị ở cấp vĩ mô là hiện tượng này xấu, có nghĩa lý gì ở cấp các nguyên tử chăng? Các nguyên tử có nghĩ rằng: “Ồ, tôi đã thể hiện một dòi bọ và điều này xấu?” À, lẽ dĩ nhiên chúng không nghĩ vậy! Chúng chỉ thể hiện cái khuôn đúc đã được gán lên chúng. Điều thày muốn nói ở đây là: Phán xét giá trị tốt xấu hiện hữu ở cấp vĩ mô trong tâm vật lý, nhưng nó không hiện hữu ở tầng sâu hơn. Nó không có nghĩa gì cả ở tầng sâu hơn.

Điều con cũng nhận ra là khi con hòa điệu với tầng sâu hơn của các nguyên tử, thì các nguyên tử không bị trói buộc vào hình tướng. Các nguyên tử có thể dễ dàng thoát khỏi hình tướng dòi bọ để hợp thành một đóa hoa tuyệt đẹp. Đối với các nguyên tử, hợp thành hình tướng này không khó hơn hình tướng kia. Chuyện hoàn toàn khả thi là các nguyên tử đang cấu tạo dòi bọ được giải thoát và trở thành thành phần của một bông hồng. Sự thực là những nguyên tử đang cấu tạo dòi bọ có thể trước đó đã cấu tạo một bông hồng. Con thấy là không có gì ở cấp vĩ mô của thế giới vật lý có tính chất thường hằng. Chúng đều phù du. Giờ đây, lẽ tất nhiên con có thể đi xuống một tầng sâu hơn nữa. Nguyên tử được cấu tạo bởi các hạt cơ bản. Các hạt cơ bản nằm ở lằn ranh giữa vật chất và năng lượng, do đó chúng thực sự một phần là sóng năng lượng. Con có thể đi xuống tầng sâu hơn và chỉ thấy các sóng năng lượng. Mọi thứ đều do sóng năng lượng tạo thành, đều là một mô thức rất rất phức tạp nhiều sóng năng lượng giao thoa với nhau. Ở tầng sóng năng lượng, một lần nữa phán xét giá trị ở tầng vĩ mô lại không có giá trị, không có ý nghĩa gì. Ở đó chỉ có các sóng năng lượng.

Lúc đó, con có thể xem xét tất cả các đế quốc oai dũng do con người dựng nên, tất cả các cấu trúc mà họ đã xây dựng để bồi đắp lòng kiêu mạn, ý niệm họ thành đạt, ý niệm họ đặc biệt. Con hãy nhìn những thành quách quyền lực này và tự hỏi: “Ở tầng sóng năng lượng, chúng có thường hằng chăng, chúng có uy lực chăng?” “Không đâu!”

Con có thể nhận ra là những chuyện xảy ra trên trái đất chỉ là một trò chơi. Đó là một màn kịch mà con người dựng lên để có một số trải nghiệm cho tới khi họ chán ngán trải nghiệm đó. Sau đó, như một đệ tử tâm linh, con có thể bắt đầu xem xét: “Con có thật sự cần cảm thấy mình hơn người khác chăng? Có phải chăng là trong nhiều kiếp sống con đã có trải nghiệm này, và đã đến lúc con suy ngẫm: “Tôi đã chán chuyện này chưa? Có phải chăng là tôi đã chán ngán trò chơi hơn kém nhân tạo, phù du và vô nghĩa này?”

15.7. Tự ti cũng là kiêu mạn

Giờ đây, một số các con có thể nhận ra là con có một ngã khác không cảm thấy tự tôn mà cảm thấy tự ti. Con yêu dấu, đây thật sự cũng là một hình thức kiêu mạn vì con vẫn gán một phán xét giá trị lên chính mình. Con nghĩ mình có thể làm gì ở đây? Con đang nghĩ là con biết rõ hơn Thượng đế là con thấp kém. Thượng đế không tạo ra con thấp kém. Con không được tạo ra như một sinh thể thấp kém, nhưng nay con nghĩ con biết mình thực sự là một sinh thể thấp kém – và đây là kiêu mạn. Con nghĩ con biết rõ hơn đấng Sáng tạo, hơn Cội nguồn của mình. Con có thể tới chỗ nhận ra là con chán ngán cảm nhận thấp kém hay cao cả hay bất cứ hình ảnh nào mà con có thể tưởng tượng ra.

Con có thể tới điểm viễn quan của con bỗng nhiên xoay chuyển và con thấy sâu hơn tầng vĩ mô. Con thấy là ở tầng sâu hơn của nguyên tử, của sóng năng lượng, của Ánh sáng Mẫu-Vật, thì tất cả các hình ảnh này đều không thật, đều vô nghĩa. Sau đó, con tới điểm thấy không phải con tin như vậy, mà là một ngã tách biệt. Ngã tách biệt giống y như một máy điện toán: nó cũng không thật. Do đó, con có thể tới điểm nhìn nó và nói: “Ta để cho mi chết đi. Ta không muốn mi trong con người ta nữa, ta để cho mi chết đi.”

Khi ngã đó trút khỏi con thì con cảm thấy một cảm giác tự do vĩ đại. Dù con cảm thấy tự tôn hay tự ti, thì qua bao nhiều kiếp sống, cảm giác đó, ảo tưởng đó đã trở nên càng ngày càng khó duy trì. Mỗi ngày con phải nỗ lực nhiều hơn để duy trì nó. Có nghĩa là nó khiến con căng thẳng hơn. Con cần dồn vào đó nhiều năng lượng tinh thần và chú tâm hơn. Một khi con ngưng không làm việc đó nữa, thì bỗng nhiên sự chú tâm của con được giải thoát. Bỗng nhiên, con có cảm giác an bình mà con không thể có khi con ở trong vòng vận hành của tự tôn-tự ti.

Đó là Minh triết Bình đẳng mà thày cống hiến các con. Con quả thực có thể thiền quán chung quanh chủ đề Minh triết Bình đẳng. Con có thể thực tập những bước mà thày đã vạch ra, hay con cũng có thể thực tập một bài hình dung. Con hình dung trái đất với tất cả các ngọn núi cao, tất cả các thành thị tráng lệ. Sau đó, con thấy, nếu con có thể khiến thời gian trôi nhanh hơn, tất cả các ngọn núi bị bào mòn, tất cả các thành thị bị đổ nát, tất cả mọi thứ đều trở thành cát bụi, gạch vụn, nguyên tử, sóng năng lượng. Rốt cuộc chỉ còn sự bình đẳng hoàn toàn của Ánh sáng Mẫu-Vật.

Các thày có nói là Ánh sáng Mẫu-Vật có thể được nâng lên và có được tự nhận biết, nhưng đó là Ánh sáng Mẫu-Vật chứ không phải những cấu trúc được xây dựng từ Ánh sáng Mẫu-Vật trên một hành tinh như trái đất. Chúng sẽ không bao giờ đạt được tính chất thường hằng. Do đó, khi Ánh sáng Mẫu-Vật có tự nhận biết, thì nó sẽ trút bỏ các hình tướng đó. Chúng sẽ dần dần sụp đổ và không còn gì nữa cả cho tới khi chỉ còn ánh sáng thuần khiết tồn tại.

Con có thể hình dung và thiền quán trên chủ đề này, và thực tập này sẽ giúp con thoát khỏi vòng vận hành không những của lòng tự tôn-tự ti mà ngay cả tất cả các hậu duệ của tâm thức nhị nguyên lúc nào cũng nâng cái này lên và so sánh cái này với cái kia. Tới đây thì thày cảm ơn các con đã chú tâm nghe bài này và đón nhận món quà của thày.

17 | Phân biện cho con biết khi nào là đủ

Chân sư Thăng thiên Amitabha qua trung gian Kim Michaels, ngày 23 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Phật Amitabha (A Di Đà). Thày là thuốc giải của chất độc được gọi là thèm muốn, tham lam và khát ái. Lẽ tất nhiên, những cảm xúc này là biểu tượng của một hiện tượng phức tạp. Tham lam là gì? Khái ái là gì? Đa số coi khát ái là khát ái vật lý, là những ham muốn của cơ thể vật lý, và coi tham lam là sự ham muốn tiền tài, nhưng thực ra chúng hơn thế rất nhiều. Đó thực sự là cảm giác con không bao giờ thấy đủ với một thứ nào đó, và điều này phần nào là một sự nghịch lý. 

17.1. Chất độc trở thành cỗ máy chạy

Nếu con xem lại những giáo lý mà các thày đã trao truyền, thì các thày có nói là những sinh thể tự nhận biết được đấng Sáng tạo ban cho quyền tự quyết. Họ có quyền sáng tạo và có bất cứ trải nghiệm nào mà họ mong muốn, và có thể tiếp tục có những trải nghiệm đó khi họ còn mong muốn và cho tới khi họ chán ngán. Vậy tại sao ta lại nói việc con muốn càng ngày càng nhiều một thứ gì đó là một chất độc tâm linh? Có phải chăng ham muốn có càng ngày càng nhiều tiền là chuyện phải lẽ, nếu đó là trải nghiệm mà con mong muốn? Có phải chăng thèm khát tình dục, thức ăn hay bất cứ khoái lạc xác thân vật lý nào khác là chuyện phải lẽ, nếu đó là trải nghiệm mà con mong muốn? Con chỉ cần tận hưởng những thứ đó, có tối đa những gì con muốn để mau chóng tới điểm chán ngán chúng.

Có một số trường phái triết học Đông phương chủ trương có hai con đường dẫn tới giác ngộ. Một là con đường hiền giả trong đó con buông bỏ lạc thú thế gian, và con đường kia là tận hưởng các lạc thú đó cho tới khi con chán ngán. Tất cả các quan điểm này đều là quan tâm chính đáng. Tuy nhiên, chức năng của một chất độc (và đây là lý do vì sao các thày gọi chúng là chất độc) là nó giam con vào cạm bẫy. Nó giăng bẫy để con rơi vào vòng lẩn quẩn, vào cỗ máy chạy không ngừng nghỉ khiến con chạy lòng vòng, có thể con chạy càng ngày càng nhanh nhưng không thực sự đi đến đâu. Sự thực là, nếu con lấy một người đang tận hưởng các lạc thú của xác thân vật lý, thì nếu y không bị ảnh hưởng bởi chất độc tham lam và khát ái thì y quả thật có thể tới điểm chán ngán các lạc thú đó trong vòng vài kiếp sống và sau đó buông bỏ chúng.

Điểm chính là với dòng thời gian, chất độc đã được tạo ra trên trái đất bởi sa nhân. Khi con người đem chất độc đó vào người mình, thì họ không thể nào thấy đủ. Họ không thể có cảm giác thỏa thuê vì chất độc tham lam và thèm muốn ngăn chặn cảm giác thỏa thuê, cảm giác thấy đủ.

Lẽ tất nhiên, điều này liên quan đến giáo lý mà các thày đã trao truyền về các ngã mà con đã tạo ra. Con tạo ra một ngã cảm thấy thiếu khả năng khi sống trên trái đất. Một avatar thường tạo ra một ngã như vậy khi bị chấn thương nhập đời. Con cảm thấy có cái gì thiếu thốn, có cái gì trống vắng, có cái gì thiếu hụt trong con người mình. Ngã đó chủ yếu được lập trình để khỏa lấp lỗ hổng đó và nó tạo ra các ngã khác nói: “Nếu bạn có đủ tiền thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.” “Nếu bạn có đủ tình dục thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.” “Nếu bạn có đủ trọng vọng thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.” “Nếu bạn hoàn thành đủ công việc thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.” “Nếu bạn thay đổi đủ số người khác thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.” “Nếu bạn thay đổi điều kiện này hay điều kiện nọ trên trái đất thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.”

Trong trường hợp một avatar thì câu chuyện trải bày như sau: con tới trái đất để đem lại một thay đổi tích cực. Con kinh qua một chấn thương. Nó khiến con cảm thấy có lỗ hổng, trống vắng. Con tạo ra các ngã phóng chiếu tới con là nếu con có đủ điều kiện này hay điều kiện nọ, thì con sẽ cảm thấy đầy đủ.

Lẽ tất nhiên, cảm giác này dính liền với động lượng tập thể mà sa nhân bắt đầu tạo ra ở bầu cõi thứ tư khi họ bắt đầu sa ngã, và tiếp tục được bồi đắp cho tới ngày nay. Khi con bị chất độc đó ảnh hưởng, thì con không bao giờ cảm thấy đầy đủ. À, con có thể cảm thấy phần nào đủ trong những phút giây ngắn khi con có những trải nghiệm rất cùng cực. Như một huynh đệ của thày có nói, con có trường hợp một thể tháo gia phá kỷ lục thế giới và đoạt huy chương Thế vận hội và có cảm tưởng ngây ngất trong một thời gian ngắn, nhưng sau đó lại cảm thấy không đủ. Hoặc y cần thêm nữa hoặc y rơi vào bệnh trầm cảm lúc nào cũng theo sau trạng thái ngây ngất, vì nó là đối cực của sự ngây ngất. Cái gì bay lên cao sẽ phải rơi xuống. Đó là lý do vì sao ước muốn chính đáng có một loại trải nghiệm nào đó bị tha hóa bởi chất độc để trở thành một sự tìm cầu không bao giờ dứt càng ngày ngày càng muốn nhiều hơn mà không bao giờ thấy đủ, không bao giờ khiến con người cảm thấy mãn nguyện.

17.2. Minh triết Phân biện

Có nhiều người trên trái đất bị sa vào cạm bẫy của các ham muốn (mà các avatar thường không có) lạc thú vật lý và tận hưởng một số điều trên trái đất. Vì con là một avatar nên đây không là mối quan tâm cho con. Các người kia sẽ dần dần được kéo lên khi tâm thức tập thể được nâng lên, và một số trong các người đó sẽ có thể khắc phục các ham muốn đó và tiến lên làm chuyện khác. Khi tâm thức tập thể được nâng lên thì con người quả thực sẽ có thể hòa điệu với Minh triết Phân biện và bắt đầu tự hỏi họ có bao giờ cảm thấy đủ chăng. Con cần uống bao nhiêu ly bia? Con cần có bao nhiêu túi xách tay trong tủ, vân vân và vân vân. Con thấy chăng, sự thực là bên phương Tây là nơi đã có nền văn hóa tiêu thụ từ nhiều thập niên thì đã có người bắt đầu tự đặt những câu hỏi tương tự, và lẽ tất nhiên họ đã làm vậy từ khá lâu nay.

Điều thày muốn cống hiến con, như một avatar, là sự trợ giúp của thày để con nhận được minh triết là thuốc giải độc của thày. Đó là Minh triết Phân biệt (discriminating) hay Minh triết Phân biện (discerning). Có sự khác biệt giữa phán xét giá trị và phân biệt hay phân biện. Phân biệt được dùng với ý nghĩa cao của nó, không phải là ý thường dùng ví dụ như phân biệt đối xử với ai đó dựa trên chủng tộc. Đó là lý do vì sao thày chọn dùng từ phân biện, Minh triết Phân biện.

Khi con hòa điệu với Minh triết Phân biện, thì con có thể bắt đầu tự hỏi mình những câu hỏi đó. Con có thể bắt đầu nhận diện là con có, thí dụ, trong con người mình ước muốn thấy một thay đổi nào đó trên trái đất. Con mong muốn thấy con người thức tỉnh và không chìm đắm trong một sinh hoạt khiến họ đau khổ. Khi con hòa điệu với Minh triết Phân biện, thì con có thể nhớ lại những giáo lý mà các thày đã trao truyền về quyền tự quyết, và tự hỏi xem có hợp lý chăng là con có ước muốn đem lại một thay đổi, hay thấy có sự thay đổi, khi sự thay đổi này tùy thuộc các chọn lựa của người khác.

Con có thể dùng giáo lý để hòa điệu và trải nghiệm thực tại là con không thể, trong cương vị một avatar, cho phép mình có một ngã phóng chiếu tới con là tâm thái của mình, sự an bình nội tâm của mình, tùy thuộc vào chọn lựa của người khác. Con có thể tới điểm thấy là con có một ngã đang phóng chiếu tới con là con phải giúp đem lại một sự đổi thay nào đó và con không thể cảm thấy đầy đủ khi con người vẫn còn bị đau khổ, thí dụ như bị một căn bệnh hay bị thảm tử vì chiến tranh. Điều này có nghĩa chính yếu là trong cả hai trường hợp, con không thể cảm thấy đầy đủ cho tới hết kiếp sống này. Nạn chiến tranh hay tảy trừ được một căn bệnh có thể sẽ không xảy ra khi con hết kiếp sống này, tùy theo số tuổi của con bây giờ.

Như vậy có nghĩa là cho đến hết kiếp sống này, con phải sống với lỗ hổng đó. Con có thể tới điểm nhận ra là con không muốn như vậy. Lúc đó, một lần nữa con có thể dùng giáo lý để nhận ra là một ngã tách biệt đã cho con cảm giác là nhu cầu đó phải được hoàn thành. Con có thể nhận diện ngã đó, tách mình ra khỏi nó và để cho nó chết đi.

Con cũng có thể dùng Minh triết Phân biện để hòa điệu, thiền quán về minh triết đó. Con có thể hình dung nó như một lưỡi dao rất mỏng, rất sắc, làm bằng một chất liệu rất cứng. Hoặc con hình dung nó như một tia laser có thể chọc thủng sự dày đặc của tâm thức nhị nguyên, và qua đó phân biện cái thật và cái không thật, cho phép con thấy đâu là một ước muốn bất khả thi, một ước muốn không thể hoàn thành.

17.3. Xem xét động cơ nguyên thủy của con

Sau đó, con có thể xem xét động cơ nguyên thủy đã thúc đẩy con tới đây, và một lần nữa, thấy là con có một ước muốn không thể hoàn thành trước khi con tới đây. Con chỉ có thể hoàn thành ước muốn đó bằng cách ảnh hưởng quyền tự quyết của người khác và điều này vừa trái luật vừa không phải là điều con muốn làm. Nếu con thực sự trụ trong Minh triết Phân biện thì con sẽ thấy là con thực sự không có một ước muốn cao khi con muốn thay đổi chọn lựa của người khác. Đó là một ước muốn trái luật, bất khả thi, không thể hoàn thành, dựa trên một trạng thái tâm thức thấp hơn trạng thái tâm thức mà con có ngày hôm nay.

Lúc đó, con có thể bắt đầu tách những ngã đó ra, tách mình ra khỏi các ngã đó, nhận diện chúng và thấy chúng như chúng là. Thường có thể có nhiều hơn một ngã. Có thể con cần vật lộn một chút với chúng, vì một lần nữa, vấn đề là: con tới đây với thiện ý. Con bị một cú sốc và bắt đầu nghi ngờ ý định của mình, nghi ngờ viễn quan nguyên thủy của mình. Con có thể cần làm việc để tới điểm có thể thấy và nhìn nhận đó là một viễn quan thấp. Viễn quan đó dựa trên một ảo tưởng và do đó con có thể buông bỏ nó. Con có thể buông bỏ cái ngã muốn biện hộ cho lý do vì sao con tới đây, muốn biện minh, giải thích, chứng thực là chuyện con làm không có gì sai trái.

Quả thực là chuyện con làm không có gì sai trái, nhưng nó dựa trên trạng thái tâm thức mà con có lúc đó, và đó không phải là trạng thái tâm thức cao nhất. Đó không phải là trạng thái tâm thức mà con có khi con thăng thiên. Bởi vì con đã trải qua một thời gian dài trên trái đất, con nay có tiềm năng vươn lên một tầng tâm thức cao hơn và qua đó vươn lên tầng tâm thức nơi con có thể thăng thiên.

Con quả thực không có thể thăng thiên từ hành tinh tự nhiên nhưng con có thể thăng thiên từ địa cầu. Đó là lý do vì sao ta có thể nói là chuyện con xuống địa cầu là điều chính đáng. Đó là một điều chính đáng trong tiến trình tăng trưởng dài hạn của con. Con chỉ cần nhận ra là lý do mà lúc đó con nghĩ đã khiến con xuống địa cầu không chính đáng, không tối hậu. Minh triết Phân biện có thể giúp con cắt đứt những bợn nhơ trong tâm mình, trong đó cũng có một ngã cảm thấy không bao giờ chán việc tạo thay đổi trên trái đất – cho tới khi tất cả mọi người được giải thoát, và điều đó tất nhiên là một công trình rất dài hạn.

Bằng cách sử dụng Minh triết Phân biện, bằng cách đọc câu chú của thày, hòa điệu với Sinh thể của thày, con có thể giải thoát mình khỏi các động lượng mà nhiều người trong các con đã mang theo mình từ hai triệu năm. Con có thể khắc phục các động lượng đó, mau chóng tiến bộ và đạt được cảm giác an bình hơn mà tất cả các thày mong con đạt được. Con yêu dấu, đây là món quà mà thày tặng con.

19 | Khắc phục ghen tị bằng thành tựu tất cả

Chân sư Thăng thiên Amogasiddhi qua trung gian Kim Michaels, ngày 23 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Phật Amogasiddhi. Thày là thuốc giải của chất độc ghen tị. Ghen tị là gì? Nó từ đâu tới? Nó phát xuất, như các chất độc khác, từ sa nhân vì sau khi họ sa ngã họ trải nghiệm một điều mà họ không trải nghiệm trước đó. Trước khi họ sa ngã, trong nhiều trường hợp họ đã đạt được thành đạt cao trong việc đồng-sáng tạo, hay ít nhất là trong việc làm chủ cõi vật chất trong các bầu cõi khi họ sa ngã, tức là các bầu cõi thứ tư, thứ năm hay thứ sáu. Một số các sa nhân đó đã dùng khả năng đồng-sáng tạo của họ để kiểm soát, tìm cách duy trì một cái gì hay một trạng thái nào, thay vì chịu buông bỏ một trạng thái giới hạn để đồng-sáng tạo một cái gì cao hơn.

19.1. Ghen tị phát khởi như thế nào

Đó là, như các thày đã giảng, nguyên lý căn bản của tiến trình đồng-sáng tạo. Con sáng tạo xuyên qua ý niệm bản ngã đương thời của con. Con trải nghiệm sự trải bày vật lý của sự sáng tạo đó. Sau đó, con cải thiện ý niệm bản ngã của mình, nâng nó lên cao hơn, và đồng-sáng tạo một cái gì hơn trước dựa trên ngã mới đó. Tiến trình này đòi hỏi con để cho ngã trước chết đi. Nếu con không chịu làm điều này thì con rơi vào tâm thái tìm cách duy trì hoặc ngã cũ hoặc trạng thái mà con đã đạt được trong cõi vật lý. Khi con chưa sa ngã thì con vẫn nhận được ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của con và con quả thực có thể dùng ánh sáng đó để sáng tạo tình trạng kiểm soát đó.

Một số các sa nhân nguyên thủy đã xây dựng ý niệm họ là những sinh thể cao nhất, tinh tiến nhất, thiện xảo nhất, uy dũng nhất trong ốc đảo nhỏ bé mà họ đã tự tạo cho họ. Họ thường có nhiều môn đồ khẳng định và công nhận họ cao cả, họ là người lãnh đạo, họ có uy quyền nhất. Họ có ý niệm bản sắc là sinh thể cao cả, và do đó họ không có nhu cầu ghen tị vì họ nghĩ họ ở địa vị cao nhất. Điều này tất nhiên chỉ xảy ra trên những thế giới mà các con gọi là hành tinh trong bầu cõi này. Lúc đó chỉ có một số nhỏ hành tinh nơi sa nhân được phép xây dựng các nền văn minh “tinh xảo” của họ.

Chỉ khi bầu cõi sẵn sàng thăng thiên thì sa nhân mới phải đối mặt với các chân sư thăng thiên. Chỉ lúc đó họ mới nhận ra là các tạo vật của họ, những gì họ đồng-sáng tạo, không cao cả như họ nghĩ. Sau đó, sa nhân sa xuống bầu cõi kế tiếp được tạo ra. Lúc đó, họ dần dần nhận ra, khi họ liên hệ với những sinh thể mới được tạo ra trong bầu cõi đó và một số sinh thể khác mà họ gặp (tương đương với các sinh thể mà ta gọi là avatar trong bầu cõi này) là họ bị cắt đứt khỏi Hiện diện TA LÀ của họ. Thực ra thì sa nhân không nhận ra điều này nhưng họ trải nghiệm có một số sinh thể khác có nhiều ánh sáng tâm linh hơn họ, nhiều năng lượng sáng tạo hơn họ.

Ta có thể nói là sa nhân không còn là người đồng-sáng tạo nữa vì họ không thể đồng-sáng tạo với Hiện diện TA LÀ, vì họ không còn nhận năng lượng sáng tạo từ Hiện diện TA LÀ của họ. Họ chỉ có thể phản-sáng tạo bằng cách lấy ánh sáng đã được mang vào thế giới, bầu cõi, nơi họ sinh sống. Họ không thể tạo tác cái mới, do đó họ tìm cách, một lần nữa, tạo ra đế quốc nơi họ có thể tôn mình lên địa vị lãnh đạo.

Những môn đồ đã sa ngã theo họ lại tôn vinh họ như lãnh đạo nên họ đã có thể xây dựng những đế quốc như vậy. Thỉnh thoảng một số sinh thể có ánh sáng tâm linh được gửi xuống các hành tinh, các đế quốc đó, để chứng minh cho sa nhân thấy là họ có cái gì mà những sa nhân, thoạt trông rất uy dũng, thiện xảo, không có. Đó là nguồn gốc của ghen tị. Sa nhân thấy ánh sáng nơi người khác, những người vẫn còn là người đồng-sáng tạo, và họ thèm muốn ánh sáng đó. Họ nhận ra ở tầng nào đó trong tâm họ, là họ không thể có ánh sáng đó khi họ còn trong tâm thức sa ngã. Họ không chịu buông bỏ tâm thức sa ngã nên họ không thể có ánh sáng đó.

19.2. Thù hận ánh sáng

Điều này dẫn họ tới điểm thù hận ánh sáng, thù hận các avatar, thù hận những người có khả năng đồng-sáng tạo. Giận dữ là một cảm xúc cùng cực, nhưng thù hận còn cùng cực hơn nữa. Giận dữ khiến con muốn trừng phạt người khác, còn thù hận khiến con muốn tiêu hủy họ. Sa nhân phát triển ý muốn tiêu hủy nhưng ý muốn này rất dính liền với lòng ghen tị vì họ nghĩ (hay con có thể nói là họ trải nghiệm) là họ không thể có điều mà các avatar và người đồng-sáng tạo có. Lẽ tất nhiên, họ có thể có ánh sáng nếu họ chịu buông bỏ ngã sa ngã và đi vào tiến trình dần dần thăng vượt các ngã, vươn lên tầng tâm thức cao hơn và như vậy nhận được lại ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của họ. Vì họ không chịu làm điều này nên họ trải nghiệm, theo tầm nhìn của họ, là họ không thể có ánh sáng.

Ngay khi sa nhân tới một hành tinh, như khi họ tới trái đất, thì họ lập tức đưa vào tâm thức nhị nguyên. Họ tạo ra phán xét giá trị giữa những người đúng, những nguời sai, những người cao cả hơn, những người thấp kém hơn, những người uy dũng nhất, thiện xảo nhất và những người không được xem là uy dũng, thiện xảo. Lúc đó, con có một lực lượng sa nhân năng động không nhất thiết muốn tiêu hủy các cư dân nguyên thủy của trái đất (vì họ thực sự muốn kiểm soát những người này) nhưng họ cũng muốn các cư dân nguyên thủy cảm thấy ghen tị sa nhân vì sa nhân có uy quyền và có phần nào khả năng điều ngự cõi vật chất.

Sa nhân tất nhiên tìm cách lấy chất độc mà họ đã mang theo họ và ta có thể nói, xuất cảng nó tới tất cả mọi người trên trái đất và đặt mọi người vào tâm thái so sánh. Lẽ tự nhiên, con chỉ có lòng ghen tị khi con ở trong tâm thức nhị nguyên và có tâm phán xét giá trị khiến con so sánh mọi thứ dựa trên thang điểm có hai đối cực, trong đó một bên tốt hơn bên kia. Cốt lõi ý tưởng có một điều gì tốt hơn điều khác bắt nguồn từ tâm thức nhị nguyên và chất độc ghen tị.

19.3. Khắc phục ghen tị

Thày là thuốc giải chất độc ghen tị và thuốc này được gọi là Minh triết Thành tựu Tất cả. Lẽ tự nhiên, từ một tầm nhìn nào đó, từ một tầng tâm thức nào đó, nó sẽ như sau: “Tôi trải nghiệm là trên trái đất có những người có cái gì mà tôi không có. Tôi mong muốn có cái đó. Vậy nếu tôi có Minh triết Thành tựu Tất cả của Amogasiddhi, thì tôi phải có quyền năng có được bất cứ điều gì tôi mong muốn trên trái đất, và khi đó tôi không phải cảm thấy ghen tị bất cứ ai vì không ai có gì hơn tôi.”

Đây là cách con người đã nhiều lần suy luận từ khi giáo lý này được trao truyền, nhưng Minh triết Thành tựu Tất cả không chính xác là như vậy. Thày muốn cho các con một vài ý tưởng về đề tài này. Khi con, như một người đang đầu thai trên trái đất, cảm thấy ghen tị, thì con đang cảm thấy ghen tị hay đó là một ngã tách biệt? Dựa trên giáo lý các thày, thì lẽ tất nhiên con biết đó là một ngã tách biệt cảm thấy như vậy. Các thày đã giảng gì về các ngã tách biệt? Chúng phóng chiếu là có một vấn đề cần giải quyết. Có một điều kiện cần được hoàn thành và sau đó con sẽ có được cảm giác nào đó.

Nói cách khác, con đang cảm thấy ghen tị, nhưng nếu con có được điều con thèm muốn, thì con sẽ không cảm thấy ghen tị nữa. Đó là lối suy luận của các ngã đó. Các ngã đó sẽ nói: “Hãy xin thày Amogasiddhi và được Minh triết Thành tựu Tất cả để ta có được điều kiện mà ta mong muốn, lúc đó bạn sẽ không cảm thấy ghen tị nữa. Bạn sẽ không cảm thấy ghen tị nữa khi ta, ngã tách biệt, có được điều ta mong muốn.”

Lẽ tất nhiên, Minh triết Thành tựu Tất cả cho phép con, như cái Ta Biết, bước ra ngoài ngã đó và thấy là điều ngã đó muốn lại là một thí dụ khác của mục tiêu bất khả thi, ước muốn bất khả thi. Ngay cả khi con có được điều mà ngã phóng chiếu là con phải có, thì con vẫn không khắc phục được chất độc ghen tị vì chính chất độc là chất độc.

Niềm tin con thèm muốn điều gì và con cần phải có điều gì chỉ là một ảo tưởng mà chất độc ẩn núp đằng sau. Đây là một sự phân biệt mà ngã không thể thấy. Nó chỉ có thể như một máy điện toán, được lập trình để theo đuổi một mục tiêu. Con thèm muốn uy lực, thì ngã phóng chiếu là con cần phải có uy lực. Con sẽ không bao giờ an bình khi con chưa có uy lực đó. Con yêu dấu, chính sự ghen tị những người có uy lực là chất độc, là điều kiện. Thày muốn cho con một hình ảnh tương tự: ta hãy giả dụ hầm nhà con ngập nước nhưng con không biết là hầm đầy nước. Trong nhà con có một người duy nhất đi xuống hầm, y biết là hầm đầy nước nhưng y không muốn cho con biết điều đó. Thay vào đó, y phóng chiếu vào tâm con hay nói với con là căn nhà của con cần một mái mới và khi con có một mái mới thì con sẽ cảm thấy thoải mái hơn.

Chúng ta giả sử ở đây là tuy con không biết một cách ý thức là căn nhà của con đầy nước nhưng con – bỗng nhiên – cảm thấy bất an khi ở trong nhà mình. Người kia phóng chiếu là nguyên do sự bất an là vì người hàng xóm có một mái mới tuyệt đẹp. Con cần có một mái tốt hơn họ, và sau đó con sẽ cảm thấy thoải mái trở lại. Nhưng nguyên do con cảm thấy bất an là vì hầm đầy nước. Mái nhà mới của con có kiểu cách thế nào chăng nữa thì con có thể rút nước khỏi hầm chăng? Không, vì chất độc vẫn còn đó và chuyện giản dị là có một ngã đang phóng chiếu ảo tưởng là con cần có điều mà ngã thèm muốn.

Nếu con ghen tị người có địa vị hay danh dự nào đó trong xã hội, thì ngã phóng chiếu là con cần danh dự đó, và sau đó con sẽ được bình an. Không phải sự thiếu danh dự khiến con bất an, mà đó là chất độc tâm linh ghen tị khiến con cảm thấy như vậy. Đó là lý do vì sao có được danh dự không chấm dứt lòng ghen tị. Chỉ khi con vứt bỏ chất độc thì con mới chấm dứt được sự bất an.

Làm sao con loại bỏ chất độc? Lẽ tất nhiên, một phần là con tới điểm thấy nó và hiểu chất độc là gì. Con hiểu có một ngã tách biệt đang dùng chất độc để phóng chiếu là con cần làm một điều gì, sau đó con tách mình ra khỏi ngã đó và buông bỏ nó. Phần kia là con đem thuốc giải vào bản thể mình, thuốc giải này có khả năng tiêu trừ, xua đuổi, làm tan biến chất độc. Đó là lý do vì sao các thày cống hiến sự trợ giúp của các thày, của tất cả các thày, để con có thể hòa điệu với bản thể các thày, và mở tâm, mở bốn thể phàm để đón nhận một dòng thuốc giải sẽ tiêu trừ chất độc. Mọi chuyện đều xoay vần chung quanh quyền tự quyết. Đó là lý do vì sao con cần thấy một số chuyện, nhận ra một số chuyện. Các thày sẽ giúp con tới điểm đó, con có thể tới điểm đó bằng cách dùng các giáo lý mà các chân sư khác đã trao truyền về ngã gốc, ngã tách biệt, vân vân.

19.4. Lòng ghen tị sa nhân

Các thày có nói là một số avatar đã có quan hệ nào đó với một số sa nhân – hai bên đã nảy sinh sự tương kính. Các avatar ngưỡng mộ khả năng làm chủ vật chất của sa nhân. Có một một số avatar có lòng ghen tị sa nhân vì sa nhân có tài kiểm soát vật chất, không phải đồng-sáng tạo mà kiểm soát. Đó là lý do vì sao Minh triết Thành tựu Tất cả có thể giúp con thấy là kiểm soát vật chất thực ra không phải là một thành tựu cao. Nó chắc chắn không phải là một thành đạt thành tựu tất cả, cho dù những gì sa nhân có thể làm được trên một hành tinh như trái đất trông có vẻ vĩ đại. Những gì con có thể thành tựu qua tư duy kiểm soát, tư duy sa ngã, tư duy nhị nguyên, có giới hạn. Tất cả những gì con sáng tạo – phản-sáng tạo  – xuyên qua tư duy sa ngã sẽ chịu định luật thứ nhì của nhiệt động học, như các thày có gọi quy luật này, hay là Thịnh nộ của Shiva, hay là lực co thắt của đấng Mẹ. Nói cách khác, nó sẽ có một đối cực. Sẽ có sự căng thẳng giữa hai đối cực, và rốt cuộc chúng sẽ tiêu hủy lẫn nhau.  

Sa nhân càng có nhiều uy quyền, thì uy quyền này sẽ tạo sự chống đối càng lớn. Do đó, rốt cuộc sẽ tới điểm các thành tựu của hai bên sẽ tiêu trừ lẫn nhau. Đây không phải là thành tựu thực sự. Thành tựu thực sự đạt được qua tiến trình đồng-sáng tạo qua đó con đồng-sáng tạo xuyên qua ngã hiện tại của con, dùng phản hồi để nới rộng ý niệm bản ngã và sau đó đồng-sáng tạo cái gì hơn nữa. Con có thể tiếp tục tiến trình này mãi mãi vì khi con đồng-sáng tạo thì con không tạo ra sự đối kháng chống lại tạo vật của con.

Minh triết Thành tựu Tất cả sẽ chỉ cho con thấy sự khác biệt giữa phản-sáng tạo và đồng-sáng tạo và qua đó giúp con thấy là, như một avatar, con có ước muốn chân thực muốn cải thiện chính mình, muốn tăng trưởng ý niệm bản ngã, muốn gia tăng các thành tựu, nhưng điều này chỉ có thể tác thành qua sự đồng-sáng tạo, chứ không phải qua sự phản-sáng tạo. Cảm giác thành tựu thật mà con có thể có là nhận ra, như Giê-su đã chứng minh, con không thể tự mình làm gì cả bằng ngã vỏ ngoài, ngã hạn hẹp mà con khoác vào khi ở trên trái đất. Chỉ khi con nối kết với cái ta cao của con, với Hiện diện TA LÀ của con, thì con mới thật sự đồng-sáng tạo.

19.5 Ghen tị Giê-su

Một đề tài khác mà thày muốn nêu lên ở đây là có một số người đồng-sáng tạo, một số avatar, có lòng ghen tị các avatar khác. Tỷ dụ, một chuyện thông thường là các avatar có lòng ghen tị Giê-su hay đức Phật hay một số người khác được công chúng biết đến vì một lý do tích cực nào đó.

Chúng ta hãy chú tâm ở đây vào trường hợp Giê-su. Các giáo hội Thiên chúa giáo đã xây dựng một sự sùng bái Giê-su vĩ đại, và các giáo hội này đã do sa nhân dàn dựng lên để là công cụ cho họ. Ngay cả một số đệ tử tâm linh, kể cả đệ tử chân sư thăng thiên, vẫn sùng bái Giê-su. Quyển sách mới xuất bản, Các kiếp sống của tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su, đã tìm cách phá vỡ sự sùng bái đó và cho các con thấy là Giê-su là một avatar, và các con cũng là avatar, và Giê-su có nói: “Công việc ta làm, các con cũng có thể làm.”  Các chân sư thăng thiên luôn luôn nói: “Việc một người đã làm, tất cả đều làm được.” Điều này cần được hiểu trong khung cảnh những giới hạn của thực tại thực tiễn trên một hành tinh như trái đất.

Điều thày muốn nói ở đây là dù con không biết một cách ý thức là con là một avatar, thì con có cảm giác vi tế, nội tại, trực nhận là: “Tại sao Giê-su lại được nâng lên địa vị khuôn mặt tâm linh cơ yếu của thời Song ngư?” Nhiều người trong số các con có thể cảm thấy trong mình có một ngã nói: “Tại sao là Giê-su mà không phải là tôi?” Giờ đây, con nên hiểu lý do vì sao con có thể cảm thấy như vậy là vì ở một tầng nào đó của bản thể của con (không phải ở tầng ý thức), con nhận ra mình là một avatar, Giê-su cũng là một avatar, và do đó con có tiềm năng đảm trách địa vị mà Giê-su đã đảm trách.

Con biết, ở một tầng nào đó của bản thể của con, là sa nhân đã không nói sự thực khi họ nói rằng: “Giê-su rất độc đáo và quá khác biệt nên bạn không thể nào làm được những gì Giê-su đã làm.” Con có cảm giác nội tại là Giê-su đã nói sự thật khi thày nói là con có thể làm công việc mà thày đã làm. Vì con bị chấn thương nhập đời (hay vì con đã tạo ra ngã gốc, hay vì con muốn bù đắp những mất mát mà con cảm thấy mình đã phải gánh chịu khi xuống trái đất), nên điều này đã khiến con muốn nâng mình lên, chứng minh giá trị của mình, chứng minh vì sao việc con tới trái đất là đúng. Các ý tưởng đó có thể khiến con dấy lên lòng ghen tị: “Vì sao là Giê-su, mà không phải là tôi?”

Đây là chỗ con có thể dùng Minh triết Thành tựu Tất cả để nhận ra là có một thực tại thực tiễn trên trái đất. Có trình tự các chu kỳ nối tiếp nhau. Khi mỗi chu kỳ khai mở, ít ra là khi Thời đại Song ngư khai mở, cần có một người hiện thân các khai ngộ của Thời đại Song ngư.

Chúng ta bây giờ đang bước vào Thời đại Bảo bình, được gọi là thời đại cộng đồng. Do đó, trong Thời đại Bảo bình không có nhu cầu có một người là tấm gương cao cả. Nhưng quả thực là có nhu cầu có nhiều người nêu gương thế nào là Ki-tô trong Thời đại Bảo bình. Trong thời Song ngư có nhu cầu có một người thể hiện tiềm năng là Ki-tô trong thời Song ngư, vì tình trạng của hành tinh và tâm thức tập thể lúc đó. Vì một số lý do, và các thày đã diễn bày một số các lý do đó trong quyển Các kiếp sống của tôi, Giê-su là người được lựa chọn, và đã chọn lựa nâng mình lên tới điểm có thể đảm trách địa vị đó. Minh triết Thành tựu Tất cả có thể giúp con thấy thực tại thực tiễn đó, và nó cũng có thể giúp con nhìn xa hơn và thấy là các thành đạt của Giê-su không làm giảm đi những thành đạt của chính con. Con là một thành viên của mạn đà la các avatar đã tới hành tinh này. Dù các con có thể đã tới từ những hành tinh khác nhau nhưng các con đều thuộc mạn đà la đó. Mạn đà la đó dựa trên cái Một và điều một thành viên của mạn đà la đạt được sẽ nâng tất cả lên. Con, như một avatar, không có lý do gì để ghen tị những thành đạt của Giê-su vì con đã dự phần vào thành đạt đó – nếu con chấp nhận mình thuộc mạn đà la đó.

Do đó, cũng không có lý do gì để một người trong nhóm các con ghen tị người khác trong nhóm. Có một số người đã đến đây, trải nghiệm việc vị sứ giả này nhận bài truyền đọc, và một phần trong họ đã cảm thấy: “Tại sao là ông ta mà không phải là tôi?” Một số người đã bỏ đi vì họ không giải quyết được lòng ghen tị đó, một số đã nổi giận, một số đã tìm cách hạ bệ người sứ giả và chỉ trích ông điều này điều nọ.

Đây chắc chắn là điều đã xảy ra trong các đợt truyền giáo trước, và quả thực là trong đợt truyền giáo kế trước vị sứ giả đã phải cam chịu nhiều hơn rất nhiều. Một số người đã nghĩ họ có thể làm một sứ giả tốt hơn bà, và đã chỉ trích bà là không giỏi đủ, phạm lỗi lầm này hay lỗi lầm nọ, có biệt tật này hay biệt tật nọ, vân vân và vân vân. Một số những người đó là sa nhân không sẵn sàng cải tạo chính mình, nhưng một số đã là avatar.

Điều con cần nhận ra ở đây là con có tiềm năng thấy là lòng ghen tị đó đến từ một ngã tách biệt mà con đã tạo ra vì con cần bù đắp cảm giác mất mát khi con tới trái đất. Nếu con đối mặt ngã đó và khắc phục nó, thì con sẽ khắc phục được lòng ghen tị người sứ giả. Con có thể thấy là con thuộc mạn đà la và do đó con có một món quà độc đáo mà con có thể mang lại trong Thời đại Bảo bình. Con có thể làm điều này bằng cách cộng tác với vị sứ giả, nhưng con cũng có thể đi ra ngoài xã hội và đem lại món quà của riêng con.

19.6. Chú tâm vào món quà độc đáo của con

Khi con sử dụng Minh triết Thành tựu Tất cả thì con nhận ra là điều con thật sự tới đây để hoàn thành không phải là mục tiêu đã được quy định bởi các ngã tách biệt phát xuất từ ngã gốc. Các mục tiêu đó đều là mục tiêu giả sẽ không giúp con cảm thấy mình đã hoàn thành lý do vì sao mình tới trái đất.

Con cần làm điều mà các thày đã giảng: nhìn vào động cơ thúc đẩy mình tới đây, nhận ra nó không nhất thiết là động cơ cao nhất đã thúc đẩy con và nhận ra là, trước tiên hết, lý do thực đưa con tới trái đất là tăng triển sự tự nhận biết của mình. Đây là nguyên do cận kề hay là lý do omega. Lý do alpha là con tới trái đất để là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con, qua đó con có thể mang vào bát cung vật lý món quà độc đáo của con. Khi con nhận ra là sự thành tựu tất cả của con là mang lại món quà độc đáo của mình, thì con cũng nhận ra là tuyệt đối không có lý do gì để con ghen tị người khác khi người đó đang biểu lộ món quà độc đáo của họ.

Tất cả các con và mỗi người trong các con đã tới đây như một avatar đều có tiềm năng đem lại cho hành tinh này một món quà tuyệt đối độc đáo. Như các thày có nói: “Trong cái độc đáo không thể có so sánh, và khi không có so sánh thì không thể có ghen tị.” Những gì Giê-su đã làm không tốt hơn hay quan trọng hơn những gì con có thể đem tới. Những gì người sứ giả này đang làm không tốt hơn hay quan trọng hơn món quà của con. Tất cả các con – món quà của các con đều quan trọng như nhau.

Con có thể cần sử dụng Minh triết Bình đẳng để thấy là Thượng đế không phân biệt và đặt phán xét giá trị lên các người đồng-sáng tạo đang là biểu hiện của Tâm Một. Khi con thực sự áp dụng Minh triết Phân biện, con có thể thấy là một Hiện diện TA LÀ không hơn một Hiện diện TA LÀ khác. Không có phán xét giá trị nào áp dụng cho các Hiện diện TA LÀ. Mỗi Hiện diện đều độc đáo.  

Câu hỏi duy nhất – quả thật vậy – có thể đặt ra cho con là: “Cánh cửa của tôi mở đến độ nào cho Hiện điện TA LÀ của tôi?” Nếu con nhìn một người khác và có thể thấy: “Ồ, cánh cửa cho Hiện diện của người này rộng mở hơn là cánh cửa của tôi,” thì lúc đó thay vì khởi lên lòng ghen tị, con nói: “Nhưng tôi chỉ cần nhìn vào các ngã tách biệt mà tôi có đang ngăn chặn tôi là cánh cửa mở, đang đóng lại các khe mở, đang lọc lựa đi những gì đến từ Hiện diện TA LÀ của tôi. Khi tôi loại trừ các ngã đó thì tôi đạt được thành tựu tất cả là cánh cửa hoàn toàn mở cho Hiện diện TA LÀ của tôi, và đây là điều cho tôi ý niệm thành đạt tối hậu trên trái đất. Tất cả những mục tiêu kém hơn do các ngã tách biệt quy định đều là mục tiêu giả và chúng sẽ không cho tôi cảm giác thành đạt tối hậu, cảm giác mãn nguyện tối hậu, cảm giác an bình tối hậu với việc mình ở trên trái đất, đã tới trái đất, đã mang lại món quà và vĩnh viễn rời bỏ trái đất khi thăng thiên.

Đó là điều thày cống hiến các con, nếu các con hòa điệu với thày xuyên qua Minh triết Thành tựu Tất cả. Con quả thực có thể thành tựu mọi điều trên trái đất, không phải tất cả những điều mà các ngã tách biệt của con mong muốn, hay người khác mong muốn, hay sa nhân đã phóng chiếu là con phải mong muốn. Nhưng là tất cả những điều mà Hiện diện TA LÀ của con mong muốn hoàn thành xuyên qua con, và con, như cái Ta Biết, mong muốn hoàn thành khi con nhận ra con là một sinh thể vô hình tướng và con không đồng hóa với các ngã tách biệt – con để chúng chết đi. Con yêu dấu, khi cái Ta Biết là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ, thì nó không trở thành một người máy, một con rối bị giựt dây. Con vẫn còn những chọn lựa mà con phải lấy như cái Ta Biết: con muốn hoàn thành những gì, con muốn trải nghiệm những gì, con muốn vui hưởng những gì. Con không lấy những chọn lựa này xuyên qua sự đồng hóa với một ngã tách biệt. Con lấy chọn lựa tự do trong cương vị một sinh thể vô hình tướng về những gì con muốn trải nghiệm trong hình tướng, những gì con muốn hoàn thành trong hình tướng, những gì con muốn vui hưởng khi vẫn còn trong xác thân vật lý. Đây là những chọn lựa tự do và là những ước muốn chính đáng. Không có gì sai trái khi một cái Ta Biết có ước muốn trải nghiệm một sắc thái nào đó của đời sống trên trái đất, muốn hoàn thành cái gì đó trên trái đất, muốn vui hưởng cái gì đó khi còn hiện thân trong cõi vật lý. Đây là một chọn lựa tự do mà con lấy. Không phải là một chọn lựa mà con bị một ngã tách biệt bắt buộc phải lấy và không bao giờ đem lại cho con cảm giác thành đạt, vui sướng và an bình khi sống ở đây.

Các con yêu dấu, bài giảng này đã đem lại cho thày một cảm giác thành đạt vì thày đã được phép đem lại món quà này và các con đã sẵn lòng nhận nó. Dòng chảy hình số tám đã khép và thày tri ân con đã giúp nó có mặt.

21 | Ý chí của Hiện diện TA LÀ là ý chí của con

Chân sư Thăng thiên Vajrasattva qua trung gian Kim Michaels, ngày 23 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

Ta chính thật là Phật Vajrasattva. Thày là thuốc giải của chất độc không-muốn và không-là. Vậy, các chất độc này là gì? Ấy, các thày đã trao truyền cho các con những giáo lý rất thâm sâu về quyền tự quyết. Thành thật mà nói, các giáo lý về quyền tự quyết này vượt quá tất cả những gì đã được trao truyền trước đây trên hành tinh này. Thày không nói như vậy để đề cao giáo lý này nhưng để giúp con nhận định là có nhiều chuyện để con suy ngẫm, vì cách duy nhất để khắc phục không-muốn và không-là là có một hiểu biết sâu sắc về luật tự quyết hơn đa số con người trên trái đất.

21.1. Quyền tự quyết vừa có giới hạn vừa tự do

Thày mong muốn cho con một cái nhìn về chủ đề này. Điều mà các thày đã giảng là đấng Sáng tạo tạo ra những sinh thể đồng-sáng tạo như các phần nối dài có tự nhận biết của chính Ngài, và Ngài cho các sinh thể này quyền tự quyết. Quyền tự quyết. Giờ đây, đa số con người trên trái đất, khi nghe khái niệm hay cụm từ “quyền tự quyết”, thì họ nghĩ là lúc nào ý chí của họ cũng có giới hạn, lúc nào các chọn lựa của mình cũng có giới hạn, những chọn lựa mà con có thể chọn. Như các thày có giảng, điều này đúng theo nghĩa khi con khởi sự như một người đồng-sáng tạo, con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật xuyên qua ý niệm bản ngã của con lúc đó, và Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ trải bày sự phóng chiếu đó.

Ý niệm bản ngã đương thời của con giới hạn quyền tự quyết của con theo nghĩa ý niệm bản ngã của con giới hạn những gì con có thể thấy, hình dung, tưởng tượng. Quyền tự quyết bị giới hạn theo nghĩa các chọn lựa mà con có thể thấy bị giới hạn bởi viễn quan, tầm nhìn của ý niệm bản ngã đương thời của con. Không có giới hạn theo nghĩa con được tự do thăm dò bất cứ gì con có thể làm như một người đồng-sáng tạo trên một hành tinh chưa thăng thiên.

Điều này có nghĩa con được tự do nâng ý niệm bản ngã của mình lên, nới rộng ý niệm bản ngã đó tới mức tối đa có thể đạt được trong một bầu cõi chưa thăng thiên, để sau đó con thăng thiên. Sau đó, lẽ tất nhiên con có thể tiếp tục thực thi ý chí của mình trên cõi thăng thiên. Sự thực là ý chí của con sẽ tự do hơn, tuy sự tự do này khác những gì con có thể hình dung khi vẫn còn hiện thân trong cõi vật lý.

Bằng cách dùng quyền tự quyết con cũng có chọn lựa đi ngược lại và giới hạn ý niệm bản ngã của mình, thậm chí đi vào nhị nguyên, tạo ra một ngã tách biệt và sau đó thăm dò toàn bộ những gì con có thể hình dung và làm xuyên qua ngã tách biệt đó. Giờ đây, có người sẽ nói: “Nhưng tôi không có quyền tự do hoàn toàn làm bất cứ gì tôi muốn xuyên qua ngã tách biệt vì có luật nhân quả, hay vì có những giới hạn khác, hay vì người khác, hay vì cách Ánh sáng Mẫu-Vật vận hành. Nói cách khác, những chọn lựa trước của tôi giới hạn những chọn lựa đương thời của tôi, và như vậy tôi không thực sự có quyền tự quyết.”

Ấy, như các thày có giảng trước đây, thực tại đơn giản là nếu con lấy một chọn lựa và chọn lựa này không có hậu quả, thì con đã không thực sự chọn lựa. Khi con chọn lựa phóng chiếu xuyên qua ý niệm bản ngã đương thời của con, thì nếu Ánh sáng Mẫu-Vật không gửi trả lại con tín hiệu nào, không trải bày những gì con phóng chiếu lên nó, thì con đã không thực sự lấy một chọn lựa. Như các thày cũng có giảng, những gì con đang trải nghiệm trong thế giới vật chất là kết quả của những gì con đã phóng chiếu xuyên qua ý niệm bản ngã của con.

Con có chọn lựa nới rộng ý niệm bản ngã đó. Không phải chỉ những điều con nhận trở lại như hoàn cảnh vật lý sẽ thay đổi (ít ra là dần dần thay đổi), mà cách con trải nghiệm những thay đổi vật lý đó sẽ thay đổi ngay tức khắc khi con thay đổi ý niệm bản ngã của mình. Tuy con trải nghiệm hậu quả của những chọn lựa của mình, nhưng con vẫn có quyền tự do thăng vượt hay hạn chế ý niệm bản ngã của mình, thăng vượt hay hạ xuống.

21.2. Định nghĩa của không-muốn

Tuy nhiên, có một trường hợp đặc biệt mà thày muốn giảng cho các con. Thày sẽ bắt đầu, như một thí dụ, với trường hợp các sa nhân. Trong bầu cõi thứ tư có một số sinh thể đã dùng khả năng đồng-sáng tạo của họ, kể cả ánh sáng mà họ nhận được từ Hiện diện TA LÀ của họ, để bắt đầu tạo tác một cách kiểm soát thay vì sáng tạo. Họ đã tạo dựng cho họ một số hành tinh nơi họ đã xây dựng những nền văn minh rất tinh xảo, nhưng có nền văn hóa và môi trường rất kiểm soát. Đây là một cấu trúc rất có thứ bậc, trong đó một hay vài sa nhân có quyền lực tuyệt đối trên hàng tỷ người đầu thai trên hành tinh đó.

Chuyện xảy ra với các sinh thể đó là họ bắt đầu nghĩ họ có thể làm bất cứ gì họ muốn mà không phải chịu hậu quả, vì có thể nói là dân chúng tuân theo họ và nhiều khi gánh chịu hậu quả việc làm của các lãnh tụ. Các lãnh tụ có thể ngồi trong tháp ngà, như con thấy các nhà vua hay hoàng đế thời xưa, và dân chúng làm mọi công việc và lãnh chịu mọi vấn đề. Các lãnh tụ có thể xây dựng ảo tưởng là quyền tự quyết có nghĩa là họ có thể làm bất cứ gì họ muốn mà không phải chịu hậu quả.

Lúc đó, ảo tưởng này có thể khiến các sinh thể đó có tâm thái đặc biệt đặt trọng tâm vào chính họ. Tuy họ chưa là sa nhân, nhưng họ trở nên quá vị kỷ đến độ có thái độ, có niềm tin rằng: “Nếu tôi thực sự có quyền tự quyết, nếu tôi – như chỉ riêng tôi, như một sinh thể tách biệt – thực sự có quyền tự quyết, thì toàn thể vũ trụ phải tuân phục ý chí của tôi.” Ta có thể nói đây là sự trải bày tối hậu của quyền tự quyết. Đây cũng là ảo tưởng tối hậu của quyền tự quyết và quả thật đó là sự chối bỏ quyền tự quyết và do đó là định nghĩa của không-muốn.

Những sinh thể trong bầu cõi thứ tư đó có ảo tưởng, dựa trên trải nghiệm của họ trên hành tinh của họ, và vì hành tinh đó đa phần tuân theo ý chí của họ, là toàn thể vũ trụ cũng phải tuân theo như vậy. Lẽ tất nhiên, họ không nhận ra là phần còn lại của bầu cõi đang thăng thiên và đã gần tới điểm thăng thiên. Họ không nhận ra ảo tưởng của họ cho tới khi các chân sư thăng thiên khiến họ phải đối mặt với ảo tưởng đó. Họ bỗng nhiên tỉnh ngộ và họ quyết định là nếu toàn thể vũ trụ không tuân theo ý chí của họ như một cá nhân, thì họ không thực sự có quyền tự quyết. Do đó, đấng Sáng tạo đã lừa họ, đây là một sự gian dối, họ đã không thực sự nhận được quyền tự quyết.

21.3. Ảo tưởng không-muốn

Giờ đây, lẽ tất nhiên con có thể thấy là ảo tưởng này chỉ có thể khởi lên nơi một sinh thể hoàn toàn coi mình là trọng tâm của vũ trụ, không tôn trọng, không có tình anh em, không có sự hợp nhất, không có lòng từ bi đối với tất cả các sinh thể khác. Họ cư xử như thể đây là một hành tinh với hàng tỷ người sống trên đó và tất cả những người đó phải tuân phục ý chí của một cá nhân.

Xa hơn nữa, họ cũng nói là tất cả các tỷ hành tinh khác trong bầu cõi, với không kể siết tỷ tỷ sinh thể, cũng đều phải tuân theo ý chí của họ. Hơn thế nữa, cõi thăng thiên đã thăng thiên và trở nên thường hằng cũng phải tuân phục ý chí của một cá nhân đó. Đấng Sáng tạo phải tuân phục ý chí của một cá nhân đó. Lẽ tất nhiên, ta có thể nói đây là sự trải bày cùng cực của quyền tự quyết. Con có thể đặt mình vào trạng thái tách biệt, trạng thái coi mình là trọng tâm cùng cực đến độ con tin rằng toàn thể vũ trụ, toàn thể cõi tâm linh, và đấng Sáng tạo đều phải tuân phục ý chí của con.

Lẽ tất nhiên, điều này có nghĩa là con tin rằng tất cả những sinh thể khác, kể cả các chân sư thăng thiên và đấng Sáng tạo, phải đình chỉ quyền tự quyết của họ để cho con ảo tưởng là ý chí của con hoàn toàn tự do. Lẽ tất nhiên, đây là một sự hiểu lầm hoàn toàn chỉ có thể có khi con ở trong trạng thái tách biệt dựa trên nhị nguyên.

Khi các sinh thể này phải chạm trán các chân sư thăng thiên, thì một số thực sự nhận ra ảo tưởng của họ. Một số nhận ra điều này và do đó họ được trợ giúp và được thăng thiên cùng với phần còn lại của bầu cõi. Những sinh thể không chịu thấy ảo tưởng, mà chối bỏ đây là ảo tưởng, thì sa ngã và lúc đó họ rơi vào một tình trạng hoàn toàn khác.

Trước đó, họ vẫn nhận được ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của họ. Họ tha hóa ánh sáng đó với tâm thức nhị nguyên và họ dùng ánh sáng để không những xây dựng ý niệm họ là sinh thể tách biệt quan trọng hơn tất cả các sinh thể khác, mà còn dùng hết khả năng để kiểm soát người khác và thậm chí kiểm soát cả vật chất. Giờ đây thì họ đầu thai vào bầu cõi kế tiếp được tạo ra. Bầu cõi này dày đặc hơn bầu cõi trước. Bỗng nhiên, khả năng kiểm soát vật chất mà họ có trước đó không còn mạnh mẽ như trước.

Cùng lúc họ không nhận được ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của họ, do đó họ không thể vượt qua sự dày đặc của vật chất như họ đã làm được trong bầu cõi đầu của họ. Lúc đó, họ trải nghiệm là họ không thể duy trì ý niệm: “Tôi là người duy nhất có tầm quan trọng và toàn thể vũ trụ phải tuân phục những chọn lựa của tôi.” Lý do họ không thể duy trì ý niệm này là vì, trong bầu cõi mà họ sa vào, họ không có nhiều uy lực bằng khi họ sống trong bầu cõi đầu của họ.

21.4. Nguồn gốc của không-là

Điều này khiến một số sa nhân đã rất tức giận và họ đi vào tâm thái quyết định là họ sẽ làm hết sức mình để chứng tỏ là đấng Sáng tạo sai, chứng tỏ là đấng Sáng tạo đã sai lầm khi ban cho con người quyền tự quyết, và dùng mọi cách để chứng tỏ là đấng Sáng tạo sai. Điều này tất nhiên đặt họ vào một cuộc tranh chấp kịch liệt đã khiến cuộc sống của họ càng thêm khó khăn, khiến tâm thái họ càng thêm căng thẳng. Điều này có nghĩa, như các thày có giảng về định luật, là họ càng ngày càng tạo thêm nhiều chống đối. Điều này được trải bày trên một số hành tinh nơi sa nhân tụ tập trong bầu cõi mà sa nhân rơi vào. Trong bầu cõi trước, hoặc có một sinh thể hay có một số nhỏ nắm quyền kiểm soát một hành tinh và họ đã có thể đồng ý phân chia quyền lực.

Điều này không còn xảy ra trong bầu cõi nơi họ sa vào. Lúc nào cũng có ít nhất hai sa nhân trên một hành tinh và họ không thể đồng ý với nhau. Điều này có nghĩa là nay các sa nhân chống đối lẫn nhau và họ tranh chấp quyền lực với nhau khiến cuộc sống của họ càng căng thẳng hơn, càng nặng nề hơn. Họ càng ngày càng cần gắng sức hơn để xây dựng cảm giác là họ làm chủ tình hình.

Lúc đó có một số sa nhân đã dấn thân vào cuộc tranh chấp quyền lực đó, dùng tất cả năng lượng và chú tâm của họ để đánh bại đối thủ hay chứng minh Thượng đế sai hay bất cứ chuyện gì khác. Có một số khác, ít ra là tạm thời, đã chán ngán cuộc tranh chấp quyền lực. Vì họ không chịu từ bỏ ảo tưởng là vũ trụ phải tuân phục ý chí của họ, và vì vũ trụ hiển nhiên không tuân phục ý chí của họ, nên họ quyết định là họ không muốn sống ở đây. Họ không muốn tham gia vào cuộc sống trong vũ trụ này.

Đây là lúc họ tạo ra và đi vào tâm thái không-là. Họ không muốn hiện hữu, họ không muốn có ý thức, họ không muốn có nhận biết. Ta có thể nói chất độc này có hai mặt hay ta cũng có thể nói là có hai chất độc. Con có hiện tượng này trong tất cả các bầu cõi nơi sa nhân đã sa vào, họ đã tạo ra động lượng rất mạnh mẽ của không-muốn và không-là.

21.5. Sự bí ẩn của không-muốn

Động lượng không-muốn không nhất thiết có nghĩa là con không có ý chí. Có một số người trên trái đất, thường không phải là sa nhân, bị ảnh hưởng bởi chất độc không-muốn đến độ họ không còn ý chí. Con có thể nói đây là trường hợp của những người đã thần phục sa nhân. Họ đi vào trạng thái không-muốn, từ bỏ ý chí của họ để tuân theo ý chí của sa nhân.

Sa nhân không đi vào tâm thái không có ý chí. Họ có ý chí lầm lạc khi họ tìm cách ép buộc vũ trụ phải tuân theo ý chí của họ. Đây là không-muốn theo nghĩa nó đi ngược lại toàn bộ mục đích của luật tự quyết là khi con phóng chiếu điều gì lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ trải bày những gì con phóng chiếu. Điều này cho con tiềm năng nới rộng ý niệm bản ngã của mình và do đó nâng cách con thực thi quyền tự quyết.

Trên căn bản, con khiến ý chí của con được tự do hơn khi con nới rộng ý niệm bản ngã của mình. Khi con thu hẹp ý niệm bản ngã thì con khiến ý chí của mình kém tự do tuy rằng con có thể tưởng lầm là mình có thêm quyền lực vì người khác quy phục ý chí của họ dưới ý chí của con – nhưng đây chỉ là một ảo tưởng. Ý chí của con trở nên ngày càng hạn hẹp hơn khi con giới hạn ý niệm bản ngã của mình, con giới hạn những gì con có thể thấy.

Giờ đây con có thể nói đây là một sự nghịch lý vì một số sa nhân thực sự có nhiều hiểu biết về cách vũ trụ vận hành hơn nhiều người trên trái đất. Đúng vậy, vì họ đã thu nhập được hiểu biết này qua nhiều kiếp sống trong nhiều bầu cõi. Điều con cần nhận ra là đây không phải là hiểu biết cao nhất về vũ trụ. Đó là một hiểu biết được thu nhập qua một kinh nghiệm rất dài dùng ngã tách biệt.

Họ không thực sự hiểu cách vũ trụ vận hành, nhưng họ hiểu cách vật chất vận hành. Do đó, họ học được qua kinh nghiệm họ vận dụng vật chất với tâm thức sa ngã và cách đánh cắp ánh sáng từ các sinh thể khác thay vì nhận ánh sáng từ cõi tâm linh. Theo nghĩa đó, họ có đôi chút hiểu biết, họ có đôi chút thiện xảo. Họ có thể có nhiều hiểu biết trên mặt trí thức nhưng đây không phải là hiểu biết thực sự. Đây không phải là hiểu biết phát xuất từ một ý niệm bản ngã nới rộng. Ta có thể nói là có hiểu biết, có minh triết, có hiểu biết trí năng và có trải nghiệm trực tiếp, trải nghiệm trực giác, trải nghiệm thần bí về một trạng thái tâm thức cao hơn.

21.6. Avatar và không-muốn

Sau đó trên trái đất ta có hoàn cảnh các avatar xuống đây và gặp gỡ sa nhân. Lúc đó, tình trạng của một avatar đã tiến hóa trên hành tinh tự nhiên là gì? À, như một avatar, con không có ý niệm mình là một sinh thể tách biệt. Con có ý niệm mình là một sinh thể cá biệt và một số avatar đã trải nghiệm là họ đã tự nâng họ lên trên mức trung bình trong môi trường sống của họ, và họ đã có được khả năng cao hơn những sinh thể khác trên hành tinh tự nhiên của họ.

Họ đã có đôi chút khả năng điều ngự, có cảm giác là họ có thể khiến vật chất tuân phục ý chí của họ. Điều này không có nghĩa là người avatar đã phát triển ý tưởng là toàn thể vũ trụ phải tuân phục ý chí của mình, vì người đó biết mình là một phần của tổng thể rộng lớn hơn. Trên một hành tinh tự nhiên con không thấy sự mâu thuẫn giữa việc con thực thi ý chí của mình và những sinh thể chung quanh mình thực thi ý chí của họ. Trên một hành tinh tự nhiên sự mâu thuẫn đó không có. Sau đó, chuyện xảy ra là người avatar, vì một số lý do (không phải với tâm thức sáng ngộ), đã quyết định đi xuống trái đất.

Con xuống đây như một avatar và trước khi con xuống đây, con có ý muốn tạo một thay đổi tích cực trên trái đất. Con rất tự tin là con có thể thực hiện điều này vì con đã quen, khi ở trên một hành tinh tự nhiên, là khi con chuyên cần thì con có thể thể hiện bất cứ gì mình hình dung. Lúc đó, con không nhất thiết hình dung là con muốn xuống đây và trừ khử mọi xấu ác trên trái đất, nhưng đa số các avatar chú tâm vào một vấn đề đặc trưng. Họ quyết định xuống đây để trừ khử một hình thức khổ đau cá biệt, và họ có nhiều tự tin là họ sẽ thực hiện được điều đó. Không nhất thiết là bằng cách làm việc đơn độc vì đôi khi các avatar quyết định xuống đây như một nhóm.

Con tới đây với lòng tự tin là con có thể thực hiện mục tiêu. Sau đó, con tới đây và con trải nghiệm, thứ nhất: sa nhân và cách họ tấn công con, tìm cách hủy tiêu diệt con, và thứ hai: nhân loại nói chung và các cư dân nguyên thủy của trái đất không sẵn sàng chấp nhận những gì con đem lại như con nghĩ. Bỗng nhiên, lần đầu tiên trong cuộc đời một avatar, con bắt đầu hoài nghi có thể thực hiện mục tiêu của mình, có thể thực sự thể hiện ý chí của mình.

Đây cũng là một cú sốc và một phần của chấn thương nhập đời, khi con không thể hiểu vì sao bỗng nhiên vật chất không tuân phục ý chí của con. Con đã không nhận ra độ dày đặc của trái đất, so sánh với những gì con biết trên hành tinh tự nhiên. Con cũng không hiểu tại sao con người không đáp ứng lại ý chí của con và những cố gắng trợ giúp của con, tuy con đang chỉ cho họ thấy một cách rõ ràng để thoát khổ đau.

Bỗng nhiên, con bắt đầu hoài nghi: “Tôi có thể thực sự thực hiện mục tiêu đã khiến tôi đến đây chăng, và nếu tôi không thể, thì tôi chắc hẳn đã sai lầm khi tới đây. Tôi chắc hẳn đã sai lầm khi quyết định tới đây.” Một avatar khó đối phó với tình trạng này vì trên một hành tinh tự nhiên con không bao giờ nghi ngờ khả năng thực hiện những gì con hình dung và con không bao giờ cảm thấy mình đã lấy một quyết định sai. Con không bao giờ cảm thấy mình đáng lý không nên lấy quyết định đó.

Lúc đó, con bắt đầu nghi ngờ quyết định tới trái đất. Con cảm thấy đây là một quyết định sai, và cảm giác này có phần do con ở trên một hành tinh dày đặc nơi nhị nguyên thịnh hành. Do đó, con bắt đầu tự hỏi: “Vì ý chí con người trên trái đất quá thiếu tự do, vậy thực thi ý chí của tôi trên hành tinh này có ích lợi gì?” Khi con gặp sự chống đối của sa nhân và thấy là họ muốn tiêu diệt con, thấy họ nói với con là con không có quyền ở đây, con không có quyền thách thức họ. Khi con gặp sự thờ ơ của các cư dân trên trái đất, thì con có thể (không phải tất cả, nhưng có nhiều, các avatar đã làm như vậy) tạo khe hở trong tâm mình để chất độc không-muốn xâm nhập, chất độc này do sa nhân tạo ra và mang vào hành tinh này.

Bỗng nhiên con bắt đầu cảm thấy: “Bày tỏ ý chí của tôi trên hành tinh này có ích lợi gì chăng? Có lẽ tôi không nên thách thức sa nhân. Để sống còn, có lẽ tôi không nên thách thức sa nhân, để tránh bị họ giết và tra tấn trong mọi kiếp sống. Có lẽ tôi không có quyền tìm cách giúp các cư dân trên trái đất thoát khổ nếu họ không muốn thoát khổ.” Lúc đó, thay vì làm chuyện mà các thày khuyến khích các con làm, là duyệt xét lại động cơ khiến con tới đây và nhận ra nó dựa trên một ảo tưởng, thì con quyết định: “Tôi không muốn làm gì cả trên hành tinh này. Tôi không muốn thực thi ý chí của tôi trên hành tinh này.”

Cũng có một số avatar, như được mô tả trong quyển sách Các kiếp sống của tôi, đã đi vào cực đoan ngược lại, và bày tỏ ý chí của mình một cách rất rất mạnh mẽ và rất rất quyết liệt. Họ muốn chứng tỏ là sa nhân sai hay họ chiến đấu chống lại sa nhân, họ chống trả sa nhân hay họ hành động để con người trên trái đất thực sự thấy là có lối thoát khỏi khổ đau.

Có hai đối cực. Một số từ bỏ ý chí của mình, trong khi một số khác quả thực đã làm theo lối không-muốn tích cực của sa nhân. Một số khác lấy thái độ không-muốn tiêu cực. Kết quả là gì?

21.7. Avatar và không-là

À, kết quả là một giai đoạn rất hỗn loạn, cũng được mô tả trong quyển sách qua việc nhân vật chính đánh nhau với sa nhân trong khoảng một triệu năm. Giai đoạn này dài bao nhiêu tùy mỗi avatar, nhưng đánh nhau quá lâu thì sẽ có một điểm con giản dị bị kiệt sức. Con quá mệt mỏi, con chán ngán đánh nhau. Hoặc con ở trong một trạng thái tâm tiêu cực quá lâu nên bắt đầu cảm thấy là đời sống trên trái đất càng ngày càng vô nghĩa. Nếu con đang đánh nhau, thì con cảm thấy đánh nhau càng ngày càng vô nghĩa, nhưng điều này cũng nhanh chóng đưa con tới chỗ cảm thấy cuộc sống trên trái đất vô nghĩa.

Đó là lúc con mở cửa trong tâm để chất độc không-là xâm nhập, lúc đó con cũng có thể có khuynh hướng tạo một ngã cảm thấy cuộc đời không đáng sống. Có thể là con cảm thấy cuộc đời trên trái đất không đáng sống nhưng con không thấy lối thoát. Hoặc con cảm thấy là cuộc đời nói chung không đáng sống, không đáng để có ý thức, để có tự nhận biết. Sau đó, con bắt đầu phủ nhận sự tự nhận biết và cảm thấy Thượng đế đáng lẽ không nên cho con tự nhận biết vì nó chỉ tạo khổ đau. Cảm tưởng này dẫn đến đủ loại hình thức chê trách Thượng đế, hay chất vấn tại sao Thượng đế không đổi ý về quyền tự quyết, hay những câu hỏi tương tự. Điều cốt yếu ở đây là, tương tự như mọi chuyện khác mà các thày đã giảng, không phải con cảm thấy như vậy, mà là một ngã tách biệt.

Một khi ngã tách biệt được tạo ra thì nó liên tục phóng chiếu tới con là cuộc đời không đáng sống hay không đáng bỏ sức đấu tranh. Nhiều avatar đã làm gì? À, một số trải qua một giai đoạn tìm cách khiến tâm thức bị tê dại. Họ theo đuổi đủ loại ghiền nghiện khiến họ càng ngày càng bớt ý thức. Một số khác tìm cách rút lui khỏi thế gian, tỷ dụ như làm tu sĩ trong nhiều truyền thống tôn giáo. Hoặc giống như nhiều người tâm linh thời nay, khi họ rút lui khỏi đời sống năng động, không muốn tham gia vào cuộc sống năng động, hoặc sống một cuộc sống tương đối năng động nhưng không thực sự bỏ tâm trí vào, lúc nào cũng ngồi giữa hai ghế, tìm cách làm tối thiểu để đủ sống nhưng không thực sự tham gia vào bất cứ khía cạnh nào của cuộc sống.

21.8. Lối thóat qua ý chí kim cương

Lẽ tất nhiên, lối thoát là dùng các giáo lý mà các thày đã trao truyền về lý do tại sao con xuống trái đất như một avatar, nhận ra là động cơ đưa con tới đây dựa trên một ảo tưởng, đối phó với ngã gốc để giải thoát mình khỏi ngã gốc. Lúc đó, con bắt đầu thấy là lý do duy nhất khiến con cảm thấy đời không đáng sống, không đáng bỏ sức tranh đấu hoặc con không thể tỏ bày ý chí của mình trên hành tinh này, là vì con chưa hiểu một số chuyện.

Giờ đây thì con bắt đầu hiểu những chuyện đó. Con có thể bắt đầu xem xét những lý do khiến con tới đây. Do đó, con cũng thấy là tâm thức đó, chất độc không-muốn và không-là đó, không có giá trị gì cả. Như mọi chất độc, nó dựa trên một ảo tưởng. Sau đó, nếu con chịu làm theo lời thày hướng dẫn, thì con có thể hấp thu thuốc giải cho độc tố không-muốn, được gọi là Ý chí Kim cương.

Tên gọi này tất nhiên có nghĩa là ý chí đó không thể bị bất cứ điều gì trên trái đất lay chuyển. Con cũng biết là kim cương là chất cứng nhất mà con người hiện nay biết đến và do đó không có gì có thể khiến nó bị suy suyển. Ý chí Kim cương không thể bị ảnh hưởng bởi không-muốn, không-là hay ngay cả phản-ý chí, là ý chí rất hung hãn của sa nhân.

Khi con hòa điệu với thuốc giải đó và cho phép nó thấm vào bản thể của mình, thì nó sẽ tiêu trừ mọi tàn dư của không-muốn và không-là trong con. Điều này có nghĩa là con có thể bắt đầu đạt được một cảm giác an bình cao hơn rất nhiều. Các thày đã trao truyền giáo lý và dụng cụ tâm linh thực sự giúp con tới điểm con làm hòa với cách trái đất hiện đang vận hành. Con có thể nhận ra mục đích của nó, sự trải bày của luật tự quyết, sự kiện trái đất không phải là một hành tinh tự nhiên. Tất cả những giáo lý đó mà các thày đã trao truyền có thể giúp con tới điểm con nhận ra mục đích, mục đích thực sựcao hơn, đã khiến con tới trái đất là để tăng trưởng sự nhận biết tới điểm con có thể thăng thiên từ trái đất.

Lúc đó, con có thể trụ vững trong sự kiện là ở tầng Hiện diện TA LÀ của con, có ý chí đi vào một bầu cõi chưa thăng thiên và thăng thiên từ bầu cõi đó. Đây cũng là ý chí kim cương vì nó cao hơn bất cứ mọi chuyện trên trái đất, có nghĩa là không có gì mà cái Ta Biết trải nghiệm trên trái đất có thể thay đổi ý chí của Hiện diện TA LÀ.

Khi con bắt đầu nối kết lại với Hiện diện TA LÀ và nhận ra rằng, như cái Ta Biết, con là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ, con không hề xa cách nó hay chống đối nó, thì con cũng nhận ra là ý chí của Hiện diện cũng là ý chí của con. Con có ý chí tăng trưởng tâm thức của mình. Con có ý chí thăng thiên. Đó là lúc con có thể bắt đầu thấy là bất kể mọi điều kiện trên trái đất, các điều kiện này – bất kể chúng là gì – tạo cơ hội toàn hảo để con thăng thiên. Con yêu dấu, con có thể thăng thiên từ một hành tinh tự nhiên, nhưng vì con chưa có những trải nghiệm đa diện mà con có thể có trên một hành tinh phi tự nhiên, nên con không thăng thiên với cùng sự nhận biết.

21.9. Một thăng thiên cao hơn từ hành tinh phi tự nhiên

Tiến trình thăng thiên trên căn bản vẫn là một. Con khởi sự với một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm, con xây dựng một số ngã. Ngay cả trên hành tinh tự nhiên con cũng xây dựng các ngã, tuy chúng không hoàn toàn giống các ngã tách biệt trên trái đất. Để thăng thiên từ một hành tinh tự nhiên con phải tới chỗ thấy chúng là ngã, thấy là con chỉ dùng chúng như cỗ xe trong nỗ lực đồng-sáng tạo và con phải buông bỏ chúng, con phải để chúng chết đi. Con không có những ngã đó khi con xuống hành tinh tự nhiên, do đó con không thể thăng thiên từ hành tinh tự nhiên với các ngã đó.

Trên trái đất con cũng trải qua tiến trình tương tự. Con phải tới điểm thấy là con có một số ngã trong bốn thể phàm của mình và con cần để chúng chết đi. Vì trên trái đất con có nhiều loại ngã hơn trong bốn thể phàm của mình nên con thực sự thăng thiên với một trình độ nhận biết cao hơn. Trong căn thể của con có nhiều kinh nghiệm tích cực hơn, và do đó khi con thăng thiên từ một hành tinh phi tự nhiên thì Hiện diện TA LÀ của con có một nhận biết cao hơn so với khi con thăng thiên từ một hành tinh tự nhiên.

Đó là lúc con có thể thực sự làm hòa với việc mình ở đây và nói: “Bất kể những gì tôi nghĩ trước khi tới đây, hành tinh này cho tôi một cơ hội thăng thiên tuyệt diệu.” Sau đó, con có thể tới điểm con không còn nhìn lại quá khứ nữa và nói: “Ồ, tôi đã sai lầm khi tới đây” hay “Tôi đã sai lầm khi ở trong ảo tưởng khiến tôi tới đây.” Con chỉ nhìn vào chuyện đó và nói: “À, tôi ở trạng thái tâm thức đó vào lúc đó và tôi đã lấy quyết định tốt nhất mà tôi có thể lấy lúc đó, vì tôi có cái ngã mà tôi có lúc đó.” Sau đó con có thể buông bỏ mọi cảm giác hối tiếc. Con có thể giản dị an bình với sự kiện đây là con đường thăng thiên mà con đã chọn, và nó hoàn toàn thỏa đáng theo bất cứ tiêu chuẩn nào của cõi thăng thiên.

Do đó, con có thể tới điểm con nói: “Phần còn lại của kiếp sống này là cơ hội toàn hảo, lý tưởng để tôi thăng thiên, để tôi xem xét các phản ứng của mình, nhận diện các ngã còn tồn tại và để chúng chết đi. Cũng để tôi là cánh cửa mở để Hiện diện TA LÀ bày tỏ chính nó, để tôi, như cái Ta Biết, tới điểm giải thoát khỏi tất cả các ngã thấp và có ý chí tự do trải nghiệm và biểu lộ chính mình trên hành tinh này.” Đây là lúc con tới điểm, như các thày đã giảng, con xoay chuyển sự chú tâm của mình từ việc đạt kết quả trên trái đất sang việc thực sự chào đón và vui hưởng tiến trình sống trên trái đất, tiến trình biểu lộ chính mình trên trái đất và tiến trình thăng thiên từ trái đất.

Các thày có thêm điều để giảng ngay cả về đề tài này, nhưng thày để công việc này lại cho Gautama. Thày đã trao cho các con món quà mà thày muốn trao, và thày biết ơn các con đã nhận nó. Tới đây thì thày chúc các con: hãy đi trong sự an bình tuyệt đối của Ý chí Kim cương.

9 | Đã đến lúc con biểu lộ quả vị Ki-tô

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 22 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su, và thày tới đây hôm nay để trao truyền một phần nữa của những bài giảng mà thày dự định trao truyền trong hội nghị này chung quanh đề tài làm sao là Ki-tô Hằng sống đang hành động. Giờ đây thì các con đã nhận được một bài giảng tuyệt vời và đa diện của Chân sư MORE sớm ngày hôm nay. Bài giảng đó quả thực có nhiều lớp, nhiều tầng cấp để các con suy ngẫm. Con thực sự có thể nói là bài giảng đó diễn tả đầy đủ con đường tâm linh. Nếu con thể nhập hoàn toàn mọi khía cạnh của bài giảng đó, thì câu hỏi là con có cần gì thêm nữa chăng.

9.1. Là Ki-tô mà không cuồng tín

Tất nhiên, vì Chân sư MORE là người trao truyền bài giảng, thì có thêm nữa có thể được trao truyền. Lẽ tự nhiên, giáo lý về ngã gốc cốt yếu cho việc là Ki-tô hành động. Con hãy hình dung một nhóm chiến sĩ Cơ đốc giáo tham dự Thập tự chinh đang ngồi trên yên ngựa bên ngoài một ngôi làng ở miền Trung đông. Họ đặt tâm vào trạng thái hỗn loạn và hầu như đồng thanh hét lên: “Đây là ý muốn Thượng đế!” Sau đó, họ rút kiếm, phi ngựa vào ngôi làng và giết đàn ông, phụ nữ và trẻ em, tin rằng họ làm việc này nhân danh Ki-tô và để phục vụ Ki-tô. Họ có phải là Ki-tô hành động không? À, lẽ dĩ nhiên các con biết là không. Tuy nhiên con cần tự hỏi: “Làm sao tôi có thể là Ki-tô hành động mà không đi vào trạng thái tâm bất quân bằng vì quá hăng hái, quá nhiệt thành, gần như là cuồng tín?”

Chân sư MORE có nói đến các đợt truyền giáo lý chân sư thăng thiên trước, và các đệ tử đã phản ứng như thế nào trong các tổ chức đó. Các thày đã thấy nhiều đệ tử trở nên quá nhiệt thành, quá bất quân bằng trong nhiệt tâm muốn làm một cái gì, khiến họ đã bước ra hành động một cách bất quân bằng, khác cách hành xử của Ki-tô hành động, tuy rằng một số các đệ tử này tin chắc là họ đang biểu lộ quả vị Ki-tô.

Lẽ tất nhiên các thày đã trao cho con chìa khóa cốt yếu để tránh phản ứng đó. Đó là con cần khắc phục ngã gốc và các ngã khác được tạo ra sau ngã gốc. Cái ngã nhất định cần an toàn, lẽ dĩ nhiên, có thể khiến con trở nên cuồng tín. Một khi con đã xây dựng ý niệm an toàn dựa trên một hệ thống hay niềm tin vỏ ngoài nào đó, thì con không muốn mất đi sự an toàn đó. Do đó, con trở nên cuồng tín chống trả tất cả những gì con nghĩ đang đe dọa ý niệm an toàn đó. 

Quả thật con cũng có thể có một ngã nữa, như các thày đã giảng, quan tâm không muốn bị sai, không muốn bị chứng tỏ là mình sai, muốn mình không bao giờ sai. Vì sa nhân cho con cảm tưởng là con sai trong kiếp đầu thai đầu, nên ngã đó lúc nào cũng muốn làm đúng. Một khi nó đã tự thuyết phục chính nó là nó đã làm đúng hay đang làm đúng, thì nó rất, rất ngần ngại xem xét mình có thể bị sai chăng.

9.2. Người tốt khó cứu rỗi nhất

Con yêu dấu, hai ngàn năm trước đây, thày có một lời tuyên bố khá bí hiểm là một tội đồ dễ được cứu rỗi hơn là một phú ông được vào thiên đàng. Lẽ tất nhiên, khi thày nói “phú ông” thì thày không nhất thiết chỉ một người có tiền của, nhưng là một người cảm thấy mình đã làm nhiều điều thiện. Điều nghịch lý mà ta có thể thấy nơi đạo Cơ đốc, các tôn giáo khác hay ngay cả giáo lý chân sư thăng thiên, là đôi khi những người rất, rất khó giúp nhất là những người hoàn toàn tin chắc họ là người tốt và đã làm nhiều điều tốt.

Con hãy nhớ lại lời Chân sư MORE nói về các đệ tử tin chắc là họ xứng đáng được một địa vị trong tổ chức tâm linh vì họ đã lâu năm tham gia tổ chức và chuyên cần theo đúng những thực tập vỏ ngoài và làm đúng mọi chỉ thị. Con có thể thấy một thí dụ, nhưng con cũng có thể vào các giáo đoàn Cơ đốc giáo và thấy những người suốt đời tin chắc là họ đang làm việc thiện theo đúng tinh thần Cơ đốc giáo, họ đang theo lời răn của Ki-tô hãy thương yêu người láng giềng, hãy cư xử tốt với mọi người, hãy tham gia vào công việc từ thiện. Có nhiều vị linh mục Cơ đốc giáo, và nhiều tín đồ không phải là linh mục nhưng đã tham gia vào việc từ thiện theo đúng tinh thần Cơ đốc giáo, cho rằng vì họ đã phụng sự, đã cư xử tốt và suốt đời làm nhiều điều tốt, nên họ bảo đảm sẽ được cứu rỗi trên căn bản những hành động vỏ ngoài đó.

Lẽ tất nhiên, thày có tuyên bố một số câu có thể được diễn giải để mở khóa hiểu biết là điều này không đúng. Vương quốc của Thượng đế ở bên trong ta. Cái gì ở bên trong ta? Đó là tâm hồn của con. Ấy, nếu con không giải quyết tâm lý, khắc phục tất cả các ngã, thì làm sao con vào được vương quốc? Con thấy chăng, điều này, một lần nữa, dính liền với bài giảng của Chân sư MORE về sự tha hóa của đạo Cơ đốc đã tạo ra con đường vỏ ngoài, giấc mơ được cứu rỗi một cách tự động và bảo đảm. Nhiều tín đồ Cơ đốc giáo theo con đường vỏ ngoài này vì họ không có gì khác và hoàn toàn tin tưởng rằng một khi họ làm tất cả những điều vỏ ngoài đó thì họ đương nhiên sẽ được vào vương quốc sau kiếp sống này.

Đây không phải là mối quan tâm chính của bài giảng này của thày, thày chỉ nêu ra như một ví dụ. Mối quan tâm chính của thày, lẽ tất nhiên, là các đệ tử chân sư thăng thiên. Con cần nhận ra ở đây là một số các con, khi con gánh chịu chấn thương nhập đời hay các biến cố tạo nên chấn thương đó, thì sa nhân đã khiến con cảm thấy là con đã làm điều gì sai, hay con đã sai lầm khi có mặt trên trái đất, con đã sai lầm khi tới đây.

9.3. Không muốn bị sai

Chuyện luôn luôn xảy ra là sa nhân đã khiến con cảm thấy là con đã làm một việc gì rất sai trên trái đất đến độ con không bao giờ có thể chuộc lại lỗi đó. Như các thày có giảng, một khía cạnh của ngã gốc là con quyết định: “Tôi không bao giờ muốn trải nghiệm chuyện này nữa.” Con làm gì lúc đó? Con tạo ra một ngã tách biệt, được lập trình để con chắc chắn không bao giờ bị chứng minh là mình sai. 

Con yêu dấu, con đã làm gì sau đó? Qua nhiều kiếp sống, con đã xây dựng động lượng làm những chuyện mà con cho là đúng, bằng cách lúc nào cũng làm chuyện được quy định là đúng bởi nền văn hóa, bởi tôn giáo của con bằng cách làm việc từ thiện, giúp đỡ người khác, vân vân và vân vân. Lẽ tất nhiên, dựa trên con đường vỏ ngoài của đạo Cơ đốc, một số các con có động lượng từ các kiếp trước tin rằng nếu con làm các chuyện vỏ ngoài đó, nếu con phụng sự như vậy, thì con chắc chắn hội đủ điều kiện để thăng thiên.

Các thày đã nói đi nói lại điều gì? Khi con đứng trước cổng vào thiên đàng, nếu con muốn dùng hình ảnh đó (và các thày biết con cần một hình ảnh, nhưng đó chỉ là một hình ảnh) thì con đứng trước cổng vào cõi thăng thiên và con phải chọn lựa đi qua cổng đó. Con phải lấy một chọn lựa và đó phải là một chọn lựa tự do, con yêu dấu. Làm sao con, cái Ta Biết, lấy một chọn lựa tự do? Con chỉ làm được khi con không còn bất cứ ngã nào tô màu viễn quan của con. Cái ngã được lập trình để khiến con cảm thấy mình không bao giờ sai vì đã luôn luôn làm điều tốt, nó đang ngăn cản con thăng thiên – nếu con không buông bỏ được nó. Con không thể thăng thiên nếu con không buông bỏ nó, và con không thể buông bỏ nó nếu con chưa nhìn thấy nó. Lẽ tất nhiên, con không thể nhìn thấy nó nếu con quá sợ thấy điều gì sai trong con người mình. 

Con yêu dấu, con thấy chăng là các thày đã trao truyền giáo lý là các thày thương yêu con vô điều kiện. Các thày chấp nhận con vô điều kiện, nhưng nếu con còn cái ngã không bao giờ muốn bị chứng minh nó sai, thì con không thể thực sự chấp nhận tình thương và sự chấp nhận của các thày. Con sẽ luôn luôn sợ mình sai, cảm giác là có một số điều kiện sẽ khiến con bị sai, ngay cả ý niệm là con có thể sai. Con không thể thăng vượt ý niệm đó nếu con vẫn còn cái ngã đó, vì ngã đó không thể chất vấn lập trình cơ bản, ảo tưởng cơ bản đã tạo ra nó.

Cái ngã không thể chất vấn lập trình đó. Khi con còn nhìn mình xuyên qua phin lọc của ngã đó thì con cũng không thể chất vấn lập trình đó. Con, như cái Ta Biết, có thể bước ra ngoài ngã và thày trao truyền giáo lý đặc trưng này để giúp cái Ta Biết bước ra ngoài ngã đó và nhận ra có hai điều ngăn cản con thăng thiên. Một là con ở trong trạng thái tâm rất tiêu cực, vị kỷ, ích kỷ, lúc nào cũng đấu tranh với người khác, làm bất cứ điều gì con muốn mà không màng hậu quả. Nói cách khác con là một người mà một số các con gọi là người xấu. Có một điều khác ngăn cản con bước vào thiên đàng, đó là con là một người mà một số các con coi là người tốt, con muốn giữ hình ảnh đó đến độ con không chịu chất vấn là trong con có thể có cái gì không “đúng”, theo nghĩa nó không cho phép con bước vào trạng thái thăng thiên.

Khi con nhìn mình xuyên qua ngã đó thì con nghĩ là nếu trong con có cái gì không đúng, thì nó chắc hẳn phải sai. Tức là điều này phải có nghĩa là con sai, và do đó con không thể nhìn nó. Điều duy nhất có thể phá bế tắc là cái Ta Biết bằng cách nào đó được cảm hứng, được thúc đẩy để bước ra ngoài ngã đó và thấy nó chỉ là một cái ngã. Nó chỉ là một cái ngã, và chỉ có ngã đó tin rằng con sẽ tự động vào thiên đàng khi con làm các việc tốt. Nó chỉ là một cái ngã, và như tất cả các ngã, nó dựa trên một ảo tưởng. Khi con, cái Ta Biết, nhận ra điều này, thì con nhận ra là ngã đó không phải là con. Con nhận ra là con không thể mang ngã đó theo con vào cõi thăng thiên.

Vì sao con không thể mang nó theo con vào cõi thăng thiên? Vì con không mang nó theo con khi con xuống trần thế. Không ai có thể trở về thiên đàng trừ những ai đã xuống từ thiên đàng. Không có ngã nào – không có ai – có thể trở về thiên đàng trừ cái ta đã đi xuống từ Hiện diện TA LÀ. Chuyện thật giản dị như vậy đó. Đó chỉ là một cái ngã, nhưng thày cần con nhận ra là người tốt, nghĩ mình tốt và đã luôn luôn tốt, có thể là một trở ngại cho việc thăng thiên. Nó chỉ là một ngã khác mà con cần buông bỏ. Nếu con còn muốn làm điều tốt dựa trên ngã đó, thì con không thể là Ki-tô hành động. Vì con đang muốn làm điều tốt để tránh không bị chứng minh mình sai. Nói cách khác, hành động của con có tính chất vị kỷ. Hành động của con trụ chung quanh ngã thấp đó, không phải chung quanh cái ta thật của con. Nó là động cơ thúc đẩy con hành động, không phải là quả vị Ki-tô, không phải là tâm thức Ki-tô.

9.4. Con đã là Ki-tô hành động

Điều này đã được nói ra, và thày muốn đi sang phần khác. Thày nhận ra, như Chân sư MORE có nói, là mỗi khi các thày trao truyền một giáo lý, thì có nhiều người trong các con ngồi nghe, tìm hiểu giáo lý nhưng vẫn có cảm giác có một khoảng cách. Các thày đã trao truyền dụng cụ để con khắc phục ngã gốc và các ngã khác, và khi con làm xong thì khoảng cách sẽ biến mất. Nhưng thày vẫn muốn đưa thêm vài nhận xét ở đây, vì thày muốn con nhận ra là tất cả các con đã là Ki-tô hành động ở một mức nào đó, và đa số các con đã là Ki-tô hành động trong kiếp sống này. Chỉ là con không ý thức điều này, và con không phải lúc nào cũng là Ki-tô hành động. Con đã là Ki-tô hành động một số lần, có thể là với một số các con chỉ xảy ra một ít lần, nhưng tất cả các con đã từng là Ki-tô hành động. 

Điều này lại liên quan đến một khía cạnh khác của đạo Cơ đốc giả, đó là sự sùng bái vĩ đại được dựng lên chung quanh con người thày. Giê-su được đặt lên trên bệ cao như người Con của Thượng đế, một người sinh ra đã toàn hảo, vân vân và vân vân. Một con quái vật rất dũng mãnh đã được tạo ra trong tâm thức tập thể cho rằng muốn là Ki-tô thì con hầu như phải toàn hảo. 

Một số các con cũng đã tạo ra ngã đó, một ngã tương tự. Đúng thực là đa số các con phần nào có ý tưởng là con chỉ có thể được cứu rỗi, vào thiên đàng hay thăng thiên khi con đạt được tiêu chuẩn gần như siêu nhân đó. Do đó, con cảm thấy là khi con chưa hội đủ chuẩn mực đó, hay con không hội đủ tiêu chuẩn trong mọi lúc, thì con không thể là Ki-tô.

Ý niệm nguyên thủy về Ki-tô là gì? Ý nghĩa việc Ki-tô đầu thai, nhập vào xác thịt là gì? Nó có nghĩa là tâm thức Ki-tô có thể được biểu đạt xuyên qua một cỗ xe chưa hoàn toàn sạch những ngã tách biệt đó.

Như các thày đã giảng, cái Ta Biết có khả năng bước ra ngoài ý niệm bản ngã hiện tại của con. Khi điều đó xảy ra thì con là cánh cửa mở để tâm thức Ki-tô tuôn chảy xuyên qua con, để tâm thức Ki-tô tự biểu lộ xuyên qua con. Như thày có nói: “Tự ta không làm được gì, đó là cha ta (Hiện diện TA LÀ, Thánh linh) làm việc.” Nó làm việc khi con có cửa mở trong tâm thức của mình.

Như các thày có giảng, con không thể ép việc này xảy ra. Con thực sự không thể làm gì. Con không thể tạo ra một con đường máy móc tự động dẫn con tới điểm con là cánh cửa mở. Con không cần ép nó xảy ra, con chỉ cần ngưng không ép nó không xảy ra. Sự thực là nó mưa xuống cả người công chính lẫn người bất chính. Tánh linh lúc nào cũng tuôn xuống từ Trên cao. Như thày có nói: “Ta sẽ xin Cha ta và ngài sẽ gửi các con một đấng an ủi khác.” Khi thày thăng thiên, một phần động lượng của thày, Tánh linh của thày, được rải truyền xuống trái đất và nó vẫn tuôn xuống trong suốt hai ngàn năm qua. Con không cần hội đủ điều kiện nào để nhận nó, con cũng không thể ép nó tuôn qua con.

Tánh linh lúc nào cũng rải xuống. Con chỉ cần có cửa mở trong bốn thể phàm để Tánh linh có thể tuôn vào. Tất cả các con đã có lúc thoáng nhận, vì lý do nào đó, ngã vỏ ngoài được gạt qua bên, cái Ta Biết bước ra ngoài trạng thái tâm bình thường của nó, trạng thái đồng hóa với một ngã vỏ ngoài bình thường của nó, và bỗng nhiên có một cái gì khác tuôn vào. Cái “gì khác” đó, lẽ tất nhiên, là ý nghĩa thế nào là Ki-tô hành động. Đó là lúc con là cánh cửa mở biểu hiện cái gì vượt quá trạng thái nhận biết bình thường của đa số con người. Đa số con người chưa bao giờ trải nghiệm cái gì khác, cái gì cao hơn trạng thái nhận biết bình thường. Thày nói các con trao tặng người khác món quà của sự chấp nhận, nhưng con cũng có thể trao tặng người khác bất cứ trải nghiệm nào vượt quá trạng thái tâm thức bình thường của họ. Đó là biểu đạt Ki-tô, đó là Ki-tô hành động.

9.5. Vượt lên trên hình ảnh cố định về Ki-tô

Việc đó có nhiều hình thức, con yêu dấu, và chìa khóa là mở tâm, là dụng cụ để tâm thức Ki-tô biểu hiện, đó cũng là không chờ mong và không có định kiến là Ki-tô phải biểu hiện hay không được biểu hiện như thế nào. Các thày đã trao cho các con khái niệm là thày đã làm việc đó bằng nhiều cách. Thày đã trao cho một người một ly nước lạnh vì đó là gì người đó cần lúc đó, nhưng thày cũng trao cho người đó cảm giác y được chấp nhận, và đó là điều mà người ấy trước đó chưa từng có, và đó là phần phụ trội vượt quá ly nước.

Có quá nhiều đệ tử tâm linh, và đặc biệt là đệ tử chân sư thăng thiên, đã dùng giáo lý các thày để củng cố một ngã vỏ ngoài là một hậu duệ của ngã gốc. Họ đã tạo ra một hình ảnh rất, rất, rất cố định về thế nào là Ki-tô hành động cho riêng họ cũng như là thày khi thày hiện thân trên thế gian. Nhiều người trong họ sẽ sững sờ nếu họ gặp thày khi thày hiện thân. Niềm tin của nhiều người sẽ bị lung lay, như niềm tin của nhiều Ki-tô-hữu bị lung lay nếu họ thấy thày như thày thực sự là lúc đó.

Điều con có thể làm được, là dùng cái Ta Biết để nhìn tâm mình và thấy các định kiến và chờ đợi Ki-tô phải như thế nào và không được như thế nào. Con thấy trong kinh điển là có những người đã bài bác thày vì thày uống rượu, vì thày sinh ra ở Nazareth, vì thày đã làm chuyện này chuyện kia. Có những người đã bài bác thày vì hình dạng của thày, cách thày phục sức, cách thày cư xử, cách thày phát biểu.

Con yêu dấu, lúc nào cũng sẽ có người tìm thấy lỗi nơi người sứ giả, người đại diện Ki-tô. Điều này tất nhiên bắt nguồn từ sa nhân luôn luôn phán xét Ki-tô Hằng sống. Chính sa nhân và thái độ của họ đã tạo ra thái độ rất phán xét mà con tìm thấy nơi nhiều tổ chức tâm linh, kể cả, lẽ tất nhiên, các tổ chức mà Chân sư MORE đã phơi bày trong bài giảng trước. Con cần trung thực nhìn xem con có một ngã có ý phán xét Ki-tô Hằng sống phải như thế nào, vì đó sẽ là một trong những lý do vi tế nhưng hữu hiệu nhất để đóng cửa không cho Ki-tô tuôn chảy xuyên qua con. Nếu con cảm thấy là cách Thánh linh biểu hiện phải tuân theo chuẩn mực của con, chuẩn mực mà con có trong ngã đó, thì Thánh linh sẽ không thể tuôn chảy. Thánh linh thổi nơi muốn, không phải nơi con muốn, không phải nơi ngã vỏ ngoài muốn và chắc chắn là không phải nơi sa nhân muốn nó tuôn chảy – vì sa nhân không muốn Thánh linh tuôn chảy gì hết.

Điều bí ẩn đơn giản là con có thể nói là sa nhân không muốn Thánh linh tuôn chảy và phần lớn họ đã thành công trong việc này. Vì sao Thánh linh không làm gì để cải sửa việc này, như một câu hỏi đã nêu lên hôm nay? “Vì sao Thượng đế không thay đổi kế hoạch của ngài để thuận theo ý kiến của tôi về vũ trụ?” Đó là cốt yếu của tâm thức sa ngã: “Vì sao Thượng đế không thay đổi để tôi không phải thay đổi?” Con có thể nói là Thánh linh đáng lẽ phải làm điều gì để giải tỏa tình trạng bế tắc mà sa nhân đã đặt hành tinh này vào.

Thánh linh tôn trọng quyền tự quyết, và do đó con có thể nói là câu: “Thánh linh thổi nơi nó muốn” không nói lên một hiểu biết đầy đủ. Câu này được đưa ra để cho thấy là Thánh linh không tuôn chảy theo ý kiến, chờ mong và chuẩn mực của con người. Mặt khác, như thày vừa giảng, Thánh linh luôn luôn tuôn chảy, vấn đề chỉ là khi không có khe mở thì nó không thể biểu đạt trong bát cung vật lý, và đúng thực là ngay cả trong cả ba bát cung trên cũng vậy.

Đó là lý do vì sao Thánh linh chờ dịp một người mở cửa để nó tuôn chảy. Khi cửa được mở thì dòng chảy có mặt. Các thày đã trao cho các con nhiều ý tưởng, nhiều dụng cụ, và khi con phối hợp với các dụng cụ về chấn thương nhập đời và ngã gốc, thì con sẽ có thể tiến bộ rất, rất đáng kể. Con có thể tới điểm con bắt đầu là cánh cửa mở rộng hơn và con không cảm thấy bắt buộc phải biểu lộ quả vị Ki-tô. Con không cảm thấy bị bắt buộc làm điều này, con không sợ làm điều này, con không quan tâm về điều này. Con chỉ đơn giản để nó xảy ra và con nhận ra là khi con để nó xảy ra, khi con ở trong trạng thái tâm trung hòa, thì không những dòng chảy sẽ có mặt mà thêm nữa con không có các quan tâm là con có đang làm đúng hay không, làm như vậy có được không, hay có tốt đủ không.

9.6. Phân tích mình một cách quá đáng

Giờ đây, lúc khởi đầu con quả thực có thể thấy một số quan tâm khởi lên, và nhiều người trong các con đã có kinh nghiệm này. Con đứng trước một hoàn cảnh, và con cảm thấy có một dòng chảy khác thường xuyên qua con, khác với tâm thức bình thường của con. Sau đó, con phân tích và lượng định: “Tôi làm như vậy có được chăng? Đó có phải là biểu lộ cao nhất của Ki-tô chăng? Đó có thật là Ki-tô chăng? Tôi có nên không hành động như vậy chăng? Tôi có nên không nói điều đó chăng?”

Con cần phải sẵn sàng nhận ra là khi con bắt đầu dám biểu lộ mình nhiều hơn, thì con sẽ có những thách đố tương tự khởi lên sau đó. Lúc đó, con dùng điều đó như một cơ hội để nhận ra là có một ngã vỏ ngoài khác đang tạo phản ứng đó nơi con. Và con dùng công thức: nhận diện ngã đó, tách mình ra khỏi nó và để nó chết đi – con để nó chết đi, con yêu dấu.

Con thấy chăng, khi con tới điểm con bắt đầu mở tâm hơn để đón nhận dòng chảy của Ki-tô, thì tất cả các mối quan tâm con có đang làm đúng hay không sẽ tan biến đi. Con sẽ tới điểm con nhận ra rằng: “Chuyện đã xảy ra như nó đã xảy ra.”  

9.7. Không có biểu đạt Ki-tô tối hậu

Có một bước quan trọng trước khi con tới điểm đó, đó là con nhận ra là không thể có biểu hiện Ki-tô tối hậu và tuyệt đối, vì lý do giản dị là trái đất là một hành tinh phi tự nhiên. Một biểu hiện của Ki-tô lúc nào cũng xảy ra trong một tình huống cá biệt. Nó được biểu lộ cho con người ở một tầng tâm thức nào đó. Con yêu dấu, nó không có mục đích nâng con người lên tầng tâm thức cao nhất, nó chỉ có mục đích nâng con người lên tầng tâm thức kế tiếp. 

Vậy điều này nghĩa là gì? Điều này có nghĩa là khi con có bất cứ biểu lộ Ki-tô nào trên thế giới, thì tâm phản-Ki-tô có thể xem nó, phân tích nó và tìm thấy lỗi nơi nó. Đó là điều mà Chân sư MORE đã giảng sáng nay, là có một số đệ tử đã đi vào tâm thái phán xét, thực sự có nghĩa là họ đã dùng tâm phản-Ki-tô để tìm lỗi. Con có thể thấy là một số câu hỏi nêu lên chiều hôm nay được đặt với tầng tâm thức thực sự muốn tìm lỗi nơi giáo lý hay vị thày. Lẽ tất nhiên, đây là điều tâm phản-Ki-tô lúc nào cũng làm.

Con cần nhận ra ở đây là ngoài các ngã của con, mà con mang trong bốn thể phàm, còn có động lượng ở cấp hành tinh của phản-Ki-tô lúc nào cũng tìm cách xen vào và thách thức mọi biểu hiện của Ki-tô, tìm cách hạ thấp nó. Nó có hai mục đích. Con có một người đang là cánh cửa mở để Ki-tô biểu lộ và con có một hay nhiều người đang tiếp nhận sự biểu lộ đó. Các lực phản-Ki-tô, tâm phản-Ki-tô, muốn gieo nghi ngờ vào tâm những người đang nhận món quà để họ bắt đầu nghi ngờ và ngay cả bác bỏ nó. Nó muốn gieo nghi ngờ vào tâm người đang là cánh cửa mở và đang trao món quà để người đó nghi ngờ khả năng làm dụng cụ của Ki-tô trong tương lai, và do đó có thể dần dần quyết định khóa tâm lại hay áp đặt một chuẩn mực vỏ ngoài lên Ki-tô.

Con cần giản dị nhận ra là lực phản-Ki-tô này tất nhiên có khả năng phóng đại hay sử dụng bất cứ ngã nào mà con có. Con thực sự cần nhận ra là dù con đã khắc phục được các ngã trong bốn thể phàm của con, lực này vẫn có thể phóng chiếu tới con từ bên ngoài. Con chỉ cần nhận ra lực này, và biết nó có mặt. Nó sẽ luôn luôn phóng chiếu vào con.

Sau đó, con cần nhận ra là con không cần làm gì cả. Con không cần tự bảo vệ mình. Con không cần tìm cách phản bác nó. Con không cần tìm cách trả lời các câu hỏi được nêu lên từ trạng thái tâm này, vì, như thày có giảng, các câu hỏi này không bao giờ có giải đáp. Nếu con tìm cách trả lời một câu hỏi, thì bảy câu hỏi khác sẽ bật ra. Con chỉ cần nhận biết là lực đó có mặt, nhận ra nó như nó là và để nó đi xuyên qua con. Khi con chưa hóa giải các ngã thì nó sẽ không đi xuyên qua con mà sẽ chạm một trong các ngã đó và phóng đại nó lên. Khi con đã hóa giải các ngã thì con chỉ để nó đi xuyên qua con. Như thày có nói: “Chuyện ấy quan hệ gì tới con, con hãy theo thày.” Lúc ban đầu, con sẽ được trợ giúp nếu con quay về hướng thày và thực sự hình dung là con để cho nó đi xuyên qua con và chú tâm vào thày. Con còn không chú ý tới nó nữa.

Giờ đây, tất nhiên đây là một thăng bằng tế nhị vì tự ngã của con muốn nghĩ là nó không thể sai lầm và do đó con không bao giờ cần chú ý đến các lời chỉ trích. Đôi khi con cần chú ý đến phản hồi của người khác. Con có thể tập phân biện trường hợp một người giản dị phát biểu mối quan tâm của họ, và trường hợp lời chỉ trích đến từ tâm phản-Ki-tô. Con có thể tập nhận ra sự khác biệt. Một người có thể phản hồi để cho con thấy cách họ phản ứng ở tầng tâm thức của họ. Điều này có thể giúp con điều chỉnh cách con phát biểu khi con tiếp cận những người này, dựa trên hiểu biết về trình độ tâm thức của họ. Khi con cảm thấy là lời chỉ trích đơn giản phát xuất từ phản-Ki-tô đang tìm cách hạ bệ con, thì con chỉ để nó đi xuyên qua con.

Khi thày nói là con cần mở tâm đón nhận phản hồi của người khác, thì thày cũng nói điều này một cách thận trọng, vì con không nên phân tích mình quá đáng. Con cần là cánh cửa mở, cần giữ tâm trung hòa, cần ở trong trạng thái tâm trung hòa và để Tánh linh tự biểu lộ. Thành thực mà nói, đây chính là thách thức lớn nhất khi con bắt đầu có thêm quả vị Ki-tô. Con cần không đóng tâm mình nhưng cũng đừng phân tích quá đáng vì như vậy sẽ mất đi tính linh động tự phát. Đây là một thăng bằng tế nhị. Thày phải đối đầu khó khăn này khi thày hiện thân trên trái đất, tất cả các thày đều gặp khó khăn này trước khi thăng thiên. Con cần đối mặt khó khăn này và giải quyết theo cách của riêng con vì (một lần nữa) không có một biểu hiện tuyệt đối của quả vị Ki-tô. Do đó, con cần nhận ra rằng bất kể hình thức Ki-tô nào mà con có thể thể hiện đều không sai trái. Rất có thể là có một cách thể hiện Ki-tô cao hơn, nhưng điều này không có nghĩa cách con thể hiện là sai. Con không cần đi vào tư duy thắc mắc: “Làm vậy có sai chăng?”

Con cần buông bỏ tư duy này, con yêu dấu, và mặc dù con đã làm tan biến một ngã nào đó, con thực sự sẽ tới điểm con cần lấy quyết định một cách ý thức: “Tôi sẽ không tham dự vào chuyện này nữa, tôi sẽ còn không chú tâm tới nó nữa. Tôi chú tâm là cánh cửa mở và tôi cho phép người khác phản ứng bất cứ cách nào họ muốn.”

9.8. Muốn giúp người khác quá mức

Khi con đạt được một phần quả vị Ki-tô và rất muốn giúp đỡ người khác, thì việc này có thể là một trở ngại cho đường quả vị Ki-tô của con. Khi đó con có tâm thái: “Làm sao tôi có thể giúp người khác.” Vị sứ giả này đã có tâm thái này trong nhiều kiếp sống, kể cả kiếp này, ngay cả sau khi ông đã trở thành sứ giả. Làm sao ông có thể giúp người khác tốt nhất và làm sao ông không gây trở ngại cho Tánh linh thể hiện xuyên qua ông?

Suy ngẫm chuyện này tất nhiên là điều chính đáng, nhưng con phải tìm ra điểm cân bằng tế nhị. Con trước tiên cần làm việc để khắc phục các ngã vỏ ngoài của mình để con được giải thoát khỏi chúng và không cảm thấy bắt buộc phản ứng lại người khác. Con cần tới điểm con thực sự không phản ứng lại người khác và việc họ chấp nhận hay không chấp nhận những gì họ được cống hiến xuyên qua con. Con quan sát, con có thể học hỏi từ những gì con quan sát nhưng con không phản ứng. Con không cảm thấy phải thay đổi chính mình dựa trên phản ứng của họ vì con nhìn nhận là phản ứng của họ là sản phẩm của trình độ tâm thức của họ, kể cả những ngã mà họ chưa giải tỏa.

Nhiều người sẽ tới con khi con đạt được một phần quả vị Ki-tô và họ mang một ngã chưa được giải tỏa, và ngã này pha màu cách họ nhìn con đường tâm linh. Họ đã dùng giáo lý trên con đường tâm linh để củng cố và công nhận giá trị của ngã đó. Giờ đây, họ tới con và họ muốn con cũng công nhận giá trị của ngã đó. Có khi họ giận dữ, có khi họ thất vọng, có khi họ bắt đầu tố cáo con không là đại diện thật của Ki-tô khi con không công nhận cái ngã mà họ không chịu tách rời và buông bỏ. Con cần nhận ra điểm này. 

Con yêu dấu, thày nhận ra là một lần nữa các thày đã phóng tới con thật nhiều khái niệm. Con không cần chú tâm ngay lúc này đến tất cả những gì thày nói ở đây. Con cần tìm ra một điều trong bài truyền đọc mà con cảm thấy ứng dụng cho con ngay lúc này và con thể nhập điều đó. Con chấp nhận là các điều khác mà thày nói áp dụng cho người khác ở các tầng tâm thức khác. Có khi một số điều mà thày nói không còn áp dụng cho con vì con đã vươn lên trên tầng tâm thức đó. Có khi có những điều sẽ áp dụng cho con trong tương lai khi con đã vươn lên một tầng tâm thức nào đó.

9.9. Không có khoảng cách giữa con và Tánh linh

Như Chân sư MORE có nói, các thày bị giới hạn khi thuyết giảng bằng ngôn từ. Quả thực con cần tới điểm con không tìm cách là Ki-tô dựa trên một cảm nhận xa cách, dựa trên một khoảng cách. Khi con khắc phục ngã gốc và các ngã khác, khi con tới điểm mà Chân sư MORE mô tả là con không coi con đường tâm linh xoay quanh cá nhân mình, đó là lúc không còn cơ chế trong tâm con tìm cách lọc lựa những gì đến từ Tánh linh. Lúc đó ngay cả ý niệm là con “ở đây” và Tánh linh ở “trên kia” cũng không còn nữa. Tánh linh đang gửi đến con một cái gì tuôn chảy xuyên qua tâm con. Con có thể vượt qua cảm giác tách biệt. Nhiều người trong các con không thể nắm bắt điều thày đang giảng nhưng một số có thể. Tất cả các con rốt cuộc sẽ có thể nắm bắt điều đó.

Sẽ có một điểm không có cấu trúc nào trong tâm khiến con nghĩ là con phải hành xử như thế nào khi con là Ki-tô Hằng sống. Do đó, con không nhìn sự việc qua tâm trí, con chỉ giản dị trải nghiệm là có khe mở, có dòng chảy và sau đó con trải nghiệm dòng chảy đang xảy ra.

Vị sứ giả này đã nhiều lần được hỏi là ông trải nghiệm thế nào khi nhận một bài truyền đọc và ông đã tìm cách giải thích một cách tương tự. Không phải là ông thấy ông ở dưới đây, thày ở trên kia và thày đang rải truyền ngôn từ từ cõi thăng thiên, ông nghe được trong tâm và phát biểu ra. Không phải vậy, ông và thày đạt được trạng thái Hợp nhất, và ngôn từ tuôn chảy xuyên qua tâm vị sứ giả và ông nghe thấy chúng cùng lúc với khi chúng được nói ra, vì không có khoảng cách. Do đó, khi không có khoảng cách, thì không có chỗ để tâm thức của con, tâm thức của người khác và tâm thức sa ngã xen vào tiến trình. Trong tiến trình không có khoảng cách. Không có cấu trúc, không có cơ chế. Đó là một dòng chảy trực tiếp, một biểu đạt trực tiếp và con không phân tích nó trước khi nó xảy ra, vậy con cần gì phân tích khi nó đã xong? Con chỉ để nó tuôn chảy và sau đó để nó là như nó là, để con là như con là, để người khác là như họ là. Hãy để họ phản ứng theo cách họ phản ứng. Khi con trung hòa khi món quà được trao tặng, thì nó xứng đáng được trao tặng. 

Lẽ tất nhiên, người khác chỉ có thể nhận đầy đủ món quà khi họ trung hòa, nhưng trách nhiệm của con là giữ mình trung hòa. Giữ người khác trung hòa không phải là trách nhiệm của con. Trách nhiệm của con là trao món quà, là cánh cửa mở để trao tặng món quà. Con không có trách nhiệm cách người khác nhận nó. Đó là trách nhiệm của họ. Khi con đã thấy rõ điều này trong tâm mình, thì con có thể tránh các cám dỗ và phóng chiếu rất rất vi tế đến từ sa nhân muốn đem con tới điểm lần biểu đạt quả vị Ki-tô đó là lần cuối con cả gan để chuyện này xảy ra xuyên qua con.

9.10. Biểu lộ Ki-tô trên mạng

Thày thực sự có một điều nữa mà thày muốn trao truyền, đó là chúng ta đã tới điểm các thày đã trao truyền đủ giáo lý xuyên qua vị sứ giả này. Trong những người đang theo học giáo lý này, có một số mới gia nhập, một số khác đã học giáo lý này được một thời gian, nhưng các con đã sẵn sàng bắt đầu biểu lộ quả vị Ki-tô một cách trực tiếp hơn. Lẽ tất nhiên, có rất, rất nhiều cách để làm việc này nhưng chắc chắn một trong những cách đó là qua mạng Internet.

Trong khóa học về quả vị Ki-tô của thày (sách Chìa khóa chính yếu để đạt quả vị Ki-tô cá nhân) thày đã đề ra cho những ai hoàn tất khóa học công việc viết lại câu chuyện cuộc đời mình. Với hiện tượng viết blog trong thời hiện đại, tại sao không viết câu chuyện này như một blog?

Tại sao không tạo ra một trang mạng hay một blog lấy giáo lý chân sư thăng thiên và áp dụng vào một lãnh vực cá biệt? Con cũng có thể lấy một lãnh vực cá biệt, tìm kiếm tất cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền liên quan đến lãnh vực đó, lấy ra tất cả những điều mà các thày đã nói và để các ý đó vào một trang mạng. Con có thể viết lại một cách trung hòa với ngôn từ của chính con để người đọc không cần phải tin các chân sư thăng thiên hiện hữu, hay con cũng có thể trích dẫn lời các thày nếu con ghi rõ xuất xứ. Có rất nhiều cách con có thể dùng mạng Internet để biểu lộ quả vị Ki-tô, và qua đó tiếp xúc được nhiều người hơn là con có thể tiếp xúc tận mặt. Đây cũng có thể là một cách để con luyện tập cách con biểu lộ quả vị Ki-tô và quan sát những phản ứng khởi lên trong con. Con cũng có thể thành lập, nếu con muốn, một nhóm người để hỗ trợ lẫn nhau. Một số các con có kinh nghiệm dùng máy điện toán và có thể giúp những ai ít có kinh nghiệm, và do đó các con bắt đầu hỗ trợ lẫn nhau. Các con cũng có thể giúp lượng định lẫn nhau, phản hồi tới các người trong nhóm, và qua đó chia xẻ nhiều, nhiều điều. Con có thể tạo ra một hiện diện trên mạng Internet hiện chưa có, chưa bao giờ có mặt trên mạng vì các con tới từ những quá trình khác nhau nhưng cũng có những điểm tương đồng, một sự hợp nhất thâm sâu với những điều các con phát biểu, vì các con đã đạt được một trình độ sáng suốt và nguyên vẹn, đã chữa lành tâm lý và buông bỏ các ngã vỏ ngoài.

Đã đến lúc các thày khuyến khích các con làm công việc này. Lẽ tất nhiên các con có quyền tự quyết. Thượng đế không muốn con người bị ép buộc. Các thày không muốn các con tự ép buộc mình làm việc này nhưng quả thật là một số các con đã sẵn sàng làm việc này dưới hình thức nào đó. Đã đến lúc các con đứng lên và ngưng ý nghĩ là vị sứ giả là người duy nhất phải dựng lên các trang mạng. Con hãy nhận ra là con cũng có tiềm năng, kinh nghiệm và chứng đạt để làm một cái gì đó. Một lần nữa, con nên hiểu rõ. Điều con có thể biểu đạt lúc này không phải là biểu đạt tối hậu của Ki-tô, nhưng khi con biểu đạt nó bây giờ thì con có thể hoàn chỉnh nó. Nếu con không biểu đạt nó lúc này thì con sẽ không có cơ hội hoàn chỉnh và con sẽ không tiến triển.

Con hãy xem xét trở lại tình huống bữa tiệc cưới ở Cana. Lúc đó thày đứng trước một ngã rẽ trong cuộc đời. Thày sẽ bắt đầu sứ vụ công chúng của thày hay thày đình chỉ nó? Ấy, nếu lúc ấy Mẹ Mary không thúc bách thày, thì thày đã không làm được việc đó. Thày đang thúc bách con. Nếu thày không chấp nhận sự thúc bách của Mẹ Mary và cả gan tiến hành sứ vụ của thày, thì có chăng một tấm gương ở đầu thời Song Ngư để con người noi theo? Ấy, có thể là thày sẽ làm sau đó – có thể.

Con không thể biết ngày mai sẽ ra sao. Con chỉ có thể biết hiện tại, con chỉ có thể hành động trong hiện tại. Có thể bây giờ là “hiện tại”, là lúc con đứng lên và biến nước lã của tâm thức thế gian trong một lãnh vực nào đó của cuộc sống thành rượu của tâm thức Ki-tô tuôn chảy xuyên qua con!

Con yêu dấu, tới đây thì thày cảm ơn con đã chú tâm nghe bài giảng này, thày cảm ơn con đã sẵn sàng làm chiếc loa lan tỏa bài giảng này tới tâm thức tập thể của hành tinh, sẽ đem lại kết quả sâu rộng, vượt quá những gì con có thể biết với tâm vỏ ngoài. Quả thực, con có thể nói là sứ vụ công chúng của thày hai ngàn năm trước đây đã là cực alpha, và những gì các thày đang trao truyền qua tiến trình tiết lộ tuần tự này, không chỉ qua vị sứ giả này và còn xuyên qua nhiều vị sứ giả khác, là cực omega. Khởi đầu của thời đại Song ngư – kết cuộc của thời đại Song ngư, nhưng thực sự, thời Song ngư không thể tới kết cuộc trọn vẹn khi chưa có một biểu đạt công chúng của giáo lý thực của Ki-tô.

Con có thể là một thành phần của biểu đạt đó, một phần của làn sóng công chúng khi bỗng nhiên mọi người có cơ hội giáp mặt giáo lý thực của Ki-tô, một cơ hội mà họ không có được trong suốt thời Song ngư. Khi con người được nhận cơ hội đó, thì lúc ấy chung cuộc sẽ tới, không phải là chung cuộc của thế giới, mà là chung cuộc của thời Song ngư. Lúc ấy, hành tinh có thể hoàn toàn bước vào thời Bảo bình. Chúng ta có thể bắt đầu chú tâm xây dựng thời Hoàng kim của Saint Germain thay vì tìm cách đuổi kịp, cứ tìm cách hoàn tất tất cả những điều chưa được hoàn thành trong thời Song ngư.

Con có thể quan tâm là con đã sẵn sàng làm chuyện này chưa, con có xứng đáng làm việc này chưa. Những quan tâm này bắt nguồn từ ngã gốc và các ngã khác. Do đó, thày chỉ có thể nói: “Hãy buông lưới đánh cá và theo ta, và ta sẽ biến con thành người chài lưới đàn ông, đàn bà và trẻ em.”

7 | Hiểu thấu tiết lộ tuần tự

Chân sư Thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels, ngày 22 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên MORE, cũng được biết trong các đợt truyền giáo trước như El Morya, Chân sư M, Bapu hay đơn giản là Morya, do đó thày có nhiều tên. Thày hơn là một cái tên, do đó thày tìm cách vụt đi trước các đệ tử muốn gán một hình ảnh tôn thờ vào một danh hiệu nào đó. Thày biết rõ là nhiều đệ tử sẽ và đã bác bỏ tất cả các điều mà thày giảng ngày hôm nay vì thày đã đổi tên từ El Morya sang Chân sư MORE. Tuy nhiên, điều này thích hợp, vì có những đệ tử phải bác bỏ điều thày đang giảng vì họ không thuộc mạn đà la, đợt truyền giáo mà thày đang hướng bài giảng này tới. Tuy nhiên, có một số đệ tử sẽ được lợi lạc từ bài giảng này, nếu họ chịu mở tâm ra đón nhận.

Mỗi lần các thày bảo trợ một tổ chức, và các thày đã bảo trợ nhiều tổ chức hơn các con (đa số các con) biết, thì có một nhóm người, một mạn đà la, mà các thày nhắm tới khi bảo trợ tổ chức đó. Có một số người khác đáng lẽ không thuộc tổ chức đó. Khi các thày bước sang bảo trợ một tổ chức khác, thì điều thích hợp và tự nhiên là những người thuộc mạn đà la của tổ chức trước không đi theo với các thày. Tuy nhiên, lúc nào cũng có trong một tổ chức một số người không thuộc mạn đà la mà tổ chức được tạo ra để phục vụ, và do đó, họ tự do đi theo các thày khi các thày chuyển sang bảo trợ một tổ chức khác.

7.1. Con đường tâm linh lúc trước và ngày nay

Giờ đây, các con yêu dấu, thày muốn bắt đầu bằng cách nói thêm về câu hỏi được đặt ra tối hôm qua về cách các thày đã trình bày con đường tâm linh trong đợt truyền giáo trước ở tổ chức Summit Lighthouse (Ngọn Hải đăng Trên Đỉnh núi), thậm chí đi trở ngược về tổ chức I AM Movement (Phong trào TA LÀ). Thày sẽ nói về sự tương phản giữa cách các thày trình bày con đường tâm linh lúc đó và ngày nay, với các giáo lý mới nhất về cách thể hiện quả vị Ki-tô, cũng như là các giáo lý về ngã gốc, cái Ta Biết, là người đồng-sáng tạo, biểu hiện tiềm năng sáng tạo của mình – là các giáo lý mà các thày đã trao truyền trong những năm vừa qua. Như vị sứ giả này đã nêu lên, không có sự mâu thuẫn trong bản chất các đợt truyền giáo, nhưng nếu con nhìn từ một tầm nhìn nào đó, thì con sẽ thấy có mâu thuẫn. Con nên hiểu là đợt truyền giáo trước ở Summit Lighthouse đã được các thày tạo dựng với mục đích chính là giúp một mạn đà la đệ tử đạt được một số khai ngộ cốt yếu cho họ.

Điều cốt yếu trong việc phát triển cá nhân của họ là họ đạt được các khai ngộ đó, và điều cốt yếu cho hành tinh là có một số người, một số lượng tới hạn người (critical mass), đạt được các khai ngộ đó. Tổ chức Summit Lighthouse đã thu hút nhiều người khác không thuộc mạn đà la đó. Họ đã được lợi lạc khi tham gia vào Summit Lighthouse, và họ đã đóng góp nhiều cho tổ chức, họ đã đóng góp thêm nhiều vào động lượng, và quả thực họ đã giúp các thày đạt được nhiều thành quả từ tổ chức Summit Lighthouse hơn những gì các thày có thể đạt được qua các người thuộc mạn đà la. Cũng đã có nhiều người tâm linh không gia nhập Summit Lighthouse, một phần vì các thày không hướng họ về tổ chức đó. Đây là một số đề tài mà thày muốn thảo luận trong bài giảng này.

7.2. Đợt truyền giáo cuối cùng của thời Song ngư

Thày muốn bắt đầu với sự kiện tổ chức Summit Lighthouse là, như Giê-su đã trình bày trước đây, đợt truyền giáo cuối cùng (hay ít ra là đợt truyền giáo công chúng cuối cùng) mà các thày có thể bảo trợ trong thời Song ngư. Điều này không có nghĩa, như một số người đã diễn giải, là đó là đợt truyền giáo quan trọng, chung cuộc và tuyệt đối nhất mà các thày trao truyền trong thời Song ngư. Tổ chức Summit Lighthouse đã được lập ra với một số mục đích, nhưng mục đích mà thày muốn thảo luận ở đây, liên quan đến mạn đà la mà tổ chức được tạo ra để phục vụ, là một mục đích rất đặc thù. Mục đích đó là để giúp một nhóm dòng sống đạt được các khai ngộ của thời Song ngư mà họ chưa đạt được trong thời Song ngư. 

Con có thể nói như thế này: khi hành tinh bước sang một thời đại tâm linh mới, khi hành tinh chuyển từ thời đại trước sang thời Song ngư, thì có một nhóm người mà ta có thể nói, từ một tầm nhìn nào đó, đã là động cơ thúc đẩy sự tăng triển của hành tinh trong khoảng thời gian 2000 năm đó. Nói cách khác, họ ở một giai đoạn trong tiến trình tăng triển cá nhân khiến họ có tiềm năng đạt được các khai ngộ của thời đại sắp tới. Do đó, khi họ đầu thai trong thời đại đó, họ có thể đẩy mạnh sự tăng triển tâm linh, sự tăng triển của tâm thức Ki-tô, của thời đại đó. Tuy nhiên, để có thể đẩy mạnh tâm thức tập thể, họ phải đạt được các khai ngộ của thời đại đó, các khai ngộ nền tảng của thời đại đó.

Mỗi thời đại có một số khai ngộ nền tảng. Hai ngàn năm trước đây, Giê-su đã khai mở thời đại Song ngư; thày đã tạo dựng nền tảng cho thời Song ngư. Giê-su đã trình bày các khai ngộ đó trong giáo lý nguyên thủy, toàn bộ của thày. Ngay cả trong giáo lý công chúng được bảo tồn trong kinh điển, con cũng tìm được một số lượng tới hạn các khai ngộ này để tạo xoay chuyển tâm thức, đôi khi được trình bày một cách ẩn dụ và đôi khi một cách thẳng thắn hơn.

Thày không nói ở đây là các kinh sách về cuộc đời và lời giảng của Giê-su đã mô tả các khai ngộ này một cách đầy đủ, vì chúng chắc chắn không làm được công việc này. Nhưng Giê-su có trao truyền một khuôn đúc có thể khai triển thành phong trào mà thày hình dung, một phong trào dựa trên Thánh linh, dựa trên Ngôi lời Hằng sống được nói ra. Một phong trào như thế đã có thể đẩy mạnh thời đại Song ngư, đẩy mạnh sự tăng triển của tâm thức tập thể.

7.3. Con người không đạt được các khai ngộ của thời Song ngư

Chuyện đã xảy ra là không có đủ số người trong mạn đà la nguyên thủy đạt được các khai ngộ của thời Song ngư trong những thế kỷ đầu của thời đại đó. Đó là lý do vì sao sa nhân đã có thể xâm nhập và biến phong trào Công giáo thành tôn giáo chính thức của đế quốc La Mã, và từ lúc đó trở đi, đạo Công giáo coi như đã bị tổn hại không thể cứu vãn. Điều này có nghĩa là không có giáo lý công chúng chỉ dẫn con người đạt các khai ngộ của thời Song ngư.

Lẽ tất nhiên, đây không phải là kế hoạch nguyên thủy nhưng các thày luôn luôn tôn trọng quyền tự quyết (thày dùng chữ “các thày” để chỉ các chân sư thăng thiên, vì tất nhiên là trong thời Song ngư chính thày chưa là một chân sư thăng thiên, và do đó thày đã không dự phần vào các cuộc bàn thảo đó). Các chân sư thăng thiên luôn luôn xem xét con người đáp ứng ra sao trước các khai ngộ. Cho dù con người có đáp ứng hay không, các thày luôn luôn tìm một phương cách giúp con người vươn lên cao hơn.  

Trong thời Song ngư, các thày đã tạo cảm hứng và bảo trợ một số tổ chức. Đây là thời Giáo hội Công giáo đàn áp tất cả các người “không tin đạo”. Các tổ chức này đã hoạt động bí mật, các thày đã đề cập đến các hội Rosicrucian và Freemason nhưng cũng có tổ chức khác. Các thày cũng đã bảo trợ một số sáng kiến và tổ chức tại những vùng trên thế giới nơi giáo hội Công giáo không có ảnh hưởng mạnh mẽ. Thày không muốn các con giới hạn tầm nhìn của mình và nghĩ rằng các thày đã chỉ làm việc với một số ít tổ chức. Các thày đã làm việc, như các thày luôn luôn làm, với nhiều cá nhân và nhóm người khi họ sẵn sàng mở tâm đón nhận giáo lý ở một tầng mức nào đó.

Tuy nhiên, điều thày muốn các con nhận ra là khi thời Song ngư đã tới lúc gần chấm dứt, thì chuyện rõ ràng là không đủ số lượng tới hạn người thuộc mạn đà la Song ngư nguyên thủy, không đủ số lượng tới hạn các dòng sống đó, đã đạt được các khai ngộ của thời Song ngư. Các thày đã quyết định (và lần này thày có dự phần vào các cuộc bàn thảo vì thày đã thăng thiên) là các thày sẽ thành lập một tổ chức khác với mục đích chính yếu giúp các dòng sống đó đạt các khai ngộ của thời Song ngư. Liên quan đến tổ chức Summit Lighthouse, thì tổ chức này được thành lập với mục đích chính giúp nhóm dòng sống cá biệt đó đạt được những khai ngộ mà họ cần đạt khi thời Song ngư chấm dứt.

Chính thày có thuộc vào mạn đà la ở đầu thời Song ngư chăng? Có, thày thuộc mạn đà la đó. Kuthumi cũng vậy, cũng như là Saint Germain và lẽ tất nhiên Mẹ Mary. Mẹ Mary thăng thiên rất sớm, Saint Germain cần thêm chút thời gian. Kuthumi và thày đi đoạn hậu và cần rất nhiều thời gian để thăng thiên, nhưng các thày rồi cũng đã thăng thiên. Do đó, các thày đã quyết định là thày là vị chân sư chính bảo trợ tổ chức Summit Lighthouse.

Các con nhận ra là mục đích duy nhất (ít ra là mục đích chính) là giúp mạn đà la đặc thù của các dòng sống đó, các người chưa đạt được các khai ngộ của thời Song ngư. Nói theo từ ngữ hiện đại thì đây là một hình thức quản trị khủng hoảng. Nói cách khác, thời Song ngư đã gần hết, cát trong đồng hồ cát đã gần cạn, và các dòng sống đó vẫn chưa đạt được khai ngộ. Thày không nói là tất cả các dòng sống thuộc mạn đà la nguyên thủy của thời Song ngư đều phải đạt được các khai ngộ trong khoảng thời gian 2000 năm đó. Thày muốn nói là cần một số lượng tới hạn đạt được các khai ngộ đó, và lúc đó chưa đủ túc số đó. Như một hình thức quản trị khủng hoảng, các thày thảo luận và định ra những gì các thày có thể làm để giúp các dòng sống đó (ít ra là một số lượng tới hạn trong nhóm đó) vượt qua trở ngại và đạt được các khai ngộ của thời Song ngư. Các cuộc thảo luận đó là khuôn đúc nền tảng của tổ chức Summit Lighthouse và nói chung tất cả những gì đã xảy ra trong tổ chức đó đều liên quan tới mục đích đó.

7.4. Các khai ngộ của thời Song ngư

Đâu là những khai ngộ mà con người cần đạt trong thời Song ngư, không chỉ những người thuộc mạn đà la nguyên thủy và toàn thể nhân loại? À, con có thể nhìn vào cuộc đời của Giê-su và xem xét khuôn đúc mà Giê-su đã tạo dựng. Sau đó, con có thể xem xét các giáo lý mà các thày đã trao truyền, và lẽ tất nhiên, con yêu dấu, con có thể diễn tả chúng bằng nhiều cách khác nhau. Không phải chỉ có một cách duy nhất để diễn tả chúng bằng ngôn từ, mà có nhiều cách. Con có thể dùng từ vựng khác nhau. Thày không muốn đưa ra cảm tưởng là cách thày diễn tả ở đây là cách diễn tả duy nhất.

Chắc chắn là một cách để diễn tả các khai ngộ của thời Song ngư là: Trong thời Song ngư, con người cần giải thoát mình khỏi ách thống trị và nô lệ của sa nhân. Làm sao con giải thoát mình khỏi sa nhân? Cách duy nhất là đạt được tâm thức Ki-tô. Tâm thức Ki-tô là sợi dây điều giải (mediator) Tánh linh và vật chất, nó là cái được Thượng đế gửi xuống. Để làm gì? Không phải để cứu rỗi con người, như các giáo phái Cơ đốc giáo tuyên bố, nhưng để cho con người một khung tham chiếu, giúp con người có một khung tham chiếu khi họ trải nghiệm chứ không chỉ hiểu tâm thức Ki-tô. Con có thể so sánh với tảng đá Ki-tô tất cả các dối trá và ảo tưởng được phóng tới con, được sa nhân lập trình vào tiềm thức của con.

Con thấy là tất cả các ảo tưởng, triết lý, lý thuyết và luận thuyết đều là cát cuốn bay theo gió. Con có thể so sánh chúng với tảng đá không thể lay chuyển, theo nghĩa nó không có tính chất nhị nguyên. Lẽ tất nhiên, nó không đứng yên vì Ki-tô di chuyển cùng với hướng đi lên của toàn thể vũ trụ, do đó ta có thể nói là Ki-tô luôn luôn tiến triển. Đối với các con đang đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên do nhị nguyên thống trị, thì nó là một tảng đá mà con có thể nương tựa và dùng làm nền móng vững chắc để lượng định các ý tưởng của sa nhân.

Vậy ta có thể nói là các khai ngộ mà con người cần đạt trong thời Song ngư là noi theo gương của Giê-su, tin tưởng Giê-su, làm công việc mà Giê-su đã làm và sau cùng làm những công việc to lớn hơn những gì Giê-su đã làm. Như các thày đã nói nhiều lần, noi theo gương Giê-su thay vì chờ đợi Giê-su sẽ tới và cứu rỗi lúc cuối thời. Vậy câu hỏi trở nên: “Làm sao con người có thể noi theo gương của Giê-su?” Con có thể nhìn lại quá khứ và biện bác là vì con người không có được một bản viết các giáo lý chân thực của Giê-su, nên họ không thể noi theo gương của Giê-su, họ không thể đạt các khai ngộ – có một khoảng cách.

7.5. Khoảng cách giữa giáo lý và ứng dụng

Đây là một đề tài mà thày muốn luận giảng: khoảng cách. Câu hỏi trở nên là: chúng ta hãy giả dụ sa nhân không xía vào công việc của trái đất. Nói cách khác, không có gì ngăn trở các chân sư thăng thiên thể hiện trong bát cung vật lý đúng y những gì các thày muốn thể hiện. Các thày có thể nào trao truyền một giáo lý đầy đủ đến độ bất cứ ai theo và áp dụng giáo lý đều đạt được tâm thức Ki-tô chăng?

Nhiều người trong các con, nếu con xem xét phản ứng của mình trước câu hỏi này, sẽ thấy là trong tâm thức của mình có một niềm tin là: Đúng vậy, điều này phải khả thi. Giờ đây, con yêu dấu, một lần nữa các thày không muốn chê trách con hay khiến con không thoải mái, nhưng thày phải nói rất thẳng thắn là niềm tin này là một ảo tưởng, và nó có thể là một ảo tưởng nguy hiểm. Ảo tưởng này chính thực là lý do chính khiến nhiều người thuộc mạn đà la nguyên thủy của thời Song ngư đã không đạt được các khai ngộ của thời Song ngư.

Thày muốn trình bày ở đây một tóm lược ngắn các sự kiện lịch sử. Có những người đã nói: “Tại sao Giê-su không viết lại những giáo lý chân thực của thày để con người có một văn bản đầy đủ, mà họ có thể theo và áp dụng?” Ấy, thày sẽ trả lời câu hỏi này sau, nhưng chúng ta có sự kiện lịch sử là Giê-su đã không viết lại những giáo lý của thày, Giê-su đã không để lại một văn bản chính thức.

Trong mấy thế kỷ đầu, đạo Công giáo là một phong trào đa dạng, khá hỗn loạn gồm nhiều nhóm và môn phái, một phần do các phương tiện truyền thông thiếu vắng của thời đó, và phần khác là Giê-su mong muốn là những người khác nhau, những nhóm khác nhau có thể trải nghiệm Cơ đốc giáo theo cách riêng của họ.

Sau đó, tới thời điểm then chốt trong lịch sử khi sa nhân trong cõi bản sắc đã thành công trong việc thuyết phục một sa nhân đang đầu thai là y đã trực quan Ki-tô và do đó y biến phong trào Công giáo thành tôn giáo chính thức của Đế quốc La mã. Từ lúc đó, sa nhân đã vững tay điều khiển Cơ đốc giáo. Con có thể thấy là suốt thời Trung cổ, họ đã dùng khả năng điều khiển Cơ đốc giáo để ảnh hưởng và kiểm soát các nước Tây Âu và xã hội Âu châu. Chuyện đã xảy ra thời đó là một số tổ chức bí mật đã bộc phát: hội Rosicrucian, hội Freemason vân vân. Các tổ chức này dựa trên một con đường tu tuần tự, một con đường dẫn con người đi từng bước về hướng những tầng tâm thức cao hơn, hay ít ra là những khai ngộ cao hơn. Sau đó, chúng ta thấy lịch sử dần dần đi tới điểm ảnh hưởng của giáo hội Công giáo bắt đầu suy thoái. Khoa học xuất hiện, và không lâu sau thì thuyết duy vật trở nên dụng cụ chính của sa nhân. Nhưng sa nhân không thể kiềm hãm con người càng ngày càng nhận ra nhu cầu đi theo một con đường khai ngộ, một con đường tuần tự dẫn tới các tầng tâm thức cao hơn.

Sa nhân đã không thể ngăn nổi nhận biết này tuy họ rất muốn làm được chuyện đó. Đã có lúc nhân loại có nhận biết cao hơn về nhu cầu này, và điều này đã khai mở điều kiện cho phép các chân sư thăng thiên bước ra và công khai tiết lộ sự hỗ trợ của mình và do đó bắt đầu trao truyền giáo lý về con đường khai ngộ.

7.6. Những giới hạn của các sứ giả được bảo trợ

Con có thể nói là một khi các thày có một vị sứ giả được bảo trợ thì chắc hẳn các thày có thể nói bất cứ điều mình muốn qua vị sứ giả đó. Điều này vừa đúng vừa không đúng, vì tuy nhiều người trong các đợt truyền giáo trước không muốn nhìn nhận, các thày có bị giới hạn trong những gì có thể trao truyền qua một vị sứ giả được bảo trợ. Có hai giới hạn. Giới hạn thứ nhất là trình độ tâm thức của vị sứ giả quy định giáo lý trao truyền xuyên qua tâm vị sứ giả đó có thể cao đến chừng nào. Nói cách khác, nếu vị sứ giả chưa đạt được một số khai ngộ, thì tâm của vị ấy rất khó nhận được các khuôn đúc về các khai ngộ cao hơn và chuyển chúng thành ngôn từ.

Điều này không nhất thiết có nghĩa là tiến trình không thích nghi, vì con yêu dấu, có lợi ích gì trao truyền một giáo lý cao đến độ không ai đang đầu thai có thể hiểu thấu được? Nói cách khác, các thày luôn luôn nhìn một sứ giả được bảo trợ và cân nhắc: “Có đủ số người có khả năng tiếp thu tầng giáo lý này chăng?” Nếu không có đủ thì các thày sẽ không trao truyền giáo lý đó vào lúc đó. Lẽ tất nhiên, đó là lý do vì sao các thày đã trao cho các con khái niệm tiết lộ tuần tự.

Một chuyện trớ trêu là trong các tổ chức chân sư thăng thiên trước, đã có những người tin rằng tổ chức của họ và có lẽ nhiều tổ chức trước đó, đã thuộc vào tiến trình tiết lộ tuần tự được các thày bảo trợ, nhưng kỳ lạ thay, tiến trình này ngưng lại khi tổ chức của họ chấm dứt. Khi tổ chức của họ không còn một vị sứ giả thì tiến trình tiết lộ tuần tự vì lý do nào đó chấm dứt. Đây là một điều trớ trêu to lớn, một điều trớ trêu to lớn mà ta cần suy ngẫm. Thày biết là những đệ tử bị vướng mắc trong điểm trớ trêu này có lẽ sẽ không suy ngẫm điều đó, nhưng sự việc này cần được nói ra và phóng chiếu vào tâm thức tập thể.

Điều quan trọng cho tất cả các con đã mở tâm đón nhận, là tiết lộ tuần tự là một tiến trình liên tục mà các thày không dự kiến sẽ chấm dứt trong thời đại Bảo bình. Sẽ có tiết lộ tuần tự liên tục, có thể sẽ có một vài gián đoạn vì một số lý do, nhưng sẽ có tiết lộ tuần tự trong suốt 2000 năm tới của thời Bảo bình. Do đó, trong thời Bảo bình, nghĩ rằng có một giáo lý tối hậu, tuyệt đối hay chung cuộc là chuyện hão huyền. Đó là một giáo lý làm viên gạch dẫn lối trong tiến trình tiết lộ tuần tự trải dài suốt thời Bảo bình. Tiến trình này sẽ trải bày chính xác ra sao tùy thuộc cách con người đón nhận giáo lý, và cũng tùy thuộc Saint Germain ấn định giáo lý nào được trao truyền vì Saint Germain là vị lãnh đạo chính của thời Bảo bình.

7.7. Con đường dẫn tới quả vị Ki-tô không máy móc

Trở lại ý ban đầu của thày, có thể nào các thày, ngay cả vào thời nay khi các thày có một sứ giả được bảo trợ, trao truyền một con đường khai ngộ, một giáo lý có hệ thống phác họa những thực hành, khai ngộ và bước tiến đầy đủ đến độ bất cứ ai chân thành theo đuổi và thực hành sẽ chắc chắn đạt được tâm thức Ki-tô? Ngay cả trong trường hợp không có nhiễu sóng hay giới hạn từ tâm thức tập thể, ngay cả nếu các thày có các điều kiện có thể gọi là “lý tưởng” (tuy các điều kiện lý tưởng này thật sự vô nghĩa và không thể quy định), thì các thày cũng không thể vạch ra một con đường tu có thể bảo đảm kết quả. Lý do, con yêu dấu, là vì con đường quả vị Ki-tô không máy móc, không tự động. Có thể có văn bản tự động, nhưng không có quả vị Ki-tô tự động.

Con yêu dấu, ngay từ khi các thày bắt đầu trao truyền giáo lý về một con đường khai ngộ thì sa nhân đã tìm cách tha hóa nó. Họ đã làm được chuyện này phần lớn nhờ những gì họ đã tạo ra trong thời Song ngư. Nếu con nhìn vào những gì sa nhân đã làm khi giáo hội Công giáo được thành lập, thì con thấy là họ chối bỏ con đường dẫn tới quả vị Ki-tô, nhưng họ cũng biết là họ cần cho con người cái gì đó để thay thế. Nói cách khác, họ biết là họ không thể khiến mọi người chối bỏ Thượng đế hay chối bỏ là cuộc sống có một khía cạnh tâm linh. Họ đã tìm cách làm chuyện này, như thày sẽ giải thích ở phần sau, nhưng điều họ bắt đầu với giáo hội Công giáo là họ nhận ra rằng: “Có một số người tin vào một hình thức nào đó của Thượng đế, cõi tâm linh và đời sống sau cuộc sống trần thế. Chúng ta không thể phá hủy những niềm tin này trong ngắn hạn, do đó chúng ta phải cho họ cái gì khác.” Điều sa nhân đã cho con người (chính yếu) là một con đường cứu rỗi máy móc, tự động.

Cơ đốc giáo là gì? Nó là hứa hẹn con được cứu rỗi một cách bảo đảm, tự động, nếu con tuân theo một số luật lệ vỏ ngoài do giáo hội vỏ ngoài đặt ra. Con thấy chăng, họ bỏ đi con đường nội tâm chân thật dẫn tới quả vị Ki-tô, và thay vào đó họ cho con người một cứu rỗi vỏ ngoài, máy móc, tự động. Chuyện gì đã xảy ra khi các thày bắt đầu trao truyền giáo lý về một con đường khai ngộ? Nhiều người đã diễn giải theo những gì họ được lập trình để nghĩ trong thời Song ngư, là nếu họ theo con đường khai ngộ đó một cách nghiêm túc, thì họ sẽ bảo đảm đạt được kết quả. Thí dụ, ngày hôm nay có những người trong hội Freemasons tin rằng nếu họ theo đủ 33 bước do tổ chức ấn định thì họ sẽ đạt được một tầng tâm thức cao hơn. Con thấy chăng, con yêu dấu, sự thực là tuy một con đường tu có mục đích dẫn con tới một tầng tâm thức cao hơn, nhưng thi hành các bước khai ngộ vỏ ngoài không đồng nghĩa với đạt được một tầng tâm thức cao hơn.

Con yêu dấu, con hãy lắng nghe thật, thật kỹ những gì thày đang nói, vì thày đang trao cho các con chìa khóa cơ yếu để các con hiểu thế nào là Ki-tô Hằng sống đang hành động. Con không thể quy định Ki-tô Hằng sống phải cư xử hay không được cư xử như thế nào. Con không thể chế ra một định nghĩa nói rằng: “Ki-tô Hằng sống như thế này, đây là những điều mà Ki-tô Hằng sống làm, và đây là những điều mà Ki-tô Hằng sống không làm.”

Lẽ tất nhiên, con có thể định một số điều. Ki-tô Hằng sống sẽ không đi bắn giết người khác, nếu ta muốn nói một cách quá đáng. Có một số chuyện mà Ki-tô Hằng sống sẽ không làm vì Ki-tô Hằng sống không hành động do lòng ích kỷ, sợ hãi hay để chứng minh bất cứ điều gì. Nhưng con không thể chế ra một định nghĩa là Ki-tô Hằng sống phải hành động chính xác ra sao. Đó là lý do vì sao con không thể vạch ra một con đường tu đưa con tới quả vị Ki-tô một cách máy móc, tự động.

Trở lại khái niệm khoảng cách mà thày đã nêu lên, điều thày muốn nói ở đây là: Tại sao Giê-su đã không viết ra giáo lý? Bởi vì nếu Giê-su viết ra giáo lý của thày, thì con người sẽ dùng quyển kinh đó để định ra một con đường vỏ ngoài, máy móc, tự động dẫn tới quả vị Ki-tô. Nói cách khác, họ sẽ nghĩ là họ có thể dùng giáo lý đó (được mệnh danh là giáo lý chính thức của Giê-su) để định ra một con đường máy móc. Sa nhân thể nào cũng đã làm như vậy ngay từ đầu, vì có nhiều người, đặc biệt vào thời đó, chấp nhận chuyện này. Thí dụ, người Do thái chấp nhận ý niệm là muốn được cứu rỗi thì con phải rửa sạch tội lỗi, và con làm việc này bằng cách dùng máu của các con vật tế thần. Ấy, còn gì máy móc hơn thế!

Con thấy là ngay thời nay, người Do thái vẫn theo một số quy luật hành xử vỏ ngoài. Con thấy là con người luôn luôn có khuynh hướng tìm một con đường tu máy móc, và tại sao vậy? Vì họ không muốn làm điều mà Giê-su đã dạy họ: Hãy nhìn vào cái đà trong mắt mình thay vì nhìn vào cái giằm trong con mắt người anh em.

7.8. Hãy ngưng phóng chiếu vấn đề ra bên ngoài mình

Đâu là cách khác để mô tả khai ngộ cốt yếu của thời Song ngư? Đó là câu nói con người cần ngưng nhìn vào cái giằm trong con mắt người anh em và thay vào đó bắt đầu nhìn vào cái đà trong mắt mình. Nói cách khác, con người cần ngưng phóng chiếu là vấn đề ở ngoài kia, và nguyên do đau khổ của họ là điều kiện bên ngoài. Thay vào đó, họ cần nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời họ, nhìn vào phản ứng của họ, nhận ra là các phản ứng đó phát xuất từ một cấu trúc nào đó trong tâm lý của họ, và mạnh dạn tiếp tục công việc quán sát nội tâm, một cách hoàn toàn chân thành, cho đến khi họ thấy điều đang giới hạn họ và do đó có thể buông bỏ nó.

Có những người đã làm được chuyện này trong thời Song ngư. Một số đã lớn lên trong một môi trường Cơ đốc giáo và đã học các kinh sách đầy thiếu sót về Giê-su nhưng tuy thế vẫn hiểu được nhu cầu nhìn vào chính mình, nhìn vào tâm thức của mình. Đâu là thay đổi cốt yếu, quyết định cần xảy ra để đạt được các khai ngộ của thời Song ngư? Đó là con phải ngưng phóng chiếu ra ngoài. Con cần nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời của mình và đi vào bên trong.

Giê-su đã đạt quả vị Ki-tô như thế nào? À, điều này tất nhiên không được mô tả trong kinh sách, nhưng Giê-su đã trải qua một tiến trình. Nếu con đọc kỹ thì con có thể thấy một vài gợi ý, tỷ dụ như khi ở bữa tiệc cưới ở Cana, Mẹ Mary đã phải đốc thúc để Giê-su bước ra và bắt đầu sứ vụ công chúng của thày. Con có thể thấy là Giê-su đã rút lui vào nơi hoang vắng trong 40 ngày, và đó là một giai đoạn tự quán sát cao độ. Tất nhiên con cũng biết, từ các giáo lý mà các thày đã trao truyền, là Giê-su đã du hành về phương đông và đã trải qua ở các nơi đó một số hình thức khai ngộ, đã theo một con đường tu. Điều đầu tiên mà Giê-su đã làm (và điều này Giê-su khó diễn tả vào thời đó vì con người không có hiểu biết về tâm lý), là quan sát chính mình, các phản ứng của mình, liên tục nhìn vào nội tâm, nhìn vào tâm lý của mình và nhận ra các giới hạn.

Con yêu dấu, thày có nói là các thày không thể vạch ra một giáo lý bảo đảm kết quả, và sẽ luôn luôn có một khoảng cách. Khoảng cách đó là gì? Đó là: hoặc con người sẽ tiếp cận giáo lý một cách máy móc và muốn theo nó như một con đường vỏ ngoài, hoặc họ sẽ bước lên một mức cao hơn, nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời của mình và dùng giáo lý để quan sát chính mình và các phản ứng của mình. Một vị thày có thể nào ép buộc đệ tử thực hành tự quán sát chăng? Không, không thể được. Một vị thày tâm linh, và đặc biệt các chân sư thăng thiên, tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết. Các thày không thể và không muốn ép buộc đệ tử. Các thày có thể trao truyền giáo lý, các thày có thể gợi ý. Nếu con xem lại các đợt truyền giáo trước thì con sẽ tìm thấy các gợi ý này, nhưng nhiều người lúc đó đã không thấy được các gợi ý đó.

7.9. Khoảng cách trong tâm con người

Các thày hiểu rất rõ, con yêu dấu, là khi con nhìn lại tổ chức Summit Lighthouse, phong trào TA LÀ (I AM Movement), hội Thông thiên học (Theosophy) và các tổ chức khác mà các thày đã bảo trợ hay đã góp tay vào (và có nhiều tổ chức khác), thì các thày hiểu rất rõ là có một khoảng cách trong tâm các người đệ tử. Họ mong muốn đón nhận giáo lý. Họ mong muốn tìm hiểu giáo lý. Họ mong muốn thực tập những thực tập mà các thày trao truyền. Một số rất hăng hái và trở nên rất nhiệt thành, rất triệt để trong việc thực hành. Tuy nhiên, đọc cầu thỉnh ngọn lửa tím trong mười tiếng đồng hồ làm sao có thể giúp con thực tập tự quán sát, nếu con nghĩ tất cả những gì con cần là thực tập vỏ ngoài?

Nói cách khác, con có thể lấy giáo lý, làm những thực tập mà các thày đã trao truyền nhưng vẫn phóng chiếu ra bên ngoài, vẫn nghĩ con đường tu là con đường vỏ ngoài, thậm chí còn xây dựng trong tâm niềm tin rằng: “Tôi thật sự không cần xem xét chính mình. Tôi chỉ cần cầu thỉnh đủ ngọn lửa tím.” Hoặc con cũng có thể dần dần xây dựng một niềm tin còn nguy hại hơn nữa, là điều mà nhiều đệ tử Summit Lighthouse đã làm.

Con thấy chăng, con yêu dấu, là con gặp một giáo lý – mà thày thẳng thắn nhìn nhận là các thày đã phần nào chế dầu vào lửa. Giê-su trước đây đã đưa ra hình ảnh là các thày giống như những người bán xe cũ dùng chiến thuật bán hàng gọi là “nhử hàng thấp, mời hàng cao”.  Các thày phải trao truyền một giáo lý vỏ ngoài hấp dẫn đủ để con người có thể chấp nhận và xử lý, và là điều họ cần ở trình độ tâm thức hiện tại của họ. Sau đó, các thày phải hy vọng là một khi họ đã đến với giáo lý, thì họ sẽ sẵn sàng bước lên cao hơn tầng tâm thức đó và nhận lãnh một hiểu biết sâu sắc hơn của giáo lý.

7.10. Mạn đà la của thời Song ngư

Con người cần gì vào lúc đó? À, đây là điểm con cần xem xét những người thuộc vào mạn đà la nguyên thủy ở đầu thời Song ngư. Những dòng sống đó tất nhiên chưa biểu hiện quả vị Ki-tô nhưng họ có tiềm năng biểu hiện quả vị Ki-tô. Đó là một tiềm năng – họ chưa đạt được quả vị Ki-tô. Trong suốt thời Song ngư, các dòng sống này đã đầu thai, đa số hầu như liên tục, trong nhiều bối cảnh khác nhau. Vì những người này đã đạt một trình độ nào đó ở đầu thời Song ngư, nên mỗi lần đầu thai họ đều có cảm nhận họ phải làm điều gì, họ phải thành tựu điều gì, họ phải tìm ra điều gì. Họ cần tìm ra con đường tu, họ cần phải tiến triển trên con đường đó. Nói chung thì họ đầu thai với cảm nhận đó. Trong số đó, những người đã tìm ra con đường nội tâm thì không có cảm tưởng thiếu vắng to lớn.

Những người này theo con đường nội tâm, nhưng có một số khác không thể (hay đúng ra thày phải nói là họ không muốn) khám phá con đường nội tâm, áp dụng con đường nội tâm, nhìn nhận con đường nội tâm. Qua những kiếp đầu thai trong thời Song ngư, họ càng ngày càng có cảm giác bực bội vì họ biết họ chưa đạt được những gì họ cần đạt. Đồng thời, con yêu dấu, họ bắt đầu nhận ra là họ quả thực có một tâm thức cao hơn nhiều người chung quanh họ. Một số trong họ nhận ra điều này ngay từ lúc đầu và tiếp tục mang theo cảm nhận này.

Cảm giác bực bội vì có hiểu biết nội tại là mình chưa đạt được những tiến bộ mà mình cần đạt, phối hợp với hiểu biết hay quan sát là mình vẫn tiến bộ hơn những người chung quanh, tạo ra nơi những người đệ tử đó một cảm nhận, một nhu cầu về hai chuyện: thứ nhất là họ cần được chứng thực là họ có trình độ cao hơn những người khác. Thứ hai, họ cần cảm thấy họ đang làm chuyện gì quan trọng trên hành tinh này. Một lần nữa, thày không chê trách ai, thày không chỉ trích ai. Thày chỉ đang giản dị mô tả cơ chế trong tâm các đệ tử đó.

Khi các thày thành lập tổ chức Summit Lighthouse, các thày biết các đệ tử đó có những nhu cầu đó, và các thày đã trao truyền một số giáo lý đáp ứng những nhu cầu đó. Đó là lý do vì sao đã có một số lời tuyên bố khiến các đệ tử tin rằng sẽ có một tiết lộ tuyệt đối, chung cuộc, và đó sẽ là giáo lý chính cho 2000 năm sau đó, và điều này có nghĩa là họ chắc chắn là những đệ tử rất cao cấp vì họ đã nhận diện được giáo lý.

Một số đệ tử trong đó quả thật có trình độ cao hơn đa số dân chúng trên trái đất, nhưng thực sự thì đây không phải là một chuẩn mực so sánh ở mức cao và do đó không phải là lý do để có niềm kiêu hãnh tâm linh. Lẽ tất nhiên, niềm kiêu hãnh tâm linh không nề hà chuẩn mực so sánh ở tầng cấp nào, vì điều quan trọng cho nó chỉ là: “Tôi có trình độ cao hơn người khác chăng?” Con có thể thấy điều này ở khắp nơi trên thế giới: con người tìm ra đủ cách để cảm thấy hơn người khác dựa trên một số tiêu chuẩn nhân tạo.

7.11. Nhu cầu làm một việc gì quan trọng

Nhu cầu thứ hai của các đệ tử đó là cảm giác họ đang làm việc gì quan trọng. Các thày đáp ứng nhu cầu này bằng các bài chú và bằng cách hướng đệ tử đọc chú giải quyết những vấn nạn thế giới. Tới đây, các con hãy thận trọng: các bài chú có hiệu quả, không thể chối cãi điều này được. Không thể chối cãi là các đệ tử Summit Lighthouse đã có tầm ảnh hưởng quan trọng cơ yếu trên hành tinh và sự tiến triển của hành tinh. Thày hoàn toàn không có ý giảm danh dự hay hạ thấp tầm quan trọng của công việc đã được hoàn thành.

Như vậy con cũng có thể hiểu là thành quả này đã nuôi dưỡng (nếu họ đọc được hay nghe được những lời này) cảm giác là họ rất quan trọng. Bất cứ những gì các thày nói thì con người luôn luôn có thể diễn giải lệch hướng, đây là một rủi ro mà các thày phải chấp nhận. Tuy nhiên, có nhiều người không thuộc mạn đà la nguyên thủy đã tới Summit Lighthouse và đọc cầu chú, và đây là một phụng sự tuyệt vời. Nhưng với những người thuộc mạn đà la nguyên thủy thì có một số đã tiếp thu được giáo lý và thực tập của Summit Lighthouse và đã nhảy vọt, thu hẹp khoảng cách và bước vào con đường nội tâm. Một số đã làm được việc này nhưng một số khác không làm được.

Những người này đã dùng giáo lý của Summit Lighthouse để củng cố điều mà Giê-su và Quan âm đã giảng: Xuất phát từ ngã gốc, con đã tạo ra một cái ngã khác muốn cảm thấy, không những là nó hiểu cách vận hành của vũ trụ, nhưng nó được an toàn và an ninh. Đã có đệ tử ở Summit Lighthouse đã dùng giáo lý của các thày để củng cố cái ngã đó.  

Tuy nhiên, những đệ tử đó cũng giáp mặt một khai ngộ mà đa số không nhận ra. Con thấy chăng, con yêu dấu, trong Summit Lighthouse có ý tưởng là con có thể trượt một khai ngộ và điều này có hậu quả rất tai hại – ý tưởng này thực ra có giá trị phần nào. Thày không nói là các con, hiện đang trong một đợt truyền giáo khác, cần quá chú tâm vào việc này, nhưng con được lợi ích nếu con hiểu vấn đề này.

Như thày có nói, thực tế là có một mạn đà la gồm một số dòng sống ở đầu thời Song ngư có tiềm năng đẩy mạnh sự tăng trưởng tâm thức tập thể, nhưng với điều kiện các dòng sống đó đạt được các khai ngộ của thời Song ngư. Nếu họ không đạt được các khai ngộ này, thì họ sẽ gặp một số vấn đề ở cuối thời Song ngư.

Con cần nhận ra là khi các thày thành lập một tổ chức nhằm giúp các đệ tử chưa đạt được các khai ngộ của một thời đại nào đó, thì các thày phải chấp nhận một số rủi ro. Rủi ro đó là các thày đặt các đệ tử đó trước tình trạng ăn-cả-hay-về-không. Con hiểu rằng trong 2000 năm thời Song ngư, các đệ tử đó đã có thời gian. Nếu trong một kiếp đầu thai con không đạt được khai ngộ, thì con có cơ hội đạt được trong kiếp tới. Nhưng nay con tới đoạn cuối của thời Song ngư. Lúc đó, con có một nhóm đệ tử đang sống kiếp cuối của họ trong thời Song ngư. Nếu họ không đạt được khai ngộ trong kiếp sống đó thì họ khó có thể đầu thai trở lại trong thời Bảo bình. Đây không phải là trường hợp của tất cả mọi người trên trái đất nhưng đó là trường hợp của các thành viên của mạn đà la nguyên thủy. Họ đã có cơ hội biểu hiện quả vị Ki-tô trong thời Song ngư nhưng nếu họ không làm được việc này thì họ sẽ khó có thể đầu thai vào thời Bảo bình.

Đây không phải là một tai họa, vì nếu họ không đầu thai được trên trái đất thì chắc chắn có một số hành tinh khác có thể đón nhận họ. Nhưng điều tốt hơn, vì một số lý do, là các đệ tử này ít nhất tới được điểm họ quân bình đủ nghiệp quả để không cần đầu thai trở lại. 

Các thày đã trao truyền một số khuôn đúc và rải truyền Ánh sáng xuyên qua tổ chức Summit Lighthouse với mục đích giúp các đệ tử đó quán triệt khai ngộ của thời Song ngư. Nói cách khác, để giúp họ thu hẹp khoảng cách, bước vào con đường nội tâm và qua đó đạt được khai ngộ của thời Song ngư. Thày sẽ nêu lên một cái nhìn vi tế hơn về việc này.

7.12. Tiềm năng cao và thấp của thời Song ngư

Tiềm năng cao nhất của thời Song ngư là con biểu hiện quả vị Ki-tô, nhưng bao giờ cũng có một tiềm năng cao và một tiềm năng thấp. Tiềm năng thấp nhất là con vững chắc bước vào con đường nội tâm. Con có thể nói là với các dòng sống thuộc mạn đà la nguyên thủy, giá chót là vào cuối thời Song ngư họ đã bước vào con đường nội tâm. Nếu họ không làm được việc này thì họ sẽ khó đầu thai vào thời Bảo bình. Đó là điều các thày muốn làm: giúp họ tới được điểm đó.

Tổ chức Summit Lighthouse đưa ra một số khai ngộ cốt yếu mà ta có thể nói đã đặt các đệ tử đó trước tình trạng ăn-cả-hay-về-không. Hoặc các đệ tử đó đạt được khai ngộ hoặc họ không đạt được, không có gì ở giữa. Nếu họ không bước vào con đường nội tâm, thì họ trượt. Nếu họ không biểu hiện quả vị Ki-tô nhưng bước vào con đường nội tâm, thì họ có thể tiếp tục tiến triển. Họ sẽ không hoàn thành được tiềm năng cao nhất của họ, nhưng họ có thể tiến lên. Ngược lại, nếu họ không đạt được khai ngộ của chu kỳ Song ngư thì họ sẽ không thể đầu thai trở lại trên trái đất, ít nhất là trong một khoảng thời gian.

Các thày đã quan sát được gì nơi các đệ tử? Ấy, nhiều đệ tử đã đạt được các khai ngộ và đã ít nhất bước vào con đường nội tâm. Điều này có nghĩa là mục tiêu của Summit Lighthouse đã thật sự được hoàn thành. Các thày đã thành công trong việc giúp một số lượng tới hạn đệ tử thuộc mạn đà la nguyên thủy đạt được các khai ngộ thấp nhất của thời Song ngư và bước vào con đường nội tâm. Với kết quả này, các thày có thể nói là mục tiêu đã được hoàn thành nhưng tiềm năng cao nhất không được hoàn thành vì đã không có nhiều đệ tử đạt được quả vị Ki-tô hay dám biểu hiện quả vị Ki-tô.

Điều đáng chú ý mà thày sẽ trình bày ở đây, là tại sao chuyện này đã không xảy ra. Thày đã trao cho các con chìa khóa để tìm ra giải đáp. Đó là vì tại Summit Lighthouse vẫn còn quá nhiều đệ tử coi quả vị Ki-tô như một con đường vỏ ngoài, như một con đường máy móc: nếu con đọc đủ số bài chú, thì con không thực sự cần xem xét tâm lý của mình.

Các thày có trao truyền giáo lý về nhu cầu giải quyết tâm lý, tuy các thày không thể giảng ở trình độ mà các thày đang giảng hiện nay. Các giáo lý đã được trao truyền lúc đó, cũng như là các dụng cụ tâm linh. Các thày có trao truyền giáo lý, có khi ẩn dụ, về con đường nội tâm. Các đệ tử có thể tìm ra những điều họ cần nếu họ chịu tìm, nhưng có một nhóm đệ tử không chịu tìm. Điều này bắt nguồn từ điều thày đã giảng, là các đệ tử thời Song ngư này đã xây dựng cảm giác bực bội kèm theo cảm giác tự cao.

7.13. Phán xét người khác

Khi cảm giác bực bội nội tâm (do không biết mình đang ở đâu hay biết mình đang không ở nơi mình đáng lẽ phải ở) phối hợp với ước muốn được cao cấp hơn người khác khiến các đệ tử đó có một trạng thái tâm đặc biệt. Đó chính thực là trạng thái tâm của các thày thông giáo (scribe) và pha-ri-si (pharisee) thời Giê-su, mà Giê-su đã nhiều lần thách thức.

Đây là trạng thái tâm rất phán xét người khác dựa trên một cấu trúc vỏ ngoài gồm một số quy luật và luật lệ, thậm chí gồm cả khái niệm con đường khai ngộ, các khai ngộ cốt yếu mà đệ tử cần đạt được, và hình ảnh về cách một đệ tử chân sư thăng thiên phải đi đứng, hành xử và hành động. Các người đệ tử đó muốn tin rằng, khi họ tuân theo các quy luật vỏ ngoài và nghi thức một cách sùng kính, ta cũng có thể nói là một cách cuồng tín, hay như đang bị bệnh loạn thần ám ảnh và cưỡng bức (obsessive-compulsive) (là một câu nói thời thượng của thời nay), thì họ sẽ tự động đạt được tiến bộ.

Giờ đây, con có một nhóm đệ tử gia nhập tổ chức Summit Lighthouse, nhiều người ở tuổi tương đối trẻ. Họ quyết định trở thành nhân viên và làm việc cho tổ chức, họ có thể là nhân viên trong nhiều năm, chăm chỉ làm theo những gì họ được dạy, và thực hành các nghi thức vỏ ngoài. Họ dần dần xây dựng ý tưởng là vì họ đã làm tất cả các công việc vỏ ngoài đó, thì họ phải đạt được một cấp bậc uy quyền nào đó. Do đó, họ phải có khả năng phán xét người khác và có uy quyền để nói lên sự phán xét đó.

7.14. Đệ tử mà El Morya mất

Con yêu dấu, thày không thể nói hay làm gì được để giúp các đệ tử đó. Như một chân sư thăng thiên đã bỏ vào rất nhiều thành quả tâm linh của mình vào việc bảo trợ tổ chức đó, thày phải nhìn nhận một cách thành thực và thẳng thắn là thày đã mất các đệ tử đó. Mặc dù thày đã nỗ lực bảo trợ tổ chức và trao truyền giáo lý, thày đã mất các đệ tử đó. Thày không thể giúp họ. Thày không nói điều này với lòng hối tiếc, nhưng nói lên điều này trong cõi vật lý là một chuyện quan trọng vì một số lý do. Thày đơn giản chấp nhận sự trải bày của luật tự quyết. Thày chấp nhận là thày, như vị chân sư bảo trợ tổ chức, đã không giúp được các đệ tử đó. Thày không nhìn vào chính mình và nói là thày đã thất bại theo nghĩa thày đã không đủ khả năng hay thày đã có thể làm một cách nào khác, thày chỉ giản dị nêu lên sự kiện, thày chỉ nhận xét như vậy. Thày không có gì để nói với hay nói về các đệ tử này – họ đằng nào cũng không muốn nghe. Thày muốn mô tả sự việc này cho những ai mở tâm đón nhận vì chuyện quan trọng là con xem xét việc này. Con có thể nhìn vào thời Song ngư và thấy biết bao tổ chức tôn giáo hay tâm linh, cũng như là các tổ chức chính trị, có mô thức phán xét người khác dựa trên một số tiêu chuẩn vỏ ngoài được quy định trên trái đất. Như các thày đã nhiều lần thuyết giảng trong nhiều bài về tâm thức nhị nguyên và sa nhân, các tiêu chuẩn này tất nhiên do sa nhân quy định.

7.15. Bước vào con đường nội tâm

Điểm quan trọng mà con cần rút tỉa là con đường quả vị Ki-tô không máy móc. Điều quan trọng không phải là học một số giáo lý, thực hành một số thực tập, đạt được một số khai ngộ – điều quan trọng là bước vào con đường nội tâm.  Một khi con đã bước vào con đường nội tâm, thì con vượt lên trên ý niệm có thể trượt thử thách. Nếu con quan sát phản ứng của mình, thì con không thể trượt thử thách. Con có thể chưa thấy một số chuyện, nhưng đó là chuyện con chưa thấy. Nếu con sẵn lòng quan sát chính mình thì con đã đi trên con đường nội tâm, và vấn đề chỉ là con tiến triển bao nhiêu và đi nhanh chừng nào. Có khi con tiến triển nhanh hơn và có lúc khác con cần thì giờ để giải quyết một vấn đề.

Chắc chắn là với giáo lý mà các con đã nhận được về ngã gốc thì con có tiềm năng tiến triển rất nhanh và tới điểm con không những đi vào con đường nội tâm mà còn được giải thoát khỏi cái ngã phản ứng. Lẽ tất nhiên, đây là điều kiện chính yếu để đi vào con đường nội tâm dẫn tới quả vị Ki-tô hay để là Ki-tô Hằng sống, tức là con không phản ứng lại những chuyện xảy ra trên thế gian.

Con có thể nhìn vào tất cả các tổ chức đó và thấy khuynh hướng phán xét, khuynh hướng phán xét người khác. Con hãy nhìn vào khu vực này của thế giới và thấy rằng trong thời chế độ Sô viết, nhiều người dân Liên bang Sô viết tin rằng, vì họ là công dân Liên bang Sô viết, nên họ hơn những người bên ngoài Liên bang Sô viết. Họ rất khinh chê xã hội Tây phương mà họ coi là đồi trụy, hay bất cứ điều gì khác. Con hãy nhìn xem có biết bao nhiêu người ngày nay có thái độ phán xét. Nhiều người dân Hoa kỳ tin rằng Hoa kỳ là quốc gia cao quý nhất thế giới và nhìn các nước khác với con mắt đầy phán xét, và quên nhìn cái đà trong con mắt của tâm hồn dân tộc Mỹ. Con có thể thấy rất, rất nhiều thí dụ tương tự trên khắp thế giới. Con hãy nhìn thời đầu thế kỷ trước, ý niệm hơn người của người dân các nước Đức, Pháp, Anh đã đưa tới Thế chiến Thứ nhất và sau đó Thế chiến Thứ hai. Tinh thần này đã có thể đưa tới Thế chiến Thứ ba nếu các thày không thành công trong việc đưa ra một số biện pháp vá víu, kể cả số lượng lớn các bài chú đã được đọc tại Summit Lighthouse.

7.16. Cái ngã đối phó với việc bị phán xét

Những người trong các con đang hay đã từng biết và tham gia vào Summit Lighthouse, và sẵn sàng mở tâm đón nhận bài giảng này của thày, thì có thể dùng bài này như một phương tiện để làm hòa với kinh nghiệm của mình với tổ chức đó. Một số trong các con có vết thương tâm lý từ thời sinh hoạt trong Summit Lighthouse, trước nhất là vì đã giáp mặt một số người có tâm rất phán xét. Như thày có từng nói hồi thời Summit Lighthouse, có một số đệ tử mà các thày không dám đưa vào tổ chức đó. Lý do chính yếu là vì đây là những linh hồn ngây thơ và các thày không muốn họ giáp mặt tâm thức rất phán xét chi phối tổ chức đó và vẫn còn ảnh hưởng nó ngày nay.

Sau đó, con yêu dấu, con có thể dùng bài giảng này để nhận ra, như vị sứ giả này đã nhận ra trước khi nhận bài truyền đọc này, là để đối phó với tâm thức đó (không những trong Summit Lighthouse nhưng từ sa nhân nói chung và từ các tổ chức mà con đã tham gia trong thời Song ngư, tỷ dụ như Giáo hội Công giáo) con đã tạo ra một cái ngã để đối phó với sự phán xét của người khác, sự lên án của người khác. Chuyện rất quan trọng cho con là con tới điểm nhận diện cái ngã đó, con thấy là nó có trong tâm thức của con, và ở mỗi người nó mỗi khác.

Con cần tự đặt câu hỏi: “Khi một người phán xét tôi, kết tội tôi, và tố cáo là tôi đã làm điều gì sai, thì tôi đối phó với chuyện này như thế nào? Tôi cảm thấy gì? Cảm xúc của tôi là gì? Niềm tin đằng sau là gì?” Sau đó, con có thể dõi lên thể bản sắc và thấy là nó phát xuất từ ngã gốc như thế nào, và con phản ứng ra sao khi sa nhân chê bai con. Điều này sẽ giúp con nhận diện ngã đó, tách mình ra khỏi nó, nhìn vào nó, và thấy là bất kể vấn đề nào mà ngã đó nêu lên là con cần giải quyết, hay bất kể điều kiện nào mà con cần hội đủ để tránh bị phán xét, chúng đều không thật, đều là ảo tưởng. Ngay cả khi con hội đủ điều kiện, sa nhân sẽ vẫn tiếp tục kết tội con, họ sẽ luôn luôn kết tội con. Một khi con nhận ra điều này, con có thể đi một bước rất, rất quan trọng và không coi cá nhân mình là trọng điểm của con đường tu. Các thày đã giảng điều này trước đây nhưng thày muốn cho con một tầm nhìn khác về vấn đề này.

7.17. Không coi cá nhân mình là trọng điểm của đường tu

Con yêu dấu, con hãy xem xét trường hợp một avatar đã sống lâu năm trên một hành tinh tự nhiên nơi không có sa nhân. Con chưa bao giờ giáp mặt với sự kết tội đó, chưa bao giờ, trên một hành tinh tự nhiên. Giờ đây, con tới trái đất, và có thể là trong kiếp đầu thai đầu, con giáp mặt sự tấn công trực tiếp và mạnh mẽ của sự kết tội của sa nhân. Chuyện gì đã thực sự xảy ra trong tiến trình đó? Ấy, khi con ở trên hành tinh tự nhiên con ở trong trạng thái tâm mà các thày, khi so sánh với chuyện con trải nghiệm trên trái đất, có thể gọi là “không coi cá nhân mình là trọng tâm”.

Con không quá chú tâm vào chính mình, con chú tâm là một phần của tổng thể, đang làm việc cho tổng thể, đang làm việc để nâng cao tổng thể. Đây là trạng thái tâm tự nhiên trên một hành tinh tự nhiên. Giờ đây, con xuống trái đất với ý định làm việc cho tổng thể và nâng cao tổng thể. Con đã quen là khi con làm như vậy thì con nhận được một phản hồi tích cực. Ít ra thì con không bị chê bai khi làm vậy. Bỗng nhiên, con trải nghiệm là sa nhân tố cáo, tấn công, lên án, phán xét, chê bai con. Con bị một cú sốc và nghĩ: “Ồ, họ đang làm các chuyện này đối với tôi. Họ nói là tôi có điều gì sai trái. Tôi chưa bao giờ trải nghiệm chuyện này. Vì sao họ lại nói là tôi có điều gì sai trái? Tôi tới đây với thiện ý tốt nhất. Tôi chỉ muốn tới đây để giúp tổng thể nhưng họ lại nó là tôi sai trái, tôi có điều gì sai trái?”

Bỗng nhiên, lần đầu tiên trong đời, con phải đối mặt với câu hỏi này. Vì con là một dòng sống có thói quen nhìn vào chính mình và xem xét phản ứng của mình, nên con không quen kết tội và bị kết tội. Con xem xét chính mình, lẽ tự nhiên con xem xét chính mình và nói: “Nhưng, có thể nào họ có lý chăng? Tôi đã làm gì sai trái trên hành tinh này chăng?” Bỗng nhiên, con bị phóng vào mối nghi ngờ và con bị ép buộc phải phản ứng. Lúc đó con làm gì? Các thày có giảng là con tạo ra một cái ngã, đó là ngã gốc.

Đúng vậy, nhưng ngã gốc là gì? Nó là một ngã đặt trong tâm vào cá nhân mình. Bỗng nhiên, từ không đặt trọng tâm vào cá nhân mình trên hành tinh tự nhiên, con tới trái đất, con trải qua một chấn thương, và nay con nhìn cuộc đời của mình trên trái đất qua một ngã một cách rất cá nhân. Trên một hành tinh tự nhiên, ý niệm bản ngã của con rất bao la, nhưng trên một hành tinh phi tự nhiên con bị dồn vào một ý niệm bản ngã rất hạn hẹp coi mình là trung tâm của vũ trụ cá nhân của mình. Giống như là con nhìn mọi chuyện từ trung tâm điểm đó, con từ trung tâm điểm đó nhìn ra bên ngoài. Bỗng nhiên, mọi chuyện trở nên cá nhân trên hành tinh này. Bỗng nhiên, con nghĩ là có thể con đã thất bại, có thể con đã làm điều gì sai trái trên hành tinh này. Ngã gốc được tạo dựng chung quanh nỗi sợ thất bại, và đó là lý do vì sao con coi cá nhân mình là trọng tâm khi tiếp giáp mọi sự việc.

Các thày đã cố gắng giảng cho các con là hành tinh này là một hành tinh phi tự nhiên, nơi đây không có gì thường hằng, mọi chuyện như là kết quả của cuộc chơi trong bãi cát. Các thày đã trao truyền các giáo lý đó, nhưng các thày cũng biết các thày đối mặt với tình trạng mà các thày luôn luôn phải đối mặt, đó là khoảng cách. Khi con chưa nhìn ra và giải quyết ngã gốc, thì con không thể ngưng coi cá nhân mình là trọng tâm của cuộc đời mình trên trái đất. Con không thể nhìn vào cuộc đời trên trái đất và nói: “Ấy, tôi sẽ chỉ cần xây một lâu đài cát khác, hay tôi sẽ chỉ phá lâu đài cát cũ và bãi cát sẽ trở về trạng thái tinh khôi của nó.” Cũng giống như dùng gậy đánh vào mặt nước. Con có đánh mạnh đến đâu, thì mặt nước sẽ vẫn trở về trạng thái tĩnh lặng.

Con yêu dấu, chúng ta đang bước vào thời Bảo bình. Con hãy giống như nước nếu con muốn đạt được các khai ngộ của thời Bảo bình. Con thấy chăng, con yêu dấu, khi con nhìn vào ngã đó và xem xét cách con phản ứng lại sự phán xét, và sau đó cho ngã đó chết đi, thì bỗng nhiên cuộc đời không còn xoay quanh cá nhân con nữa. Không có lý do nào để phán xét chính mình vì con nhận ra là các thày không phán xét con. Các thày có thể nói là các thày không phán xét con, nhưng khi con còn cái ngã đó, thì con không thể thực sự hiểu thấu lời giảng của các thày. Chắc chắn là con không thể chấp nhận nó. Khi con đã giải thoát khỏi ngã đó, thì con có thể trải nghiệm điều Giê-su đã trao truyền ngày hôm qua: sự chấp nhận vô điều kiện mà các thày dành cho con.

7.18. Kẻ mạo danh El Morya do đệ tử tạo ra

Con yêu dấu, vì sao thày lại có ý đổi tên mình? Bởi vì trong Summit Lighthouse, các đệ tử đã tạo dựng hình ảnh El Morya như một người trọng kỷ luật khắt khe. Có một số đệ tử thực sự tin rằng họ đã đạt được tới trình độ khiến họ có thể, thậm chí có bổn phận, “rọi ánh sáng xanh” vào các đệ tử khác (như lời họ nói) bằng cách cho các đệ tử này biết El Morya sẽ nói gì về tự ngã, hay kẻ đứng trên ngưỡng cửa, của họ. Họ dung dưỡng hình ảnh là thày là một người trọng kỷ luật khe khắt và đặt ra rất nhiều điều kiện mà các đệ tử phải hội đủ.

Hình ảnh này trở nên quá đậm nét nên thày quyết định là thày muốn làm hai chuyện. Hoặc thày lay động các đệ tử có hình ảnh này để họ có thể bắt đầu thoát khỏi hình ảnh đó. Hoặc thày thu hút đệ tử mới biết thày với một tên mới (Chân sư MORE) và do đó không cần phải đi vào khuôn đúc cũ vẫn còn đó. Điều thực sự xảy ra là các đệ tử tại Summit Lighthouse đã tạo ra một El Morya giả, một người mạo danh El Morya, như một người trọng kỷ luật đầy lòng phán xét. Họ vẫn còn duy trì kẻ mạo danh này cho tới ngày nay. Một số đệ tử tôn thờ kẻ mạo danh đó và nghĩ rằng đó là con người thật của thày tuy rằng thày đã nói là không phải vậy. Các người đó đã mất thày, và thày đã mất họ. Thày chấp nhận điều này. Thày biết là các đệ tử đó sẽ không chấp nhận điều này, vì nếu họ chấp nhận thì họ sẽ phải thay đổi. Họ thật sự sẽ phải nhìn vào chính họ, nhận ra là họ có lòng phán xét lớn, và họ hầu như không thể làm được chuyện này.

Con yêu dấu, con có hiểu chăng tại sao các đệ tử đó hầu như không thể làm được chuyện đó? Chuyện này rất, rất đơn giản. Nếu con đã xây dựng một động lượng phán xét người khác vì họ đã làm lỗi lầm này hay lỗi lầm khác, thì chuyện gì sẽ xảy ra nếu con nhìn nhận là con sai khi phán xét người khác? Ấy, con chỉ có thể phán xử dựa trên tiêu chuẩn đúng hay sai. Con sẽ phải nhìn nhận là con đã sai. Nếu con nhìn nhận là con sai, thì con vẫn còn động lượng phán xét. Lúc đó, thay vì luôn luôn tìm cái giằm trong con mắt người anh em và phán xét họ, thì nay con đã nhìn nhận cái đà trong con mắt mình, thì con sẽ phải phán xét mình như con đã từng phán xét người khác, có thể là suốt 2000 năm qua hay còn nhiều hơn thế nữa. Những người đệ tử đó sẽ không thể chịu được gánh nặng tâm lý của sự lên án chính mình đó.

Mốt số ít người đã chuyển từ phán xét người khác sang phán xét chính mình, và họ hầu như bị loạn trí hay bị vấn đề tâm lý trầm trọng. Lẽ tất nhiên, thày không muốn bất cứ ai phải gánh chịu gánh nặng này. Nếu các đệ tử có thể đón nhận giáo lý mà các thày trao truyền, thì họ sẽ có thể thấy không phải họ đang phán xét người khác. Đó là một cái ngã tách biệt mà họ đã tạo ra, và họ đã tạo ra ngã tách biệt này khi sa nhân khiến họ phải chịu chấn thương nhập đời.

Do đó, nếu họ sẵn lòng đón nhận giáo lý và dùng các dụng cụ tâm linh, thì họ có thể tách mình ra khỏi cái ngã đó và nói: “Đúng rồi, tôi nhìn nhận là chuyện này đáng lẽ không được xảy ra, nhưng nó đã xảy ra, tuy nhiên thực sự không phải là tôi đã làm chuyện đó, mà là cái ngã tách biệt và bây giờ tôi biết tôi hơn ngã tách biệt đó. Do đó, tôi có thể tách mình ra khỏi nó, nhìn vào nó và nói: ‘Tôi cho bạn chết đi.’” Họ có thể nhận ra, nếu họ thực sự đón nhận các giáo lý này, là họ không cần bù đắp vì đã có tâm phán xét. Họ không cần thay đổi gì nơi vỏ ngoài hay chỉnh sửa điều gì hay giải quyết vấn đề nào. Họ chỉ cần nhận diện ra cái ngã và để nó chết đi. Tất nhiên, họ cũng cần đọc một số lượng bài chú để chuyển hóa năng lượng đã bị tha hóa xuyên qua ngã đó, nhưng đây là một chuyện mà họ rất có khả năng làm.

7.19. Tất cả đều có một lối thoát

Tất cả các đệ tử chân sư thăng thiên đều có một lối thoát nếu họ muốn được giải thoát. một lối thoát. Con có thể khắc phục mọi chuyện vì mọi chuyện mà con đã làm, mà con nghĩ đáng lẽ không nên như vậy, đều được làm xuyên qua một ngã tách biệt. Khi con cho ngã đó chết đi thì con được tái sinh, con là một sinh thể mới trong Ki-tô. Con có thể vẫn còn một số ngã tách biệt khác, do đó con không nên có ảo tưởng là con đã sạch tự ngã, con đã hoàn toàn hay giác ngộ. Con là một sinh thể mới trong Ki-tô. Mỗi lần con rũ bỏ một cái ngã thì con được tái sinh vào một ý niệm bản ngã cao hơn. Thày chỉ muốn như vậy, con yêu dấu. Tất cả các chân sư thăng thiên chỉ muốn thấy con như vậy, thấy con đi vào tiến trình tái sinh liên tục. 

7.20. Thu hẹp khoảng cách

Một lần nữa, và thày biết là thày đang thử thách sức chịu đựng của các con, thày trở lại khoảng cách! Các thày biết là ngay cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền qua vị sứ giả này, nhiều người đã đón nhận giáo lý, đã thực hành các thực tập, nhưng họ vẫn cảm thấy có khoảng cách. Họ nhìn vào mục tiêu đạt quả vị Ki-tô và thấy nó ở trên kia, trong khi họ ở dưới này, có một khoảng cách giữa nơi họ đang là và nơi họ phải là, và họ không thấy làm sao thu hẹp khoảng cách.

Họ xem xét giáo lý và họ nghiên cứu giáo lý và nghĩ là phải có điều gì họ đã bỏ sót và không nhận ra đó là cái gì. Các thày nay đã trao cho các con các giáo lý về cách thu hẹp khoảng cách với ngã gốc, và các ngã tách biệt khác.

Điều mấu chốt là nhận ra là con không thể giải quyết bất cứ vấn đề nào mà ngã tách biệt phóng chiếu tới con – con chỉ có thể cho ngã đó chết đi. Đó là lý do vì sao các thày đã nói là con không thể bước vào con đường quả vị Ki-tô khi con còn tìm cách làm việc này xuyên qua một trong các ngã phản ứng đó. Con không thể là Ki-tô xuyên qua một ngã đang phản ứng lại sa nhân.

Một khi con đã khắc phục được ít nhất là một vài ngã đó, và con đã bớt coi cuộc đời xoay quanh cá nhân mình, thì con có thể bắt đầu là Ki-tô. Lúc đó, con không đi trên con đường Ki-tô để cảm thấy an toàn, hơn người, để giải quyết một vấn đề, để bù đắp một sai lầm mà con đã phạm, để được chứng thực hay công nhận. Con trở lại thuở con ở trên hành tinh tự nhiên và làm việc cho tổng thể, ít ra là như con thấy nó lúc này, và đó là chuyện con đã làm trên hành tinh tự nhiên. Con chưa giác ngộ khi con ở trên hành tinh tự nhiên. Con chưa thăng thiên khi con ở trên hành tinh tự nhiên. Con chưa ở trạng thái tâm thức cao nhất mà con có thể đạt được khi con ở trên hành tinh tự nhiên, nhưng con có tâm thái sống không xoay vần chung quanh cá nhân mình.

Ngôn từ đã tới giới hạn của chúng. Thày chỉ có thể cống hiến các con một cái gì vượt quá ngôn từ và đó là tình thương mà thày dành cho tất cả và mỗi người các con. Con yêu dấu, không có gì trên trái đất thật sự dành cho cá nhân con vì không có gì trên trái đất hướng về cái Ta Biết, là cái gì vượt quá hình tướng.

Có một số điều kiện, đặc tính, năng lượng, khuôn đúc liên quan tới cá nhân con. Sự chấp nhận vô điều kiện của Giê-su dành cho riêng cá nhân con. Tình thương của thày dành riêng cho cá nhân con, cái ta thật của con. Ngay cả cái “ta” mà con là trong trạng thái tâm thức hiện tại, thày thương yêu nó như nó là ngay lúc này, và mỗi ngày thày sẽ thương yêu con hơn nữa. Con chỉ có thể chấp nhận cái hơn nữa đó khi con mỗi ngày trở nên hơn nữa bằng cách buông bỏ các ngã đang là ít hơn.

Thày thương yêu con khi con còn các ngã đó nhưng con không thể trải nghiệm tình thương của thày xuyên qua cái ngã. Chỉ khi nào con cho ngã chết đi, thì con mới trải nghiệm là thày thương yêu con hơn nữa, thực sự không phải vì thày thương yêu con nhiều hơn nhưng vì con trải nghiệm tình thương của thày nhiều hơn. Tới đây thì đã quá đủ ngôn từ rồi, quá đủ ngôn từ rồi, con yêu dấu. Không có lượng ngôn từ nào có thể thu hẹp khoảng cách, chỉ có một sự chuyển đổi tâm mới có thể thu hẹp khoảng cách.

5 | Chấp nhận là Ki-tô chấp nhận con

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 21 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày tới đây để trao cho các con một bài nữa trong số các giáo lý mà thày có ý định trao truyền trong hội nghị này dưới chủ đề làm sao là Ki-tô Hằng sống hành động. Giờ đây các con yêu dấu, khi thày trao truyền quyển Chìa khóa cơ yếu đưa tới quả vị Ki-tô cá nhân, thì thày ở trước tình trạng mà thày có đề cập tới sáng nay, đó là các thày cần nhận ra con người đang ở tầng tâm thức nào – tâm thức tập thể ở tầng nào, các người tâm linh ở tầng nào, các giáo lý nào đã được trao truyền trước đây, giáo lý nào có thể trao truyền bây giờ. Thày đã trao truyền một khóa học với mục đích đi tới con người (ngay cả một số người có quá trình Cơ đốc giáo và do đó đã lớn lên với một cái nhìn truyền thống về Ki-tô và đạo Cơ đốc) và cho họ một giáo lý có thể giúp họ tiến gần hơn quả vị Ki-tô.

Khóa học đã giúp một số người đã sẵn sàng, nhưng lẽ dĩ nhiên vào lúc đó, không có khóa học nào có thể đưa những người chưa sẵn sàng vượt trở ngại và bắt đầu biểu lộ quả vị Ki-tô. Lý do là vì, như thày có giảng sáng nay, nếu con chưa chạm trán, thấy rõ ngã gốc và để cho nó chết đi, thì con không thể bắt đầu dám biểu lộ quả vị Ki-tô, vì con không có tự do biểu lộ nó.

5.1. Là Ki-tô nghĩa là gì

Bây giờ thì các thày đã trao truyền giáo lý về ngã gốc, nên lẽ dĩ nhiên các thày có thể giảng cho các con nhiều hơn về thế nào là Ki-tô Hằng sống. Trên căn bản, Ki-tô Hằng sống là một sinh thể không phản ứng lại điều kiện trên trái đất, không bị lôi cuốn vào vòng xoáy phản ứng lại những gì người ấy trải nghiệm trên trái đất. Có nghĩa là con không phản ứng lại trái đất xuyên qua phin lọc của ngã gốc mà con tạo ra khi bị chấn thương nhập đời. Đúng thực là khi con còn ngã gốc, thì như thày có giảng năm ngoái, nó sẽ pha màu cách con tiếp cận cuộc sống trên trái đất. Ta có thể nói là khi con còn ngã gốc, thì con không thực sự có tự do là Ki-tô vì ngã gốc được tạo ra như một phản ứng lại những gì con trải nghiệm trên trái đất.

Khi con còn tìm cầu an toàn, an ninh, muốn bù đắp lại điều con đã làm trong quá khứ, thì mọi việc con làm đều bắt nguồn từ nhu cầu đó: nhu cầu muốn hiểu và đặt sự việc vào bối cảnh, nhu cầu làm chủ tình hình, nhu cầu cảm thấy an toàn, nhu cầu được bù đắp. Thậm chí con sẽ dùng giáo lý tâm linh để tìm cách thỏa mãn nhu cầu đó. Do đó, con không thể thực sự là Ki-tô vì Ki-tô là trung gian giữa Tánh linh và cõi vật chất. Con không thể là trung gian giữa Tánh linh và cõi vật chất khi con chưa tạo được đường dây chắc chắn nối kết con với cõi tâm linh và con dám tự do biểu lộ trong cõi vật chất những điều được truyền qua đường dây nối kết đó.

Nếu con không nối kết với cõi tâm linh thì con không thể là người trung gian. Mặt khác, nếu con không có tự do để biểu lộ bất cứ xung lực nào chảy qua đường dây nối kết đó, thì con cũng không thể là người trung gian, ít ra là con không thể là người trung gian hoàn toàn. Con có thể nói: “Vậy thì làm sao con người có thể đạt được phần nào quả vị Ki-tô khi chưa có giáo lý về ngã gốc?”

Ấy, lý do là, lẽ dĩ nhiên, không tuyệt đối cần thiết có giáo lý về ngã gốc để khắc phục được ngã gốc. Các thày đã trao cho các con dụng cụ gì để khắc phục ngã gốc? Nó dựa trên nguyên liệu chính trên con đường tâm linh: sự quán sát chính mình.

Qua các thời đại, đã có một số người, một số ít người, đã có thể sử dụng khả năng của cái Ta Biết bước ra ngoài ý niệm bản ngã hiện tại và quán sát chính nó, quán sát cái ngã vỏ ngoài, từ bên ngoài. Do đó, con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi nó, và do đó, con có thể, lẽ dĩ nhiên, biểu lộ một phần quả vị Ki-tô. Một số các con đã làm điều này trước khi con nhận được giáo lý này. Tuy nhiên, các thày trao truyền giáo lý này vì đã đủ túc số những người sẵn sàng nhận giáo lý và có thể sử dụng nó để gia tốc sự tăng triển của họ, và tới điểm, thay vì chỉ chợt thoáng có quả vị Ki-tô, thì họ có thể biểu lộ nó một cách liên tục hơn. Nhiều người trong các con đã đạt được một thành quả tâm linh nào đó trong những kiếp trước và đã thiết lập được đôi chút nối kết nội tâm. Do đó, con đã có thể đôi khi biểu lộ quả vị Ki-tô. Trong nhiều trường hợp, con đã không làm được đến mức tối đa, là điều con mong muốn trong Sứ vụ Thiêng liêng của kiếp sống này.

5.2. Món quà tiềm ẩn của Ki-tô

Bây giờ thì thày trao cho con một giáo lý giúp con tiến xa hơn trong việc biểu lộ quả vị Ki-tô. Tất nhiên, thày giả sử một lần nữa là con học một cách nghiêm túc, và con đã dùng những giáo lý mà các thày đã trao truyền trong quyển Các kiếp sống của tôi và quyển Chữa lành chấn thương tâm linh để bắt đầu khắc phục ngã gốc. Một khi con đã bắt đầu khắc phục ngã gốc thì con sẽ dễ hiểu những gì thày giảng ở đây.

Giờ đây con yêu dấu, thày muốn con bước lui khỏi toàn bộ tấm màn bao phủ do đạo Công giáo chính thức tạo ra, đặc biệt là trong 17 thế kỷ vừa qua từ ngày Giáo hội Công giáo La Mã được thành lập. Thày muốn con cố gắng bước lui khỏi tất cả những thứ đó – tất cả những diễn giải tân thời về Giê-su và ý nghĩa của Ki-tô. Con hãy bước lui lại và nhìn vào những điều mà con biết về cuộc đời của thày, chuyện gì đã thực sự xảy ra. Thày đã muốn hoàn thành chuyện gì? Thày thực sự muốn cho con người cái gì? Tuy những điều này không được mô tả rõ ràng trong Thánh kinh, nhưng ít ra cũng đã có một số gợi ý trong đó. Thày lúc nào cũng tìm cách cho con người trải nghiệm là có cái gì cao hơn tâm thức hiện tại của họ, có một tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức hiện tại của họ. Đó là một công việc rất khó khăn, ít ra thì đó là một công việc không thể hoàn thành một cách tuyệt đối, vì, như các thày đã giảng cho các con, trên trái đất có 144 tầng tâm thức.

Trong kiếp sống đó của thày, trong khoảng 3 năm thày truyền giáo, thày đã gặp những người thuộc đủ 144 tầng tâm thức, hay đúng hơn thì thày ít nhất đã gặp những người ở các tầng tâm thức thấp trong khi thày gặp vài người ở tầng 144. Thày có gặp một số vị đó trước khi thày bắt đầu 3 năm truyền giáo, nhưng trong thời gian thày truyền giáo ở Palestine, thì thày thực sự không gặp ai ở các tầng tâm thức cao. Tuy nhiên, khi con gặp một người ở tầng tâm thức thấp thì con không thể trao cho họ cùng giáo lý mà con trao cho người ở tầng tâm thức cao. Con không đạt được lợi ích gì khi con tìm cách trao cho những người ở dưới tầng 48 giáo lý mà con trao cho người ở trên tầng 48, vì họ sẽ không thể nào hiểu được. Con có nghe câu chuyện thày gặp một người đang khát nước và thày đã không tìm cách trao cho y một giáo lý tâm linh mà thày nhân danh Ki-tô trao một ly nước. Con thấy là thày thay đổi món quà để thích nghi với tầng tâm thức của con người. Tuy nhiên điều thày muốn nói và dạy cho con là có một điều Thánh kinh không nói tới và đa số người tâm linh thần bí thuộc nhóm Thời đại Mới cũng thực sự không hiểu. Đó là khi thày trao cho con người điều gì phù hợp với tầng tâm thức của họ, thày cũng trao cho họ một cái gì khác. Ngay cả khi thày cho một người ly nước lạnh, thày cũng trao cho họ từ thày điều gì đó nhiều hơn là nước. Cái nhiều hơn đó là gì vậy? Ấy thày sẽ trình bày điều này theo hai cách.

5.3. Con không thể hiểu Ki-tô

Nhiều người trong các con, là những người tâm linh, quen học một giáo lý và tìm cách hiểu giáo lý đó. Nếu con nhìn thành phần những người tâm linh và tín đồ các tôn giáo, thì con thấy là có nhiều người nghĩ rằng (đặc biệt là trong thời đại hiện đại này là thời có nhiều người bị ảnh hưởng bởi lối suy nghĩ lý luận, duy lý, đường thẳng) vấn đề là hiểu giáo lý. Thày đồng ý là có câu ngạn ngữ: “Chân lý sẽ giải thoát con người”, và con người ngày nay lý giải là chân lý nghĩa là một hiểu biết. Con bị vướng kẹt trong một ảo tưởng, và một khi con có được hiểu biết xóa tan ảo tưởng, thì con được giải thoát khỏi ảo tưởng. Tất nhiên điều này đa phần đúng. Con có thể vượt qua ảo tưởng bằng cách thấy chúng là ảo tưởng và do đó được giải thoát khỏi chúng.

Có một truyện ngụ ngôn cổ của Ấn Độ nói rằng nếu con cầm trong tay một cái gì con nghĩ là con rắn thì con sợ, nhưng khi con thấy đó là một sợi dây thừng, thì cơn sợ tan biến đi. Câu truyện này có giá trị, nhưng tuy thày cũng muốn trao truyền hiểu biết qua các giáo lý, nhưng đây không phải là điều chính yếu mà thày muốn trao truyền. Thực ra, khi thày trao truyền một giáo lý, thì nó chỉ như một cỗ xe, giống như ly nước lạnh là một cỗ xe. Ly nước lạnh là cỗ xe đem lại món quà mà thày muốn trao cho một người ở một tầng tâm thức nào đó. Khi thày trao truyền bất cứ gì, thì đó là một cỗ xe cho món quà lớn hơn mà thày muốn trao. Món quà lớn hơn đó là gì? Ấy, đây là một câu hỏi mà con có thể đặt ra cho chính mình: “Tôi có thể hiểu Ki-tô bằng tâm đường thẳng, phân tích của tôi chăng? Tôi có thể hoàn toàn hiểu Ki-tô chăng?” Câu trả lời rất rất rõ và dứt khoát: “KHÔNG!” Con không thể hoàn toàn hiểu Ki-tô. Con có thể hiểu một số khía cạnh và đặc tính của Ki-tô. Con có thể hiểu sự tương phản giữa điều rõ ràng là phản Ki-tô và sự hiểu biết cao hơn về Ki-tô. Có một số chuyện con có thể hiểu, nhưng con không thể nào nắm bắt toàn bộ Ki-tô bằng cách hiểu. “Minh triết là điều chính yếu, và con hãy tìm cầu minh triết với tất cả sức hiểu biết của con.” Câu này có giá trị tới một tầng nào đó, nhưng nó không thể đưa con đi quá tầng đó.

5.4. So sánh hiểu và nắm bắt

Vì chúng ta đang sống trong thời đại trí năng, nên thày muốn trình bày là có sự khác biệt giữa hiểunắm bắt. Con có thể hiểu một điều gì đó một cách đường thẳng, phân tích mà không nắm bắt điều đó. Con có câu ngạn ngữ cổ nói rằng: “Ta không thể nhìn ra khu rừng nếu ta nhìn vào các cây.” Con quá chú tâm vào chi tiết và mất đi khả năng bước lui lại và thấy toàn bộ viễn cảnh. Tâm đường thẳng, phân tích hay có tác dụng đó trên con người.

Họ quá chú tâm vào các chi tiết được diễn tả bằng lời mà tâm đường thẳng có thể xử lý, phân tích, xếp loại, dán nhãn và xếp gọn ghẽ vào danh mục hay hộp trong kho tài liệu. Vì họ quá chú tâm vào các chi tiết, nên họ không thể bước lui lại và thấy toàn bộ viễn cảnh. Con không thể nắm bắt Ki-tô bằng cách xem xét các chi tiết, các khía cạnh. Con chỉ có thể thực sự nắm bắt Ki-tô khi con bước lui lại và trải nghiệm Ki-tô. Nói cách khác, nắm bắt Ki-tô không phải chuyện hiểu, mà là chuyện trải nghiệm, con có thể nói đó là một tiến trình kinh nghiệm. Những điều thày trao truyền cho con người trong kiếp hiện thân, thày luôn luôn tìm cách trao cho họ món quà lớn hơn để họ có thể trải nghiệm là có cái gì vượt xa hơn tâm thức hiện tại của họ.

Ít ra là họ có thể trải nghiệm là thày ở trên tầng tâm thức hiện tại của họ. Thày ở tầng tâm thức cao hơn, do đó việc ở tầng tâm thức cao hơn là điều khả thi. Lẽ dĩ nhiên, sự trải nghiệm của họ tùy thuộc tầng tâm thức của họ. Một người ở tầng tâm thức thứ 3 không thể nào thấu suốt và trải nghiệm Ki-tô ở mức độ hoàn toàn như một người ở tầng tâm thức 96. Bất kể con đang ở tầng tâm thức nào, con có thể trải nghiệm là có một bước ở trên tầng của mình, vì con lúc nào cũng có khả năng thấu suốt và trải nghiệm bước ở ngay trên tầng tâm thức của con. Thày tìm cách trao gì cho con người?

5.5. Ki-tô và quyền tự quyết

Đây là nơi con cần sử dụng tất cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền vì thày không thể giảng hết trong một bài truyền đọc. Thày chỉ có thể nói những điểm nổi bật nhất, và con cần tìm những giáo lý giảng tường tận hơn, nếu có một vài khía cạnh mà con không hiểu thấu. Điều mà các thày đã giảng là quyền tự quyết có tính cách tuyệt đối, con người có hoàn toàn tự do sử dụng nó.

Khi Thượng đế ban cho những phần nối dài của ngài quyền tự quyết, thì ngài không chế ra một tiêu chuẩn quy định thế nào là chọn lựa đúng và chọn lựa sai. Đấng Sáng tạo không có trong tâm ngài sự phán xét là con người phải sử dụng quyền tự quyết như thế nào. Do đó, đấng Sáng tạo ban con người quyền tự quyết, và con người có hoàn toàn tự do sử dụng nó. Mục đích của đấng Sáng tạo khi làm vậy, lẽ dĩ nhiên, là để tạo ra những phần nối dài của ngài lúc đầu có, điều mà các thày đã gọi một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm, và dần dần nới rộng nó ra cho tới khi nó trở thành sự trọn vẹn của tâm thức của đấng Sáng tạo. Mục đích tối hậu của đấng Sáng tạo là tạo ra các đấng Sáng tạo khác. Để có thể tăng triển tới tầng tâm thức của đấng Sáng tạo, thì con bắt đầu như một người đồng-sáng tạo với một ý niệm bản ngã hạn hẹp và dần dần tăng trưởng nó lên.

Cách duy nhất để tăng trưởng ý niệm bản ngã là con có quyền tự quyết, con chọn lựa. Con tạo ra một cái gì, con trải nghiệm tạo vật đó và sau đó con lượng định dựa trên kinh nghiệm của mình: “Tôi muốn thêm trải nghiệm này hay tôi muốn một trải nghiệm cao hơn. Tôi muốn có thêm kinh nghiệm tương tự, hay tôi muốn cái gì hơn nữa?”

Để tiến trình này được trải bày, các người đồng-sáng tạo phải hoàn toàn có quyền tự quyết vì con phải được làm bất cứ chuyện gì con muốn làm, bất cứ chuyện gì con có thể tưởng tượng, bất cứ chuyện gì con hình dung. Con cần được cho phép sáng tạo ra nó, trải nghiệm hậu quả và sau đó dần dần quyết định là con muốn một trải nghiệm càng ngày càng cao hơn. Đó là cách tiến trình này vận hành, đây là cách tiến trình tăng trưởng tâm thức vận hành. Con hiểu là các thày đã trao truyền những giáo lý rất thâm sâu, rất tinh vi về sự thành hình của các bầu cõi. Khi một bầu cõi được tạo ra, thì nó không thường hằng, các sinh thể trong đó không thường hằng, và đó là để họ được cơ hội làm bất cứ gì họ muốn với quyền tự quyết.

Giờ đây, lẽ tất nhiên làm sao con có quyền tự quyết? Đây là một điểm mà con người thường ngộ nhận vì họ bị sa nhân đánh lừa, vì sa nhân lúc nào cũng tìm cách gây nghi ngờ. Sa nhân muốn con tin rằng có quyền tự quyết có nghĩa là con làm bất cứ điều gì con muốn. Điều này đúng theo một cách nhìn nào đó. Khi con có quyền tự quyết, thì con có thể làm bất cứ điều gì con muốn, nhưng con sẽ làm chuyện này như thế nào? Ấy, con làm một chuyện bằng cách tạo ra một khuôn đúc trong tâm, phóng chiếu nó lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và sau đó Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lấy hình tướng theo khuôn đúc. Lúc đó con trải nghiệm điều con sáng tạo, hay đúng hơn con đồng-sáng tạo.

Nếu con không trải nghiệm hậu quả của những chọn lựa của mình, thì coi như con đã không lấy chọn lựa nào, con đã không thật sự thực thi quyền tự quyết. Nếu một chọn lựa không có hậu quả, thì đó không là một chọn lựa và con không thể học hỏi gì từ chọn lựa đó. Con chỉ có thể học hỏi bằng cách tạo ra một hậu quả và trải nghiệm hậu quả đó. Điều mà sa nhân muốn con nghĩ là nếu con lấy một chọn lựa giới hạn con và khiến con khó chịu, thì đáng lẽ con không phải trải nghiệm hậu quả đó. Nếu con thực sự có quyền tự quyết, thì đáng lẽ con phải có khả năng tránh những hậu quả.

Con yêu dấu, đây là một điều mà sa nhân không hiểu thấu, và đa số con người, thành thực mà nói, cũng không hiểu thấu vì hành tinh này đã quá bị ảnh hưởng bởi sa nhân. Con lúc nào cũng có thể thoát khỏi hậu quả của những chọn lựa trước của con. Các thày đã từng nói: Bất cứ điều gì con tạo ra, con đều có thể sáng tạo lại cái mới. Con yêu dấu, mánh lới là: “Làm sao con phóng chiếu một khuôn đúc lên Ánh sánh Mẫu-Vật?”

Con tạo ra một cái ngã trong bốn thể phàm của mình, và con phóng chiếu qua ngã đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Khi con ở trong một ý niệm bản ngã nào đó và phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, thì con tạo ra một hậu quả đặc thù là một sự phóng chiếu ra ngoài của ngã đó. Điều mà sa nhân muốn con tin là con có thể tránh thoát hậu quả mà không cần tiêu hủy cái ngã. Sự thực là con có thể tránh thoát hậu quả của các chọn lựa trước của con, nhưng cách duy nhất là con thăng vượt cái ngã mà con đã tạo hậu quả xuyên qua nó . Nếu con tiếp tục phóng chiếu qua ngã đó, thì con sẽ tạo lại và tạo lại cùng những hậu quả. Chuyện giản dị như vậy đó, con yêu dấu. Chuyện giản dị như vậy đó.

5.6. Tăng trưởng xuyên qua hậu quả

Làm sao con học hỏi? Làm sao con tăng trưởng? Con tăng trưởng bằng cách phác họa một cái ngã dựa trên ý niệm bản ngã hiện tại của con, có thể là một ý niệm bản ngã rất thu hẹp, như cái chấm, và vị kỷ. Con phóng chiếu xuyên qua ngã đó và con trải nghiệm hậu quả. Nếu con muốn có thêm các hậu quả đó thì con tiếp tục phóng chiếu xuyên qua cái ngã đó cho tới khi con chán ngán kinh nghiệm đó. Khi con chán ngán kinh nghiệm đó thì con có thể bước ra ngoài cái ngã, hay ít ra con có thể mở rộng và tinh luyện ngã đó và tạo ra một kinh nghiệm cao hơn qua ngã mới. Đó là cách vận hành của đồng-sáng tạo. Sa nhân, lẽ dĩ nhiên, đã khiến con người quên đi cơ chế đó. Tuy nhiên, sự kiện đơn giản là: bất cứ gì con đồng-sáng tạo xuyên qua một ngã, thì con có thể thăng vượt bằng cách tạo ra một ngã mới và đồng-sáng tạo qua ngã đó. Sau đó, do những chu kỳ của thế giới vật chất, con sẽ trải nghiệm một hậu quả mới.

Thày cũng đã nói điều gì khác? Thượng đế không phán xét cách con thực thi quyền tự quyết trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Nói cách khác, Thượng đế cho phép con đầu thai với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm qua đó con đương nhiên rất chú tâm vào chính mình. Lúc đó, con không có khả năng xem xét là các chọn lựa của mình ảnh hưởng đến người khác như thế nào, ảnh hưởng toàn thể hành tinh hay toàn thể vũ trụ như thế nào. Con không có sự nhận biết đó. Con chỉ chú tâm đến “tôi, đối với tôi, cho tôi.” Những gì tôi làm ảnh hưởng đến tôi như thế nào? Khi con dần dần mở rộng ý niệm bản ngã của con, thì con càng ngày càng nhận biết các chọn lựa của con ảnh hưởng tổng thể như thế nào. Con càng ngày càng nhận biết là con đích thực là một phần của tổng thể. Do đó, con ảnh hưởng tổng thể, và tổng thể ảnh hưởng con.

Cách con tăng trưởng tâm thức, khi con tới tầng đó, là con tinh luyện ý niệm bản ngã của con để nó càng ngày càng trở nên một với tổng thể, càng ngày càng là Một. Con đi vào cái Một, thay vì chú tâm vào ngã tách biệt. Sau đó, con có thể tới điểm con ở trong cái Một nhiều đến độ con có thể buông bỏ ngã tách biệt. Sau đó, con có thể tới điểm con ở trong cái Một nhiều đến độ con có thể buông bỏ ngã tách biệt và thăng thiên. Lúc đó, con trở nên một sinh thể thường tồn, và một khi bầu cõi có đủ túc số các dòng sống, các người đồng-sáng tạo đã tới được điểm đó, thì toàn thể bầu cõi sẽ trở nên thường tồn.

5.7. Xây dựng tâm thức Ki-tô

Con cần gì để tới điểm không còn ý muốn thực thi quyền tự quyết một cách ích kỷ? Ấy, trên cơ bản con cần trải nghiệm là con đã làm đủ, không nhất thiết là tất cả những gì con có thể làm một cách ích kỷ nhưng ít ra là số lượng tới hạn của những gì con có thể làm một cách ích kỷ, nên chính con đã chán ngán việc đó. Thượng đế không phán xét cách con tiến hành tiến trình này. Con đã được ban quyền tự quyết, con đã được ban một khoảng thời gian rất, rất dài để khám phá tất cả các ngõ ngách của sự ích kỷ, của lòng vị kỷ. Khi con đã chán ngán không muốn khám phá các ngõ ngách đó, thì con bắt đầu thăng vượt chúng. Đó là lý do vì sao các thày đã trao truyền khái niệm con đi xuống, và khi con đi xuống thì con đi vào giai đoạn trầm mình. Con trầm mình vào trong môi trường, con xây dựng một cái ngã dựa trên môi trường đó. Sau đó, khi con bắt đầu thức tỉnh thì con bắt đầu mở rộng ý niệm bản ngã để nhận biết tổng thể thay vì chỉ nhận biết một phần rất nhỏ của tổng thể. Con làm việc này bằng cách trải qua giai đoạn trầm mình, tự đồng hóa mình với ngã tách biệt, phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và trải nghiệm hậu quả. Sau đó, khi con đã chán ngán việc này thì con bắt đầu thức tỉnh. Con bắt đầu nhận biết các hậu quả của mình ảnh hưởng ra sao, đầu tiên là các người khác, sau đó là môi trường lớn hơn nơi con sống, và sau đó toàn bộ bầu cõi. Có thể nói đây là tâm thức Ki-tô.

Tâm thức Ki-tô là trung gian giữa đấng Sáng tạo và tạo vật của ngài, giữa Tánh linh và vật chất, giữa cõi tâm linh và bầu cõi chưa thăng thiên. Tâm thức Ki-tô nhận biết là có một cõi tâm linh bên trên bầu cõi này. Nó cũng nhận biết bầu cõi là một tổng thể, mọi chuyện đều nối kết với nhau, mọi chuyện là Một. Ngay cả khoa học ngày nay đã nhận ra và chứng minh qua vô vàn thử nghiệm là toàn thể vũ trụ là một tổng thể tương liên. Chưa ai rút tỉa hệ luận triết lý của các khám phá khoa học này, nhưng khoa học đã chứng minh những điều đó. 

Đây là gì con thấy xuyên qua tâm thức Ki-tô – con nhận biết tổng thể. Giờ đây, khi con bắt đầu vươn lên trong tâm thức Ki-tô, thì tất nhiên con cũng bắt đầu có hiểu biết vỏ ngoài giúp con thấy sự tương phản giữa các ảo tưởng nhị nguyên, sự dối trá của sa nhân và nhận biết cao hơn của Ki-tô dựa trên nhận biết tổng thể, tức là tất cả đều nối kết với nhau.

5.8. Làm hòa với quyền tự quyết

Khi con bắt đầu nhận biết điều trên, thì con bắt đầu nhìn thấy rõ các ảo tưởng mà sa nhân đã tạo ra liên quan đến quyền tự quyết. Trong tiến trình này (và các thày đã trao truyền các dụng cụ tâm linh để đối phó với ngã gốc) con sẽ tới điểm làm hòa với quyền tự quyết. Con có thể chấp nhận quyền tự quyết, con cũng có thể làm hòa với việc con sống trên trái đất, con có thể chấp nhận trái đất như nó đang là ngay lúc này.

Làm sao con có thể chấp nhận trái đất trong trạng thái rất bất toàn hiện tại của nó? À, con chỉ có thể làm vậy khi con chấp nhận quyền tự quyết, và chấp nhận là những gì con thấy trên trái đất là sự trải bày trong vật chất của những gì có trong bốn thể phàm của đa số nhân loại đang đầu thai trên trái đất. Chúng là sự trải bày của tâm thức tập thể. Chúng cần thiết, vì con người cần trải nghiệm. Như thày có giảng, con cần trải nghiệm một số chuyện để có thể tăng triển. Khi con bước vào nhị nguyên, là chuyện phải xảy ra trên một hành tinh không tự nhiên, thì con cần phải thấy nó trải bày trong vật chất vì con không có khả năng học bằng tâm. 

Các thày có giảng là tất cả các con là sinh thể trải nghiệm. Đó là lý do các thày đã cho con tầm nhìn trong quyển Các kiếp sống của tôi là một số các con đã đầu thai trên trái đất trong một thời gian rất dài. Con có thể suy ngẫm, như thày có nói vào đầu năm, là tại sao cần nhiều thời gian như vậy? Đó là vì con cần có một số kinh nghiệm. Khi con bắt đầu hiểu luật tự quyết, con nhận ra là có một số người trên trái đất vẫn chưa trải nghiệm đủ loại kinh nghiệm mà con thấy họ đang kinh qua. Con có thể tới điểm chấp nhận sự việc đó, làm hòa với sự việc đó. Do đó, con tự giải thoát mình khỏi sự phán xét, khỏi tâm thức tập thể, khỏi con quỷ dữ phán xét mà sa nhân đã tạo ra cho rằng có những chuyện sai trái, có những chuyện đáng lẽ không được xảy ra.

Con có thể tới điểm nhận ra, như chính vị sứ giả này đã nhận ra, là ngay cả khi con người bị đau khổ thì các đau khổ này là kết quả của những chọn lựa của họ. Họ không biết một cách có ý thức là họ đã lấy những chọn lựa đó, tuy thế họ vẫn có thể chọn nâng tâm thức mình lên và bắt đầu nhìn vào chính mình thay vì nhìn vào các điều kiện bên ngoài.

Con yêu dấu, chắc con cũng nhận ra là khi một người còn phóng chiếu rằng: “Tôi đau khổ vì những điều kiện bên ngoài”, thì các vị thày tâm linh không thể dạy người đó. Họ chỉ học được khi họ bắt đầu chịu xem xét là có thể có điều gì trong tâm họ đã ít nhất là một phần của sự đau khổ của họ. Con yêu dấu, những người không thể học từ một vị thày tâm linh cần thấy các điều kiện trải bày trong vật chất – dù họ không nhận ra và nhìn nhận là chính tâm thức của họ đã tạo ra các điều kiện đó. Đó là cách duy nhất khiến họ rốt cuộc chán ngán kinh nghiệm này và kêu lên cầu cứu.

Con yêu dấu, con có thể tới điểm nhìn phương trình trên trái đất và làm hòa với các việc đang xảy ra trên trái đất. Con làm hòa với việc con hiện diện trên trái đất. Tuy nhiên, con chỉ có thể tới điểm này khi con đã bắt đầu khắc phục được ngã gốc vì trước đó, ngã gốc sẽ níu kéo con vào việc phản ứng lại các điều kiện trên trái đất. Do đó, con sẽ phán xét các điều kiện này xuyên qua ngã gốc. Lẽ tất nhiên, vì chính ngã gốc đã tạo ra chấn thương và khiến con đau khổ, nên nó chỉ thấy được là các điều kiện đó sai trái và không được xảy ra. Con thấy chăng, con không thể an bình với quyền tự quyết và các điều kiện trên trái đất nếu con nhìn xuyên qua ngã gốc, con chỉ làm được chuyện này khi con bắt đầu tách mình ra khỏi nó.

5.9. Sự chấp nhận của Ki-tô

Con yêu dấu, khi con tới điểm làm hòa với luật tự quyết, thì con cũng tới điểm khác là món quà mà thày thực sự muốn đem lại cho mọi người. Đó là, con có thể hiểu được là Ki-tô chấp nhận con như con là, bất kể trình độ tâm thức của con ra sao. Các con cần chiêm nghiệm để có thể hoàn toàn thấu hiểu điều này vì con đã bị lập trình trong suốt 17 thế kỷ của đạo Công giáo chính thức muốn con tin rằng Ki-tô chỉ chấp nhận con khi con hội đủ một số điều kiện.

Thày nhắc lại một lần nữa. Con đã bị sa nhân lập trình trong 17 thế kỷ để tin rằng Ki-tô chỉ chấp nhận con khi con hội đủ một số điều kiện và các điều kiện này được quy định ở đây trên trái đất – có nghĩa đó là những điều kiện có thể hiểu được bằng tâm nhị nguyên, tâm đường thẳng, thậm chí là tâm sa ngã. Lẽ tất nhiên, Ki-tô vượt lên trên tâm đó và do đó các điều kiện đó không thể nào là điều kiện của tâm Ki-tô. Sa nhân không nắm được là tâm Ki-tô không có điều kiện vì đấng Sáng tạo không có điều kiện và tâm Ki-tô biết là luật tự quyết cần tự trải bày và biết việc này sẽ được hoàn thành như thế nào trên một hành tinh phi tự nhiên.

Tâm Ki-tô biết đây không phải là loại hành tinh duy nhất, và có hàng tỷ hành tinh khác. Nó có tầm nhìn rộng lớn hơn và biết rằng những gì xảy ra trên hành tinh nhỏ bé tên là trái đất này không phải là một thảm họa cho toàn thể vũ trụ. Khi con ở trên trái đất, con muốn nghĩ rằng (vì sa nhân muốn con nghĩ là trái đất rất quan trọng) trái đất có lẽ là hành tinh duy nhất có sự sống trong toàn thể vũ trụ và Thượng đế rất quan tâm theo dõi những gì đang xảy ra trên trái đất.

Trên thực tế, khi con có tâm Ki-tô thì con có tầm nhìn rộng lớn hơn và thấy rằng những chuyện đang xảy ra trên trái đất không ảnh hưởng toàn thể vũ trụ vì hành tinh này quá bé nhỏ và không thể kéo toàn thể vũ trụ xuống theo với nó, vì có hàng tỷ hành tinh khác đang theo một vòng xoáy đi lên. Chuyện đang xảy ra trên trái đất được phép xảy ra vì các dòng sống đang đầu thai trên trái đất chưa chán ngán kinh nghiệm họ đang có trên trái đất.

Giờ đây, khi con có tầm nhìn đó, khi chính con bắt đầu trải nghiệm chuyện đó, thì con có thể tới điểm tự đặt câu hỏi: “Ki-tô hay Giê-su (nếu con muốn mật thiết hơn) có chấp nhận tôi như tôi đang là ngay bay giờ chăng?” Khi con tự hỏi mình như vậy, và khi con đã bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc, thì con có thể trải nghiệm là, đúng vậy, thày, Giê-su Ki-tô, chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ.

Con không cần hội đủ điều kiện nào để xứng đáng được thày chấp nhận. Thày lúc nào cũng đã chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ. Thậm chí có một số trong các con đã gặp thày 2000 năm trước, khi các con có tâm thức thấp hơn ngày nay rất nhiều, nhưng thày lúc đó đã chấp nhận con. Trong 2000 năm qua, một số các con đã mang trong mình cái ngã vỏ ngoài được tạo dựng theo tâm thức phán xét của sa nhân, cho rằng thày không chấp nhận con ngay bây giờ vì con vẫn chưa sống theo đúng chuẩn mực toàn hảo. Khi con còn nhìn cuộc đời xuyên qua phin lọc của ngã gốc, thì con sẽ không thể khắc phục được ảo tưởng đó. Con sẽ nghĩ (vì ngã gốc chỉ có thể nghĩ như vậy), là chắc hẳn phải có một số điều kiện mà con phải hội đủ để Ki-tô có thể chấp nhận con – nhưng đây là một lời gian dối của sa nhân.

Khi con bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc thì con có thể tới điểm tự đặt câu hỏi một cách có ý thức. Lúc đó, nếu con mở tim đón nhận thày thì thày sẽ cho con (tùy khả năng tiếp nhận của con) trải nghiệm trực tiếp là thày chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ. Đây chính là trải nghiệm mà thày muốn trao cho tất cả mọi người 2000 năm trước đây, và thày muốn trao cho mọi người ngày hôm nay.

5.10. Trao cho người khác sự chấp nhận của Giê-su

Thày đang không đầu thai trong cõi vật chất, vậy làm sao thày trao cho mọi người trải nghiệm này? Thày chỉ có thể vì co. trao cho họ xuyên qua con, nhưng con không thể là dụng cụ giúp thày trao trải nghiệm đó cho người khác khi con chưa tự mình trải nghiệm và chấp nhận là thày chấp nhận con.

Thế nào là Ki-tô đang hành động? Ấy, điều này có nhiều nghĩa, lẽ tất nhiên, nhưng điều thày muốn trình bày trong bài giảng này, là điều đó có nghĩa con trở thành một dụng cụ để trao cho tất cả mọi người mà con gặp (bất kể họ đang ở tầng tâm thức nào) trải nghiệm là con chấp nhận họ như họ đang là và con không phán xét họ.

Giờ đây, thày biết là dù con đã bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc, con vẫn còn những cái ngã khác, như các thày đã giảng, mà con đã tạo ra trong những kiếp sống tiếp theo sau kiếp sống đầu. Điều này có nghĩa là nhiều người trong các con cần làm công việc quét dọn và nhìn vào các ngã này và thấy khi con đã tạo ra một cái ngã có một tiêu chuẩn nói rằng: “Mọi chuyện phải được phán xử tùy theo chúng đúng hay sai, vì có những chuyện chắc chắn đúng và những chuyện chắc chắn sai, phải có chân lý và phải có dối trá, phải có sự sai trái.” Phải có chuyện này và phải có chuyện kia. Con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi những ngã đó vì con cần ghi chặt trong tâm ý niệm duy nhất sau đây: phán xét nhị nguyên không dính dáng gì đến phân biện Ki-tô. Phán xét nhị nguyên không dính dáng gì đến phân biện Ki-tô.

Sa nhân không thể có phân biện Ki-tô. Họ muốn con nghĩ rằng con có thể mài dũa phán xét nhị nguyên tới điểm nó cho con vào nước Trời. Chính một số sa nhân đã tin như vậy. Chuyện này không thể xảy ra! Con có thể dùng tất cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền về sa nhân và sự sa ngã và thấy là chuyện này không thể xảy ra.

Phân biện Ki-tô – đúng vậy, có một chân lý tuyệt đối mà phân biện Ki-tô biết. Do đó, phân biện Ki-tô có thể thấy các sai lầm và dối trá. Khi con gặp một người và con có phân biện Ki-tô, thì con có thể thấy là người đó đang ở một tầng tâm thức rất ích kỷ. Người đó có thể tin nhiều ảo tưởng, người đó có thể đang làm một số hành động rõ ràng xâm phạm quyền tự quyết của người khác. Con yêu dấu, sau đây là sự nhận biết cốt yếu: dù con thấy trình độ tâm thức của một người, dù con thấy hành động của họ, nhưng con vẫn có thể (khi con ở trong tâm Ki-tô) tỏa ra sự chấp nhận người đó. Không phải là chấp nhận những chuyện họ đang làm, không phải là chấp nhận những điều họ tin, nhưng chấp nhận là đằng sau tất cả các ngã vỏ ngoài đó, có một cái Ta Biết là một phần nối dài của Bản thể của đấng Sáng tạo.

5.11. Thượng đế chỉ muốn giải thoát con người

Trong một số trường hợp, khi cái Ta Biết của người đó trải nghiệm sự chấp nhận vô điều kiện của con, thì cái Ta Biết có thể thoát ra khỏi các ngã thấp kém và ít ra là trong một khoảnh khắc, kết nối trở lại và trải nghiệm nó là một sinh thể vô điều kiện, nó là một sinh thể không hình tướng không bị lệ thuộc vào bất cứ điều kiện nào có hình tướng. Con yêu dấu, bất kể con nghĩ gì, hậu quả của việc thực sự làm hòa với luật tự quyết là con nhận ra là Thượng đế không muốn trừng phạt bất cứ ai, bất kể họ đã làm gì. Thượng đế chỉ có một mong muốn: đó là giải thoát con người.

Điều này có nghĩa là con có thể gặp một người đang ở trong trạng thái tâm thức thấp nhưng người đó vẫn xứng đáng được cơ hội giải thoát. Do đó, người đó vẫn xứng đáng được nhận xuyên qua con sự chấp nhận vô điều kiện của Ki-tô Hằng sống, của Ki-tô Hoàn vũ, của Ki-tô thăng thiên mà thày là. Thày còn không muốn con chấp nhận người khác với tâm vỏ ngoài. Thày muốn con bỏ tâm vỏ ngoài sang một bên để có thể là cánh cửa mở giúp họ nhận được một xung lực chấp nhận từ thày. Con có chịu để thày phán xét ai xứng đáng được nhận sự chấp nhận, thay vì để tâm vỏ ngoài của con phán xét điều đó? Lúc đó con sẽ có thể bước một bước vĩ đại, một bước quyết định, trên con đường dẫn tới quả vị Ki-tô, một bước quyết định dẫn tới biểu lộ quả vị Ki-tô với tiềm năng cao nhất mà con đã quy định trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Một lần nữa, điều này không có nghĩa con chấp nhận tất cả mọi chuyện mà người khác đang làm. Không có nghĩa là con không thách đố người khác. Không có nghĩa là con không phơi bày, một cách bình tĩnh và thẳng thắn, cho họ thấy những gì họ đang làm. Vượt lên trên tất cả các hành động này là sự chấp nhận.

Giờ đây, nếu con xem quyển sách Những kiếp sống của tôi, thì con thấy nhân vật trong quyển sách gặp Lucifer khi y trải qua sự phán xử cuối cùng, và nhân vật đã rốt cuộc có thể biểu lộ tình thương vô điều kiện tới Lucifer. Đây là điều duy nhất đã thực sự khiến tâm của Lucifer xoay chuyển. Giờ đây, lẽ tất nhiên, con nhận ra – thày tin như vậy – là các thày đã dùng tên Lucifer trong quyển sách vì đây là tên mà đa số con người đã gán ghép cho các thiên thần sa ngã và các sinh thể tăm tối. Điều này không có nghĩa là, trong suốt chiều dài lịch sử của hành tinh này, không có nhiều sinh thể đã dùng tên Lucifer và đã bị đem ra phán xử ở những thời điểm khác với những gì được mô tả trong quyển sách. Một lần nữa, con đừng quá chú tâm vào những điểm vỏ ngoài đó. Con hãy nhìn quá những điểm vỏ ngoài và nhận ra là điểm quan trọng trong quyển Những kiếp sống của tôi là câu chuyện được kể và biểu tượng của nó. Con yêu dấu, nếu Lucifer xứng đáng được chấp nhận vô điều kiện, thì chắc hẳn tất cả các sinh thể mà con có thể gặp trong phần còn lại của kiếp sống này cũng xứng đáng như vậy.

5.12. Đình chỉ phán xét

Một lần nữa, con có chịu đình chỉ phán xét với ngã vỏ ngoài của con và để cho thày phán xử ai xứng đáng được nhận một xung lực chấp nhận từ thày? Lẽ tất nhiên, muốn làm vậy thì con cần trước tiên trải nghiệm là thày chấp nhận con như con đang là, ngay cả các ngã vỏ ngoài mà con đang có, ngay cả với khuynh hướng phán xét mà con có thể đang có. Thày chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ. Thày chấp nhận là Thượng đế đã cho con quyền tự quyết, và điều này đã cho phép con tạo ra ý niệm bản sắc mà con đang có ngay lúc này. Thày không hề muốn trách mắng con, trừng phạt con, khiến con cảm thấy khổ tâm. Thày chỉ mong muốn cho con sự chấp nhận vô điều kiện rằng bất kể điều gì con đã làm trên trái đất, bất kể những gì con đã trải nghiệm trong các kiếp trước, thày chỉ có một mong muốn: giúp con được tự do khi con muốn được tự do. Đây là mong muốn duy nhất của Ki-tô. 

Sẽ có nhiều người không thể chấp nhận những gì thày vừa nói vì họ vẫn còn bị giam hãm trong tâm phán xét và ý nghĩ cho rằng khi con đã làm một chuyện gì rất xấu, tỷ dụ như giết hàng triệu người, thì con xứng đáng bị trừng phạt. Con yêu dấu, con không cần bị Thượng đế trừng phạt vì con đã tự trừng phạt chính mình. Để có thể giết hàng triệu người, con đã phải đặt mình vào trạng thái tâm thức tạo nơi con đau khổ cùng cực. Do đó, khi con còn ở trong trạng thái tâm thức đó, như sa nhân đã ở trong một thời gian rất, rất dài, thì con đã tự trừng phạt chính mình. Thượng đế có lý do gì trừng phạt thêm khi Thượng đế thấy là hành động đó được tạo ra bởi một cái ngã không thật?

Con lại nhận ra là: quyền tự quyết là quyền tự do lựa chọn vì con lúc nào cũng có thể vươn lên trên những gì con tạo ra trước đó. Con không bao giờ có thể lấy một chọn lựa ngăn cản con lấy những chọn lựa mới. Điều này sẽ đi ngược lại những gì nhiều người trong các con đã trải nghiệm. Con đã trải nghiệm lấy một chọn lựa ở khoảng đầu cuộc đời, và việc đó đã tạo ra hậu quả vẫn còn ảnh hưởng con mấy chục năm sau đó. Tuy nhiên, con yêu dấu, con vẫn có chọn lựa tách mình ra khỏi cái ngã xuyên qua đó con đã lấy những chọn lựa đầu.

Con yêu dấu, sau đây là một sự thực tuyệt đối: nếu con có thể hoàn toàn tách mình ra khỏi tâm thức đó, thì con thực sự có thể tháo gỡ các hậu quả vật lý. Nhiều người trong các con sẽ không có khả năng hoàn toàn khắc phục cái ngã trước, nhưng con sẽ có thể vươn mình lên cao hơn rất nhiều nên con sẽ nhìn hậu quả một cách khác. Do đó, con không bị chúng làm con đau khổ như lúc trước.

Con yêu dấu, như thày có nói, con có thấy chăng là sa nhân muốn con nghĩ là nếu con lấy một quyết định mà con không thích, thì nếu con thực sự có quyền tự quyết, và nếu quyền tự quyết đó cho con quyền hoàn toàn tự do hành động, thì con đáng lẽ không phải gánh chịu những hậu quả. Như thày có nói, con vẫn có quyền tự quyết dù con đã lấy rất, rất nhiều chọn lựa trong những kiếp trước và con đã tạo ra ý niệm bản ngã mà con hiện có. Con có thể nói: “Nhưng ý niệm bản ngã này có rất ít chọn lựa, bị giới hạn rất nhiều trong việc chọn lựa.” Và điều này đúng. Con đã tạo ra một cái ngã giới hạn, và nó có ít chọn lựa, vì con yêu dấu, cứ mỗi lần con tạo ra một cái ngã trong bốn thể phàm thì con giới hạn những chọn lựa mà con có thể thấy. Con nhìn xuyên qua phin lọc của cái ngã đó và nó loại bỏ đi những chọn lựa khác.

Nhưng bất kể cái ngã mà con tạo ra có phức tạp đến đâu, thì con vẫn có thể khởi sự tiến trình thức tỉnh, bắt đầu thức tỉnh khỏi sự đồng hóa với các ngã đó, và do đó, để cho chúng chết đi từng ngã một – loại bỏ các phàm linh nội tại đó.  Chọn lựa đó con lúc nào cũng có và khổng thể nào đánh mất. Những người trong các con đã chấp nhận trải qua tiến trình đó, như một số các con đã làm, thì biết là tự do của con đã tăng trưởng và con hiện nay nhìn đời một cách khác hơn cách con nhìn đời vài năm trước đây.

Thày khuyến khích con xem xét mình phản ứng ra sao với bài giảng này. Nếu con vẫn nghĩ là con vẫn chưa hoàn toàn nắm được nó, con chưa thể hoàn toàn chấp nhận nó, nếu con vẫn cảm thấy nỗi đau bị giới hạn và con không chắc điều thày nói chính thực là sự thực, thì con nên tìm hỏi những người đã đi xa hơn con trên tiến trình này. Con hãy nói chuyện với các vị đó, lắng nghe họ, xin họ giải thích những thấu hiểu nào đã giúp họ. Lúc đó, có thể con sẽ thấy là họ đã cho con cảm hứng để tiến bước kế tiếp trên con đường tu, giúp con tới điểm con được tự do. Con đã làm hòa với việc mình ở trên trái đất, nhưng đầu tiên hết, hơn tất cả mọi thứ, con có thể tới điểm chấp nhận mình như con là ngay lúc này. Con sẽ không cảm thấy mình toàn hảo hay mình không cần tăng trưởng nữa, nhưng con có thể chấp nhận mình vì con đã trải nghiệm là thày chấp nhận con.

Một lần nữa, con yêu dấu, thày xin con đình chỉ sự phán xét chính mình, và ngưng phóng chiếu lên thày là thày đang phán xét con như con phán xét chính con – và vì con phán xét mình bất toàn, nên thày không thể nào chấp nhận con. Xin con để cho thày là quan tòa xét xử xem thày có chấp nhận con hay không? Do đó, con đặt mình trong trạng thái tâm nói rằng: “Ồ, tôi không phải là người phán xét xem Giê-su có sẽ chấp nhận tôi hay không. Giê-su sẽ là người phán xét, và do đó tôi phải hoàn toàn cởi mở đón nhận bất cứ điều gì Giê-su muốn cho tôi. Tôi không thể phán xét là Giê-su không thể nào chấp nhận tôi, vì như vậy tôi không cởi mở với thày, tôi không để thày là người xét xử.”

Con có thể làm việc trên vấn đề này, và tới điểm con đặt mình vào trạng thái tâm trung hòa. Nếu con có thể trung hòa thì con sẽ trải nghiệm là thày chấp nhận con. Tại sao vậy? Vì ngay lúc này thày đang đứng cạnh mỗi người chúng con, và thày đang đưa bàn tay ra và nói: “Con có vui lòng chấp nhận chăng là thày chấp nhận con hoàn toàn và vô điều kiện?” Thày cống hiến sự chấp nhận của thày, con yêu dấu. Nếu con không trải nghiệm được sự cống hiến của thày, thì lý do chỉ có thể là con bác bỏ nó, hoặc có ý thức hoặc vô thức. Món quà của thày đã được trao ra. Con có chấp nhận nó chăng? Vậy bây giờ, thày cảm ơn con đã chấp nhận, thày cảm ơn con đã lắng nghe bài giảng này và là dụng cụ để lan tỏa nó vào tâm thức tập thể.

3 | Khắc phục khía cạnh kiểm soát của ngã gốc

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 21 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su, hay như đôi khi ta nói, TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Tại sao đôi khi thày nói Giê-su và đôi khi thày nói Giê-su Ki-tô? Không có lý do nào cả, các con yêu dấu, ngoài chuyện thày cảm thấy muốn biểu lộ mình ra sao vào lúc đó.

Vì sao một số các con lại đặt chú tâm và tìm hiểu tại sao đôi khi thày làm điều này và đôi khi thày nói điều kia? Đó là, vì con đã bị cú sốc khi gặp gỡ sa nhân, con đã tạo ra một cái ngã trong thể bản sắc muốn cảm thấy nó có sự hiểu biết nào đó về thế giới và thế giới vận hành ra sao để nó có thể cảm thấy an toàn.

3.1. Bao nhiêu người đã biểu lộ quả vị Ki-tô?

Các con yêu dấu, câu hỏi mà thày muốn nêu ra với các con trong bài giảng này là như sau. Đã từ nhiều thập niên nay, các thày là chân sư thăng thiên đã trao truyền giáo lý qua trung gian một số vị sứ giả được bảo trợ và có khả năng nhận truyền đọc trực tiếp từ các thày. Ngay từ lúc khởi đầu của đợt truyền giáo của Lời Hằng sống này, các thày đã trao truyền giáo lý là thày không phải là một thần tượng và là một ngoại lệ như đạo Cơ đốc chính mạch đã mô tả thày. Trái lại, thày đáng lẽ phải là tấm gương cho thấy tiềm năng mà tất cả mọi người đều có. Giờ đây, nếu con nhìn trở lại suốt mấy chục năm trao truyền giáo lý, thì con thấy là các thày đã thu hút trong khoảng thời gian đó nhiều triệu người đã (ít nhất ở một trình độ nào đó) học hỏi giáo lý của các thày. Khi con nhìn trở lại sự kiện này, thì câu hỏi đặt ra là: “Có bao nhiêu người đã có thể dùng giáo lý mà các thày trao truyền để thể hiện và biểu lộ một phần quả vị Ki-tô? Bao nhiêu người đã có thể khắc phục lập trình chối bỏ mình có tiềm năng trở thành Ki-tô và thực sự bắt đầu thực hiện tiềm năng là Ki-tô?” Đây là câu hỏi mà thày muốn các con suy ngẫm, thậm chí thảo luận trong hội nghị này, và dĩ nhiên, sau đó nữa.

Đây không phải là một câu hỏi chung chung vì sao đã không có nhiều người hơn làm việc này. Lẽ dĩ nhiên, như các con ở đây cũng biết, mục đích là xem xét chính mình. Câu hỏi cũng là: “Vì sao tôi chưa thể hiện một trình độ quả vị Ki-tô cao hơn?” Giờ đây, con yêu dấu, thày muốn các con biết, vì một số các con chưa hoàn toàn chú ý việc này, là các thày đã (quả thực là ngay từ lúc khởi đầu nhưng đặc biệt là trong những năm gần đây) tìm cách giúp các con xoay chuyển tâm thức của mình.

3.2. Tự do khỏi tâm phán xét

Con thấy chăng, con yêu dấu, là sa nhân đã từ muôn thuở, nhưng đặc biệt là qua các giáo hội Cơ đốc chính mạch, tạo ra quan niệm tội lỗi. Con không toàn hảo vì lý do mơ hồ nào đó, và Thượng đế là một đấng giận dữ trên trời sẽ phán xử con và hoặc sẽ đày con xuống đia ngục hoặc đưa con lên thiên đàng. Họ còn tìm cách phóng chiếu là thày, trong tư cách Ki-tô Hằng sống hay Ki-tô Hành tinh, đang phán xét các con và sẽ hoặc giơ ngón cái lên để cho con vào thiên đàng hay hạ ngón cái xuống để đày con xuống đia ngục. Các thày đã tìm cách giúp con thấy là đây không phải là sự thật.

Trong hai năm vừa qua, đặc biệt là các vị Chân sư Nữ và chính yếu là Mẹ Mary, đã tìm cách giúp con thấy là các thày hoàn toàn không phán xét con, và điều chắc chắn là các thày không phán xét con như sa nhân phán xét con và như sa nhân đã khiến con phán xét chính mình. Thày muốn con rất rất rất rõ trong tâm là thày không muốn trao truyền giáo lý này và nêu câu hỏi kia ra vì thày muốn con phán xét chính mình và cảm thấy hổ thẹn vì con đã không biểu hiện một trạng thái cao hơn của quả vị Ki-tô. Mục đích của Ki-tô Hằng sống là gì? Mục đích của thày, như Ki-tô Thăng thiên, là gì? Mục đích của tất cả các chân sư thăng thiên là gì? Con yêu dấu, các thày chỉ có một mục đích duy nhất. Thày xin các con hãy ghi chặt trong tâm là các chân sư thăng thiên chỉ có một mục đích duy nhất. Đó là giải thoát con. Tâm con sẽ nói ngay tức khắc: “Giải thoát khỏi cái gì? Các chân sư thăng thiên muốn giải thoát con khỏi cái gì?” Các thày muốn giải thoát con khỏi cái tâm đang đặt ra câu hỏi đó vì chính cái tâm đó đang khiến con bị mắc kẹt.

3.3. Làm cách nào truyền ra giáo lý

Con yêu dấu, con hiểu chăng là các thày trên cõi thăng thiên luôn luôn giám sát hiện trạng hành tinh? Các thày có tầm nhìn rất dài hạn, và trong một thời gian rất dài, các thày bị giới hạn trong những gì các thày có thể làm, giáo lý nào có thể truyền ra. Con có hiểu chăng là nếu con nhìn lại giáo lý mà các thày đã trao truyền từ gần một thế kỷ vừa qua, thì con có thể tự hỏi: “Tại sao các giáo lý này không được trao truyền sớm hơn?” Ấy, chính thực là các giáo lý đó đã được trao truyền sớm hơn, nhưng trong một khung cảnh riêng tư, thường là bí mật.

Lúc trước không có cách nào trao truyền các giáo lý đó một cách công cộng. Nguyên do một phần là vì sa nhân đã thành công trong việc hủ hóa Cơ đốc giáo và biến Cơ đốc giáo thành dụng cụ chính yếu để thực sự che giấu giáo lý chân thực của Ki-tô, và giáo lý đó có mục đích giải thoát con người. Suốt nhiều thế kỷ, ở Châu Âu và các nơi khác, không thể nào giảng công cộng các giáo lý mà các thày đang trao truyền. Lẽ dĩ nhiên, cũng có thêm khía cạnh hoàn toàn thực tiễn, thực dụng là làm sao phân phối giáo lý.

Các con có lẽ cũng biết là trong thập niên 1930 các thày có bảo trợ một tổ chức tên là Phong trào TA LÀ (I AM Movement). Khi con nhớ lại thời đại đó, là một điều mà những người trong các con đã lớn lên trong thời đại mạng Internet khó lòng mường tượng, thì con thấy là phương tiện truyền thông chính yếu của thời đó là hệ thống bưu điện. Sa nhân đã làm được chuyện gì? Họ đã khiến chính phủ liên bang Hoa Kỳ ngăn chặn không cho Phong trào TA LÀ, ít nhất là trong một thời gian, sử dụng hệ thống bưu điện. Con thấy là chỉ sau khi mạng Internet ra đời thì các thày mới có cơ hội tốt hơn để trao truyền giáo lý và đem giáo lý tới một cử tọa rộng lớn hơn.

3.4. Điều gì ngăn chặn quả vị Ki-tô

Lẽ dĩ nhiên, các thày cũng luôn luôn giám sát tâm thức tập thể và sự tăng triển của tâm thức tập thể. Trong hầu hết mọi thời đại đều có một số người, một số ít cá nhân, đã mở tâm đón nhận giáo lý dạy cách giải thoát chính mình. Nhưng chỉ trong một hoặc hai thập niên cuối tâm thức tập thể mới lên tới mức để các thày có thể trao truyền các giáo lý thật sự rất tiên tiến và tinh vi mà các thày đã trao truyền qua vị sứ giả này, khởi đầu bằng chủ đề tâm thức nhị nguyên, tư duy cuồng đại cho đến các giáo lý cuối liên quan đến chấn thương nhập đời.

Giờ đây con yêu dấu, thày Quân Âm đã cho các con nhiều chìa khóa quan trọng trong bài truyền đọc, mà thày khuyên các con nên nghiên cứu nhiều lần, nhưng thày sẽ xây dựng thêm trên nền móng mà Quan Âm đã thiết lập. Một lần nữa, câu hỏi: Có nhiều người đã được nhận giáo lý vỏ ngoài là Giê-su Ki-tô không phải là một ngoại lệ mà là một tấm gương mà mọi người có thể noi theo nếu họ chịu chuyên cần áp dụng giáo lý. Nhiều người trong số các người đó cũng đã được trao truyền một số dụng cụ tâm linh thực tiễn như: cầu thỉnh ánh sáng tím, các bài chú và các dụng cụ khác mà họ có thể sử dụng. Vì sao rất nhiều người đã không thể nhập và áp dụng giáo lý và dụng cụ tới điểm họ thể hiện được quả vị Ki-tô? Một lần nữa, thày không trách cứ ai, con yêu dấu. Thày không trách cứ, thầy cũng không nói là con đáng lẽ phải thể hiện một trình độ cao hơn của quả vị Ki-tô. Các thày chỉ muốn có một cuộc nói chuyện để xem xét một cách bình tĩnh và vô tư cơ cấu đang ngăn chặn con người thể hiện quả vị Ki-tô.

Lẽ dĩ nhiên, lý do vì sao các thày đã rất thận trọng và tuần tự trao truyền các giáo lý vì chúng đều liên quan tới điều mà các thày nay gọi là chấn thương nhập đời hay chấn thương địa cầu. Nói cách khác, dù con là một cư dân nguyên thủy của trái đất hay con đã tới đây từ một thế giới khác, một hành tinh khác, có thể là một hành tinh tự nhiên, thì đề tài này cũng áp dụng cho con. Sự kiện đơn giản là (và các thày đã nói điều này nhiều lần nhưng thày lặp lại ở đây): khi con đầu thai lần đầu trên một hành tinh như trái đất (kể cả các con đã đầu thai ở đây nhiều lần rồi) và giáp mặt sa nhân lần đầu và trải nghiệm ý chí vô giới hạn sẵn sàng làm ác của họ, muốn hành hạ con và người khác, thì con bị một cú sốc, một chấn thương. Chuyện này đã xảy ra cho tất cả chúng ta đã từng đầu thai trên trái đất.

3.5. Chê trách mình vì đã phản ứng

Một lần nữa, không ai chê trách ai, không có lý do gì để cảm thấy tiếc nuối, nhưng một số các con, nhiều người trong các con, vẫn tự chê trách mình. Con yêu dấu, con vẫn nghĩ, như vị sứ giả này vẫn nghĩ cho tới khi ông nhận được giáo lý về ngã gốc vào tháng 12 vừa qua, là con đáng lẽ phải tìm ra được một cách nào đó để tới đây như một avatar mà không bị suy suyển bởi những gì xảy ra trên trái đất, con đáng lẽ phải tránh để tay mình lấm bùn.

Con yêu dấu, đây chỉ là một cái ngã cảm thấy như vậy, và thày cần con tới điểm thấy một cách có ý thức cái ngã đó, thấy nó là một cái ngã, thấy nó hiện diện trong thể bản sắc của con và lan cả xuống thể lý trí và thể tình cảm. Thày cần con bước lui lại và tách mình ra khỏi ngã đó, là cái ngã nghĩ con đáng lẽ phải hành xử khác hơn. Ngã đó cũng là cái ngã sẽ lấy giáo lý mà thày đang trao truyền và nói: “Tôi đáng lẽ phải thể hiện quả vị Ki-tô sớm hơn, và tại sao tôi đã không làm vậy?”

Ấy, con yêu dấu, vì sao con đã không thể hiện quả vị Ki-tô sớm hơn? Con đã không làm được vì con trước đây không có hiểu biết và các giáo lý để đối phó với ngã gốc. Điều duy nhất nào, điều tuyệt đối duy nhất nào, đã ngăn chặn người tầm đạo chân thành biểu lộ quả vị Ki-tô? Con hãy ghi nhận! Thày không nói tất cả mọi người vì khi con nhìn vào tập thể con người trên trái đất, thì họ có nhiều cái ngã khác nhau ở nhiều trình độ khác nhau. Thày muốn nói tới những người tầm đạo chân thành đã nghiên cứu giáo lý của các thày, đã áp dụng giáo lý, có khi suốt nhiều năm. Điều duy nhất nào đã ngăn cản con là Ki-tô Hằng sống đang hành động? Ấy, điều duy nhất đó là ngã gốc.

Quân Âm đã thuyết giảng đề tài này, và thày sẽ tiến thêm bước nữa. Khi con giáp mặt sa nhân lần đầu (hay ít nhất là khi con lần đầu nhận ra là họ có khả năng làm ác vô giới hạn, họ không có giới hạn hay lằn ranh nào ngăn cản họ làm hại người khác hay giới hạn hình thức tàn phá và đau khổ mà họ tạo ra) thì con bị một cú sốc. Cú sốc đó lớn đến độ con thực sự không thể sống với nó, con không thể xử lý nó.

3.6. Con đã tạo ngã gốc như thế nào

Tình trạng của con như sau: lúc đó con đang ở trong một thân thể vật lý, con không thể rút mình ra khỏi thân thể vật lý, con không thể giản dị bước lui lại và nói: “Ồ, tôi không muốn ở trên hành tinh này nữa, tôi cởi bỏ thân thể vật lý này và tôi trở về hành tinh nơi tôi ở trước kia.” Con không thể làm việc này được! Con ở đây, con ở trong thân thể vật lý, con nhận ra là có những sinh thể (các thày đã gọi họ là sa nhân, con có thể đã thấy họ như cái gì khác) sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì để hại con và tiêu diệt con hay các người khác. Con không tránh xa họ được nhưng con không thể sống với ý nghĩ họ đang có mặt ở đây, với nỗi sợ họ sắp làm thêm điều gì đây.

Khi con quan sát tất cả các khổ đau mà sa nhân tạo ra, thì con bỗng nhiên giáp mặt một tình trạng khó xử. Con đang ở trên trái đất, con không thể rời trái đất và do đó con phải tìm ra một cách để sống ở đây trong khi vẫn biết rằng sa nhân cũng có mặt ở đây. Con làm sao giải quyết vấn đề này? Ấy, con giải quyết vấn đề bằng cách tạo ra ngã gốc. Như thày Quan Âm có giảng, ngã gốc có nhu cầu tạo ra một quan niệm tổng quát về trái đất, về cách trái đất vận hành, vì sao Thượng đế lại để cho cái ác có mặt, tại sao cái ác lại có mặt trên trái đất. Con cũng nhận ra một khía cạnh của ngã gốc có mục đích chính yếu khiến con cảm thấy an toàn, giúp con cảm thấy thăng bằng khi sống trên trái đất này.

Điều thày muốn nói là: trước khi con gặp gỡ sa nhân, con cảm thấy tương đối an toàn. Con có một cảm nhận thăng bằng, một cảm nhận liên tục, một cảm giác tin tưởng nơi cuộc sống, tin tưởng vào tương lai. Khi con gặp gỡ sa nhân và thấy họ không có giới hạn nào cho ý muốn làm điều ác, thì con bỗng nhiên đánh mất đi điều mà ta có thể gọi là sự ngây thơ của tuổi thơ. Con mất đi cảm giác an toàn, an ninh, thăng bằng nội tại. Mục đích chính yếu của ngã gốc là tái lập nơi con một cảm giác an toàn, một cảm giác thăng bằng nào đó, và nó làm công việc này thế nào? Nó làm công việc này bằng nhiều cách. Nó tạo ra nhiều cái ngã, tùy theo nội dung tâm lý của riêng cá nhân con, tùy theo những gì con trải nghiệm, không những trong kiếp đầu thai đầu khi con gặp gỡ sa nhân và còn trong những kiếp sau đó. Nó là một cơ chế khá phức tạp, tuy nhiên điều thày muốn trao truyền là có một khía cạnh của ngã gốc muốn tạo cảm giác an toàn, thăng bằng, phần nào làm chủ cuộc sống và cuộc sống của con trên trái đất.

Con yêu dấu, một lần nữa các thày không chê trách con. Các thày không nói các điều này sai trái. Các thày không nói là đáng lẽ con không nên làm như vậy – tất cả chúng ta đều đã làm như vậy.  Con có thể làm gì khi bị cú sốc khi gặp gỡ nhũng sinh thể sẵn sàng làm bất cứ gì để tiêu diệt mình? Điều con nay có thể làm, và con đã có giáo lý để làm việc này, là con bắt đầu nhìn vào ngã gốc, khía cạnh của ngã gốc muốn an toàn, muốn kiểm soát.

3.7. Kiểm soát thế giới để cảm thấy an toàn

Ta có thể nói một cách thật thẳng thắn là khía cạnh này của ngã gốc muốn kiểm soát thế giới để nó cảm thấy được an toàn. Cơ cấu rất giản dị: nếu con cảm thấy mình làm chủ tình hình, thì con cảm thấy an toàn. Nếu con nhìn một cách thành thực, thì con thấy đây là động lực thúc đẩy rất nhiều sa nhân. Họ cảm thấy không an toàn một cách cơ bản, và vì họ không bao giờ trở về được với cái một (trừ phi họ quay đầu đi ngược lại, là điều mà họ không chịu làm) nên họ không thể khắc phục cảm giác không an toàn, và đó là lý do họ phải có kiểm soát tối hậu.

Vì sao Stalin lại sẵn sàng giết hại hàng triệu người? Vì y có nhu cầu kiểm soát đó. Điều này chỉ cho con thấy là y có một nỗi sợ hãi rất lớn, và do đó y có một trình độ tâm linh rất thấp. Nếu con cần giết người khác để cảm thấy được an toàn, thì dĩ nhiên con có một nỗi sợ khủng khiếp, và nỗi sợ này làm chủ đời con. Do đó, bất kể thế giới thấy con như thế nào, con là một sinh thể bất lực. Con bên ngoài có thể có nhiều quyền lực, nhưng trong nội tâm thì con bất lực. Stalin là một trong những sinh thể bất lực nhất mà con thấy trong lịch sử cận đại. Lẽ dĩ nhiên, Hitler cũng bất lực như vậy, và Mao Trạch Đông còn bất lực hơn cả hai người kia nữa.

Con thấy những điều này và do đó con cần nhận ra là con có khuynh hướng đó, và khuynh hướng đó dễ hiểu và không thể tránh, nhưng điều con có thể tránh là vác cái ngã đó theo mình cho đến hết kiếp sống này. Đó là lý do vì sao các thày đã trao truyền giáo lý này, để giúp con vứt bỏ gông cùm nặng chĩu của sự ghiền nghiện an toàn, của cái ngã muốn kiểm soát một cách bệnh hoạn mà con có trong thể bản sắc của con. Con có thể tới điểm nhìn vào nó, thấy nó, thấy nó như nó là, bước lui lại và nhận ra: “Đây không phải là tôi. Đây không phải là tôi”.

Giờ đây con yêu dấu, các thày là chân sư thăng thiên biết rất rõ là các thày phải giữ một cân bằng tế nhị khi hành xử. Để giải thoát các con, các thày cần làm hai chuyện. Thứ nhất, các thày cần giúp con thấy là con không tự do. Điều này có thể khiến con rất rất bức xúc. Con có biết vì sao con lại bức xúc? Ấy, con cảm thấy bức xúc vì cái ngã kiểm soát mà con đã tạo ra để có được cảm giác an toàn và thăng bằng, cần cảm thấy nó có một hiểu biết cơ bản về cách hành tinh này vận hành.

Lẽ dĩ nhiên, con bị mắc kẹt vì cái ngã đó. Chính cái ngã đó đã giam hãm con hơn bất cứ gì khác. Khi các thày bắt đầu phơi bày sự hiện diện của cái ngã đó, thì nó sẽ phản ứng ra sao? Nó sẽ coi việc phản bác lời giảng của các thày là chuyện sống còn của nó, để con không chấp nhận điều các thày nói, không coi điều các thày nói là quan trọng, không đem ra áp dụng điều các thày nói. Con có thể nhìn vào chính mình, và một thử nghiệm rất tốt là con lấy quyển Các cuộc đời của tôi và xem xét con phản ứng ra sao với quyển sách đó. Quyển sách càng khiến con bức xúc bao nhiêu, thì càng chứng tỏ là con có cái ngã đã quen cảm thấy, có thể qua nhiều kiếp sống, là nó phần nào nắm được cách thế giới vận hành. Nó làm chủ được tình hình, nó đã tìm ra một hệ thống ấn định rằng nếu con làm một số việc và không làm một số việc khác, thì con sẽ được an toàn.  

3.8. Khắc phục cái ngã muốn kiểm soát một cách bệnh hoạn

Giờ đây con yêu dấu, ta có thể coi là cái ngã đó có phần đúng. Điều kiện chính yếu nào khiến con không được an toàn trên trái đất? Đó là sa nhân. Vì sao họ lại tấn công con? Vì sao họ tìm cách tiêu diệt con? Đó là vì nỗi sợ cơ yếu nhất, lớn nhất của họ là có ai trở thành Ki-tô Hằng sống, có ai dám biểu hiện quả vị Ki-tô. Đó là nỗi sợ cơ yếu nhất của họ. Do đó, khi có ai tới hành tinh này hay đã nâng mình lên một trình độ nào đó của quả vị Ki-tô, thì họ sẽ tìm đủ mọi cách để tiêu diệt người đó và ngăn chặn không để người đó biểu hiện quả vị Ki-tô.

Chuyện gì xảy ra khi con giáp mặt sa nhân và trải nghiệm là họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì trong khả năng họ để tiêu diệt cá nhân con? Con bị một cú sốc, một chấn thương, và kết quả là con tạo ra một khía cạnh của ngã gốc muốn kiểm soát. Một lần nữa, điều này dễ hiểu. Con ở trong cõi vật lý, con trải nghiệm là có người muốn giết con, muốn tra tấn, chê bai, hạ nhục con, làm tất cả gì họ có thể làm để hủy hoại con. Con không thể ra khỏi thân xác này. Con có thể không có khả năng rời xa họ. Con có thể làm gì để có thể sống sót trong tư tưởng và cảm xúc không những trong kiếp sống này mà còn trong các kiếp sống tới? Ấy, cái ngã kiểm soát nhận ra rất nhanh là theo nhận thức của nó, cách duy nhất để cảm thấy an toàn trên trái đất là không là Ki-tô trên trái đất, không thách thức sa nhân. Nếu con không thách thức sa nhân bằng cách là Ki-tô, thì họ sẽ không đụng đến con, và nhận định này đúng. Nếu con không thách thức sa nhân, họ sẽ để con yên. Con nhận ra ở đây là cái ngã kiểm soát đã tạo được cảm nhận là nó sẽ được an toàn, an ninh nếu nó ở trong một số giới hạn và không làm gì để thách thức sa nhân.

Một số các con đã sống với cảm giác an ninh này trong nhiều, nhiều nhiều kiếp. Đúng thực là tất cả các con đều có ít nhiều cảm giác an ninh. Không phải tất cả các con đều có cảm giác này suốt nhiều kiếp vì một số các con đã phải chịu cảnh chiến tranh hay biến cố chấn thương khác trong một kiếp gần đây. Do đó con không có được cảm giác an ninh trong suốt một khoảng thời gian dài, nhưng một số khác đã có được cảm giác an ninh trong một thời gian rất dài. Chuyện gì xảy ra khi các thày trao truyền giáo lý về ngã gốc và quả vị Ki-tô? Điều xảy ra, như Quan Âm đã giảng, là con trải qua một giai đoạn sử dụng giáo lý của các chân sư thăng thiên để củng cố cảm tưởng của ngã kiểm soát là nó làm chủ tình hình trên trái đất.

Con cũng có thể lấy giáo lý mà các thày đã trao truyền và sử dụng nó để củng cố một thế giới quan nào đó. Một lần nữa, ta trở lại câu hỏi ở trên: vì sao các thày đã trao truyền các giáo lý này đã mấy thập niên mà có quá ít người đã có thể biểu lộ quả vị Ki-tô? Đó là vì đa số những người theo giáo lý chân sư thăng thiên đã không thách thức khía cạnh kiểm soát của ngã gốc, cái ngã kiểm soát. Họ không bao giờ thách thức nó. Một phần là vì họ không có giáo lý vì các thày đã phải tiến hành một cách tuần tự và dần dần xây dựng cơ sở giáo lý. Một lần nữa, thày không chê trách ai cả. Thày không có cảm nghĩ: “Ồ, họ đáng lẽ phải có khả năng làm chuyện này.” Thày chỉ đơn giản mô tả chuyện đã xảy ra để các con nào mở tâm đón nhận có thể hiểu và vươn lên cao hơn.

3.9. Trì hoãn biểu hiện quả vị Ki-tô

Con yêu dấu, con người đã làm gì với giáo lý chân sư thăng thiên? Họ đã tạo ý niệm là: “Đúng rồi, tôi thấy là Giê-su đã đầu thai để là một tấm gương và tôi thấy là tôi có tiềm năng biểu hiện quả vị Ki-tô.” Trong những đợt truyền giáo trước, các đệ tử chú tâm nhiều hơn đến việc hội đủ điều kiện để thăng thiên, giống như con thấy nhiều người trong các phòng trào Cơ đốc giáo chú tâm vào việc được cứu rỗi. Nói cách khác, các thày có giảng trước đây là giáo hội Công giáo đã từ khởi thủy quy định mục đích cuộc sống trên trái đất là chịu đau khổ, rằng con chỉ là một tội đồ, con không có tiềm năng là Ki-tô trên trái đất, điều con cần quan tâm là chuyện gì xảy sau kiếp sống trên trái đất để con có thể được cứu rỗi và lên thiên đàng. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã giản dị lấy giáo lý của các thày và xây dựng ý niệm là mục đích chính yếu của đệ tử chân sư thăng thiên là hội đủ điều kiện thăng thiên. Lẽ dĩ nhiên, chuyện này xảy ra ở cuối hay sau kiếp sống này.

Quan niệm này, một lần nữa, lại dùng giáo lý để trì hoãn việc là Ki-tô, trì hoãn việc trải qua một thay đổi quyết định. Con như nói rằng: “Ồ, tôi chỉ cần kêu gọi đủ ánh sáng tím trong phần còn lại của cuộc đời để quân bằng ít nhất 51 phần trăm nghiệp, và sau đó tôi sẽ thăng thiên sau kiếp sống này và tôi sẽ không phải là Ki-tô, tôi không phải thách thức sa nhân.” Một lần nữa, thày không chê trách ai mà chỉ muốn có một cuộc thảo luận thẳng thắn, trực tiếp, giản dị về chuyện gì xảy ra.

Lẽ dĩ nhiên, các thày đã bắt đầu trao truyền một số giáo lý xuyên qua vị sứ giả này, thực sự là ngay từ đầu, đã rất thách thức và đi xa hơn những gì được truyền giảng trong các đợt truyền giáo trước, như: tâm thức nhị nguyên, tư duy cuồng đại. Nếu con nhìn tiến trình trao truyền giáo lý qua vị sứ giả này, thì con thấy đã có một số giai đoạn trong đó các thày đã nâng giáo lý lên một tầng cao hơn. Một số các đệ tử đã từng tham gia các đợt truyền giáo trước đã không chịu được các giáo lý mới này. Họ đã làm gì? Ấy, họ đã phải dựng lên một loại kịch bản cho họ một cớ để rút lui, thậm chí nói vị sứ giả đã trở thành một sứ giả giả, đã không còn được các thày ủy quyền, hay một số điều khác.

Tất cả các chuyện này đều bắt nguồn từ sự kiện các giáo lý đó thách thức ý niệm an ninh của ngã kiểm soát của các người đó. Họ đã dùng các giáo lý trước để củng cố ý niệm họ làm chủ tình hình. Giờ đây thì các thày trao truyền giáo lý mới làm xáo trộn ý niệm làm chủ tình hình nơi một số người. Họ đã tới điểm, ít ra là trong tiềm thức, nhận ra là họ thực sự không thể chấp nhận giáo lý này và đồng thời bảo tồn ý niệm làm chủ tình hình của họ. Giáo lý đã thách thức một trong những ảo tưởng mà họ đã sử dụng để xây dựng ý niệm họ làm chủ tình hình.

Họ tới điểm bắt buộc phải chọn lựa: Con nóng hay lạnh? Con có sẽ theo Ki-tô Hằng sống hay không? Họ đã chọn không theo và họ cần tìm ra một bào chữa, và bào chữa tiện lợi là (giống như trong các đợt truyền giáo trước): “Ồ, vị sứ giả đã không còn được các thày ủy quyền, ông ấy hay bà ấy đang trao truyền giáo lý giả, các chân sư không còn bảo trợ tổ chức này nữa, các chân sư không bao giờ có thể nói những chuyện như vậy, các chân sư không bao giờ nói thẳng là không nên ăn đường.” Vân vân và vân vân. Các thày đã thấy những lời bào chữa này từ đệ tử chân sư thăng thiên trong nhiều thập niên nay. Một lần nữa, thày không chê trách ai, thày không có ý niệm chuyện gì đáng lẽ phải làm và đáng lẽ không được làm, nhưng các thày phải nói là với tầm nhìn từ cõi thăng thiên, các thày đã tới điểm thấy cái ngã nhân gian, cái ngã kiểm soát này, hành xử quá nhiều lần nên đã đến lúc các thày đơn giản nêu vấn đề một cách thẳng thắn và công khai để không ai có thể giải thích bẻ quẹo đi.

3.10. Mục đích kiếp sống này của con là gì?

Sự kiện đơn giản là: khi thày hiện thân trên trái đất trong một thân thể vật lý, thì thày đã nhiều lần thách thức con người. Một lần nữa, con nhận ra là thày chỉ có ba năm và thày phải thách thức con người: họ muốn theo thày và vươn lên cao hơn, hay họ ở lại nơi họ cảm thấy an ninh, an toàn. Một lần nữa, thày phải làm công việc này ở đây. Một lần nữa, thày sẽ không chê trách ai, thày sẽ không nói con phải làm gì và không được làm gì. Ở đây, con cần nhận ra, con cần quyết định là mục đích của con trong kiếp sống này là gì. Con có thể quyết định là con thoải mái ở trình độ làm đệ tử chân sư thăng thiên và hiểu biết giáo lý. Con có thể tiếp tục thực hành giáo lý ở tầng đó, nhưng con cần tự hỏi phải chăng mục đích mà con muốn hoàn thành, điều mà các thày đã gọi vào đầu mùa hạ, là tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của con? “Mục đích của tôi có phải chăng là biểu hiện quả vị Ki-tô ở tầng cao hơn những gì tôi đã làm được cho tới nay?” Nếu đây là mục đích của con, và một lần nữa thày không chê trách con, thày còn không nói là nếu đây không phải là mục đích của con, thì con nên rút lui khỏi giáo lý. Con vẫn có thể tiếp tục nghiên cứu giáo lý bằng bất cứ cách nào con muốn. 

Điều mà thày cần trải bày trước mắt con là: con không thể là Ki-tô Hằng sống đồng thời duy trì cảm giác được an ninh và làm chủ tình hình. Chuyện này không thể làm được, con không thể thờ hai chúa, con không thể thờ Thượng đế và thế gian. Thế gian ở đây là biểu tượng của khía cạnh của ngã gốc luôn luôn muốn làm chủ tình hình để cảm thấy an toàn.

Con có câu ngạn ngữ trong ngôn ngữ Hoa Kỳ: “An toàn hơn ân hận,” nhưng câu này do sa nhân đề ra vì Ki-tô vừa không an toàn vừa không ân hận. Đó là một trạng thái tâm thức mà con chỉ đạt được khi con nhìn vào khía cạnh kiểm soát của ngã gốc, sẵn sàng nhìn nó, tách mình ra khỏi nó và để cho nó chết đi, như các thày đã giảng và cho con dụng cụ để làm. Một lần nữa, các thày không định ra một mục đích mà các con không thể đạt được vì các thày đã rất thận trọng, đã đi từng bước trong việc trao truyền giáo lý và dụng cụ, để con có thể thành công.  

3.11. Con người đã làm gì để được cảm thấy an toàn

Con yêu dấu, nếu con nhìn ngược dòng lịch sử, thì con thấy có một số người đã rất thiện xảo trong việc kiểm soát ngoại cảnh của họ để được cảm thấy an toàn, đến độ họ đã tạo ra động lượng tự cô lập và cách ly khỏi thế giới. Tỷ dụ, con có thể thấy là thời Trung cổ, có nhiều vị vua, hoàng hậu và giới quý tộc đã thành công trong việc đạt được địa vị cao và sống một cuộc đời thoải mái, đặc quyền. Họ đã xây các bức tường dày và có đạo quân bao bọc chung quanh họ và họ đã sống trong tháp ngà và cảm thấy an toàn vì họ đã tự cô lập và cách ly khỏi những gì xảy ra trên thế giới. Họ không thực sự thấy sự thống khổ của thần dân họ, những người đang gìn giữ nếp sống của họ, giúp họ được cảm thấy an toàn.

Con thấy có những người đã dùng giáo lý tâm linh để xây dựng một tu viện hay một loại tịnh thất tâm linh nơi họ sống, một lần nữa, cô lập và cách ly khỏi thế gian. Một số các con đã làm điều này trong các kiếp trước. Đây có thể là một hành động xây dựng trong một khoảng thời gian ngắn, nhưng nếu đó là cái ngã kiểm soát của con mong muốn được cảm thấy an toàn, thì nó không còn giúp con tăng triển nữa.

Thày muốn con ngẫm nghĩ chuyện sau đây. Nếu con đọc Phúc âm Tô-ma (Gospel of Thomas) thì con thấy trong đó có nói là con sẽ tới điểm con có được một số hiểu biết và sau đó con sẽ bị xáo trộn, nhưng khi con vượt qua sự xáo trộn thì con sẽ cai quản tất cả, nghĩa là chính tâm mình. Con sẽ là một vị điều ngự, con sẽ có tự điều ngự.

Điều thày đang cho con là hiểu biết con có một khía cạnh của ngã gốc muốn làm chủ tình hình. Khi thày trao cho con hiểu biết này, thì con sẽ bị xáo trộn, vì ngã đó sẽ phản ứng như là mạng sống của nó bị đe dọa – và mạng sống của nó quả thực bị đe dọa. Khi con thấy là con không cần ngã đó nữa, thì con có thể để nó chết đi, và nó sẽ chết đi. Nó không muốn chết, do đó nó sẵn sàng giữ con bị mắc kẹt trong cảm nhận bất an toàn để duy trì sự hiện hữu của nó. Con sẽ bị xáo trộn, nhưng khi con dùng các giáo lý và dụng cụ tâm linh để giải thoát mình khỏi khía cạnh đó của ngã gốc và để nó chết đi, thì con sẽ được bình an. Lúc đó, con sẽ cảm thấy tự do, và con sẽ có một cảm giác tự do mới mà hiện nay con không thể tượng tượng nổi.

3.12. Con an toàn như một sinh thể vô hình tướng

Làm sao con tới được điểm đó? Ấy, các thày đã trao cho các con biết bao nhiêu giáo lý về cái Ta Biết. Tầm quan trọng của giáo lý đó là: con thực sự đầu thai ở đây như một sinh thể vô hình tướng đã đi xuống thế giới hình tướng. Các thày có nói là để phát biểu trong thế giới hình tướng, con cần tạo ra một số cấu trúc trong bốn thể phàm nhưng con không là các tạo vật này. Điều đã xảy ra khi con bị chấn thương nhập đời là con đã tạo ra ngã gốc và con bắt đầu nghĩ con là ngã gốc, hay ít ra là con phải là nó để được an toàn trên trái đất. Nếu con thực sự dùng các giáo lý về cái Ta Biết, thì con có thể nhận ra con vẫn là một sinh thể vô hình tướng, và với tư cách một sinh thể vô hình tướng, con không thể bị tổn thương bởi bất cứ điều gì xảy ra trên trái đất. Con có thấy chăng điều thày đang cống hiến con? Thày đang bày ra trước mặt con sự sống và cái chết. Thày đang bày ra trước mặt con hai chọn lựa. Một bên là tâm thức chết, do cái ngã kiểm soát đại diện, nó nghĩ con chỉ có thể an toàn khi con làm chủ thế gian. Nó thực sự nghĩ là cách duy nhất để được an toàn (tối hậu) trong thế giới này là kiểm soát toàn bộ thế giới. Đó là cái chết, vì lẽ dĩ nhiên, con sẽ không bao giờ kiểm soát được thế giới hoàn toàn. Không một cá nhân nào sẽ có thể làm được điều này.

Chọn lựa kia là sự sống. Đó là con nhận ra là con không cần kiểm soát thế giới để được an toàn. Con cần nối kết trở lại. Con cần thức tỉnh trở lại. Con cần biết một cách ý thức con là một sinh thể vô hình tướng. Lúc đó, con nhận ra là con được an toàn trong thế giới này ngay khi thế giới ở trong trạng thái hiện nay. Con có thể an toàn mà không cần kiểm soát thế giới, và con yêu dấu, chỉ khi nào con cảm thấy an toàn mà không cần kiểm soát thế giới thì con mới có thể bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô. Chỉ lúc đó thì con mới dám thách thức sa nhân. 

Con yếu dấu, thày không muốn chỉ trích bất cứ cá nhân nào, nhưng con thấy là trong quá khứ có những người đã quá quan tâm bị sa nhân tấn công hay tiêu diệt, nên họ lúc nào cũng muốn tự bảo vệ họ khỏi nguy cơ đó. Làm sao con có thể sống như vậy lâu dài? Lúc nào cũng lo bảo vệ mình là một căng thẳng quá lớn, và trong thời đại này, hy vọng là con sẽ không bị sa nhân giết hay tra tấn, vì con người đã vượt qua giai đoạn này. Ta có thể nói là ngày nay, con có thể biểu lộ quả vị Ki-tô an toàn hơn trong quá khứ. Tuy nhiên, con vẫn cần tới được điểm khắc phục nỗi sợ sa nhân. Họ không điều khiển cuộc đời con, họ không là khung tham chiếu của con. Các chân sư thăng thiên, Hiện diện TA LÀ của con, thế giới vô hình tướng là khung tham chiếu của con. Đó là lúc con cảm thấy an toàn khi biểu hiện quả vị Ki-tô.

Làm sao con có thể thở thành Ki-tô hành động? Ấy, con không thể là Ki-tô hành động khi con còn cái ngã kiểm soát trong thể bản sắc, nó cảm thấy biểu lộ quả vị Ki-tô sẽ khiến con mất an toàn và nó sợ chuyện gì có thể xảy ra nếu con biểu hiện quả vị Ki-tô.

3.13. Khắc phục nhu cầu an toàn

Con yêu dấu, con cần tìm ra cách khắc phục ý muốn kiểm soát thế giới để thỏa mãn nhu cầu an toàn. Đây là điều mà thày đã giúp con nhận thức. Như thày đã nói, các thày đã trao truyền cho các con giáo lý về ngã gốc, và cách khắc phục nó. Nếu con sử dụng giáo lý đó, nếu con sẵn sàng buông bỏ ngã gốc, nếu con sẵn sàng bị xáo trộn tạm thời cho tới khi con áp dụng giáo lý, thì con sẽ tới điểm con được giải thoát.

Như các thày có nói trước đây, một cái ngã nội tại lúc nào cũng được tạo ra để giải quyết một vấn đề nào đó trên trái đất. Nó được thiết kế với một lập trình và một cấu trúc để giải quyết vấn đề đó. Ngã đó sẽ tiếp tục phóng chiếu tới con là vấn đề có thật, vấn đề đó hiện hữu, vấn đề đang ảnh hưởng con và con phải làm điều gì đó để giải quyết vấn đề. Cái ngã kiểm soát đó sẽ phóng chiếu tới con là: “Cái ác có thật, có một nguy cơ thật, con có thể bị hành hạ, con cần cảm thấy an toàn, con cần phải làm điều gì đó để cảm thấy an toàn.” Con yêu dấu, có điểm (mà ngay Thánh kinh cũng đã đề cập) mà thày nói với người muốn chôn cất thân sinh: “Điều đó đâu có ý nghĩa gì với con, con hãy theo ta, và để người chết chôn cất người chết.” 

Con có sẵn sàng cùng thày đi lên một tầng tâm thức cao hơn chăng? Nếu có, thì con hãy nắm lấy bàn tay mà thày chìa ra và để thày dẫn con đi cho tới lúc con đã neo mình thật chặt vào Ki-tô nên có thể nhìn ngã kiểm soát và nói: “Tôi không còn cần bạn nữa vì nay tôi đã nắm tay Giê-su Ki-tô thăng thiên, và đó là sự an toàn của tôi. Trong Ki-tô tôi được an toàn, tôi được cứu rỗi, tôi được nối kết với cái Một, tôi biết tôi là một sinh thể vô hình tướng và do đó không thể bị tiêu hủy hay đe dọa bởi bất cứ điều gì trong thế gian này. Tôi về nương tựa nơi Ki-tô, không nơi cái ngã vỏ ngoài muốn kiểm soát thế giới.”

Con yêu dấu, con muốn gì, cái chết hay sự sống? Đây không phải là một chọn lựa được-hết-hay-mất-hết, như thày đã nói. Thày nhận ra là một số người chưa sẵn sàng đón nhận giáo lý này. Con có thể cần thời gian trước khi cảm thấy sẵn sàng. Nếu như vậy thì con hãy tiếp tục học hỏi giáo lý và áp dụng giáo lý trong phạm vi khả thi. Nhưng một số các con đã sẵn sàng để bước lên một tầng cao hơn.

Con không thể, con không thể biểu lộ quả vị Ki-tô, con không thể sánh vai đi cùng thày, con không thể nắm tay thày khi con chưa bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc, cái ngã kiểm soát nhất định cần cảm thấy nó làm chủ thế gian. Do đó, nó không thể bỏ lại lưới đánh cá để cùng đi với Ki-tô Hằng sống, bỏ lại tất cả đằng sau. Con không cần bỏ lại tất cả đằng sau theo nghĩa vỏ ngoài, nhưng con cần bỏ ngã đó lại đằng sau. Đó là điều duy nhất ngăn trở con biểu lộ quả vị Ki-tô.

3.14. Các chân sư phải giữ cân bằng tế nhị

Con yêu dấu, các thày luôn luôn phải giữ một cân bằng tế nhị. Con có thể tiếp nhận được tới đâu? Điều gì con không thể chấp nhận? Con sẵn sàng nhận điều gì? Con không sẵn sàng nhận điều gì? Khi thày hiện thân trên trái đất, có nhiều lần thày đã thách thức con người một cách rất trực tiếp. Các thày đã kể câu chuyện là thày đi tới trước mặt một số đệ tử và nói: “Hãy buông lưới đánh cá và theo ta.” Sau đó, thày quay lưng lại và bước đi, và nếu họ không đi theo thày thì họ đã lỡ cơ hội. Đây không phải là cách các thày ứng xử bây giờ với các giáo lý này. Các thày nhận ra là các con có thể cần thì giờ để thể nhập giáo lý, để hoàn toàn đón nhận một số giáo lý. Các thày không muốn tạo ra hình ảnh là tất cả các con đều phải sẵn sàng biểu lộ quả vị Ki-tô ngay hôm nay. Các thày nhận ra là một số các con cần phải qua một số bước.

Thày hy vọng là các con cũng nhận ra là các con cũng cần giữ một cân bằng tế nhị. Con phải nhận ra là con theo các giáo lý này vì con muốn tăng triển trên con đường tâm linh, nhưng có một khía cạnh của ngã vỏ ngoài, là ngã gốc, không muốn con tăng triển. Đúng, có những lúc con có thể nói: “Con chưa sẵn sàng nhận giáo lý này, con cần thêm thì giờ, con cần qua một số bước trước khi con hoàn toàn đón nhận nó.” Con cũng sẽ tới điểm con cần nói: “Có phải chăng là cái ngã kiểm soát của tôi muốn tôi nghĩ là tôi chưa sẵn sàng? Thực sự thì tôi đã sẵn sàng, vậy câu hỏi là: ‘Tôi có chịu làm hay không?’” Có lúc con cần đốc thúc mình, có lúc con cần bước lui lại, nhìn vào gương và nói: “Tôi đang ở đâu trên con đường tâm linh? Phải chăng là tôi đã để cái ngã kiểm soát cho tôi cảm giác là tôi sẽ thoải mái nếu tôi ở lại tầng này và không đi xa hơn nữa? Phải chăng tôi đã sẵn sàng tiến một bước quyết định, bỏ lại đằng sau một cái gì đó, và hoàn toàn đón nhận một ngày mới? Phải chăng tôi đã sẵn sàng trực tiếp giáp mặt các chân sư thăng thiên?” Một số các con vẫn có thể cần theo một giáo lý vỏ ngoài, nhưng cũng có một số đã sẵn sàng để nói: “Tôi có nên mãi mãi thụ động ngồi đây và lắng nghe một vị sứ giả có khả năng nối kết với các chân sư thăng thiên, hay tôi đã sẵn sàng có một nối kết trực tiếp hơn với các chân sư thăng thiên?”

Một giáo lý lúc nào cũng được trao truyền ở nhiều tầng khác nhau. Ta có thể nói là lúc nào cái ngã kiểm soát của con cũng có một cớ để không áp dụng giáo lý. Con là người quyết định, con có trách nhiệm lượng định: “Lúc nào thì tôi chưa sẵn sàng và lúc nào thì đây chỉ là một cái cớ mà ngã kiểm soát dùng để nói tôi chưa sẵn sàng.”

Đến đây thì thày đã trao truyền những gì thày muốn trao truyền lúc này. Thày cảm ơn các con đã chú ý nghe, đã sẵn sàng chịu đựng một bài giảng, lẽ dĩ nhiên, sẽ gây xáo trộn. Con yêu dấu, con có thật sự chờ đợi là con tới một hội nghị với chủ đề “Là Ki-tô Hằng sống” mà không bị xáo trộn chăng? Bởi vì nếu con chờ đợi như vậy, thì con nên nhìn vào cái ngã đó và nói: “Ồ, bây giờ thì tôi thấy bạn rồi. Tôi không phải là bạn.”

Đây có thể là bước khởi đầu để con tách mình ra khỏi cái ngã đó, và nhận ra là cái ngã đó, lẽ dĩ nhiên, có một chờ đợi không thực tế về ý nghĩa của quả vị Ki-tô. Nó nghĩ con có thể là Ki-tô mà không cần thách thức sa nhân, hay đúng hơn là không cần thách thức ý niệm làm chủ tình hình của ngã kiểm soát. Con yêu dấu, chuyện này không thể xảy ra. Thày đã nói như vậy trước đây. Thày sẽ nói lại một lần nữa, vì thày cần nói cho tới khi con chợt hiểu ra: “Con không thể thờ hai chủ.” “Từ nay về sau, con muốn thờ chủ nào?”

1 | Các ngã theo sau ngã gốc

Chân sư Thăng thiên Quan Âm qua trung gian Kim Michaels, ngày 20 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Phật Quan Âm, thày được nhiều người trong khu vực này của thế giới biết đến như vị Bồ tát của Từ bi, tuy nhiên thày hơn rất nhiều những gì các con người nghĩ về thày trong khu vực này của thế giới. Lẽ tự nhiên, thày nhìn nhận và hân hoan thấy sự sùng kính mà nhiều người bày tỏ với thày và lòng thương yêu mà họ trút vào các câu niệm chú tuyệt vời, giống như chính các con đã làm trong giờ đồng hồ vừa qua. Các con đã thực sự đạt được thành quả lớn trong việc yên lắng thể tình cảm của trái đất. 

1.1. Vũng nước xoáy của sự sợ hãi

Các trái tim yêu dấu của thày, sa nhân đã làm gì trên thể tình cảm của trái đất? Họ đã làm nhiều chuyện, nhưng điểm cơ yếu mà thày muốn các con chú ý là họ đã gài vào một vũng nước xoáy, vũng xoáy sợ hãi. Vũng xoáy này mạnh lạ thường. Nếu con nhìn vào nhân loại ở khắp nơi trên thế giới, thì con thấy là rất, rất nhiều người sống suốt đời với cảm thể của họ bị buộc chặt, bị điều khiển, và đôi khi bị choáng ngợp bởi vũng xoáy sợ hãi trong cảm thể của hành tinh hay trong tâm thức tập thể.

Rất, rất nhiều người đã sống với nỗi sợ hãi đó, có khi trong nhiều kiếp sống, nên trong kiếp này họ không thể cảm nhận điều gì mà không bị choáng ngợp bởi nỗi sợ trong cảm thể. Con yêu dấu, con không thể trở thành, con không thể , Ki-tô hành động khi con còn sự sợ hãi trong cảm thể. Con chắc chắn không thể là Ki-tô hành động khi nỗi sợ đó dính liền với vũng nước xoáy sợ hãi của hành tinh. Lẽ đương nhiên con không thể là Phật nếu con còn sợ hãi, nhưng một số các con chưa thực sự nhận ra là con không thể là Ki-tô nếu con còn sự sợ hãi trong cảm thể.

Do đó, thày giảng bài này không những cho các con hiện diện ở đây mà cho toàn thể đệ tử khắp nơi trên thế giới. Thày nói với tất cả những ai tự nhận mình là đệ tử chân sư thăng thiên, cho dù họ có công nhận vị sứ giả này hay không, thày nói với tất cả những người tâm linh, những người mở tâm đón nhận khía cạnh tâm linh của sự sống, và thày nói vào tâm thức tập thể: “Con không thể là Ki-tô nếu cảm thể của con bị buộc vào động lượng sợ hãi của hành tinh này.”

Con yêu dấu, vì sao cảm thể của con lại bị buộc vào động lượng sợ hãi của hành tinh? Ấy, điều này liên quan đến giáo lý mà các thày đã trao truyền về chấn thương nhập đời. Một số các con (không phải tất cả, nhưng một số) khi đầu thai lần đầu trên trái đất, khi phải gánh chịu biến cố chấn thương do sa nhân gây ra, thì con bị cú sốc quá mạnh nên đã bị một vết nứt trong cảm thể của mình. Các đợt sóng năng lượng đầy rung động sợ hãi, bất hài hòa và hỗn loạn đã qua vết nứt này tràn vào cảm thể của con.

Lẽ đương nhiên, các thày đã trao truyền giáo lý qua quyển sách Các cuộc đời của tôi, là nhiều người trong các con là avatar. Lẽ dĩ nhiên, không phải tất cả các con đều là avatar. Một số các con là cư dân nguyên thủy của trái đất. Sau khi sa nhân tới đầu thai ở đây, thì các con cũng phải gánh chịu một hình thức chấn thương đã khiến con bị một cú sốc lớn đến độ con đã mở cửa cảm thể của mình cho năng lượng sợ hãi này tràn vào.

1.2. Giữ con buộc chặt vào sợ hãi

Sa nhân đã rất khôn ngoan, hung hãn và kiên trì trong việc giữ sợi dây buộc cảm thể của con vào động lượng sợ hãi của hành tinh. Con yêu dấu, sợ hãi là một cảm xúc. Sợ hãi hiện diện, ít ra là ở mức cơ bản, trong thể tình cảm. Nó là một năng lượng, một rung động, một động lượng. Nó xô dạt, nó di động, thường khi một cách bất hài hòa và hỗn loạn. Một khi con bị chìm trong đó và bị nó choáng ngợp, thì con có thể làm gì? Ấy, như nhiều người trong các con đã biết, khi mình bị chìm trong nó thì mình không dễ thoát ra khỏi nó. Vì khi con thực sự ở trong rung động sợ hãi, thì cảm thể của con ở trong tình trạng hỗn loạn đến độ thể lý trí của con không thể thủ vai trò chính đáng ngự trị thể tình cảm. Các thày đã trao truyền giáo lý là năng lượng tuôn chảy từ Hiện diện TA LÀ xuống thể bản sắc, qua thể lý trí, thể tình cảm và xuống thể vật lý của con.

Các thày cũng đã trao truyền giáo lý, trong quyển sách mới, là trên trái đất con có thể phải gánh chịu một chấn thương mạnh đến độ dòng năng lượng chảy ngược lại, tức là khi con bị đau đớn thể xác quá mạnh, thì năng lượng chảy ngược lên thể tình cảm, thể lý trí và thể bản sắc, ít ra là phần dưới của thể bản sắc. Một khi con gánh chịu chấn thương đó, thì con đánh mất dòng chảy năng lượng nguyên thủy, và con khó tái lập lại nó nếu con chưa khắc phục được chấn thương nhập đời nguyên thủy.

1.3. Những cư dân nguyên thủy của trái đất

Tuy các thày có trao truyền giáo lý về chấn thương nhập đời cho các avatar, nhưng giáo lý mà thày trao truyền ở đây cũng áp dụng cho các cư dân nguyên thủy của trái đất vì các con cũng đã phải gánh chịu một chấn thương. Nó không phải là chấn thương nhập đời theo nghĩa chấn thương xảy ra trong kiếp đầu thai đầu của các con trên trái đất. Nó xảy ra sau khi các con đã đầu thai trên trái đất từ rất lâu, và sa nhân được phép đầu thai ở đây. Do đó nó không phải là một chấn thương nhập đời theo đúng nghĩa, nhưng nó vẫn là một chấn thương. Gọi nó là chấn thương nhập đời hay chỉ vỏn vẹn là chấn thương chỉ là cách dùng ngôn từ, nhưng nó áp dụng cho tất cả các con là những người tâm linh.

Các thày biết rất rõ là khi các thày trao truyền một giáo lý thì giáo lý đó không thể áp dụng cho tất cả mọi người. Quyển sách mới được trao truyền trong bối cảnh một avatar tới từ một hành tinh tự nhiên, và do đó người này còn giữ trong tiềm thức ký ức cuộc sống ra sao trên một hành tinh tự nhiên. Lẽ đương nhiên, trong quyển sách cũng có giáo lý áp dụng cho cư dân nguyên thủy của trái đất, chính yếu là giáo lý về chấn thương nhập đời, nhưng giáo lý về hành tinh tự nhiên cũng vậy. Các con là những cư dân nguyên thủy của trái đất, các con đã trải nghiệm trái đất ở một trạng thái cao hơn tình trạng từ khi sa nhân tới đây, và trong thời gian trước đó nữa. Nếu trái đất không xuống thấp hơn trạng thái hành tinh tự nhiên, thì sa nhân đã không thể đầu thai ở đây, họ đã không được phép đầu thai ở đây.

Điều thày muốn trình bày với các con là cư dân nguyên thủy của trái đất, là các con dễ bị vết nứt trong thể tình cảm hơn các avatar. Đối với các cư dân nguyên thủy thì trái đất là khung tham chiếu chính yếu, trong khi đối với các avatar thì khung tham chiếu chính yếu là hành tinh tự nhiên. Các con là cư dân nguyên thủy bị buộc chặt vào trái đất hơn. Do đó, con dễ đi vào rung động sợ hãi chuyện gì có thể xảy ra cho trái đất, chuyện gì có thể xảy ra nơi bát cung vật lý. Có nhiều khả năng là những người trong số các con là những cư dân nguyên thủy đã bị buộc chặt vào vòng xoáy sợ hãi của hành tinh.Nếu đây là trường hợp của con, thì điều rất quan trọng, điều cực kỳ quan trọng, là con cắt đứt sợi dây buộc này trước khi con có thể mang vào quả vị Ki-tô.

1.4. Thoát khỏi nỗi sợ hãi

Con phải làm gì khi con nhận ra là con đang ở trong sự rung động, trong vòng xoáy của sợ hãi? Ấy, như thày đã nói, con không thể làm giống như một số người khác là dùng thể lý trí để bắt đầu suy luận về nỗi sợ, lý luận vì sao nỗi sợ không hợp lý, vì sao nó dựa trên một ảo tưởng, và vì sao con người không nên sợ hãi như vậy. Một số người có thể khống chế nỗi sợ bằng cách đó, nhưng nhiều người thì không làm được, đặc biệt khi họ bị buộc chặt vào động lượng sợ hãi của hành tinh.

Vậy con làm được gì? Ấy, con không thể dùng thể bản sắc hay thể lý trí để khống chế thể tình cảm. Con không thể dùng thể tình cảm để khống chế thể tình cảm. Ấy, phải chăng chuyện hợp lý, con yêu dấu, là khi con bị ảnh hưởng của dòng năng lượng chảy ngược, thì con có thể dùng thể vật lý để khống chế thể tình cảm, để cai quản thể tình cảm?

Con có thể làm chuyện này bằng nhiều cách, nhưng việc các con đã làm là niệm chú (chanting) trong suốt một giờ vừa qua là một thí dụ dùng khả năng của thân thể vật lý. Con có thể đọc một bài thỉnh, hay đọc một bài chú, nhưng nhiều khi niệm chú như các con vừa làm là hữu hiệu nhất. Con có thể dùng bản thu âm của lời niệm chú để làm chủ thể tình cảm mỗi khi con cảm thấy có sự xáo trộn. Khi con dùng khả năng của thể vật lý để niệm chú, để dùng uy lực của lời nói, uy lực của giọng nói của con, thì con có thể yên lắng thể tình cảm. Một khi con đã có được ít nhiều an tịnh trong thể tình cảm, thì con có thể kêu gọi sự trợ giúp của các chân sư thăng thiên, như Đại thiên thần Michael, Astrea, Mẹ Mary hay các vị chân sư khác, để giúp con cắt đứt sợi dây buộc con vào động lượng sợ hãi của hành tinh.

1.5. Nghi ngờ là cánh cửa mở cho sợ hãi

Các con nên biết là tuy các thày có nói về dòng năng lượng chảy ngược, nhưng một cảm xúc không bao giờ tự nó có mặt một mình. Một cảm xúc dựa trên một niềm tin trong thể lý trí, và một niềm tin trong thể lý trí dựa trên một ý niệm bản sắc trong thể bản sắc. Trước khi con có thể cắt đứt động lượng, thì con cần nhận ra là sợ hãi không tự nó khởi lên. Nó lúc nào cũng phát xuất từ lòng nghi ngờ. Nghi ngờ là cánh cửa mở đưa sợ hãi vào cảm thể của con, và nghi ngờ bắt đầu trong thể lý trí nhưng nó bắt rễ từ thể bản sắc.

Giờ đây, con yêu dấu, trong một số bài truyền đọc gần đây các thày có đề cập đến những giới hạn của tâm đường thẳng, phân tích, lý luận, duy lý. Các con đã làm gì trong một giờ niệm chú? Nếu con trụ trong trái tim và thực sự cho phép mình tuôn chảy với lời niệm chú, tuôn chảy với làn sóng âm thanh, tuôn chảy với nhịp điệu, thì con đã vô hiệu hóa tâm đường thẳng, phân tích, lý luận, duy lý. Lúc đó tâm con mở ra để con thấy mối nghi ngờ đằng sau nỗi sợ.

Con có thể dễ nhận ra và nhìn nhận là con có nỗi sợ, và con sợ cái gì, con sợ điều kiện gì. Nhưng mối nghi ngờ nào trong thể lý trí đã mở cửa cho nỗi sợ? Nó có thể là, như một thí dụ trong số nhiều thí dụ, là con đã bị sa nhân đặt con vào một hoàn cảnh khiến con bị giết, hoặc nhiều người trong gia đình hay xã hội của con bị giết. Do đó, trong thể lý trí của con có mối nghi ngờ là con đã không bảo vệ được mình khỏi tình huống đó, con đã không tránh né được nó, Thượng đế đã không bảo vệ được con, không có lực nào trên thế gian có thể bảo vệ được con.

Một khi con nhận diện mối nghi ngờ, thì nó từ đâu đến? Nghi ngờ là một điều kiện của thể lý trí, và nó bắt nguồn từ sự kiện tâm phân tích có thể xem xét bất cứ vấn đề gì và tìm ra luận cứ ủng hộchống vấn đề đó, và nó có thể tiếp tục như vậy không bao giờ dứt.

Tình trạng này giống như một trận bóng bàn giữa hai ngã nội tại, hai phàm linh nội tại, trong thể bản sắc của con. Một ngã đưa ra một luận cứ với ngã kia. Ngã kia phản bác lại luận cứ đầu và đưa ra một luận cứ khác và con thấy như hai ngã đó đưa banh qua lại – hai ngã đó đánh banh qua lại bằng các luận cứ. Con đứng giữa, không biết luận cứ nào là luận cứ tối hậu, luận cứ nào đúng, luận cứ nào không đúng.

Cái “ta” đứng giữa là ai vậy? Đó là cái “ta” mà con thấy con là trong thể bản sắc. Cái “ta” đó được tạo ra lúc nào? Lúc con nhận chịu chấn thương! Cho dù đó là chấn thương nhập đời hay chấn thương địa cầu, khi con nhận chịu chấn thương đó, thì con tạo ra một bản sắc. Bản sắc đó mang theo nó niềm tin là khả năng của con trên trái đất có giới hạn. Có điều gì đó giới hạn khả năng của con, và do đó có điều kiện nào đó trên trái đất, do sa nhân tạo ra, mà con không thể khắc phục, tránh né hay bảo vệ mình khỏi nó. Con là một sinh thể giới hạn, con tự bản chất là một sinh thể giới hạn – cái ngã đó tin như vậy.

1.6. Giải bùa mê

Vậy con làm sao thoát khỏi thế bí này? Con yêu dấu, vì sao các thày đã không trao truyền giáo lý này một hai năm trước đây, khi nó ứng dụng cho nhiều người? Ấy, đó là vì các thày không muốn trao truyền một giáo lý mà không cho các con một dụng cụ để giải quyết vấn đề mà các thày nêu ra. Cho tới khi các thày trao truyền giáo lý về chấn thương nhập đời, mà nay ta cũng có thể gọi là chấn thương địa cầu, thì các con không có dụng cụ để khắc phục vấn đề. Cho dù con là một cư dân nguyên thủy hay một avatar, thì con đã có những dụng cụ trong quyển Chữa lành chấn thương tâm linh, để bắt đầu nhận ra chấn thương nhập đời và dần dần khắc phục nó.

Khi con khắc phục chấn thương nhập đời, thì con sẽ cảm thấy – đúng theo nghĩa đen – (như nhiều người trong các con đã có thể chứng nhận) là gánh nặng của thế gian đã trút khỏi hai vai con. Đó là gánh nặng thế gian mà con đã mang trên hai vai từ lúc con nhận chịu chấn thương đó. Nó tạo một khe hở trong tâm buộc con vào các năng lượng thế gian, các năng lượng này có thể là vũng nước xoáy sợ hãi của hành tinh, hay động lượng nào khác trên thể lý trí hay thể bản sắc của hành tinh. Con đã bị buộc vào động lượng đó và do đó con đã mang gánh nặng của các năng lượng này, gánh nặng của năng lượng thế gian. Khi con dùng các dụng cụ và giáo lý để khắc phục chấn thương nhập đời, thì con có thể khắc phục nỗi sợ hay bất cứ mọi động lượng khác mà con có trong các thể bản sắc, lý trí và tình cảm, và điều này cho con một cảm giác tự do mới.

1.7. Khắc phục nghi ngờ

Con yêu dấu, thày nói sợ hãi bắt nguồn từ nghi ngờ, nhưng nghi ngờ bắt nguồn từ một ý niệm bản sắc giới hạn. Cách duy nhất để thực sự khắc phục sợ hãi là khắc phục nghi ngờ, nhưng làm sao con khắc phục nghi ngờ? Chỉ bằng cách nhận ra con hơn bản sắc đó, con hơn cái ngã mà con mang theo trong thể bản sắc của con. Cái “ta” nào hơn? Ấy, như thày đã nói, cái “ta” nào đang trải nghiệm nỗi sợ? Cái “ta” nào đang nghi ngờ? Đó là cái “ta” mà con đã tạo ra trong thể lý trí khi con phản ứng lại chấn thương mà sa nhân đã áp đặt lên con. Cái “ta” có khả năng nhận ra nó hơn cái “ta” đó là cái mà các thày đã gọi là cái Ta Biết. Cái Ta Biết không thể bước ra ngoài cái “ngã sinh diệt” khi con còn chấn thương nhập đời, vì chấn thương kéo cái Ta Biết vào chỗ tự đồng hóa với ngã sinh diệt, ngã thế gian.

Khi con giải tỏa chấn thương nhập đời, thì con có cơ hội sử dụng khả năng mà các thày gọi là trực giác (các thày cũng gọi nó là nhận biết thuần khiết) khi con trải nghiệm con bước ra ngoài cái ngã, cái ngã thấp. Lúc đó, con có một trải nghiệm, con yêu dấu, và trải nghiệm mà con có được qua nhận biết thuần khiết, lẽ dĩ nhiên, vượt quá bất cứ gì con thấy hay trải nghiệm trong bát cung vật lý. Nó cũng vượt quá bất cứ mọi cảm xúc con có trong thể tình cảm. Nó vượt quá bất cứ mọi lý luận, suy luận, luận cứ mà con có trong thể lý trí. Nó vượt quá bất cứ ý mọi niệm bản sắc mà con có trong thể bản sắc. Một khi con trải nghiệm nhận biết thuần khiết hay trải nghiệm sự nối kết, sự tuôn chảy với Hiện diện TA LÀ, thì con có một tầm nhìn khác về mọi chuyện đang xảy ra trong bốn thể phàm của con. Con chưa thể thực sự đạt được trạng thái này khi con chưa giải quyết chấn thương nhập đời.

Nhưng, con yêu dấu, các thày không bao giờ nói là khi con khắc phục được chấn thương nhập đời thì con đã khắc phục được mọi khía cạnh của tâm lý của con. Con cũng biết thí dụ của những cục nước đá bó chặt với nhau rất chặt chẽ nhưng có một cục nước đá giữ mọi cục kia tại chỗ, và khi con rút nó ra, thì số còn lại sẽ bắt đầu tuôn chảy. Con biết là thời xa xưa con người biết xây vòm hình cung và họ phải chống giữ những tảng đá hai bên cho tới khi họ đặt đá đỉnh vòm lên trên cùng. Ấy, chấn thương nhập đời của con và cái ngã được tạo ra, mà các thày đã gọi là ngã gốc, nó chính là đá đỉnh vòm của vòm hình cung của con người phàm của con, của cấu trúc nhân phàm của con, của cấu trúc bốn thể phàm của con.

Một khi con rút nó ra, thì con sẽ rất dễ dàng bắt đầu di chuyển các tảng đá khác và khống chế chúng. Đó là lúc con có thể bắt đầu nhận diện một số động lượng trong một trong bốn thể phàm của con, và sau cùng trong cả bốn thể phàm của con. Một số các con, và điều này có thể làm các con ngạc nhiên, đã đi trên con đường tâm linh từ nhiều năm hay nhiều chục năm, nhưng con khám phá là con còn một số ghiền nghiện vật lý hoặc một số dây trói buộc con vào một số sinh hoạt vật lý mà con cảm thấy mình phải làm. Một số các con sẽ khám phá mình có một dây trói buộc mình vào vũng nước xoáy tình cảm của tâm thức tập thể, hay một số khuôn nếp cảm xúc khác. Một số các con sẽ khám phá mình có khuôn nếp lý trí muốn tranh cãi, muốn lý luận, muốn lượng định và phân tích mọi chuyện. Một số các con sẽ nhận ra mình có ước muốn hiểu mọi chuyện, và một số các con sẽ khám phá mình có trong thể bản sắc một động lượng, một loại ghiền nghiện, dựa trên ngã gốc.

1.8. Tìm cách hiểu mọi chuyện

Đây không phải là ngã gốc mà là một nhánh của ngã gốc. Sau khi con tạo ra ngã gốc, thì con bắt đầu tạo ra những ngã khác để phản ứng lại các điều kiện trên trái đất, và chúng có nhiều hình thức khác nhau. Hai ngã chính là con tìm cách lượng định mọi chuyện đang xảy ra trên trái đất, và tìm cách đặt mọi chuyện trong một bối cảnh rộng hơn ngõ hầu hiểu được chúng. Tất cả các con, kể cả vị sứ giả này, khi bắt đầu học giáo lý chân sư thăng thiên đã dùng giáo lý để tạo ra một thế giới quan, một quan niệm về vũ trụ trong thể bản sắc giúp con hiểu những chuyện xảy ra trên trái đất và những chuyện con đã kinh qua trên trái đất.

Con vẫn nghĩ là thể bản sắc của con cần có một hiểu biết tối hậu có thể giúp con giải thích và hiểu mọi chuyện trên trái đất. Con yêu dấu, chuyện này sẽ không bao giờ, không bao giờ xảy ra. Trước tiên, vì bất cứ ngã nào con có trong thể bản sắc đều không có khả năng hiểu, nhưng thứ đến, vì có một số hiện tượng không thể hiểu được. Đây là một điểm quan trọng mà quyển sách Những cuộc đời của tôi đã nêu ra. Có một số điều sa nhân làm mà ta không thể giải thích hay hiểu bằng tâm đường thẳng, duy lý, phân tích. Đôi khi họ cố ý làm một số chuyện để làm con hoang mang, và có khi khác họ làm một số chuyện không có lý do nào khác ngoài ý muốn làm ác, hay như câu nói trong quyển sách: “Để là một nghệ nhân vẽ tranh với máu nhân loại.” Con không thể nào giải thích chuyện này.

Lẽ dĩ nhiên, con có thể có một hiểu biết nào đó, và đó là điều các thày đã trao truyền trong quyển sách và các giáo lý khác về sa nhân, về những chuyên họ làm, về lý do vì sao họ ở đây. Con yêu dấu, con không thể thực sự hiểu xuyên thấu nếu con không bước ra ngoài cái ngã trong thể bản sắc và nối kết thẳng với Hiện diện TA LÀ của con và các chân sư thăng thiên. Con sẽ nhận được, không phải là một hiểu biết mà một trải nghiệm toàn bộ từ các thày, từ Hiện diện TA LÀ của con. Con yêu dấu, có khác biệt giữa hiểu biếttrải nghiệm. Nhiều người trong các con đã tới điểm sẵn sàng trải nghiệm, sau khi đã bắt đầu làm việc với chấn thương nhập đời và khắc phục chấn thương nhập đời.

Tất cả các con đều đã trải nghiệm một cách nào đó sự hiện thực của giáo lý mà các thày trao truyền, vì nếu không thì con đã không có mặt ở đây. Khi con khắc phục chấn thương nhập đời, thì con yêu dấu, con có thể đi vào tiến trình nới rộng một cách có ý thức khả năng trải nghiệm thực tại, một thực tại cao hơn. Thực tại cao hơn đó là gì? Ấy, con yêu dấu, nó không dựa trên bất cứ điều gì mà thể bản sắc của con có thể hiểu, thể lý trí của con có thể hiểu, thể tình cảm của con có thể tiếp cận, hay óc vật lý của con có thể xử lý. Nó vượt quá bốn thể phàm của con. Nó là một ý niệm thực tại vượt lên trên bốn thể phàm, và là điều duy nhất giúp con biết cái thật và cái không thật trên hành tinh này, là nơi mà sa nhân đã dùng tâm nhị nguyên để khiến mọi chuyện mờ tối một cách cùng cực.

1.9. Bù đắp những mất mát

Trên đây thày có nói con có hai khuynh hướng trong thể bản sắc. Một khuynh hướng tìm cách hiểu và đặt vào bối cảnh. Khuynh hướng kia tìm cách bù đắp những gì con cảm thấy bị mất mát khi con nhận chịu chấn thương nhập đời hay chấn thương địa cầu. Khi sa nhân cho con cú sốc thì con tạo ra một ngã trong thể bản sắc dựa trên ý niệm mất mát. Có thể là con đã mất một số chuyện vỏ ngoài nhưng con thực sự đã mất gì? Con đã mất đi sự ngây thơ của trẻ thơ, ý niệm nội tại về thực tại. Đó là điều con mất. Từ lúc đó, cái ngã do con tạo ra trong thể bản sắc đã luôn luôn tìm cách bù đắp sự mất mát đó, bằng nhiều cách.

Trong thể bản sắc của con có một cái ngã muốn tìm một bản sắc nào đó. Con thấy một kết quả tối cực của khuynh hướng này nơi một số người cảm thấy họ đặc biệt vì họ thuộc một dòng tâm linh, họ thuộc một dòng họ, họ có một khả năng hay đức tính đặc biệt, họ là một linh hồn già cũ, hay bất cứ lý do nào khác. Quan niệm này đáp ứng nhu cầu của cái ngã muốn bù đắp.

Có nhiều cách khác để đạt cùng mục đích, và tất cả các con khi mới vào con đường tu cũng đã dùng giáo lý chân sư thăng thiên để bù đắp cảm giác mất mát nguyên sơ. Khi con tìm ra giáo lý của các chân sư thăng thiên (mà con tin có mức thực tại cao) thì con bỗng nhiên cảm thấy mình không quá thiếu khả năng, thiếu sót hay bất trọn vẹn như cái ngã trong thể bản sắc cảm thấy. Khi đó một số các con đã tạo ra ngã mới trong thể lý trí luôn tìm cách bù đắp bằng cách tỏ ra mình rất thông minh, thông thái, hợp lý, duy lý, rất giỏi biện luận hay suy luận. Con nghĩ như vậy sẽ bù đắp sự mất mát khi con cảm thấy mất khả năng biết đâu là thực đâu là không thực khi sa nhân gieo mối nghi ngờ vào tâm con. 

Một số khác đã tạo ra cơ chế bù đắp trong thể tình cảm bằng cách dùng thể tình cảm để bù đắp nỗi sợ, khắc phục nỗi sợ, chối bỏ nỗi sợ, đè nén nỗi sợ để con không cảm thấy sợ hãi. Con có thể thấy một số người trong các phòng trào tâm linh đã tạo cho mình hào quang nói nhỏ nhẹ, đi chậm rãi, có vẻ hoàn toàn làm chủ tâm nhưng họ đã làm được chuyện này bằng cách đè nén cảm xúc. Một số các con đã nhận ra là đôi khi mình có cảm xúc khởi lên. Đó có thể là do các con đã có một động lượng rất mạnh trong thể lý trí đè nén cảm xúc, nhưng điều này không lành mạnh và sẽ không giúp con giải thoát khỏi cảm xúc. Con cần tới điểm nhìn nhận là không phải con có cảm xúc, mà là có một ngã trong thể cảm xúc có cảm xúc, và con không phải là ngã đó. Do đó, con có thể để cho ngã đó chết đi và con có thể kêu gọi các chân sư thăng thiên tiêu trừ nó cùng với động lượng năng lượng đằng sau nó.

Một số khác đã tạo ra cơ chế bù đắp trong thể vật lý, ở tầng vật lý. Đối với một số các con, điều này thể hiện qua mong muốn làm việc với thân thể vật lý. Rất rất nhiều lực sĩ tập thể hình trên thế giới tìm cách tập cho thân thể trở nên lực lưỡng và mạnh mẽ để cảm thấy bất bại trên mặt vật lý. Đây là một cơ chế bù đắp cho sự có mặt của ngã trên các thể cao cảm thấy rất yếu đuối nơi thể vật lý. Một số khác thích tập võ. Trong những thời đại trước, võ thuật đã được dùng để giúp một số người phát triển tâm linh. Nếu con sống trong một thời nhiều bạo hành, trong một văn hóa nhiều bạo hành, thì học võ để có khả năng tự vệ có thể là một viên đá dẫn tới phát triển tâm linh. Con yêu dấu, một khi con đã đi vào con đường tâm linh của các chân sư thăng thiên và nhắm tới biểu hiện quả vị Ki-tô, thì con không cần võ thuật nữa, con có thể vượt lên trên nó.

Một số khác đã dùng những cách khác, thú vui khác trong bát cung vật lý. Đó có thể là một số ghiền nghiện vật lý giúp con khuây khỏa cảm giác thiếu khả năng hay yếu đuối mà con bình thường cảm thấy. Một số người khác làm những chuyện khác như: làm một số chuyện vật lý, trở nên thiện xảo trong một số công việc vật lý, như trong sự nghiệp, trong việc làm, du lịch, thông thạo mọi chuyện, có một kỹ năng vật lý. Con có thể thấy một số người trên mạng Internet có kỹ năng vật lý kỳ dị hay khả năng kỳ dị với thân thể, và một lần nữa, đây là một cơ chế bù đắp.

Có rất nhiều hình thức bù đắp và thày sẽ không tìm cách liệt kê hết ra ở đây. Điều quan trọng là một khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời hay chấn thương địa cầu, thì con có thể bắt đầu truy tìm chúng trong bốn thể phàm của con. Con sẽ có thể bắt đầu tháo gỡ chúng, và con có thể học cách nhận diện và khắc phục khuynh hướng cảm thấy bị bắt buộc phải theo đuổi một số sinh hoạt. Mỗi khi con cảm thấy bị bắt buộc, cũng là điều mà Phật đã gọi là “dính mắc”, thì con biết là có một ngã đang giới hạn con trên con đường tâm linh và ngăn trở con trở thành Ki-tô hành động.

Con yêu dấu, tới đây là chấm dứt bài giáo lý mà thày muốn trao truyền cho các con. Thày nhận ra đây là một bài dài cho ngày đầu ở hội nghị này. Nhưng mặt khác, các con đã tự chuẩn bị quá chu đáo qua các sinh hoạt mà các con đã làm hôm nay và qua một giờ niệm chú, nên thày cảm thấy trao tặng các con món quà hỷ lạc từ tim thày là điều thích ứng. Thày mong các con nhận ra là thày không muốn cho con một gánh nặng vì nay con cần phải xem xét chính mình và cảm thấy khổ tâm vì đã có động lượng này hay động lượng khác.

Thày cho con một cơ hội giải thoát, và trong giải thoát có niềm vui. Thật sự là trên một hành tinh dày đặc như trái đất, thì ta có thể nói là chỉ có giải thoát mới đem lại niềm vui, niềm vui thực sự, niềm vui an bình. Nhiều người trên trái đất cho rằng khi họ đạt được một thành tựu nào đó, một chiến thắng nào đó, thì họ cảm thấy vui mừng, họ cảm thấy niềm vui chiến thắng, nhưng đó không phải là niềm vui an bình, niềm vui nội tại hay niềm vui Thiêng liêng.

Ấy, THÀY LÀ niềm vui Thiêng liêng và thày sẽ trao cho con niềm vui Thiêng liêng của thày, nếu con hỏi thày.

15 | Phán xử của Ki-tô và Sứ vụ Thiêng liêng

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 21/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su.  Ý định của thày trong bài giảng này là trao cho con một số lời dạy sẽ không áp dụng cho mọi người, chắc chắn không cho tất cả mọi người có thể tìm thấy lời dạy này hiểu theo nghĩa rộng. Nó sẽ áp dụng cho nhiều người trong số các con, và thày khuyên con không nên ngồi đây và dùng tâm vỏ ngoài để xét đoán xem nó có áp dụng cho con hay không. Con không thể biết được điều này với tâm vỏ ngoài và con không nhất thiết có thể biết được ở mức nhận biết hiện thời của con. Con sẽ biết được khi con vươn lên những tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của mình và có được một tầm nhìn rõ ràng hơn về các tầng cao hơn này.

15.1. Những người làm ngơ hay phủ nhận các thế lực bóng tối

Con yêu dấu, nếu con nhìn hành tinh địa cầu hôm nay, con có thể thấy như các thày vừa đề cập, là có rất nhiều nhóm người khác nhau ở nhiều tầng tâm thức khác nhau, với nhiều hệ thống tín ngưỡng cùng nhiều thế giới quan khác nhau. Tuy nhiên, điều thày muốn con lưu ý ở đây là có một thành phần trong lãnh vực tâm linh – những người trong phong trào Thời Mới, thần bí, huyền bí, với tâm cởi mở – tin rằng hoặc không có bóng tối, không có thế lực bóng tối, hoặc trong cương vị là người tâm linh họ không nên chú ý tới các thế lực đó, vì làm như vậy sẽ trao cho chúng quyền năng.

Lẽ tự nhiên, các thày đã ban cho con qua đợt truyền pháp này nhiều lời giảng về các sinh thể sa ngã. Các thày đã cho con những lời dạy về khái niệm avatar, về sự kiện con đã đến địa cầu và đã phải hứng chịu chấn thương từ sa nhân như thế nào. Vậy thì liệu điều người ta bảo có đúng hoặc có thật hay chăng, rằng tà lực không hiện hữu hay con không nên chú ý đến chúng? Đây là một vấn đề tế nhị, theo nghĩa là trên địa cầu chỉ có một ít người không cần chú ý đến tà lực.

Trên thực tế, bất cứ ai là avatar đều phải lưu ý đến việc tìm hiểu sa nhân và những điều chúng làm, vì chúng chính là những kẻ đã tấn công con khi con đến với sứ mạng này, chúng là kẻ đã khiến con tạo ra ngã gốc của con. Chừng nào con còn không sẵn lòng nhìn vào sự hiện hữu của tà lực và cách chúng đã chi phối con như thế nào trong quá khứ, thì con không thể thoát ra khỏi ngã gốc. Và nếu con không thoát ra khỏi ngã gốc thì con không thể hoàn thành tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.  

Thực tế đáng buồn là có đến hàng chục ngàn, ngay cả hàng trăm ngàn người trong lãnh vực Thời Mới có một tiềm năng cao trong Sứ vụ của mình, nhưng chừng nào họ còn duy trì thái độ là họ phài làm ngơ trước tà lực và không để ý đến chúng, thì họ vẫn tự cắt đứt khỏi việc hoàn thành tiềm năng cao hơn trong Sứ vụ của họ. Họ đã đạt đến một trình độ nào đó và có thể họ cảm thấy rất thoải mái ở mức đó, phần nào vì họ có cảm giác: “Làm gì có tà lực nào đang tấn công tôi.” Tất nhiên, tà lực không đang tấn công họ vì họ không là mối đe dọa cho tà lực.

15.2. Điều tà lực sợ nhất

Vậy cái gì là mối đe dọa cho tà lực? Đâu là điều chúng cực kỳ muốn tránh? À, điều chúng muốn tránh là có người đang đầu thai vật lý vươn lên tới mức có thể nhìn nhận một cách ý thức là mình có một mức độ quả vị Ki-tô, và vì vậy mình có cơ hội và thẩm quyền để thách thức sa nhân và sự hiện diện của chúng trên trái đất. Đây là điều chúng sợ hãi tột độ, vì chúng thừa biết là một khi con lên tới mức đó thì chúng sẽ không thể nào cản bước con. Chúng biết là nếu chúng cố ngăn chặn con thì sẽ dẫn đến việc chúng bị phán xử.

Điểm thày muốn dẫn con tới là con nhận ra đối với nhiều người trong các con, cũng như đối với một số những ai tìm được lời dạy này trong phạm vi rộng lớn hơn, khía cạnh cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của con là đem lại sự phán xử của Ki-tô trên sa nhân cùng tâm thức của sa nhân. Khi con nhìn vào cuộc đời của thày, con sẽ thấy thày đối đầu với sa nhân như thế nào, và con có thể nhìn vào chính con ngày nay và suy ngẫm xem điều này có nghĩa gì đối với con hôm nay.

Không nhất thiết phải giống như những gì con thấy trong đời thày, mà có nghĩa là con cần đạt tới điểm con nhìn nhận đó là một phần của Sứ vụ của con. Con nhận xét điều đó bên trong con – chứ không phải vì thày đang nói với con hay vì con đang đọc bài truyền đọc này. Thày không muốn con đọc bài này rồi quyết định bằng tâm vỏ ngoài: “Tôi sẽ lên đường tham gia cuộc thánh chiến, vạch mặt sa nhân, thách thức sa nhân.” Nó phải đến từ bên trong, và con yêu dấu, nó sẽ chỉ đến khi nào con giải quyết được chấn thương nhập đời mà sa nhân đã sử dụng để làm con tê liệt, để ngăn cản con là người mà con là trên hành tinh này.

15.3. Con bị chấn thương nhập đời quy định

Con hiểu chứ, con yêu dấu, có một cơ chế có thể khởi động ngay cả khi con đã có các lời dạy mà con đã nhận được cho tới giáo lý về chấn thương nhập đời. Gần như thể trong cương vị một đệ tử tâm linh, con bước vào một tâm thái cho rằng chỉ cần đạt được ngày càng nhiều hiểu biết hơn về đường tu tâm linh, ngày càng nhiều hiểu biết hơn về tự ngã, về tâm lý, về cách chữa lành tâm lý của mình. Gần như thể con đã tạo ra một cái ngã nghĩ rằng con đang tiến bộ, nhưng nếu con nhìn kỹ ngã này, nó cũng nghĩ rằng sự đột phá tối hậu vẫn nằm đâu đó trong tương lai. Một ngày nào đó, đột phá sẽ xảy đến nếu con cứ tiếp tục làm những gì con đang làm bây giờ. Như bào huynh yêu dấu của thày, Saint Germain, có nói: Có một thời con đã tiến bộ một cách tiệm tiến, và cũng có những thời khi con cần thực hiện một xoay chuyển cách mạng trong tâm thức.

Xoay chuyển cách mạng mà con cần thực hiện nếu con muốn bước lên một tầng cao hơn, là nhìn nhận rằng điều quy định con như một sinh thể hiện thân trên địa cầu chính là chấn thương nhập đời của con. Nó đã quy định con từ kiếp đầu thai đầu tiên. Tất cả những thứ khác mà con có thể đã làm – các loại liệu pháp khác nhau, tu học những giáo lý khác nhau, thực hành các dụng cụ tâm linh – đều đã giúp đem lại cho con một sự thay đổi tiệm tiến, và con đã có tinh tấn khi làm vậy. Nhưng chúng sẽ không thực sự xoay chuyển tâm thức của con vì chúng không động đến chấn thương nhập đời – như thể chúng chỉ chạy vòng quanh chứ không đâm thẳng vào vấn đề. Đó là tại sao con cần làm cuộc xoay chuyển và nhận ra là đã đến lúc con biết rõ từ bên trong (vì con nhận diện được sự thật trong lời dạy các thày) rằng bước kế tiếp của con là nhìn trực diện vào chấn thương nhập đời này. Con không thể cứ đi vòng quanh, con không thể cứ tránh né vấn đề. Con không thể đặt trọng tâm vào điều gì khác, con không thể nghĩ rằng nếu con cứ tiếp tục đọc thỉnh và học hỏi giáo lý thì một ngày kia, đùng một cái, chuyện đó sẽ xảy ra. Nó sẽ không xảy ra. Có thể con cần phải lấy một quyết định ý thức là con sẽ đối đầu với nó, đâm thẳng vào nó và phát hiện ra làm thế nào sa nhân khiến con tê liệt.

Quyển sách Các kiếp của tôi có mô tả một cách như vậy, và lẽ tự nhiên, sa nhân có nhiều cách khác nhau để làm chuyện đó. Một số các con đã hứng chịu chấn thương nhập đời khi thiện ý của con bị sa nhân gạt gẫm, con bị chúng lừa dối xong bị chúng phản bội. Nhiều loại cảnh huống khác cũng có tác động. Cho tới khi con phát hiện chấn thương nhập đời đó, con sẽ không thể thực sự hiển thị và chấp nhận quả vị Ki-tô của mình, con không thể chấp nhận mình là Ki-tô trên địa cầu. Tại sao vậy? Con yêu dấu, bởi vì trong cốt lõi, sa nhân đã làm gì khi chúng gây chấn thương nhập đời cho con? Phải, chúng đã tạo ra một sự phân rẽ trong bản thể con, trong bốn thể phàm của con. Cốt lõi của sự phân rẽ này không hẳn là lòng sợ hãi cho dù con có thể nghĩ vậy. Cốt lõi của sự phân rẽ này là lòng ngờ vực. Kẻ thù quỷ quyệt nhất trên đường tu tâm linh kỳ thực là lòng ngờ vực.

15.4. Khắc phục nỗi ngờ vực cốt lõi

Con đã đến đây như một avatar với ý định tốt đẹp nhất, thế rồi sa nhân giáng chấn thương đó lên con, và bỗng nhiên con bắt đầu nghi ngờ: “Tôi có nên đến đây chăng? Liệu tôi có quyền đến đây chăng? Ở đây người ta có đón nhận tôi chăng? Liệu tôi có thể là chính mình và biểu đạt chính mình trên hành tinh này chăng? Liệu tôi có cần biến thành một người khác để người ta chấp nhận tôi chăng?” Tất cả những nghi vấn như vậy, gần như vô số những nỗi ngờ vực đủ loại.

Trong nhiều trường hợp, con thấy điều đó bên trong con, rằng con có thể tự nghi ngờ rất nhanh chóng. Điều này cũng có mặt tốt của nó, theo nghĩa là con có tâm cởi mở, con cởi mở để nhìn vào bản thân và tự thay đổi. Đây là một điểm tích cực đã giúp con tăng triển trên đường tu. Nhưng con cũng phải nhìn nhận một mối nguy tiềm tàng vì con thấy có những người trên địa cầu với tâm hoàn toàn khép kín. Họ tin tuyệt đối là họ đúng, và ít ra trên bề nổi, họ có vẻ không có chút nghi ngờ gì là họ đúng. Tất nhiên ở mức thật sâu thẳm, ai ai cũng đều mang những nỗi nghi ngờ khác nhau, nhưng nhiều người vẫn đưa ra được một bộ mặt, một nhân cách, qua đó họ phóng chiếu ra bên ngoài rằng họ đúng và họ biết là họ đúng, và hình như họ không có nghi vấn nào hết.

Một số các con quen biết những người như vậy, và một số các con đã ngồi đó tự hỏi: “Làm thế nào họ có thể tự tin đến thế? Tại sao tôi lại nghi ngờ chính mình đến như vậy?” Nhiều các con sẽ nhận ra là mình mang khuynh hướng tự ngờ vực đó – đặc biệt khi con phải chạm trán với những người có tính tình gọi là vô cùng quyết đoán, áp đảo. “Ồ, hay là có lẽ họ đúng chăng?” Thế là bỗng nhiên con rơi vào một vòng luẩn quẩn trong tâm, và vòng luẩn quẩn này được tạo ra bởi tâm đường thẳng, tâm phân tích.

Tâm phân tích có khả năng làm gì chứ? Nó luôn luôn có thể nghĩ ra đủ loại luận cứ chống lại hay thuận theo bất kỳ quan điểm nào, bất kỳ đề tài nào. Nó có thể tranh luận từ cả hai phe về một vấn đề. Khi con mang khuynh hướng nghi ngờ đó, tâm phân tích của con luôn luôn có thể đưa ra luận cứ tại sao con có thể sai lầm, hay có lẽ con không nên lên tiếng. Có lẽ con không nên thách thức người đó? Lỡ rốt cuộc họ đúng thì sao? Hay có lẽ họ được quyền xử sự như vậy, và có lẽ con nên bỏ qua và tuân phục họ, hay con nên rút lui và để yên cho họ mà không thách thức họ?

Con hiểu điều thày vừa nói ở trên: Mối lo sợ lớn nhất của sa nhân là có Ki-tô Hằng sống trong hiện thân sẽ thách thức chúng. Chúng đã làm gì chứ? Với mỗi avatar đến địa cầu này, chúng đã mưu toan cài đặt một yếu tố ngờ vực hầu con không dám thách thức chúng. Điều chúng tuyệt đối không muốn là con đạt tới một mức quả vị Ki-tô rồi thách thức chúng. Chúng đã làm hết sức để ngăn cản chuyện này, và công cụ chủ yếu của chúng là yếu tố ngờ vực chúng đã cài đặt trong con.

Chỉ khi nào con nhìn một cách ý thức vào chấn thương nhập đời thì con mới phát hiện những gì con nghi ngờ về quyền con được ở đây, quyền con là Ki-tô Hằng sống trong hiện thân, quyền thách thức sa nhân, quyền biểu đạt con người mà con là, quyền biểu đạt bản sắc tâm linh cao hơn của con. Chỉ khi nào con xem xét nỗi nghi ngờ thì con mới thấy là sa nhân đã dùng một quan điểm nhất định, một tin tưởng nhất định, để cài đặt nghi ngờ đó trong con. Tin tưởng đó là một ảo tưởng. Tại sao đó là một ảo tưởng? Vì nó nhị nguyên, có nghĩa là khi con xem xét niềm tin đó riêng rẽ thì nó có vẻ chính đáng. Khi con bước lui lại và nhận ra là trong nhị nguyên bất kỳ quan điểm nào cũng có đối cực, thì con thấy được đối cực của quan điểm đã khiến con ngờ vực. Khi đó con thấy là con cũng có thể nghĩ ra những quan điểm chính đáng để hỗ trợ cho đối cực này, và đó là lúc con thấy không một quan điểm nào trong số đó là thực tại tối hậu.

15.5. Lựa bỏ nỗi nghi ngờ hiện sinh

Con có hiểu chăng, con yêu dấu? Sa nhân chỉ có thể hoạt động trong nhị nguyên. Nhị nguyên luôn luôn là một đối cực. Làm sao sa nhân có thể khoác vào bất kỳ dáng vẻ thẩm quyền nào? Làm sao chúng khiến người ta tin rằng đây có một quan điểm, một quan điểm nhị nguyên, và đó là chân lý tuyệt đối? À, chúng chỉ làm được vậy bằng cách phớt lờ đối cực nhị nguyên ngược lại, bằng cách giảm giá trị của nó, che giấu nó và khiến cho mọi người làm ngơ hay nghi ngờ nó. Và như vậy, chúng tâng một đối cực lên thành chân lý tuyệt đối. Đôi khi chúng cũng gán cho đối cực ngược lại là xấu ác, và tất nhiên, con có thể thấy sự thể này khắp thế giới khi người ta khêu lên: đúng và sai, sự thật và dối trá, tư bản và cộng sản, Cơ đốc giáo và mọi tôn giáo khác, vân vân và vân vân. Quá nhiều đối cực nhị nguyên với một bên hoàn toàn tốt và bên kia hoàn toàn xấu.

Khi con nhìn thấy điều này ở mức cá nhân trong chính chấn thương nhập đời của mình, nhìn thấy làm thế nào con đã khoác vào một tin tưởng nhất định đã khiến con ngờ vực là con có quyền ở đây – và sau đó con thấy là nó có một đối cực ngược lại và con có thể tranh luận thuận hay chống hoài hoài – thì con có thể lui lại và nói: “Tôi chán ngán chuyện tranh luận quá rồi. Tôi để cho ngã gốc này chết đi. Đơn giản tôi sẽ lựa bỏ sự ngờ vực ra khỏi bản thể của tôi.” Điều quan trọng nhất con có thể lựa bỏ ở những tầng cao của Sứ vụ Thiêng liêng là cái chúng ta có thể gọi là sự ngờ vực hiện sinh (existential) về quyền con có mặt nơi đây.

Con yêu dấu, một trong những mô thức thông thường do sa nhân tạo ra (là một mô thức mà sứ giả này chưa nhận ra một cách ý thức cho đến khi thày ban lời dạy này) là khiến con nghĩ rằng, vì con đã làm hay đã nói một điều gì bất toàn trên địa cầu (trong cảnh huống đã gây ra chấn thương nhập đời), cho nên con không có quyền thách thức sa nhân. Nói cách khác, con nghĩ là mình phải toàn hảo, và nếu con không toàn hảo thì con không được thách thức chúng. Nhiều người trong các con có thể nhận diện ra nét này.

Sứ giả này đã có một trải nghiệm lý thú khi lái xe đến hội nghị này. Trong cuộc trò chuyện và không suy nghĩ gì trước, ông nói: “Bạn biết đấy, thật ra tôi chưa bao giờ phát hiện ra điều gì xấu ác trong con người tôi.” Xong ông ngừng lại, giật mình bởi câu nói của mình, vì ông chưa từng nghĩ đến chuyện đó trước đây. Sự thật là tuy ông đã sẵn lòng quan sát bản thân, đã nhìn sâu vào tâm lý mình, ông chưa bao giờ khám phá một yếu tố xấu ác nào trong bản thể của ông. Điều này cũng đúng cho hầu hết các con và hầu hết những ai sẽ đọc bài giảng này. Con yêu dấu, điều này cũng đúng cho mỗi avatar. Trong bản thể của con không có xấu ác – chưa bao giờ có. Ngay cả với tất cả những chấn thương mà con đã kinh qua trên hành tinh này, con đã không cho phép một yếu tố xấu ác nào xâm nhập vào bản thể con.

Vì vậy, con yêu dấu, điều này có nghĩa gì? À, có nghĩa con không phải là một sinh thể sa ngã. Con không giống như các sinh thể sa ngã. Cho nên mặc dù con có thể không toàn hảo theo một chuẩn mực nhân thế nào đó, con có quyền thách thức sa nhân.

15.6. Làm thế nào thách thức sa nhân

Con có quyền, không nhất thiết là đứng lên buộc tội chúng sai trái, vì sa nhân rất thích tạo ra một trận chiến nhị nguyên khi có một người bảo: “Bạn sai rồi!” và một người khác lập tức có phản ứng bênh vực, cãi lại: “Không, chính bạn mới sai chứ!” Thế là nổ ra một tranh chấp dai dẳng sẽ không bao giờ ngừng lại.

Thật ra đây không phải là chuyện thách thức sa nhân bằng cách bảo chúng sai. Cách thực sự để thách sa nhân là nói: “Có một cách nhìn khác hơn là cách mà bạn đang nhìn cuộc sống. Có một cách nhìn khác hơn là cách mà bạn đang nhìn mọi chuyện! Có một giải pháp thay thế. Có một mức tâm thức khác hơn là tâm thức mà bạn đang có.” Vậy đâu là giải pháp thay thế? Nói cho cùng và theo nghĩa phổ quát nhất, đó chính là Ki-tô, tâm thức Ki-tô là giải pháp thay thế cho tâm thức sa ngã.

Đương nhiên, điều này có thể được diễn đạt nhiều cách khác nhau. Con có thể bước vào bất kỳ lãnh vực nào của cuộc sống, và một khi con lên những tầng cao hơn đó của Sứ vụ Thiêng liêng, con sẽ phát triển được sự phân biện Ki-tô giúp con bước vào – và nhiều người trong các con sẽ thấy là kỳ thực mình có khả năng làm vậy. Nó khởi sự với một khả năng đọc được rung động. Trong các cuộc bàn luận tại đây, nhiều người đã bày tỏ là ở một thời điểm nào đó, con đã tìm được một giáo lý tâm linh hay một đạo sư hay một ý tưởng nào đó, và con chỉ cảm nhận: “Ồ, tôi không mặn mà cái này. Tôi sẽ không bước vào cái này.” Đây là khởi đầu của phân biện khi con có khả năng đọc được độ rung.

Tâm vỏ ngoài của con không thể nói ra bằng lời tại sao con cảm thấy như vậy hay cảm giác đó là gì, nhưng khi con bước lên cao hơn trong quả vị Ki-tô, con sẽ bắt đầu có khả năng diễn tả điều đó qua lời nói. Con bắt đầu có thể bước vào gần như mọi khía cạnh cuộc sống, hay ít ra những lãnh vực mà con hiểu biết thành thạo, và con có thể nhận diện: “Đây là một ý tưởng nhị nguyên. Đây là một quan điểm thiếu quân bình.” Con không cần phải công khai lên án cái đó là xấu ác hay sa ngã hay bất cứ gì khác. Con tìm được cách dùng ngôn từ mà mọi người có thể liên hệ và chấp nhận. Con có thể bày tỏ đó không phải là quan điểm cao nhất mà có một giải pháp thay thế. Đây là một cách thách thức tâm thức sa ngã.

15.7. Ứng phó với những tấn công cá nhân

Đối với một số các con, điều cũng có thể xảy ra ở một mức cá nhân hơn là con gặp những người hoặc là sa nhân, hoặc có tâm thức sa ngã, và con thách thức họ trực tiếp. Một số các con đã chọn có sa nhân trong gia đình hay quan hệ của mình. Con yêu dấu, không cần phải thách thức sa nhân bằng cách nhảy vào xung đột nhị nguyên với họ. Kỳ thực, cách xây dựng hơn, ít ra trong một thời gian, có thể là khoác vào tư duy là con không thách thức các sinh thể sa ngã, mà con thách thức tâm thức sa ngã, vì sẽ dễ dàng hơn nếu con giữ chuyện này ở một mức phi cá nhân (impersonal). Con thấy đó, con yêu dấu, khi sa nhân cảm thấy họ bị thách thức, họ sẽ làm gì chứ? Luôn luôn họ sẽ buộc tội ngược lại. Con có thể nói với họ: “Tôi không đồng ý với những ý tưởng bạn đưa ra,” nhưng bản năng của sa nhân sẽ khiến họ tấn công con một cách cá nhân.

Làm thế nào ứng phó với một cuộc tấn công cá nhân mà con có thể gặp, như chẳng hạn sứ giả này chắc chắn đã từng gặp rất nhiều lần? À, chừng nào con còn mang ngờ vực đó trong bản thể của con thì việc ứng phó sẽ rất khó khăn. Là người với tâm cởi mở, tự nhận biết và tự xem xét, khi có ai nói gì đó về con thì con luôn luôn cân nhắc: “Có thể nào họ đúng chăng? Tôi có cần thay đổi hay không? Tôi có quá hung hãn hay không? Tôi có như thế này, tôi có như thế kia?” Một lần nữa, làm thế nào con loại bỏ được ngờ vực chứ? À, chỉ bằng mỗi một cách là nhìn vào chấn thương nhập đời của con.

Khi con đạt tới điểm nhận ra là mình có quyền được ở đây và trong bản thể con không có gì xấu ác, thì con không thách thức người khác để hạ thấp hay chỉ trích họ, mà con có quyền biểu lộ con người mà con là. Thật ra con có thể đạt tới điểm con không thách thức tâm thức sa ngã với ý định vỏ ngoài sẽ thách thức tâm thức sa ngã. Con không cố tình đứng lên bới móc: “Đâu là những điều sai trái, những điều xấu xa, những ý tưởng sai lầm, đâu là những chuyện tôi có thể thách thức?” Con chỉ đơn giản là chính con. Con bắt đầu biểu đạt chính con, những gì con biết, những sáng ngộ mà con có, những kinh nghiệm mà con đã nhận được. Khi làm vậy tất nhiên, con sẽ thách thức tâm thức sa ngã, và đôi khi con sẽ gặp chính các sa nhân cảm thấy con đã tấn công cá nhân họ vì họ luôn luôn xem mọi chuyện là cá nhân. Cách duy nhất để thực sự ứng phó là con không xem cách phản ứng của họ nhắm vào cá nhân con, bởi vì một lần nữa, con không làm chuyện này do một thâm ý cá nhân – có đúng không con? Con có thể nhìn nhận khi con nhìn lại đời mình, là khi con nói ra điều gì hay bày tỏ một quan điểm, con muốn người khác đồng ý với con vì như vậy con sẽ cảm thấy mình được xác chứng. Nếu họ bất đồng với con thì vết thương mà con mang bên trong được khơi dậy, nỗi bất an, nỗi ngờ vực, rồi con sẽ đau lòng. Con mang thâm ý cá nhân mong muốn người khác đồng ý với con hầu con không phải cảm thấy đau lòng. Đó là ý thày muốn nói qua từ “thâm ý cá nhân” đối với một avatar.

Con yêu dấu, một avatar không có thâm ý cá nhân giống như sa nhân là hà hiếp người khác để được lợi lộc. Đây có thể gọi là thâm ý cá nhân tổn thương của một avatar, là khi con tìm cách thay đổi người khác để bù đắp cho vết thương của con. Tất nhiên, một khi con loại bỏ được vết thương này thì con không cần làm vậy nữa. Thậm chí con không làm vậy nữa với thái độ là mình phải thay đổi một điều gì đó trên trái đất. Như các thày đã nói, con đạt tới điểm con chỉ đơn giản là chính mình, con tỏa rạng những gì đến với con từ bản thể cao hơn của con, con đồng sáng tạo, và chính điều này sẽ thách thức sa nhân.

15.8. Thực hiện cuộc xoay chuyển Ki-tô

Tuy nhiên như các thày cũng đã nói, có thể sẽ tới những điểm một khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời, con đã tiêu hủy năng lượng, con đã buông bỏ ngã tách biệt đó, có lẽ cả ngã gốc, nhưng vẫn có một cái ngã tách biệt khác cứ suy nghĩ rằng con không được thách thức, hay không được trực diện, hay không được nhẫn tâm, hay bất kỳ ý tưởng nào đại loại như vậy. Nói cách khác, con đã thật sự sẵn sàng để bắt đầu biểu lộ quả vị Ki-tô của mình và thách thức các ý tưởng sa ngã, nhưng lại có cái ngã tách biệt kia ở bên trong đang chặn con lại vì con nghĩ mình không được làm vậy bởi một lý do nào đó.    

Có lẽ con nghĩ: “Tôi là một người tâm linh, tôi phải hiền từ hòa nhã với mọi người,” như nhiều người thiện tâm trong lãnh vực Thời Mới thường nghĩ vậy. Con cần sẵn lòng nhìn vào ngã tách biệt đó và nói: “Đâu là cách biểu đạt quả vị Ki-tô mà tôi đã thấy được khi tôi ở mức nhận biết cao nhất của mình? Đâu là điều tôi đã quyết định muốn biểu hiện?” Xong con nhìn ngã đó và bảo: “Tôi sẽ không cho phép ngã này đứng chắn đường tôi đi. Tôi sẽ để cho nó chết, và tôi sẽ làm một cuộc xoay chuyển cách mạng ý thức trong tâm rằng tôi sẵn lòng là Ki-tô Hằng sống trong hành động. Tôi sẵn sàng biểu đạt bất cứ gì đến từ Hiện diện TA LÀ của tôi, ngay cả khi nó thách thức hay làm phật lòng hay xúc phạm người khác.”

Con yêu dấu, các thày đã có nói, quả vị Ki-tô không phải là chuyện thi đua để được lòng mọi người, hay để khiến cho ai nấy ưa mình hoặc mình cảm thấy thoải mái. Con sẽ thấy là khi thày bước chân trên địa cầu khắp các lối đường bụi bặm của đất Palestine, thỉnh thoảng thày có gặp những người cảm thấy vô cùng khó chịu chỉ do Hiện diện của thày, vì ánh sáng mà thày tỏa rạng đã khuấy động những con quỷ bên trong họ – nếu có thể nói như vậy – và bỗng nhiên những con quỷ này la lớn, hét vào mặt thày. Thày không bảo là điều này sẽ nhất thiết xảy ra cho con, nhưng con cần nhìn nhận là khi con có càng nhiều ánh sáng thì một số người sẽ càng cảm thấy xốn xang khi họ gặp ánh sáng. Con cần đạt tới điểm con không dùng phản ứng của người khác để mà nói: “Ồ, tôi đã làm gì sai trái? Có điều gì không ổn với tôi? Tôi đã không nên làm chuyện này hay chăng?”

Một lần nữa, con đạt tới điểm là con chấp nhận quyền tự quyết. Con xoay chuyển một cách ý thức là con chấp nhận quyền tự quyết. Con chấp nhận con có quyền là con người mà con là. Con chấp nhận người khác có quyền phản ứng lại theo mức tâm thức của họ. Rồi một lần nữa, con có quyền tiếp tục là con người mà con là, bất kể phản ứng của họ là gì. Phản ứng của họ là gì chứ? Nói cho cùng, đó là kết quả những chọn lựa của chính họ.

Có thể họ mang một khuôn nếp tâm lý, có thể họ mang một số phàm linh nội tại, có thể họ mang những con quỷ đang kiểm soát họ và khiến họ phản ứng như vậy cho nên họ không đang chọn lựa một cách ý thức. Nói cho cùng, khi con nhìn ngược trở lại quá trình của dòng sống đó, dòng sống của họ đã làm một số chọn lựa dẫn họ đến mức nhận biết hiện tại. Cách họ phản ứng với con là kết quả những chọn lựa đó. Con yêu dấu, đó là quyền tự quyết của họ, không phải quyền tự quyết của con. Con không có thẩm quyền gì trên quyền tự quyết của họ. Khi con hoàn toàn công nhận là con không có thẩm quyền trên quyền tự quyết của một người khác thì con cũng công nhận là con không trách nhiệm về chọn lựa của họ hay hậu quả của chọn lựa đó.

15.9. Lý tưởng Bồ tát

Và đây là điểm con cần nhận ra là với tư cách một avatar, nhiều người trong các con đã đến đây vì con đã nhìn vào địa cầu, nhìn vào đau khổ trên trái đất và có lòng trắc ẩn đối với những ai đang bị khổ đau. Đây là một lý tưởng được diễn tả tại phương Đông, đặc biệt liên quan đến thày Quan Âm, qua lý tưởng Bồ tát. Truyện được kể ở phương Đông là Quan Âm đã đạt tới điểm thày hội đủ tư cách thăng thiên – hay Niết bàn theo cách gọi như vậy – và thày đã có thể rời khỏi địa cầu. Nhưng khi thày sẵn sàng bỏ lại địa cầu, thày đã ngoái nhìn lại một lần chót và nghe thấy tiếng than khóc của thế gian, của những người đang đau khổ, và thày quyết định ở lại với trái đất để cứu giúp loài người vượt qua khổ đau. Đó chính là lý tưởng Bồ tát của một người đã đủ tư cách thăng thiên nhưng vẫn chọn ở lại với địa cầu. Nhưng câu chuyện trên có thể dễ dàng được chuyển sang trường hợp của nhiều avatar cũng đã quyết định đến địa cầu vì đã nghe thấy tiếng than khóc và nhìn thấy đau khổ của thế gian.

Các thày đã trao cho con những gì? Sứ giả này đã ngộ ra điều gì khi suy nghiệm các giáo lý về chấn thương nhập đời? Đó là con, như một avatar, chưa ở trong trạng thái tâm thức thăng thiên khi con quyết định đến địa cầu. Con có một mức tâm thức cao hơn ở đây, con đến từ một hành tinh tự nhiên. Một lần nữa, trong bản thể con không có xấu ác, nhưng con vẫn mang một điều gì đó chưa giải quyết, một điều gì đó mà con chưa học xong. Đâu là điều mà con chưa học? À, đó là bản chất tuyệt đối của quyền tự quyết. Đây là một trong những thử thách lớn nhất mà con có thể gặp.

Con yêu dấu, con có thể lập luận rằng vấn đề duy nhất của sa nhân là chúng đã không hoàn toàn trải nghiệm và chấp nhận sự tuyệt đối của quyền tự quyết. Chúng vẫn cố tìm những cách thức để khuynh đảo quyền tự quyết, quyền tự quyết của người khác, hay tìm cách căng rộng quyền tự quyết của chúng ra – sa nhân tưởng như vậy – để nó cho chúng nhiều tự do hơn, vì chúng không hiểu là chúng đã có tự do tuyệt đối rồi.

Con hiểu chứ con? Một số sa nhân sẽ không nhìn nhận là chúng đang có quyền tự quyết tuyệt đối. Chúng đã tạo ra trong tâm tấn tuồng cuồng đại cho rằng Thượng đế đang hạn chế quyền tự quyết của chúng, cho nên cách duy nhất để biểu lộ quyền tự quyết là nổi loạn chống lại ngài, bằng cách làm ngược lại những gì ngài muốn chúng làm. Chúng chỉ không chịu nhìn nhận là thượng đế đó – thượng đế muốn chúng làm cái gì đó – chính là sự tạo dựng của chúng chỉ hiện hữu cho tâm chúng. Trong khi đó thì Đấng Sáng tạo đích thực đã nói rằng: “Con có quyền tự quyết hoàn toàn.” Một trong những thử thách lớn nhất cho một sinh thể tự nhận biết, cho dù sa ngã hay không sa ngã, là nhìn nhận bản chất tuyệt đối của quyền tự quyết.

Là một avatar, con đã chưa nắm bắt được toàn bộ bản chất tuyệt đối của tự quyết. Khi con nhìn xuống trái đất và thấy người ta đau khổ, con chỉ có thể lý luận là có gì đó đã bị lệch lạc, hư hỏng, do họ đã chọn lựa sai lầm. Và nhiệm vụ của con, nhiệm vụ mà chính con đã tự giao phó, là con sẽ đi xuống giúp họ có những chọn lựa đúng hơn – không phải bằng cách thao túng họ mà qua nhiều cách khác. Nhiệm vụ của con như một avatar có phải là đến đây và làm gì đó để sửa đổi chọn lựa của người khác hay không?

15.10. Sự khác biệt cơ bản của quyền tự quyết

Tuyệt đối là không! Theo Định luật Tự quyết, đó không phải là nhiệm vụ của con. Điều này có nghĩa chăng là con không thể giúp được ai? Không, không có nghĩa như vậy. Có một sự khác biệt cơ bản giữa tư duy là con cần làm gì đó để thay đổi người khác, và tư duy là con ở đây để trưng ra cho họ thấy một giải pháp thay thế cho trạng thái tâm thức hiện tại của họ. Đây là một khác biệt cơ yếu.   

Nó không có vẻ gì là một khác biệt lớn lắm, nhưng một khi con suy nghiệm ý tưởng này trong tâm và thỉnh cầu sự hướng dẫn nội tâm, con có thể đạt tới điểm thực hiện một trong những cuộc xoay chuyển cách mạng mà Saint Germain nói đến. Bỗng nhiên con ngộ ra khác biệt đó cơ yếu đến chừng nào. Điều đó, con yêu dấu, sẽ là thử thách lớn nhất của con như một avatar trên địa cầu. Con sẽ phải sẵn lòng làm những gì Saint Germain đã nói đến: Nhìn nhận là mình đã sai lầm. Không cứ là con đã sai trái – sai trái trong nghĩa xấu xa, tà ác – khi con đến địa cầu. Nhưng con phải nhìn nhận là thái độ mà con đã có, đã đưa con tới trái đất, cần phải ra đi. Thái độ đó không quân bình. Nó bất toàn. Nó không là tối hậu. Nó không là tâm thức Ki-tô. Con phải sẵn lòng nhìn nhận điều này vì cho tới khi con nhìn nhận điều đó trong tư cách một avatar thì con sẽ không thể rời nơi đây.

Chừng nào con còn nghĩ lý do mình đến địa cầu, hay sự thành công của mình trên địa cầu, là để thay đổi một ai khác, thay đổi các chọn lựa tự quyết của họ, thì con không thể buông hành tinh này ra. Sẽ có thêm nhiệm vụ nào khác mà con phải làm, một vấn đề nào khác mà con phải giải quyết, một cuộc tranh đấu cuồng đại nào khác mà con phải hoàn tất. Nó có thể cứ tiếp diễn mãi mãi, con yêu dấu. Đó là một trong những điều các thày muốn chỉ ra cho con thấy trong quyển sách Các kiếp của tôi, khi thày đã bỏ ra hai triệu năm trời để vượt qua cái ảo tưởng đã đưa thày tới đây. Nó có thể kéo dài lâu hơn thế nữa.

15.11. Trong Sứ vụ của con có việc thăng thiên hay không?

Con cần nhận diện là nếu trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình có khả năng con sẽ thăng thiên sau kiếp này, thì việc thăng thiên sẽ đòi hỏi ở con những gì? Đôi khi, và đặc biệt trong các tổ chức chân sư thăng thiên trước đây, các đệ tử có một cái nhìn gần như máy móc về thăng thiên. Con nghĩ là nếu con làm việc này và làm việc kia, và nếu con hiểu điều này và hiểu điều kia thì đùng một cái, con sẽ thăng thiên! Một lần nữa, sẽ không bao giờ có chuyện “đùng một cái”. Thăng thiên sẽ cần gì? Sẽ cần (như sứ giả này đã nhìn thấy trong một ánh chớp trực giác cách đây nhiều năm) là con đạt tới điểm con đứng trước cánh cổng đó. Trước khi con có thể bước qua cổng, con phải ngoái nhìn lại trái đất. Thày cũng biết có những truyện kể rằng những ai ngoái nhìn lại sẽ biến thành cột muối, nhưng điều này sẽ không xảy ra khi con ở mức thăng thiên. Con phải nhìn lại. Con phải nghe thấy tiếng than khóc của thế gian. Xong con phải duyệt lại bản thể của mình và nói: “Có còn gì trên trái đất mà tôi không thể bỏ lại?”

Chỉ khi nào con nhận ra là không còn gì trong bản thể mình đang níu kéo mình ở lại trái đất, chỉ khi đó con mới có thể quay gót và chọn lựa: “Tôi rời bỏ hành tinh này vĩnh viễn. Tôi buông bỏ khả năng ảnh hường hành tinh này, một khả năng mà tôi chỉ có được khi tôi hiện thân trong vật lý. Tôi buông bỏ nó! Tôi lựa bỏ nó ra!” Sau đó con có thể thăng thiên, nhưng đây là một chọn lựa và đó phải là một chọn lựa hoàn toàn có ý thức. Không thể có bất cứ gì trong bản thể con mà con chưa nhìn vào, bởi vì khi đó, ông hoàng của thế gian này sẽ nắm được cái đó nơi con và y sẽ lôi con trở lại.

Bây giờ có một điểm nữa. Các thày công nhận là mỗi khi các thày ban ra một lời dạy, nó có thể khiến cho một số người diễn giải theo một cách hơi thiếu quân bình. Các thày đã ban ra rất nhiều lời dạy về thăng thiên, và suốt nhiều thập niên nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên đã mang ý tưởng là điều duy nhất thực sự quan trọng, điều duy nhất mà con thực sự phải làm như một đệ tử của chân sư, là nỗ lực đạt đến thăng thiên. Con cần thăng thiên càng nhanh càng tốt, chắc chắn sau kiếp này nếu có thể hay trong kiếp tới. Đây là trường hợp cho một số các con nhưng không phải cho tất cả các con.

Chúng ta đang sắp sửa đem lại được gì cho hành tinh này? Thời đại Hoàng kim của Saint Germain! Có những sinh thể đang đầu thai, kể cả các avatar, muốn góp phần trong công cuộc thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain. Tất nhiên, điều này sẽ không xảy ra toàn bộ trước khi con mãn kiếp sống hiện thời, ngay cả nếu con vẫn còn trẻ tuổi vào lúc này. Có thể một số các con đã không thảo vào Sứ vụ của mình việc thăng thiên sau kiếp này vì con muốn đầu thai liên tục hầu giúp thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain, hay thậm chí còn được trải nghiệm Thời Hoàng kim. Điều này, con chỉ có thể thấy được một khi con lên đến các tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng, và một lần nữa, con chỉ thấy được nó rõ ràng một khi con giải quyết chấn thương nhập đời.

Con hãy công nhận điều này, con yêu dấu: Nhiều avatar, do cường độ và nỗi đau của chấn thương nhập đời, có mong muốn thoát khỏi nơi đây vì họ nghĩ họ sẽ tránh xa khỏi chấn thương nhập đời của họ. Tất nhiên là khi con thăng thiên, con sẽ rời xa khỏi chấn thương nhập đời, nhưng con sẽ không thăng thiên cho tới khi con đã nhìn sâu vào nó và trực diện với nó. Có một cơ chế trốn chạy là khi người ta cảm thấy: “Ồ, đương đầu với chấn thương nhập đời thật quá sức của tôi, cho nên tôi sẽ chỉ tập trung vào chuyện thăng thiên, và tôi chắc chắn tôi có thể làm được mà không phải giáp mặt với chấn thương nhập đời.” Chuyện này không thể làm được, con ạ!

Một lần nữa, điều gì sẽ giúp con góp phần vào việc thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain? Điều gì sẽ cho phép con trải nghiệm và thực sự vui hường nó được? Đó là con giải quyết chấn thương nhập đời của con. Không có nghĩa là khi con giải quyết chấn thương nhập đời thì con sẽ tự động thăng thiên hay con sẽ phải thăng thiên. Con ạ, con có thể chọn ở lại trái đất và nói: “Thày biết đó, con đã phải vật lộn với chấn thương nhập đời này suốt hai triệu năm qua, chắc chắn con sẽ muốn được kinh nghiệm hành tinh này mà không có nó.” Thật không có gì sai trái nếu con chọn như vậy, con yêu dấu – ngay cả nếu con có thể tùy chọn thăng thiên hay không.

Tất nhiên như các thày đã nói trong các đợt truyền pháp trước, cũng đúng là khi có ai thăng thiên thì điều này sẽ tác động tích cực đến địa cầu. Sự thăng thiên sẽ kéo tâm thức tập thể đi lên. Chắc chắn khi có ai giải quyết được chấn thương nhập đời và bắt đầu biểu đạt quả vị Ki-tô của mình thì điều này cũng tác động tích cực nếu con ở lại trong hiện thân. Một lần nữa, đây không phải là một điều ép buộc cho con. Đã có những đệ tử của chân sư gần như cảm thấy mình bị buộc phải thăng thiên, hay phải nỗ lực thăng thiên vì họ phải làm vậy để giúp địa cầu. Nhưng con có quyền định đoạt tuyệt đối: “Tôi muốn ở lại trong hiện thân và giúp đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain.” Con yêu dấu, nếu ngày mai tất cả các con đều thăng thiên hết thì sẽ còn ai nữa để đem lại Thời Hoàng kim đây? [Có người trong cử tọa trả lời “Chúng con!”] Không, vì con sẽ thăng thiên, và một khi con thăng thiên, con sẽ không thể đem nó vào thị hiện vật lý.

15.12. Thăng thiên hay không thăng thiên

Con yêu dấu, đã từng có những thời đại trước trên trái đất (các thày đã có giảng về các giống dân gốc và những điều tương tự), đã từng có những chu kỳ khi một nền văn minh dần dần vươn lên một trình độ rất cao và có một nhóm dòng sống đã đóng góp đắc lực để đưa nền văn minh lên mức đó. Lý do họ đã góp phần nâng cao nền văn minh là vì họ cũng đã nâng cao tâm thức của họ và bắt đầu thể hiện quả vị Ki-tô. Tất nhiên khi làm vậy, họ đã hội đủ tư cách thăng thiên. Họ có sự chọn lựa tự quyết: thăng thiên hay không thăng thiên. Đã xảy ra những trường hợp khi quá nhiều dòng sống già dặn đó chọn thăng thiên cùng một lúc, đến độ sau khi họ bước ra khỏi hiện thân thì nền văn minh đã rất nhanh chóng rơi vào một vòng xoáy hướng hạ và sụp đổ. Có thể nói là đã không có đủ số người đầu thai để cầm giữ sự cân bằng tâm linh và duy trì nền văn minh trong vòng xoáy hướng thượng. Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là sa nhân đã có thể dọn tới, nắm giữ quyền bính và kéo nền văn minh đi xuống.    

Con phải thận trọng và nhìn nhận là luôn luôn có một thế quân bình cần tìm ra. Một lần nữa, các thày không đang nhìn trở ngược lại và trách cứ những người kia đã chọn thăng thiên. Họ có quyền chọn như vậy, và đó chính là sự thử thách cho những ai nhìn vào những ví dụ đó mà vẫn còn ở tầng thấp hơn. Liệu họ sẽ bước lên và lấp đầy khoảng trống, hay là họ sẽ cho phép sa nhân đi vào chiếm lấy khoảng trống? Đó đã là chọn lựa và thử thách cho những người đó. Sự việc đã trải bày ra thế nào thì cũng hoàn toàn tốt thôi.

Thày chỉ giản dị nói với con là trong tư cách một đệ tử chân sư thăng thiên, con không cần phải dồn hết tâm trí vào ý nghĩ: “Tôi phải thăng thiên sau kiếp này.” Không có gì mà con phải làm cả. Chắc chắn con có thể phụng sự đời sống, phụng sự địa cầu, phụng sự Saint Germain bằng cách ở lại trong hiện thân sau khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời và nhờ vậy cũng có nhiều khả năng hơn để là một cánh cửa mở.

15.13. Sứ vụ Thiêng liêng đã không bị ép buộc lên con

Quyền tự quyết là tuyệt đối, cho nên trong cõi tự quyết không thể có bất cứ gì tuyệt đối mà con phải làm hay không được làm. Con thấy đó, thật quan trọng khi con đến được điểm này vì, con yêu dấu, để hoàn thành tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của mình, con phải khắc phục ý niệm là có gì đó ép buộc lên con. Thậm chí con có thể có một cái ngã tách biệt đã nghe nói về khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng, đã học giáo lý của các thày, nhưng vẫn cảm thấy Sứ vụ đã bị ép buộc lên con. Có thể chính con đã tự ép buộc Sứ vụ lên bản thân mình! Đó là điều mà ngã này cảm nhận.

Con cần nhận diện liệu con có mang khuynh hướng này hay không, xong con cần xem xét nó và nói: “Tôi không cần ngã này nữa. Tôi để cho nó chết đi.” Con không thể hoàn thành tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của mình cho tới khi con chấp nhận nó một cách trọn vẹn và tuyệt đối. Nói cách khác, con không thể cảm thấy là mình đã có những chọn lựa trước khi đầu thai, nhưng bây giờ con ở đây và thấy rõ kiếp hiện thân vật lý và mọi chuyện trên địa cầu khó khăn đến chừng nào, thì con đâm ra nghi ngờ là con có thể làm tròn hay đương nổi các chọn lựa đó. Thậm chí, con còn không chắc chắn là mình sẵn lòng thực hiện các chọn lựa này, cho nên bên trong con cảm thấy một xung đột nào đó, gần như thể con là – như thày từng nói cách đây 2000 năm – “một ngôi nhà bị phân rẽ chống lại chính nó” liên quan đến Sứ vụ của con.

Nếu bên trong con có phân rẽ, một đằng là nội dung của Sứ vụ Thiêng liêng mà chính con đã chọn đặt vào đó, và đằng khác một ngã tách biệt với ý chí khác hơn, thì con cần xem xét nó. Con không thể làm tròn tiềm năng cao nhất của Sứ vụ chừng nào con còn kéo lê cái ngã này theo con.

Một lần nữa, con cần làm cuộc xoay chuyển cách mạng là nhìn vào nó và nói: “Được rồi, tôi sẵn sàng xem xét nó, tôi sẵn sàng bước sâu vào trong đó, tôi sẵn lòng trải nghiệm niềm tin đứng đằng sau nó.” Rồi con nhìn ra tính không thực của lý do và con nói: “Không, đây không thực là chọn lựa của tôi. Đây có thể là chọn lựa của ngã tách biệt. Tôi nhìn thấy đây là chọn lựa của ngã tách biệt, vì bất kể những gì đã tạo ra ngã tách biệt – một chấn thương, một tin tưởng sai lầm, bất kể – thì bây giờ tôi đã thấy nó rồi và tôi chọn để cho nó chết. Xong tôi chọn ôm lấy những gì tôi đã thực sự đặt vào Sứ vụ, vì tôi sẵn sàng vươn lên mức tâm thức mà tôi đã có khi tôi đặt những điều đó vào Sứ vụ.” Chỉ khi nào con buông ngã tách biệt này thì con mới có thể thực sự vươn đến đó. Và chỉ khi đó con mới có thể ôm lấy Sứ vụ của mình – ôm một cách trọn vẹn.

Con yêu dấu, khi con nhìn lại cuộc đời của thày cách đây 2000 năm, nếu con thực sự thành thật, con sẽ có thể thấy thày là Ki-tô Hằng sống, nhưng theo một cách nào đó, thày là Ki-tô Hằng sống bất đắc dĩ. Chẳng hạn con thấy trong tình thế trước các biến cố dẫn đến việc thày bị bắt và đóng đinh, thày ngồi trong Vườn Gethsemane. Có người bảo rằng những giọt mồ hôi thày đổ ra là máu và có người thì bảo là không, nhưng chuyện này không phải là vấn đề. Vấn đề là thày đã thốt lên: “Cha ơi, nếu đây là ý muốn của Cha, hãy cho chén này lìa khỏi con.” Tuy vậy, sau đó thày lại nói: “Song không theo ý muốn của con mà theo ý muốn của Cha.”

Điều này cho con thấy gì? Rằng ngay cả thày đây, ở mức quả vị Ki-tô mà thày đã chứng được, vẫn còn phân rẽ trong bản thể mình khi thày cảm thấy có một ý muốn của thày và có một ý muốn cao hơn. Phải chăng Thượng đế đang ép buộc lên thày? Không, chính thày đã chọn lựa như vậy khi thày lập ra Sứ vụ của mình. Thày đã chọn lựa, nhưng vẫn có một thành phần trong cái ta vỏ ngoài của thày, trong nhân cách vỏ ngoài của thày, một cái ngã tách biệt vẫn chưa hoàn toàn ôm lấy và chấp nhận chọn lựa đó. Ý thày muốn nói là thế này: Điều đó, tất nhiên, cũng hoàn toàn tốt thôi. Nó xảy ra 2000 năm về trước vào một thời tâm thức dày đặc hơn rất nhiều. Khi đó thày là một trong những người đi tiên phong chứng tỏ tâm thức Ki-tô. Điều đó tốt hoàn toàn vào thời buổi đó, nhưng trong thời đại hôm nay, các con có tiềm năng bước lên cao hơn nữa, tiềm năng khắc phục sự phân rẽ đó trong bản thân mình và ôm lấy trọn vẹn Sứ vụ của con.

Hiển nhiên đây là điều thày mong muốn nhìn thấy nơi con, con yêu dấu. Liệu điều này có nghĩa là con sẽ hiển thị một mức quả vị Ki-tô cao hơn thày cách đây 2000 năm hay chăng? “Đúng vậy! Có thể nghĩa là vậy cho con đó!” Con không nghĩ đó là điều thày mong muốn cho con sao? Con yêu dấu, con có nghĩ là thày – chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô – lại mang chút tham vọng của tự ngã bảo rằng: “Ta đã từng là người chứng tỏ quả vị Ki-tô trên trái đất và ta không muốn bao giờ có người qua mặt được ta” hay sao?

Thày muốn con hoàn thành những công việc lớn lao hơn thày thuở trước – thày đã nói vậy cách đây 2000 năm. Thật không phải là vấn đề của thày nếu con đã không tin thày! Thày an bình với chuyện đó, thày phó mặc cho quyền tự quyết của con, và thày chỉ muốn chỉ ra cho con thấy đây là cách nhìn của thày. Thật sẽ là niềm vui tột cùng cho thày được chứng kiến nhiều người – một vạn người – hiển thị một tầng của quả vị Ki-tô cao hơn những gì thày đã có thể hiển thị cách đây 2000 năm, cho dù như thày vừa nói, họ có biểu lộ quả vị Ki-tô đó qua một lối sống phần nào “bình thường”.

Con yêu dấu, thật là niềm vui tột cùng cho thày được trao con bài giảng này và thật sự được thấy những xoay chuyển tâm thức nơi những ai đã hấp thụ được. Thày sẽ vui mừng biết mấy được thấy nó lan tỏa ra như những vòng tròn trên mặt nước, giúp cho ngày càng nhiều người hơn đạt tới mức chấp nhận hoàn toàn tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình – chấp nhận trọn vẹn các chọn lựa của chính mình.

17 | Tầm nhìn omega về sự phán xử

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 21/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary. Con yêu dấu, khi con trải nghiệm một bài giảng như bài chúng ta vừa trải nghiệm của Giê-su, thày nhớ lại khi hiện thân cùng với Giê-su, thỉnh thoảng thày ngồi đó mà cảm thấy gần như kinh ngạc khi nghe Giê-su phát biểu. Trong Kinh thánh có kể lại, “không có một người nào nói chuyện giống như người này,” và chắc chắn Giê-su có một cách sử dụng ngôn ngữ thật độc đáo, đẹp tuyệt vời. Ngay cả khi là một chân sư thăng thiên, tất nhiên thày cũng có thể trải nghiệm một bài truyền đọc. Thày trải nghiệm nó một cách khác hơn vì không những thày trải nghiệm sinh thể thăng thiên đang phát biểu như vị đó đang ở cõi thăng thiên, mà thày cũng trải nghiệm những gì tuôn ra qua trung gian sứ giả này.

Khi con xét đến sự khó khăn, khoảng cách rung động, khoảng cách trong mức tâm thức, khi con xét đến địa cầu này dày đặc chừng nào, thì con thấy được nỗi khó khăn trong việc đem Bản thể của một chân sư thăng thiên vào cõi này qua trung gian những lời nói của thế gian. Con phải ngưỡng phục khả năng của Giê-su đã có thể bày tỏ Bản thể của thày nhiều đến như vậy trong cõi dày đặc này. Nhưng con cũng phải gần như kinh ngạc khi thấy làm thế nào nguyên tiến trình giao tiếp từ cõi thăng thiên thông qua một sứ giả chưa thăng thiên lại có thể thực hiện được.

Đôi khi các thày biết là các đệ tử của mình có thể xem việc này là đương nhiên, họ cảm thấy: “Vậy à, chuyện này xem có vẻ dễ quá – sứ giả chỉ việc đi lên đó, nhắm mắt lại rồi mọi chuyện bắt đầu tuôn chảy.” Khi con nhận thức độ dày đặc của cõi này, đó thật là một tiến trình độc đáo mà con không nên cảm thấy nó quá dễ đến độ xem đó là chuyện thường tình.

17.1. Mặt omega của sự phán xử

Điều thày mong làm hôm nay là đem lại cho con phần nào góc nhìn omega của bài giảng của Giê-su. Mỗi lần các thày đề cập đến việc đem lại phán xử Ki-tô và thách thức sa nhân, luôn luôn có một tỷ lệ trong số các con sẽ có một phản ứng cưỡng lại. Không phải là thày đang chỉ trích con có phản ứng như vậy. Thày sẽ chỉ ra cho con thấy là có hai khía cạnh trong lý do vì sao con lại có phản ứng, vì sao con có thể cảm thấy do dự ngần ngại, vì sao con có thể không thích công việc này: “Có thật đây là việc của tôi? Tôi nên làm gì đây? Tôi không xem mình là một người hướng ngoại, tự tin lắm,” cùng nhiều ý nghĩ khác mà con có thể có.  

Con yêu dấu, như Giê-su đã nói, vũ khí chủ yếu của sa nhân là lòng ngờ vực, và tất nhiên nhiều người trong các con mang lòng ngờ vực này. Thật ra, tất cả các con nếu chưa giải quyết chấn thương nhập đời đều sẽ ngờ vực, lòng ngờ vực của sa nhân. Một phần trong phản ứng mà con có thể có chỉ đơn giản phát xuất từ đó. Con chưa giải quyết xong ngã gốc của con cho nên con mới cảm thấy do dự như thế. Thày có thể cam đoan với con là một khi con giải quyết ngã gốc, con sẽ không còn do dự như vậy nữa, ít ra khi con làm cuộc xoay chuyển mà Giê-su nói đến.

Dù sao thì điều thày muốn trình bày là như Giê-su có nói, không phải tất cả các con đều có trong Sứ vụ Thiêng liêng là con sẽ thăng thiên sau kiếp này. Cũng vậy, không phải tất cả các con đều có trong Sứ vụ Thiêng liêng việc xông ra thách thức sa nhân một cách công khai. Điều Giê-su nói đến là khía cạnh alpha của việc thách thức sa nhân, là khi con lên tiếng về các ý tưởng của chúng, thậm chí con có thể sẵn sàng chạm trán với chúng ở mức cá nhân và cho phép chúng tấn công con hầu chúng phải nhận phán xử Ki-tô. Đối với những con còn lại, việc này không nằm trong Sứ vụ của con, không phải là những gì con đã ghi vào Sứ vụ về cách biểu hiện quả vị Ki-tô của mình ra sao. Và tất nhiên như mọi thứ khác, quả vị Ki-tô cũng có một mặt alpha và một mặt omega.

Vậy đâu là cách omega để thách thức sa nhân và đem lại phán xử Ki-tô trên sa nhân? Con yêu dấu, đó là yêu thương sa nhân. Ở tầm mức cá nhân, đây có thể là khi con chọn có quan hệ với sa nhân, dù trong phạm vi gia đình hay một mối quan hệ nào khác. Con đã chọn có liên hệ mật thiết với một số sinh thể sa ngã nhất định. Nếu con hòa điệu với Sứ vụ và nhìn xem những gì được thảo vào đó, có thể con sẽ nhận ra là kỳ thực con sẽ hiểu lầm Sứ vụ của con nếu con quyết định bằng tâm vỏ ngoài, dựa trên các lời dạy đã được ban ra, rằng: “Bây giờ tôi cần phải thách thức những người đó.” Nếu con là người uy thế trong giới quen biết của con, con quyết định: “Tôi cần thách thức người này.” Hay nếu con cảm thấy ai đó có thể là sa nhân, con nghĩ con cần thách thức người đó.  

Thày yêu cầu con hãy hòa nhập và không vội bắt đầu thách thức bất cứ ai cho đến khi con biết trong Sứ vụ mình có gì, cho đến khi con cảm thấy điều này đến từ bên trong. Không phải là con cần có một ấn tượng tận mắt về Sứ vụ rồi con xông ra thách thức sa nhân. Không, con đi theo trực giác của con. Nếu con nhận được thúc giục của trực giác để thách thức ai đó thì con cứ việc làm, nhưng con không quyết định bằng tâm vỏ ngoài là con phải thách thức họ.

Đặc biệt đối với các con cảm thấy do dự, thày yêu cầu con hãy trước tiên làm việc với chấn thương nhập đời của mình. Ngay cả khi con đã khắc phục được chấn thương nhập đời, thày yêu cầu con hãy hoà nhập và nhìn xem: “Việc tôi xông ra thách thức người khác có thật là chọn lựa của tôi không? Hay thay vào đó, chọn lựa của tôi là thương yêu họ?” Sau đó con cần nhận ra là trong việc hoàn thành ý muốn và tiềm năng cao nhất cho Sứ vụ của con, chúng ta không đang nói đến chuyện yêu thương sa nhân theo cách thế phàm. Chúng ta đang nói đến việc yêu thương sa nhân theo một cách mà các thày gọi là vô điều kiện, và bây giờ thày muốn trình bày sự khác biệt cho con thấy.

17.2. Tình yêu nhân thế và tình yêu vô điều kiện

Con thấy đó, con yêu dấu, cách vô điều kiện, tình yêu vô điều kiện chỉ có thể được trao khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời của mình – nếu con là một avatar. Nếu con không là avatar mà là một cư dân nguyên thủy của trái đất, con cần vươn lên một mức cao của quả vị Ki-tô trước khi con có thể bày tỏ tình yêu vô điều kiện, vì tất nhiên, tình yêu có điều kiện xuất phát từ một tâm lý chưa giải quyết. Nhiều khi các thày đã gọi đó là tình yêu sở hữu khi con nghĩ mình yêu ai đó, nhưng con làm vậy là vì con cho rằng người kia có thể cho con điều gì đó sẽ giúp con trở nên trọn vẹn, hoặc sẽ che lấp vết thương của con để con không cảm được vết thương. Đó là tại sao khi người ta yêu, người ta thường ở trong một trạng thái hưng phấn không cảm thấy vết thương của mình, hay bay bổng lên chín tầng mây và mọi chuyện đều tuyệt vời.

Lý do đơn giản là vì ngay lúc này họ không nhìn thấy vết thương, họ không đang cố giải quyết nó. Nhưng rồi một khi tuần trăng mật kết thúc, họ bắt đầu lại cảm được vết thương. Và họ phóng chiếu: “Ồ, người này không phải là tình yêu đích thực mà tôi hằng khao khát, cho nên tôi cần tìm người khác.” Tất nhiên, chuyện này có thể lặp đi lặp lại nhiều lần.

Chừng nào con còn mang những vết thương đó, đặc biệt là chấn thương nhập đời, con sẽ không thể là cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện. Lấy ví dụ tình huống được mô tả trong quyển Các kiếp của tôi là sự phán xử của Lucifer, khi nhân vật chính trong sách bày tỏ tình yêu vô điều kiện đối với Lucifer – và đó là cơ hội chót của Lucifer. Liệu y sẽ đáp lại tình yêu vô điều kiện được biểu lộ bởi một người y đã quen biết trong cõi đầu thai vật lý? Nếu sa nhân không đáp lại tình yêu vô điều kiện thì đó chính là sự phán xử đối với sa nhân, là sự phán xử của Ki-tô.

Có thể một số các con cảm thấy đây là điều con chủ tâm muốn làm. Có một ai đó trong phạm vi ảnh hưởng của con mà con cảm thấy không nên thách thức. Vai trò của con không phải là thay đổi họ mà chỉ đơn giản là giúp họ nhìn ra một cách khác, một trạng thái tâm thức khác, cho nên cuối cùng sẽ tới một điểm con có thể bày tỏ tình yêu vô điều kiện. Có lẽ không nhất thiết họ là sa nhân, có lẽ họ là một người hay một cư dân nguyên thủy của trái đất, thậm chí còn có thể là một avatar. Họ có khả năng biến đổi khi trải nghiệm một dạng tình yêu khác hơn là loại tình yêu họ đã từng trải nghiệm trên địa cầu.

Chắc chắn đó là một cách để con chứng tỏ là có một trạng thái tâm thức khác. Nói cách khác, điều hoàn toàn chính đáng trong khía cạnh alpha của quả vị Ki-tô là con bày tỏ một số quan điểm cùng ý tưởng, hay ngay cả con thách thức ý tưởng của người kia và giải thích tại sao đó là những ý tưởng nhị nguyên và tại sao chúng không phải là cao nhất. Nhưng khía cạnh omega là khi con chứng tỏ một trạng thái tâm thức khác hơn qua tình yêu vô điều kiện, qua việc yêu thương người khác. Hiển nhiên, điều này cũng áp dụng cho các thành viên trong gia đình con dù họ có là sa nhân hay không. Tất nhiên, thày không bảo con hãy đi vòng quanh, điểm mặt từng người con gặp và cố xét đoán họ với tâm vỏ ngoài: “Người này có phải là sa nhân hay chăng?” Vì như vậy, con có thể đặt ra trong tâm mình đủ loại tiêu chuẩn bảo rằng khi có ai xử sự thế này thế kia thì bắt buộc họ phải là sa nhân.

Con yêu dấu, các thày đã chứng kiến trong các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên nguyên cả tổ chức với hàng ngàn thành viên dựng lên một nếp văn hóa vô cùng xét đoán. Trong một số trường hợp, mọi người tin chắc những người kia đều là sa nhân, và các thày đã thấy hiện tượng này biến thành gần như một bộ môn thi đấu nơi người ta tranh nhau phơi bày người nào là sa nhân, người nào không. Họ chạy loanh quanh buộc tội lẫn nhau, và nói chung, họ nghĩ bất cứ ai bất đồng với mình đều phải là sa nhân. Hiển nhiên, đây không phải là một tâm thái cân bằng và cũng không phải là điều các thày khuyến khích.

Tương tự, các thày cũng không khuyến khích con rơi vào xu hướng được tìm thấy trên thế giới gọi là thiện cảm dành cho ác quỷ, khi con nghĩ rằng con phải yêu tất cả mọi người. Thày Giê-su đã có nói về những người trong cộng đồng Thời Mới không chịu thừa nhận bất kỳ sự xấu ác nào. Có một số người khác tuy thừa nhận có xấu ác trong thế gian nhưng lại cho rằng cách khắc phục xấu ác là qua tình thương. Đúng vậy, cách khắc phục xấu ác là qua tình yêu nhưng đó phải là tình yêu vô điều kiện. Nếu không, nếu đó là tình yêu sở hữu, thì sa nhân sẽ chỉ đơn giản sử dụng tình yêu đó để lôi kéo con vào một khuôn nếp phản ứng.

17.3. Có quan hệ với sa nhân

Hẳn là có một số trong các con sẽ cần nhìn ra là để vươn lên tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của mình, con cần nhìn nhận là con từng ở trong mối quan hệ với một sa nhân nào đó trong nhiều kiếp sống. Con sẽ cần tới điểm nhận diện điều này, và khi đó, con cần nhìn xem các vết thương, các cơ chế đã buộc con vào sa nhân đó là gì. Con cần nhìn xem các tin tưởng đứng đằng sau là gì, và cuối cùng con sẽ lần lần nhận ra là ở một tầng cấp nào đó của bản thể con, con đã nghĩ là mình có khả năng thay đổi sa nhân đó qua việc quan hệ với họ. Bằng cách yêu thương họ, con có thể thay đổi họ.

Đây là khi con cần bước lên một bước và thể nhập những gì Giê-su đã nói về sự tuyệt đối của quyền tự quyết. Con không ở đây để thay đổi bất cứ ai dù là sa nhân hay không. Có thể nói, con đặc biệt không ở đây để thay đổi sa nhân. Nếu con cố thay đổi một cư dân nguyên thủy của trái đất thì trong nhiều trường hợp, người đó sẽ làm ngơ con. Nhưng sa nhân sẽ không làm ngơ con nếu con cố thay đổi chúng, chúng sẽ sử dụng con, chúng sẽ dùng ý muốn thay đổi của con đối với chúng để buộc chặt con lại với chúng, và ít nhất, để bòn rút năng lượng, đánh cắp năng lượng của con. Trong những trường hợp khác, chúng sẽ khuynh đảo, hay ngay cả tìm cách tiêu diệt con qua mong muốn cải tạo sa nhân của con.

Là một avatar, con thực sự phải đạt tới điểm nhận diện xem con đã rơi vào khuôn nếp đó hay không, con có ý muốn thay đổi sa nhân hay không. Sau đó, con phải hoàn toàn buông bỏ cái đó, phải để cho ngã đó chết đi. Con không thể biểu hiện quả vị Ki-tô nếu con ở trong tâm thái đó, mà trong cốt lõi là một khuôn nếp phản ứng lại sa nhân. Mong muốn cải tạo sa nhân sẽ luôn luôn nảy sinh từ chấn thương nhập đời khi con phải gặp chúng lần đầu tiên. Con đã bị chấn động, rồi một cách nào đó con đã tạo ra – trong nhiều trường hợp – cái quá trình lập luận rất dài dẫn con từng bước đến kết luận là những gì sa nhân đã gây cho con cũng trưng bày những gì chúng gây cho hành tinh. Và cách tốt nhất để giúp thay đổi hành tinh là con lựa ra một sa nhân nào đó, con có quan hệ thân thiết và nỗ lực cải tạo sa nhân đó.

Thế là cái đó trở thành một phần ngã gốc của con. Có thể có nhiều thứ khác trong ngã gốc mà qua đó con nghĩ con phải đem lại một số thay đổi cho địa cầu. Trong số đó là ý muốn thay đổi một sa nhân. Con không thể thực sự giải quyết ngã gốc cho đến khi con nhìn vào ý muốn thay đổi sa nhân này trước tiên và con buông nó ra. Con từ bỏ ý muốn đó vì con nhìn nhận sự tuyệt đối của quyền tự quyết, con nhìn nhận đó không phải là lý do con ở đây.

Ý muốn thay đổi một sa nhân không phải là cốt lõi ngã gốc của con. Cốt lõi ngã gốc là phản ứng của con trước chấn thương hay sự tàn bạo, sự lừa dối con đã phải đối mặt bất kể đó là gì. Để đối phó với chấn thương, con đã tạo ra cái ngã muốn cải tạo một sa nhân. Có thể nói đó là một khía cạnh của ngã gốc, nhưng ngã gốc của con đã không khởi đầu theo cách như vậy. Đây là tại sao để đi sâu vào cốt lõi của ngã gốc, con phải trước hết buông bỏ mong muốn cải tạo một sa nhân.

17.4. Sa nhân có thể được cải tạo hay không?

Điều này tất nhiên dẫn đến đề tài: “Sa nhân có thể được cải tạo hay không?” Thày sẽ xin con xem xét một câu hỏi chính xác hơn: “Liệu tôi sẽ bao giờ cải tạo được một sa nhân không?” Câu trả lời là: “Không, hoàn toàn không.” Không có gì chính con có thể làm hay nói sẽ cải tạo được một sa nhân. Hơn vậy nữa, không có gì con có thể làm hay nói sẽ thay đổi được bất cứ người nào khác. Tại sao vậy? Vì quyền tự quyết. Tuy nhiên, có nghĩa chăng là con bất lực, có nghĩa chăng là sự có mặt của con ở đây là bằng thừa? Không!

Để một người thay đổi, sẽ cần gì? Để một sa nhân thay đổi rồi bước theo một con đường hướng thượng, sẽ cần gì? Cả hai sẽ cần làm một chọn lựa. Con không thể buộc người khác chọn lựa. Con có thể buộc họ hành xử theo một cách nào đó và đây chính là điều sa nhân đã cố làm. Sa nhân cũng đã cố khuynh đảo và lừa dối để con phải lấy một số chọn lựa.

Nhưng nói cho cùng, con không có quyền lực để buộc người khác chọn lựa. Con có thể, như sa nhân thường làm, lợi dụng tâm lý của người kia và nhờ vậy thúc ép chọn lựa của họ. Con hiểu thày nói chứ: Ngay cả nếu con thúc ép chọn lựa của người khác thì việc này sẽ không cải tạo được họ, nó sẽ không cải tạo được sa nhân, nó sẽ không thay đổi được người kia theo một chiều hướng tăng triển tích cực.

Con có thể thay đổi họ theo một chiều hướng tiêu cực bằng cách cưỡng ép chọn lựa của họ, nhưng con không thể ép buộc một chọn lựa tích cực. Chọn lựa tích cực phải đến từ bên trong dòng sống đó, và trong nhiều trường hợp, chọn lựa sẽ chỉ đến sau khi họ đã nếm đủ một số trải nghiệm. Tất nhiên, điều con có thể làm là con có thể tạo cảm hứng cho họ chọn lựa cao hơn bằng cách chỉ ra cho họ thấy một giải pháp thay thế trạng thái tâm thức của họ, một con đường cao hơn. Bằng cách tạo cảm hứng và chứng tỏ cho họ thấy, con có thể khiến họ làm một chọn lựa khác. Không phải con đã bước vào tâm họ và tạo ra thay đổi trong đó, mà chính họ đã tự nguyện chọn lấy một chọn lựa khác.

Hiển nhiên, nếu họ không thấy con chứng tỏ trạng thái tâm thức cao hơn đó – hay như Giê-su nói: nếu thày đã không chứng tỏ là con có khả năng bước trên trái đất trong Tâm thức Ki-tô – thì họ đã không có sự tùy chọn. Đó chính là điều con có thể làm. Con có thể cho họ sự tùy chọn nhưng con không thể cưỡng ép chọn lựa của họ. Tất nhiên là con có thể làm giống như sa nhân và cố buộc mọi người phải chọn theo chiều hướng hạ, nhưng con yêu dấu, đó chắc chắn không phải là lý do con ở đây như một avatar. Con hãy nhìn vào bãi chiến trường trên trái đất, và đâu là nguyên do chứ? Là vì sa nhân đã buộc con người phải lấy những chọn lựa đẩy họ vào một vòng xoắn ốc hướng hạ. Như thày vừa nói, con không thể ép buộc một ai làm những chọn lựa sẽ đưa họ vào xoắn ốc hướng thượng. Là một avatar, con cần hoàn toàn rũ bỏ ý muốn cải tạo hay thay đổi bất cứ ai. Chỉ khi đó, con mới có thể là cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện.

17.5. Con không thể có tình yêu vô điều kiện

Tại sao thày lại nói là con không thể tình yêu nhân thế nhưng con có thể là cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện? À, là vì tình yêu nhân thế là tình yêu sở hữu, có nghĩa là con có thể sở hữu nó, con có thể lấy nó làm của riêng. Trên thế giới có những người, thậm chí nhiều người, nghĩ họ là người tâm linh, là người Thời Mới, là người tràn đầy yêu thương. Họ yêu thương theo cách phàm phu, qua đó trong tiềm thức họ sử dụng tình yêu để được một cái gì đó từ người kia.

Trong một số trường hợp, họ không có ý định xấu ác, họ không thực sự trực tiếp lợi dụng người khác, nhưng bên trong, họ thầm mong người ta xem mình là tràn đầy tình thương. Khi họ bày tỏ tình yêu với ai đó, họ muốn khiến người kia chứng thực mong muốn của họ được xem là một người đầy tình thương. “Ồ, sao bạn là người hết lòng đến thế,” và như vậy họ cảm thấy mình được tán thành, tự ngã cảm thấy nó được tán thành.

Con không thể sở hữu tình yêu vô điều kiện, con không thể sở hữu tình yêu không sở hữu, nhưng con có thể mở tâm ra với nó như con mở tâm ra với quả vị Ki-tô. Tình yêu vô điều kiện là gì? À, đó chính là khía cạnh omega của tâm thức Ki-tô. Con không thể sở hữu tâm thức Ki-tô, con không thể cưỡng ép tâm thức Ki-tô. Con không thể dùng tâm vỏ ngoài – tâm nhị nguyên, tâm phân tích – để cưỡng ép. Con có thể mơ tưởng mình là Ki-tô nhưng làm vậy sẽ không biến con thành Ki-tô. Con có thể cố tạo ra những hiện tượng có vẻ cho thấy là tâm con có quyền năng to lớn trên vật chất, như ngay cả Lucifer cũng đã làm được trong sách. Đó không phải là quả vị Ki-tô. Con có thể có tình yêu nhân thế và khiến người ta nghĩ con có nhiều tình thương đến thế, nhưng đó không phải là tình yêu Ki-tô. Như các thày đã nói, Thánh linh thổi nơi đâu nó muốn, thì tình yêu Ki-tô cũng chảy như vậy, nhưng nó chảy vào bất cứ nơi nào có một lối mở. Phải có một lối mở, và nếu con mong muốn thay đổi người khác thì trong bản thể con sẽ không có khe hở để tình yêu vô điều kiện có thể chảy vào.

Rất, rất có thể là nếu con biểu lộ tình yêu vô điều kiện với một sa nhân thì y sẽ chối bỏ nó. Y sẽ bị bối rối bởi tình yêu đó, thậm chí y còn có thể buộc tội con, hay lánh xa và không muốn liên hệ với con nữa. Điều này con cần chấp nhận. Các thày đã có giảng về những cuộc xoay chuyển cách mạng. Các thày có nói là có thể đến một điểm khi con đã giải quyết tâm lý của mình, đã giải quyết ngã gốc và chấn thương nhập đời của mình, đã tiêu hủy hết năng lượng, đã để cho ngã chết đí, nhưng lại có một ngã tách biệt khác vẫn còn một sự gắn buộc nào đó.

Chẳng hạn con cảm thấy là nếu con là cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện thì con không thể bị chối bỏ, người khác không được chối bỏ con. Đã có những người đạt tới mức quả vị Ki-tô để có thể trở thành cánh cửa mở cho việc biểu lộ tình yêu vô điều kiện đối với một người khác, thế rồi tình yêu đó bị bác bỏ, và bởi vì họ mang cái ngã tách biệt đó cho nên đôi khi họ có thể rơi xuống một vòng xoáy hướng hạ. Họ bị dao động quá đỗi khi tình yêu đó bị từ chối đến độ nó kéo họ xuống một mức tâm thức thấp hơn. Thậm chí họ còn có thể quyết định sẽ không bao giờ tỏ lộ tình yêu vô điều kiện nữa.

Con cần nhìn nhận là ngay cả khi con có khả năng làm cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện, con vẫn có thể còn cái ngã tách biệt đó cầm giữ một loại hình ảnh nào đó về những gì phải xảy ra khi con biểu lộ tình yêu vô điều kiện. Ví dụ, con có thể mang một cái ngã cầm giữ một hình ảnh về những gì phải xảy ra khi con nói lên sự thật của con và thách thức sa nhân hay khi con thể hiện bản thể cao của con.

17.6. Tránh cảm thấy bị chối bỏ

Con thấy đó, con yêu dấu, một lần nữa quả vị Ki-tô – khi con là Ki-tô Hằng Sống, khi con thể hiện quả vị Ki-tô – không có nghĩa là con tuyệt đối hoàn hảo, là con đã giải quyết xong mọi khía cạnh của tâm lý mình và con đã lên tới tầng 144. Con có thể, ngay khi con bước cao hơn tầng 48, có được những thoáng hiện khi con biểu hiện quả vị Ki-tô hay thậm chí một dạng cao hơn của tình thương. Khi con lên cao hơn tầng 96, con có thể có những thoáng hiện – ngày càng thường xuyên hơn, trong khoảng thời gian dài hơn – ngụ trong tâm thức Ki-tô. Con đang biểu lộ tình yêu vô điều kiện nhưng tất nhiên, con vẫn phải bước tiếp lên cho tới tầng 144. Có nghĩa là vẫn còn những ảo tưởng mà con chưa khắc phục, và một số ảo tưởng này có thể liên hệ tới việc con nghĩ rằng người khác phải hồi đáp con một cách trong sáng khi con tiếp cận họ trong sự trong sáng.

Con thấy đó con yêu dấu, các avatar đều đến từ những hành tinh tự nhiên. Trên một hành tinh tự nhiên, con quen với tình trạng khi con làm gì đó cho một ai với ý định trong sáng, thì người đó sẽ không trở mặt mà kết tội là con xấu. Khi con làm điều gì cho một sa nhân, hay ngay cả cho những con người trên địa cầu, có thể họ sẽ chối bỏ con một cách vô cùng hung hãn, hiểm độc, tàn nhẫn, cáo buộc. Ngay cả khi con đạt tới điểm có thể biểu hiện quả vị Ki-tô, cho dù là khía cạnh alpha hay omega, con vẫn cần lưu ý có thể còn một cái ngã, một ảo tưởng mà con chưa buông bỏ, và ngã này khiến con cảm thấy bị gạt bỏ, hay khiến con rơi vào những loại phản ứng tiêu cực khác khi người ta không phản hồi theo cách con chờ đợi.    

Vậy trong những trường hợp đó, con cần sẵn lòng nhìn vào chính mình và nắm lấy đó như một cơ hội khắc phục thêm một ảo tưởng, buông bỏ thêm một ngã tách biệt, hầu vươn lên tầng kế tiếp nơi con có thể biểu hiện tình yêu vô điều kiện nhiều hơn, ít dính mắc hơn với cách người ta tiếp nhận tình yêu đó. Nói cho cùng, để biểu hiện trọn vẹn tình yêu vô điều kiện, con cần phải hoàn toàn không dính mắc với cách phản hồi của người khác vì con không có bất kỳ ý định nào khi hành xử như vậy. Đóa hoa hồng nở ra trong vườn không hề có ý định lôi kéo người đi dạo phải dí mũi vào bông hoa. Nó không hề cảm thấy bị bỏ bê khi ai nấy đều rảo bước đi qua, bận rộn với chiếc điện thoại cầm tay vì họ nhất định phải trả lời cái SMS mới nhất cho bằng được.    

17.7. Việc biểu lộ quả vị Ki-tô có thể đau đớn

Đây là những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô. Thày cũng hiểu đây không phải là những tầng thấp của quả vị Ki-tô. Con không cần tự trách mình khi con phản ứng như vậy. Một lần nữa, con không phải hoàn hảo để biểu hiện quả vị Ki-tô. Ở các tầng thấp hơn, con sẽ gặp một số tình huống, một số thời điểm, khi con là cánh cửa mở và có cái gì tuôn chảy qua con, có thể là một ý tưởng cao hơn, có thể là tình yêu vô điều kiện. Thế rồi bỗng chốc, giây phút huyền diệu đó bị phá vỡ, nếu có thể nói như vậy. Bây giờ con bước ra ngoài, trở về với mức tâm thức bình thường của mình, có nghĩa là con lại sử dụng mức tâm thức bình thường của con để phản ứng lại các hậu quả của việc biểu lộ quả vị Ki-tô. Nói cách khác, con phản ứng lại phản ứng của người khác, không ở mức quả vị Ki-tô con vừa biểu hiện trước đó mà với tâm thức bình thường của con.

Con yêu dấu, điều này không thể tránh khỏi, đó là một phần của con đường quả vị Ki-tô. Con có thể nghĩ chuyện này đã không xảy ra cho Giê-su nhưng hiển nhiên là nó đã xảy ra cho thày. Giê-su đã trải qua một giai đọan vô cùng do dự  biểu lộ quả vị Ki-tô của mình và thày thật nhạy cảm trước phản ứng của mọi người. Con thấy đó con yêu dấu, tất cả các thày đều đã kinh qua giai đọan này và các thày hoàn toàn không muốn khiến con nản lòng. Điều các thày muốn con nhận ra là sự kiện này không thể tránh khỏi. Con phải kinh qua giai đọan tạm thời này khi con xoay vào rồi lại xoay ra khỏi tâm thức Ki-tô, khiến con không thể tránh phản ứng lại trong tâm thức bình thường của mình những hậu quả của việc bày tỏ quả vị Ki-tô.

Điều này có nghĩa là nó có thể đau đớn, và nó có thể khó khăn. Thậm chí con còn có thể cảm thấy mình đã làm gì sai. Con đã quá mạnh mẽ, con đã quá cương nghị, hay con đã quá trìu mến, quá tốt bụng hay bất cứ gì khác. Con cần học cách nhìn xuyên thấu qua điều đó và nhận ra là phản ứng này trong con là một cơ hội để bước lên tầng tâm thức kế tiếp, để vượt qua ảo tưởng gắn liền với tầng tâm thức hiện thời và bước lên một tầng cao hơn nơi con có khả năng thể hiện nhiều quả vị Ki-tô hơn. Và khi con trở nên ý thức về quá trình này, con có thể mau chóng thực hiện cuộc xoay chuyển qua đó con không còn tự trách mình nữa, con không còn tự mắng mỏ, con không còn cảm thấy mình bất toàn. Con chỉ đơn giản nhận rõ sự thật tuyệt đối mà thật ra các thày đã cố truyền đạt cho con qua bộ sách về con đường tự điều ngự.

17.8. Phản ứng ở mức tâm thức của con

Trong quyển sách thứ sáu [Những Khai ngộ Thần bí về An bình], thày Nada đã nỗ lực hết sức giúp con nhìn ra là trên đường tu sẽ tới một điểm khi con nhìn nhận là con chưa đạt đến tầng tâm thức cao nhất. Con sẽ nhìn nhận là con đang ở tầng 87 chứ không phải tầng 144. Không ai đòi hỏi con phải có khả năng đối phó với cuộc sống trên địa cầu như con có thể làm ở tầng 144. Việc con phản ứng lại cuộc sống với tâm thức của tầng 87 – hay bất kỳ tầng nào khác ở chỗ con đang đứng – cũng hoàn toàn tốt thôi, hoàn toàn chấp nhận được từ các thày là chân sư thăng thiên.

Các thày không bao giờ đòi hỏi hay chờ đợi con phải phản ứng với một tầng cao hơn. Các thày không bao giờ lên án con vì con không phản ứng ở tầng cao hơn. Thày thừa biết đã từng có một số lời dạy và tổ chức của chân sư thăng thiên tạo ra một nếp văn hóa trách móc mọi người là không toàn hảo. Một lần nữa, các thày phải khởi đầu ở một điểm nào chứ.

Nhưng con có tiềm năng bước lên một mức nơi con có thể, theo một nghĩa nào đó, làm hòa với chính con người mà con đang là ngay bây giờ. Điều này không có nghĩa là con ngừng tăng triển và đi vào tâm thái nghĩ rằng: “À thế là tôi vô ngã rồi, tôi toàn hảo rồi, tôi không cần tăng triển nữa, tôi không cần xem xét bản thân nữa.” Con có thể làm hòa với sự kiện con đang đứng ở tầng tâm thức này, thay vì tự trách móc hay cảm thấy mình bị chậm trễ và đúng lý mình phải ở tầng cao hơn.

Các thày không muốn con sống hết kiếp đầu thai này mà cứ không ngừng cảm thấy mình còn tụt hậu, mình chưa đủ tốt. Con đang tốt đủ ở tầng tâm thức mà con đang đứng, và con không có lý do gì để lên án chính mình đã phản ứng ở tầng tâm thức này, thậm chí phản ứng lại việc mình đã biểu lộ quả vị Ki-tô cùng cách phản ứng của người khác.

Phản ứng của con, khi con sẵn lòng xem xét nó, là cơ hội để con nhìn ra ảo tưởng ở tầng hiện thời của con rồi vươn lên tầng kế tiếp. Đường tu luôn luôn đã từng là như vậy và sẽ luôn luôn là như vậy. Cũng y như vậy 2000 năm về trước khi Giê-su tiến gần đến tầng 144. Và cũng sẽ là như vậy cho tất cả chúng ta là những người đã từng hiện thân. Điều này sẽ không thay đổi chừng nào địa cầu chưa là một hành tinh tự nhiên. Tất nhiên là có thể có một sự chuyển đổi khi tầng tâm thức thấp nhất hiện thời không còn được phép có mặt trên địa cầu nữa.

17.9. Không có gì không ổn với vật chất

Cơ chế căn bản của đường tu là con đang ở một tầng nào đó. Con phản ứng theo cách như vậy. Bằng việc xem xét phản ứng, con có thể nhìn thấy cái ảo tưởng ở tầng đó hầu con vươn lên tầng kế tiếp. Đó là cơ học căn bản của đường tu tâm linh. Có thể nó có vẻ không hào nhoáng như một số người tưởng tượng, nhưng thày tin tưởng nhiều người trong các con đã tới được điểm nói rằng: “Tôi đã chán chê ảo tưởng rồi, tôi đã chán chê những mơ tưởng hoành tráng, tôi chỉ muốn biết đường tu vận hành như thế nào để tôi có thể tiến bước nhanh nhất, và tôi có thể vượt lên trên những cách phản ứng mất quân bình, tiêu cực, tự trách đó, và cảm thấy an bình khi ở đây.”

Nói cho cùng, con yêu dấu, làm thế nào con có thể an bình khi ở đây? À, con cần giải quyết chấn thương nhập đời vì chính đó là điều đã bứng con ra khỏi sự an bình con có trước đó khi con vừa đến đây như một avatar. Một phần trong tiến trình này, ngay cả khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời, là sẽ vẫn còn một ngã tách biệt mà con cần xem xét. Ngã này tùy theo mỗi cá nhân, nhưng đó là ngã tách biệt con đã tạo ra khi con phản ứng lại cõi vật chất, cõi của vật chất, cõi của Mẹ, trong tình trạng nó hiện hữu trên trái đất. Con nhận thấy là trong tư cách một avatar, con đến từ một hành tinh tự nhiên nơi vật chất không dày đặc như thế này. Vật chất ít dày đặc thể hiện qua nhiều cách, nhưng một cách thể hiện là con không gặp phải những loại hậu quả con thấy trên trái đất. Trên một hành tinh tự nhiên, tâm con có quyền năng lớn hơn rất nhiều để thay đổi vật chất, và vật chất cũng sẵn sàng đáp ứng nhiều hơn với tâm con.

Con đã quen với việc mình có thể phạm vào cái con gọi là lỗi lầm. Nó có tạo ra một hậu quả vật lý nhưng khi con sẵn lòng đứng lui lại và thay đổi tâm thức, thì con có khả năng tháo gỡ và hoàn nguyên hậu quả vật lý đó. Nhưng khi con bước xuống trái đất và nhận ra là mình có thể làm một chọn lựa tạo ra một hậu quả vật lý và con không thể khắc phục hậu quả đó cho đến mãn kiếp đầu thai này – và thậm chí nó có thể đeo đuổi con trong cả những kiếp sau – thì con bị cú sốc. Con bị chấn động thấy vật chất dày đặc đến như vậy.    

Con hãy lưu ý là điều này không liên quan gì đến sa nhân cùng chấn thương nhập đời mà chúng đã áp đặt lên con. Đó chỉ đơn giản là phản ứng của con trước độ dày đặc quá đỗi của vật chất trên địa cầu, đến độ con có thể gây ra hậu quả mà con không thể dễ dàng tháo gỡ và nó sẽ dây dưa rất lâu. Điều này tạo ra một cái ngã tách biệt phản ứng, qua đó con thường xuyên rơi vào một phản ứng tiêu cực đối với cõi Mẹ. Con thường cảm thấy là con không thể thoải mái, con không thể an bình trong cõi Mẹ, rằng có một cái gì không ổn với cõi Mẹ, rằng cõi Mẹ không được như vậy.

Con cần bước tới cuộc xoay chuyển cách mạng là con sẵn lòng nhìn vào vấn đề đó và thực sự chấp nhận hành tinh địa cầu như một công cụ giáo huấn cho một bực thang tâm thức nhất định. Cho nên để cung cấp cho con người những bài học mà họ cần học, vật chất cần phải dày đặc như nó vốn dày đặc. Vật chất cần phải ù lì đối với tâm con người như nó vốn ù lì. Bởi vì nếu không, tuyệt đại đa số loài người trên trái đất sẽ không học được bài học của mình.  

Tuy nhiên, là một avatar, con không phải học cùng những bài học mà hầu hết mọi người khác trên địa cầu phải học. Do đó con có khả năng khắc phục, nhưng con sẽ chỉ có thể khắc phục nếu con sẵn lòng nhìn vào vấn đề, nếu con sẵn lòng bước tới điểm con chấp nhận chẳng có gì là không ổn với vật chất.

17.10. Phản ứng của con đối với vật chất

Chính phản ứng của con đối với vật chất đã khiến con nghĩ vật chất có gì đó không ổn. Cho nên việc giải quyết ngã tách biệt này là trách nhiệm của con. Chỉ khi nào con làm vậy thì con mới có thể tự do đón nhận sự hiện thân của mình trong cõi vật lý.

Để vươn lên cao hơn một mức quả vị Ki-tô nào đó, con phải an bình với sự kiện mình ở trong hiện thân vật lý. Vào thời của Giê-su, việc này khó thực hiện hơn rất nhiều, và đó là vì sao ngay cả Giê-su cũng không làm được hoàn toàn. Trong thời đại hôm nay, các con có tiềm năng đó. Đối với những ai trong số các con muốn ở lại trong hiện thân để đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain, điều vô cùng quan trọng là con đạt tới điểm khắc phục được mong muốn thoát ra khỏi nơi đây. Con khắc phục cảm giác là có gì không ổn khi vật chất đang là cái nó là. Con chấp nhận có mặt ở đây, con chấp nhận vật chất như nó vốn là.

Tất nhiên, làm sao con có thể chấp nhận vật chất như nó là nếu con không chấp nhận chính con một cách trọn vẹn, và làm sao con có thể chấp nhận mình trọn vẹn nếu con không vượt qua chấn thương nhập đời? Con thấy tất cả đều ăn khớp với nhau như thế nào. Con thấy tại sao các thày đã không ban ra giáo lý về Sứ vụ Thiêng liêng trước khi đưa ra giáo lý về chấn thương nhập đời. Khi con là một avatar, tất cả mọi thứ, con yêu dấu, đều xoay quanh chấn thương nhập đời. Như trong thành ngữ thông dụng, đó là con voi to tổ bố nằm chình ình ở đó mà không ai muốn nhắc tới. Có điều, tất nhiên, ngã gốc của con không phải là một con voi và nó cũng không to tổ bố. Nó chỉ là một cái ngã gần như không thực, không đến nỗi khó giải quyết như con tưởng. Đây chỉ là vấn đề sử dụng các dụng cụ, sử dụng các bài tập mà thày đã cho con, để con bước xuống thật sâu qua các khu vườn, rồi bước vào rạp hát và đơn giản nhìn thấy nó [Bài tập này có trong sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]. 

Một khi con xoay chuyển khỏi ngã gốc, con sẽ ngạc nhiên sao chuyện này có vẻ dễ đến thế. Dĩ nhiên, các thày hiểu rõ là con không thể cưỡng ép bằng tâm vỏ ngoài. Con không thể dùng ngã gốc để xoay chuyển ra khỏi ngã gốc.

17.11. Tiếp tục dùng các dụng cụ

Cách con nhìn mọi thứ trên địa cầu, cách con nhìn giáo lý, là xuyên qua phin lọc của ngã gốc. Đó là tại sao các thày đã ban cho con những lời dạy có dụng ý đánh gạt tâm vỏ ngoài của con. Đó là tại sao các thày đã cho con những bài tập có khả năng lần hồi dẫn con tới điểm con có thể thực hiện xoay chuyển đó và nó xảy ra một cách tự nhiên. Con phải sẵn lòng áp dụng các dụng cụ, đi qua nguyên tiến trình. Con phải sẵn lòng mở tâm ra để nhìn thấy một điều gì mà con chưa thấy trước đây, thậm chí thấy cả ngã gốc. Con cần nhận thức là trong cương vị cái Ta Biết, con có khả năng tách mình ra khỏi ngã gốc, và đó là cách duy nhất con có thể thấy nó từ bên ngoài. Đó là cách duy nhất để con thấy nó. Con có các dụng cụ rồi nhé.  

Một lần nữa, con yêu dấu, đừng rơi vào phản ứng bảo rằng: “Ồ, Mẹ Mary nói chúng ta có tất cả dụng cụ nhưng tôi vẫn không thể nhìn thấy ngã gốc. Tôi đang làm gì sai đây?” Đó chính là ngã gốc đang nói chuyện đấy. Một lần nữa, hãy tiếp tục dùng các dụng cụ. Con yêu dấu, nếu con đã mang ngã gốc trong hai triệu năm qua, con không phải tự trách oán nếu con không thể giải tỏa nó trong vòng một tuần sau khi nhận được lời dạy. Có thể con sẽ tốn thời gian, nhưng lâu hay chậm sẽ chẳng quan trọng gì miễn là nó xảy ra. Miễn là nó xảy ra trong kiếp này thì con đã đột phá và hoàn thành tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của con như một avatar. 

Với lời này, con yêu dấu, thày muốn tỏ lòng biết ơn đến tất cả các con đã đến tham dự hội nghị này. Không có nghĩa là thày sẽ niêm hội nghị vì đức Phật sẽ làm việc đó, nhưng thày muốn bày tỏ lòng biết ơn của Mẹ đối với sự sẵn lòng của các con, không những đã đến tham dự mà còn sẵn lòng áp dụng giáo lý mà các thày đã ban truyền qua bộ sách về ngã gốc, vân vân.

Chắc chắn nếu không có một túc số tới hạn những đệ tử – cả những người có mặt ở đây lẫn những người không có mặt – đã tu tập những lời dạy này, thì các thày đã không thể đưa ra những gì vừa được đưa ra. Thày tin tưởng các con sẽ nhận diện đây là một bước cao hơn. Chắc chắn đây là một bước cao hơn tất cả những lời dạy khác mà con có thể tìm thấy về khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng. Nó sẽ tạo uy lực cho nhiều người đột phá lên tầng cao hơn rồi nhờ vậy hoàn thành tiềm năng cao nhất của mình. Các thày rất biết ơn đã có thể ban truyền các dụng cụ này. Tất nhiên là các thày đã luôn luôn có thể làm vậy, nhưng các con cũng bắt đầu nhận ra – phải vậy không? – là các thày không thể đưa ra hết những gì mình có. Phải có một tiến trình tương tác qua lại, qua đó chỉ khi nào con người chấp nhận và áp dụng một lời dạy thì các chân sư mới có thể đưa ra lời dạy cao hơn.

Đối với những ai đã có, thì nhiều hơn sẽ được trao cho họ. Đó chính là nguyên tắc của việc nhân ta-lăng lên gấp bội. Các thày biết ơn các con đã nhân ta-lăng để các thày cũng có thể nhân nỗ lực đem lại nhiều hơn. Chẳng phải đây là một điệu vũ tuyệt vời hay chăng?  

19 | Rút không gian khỏi một số điều kiện mất quân bình

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 21/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Một vị Phật có thể thêm gì cho cuộc thảo luận về Sứ vụ Thiêng liêng? Có thể có một vài đệ tử của chân sư thăng thiên mang trong Sứ vụ của mình tiềm năng biểu hiện ít nhất một mức độ nào đó của quả vị Phật trong kiếp này. Tuy nhiên, nhiều người đã sẵn sàng biểu hiện quả vị Phật từ các kiếp trước sẽ không cần đến một lời dạy vỏ ngoài, họ sẽ không đi tìm một giáo lý vỏ ngoài hay một vị thày vỏ ngoài. Dẫu sao, thày sẽ vẫn trao cho con một vài ý nghĩ về sự khác biệt giữa quả vị Phật và quả vị Ki-tô.

19.1. Hơi thở ra và hơi thở vào

Mặc dù cách đây không lâu các thày đã có đề cập ở một mức độ nào đó, điều thày muốn trình bày ở đây là quả vị Ki-tô là một hoạt động hướng ngoại hơn. Quả vị Phật là một hoạt động hướng nội hơn. Con có thể nói quả vị Ki-tô là hơi thở ra và quả vị Phật là hơi thở vào. Khi con đến hành tinh này trong tư cách avatar, con ở giai đoạn quả vị Ki-tô. Theo một nghĩa nào đó, con thở ra chính bản thân con để hiện thân trên trái đất.

Nhiều các con hiện đang ở trong giai đoạn hướng nội. Theo một nghĩa nào đó, tất cả các con đều ở trong giai đoạn hướng nội khi con lại hít vào chính bản thân mình cho thoát khỏi đủ loại vướng mắc với thế gian này. Đúng là một số các con, như đã nói, có thể chọn ở lại trong đầu thai hầu đóng góp cho Thời đại Hoàng kim của Saint Germain. Tuy vậy, để đạt tới điểm có khả năng hoàn thành tiềm năng đó, con đang đi qua giai đoạn thở vào, con đang rút mình ra khỏi các vướng mắc vào các hoàn cảnh nghiệp tạo, lựa bỏ ra những điều đang khiến con xao lãng Sứ vụ Thiêng liêng của mình, và trước tiên hết, giải quyết chấn thương nhập đời của con để ở trong một tâm thái trung hòa.

Chúng ta có thể nói, theo một nghĩa nào đó, rằng quả vị Phật và quả vị Ki-tô có thể đơn giản được xem là những cấp độ khác nhau của cùng một quá trình tiến hóa. Như các thày đã giảng nhiều lần, con không cần phải toàn hảo để biểu hiện quả vị Ki-tô. Toàn hảo nghĩa là gì? Theo một nghĩa nào đó, nó có nghĩa là con không cần phải giải quyết hoàn toàn tâm lý của con, kể cả chấn thương nhập đời, để bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô. Điều các thày đã bày tỏ là con không nên sợ biểu lộ quả vị Ki-tô, và con cần khởi sự làm vậy mà không nghĩ mình đã đạt đến một giai đoạn tối hậu nào đó. Tất nhiên cũng thế, quả vị Phật – bất kể những gì đã được tôn giáo đạo Phật phóng chiếu ra – cũng không phải là giai đoạn tối hậu. Các thày đã nói, không có gì xảy ra trên trái đất là tối hậu. Ngay cả cõi thăng thiên cũng mang tính liên tục không ngừng, thì làm sao bất cứ gì có thể là tối hậu được? Làm sao sự giác ngộ có thể tối hậu? Làm sao niết bàn có thể là một trạng thái bất biến?

Sẽ tới một điểm khi con đã giải quyết một phần rất lớn của tâm lý mình, kể cả chấn thương nhập đời cùng các ngã tách biệt của con. Con sẽ có thể gọi đó là các giai đoạn cao hơn của quả vị Ki-tô, vì khi đó trong bốn thể phàm của con có rất ít lực kháng cự lại ánh sáng đang tuôn chảy xuyên qua con. Đây cũng là điểm khi con – một số các con, không phải tất cả, vì nhiều người trong các con vẫn muốn năng động trong xã hội – con bắt đầu dời chuyển nhiều hơn vào tâm thức Phật, sự nhận biết của Phật.

19.2. Phật năng động như thế nào

Không phải là Phật không thể năng động trong xã hội. Có lẽ Phật tìm ra một cách khác để năng động trong xã hội. Đây là một điều rất vi tế, rất cá nhân. Con có thể nhìn thấy sự khác biệt trong cuộc đời của Giê-su khi thày hướng ngoại, thày bước ra ngoài, thày gặp mọi người, nhiều khi còn đối đầu với những người đó, trong khi chính Phật đây thì lại thiết lập một đạo tràng và để mọi người đến với Phật. Phần nào, đây là sự khác biệt giữa hai cách tiếp cận.

Theo một nghĩa nào đó, Ki-tô bước ra ngoài cũng giống như khía cạnh hướng ngoại của Thượng đế Cha, giai đoạn lan ra. Còn Phật thì giống như Mẹ, giai đọan hướng nội, co lại. Hơi thở ra và hơi thở vào.

Một số các con sẽ đến một điểm khi con bắt đầu ngộ ra là những gì con làm bên ngoài không còn thật sự quan trọng nữa. Điều này không có nghĩa là con phải rút lui ra khỏi cuộc sống năng động ngoài xã hội, thiết lập một đạo tràng hay sống ở nơi hẻo lánh. Con vẫn có thể sống một “cuộc đời bình thường”, có gia đình, có công ăn việc làm, có một sự nghiệp nào đó, nhưng con làm vậy một cách khác.

Con ngộ ra là các hoạt động vỏ ngoài đó không quy định được con. Chúng không thu hút toàn bộ sự chú ý của con. Nhiều khi trong giai đoạn quả vị Ki-tô, con vô cùng tập trung vào công việc mình đang làm và toàn bộ chú ý của con bị lôi kéo vào đó. Như thể con mê mải trong hoạt động. Khi con đạt đến quả vị Phật, gần như có thể nói là con tham gia vào hoạt động nhưng có một phần trong tâm con không bị hấp thu vào đó.

19.3. Tôi đang ở tầng tâm thức nào?

Vậy thì làm thế nào con đến được giai đoạn đó? Về điểm này, thày muốn khai triển thêm những gì Mẹ Mary vừa giảng về nhu cầu làm hòa với việc mình hiện thân, làm hòa với cõi Mẹ, làm hòa với quyền tự quyết, làm hòa với trình độ tâm thức hiện thời của mình. Có thể sẽ tới một điểm con không còn nghĩ tới chuyện: “Tôi đang ở tầng tâm thức nào đây?”

Con biết đây là một quá trình không ngưng nghỉ. Con biết con đang làm hết sức để nâng cao tâm thức mình. Con không quan tâm đến chuyện con đang đứng nơi đâu trên thang điểm. Con cố gắng mà không cố gắng. Con không đang vật lộn. Thậm chí con không có cả mục tiêu. Con không ở trong một tâm thái so sánh.

Con đang, như các thày đã diễn tả bằng ngôn từ, xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Con đang xuôi chảy với cuộc sống. Con không có cả một mục tiêu rõ rệt để cố hướng tới. Con không có cả một tầm nhìn sáng tỏ về một Sứ vụ Thiêng liêng dường như đang chỉ ra cho con những bước đi mà con phải bước để đạt tới một mục tiêu nhất định. Con gần như chảy theo cuộc sống, và cho dù tình huống nào có ngóc đầu lên, con cũng không quyết định bằng tâm vỏ ngoài là mình sẽ làm gì. Con chỉ trực nhận rồi con làm theo.

19.4. An bình trong mọi hoàn cảnh

Để thực sự đến được giai đoạn này, con phải thực hiện một trong những cuộc xoay chuyển cách mạng đó, là con an bình với bất kỳ hoàn cảnh nào mình gặp. Có một giai đoạn của quả vị Phật khi con có khả năng thị hiện những hoàn cảnh vỏ ngoài mà con mong muốn. Nhưng để đến được giai đoạn đó, con phải kinh qua một giai đoạn tạm thời, là con nhìn nhận con sẽ không bước qua một tình huống cho tới khi con có thể ở trong tình huống mà không bị dính mắc và nhờ vậy được an bình. Con đã làm hòa với tình huống.

Một khi con giải quyết chấn thương nhập đời và chấp nhận quyền tự quyết, con sẽ có thể làm hòa với bất kỳ hoàn cảnh nào. Con không có vết thương cá nhân nào mà con đang cố bênh vực hay đền bù. Cho nên con có thể để cho mọi người tự do đi vào bất cứ tâm thức nào mà họ đi vào, và họ tự do trải bày ra bất cứ gì họ đang trải bày. Điều này không có nghĩa là nếu người ta hành xử một cách mất quân bình và không chịu thay đổi thì con phải ở lại trong hoàn cảnh đó. Nhưng con cũng không chạy trốn khỏi hoàn cảnh để che chở các vết thương riêng của con.

Con có thể tới điểm con tự nhủ: “Liệu tôi có thể ở trong hoàn cảnh này mà vẫn an bình?” Có, con có thể. Con nhận ra là con có thể. Con đã đạt đến một mức độ toàn vẹn, không dính mắc, nơi con có thể an bình trong hoàn cảnh đó cho dù người khác không an bình. Một khi con đến được chứng ngộ này, con có thể đi bước kế tiếp và tự hỏi: “À, nhưng sự kiện tôi có thể an bình trong tình huống này có nghĩa chăng là tôi muốn ở lại trong tình huống?” Rồi con có thể chọn bước ra khỏi tình huống. Việc này có thể làm phiền người xung quanh vì rất có thể con sẽ không đưa ra được một lý do mà họ có thể hiểu, lý do tại sao con lại bước ra khỏi tình huống đó. Con chỉ đơn giản bước ra.

19.5. Vấn đề giải thích

Con yêu dấu, điều gì đã cầm chân nhiều người không đạt được cái mà các thày gọi là sự không dính mắc của Phật? Đó là họ cảm thấy họ cần phải thực hiện hay phải sống đúng theo một tấn tuồng nào đó, một truyện kể nào đó trong tâm họ. Các thày đã có giảng về những tấn tuồng cuồng đại. Nhiều người trong số các con vẫn còn mang cái ngã tách biệt đã dựng lên một hình ảnh về con người tâm linh mà con phải là. Một phần trong đó là con có một ngã tách biệt cảm thấy cho dù con có làm gì hay chọn làm gì, thì con phải có khả năng đưa ra một lời giải thích tại sao con làm vậy – đặc biệt một lời giải thích phải hữu lý đối với ngã tách biệt đó, có lẽ đối với người khác và thậm chí đối với cả sa nhân.

Nói cách khác, con có một vấn đề giải thích. Con có một cái ngã cảm thấy con phải có thể tự biện hộ, con phải có thể giải thích động lực của con, lý do con làm việc con đang làm. Điều này dính liền với ý tưởng một tấn tuồng cuồng đại hay một cốt truyện mà qua đó như một người tâm linh, con làm một số chuyện và không làm một số chuyện khác. Và con làm những gì con đang làm vì một lý do đặc thù chứ không phải một lý do nào khác. Chắc chắn con không thể làm bất cứ gì mà không có khả năng giải thích lý do tại sao con làm.

Nhiều người không thể bước vào sự không dính mắc của Phật vì ngay trong tâm họ có một câu chuyện phải trải bày ra, họ mang tấn tuồng cuồng đại đó, họ mang cái nhìn đó về một người tâm linh. Họ cảm thấy phải luôn luôn sống trọn với câu chuyện đó, và nếu không làm vậy được thì họ phải có thể giải thích tại sao. Ngay cả khi họ có những quyết định nằm trọn trong hình ảnh của họ thì họ vẫn phải có thể giải thích tại sao họ làm vậy.

Các thày đã nói về điều gì? Về việc con làm cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con, nhưng Hiện diện TA LÀ ngụ ở cõi tâm linh. Hiện diện TA LÀ có thể có một động lực để biểu đạt một điều gì đó xuyên qua con. Liệu động lực này có thể biểu đạt qua ngôn từ, đặc biệt những ngôn từ mà một mức tâm thức thấp hơn có thể hiểu được? Các thày đã nói đến việc biểu lộ cá thể Thiêng liêng của con. Cá thể này nằm vượt ngoài thế gian này. Con có nhất thiết đưa ra được một lời giải thích hợp lý, thường tình, dựa trên thực tế và nhân quả về lý do tại sao con biểu đạt một điều gì đó hay không?

19.6. Cái nhìn tổng thể của con về cuộc sống

Con yêu dấu, có những đệ tử tâm linh, đặc biệt trong thế giới Tây phương, đã tiến bộ đáng kể. Những đệ tử này đã sẵn sàng biểu hiện một tầng mức nào đó của quả vị Phật nhưng họ vẫn chưa khắc phục được ngã tách biệt đó. Nếu con đã lắng nghe những gì các thày nói thì điều các thày thực sự muốn nói là con thử để ý xem có hai tiến trình diễn ra song song trên đường tu tâm linh của con. Có một tiến trình mà các thày đã giải thích, cụ thể là con mang trong bốn thể phàm của con một số vết thương hay chấn thương. Điều này đã tạo ra các phàm linh nội tại, các ngã tách biệt và ngay cả ngã gốc – vẫn chỉ là một ngã tách biệt trong số nhiều ngã khác – và những thứ này nằm trong bốn thể phàm của con. Để hóa giải chúng và được tự do, con phải thực hiện một khía cạnh gần như máy móc là thỉnh cầu năng lượng sẽ biến hóa năng lượng cấu tạo chúng. Con cũng phải làm công việc ý thức là đi sâu vào chúng, nhìn ra niềm tin hay ảo tưởng làm nền tảng cho chúng, rồi một cách ý thức, con chọn một thực tại cao hơn.

Bây giờ điều các thày đang nói là cho dù con đã làm những công việc đó, có thể vẫn còn một cái ngã tách biệt được tạo ra, chẳng hạn, trong khi con bị chi phối bởi chấn thương nhập đời cùng ngã gốc của con. Ngã tách biệt này giờ đây có một cái nhìn về thế nào là con người mà con phải là, thế nào là một người tâm linh mang chấn thương nhập đời đó. Cho dù con đã giải quyết chấn thương nhập đời, con cũng cần giải quyết cái ngã tách biệt đang cầm giữ hình ảnh cho rằng con phải là người như thế nào.

Con cũng có thể diễn tả điểm này một cách khác, cụ thể là có một tiến trình giải quyết tất cả những thứ kia – có thể nói là các chấn thương, vết thương, ngã tách biệt, phàm linh nội tại giống như những thỏi nam châm đang thu hút nhận thức của cái Ta Biết, đang thu hút sự nhận biết cho nó đồng hóa với chúng. Đây là những cái gì rất đặc thù, cá biệt. Nhưng vượt ngoài những thứ đó ra còn có cái nhìn tổng thể của con về cuộc sống. Suốt thời gian dài con từng đầu thai, rất có thể là ở một tầng cấp nào đó, con đã mang những vết thương, chấn thương, ngã tách biệt đó. Nhưng có một tầng cấp khác nơi con đã tạo dựng một cách nhìn tổng thể về cuộc sống trên địa cầu và cách con nhìn chính mình trong quan hệ với cuộc sống trên địa cầu.

Đó là một cái ngã tách biệt, nhưng có lẽ sẽ hữu ích nếu con nghĩ bao quát hơn và thấy đó là cái nhìn tổng thể của con về cuộc sống. Nhiều người trong các con, đặc biệt nếu con đã lớn lên trong thế giới Tây phương, mang một tư duy rất đường thẳng cho rằng luôn luôn có nhân và có quả. Đối với con, điều này có nghĩa là mỗi khi con làm việc gì thì đó là quả. Vi vậy con phải có một lý do mà con có thể giải thích cho người khác, đặc biệt những ai bị tác động bởi việc làm của con. Con cũng phải có một lý do mà con có thể giải thích cho chính mình, kể cả tâm vỏ ngoài, thậm chí các ngã tách biệt của con. Nếu con không thể giải thích thì nhất định sẽ có một ngã tách biệt nào đó, có lẽ mấy cái ngã tách biệt, sẽ chất vấn việc con đang làm, có lẽ còn buộc tội con đã làm gì sai trái.

Cũng có thể có những người khác và tất nhiên là sa nhân cũng đang truyền bá trong tâm thức tập thể cách nhận thức chung chung là con luôn luôn phải có một lý do, và lý do này phải thỏa đáng theo một tiêu chuẩn nhất định. Nếu con là người Công giáo thì có những điều người ta chờ đợi con phải làm. Nếu con không làm hay làm cách khác, con phải có khả năng giải thích – và nếu thế, may ra con vẫn được phép làm vậy. Chắc chắn nếu con làm điều gì không thể chấp nhận và con không thể giải thích, thì con sẽ bị lên án. Điều tương tự cũng xảy ra trong hầu hết mọi môi trường khác trên địa cầu, ngay cả các tổ chức tâm linh và Thời Mới, thậm chí – như các thày đã đề cập – các tổ chức của chân sư thăng thiên trong quá khứ đã có một xu hướng phán xét lẫn nhau vô cùng mạnh mẽ.

Điều thày muốn nói là sẽ tới một điểm khi con bắt đầu bước vào quả vị Phật, con có thể được lợi lạc nếu con xem xét quá trình này, xem xét cái nhìn tổng thể của con về cuộc sống. Sau đó con sẽ có thể nói: “À, có một khái niệm là khi tôi làm việc gì, tôi phải có một lý do mà tôi có thể giải thích, nhưng tại sao tôi phải làm vậy chứ? Tại sao tôi phải tự biện hộ? Tôi là một sinh thể độc lập với quyền tự quyết y như mọi người. Tôi gần như hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết của người khác. Chẳng phải là tôi cũng phải hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết của tôi hay sao, và như vậy tôi có thể nói là tôi không có bổn phận giải thích tại sao tôi làm? Thậm chí tôi không cần giải thích cả cho chính mình. Nếu tôi hành động theo sự thôi thúc từ Hiện diện TA LÀ của tôi, tại sao tôi phải biện minh và giải thích để tâm đường thẳng có thể nhét nó vào hệ thống tin tưởng mà nó đã bị nhồi sọ trong kiếp này lẫn nhiều kiếp trước? Tôi chẳng có thể nhìn vào tâm này hay sao, xem nó là một ngã tách biệt, và hơn thế, còn xem nó là một cái nhìn tổng thể về cuộc sống mà tôi đã bước vào?” Rồi con nói: “Tôi không muốn tuân theo thế giới quan này, hệ thống tin tưởng này nữa. Tôi không muốn đóng vai trong tấn tuồng cuồng đại này nữa. Tôi không muốn kéo dài truyện kể cá nhân về con người mà tôi phải là trong vũ trụ vật chất này nữa. Tôi sẵn sàng đập tan hàng rào và bước vượt ra ngoài.”

19.7. Cầm giữ không gian trên địa cầu

Đây là những giai đoạn cao nhất của quả vị Ki-tô. Đây là những giai đoạn của quả vị Phật, những giai đoạn sơ khởi. Những ai trong số các con cần đi qua giai đoạn này trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình có thể dùng lời dạy này để nhanh chóng bước qua tiến trình đó. Khi con tới điểm sẵn sàng làm một việc mà con không thể giải thích, không thể biện hộ theo một cách để người khác có thể hiểu và chấp nhận, hay để tâm vỏ ngoài của con có thể hiểu và chấp nhận, thì con sẽ trải nghiệm một tầng cấp tự do mới. Điều này không nhất thiết có nghĩa là con sẽ làm một số chuyện ngông cuồng vỏ ngoài, mà có nghĩa là ở bên trong, con sẽ cảm nhận một tự do mới. Điều này có thể dẫn con đến một giai đoạn khi con suy nghiệm ý nghĩa thực sự của việc là Phật trong hiện thân, hay việc đạt đến một mức độ tâm thức Phật khi con còn đầu thai. Về điểm này, thày sẽ giảng thêm. Mặc dù thày vẫn biết chỉ có một số ít người sẵn sàng nắm bắt được, thày cảm thấy việc truyền rải lời dạy này trong bát cung vật lý là quan trọng.

Người ta bảo rằng đức Phật cầm giữ không gian cho địa cầu. Trách vụ của thày trong Đại đoàn Thăng thiên là Chủ tể Thế gian (Lord of the World) nơi thày ngồi như đức Phật và cầm giữ không gian. Thật khó lòng diễn tả bằng ngôn từ nhưng con có thể nói thế này: Trong Ánh sáng Mẫu-Vật và ngay trong chính không gian, có sẵn một cơ chế khiến cho một số biểu hiện có thể rất nhanh chóng tạo thành một vòng xoắn ốc hướng hạ tự nó tăng cường, và chẳng hạn đối với một hành tinh, xoắn ốc này có thể khiến cho hành tinh tự hủy diệt.

Về cơ bản, ở đây chúng ta có thể nói là nếu không có gì giảm bớt hiện tượng trên thì những hành tinh nơi sa nhân đã đầu thai sẽ rất nhanh chóng tự hủy diệt. Các hành tinh này sẽ rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ và đơn giản sẽ bị năng lượng làm nổ tung. Điều xảy ra trong quá trình này không hoàn toàn giống như quá trình lỗ đen (black hole) nhưng con có thể dùng lỗ đen để minh họa. Con cũng biết là trong một lỗ đen khi con vượt quá một chân trời nhất định, các định luật tự nhiên sẽ ngưng hoạt động. Nói cách khác, nếu một hành tinh bị suy thoái đến mức đó, không gian sẽ co lại và hành tinh sẽ sụp vào bên trong. Vậy Phật làm gì? Phật ngồi đó nơi cõi thăng thiên, cầm giữ sự quân bình tâm linh và ngăn chặn không cho không gian – là không gian trong đó địa cầu có thể tồn tại – bị co lại và sụp xuống để biến thành một điểm dị biệt (singularity).

Chúng ta có thể giải thích điều này cách khác. Mặc dù mọi thứ đều được tạo bằng Ánh sáng Mẫu-Vật (mỗi cấu trúc mà con thấy trên địa cầu đều được tạo bằng Ánh sáng Mẫu-Vật) nhưng không một cấu trúc nào có thể hình thành trừ khi có một khoảng trống để nó hình thành trong đó. Trước khi một hành tinh được các Elohim tạo dựng, trước hết không gian phải được khoanh tròn cái đã, rồi sau đó Ánh sáng Mẫu-Vật mới có thể tạo ra các cấu trúc sẽ lấp đầy khoảng không gian đó. Đức Phật cầm giữ không gian. Các Elohim tạo ra địa cầu, rồi các sinh thể cứ thế mà hiện thân và tùy ý sử dụng địa cầu.     

Ở một thời điểm đã có quyết định là trái đất sẽ là một hành tinh nơi sa nhân được phép đầu thai, cho nên lúc bấy giờ cần đến một sinh thể với tâm thức Phật có khả năng cầm giữ không gian cho trái đất hầu trái đất không bị co sụp lại. Tất nhiên, vị Phật đó không phải là thày vì khi đó thày chưa thăng thiên, nhưng hiện nay đây là trách vụ thày đang đảm nhiệm. Thuở đó có một vị Phật khác cầm giữ không gian, cũng như đã có nhiều vị Phật khác kể từ đó đến nay.

Sẽ tới một điểm khi con đạt được một tầng mức nào đó của quả vị Phật thì con sẽ không chỉ bắt đầu hiểu được khái niệm này một cách trí thức, mà con sẽ bắt đầu trải nghiệm thực tại này bên trong bản thân con. Sau đó con sẽ ngộ ra là khi con đạt đến một mức tâm thức Phật trong khi mình còn đầu thai vật lý, con có khả năng hình thành một dòng chảy hình số 8 với thày, với đức Phật mà thày là. Con thấy đó, trong tư cách là Phật, thày nguyện cầm giữ không gian cho trái đất để tất cả chúng sinh đầu thai trên trái đất có thể làm bất cứ gì họ muốn với quyền tự quyết của họ mà không khiến cho trái đất sụp đổ.

Hiển nhiên, con là một trong những sinh thể đang đầu thai trên trái đất, cho nên con có thể nhận ra một điều sâu xa ở đây. Tại sao trên địa cầu lại có chiến tranh? À, trong nhãn quan rộng lớn, chính thày đang cầm giữ không gian cho phép sa nhân gây chiến. Có phải chỉ sa nhân mới quyết định có chiến tranh trên trái đất? Không, không đâu con. Trên trái đất có chiến tranh là vì loài người đầu thai đang cho phép trong tâm họ, trong bốn thể phàm của họ và trong tâm thức tập thể, có một khoảng không gian nơi chiến tranh có thể hiện hữu.

Nói cách khác, thày đang cho phép không gian tồn tại trong ý nghĩa rộng lớn, nhưng thật ra những gì được biểu hiện trong cõi vật lý đòi hỏi phải có những người đầu thai cung cấp khoảng không gian trong tâm họ để chuyện này xảy ra. Sự kiện thày cầm giữ không gian không có nghĩa là phải có chiến tranh trên địa cầu. Cho nên chiến tranh chỉ có mặt khi những người đang đầu thai cho phép nó xảy ra. Điều con có thể khởi sự làm (khi con đạt đến những tầng đó của tâm thức Phật) là nhìn nhận rằng bởi vì con đang đầu thai vật lý, bởi vì con đã đạt đến mức độ không dính mắc giúp con không còn tìm cách trải bày ra một câu chuyện cá nhân hay một tấn tuồng cuồng đại, cho nên con đang ở trong một trạng thái tâm thức không dính mắc, không ràng buộc. Và vì con không bị ràng buộc cho nên con có sự tùy chọn để quyết định rút lại không gian khỏi một số biểu hiện nhị nguyên.

Thày không khuyên con bắt đầu ngay với chiến tranh vì đó là một vấn đề to lớn, nhưng thày đề nghị con hãy tìm một biểu hiện nào hấp dẫn đối với cá nhân con. Xong con hãy trước hết suy ngẫm điều đó, con rút lại không gian khỏi biểu hiện đó trong bốn thể phàm của con, nhưng sau đó con có thể bắt đầu mở rộng tầm hoạt động, con lần hồi đạt tới điểm con rút không gian khỏi tâm thức tập thể.  

19.8. Một vị Phật có thể làm được bao nhiêu

Thày sẽ nói với con là chỉ một người với tâm thức Phật cũng có khả năng rút không gian khỏi một biểu hiện nào đó – không phải chiến tranh, bởi vì nó sẽ đòi hỏi nhiều người hơn với tâm thức Phật. Nhưng trong các lãnh vực khác không mang động lượng mạnh mẽ, quả thật con có thể rút lại không gian. Chẳng hạn, rất có thể sẽ chỉ cần một người với đủ trình độ quả vị Phật để rút không gian khỏi tệ nạn ấu dâm, có nghĩa là không một kẻ ấu dâm nào sẽ có thể đầu thai trên địa cầu sau thời hạn đó.

Tuy nhiên có một số lãnh vực nơi một vị Phật duy nhất không thể thay đổi tình thế, nhưng bằng cách rút lại không gian, con sẽ tạo dễ dàng cho đủ số người đi đến quyết định: “Chúng tôi không còn muốn biểu hiện này trong xã hội chúng tôi hay trên hành tinh chúng tôi nữa.” Và khi chúng ta ngày càng bước sâu hơn vào Thời đại Hoàng kim, thì nhận thức toàn cầu sẽ ngày càng nâng lên – và con đã bắt đầu thấy sự tăng trưởng này rồi đó, nhưng nó sẽ còn tăng trưởng hơn nữa. Rồi sẽ tới điểm khi loài người nhận ra là những gì chúng ta cho phép biểu hiện trên hành tinh là thẩm quyền quyết định của chúng ta. Đó là lúc một vị Phật đang hiện thân có khả năng rút không gian khỏi một biểu hiện nào đó, và việc này sẽ tạo rất nhiều dễ dãi cho một túc số tới hạn những con người tiến tới quyết định vỏ ngoài: “Chúng ta muốn hành tinh này không còn bóng dáng tệ nạn nô lệ, buôn người, lạm dụng ma túy, hay thao túng nền kinh tế, tất cả những biểu hiện đó.” Và cuối cùng, có thể động lượng sẽ mãnh liệt đến độ sẽ có đủ số người quyết định là chúng ta muốn hành tinh không còn bóng dáng chiến tranh nữa. Điều này có thể xảy ra. Nó sẽ xảy ra.  

Con thấy đó, con yêu dấu, đây là một số lời dạy cho một số các con. Nhiều người trong các con sẽ có thể bỏ nó qua một bên. Nhưng thày đề nghị con đừng bỏ qua cái ý tưởng là tuy con có thể giải quyết ngã gốc cùng các ngã tách biệt khác của con, nhưng vẫn còn thiếu một cái gì, đó là sự xoay chuyển trong thái độ toàn diện của con, trong cách con nhìn chính mình.

19.9. Những người không tiến bước

Nếu con nhìn vào các phong trào tâm linh, con sẽ thấy trong nhiều trường hợp có những người đã tham gia một phong trào, đã đi theo một giáo lý và ngay cả đã áp dụng giáo lý và tu tập một số kỹ thuật suốt nhiều thập niên. Họ có tầm hiểu biết to lớn về đường tu tâm linh, một tầm hiểu biết trí thức và đường thẳng. Thậm chí họ còn có thể dựng lên một nhân cách vỏ ngoài biết “đi đứng đúng điệu, nói năng đúng điệu” và hành xử như một người tâm linh. Vì vậy họ có thể tỏ ra rất tâm linh, hài hòa, cân bằng và tự chủ. Nếu con nhìn với con mắt nội tâm, con sẽ thấy tất cả chỉ là vỏ ngoài. Họ đã không thật sự thay đổi cái nhìn tổng thể về cuộc sống và về chính họ. Thật sự có thể nói là nếu nghĩ theo cách 144 tầng tâm thức, có những người có thể đã theo giáo lý của chân sư thăng thiên hàng 30 năm trời nhưng họ chỉ vươn lên được từ tầng 60 đến tầng 68 chẳng hạn, trong khi họ có tiềm năng vươn lên cao hơn rất nhiều trong thời gian đó. Tại sao họ không lên cao hơn được? Đó là vì cái nhìn tổng thể của họ về bản thân đã không chuyển đổi. Họ đã không sẵn lòng bước qua cuộc xoay chuyển cách mạng đó.

Như thày có nói, có một số người đã không tiến bộ cho dù họ đã làm tất cả những thứ vỏ ngoài. Cũng có một số người khác đã làm tất cả những thứ vỏ ngoài, và một cách nào đó, họ đã chứng đạt một mức tâm thức nào đó, nhưng họ đã không xoay chuyển cái nhìn tổng thể về cuộc sống cho tới mức chấp nhận được là họ đã tiến bộ. Như sứ giả này một số năm về trước đạt tới điểm ông nhận ra là một phần tự ngã của ông muốn cảm thấy mình là một đệ tử tâm linh cao cấp, nó muốn tự hào về chuyện này. Ông nhận ra là để tránh cảm thấy tự hào, ông không dám thừa nhận là mình đã tiến bộ. Ông phải kinh qua một quá trình tự nhủ rằng: “Tôi có tin là các giáo lý tâm linh hiệu nghiệm hay không? À, nếu tôi tin giáo lý hiệu nghiệm và nếu tôi đã áp dụng giáo lý từng nấy năm trời thì tôi đã phải có tiến bộ. Vì nếu giáo lý hiệu nghiệm thì tôi phải tiến bộ. Và nếu tôi không tiến bộ, tại sao tôi cứ mất công áp dụng giáo lý làm gì? Và nếu tôi không tin giáo lý hiệu nghiệm, tại sao tôi lại mất công áp dụng giáo lý? Nếu tôi tin giáo lý hiệu nghiệm và tôi đã áp dụng giáo lý, thì bắt buộc tôi đã phải có tiến bộ. Nhìn nhận điều này có gì sai trái đâu?”

19.10. Chấp nhận con có thể là một công cụ

Ông trải qua một cuộc xoay chuyển khi ông thừa nhận là ông đã có một số tiến bộ, và đó chính là tại sao ông đã có thể đồng ý khi Giê-su đến gần ông và nói: “Con có sẵn lòng làm điều này cho thày không?” Ông đã có thể chấp thuận: “Thưa vâng, có lẽ quả thật con có thể là một công cụ.” Điều này cũng áp dụng cho con. Nhiều người trong các con đã tu tập, đã tiến bộ, nhưng vẫn còn một sự xoay chuyển mà con chưa trải qua cho nên con không thể nhận công việc đó.

Có những đệ tử. mặc dù đã học giáo lý và dường như cũng đã tu tập, vẫn chưa thực sự xoay chuyển tâm thức ở bên trong. Điều họ đã làm vỏ ngoài là họ đã tạo dựng cái nhân cách cho rằng họ là người tâm linh, cho nên họ tưởng là họ đã chứng đạt nhiều hơn thực tế. Song con có một số đệ tử đã kinh qua những bước tiến nội tâm nhưng họ lại có một nhân cách vỏ ngoài không cho phép họ nhìn ra điều đó, cho nên họ không công nhận bước tiến của họ.

Tất nhiên, đa số các con đều thuộc loại đệ tử đã có tiến bộ, con đã tu tập nhưng con chỉ đơn giản không dám nhìn nhận chuyện này. Con đã không dám đứng lui lại để thấy có một loại ngã tách biệt ngăn cản con nhận ra mình đang đứng ở đâu trên đường tu và tiềm năng của con là gì ở mức hiện tại của mình.

Điều này áp dụng cho hầu hết các con. Con có thể được lợi lạc nếu con suy ngẫm điểm này và sẵn lòng xoay chuyển và nhìn nhận: “Tôi là một đệ tử đã tiến khá xa trên đường tu. Tôi đã phần nào trưởng thành. Tôi có một số chứng đạt tâm linh cho nên tôi có khả năng làm cánh cửa mở. Tôi có khả năng phụng sự. Tôi có khả năng vun bồi sự hòa điệu với các chân sư thăng thiên. Tôi biết được bước kế tiếp của tôi trong Sứ vụ Thiêng liêng. Tôi thực sự có khả năng làm gì đó trên địa cầu, không phải vì tôi là tác nhân mà vì tôi có thể đồng sáng tạo với Hiện diện TA LÀ của tôi và cống hiến một cái gì chính đáng, có giá trị, đáng trân trọng, xây dựng và tốt đẹp.”

Bao nhiêu người trong các con đã dám nhìn nhận điều này nơi bản thân mình? Con yêu dấu, Thánh linh, Hiện diện TA LÀ của con, các chân sư thăng thiên, tôn trọng quyền tự quyết của con. Nếu con cứ nhất định bám giữ một cái nhìn hạn chế về chính mình, tất nhiên các thày sẽ không áp đặt lên con và buộc con làm cánh cửa mở. Các thày không thể đạp cửa cho nó mở ra, mà chỉ có con mới có thể mở cửa. Nhiều các con có khả năng làm cuộc xoay chuyển này rất nhanh chóng, con chỉ cần cả gan chấp nhận là mình đang ở một mức của đường tu – thật không quan trọng đó là mức nào – nơi con có thể là cánh cửa mở một phần nào đó. Thế thì con hãy dám đảm nhận điều này, hãy dám biểu lộ nó. Con hãy bình an với nó. Bình an với bất kỳ phản ứng nào mà con có thể nhận từ môi trường chung quanh.

Con yêu dấu, đây là bài giảng mà thày đã muốn đem lại. Thày cũng muốn cảm ơn con đã có mặt ở đây. Thày bày tỏ lòng biết ơn đối với những ai sẽ học hỏi những lời dạy này, áp dụng lời dạy, áp dụng các dụng cụ và như vậy bắt đầu nắm bắt được các khía cạnh cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của mình và cả gan đem ra thực hiện. Với lòng biết ơn của Phật, thày niêm con và thày cũng niêm hội nghị này. Bình an của thày sẽ luôn luôn ở bên con – bất cứ khi nào con muốn!

7 | Quả vị Ki-tô và Sứ vụ Thiêng liêng

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 20/5/2018 nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày mong muốn nói chuyện với con về đề tài quả vị Ki-tô và mối liên hệ với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Các thày đã giảng dạy cho con về điều mà chúng ta có thể gọi là “giai đoạn công phu” (work phase) trong Sứ vụ của con. Khi con bước vào kiếp đầu thai – nếu con là một học trò tâm linh già dặn – con biết là con có một số công việc cần làm liên quan đến việc cân bằng nghiệp quả, thu nhận sáng ngộ và kinh qua những trải nghiệm sẽ xoay chuyển tâm thức của con. Là một học trò tâm linh chín chắn hơn, thường khi con sẽ dự định hoàn tất sớm sủa giai đoạn công phu này trong đời mình hầu con có thể tiến bước tương đối nhanh chóng và chuyển sang các giai đọan khác của Sứ vụ Thiêng liêng.

7.1. Làm cho xong giai đoạn công phu

Điều xảy ra khá thường là trong những thập niên đầu trong đời, các con thường rất bận rộn, miệt mài trong các mối quan hệ, trong việc nuôi con, kiến tạo sự nghiệp, bỏ sức ra làm việc… tất cả những thứ đó. Như thể đó là một chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (obsessive compulsive) mà qua đó con cảm thấy mình phải làm tất cả những thứ đó và phải làm ngay lập tức. Thật ra đó cũng không đến nỗi là ám ảnh vì đơn giản con chỉ mong muốn làm cho xong hầu con có được tâm trí minh mẫn, có lẽ một cơ hội trong hoàn cảnh vỏ ngoài của mình, để con tập trung nhiều hơn vào các giai đoạn sau.

Đối với đa số các con, một cách để cân bằng nghiệp quả là qua các mối quan hệ. Đó là tại sao con thường thấy người ta lập gia đình khá sớm và cũng có con khá sớm. Có thể con sẽ có nhiều hơn một mối quan hệ. Đó có thể là những quan hệ rất nồng nàn mãnh liệt. Đây là một trải nghiệm con muốn kinh qua nhanh chóng. Con rất muốn bước qua nhanh chóng mặc dù con không hiểu điều này một cách ý thức.

Đối với nhiều người, một giai đoạn khác sẽ đến, thường là khi con tìm ra một giáo lý tâm linh. Con nhận ra là có một con đường tâm linh và con cất bước trên con đường đó. Rất nhiều người cũng trở nên vô cùng nhiệt tình và chuyên tâm khi bước đi trên con đường này. Cho dù giáo lý tâm linh là gì, họ cũng học tập một cách háo hức, thực hành bất kỳ dụng cụ hay kỹ thuật nào được ban truyền. Gần như có thể nói là họ làm vậy một cách ám ảnh cưỡng chế, bởi vì đây là điều họ cần làm để vươn lên một mức tâm thức cao hơn, một tầng cao hơn trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

7.2. Không cần tiếc nuối

Một kết luận con có thể rút tỉa từ hiểu biết trên là tất cả các con tuyệt đối không có lý do gì để cảm thấy bất kỳ loại tiếc nuối hay cảm giác tiêu cực nào về những điều mình đã kinh qua trong đời mình. Con có thể nhìn lại đời con và con có thể xét đoán với tâm vỏ ngoài là rất nhiều chuyện con đã kinh qua không hẳn là tâm linh. Những chuyện đó không mấy hài hòa mà lại quá sôi nổi, nồng nhiệt. Con có thể nhìn lại rồi tiếc nuối: “Ước gì tôi đã không làm điều đó.”

Con yêu dấu, tại sao con làm những việc con đã làm? Con đã kinh qua trải nghiệm đó vì đó là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Cho dù nó mang ý nghĩa gì đối với cá nhân con, con đã cần đến trải nghiệm đó để hoàn tất cái mà các thày gọi là giai đoạn công phu trong Sứ vụ Thiêng liêng. Các thày cũng có thể gọi đó là giai đoạn chuẩn bị, vì con đang chuẩn bị bản thân cho giai đoạn sáng tạo hơn trong Sứ vụ của con. Như các thày đã nói, con đơn giản nhận ra là con có tiềm năng đạt đến một mức tâm thức nào đó trong kiếp này nhưng con đã bước vào kiếp này ở một mức tâm thức thấp hơn. Cho nên con muốn xoay chuyển tâm thức càng nhanh càng tốt để có thể vươn lên những tầng cao hơn. Chỉ khi nào con đến được những tầng cao hơn đó thì con mới bắt đầu nhìn thấy những khía cạnh sáng tạo hơn của Sứ vụ của con.

Điều các thày đã nói là con không thể thực sự dời chuyển tâm thức của mình một cách lý thuyết và trí thức. Con cần có một số trải nghiệm để dời chuyển tâm thức. Tại sao con làm những việc con đã làm? Vì trong tiềm thức, con biết là con cần đến những trải nghiệm đó. Con muốn có trải nghiệm đó càng mau sớm càng tốt để con có thể dời chuyển tâm thức của con.

Con yêu dấu, cho dù các trải nghiệm đó là gì thì một cách nào đó, chúng cũng đã chuyển dời tâm thức của con. Thày biết là hầu hết các con sẽ nhìn lại đời mình và nói: “Nhưng cũng đã có một số trải nghiệm khó khăn đến độ tôi bị rơi vào một vòng xoáy tiêu cực, và trong nhiều năm trời, nó đã khiến tôi bị trầm cảm hay bị xáo trộn hay bị khổ tâm.”

7.3. Dời chuyển ra khỏi tiếc nuối

Vâng, con yêu dấu, nhưng khi con sẵn lòng nhìn ngược lại và sử dụng các dụng cụ thày đã ban cho con, thì con sẽ có thể khắc phục nó và thực hiện cuộc xoay chuyển mà con đã trù liệu cần xảy ra qua trải nghiệm đó. Và một khi con xoay chuyển, con yêu dấu, trải nghiệm sẽ không quan trọng nữa. Thày cũng biết là một trải nghiệm đau thương có thể tích tụ năng lượng trong bốn thể phàm của con. Tuy nhiên, con đã có các dụng cụ để chuyển hóa nó và nhờ vậy để cho nó ra đi. Nhiều lần, con yêu dấu, con không nhận ra là khi con có trải nghiệm như vậy, con đã phản ứng ở mức tâm thức của con vào lúc đó. Giờ đây khi con đã nâng cao tâm thức thì con nhìn lại quá khứ với đôi chút hối tiếc. Có thể là từ cảm nhận của người học trò tâm linh mà con muốn trở thành, con đã không nên làm điều đó. Con yêu dấu, cảm giác nuối tiếc đó – khi con tự trách móc hay xấu hổ – xuất phát từ một cái ngã nội tại thường là một thành phần của tập hợp ngã gốc.

Nếu con có thể nhận diện là con đang nhìn lại quá khứ với lòng nuối tiếc hay cảm giác tiêu cực, thì con cần biết đó là một cái ngã nội tại. Đó là một ngã tách biệt và thật ra nó có thể phần nào được tạo ra bởi một giáo lý tâm linh mà con đã tiếp nhận. Vì một lý do nào đó, con đã diễn giải giáo lý đó và con đã tạo ra cái ngã đang trách móc ngã, đang cảm thấy xấu hổ như thể mình không đủ tốt, và cảm thấy (như nhiều các con có thể cảm thấy) rằng một người tâm linh đích thực đã không thể nào làm chuyện đó – nhưng chính con lại làm chuyện đó. Con cho rằng sự kiện con hành xử như vậy có nghĩa là bây giờ con đã vĩnh viễn đánh mất cơ hội, con sẽ không bao giờ chuộc lỗi được trong kiếp này và do đó kiếp này bị lãng phí. Con không thể làm gì khác hơn là ngồi đó trong buồng tối mà khóc cho đến mãn kiếp.

Con yêu dấu, thày có vẻ đang nói đùa, nhưng những ai cảm thấy mình đã làm chuyện gì tồi tệ đến độ mình không thể là người tâm linh chân chính, thường nghĩ là mình không thể nào đến gần các chân sư thăng thiên, bởi vì chắc chắn các thày sẽ lên án con y như con đang lên án chính mình. Biết bao nhiêu lần các thày đã nói với con là các thày không nhìn con như con nhìn chính con? Các thày không trách móc con như con đang tự trách mình.

Điều thày muốn nói với con ở đây là như sau: “Con yêu dấu, đừng bao giờ cho rằng một chân sư thăng thiên sẽ lên án con về bất cứ điều gì con đã làm.” Các thày chỉ có một mong muốn duy nhất – là giải thoát con. Các thày sẵn sàng giúp con giải thoát khỏi bất cứ gì từ quá khứ của con.

7.4. Quả vị Ki-tô và tha thứ

Đây là một trong những khía cạnh của quả vị Ki-tô. Khi con bắt đầu có khả năng mà các thày gọi là phân biện Ki-tô, con sẽ đạt tới điểm trải nghiệm là mình có thể được tha thứ, được cứu chuộc. Con có khả năng khắc phục, vươn lên cao hơn bất cứ gì đã xảy ra trên trái đất này. Thật ra thày có thể nói với con là có nhiều tín hữu Cơ đốc giáo, thậm chí cả những người đạo Cơ đốc cực chính thống (fundamentalist), đã hiểu rõ điều này hơn cả nhiều người trong phong trào Thời Mới hay học trò của chân sư thăng thiên. Phần nào, đó là vì những người Cơ đốc đó không mang khái niệm là do họ bước trên đường tu cho nên họ cần nắm trách nhiệm xem xét tâm lý của mình và buông bỏ những gì cần buông. Dù vậy, họ vẫn trải nghiệm được thực tại là Ki-tô có khả năng cứu chuộc họ khỏi mọi tội lỗi, và họ chấp nhận như thế.

Nhưng các con thì khác, các con có một mức độ trách nhiệm cao hơn về bản thân. Điều này rất tốt, nhưng con cần nhận ra là trong con có một cái ngã tách biệt đã chụp lấy tinh thần trách nhiệm này và biến nó thành tiêu cực bằng cách khiến con nghĩ mình luôn luôn phải toàn hảo. Con nghĩ có một số chuyện đáng lẽ con đã không được làm và con sẽ không thể được tha thứ hay cứu chuộc. Nói cách khác, con sẽ không bao giờ vượt lên cao hơn cái đó.

Tất nhiên, ngã đó dựa trên sự kiện là ngay từ khi sa nhân bắt đầu hiện thân trên hành tinh này, chúng đã phóng chiếu vào tâm thức tập thể ý tưởng là có một số chọn lựa tự quyết của con sẽ không thể được khắc phục qua những chọn lựa khác hơn. Một lần nữa như các thày đã giảng nhiều lần, quyền tự quyết cho phép con chọn lựa bất cứ gì con muốn bất cứ lúc nào – có nghĩa là bất cứ lúc nào, con cũng có thể lấy một chọn lựa sẽ hoàn toàn thay thế chọn lựa cũ. Không bao giờ con lấy một chọn lựa mà không có khả năng tránh khỏi hậu quả của nó qua một chọn lựa mới. Đấy, thày biết rất rõ là ngay lập tức sẽ có một phần trong bản thể con phản bác lại là trong bát cung vật lý, có thể vào thời trẻ con đã có những chọn lựa mang lại hậu quả mà con không thể thay đổi chỉ qua một chọn lựa mới.

7.5. Điều kiện vật chất không thể ngăn cản tâm thức xoay chuyển

Phải, con yêu dấu, điều đó đúng. Tuy nhiên, bao nhiêu lần các thày đã nói với con là không có một điều kiện vật chất nào mà con có thể đem theo con lên cõi thăng thiên? Do đó, không có một điều kiện vật chất nào có thể ngăn cản con thăng thiên. Cũng vậy, không có một điều kiện vật chất nào có thể ngăn cản con cứ tiến lên tới tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng, vì thật sự không có một điều kiện vật chất nào có thể ngăn cản con xoay chuyển tâm thức của con. Chính sự chuyển đổi tâm thức sẽ đưa con tới mức có thể thăng thiên.

Điều này dẫn con tới điểm con có thể bước vào các giai đoạn cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng. Tất cả chỉ là vấn đề dời chuyển tâm thức. Con nhìn nhận là một mặt, do độ dày đặc của cõi vật chất, một số nguyên tắc cơ học sẽ vận hành ở đây. Có một số việc con làm mang hậu quả có thể sẽ tồn tại trong suốt phần đời còn lại của con – điều này hoàn toàn đúng. Nhưng nó không thể giới hạn con tăng triển tâm thức. Đây là điều mà con khởi sự trải nghiệm khi con bắt đầu có phân biện Ki-tô, và con mở tâm ra để thực sự nắm bắt, trải nghiệm, khía cạnh này của Ki-tô – là Ki-tô đấng Cứu chuộc theo cách gọi của người Cơ đốc giáo. Con có thể gọi một tên khác. Con có thể gọi đó là Ki-tô với khả năng nâng con lên cao hơn bất cứ gì của quá khứ, hay Ki-tô với khả năng biến con thành mới, như ngay cả Paul cũng bảo: con trở thành một sinh thể mới trong Ki-tô.

Đây là một sự xoay chuyển quan trọng mà con có thể thực hiện khi con nhận ra có sa nhân hiện diện trên hành tinh. Chúng ngăn chặn con một cách rất hung hãn để con không đạt tới các giai đoạn cao trong Sứ vụ Thiêng liêng, đặc biệt là việc biểu hiện quả vị Ki-tô của con. Công cụ chính của chúng là phong chiếu ý tưởng là con có thể có một số chọn lựa mà con sẽ không bao giờ vượt qua nổi. Đây là một lời gian dối tuyệt đối, hoàn toàn đi ngược lại khái niệm tự quyết. Vì thế con cần có phân biện này. Và đến đây, con yêu dấu, chúng ta chuyển sang một khía cạnh khác của quả vị Ki-tô, hay phân biện Ki-tô, mà nhiều người trên thế giới vẫn chưa thực sự nhìn thấy.

7.6. Con không cần một vị cứu tinh từ ngoài

Một lần nữa, đây là vì các sa nhân đã làm đủ mọi cách để phá hỏng sứ mạng mà thày đã khởi xướng cách đây 2000 năm. Chúng đã làm mọi cách để khiến mọi người hiểu lầm khái niệm Ki-tô. Với việc thành lập Giáo hội Công giáo và kể từ đó, chúng đã phóng chiếu hình ảnh Ki-tô là một đấng cứu tinh sẽ đến cứu con trong tư cách một lực bên ngoài. Và do đó con không có uy lực bên trong, hay khả năng ở bên trong, để nâng cao tâm thức mình cho tới mức có thể thăng thiên.

Đây là một sự lật ngược toàn diện thông điệp mà thày đã ban truyền. Một lời xuyên tạc hoàn toàn. Cho nên như thày có nói, hầu hết các giáo hội Cơ đốc ngày nay rõ ràng đều dựa trên những lời gian dối của phản Ki-tô – ngay từ thời thành lập, nhưng đây là một vấn đề bên lề.

Điều thày muốn đưa ra là như sau: Không có điều gì từ quá khứ mà con không thể khắc phục khi con nhận ra rằng Ki-tô không phải là một cứu tinh bên ngoài. Ki-tô không ở ngoài con; Ki-tô chỉ có thể đến bên trong con. Nếu con muốn thấy Ki-tô như một cứu tinh thì Ki-tô là vị cứu tinh nội tại. Do đó, con yêu dấu, con cần nhìn nhận là con có khả năng thực sự vượt qua tất cả mọi sự việc của quá khứ, nếu con sẵn lòng nhìn vào bản thân và phát hiện trong con cái ngã tách biệt bị dính mắc với quá khứ.

Chẳng hạn, nhiều người trong các con đang bước trên đường tâm linh và đã nhận trách nhiệm về bản thân mình, các con có một cái ngã nội tại bảo rằng con phải cư xử thế nào như một học trò tâm linh. Con yêu dấu, có một tâm thức rất, rất hung hãn trên thế giới – một lần nữa, do sa nhân tạo ra cách đây hàng ngàn năm và trước đó nữa – muốn quy định những lằn ranh, những cách xét đoán, những chuẩn mực về cách hành xử của con người. Một phần của quả vị Ki-tô là đạt đến nhận thức là con không thể chứng được các giai đoạn cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng bằng cách tuân thủ những tiêu chuẩn nội tại đó mà con đã tạo ra cho bản thân mình.

Các thày đã nói đến những tiêu chuẩn vỏ ngoài mà xã hội áp đặt lên con, nhưng bây giờ thày đang nói về những tiêu chuẩn nội tại mà chính con đã tạo ra, rất có thể suốt nhiều kiếp sống như một người tâm linh. Con cần xem xét điều này và con cần nhìn xem nó ăn khớp thế nào với những lời dạy mà các thày đã ban ra về chấn thương nhập đời và ngã gốc, cũng như cách con đã phản ứng khi con hứng chịu chấn thương nhập đời. Có một điều gì khiến con quyết định: “Tôi không bao giờ muốn trải nghiệm lại điều này nữa.” Do đó, con đã tạo ra cái ngã lý luận rằng có một điều gì đó con làm đã khiến cho sa nhân hành hạ mình, và nếu con không bao giờ tái phạm thì có thể con sẽ không bao giờ bị hành hạ như vậy nữa.

7.7. Các chuẩn mực nội tại của con

Và điều này dẫn đến việc con tạo ra một chuẩn mực rằng con phải là người như thế nào. Kể từ đó, con yêu dấu, ở trong con đã có một cái ngã – trong bất kỳ hoàn cảnh nào khi con đầu thai trên địa cầu, trong tuổi thơ ấu lẫn tuổi thanh niên – cứ năng động rà xét xã hội nơi con sống, đánh giá xã hội để tìm xem những điều cấm kỵ, những tiêu chuẩn, những phép tắc. Xong nó định ra một khuôn khổ, một mô thức, một chuẩn mực quy định những gì con phải làm và những gì con không được làm. Rồi nó phóng chiếu ra là nếu con tuân thủ cái đó thì con sẽ an toàn, con sẽ yên ổn, con sẽ được chấp thuận.

Đây là điều mà hầu hết các con – thật ra thày phải nói tất cả các con – đã làm ở một điểm nào đó. Mặc dù một số các con đã bắt đầu khắc phục được, tất cả các con đã chụp lấy nó và chuyển nó vào đường tu tâm linh khi con tìm ra đường tu. Nhìn lại các đợt truyền pháp trước, các thày có thể thấy nhiều học trò đã lấy một giáo lý của chân sư thăng thiên rồi sử dụng để lập ra một chuẩn mực khác cho những gì họ phải làm hay không được làm.

Con yêu dấu, con sẽ nhìn nhận ở đây, đó là một chuẩn mực phản ứng – con đang phản ứng lại các điều kiện trong thế giới vật chất. Điều này có thể hiểu được, nhưng đâu là mục đích của việc Giê-su hiện thân chứ? Có phải là để phục tùng các điều kiện của thế gian như sa nhân muốn Ki-tô làm? Hay là để trao cho mọi người một khung tham chiếu mà họ có thể nhìn thấy và không thể phủ nhận, rằng có một cái gì vượt khỏi các điều kiện của thế giới vật chất? Đương nhiên là câu trả lời thứ hai. Tuy vậy, đây là một sự cân nhắc và phân biện con phải tinh tế lắm mới nhìn ra được, vì như Kinh thánh cũng nói, khi Ki-tô bước vào hiện thân thì Ki-tô cũng bước vào thế giới vật chất.

7.8. Sự hiện thân của Ki-tô

Bây giờ thày muốn đưa ra một vài nhận xét về khái niệm Ki-tô hiện thân. Hiển nhiên, các tín đồ Cơ đốc giáo đã một lần nữa làm cho chuyện này rối beng khi bảo rằng cách đây 2000 năm, thày đã là hiện thân duy nhất của Ki-tô – trên thiên đàng có một đấng Ki-tô tuyệt đối, hoàn vũ nào đó đã chọn hiện thân trong hình dạng nhân thế của thày. Sự thật mà các thày đã trao cho con, cả trong cuốn sách chót về Những kiếp của tôi lẫn các giáo lý khác, là quả thật có một tâm thức Ki-tô hoàn vũ nhưng không phải vì vậy mà tâm thức Ki-tô hoàn vũ có thể hiện thân bất cứ lúc nào cũng được. Nó đòi hỏi phải có một con người trong hiện thân đã nâng cao tâm thức của mình lên tới mức bỗng nhiên tâm Ki-tô hoàn vũ có thể khởi sự tỏa rạng qua người đó.

Con cũng có tiềm năng cho Ki-tô hiện thân trong con khi con đạt đến mức tâm thức đó. Điều này quan trọng vì mấy lý do. Quan trọng hơn cả là vì nó chứng tỏ rằng khi Ki-tô hiện thân – nếu có thể nói như vậy – hay bắt đầu tự biểu hiện trong thế gian này, thì Ki-tô không làm vậy một cách hoàn toàn độc lập với các điều kiện trong thế gian. Khi thày xuất hiện cách đây 2000 năm tại Israel, thày đã hóa thân là một đứa trẻ trong kiếp hiện thân đó. Thày đã lớn lên trong môi trường đó, đã hấp thụ phần lớn môi trường đó, và tất nhiên rất nhiều điều thày nói ra được thích ứng với tín ngưỡng và thế giới quan của con người thời đó. Một thế cân bằng cần được tìm thấy, qua đó Ki-tô không đi vào thế gian để cho mọi người một giáo lý tuyệt đối vì họ sẽ không thể liên hệ với nó. Ki-tô phải thích nghi, như con thấy trong câu chuyện người đàn ông khát nước, khi thay vì cho ông ta một bài thuyết giảng tâm linh thì thày đã cho ông một ly nước lạnh.

Như các thày đã giảng, đây là nguyên tắc Ki-tô đến gặp gỡ con người ở ngay điểm tâm thức của họ và trao cho họ một cái gì có khả năng nâng họ lên bước kế tiếp, và – mong thay – cái đó sẽ dẫn họ vào con đường sẽ tiếp nối mãi cho tới điểm thăng thiên. Một mặt con có thể thấy là Ki-tô tự biểu hiện (tức hiện thân) trong thế gian, và ở một mức nào đó, Ki-tô cũng thích nghi với các điều kiện trong thế gian.

Câu hỏi mà tất cả các con cần giải quyết về mặt cá nhân là: “Tôi sẽ thích nghi tới đâu và tôi sẽ vượt xa hơn bao nhiêu?” Khi con bắt đầu đạt đến những tầng của Sứ vụ Thiêng liêng nơi con sẵn sàng (con bắt đầu) thể hiện quả vị Ki-tô của mình, thì việc thể hiện quả vị Ki-tô không phải là chuyện thích nghi với các điều kiện của thế gian. Đó là chứng tỏ rằng sự thăng vượt các điều kiện đó là điều khả dĩ.

Con hiểu điều thày đang nói chứ? Làm thế nào con có thể chứng tỏ cho người khác rằng việc thăng vượt một mức tâm thức nào đó là khả dĩ? À, trước tiên con phải khoác vào mức tâm thức đó. Đó là tại sao con đã đầu thai trong một gia đình, một quốc gia, một nền văn hóa nào đó. Con trầm mình vào đó một thời gian. Xong khi con sẵn sàng khởi sự biểu hiện quả vị Ki-tô của mình, con vượt khỏi mức đó. Không phải việc biểu hiện quả vị Ki-tô là sự trầm mình vào nền văn hóa đó đâu, mà là vượt ra khỏi nó. Một lần nữa tất nhiên, con không ở đây để vượt quá cao đến độ người ta không thể kết nối với con, mà con ở đây để chứng tỏ rằng việc vượt ra khỏi là điều khả dĩ, rằng có một cái gì đó vượt ra khỏi.

7.9. Quả vị Ki-tô là một cái gì cá nhân

Quả vị Ki-tô là gì? Nó rất cá nhân. Đó là tại sao một trong những điều tệ nhất mà con có thể làm cho bản thân mình là nhìn vào cuộc đời của thày rồi sử dụng để tạo ra một chuẩn mực cho cách hành xử của một sinh thể Ki-tô. Nhiều người đã làm điều này. Các tín đồ Cơ đốc hiển nhiên đã làm điều này, nhưng nhiều học trò của chân sư thăng thiên cũng đã làm một chuyện tương tự. Con thấy đã có những tổ chức của chân sư thăng thiên mà trong đó mọi người đều chú tâm vào việc tự phán xét lẫn phán xét người khác để xem ai nấy có tuân thủ chuẩn mực đó hay không – một chuẩn mực mà họ nghĩ các chân sư đã quy định.

Trong quả vị Ki-tô không hề có chuẩn mực. Đây là điều con cần nắm bắt trước khi con có thể thực sự bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô của mình. Tất cả tùy vào mỗi cá nhân. Con đã đầu thai trong một hoản cảnh đặc thù, đã khoác vào một số điều kiện, một tâm thức tập thể nào đó từ gia đình, quốc gia, vân vân. Biểu hiện quả vị Ki-tô có nghĩa là chứng tỏ có một cái gì cao hơn chuẩn mực đó. Lúc đầu, nó sẽ không cao hơn nhiều lắm, mà nó sẽ cao hơn một chút để ai nấy vẫn có thể liên hệ với con.

Khi con tiến hơn, có thể con sẽ lên cao hơn và cao hơn nữa. Có thể con sẽ tới một điểm khi những ai đã từng lớn lên cùng với con không còn liên hệ được với những gì con biết và hiểu về cuộc sống, và đây là một chuyện khác. Điều thày đang cố chỉ cho con thấy ở đây là nhiều người trong các con có một cái nhìn lý tưởng, lãng mạn, xa vời về thế nào là biểu hiện quả vị Ki-tô. Kỳ thực ở những giai đoạn sơ khởi, quả vị Ki-tô là một cái gì rất thực tiễn liên quan đến những điều kiện trong môi trường hàng ngày. Có thể đó chỉ là một cách làm tốt hơn, một cách nhìn khác hơn về một số chuyện, là không quá coi trọng một số sự việc, không tự xem mình hay xem cuộc sống là quá hệ trọng. Chẳng hạn con có thể vui sống hơn người khác, hay con không đến nỗi bị ám ảnh cưỡng chế về một số khía cạnh trong văn hóa của mình, như con không ghét bỏ những ai sống bên kia biên giới, hay bên kia đường, hay bên kia bất cứ gì khác.

Con có thể chứng tỏ một phương cách khác, một cách nhìn khác, và đó là một khía cạnh trong quả vị Ki-tô của con ở khởi đầu. Nhiều người trong các con có thể nhìn lại đời mình và nhận thấy: “Nhưng trong phần lớn đời tôi, tôi đã chẳng làm vậy hay sao?” Và con nói đúng – con đã làm vậy. Nhiều người trong các con đã làm vậy. Thày chỉ mong giúp con nhận biết về điều đó và nhìn nhận rằng đó là một biểu hiện của quả vị Ki-tô của con. Khi con công nhận là con đã có biểu hiện quả vị Ki-tô thì con sẽ dễ dàng hơn chấp nhận là mình thực sự có thể là Ki-tô trong hành động. Con thực sự có khả năng biểu hiện quả vị Ki-tô trên địa cầu và đó không nhất thiết là một điều gì xa vời, như cách nhìn lý tưởng mà người đạo Cơ đốc đã dựng lên về cuộc đời của thày.

Bây giờ nếu con lấy cuốn sách Những kiếp của tôi cùng với những gì thày đã giảng trong các bài truyền đọc và vấn đáp khác, con sẽ thấy cuộc đời của thày không có gì giống như cái lý tưởng mà người đạo Cơ đốc đã tạo ra. Thày có nói trước đây là con đã rất có thể suy luận rằng điểm kết liễu đời thày đã là một thất bại toàn diện. Thật sự thày đã hoàn thành được việc gì trong đời sống vỏ ngoài chứ? Thậm chí thày đã không thu hút được cả những môn đệ có khả năng nắm bắt thông điệp mà thày đã đến để ban truyền.

Thày không đang cố hạ thấp những gì đã xảy ra, mà thày đang cố khép lại khoảng cách mà nhiều người trong các con đang có trong tâm mình. Con có cái ngã nội tại đó mang nỗi ám ảnh cưỡng chế phải chỉ ra những thiếu sót và lầm lỗi của mình, đến độ con sẵn sàng tin vào sự phóng chiếu rằng bởi vì con đã phạm tất cả những lầm lỗi đó, cho nên con không thể nào là Ki-tô trong kiếp đầu thai này được. Thày đang cố chỉ cho con thấy rằng làm Ki-tô là một tiến trình. Nó bắt đầu thật nhỏ xong nó có thể ngày càng lớn hơn. Con cần công nhận là nó không thể xảy ra đùng một cái. Nó chỉ có thể xảy ra bằng cách con bước đi từng bước một, dần dần nhận ra là con có khả năng làm cánh cửa mở cho Ki-tô.

7.10. Sứ vụ Thiêng liêng và tự quyết

Con yêu dấu, vậy thì làm Ki-tô có nghĩa là gì? Hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình có nghĩa là gì? Một lần nữa, trên thế giới có một tâm thức do sa nhân tạo ra muốn chụp lấy mỗi ý tưởng, mỗi khái niệm, và thu hẹp nó xuống một chuẩn mực đường thẳng hầu tâm phân tích có thể phân loại và dán nhãn.

Có một vị trong số các con vừa chia sẻ là khi anh ấy đến dự hội nghị này thì có người đã hỏi anh: “Giáo lý mà bạn đang tu tập là gì chứ?” Anh đã không thể tìm ra một cái tên vì các thày đã cố tình không đặt tên. Đó là một ví dụ người ta bị tâm thức của sa nhân ảnh hưởng mà không hay biết, và tâm thức này khiến họ luôn luôn muốn gắn nhãn cho mọi sự. Họ luôn luôn muốn gọi tên để họ có thể phân loại, và thế là cái đó giờ đây phải đi vào khuôn mẫu. Tất nhiên, đây chính là điều mà sa nhân đã toan tính làm với Ki-tô, nhưng thực tế của Ki-tô là Ki-tô không bao giờ tuân theo một mẫu mực nào.

Vậy có tiêu chuẩn nào quy định cách con phải biểu hiện quả vị Ki-tô của con như thế nào trong hoàn cảnh đặc thù của con hay không? Không, không có. Tuy nhiên, điều này dẫn đến câu hỏi tiếp theo. Trong Sứ vụ Thiêng liêng của con có điều gì được quy định về quả vị Ki-tô không? Liệu Sứ vụ Thiêng liêng giống như một chuẩn mực về cách con phải cư xử trong kiếp này và do đó cũng về cách con phải biểu hiện quả vị Ki-tô của mình?

Quyền tự quyết có vai trò gì trong Sứ vụ Thiêng liêng? Liệu Sứ vụ của con có giống như một chiếc áo tù bó tay bó chân hay không? Trong những năm đầu của đời con, con không nhận thức về Sứ vụ của mình cho nên con khá rộng tay làm bất cứ gì con muốn. Rồi tới một điểm có sự chờ đợi là con sẽ bước vào nhận thức về Sứ vụ của mình, và khi đó có vẻ chọn lựa duy nhất còn lại cho con là: “Liệu tôi sẽ mặc vào chiếc áo tù này hay tôi không mặc vào?” Nếu con quyết định mặc vào chiếc áo bó tay của Sứ vụ Thiêng liêng thì phần đời còn lại của con sẽ đi theo một đường rày máy móc vì giờ đây con sẽ chỉ biết tuân theo Sứ vụ đã được vạch ra cho con. Chuyện đó, tất nhiên, không phải là ý nghĩa của Sứ vụ Thiêng liêng.

Đầu tiên các thày đã nói rằng chính con là người chọn lựa Sứ vụ Thiêng liêng của con. Rồi sau mấy thập niên giảng dạy về khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng, các thày đã thấy nhiều học trò diễn giải theo nghĩa Sứ vụ là do một đấng thần thánh nào đó thảo ra, và bây giờ đấng này đang cố áp đặt nó lên con để biến con thành một con múa rối. Đây chính là tại sao một số sa nhân đã tạo ra ý tưởng là con chỉ có thể giành được quyền tự quyết bằng cách nổi loạn chống lại Thượng đế. Có những sa nhân cả quyết rằng chỉ khi chúng nổi loạn và từ chối thăng thiên thì chúng mới thực sự có được quyền tự quyết. Hiển nhiên đây là một ảo tưởng, vì thử hỏi ý chí tự do của con sẽ tự do tới đâu nếu con đang phản ứng lại một cái gì khác? Ý chí đó sẽ tự do y hệt như khi con tìm cách tuân theo cái khác đó. Ý chí của con sẽ chỉ tự do một khi con chọn lựa từ bên trong.

Không cần đi sâu hơn vào một cuộc thảo luận triết lý, thực tế ở đây là Sứ vụ Thiêng liêng của con không hề vạch ra cách con phải sống cả đời mình như thế nào trong từng chi tiết nhỏ nhặt. Các thày đã nói là kỳ thực, con sẽ không bao giờ có được một tầm nhìn rõ ràng về toàn bộ Sứ vụ của mình, mà con sẽ chỉ nhìn thấy từng giai đoạn một – tại sao như vậy? À, bởi vì nếu có một Sứ vụ thật chi tiết và nếu con thấy được nó toàn bộ, thì nó sẽ giống như một con đường máy móc. Con sẽ chỉ giản dị bước hết bước này tới bước khác và đi theo đúng như vậy. Sự thật là Sứ vụ của con được lập ra, như các thày đã giảng, để trên hết nâng cao tâm thức của con, và làm thế nào con nâng cao tâm thức chứ? Bằng cách tiếp cận mỗi hoàn cảnh ở mức tâm thức hiện thời của mình, rồi con chọn lấy một chọn lựa để vươn lên khỏi tâm thức đó hầu đối phó với một vấn đề nhất định. Khi con vươn lên và trải nghiệm một cách nhìn cao hơn về vấn đề, đó là khi con đã nâng cao tâm thức lên nấc kế tiếp. Sứ vụ của con xác định hoàn cảnh mà con cần bước vào để trải nghiệm một điều kiện nhất định, nhưng nó không xác định con phải phản ứng lại điều kiện đó như thế nào. Cái đó là chọn lựa của con.

7.11. Thăng vượt nhận thức của con

Con yêu dấu, con cần thận trọng ở đây. Nhiều người trong các con đã tưởng tượng là Sứ vụ Thiêng liêng định rõ một số điều kiện vỏ ngoài. Ví dụ, con sẽ phải gặp gỡ và kết hôn một người nào đó và có X đứa con. Dựa theo đó thì nhiều người trong các con nghĩ rằng nếu con không gặp người đó – hay nếu con gặp nhưng lại quyết định không kết hôn – thì con không làm tròn Sứ vụ của mình. Sứ vụ Thiêng liêng không như vậy, nó không rõ ràng, đặc thù như vậy. Sứ vụ Thiêng liêng là để con xoay chuyển tâm thức của con.

Đối với mọi điều kiện vỏ ngoài, con có rất nhiều chọn lựa. Phải, ở những giai đoạn đầu, trong giai đoạn công phu của Sứ vụ Thiêng liêng, nhiều khi con mang nghiệp với một người nào đó và cách nhanh nhất để giải quyết nghiệp quả là có mối quan hệ với người đó. Cho nên con có thể nói: “Được, thật ra tôi đã quyết định là tôi muốn ở trong quan hệ này, cho nên khi tôi xuống đây đầu thai, đó chính là điều tôi phải làm.” Tuy vậy, con có một phạm vi chọn lựa rộng lớn trong cách đáp ứng với tình huống đó: Con sẽ ở lại bao lâu trong quan hệ, con sẽ phản ứng thế nào với mối quan hệ, vân vân. Một khi con tiến xa hơn giai đoạn công phu này và không còn phải đương đầu quá nhiều với các điều kiện nghiệp quả nữa, thì con bắt đầu bước vào giai đoạn sáng tạo của Sứ vụ của con.

Đột nhiên, con có rất nhiều chọn lựa khác hơn. Có nghĩa là, ví dụ, không chỉ có một nghề nghiệp, một loại việc làm hay sự nghiệp mà con có thể có. Ngay cả khi con chọn một nghề nghiệp nhất định thì con cũng không chỉ có một cách đeo đuổi duy nhất. Đời con không giống như một đường rày. Sứ vụ của con không đặt cuộc đời con trên một con đường rày sẽ hạn chế các chọn lựa của con. Con luôn luôn có nhiều chọn lựa, nhiều phương thức trong những gì con làm cũng như trong cách con làm.

Con yêu dấu, điều thày nói ở đây áp dụng cho các học trò tâm linh ở những tầng cao hơn. Lẽ tự nhiên, rất nhiều người ở những mức tâm thức thấp hơn bị chi phối nhiều hơn bởi các tình huống nghiệp tạo, cho nên những chọn lựa trong tiền kiếp đã tạo ra các hậu quả đang giới hạn chọn lựa của họ trong kiếp này. Con có thể đi xuống một tầng tâm thức nơi con gặp những người có rất ít chọn lựa ý thức mở ra cho họ. Phải chăng đó là điều kiện vỏ ngoài đang giới hạn họ, hay là tâm thức của họ bị giới hạn đến độ họ không sẵn lòng vượt ra khỏi cách nhận thức cố hữu của họ về thế giới?

Điều thày nói với con ở đây là con cũng có một nhận thức nào đó về thế giới, và con sẽ cần thăng vượt nó để có được nhiều tự do hơn, nhiều chọn lựa hơn. Đâu là cái đang giữ con lại? Cái gì khiến con đôi khi có cảm tưởng Sứ vụ Thiêng liêng là một chiếc áo tù bó tay, hay đời con hoàn toàn bị ngoại cảnh định đoạt? Đó là vì con mang một cái ngã nhất định đang có một nhận thức nhất định, và nhận thức này xoay quanh việc con nhìn và phản ứng lại tình huống vỏ ngoài như thế nào.

Đâu là một khía cạnh khác của quả vị Ki-tô? Là khi con nhận ra là con không ở đây để làm nô lệ cho những tình huống vỏ ngoài. Con ở đây để thăng vượt chúng, và điều này không có nghĩa là, chẳng hạn, nếu con có con cái, con sẽ bỏ rơi chúng, đào tẩu lên núi Himalaya và ngồi trong hang đá. Không, nó có nghĩa là con vượt thăng cách nhìn, cách tiếp cận, cách phản ứng của mình đối với việc có con, hầu con tìm ra một cách nhìn cao hơn không bị quá mắc kẹt trong khuôn nếp hiện thời.

7.12. Làm thế nào thực sự thay đổi đời mình

Điểm này khơi lên một đề tài khác mà nhiều người trong các con thắc mắc: “Làm thế nào con có thể thực sự thay đổi đời mình? Làm thế nào con có thể có được những điều kiện tốt đẹp hơn? Con muốn làm chuyện này, con muốn làm chuyện kia. Con muốn nhiều tiền hơn hay việc làm tốt hơn vì con rất muốn được tự do đi du lịch đây đó, gặp gỡ người ta, thăm nhiều nền văn hoá khác nhau, cái này cái nọ” (đây thật sự là ước muốn của nhiều người).

Thế là bây giờ chúng ta đến với chủ đề là làm thế nào thay đổi tình huống vỏ ngoài để tạo điều kiện thuận lợi cho viễn quan hay mong muốn của mình. Đây là một chủ đề rất phức tạp mà thày sẽ không đưa ra một lời giảng chung cuộc, vì thày Saint Germain cũng có một vài điều muốn nói, và cả các chân sư khác nữa. Điều thày muốn cho con là phân biện Ki-tô đi theo hai đường.

Trước hết, phân biện Ki-tô có thể cho con một viễn quan trong Sứ vụ Thiêng liêng là con có khả năng thị hiện một hoàn cảnh vật lý cao hơn hiện tại, một hoàn cảnh nơi con có nhiều tự do hơn. Đây là một viễn quan về những gì có thể xảy ra, nhưng mặt khác cũng có khía cạnh omega về điểm này: Phân biện Ki-tô cũng có thể cho con viễn quan là đôi khi kỳ thực, mong muốn hay viễn quan của con dựa trên ngã gốc. Như chân sư MORE đã nói, ngã gốc của con mang một cơ chế đền bù, và cơ chế này đôi khi đem lại cho người tâm linh một ước muốn trốn thoát khỏi một số điều kiện nào đó.

Thật ra phản ứng này đến từ ngã gốc. Một khía cạnh của điều này là khi con đến hành tinh này như một avatar, con đến với một thái độ tích cực mong muốn đem lại một thay đổi tích cực. Rồi con cảm thấy mình bị sa nhân bác bỏ, trấn áp. Thế rồi con tạo ra ngã gốc và kể từ đó con đã cảm thấy: “Tôi không thể là chính tôi trên hành tinh này, tôi không thể là con người mà tôi là, tôi không thể biểu hiện bất cứ gì tôi muốn, tôi không thể sáng tạo vì tôi luôn luôn phải nhìn xem người ta sẽ phản ứng ra sao. Liệu người ta sẽ làm gì, sẽ nói gì, sẽ nghĩ gì? Họ sẽ chối bỏ tôi như thế nào? Họ sẽ làm gì với tôi đây?”

Con vẫn có mong muốn tự biểu đạt nhưng con lại có một cơ chế ngăn cản con tự biểu đạt. Điều mà phân biện Ki-tô có thể giúp con là khiến con nhìn ra cảm nhận đó đến từ ngã gốc – cảm nhận rằng mình không thể là chính mình trên địa cầu. Lý do là vì ngã gốc giống như một chiếc máy tính. Nó không có khả năng tự nhận biết. Nó không thể nghĩ cái gì là đúng hay sai. Ngã gốc dựa trên nhận thức rằng chính các điều kiện vỏ ngoài trên địa cầu mới ngăn cản con là người mà con là, ngăn cản con biểu đạt chính con. Kỳ thực, một khi con có phân biện Ki-tô, con sẽ thấy rõ không phải các điều kiện vỏ ngoài đang ngăn cản mình là chính mình, mà ngã gốc.

Khi con đến trái đất lần đầu tiên, có lẽ cách đây rất lâu, con đã có sẵn một mức nhận biết nào đó. Mặc dù mức đó có thể cao hơn đa số cư dân trên địa cầu vào thời ấy, đó vẫn chưa phải là mức tối hậu. Ngay cả nếu con đến từ một hành tinh tự nhiên, đó cũng chưa phải là mức tối hậu. Kể từ đó, con đã tăng triển về mặt tâm thức cho dù con có thể không hay biết một cách ý thức. Nhưng con đã có tăng triển, và đó là tại sao các thày đã nói là con có khả năng đi ngược dòng thời gian và tái trải nghiệm chấn thương nhập đời của mình với một phản ứng khác hơn trước. Đó là cách con có thể gạt bỏ ngã gốc, và các thày đã cho con dụng cụ để làm việc này.

Khi con làm vậy, điều thật sự bắt đầu xảy ra là giờ đây con lần lần khởi sự chất vấn tất cả những rào cản đó (mà con mang trong bốn thể phàm) đang bảo con là con không thể là chính mình, rằng con không thể tự biểu đạt. Sau đó con có thể bắt đầu xem xét và hòa điệu với: “Tôi thực sự là ai? Đâu là cá thể tâm linh của tôi trong Hiện diện TA LÀ? Đâu là ý nghĩa của việc biểu đạt cá thể tâm linh đó ở đây trên trái đất?” Bỗng nhiên, con yêu dấu, một khi con bắt đầu chấp nhận và trải nghiệm rằng con có khả năng là chính mình trên địa cầu, con sẽ khắc phục được mong muốn trốn chạy nói trên, luôn luôn muốn làm một người khác hay sống ở một nơi khác. Đó là cái mong muốn cứ nghĩ rằng: “Nếu như điều kiện vỏ ngoài thay đổi và xảy ra như tôi nghĩ nó phải xảy ra, thì khi đó tôi mới có thể là chính tôi.”

7.13. Không có điều kiện lý tưởng cho quả vị Ki-tô

Con yêu dấu, các thày đã có nói là có một tâm thức khiến con nghĩ là khi nào con hội được điều kiện vỏ ngoài lý tưởng thì khi đó con mới có thể là Ki-tô. Nhưng Ki-tô không cần điều kiện vỏ ngoài lý tưởng, vì chức năng của Ki-tô chính là để chứng tỏ có một cái gì cao hơn bất kỳ điều kiện nào mà Ki-tô trải nghiệm. Không hề có điều kiện lý tưởng để biểu hiện quả vị Ki-tô. Nếu con cứ ngồi đó chờ đợi một số điều kiện vỏ ngoài trước khi con có thể biểu hiện quả vị Ki-tô hay là chính mình, thì con sẽ phải chờ đến mãn kiếp – và nhiều kiếp kế tiếp nữa – trước khi con chợt hiểu ra: “Ồ, đáng lý ra tôi đã phải bắt đầu ngay ở nơi tôi đang đứng và biểu hiện quả vị Ki-tô ở ngay tầng này, và đó là cách tôi bước lên một tầng cao hơn.”

Và đó cũng chính là cách mà các điều kiện vỏ ngoài của con sẽ thay đổi. Điều kiện vỏ ngoài của con sẽ bắt đầu thay đổi khi con quyết định là con sẽ khởi sự ngay nơi con đang đứng và cả gan biểu hiện một sắc thái đó của cái ta cao hơn ngay ở đây, ngay lúc này. Đó là điều mà vị sứ giả này đã quyết định năm 2002. Đó là tại sao, một cách lần hồi, các điều kiện vỏ ngoài của ông đã thay đổi đến mức ông đã có thời gian lẫn sự tự do để tập trung vào công việc ông đang làm, thay vì phải đi làm kiếm sống, vân vân.

Những điều tương tự có thể xảy ra cho nhiều người trong số các con. Không nhất thiết theo cùng một cách nhưng chắc chắn theo cách là các điều kiện vỏ ngoài sẽ lần hồi thay đổi để con có thể cảm thấy chúng không đang hạn chế con là chính con, hạn chế con biểu đạt những gì con ở đây để biểu đạt. Nó có thể xảy ra như vậy khi con đạt tới những tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng, nhưng để đạt đến mức đó sẽ đòi hỏi những gì?  

Nó đòi hỏi con xoay chuyển tâm thức, con yêu dấu. Như lời thày đã dạy cách đây 2000 năm, con nhìn nhận: “Con không thể làm gì được một mình, nhưng với Thượng đế thì mọi việc đều khả dĩ.” Đó là cách thày đã diễn tả vào thời đó, nên con hãy để thày diễn đạt lại dựa theo giáo lý các thày đã cho con: “Với ngã vỏ ngoài và quyền năng của ngã vỏ ngoài, con không thể thay đổi điều kiện vỏ ngoài của con. Nhưng bằng cách nối kết lại với Ki-tô trong con, bằng cách nhận diện Ki-tô trong con, khi đó con sẽ có khả năng thay đổi điều kiện vỏ ngoài của con.”

Để nối kết lại với Ki-tô trong con và bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô của mình, điều này sẽ đòi hỏi những gì? Con yêu dấu, nó đòi hỏi nơi con một quyết định có ý thức: “Tôi sẽ không làm nô lệ cho các điều kiện vỏ ngoài của tôi. Tôi sẽ là cánh cửa mở, tôi sẽ biểu đạt chính mình cho dù điều kiện vỏ ngoài có là gì. Tôi sẽ làm điều gì đó ngay lập tức, tôi sẽ nhân lên các ta-lăng mà tôi được ban cho, tôi sẽ nhân lên hoàn cảnh mà tôi đang gặp ngay lúc này.” Sau đó, một khi con đã đi bước nhỏ đầu tiên đó, định luật sẽ trải bày ra không sai sót: Sẽ có một sự nhân lên từ cõi tâm linh. Và khi con tiếp tục làm vậy, lần hồi điều kiện vỏ ngoài của con sẽ bắt đầu xoay chuyển.

Có thể một số các con cũng sẽ nhận thấy là thật ra, có một số điều kiện vỏ ngoài mà con không trù liệu thay đổi vì công dụng của chúng là để con bày tỏ một cách ứng phó cao hơn đối với chúng. Đây không chỉ là chuyện thoát ra khỏi một số điều kiện mà con không ưa, vì chúng có thể là một phần của quả vị Ki-tô của con. Thật ra, có thể một phần của Sứ vụ Thiêng liêng là con biểu hiện quả vị Ki-tô trong những điều kiện đó hầu người khác thấy được là chúng có thể được thăng vượt.

Một lần nữa, đây là một điểm phân biện tinh tế. Con yêu dấu, đây cũng là sự kiện khi con vươn lên cao hơn và khắc phục cơ chế đền bù – các dính mắc, như các thày cũng gọi như vậy – thì con có nhiều chọn lựa hơn. Chẳng hạn, ở một điểm nào đó con có thể chọn: “Không, tôi không muốn gặp điều kiện này nữa, tôi đã trải nghiệm nó đủ rồi,” hoặc “Tôi không muốn ứng phó với loại người này nữa. Tôi đã chứng tỏ có một tâm thức khác hơn trạng thái tâm thức của họ và tôi không muốn cứ làm mãi chuyện này cho đến hết kiếp này. Tôi muốn bước sang một cái gì khác.”

Con yêu dấu, con có rất, rất nhiều chọn lựa khác nhau. Không chỉ có một cách duy nhất để hoàn thành Sứ vụ của con và cũng không phải là nếu con không làm theo cách đó thì con sẽ không làm tròn Sứ vụ của mình. Đây không phải là chuyện “tất cả hay không có gì”. Nó không đen trắng.

7.14. Con không thể thất bại trong Sứ vụ

Miễn là con sẵn sàng xoay chuyển tâm thức, con yêu dấu, con không thể không làm tròn Sứ vụ Thiêng liêng của con, vì cốt lõi của Sứ vụ chính là sự dời chuyển tâm thức lên mức cao nhất có thể. Không có gì bất di bất dịch. Trước khi con đầu thai và lập ra Sứ vụ Thiêng liêng, con đã lượng định – dựa trên tâm thức con mang trong kiếp trước – những gì con có thể vươn tới trong kiếp này một cách thực tế nhất. Nhưng nếu con sẵn lòng, nếu con thật sự chuyên tâm và áp dụng giáo lý mà các thày đã ban truyền, thì con còn có thể vươn lên cao hơn nữa. Nhiều các con có khả năng vươn lên cao hơn mức được định ra trong Sứ vụ của mình.

Một số các con đã không định ra trong Sứ vụ là mình sẽ có thể vươn tới tầng 144 trong kiếp này, nhưng một số các con có khả năng làm được điều này nếu con thực sự chuyên tâm và bước xa hơn, bởi vì việc xoay chuyển tâm thức đòi hỏi gì chứ? Nó chỉ đòi hỏi con sẵn lòng nhìn ra một điều gì đó mà con chưa nhìn thấy trước đây, sẵn lòng quyết định là con sẽ không bị giam hãm trong mức tâm thức này, sẵn lòng bước ra ngoài. Con sử dụng khả năng của cái Ta Biết để bước ra ngoài bốn thể phàm của nó và nhìn ra: “Tôi không là cái này, tôi là hơn cái này.” Không có gì được quy định từ cõi thăng thiên hay từ Sứ vụ Thiêng liêng để giới hạn con chỉ tiến được bao xa trong tiến trình này, nếu con sẵn lòng xoay chuyển.

Tuy nhiên sẽ có một giới hạn, là con cần một cảm giác liên tục, cho nên con không thể tự dưng chuyển vọt lên một mức quá cao so với mức hiện tại của con. Con không thể nhảy bước. Một số học trò tâm linh trở nên rất nóng lòng và muốn giác ngộ ngay bây giờ, trong vòng năm phút, nhưng điều này không thể làm được ngay lập tức. Con phải đi qua tất cả 144 tầng tâm thức. Con không thể nhảy từ tầng 120 lên tầng 133. Không thể được. Con sẽ đánh mất ý niệm bản sắc, ý niệm liên tục của con, và thật ra nó có thể dẫn đến bệnh tâm thần và chứng tâm thần phân liệt (schizophrenia). Điều con cần nhìn nhận ở đây là con cần đi qua tất cả mọi bước, vì thật sự nếu con sẵn lòng thì không có gì sẽ giới hạn tốc độ tiến bước của con.

Con yêu dấu, lẽ tự nhiên thày có thể tiếp tục nói mãi và giảng thêm nữa về đề tài này. Các thày đã cho con nhiều giáo lý mà con có thể tu học và áp dụng trong nhãn quan mà thày vừa trao cho con về Sứ vụ Thiêng liêng và quả vị Ki-tô. Bí quyết thực sự ở đây là con đạt tới điểm nhận ra: “Tôi không được quy định bởi bất cứ điều gì trên địa cầu. Tôi là một sinh thể tâm linh.” Cái Ta Biết là tên gọi mà các thày đã dùng cho sự nhận biết thuần khiết để chỉ rõ là con không bị quy định bởi bất cứ gì có hình tướng. Đó là lý do tại sao con có khả năng thăng vượt bất kỳ hình tướng nào, kể cả những hình tướng trong ngã gốc và các ngã tách biệt của con. Đây là cốt lõi của quả vị Ki-tô, mà con hoàn toàn tự quyết trong việc thực hiện và áp dụng trong kiếp này.

11 | Chọn lựa ý thức và chọn lựa tiềm thức

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Chỉ đạo Thiêng liêng qua trung gian Kim Michaels ngày 20/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Đại Chỉ đạo Thiêng liêng – hoặc như dạo sau này thày ưa tên gọi này hơn, Chỉ đạo Thiêng liêng – vì thật sự “Chỉ đạo Thiêng liêng” vượt khỏi mọi sự phân rẽ, mọi đối cực nhị nguyên. Phân biệt giữa lớn với không lớn liệu có ý nghĩa gì chăng?

11.1. Các giai đọan ý thức và tiềm thức của Sứ vụ Thiêng liêng

Con yêu dấu, cho tới điểm này các thày đã cho con những bài truyền đọc bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau về Sứ vụ Thiêng liêng của con. Vừa rồi con đã nghe giảng là có những thời điểm con cần có một số quyết định để bước lên một tầng cao hơn của quả vị Ki-tô. Hầu mở tâm ra cho một sự thay đổi cách mạng, con cần lấy một số quyết định.

Theo một nghĩa nào đó, ít nhất ở những giai đoạn cao hơn, Sứ vụ Thiêng liêng của con hoàn toàn là những quyết định mà con lấy. Các thày đã giảng là có một giai đoạn công phu trong Sứ vụ, có một giai đoạn sáng tạo trong Sứ vụ, có một giai đoạn tiến hóa hay tiệm tiến trong Sứ vụ, và có một giai đoạn cách mạng. Để khiến con bối rối hơn nữa và đưa con – hy vọng như vậy – vào một trạng thái hoang mang huy hoàng, thày muốn đưa ra khái niệm là có một giai đoạn ý thức trong Sứ vụ và một giai đoạn tiềm thức.   

Qua khái niệm này thày muốn nói là nếu con nhìn lại đời mình, con có thể thấy con thường bị đẩy vào những tình huống mà con có thể nói là con đã không chọn bước vào một cách ý thức. Nó như tự dưng xảy ra trong hoàn cảnh như vậy, và con không ý thức được tại sao con cần làm vậy và chuyện đó nằm trong Sứ vụ của con như thế nào. Dù sao thì nó vẫn nằm trọn trong Sứ vụ Thiêng liêng của con vì con đã cần đến trải nghiệm đó. Con có thể nói: “Đúng, trong giai đoạn đó của Sứ vụ, tôi không chọn một cách ý thức những gì mình làm và tôi không cố tình chọn như vậy. Tôi không biết rõ những chọn lựa khác là gì và hậu quả sẽ ra sao.” Con có thể tự hỏi: “Ở giai đoạn đó, tôi đã thật sự chọn lựa hay không?” Thực tế dĩ nhiên là , con luôn luôn đang chọn lựa. Mọi người trên địa cầu đều không ngừng chọn lựa.

Con có thể nhìn những người ở trạng thái tâm thức rất thấp và cuộc đời của họ dường như chìm trong một tình trạng xáo trộn liên tục. Luôn luôn có những điều kiện vỏ ngoài có vẻ như ép buộc họ làm chuyện này chuyện nọ, hay ép buộc họ cứ luôn bị tê liệt như thể bị tước mất hết khả năng. Con có thể nói: “Đấy, họ đang chọn lựa ở chỗ nào?” Họ có thể không đang chọn lựa trong tình huống trước mắt, nhưng tình huống của họ vẫn là hệ quả của những chọn lựa mà họ đã lấy trong quá khứ. Ngay cả trong tình huống trước mắt, mặc dù họ không đang chọn thị hiện một hoàn cảnh cụ thể, nhưng họ vẫn chọn cách phản ứng hay không phản ứng lại hoàn cảnh.

Khi con chuyển từ giai đoạn tiềm thức vào giai đoạn ý thức, không phải đột nhiên con bắt đầu chọn lựa, mà thật ra con kinh nghiệm là đột nhiên con bắt đầu chọn lựa. Lý do là vì con bắt đầu ý thức nhiều hơn về những chọn lựa mà con đang lấy liên tục. Khi con theo học và thực hành giáo lý của các thày, lúc đầu con trở nên ý thức hơn về phản ứng của mình. Con bắt đầu nhận biết là khi con ở trong một hoàn cảnh nào đó, hoàn cảnh này kích hoạt nơi con một khuôn nếp phản ứng nhất định. Sau đó con bắt đầu nhận xét điều này, và con nhận thức rõ hơn là trong một số hoàn cảnh – hay khi con ở gần một số người – con luôn luôn phản ứng theo cách đó. Và tất nhiên, các thày đã cho con những dụng cụ để đặt câu hỏi: “À, chẳng phải điều này đang chỉ ra là mình có mang một khuôn nếp phản ứng, và khuôn nếp phản ứng này đến từ một loại phàm linh nội tại hay một loại ngã nào đó, có thể là nó còn đi ngược về tuốt ngã gốc, là điểm tôi đã khởi sự giai đoạn phản ứng lại các điều kiện trên trái đất?” Như vậy con có thể dùng các dụng cụ để gia tăng sự nhận biết về cái đứng đằng sau khuôn nếp phản ứng đó. Một khi con thấy cái đứng đằng sau, con có thể thoát ra khỏi nó, thế là con không còn phản ứng cách đó nữa.

Tất nhiên, mỗi lần con khắc phục một khuôn nếp phản ứng như vậy, con sẽ mở rộng tầm nhận thức, con sẽ có thể nhìn thấy một khía cạnh khác nữa, một diện khác nữa trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Và bỗng nhiên con có khả năng làm nhiều chọn lựa ý thức hơn, vì thay vì bị một khuôn nếp tiềm thức kích hoạt phản ứng nơi mình, con không còn mang khuôn nếp đó nữa. Và do đó con có thể chọn: “Tôi muốn phản ứng thế nào trong hoàn cảnh này, tôi muốn phản ứng thế nào đối với những người này? Liệu tôi có thật muốn phản ứng lại một loại người nào đó hay tôi muốn lựa bỏ họ ra khỏi đời tôi?”

11.2. Sự sáng tạo dựa trên các chọn lựa

Điều con nhận ra ở đây là khi con chuyển sang giai đoạn sáng tạo của Sứ vụ Thiêng liêng, khả năng sáng tạo dựa trên gì? Nó dựa trên việc chọn lựa! Con yêu dấu, đã có một cuộc tranh luận rất lâu đời giữa các triết gia và các nghệ sĩ về đề tài “Sáng tạo bắt nguồn từ đâu?” Con yêu dấu, con có thể nói – và nhiều nghệ sĩ, nhà văn, họa sĩ cũng sẽ nói như vậy – rằng họ nhận được một nguồn cảm hứng. Ngày xưa, người ta hay nói đến các nàng thơ, được xem là những sinh thể phi vật chất gần giống như tiên nữ hay thiên thần, đến đậu trên vai nhà thơ để tạo cảm hứng sáng tác. Hiển nhiên, một số văn sĩ đã cảm được một luồng cảm hứng đích thực chảy qua bản thân mình, thậm chí cả một dòng chảy từ Tánh linh. Trong một số trường hợp, đó quả là một dòng Tánh linh cao, y như con đang trải nghiệm một dòng Tánh linh cao đang chảy qua tâm thức sứ giả này không do chính ông tạo ra bằng tâm thức của ông.

Con có thể nói là nếu con sáng tạo, chẳng phải là có một dòng chảy năng lượng đang đi qua Bản thể con và là cội nguồn của sự sáng tạo đó hay sao? Tất nhiên là có – đây là điều các thày đã gọi là sự đồng sáng tạo. Con nhận diện là con đang thực sự sáng tạo không chỉ bằng cách sử dùng những năng lượng sẵn có trong cõi vật chất và những khả năng sẵn có trong tâm phàm của mình, mà con đang thực sự sáng tạo bằng cách kết nối với một cái gì cao hơn ngã của mình, bằng cách làm cánh cửa mở cho cái đó, và như vậy con cho dòng năng lượng chảy vào bốn thể phàm của con hầu nó biểu lộ ra trong bát cung vật lý. Tất nhiên, dòng chảy này của Tánh linh nếu con muốn gọi như thế, hay luồng cảm hứng này, là một phần không thể thiếu của mọi sáng tạo.

Dù sao thì điểm mà nhiều nghệ sĩ hay triết gia không hiểu hoàn toàn về sáng tạo là họ nghĩ đó là một cái gì xảy ra hoặc không xảy ra, và con không thể làm gì để thay đổi nó được. Trong giới nhà văn, người ta có khái niệm gọi là “tắc ý” (writers block) khi nhà văn bị tắc nghẽn không làm sao viết nổi suốt nhiều tuần, nhiều tháng hay nhiều năm trời. Con ngồi trước tờ giấy trắng, đang say sưa viết xuống lưu loát thì bỗng nhiên tâm con rơi vào trạng thái tê liệt không thể viết được bất cứ gì.

Điều thày mong con lưu ý là sự sáng tạo đòi hỏi một số quyết định nơi con. Đó không phải là một kinh nghiệm thụ động nơi con thụ động ngồi chờ cảm hứng từ trên trời rơi xuống. Con có thể làm rất nhiều để mở tâm ra đón nhận dòng chảy Tánh linh. Có câu nói rằng: “Thánh linh thổi đâu thì thổi” (John 3:8) để diễn tả là con không thể dùng tâm vỏ ngoài để kiểm soát dòng chảy của Tánh linh. Con không thể dùng tâm vỏ ngoài và một tham vọng phàm phu để cưỡng ép dòng chảy của Tánh linh. Con yêu dấu, nếu con tìm cách ép buộc dòng chảy thì con sẽ không hòa điệu được với Tánh linh, với Thánh linh, với cõi tâm linh, với các chân sư thăng thiên. Con sẽ hòa điệu với các linh thể thấp hơn nơi cõi bản sắc thấp, cõi lý trí hay ngay cả cõi cảm xúc.

Suốt dòng lịch sử, một số nhà văn và nghệ sĩ đã hòa điệu với những cõi thấp đó và đã nhận được một luồng chảy từ các linh thể thấp đó xuyên qua họ, cho phép họ sản xuất – trong một số trường hợp – một lượng văn chương và thông tin to lớn khủng khiếp, hay một lượng họa phẩm, nhạc phẩm hay bất kỳ loại tác phẩm nào khác to lớn khủng khiếp. Đây không phải là những gì các thày gọi là sáng tạo chân chính vì đó không phải là đồng sáng tạo. Nó không đồng sáng tạo với cõi tâm linh mà đồng sáng tạo với một cõi thấp hơn vẫn thuộc về thế gian này.

Con không thể ép buộc Thánh linh, tuy nhiên con cũng không thể nhận được Thánh linh bằng cách ngồi chờ. Con tìm ra con đường trung đạo, con đường thẳng và hẹp nơi con giải quyết các chấn thương riêng của mình, khắc phục các phàm linh nội tại, những cái ngã nội tại, và nhờ vậy độ cởi mở trong tâm con được gia tăng. Con cũng cần trở nên ý thức hơn là con phải chọn trở thành cánh cửa mở, con phải chọn “làm” cánh cửa mở trong một số hoàn cảnh đặc thù. Nó đòi hỏi con lấy quyết định ý thức đó. Đó có thể là nhiều quyết định ý thức khác nhau, và như các chân sư khác có đề cập sáng nay, con sẵn lòng là Ki-tô trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó. Con sẵn sàng nhìn nhận là con có khả năng đó, con sẵn sàng với lên một ý tưởng cách mạng nào đó, hay ngay cả chỉ là một ý tưởng cao hơn mức tâm thức hiện thời của con một bực, hay cao hơn tâm thức những người chung quanh con một bực.

Con phải lấy quyết định này để mở tâm con ra. Sau đó, một khi con đã thông sạch tâm trí cùng bốn thể phàm hầu tạo khoảng trống cho ý tưởng thâm nhập vào, một khi con đã lấy quyết định ý thức là con sẵn lòng làm cánh cửa mở, thì khi đó Thánh linh sẽ chảy xuyên qua con. “Thánh linh thổi đâu thì thôi” có nghĩa là bất cứ khi nào có một khe mở, Thánh linh sẽ chảy qua đó vì các thày có quá nhiều điều muốn biểu đạt từ cõi tâm linh đến độ các thày không thể khó tính kén chọn: “À, người này không xứng đáng làm cánh cửa mở.” Ngay khi có một cánh cửa mở ra, các thày sẽ lập tức biểu đạt qua người đó một điều gì thích hợp với hoàn cảnh, thích hợp với mức tâm thức của người đó, vân vân.

Con thấy đó, con yêu dấu, trái với một ý tưởng đôi khi được truyền tụng trong giới học trò của chân sư thăng thiên, không cứ là có một số người sẽ xứng đáng làm công cụ cho Thánh linh và một số người khác thì không. Một số có thể không cởi mở, một số có thể không sẵn lòng một cách ý thức, nhưng tất cả mọi người đều xứng đáng một khi họ nỗ lực chuyên tâm. Đây không phải là một câu lạc bộ chỉ dành riêng cho hội viên.

11.3. Khai ngộ trong Thời đại Song ngư

Thường có một tâm thức rất lâu đời ngay cả trong giới đệ tử tâm linh, trở ngược lại từ thử thách của Thời đại Song ngư, là những gì con thấy đã xảy ra cho Giê-su. Thày Giê-su đã đến đây để nêu gương là mọi người đều có khả năng khoác vào tâm thức Ki-tô. Thế rồi sa nhân đã thành lập Giáo hội Công giáo, tạo ra hình ảnh Giê-su là hiện thân độc nhất của Ki-tô, ngụ ý rằng không ai khác có thể làm được vậy. Làm sao người ta tin được chuyện này? Tại sao biết bao người đã ở lại trong Giáo hội Công giáo, nhiều khi còn tái đầu thai hết kiếp này sang kiếp khác trong Giáo hội Công giáo? Tại sao biết bao người Công giáo vẫn tin vào chuyện đó?

Tất nhiên đó là vì họ đã không hội đủ điều kiện và đã không vượt qua được khai ngộ của Thời đại Song ngư, là khắc phục sự sùng bái thần tượng do sa nhân tạo ra khi bảo rằng chỉ có một số người mới xứng đáng. Con cần dần dần nhìn ra quyền tự quyết là quyền tự quyết, và tự nhận biết là tự nhận biết. Mọi sinh thể tự nhận biết – tức là tất cả mọi người đầu thai trên địa cầu – đều có một đốm sáng của tâm thức Đấng Sáng tạo. Không có một đốm sáng nào của tâm thức Đấng Sáng tạo có thể xứng đáng hơn một đốm khác. Tất cả các con tự thân đều xứng đáng bởi con có tự nhận biết. Câu hỏi có thể đặt ra là: “Con đã chứng đạt đến đâu, con đến từ đâu, bốn thể phàm của con cởi mở và được chữa lành đến đâu?” Đây không phải là vấn đề xứng đáng, mà là vấn đề rộng mở để đón nhận Tánh linh.

Trong Thời đại Song ngư có thử thách phải khắc phục hình ảnh giả trá do sa nhân tạo ra là có sự phân chia giữa người có và người không có, giữa người xứng đáng và người bất xứng, giữa giai cấp quý tộc và giai cấp dân giã cùng tất cả mọi người dân khác – quá nhiều những phân chia như vậy. Hiển nhiên con cũng thấy sự thể này trong các phong trào tâm linh, thường hay sùng bái vị đạo sư của mình, cho rằng đạo sư là một người thật đặc biệt với một cái gì không ai khác có được – vì nếu không thì làm sao họ thành đạo sư hay sứ giả chứ? Họ là đạo sư hay sứ giả – một đạo sư hay một sứ giả chân chính – là vì chính họ đã bước trên đường đạo và đã chữa lành bốn thể phàm đến mức họ có thể nhận được một cái gì từ trên, nhưng điều này vẫn không biến họ thành một người xứng đáng hơn mà chỉ có nghĩa là họ đã tiến xa hơn trên đường tu. Tất cả các con đều xứng đáng như nhau, tất cả đều có một tiềm năng đồng đều để nâng cao tâm thức, chữa lành bốn thể phàm của mình và trở thành cánh cửa mở.

11.4. Tôn trọng quyền tự quyết của chính mình

Khi con làm vậy, con sẽ cảm thấy Tánh linh tuôn chảy xuyên qua con, như quả thật nhiều người trong các con đã cảm nhận được ở một mức độ nào đó. Điểm thày muốn nhấn mạnh ở giai đoạn này là con phải lấy một quyết định, đúng hơn nhiều quyết định, nhưng con phải lấy quyết định là con sẵn lòng làm cánh cửa mở, con sẵn lòng nhận được một điều gì và sẵn lòng biểu đạt điều đó – bất kể phản ứng của người khác là gì. Thày hiểu rất rõ, các thày đều hiểu rất rõ, là trước khi con đến được điểm có thể nói: “Tôi sẽ biểu đạt điều này cho dù chuyện gì xảy ra,” thì con cần chữa lành tâm lý con phần nào. Chắc chắn con cần xem xét và tách ra khỏi ngã gốc, là ngã được tạo ra khi con bị sa nhân trấn áp tàn bạo trong kiếp đầu thai đầu tiên và quyết định là mình sẽ không bao giờ nhận chịu rủi ro này nữa. Có thể sẽ có một giai đoạn khi con phải khắc phục nỗi sợ hãi này để con sẵn sàng chấp nhận rủi ro.

Con yêu dấu, khi con bắt đầu nhìn vào ngã gốc và tách mình ra khỏi nó, con sẽ cảm nhận là lòng sợ hãi hậu quả, ý niệm rủi ro, tan biến mất. Con có thể đạt tới điểm nhận ra là mình không còn cơ chế đền bù, không còn mong muốn trừng phạt sa nhân. Con cũng không có mong muốn được người khác chấp nhận hay công nhận, vì con không còn sự bất an trong bản thân khiến con muốn được người khác chấp nhận. Con có thể đạt tới điểm con nhìn nhận là mình hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết. Khi con tôn trọng quyền tự quyết của người khác, điều này có nghĩa là lúc con phát biểu để thể hiện một ý tưởng cao hơn, thì con cũng để cho mọi người tự do phản hồi hay không phản hồi theo bất cứ cách nào họ muốn.

Con cũng có thể nhận ra là trong khi con tôn trọng quyền tự quyết của người khác (và hầu hết các con đều tôn trọng) thì con cũng cần có một sự tôn trọng bình đẳng đối với quyền tự quyết của chính con, và điều này có nghĩa là con phải quyết định là các chọn lựa của con sẽ độc lập với chọn lựa của người khác. Con sẽ không rơi vào một phản ứng tiêu cực đối với hành động của mình chỉ vì có ai đó không chấp nhận hay bác bỏ con. Con sẽ không bảo: “Ồ, tôi sẽ không bao giờ nói lên gì nữa.” Con không phải có phản ứng tiêu cực nào hết, và con không cần cảm thấy bị người khác chối bỏ nếu họ không chấp nhận những gì con nói.

Con có thể đạt tới điểm, con yêu dấu, khi vấn đề không còn đặt ra là con có ở trong tâm thái nhị nguyên nghĩ rằng mỗi khi con phát biểu thì người khác phải có phản ứng, và phản ứng này sẽ tích cực hay tiêu cực. Con có thể đạt tới điểm thậm chí con không nghĩ cả tới phản ứng có thể như thế nào. Ngay từ đầu, con đã để cho người khác tự do muốn phản ứng thế nào cũng được vì con biết chính con đã tự do không phản ứng tiêu cực lại phản ứng của họ.

Con có thể đạt tới điểm con không tự biểu đạt vì con muốn cứu nguy thế giới, thay đổi người khác hay được người khác chứng thực. Con chỉ tự biểu đạt vì đây là sự biểu đạt con người mà con là, Bản thể cao hơn của con, và đó chính là điều đem lại cho con niềm vui tột bực trên trái đất.

Con yêu dấu, thày có thể cam đoan với con là khi con đến được điểm này, khi con nhận biết một cách ý thức là con nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, sẽ có một dòng chảy từ Hiện diện TA LÀ và những gì chảy xuyên qua con là một biểu hiện của cá thể tâm linh của con. Tuy nó được lọc qua cá thể mà con mang ở dưới này, nhưng nó vẫn giữ được một yếu tố tinh khiết nào đó biểu hiện cá tính đích thực của con. Rồi thì con sẽ trải nghiệm một niềm vui lớn hơn mọi niềm vui con đã từng trải nghiệm khi con chỉ hành động qua ngã phàm phu. Thật sự không có hoạt động nào con làm dựa trên ngã phàm phu có thể đem lại cho con một niềm vui như thế, cũng như cảm nhận tràn đầy mà con có khi con cảm được dòng chảy của Tánh linh và biết rằng con đang đồng sáng tạo.

11.5. Tự thân đó đã là phần thưởng

Đó là tại sao khi con đến được điểm này, việc biểu đạt Bản thể cao hơn của con tự thân nó đã là một phần thưởng. Cho nên Giê-su mới nói: “Con có muốn phần thưởng trên thiên đàng hay phần thưởng dưới trái đất?” Con nhận ra đây là phần thưởng trên thiên đàng và nó cao hơn tất cả mọi phần thưởng con có thể nhận được trên trái đất. Do đó con có khả năng giải thoát người khác. Con có khả năng giải thoát chính mình, và cuối cùng con có thể trụ trong trạng thái liên tục mở rộng với Tánh linh. Con không đang phán xét, đánh giá hay phân tích, mà con chỉ đang biểu đạt bất cứ gì đến với con.  

Thày vẫn biết một số người sẽ nói ngay lập tức: “Ủa, có nghĩa chăng là những người như vậy sẽ làm bất cứ gì họ muốn?” Đúng vậy, có nghĩa là họ sẽ làm bất cứ gì “họ” muốn, nhưng không phải bất cứ gì mà tự ngã của họ muốn. Khi người ta bảo: “Ồ, anh kia có thể làm bất cứ gì anh ấy muốn,” người ta thường ngụ ý anh đó là một người tuân theo tự ngã, anh có thể làm bất cứ gì mà tự ngã muốn cho dù hậu quả có là gì đối với người khác. Lẽ tự nhiên khi con hành xử từ cái ta cao hơn của con và cái ta cao đó trụ trong sự hợp nhất, nó sẽ không làm gì gây tổn thương cho người khác. Nó sẽ làm điều gì khiến cho người khác bị xốn xang hay khích động, bởi vì đó có thể là cách duy nhất có hy vọng đánh thức được họ.

Tất nhiên, một lần nữa con có thể nói, liệu Hiện diện TA LÀ của con sẽ ngồi dậy và bảo: “À há, tôi biết chính xác cách nào tôi có thể bấm trúng cái nút mà người đó nhạy cảm.” Không, Hiện diện TA LÀ của con không làm vậy. Nó chỉ tự biểu đạt chính nó, và sự biểu đạt này khác xa mức tâm thức của người kia đến độ người kia trải nghiệm như một sự khích động. Hiện diện TA LÀ không tìm cách cố tình khích động, mà nó chỉ tự biểu lộ như nó là. Đó là vì sao con có thể đạt tới điểm, ngay cả khi người kia bị khiêu khích và nổi giận hay chối bỏ con, thì con vẫn không bị dao động. Con cho phép họ có phản ứng mà họ đang có, nhưng con không cho phép phản ứng này khiến lần sau con không muốn làm cánh cửa mở nữa.

Vậy thì con cần những gì để đạt tới điểm làm cánh cửa mở và biểu hiện một yếu tố của bản thể cao hơn của con, do đó cũng biểu lộ những khía cạnh sáng tạo hơn, tiềm năng cao hơn trong Sứ vụ Thiêng liêng của con? Một lần nữa, đây là vấn đề chọn lựa và ngày càng làm thêm nhiều chọn lựa có ý thức. Điều thày muốn trình bày với con là con đạt tới điểm con cần kinh qua một giai đoạn ngày càng ý thức hơn về sự kiện con đang lựa bỏ, con đang chọn ra những gì mình không cần nữa.

11.6. Lựa bỏ khỏi đời mình

Nhiều người trong các con đã làm việc đó để bước chân trên đường tu nhưng con có thể ý thức hơn về tiến trình này. Con cảm nhận là một hoạt động mình đã từng tham gia hay một số người mình đã từng dành thời gian với họ, quả thật khiến con bị xao lãng. Thày cũng biết là con có thể đáp lại với tâm vỏ ngoài: “Nhưng chẳng phải Giê-su đã dạy là chúng con cần đạt tới điểm mình nhìn lại đời mình mà không có tiếc nuối nào hay sao? Bởi vì bất cứ gì chúng con sống qua đều là trải nghiệm chúng con cần có.” Phải, con yêu dấu, điều đó đúng – khi con nhìn lại quá khứ. Nhưng con yêu dấu, điều đó không có nghĩa là bởi vì con không cần nuối tiếc những việc mình đã làm trước đây thì con cũng cần tiếp tục làm cùng những việc đó cho tới mãn kiếp này.

Điều thày muốn nói là khi con bước vào giai đoạn ý thức hơn này, con cần nhận thức hành tinh này là một hành tinh rất đa dạng. Trên hành tinh có rất, rất nhiều sinh hoạt khác nhau. Một số sinh hoạt có thể rất hào hứng, nhưng một số khác là do sa nhân cố tình lập ra trong mục đích duy nhất là đánh lạc hướng mọi người khỏi con đường tăng triển tâm linh hay Sứ vụ Thiêng liêng của họ. Có rất, rất nhiều sinh hoạt trên địa cầu mà hầu hết mọi người đều xem là những trải nghiệm hay hoạt động bình thường, chính đáng, thậm chí còn là sáng tạo, nhưng mục đích duy nhất của chúng, thực sự, là khiến con bị phân tâm, xao lãng – chúng hút năng lượng cùng sự chú ý của con vào những chuyện có thể vui nhộn, có thể bổ ích hay ngay cả có vẻ lợi lạc và vị tha. Nhưng đối với con, đó là một sự phân tâm lôi kéo sự tập trung của con ra khỏi Sứ vụ Thiêng liêng cùng các khía cạnh sáng tạo hơn của Sứ vụ.

Lẽ tự nhiên, tất cả các con đều đã lựa bỏ nhiều thứ ra khỏi đời mình vì con cảm thấy chúng không giúp ích gì cho sự tăng triển tâm linh. Còn có nhiều hoạt động và nhiều thái độ hơn nữa mà con có thể lựa bỏ khi con trở nên ngày càng ý thức và càng làm thêm nhiều chọn lựa ý thức. Các thày có nói là con sẽ không bao giờ nhìn thấy toàn bộ Sứ vụ Thiêng liêng của con vì thật ra nó được định đoạt mỗi khi con có chọn lựa. Dù sao thì khi con mở tâm ra tiến trình này – ngay cả khi con chỉ đào sâu cái gì làm cho mình xao lãng, cái gì không – thì con sẽ bắt đầu đạt được một tư thế tập trung hơn.

Lần hồi con sẽ càng chú tâm và nhìn thấy rõ hơn vai trò đặc trưng mà con muốn cống hiến trong kiếp này là gì. Xong con sẽ cảm nhận rõ hơn: “Ồ, hoạt động này thật ra không hỗ trợ việc làm mà tôi đến đây để làm. Kỳ thực nó đang tước mất sự tỉnh thức cùng năng lượng của tôi ra khỏi việc làm.” Bỗng nhiên tự dưng con nhận ra: “Bây giờ là lúc tôi cần lựa bỏ cái này đi.” Nhận thức tự phát này sẽ không đến với con cho tới khi con quyết định một cách ý thức là con sẵn lòng xét xem hoạt động nào chỉ là một xao lãng và hoạt động nào thật sự nằm trong Sứ vụ của con.

Điều này mang nhiều hệ quả, và theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là cho hết phần còn lại của đời con và cho tới khi con thăng thiên, con sẽ lựa bỏ đi một số thứ không còn phù hợp với mức tâm thức con đã vươn tới. Thày chỉ đơn giản muốn con nhận biết nhu cầu mở tâm ra để thỉnh thoảng con lui lại một bước, nhìn cuộc đời và tự hỏi: “Tôi thực sự đang ở đây để làm gì?”

11.7. Lựa bỏ những sinh hoạt tâm linh

Đối với nhiều người trong các con, một phần của đường tu tâm linh là tham gia vào một số hoạt động mà con có thể xem là tâm linh, bổ ích, vân vân. Thày không hề trách cứ con đã tham gia, nhưng nhiều các con sẽ thấy là tới một điểm con sẽ nhận ra là con không cần đến chúng nữa. Chúng không thực sự là lý do tại sao con có mặt ở đây, không phải là những gì con tới đây để đem lại.

Con thấy đó, khi con nhìn vào lãnh vực tâm linh hay phong trào Thời Mới, nhiều người chỉ ham tò mò. Như các chân sư khác có đề cập, họ nhảy vào đủ loại sinh hoạt từ việc đọc hào quang, bói toán, chiêm tinh học, bói bài tarot, cái này cái nọ cho tới việc đọc tiền kiếp, thần thông, bất kỳ… Có hẳn một hiện tượng gồm những sinh hoạt được người ta trình bày là tâm linh nhưng mục đích chủ yếu của hầu hết đơn giản chỉ là khiến cho người tâm linh bị lạc đường khỏi mục tiêu tâm linh và Sứ vụ của mình. Một lần nữa, có thể là một số các con đã có nhận thức về một số tiền kiếp hay con tò mò muốn biết tiền kiếp của mình là gì, nhưng liệu điều này – việc bỏ thời gian và năng lượng để cố tìm hiểu mình là ai trong một kiếp trước – có thật thiết yếu cho Sứ vụ Thiêng liêng của con hay không?

Câu hỏi này cũng có thể đặt ra cho nhiều sinh hoạt khác. Nhiều người tâm linh đã trải qua một thời kỳ đeo đuổi những thứ như chiêm tinh học, số học, hay bất kể chuyện gì khác, nhưng cuối cùng thì con có thể đạt tới điểm nhận ra: “Tôi không cần cái này nữa, tôi không cần nó nữa ở mức tâm thức hiện thời của tôi.” Và khi đó, con có thể chú tâm ngày càng nhiều hơn vào những chuyện thiết yếu.

11.8. Ý định thay đổi người khác

Thế rồi tất nhiên, còn có một cám dỗ khác cũng phổ biến, vì nếu con đã đến đây như một avatar, con cũng đến với một mong muốn cải thiện địa cầu. Như sứ giả này đã ngộ ra sau khi ông nhận được các lời dạy mới nhất về ngã gốc, chính mong muốn cải thiện địa cầu này kỳ thực đã là điều ông cần khắc phục bằng cách đến địa cầu. Ông đã không khắc phục được nó trên một hành tinh tự nhiên cho nên ông đã chọn xuống trái đất, một hành tinh khó thay đổi quá đỗi, hầu tạo cho mình một cơ hội cùng cực để vượt qua mong muốn thay đổi người khác – và nói cho cùng, để thay đổi bất cứ gì.  

Con yêu dấu, con nhận thấy đó, có một sự khác biệt cơ bản giữa ý định thay đổi người khác và việc làm cánh cửa mở để Hiện diện TA LÀ tự biểu đạt xuyên qua con. Phải thật tinh tế thì mới hiểu được điều này, vì lẽ tự nhiên, các chân sư thăng thiên mong muốn nhìn thấy thay đổi trên địa cầu, nhìn thấy hành tinh này vươn lên tới mức con người không còn khổ đau mà lại tăng triển tâm linh một cách ý thức. Các thày đã vượt quá mức tâm thức nhị nguyên cho nên không còn ý định nhị nguyên dựa trên tư duy cuồng đại muốn đem lại một thay đổi lớn lao nào đó. Sự khác biệt ở chỗ là các thày hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết.

Nếu con đã đến địa cầu với ý định thấp hơn kia, con có thể bảo đó là một ý định nhân từ và thày sẽ không bác bỏ điều này. Đúng là một ý định nhân từ, nhưng không theo nghĩa tối hậu vì con vẫn dính mắc. Con đến đây với ý định đó, và một cách vi tế, nó vẫn nằm trong tư duy cuồng đại. Nó không cuồng đại theo cách cực đoan mà con thấy nơi sa nhân khi chúng sẵn sàng giết hại người khác để đeo đuổi đại nghĩa tối hậu của chúng. Không như sa nhân, con không tin rằng cứu cánh biện minh cho phương tiện. Nhưng dầu sao thì con vẫn cho rằng việc nhẹ nhàng thúc ép người khác để khiến họ khắc phục khổ đau của họ là một việc tốt. Đây chính là điều con cần vượt qua ở đây trên trái đất.

Con thấy đó, có rất, rất nhiều đại nghĩa khắp thế giới được miêu tả theo một cách để thu hút chú ý của người tâm linh. Khi con nhận biết là cuộc sống có một khía cạnh tâm linh, có một con đường tâm linh và có tiềm năng thị hiện một thời đại hoàng kim thì, một lần nữa, con đã buộc cái đó vào ý muốn đã đưa con xuống hành tinh này. Cho nên con lý luận với tâm vỏ ngoài: “Chắc chắn tôi ở đây để thay đổi địa cầu. Tôi ở đây để đem lại một thay đổi tích cực. Tôi có thể làm gì đây? À, có đại nghĩa này, có đại nghĩa kia, và có thêm đại nghĩa kế tiếp nữa kìa.”

Nhiều người trong các con đã kinh qua một giai đoạn với quá nhiều thứ mình muốn làm để cải thiện tình trạng trái đất đến độ con bị kiệt sức. Chú ý của con bị phân tán mỏng vì có quá nhiều đại nghĩa con muốn giúp quảng bá. Con yêu dấu, con có nhận ra đây không phải là điều sẽ có thể đưa con lên những tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng hay không, bởi vì không một người nào trong các con đang ở đây để giải quyết tất cả mọi vấn đề trên trái đất? Không một người nào trong các con có thể làm được chuyện này! Khi con hiện thân trong cõi vật lý, con bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Mỗi ngày vẫn chỉ có 24 tiếng đồng hồ, và con cần ngủ một số giờ trong số đó. Con chỉ có một số giờ nhất định để thức, một lượng chú ý nhất định, một lượng năng lượng nhất định để bỏ vào một công việc nào đó.

Điều thày muốn nói là ở những giai đoạn sơ khởi của đường tu, điều này hoàn toàn tốt thôi – con vô cùng nhiệt tình, con muốn giúp chuyện này chuyện nọ rồi chuyện kia nữa, rồi cứ thế con ôm quá tải. Một khi con bắt đầu chuyển sang giai đoạn ý thức hơn của Sứ vụ, giai đoạn sáng tạo hơn, con cần xem xét ngay cả những đại nghĩa đang thịnh hành ở ngoài kia. Con có thể phản bác: “Đó không phải là những trò giải trí do sa nhân dựng lên mà là những công cuộc đáng làm.” Có lẽ có người đã ghi vào Sứ vụ của họ ý định đeo đuổi những công cuộc như vậy, nhưng con cần cân nhắc: “Liệu những tầng cao của Sứ vụ đang bảo tôi cống hiến năng lượng của mình cho những công cuộc này chăng?” Một khi con bắt đầu thành thật xem xét và sẵn sàng lựa bỏ những việc nào không thuộc vào Sứ vụ cao hơn của con, thì con sẽ bắt đầu có một viễn quan minh mẫn hơn về trọng tâm của mình, về chuyên môn của mình, về lãnh vực nơi con có khả năng tạo được thay đổi.

Thế rồi con có thể lần hồi lựa bỏ tất cả những hoạt động không còn góp phần vào đó. Và con sẽ thấy là tâm con sẽ ngày càng hòa điệu, càng tập trung, càng đứng thẳng hàng, càng hài hòa với Hiện diện TA LÀ của con. Và do đó con sẽ cảm thấy một niềm vui và một quyết tâm ngày càng lớn hơn. Đây không thực sự là một ý chí vỏ ngoài mà đơn giản là một mong muốn tự phát để tập trung vào lãnh vực đó hầu đem nó vào hiện thực.

11.9. Tập trung nhưng không mất quân bình

Điều vừa rồi, con yêu dấu, không nên được diễn giải là con trở thành loại người giống như hình ảnh nhà bác học ngông cuồng, một người không bao giờ rời phòng thí nghiệm, mê mải viết công thức trên bảng đen để giải phương trình, quên hết mọi sự và không biết làm công việc gì khác. Như các thày đã nói, con vẫn có thể sống một cuộc đời tương đối bình thường, năng động trong xã hội. Con vẫn làm những gì con cần làm, có lẽ kiếm sống, nuôi con, bất kỳ công việc gì khác.

Chỉ có điều là trong tâm con, con biết có một hoạt động là trọng điểm chính yếu. Cũng có thể con biết là việc nuôi dạy con cái là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Cũng có thể có một lãnh vực mà con cần học hỏi nghiên cứu vì con có tiềm năng đưa ra một số ý tưởng mới. Những thứ đó không xung khắc với nhau. Con chỉ nhận ra đó là một phần của Sứ vụ, có thể việc làm và sự nghiệp của con cũng nằm trong Sứ vụ. Gia đình, con cái của con là một phần của Sứ vụ và cả lãnh vực học hỏi nữa. Con yêu dấu, tham dự khóa học này hay tham dự khóa học kia, hay chạy đôn chạy đáo có thể không nằm trong Sứ vụ của con, cho nên con có thể lựa bỏ những thứ này đi.

Một lần nữa, một sự cân bằng cần được tìm thấy. Con không thể cứ tập trung hoài hoài vào một thứ thôi. Khi con tăng triển tâm thức ngày càng cao hơn, con có thể trở nên ngày càng tập trung hơn, nhưng con vẫn cần chút thời gian để thư giãn, để làm gì khác hơn.

Như sứ giả này được nhắc nhở sáng nay, sau khi đức Phật đạt đến giai đoạn giác ngộ và nhập niết bàn, thày đã bước trở ra khỏi niết bàn, đi vào xã hội và thiết lập một đạo tràng nơi thày khởi sự giảng dạy. Có nhiều đệ tử gia nhập và thày đã giảng dạy. Đây là vị Phật đã chứng quả giác ngộ nhưng dẫu vậy, mỗi năm thày chỉ dạy chín tháng mà thôi, còn ba tháng kia thày sống ẩn dật và thiền định. Nói cách khác, thày làm một việc gì khác hơn, thày nghỉ ngơi và thư giãn khỏi việc giảng dạy. Một lần nữa, con cần thực tế và nhìn nhận là cho dù con có chú tâm đến đâu thì để có được một cuộc sống tương đối năng động, bình thường, con cũng cần dành ra thời gian để làm gì đó chỉ giản dị là thư giãn. Con đưa tâm mình ra khỏi các hoạt động kia của cuộc sống bởi vì, ít ra cho tới khi con đạt đến những tầng nhận biết cao nhất, tâm con cần được xả hơi.

Thật ra thày có thể nói là ngay cả ở tầng tâm thức thứ 144, tâm con không thể cứ chú tâm vào cùng một chuyện hoài hoài. Con cần bước ra ngoài, con cần xả hơi. Một ví dụ là các nhà khoa học, suốt nhiều tuần lễ họ có thể tập trung vào một vấn đề nhất định để cố giải một bài toán vật lý, họ không ngừng viết công thức và này kia nọ. Thế rồi tâm họ mệt mỏi đến độ họ chịu thua, họ đi câu cá, và trong khi họ đứng đó với cần câu trong tay thì đùng một cái, lời giải đến với họ trong một tia chớp trực giác.

Con cần cả alpha lẫn omega, qua đó con chú tâm trong một thời gian, rồi con cần bước vào omega là khi con thư giãn và làm việc gì khác. Một số các con có thể tìm được thế quân bình này khi có lúc con sẽ tập trung vào công việc của mình, và có lúc khác con sẽ thư giãn với gia đình để nó trở thành một phần trong việc nuôi dạy con cái. Một số người khác có thể cần những loại sinh hoạt khác hơn, như đi vào thiên nhiên, làm gì đó khác lạ sẽ đơn giản kéo tâm họ ra khỏi tập trung. Con hãy lựa bỏ những hoạt động nào không nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình, nhưng con đừng trở nên cứng nhắc hay cuồng tín đến độ bỗng nhiên, như một số học trò của chân sư thăng thiên đã làm, con cho rằng bất cứ lúc nào trong ngày con cũng phải đang học tập giáo lý, hoặc nếu không thì con phải đang đọc chú đọc thỉnh.

11.10. Sống năng động trong xã hội

Con thấy đó, nhiều người tìm thấy đường tu tâm linh và bỗng nhiên họ quyết định tham gia một khóa nhập thất và họ sẽ khoanh chân thiền định càng nhiều giờ càng tốt. Một số người tại Ấn Độ cũng có khái niệm đi lên hang đá trên núi Himalaya để ngồi đó một mình trong một thời gian rất dài. Đối với một số người, đây có thể là một việc chính đáng, nhưng con đừng dùng ví dụ này để diễn giải là nó cũng chính đáng cho mọi người.

Như các thày có nói, nhiều người trong số các con trong kiếp đầu thai này đã tình nguyện, và đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng của mình, là con sẽ chứng tỏ cách làm thế nào người ta có thể bước chân trên đường tu tâm linh mà vẫn sống một cuộc đời năng động trong xã hội. Ở đây các thày không bàn đến chuyện con rút lui khỏi xã hội, rút lui khỏi gia đình hay rút lui khỏi các sinh hoạt khác, mà các thày chỉ muốn nói là trong thế giới cũng như trong đời con, có nhiều hoạt động trên cơ bản là chuyện xao lãng, phân tâm. Chúng có thể là những công cuộc đáng thực hiện nhưng con không ở đây để đặt trọng tâm vào đó.  

Khi con bước lên cao hơn, con cần ghi nhớ trong tâm là càng ngày con sẽ càng bắt đầu thu hoạch một viễn quan chọn lọc hơn về những gì con cần tập trung trong kiếp này, những gì mà chính con đã chọn chú tâm vào. Xong con chỉ lựa bỏ đi những hoạt động nào không phù hợp với viễn quan đó, nhưng con vẫn duy trì một cách sống bình thường như con vẫn sống, hoặc có lẽ con sẽ thay đổi cách sống đôi chút để nhổ đi những loại sinh hoạt đang làm tiêu hao năng lượng cùng sự chú ý của con.

Con yêu dấu, con nhìn vào thế giới và thấy có rất nhiều cách để đo đạc sở hữu của con người. Chẳng hạn: “Thế nào là một người giàu có? Có phải là một người có rất nhiều tiền, rất nhiều tài sản vật lý? Có phải là một người có nhiều tài năng? Có phải là một người có nhiều thì giờ?” Ấy, thày sẽ nói đó là một người có sự chú ý, sự chú ý còn sót lại để tập trung vào những điều quan trọng mà người đó muốn cống hiến. Con cần lưu ý đến sự kiện là trong thế gian có rất nhiều hoạt động đang lôi kéo sự chú ý của con, nhưng con hãy giữ cho sự chú ý của mình được tập trung vào điểm trọng tâm của Sứ vụ Thiêng liêng của mình. 

Và như vậy, thày đã trao cho con những gì thày muốn trao trong bài giảng này, và thày cảm ơn con đã trao sự chú ý của con cho thày.

3 | Khắc phục nỗi sợ sai trái

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 19/5/2018 nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

Thày là chân sư thăng thiên Mẹ Mary, và thày muốn xây đắp thêm trên nền tảng những lời dạy của bài giảng vừa rồi. Thày đã xin con thử hình dung là con được nâng lên tới tầng mức của thày và nhìn xuống địa cầu, nhìn vào tất cả mọi nhóm người và thấy họ đều mang một trạng thái tâm thức nào đó. Họ đều có một số điểm tắc nghẽn trong bốn thể phàm khiến các thày khó lòng đưa ra một thông điệp chạm được tâm ý thức của họ. Thày cũng đã xin con nhìn vào bản thân con cũng như cách con đã lập ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình từ một trạng thái tâm thức cao hơn tâm thức con mang lúc con bước vào kiếp đầu thai này. Điều thày muốn trình bày tiếp ở đây là trong công việc mà các thày đang làm có một nỗi khó khăn cơ bản, theo nghĩa là khi giảng dạy về cách phát hiện và thực hiện Sứ vụ Thiêng liêng, hiển nhiên các thày phải trình bày một cách tổng quát để lời dạy có thể áp dụng cho nhiều người khác nhau.

Con phải công nhận là khi con lập ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình, đó là một tiến trình hoàn toàn cá nhân. Con gặp gỡ các chân sư cùng các vị hướng dẫn thăng thiên của con và chúng ta cùng nhìn vào dòng sống của con. Chúng ta nhìn vào những dòng sống khác mà con có mối liên hệ, qua nghiệp quả hay những loại liên hệ nào khác, và chúng ta thiết lập một kế hoạch cá nhân cho con. Lẽ tự nhiên trong một bài giảng như thế này, các thày không thể trình bày cho mỗi con Sứ vụ riêng của từng người. Điều con cần làm là sử dụng lời dạy tổng quát để khám phá ra Sứ vụ cá nhân của mình – và con sẽ làm thế nào đây?

Con yêu dấu, con chỉ có thể làm được từ bên trong. Thày cũng biết trên thế giới có rất, rất nhiều người tâm linh chân thành muốn biết mục đích đời mình là gì, cho dù con gọi đó là Sứ vụ Thiêng liêng hay một cái tên nào khác. Có lẽ chính con cũng đã làm chuyện này, hay con biết có ai đã tìm đến các nhà thần thông đủ loại, từ đồng bóng, nhà chiêm tinh cho đến người đọc sấm và thày bói tarot… bất kể, để xin họ ban cho con những lời chỉ dẫn mà con xem – nếu có thể nói như vậy – là lời chỉ dẫn không thể nhầm lẫn đối với tâm vỏ ngoài của con, theo nghĩa là con có thể nghe được bằng tai. Con yêu dấu, dựa theo đó thì con có thể nói: “À bây giờ chúng ta đã có một sứ giả do các thày bảo trợ, tại sao chúng ta không chỉ yêu cầu vị sứ giả truyền đọc dùm từ các chân sư thăng thiên và nói cho mỗi người biết về Sứ vụ Thiêng liêng của chúng ta, mỗi người 10 hay 15 phút gì đó?”

Ngoài vấn đề thời gian giới hạn, trên lý thuyết thì chuyện này có thể làm được. Các thày sẽ cho phép con đặt câu hỏi và các thày sẽ trả lời, và tiện thể các thày có thể đọc những lời tiên tri loại đó cho cá nhân từng người. Con yêu dấu, con hiểu là nếu các thày làm chuyện này thì thật sự nó sẽ phần nào đánh bại mục đích của Sứ vụ Thiêng liêng của con chứ? Vì lý do đó, các thày không khuyến khích là một khi con đã đến tầng mức này của đường tu tâm linh, con lại tìm đến bất cứ ai để xin họ nói cho con biết con cần phải làm gì, con là ai, con phải hành xử ra sao, đâu là Sứ vụ Thiêng liêng và mục đích của con, các tiền kiếp của con là gì hay điều này điều nọ. Những thứ đó thuộc về một mức tâm linh khác.

Thày không chỉ trích bất cứ ai làm chuyện đó, nhưng thày muốn chỉ ra cho con thấy rằng giáo lý mà thày trao truyền ở đây không nhắm vào mức tâm linh đó. Chúng ta có thể gọi đó là tầng mức của những người tìm cầu một sự kích động, một loại hào hứng vượt ra ngoài cuộc sống thường nhật, gần như là một loại giải trí vậy. Chúng ta có thể gọi đó là “tâm linh tiêu khiển”, nhưng các thày không muốn tỏ vẻ tiêu cực hay phê phán vì mỗi người phải đi theo con đường mà mình cần đi. Mong rằng, lần hồi, họ sẽ nâng cao tâm thức của họ. Điều thày muốn chỉ ra cho con là đối với các con đã mở tâm ra với lời dạy này, thì các con đã nâng tâm thức mình vượt khỏi tầng mức cần đến những thứ đó. Cho nên con cần nhìn nhận một điều thật đơn giản. Như thày đã nói tối qua, con đã bước vào kiếp sống hiện tại ở một tầng tâm thức nào đó. Đúng, thày đã cảnh báo là con không được quá dính mắc với tâm đường thẳng, nhưng tất nhiên các thày cũng đã cho con một lời dạy đường thẳng là trên địa cầu có thể có 144 tầng tâm thức.

3.1. Xoay chuyển tâm thức có nghĩa là gì

Để làm ví du, chúng ta thử lấy một người bước vào hiện thân ở tầng 67, và người đó có tiềm năng chứng được tầng 120 trong kiếp này. Điều này có vẻ như một bước nhảy rất lớn trong tâm thức, nhưng đối với rất nhiều các con đang ở mức này của đường tu tâm linh, đó thật không là một bước nhảy lớn lắm. Một số các con có thể đã đi vào hiện thân ở gần tầng 96 và thật sự có tiềm năng đạt đến tầng 144 trong kiếp này – không phải tất cả các con nhưng một số. Con không cần lo lắng mình đang đứng ở đâu theo nghĩa đó, vì thày chỉ đang cho con một ví dụ là con bước vào ở một mức nào đó và con có tiềm năng vươn lên một mức cao hơn. Toàn bộ mục tiêu của Sứ vụ Thiêng liêng là dẫn con kinh qua một loạt những sáng ngộ nội tâm, giải quyết tâm lý và trải nghiệm vỏ ngoài sẽ tạo điều kiện cho sự tăng triển tâm thức đó từ mức thấp nhất lên tiềm năng cao nhất.

Việc xoay chuyển tâm thức đòi hỏi những gì nơi con? Con yêu dấu, nếu có một khuôn mặt thẩm quyền nào đó ở bên ngoài tiết lộ cho con biết đây là Sứ vụ của con, đây là những gì đúng lý con phải làm, thì liệu điều này sẽ xoay chuyển tâm thức của con hay không? Không đâu con! Sự kiện một khuôn mặt thẩm quyền bảo con phải làm gì rồi con cố làm theo như vậy, sẽ không đem lại xoay chuyển tâm thức. Hơn thế nữa, cho dù con nhận được chỉ bảo là chẳng hạn trong Sứ vụ, con phải trở thành một nhà khoa học hạt nhân cống hiến một khám phá mới sẽ thay đổi cách sản xuất năng lượng trên địa cầu, thì rất có thể con sẽ quyết định với tâm vỏ ngoài là mình sẽ học môn vật lý hạt nhân với mục tiêu đó trong đầu, nhưng thày có thể đảm bảo với con là con sẽ không thể tìm ra khám phá đó.

Để khám phá một điều gì, hay ngay cả để nhận ra những tầng cao hơn trong Sứ vụ Thiêng liêng cá nhân của mình, con cần đưa tâm thức của con đi lên. Đó là tại sao việc khám phá Sứ vụ Thiêng liêng không phải là một việc con có thể làm trong một bước mà thôi. Đó là một tiến trình lần hồi, tuần tự, sẽ tiếp tục suốt đời con. Con thấy đó, con yêu dấu, con ở tầng 67 khi con mới bước vào kiếp này và con có tiềm năng đạt tới tầng 120, nhưng con không cần quan tâm đến chuyện này khi con đang ở những giai đoạn sơ khởi của đường tu.

Hãy giả sử con khám phá đường tu tâm linh ở tuổi 18 và trong thời gian đó con đã tinh tấn cao hơn tầng 67 một chút và con đang ở tầng 70. Quan tâm chủ yếu của con không phải là đạt tới tầng 120 mà là đạt tới tầng 71. Xong khi con đạt được thì con cố bước lên tầng 72 và cứ như vậy. Điều thày nói tới ở đây là một điểm rất nhiều các con có thể không nghĩ đến nhưng kỳ thực tất cả các con đều đã biết một khi con suy nghĩ thật sự. Cái biết và cái hiểu về một giáo lý tâm linh không đồng nghĩa với sự xoay chuyển tâm thức.

Con có thể dùng tâm phân tích đường thẳng để biết và hiểu một lời dạy tâm linh một cách trí thức, nhưng con vẫn chưa thật sự chuyển dời từ tầng 70 lên tầng 71. Chỉ khi nào con xoay chuyển tâm con thì con mới có khả năng nhìn thấy và thực hành tầng kế tiếp của Sứ vụ Thiêng liêng. Con có thấy điều thày đang nói? Điều quan trọng là con nhận ra rằng việc phát hiện và thực hiện Sứ vụ của con là một tiến trình tác động qua lại sẽ tiếp diễn suốt đời con.

3.2. Không cần hốt hoảng

Đó là vì sao một số các con có thể sẽ nhìn lại đời mình và thắc mắc: “Liệu tôi đã đi theo Sứ vụ của tôi, liệu tôi đã làm gì sai sót hay không? À, thế cái lần tôi yêu người đó nhưng rốt cuộc mối quan hệ không đi tới đâu thì sao? Liệu có nghĩa chăng là một khía cạnh quan trọng trong Sứ vụ của tôi giờ đây bị chết yểu do quan hệ không thành? Hay có thể là do tôi đã lầm lỗi khi mình còn trẻ, hay tôi đã không học hành đến nơi đến chốn, hay tôi đã không tìm được việc làm kia?” Con có thể gần như rơi vào một tâm trạng hốt hoảng. Con hiểu là các thày không có ý trao cho con khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng để con rơi vào một trạng thái căng thẳng, hoảng sợ chứ con?   

Con cần nhìn nhận ở đây là con có thể nhìn ngược dòng đời và nói: “Liệu tôi có đã theo đúng Sứ vụ của mình hay không?” Nhưng thày sẽ hỏi: “Liệu con đã xoay chuyển tâm thức của con từ khi con bước vào kiếp đầu thai cho đến mức tâm thức hiện tại của con hay không?” Tất cả các con đều đã làm chuyện này, cho nên thày sẽ nói: “À như vậy thì chắc chắn con đã đi theo Sứ vụ Thiêng liêng của con rồi.” Có thể con chưa dời chuyển tâm thức nhiều đủ như con có khả năng dời chuyển. Toàn bộ mục tiêu của các thày khi trao cho con giáo lý này tất nhiên là để khiến con dời chuyển tâm thức đến điểm con bắt kịp mức tâm thức mà con đã có thể đạt được trong lý tưởng nếu con tinh tấn tối đa. Một số các con có thể hơi bị chậm trễ so với mức con đã có thể đạt đến, nhưng con có khả năng bắt kịp mau chóng bằng cách áp dụng những lời dạy mà các thày ban cho con. Nhưng đồng thời, con cũng đừng nên nuôi kỳ vọng là nếu con sử dụng giáo lý mà các thày đã ban ra (trong quyển sách này) thì chỉ trong vòng sáu tháng hay một năm, con sẽ thấy viễn quan toàn diện của Sứ vụ Thiêng liêng hiện ra trước mắt với nguyên một đoàn thiên thần thổi kèn bên sau.

Như thày vừa nói, con sẽ không thấy được trọn vẹn Sứ vụ của mình ở bất kỳ điểm nào trong đời con cho tới khi con sẵn sàng rời kiếp hiện thân. Khi đó, con sẽ nhìn thấy giai đoạn chót của nó. Con luôn luôn nhìn thấy từng chặng một. Tại sao vậy? Vì như thày nói, mục đích của Sứ vụ Thiêng liêng là để dời chuyển tâm thức con lên cao hơn. Làm thế nào con dời chuyển tâm thức chứ, con yêu dấu?

3.3. Không có chuyện cứu rỗi tức thì

Đây là một điểm mà rất, rất nhiều người tâm linh đã hiểu lầm. Nhiều người cho rằng việc bước lên một mức cao hơn trên đường tu tâm linh – cho dù họ giải thích cách nào hay diễn đạt cách nào đi nữa – chỉ là chuyện thu hoạch cái hiểu đó. Rồi khi họ có cái hiểu toàn diện, chân lý tuyệt đối, giáo lý tâm linh đẹp lộng lẫy đó, thì đùng một cái, họ sẽ giác ngộ.

Con yêu dấu, nếu con nhìn vào toàn bộ phong trào tâm linh Thời Mới, đa số người ta vẫn còn ngồi chờ “cái đùng” đó, nhưng nó sẽ không bao giờ đến. Việc dời chuyển tâm thức từ tầng 70 lên tầng 71 không phải là chuyện nhận được một sáng ngộ tối hậu nào đó. Ngay cả nếu con biết và hiểu mọi chuyện một cách trí thức, làm thế nào con sẽ chuyển dời tâm thức chứ? Kỳ thực con chuyển dời tâm thức bằng cách sử dụng mức tâm thức mà con đang có, nhưng một cách cao hơn hầu con thăng vượt mức đó.

Con có hiểu điều thày đang nói? Con không thể dời chuyển tâm thức từ tầng 70 lên 71 bằng cách tìm cầu một sáng ngộ tối hậu nào đó. Con cần một sáng ngộ con có thể nắm bắt với tầng 70 nhưng nó sẽ đưa con lên tầng kế tiếp. Đó không phải là một sáng ngộ hay một hiểu biết tối hậu. Quá nhiều người chạy theo sáng ngộ tối hậu đó. Họ cứ đuổi theo và đuổi theo mãi, họ đi từ vị thày này tới vị đạo sư khác, rồi từ đạo sư này tới vị thày khác, mong rằng vị này nắm được sáng ngộ tối hậu đó, cái sáng ngộ thứ 10 hay thứ 11 hay thứ 99, hay bất kỳ điều gì mà họ tìm kiếm. Con yêu dấu, đó không phải là cách thức con tăng triển trên đường tu.

Nếu con biết được mọi khía cạnh của Sứ vụ Thiêng liêng, nếu có ai đó bảo cho con biết, thì có xác suất cao là điều này sẽ ngăn cản con thực hiện Sứ vụ của con, vì như thày đã nói, mục đích chủ yếu của Sứ vụ là dời chuyển tâm thức. Con dời chuyển bằng cách sử dụng hiểu biết và sáng ngộ mà con đang có ở một tầng mức, nhưng con sẵn lòng nhìn xa hơn rồi có được một sáng ngộ trực giác sẽ đưa con lên tầng mức cao hơn. Đây không phải là chuyện hiểu, vì như các thày đã giảng, khi con hiểu một cái gì đó thì con đang nhìn nó từ xa. Con chỉ dời chuyển tâm thức khi con có một trải nghiệm trực giác, thần bí, trọn vẹn và bao hàm tất cả. Con yêu dấu, điều thật sự xảy ra là ở tầng 70 đó, con đang tự trải nghiệm mình một cách nào đó. Xong có một điều gì xảy đến thách thức cách nhìn của tầng 70. Nó thách thức những gì con cảm thấy thoải mái ở tầng 70. Xong trong khi con vẫn sẵn lòng xem xét nó mặc dù có một phần của tự ngã đang cảm thấy bực dọc với lời dạy, thì đó là lúc con có trải nghiệm nội tâm, trực nhận, qua đó con trải nghiệm sự thật của nó. Và trong khi con làm điều này, con cũng dời chuyển cách con trải nghiệm chính mình một chút. Thế là giờ đây con ở tầng 71. Đây không phải là một tiến trình trí thức mà một tiến trình trực giác. Đây là tiến trình dời chuyển chính bản sắc của con chứ không phải gia tăng cái hiểu trí năng.

3.4. Trải nghiệm sự xoay chuyển nội tâm

Con thấy đó, con yêu dấu, mặc dù các thày có nói là có những người tập trung trong cảm thể của mình, những người tập trung trong trí thể và những người trong bản sắc thể, đây không phải là chuyện dời điểm tập trung của tâm ý thức. Thật ra đây là chuyện dời chuyển ý niệm bản sắc của con. Đây là chuyện xảy ra ngay cả khi con tập trung vào tầng vật lý và con không nhận biết mình có một thể bản sắc. Con vẫn có khả năng đi từ một trạng thái tâm thức thấp hơn lên một trạng thái cao hơn bằng cách dời chuyển sự nhận biết mà không ý thức. Tất nhiên, khi con tập trung chú ý nhiều hơn vào thể bản sắc, con sẽ ngày càng ý thức nhiều hơn thời điểm con dời chuyển bản sắc của mình. Và như vậy con sẽ tiến bộ nhanh hơn vì con có thể sẵn lòng dời chuyển bản sắc một cách ý thức, con có thể tìm đến những sáng ngộ sẽ giúp con dời chuyển bản sắc.

Con yêu dấu, đây là những điểm quan trọng mà con cần ghi nhớ. Khi con nhận được quyển sách này, khi con khởi sự thực hành với nó, con đừng nên quá háo hức, quá vội vàng. Hãy dành thời gian để quán chiếu những sáng ngộ mà các thày đang cho con. Xem xét ý nghĩa của chúng chứ không chỉ hiểu băng trí năng, và tìm đến cái trải nghiệm xoay chuyển đó nơi con trải nghiệm ở bên trong sự thật của những lời thày nói.

Con yêu dấu, trên hành tinh này có một truyền thống rất, rất lâu đời là những vị đạo sư, những trường bí giáo. Người ta tin rằng có một vị đạo sư hay một cơ sở nào đó, và nếu con là một học trò thì con có thể đến đó tu học. Con cố là một học trò chuyên cần, và trường học hay đạo sư sẽ dẫn con qua một tiến trình khai ngộ qua đó con lần lần nâng cao tâm thức. Con yêu dấu, điều hoàn toàn có thể xảy ra là ngay cả khi con theo học một vị đạo sư hay một trường bí giáo chân chính và con nghĩ mình đang tinh tấn do đã gia tăng hiểu biết vỏ ngoài, nhưng con vẫn không đang chuyển dời tâm thức của con. Sự xoay chuyển tâm thức chỉ có thể xảy ra từ bên trong, nó không xảy ra vì có ai đó nói cho con một điều gì – cho dù con có một đạo sư chân chính nói cho con biết điều gì đó về trạng thái tâm thức của con hay phơi bày một khía cạnh tự ngã của con. Nếu con không nhận được sự xác nhận từ bên trong, nếu con không trải nghiệm sự thật của điều đó ngay bên trong, thì nó sẽ không xoay chuyển tâm thức của con.

Điều tương tự cũng áp dụng cho tất cả mọi giáo lý mà các thày đã trao truyền qua sứ giả này hay các sứ giả khác. Con có thể học hỏi, nghiên cứu, con có thể hiểu chúng với tâm vỏ ngoài, con có thể có khả năng trích dẫn chúng, nhưng liệu nó có sẽ xoay chuyển tâm thức con hay không? Không con ạ, trừ khi con trải nghiệm được ở bên trong. Trừ khi con sẵn sàng, như các thày có dạy, để cho cái Ta Biết bước ra ngoài bốn thể phàm của con, với lên Hiện diện TA LÀ của con, với lên các chân sư thăng thiên và trải nghiệm trực tiếp sự hiện hữu của một thực tại cao hơn tâm vỏ ngoài. Chỉ có khi đó thì con mới xoay chuyển.

3.5. Nỗi sợ sai trái

Điểm thày nói với con tối qua là xét xem có điều gì mà con đã trở nên thoải mái và đang ngăn cản con thấy được giai đoạn kế tiếp trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Lẽ tự nhiên, điều này có thể hoàn toàn cá nhân. Một số các con đã nhận được các sáng ngộ đó, và một số khác thì chưa nhận được và tự hỏi tại sao như vậy, nhưng thày sẽ cho con một lời dạy chung áp dụng cho tất cả các con. Lời này không nhằm áp chế sáng ngộ cá nhân của con, nhưng thày muốn chỉ ra cho con là có một điều, một tâm lý áp dụng cho mọi người trên địa cầu và do đó cũng áp dụng cho mọi người tâm linh.

Con yêu dấu, đâu là điều mà tất cả các con đều thoải mái? À, tất cả các con đều đã tìm được một mức độ thoải mái nào đó với ý tưởng là nếu con làm một số việc và không làm một số việc khác thì con không thể sai trái, con sẽ được yên ổn, con sẽ được chấp thuận. Có một nỗi sợ đã được lập trình trong mọi con người trên địa cầu – vì đây là một hành tinh dày đặc – rằng con có thể sai trái. Nó đến từ đâu? Nỗi sợ hãi đó đến từ đâu? Lẽ tự nhiên, nó đến từ sa nhân, và ngay từ khi chúng bắt đầu hiện thân trên hành tinh này, chúng đã tạo ra toàn bộ tư duy có cái đúng và cái sai – đó chính là tinh túy của nhị nguyên. Chỉ có một sự thật duy nhất và do đó mọi sự thật khác đều phải sai, như thày vừa trình bày hôm qua. Điều này áp dụng cho quá nhiều lãnh vực của cuộc sống, và như các thày đã từng nói, điều duy nhất mà sa nhân thật sự cần làm để tha hóa mọi chuyện trên địa cầu là phóng chiếu ra khái niệm phân biệt giữa đúng và sai. Một số chuyện thì đúng, một số chuyện thì sai.

Một khi tâm con người mang vào sự phán xét nhị nguyên tương đối đó thì tự động tiếp theo sau, con người cũng bắt đầu tạo dựng nỗi lo sợ là mình sai. Giờ đây các thày đã cho con giáo lý rằng nhiều người trong các con – ở đây thày đang nói chung chung chứ không chỉ các con – nhiều người tâm linh đã đến địa cầu như là avatar. Con đã đến đây để tạo một sự khác biệt tích cực cho hành tinh, rồi con đã trải nghiệm cách đối xử hung hãn của sa nhân khi chúng đánh gục con. Đâu là thông điệp mà chúng gửi cho con? Rằng con đã sai lầm khi con đến đây trên trái đất, con đã sai lầm khi con là chính con như một avatar trên trái đất, con đã sai lầm khi con biểu lộ con người thực của con, sự sáng tạo thực của con trên trái đất. Sự kiện đó đã cho con cái mà các thày gọi là chấn thương nhập đời. Và để đương đầu với cái đó, để sống còn về mặt tâm lý, con đã tạo ra điều mà các thày đã đề cập: những cái ngã nội tại, ngã gốc. Một phần của ngã gốc trong tất cả các con là con đã quyết định không muốn phải liên tục trải nghiệm cảm nhận là mình sai.

Mỗi người trong các con đã tìm ra cách riêng của mình để tạo dựng ý niệm: “Nếu tôi đứng yên trong vòng ranh giới nhất định này thì tôi sẽ không sai trái.” Tất nhiên, điều này đi ngược trở về thời điểm con bị chấn thương nhập đời nhưng con cũng có thể nhìn vào kiếp sống này. Con có thể thấy là con đã lớn lên và được xã hội dạy dỗ để có một số ranh giới. Nếu con ở trong vòng ranh giới đó thì con sẽ được xã hội nơi con sinh trưởng chấp nhận, con sẽ theo đúng chuẩn mực và xã hội sẽ không lên án con. Mọi người chung quanh, gia đình con cũng như môi trường của con sẽ không chê trách nếu con ngồi yên trong những ranh giới đó.

Điều thày chỉ ra cho con là tất cả các con đều mang những niềm tin vi tế đó, những cấu trúc cùng khuôn đúc trong bốn thể phàm, bảo rằng: “Nếu tôi ngồi yên trong những ranh giới này thì tôi không thể sai trái.” Thế rồi con cũng cảm nhận là chừng nào mình đứng trong ranh giới đó thì mình sẽ thoải mái. Con thoải mái là con không sai lầm theo những chuẩn mực của xã hội, tức rốt cuộc cũng là chuẩn mực của sa nhân. Con yêu dấu, bất kỳ xã hội nào mà áp đặt – lập trình công dân của mình – cái ý tưởng là có một số chuyện đúng và một số chuyện sai, thì xã hội đó đang bị sa nhân ảnh hưởng.

3.6. Chất vấn cái không thoải mái

Bây giờ lẽ tự nhiên, một số người nghe câu trên với tâm đường thẳng sẽ nói: “Liệu có nghĩa chăng là thày đang bảo không có gì đúng lẫn không có gì sai, và người ta có thể làm bất cứ gì họ muốn?” Tất nhiên là không! Như các thày đã từng nói, bất kỳ xã hội nào cũng phải quy định ra một số ranh giới. Hiển nhiên, ra đường giết người là không đúng. Điều thày nói tới ở đây không hẳn là về cách hành xử vỏ ngoài, mà nhiều hơn về cách cư xử nội tâm qua những niềm tin, những thái độ, nội dung của lời nói. Nói cách khác, vấn đề thực sự ở đây mà thày muốn con lưu ý là những gì đã được lập trình, cài đặt, trong các chuẩn mực mà mọi xã hội đều có, bảo rằng một số ý tưởng thì chấp nhận được còn một số ý tưởng khác thì sai trái. Nếu con tin vào những ý tưởng này thì con sai trái, và nếu con lên tiếng về những ý tưởng này thì con còn sai trái hơn nữa. Và nếu con dùng những ý tưởng này để hành động và thay đổi đời con thì con sai trái thực thụ.    

Lẽ tự nhiên, ở đây các thày không bảo người tâm linh đi ra ngoài kia làm đủ chuyện bất hợp pháp hay sai trái theo tiêu chuẩn bình thường của sự biết điều. Điểm các thày nói đến ở đây là con cần xét xem có những ý tưởng nào mà con sẽ không thoải mái chất vấn.

Nếu con sẵn lòng xem xét ở mức cá nhân, con sẽ có thể dần dần nhìn ra là có một số ý tưởng – cho dù chúng đến trong kiếp này hay trở về nhiều kiếp trước – mà con sẽ cảm thấy ray rứt nếu con phải chất vấn. Một cách để phơi bày sự thể này là đọc quyển sách Những kiếp sống của tôi, và con sẽ thấy nhiều người cảm thấy trong sách có những ý tưởng đã khiến họ day dứt do họ phải chất vấn những niềm tin hiện có. Tất nhiên là còn nhiều ví dụ khác như vậy, và thường khi giáo lý của các thày cũng có cùng tác động như thế.

Nếu con có thể nhận diện một ý tưởng mà con không muốn chất vấn – mà con cho là đương nhiên, mà con tin là một sự thật cao hơn – thì thày có thể cam đoan với con là cái đó nằm trong khuôn khổ thoải mái của con. Nó xuất phát từ sự kiện là nếu con không chất vấn ý tưởng đó thì con sẽ cảm thấy mình không thể sai trái, và chính điều này khiến con thoải mái.

Nếu con chất vấn ý tưởng đó, con sẽ hết thoải mái do con lo sợ mình có thể sai lầm và bị chê trách. Cho dù nỗi sợ này là gì đi nữa đối với cá nhân con – dựa trên trải nghiệm mà con đã có trong tiền kiếp khi con bị người ta bức hại thật khắc nghiệt – thì con lo sợ mình phải khui cái “hộp đầy sâu bọ” này ra và mình không thể biết trước điều gì sẽ xảy đến.

3.7. Quả vị Ki-tô và Sứ vụ Thiêng liêng của con

Điều thày mong chỉ ra cho con ở đây là nhiều người trong các con – là những người đã bước chân trên đường tâm linh một thời gian dài và đạt đến một mức tâm thức nào đó – các con đã tới điểm khi thử thách của con là biểu lộ một cách ý thức hơn quả vị Ki-tô mà con đã đặt vào Sứ vụ Thiêng liêng. Quả vị Ki-tô là gì? À, có nhiều cách định nghĩa, nhưng như thày Giê-su đã nêu ra mấy lần, quả vị Ki-tô là sự thách thức hiện trạng. Khi Ki-tô đi vào hiện thân, mục đích chủ yếu của Ki-tô Hằng sống trong hiện thân là thách thức hiện trạng và khiến cho con người nhận ra mình có một chọn lựa khác hơn là một trạng thái tâm thức đã trở thành một hệ thống khép kín. Thày có thể bảo đảm với con là đối với tất cả các con đã mở tâm ra những lời dạy này và đã đạt được một mức trưởng thành nào đó trên đường tu, thì các con đều đã đặt vào Sứ vụ của mình một yếu tố quả vị Ki-tô nào đó.

Các con ở đây là để thách thức hiện trạng một cách nào đó. Không cứ một cách tối hậu khi con đem lại một ý thức hệ mới, cách mạng, sẽ thách thức các ý thức hệ hiện hữu. Đối với nhiều người trong các con, con làm vậy ở mức cá nhân khi con thách thức cách nhìn của người chung quanh về một số vấn đề hay khía cạnh đời sống. Cách thức con đã trù liệu việc làm này có thể rất cá nhân, nhưng tất cả các con đều có yếu tố này trong Sứ vụ của mình. Điểm thày muốn dẫn con tới là con nhận ra rằng để có thể thực sự thấy và thực hiện điều này, con cần phải sẵn lòng nhìn vào nỗi sợ sai trái của con. Con cần nhận diện đây là một thành phần không thể thiếu của chấn thương nhập đời, một thành phần dính liền với ngã gốc. Như thày đã có nói, đây là lãnh vực mà các thày đã trao cho con rất nhiều dụng cụ trước khi đưa ra lời dạy về Sứ vụ Thiêng liêng, vì bây giờ con có thể cầm lấy quyển sách Chữa lành chấn thương tâm linh và dùng sách để nỗ lực chữa lành nỗi sợ sai trái đó.

Lẽ tự nhiên, con yêu dấu, con phải đạt tới điểm nhìn nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên lẫn các sinh thể sa ngã. Con nhận ra là các thày, các chân sư thăng thiên, muốn kéo con đi lên thoát khỏi mọi giới hạn. Còn sa nhân thì muốn kéo con đi xuống và giữ con kẹt lại trong các giới hạn đó. Con có thể bắt đầu tự hỏi câu này: “Tôi sẽ muốn sống phần đời còn lại của tôi dựa theo cách nào?” Liệu con sẽ muốn sống dựa trên nỗi sợ sai lầm theo tiêu chuẩn sa nhân, hay dựa trên sự nhận biết khi con thấu hiểu giáo lý của chân sư rằng con không bao giờ sai trái khi con thách thức ý tưởng của sa nhân? Thế gian có thể bảo là con sai, nhưng các thày thì chắc chắn sẽ không bảo vậy.

Điều thật quan trọng là con hãy xem xét điều này. Không cứ là con phải ngay lập tức làm vậy một cách tối hậu, vì như thày đã nói, con hiện ở một tầng tâm thức nào đó và quan tâm chủ yếu của con là leo lên tầng kế tiếp, và điều này thường không là một bước lớn kinh khủng. Câu hỏi đặt ra là, nỗi sợ hãi sai trái mà con đang đương đầu ngay lúc này là gì chứ? Đâu là cái ý tưởng mà con có thể biểu lộ ở mức tâm thức hiện thời sẽ dẫn con lên mức cao hơn, và nỗi sợ sai trái đang ngăn cản con biểu lộ ý tưởng này như thế nào?

3.8. Thách thức ý tưởng ở mức cá nhân

Con yêu dấu, ở trên thày vừa nói rằng Sứ vụ Thiêng liêng là một tiến trình tác động qua lại. Sau đây là một ví dụ nữa: Giả thử gia đình con mang sẵn một cách nhìn, một thái độ nào đó về cuộc sống. Có một thành viên trong gia đình mang tiềm năng vươn lên cao hơn trong kiếp này nhưng bị mắc kẹt trong quan điểm đó. Một phần Sứ vụ của con là giúp cho người ấy chất vấn và vượt ra khỏi niềm tin đó, nhưng con lại sợ làm như vậy vì con cảm thấy các thành viên khác trong gia đình sẽ kết án con. Câu hỏi đặt ra là: “Làm thế nào con sẽ vươn lên mức kế tiếp của Sứ vụ Thiêng liêng?” Liệu con sẽ có thể vươn lên mức kế tiếp của Sứ vụ mà không bày tỏ tầm hiểu cao hơn mà con đã ngộ và không trao cái hiểu đó cho người kia?

Con yêu dấu, con không thể. Con không thể vươn lên mức cao hơn mà không thách thức chính mình. Tại sao vậy? Con yêu dấu, bởi vì con có thể nói: “Nếu tôi bày tỏ những sáng ngộ này của tôi thì một số người trong gia đình sẽ giận tôi và họ sẽ phản ứng tiêu cực.” Thày sẽ nói vô cùng thẳng thắn với con là chỉ khi nào con bày tỏ tầm hiểu đó của con và trải nghiệm phản ứng đó của họ thì con mới bị bắt buộc phải xoay chuyển nhận thức và thái độ của mình. Chỉ bằng cách đương đầu thách thức đó, trải nghiệm thách thức đó, thì con mới có thể dời chuyển lên mức kế tiếp.

Con thấy đó, con yêu dấu, vấn đề không phải là con nhận được một hiểu biết trí thức. Không phải là chuyện con có một sáng ngộ cao hơn mọi người trong gia đình rồi con nghĩ: “Vì tôi có sáng ngộ này nên tôi đã dời chuyển lên một mức tâm thức cao hơn họ.” Có thể con đã dời chuyển lên một mức tâm thức cao hơn họ nhưng con chưa dời chuyển lên mức kế tiếp của con, và con sẽ không lên được mức kế tiếp cho tới khi con bày tỏ sáng ngộ của con, con trải nghiệm phản ứng của họ, rồi sau đó con giải quyết phản ứng nội tại nơi chính con đối với họ.

Chỉ khi nào con đương đầu với vấn đề này và tìm được cách khắc phục các khuôn nếp, các nỗi sợ, các dính mắc, cách phản ứng trong cảm xúc lẫn lý trí của con, chỉ khi đó con mới dời chuyển tâm thức lên mức kế tiếp. Con yêu dấu, đó là tại sao thày nói với con ở đây là để bước lên cao hơn và thực sự nhìn ra nhiều khía cạnh hơn của Sứ vụ một cách ý thức, con cần bước vào tâm thái không sợ nhận trải nghiệm, ngay cả khi trải nghiệm khiến con mất thoải mái, ngay cả khi nó khiến con sợ hãi. Con vẫn sẵn lòng nhận lấy trải nghiệm vì con nhận ra chỉ trong trải nghiệm thì con mới có thể xử lý các bế tắc trong tâm lý mình, nhìn ra chúng, rồi thăng vượt chúng.

3.9. Sự tăng triển đòi hỏi con tương tác với người khác

Các thày đã trao cho con biết bao dụng cụ, con yêu dấu, để thăng vượt các điểm bế tắc trong tâm lý. Con đã có đủ dụng cụ để thăng vượt chúng, nhưng điều mà nhiều các con không nhận ra là con không thể ngồi đó trong phòng riêng của mình, đọc sách và đọc thỉnh miên man rồi chứng được sự tăng triển tối đa. Con có thể trải nghiệm tăng triển bằng cách đó nhưng con cần có sự xen kẽ, sự tương tác giữa việc tu tập tâm linh và việc trải nghiệm thực tế nơi con bị thách đố, con bị thử thách, và con nhìn thấy một phản ứng trong con.

Tất nhiên đây cũng là điều mà thày vừa đề cập về nhiều người đi xem thày bói hay đồng bóng. Họ đọc sách về mục đích của cuộc sống và Sứ vụ Thiêng liêng nhưng họ lại không sẵn sàng làm công việc. Họ muốn ngồi yên nơi họ cảm thấy thoải mái. Đấy, như các thày đã từng nói, sự thoải mái và con đường tâm linh không thực sự tương hợp với nhau. Và chắc chắn hành tinh này cũng không thực sự tương hợp với sự thoải mái. Con cần thực hiện sự xoay chuyển đó khi con nói: “Tôi là ai? Tôi có là một học trò của chân sư thăng thiên hay không? Tôi có là một người quyết tâm tinh tấn tối đa trong kiếp này hay không? Nếu tôi là một người như vậy thì tôi không cần thoải mái.”

Đây không phải là chuyện thoải mái – thày không đang bảo con phải hành hạ bản thân – mà đây là chuyện nhận ra trong tâm lý con có một yếu tố mong muốn ngồi yên nơi mình thoải mái, mong muốn trốn chạy những thứ khiến mình bị day dứt. Chỉ bằng cách nhận diện cái đó và đâm thẳng vào nó – tức là sẵn lòng bước vào tình huống và trải nghiệm phản ứng của mình – chỉ khi đó thì con mới có thể nhìn thấy điểm bế tắc trong tâm lý con. Con không thể thấy nó từ xa một cách trí thức, mà con cần bước vào trong đó và trải nghiệm nó, xong con có thể dùng các dụng cụ mà các thày đã ban cho để khắc phục nó, để nhận diện ra ngã, để tách mình ra khỏi ngã và để cho ngã chết đi. Đây chính là cách vận hành của tiến trình tăng triển.

3.10. Đường tu tâm linh không dễ

Đó là một lời dạy sẽ khiến cho một số người nản lòng vì có lẽ trong nhiều năm trên đường tu tâm linh, họ đã bám vào cái lý tưởng được phóng chiếu lên tâm thức tập thể cho rằng sự tinh tấn tâm linh chỉ là một tiến trình hoàn toàn dễ dàng, tích cực và phấn chấn. Con yêu dấu, ý tưởng đó – cho rằng đường tu tâm linh không đòi hỏi khó nhọc, không đòi hỏi con hạ mình xuống chạm trán với tâm lý của mình – tất nhiên đã được sa nhân phóng chiếu ra hầu giữ chặt con người ở mức họ cứ luôn nhìn ra ngoài chính họ mà không bao giờ thực sự soi gương để nhìn vào bên trong tâm lý họ.

Hiển nhiên là con đã vượt quá mức đó rồi, vì nếu không thì con đã không đáp ứng được lời dạy này. Thày chỉ đơn giản giúp con nhận thức là con có khả năng dời chuyển một cách ý thức, vì con nhận ra là cho dù sa nhân có phóng chiều gì lên con, cho dù người khác có phóng chiếu gì lên con, thì con không bao giờ sai lầm khi con xoay chuyển tâm thức. Con không bao giờ sai lầm khi con dời chuyển tâm thức lên cao hơn.

Một khi con chấp nhận điều này trọn vẹn, một khi con trải nghiệm trọn vẹn sự thật của điều này, thì con sẽ có thể thực sự bước vào một giai đoạn mới trong cách tương tác của con với các chân sư thăng thiên, nơi các thày sẽ trở thành khung tham chiếu của con thay vì sa nhân hay người đời – hay thậm chí cả những cái ngã, những ngã tách biệt, những phàm linh nội tại – làm khung tham chiếu cho con. Con có thể bắt đầu nhận ra là các thày không bực dọc, không tức giận, không nóng lòng, không tìm cách lên án hay chỉ trích con.

3.11. Tại sao các chân sư không lên án con

Con yêu dấu, thày biết rất rõ là có những học trò của chân sư thăng thiên tin rằng, và cũng có những tổ chức của chân sư thăng thiên có nền văn hóa tập thể nơi giáo lý của chân sư được dùng để củng cố cho ý niệm sai và đúng. Đã có những tổ chức chân sư thăng thiên nơi thành viên quá quan tâm đến những chuyện ăn mặc, nói năng, đi đứng, biểu thị, suy nghĩ, cảm xúc như thế nào cho đúng đắn, rồi họ lên án lẫn nhau cũng như họ tự lên án chính họ mỗi khi họ không làm đúng theo một số tiêu chuẩn vỏ ngoài.

Vào thời buổi đó, đó là những vật liệu mà các thày phải sử dụng. Trong một số trường hợp như đã kể lại, các thày đã phải khuếch đại niềm tin đó nơi mọi người để nó trở thành cùng cực đến độ cuối cùng người ta mới chịu chất vấn nó. Con yêu dấu, với những lời dạy mà con đã có, con có thể rất nhanh chóng bước vượt qua tất cả những thứ đó và nhận ra là các thày – các chân sư thăng thiên đích thực – đã vượt khỏi nhị nguyên. Các thày không phán xét con dựa trên tiêu chuẩn đúng hay sai. Các thày không chỉ trích, các thày không kết án con. Các thấy chấp nhận con hoàn toàn – chính con – mỗi người trong các con. Các thày chấp nhận con như con là, một cách vô điều kiện. Các thày chỉ có một mong muốn duy nhất là giúp con trở nên nhiều hơn cái con là, bằng cách con dời chuyển bản sắc của con đi lên.

Con yêu dấu, thày thực sự mong ước là con sẽ có thể nhìn chính mình với cùng sự chấp nhận vô điều kiện mà thày nhìn con. Thày biết là nếu con áp dụng các dụng cụ mà các thày đã trao, con sẽ có khả năng bước lên điểm đó. Thày biết là con không thể bước lên điểm đó bằng cách thày bảo con, và thày không đang bảo con điều này để khiến con nghĩ là con không thể tự chấp nhận mình, con yêu dấu. Con thấy tự ngã có thể chụp lấy bất kỳ lời dạy nào rồi khiến con nghĩ: “Mẹ Mary nói là tôi cần chấp nhận chính mình vô điều kiện, nhưng tôi không làm được, cho nên tôi phải sai trái.”

Đây là loại suy tưởng chạy lòng vòng mà con có khả năng nhận diện, và con nhận ra đó chỉ đơn giản là một cái ngã tách biệt. Như vị sứ giả này có bày tỏ tối qua, trong tâm con người có một phần được lập trình để tạo dựng các vấn đề rồi phóng chiếu là con phải giải quyết vấn đề. Đấy, cũng có một phần của tâm là ngã tách biệt, được lập trình để phóng chiếu ra là con sai trái, và nó chụp lấy bất kỳ ý tưởng nào đến với con để quay ngược ý tưởng và chứng minh: “Phải, đây là thêm một cách nữa mà tôi sai trái – tôi không đáp ứng nổi tiềm năng cao nhất của mình, tôi thật kém cỏi.”

Con yêu dấu, tất cả các con đều không kém cỏi. Con đang đứng ở đúng nơi con cần đứng, vì con đang đứng ở điểm trên đường tu nơi con sẵn sàng bước lên bước kế tiếp, và đó là điều các thày chú trọng. Các thày không so sánh con với một chuẩn mực nào. Con đừng có mảy may ý nghĩ là các thày bảo là cho tới khi con đạt đến tầng tâm thức 144 thì con vẫn sai trái. Con yêu dấu, con đang bước chân trên đường tu; điều quan trọng là con tiếp tục bước từng bước một và dời chuyển đi lên. Các thày chấp nhận con như con đang là, chấp nhận con ở mức con đang đứng. Các thày mong ước là con cũng có thể chấp nhận mình như thế, con yêu dấu. Thật ra có một điểm trên đường tu nơi con không thể lên cao hơn được trừ khi con khắc phục tâm đường thẳng. Cũng có một điểm trên đường tu nơi con không thể lên cao hơn được cho tới khi con khắc phục tâm phê phán cứ không ngừng tự chỉ trích.

3.12. Không có chỉ trích nào xây dựng

Trên thế giới có một khái niệm gọi là “chỉ trích xây dựng”, nhưng con yêu dấu, chừng nào con còn ở trong trạng thái tâm thức nhị nguyên thì không có chuyện chỉ trích xây dựng. Chỉ trich là một rung động – cho dù người chỉ ra cái đó có thể “đúng” đến đâu đi nữa. Nếu người đó làm vậy ở mức tâm thức đó thì việc đó vẫn không xây dựng. Đối với bản thân con cũng vậy. Con có thể nghĩ là mình phải phê phán chính mình vì đó là cách con tăng triển. Con yêu dấu, có một cái ngã mang độ rung nhị nguyên của chỉ trích và ngã đó không thể đưa con lên cao hơn trên đường tu.

Sẽ tới một điểm con cần lui lại một bước và nhìn ra đó chỉ là một cái ngã. Không phải là vấn đề ngã đó đúng hay sai khi nó chỉ ra sự kiện, mà là việc nhận diện độ rung của ngã đó không xuất phát từ tình thương – nó xuất phát từ sợ hãi. Cho nên con cần tách mình ra khỏi nó, nhìn vào nó và nói: “Ta không cần đến mi nữa!” Con không cần bước vào một sự phán xét nào hết, thậm chí con cũng không cần chứng minh (như một số các con có khuynh hướng làm) và nói: “À nhưng nó đã có công dụng, nó đã giúp tôi tăng triển trên đường tu.” Có thể nó đã giúp con, nhưng con yêu dấu, điều con cần làm là nhận diện nó và bảo: “Tôi không cần đến ngã này nữa và tôi để cho nó chết đi.”

Con yêu dấu, trên đây là những gì thày muốn truyền cho con bây giờ. Một lần nữa, thày cảm ơn con đã có mặt và đã nhận biết. Tất nhiên, các thày mong mỏi sẽ trao thêm lời dạy khi nào con có dịp thực hành những lời dạy vừa được ban ra và chuyển dời tâm thức lên mức kế tiếp, là nơi con có thể nhận được lời dạy kế tiếp.

5 | Con không ở trên địa cầu để giải quyết các vấn đề

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels ngày 19/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên MORE và thật là niềm vui cho thày được nói chuyện với các con và trao cho con một lời dạy sẽ có vẻ hơi khó và hơi nặng nề đối với con. Tuy nhiên, lời giảng này thật quan trọng để con nắm bắt Sứ vụ Thiêng liêng của con là gì và làm thế nào con có thể thực hiện được Sứ vụ.

5.1. Một cách tiếp cận Sứ vụ Thiêng liêng mất cân bằng

Con yêu dấu, Mẹ Mary có đặt câu hỏi là tại sao các thày đã không ban ra các giáo lý về Sứ vụ Thiêng liêng sớm hơn. Hiển nhiên Mẹ Mary đã trả lời câu đó một phần, nhưng thày muốn nêu lên một khía cạnh khác nữa. Trong một đợt truyền pháp trước, các thày đã ban ra nhiều lời dạy hơn về Sứ vụ Thiêng liêng và cũng đã đặt nhiều trọng tâm hơn vào đó. Các thày có nói là con người cần cân bằng nghiệp quả của mình và có một phần vụ thần thánh mà mình phải hoàn thành. Các thày nhận thấy là khi ai nấy nghe giảng về khái niệm này thì trong nhiều trường hợp, họ rơi vào một phản ứng rất thiếu cân bằng. Thày không nói điều này để chỉ trích một ai. Điều thày muốn chỉ ra ở đây là nhiều học trò, đặc biệt trong các thập niên trước, khi họ nghe nói đến khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng thì họ trở nên vô cùng nhiệt tình, háo hức muốn thực hiện.

Tất nhiên là tự thân nó, lòng nhiệt tình không có gì sai trái. Trên đường tu tâm linh, con cần một độ nhiệt tình nào đó. Nhưng mặt khác, người xưa có câu ngạn ngữ: “Đường dẫn đến địa ngục được lát bằng những ý định tốt.” Thày cũng có thể nói là chiếc xe đưa con xuống địa ngục chạy bằng nhiên liệu là những ý định nhiệt tình thái quá.

Rất, rất nhiều người đã tiếp nhận giáo lý của các thày một cách mất cân bằng. Họ dùng giáo lý để đưa họ vào một trạng thái mà họ cảm nhận là lạc quan tích cực chỉ vì họ háo hức, nóng lòng, cả quyết, “tia sáng xanh và lửa cũng xanh”, và họ không để cho bất cứ gì cản bước họ hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng. Theo một nghĩa nào đó, nó giống như thể họ đang tham dự một cuộc đua xe băng đồng chạy khắp vùng nông thôn để đến được một mức đến. Các học trò đó náo nức đến độ họ nhảy liền lên xe, đạp ga phóng thật nhanh trên đường, khiến đá sỏi văng tung tóe tứ phía, nhưng họ lại không đem theo tấm bản đồ sẽ dẫn họ tới đích. Họ quá chú tâm vào việc chạy càng nhanh càng tốt đến nỗi họ không xét xem họ đang chạy về đâu và làm thế nào họ sẽ tới đó.

Các thày đã từng nói trước đây là một trong những vấn đề lớn với học trò của chân sư thăng thiên là các con có một viễn quan đúng đắn về những gì cần xảy ra – hay ít nhất con thấy được là một sự thay đổi cần phải xảy ra – nhưng con không có viễn quan đúng đắn về cách làm thế nào, làm thế nào để điều đó hiện thực. Một trong những lý do khiến các thày đã không đưa ra nhiều lời dạy hơn về Sứ vụ Thiêng liêng trong đợt truyền pháp này là vì các thày thận trọng hơn, dành ra nhiều thời gian hơn để dần dần vun xới cho tới điểm con có đủ hiểu biết cùng các dụng cụ thực tiễn dưới hình thức các bài thỉnh và sách sẽ giúp con thực sự đương đầu với thế lực đối lập. Tất nhiên con cũng có những dụng cụ thực tiễn để đối phó với các yếu tố trong tâm lý con đã tạo ra phản ứng mất cân bằng. Thày không chỉ nói với các con đang ngồi đây mà với cả nhiều người khác có thể đã tìm ra lời dạy này hay thậm chí nghe nói về Sứ vụ Thiêng liêng lần đầu tiên.

5.2. Ngã gốc và sự mất cân bằng

Điều quan trọng là con cần biết, khi con tìm thấy một lời dạy của chân sư thăng thiên lần đầu, và đặc biệt khi con nghe nói về Sứ vụ Thiêng liêng (và cả về khái niệm Thời đại Hoàng kim lẫn cách làm thế nào thay đổi địa cầu), là không hiếm khi người ta tiếp nhận những lời dạy đó một cách mất cân bằng. Mất cân bằng chính xác là gì? Phần lớn đây là một vấn đề cá nhân cho nên nó tùy thuộc vào tâm lý của con. Điều nó thật sự tùy thuộc là cái ngã gốc mà con đã tạo ra để đáp ứng với chấn thương nhập đời nguyên thủy mà con trải nghiệm, rất có thể trong kiếp hiện thân đầu tiên của con (có khi không là kiếp đầu tiên nhưng một trong những kiếp sau đó).

Khi con phải kinh qua chấn thương đó, hiển nhiên con đã có một số cảm xúc, một số ý nghĩ. Điều này thường khiến con tạo ra một cái ngã tìm cầu một phương cách, có thể nói là để phục thù, bù đắp, đền bồi, chỉnh sửa chấn thương nhập đời mà con đã gánh chịu. Nói cách khác, ngã đó bảo rằng: “Sa nhân đã làm chuyện đó với tôi, tôi muốn trả đũa lại, tôi muốn… [bất cứ điều gì tùy theo mỗi cá nhân].” Con muốn làm gì đó với chúng hay con muốn một điều gì đó xảy ra cho chúng và – nếu có thể nói như vậy – điều này sẽ “gỡ huề tỷ số” để con cảm thấy như chúng nhận được hình phạt xứng đáng. Sự thể này sẽ khiến cho một số các con trở nên, như thày vừa nói, quá nhiệt tình muốn thay đổi thế giới. Trong nhiều trường hợp, nó cũng đã khiến cho một số học trò bước vào một giai đoạn nơi họ tập trung vào những thứ vỏ ngoài.    

Tất nhiên, một trong những thứ mà nhiều người đã làm là trở nên vô cùng háo hức muốn đọc các bài chú, hết giờ này sang giờ nọ – như trong đợt truyền pháp trước, họ sẽ dự lễ mấy lần mỗi tuần để đọc chú hàng giờ đồng hồ. Họ nghĩ họ phải làm điều đó để thay đổi thế giới, để trói chặt sa nhân, để cân bằng nghiệp quả và chuyển đổi địa cầu cho thày Saint Germain. Cho nên họ không có nhu cầu và thời gian hay sự chú ý để tu sửa tâm lý của họ. Tất nhiên, con có thể nhìn lại và nói: “Nhưng họ làm vậy là do những gì đã được ban ra qua các bài truyền đọc, hay ít ra do cách thức mà các bài truyền đọc được diễn giải trong văn hóa của tổ chức đó.”

Đúng vậy, nhưng một lần nữa như các thày đã trình bày mấy lần, các thày phải nhìn vào một nhóm người nhất định ở một thời điểm nhất định, xét xem họ sẵn sàng nhận được những gì, rồi trao cho họ cái đó, thỉnh thoảng còn trao cho họ một cái gì cùng cực đến độ họ sẽ chán ngán và bắt đầu phải nhìn xa hơn. Vào thời đó có một số học trò chưa sẵn sàng, nhưng một số cũng không sẵn lòng nhìn vào tâm lý của mình. Các thày đã cho họ môi trường vỏ ngoài đó nơi họ có cái cớ toàn hảo để không xem đến tâm lý của họ khi họ phải đọc tất cả những bài chú đó.

Mặt khác, họ còn nhận được nhiều lời chỉ dẫn phải đọc những bài chú nào, đến độ nếu họ theo đó mà đọc hết thì 24 tiếng một ngày cũng không đủ vào đâu. Đó là một toan tính từ phía các thày nhằm nói lên: “Đây, các thày không thể chạm được các con, các thày không thể khiến con nhìn ra những gì con cần nhìn thấy, cho nên các thày sẽ cho con nhiều đến độ cuối cùng nó sẽ quá tải, và mong thay, ít nhất có một số các con sẽ đứng lui lại và tìm ra một cách tiếp cận cân bằng hơn.” Quả vậy, một số đã nhìn ra và một số vẫn không nhìn ra – và tiếc thay, đó là sự thể các thày phải chấp nhận. Dù với lời dạy nào đi nữa, các thày cũng không thể chạm được mọi người.

5.3. Một cảm nhận cao hơn về cân xứng

Điểm thày muốn nói ở đây là trong thời đại hôm nay và trong đợt truyền pháp của các con, các con đang có một mức giảng dạy khác hơn. Điều được nhấn mạnh nhiều hơn là sự tăng triển của mỗi cá nhân, việc giải quyết và chữa lành tâm lý cùng những chấn thương trong quá khứ mà các thày đã đề cập với con gần đây.

Có nghĩa là con có tiềm năng tiếp cận một cách cân bằng hơn, y như những gì Mẹ Mary đã nói. Thày muốn đi vào vấn đề này sâu hơn một chút. Mục đích thực sự của các chân sư thăng thiên không phải là để chế tạo một số thay đổi vỏ ngoài nhất định trên địa cầu. Con có thể hỏi: “Nhưng chẳng phải là điều này đi ngược lại những lời dạy về Thời Hoàng kim của Saint Germain khi thày muốn cải thiện mọi khía cạnh của cuộc sống trên trái đất và đem lại một trình độ văn minh cao hơn hay sao?” À, không, con yêu dấu. Từ một nhãn quan vỏ ngoài đường thẳng thì có vẻ mâu thuẫn, nhưng ngay cả Saint Germain cũng từng nói rằng mục đích chính yếu của Thời Hoàng kim thật ra là để nâng cao tâm thức loài người, chứ không để thị hiện những kết quả vỏ ngoài đặc thù đó. Thày Saint Germain sử dụng những thứ vỏ ngoài đó như một dụng cụ để nâng cao tâm thức con người, chứ tự thân chúng không phải là mục tiêu.

Ở đây con phải nhìn nhận là các thày đã cho con khái niệm rằng địa cầu không là một hành tinh tự nhiên. Các thày đã nói với con là có hàng tỷ hành tinh khác trong vũ trụ ở mức hành tinh tự nhiên và do đó cũng không có tất cả những biểu hiện dựa trên sợ hãi mà con thấy trên trái đất. Như Mẹ Mary có gợi ý, kỳ thực có hàng tỷ hành tinh đã gia tốc, và các cư dân ở đó đã gia tốc hành tinh của họ tới một trình độ vượt xa địa cầu đến nỗi hầu hết loài người khó lòng nào hiểu nổi.

Con phải nhìn nhận là tất nhiên, nói chung như một nhóm, các chân sư thăng thiên biết rất rõ là hầu hết mọi hành tinh đều ở một trình độ rất cao. Hiển nhiên các chân sư đã chọn ở lại làm việc với địa cầu thì không quá tập trung vào các hành tinh cao đó, nhưng các thày biết là họ hiện hữu. Các thày có tương tác với các chân sư đang làm việc với các hành tinh đó, thậm chí cả với các chân sư mang viễn quan tổng thể về toàn bộ vũ trụ vật chất lẫn con đường tiến hóa của vũ trụ. Điều này có nghĩa là các thày có một ý niệm về sự cân xứng mà thường thường các con không có được trên địa cầu khi con là người đầu thai.

Nhiều người trên địa cầu rất chú tâm vào địa cầu và, tất nhiên, nhiều người cho rằng đây là hành tinh duy nhất có người ta sinh sống. Nhiều tín hữu đạo Cơ đốc cho rằng đây phải là một hành tinh thật quan trọng đối với Thượng đế, nhiều người theo phong trào Thời Mới và người tâm linh cũng xem địa cầu là quan trọng vì nó khiến cho họ cảm thấy chính họ quan trọng do họ đang sống ở đây, vân vân và vân vân.

Điều thày muốn cho con là một chút cảm nhận cân xứng của các chân sư thăng thiên. Khi con đứng lui lại một bước và ngắm nhìn toàn bộ vũ trụ vật chất, con biết qua khoa học là có hàng tỷ dải thiên hà, hàng tỷ mặt trời, hàng tỷ thái dương hệ, hàng tỷ hành tinh với tiềm năng mang sự sống. Thày nói với con, những hành tinh gọi là “tương tự như trái đất” mà khoa học đã khám phá chỉ là một phần rất nhỏ trong số những hành tinh có sự sống. Các con chỉ đang cố tìm những hành tinh có cùng một loại dạng sống như trên địa cầu. Dĩ nhiên là còn rất nhiều loại dạng sống khác không dựa trên cacbon – nếu có thể nói như vậy – mà dựa trên các nguyên tố hóa học khác và do đó không thể phát hiện được bằng giác quan vật lý cũng như bằng các loại dụng cụ khoa học dựa trên giác quan mà con có trên trái đất. Đó là tại sao con không thể nhìn thấy sự sống trên Kim tinh mặc dù các thày đã nói với con là Kim tinh có sự sống. Điều này cũng áp dụng cho rất nhiều hành tinh khác khắp vũ trụ.

Khi con bước lui lại và nhìn từ tầm nhìn rộng mở đó, con thấy rõ là tuyệt đại đa số các hành tinh đều đang gia tốc rất nhanh chóng. Cư dân ở đó đã đi vào một vòng xoắn ốc tích cực, một xoắn ốc tích cực đang tự củng cố. Khi họ tương tác với chân sư thăng thiên, khi họ nâng cao tâm thức của họ, các chân sư có khả năng trao cho họ nhiều ánh sáng hơn, thế rồi họ lại gia tốc thêm nữa và tất cả trở thành một vòng xoắn ốc hướng thượng tích cực. Tương đối chỉ có một số ít hành tinh giống như địa cầu. Vậy thì trong viễn quan rộng lớn đó, các thày sẽ nhìn địa cầu ra sao? Hiển nhiên, các thày thấy địa cầu rõ ràng không nằm trong số các hành tinh đã bước vào một vòng xoáy tự củng cố và đang gia tốc. Trên địa cầu có một vòng xoáy hướng thượng, nhưng nó chưa bắt đầu tự củng cố do chưa đủ túc số tới hạn (critical mass) là những cư dân hiện đầu thai đã bước vào tiến trình nâng cao tâm thức của mình. Về cơ bản, địa cầu đang phần lớn được kéo lên bởi phần còn lại của vũ trụ, bởi các chân sư thăng thiên và bởi một số ít người đầu thai đang nâng cao tâm thức của mình.

5.4. Địa cầu là một dụng cụ giáo huấn

Loại hành tinh như thế này là một hành tinh mà các thày phần lớn xem là một dụng cụ giáo huấn cho những sinh thể không thể học hỏi trực tiếp từ bên trong nội tâm. Do đó họ cần một hành tinh nơi họ có thể nhìn thấy trạng thái tâm thức của họ trải bày ra trong vật lý. Đồng ý, hầu hết mọi người không nhận thức được điều này và thậm chí cũng không sẵn sàng đón nhận ý tưởng này. Nếu con nói cho họ biết, họ sẽ chỉ lắc đầu và nghĩ con điên rồi. Dù sao thì thực tế là địa cầu đang trình chiếu trạng thái tâm thức của con người ra bên ngoài.

Khi con biết điều này, con cần tự đặt một câu hỏi đơn giản: “Nếu địa cầu đang trình chiếu trạng thái tâm thức của con người lên chính nó, thì liệu có bất kỳ điều kiện nào trên địa cầu là thực một cách tối hậu, bất kỳ điều kiện nào là bền lâu, có tuổi thọ và có giá trị trường cửu liên tục hay không?” Thực tế là trên địa cầu thật sự không có gì cần được bảo tồn, không có gì mà các chân sư thăng thiên muốn thấy được bảo tồn trong dài hạn.

Tất cả mọi thứ ở đây là một thị hiện tạm thời mà các thày thấy rõ là cần được thăng vượt trước khi trái đất trở thành một hành tinh tự nhiên. Con có thể nhìn địa cầu và nói: “Không hiểu nếu địa cầu chuyển đổi và trở thành một hành tinh tự nhiên, liệu sẽ có bất kỳ điều kiện hiện hữu nào sẽ tồn tại hay không?” Câu trả lời sẽ gây sốc cho rất nhiều người: “Không hẳn”. Hầu như không có bất cứ gì ở đây sẽ tồn tại trong hình dạng hiện hữu khi địa cầu trở về trạng thái hành tinh tự nhiên. Con yêu dấu, điều chủ yếu sẽ thay đổi khi địa cầu trở về trạng thái một hành tinh tự nhiên là độ dày đặc của vật chất sẽ giảm xuống và độ rung động của vật chất sẽ tăng lên. Có nghĩa là hầu hết mọi điều kiện vật lý, kể cả những gì các nhà khoa học gọi là định luật tự nhiên đang vận hành ngay bây giờ, sẽ được vượt thăng. Địa cầu sẽ gia tốc vượt ra khỏi các điều kiện đó.

Với ý tưởng này trong tâm, con có thể đạt viễn quan là đối với các chân sư thăng thiên, thật không có gì quan trọng một cách tối hậu nếu một điều kiện nào đó, một điều kiện vật lý nào đó có thay đổi hay không. Có nghĩa là khi đó, con sẽ có thể xoay chuyển – như Mẹ Mary đã nói tới – và bảo rằng: “À, vậy thì tôi cần phải làm gì đây qua Sứ vụ Thiêng liêng của tôi? Nếu tôi đã lập ra Sứ vụ ở một mức nhận thức cao hơn bây giờ, thì vào lúc đó tôi đã ghi vào Sứ vụ những việc gì tôi có ý định thực hiện trong cõi vật lý? Tôi đang ở đây để đóng góp đem lại những thay đổi nào?”

Tất nhiên đây là một câu hỏi mang tính chất rất cá nhân. Mặc dù thày có nói là các điều kiện vật lý không quan trọng một cách tối hậu (chúng là một phần của toàn bộ phương trình của địa cầu), con sẽ không thể chuyển sang Thời đại Hoàng kim hay chuyển cả địa cầu vào một trạng thái tự nhiên mà không đem lại nhiều thay đổi vật lý. Những thay đổi đó bao gồm những ý tưởng mới, những khám phá mới, những công nghệ mới, những hình thức chính quyền mới, những hình thức giáo dục mới, những hình thức văn hóa nghệ thuật mới, vân vân và vân vân. Quả thật sẽ có rất nhiều thay đổi vật lý cần xảy ra, nhưng viễn quan vô cùng quan trọng mà thày thấy cần cho con là sự kiện những thay đổi đó không là tối hậu, không là chung cuộc. Chúng chỉ là những bước đi trên một con đường, là những giai đoạn trong tiến trình chuyển tiếp.    

5.5. Tâm thức đi trước biểu hiện vật lý

Điều này chủ yếu nhằm giúp con tránh rơi vào cái phản ứng khi con cho rằng một số thay đổi vật lý và một số điều kiện nhất định có tầm quan trọng tối hậu. Sự xoay chuyển mà các thày đang cố giúp con thực hiện là con thực sự thể nhập, thực sự nắm bắt, thực sự trải nghiệm sự thật mà các thày đã bày tỏ bằng nhiều cách trong suốt mấy năm qua, đó là tâm thức đi trước biểu hiện vật lý. Nói cách khác, có một niềm tin được người ta ưa chuộng đang bay phất phơ trong tâm thức tập thể – một phần do đạo Cơ đốc – cho rằng có một loại phép lạ nào đó từ trên sẽ có thể thay đổi địa cầu. Niềm tin này cũng một phần đến từ khoa học duy vật cho rằng chỉ một thay đổi vật lý dựa trên các định luật tự nhiên mới có thể đem lại những điều kiện mới.

Điều các thày cố giúp con thể nhập và trải nghiệm là thực tại rằng tất cả mọi thứ đều là sự trải bày ra bên ngoài của trạng thái tâm thức của nhân loại trên địa cầu. Trước khi có thể có thay đổi đích thực, thật ra trước khi có bất kỳ thay đổi nào, phải có trước tiên sự thay đổi trong tâm thức. Con có thể nhìn ngược dòng lịch sử của công nghệ chẳng hạn và con có thể nói: “Nhưng rõ ràng là có một tiến trình vật lý đã tuần tự dẫn từ khám phá này đến khám phá sau rồi khám phá sau nữa. Một nhà khoa học xây dựng trên nền tảng những gì các nhà khoa học trước đó đã tìm ra, và bỗng nhiên chúng ta có các phương trình của Einstein và thuyết tương đối, và chính cái này đã dẫn đến sự phát triển bom nguyên tử.”

Con yêu dấu, điều các nhà duy vật không nhìn thấy – vì họ không muốn nhìn vào – là trước khi tiến trình vật lý có thể xảy ra thì đã có một sự thay đổi trong tâm thức tập thể. Nếu con xem xét tất cả mọi biến cố lịch sử đã diễn ra, con sẽ thấy được – nếu con có khả năng nhìn thấy ba thể cao của tâm thức tập thể – một sự xoay chuyển, một biến đổi nào đó đã có mặt. Cho dù đó là một thay đổi gọi là tích cực hay một thay đổi tiêu cực, thì con cũng thấy được là nó đã xảy đến. Không có gì xảy ra trong cõi vật lý đã từng được quyết định hay được khởi phát duy ở tầng vật lý mà thôi. Luôn luôn có một thay đổi ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc trước khi một thay đổi vật lý có thể xảy đến. Suốt lịch sử đã diễn ra như vậy và trong tương lai cũng sẽ như vậy.

5.6. Con đã xoay chuyển tâm thức hay chưa?

Thế thì con có thể dùng điểm trên để nhìn vào chính mình cùng cách con tiếp cận đối với đường tu tâm linh, đối với khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng, và con có thể nói: “À, điều quan trọng thật sự không phải là những thay đổi vật lý mà tôi đã đến đây để đem lại. Điều quan trọng không thật sự là nhìn xem những gì tôi cần làm trong cõi vật lý.” Như thày đã nói, nhiều đệ tử trở nên nóng lòng muốn thay đổi thế giới hay thay đổi người khác đến độ họ quên không nhìn vào bản thân. Nhiều học trò khác thì không đến nỗi tập trung vào việc thay đổi người khác hay thế giới, nhưng họ lại tập trung vào câu hỏi: “Tôi cần phải làm gì trong cõi vật lý?” Như Mẹ Mary một lần nữa đã gợi ý, họ nghĩ nếu phải chi có một vị đạo sư đến bảo họ: “Con phải đem lại khám phá mới này trong lãnh vực này,” thì đó là lời duy nhất mà họ cần biết. Họ sẽ cố tìm hiểu lãnh vực đó một cách phân tích đường thẳng rồi họ sẽ đem lại khám phá mới đó. Nhưng như Mẹ Mary đã nói, con không thể thật sự làm được chuyện đó nếu con chưa xoay chuyển tâm thức của con cho tới điểm con nhận được nó từ bên trong. Và để làm điều này, có thể con sẽ phải khắc phục một số chấn thương, một số tin tưởng sai lầm, một cách phản ứng mất cân bằng nào đó, rồi khi đó con mới có thể nhận được nó từ bên trong. Con không thể nào nhận được nó từ bên ngoài.

Một lần nữa, con có thể nhìn vào chính mình, con có thể nhìn vào phản ứng của con đối với toàn bộ ý tưởng Sứ vụ Thiêng liêng, và một khi con trung thực với chính con, con có thể nhìn vào bất kỳ sự mất cân bằng nào: “Liệu tôi có nhiệt tình thái quá hay không? Liệu tôi có tập trung bên ngoài bản thân mình, tôi có tập trung vào nhu cầu xét xử các sa nhân và loại trừ chúng ra khỏi hành tinh, vào nhu cầu sáng chế và khởi xướng công nghệ mới, nhu cầu cải tổ lãnh vực chính trị, nhu cầu thay đổi người khác để khiến họ nhìn ra cách hành xử sai trái của họ, khiến họ nhìn ra giáo lý của chân sư thăng thiên cùng chân lý duy nhất hay không?” Một lần nữa, thày không hề trách cứ con khi con có những phản ứng đó. Có thể nói đó là cách phản ứng tự nhiên trên hành tinh phi tự nhiên này. Dù sao thì phản ứng như vậy sẽ không giúp con khám phá những tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng, mà kỳ thực nó sẽ ngăn chặn con khám phá.

5.7. Khắc phục cảm nhận bất công

Nếu con nhận diện con đang có một sự mất cân bằng, con có thể lấy giáo lý về chấn thương nhập đời, về ngã gốc, và con xét xem sự mất cân bằng đó có thật sự khởi lên từ mong muốn trả đũa, từ mong muốn đền bù phần nào sự bất công sai trái mà con cảm thấy người ta đã gây cho con khi con hứng chịu chấn thương nguyên thủy. Thày không phủ nhận là con đã nhận chịu một điều sai trái và đó là một sự bất công. Thày chỉ đang nói là con phải tra vấn (như mọi người đều làm khi cảm thấy mình bị người khác đối xử bất công) và câu hỏi thật giản dị: “Liệu tôi có muốn trừng phạt những kẻ đã hại tôi, hay tôi muốn được giải thoát khỏi những kẻ đã hại tôi và bước đi tiếp trên đường tu tâm linh?”

Nếu con muốn bước đi tiếp thì hiển nhiên con cần nhìn vào đó và nhận ra: “Đây chỉ đơn giản là chấn thương nhập đời của tôi đang tạo ra một phản ứng. Nó đã tạo ra một cái ngã tách biệt là một thành phần của ngã gốc của tôi, và tôi không muốn vác nó theo cho đến mãn kiếp, vì tôi biết rõ tôi không thể đem nó theo tôi vào cõi thăng thiên. Tôi sẵn lòng nhìn nó và tách mình ra khỏi nó, tôi sử dụng những dụng cụ mà chân sư đã cho tôi cho đến khi tôi đạt tới điểm tôi có khả năng buông ngã ra một cách tự nhiên và để cho ngã chết.”

Con yêu dấu, với một cái ngã khởi lên từ một cảm nhận bất công, một cảm nhận có gì sai trái, một mong muốn đền bù, thì ngã đó không bao giờ thỏa mãn được. Con có thể nói: “Nhưng một số sa nhân đã khiến tôi phải chịu chấn thương nhập đời đó, và nếu chúng bị phán xử và đưa vào cái chết thứ nhì, thì cái ngã khởi lên từ chấn thương sẽ được thỏa nguyện và nó sẽ phải giải thể chứ.”

Như các thày đã nói với con nhiều lần, cho dù điều kiện gì xảy ra đi nữa, ngã sẽ không đơn giản chịu nằm xuống mà chờ chết. Nó sẽ tiếp tục làm những gì nó vẫn làm. Nó sẽ nhìn quanh hành tinh này tìm xem có nỗi bất công nào khác hay không, rồi nó sẽ phóng chiếu ra là cái đó cũng phải được đền bù hay được giải quyết, hay một người nào đó phải bị trừng phạt – vì đó là công việc mà nó vốn làm. Nó máy móc y như một chiếc máy tính vậy, và nó sẽ dằng dai, máy móc thi hành những gì nó đã bị lập trình để thi hành, tức là tìm kiếm một điều kiện vỏ ngoài nào đó để lấy cớ làm công việc của nó.

Con sẽ không giải thoát khỏi nó bất kể những điều kiện vỏ ngoài mà con có thể đem lại. Con sẽ chỉ giải thoát khỏi nó khi con nhìn nhận là vấn đề mà ngã đó đã phóng chiếu ra sẽ không bao giờ có thể được giải quyết. Con không cần giải quyết nó. Đơn giản con chỉ cần nhìn ra nó là không thực, xong con cần buông nó ra, con cần từ bỏ nó, con từ bỏ mong muốn giải quyết vấn đề – vì vấn đề không có giải pháp.

Cũng gíống như khi thày cho con tầm nhìn về địa cầu. Con có thể nhìn vào rất nhiều vấn đề, vô số vấn đề gần như vô tận đang hiện diện trên trái đất. Con có thể chú tâm vào: “Tôi phải giải quyết vấn đề này, tôi phải đọc chú để mang lại giải pháp cho vấn đề này, tôi phải làm việc này, tôi phải làm việc kia.” Con có thể tiếp tục làm vậy cho tới hết kiếp này và dồn chú ý của con ra bên ngoài để giải quyết tất cả những vấn đề đó.

Thày không phủ nhận là các vấn đề có một sự tồn tại tạm thời. Thày không phủ nhận là chúng có tác động trên con người trên địa cầu. Nhưng con sẽ không giúp cho hành tình tiến bộ bằng cách giải quyết chúng. Con sẽ giúp cho hành tinh tiến bộ bằng cách cá nhân con thăng vượt tâm thức đã phóng chiếu ra các vấn đề đó, và như vậy con kéo tâm thức tập thể đi lên, hầu mọi người lần lần nhìn ra là mình không cần tiếp tục đánh nhau với người Do Thái hay người Ả Rập hay người Palestine hay người Serbia hay người Croatia hay người Pháp hay người Anh hay người Đức hay điều này điều nọ. Chúng ta có thể giản dị bước xa khỏi những thứ đó, vì chúng ta sẽ cảm thấy vui hơn, cảm thấy hạnh phúc hơn khi chúng ta bước xa khỏi vấn đề mặc dù nó chưa được giải quyết.

5.8. Không có vấn đề nào phải giải quyết

Con thấy đó, con yêu dấu, châu Âu đã từng có một thời khi các quốc gia rơi vào tình trạng binh lửa triền miên. Rất thường khi người ta phóng chiếu ra một nỗi bất công nào đó vì có nước kia đã làm gì sai trái. Con thấy là sau Thế chiến thứ Nhất, Hiệp ước Versailles do người Pháp và người Anh chủ xướng quy cho nước Đức hành xử sai trái cho nên cần bị trừng phạt. Điều này tạo ra tiền đề cho Thế chiến thứ Hai, và cứ như vậy.

Giờ đây sau Thế chiến thứ Hai, có một nhận thức mới đã lan rộng khắp Âu châu, dẫn đến sự kiện là không một cuộc chiến lớn rộng nào đã xảy ra kể từ đó, ít nhất trong phần lớn Âu châu. Con yêu dấu, khi con nhìn vào Thế chiến thứ Hai với nước Đức bị bại trận rồi châu Âu bị chia đôi thành Đông và Tây, liệu Thế chiến thứ Hai đã giải quyết được vấn đề gì hay chăng? Không, chẳng giải quyết được vấn đề nào cả.

Nhưng tại sao đã không có chiến tranh kể từ đó? Bởi vì một túc số tới hạn trong dân chúng đã nhìn ra tính chất phi lý của tâm thức hiếu chiến đã kết đọng hai cuộc thế chiến, và mỗi người ở mức cá nhân của mình đã thăng vượt nó – rồi rốt cuộc cả tập thể cũng đạt được khối lượng tới hạn. Người dân châu Âu đã không chọn con đường dễ dàng nhất, vì tình hình đã bị đẩy tới mức cùng cực với sự diệt chủng người đạo Do Thái cùng những vụ giết người hàng loạt xảy ra trong chiến tranh – nhưng họ đã thành công. Sự xoay chuyển tâm thức chính là lý do tại sao đã không có chiến tranh, chứ không phải việc giải quyết vấn đề đặc thù đã gây ra hai cuộc thế chiến – bởi vì, một cách tối hậu, vấn đề đó không có giải pháp nào hết.

Con hãy nhìn vào các biến cố và tự hỏi: “Làm thế nào vấn đề đó có thể được giải quyết đây?” Nó không thể – vì giải pháp không hề có. Đó chính là vì sao mà cuối cùng thế chiến đã bùng nổ, vì vấn đề đã được sa nhân cố tình tạo ra để không có giải pháp và nó bắt buộc dẫn đến chiến tranh. Vấn đề chỉ được giải quyết khi có đủ túc số những người dân, cho dù có ý thức hay không, nhận ra rằng: “Không có gì ở đây có thể được giải quyết. Chúng ta chỉ có thể nhìn về phía trước mặt và quyết định thăng vượt tâm thức đó và không lại bước vào các khuôn nếp đã dẫn đến chiến tranh.”

5.9. Không có vấn đề nào phải giải quyết trong gia đình

Ở mức cá nhân cũng vậy, và trong gia đình cũng vậy. Trong mọi lãnh vực, sự thể cũng y như vậy. Hồi nãy các con có đề cập đến gia đình các con và chuyện thường xảy ra là có một khuôn nếp nghiệp quả, một khuôn nếp tâm lý đã hiện hữu từ mấy kiếp trước do các thành viên trong gia đình đã tái đầu thai với nhau hết kiếp này tới kiếp khác. Trong tư cách là học trò của chân sư thăng thiên, có lẽ con có tiềm năng đạt tới điểm là con có thể giúp cho thân nhân mình nhìn ra rằng vấn đề này không có giải pháp, rằng việc thay đổi người khác trong gia đình không thể giải quyết được chuyện gì. Đây chỉ đơn giản là chuyện nhìn thấy những gì đang diễn ra trong gia đình, động cơ đang vận hành trong gia đình, là sự biểu lộ của một trạng thái tâm thức. Cách duy nhất để thay đổi sự thể, cách duy nhất cho con được tự do, giản dị là con rời bỏ tâm thức đó, thăng vượt tâm thức đó bằng cách giải quyết nó bên trong chính con.

Đối với nhiều người trong số các con, đây chính là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con liên quan đến gia đình. Đó là con giúp cho người thân thấy được là không có vấn đề gì phải giải quyết. Chỉ có chuyện thăng vượt tâm thức, tìm ra một cách khác để nhìn nhau, để tương tác với nhau và cho phép mỗi người là con người mà mình là. Điều này đòi hỏi con tự thay đổi chính con cho tới mức con chấp nhận bản thân và cho phép mình là con người mà mình là. Chỉ khi nào con cho phép con là người con là, thì con mới có thể cho phép người khác là con người mà họ là, mà không cảm thấy mình bị đe dọa và cũng không muốn thay đổi người khác hầu con tránh né phải đương đầu với chính tâm lý của con. Con đạt tới điểm con cảm thấy thoải mái, vì người kia không còn “nhấn nút” để con cảm thấy mình không phải tự thay đổi chính mình.

Một số các con sẽ có khả năng giải thích những khái niệm này cho người thân một cách chung chung mà không đề cập đến chân sư thăng thiên, và con giúp họ nhìn ra rằng tất cả chỉ là chuyện lấy một quyết định: “Chúng ta sẽ thôi không đối xử với nhau cách đó nữa, chúng ta sẽ thôi không đổ lỗi cho nhau nữa, chúng ta sẽ thôi không tìm cách thay đổi nhau nữa, chúng ta sẽ chỉ đơn giản cho phép mỗi người là con người mà mình là, vui hưởng thời gian bên nhau khi chúng ta đang sống với nhau – hoặc nếu không, khi mỗi người bước theo đường riêng của mình.”

5.10. Không còn gì để bù đắp

Con yêu dấu, lòng nhiệt tình mất cân bằng đó đến từ đâu? Nó đến từ niềm tin cho rằng có một vấn đề nào đó tuyệt đối phải được giải quyết. Việc giải quyết vấn đề đó là chuyện nhất thiết, là quan trọng tối hậu. Đâu là cái tâm lý sâu xa nằm đằng sau? Đó là sự kiện con, như một con người, cảm thấy mình bị bế tắc do có gì đó bên trong mà con không biết làm thế nào thay đổi. Hoặc con sẽ cố không chú ý đến nó, hoặc con tìm cách phóng chiếu ra ngoài (ngã tiềm thức phóng chiếu ra ngoài) là nếu vấn đề vỏ ngoài kia được giải quyết, nếu những người kia thay đổi, thì vấn đề bên trong sẽ không còn nữa. Tại sao con đã không giải quyết được vấn đề đó chứ? À, là vì con chưa nhận được lời dạy về nguyên nhân của vấn đề, một nguyên nhân mà đối với đa số các con đi trở ngược về ngã gốc. Con thường hay cảm thấy mình bị bế tắc vì con trải nghiệm có sự mất cân bằng trong con nhưng con không biết làm thế nào giải quyết. Cho nên con cố giải quyết bằng cách thay đổi tất cả những thứ kia bên ngoài con, vì con không biết cách thay đổi bên trong con. Làm sao con biết cách thay đổi ngã gốc nếu con không biết mình có ngã gốc và ngã gốc đến từ đâu?

Đó là tại sao thày nói với con – vì con là một thành viên của đợt truyền pháp này, con cởi mở với những lời dạy này, và giờ đây con có những dụng cụ này – là con có khả năng, nếu con muốn, vượt qua rất nhanh chóng bất kỳ trạng thái mất cân bằng nào. Con yêu dấu, con có khả năng đạt tới điểm con không còn tìm cách thay đổi thế giới hay thay đổi người khác như một cách bù đắp cho một điều kiện bên trong tâm lý con. Con đã nhìn vào điều kiện đó, con đã giải quyết điều kiện đó – rồi điều gì xảy ra chứ? Một khi con đã giải quyết điều kiện đó, giải quyết xu hướng tập trung vào việc thay đổi những thứ vỏ ngoài, thì đột nhiên giờ đây con có thể bắt đầu nối kết với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Giờ đây con có thể bỗng nhiên nhìn thấy những gì con đã hoạch định thay đổi hay đem lại trên địa cầu.

Sự khác biệt là con sẽ không làm điều này từ một mong muốn bù đắp cái gì. Con sẽ làm vì một lý do hoàn toàn tích cực. Con làm như vậy vì đó là sự biểu lộ con người mà con là. Nói cho cùng, điều sẽ đem lại cho con sự an bình và niềm vui được hiện thân trên một hành tinh như thế này chính là việc biểu lộ con người mà con là. Con không dính mắc vào những kết quả vỏ ngoài, vào quả trái của việc làm, vì con tìm thấy niềm vui khi con thể hiện bản thể cao hơn của mình. Đó là tiềm năng cao hơn trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.

5.11. Giai đoạn sáng tạo trong Sứ vụ Thiêng liêng

Tất nhiên là có một giai đoạn “lao động” khi có thể con phải làm một số công việc, có quan hệ với một số người, thực hiện một số việc vỏ ngoài, kinh qua một số trải nghiệm. Nhiều người trong các con đã cảm thấy qua trực giác là con đã làm những thứ đó rồi. Điều các thày cố giúp con đạt tới là con bước vào giai đoạn cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng: giai đoạn sáng tạo. Đây là điểm con có thể bắt đầu trao tặng món quà của mình và biểu đạt cái Ta của con, cái tiềm năng cao nhất mà con muốn biểu đạt trước khi con đi vào hiện thân, dựa trên trạng thái tâm thức cao hơn mà con có tiềm năng đạt tới.

Đây có thể trở thành một vòng xoáy tích cực nơi con có sự an bình khi làm người đầu thai. Con không còn thái độ khiếm khuyết cho rằng mình luôn luôn bị chậm trễ ở đằng sau và mình luôn luôn phải ở một nơi nào khác. Luôn luôn có một điều gì đó mà đáng lý mình đã phải làm nhưng lại chưa làm, và có nhiều điều hơn mà mình đã có thể làm. Thay vào đó, con an bình làm người mà con là, biết rằng con sẽ tiếp tục tiến cao hơn từng bước một cho hết phần còn lại của kiếp này. Con sẽ ngày càng cảm thấy thoải mái hơn, ngày càng sáng tạo hơn khi thể hiện sự sáng tạo của mình, và ngày càng an bình hơn khi tận hưởng tiến trình dõi nhìn đời mình trải bày ra. Đây là trạng thái mà các thày muốn con đạt được vì đó là khi con có thể thực sự vui hưởng việc mình hiện diện trên hành tinh. Con yêu dấu, liệu có lý do gì mà các thày lại không muốn con tận hưởng sự hiện thân của con?

5.12. Dành thời gian để tận hưởng cuộc sống trên địa cầu

Thày sẽ nói với con là có một số đáng kể các chân sư từng thăng thiên từ địa cầu đã nhìn lại tiến trình đầu thai của mình, từ lúc mình rơi vào những vòng xoáy hướng hạ rồi lần lần, từ từ, leo ra khỏi để đạt tới điểm hội đủ tư cách thăng thiên. Các thày nhìn lại tiến trình đó và thấy ước gì mình đã dành ra nhiều thời gian hơn trong hiện thân để thực sự vui hưởng việc đầu thai trên hành tinh. Nhưng các thày cũng thực tế và biết rằng thời buổi đó có khác, và tâm thức tập thể cũng có dày đặc hơn. Cho nên trong một số trường hợp đã có một đòi hỏi cấp bách là các thày cần thăng thiên ở một thời điểm nhất định bởi nhiều lý do khác nhau. Đơn giản là khi đó đã không phải là lúc vui hưởng.

Con có thể thấy như trong trường hợp Giê-su, thày đã thăng thiên trong vật lý ngay sau khi hoàn tất sứ vụ công ích của mình. Thế rồi thày nhận được sự đặc miễn để có thể vật chất hóa một xác thân mới và sinh sống trong xác thân này cho đến tuổi 81 khi thày thực hiện cuộc thăng thiên tâm linh chung cuộc. Trong những năm tháng sống tại vùng Kashmir, thày đã vui hưởng sự đầu thai của mình mặc dù độ dày đặc của hành tinh vào thời đó. Con cũng thấy chính thày đây trong kiếp đầu thai chót, cùng với thày Kuthumi, hai thày cũng đã có thêm thời gian. Hai thày đã có một mức chứng đạt và không dính mắc nào đó cho nên đã có thể vui hưởng sự đầu thai của mình khi đó. Sự kiện này đã không được nhấn mạnh trong các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên, nhưng nó đã thật xảy ra – các thày đã có được một thời gian như vậy. Với một thời gian như vậy, kết quả là con có thể thực sự đạt tới điểm hoàn toàn an bình với sự có mặt của mình ở đây, nhưng con cũng an bình với việc thăng thiên. Trong khi đó, nếu con có một lịch trình gấp rút hơn thì thường khi con sẽ không đạt tới điểm an bình khi sống trên địa cầu.

Cho nên con gần như có thể tới mức hội đủ tư cách thăng thiên nhưng con chưa hẳn an bình với việc thăng thiên. Kỳ thực, con phải bỏ thêm thời gian để giải quyết cảm nhận phi-an-bình cuối cùng đó trước khi con thực sự đạt tới điểm có thể hoàn toàn bỏ lại địa cầu ở đằng sau và bước vào trạng thái thăng thiên. Lẽ tự nhiên, các thày mong muốn những ai trong số các con có tiềm năng thăng thiên sau kiếp này có thể chứng được mức đó, là mức con an bình và tận hưởng cuộc sống ở đây. Làm như vậy, con sẽ nêu gương là người tâm linh có thể an bình và có thể tận hưởng cuộc sống. Họ không cần rút khỏi cuộc đời để sống trong hang đá, họ không cần sống một cuộc đời khắc khổ với kỷ luật nghiêm ngặt. Thật ra họ có thể vui hưởng cuộc sống và biểu lộ niềm vui đó, và rồi họ cũng có thể an bình khi đi bước kế tiếp. Đối với các con có tiềm năng thăng thiên sau kiếp này, đây là những trình độ cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Đối với một số các con, điều này có thể đòi hỏi con xoay chuyển nhận biết một cách ý thức để mà thực sự thấy được điều này.

Để thấy được điều này, có thể con sẽ phải sẵn lòng xem xét một số thái độ cố hữu của mình về thế nào là một người tâm linh, thế nào là một học trò của chân sư thăng thiên, thế nào là đạt được một mức tâm thức cao hơn, thế nào là tỏ lộ quả vị Ki-tô của mình hay thị hiện quả vị Phật. Con cần bỏ lại một số hình ảnh đã được tạo ra trong quá khứ về cách hành xử mà một người tâm linh phải có.

5.13. Cả gan là con người mà con là

Con cần nhận ra ở đây như Mẹ Mary đã nói, rằng Sứ vụ Thiêng liêng của con là hoàn toàn cá nhân. Không có cách nào con có thể nhìn vào quá khứ và cách phản ứng của những người tâm linh khác trong quá khứ rồi bảo: “Ồ, đây là cái khuôn mẫu mà tất cả chúng ta phải làm theo trong tương lai.” Thày Giê-su đã kinh qua những gì thày đã kinh qua 2000 năm về trước vào khởi điểm của Thời đại Song ngư. Bây giờ con đang đứng ở khởi điểm của Thời đại Bảo bình. Con sẽ không hội đủ tư cách để thăng thiên bằng cách làm giống hệt như Giê-su vì tâm thức đã chuyển đổi và các yêu cầu cũng khác hơn.

Tất cả những thứ đó được bao gồm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con đã nhìn vào thời điểm mình sẽ đầu thai, nhìn vào tâm thức của mình và con đã vạch ra một đường đi. Nếu con có tiềm năng thăng thiên sau kiếp này, con cũng sẽ có tiềm năng nhìn ra lần lần Sứ vụ Thiêng liêng và cách biểu hiện quả vị Ki-tô của con như thế nào. Thày chỉ giản dị nói là để làm được điều đó, con sẽ phải ngừng đặt ra bất kỳ chuẩn mực nào cho cách hành xử mà con nghĩ con phải có, cũng như những gì con nghĩ con phải làm hay không được làm.

Một lần nữa, đây không phải là chuyện bảo rằng con muốn làm gì cũng được, rằng không có gì sai trái hay không có gì phản tâm linh, mà là nói rằng: “Tôi sẽ không đi theo các tiêu chuẩn trong thế gian, các tiêu chuẩn của sa nhân, các tiêu chuẩn của tâm thức tập thể, hay ngay cả các tiêu chuẩn mà cho tới giờ tôi đã tạo ra trong kiếp đầu thai này. Thay vào đó tôi sẽ xem xét: Điều gì tôi đã ghi vào trong Sứ vụ Thiêng liêng của tôi, là những điều tôi đã chọn từ một mức nhận biết cao hơn. Tôi sẽ kéo những điều đó vào nhận thức có ý thức của mình, và tôi sẽ cả gan là con người như vậy, con người mà tôi đã muốn là trước khi tôi đầu thai – chứ không phải con người mà người khác hay sa nhân muốn tôi là, không phải con người mà các ngã tách biệt của tôi muốn tôi là.”       

Theo một nghĩa nào đó, đây không nhất thiết là một mục đích mà con có thể thị hiện trong một khoảng thời gian ngắn. Đó là một tiến trình lần hồi, như Mẹ Mary có nói là một tiến trình từng bước đạt tới sự nhận biết cao hơn đó. Đối với nhiều người trong các con, nó sẽ không đến với con cho tới phần sau của đời con. Điều quan trọng là con không hốt hoảng mà rơi vào cái khuôn mẫu tự đặt ra cho mình một thời gian biểu. Nói thật, con yêu dấu, khi con bước vào những trạng thái cao hơn của tâm thức để tiến tới tầng 144, khi con tới điểm bắt đầu làm hòa, thì thời gian không còn đường thẳng nữa. Bỗng nhiên, như Phật có nói, thời gian không hiện hữu. Ngay cả nếu con tới mức hoàn toàn an bình trong hiện thân chỉ một tuần trước khi con bỏ lại thân xác và thăng thiên, thì trong tuần lễ đó con vẫn có thể tỏa rạng nhiều ánh sáng vào tâm thức tập thể đến độ con hoàn thành được Sứ vụ Thiêng liêng của con.

5.14. Tránh đặt ra những mục tiêu đường thẳng

Con thấy tâm đường thẳng luôn luôn muốn làm những thứ mà tâm đường thẳng muốn làm. Khi con “bắt” được khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng và con có một mục tiêu, thì tâm đường thẳng sẽ muốn phát biểu: “Phải, nhưng mục tiêu này thật quá sức đối với tôi, cho nên tôi sẽ phải cố gắng xốc vác, tôi phải lập ra một thời gian biểu, tôi phải đến được điểm này, rồi tôi phải đến được điểm kia trước tuần tới. Trong vòng năm tới, tôi sẽ phải vươn lên tới mức đó, vân vân và vân vân.” Con có thể bắt đầu tạo ra trong tâm mình những cấu trúc công phu như vậy, nhưng nó có thể cản trở toàn bộ tiến trình. Bỗng nhiên nó biến thành một tiến trình đường thẳng, trong khi như các thày đã cố giải thích cho con mấy lần, đó là một tiến trình hình cầu, trực nhận và dựa trên trải nghiệm.

Đó không phải là chuyện hiểu biết, lên kế hoạch rồi quyết định với tâm vỏ ngoài, mà là thăng vượt tâm vỏ ngoài và có được những trải nghiệm không đường thẳng, không phân tích, không dựa trên tâm vỏ ngoài. Đó không là một cái gì tâm vỏ ngoài có thể nắm bắt. Chuyện thường xảy ra là khi con có một sáng ngộ “Đây là bước kế tiếp trong Sứ vụ của tôi” thì con không thể giải thích, con không thể biện minh được cho người khác. Con không thể đưa ra một lý do nào ngay cả cho chính con. Con chỉ biết: “Đây là bước kế tiếp và đây là những gì tôi đang làm.” Con học cách xuôi chảy, mà các thày gọi là xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Và khi con có một sáng ngộ, con không có nhu cầu biện minh cho nó và cũng không chống cự lại để thực hiện nó. Con chỉ xuôi chảy vào với nó. Vì vậy con không cần phải lên kế hoạch trước. Nhiều khi chỉ có một sáng ngộ tự phát đang có mặt ở đó, và ngay tức khắc, con xuôi chảy theo và đưa nó vào thị hiện.

Tư duy đường thẳng có thể hữu ích ở một mức nào đó trên đường tu, nhưng tới một điểm trên đường tu con sẽ không thể dùng một tiến trình đường thẳng để vượt qua khoảng cách giữa điểm con đang đứng với trạng thái thăng thiên. Tiến trình đó vẫn lần hồi, nó vẫn diễn ra từng bước một, nhưng nó không hề đường thẳng khi con có thể ngồi đó với tâm phân tích mà vạch ra kế hoạch: “Đây là cách thức tôi sẽ đi từ tầng 132 lên tầng 133 tuốt lên tới tầng 144.” Tiến trình đó hình cầu hơn nhiều, trực giác hơn nhiều, và đó là tại sao sẽ tới điểm khi con phải bắt đầu nhìn ra những giới hạn của tâm đường thẳng và vô hiệu hóa nó một cách ý thức.

Con tách mình ra khỏi nó và nhận ra tâm đường thẳng là một dụng cụ. Tự thân nó không có gì sai trái, nó chỉ là một dụng cụ tương tự như cơ thể vật lý. Cơ thể vật lý là cỗ xe để con tương tác với địa cầu. Tâm đường thẳng cũng như vậy, nhưng con đâu có cho phép các giới hạn của cơ thể vật lý quy định những gì con có thể thực hiện về mặt tâm linh và tăng triển tâm thức? Tâm đường thẳng cũng thế – con không cho phép nó giới hạn con.

Cho nên con phải đạt đến sự nhận biết ý thức cũng như quyết định ý thức là con sẽ tự gia tốc vượt khỏi tâm đường thẳng. Con sẽ ngừng tự đồng hóa với nó, con sẽ nhận ra là tâm đường thẳng sẽ luôn luôn làm những gì nó vốn làm – nó sẽ luôn luôn so sánh, luôn luôn phân tích, luôn luôn dán nhãn. Trong nhiều trường hợp, con chỉ đơn giản không đặt chú ý vào nó nữa. Con để yên cho nó làm công việc của nó, nhưng con không để ý tới nó vì con đi tìm cái sáng ngộ hình cầu sẽ có thể giải quyết bất kỳ mâu thuẫn hay nghịch lý nào mà tâm đường thẳng có thể nghĩ ra. Con cũng vô hiệu hóa mong muốn của tâm đường thẳng nhằm hoạch định từng chi tiết nhỏ nhặt trong phần đời còn lại của con. Con sẵn lòng xuôi chảy với Sứ vụ Thiêng liêng, tin tưởng rằng một khi con chuyên cần chữa lành tâm lý của mình và mở rộng tâm ra để nhận sáng ngộ, thì con sẽ nhận được những sáng ngộ đó, và khi con nhận được thì con sẽ tự động bắt tay thực hiện.

Thày đã nói nhiều hơn thày muốn, và tất nhiên đây là bản chất và niềm vui của thày. Mặc dù thày có thể tiếp tục nói nhiều hơn nữa, thày sẽ công nhận giới hạn của bát cung vật lý. Thày cảm ơn các con đã sẵn lòng trải nghiệm sự Hiện diện của thày và cũng cho phép thày trải nghiệm hiện diện của các con, vì sự tương tác với các con thật là một niềm vui. Như Mẹ Mary có nói, các thày đón nhận mỗi người trong tất cả các con một cách vô điều kiện, và thày không muốn cho con cảm tưởng – mà có thể con đã có từ những đợt truyền pháp trước – rằng thày là một sinh thể kỷ luật nghiêm khắc cứ đặt ra điều kiện là con phải đạt tới mức nào đó thì thày mới chỉ dạy con. Đối với những ai trong số các con mở tâm ra cho lời dạy này thì thật là một niềm vui cho thày được tương tác với con cho dù con tự nhìn mình như thế nào.

Một lần nữa, mong muốn của thày – mong muốn của thày – là con cũng tự nhìn mình như thày nhìn con. Đó sẽ là món quà mà thày sẽ sẵn lòng trao cho con. Quả thật nếu con cởi mở và sẵn lòng, rất có thể thày sẽ cho con một cái nhìn hé thoáng về những gì thày nhìn thấy nơi con – nếu con dành cho thày một khoảnh khắc chú ý.

1 | Con lập ra Sứ vụ Thiêng liêng như thế nào

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 18/5/2018 nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary, và thật là một niềm vui rất lớn cho thày được khai mạc buổi họp mặt này để giảng dạy về cái mà các thày gọi là Sứ vụ Thiêng liêng.

“Trong một cái tên chứa đựng những gì?” như Nhà Thơ [Shakespeare] có nói. Đấy, mỗi khi các thày đưa ra một khái niệm, tất nhiên là các thày đối diện với thực tế phải dùng ngôn từ để truyền đạt những ý tưởng kỳ thực vượt khỏi ngôn từ. Các thày cũng phải đối diện với một thực tế mà không nhiều người nghĩ tới, đó là sự kiện ngôn từ được người khác nhau diễn giải một cách khác nhau, tùy theo gốc tích, văn hóa và tâm lý cá nhân của họ.

Khi các thày đưa ra một cái tên, như “Sứ vụ Thiêng liêng” chẳng hạn, nó sẽ không nhất thiết chạm được mọi người bởi vì một số đã có thành kiến với nó rồi. Họ sẽ không mở tâm ra dù chỉ để được nghe nhiều hơn về khái niệm đó, vì họ đã có một phản ứng đối với từ “thiêng liêng” hay với từ “sứ vụ”. Từ ngữ khiến cho tâm họ rơi vào một trạng thái quá phổ biến trên địa cầu, là bác bỏ mà không thực sự xem xét bằng cả tâm lẫn con tim cởi mở những gì đang ẩn giấu đằng sau từ ngữ, những gì đang được biểu đạt mà lại vượt khỏi từ ngữ.

1.1. Tập trung vào một trong bốn thể phàm

Thày mong muốn cho con một chút tầm nhìn để con thấy sự thể xảy ra như thế nào đối với các thày là chân sư thăng thiên. Thày muốn con tưởng tượng là con, ở mức tâm thức hiện thời của con, được đưa đến nơi mà con nghĩ các thày đang cư ngụ – cho dù đó là một cõi năng lượng thật cao hay bất kỳ cách hình dung nào khác. Con được đưa đến tầng mức nơi các thày cư ngụ và giờ đây con đang đứng cùng với thày nhìn xuống địa cầu. Con nhìn thấy những điều mà con không bao giờ xem xét, hay ít ra những điều mà hầu hết mọi người không bao giở xem xét. Con thấy biết bao nhiêu loại người và nhóm người khác nhau trên trái đất. Nay con cũng thấy những thứ mà con không thể thấy với mắt thịt nhưng con lại thấy từ mức của thày: Tất cả những nhóm người đó đều đang mang một trạng thái tâm thức nào đó. Con thấy điều mà con vẫn biết: Mỗi người đều có một tâm lý cá nhân, một trạng thái tâm thức cá nhân được cấu tạo bởi bốn thể phàm của họ. Con thấy mỗi người đều có một mức tâm vật lý, một mức tâm cảm xúc, một mức lý trí và một mức bản sắc.

Nay con thấy mỗi người tất nhiên cũng có cái mà các thày gọi là tâm ý thức. Con thấy mỗi người có tâm ý thức của mình tập trung vào một trong bốn thể phàm. Một số sẽ tập trung phần lớn vào thân xác vật lý của mình. Một số khác đặt nhiều chú ý hơn vào cảm xúc và họ sống cả đời họ trong cảm xúc của họ. Một số khác nữa chú tâm vào cõi lý trí và họ không ngừng suy nghĩ, phân tích. Và có một số ít thì tập trung nhiều hơn vào thể bản sắc hay tâm bản sắc của họ.

Con thấy là khi các thày ban ra một lời dạy, một trong những mục tiêu của lời dạy là làm thế nào chạm được tâm ý thức của người đó, để khiến cho người đó có được một sáng ngộ ý thức, một sự khai mở ý thức, hay một trải nghiệm “À ra thế!” nếu con muốn. Nó khiến họ xoay chuyển tâm thức để họ nhìn thấy một cái gì mà trước đó họ không thấy, và họ có được một tầm nhìn rộng mở hơn, chín chắn hơn về cuộc sống hay về hoàn cảnh cá nhân của mình. Nhờ vậy mà họ có thể chuyển sang làm những công việc mà trước đây họ không thể làm – khắc phục một số khuôn nếp cảm xúc, khắc phục một số khuôn nếp tư duy, hay ngay cả dời chuyển bản sắc mình lên một mức cao hơn.

Để thực hiện điều này, các thày cần đưa ra một lời dạy chạm được tâm ý thức của họ, như thể thày cần đâm thủng từ tầng cấp của thày để đến được tâm ý thức của họ. Bây giờ con cũng thấy là để chạm được tâm ý thức của một người nhất định, các ý tưởng cùng khái niệm mà các thày ban ra phải đâm xuyên qua các thể phàm nằm bên trên nơi mà tâm ý thức người đó đang tập trung vào. Nếu họ đang tập trung vào tầng cảm xúc thì ý tưởng của thày phải đâm xuyên qua tâm bản sắc và tâm lý trí của họ trước khi nó có thể tíếp cận với tâm ý thức, thậm chí còn phải đâm xuyên qua một khía cạnh nào đó của tâm cảm xúc nữa.

Cho nên con thấy là mỗi người đều mang một số phin lọc, một số rào cản, một số tin tưởng, một số thái độ, một số cảm xúc có khả năng ngăn chặn không cho các tư tưởng mà các thày rải truyền chạm được tâm ý thức của họ. Con hãy lưu ý, đây không chỉ đơn giản là chuyện người đó có nghe được, tìm được hay đọc được các ý tưởng đó. Họ hoàn toàn có thể đọc được một cuốn sách chứa các ý tưởng đó, nhưng trong khi họ đọc các dòng chữ thì những tầng cao hơn trong tâm họ lại ngăn chặn và lọc lựa, khiến các khái niệm không thực sự đi vào tâm ý thức của họ để mà nối kết và đem lại tác dụng. Nói cách khác, tuy họ đọc chữ nhưng họ không thực sự hấp thụ, không nắm bắt và không nối kết được với chữ.

1.2. Các giới hạn cho sự hiểu biết

Thày đã cố tình không sử dụng từ “hiểu” vì đây không chỉ là chuyện hiểu – vấn đề ở đây là thực sự nối kết với ý tưởng để nó xoay chuyển tâm thức của con. Quá nhiều người tập trung vào chuyện hiểu, và đó là vì nhiều người đã tìm ra đường tu tâm linh thường tập trung vào tâm lý trí. Họ chú tâm vào chuyện hiểu một ý tưởng, nhưng có rất, rất nhiều ví dụ về những người có một hiểu biết trí thức to lớn về các khái niệm tâm linh nhưng sự hiểu biết đó lại không xoay chuyển được tâm thức của họ. Đó là vì họ đã không thực sự nối kết, đã không thực sự trải nghiệm được ý tưởng qua trực giác. Trải nghiệm này bị chặn lại bởi cái tâm lý trí cứ muốn tìm hiểu, cứ muốn phân loại và gắn nhãn cho ý tưởng đó, hầu lý trí có thể bỏ nó vào một thư mục gọn ghẽ trong kho dữ liệu nơi nó có vẻ nằm dưới sự kiểm soát của lý trí.   

Con yêu dấu, vấn đề không phải là con giữ một ý tưởng dưới sự kiểm soát của con, bởi vì nếu tự ngã và tâm lý trí cảm thấy nó kiểm soát được một ý tưởng tâm linh thì làm thế nào ý tưởng đó sẽ xoay chuyển tâm thức con đây? Nó sẽ chỉ được xếp đống vào một hồ sơ như một cái gì con đã biết và đã hiểu ở mức độ trí thức, nhưng nó không xoay chuyển tâm thức của con.

Nếu con có thể thấy điều thày vừa nói với con, con sẽ nhận ra là có rất, rất nhiều người trên địa cầu hoàn toàn nằm ngoài tầm tiếp cận của những ý tưởng mà các thày có thể truyền rải từ tầng cấp các thày. Con cũng sẽ nhận ra là có rất, rất nhiều người mặc dù họ cởi mở với các giáo lý tâm linh – có thể họ cởi mở cả với các giáo lý huyền bí, siêu hình, Thời Mới hay thậm chí giáo lý của chân sư thăng thiên – nhưng họ vẫn còn mang quá nhiều thiên kiến, phin lọc lẫn định kiến mà họ không sẵn lòng tra vấn, đến độ các thày thật khó lòng tìm ra một ý tưởng rồi biểu đạt ý tưởng đó bằng những ngôn từ có khả năng chạm được tâm ý thức của họ.

Nếu con có thể thấy sự thể này với mức tâm thức hiện thời của con, rất có thể con sẽ bị chấn động đến mức con cảm thấy gần như chán nản tuyệt vọng, bởi vì con sẽ biết nói gì đây để chạm được họ? Một số các con đã từng có kinh nghiệm quen biết những người mà con đã cố chia sẻ một số điều mình tin. Và con đã bị vấp phải sự giới hạn của ngôn từ, khiến cho bất kỳ những gì con nói ra cũng không nối kết được với tâm ý thức của họ, không thực sự lay chuyển được họ.

1.3. Tại sao các chân sư không chán nản

Nếu con có thể thấy được tình huống các thày phải đối diện, xác suất là con sẽ, ở mức tâm thức hiện thời của con, cảm thấy nản lòng. Nhưng tất nhiên, thày không giảng bài này để khiến con nản lòng, bởi vì các thày không đang ở mức tâm thức của con – các thày đã thăng thiên. Có hai khía cạnh trong vấn đề này mà thày muốn lưu ý con.

Khía cạnh đầu tiên là các thày đã, tất nhiên, thực sự thể nhập và trải nghiệm thực tế của quyền tự quyết, cho nên các thày hoàn toàn không có mong muốn thay đổi con người nghịch lại với ý chí tự do của họ. Kỳ thực như đã có trình bày trong những cuốn sách mới nhất, các thày đã chấp nhận là một khi mình xem địa cầu là một cơ sở giáo dục nhằm cung cấp cho một số người những trải nghiệm mà họ mong muốn, thì mình không có chút phiền hà làm việc với địa cầu.

Nếu con có biết tới các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên thì con có thể quay trở ngược và tìm ra một số bài truyền đọc mà ngay cả trong ngôn từ được sử dụng hay trong độ rung của ngôn từ, con đã có thể nhận ra một chút cảm nhận phiền hà hay nóng lòng từ các chân sư thăng thiên. Thậm chí con có thể quay trở ngược và tìm thấy cảm nhận này trong một số bài truyền đọc sơ khởi của đợt truyền pháp này. Thày mong con nhận ra là nếu con đã phát hiện một độ rung như vậy trong một bài truyền đọc của chân sư, thì cảm giác phiền hà đó, sự rung động đó, đến từ ba thể cao của vị sứ giả. Không có cách giải thích nào khác khi nói về một sứ giả được chân sư bảo trợ, bởi vì tất nhiên các thày không hề có phiền hà. Nếu các thày có bất kỳ phiền hà nào khi làm việc với địa cầu thì từ lâu các thày đã phải trải nghiệm cái mà trên địa cầu gọi là “kiệt sức”. Thày có thể cam đoan với con là hiện tượng này không hiện hữu trong cõi thăng thiên. Không có chuyện một chân sư thăng thiên bị té gục do căng thẳng hay suy sụp thần kinh.

Các thày đã thăng thiên là do đã vượt qua mọi mong muốn thay đổi con người nghịch lại với sự tự quyết của họ. Hiển nhiên, đúng là trên địa cầu có rất nhiều hiện tượng mà các thày muốn thấy thay đổi, vì rõ ràng các hiện tượng này làm con người đau khổ.  Nhưng con không nên dựa theo đó mà suy luận rằng các thày cảm thấy nóng lòng hay bực bội nếu các điều kiện đó chưa thay đổi. Con nhận ra là từ nhãn quan của các thày, các thày không cảm thấy bất kỳ sự bất mãn nào, và do đó tất nhiên các thày không cảm thấy chán nản. Các thày làm việc với mọi người và các thày chấp nhận là mỗi con người đều có quyền tự quyết, và vì thế họ cũng có quyền ở trong trạng thái tâm thức mà họ đang có.

1.4. Không có một chân lý tuyệt đối duy nhất

Chúng ta có thể nói là bốn thể phàm của con hình thành cái mà các thày gọi là một cái ngã, nhưng các thày cũng đã nói là có nhiều cái ngã khác nhau, nhiều phàm linh nội tại khác nhau. Có tự ngã, có tâm ý thức. Vậy để dùng một từ quen thuộc đối với con, hãy đơn giản gọi đó là nhân cách (personality). Toàn bộ bốn thể phàm của con hình thành nhân cách này, và bên trong nhân cách có cái Ta Biết ở một mức tâm thức nào đó. Cái Ta Biết có thể đồng hóa nhiều hay ít với bốn thể phàm, với nội dung của bốn thể phàm, với những cái ngã nằm trong bốn thể phàm. Các thày chấp nhận đó là cách quyền tự quyết tự trình chiếu ra. Các thày chấp nhận địa cầu là một hành tinh với tâm thức thấp và độ dày đặc cao. Các thày chấp nhận trọn vẹn vai trò của mình là làm việc với mọi người ở bất kỳ mức độ tâm thức nào mà họ đang có và tìm cách giúp họ bước lên cao hơn.

Dựa theo đó, ý tưởng thày muốn truyền đạt cho con là mục tiêu của các chân sư thăng thiên không phải là để ban ra chân lý cao nhất, tuyệt đối, phổ quát và khiến cho mọi người phải chấp nhận chân lý này. Đó không là mục tiêu của các thày. Thày cũng biết điều này đi ngược lại những gì một số các con tin tưởng. Thày cũng biết điều này đi ngược lại niềm tin của rất nhiều người đã tu tập trong các đợt truyền pháp trước của chân sư. Thày chắc chắn một số người sẽ tìm kiếm các bài truyền đọc cũ của chân sư và phát hiện những câu mâu thuẫn với những gì Mẹ Mary đang nói qua Kim Michaels – và điều này hoàn toàn phải lẽ. Thực tại mà các thày đang trao cho các con, những người đã sẵn sàng bước lên một mức cao hơn, là các thày không ngồi ở trên đây với một chân lý duy nhất có sẵn và được định trước, một chân lý phổ quát tuyệt đối mà các thày đang tìm cách đem vào cõi vật lý để mọi người phải chấp nhận. Lý do là vì từ tầng cấp của thày, các thày nhận thức thật rõ ràng là không thể nào đưa ra một giáo lý duy nhất mà bảo mọi người chấp nhận được. Đơn giản là có quá nhiều mức tâm thức khác nhau giữa tầng tâm thức thấp nhất và tầng 144. Có quá nhiều nhóm người khác nhau với gốc tích khác nhau, đến từ những hành tinh khác nhau cho dù là từ địa cầu, từ các sinh thể sa ngã, hay từ đủ loại các hành tinh khác, đến độ không thể nào đưa ra một giáo lý duy nhất mà mọi người có thể chấp nhận.

Điều này phần nào là do mọi người đến từ quá nhiều gốc gác khác nhau với trình độ tâm thức khác nhau. Nhưng phần lớn, đó cũng là sản phẩm của sự kiện địa cầu là một hành tinh với tâm thức thấp và độ dày đặc cao. Cho nên ngôn ngữ, những ngôn từ được dùng làm phương tiện chủ yếu để giao tiếp trên địa cầu quá giới hạn (trường hợp sẽ khác đi nếu địa cầu ít dày đặc hơn) đến độ việc biểu đạt một chân lý thực sự phổ quát, tuyệt đối và tối thượng không thể nào thực hiện được với những ngôn từ hiện có ngày nay.

Vai trò, mục tiêu của các thày, thật rõ ràng. Các thày tìm cách làm việc với bất cứ ai hay bất cứ nhóm người nào cởi mở với bất cứ gì mà các thày có thể ban truyền. Hầu chạm được xuyên qua tất cả những rào cản, tất cả những phin lọc của một nhóm người nhất định nào đó, các thày phải nhìn vào xuất xứ của họ, không chỉ nền văn hóa và lịch sử của họ trên hành tinh này, mà ngay cả gốc tích vũ trụ của họ. Họ đến từ đâu? Họ có mang thành kiến gì trong tâm? Họ mang trong tâm những ý tưởng nào mà họ không sẵn lòng chất vấn?

1.5. Những ý tưởng người ta không chịu chất vấn

Con yêu dấu, con nhận thấy là hầu hết mọi người đều có trong tâm mình một khía cạnh nào đó cởi mở đối với ý tưởng mới mẻ. Có một số người không có sự cởi mở này, họ không cởi mở với ý mới, nhưng đa số thì có sẵn một sự cởi mở nào đó với ý mới. Nhưng trong tâm họ cũng có một khía cạnh qua đó họ tin rằng có những ý tưởng cơ bản nhất, đáng tin cậy nhất, cưng yêu nhất, mà họ không sẵn lòng hay không có khả năng chất vấn (thật ra hai cái này là một, vì nếu con sẵn lòng thì con luôn luôn có khả năng).

Các thày biết là trong một số trường hợp, các thày phải làm việc trong những ranh giới rất hạn hẹp vì người ta sẽ bác bỏ bất cứ gì các thày trao cho họ mà lại chất vấn những ý tưởng mà họ cưng yêu, những cách tư duy mà họ không cho ai động đến – những con bò thiêng – hay nói cách khác, những điều cấm kỵ của họ. Có nhiều người, nhiều nhóm người trên địa cầu mà các thày có rất ít khả năng giúp đỡ. Tuy vậy, các thày vẫn phóng ra một số ý tưởng để tạo cảm hứng cho ai đó viết sách, và sách có thể sẽ lay chuyển họ đôi chút. Và tất nhiên, khi con bước lên cao và cao hơn nữa, con sẽ gặp một loạt những loại người ngày càng cởi mở hơn, ngày càng ít những điều tư duy cấm kỵ mà không ai được đụng đến. Với những người như vậy, các thày ngày càng có nhiều chọn lựa hơn trong cách làm việc với họ.

Dựa trên đó, con có thể nhìn vào bản thân mình và nói: “À, vậy thì tôi đang đứng ở đâu?” Nếu con có tâm cởi mở đối với những giáo lý được các thày trao truyền qua vị sứ giả này, và nếu con không bị khiếp sợ khi đọc quyển Các kiếp sống của tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su thì con đang đứng ở một trình độ cởi mở rất cao. Điều này có nghĩa là con đã sẵn sàng để thực sự bước lên một trải nghiệm cao hơn về Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Con có thể hỏi: “Nhưng tại sao các thày đã không đưa ra lời dạy về Sứ vụ Thiêng liêng sớm hơn?” Lý do rất giản dị. Các thày đã tuần tự trao cho con một số lời dạy cùng dụng cụ, để đến khi các thày cho con giáo lý về những điểm chặn nghẽn Sứ vụ Thiêng liêng của con, thì con đã có sẵn các dụng cụ đó hầu có thể bắt đầu tu tập theo cách nhìn cá nhân của mình.

Trước hết, quyển Các kiếp sống của tôi là một dụng cụ chữa lành rất quan trọng. Thày dám nói là ngay cả vị sứ giả này trong tâm vỏ ngoài của ông cũng chưa nắm bắt được quyển sách này có bao nhiêu tầng lớp khác nhau. Tất nhiên không một ai trong các con cần nắm bắt tất cả mọi tầng lớp đó, mà con chỉ cần nhận diện là quyển sách có nhiều tầng lớp. Điều này có nghĩa là con có thể được hưởng lợi khi đọc sách nhiều lần, vì sách đó là một dụng cụ rất quan trọng trong việc chuyển đổi tâm thức của con.

1.6. Khắc phục tâm đường thẳng

Con yêu dấu, một trong những phương thức con cần để chuyển đổi tâm thức và vươn lên một mức nắm bắt cao hơn về Sứ vụ Thiêng liêng của mình là con phải khắc phục sự tập trung vào tâm đường thẳng. Như thày đã nói, rất, rất nhiều học trò tâm linh tập trung tâm ý thức của mình vào tâm lý trí. Con cố học hỏi và tìm hiểu, con muốn hiểu một cách phân tích. Con thường muốn có một dòng thời gian rất đường thẳng, nắm bắt các khái niệm một cách đường thẳng. Cho tới giờ thì cách này đã không gây vấn đề cho con, nhưng sẽ tới một điểm trên đường tu tâm linh khi con không thể bước lên cao hơn nếu con tập trung vào tâm đường thẳng và – nếu có thể nói như vậy – tâm thức con bị dính mắc hay bị mắc kẹt trong tâm đường thẳng. Tại sao vậy, con yêu dấu? À, chuyện này chẳng hiển nhiên sao?

Các thày có giảng cho con rằng khía cạnh thấp nhất cùa tâm con là tâm vật lý, tiếp theo sau là tâm cảm xúc, sau nữa là tâm lý trí, và cao nhất là tâm bản sắc. Con yêu dấu, thày có thể cam đoan với con là tâm bản sắc của con không đường thẳng và phân tích, đó là tầng trực giác cao nhất mà con có thể với tới khi con còn hiện thân. Nếu con muốn chuyển sự tập trung từ tầng lý trí lên tầng bản sắc, con sẽ không thể làm được qua tâm đưởng thẳng phân tich. Con không thể dùng phân tích để bước vào tâm bản sắc. Con chỉ có thể làm được bằng cách khai mở các khả năng trực giác của mình. Đây không phải là vấn đề kiến thức, hiểu biết và nắm bắt. Đây là vấn đề trải nghiệm một cách trực nhận, vì những gì nằm trong tâm bản sắc thật vi tế – đó là những lời dạy các thày đã trao cho con về chấn thương nhập đời vũ trụ và ngã gốc [Xem sách Chữa lành chấn thương tâm linh]. Nó vi tế và có nhiều mặt, rất nhiều mặt khác nhau.

1.7. Giáo lý cho nhiều trình độ khác nhau

Ngã gốc của con không thể được định nghĩa một cách thật đơn giản, đường thẳng, phân tích. Đây không phải là chuyện gán cho nó một cái nhãn thuộc về lý trí và bảo rằng: “À, bây giờ tôi hiểu ngã gốc của tôi rồi. Nó là cái này và bây giờ tôi có thể để cho nó chết đi.” Ấy, nếu con làm vậy thì nó sẽ vẫn còn những khía cạnh ẩn giấu mà con chưa bắt đầu nhìn thấy, vì con chỉ có thể nhìn thấy chúng qua trực giác. Làm thế nào con sẽ tiến bước trên đường tu tâm linh xa hơn tầng lý trí? Không phải bằng cái tâm đường thẳng, phân tích, trí thức đâu con. Mà chỉ bằng cách dời chuyển vào cái tâm quả cầu (spherical) trực nhận, cái tâm nhìn vào tổng thể, nhìn vào bức tranh rộng lớn và sẵn lòng nắm bắt, trải nghiệm sự thật của những gì thày vừa nói với con, cụ thể là các thày không tìm cách trao truyền cho con một chân lý tuyệt đối, đường thẳng duy nhất.

Các thày tìm cách trao truyền nhiều khái niệm và ý tưởng khác nhau, vì mục tiêu của các thày khi tương tác với địa cầu là gì chứ? Con yêu dấu, mục tiêu không phải, không phải, là trao truyền chân lý tuyệt đối. Mục tiêu là nâng cao tâm thức của con người, nâng cao trạng thái tâm thức của mỗi người, và điều này phải được thực hiện với từng cá nhân. Đó là vì sao các thày phải nhắm vào một số nhóm người và nói: “Các thày có thể ban giáo lý cho một phạm vi tâm thức nào đó, xong các thày phải chắc chắn là giáo lý chạm được một số lượng người nào đó, xong các thày sẽ trao giáo lý khác cho những tầng tâm thức khác.”  

Không ai chờ đợi một vị sứ giả duy nhất có thể tiếp cận được tất cả 144 tầng tâm thức; giản dị chuyện này không thể làm được. Các thày đưa ra giáo lý cho một tầng nào đó, và con yêu dấu, thày dám nói là với giáo lý đã ban ra qua trung gian sứ giả này, con có thể khởi sự ở tầng 48 với bộ Khóa tu tự điều ngự, Con đường tự điều ngự, xong con có thể bước lên tiếp cho đến tầng 96. Sau đó tất cả các giáo lý trong sách của thày Maitreya [Chìa khóa cho tự do tâm linh], sách của chính thày về sự sống sung túc [Khóa tu về sung túc], cuốn Những kiếp sống của tôi và các giáo lý về cách khắc phục chấn thương sẽ dẫn con lên cao hơn nữa. Con yêu đấu, thày có thể đảm bảo với con là người đọc cuốn Những kiếp sống của tôi có thể là người ở tầng 48 cho đến những tầng gần như sẵn sàng thăng thiên, và mọi người sẽ có thể tìm thấy trong đó một điều gì mới mẻ, một điều gì sẽ xoay chuyển nhãn quan của mình.

Đó là một quyển sách được trao cho một phạm vi tâm thức rất rộng, và đó là tại sao có một số điều đã được cố tình đặt vào trong sách để khích động người đọc – bởi vì mục tiêu là gì chứ? Như thày vừa nói, sẽ tới một điểm khi để đưa con lên cao hơn, các thày phải dẫn con vượt ra khỏi tâm đường thẳng. Tâm đường thẳng vốn là đường thẳng – nó giống như một chiếc máy tính. Nó sẽ làm công việc mà nó vẫn thường làm – nó sẽ phân tích, nó sẽ phân loại, nó sẽ dán nhãn.

1.8. Tâm đường thẳng không thể thấy được tâm đường thẳng

Con yêu dấu, các thày có thể trình bày tất cả những điều vừa rồi và con có thể nghĩ: “Vâng, con hiểu điều thày nói về tâm đường thẳng một cách trí thức.” Con yêu dấu, tâm đường thẳng có thể có khả năng hiểu được tâm đường thẳng, nhưng nó sẽ không bao giờ thấy được chính nó từ ngoài. Tâm đường thẳng không có khả năng bước ra ngoài chính nó. Chỉ có cái Ta Biết mới có khả năng bước ra ngoài tâm đường thẳng, bước ra ngoài sự đồng hóa hiện thời của nó. Làm thế nào các thày có thể giúp con dời chuyển ra ngoài tâm đường thẳng bằng cách cho con một giáo lý thuận theo cách tư duy của tâm đường thẳng? Chuyện này không thể làm được, con yêu dấu.

Đó là tại sao một số môn phái đạo Phật mới có khái niệm công án được cố tình đưa ra để gây bối rối cho tâm đường thẳng. Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay? Đấy, toàn bộ quyển sách Những kiếp sông của tôi là một công án. Sách chứa đựng nhiều công án nhằm giúp con xoay chuyển và bước ra ngoài những tầng tâm thức khác nhau, không chỉ tâm đường thẳng mà cả cảm xúc nữa, thậm chí con xoay chuyển cả bản sắc của con. Nó cho con một trải nghiệm bất ngờ, không đường thẳng và khiêu khích sự kinh ngạc đến độ người đọc hoặc phải bác bỏ trải nghiệm đó hoàn toàn và như vậy cũng bác bỏ quyển sách, hoặc phải dời chuyển lên một mức tâm thức cao hơn. Có rất ít người đọc sách này mà không bị lay chuyển hay khích động – rất ít. Hiển nhiên là có một số người, hầu hết ở dưới tầng tâm thức 48 hay có lẽ cao hơn một chút, vô cùng khép kín và nhiều thành kiến. Những người như vậy có thể mang một số ý tưởng mà họ tuyệt đối không chịu chất vấn, và khi họ tìm ra là quyển sách chất vấn các ý tưởng này thì họ sẽ bác bỏ nó thôi. Rất ít người có thể đọc mà không có phản ứng nào đó, cho nên đây là một dụng cụ thật quan trọng khi con hiểu chính xác.

1.9. Nếu con tìm sự thoải mái thì con đã chọn lộn hành tinh

Có nhiều người trong số các con đã là học trò của chân sư thăng thiên từ rất lâu, có người từ hàng chục năm trời. Con cần nhận thức là có thể sẽ tới một điểm khi con biết quá nhiều giáo lý, con đã đọc quá nhiều lời dạy, đến độ con gần như đâm ra thoải mái. Con nghĩ các chân sư không thể làm con ngạc nhiên được nữa. Có một khía cạnh trong tâm con không muốn các thày tạo ngạc nhiên cho con vì con đã trở nên thoải mái với trình độ hiện tại của mình.

Con yêu dấu, thày nói với con điều này. Nếu con mong được thoải mái thì chắc chắn con đã chọn lộn hành tinh rồi đó, vì đây không phải là một hành tinh nơi con có thể tính chuyện thoải mái được. Suốt các thời đại đã có rất, rất nhiều người cố tạo lập cho mình một hoàn cảnh vật lý vỏ ngoài nơi họ có thể cảm thấy an toàn và thoải mái. Điều này có thể thông cảm được, nhưng con hãy nhìn lịch sử đi. Bánh xe lịch sử đã nghiền nát họ thành cát bụi. Tất cả mọi đế chề hùng mạnh đến đâu cũng đã bị nghiền nát thành cát bụi. Con không thể thực sự thoải mái trên một hành tinh như thế này.

Thách đố mà thày muốn đặt trước mặt con là như sau: Liệu con có muốn biết Sứ vụ Thiêng liêng của con hay con muốn thoải mái? Vì con không thể làm được cả hai. Đa số các con đã có một ý thức nào đó về Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Thày cũng biết là con chưa nhìn thấy được đầy đủ chi tiết, nhưng lý do tại sao thì các thày sẽ giải thích sau. Con có một ý niệm nào đó về Sứ vụ của con. Hầu hết các con đã phần lớn đi theo Sứ vụ của mình trong suốt đời mình cho dù con không ý thức chuyện này.

Điều thày muốn đặt trước mặt con là giờ đây con đã đạt tới mức có một số khía cạnh của Sứ vụ Thiêng liêng mà con chưa nhìn thấy. Một lần nữa, con đã thấy được một số khía cạnh của Sứ vụ của mình, con đã phần lớn bước theo Sứ vụ, nhưng vẫn còn điều gì đó mà con chưa thấy. Con cần tự hỏi: “Liệu tôi có sẵn lòng muốn thấy những gì tôi chưa thấy?” Nếu con sẵn lòng thì con sẽ cần nhìn nhận là con cần từ bỏ sự thoải mái của con để mà nhìn thấy. Lý do con chưa nhìn thấy là vì con đã thích nghi với một cách nhìn, một thái độ, một cách hiểu nhất định, và con không nghĩ là con cần vượt xa hơn những thứ đó. Nếu con không vượt xa hơn, con sẽ không thể nhìn thấy các khía cạnh của Sứ vụ vẫn ẩn giấu khỏi mắt con. Đây là quyết định mà con cần lấy, và chính con là người cần lấy. Trên cơ bản, thày yêu cầu là khi con đi ngủ tối nay, con hãy thỉnh cầu được dẫn đến nơi nhập thất của bất kỳ vị chân sư thăng thiên nào mà con muốn đến, bất kỳ vị nào thân thiết nhất trong tim con. Xong thày xin con hãy, một cách nghiêm túc, yêu cầu được chỉ dẫn – hầu con có thể nhớ lại sáng hôm sau – điều gì đã khiến con quá thoải mái đến độ nó ngăn chặn tầm nhìn của con về Sứ vụ Thiêng liêng. Con sẽ không rút tỉa được ích lợi tối đa từ lời dạy này nếu con vẫn còn bám giữ mong muốn thoải mái đó. Thày không bảo đây nhất thiết là một chuyện gì khủng khiếp to lớn mà con làm. Nó có thể là một điểm rất vi tế. Con hiểu là hầu hết các con đã đạt đến một mức trên đường tu nơi con không có rủi ro phạm lầm lỗi trầm trọng rồi bị tuột trở xuống, rơi vào một trạng thái tâm thức thấp hơn hay bị hụt mất thăng thiên. Con đã đạt được mức khá, con đã khá tinh tấn, nhưng nếu con muốn lên cao hơn thì con không thể cho phép mình thoải mái.

Đây có thể là một điều rất vi tế qua đó con cảm thấy mình có đôi chút thoải mái, có những điều mình không cần thay đổi. Một lần nữa, thày tôn trọng quyền tự quyết của con. Thày chỉ giản dị nói rằng nếu con thực sự muốn biết các khía cạnh ẩn giấu của Sứ vụ Thiêng liêng của con, thì con cần nhận thức là chúng ẩn giấu không phải vì có tà lực nào đó đang che khuất chúng, cũng không phải vì các chân sư đang chặn giữ chúng khỏi con, mà vì trong chính tâm con có một mức độ thoải mái đang ngăn cản con nhìn thấy chúng. Đây là sự xác định mà con cần làm trong ngày đầu tiên của hội nghị này để con có thể mở tâm ra nhiều hơn cho những điều các thày sẽ trao cho con trong những ngày sắp tới.

1.10. Sứ vụ Thiêng liêng được lập ra như thế nào

Bây giờ con yêu dấu, thày mong muốn trình bày chút đỉnh về cách Sứ vụ Thiêng liêng được lập ra như thế nào. Trong quyển sách của thày Nada [Những khai ngộ thần bí về an bình], thày Nada có giảng là Sứ vụ Thiêng liêng không được lập ra từ một trạng thái tâm thức thăng thiên, mặc dù tất nhiên con được sự trợ giúp của các chân sư thăng thiên. Khi con đi vào kiếp đầu thai hiện tại, con có một tiềm năng cao và một tiềm năng thấp. Nói cách khác, con có tiềm năng đạt đến một mức tâm thức nào đó nếu con cứ tiếp tục tự thăng vượt và thật sự chuyên cần.

Nếu con sống một cuộc đời “bình thường” – nếu có thể gọi như vậy – con sẽ đạt đến cái trạng thái tâm thức thấp hơn. Sứ vụ Thiêng liêng của con được thảo ra từ tầng mức tâm thức cao nhất mà con có tiềm năng đạt được trong kiếp này. Nói cách khác, khi các thày gặp con và lập ra Sứ vụ với con, con không đang ở cùng mức tâm thức vào cuối kiếp đầu thai trước hay mức tâm thức khi con bước vào kiếp đầu thai này. Con ở mức tâm thức cao nhất mà con có tiềm năng với tới, cho nên khi con thảo Sứ vụ, con nhìn thấy những gì con có khả năng nhìn thấy từ mức tâm thức đó. Thày có thể cam đoan với con là khi con thảo Sứ vụ, nó không được thảo ra với tâm đường thẳng, phân tích. Các thày không ngồi đó với tâm đường thẳng mà phân tích từng khía cạnh của quá khứ lẫn tâm lý của con hay điều này điều nọ. Các thày không giống như người ta trên địa cầu khi con thấy các nhà kinh doanh hay tướng lãnh quân đội lập ra những kế sách chi tiết, đầy đủ với mọi việc cần thi hành hầu thực hiện kế sách. Đó không phải là cách thức một Sứ vụ Thiêng liêng thành hình. Nó không đường thẳng hay phân tích theo kiểu đó.

Đây là thêm một lý do cho thấy là để nắm được các khía cạnh ẩn giấu của Sứ vụ của mình, con phải khắc phục tâm đường thẳng. Nhiều người trong số các con đã trở nên thoải mái với tâm đường thẳng. Thậm chí con đã dùng cả giáo lý chân sư thăng thiên để tạo dựng một cái nhìn đường thẳng về thế giới, qua đó con cảm thấy mình đã hiểu hết cách vận hành của thế giới. Con có một ý niệm về lịch sử đã qua, về lịch sử của vũ trụ và điều này điều nọ, và con cảm thấy thoải mái trong đó. Thày nói với con là con cần bước lên cao hơn để nắm lấy tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của con. Đó là tại sao con cần sẵn lòng bước vượt ra ngoài. Con cần nhận diện mục tiêu mà cả con lẫn các thày đều có khi lập ra Sứ vụ của con là, tất nhiên, khiến con chứng được mức tâm thức cao nhất mà con có tiềm năng chứng được.

1.11. Nếu đây là kiếp chót của con trên địa cầu

Một tỷ lệ đáng kể trong số các con có tiềm năng sống kiếp đầu thai này là kiếp chót của mình, để con có thể thăng thiên hoặc ngay sau kiếp này, hoặc ít ra sau một thời gian khi con đã giải quyết vấn đề tâm lý cuối cùng và sẵn sàng thăng thiên. Điều này có nghĩa là vấn đề các thày đặt ra cho mình khi lập Sứ vụ Thiêng liêng với con, là các thày nhìn vào mức tâm thức thấp nhất, mức tâm thức mà con đã đạt được ở cuối kiếp hiện thân trước và sẽ đem theo vào kiếp hiện thân này. Xong các thày nhìn vào tiềm năng cao nhất và nói: “Làm thế nào các thày sẽ xoay chuyển tâm ý thức của con từ mức thấp nhất đó lên mức cao nhất? Đâu là những thành kiến, những phin lọc và những điều cấm kỵ trong bốn thể phàm của con mà con cần thách đố và nhìn vượt qua để có thể dời chuyển tâm thức lên mức cao nhất? Con cần kinh qua những trải nghiệm nào để có thể xoay chuyển tâm thức lên mức cao nhất?”

Con hiểu ở đây là mục tiêu của các thày không phải để khiến con nắm bắt chân lý tối thượng tuyệt đối và thông hiểu cả vũ trụ. Mục tiêu của các thày không phải là biến các con thành những nhà siêu trí thức tâm linh hiểu biết dòng diễn biến đường thẳng tuyệt đối của vũ trụ là như thế nào. Mục tiêu các thày là xoay chuyển tâm thức con một cách toàn diện, trực nhận và bao hàm tất cả – một cách trực nghiệm. Đây là mục tiêu của các thày, là những gì các thày xem xét đến.

Điều này mang rất nhiều hệ quả mà các thày sẽ nói tới. Nhưng cho ngày hôm nay, thày muốn con ghi nhớ rằng điều quan trọng là con thực hiện cuộc xoay chuyển đó khi con sẵn lòng nhìn vượt ra ngoài sự thoải mái và tâm đường thẳng của con. Con phải sẵn lòng xem xét, không cứ là “tôi cần hiểu những gì”, mà “tôi cần có trải nghiệm nội tâm nào, tôi cần loại kinh nghiệm sâu xa nào, một trải nghiệm chuyển vọt, có lẽ cả một trải nghiệm chấn động, để vươn tới tiềm năng trọn vẹn nhất của tôi trong kiếp đầu thai này. Tôi sẽ cần từ bỏ những gì để đạt đến đó?”

Đó là những câu hỏi mà con có thể xem xét từ giờ cho đến ngày mai. Các con có thể bàn thảo với nhau về đề tài này nếu con thích, và giúp đỡ nhau đạt được một nhãn quan đổi khác. Con có thể nhìn vào một nhóm như thế này hay con có thể nhìn vào chính bản thân con, và con có thể nói là tất cả các con đều đang tu học cùng một giáo lý, đã áp dụng cùng một lời dạy, cho nên giữa các con đã có một mối liên kết chung. Mặt khác, các con đến từ nhiều quốc gia, nhiều nền văn hóa, nhiều hoàn cảnh gốc tích khác nhau, và có một điều mà các con có thể giúp nhau nắm bắt và trải nghiệm được, đó là mọi người không nhìn mọi thứ theo cùng một cách.

1.12. Không cảm thấy bị đe dọa bởi những khác biệt

Điều mà các con có thể giúp nhau trong một nhóm thế này là dần dần nhận ra rằng thật không có gì quan trọng nếu mỗi người có cách nhìn khác nhau. Con có thể đạt tới điểm không còn cảm thấy bị đe dọa bởi sự khác biệt của mọi người, vì con nhận ra toàn bộ cách con nhìn đời sống trên địa cầu chỉ là sản phẩm của nội dung trong bốn thể phàm của con. Những gì trong bốn thể phàm đó không thực là con, cho nên tại sao con lại bị dính mắc vào đó đến độ nó ngăn cản con thực là con, ngăn cản con biểu lộ con người thực của con? Liệu nội dung bốn thể phàm quan trọng đến độ con sẵn sàng gác bỏ con người thực của mình để bênh vực cho những ý tưởng đó, cho những cái ngã đó vì chúng không thực một cách tối hậu?    

Lẽ tự nhiên, tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng là con từ bỏ các giới hạn đó, các đồng hoá đó, cái tâm vỏ ngoài đó, các khuôn nếp cảm xúc đó, các thói quen vật lý đó. Con buông bỏ chúng vì con muốn một cái gì cao hơn. Con muốn biểu lộ con thực sự là ai. Đương nhiên đây là một điểm mà các thày sẽ đề cập nhiều hơn, vì thật là một khái niệm đáng sợ đối với một số người khi họ đặt câu hỏi: “Ủa, tôi thực sự là ai nhỉ? Nếu tôi không là cái nhân cách vỏ ngoài đó được uốn nắn khi tôi lớn lên hay ngay cả trong những kiếp trước, thì tôi là ai đây? Tôi muốn là ai đây?”

1.13. Sứ vụ Thiêng liêng có nhiều tầng lớp

Như vậy là đủ cho hôm nay. Để kết thúc, thày muốn trả lời một câu hỏi mà một số người đã đặt ra như sau: “Liệu mọi người trên địa cầu đều có một Sứ vụ Thiêng liêng hay chăng?” Câu trả lời, theo một cách nào đó, là có – mọi người đều có. Nhưng các sứ vụ tất nhiên rất, rất khác nhau tùy theo mức độ tâm thức. Con có thể lấy ví dụ một sa nhân ở tầng tâm thức thấp tột cùng được phép hiện thân trên địa cầu, như Hitler chẳng hạn. Liệu ông ta có một Sứ vụ Thiêng liêng hay không? Có chứ, ông có một Sứ vụ Thiêng liêng vì có những chân sư thăng thiên đã gặp ông, đã bàn cãi về tiềm năng, cả tiềm năng cao lẫn tiềm năng thấp, và đã lập ra một Sứ vụ Thiêng liêng từ tầm nhìn của các thày hầu các thày giữ được niệm tinh khôi cho ông. Nhưng hiển nhiên, các thày cũng biết kế hoạch đó không nhất thiết là thực tiễn vì Hitler ở một tầng tâm thức thấp đến độ ngay cả khi ông ở ngoài hiện thân, ông cũng không có khả năng làm việc với các thày để thảo ra Sứ vụ. Ông ở trong một trạng thái oán giận, nổi loạn, chối bỏ và phủ nhận đến mức ông không thể cộng tác với các thày cho dù trong thời gian giữa hai kiếp đầu thai.

Con càng đi xuống những tầng tâm thức thấp nhất thì con sẽ càng tìm thấy những người không có khả năng làm việc với các thày, ngay cả khi họ đang ở ngoài xác thân và do đó được hưởng chút nhẹ nhõm khi họ không bị bốn thể phàm chi phối. Nhưng họ vẫn không thể làm việc với các thày. Đó là lý do tại sao các thày lập ra một kế hoạch cho họ, dựa trên những gì các thày nhìn thấy nơi dòng sống của họ. Lý do các thày lập ra kế hoạch này tất nhiên không phải là vì các thày cần đến nó – mặc dù nó cũng giúp cho các thày vì trên cõi thăng thiên có những sinh thể cầm giữ niệm tinh khôi cho mọi người đang đầu thai. Lý do chính là vì nếu trong khi đầu thai, người đó quyết định là họ muốn vươn lên để đạt được hơn nữa thì họ sẽ dễ dàng hơn hòa điệu với Sứ vụ của họ và nhận được một xung lực nào đó sẽ giúp họ tiến lên cao hơn.

Khi con đi từ tầng tâm thức thấp nhất lên các tầng cao hơn, con sẽ thấy mọi người có khả năng tham gia nhiều hơn vào việc thiết lập Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Điều này có nghĩa là họ sẽ có nhận thức rõ ràng hơn khi đầu thai. Họ cảm nhận là mình có một mục đích. Trên cơ bản, có thể nói là cho tới khi con lên cao hơn tầng 48 thì con mới thực sự tham dự một cách ý thức hơn vào việc thiết lập Sứ vụ Thiêng liêng. Đó là tại sao rất nhiều người ở tầng tâm thức này hay cao hơn có cảm nhận là ít ra cuộc sống có mục đích, có ý nghĩa, rằng họ ở đây là có lý do, họ ở đây là để tìm ra một cái gì, khám phá một cái gì, ngay cả học hỏi, tăng triển, tiến hóa. Tất nhiên đối với họ, cảm nhận này sẽ vô cùng hữu ích vì nó giúp họ hòa điệu với Sứ vụ Thiêng liêng của họ.

1.14. Tại sao con quên Sứ vụ của con

Hiển nhiên vấn đề trung tâm với Sứ vụ Thiêng liêng là Sứ vụ được thảo ra với mức tâm thức cao nhất mà con có thể vươn tới trong kiếp sống này, nhưng khi con bước vào kiếp này thì con lại bước vào với mức tâm thức thấp nhất của con, là mức con đã đạt được trong kiếp trước. Do đó con không thể nắm được một số khía cạnh của Sứ vụ. Và do độ dày đặc của hành tinh cũng như của bốn thể phàm của con, con quên đi nhiều khía cạnh của Sứ vụ. Ít nhất con sẽ quên đi trong một vài năm đầu của kiếp đầu thai.

Có thể nói là có một giai đoạn trên đường tu tâm linh khi mục tiêu chủ yếu của đường tu, theo một nghĩa nào đó, là nhớ lại phần nào sự nhận biết về Sứ vụ của mình. Nhiều người trong các con đã phần lớn làm được việc này vì con đã sử dụng các lời dạy do các thày ban ra cùng những dụng cụ để chữa lành tâm lý, quân bình nghiệp quả, khắc phục những điểm nghẽn đó, mở tâm ra với tư tưởng mới và gia tăng khả năng trực giác của mình. Như thày vừa nói, tất cả các con vẫn còn một số khía cạnh mà các con đã trở nên quá thoải mái, và chúng đang chặn nghẽn viễn kiến kế tiếp mà con có khả năng hoàn thành, đặc biệt khi con đã nhận được những lời dạy về avatar – và tất nhiên tất cả các con đều là avatar, vì nếu không thì các con đã không ở đây để tu học cách chữa lành chấn thương nhập đời.

Con yêu dấu, điều này kết thúc những nhận xét mở đầu cho tiến trình độc đáo này sẽ dẫn con đi qua những ngày tu học sắp tới. Và như vậy, thày bày tỏ lòng biết ơn của thày đến các con đã có mặt hôm nay, vì tất nhiên, sự kiện các con có mặt rất đông đảo có nghĩa là các thày có thể đưa ra một lời dạy sâu sắc hơn bình thường. Nó trở thành một sự tương tác qua lại giữa các con với các thày. Một lần nữa, các con càng sẵn lòng từ bỏ sự thoải mái của mình thì lời dạy ban ra sẽ càng có thể cao hơn trong những ngày sắp tới. Chương trình cho lần hội nghị này không cứ là được định trước hoàn toàn. Như với mỗi hội nghị, sẽ có một tiềm năng thấp và một tiềm năng cao, và tùy vào sự đáp ứng của các con mà cuối cùng các thày sẽ trình bày những gì. Thày gửi lời cảm tạ sâu xa nhất đến các con đã hiện diện ở đây, đã sẵn lòng có mặt ở đây, và cũng sẵn lòng – thày tin như vậy – vươn lên cao hơn nữa.

Thỉnh cầu tự do khỏi trốn tránh (6 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Peace và Aloha và Arcturus và Victoria, Đại thiên thần Uriel và Aurora và Zadkiel và Amethyst, và Chân sư Nada và Saint Germain yêu dấu, hãy giúp con khắc phục mọi cơ chế trốn tránh. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với thày Nada và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Con nhận ra là đối với nhiều người, cuộc sống của họ bị chi phối bởi phản ứng chiến đấu hay tháo chạy. Phản ứng này do các phàm linh nội tại và một phàm linh tập thể rất mạnh điều khiển.

Ôi Elohim Peace, trong Ngọn lửa Kết hợp,
Nhị nguyên không còn chỗ để bày trò cuộc chơi, 
Con biết mọi hình tướng tuôn ra từ một cội,
Con lấy uy lực đó định ra hướng đi mới. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.2. Con đã cố gắng khắc phục phản ứng chiến đấu dựa theo giáo lý chính thống của Cơ đốc giáo. Con cảm thấy con không bao giờ được biểu lộ sự hung hãn. Con phải luôn luôn chìa má bên kia và tránh không hung hãn khi con gặp sự hung hãn từ người khác.

Ôi Elohim Peace, hồi chuông đã vang rền,
Khiến từng hạt nguyên tử ca hát và rung lên.
Con nay bỏ lại hết ý niệm ngã riêng biệt
Khi con vượt biển cả của luân hồi trùng điệp. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.3. Con nhận ra khi con không thể thẳng thắn phản ứng lại sự hung hãn, con xoay qua phản ứng tháo chạy. Nếu sa nhân không thể khiến con theo phản ứng chiến đấu, họ tìm cách khiến con đi vào phản ứng tháo chạy.

Ôi Elohim Peace, thày hãy giúp con ngộ
Rằng Giê-su giáng thế để ban con Ngọn lửa,
Rải cho ai sẵn lòng rũ hết chuyện ganh đua,
Nhập sự sống bất tận mà theo chân Ki-tô. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.4. Sa nhân cho con gặp một điều kiện hung hãn khó chịu mà có vẻ như con không thể thoát được trong cõi vật lý. Bởi vì chúng không thể khiến con đánh lại, chúng cho con một lối thoát khỏi điều kiện mà chúng đã tạo ra.

Ôi Elohim Peace, qua mắt thày con biết
Rằng chỉ trong cái Một con mới mong giải thoát,
Và cũng thấy được rằng chẳng vật gì tách biệt,
Khi cái ngã phàm phu, con buông bỏ đoạn tuyệt. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.5. Cho mỗi tầng tâm thức từ 48 tới 96, có một cơ chế trốn tránh qua đó con có thể trốn tránh điều mà con không chịu đựng nổi. Con không thể đánh lại, con không thể sống mà phải gặp hoàn cảnh đó hoài do đó con tìm một lối thoát, một cách tránh xa nó.

Ôi Elohim Peace, thày chỉ con lối đi, 
Ngừng đấu đá nhị nguyên, con thông sạch tâm trí,
Thày đâm xuyên ảo giác thời gian lẫn không gian,
Đem Hồng ân Bất tận tiêu hủy mọi phân ly. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.6. Có những cơ chế trốn tránh vật lý nhưng cũng có một cơ chế trốn tránh nơi cõi trung giới, cõi tình cảm, cõi tư tưởng và phần thấp của cõi bản sắc.

Ôi Elohim Peace, tên thày sao đẹp quá,
Nỗi nhị nguyên tủi hổ trong con thày giải tỏa,
Trút gánh nặng sợ hãi, địa cầu được tự do,
Và chào đón thái bình hiển hiện khắp đây đó. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.7. Căn bản của sự trốn tránh là con lấy một quyết định: “Tôi không bao giờ muốn trải nghiệm điều này nữa.” Vì con không thể hành động hung hãn chống điều đó, nên con đi vào cơ chế tháo chạy qua đó con tìm cách trốn tránh khỏi nó trong tâm.

Ôi Elohim Peace, với Ki-tô bên cạnh,
Không thế lực nhị nguyên nào có thể lẩn tránh,
Chính qua sự rung động của Ngọn lửa Hoàng kim
Mà ảo ảnh sự chết được Ki-tô nhận chìm. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.8. Để có thể trốn tránh, con chấp nhận một phàm linh tập thể, con tạo ra một phàm linh nội tại cung cấp cho con (trong tâm con) một lối thoát hay một cảm giác khuây khỏa khỏi điều kiện trong cõi vật lý mà con không muốn đối mặt nữa.

Ôi Elohim Peace, thày đem vào thế giới
Lửa Tái sinh Vũ trụ mà chẳng ai ngăn nổi,
Chúng con từ bỏ hẳn mọi ý niệm “cái tôi”,
Để Ánh sáng của thày trong chúng con chiếu rọi.

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.9. Ở mỗi tầng từ 48 đến 96, có một cơ chế trốn tránh sẽ, nếu con dùng nó, buộc con vào cõi trung giới, cõi tư tưởng hay cõi bản sắc. Con bị buộc vào tầng này của các sa nhân nơi đó con cảm thấy khuây khỏa và an toàn khỏi một số điều kiện.

Ôi Elohim Peace, hòa bình con cảm được,
Mọi ký ức chiến tranh thày đã khuây khỏa hết,
Bao thế lực xung khắc, địa cầu đã thăng vượt,
Và phục hồi hành tinh trở về với thanh khiết. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

Phần 2

2.1. Có những sa nhân, tà linh và quỷ dữ làm cho con người cảm thấy an toàn vì như vậy họ bị ru ngủ và không đi trên con đường tới quả vị Ki-tô, là nơi họ có thể tìm thấy Con đường Tâm linh dựa trên Ki-tô giúp họ đáp ứng những điều kiện mà họ muốn tránh.

Arcturus yêu dấu, con nay xin thày phóng
Dòng Lửa Tím của thày cho sự sống tăng triển.
Những vòng tròn ánh sáng cứ không ngừng tỏa rộng,
Trong mỗi hạt nguyên tử cũng đồng nhịp sáng lên. 

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.2. Nada, xin thày giúp con nhận ra liệu con có dùng giáo lý tôn giáo hay tâm linh làm căn bản cho cơ chế trốn tránh cá nhân của con.

Arcturus yêu dấu, Elohim Tự do,
Chúng con mở tim ra cho thực tại Tánh linh,
Khi cuộc đời nhân thế không còn gì gắn bó,
Con gọi sự sống mới trong Ngọn lửa Tái sinh. 

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.3. Mục đích của bất cứ cơ chế trốn tránh nào là khiến con cảm thấy an toàn. Nó cũng ngăn cản con thăng vượt chính mình vì nếu con cảm thấy an toàn, thì tại sao con lại cần thăng vượt chính mình và đi trên con đường quả vị Ki-tô?

Arcturus yêu dấu, ở với con mãi mãi,
Ngày mới con sẵn lòng chào đón khi sống lại,
Trái tim con lan rộng ra Vô biên dang trải,
Và bí quyết chiến thắng là ngọn lửa của thày. 

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.4. Con đang sống trên một hành tinh rất khó khăn. Có nhiều điều kiện trên trái đất khó đối phó ở mặt tình cảm, tư tưởng và bản sắc. Để có thể sống ở đây, gần như không tránh được việc con cần tạo ra một cơ chế trốn tránh để con có thể tìm được quân bằng.

Arcturus yêu dấu, màu tím và ánh lửa
Ngập từng hạt nguyên tử và nâng nó lên cao,
Ánh sáng đổ đầy hết khoảng không gian ở giữa,
Và ngay cả vật chất cũng sáng rực làm sao. 

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.5. Nada, xin thày giúp con nhìn vào các cơ chế trốn tránh hiển nhiên nhất của con và nhận ra con không cần chúng nữa ở tầng tâm thức này. Con đã đạt được một tầng quả vị Ki-tô nơi con không cần cơ chế trốn tránh nữa.

Arcturus yêu dấu, Hồng ân biến đổi cả,
Trao cho con uy lực đương đầu mọi thách đố,
Tai con luôn văng vẳng Bài hát của Tự do,
Và con biết Thượng đế yêu thương mình lắm đó. 

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.6. Nada, con sẵn sàng đứng lui lại và xem xét cơ chế trốn tránh cá nhân của con. Xin thày giúp con nhận ra cách con đã dùng giáo lý các chân sư thăng thiên để củng cố một cơ chế trốn tránh sẵn có mà con đã mang trong nhiều kiếp.

Arcturus yêu dấu, con buông mọi sợ hãi,
Thày Hiện diện thật gần, tưởng chạm được bằng tay,
Khi ánh sáng màu tím ngập toàn cõi bên trong,
Con nhắm hướng thăng thiên, tự nguyện và nhanh chóng.

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.7. Nada, xin thày giúp con khắc phục bất cứ khuynh hướng nào khiến con nghĩ vì con đang học giáo lý chân sư thăng thiên, con không cần xem xét một số điều trong chính tâm lý của con. Con không cần nhìn vào cái đà trong chính mắt con.

Arcturus yêu dấu, đem lại thời đại mới,
Trái đất và nhân loại lật qua trang đổi đời,
Ánh sáng thày chuyển hóa, cho con niềm chắc chắn,
Hoàng kim Saint Germain là thực tại hoàn toàn.

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.8. Nada, xin thày giúp con nhận ra liệu con có đón nhận lý tưởng không hung hãn của Cơ đốc giáo mà không nhận được trọn vẹn giáo lý của quả vị Ki-tô, do đó con cảm thấy bị mắc kẹt và bất lực, cảm thấy lý tưởng tôn giáo của mình đã khiến mình bất lực. Con thấy cần trốn tránh điều mà con không thể thay đổi, điều mà con không thể đối phó.

Arcturus yêu dấu, chọc thủng cái ảo ảnh
Là rắn có thể địch bao thiên thần dũng mãnh.
Không có tà lực nào ngăn được lửa hùng mạnh
Sẽ lập tức dẹp yên mọi hiềm khích đua tranh.

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.9. Không có hoàn cảnh nào trên trái đất mà con không thể đối phó được bằng cách khắc phục phàm linh nội tại đã khiến con phản ứng lại điều kiện đó với phản ứng chiến đấu hay tháo chạy.

Arcturus yêu dấu, vì yêu Saint Germain
Nên con cứ thỉnh hoài, một lần thêm một lần,
Ngọn lửa Tím của thày trên trái đất tràn lan,
Cho đôi mắt của thày cũng hạnh phúc ngập tràn.

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

Phần 3

3.1. Nada, xin thày giúp con nhận ra những điều kiện trên trái đất mà con cảm thấy con không thể đối phó được, con không thể sống với. Xin thày giúp con nhận ra điều kiện đó và bắt đầu nhận diện cơ chế trốn tránh mà con đã tạo ra để cảm thấy an toàn.

Đại thiên thần Uriel, với uy lực dũng mãnh,
Các thiên thần hòa bình nuốt trọn hết chiến tranh. 
Bọn quỷ dữ hung hăng không thể nào địch nổi
Ánh sáng đang thiêu chúng, lửa rực lên sáng ngời.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.2. Con nhận ra ngày nào con còn liên hệ với các chân sư thăng thiên hay với Hiện diện TA LÀ của con qua phin lọc của các cơ chế trốn tránh này, con không thể thực thi vai trò đồng sáng tạo thật của con.

Đại thiên thần Uriel, âm thanh vang cùng thấu,
Khi hàng triệu thiên thần góp giọng ca hợp tấu, 
Tiếng hát nâng cường độ chọc thủng qua đêm thâu,
Và mọi người bỗng thấy sự duy nhất nhiệm màu.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.3. Nada, xin thày giúp con nhận ra liệu một phần Sứ vụ Thiêng liêng của con là con phải đối phó với cơ chế khiến con cảm thấy có chuyện không thể chịu đựng nổi. Con không thể nào đối phó với điều kiện đó nếu cách con nhìn điều kiện bị pha màu bởi cơ chế trốn tránh khiến con muốn tránh xa điều kiện đó.

Đại thiên thần Uriel, từ trên Ngai Cao ngất,
Hàng triệu cái kèn đồng vang lên Âm Duy nhất, 
Tan hết mọi bất hòa trong ca khúc hài hòa,
Là âm của mọi âm, đời giải thoát mở ra.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.4. Nhiệm vụ của con là thách thức một tâm thức nào đó, nhưng con không làm được điều này nếu con còn cơ chế trốn tránh khiến con không muốn xem xét điều kiện vì con không muốn trải nghiệm lại chấn thương mà con trải qua trong quá khứ.

Đại thiên thần Uriel, mọi chiến tranh chấm dứt,
Khi thày đem thông điệp từ trái tim Duy nhất, 
Hòa bình trong tim người trổi lên thành hợp xướng
Cứ thế lớn thêm mãi trong vòng xoáy yêu thương.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.5. Con sẵn sàng xem xét tâm thức đó và đi vào nó ở các tầng bản sắc, tư tưởng, và tình cảm. Con sẵn sàng xem xét các ảo tưởng của chính con và các ảo tưởng tập thể liên quan đến tâm thức đó.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình thày vô biên,
Giải vây hành tinh khỏi mọi sinh thể hiếu chiến, 
Chiến tranh là nhà tù mà con đã vượt ngục,
Ôm chầm lấy bình an của đoàn kết chân thực.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.6. Con không còn tìm cách trốn tránh điều kiện mà con cần giúp thay đổi. Con không thể thay đổi điều gì khi con tránh xa nó vì cách duy nhất để thay đổi một điều là xem xét nó và đi vào trong nó. Con không thể đi vào trong nó khi con muốn tránh xa nó trong các thể tình cảm, tư tưởng hay bản sắc.

Đại thiên thần Uriel, con thỉnh cầu thiết tha,
Thày lộ ra Duy nhất sẽ kết hợp tất cả, 
Giúp con thấy viễn ảnh của hòa bình không xa,
Khi tranh chấp xung đột, chúng con đã buông xả. 

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.7. Con nhận ra khi con xem xét các nỗi sợ của mình, chúng không làm con choáng ngợp như trước khi con bắt đầu khóa học. Con hoàn toàn có khả năng xem xét cách con đã dùng giáo lý chân sư thăng thiên như một hình thức cơ chế trốn tránh để con cảm thấy an toàn vì con đang học giáo lý này.

Đại thiên thần Uriel, sự sống thày phụng sự,
Giải vây con thoát khỏi đấu tranh và phân hóa,
Việc quên đi tự ngã đích thực là chìa khóa
Để sống cuộc đời mình cho thật sự thuận hòa.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.8. Nada, xin thày giúp con nhận ra liệu con có đi vào một trạng thái tâm qua đó con cảm thấy tất cả những gì con cần làm là xem xét tâm lý cá nhân của chính mình. Nếu con khắc phục mọi thứ trong tâm lý cá nhân, thì con không cần xem xét các khía cạnh của tâm lý tập thể.

Đại thiên thần Uriel, địa cầu nâng tâm thức,
Khỏi mây mù nhị nguyên chỉ đem đến tiêu diệt,
Lửa Hòa bình của thày, con thỉnh cầu tha thiết,
Ra lệnh cho tranh cãi nhỏ mọn phải dứt tuyệt.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.9. Nada, xin thày giúp con nhận ra liệu con có dùng giáo lý của các thày để khiến con tin rằng con không cần xem xét một điều kiện nào đó, tỷ dụ như chiến tranh, con chỉ cần xem xét tâm thức của mình thôi.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình là chuyện thường
Khi địa cầu hưởng ứng một viễn kiến cao hơn,
Hòa bình ở bên trong, người mở tâm rộng lớn,
Thì Thời đại Hoàng kim sẽ là phần giải thưởng.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

Phần 4

4.1. Nada, xin thày giúp con nhận ra cơ chế trốn tránh và nó ảnh hưởng cách con nhìn đường tu như thế nào. Con nhận ra là con không thể nào hoàn toàn sáng tạo khi con còn một cơ chế trốn tránh.

Đại thiên thần Zadkiel, dòng chảy nhanh đến nỗi
Trong lửa tím của thày, con lập tức chuyển đổi,
Nhập vào tầng rung động của tự do phơi phới,
Con thoát khỏi kềm chế của cái ta kém cỏi.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.2. Nếu con có một cơ chế trốn tránh nói rằng con không muốn xem xét một điều kiện nào đó, Ánh sáng của Hiện diện TA LÀ của con không thể chảy vào điều kiện đó. Ánh sáng chảy vào bốn thể phàm của con qua cây cầu của sự chú ý có ý thức của con.

Đại thiên thần Zadkiel, con khao khát từng ngày
Được cai quản ngọn lửa màu tím của thày đây,
Khi con dùng sức mạnh luyện kim để chuyển hóa,
Và gọi tên Thiên ngữ để giải vây tất cả. 

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.3. Con nhận ra con đã đạt tới trình độ không còn cần các cơ chế trốn tránh này nữa. Qua quá trình học khóa học này và sẵn sàng vươn lên từ tầng 48 tới tầng này, con đã tiến triển rất nhiều. Con đã vươn lên rất xa khỏi tầng nơi con tạo ra cơ chế trốn tránh.

Đại thiên thần Zadkiel, ngọn lửa tím quyền năng
Biến đổi cả thế giới trong lực chuyển vô song.
Trái đất khi thức dậy, bắt đầu quay nhanh chóng,
Với đoàn quân thiên thần, ta cùng nhau chiến thắng.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.4. Con thiết thực và nhận ra bây giờ con đã đạt tới một tầng cao trên con đường tâm linh. Điều này có nghĩa là có những điều con không còn cần nữa. Con có thể nhìn chúng và thấy: “Tôi không cần điều này nữa.”

Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu vừa thoát khỏi
Biết bao nhiêu gánh nặng do tâm thức loài người,
Bao day dứt nội tâm giờ đây đã mở lối,  
Tự do ta ôm lấy mà tái tạo cuộc đời.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.5. Khi con biết con không bất lực, khi con biết không có điều gì trên trái đất này quy định được con, khi con biết bất cứ phản ứng nào cũng là một phàm linh nội tại và khi con biết cách khắc phục phàm linh nội tại, thì tại sao con lại cần trốn tránh bất cứ điều kiện nào trên trái đất?

Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu nâng tốc độ,
Quay nhanh hơn một bậc trong chiến thắng Ki-tô,
Vì chỉ trong Ki-tô, người tù mới giải phóng
Và địa cầu được tắm trong ánh sáng thong dong.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.6. Con biết một điều kiện chỉ có thể ảnh hưởng con qua phản ứng của con, mà phản ứng này dựa trên một phàm linh nội tại. Nếu con đuổi được phàm linh, điều kiện không thể ảnh hưởng ba thể cao của con và do đó con không cần phải sợ khi xem xét nó. Tại sao con cần trốn tránh xem xét nó?

Đại thiên thần Zadkiel, bao thế lực đêm tối,
Bị Ánh sáng phân biện của Tự do cột trói,
Hành tinh đã sạch bóng bao tà lực ám muội,
Khi Lửa Tím của thày nhóm lên một đốm mới.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.7. Nada, xin thày giúp con đi vào một điều kiện ở tầng bản sắc, xem xét nó ảnh hưởng bản sắc con ra sao và nó ảnh hưởng bản sắc người khác ra sao.

Đại thiên thần Zadkiel, con yêu thày chân chất,
Cả với Saint Germain con sẽ luôn trung thực,
Hãy giúp con nhìn thấy sứ vụ Thiêng liêng nhất,
Để con tỏa ánh sáng trọn vẹn trên trái đất.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.8. Nada, xin thày giúp con đi vào điều kiện ở tầng tư tưởng, và xét xem điều kiện ảnh hưởng thể tư tưởng của con ra sao, và người khác đã chế ra những biện minh cầu kỳ như thế nào ở tầng tư tưởng.

Đại thiên thần Zadkiel, bóng tối đã lắng chìm,
Khi ngày mới ra đời trong Ánh sáng màu Tím,
Mọi biểu hiện sợ hãi giờ đây đã hoán chuyển,
Đây là lúc con biết Thời Hoàng kim đã đến.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.9. Nada, xin thày giúp con đi vào thể tình cảm của mình, xét xem điều kiện đã ảnh hưởng con ra sao và xét xem người khác đã dựng lên nỗi sợ hãi và thù ghét mạnh đến độ họ không thể đối phó với nó và do đó đã tìm cách trốn tránh điều kiện này.

Đại thiên thần Zadkiel, trong lửa tím thánh thiện,
Nhân loại với hành tinh không bao giờ như trước,
Thời Hoàng kim mà thày Saint Germain mơ ước
Thành sự thật tuyệt vời, con mừng vui chứng kiến.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

Phần 5

5.1. Nada, xin thày giúp con nhận ra người khác đã bị mắc kẹt trong phản ứng chiến đấu hung hãn các điều kiện này. Xin thày giúp con giải thoát mình khỏi chúng trong chính tâm của con để con tự do thách thức chúng.

Chân sư Nada, cái đẹp quyền năng,
Nở ra như một đóa hoa tuyệt trần.
Chân sư Nada, ôi sao thâm trầm, 
Ý chí chinh phục được cả thời gian. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.2. Nada, xin thày giúp con nhận ra cách cá nhân con có thể dùng mạng Internet để chia sẻ một số các sáng ngộ thật, các sáng ngộ thách thức, mà con đã đạt được khi là đệ tử chân sư thăng thiên và khi theo học khóa học này.

Chân sư Nada, thày là cội nguồn
Minh triết chảy ra như dòng nước cuốn.
Chân sư Nada, tâm thày cường tráng, 
Dâng lên theo cánh bài ca thường hằng. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.3. Con lấy quyết định và chấp nhận là con có một điều gì mà hầu hết mọi người trên hành tinh này không có. Con có sáng ngộ, con có nhận biết, con có nhiều tự do hơn. Do đó, con có thể giúp người khác và một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con là làm điều này.

Chân sư Nada, hương thơm tuyệt hảo,
Tình thương của thày từ cõi thiên thai.
Chân sư Nada, hiền dịu từ ái, 
Nương cánh tình yêu con vươn lên hoài. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.4. Cơ chế trốn tránh làm cho con cảm thấy con không cần thách thức các ảo tưởng và dối trá của sa nhân. Nada, xin thày giúp con nhận ra cơ chế trốn tránh căn bản của con khiến con cảm thấy: “Ồ, thật ra con không cần biểu hiện quả vị Ki-tô của con, ít nhất là chưa làm bây giờ, hay ít nhất không qua cách này hay cách nọ, hay bằng cách thách thức điều kiện này hay điều kiện nọ.”

Chân sư Nada, ánh sáng Mẹ đây,
Như diều phơi phới, tim con bay nhảy.
Chân sư Nada, trong mắt của thày,
Sự sống trinh bạch như hạt sương mai. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.5. Cơ chế trốn tránh căn bản là cơ chế khiến con cảm thấy an toàn khi con không biểu hiện quả vị Ki-tô của con, hay con chưa làm ngay bây giờ, hay con không biểu hiện nó cách này hay cách khác.

Chân sư Nada, thày đem chân lý,
Như chim buổi sáng hát bản tình ca.
Chân sư Nada, bốn thể phàm ngã, 
Tình yêu của thày hàn gắn được cả. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.6. Con sẵn sàng xem xét cơ chế này và vượt lên trên nó vì con nhất quyết sẵn sàng đón nhận chỉ dẫn của thày Saint Germain. Con sẽ đến khóa nhập thất của thày và sẵn sàng nhận những sáng ngộ mà thày đã sửa soạn cho con.

Chân sư Nada, yên tâm phục vụ,
Bao nhiêu tình cảm giải hóa sạch rồi.
Chân sư Nada, cuộc đời hứng thú, 
Và đám rối dương* sáng như mặt trời.
(*: solar plexus) 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.7. Sa nhân thích tạo cho con một hoàn cảnh trong đó con cảm thấy con có lối thoát, con cảm thấy có khả năng tạo ra một cuộc sống tốt đẹp hơn cho chính mình hay cho hành tinh, và sau đó các chuyện này không xảy ra và con cảm thấy nản chí.

Chân sư Nada, tình yêu tự do,
Không còn điều kiện, không còn so đo.
Chân sư Nada, vươn lên buông bỏ
Sắc thái phàm phu tình yêu thấp nhỏ. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.8. Thối chí là dụng cụ sắc bén nhất trong hộp dụng cụ của ác quỷ. Nhiều người đã cải đạo theo một tôn giáo, đã cảm thấy đầy lạc quan và hy vọng và rồi họ bị thất vọng và cảm thấy thối chí.

Chân sư Nada, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Nada, vươn lên rọi sáng, 
Vẻ đẹp thần thánh ôi sao huy hoàng.

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.9. Nada, xin thày giúp con đến được điểm không rơi vào bẫy của hình thức thối chí mà sa nhân muốn con rơi vào.

Chân sư Nada, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Hoà bình Thượng đế chúng con rải truyền. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

Phần 6

6.1. Kết quả theo học khóa học này là con đã tăng triển đáng kể trên con đường tâm linh. Con nhận ra tâm thức của con đã chuyển vọt.

Ôi Saint Germain, nghệ thuật luyện kim, 
Giải phóng con ngay với ngọn lửa tím.
Ôi Saint Germain, con tăng liên tục,
Dòng chảy tự do không sao khuất phục. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.2. Nada, xin thày giúp con nhận ra là nếu con còn nhìn đời qua phin lọc của phàm linh nội tại này, con sẽ chỉ thấy cái thiếu sót, con sẽ chỉ thấy cái tiêu cực. Con có thể thấy tất cả những lẽ biện minh tại sao con không tốt đủ.

Ôi Saint Germain, điều khiển tài tình
Hình dạng kỷ hà của ngọn lửa tím.
Ôi Saint Germain, ở thày con tìm
Thấy được công thức giải thoát chúng sinh. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.3. Khi con bắt đầu học khóa này, con ở một tầng tâm thức thấp hơn và con mong chờ khóa học này sẽ đem lại gì đó cho con. Ngày hôm nay con đã vươn lên một tầng tâm thức cao hơn và con sẵn sàng nhìn vào sự mong chờ trước kia của con và nói: “Tôi không cần bạn nữa vì tôi đã vươn lên một tầng tâm thức cao hơn và bây giờ tôi sẵn sàng nhìn khóa học, nhìn con đường tâm linh, nhìn chính mình dựa trên tầng tâm thức hiện nay của tôi.”

Ôi Saint Germain, Tự do bao la,
Chính là tình thương giải thoát tất cả.
Ôi Saint Germain, chúng con yêu quá
Lửa tím cứ giục con càng hơn xa. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.4. Con sẵn sàng làm sự chuyển vọt này, và con quyết định một cách ý thức là con sẽ có một thái độ tích cực, một cách tiếp cận tích cực, một cái nhìn tích cực về mình, về con đường tâm linh và về sự thành đạt tâm linh của mình.

Ôi Saint Germain, chúng con nối kết,
Từ bỏ nhị nguyên, thăng lên siêu việt.
Ôi Saint Germain, cái ta tinh khiết,
Khoa học lửa tím vững tay cầm trịch.

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.5. Bất cứ phản ứng nào của con không dựa trên tình thương, không tích cực, đều đến từ phàm linh nội tại. Bất cứ phản ứng tiêu cực nào đều không phải là con. Đây không phải là Cái Ta Biết của con đang phản ứng như thế vì cái Ta Biết biết là nó không được quy định bởi bất cứ điều gì trên trái đất này.

Ôi Saint Germain, sự thật rõ ràng, 
Trong ánh sáng tím, chẳng gì băn khoăn.
Ôi Saint Germain, niêm kỹ hào quang,
Luân xa con được lửa thày hàn gắn. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.6. Đây là một phàm linh nội tại đang phản ứng và con sẵn sàng xem xét phàm linh nội tại này và sử dụng các dụng cụ để buông bỏ nó.

Ôi Saint Germain, là thuật biến hóa,
Lửa tím giải phóng nguyên tử thăng hoa.
Ôi Saint Germain, biến chì thành vàng,
Biến cả viễn kiến mà chúng con mang. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.7. Con không thể là người đồng sáng tạo trong trạng thái thiếu hụt. Con chỉ có thể là người đồng sáng tạo khi con biết: “Tự con không làm được điều gì, chính đấng Cha trong con đang làm và với Thượng đế điều gì cũng có thể làm được.”

Ôi Saint Germain, nghệ thuật vượt thăng,
Với thày con sẽ hợp nhất vĩnh hằng.
Ôi Saint Germain, thoát khỏi tâm hồn,
Ôi niềm vui sướng biết thày trong con.

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.8. Con muốn trải nghiệm thực tế hằng sống là con có thể đồng sáng tạo hoàn cảnh sống tốt hơn cho con và đóng góp đồng sáng tạo hoàn cảnh tốt hơn cho thế giới.

Ôi Saint Germain, tinh thần cao thượng,
Là chìa khoá cho hóa học tâm linh.
Ôi Saint Germain, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.9. Con đã đóng góp xây dựng hoàn cảnh tốt hơn cho thế giới bằng cách vươn lên tầng tâm thức mà con đạt được ngày hôm nay. Con cho phép mình công nhận điều này, cho phép mình cảm thấy, biết, trải nghiệm là mình đã tiến triển.

Ôi Saint Germain, thày đang Hiện diện, 
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tự do Thượng đế chúng con rải truyền. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu bình an trong quan hệ (6 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Peace và Aloha, Đại thiên thần Uriel và Aurora, và Chân sư Nada yêu dấu, hãy giúp con đạt được bình an trong quan hệ của con với người khác. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với thày Nada và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra vòng xoắn phản ứng của con đối với người khác và khuynh hướng cảm thấy bất lực khi người khác có hành vi hung hãn với con.

Ôi Elohim Peace, trong Ngọn lửa Kết hợp,
Nhị nguyên không còn chỗ để bày trò cuộc chơi, 
Con biết mọi hình tướng tuôn ra từ một cội,
Con lấy uy lực đó định ra hướng đi mới. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.2. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra con chờ đợi cuộc sống phải như thế này trên trái đất, nhưng nó không phù hợp với thực tại cuộc sống gì trên trái đất. Có một khoảng cách giữa chờ đợi của con và thực tại.

Ôi Elohim Peace, hồi chuông đã vang rền,
Khiến từng hạt nguyên tử ca hát và rung lên.
Con nay bỏ lại hết ý niệm ngã riêng biệt
Khi con vượt biển cả của luân hồi trùng điệp. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.3. Con nhận ra con không thể thay đổi hoàn cảnh hiện nay trên trái đất. Hướng hành động thiết thực là buông bỏ những chờ đợi mà con đã tạo ra trên một hành tinh khác hay khi trái đất không như ngày nay. 

Ôi Elohim Peace, thày hãy giúp con ngộ
Rằng Giê-su giáng thế để ban con Ngọn lửa,
Rải cho ai sẵn lòng rũ hết chuyện ganh đua,
Nhập sự sống bất tận mà theo chân Ki-tô. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.4. Con nhận ra con có một chờ mong không thiết thực và nó kềm hãm sự tiến bộ của con. Nó tạo căng thẳng trong con, khiến con như căn nhà chia rẽ bên trong, giống như điều các phàm linh nội tại vẫn làm.

Ôi Elohim Peace, qua mắt thày con biết
Rằng chỉ trong cái Một con mới mong giải thoát,
Và cũng thấy được rằng chẳng vật gì tách biệt,
Khi cái ngã phàm phu, con buông bỏ đoạn tuyệt. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.5. Con buông bỏ chờ đợi của mình, giống như con buông bỏ mọi phàm linh nội tại khác. Con nhận ra trái đất là loại hành tinh nào và con nói: “Dựa trên những gì con biết về hành tinh này, dựa trên những gì con biết về quyền tự quyết, con không thiết thực nếu con có bất cứ chờ đợi nào về điều phải xảy ra hay không được xảy ra trên trái đất.”

Ôi Elohim Peace, thày chỉ con lối đi, 
Ngừng đấu đá nhị nguyên, con thông sạch tâm trí,
Thày đâm xuyên ảo giác thời gian lẫn không gian,
Đem Hồng ân Bất tận tiêu hủy mọi phân ly. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con
thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.6. Con thấy không có lý do gì để có bất cứ mong chờ nào và do đó trong con không còn sự chống cự nào đối với đời sống trên trái đất. Khi con không mong chờ điều phải xảy ra hay điều không được xảy ra, con có thể đến với cuộc sống với tâm ngây thơ của trẻ thơ.

Ôi Elohim Peace, tên thày sao đẹp quá,
Nỗi nhị nguyên tủi hổ trong con thày giải tỏa,
Trút gánh nặng sợ hãi, địa cầu được tự do,
Và chào đón thái bình hiển hiện khắp đây đó. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.7. Khi con ngây thơ như thế, không mong chờ điều phải xảy ra hay điều không được xảy ra, thì con đang ở trong vương quốc của Thượng đế trong chính tâm con.

Ôi Elohim Peace, với Ki-tô bên cạnh,
Không thế lực nhị nguyên nào có thể lẩn tránh,
Chính qua sự rung động của Ngọn lửa Hoàng kim
Mà ảo ảnh sự chết được Ki-tô nhận chìm. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.8. Không có lý do nào để chờ đợi điều này phải xảy ra hay không được xảy ra, vì không có điều gì xảy ra hay không xảy ra có thể quy định được con. Không có gì trong cõi vật lý quy định được con. Không có gì trong cõi vật lý ngăn cản được sự thăng thiên của con.

Ôi Elohim Peace, thày đem vào thế giới
Lửa Tái sinh Vũ trụ mà chẳng ai ngăn nổi,
Chúng con từ bỏ hẳn mọi ý niệm “cái tôi”,
Để Ánh sáng của thày trong chúng con chiếu rọi.

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.9. Con nhìn người khác và nói: “Tại sao tôi phải chờ mong người khác phải làm điều này hay không được làm điều nọ?” Con buông bỏ các mong chờ đã khiến con lúc nào cũng trong trạng thái căng thẳng với người khác.

Ôi Elohim Peace, hòa bình con cảm được,
Mọi ký ức chiến tranh thày đã khuây khỏa hết,
Bao thế lực xung khắc, địa cầu đã thăng vượt,
Và phục hồi hành tinh trở về với thanh khiết. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

Phần 2

2.1. Con nhận ra các mong chờ khiến con cảm thấy bất lực vì con mong muốn ngăn ngừa người khác làm điều gì có hại, nhưng con cảm thấy con không được phép dùng bất cứ phương tiện hung hãn nào để ép buộc họ.

Ôi Elohim Peace, trong Ngọn lửa Kết hợp,
Nhị nguyên không còn chỗ để bày trò cuộc chơi, 
Con biết mọi hình tướng tuôn ra từ một cội,
Con lấy uy lực đó định ra hướng đi mới. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.2. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra khi con là trẻ thơ, con cảm thấy: “Thế giới là một sự nối dài của con, con là trung tâm thế giới. Do đó, con chịu trách nhiệm tất cả những gì xảy ra. Mọi chuyện xảy ra đều xoay quanh con và liên quan tới con.”

Ôi Elohim Peace, hồi chuông đã vang rền,
Khiến từng hạt nguyên tử ca hát và rung lên.
Con nay bỏ lại hết ý niệm ngã riêng biệt
Khi con vượt biển cả của luân hồi trùng điệp. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.3. Con nhận ra là trong ba thể cao của con, đặc biệt là trong thể tình cảm, có một phàm linh nội tại vẫn còn cảm thấy nó là trung tâm của thế giới của con. Phàm linh này cảm thấy mọi chuyện xảy ra trong cuộc sống của con xoay quanh nó. Mọi chuyện mà người khác làm liên quan tới nó.

Ôi Elohim Peace, thày hãy giúp con ngộ
Rằng Giê-su giáng thế để ban con Ngọn lửa,
Rải cho ai sẵn lòng rũ hết chuyện ganh đua,
Nhập sự sống bất tận mà theo chân Ki-tô. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.4. Phàm linh này khiến con cảm thấy những gì người chung quanh con làm, họ làm liên quan tới con. Con cảm thấy có trách nhiệm về điều họ làm, bị tổn thương bởi hành động của họ, cảm thấy họ làm điều đó chống lại con.

Ôi Elohim Peace, qua mắt thày con biết
Rằng chỉ trong cái Một con mới mong giải thoát,
Và cũng thấy được rằng chẳng vật gì tách biệt,
Khi cái ngã phàm phu, con buông bỏ đoạn tuyệt. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.5. Con nhận ra đây là cảm nhận của một phàm linh nội tại. Cái Ta Biết không cảm thấy như vậy. Cái Ta Biết biết nó là một sinh thể tách biệt, người khác là sinh thể tách biệt và họ có quyền tự quyết giống như con có quyền tự quyết của mình.

Ôi Elohim Peace, thày chỉ con lối đi, 
Ngừng đấu đá nhị nguyên, con thông sạch tâm trí,
Thày đâm xuyên ảo giác thời gian lẫn không gian,
Đem Hồng ân Bất tận tiêu hủy mọi phân ly. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.6. Phàm linh này khiến con cảm thấy là khi người khác hung hãn với con, người đó làm vậy vì con đã làm điều gì đó. Con cảm thấy có trách nhiệm, con cảm thấy mình là nguyên nhân hành vi của người đó.

Ôi Elohim Peace, tên thày sao đẹp quá,
Nỗi nhị nguyên tủi hổ trong con thày giải tỏa,
Trút gánh nặng sợ hãi, địa cầu được tự do,
Và chào đón thái bình hiển hiện khắp đây đó. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.7. Người kia không làm điều họ làm vì con. Con không chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của người khác. Con chịu trách nhiệm về những lựa chọn của chính con nhưng không chịu trách nhiệm về lựa chọn của người khác. Con chịu trách nhiệm về những hành động của con, nhưng con không chịu trách nhiệm về phản ứng của người kia đối với hành động của con.

Ôi Elohim Peace, với Ki-tô bên cạnh,
Không thế lực nhị nguyên nào có thể lẩn tránh,
Chính qua sự rung động của Ngọn lửa Hoàng kim
Mà ảo ảnh sự chết được Ki-tô nhận chìm. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.8. Thày Nada, xin thày giúp con nói: “Nếu con chịu một trăm phần trăm trách nhiệm về các phản ứng của con, thì con một trăm phần trăm không chịu trách nhiệm về phản ứng của người khác. Có thể con đã làm điều gì kích động một phản ứng nơi người kia, và phản ứng này khiến họ lên án con. Con chịu trách nhiệm về hành động của con, nhưng con không chịu trách nhiệm về phản ứng của người kia.”

Ôi Elohim Peace, thày đem vào thế giới
Lửa Tái sinh Vũ trụ mà chẳng ai ngăn nổi,
Chúng con từ bỏ hẳn mọi ý niệm “cái tôi”,
Để Ánh sáng của thày trong chúng con chiếu rọi.

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.9. Con không cá nhân hóa bất cứ hoàn cảnh nào bằng cách nhận ra rằng người kia không làm điều đó chống lại con. Người kia làm điều đó để phản ứng lại con nhưng người kia không làm điều đó chống lại con. Con thấy sự khác biệt này trong tâm mình.

Ôi Elohim Peace, hòa bình con cảm được,
Mọi ký ức chiến tranh thày đã khuây khỏa hết,
Bao thế lực xung khắc, địa cầu đã thăng vượt,
Và phục hồi hành tinh trở về với thanh khiết. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

Phần 3

3.1. Một khía cạnh của sự tăng triển tâm thức Ki-tô là con phân biện được: “Điều mà người kia làm không phải là để trực tiếp chống lại con. Nó không phải là một sự tấn công cá nhân con. Nó do phản ứng nội tâm của người đó gây ra.”

Đại thiên thần Uriel, với uy lực dũng mãnh,
Các thiên thần hòa bình nuốt trọn hết chiến tranh. 
Bọn quỷ dữ hung hăng không thể nào địch nổi
Ánh sáng đang thiêu chúng, lửa rực lên sáng ngời.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.2. Thách đố lớn nhất cho con trên trái đất là đối xử với người trong gia đình. Con cảm thấy phải phản ứng lại họ và phải coi trọng những gì họ làm, con phải coi những gì họ làm như liên hệ đến cá nhân con.

Đại thiên thần Uriel, âm thanh vang cùng thấu,
Khi hàng triệu thiên thần góp giọng ca hợp tấu, 
Tiếng hát nâng cường độ chọc thủng qua đêm thâu,
Và mọi người bỗng thấy sự duy nhất nhiệm màu.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.3. Con đã tạo ra những khuôn nếp phản ứng này. Nếu một người trong gia đình nổi giận với con, con cảm thấy có trách nhiệm, con cảm thấy phải coi việc này liên hệ tới cá nhân con, con phải xét xem con có thể thay đổi như thế nào để tránh người đó nổi giận.

Đại thiên thần Uriel, từ trên Ngai Cao ngất,
Hàng triệu cái kèn đồng vang lên Âm Duy nhất, 
Tan hết mọi bất hòa trong ca khúc hài hòa,
Là âm của mọi âm, đời giải thoát mở ra.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.4. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra những người này không làm điều đó chống lại cá nhân con. Sự tức giận của họ không gắn liền với cá nhân con. Nó cũng có thể hướng vào một người khác không phải là con.

Đại thiên thần Uriel, mọi chiến tranh chấm dứt,
Khi thày đem thông điệp từ trái tim Duy nhất, 
Hòa bình trong tim người trổi lên thành hợp xướng
Cứ thế lớn thêm mãi trong vòng xoáy yêu thương.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.5. Sự tức giận của người kia không gắn liền với cá nhân con, nó có đặc tính cá nhân bên trong tâm thức người đó. Sự tức giận nằm bên trong các thể tình cảm, tư tưởng và bản sắc của người đó. Con có thể đã kích động sự tức giận nhưng con không phải là nguyên nhân. Nguyên nhân là một cơ chế nội tại trong tâm lý người đó.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình thày vô biên,
Giải vây hành tinh khỏi mọi sinh thể hiếu chiến, 
Chiến tranh là nhà tù mà con đã vượt ngục,
Ôm chầm lấy bình an của đoàn kết chân thực.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.6. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra việc con sẵn sàng nhìn vào tâm lý của chính mình không khiến con phải nhận trách nhiệm về cơ chế tâm lý trong tâm người khác.

Đại thiên thần Uriel, con thỉnh cầu thiết tha,
Thày lộ ra Duy nhất sẽ kết hợp tất cả, 
Giúp con thấy viễn ảnh của hòa bình không xa,
Khi tranh chấp xung đột, chúng con đã buông xả. 

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.7. Sự tức giận của người kia là một cơ chế tâm lý trong bốn thể phàm của người ấy, không phải trong tâm của con, không phải trong bốn thể phàm của con. Do đó, con không nhận trách nhiệm về sự tức giận này và tìm cách thay đổi mình để né tránh sự tức giận của người kia. Sự tức giận có đó và nó chỉ chờ một yếu tố kích động để bộc phát.

Đại thiên thần Uriel, sự sống thày phụng sự,
Giải vây con thoát khỏi đấu tranh và phân hóa,
Việc quên đi tự ngã đích thực là chìa khóa
Để sống cuộc đời mình cho thật sự thuận hòa.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.8. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra, liệu để né tránh sự tức giận của người khác, con có tạo ra một hành động thiếu cân bằng trong con chăng, một khuôn nếp phản ứng chăng. Xin thày giúp con phân biện rằng: “Con sẽ không cảm thấy có trách nhiệm đối với vấn đề tâm lý của người khác và con sẽ không cho phép mình tiếp tục mang những phàm linh nội tại mà con đã tạo ra để bù đắp hay né tránh những vấn đề xúc cảm của họ.”

Đại thiên thần Uriel, địa cầu nâng tâm thức,
Khỏi mây mù nhị nguyên chỉ đem đến tiêu diệt,
Lửa Hòa bình của thày, con thỉnh cầu tha thiết,
Ra lệnh cho tranh cãi nhỏ mọn phải dứt tuyệt.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.9. Thày Nada, xin thày giúp con nhìn vào chính mình trong quan hệ của con với người khác và nhận ra những khuôn nếp phản ứng mà con đã tạo dựng. Xin thày giúp con thấy là có một phàm linh đằng sau khuôn nếp đó và buông bỏ phàm linh này. Con có quyền buông bỏ phàm linh đó.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình là chuyện thường
Khi địa cầu hưởng ứng một viễn kiến cao hơn,
Hòa bình ở bên trong, người mở tâm rộng lớn,
Thì Thời đại Hoàng kim sẽ là phần giải thưởng.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

Phần 4

4.1. Thày Nada, xin thày giúp con tìm ra một cách quan hệ khác với mọi người để con đạt được bình an trong mối quan hệ của con với người khác. Xin thày giúp con thoát khỏi những khuôn nếp phản ứng và con trở lại là chính con.

Đại thiên thần Uriel, với uy lực dũng mãnh,
Các thiên thần hòa bình nuốt trọn hết chiến tranh. 
Bọn quỷ dữ hung hăng không thể nào địch nổi
Ánh sáng đang thiêu chúng, lửa rực lên sáng ngời.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.2. Con sẽ biểu hiện mình ở tầng tâm thức hiện nay của mình và qua đó con cho người kia cơ hội vươn lên cao hơn khuôn nếp của họ. Nếu họ không nắm lấy cơ hội này, thì không sao cả khi họ chống lại con vì con không bị xáo trộn.

Đại thiên thần Uriel, âm thanh vang cùng thấu,
Khi hàng triệu thiên thần góp giọng ca hợp tấu, 
Tiếng hát nâng cường độ chọc thủng qua đêm thâu,
Và mọi người bỗng thấy sự duy nhất nhiệm màu.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.3. Thày Nada, xin thày giúp con nói về một mối quan hệ thân thiết: “Nếu người kia không thay đổi, con có thể chấp nhận được.” Sau đó, con cũng có quyền quyết định là con có thể không muốn sống với người đó nữa và con được tự do ra đi.

Đại thiên thần Uriel, từ trên Ngai Cao ngất,
Hàng triệu cái kèn đồng vang lên Âm Duy nhất, 
Tan hết mọi bất hòa trong ca khúc hài hòa,
Là âm của mọi âm, đời giải thoát mở ra.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.4. Khi con đã vươn lên cao hơn tâm thức mà người khác có, con có quyền quyết định là con thích giao tiếp với những người cùng tầng tâm thức hay cao hơn tầng tâm thức của con.

Đại thiên thần Uriel, mọi chiến tranh chấm dứt,
Khi thày đem thông điệp từ trái tim Duy nhất, 
Hòa bình trong tim người trổi lên thành hợp xướng
Cứ thế lớn thêm mãi trong vòng xoáy yêu thương.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.5. Sa nhân thích xâm phạm con, khiến con phản ứng lại họ, rồi họ làm cho con cảm thấy là vì phản ứng của con không phải là phản ứng cao nhất, thể nào con cũng đã tạo nghiệp với sa nhân.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình thày vô biên,
Giải vây hành tinh khỏi mọi sinh thể hiếu chiến, 
Chiến tranh là nhà tù mà con đã vượt ngục,
Ôm chầm lấy bình an của đoàn kết chân thực.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.6. Nếu con có một hành động vật lý, ví dụ như con chống trả lại và giết sa nhân, thì con tạo nghiệp vì hành động đó. Nếu con tránh không có hành động vật lý, thì con không tạo nghiệp. Con không tạo nghiệp khi con đáp ứng ở tầng tâm thức của con.

Đại thiên thần Uriel, con thỉnh cầu thiết tha,
Thày lộ ra Duy nhất sẽ kết hợp tất cả, 
Giúp con thấy viễn ảnh của hòa bình không xa,
Khi tranh chấp xung đột, chúng con đã buông xả. 

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.7. Thày Nada, xin thày giúp con tiến một bước giải thoát con, khi con không cá nhân hóa quan hệ của con với người khác bằng cách nói: “Bất cứ họ làm gì chống lại con, họ không chống lại cá nhân con vì họ hành động dựa trên tầng tâm thức của họ, dựa trên ảo tưởng của họ, có thể là vì họ bị tà lực xâm nhập.”

Đại thiên thần Uriel, sự sống thày phụng sự,
Giải vây con thoát khỏi đấu tranh và phân hóa,
Việc quên đi tự ngã đích thực là chìa khóa
Để sống cuộc đời mình cho thật sự thuận hòa.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.8. “Họ không chỉ chống lại riêng cá nhân con. Nếu con không ở đó, họ sẽ tìm một người khác để chống lại, họ sẽ chỉ tìm người khác để làm cái cớ để biểu lộ sự hung hãn bên trong họ. Họ cần biểu lộ sự hung hãn lên ai đó vì họ không chịu đựng được nó bên trong họ.”

Đại thiên thần Uriel, địa cầu nâng tâm thức,
Khỏi mây mù nhị nguyên chỉ đem đến tiêu diệt,
Lửa Hòa bình của thày, con thỉnh cầu tha thiết,
Ra lệnh cho tranh cãi nhỏ mọn phải dứt tuyệt.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.9. Khi một người hung hãn với người khác, không phải là họ muốn chống lại người đó. Họ chỉ đơn giản có căng thẳng bên trong đến độ họ phải hướng nó ra ngoài vì nếu không họ không thể ở trong chính hào quang của họ.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình là chuyện thường
Khi địa cầu hưởng ứng một viễn kiến cao hơn,
Hòa bình ở bên trong, người mở tâm rộng lớn,
Thì Thời đại Hoàng kim sẽ là phần giải thưởng.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

Phần 5

5.1. Khi người khác có hành động hung hãn, họ tạm thời bị một tà linh xâm nhập, họ không kềm chế hành động của họ được, họ không hành động theo lý trí. Vì vậy, con nói: “Con nhìn nhận con đang sống trong loại hành tinh như thế nào. Con nhìn nhận ở đây có sa nhân và tà linh, họ luôn tìm cách tạo ra hỗn loạn và bất hòa, và họ hướng điều này tới bất cứ ai có hài hòa và bình an. Con nhìn nhận đây là một lực không có tính cá nhân.”

Chân sư Nada, cái đẹp quyền năng,
Nở ra như một đóa hoa tuyệt trần.
Chân sư Nada, ôi sao thâm trầm, 
Ý chí chinh phục được cả thời gian. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.2. Thày Nada, xin thày giúp con bước lui lại, nhìn chuyện này như một lực vô tư và không liên quan đến riêng ai và do đó con tránh không phản ứng lại một cách cá nhân. Con sẵn sàng chuyển đổi tâm của con và nói: “Con không cần xem việc này như một tấn công cá nhân con. Con không cần cảm thấy mình là nguyên nhân, mình chịu trách nhiệm về nó, mình cần phản ứng lại, mình cần thay đổi hành vi hay cách nhìn đời của mình để né tránh nó. Con chỉ cần nhìn vào nó và sau đó con hành động theo khía cạnh kia của nguyên tắc chìa má bên kia. Con có thể nhìn nó và để cho nó đi xuyên thẳng qua con mà không cho nó gây ra bất cứ phản ứng nào trong con.”

Chân sư Nada, thày là cội nguồn
Minh triết chảy ra như dòng nước cuốn.
Chân sư Nada, tâm thày cường tráng, 
Dâng lên theo cánh bài ca thường hằng. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.3. Khi người khác không thể ép buộc con phản ứng lại, con không bất lực. Con có quyền lực làm chủ phản ứng của mình, bứng đi các phàm linh nội tại khiến con có khuôn nếp phản ứng.

Chân sư Nada, hương thơm tuyệt hảo,
Tình thương của thày từ cõi thiên thai.
Chân sư Nada, hiền dịu từ ái, 
Nương cánh tình yêu con vươn lên hoài. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.4. Khi con dùng quyền lực này, con có thể tới điểm mà con hoàn toàn bình an bên trong vì con không chờ đợi người khác phải làm gì hay không được làm gì.

Chân sư Nada, ánh sáng Mẹ đây,
Như diều phơi phới, tim con bay nhảy.
Chân sư Nada, trong mắt của thày,
Sự sống trinh bạch như hạt sương mai. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.5. Con biết rằng bất cứ điều gì người khác làm sẽ không tạo phản ứng trong con. Do đó, con không cần chờ mong vì con không sợ họ sẽ làm điều gì đó tạo phản ứng trong con.

Chân sư Nada, thày đem chân lý,
Như chim buổi sáng hát bản tình ca.
Chân sư Nada, bốn thể phàm ngã, 
Tình yêu của thày hàn gắn được cả. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.6. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra con đã từng quan ngại những gì người khác có thể làm. Con biết nếu họ làm một số điều, nó sẽ tạo phản ứng trong con. Phản ứng đó không thoải mái và nó khiến con chê trách mình.

Chân sư Nada, yên tâm phục vụ,
Bao nhiêu tình cảm giải hóa sạch rồi.
Chân sư Nada, cuộc đời hứng thú, 
Và đám rối dương* sáng như mặt trời.
(*: solar plexus) 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.7. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra mọi cơ chế lẩn tránh trong con, khi con không tìm cách bù đắp mà tìm cách lẩn tránh. Xin thày giúp con nhận ra mọi khuôn nếp bù đắp khiến con cố gắng dễ thương với người khác để họ không nổi đóa với con.

Chân sư Nada, tình yêu tự do,
Không còn điều kiện, không còn so đo.
Chân sư Nada, vươn lên buông bỏ
Sắc thái phàm phu tình yêu thấp nhỏ.

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.8. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra mọi ước muốn né tránh người khác hay né tránh hành vi của người khác vì con muốn né tránh phản ứng trong con.

Chân sư Nada, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Nada, vươn lên rọi sáng, 
Vẻ đẹp thần thánh ôi sao huy hoàng.

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.9. Thày Nada, xin thày giúp con nhìn những việc này và nói: “Nhưng phản ứng nằm trong con. Như vậy có nghĩa là con có quyền lực để thay đổi nó. Con không cần thay đổi người khác nữa. Con chỉ cần thay đổi chính mình.”

Chân sư Nada, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Hoà bình Thượng đế chúng con rải truyền. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

Phần 6

6.1. “Con cần tách mình ra để thấy phản ứng này chỉ là một phàm linh nội tại. Nó chỉ là một phàm linh nội tại khác giống như nhiều phàm linh nội tại mà con đã loại bỏ trong khóa học này. Do đó lẽ tự nhiên con cũng có thể loại bỏ phàm linh này.”

Chân sư Nada, cái đẹp quyền năng,
Nở ra như một đóa hoa tuyệt trần.
Chân sư Nada, ôi sao thâm trầm, 
Ý chí chinh phục được cả thời gian. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.2. Con muốn bình an trong quan hệ với người khác. Con sẽ không bao giờ đạt được bình an bằng cách thay đổi người khác. Cách duy nhất để con đạt bình an là thay đổi chính mình bằng cách buông bỏ các phàm linh và có thái độ là con không cần thay đổi người khác.

Chân sư Nada, thày là cội nguồn
Minh triết chảy ra như dòng nước cuốn.
Chân sư Nada, tâm thày cường tráng, 
Dâng lên theo cánh bài ca thường hằng. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.3. Quả vị Ki-tô của con không tùy thuộc vào hành vi của người khác. Nó hoàn toàn dựa vào chuyện gì xảy ra trong chính bốn thể phàm của con, bên trong hào quang và tâm của con.

Chân sư Nada, hương thơm tuyệt hảo,
Tình thương của thày từ cõi thiên thai.
Chân sư Nada, hiền dịu từ ái, 
Nương cánh tình yêu con vươn lên hoài. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.4. Thày Nada, xin thày giúp con vượt qua mọi mong chờ không thiết thực về hình thức phụng sự con phải hiến tặng như một phần của điều kiện thăng thiên của con, một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Xin thày giúp con nhận ra nếu con có dùng giáo lý chân sư thăng thiên để tạo ra một mong chờ khiến con cảm thấy căng thẳng trong tâm.

Chân sư Nada, ánh sáng Mẹ đây,
Như diều phơi phới, tim con bay nhảy.
Chân sư Nada, trong mắt của thày,
Sự sống trinh bạch như hạt sương mai. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.5. Khi con học về khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng, con ở tầng tâm thức thấp hơn. Trong tâm vỏ ngoài, con tạo ra một mong chờ dựa trên tầng tâm thức đó và tiếp tục mang nó trong tâm cho tới nay.

Chân sư Nada, thày đem chân lý,
Như chim buổi sáng hát bản tình ca.
Chân sư Nada, bốn thể phàm ngã, 
Tình yêu của thày hàn gắn được cả. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.6. Nay con lên một tầng tâm thức cao hơn nhiều và con sẵn sàng nhìn vào mong chờ này và nói: “Điều giản dị là nó không thiết thực vì nó dựa trên một tầng tâm thức thấp hơn của con ngay bây giờ. Do đó, con cần buông bỏ mong chờ này. Con cần bước lui lại và con cần cho phép một cái nhìn mới về Sứ vụ Thiêng liêng của con được hiện ra từ bên trong.”

Chân sư Nada, yên tâm phục vụ,
Bao nhiêu tình cảm giải hóa sạch rồi.
Chân sư Nada, cuộc đời hứng thú, 
Và đám rối dương* sáng như mặt trời.
(*: solar plexus) 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.7. Thày Nada, con chấp nhận là thày cho phép con buông bỏ mọi mong chờ liên quan tới Sứ vụ Thiêng liêng của con và sự phụng sự của con trên trái đất. Thày cho phép con buông bỏ hết; để nó qua bên và không lo lắng con phải làm gì trong Sứ vụ Thiêng liêng hay việc phụng sự của con. Thày cho phép con bỏ qua bên toàn bộ ý niệm con phải làm điều gì đó trong cương vị một người tâm linh.

Chân sư Nada, tình yêu tự do,
Không còn điều kiện, không còn so đo.
Chân sư Nada, vươn lên buông bỏ
Sắc thái phàm phu tình yêu thấp nhỏ.

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.8. Bây giờ con chấp nhận sự yên lặng, sự vắng bóng căng thẳng trong tâm con. Con có thể bắt đầu lắng nghe nội tâm. Con có thể nghe thấy Hiện diện TA LÀ cho con biết về Sứ vụ Thiêng liêng của con thay vì một phàm linh nội tại cho con biết.

Chân sư Nada, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Nada, vươn lên rọi sáng, 
Vẻ đẹp thần thánh ôi sao huy hoàng.

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.9. Sứ vụ Thiêng liêng của con không phải là nguồn căng thẳng. Sứ vụ Thiêng liêng của con là niềm vui lớn nhất của con. Nó không phải là một phận sự hay một bổn phận. Nó không phải là điều con cảm thấy con phải làm. Con lắng nghe với tâm ngây thơ, cởi mở của trẻ thơ và con nhận được những khía cạnh trong Sứ vụ Thiêng liêng thích hợp với tầng tâm thức hiện nay của con.

Chân sư Nada, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Hoà bình Thượng đế chúng con rải truyền. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu tự do khỏi trách nhiệm giả (6 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Peace và Aloha và Cyclopea và Virginia, Đại thiên thần Uriel và Aurora và Raphael và Mẹ Mary, Chân sư Nada và Hilarion yêu dấu, hãy giúp con khắc phục mọi khuynh hướng khiến con cảm thấy mình có trách nhiệm điều mà mình không có trách nhiệm. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với thày Nada và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra mọi khía cạnh của tư duy thần diệu, được biểu hiện qua ước muốn con không thể làm điều gì sai và không có gì trên thế gian có thể gây thương tổn cho con.

Ôi Elohim Peace, trong Ngọn lửa Kết hợp,
Nhị nguyên không còn chỗ để bày trò cuộc chơi, 
Con biết mọi hình tướng tuôn ra từ một cội,
Con lấy uy lực đó định ra hướng đi mới. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.2. Một phần của tư duy thần diệu là ý tưởng cho rằng ta có thể kiểm soát vũ trụ, ta có thể kiểm soát một số khía cạnh của thế giới này và như vậy ta có thể tránh điều xấu và thu hút điều lành.

Ôi Elohim Peace, hồi chuông đã vang rền,
Khiến từng hạt nguyên tử ca hát và rung lên.
Con nay bỏ lại hết ý niệm ngã riêng biệt
Khi con vượt biển cả của luân hồi trùng điệp. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.3. Có một phong trào rất cổ xưa trên thế gian giải thích tại sao một số chuyện xảy ra và tìm cách bảo vệ con người khỏi một số chuyện khác. Có một phàm linh khiến con người tin rằng họ có thể kiểm soát thế giới một cách nào đó.

Ôi Elohim Peace, thày hãy giúp con ngộ
Rằng Giê-su giáng thế để ban con Ngọn lửa,
Rải cho ai sẵn lòng rũ hết chuyện ganh đua,
Nhập sự sống bất tận mà theo chân Ki-tô. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.4. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra những thành phần tư duy thần diệu trong chính tâm con. Con sẵn sàng vượt lên trên chúng và thoát khỏi chúng.

Ôi Elohim Peace, qua mắt thày con biết
Rằng chỉ trong cái Một con mới mong giải thoát,
Và cũng thấy được rằng chẳng vật gì tách biệt,
Khi cái ngã phàm phu, con buông bỏ đoạn tuyệt. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.5. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra liệu, để phản ứng lại sự tấn công của sa nhân, con đã tạo ra một phàm linh nội tại khiến con nghĩ rằng một ngày kia con sẽ trở nên người không thể bị chiến bại và có thể đánh bại sa nhân.

Ôi Elohim Peace, thày chỉ con lối đi,
Ngừng đấu đá nhị nguyên, con thông sạch tâm trí,
Thày đâm xuyên ảo giác thời gian lẫn không gian,
Đem Hồng ân Bất tận tiêu hủy mọi phân ly. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.6. Con nhận ra sa nhân muốn con nghĩ có một thực thể nhân từ có quyền kiểm soát tối hậu trên vũ trụ. Do đó, một số điều không được xảy ra.

Ôi Elohim Peace, tên thày sao đẹp quá,
Nỗi nhị nguyên tủi hổ trong con thày giải tỏa,
Trút gánh nặng sợ hãi, địa cầu được tự do,
Và chào đón thái bình hiển hiện khắp đây đó. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.7. Sa nhân đã tạo ra ảo tưởng là có một Thượng đế toàn năng kiểm soát vũ trụ. Rồi chính họ đã làm nhiều chuyện độc ác thách thức sự hiện hữu của Thượng đế nhân từ và toàn năng này.

Ôi Elohim Peace, với Ki-tô bên cạnh,
Không thế lực nhị nguyên nào có thể lẩn tránh,
Chính qua sự rung động của Ngọn lửa Hoàng kim
Mà ảo ảnh sự chết được Ki-tô nhận chìm. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.8. Sa nhân đã tạo một sự mâu thuẫn trong tâm của hầu hết mọi người. Chúng ta nghĩ Thượng đế phải loại bỏ mọi tà ác nhưng lại quan sát thấy Thượng đế đã không làm thế. Trên thực tế, con sống trong một bầu cõi chưa thăng thiên và nơi đó đấng Sáng tạo cho phép quyền tự quyết được trải bày.

Ôi Elohim Peace, thày đem vào thế giới
Lửa Tái sinh Vũ trụ mà chẳng ai ngăn nổi,
Chúng con từ bỏ hẳn mọi ý niệm “cái tôi”,
Để Ánh sáng của thày trong chúng con chiếu rọi.

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.9. Đấng Sáng tạo đã nói: “Ta sẽ cho những sinh thể có tự nhận biết này thời gian để học hỏi với quyền tự quyết của họ và đi tới kết luận, dựa trên thử nghiệm với quyền tự quyết, rằng điều tốt nhất cho toàn thể cũng là điều tốt nhất cho cá nhân.”

Ôi Elohim Peace, hòa bình con cảm được,
Mọi ký ức chiến tranh thày đã khuây khỏa hết,
Bao thế lực xung khắc, địa cầu đã thăng vượt,
Và phục hồi hành tinh trở về với thanh khiết. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

Phần 2

2.1. Thày Nada, xin thày giúp con buông bỏ ảo tưởng do sa nhân tạo ra là có một Thượng đế cá nhân quan tâm mật thiết đến đời sống và hoàn cảnh cá nhân của con trên trái đất.

Cyclopea yêu dấu, thày phơi ra sự thực, 
Rằng phiền não nhị nguyên rồi sẽ được hàn gắn, 
Ánh sáng màu Lục bảo của thày như thần dược, 
Chữa lành cảm thể con cho bình an mỹ mãn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.2. Con buông bỏ ý tưởng rằng ở trên thiên đàng có một ông già râu bạc đặc biệt quan tâm tới con và luôn theo dõi mọi chuyện con làm, nghĩ hay cảm nhận. Vị Thượng đế xa xăm trên trời đó là một sáng chế hư cấu của sa nhân và con nhìn nhận là không có Thượng đế đó.

Cyclopea yêu dấu, con cùng thày tháo gỡ 
Những vòng xoáy tiêu cực đang phủ tâm mây mờ, 
Con biết mình cốt lõi là cái biết thuần sơ,
Là chìa khóa để thành cánh cửa luôn rộng mở.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.3. Vấn đề với tư duy thần diệu là nó khiến con nghĩ có một người trung gian. Con nghĩ con ở trong hoàn cảnh mà cá nhân con không làm được gì, nhưng có một thực thể bên ngoài có thể giải quyết vấn đề, và ước gì con tìm ra cách kích hoạt thực thể đó hành động.

Cyclopea yêu dấu, thanh lọc mắt bên trong, 
Uy lực đó giúp con xuyên thủng đêm trong hồn,
Nay con nhìn cuộc sống với con mắt thuần đơn,
Vượt lên trên bệnh tật con sẽ bay cao hơn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.4. Hậu quả tâm lý là con cảm thấy bất lực, và con phản ứng dựa trên cảm giác bất lực bằng cách cầu thỉnh một thực thể tưởng tượng mà con nghĩ có quyền năng mà con không có. Con sẵn sàng nhìn vào điều này và nhận ra nó hoàn toàn dựa trên một ảo tưởng.

Cyclopea yêu dấu, cuộc sống chỉ phản ánh 
Những hình tướng mà tâm cứ phóng ra địa cầu, 
Giữ tâm mình trong sáng là bí quyết chữa lành, 
Không còn một tâm ảnh để ngã trốn đằng sau.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.5. Con không bao giờ bất lực. Sa nhân thích đưa con vào hoàn cảnh trong đó con cảm thấy không có điều gì xấu có thể xảy ra cho con, sau đó họ làm một chuyện vật lý tàn tệ và sau đó họ khiến tâm con bắt đầu hồ nghi.

Cyclopea yêu dấu, chúng con nhắm thật cao, 
Ngày càng xích lại gần với ngọn lửa hàn gắn,
Xuyên tấm màn nhị nguyên bây giờ con cất cánh, 
Và tắm trong Ánh sáng thâm sâu màu Lục bảo. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.6. Con hoàn toàn nhìn nhận là quyền tự quyết ngự trị tối cao trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Con nhìn nhận trái đất là một trong những hành tinh thấp nhất trong bầu cõi của con.

Cyclopea yêu dấu, Lửa Lục bảo phanh phui 
Từng trò chơi quyền lực tinh vi của nhị đối, 
Kể cả âm mưu cũ là trò chơi gian dối, 
Cứ định nghĩa chân lý theo một cách mà thôi. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.7. Khi con đầu thai trên trái đất, một số chuyện có thể xảy ra cho con vì người khác có thể dùng quyền tự quyết của họ để hại con. Họ có thể hành động vật lý để hại con. Con nhận ra rằng con không làm được gì về chuyện này và lý do là vì quyền tự quyết phải được phép trải bày ra.

Cyclopea yêu dấu, dòng chảy con cảm được,
Của Chân lý Hằng sống mà thày ban liên tục, 
Con nay đã giải thoát khỏi cái nhìn đối cực, 
Và khuôn đúc hành tinh lại trinh nguyên như trước. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.8. Con chấp nhận là trái đất là một hành tinh có tâm thức rất thấp và do đó có thể là một số chuyện sẽ xảy ra cho con. Con bất lực vì con không ngăn chặn được người khác lạm dụng quyền tự quyết của họ. Con không làm được gì để ảnh hưởng quyền tự quyết của người khác.

Cyclopea yêu dấu, sự thật con đã thấy, 
Rõ mục đích cao hơn tại sao con ở đây, 
Con biết chân lý vượt mọi hệ thống dưới này, 
Con bơi trong ánh sáng và tăng trưởng gấp mấy. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.9. Con buông bỏ niềm tin là con phải ngăn chặn được người khác hại con vì con không muốn ảnh hưởng quyền tự quyết của người khác.

Cyclopea yêu dấu, con thấy thày hân hoan, 
Khi viễn kiến sáng tạo con đem ra thực hành, 
Để nhấc địa cầu lên khỏi lồng giam của rắn, 
Và thị hiện Hoàng kim của thày Saint Germain. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

Phần 3

3.1. Hình thức nghiệp nặng nhất mà con có thể tạo ra là can thiệp vào quyền tự quyết của người khác, ngay cả khi hành động của con có vẻ là để đem lại điều tốt cho họ.

Đại thiên thần Uriel, với uy lực dũng mãnh,
Các thiên thần hòa bình nuốt trọn hết chiến tranh. 
Bọn quỷ dữ hung hăng không thể nào địch nổi
Ánh sáng đang thiêu chúng, lửa rực lên sáng ngời.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.2. Đây là loại nghiệp mà sa nhân đã tạo ra từ lúc họ sa ngã, và như một đệ tử chân sư thăng thiên đang đi trên con đường dẫn tới thăng thiên, con không muốn tạo ra loại nghiệp đó.

Đại thiên thần Uriel, âm thanh vang cùng thấu,
Khi hàng triệu thiên thần góp giọng ca hợp tấu, 
Tiếng hát nâng cường độ chọc thủng qua đêm thâu,
Và mọi người bỗng thấy sự duy nhất nhiệm màu.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.3. Hình thức nghiệp nặng nhất mà con có thể tạo ra là khi con can thiệp vào ba thể cao của một người và ảnh hưởng chọn lựa của họ. Dù rằng con nghĩ con can thiệp để đem lại điều tốt cho họ, con vẫn tạo nghiệp rất nặng khi làm thế.

Đại thiên thần Uriel, từ trên Ngai Cao ngất,
Hàng triệu cái kèn đồng vang lên Âm Duy nhất, 
Tan hết mọi bất hòa trong ca khúc hài hòa,
Là âm của mọi âm, đời giải thoát mở ra.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.4. Con nhìn nhận con có ý định chân thật muốn thăng thiên, và do đó con không thể cho phép mình tạo ra loại nghiệp này.

Đại thiên thần Uriel, mọi chiến tranh chấm dứt,
Khi thày đem thông điệp từ trái tim Duy nhất, 
Hòa bình trong tim người trổi lên thành hợp xướng
Cứ thế lớn thêm mãi trong vòng xoáy yêu thương.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.5. Thày Nada, xin thày giúp con chấp nhận hoàn toàn, tuyệt đối là người khác phải được phép trải bày quyền tự quyết của họ dù rằng họ sẽ tự hại họ hay hại con.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình thày vô biên,
Giải vây hành tinh khỏi mọi sinh thể hiếu chiến, 
Chiến tranh là nhà tù mà con đã vượt ngục,
Ôm chầm lấy bình an của đoàn kết chân thực.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.6. Con nhận ra rằng con không nên giữ niềm tin cho rằng Thượng đế, một vị thánh hay thiên thần nào đó có thể khiến người khác làm hay không làm điều gì. Cầu nguyện Thượng đế để ngăn cản người khác làm điều gì có thể sẽ hại con hay chính họ không phải là việc làm chính đáng.

Đại thiên thần Uriel, con thỉnh cầu thiết tha,
Thày lộ ra Duy nhất sẽ kết hợp tất cả, 
Giúp con thấy viễn ảnh của hòa bình không xa,
Khi tranh chấp xung đột, chúng con đã buông xả. 

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.7. Không có thẩm quyền nào trên thiên đàng có quyền can thiệp vào quyền tự quyết của những người đang hiện thân. Con sẽ tạo nghiệp khi cầu nguyện xin Thượng đế thay đổi tâm người khác.

Đại thiên thần Uriel, sự sống thày phụng sự,
Giải vây con thoát khỏi đấu tranh và phân hóa,
Việc quên đi tự ngã đích thực là chìa khóa
Để sống cuộc đời mình cho thật sự thuận hòa.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.8. Thày Nada, xin thày giúp con nhìn vào trái đất và đi đến sự chấp nhận quyền tự quyết một cách hoàn toàn, vô điều kiện và không khoan nhượng. Con nhìn nhận đây là một hành tinh có tâm thức thấp và con nói: “Con đã đầu thai trên trái đất và lý do tối hậu là vì con đã chọn tới đây. Con biết trái đất là loại hành tinh như thế nào trước khi con đầu thai lần đầu ở đây.”

Đại thiên thần Uriel, địa cầu nâng tâm thức,
Khỏi mây mù nhị nguyên chỉ đem đến tiêu diệt,
Lửa Hòa bình của thày, con thỉnh cầu tha thiết,
Ra lệnh cho tranh cãi nhỏ mọn phải dứt tuyệt.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.9. “Con nhận ra con có lý do của con. Một phần lý do là con muốn tăng triển qua việc trải nghiệm cuộc sống trên một hành tinh như thế này. Con tăng triển bằng cách nhận ra là vì quyền tự quyết, con không thể ngăn cản người khác làm điều mà họ chọn làm. Vả lại đây cũng không phải là vai trò của con.”

Đại thiên thần Uriel, hòa bình là chuyện thường
Khi địa cầu hưởng ứng một viễn kiến cao hơn,
Hòa bình ở bên trong, người mở tâm rộng lớn,
Thì Thời đại Hoàng kim sẽ là phần giải thưởng.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

Phần 4

4.1. Con buông bỏ ước muốn tìm một phương pháp thần diệu để ngăn cản người khác hại chính họ hay hại người. Con buông bỏ ước muốn ảnh hưởng Thượng đế hay ngay cả tìm cách ảnh hưởng người khác. Con chấp nhận là khi con đầu thai trên trái đất này, con không ngăn cản được một số sự việc vật lý xảy ra.

Đại thiên thần Raphael, thày sáng rỡ làm sao, 
Thày nâng con lên khỏi tuồng sân khấu cuộc đời. 
Mẹ Mary và thày, viễn quan sao táo bạo, 
Muốn con đạt tiềm năng cao nhất có thể với. 

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.2. Tuy thế, con vẫn không bất lực. Con nhận ra là dù con không có quyền năng ngăn chặn một sự việc bên ngoài, điều này không có nghĩa là con bất lực và không có nghĩa là con phải cảm thấy bất lực.

Đại thiên thần Raphael, trong quả cầu lục bảo, 
Niệm tinh khôi con giữ cho mãi mãi thanh cao, 
Mẹ Mary bao bọc chúng con trong Tim Thánh, 
Không bao giờ xa cách trong tình Mẹ chân thành.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.3. Sa nhân đã thiết lập một cơ chế khiến con nghĩ là phải có một quyền lực ngăn chặn được những sự việc này và khi con kinh nghiệm là không có một quyền lực nào, thì con cảm thấy hoàn toàn bất lực, con cảm thấy mình trong vòng kềm tỏa của những sự việc ngoài tầm kiểm soát của mình.

Đại thiên thần Raphael, mọi đau ốm trị lành, 
Từng tế bào trong thân niêm lại trong ánh sáng, 
Chợt thấy niệm tinh khôi của đức Mẹ Mary, 
Con sống hiện thực mới là sức khỏe thần kỳ.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.4. Cái đang cảm thấy bất lực là một phàm linh, không phải là con. Con nhận ra là phàm linh đang cảm thấy bất lực và con tự hỏi: “Vậy thì con cảm thấy thế nào?” Con, tức là cái Ta Biết, không cảm thấy bất lực. Cái Ta Biết, khi nó biết nó là ai, nó là gì, không bao giờ cảm thấy bất lực.

Đại thiên thần Raphael, ánh sáng vô cùng thực, 
Lộ ra cho con thấy Ki-tô trong thần thức, 
Mẹ Mary đang giúp để con thăng liên tục, 
Cùng thày con thăng lên trong ánh sáng bảo lục.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.5. Con nhận biết con là ai, là cái gì, và do đó, con biết không có điều gì trên trái đất quy định được con là ai. Con là nhận biết thuần khiết, con luôn luôn có thể trở về nhận biết thuần khiết và do đó tách mình ra khỏi những vết thương trong ba thể cao của con.

Đại thiên thần Raphael, tiêu tan hết bệnh tật, 
Khi thày giúp con ngộ sự sống là Duy nhất, 
Con không còn chối bỏ tình yêu thày chân chất, 
Và niệm tinh khôi ấy, con phóng ra mọi vật.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.6. Điều tác động con trong một hoàn cảnh bên ngoài là phản ứng của con đối với hoàn cảnh. Phản ứng của con tạo ra một phàm linh nội tại và phàm linh này ở lại trong ba thể cao của con ngay cả trong các kiếp sau đó.

Đại thiên thần Raphael, con hàn gắn địa cầu,
Cho trái đất hồi sinh khi con tỏa tinh khôi, 
Một ngày mới đã đến, một kỷ nguyên bắt đầu, 
Và ánh sắc lục bảo sáng như thể mặt trời.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.7. Con không phải là phàm linh đó. Rất có thể là, cho tới điểm này, con đã nhìn thế giới qua phàm linh này và phản ứng lại phàm linh này nhưng tuy vậy, con không phải là phàm linh. Con đã chế phục nhiều phàm linh nội tại rồi, và do đó con có thể chế phục nhiều phàm linh nữa.

Đại thiên thần Raphael, sa ngã là quá khứ,
Khi mọi người tìm thấy đường Ki-tô thoát tử, 
Nay ta giục ai nấy mau chữa lành đi chứ, 
Khi cả bốn thể phàm được niêm trong tình tự.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.8. Con nhận ra rằng, bất kể các chấn thương mà con đã gánh chịu trong kiếp này hay các kiếp trước, hậu quả kéo dài của các sự việc vật lý này là các phàm linh nội tại mà con mang theo trong ba thể cao của con. Chính những phàm linh này tác động con.

Đại thiên thần Raphael, thày đem ánh bình minh,
Khiến thế lực bóng tối phải vội vàng lẩn tránh, 
Chúng kết liễu cuộc đời, ta đòi lại hành tinh, 
Và trên môi ai nấy nở nụ hoa thanh bình.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.9. Một sự việc vật lý xảy ra ở một thời điểm nào đó và bây giờ thời gian đã trôi đi. Con không còn sống ở mốc thời gian cũ nữa, và sự việc đó đang không có mặt trong thế giới vật lý vì thời gian đã trôi đi.

Đại thiên thần Raphael, ta giải phóng viễn kiến,
Khi ta thấy thực tại của Thượng đế thiêng liêng, 
Viễn tượng Saint Germain giờ đây đã thị hiện, 
Và trái đất niêm lại trong quả cầu trinh nguyên.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

Phần 5

5.1. Hồng ân của thời gian là nó cứ liên tục trôi đi, có nghĩa là nó tẩy xóa sự kiện cũ khi nó trôi đi. Đó là những sự việc vật lý đã xảy ra trong tầng vật lý nhưng thời gian đã tẩy xóa chúng.

Chân sư Nada, cái đẹp quyền năng,
Nở ra như một đóa hoa tuyệt trần.
Chân sư Nada, ôi sao thâm trầm, 
Ý chí chinh phục được cả thời gian. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.2. Dù ở thời điểm sự việc xảy ra, con bất lực không ngăn cản được sự việc ảnh hưởng con, thời gian đã cho con cơ hội mới để khắc phục ảnh hưởng của nó. Khi sự việc xảy ra, con phản ứng dựa trên tầng tâm thức của con lúc ấy và tạo ra một số phàm linh nội tại.

Chân sư Nada, thày là cội nguồn
Minh triết chảy ra như dòng nước cuốn.
Chân sư Nada, tâm thày cường tráng, 
Dâng lên theo cánh bài ca thường hằng. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.3. Con không bất lực và con có thể khắc phục sự việc. Vấn đề không phải là con ngăn chặn sự việc vật lý, mà con không thể ngăn chặn được vì nó không có mặt ở đây nữa. Vấn đề là con chế phục hậu quả của sự việc, tức là các phàm linh nội tại. Con thật sự quyền lực làm rã tan các phàm linh này và giải thoát con khỏi chúng.

Chân sư Nada, hương thơm tuyệt hảo,
Tình thương của thày từ cõi thiên thai.
Chân sư Nada, hiền dịu từ ái, 
Nương cánh tình yêu con vươn lên hoài. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.4. Con đã lên một tầng tâm thức cao hơn và do đó con có quyền lực tìm các phàm linh đã được tạo ra ở một tầng tâm thức thấp hơn, thấy chúng như chúng là, tách mình ra khỏi chúng và nói: “Hãy đứng phía sau ta, Satan.”

Chân sư Nada, ánh sáng Mẹ đây,
Như diều phơi phới, tim con bay nhảy.
Chân sư Nada, trong mắt của thày,
Sự sống trinh bạch như hạt sương mai. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.5. Trong mọi hoàn cảnh, con sẽ chú tâm vào việc kiểm soát phản ứng của con đối với hoàn cảnh. Đây là cơ hội cho con thấy nếu còn một số phàm linh nội tại đã được tạo ra trong các hoàn cảnh quá khứ, khiến con phản ứng với hoàn cảnh hôm nay thông qua tầng tâm thức của con thời xưa.

Chân sư Nada, thày đem chân lý,
Như chim buổi sáng hát bản tình ca.
Chân sư Nada, bốn thể phàm ngã, 
Tình yêu của thày hàn gắn được cả. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.6. Mọi hoàn cảnh đều là một cơ hội cho con nhìn vào phản ứng của mình, nhận ra phàm linh đã khiến con phản ứng trong quá khứ và sau đó giải thoát con khỏi phàm linh này.

Chân sư Nada, yên tâm phục vụ,
Bao nhiêu tình cảm giải hóa sạch rồi.
Chân sư Nada, cuộc đời hứng thú, 
Và đám rối dương* sáng như mặt trời.
(*: solar plexus) 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.7. Con không bao giờ bất lực. Nếu con kiểm soát được phản ứng của mình, nếu con làm rã tan đi các phàm linh thấp đã khiến con phản ứng trong những hoàn cảnh tương tự với một tầng tâm thức thấp hơn, thì con có quyền lực trên phản ứng của con trước mọi hoàn cảnh.

Chân sư Nada, tình yêu tự do,
Không còn điều kiện, không còn so đo.
Chân sư Nada, vươn lên buông bỏ
Sắc thái phàm phu tình yêu thấp nhỏ.

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.8. Yếu tố giải thoát khi con nhìn nhận quyền tự quyết là con chịu trách nhiệm cách con thực thi quyền tự quyết của mình nhưng con tuyệt đối không chịu trách nhiệm cách những sinh thể khác thực thi quyền tự quyết của họ.

Chân sư Nada, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Nada, vươn lên rọi sáng, 
Vẻ đẹp thần thánh ôi sao huy hoàng.

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.9. Con không chịu trách nhiệm về cách sa nhân thực thi quyền tự quyết của họ. Sa nhân đã làm đủ loại điều tàn ác, nhưng đây không phải là lỗi của Thượng đế, đây là lỗi của họ. Sự kiện sa nhân làm điều mà họ làm không phải là lỗi của con.

Chân sư Nada, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Hoà bình Thượng đế chúng con rải truyền. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

Phần 6

6.1. Con buông bỏ ý tưởng là nếu có chuyện xấu xảy ra cho con, chắc là con đã làm điều gì đó để đáng bị như vậy. Con buông bỏ ý tưởng rằng trong tâm con có vấn đề gì đó nên con mới thu hút sự việc trong đó con bị sa nhân hành hạ.

Hilarion, trên bờ lục bảo, 
Chúng con bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả 
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.2. Đây là một khía cạnh của tư duy thần diệu khiến con nghĩ là chắc con đã làm điều gì đó để đáng bị sa nhân hành hạ. Không phải là vì trong con có điểm gì thiếu sót mà sa nhân cảm thấy bị đe dọa bởi ánh sáng tâm linh của con và tìm cách tiêu diệt con. Con sẽ không cho phép mình cảm thấy có trách nhiệm về chuyện này.

Hilarion, chìa khóa bí mật,
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.3. Hậu quả của việc con bị sa nhân tấn công là con đã tạo ra một phàm linh nội tại dựa trên niềm tin là vũ trụ này không bất công và do đó chắc là con đã làm điều gì đó nên Thượng đế đã cho phép sa nhân tấn công con.

Hilarion, tình yêu sự sống, 
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.4. Thày Nada, xin thày giúp con trải nghiệm cảm giác giải thoát khi biết rằng; “Con không chịu trách nhiệm về những điều sa nhân làm đối với con, con không làm gì sai trái hết, con không làm gì để đáng bị sa nhân tấn công. Con không cần tìm điểm thiếu sót trong con người con để giải thích tại sao chuyện sa nhân hành hạ được phép xảy ra. Không có thiếu sót gì trong con người con. Tuy nhiên con đã tạo ra một phàm linh nội tại ở tầng tâm thức mà lúc đó khi con bị sa nhân tấn công. Con cần nhìn vào phàm linh này; con cần làm nó rã tan đi và sau đó con sẽ được tự do.”

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng, 
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền, 
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.5. Thày Nada, xin thày giúp con tới được bước ngoặt nơi con nhận ra là con không chịu trách nhiệm về những điều người khác đã làm đối với con.

Hilarion, thương yêu đón chào, 
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.6. Điều này không có nghĩa là con từ chối mọi trách nhiệm. Con sẵn sàng xem xét: “Phải chăng trong tâm lý con cũng có một cơ chế tương tự với cơ chế mà con thấy nơi những người đã xúc phạm con? Phải chăng con có những phàm linh nội tại cùng một loại với phàm linh nội tại mà những người này có, cho nên những điều mà những người này làm đối với con bây giờ cũng là những điều mà con đã làm đối với người khác trong quá khứ?”

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.7. Hành động khởi thủy của sa nhân xúc phạm con không phải là nghiệp báo do con tạo ra. Con không làm gì trước đó để đáng bị như vậy. Con nhận ra là sa nhân đã khuynh loát con để con tạo ra một phàm linh nội tại cảm thấy mình có tội khi tương tác với sa nhân. Con cảm thấy có tội ngay cả chỉ vì con có mặt trên trái đất, và mang theo ánh sáng thách đố sa nhân.

Hilarion, thông sạch luân xa, 
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà, 
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.8. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra điều này và tách mình khỏi nó. Con cảm nhận là tất cả cảm giác tội lỗi dính liền với chuyện có mặt trên trái đất bây giờ tan biến đi. Con thấy đây là một phàm linh nội tại, và con nói: “Hãy đứng phía sau ta, Satan.”

Hilarion, thày sẽ quân bình 
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.9. Con cảm thấy nhẹ nhàng khi con nhận ra ảo tưởng và khi nhận ra ảo tưởng, con thoát khỏi nó, và con cảm nhận một mức tự do mới.

Hilarion, thày đang Hiện diện, 
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế chúng con rải truyền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu tự do khỏi tinh thần cầu toàn (6 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Peace và Aloha và Purity và Astrea, Đại thiên thần Uriel và Aurora và Gabriel và Hope, Chân sư Nada và Serapis Bey yêu dấu, hãy giúp con vượt qua tinh thần cầu toàn. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với thày Nada và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Một trong những cách tinh tế mà sa nhân dùng để khuynh loát con người là quy định tiêu chuẩn đúng và sai.

Ôi Elohim Peace, trong Ngọn lửa Kết hợp,
Nhị nguyên không còn chỗ để bày trò cuộc chơi, 
Con biết mọi hình tướng tuôn ra từ một cội,
Con lấy uy lực đó định ra hướng đi mới. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.2. Trong nhiều nền văn hóa sa nhân đã làm cho con người tin rằng Thượng đế đã quy định một tiêu chuẩn về đúng và sai.

Ôi Elohim Peace, hồi chuông đã vang rền,
Khiến từng hạt nguyên tử ca hát và rung lên.
Con nay bỏ lại hết ý niệm ngã riêng biệt
Khi con vượt biển cả của luân hồi trùng điệp. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.3. Nếu con cảm nhận con đã làm điều gì sai nhưng cảm nhận này dựa trên tiêu chuẩn do sa nhân quy định thì có thể là con đã không làm gì sai hết.

Ôi Elohim Peace, thày hãy giúp con ngộ
Rằng Giê-su giáng thế để ban con Ngọn lửa,
Rải cho ai sẵn lòng rũ hết chuyện ganh đua,
Nhập sự sống bất tận mà theo chân Ki-tô. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.4. Đâu có lợi ích gì nếu con tiếp tục khuôn đúc tìm cách bù đắp cho việc làm sai – nếu quả thực con chẳng làm gì sai.

Ôi Elohim Peace, qua mắt thày con biết
Rằng chỉ trong cái Một con mới mong giải thoát,
Và cũng thấy được rằng chẳng vật gì tách biệt,
Khi cái ngã phàm phu, con buông bỏ đoạn tuyệt. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.5. Có sự khác biệt giữa cân bằng nghiệp trong cái tâm trung hòa và cân bằng nghiệp với ý muốn ám ảnh-cưỡng bức (obsessive-compulsive) muốn bù đắp.

Ôi Elohim Peace, thày chỉ con lối đi, 
Ngừng đấu đá nhị nguyên, con thông sạch tâm trí,
Thày đâm xuyên ảo giác thời gian lẫn không gian,
Đem Hồng ân Bất tận tiêu hủy mọi phân ly. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.6. Trước tiên, cân bằng nghiệp chính là nâng cao tâm thức của con, buông bỏ các phàm linh nội tại đã khiến con tạo ra nghiệp.

Ôi Elohim Peace, tên thày sao đẹp quá,
Nỗi nhị nguyên tủi hổ trong con thày giải tỏa,
Trút gánh nặng sợ hãi, địa cầu được tự do,
Và chào đón thái bình hiển hiện khắp đây đó. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con
thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.7. Con sẽ nhìn mình và xét xem việc ngưng các bài tập tâm linh có khiến con phản ứng không. Nếu có thì đây là một khuôn nếp bù đắp, đây là ám ảnh-cưỡng bức.

Ôi Elohim Peace, với Ki-tô bên cạnh,
Không thế lực nhị nguyên nào có thể lẩn tránh,
Chính qua sự rung động của Ngọn lửa Hoàng kim
Mà ảo ảnh sự chết được Ki-tô nhận chìm. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.8. Nếu con bị ý muốn ám ảnh-cưỡng bức bắt con phải bù đắp những sai lầm con đã phạm trong quá khứ thì con không hoàn toàn kiểm soát phản ứng của mình. Con phản ứng lại sa nhân thay vì đáp ứng lại các chân sư thăng thiên.

Ôi Elohim Peace, thày đem vào thế giới
Lửa Tái sinh Vũ trụ mà chẳng ai ngăn nổi,
Chúng con từ bỏ hẳn mọi ý niệm “cái tôi”,
Để Ánh sáng của thày trong chúng con chiếu rọi.

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.9. Các chân sư thăng thiên muốn con cân bằng nghiệp và khi con làm xong, các thày muốn con tiến lên làm gì khác thay vì tiếp tục làm cùng một thứ.

Ôi Elohim Peace, hòa bình con cảm được,
Mọi ký ức chiến tranh thày đã khuây khỏa hết,
Bao thế lực xung khắc, địa cầu đã thăng vượt,
Và phục hồi hành tinh trở về với thanh khiết. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

Phần 2

2.1. Con sẽ hòa điệu với thử thách con phải đối mặt tại tầng tâm thức hiện nay của con và làm sao con tiến lên tiếp từ chỗ này. Con sẽ không tiếp tục hành động dựa theo một quyết định của trạng thái tâm thức trong quá khứ.

Astrea yêu dấu, tim của thày thực chân,
Vòng tròn và Gươm báu của thày xanh và trắng,
Chém phăng dây buộc trói của bi kịch vô minh,
Để hành tinh dâng mãi trên đôi cánh Thanh tịnh.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.2. Con có một khuôn nếp bù đắp, nhưng nếu con không làm gì sai, thì đâu có nghĩa lý gì để tìm cách bù đắp cho một điều không sai.

Astrea yêu dấu, trong Thanh tịnh Thượng đế,
Xin gia tốc năng lượng cho đời con tràn trề,
Chúng con vượt lên trên từng ô uế bợn nhơ,
Để Ánh sáng Thanh tịnh hoài hoài trong con tỏ.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.3. Con sẵn sàng xem xét khái niệm đúng và sai của con. Con sẵn sàng mở tâm ra đón nhận một cái nhìn mới.

Astrea yêu dấu, từ Tia sáng Thuần khiết,
Mọi sự sống hôm nay, thày giải thoát thấu triệt.
Khi thanh tịnh gia tốc thì con là tự do,
Khỏi luyến ái ô trọc, con thăng lên buông bỏ.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.4. Khi con nghe về khái niệm quả vị Ki-tô lần đầu, con sẽ nhìn nó với tầng tâm thức lúc đó của con. Có nhiều tầng của quả vị Ki-tô và con không thể lấy khái niệm đầu tiên của con về quả vị Ki-tô và đem nó theo với con khi con nâng cao tâm thức.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc chúng con,
Thày ra tay giải cứu, con thành khẩn cầu mong,
Vượt quan điểm ô trọc, tất cả sẽ thênh thang,
Bỏ nghi ngờ sợ hãi, con nhất định vượt thăng.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.5. Quả vị Ki-tô là thách thức hiện trạng. Hiện trạng dựa trên một ảo tưởng. Cho mỗi tầng của 144 tầng tâm thức trên trái đất, có một ảo tưởng dính liền với tầng tâm thức đó.

Astrea yêu dấu, con sẵn sàng nhìn rõ
Vào mọi lời gian dối khiến con mất tự do.
Nay con đã buông bỏ mọi lọc lừa sa ngã,
Và mãi mãi khẳng định duy nhất của Tất Cả.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.6. Cho mỗi tầng của 144 tầng, có một ý niệm hiện trạng dựa trên một ảo tưởng nào đó. Quả vị Ki-tô thách thức ảo tưởng ở mỗi tầng của 144 tầng tâm thức.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc sự sống,
Vượt lên trên nhị nguyên, hiềm khích và tấn công,
Xóa hết mọi ranh giới giữa Thượng đế và người,
Ý toàn hảo của Ngài, mau hoàn tất xinh tươi.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.7. Có 144 biểu hiện khác nhau của quả vị Ki-tô. Theo tiêu chuẩn sa ngã, nhiều hành vi của quả vị Ki-tô thách thức các ảo tưởng ở các tầng thấp của tâm thức sẽ bị xem là sai trái.

Astrea yêu dấu, con trìu mến thỉnh gọi,
Cho cái vách vô hình của ngăn cách đổ rơi,
Nâng cao tâm chúng con vào hợp nhất chân thực
Với Chân sư yêu dấu của tình thương Vô cực.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.8. Loạn thần ám ảnh-cưỡng bức (obsessive-compulsive disorder) khiến con chấp nhận trách nhiệm về điều con không làm. Nó làm cho con chấp nhận trách nhiệm về điều không phải là trách nhiệm của con.

Astrea yêu dấu, thày giúp con khám phá
Bí ẩn rằng chúng con vốn sáng tạo bằng tâm,
Nếu trong tâm ngu dốt đã sai lầm tạo ra,
Thì trong tâm minh triết con tạo lại dễ quá.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.9. Trong quá khứ, con ở một tầng tâm thức thấp hơn. Con lên cao hơn vì con thấy được ảo tưởng ở tầng này. Khi con nhìn thấu suốt ảo tưởng đó, nó là một vấn đề cho sa nhân.

Astrea yêu dấu, con vô cùng khao khát,
Học hỏi cách sử dụng ngọn lửa của thanh tịnh,
Để nâng từng hình tướng lỡ gieo trong lầm lạc,
Khác gì Saint Germain tạo lại cả hành tinh.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

Phần 3

3.1. Sa nhân làm mọi cách có thể làm được để con cảm thấy thách thức ảo tưởng là sai. Họ cố gắng tìm một khía cạnh bất toàn nào đó trong hành động của con.

Đại thiên thần Uriel, với uy lực dũng mãnh,
Các thiên thần hòa bình nuốt trọn hết chiến tranh. 
Bọn quỷ dữ hung hăng không thể nào địch nổi
Ánh sáng đang thiêu chúng, lửa rực lên sáng ngời.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.2. Khi con thách thức một ảo tưởng ở tầng tâm thức thấp, con không làm như vậy bằng cách biểu hiện chân lý cao nhất có thể có. Dựa theo tiêu chuẩn sa ngã, thách thức của con sẽ không “toàn hảo”.

Đại thiên thần Uriel, âm thanh vang cùng thấu,
Khi hàng triệu thiên thần góp giọng ca hợp tấu, 
Tiếng hát nâng cường độ chọc thủng qua đêm thâu,
Và mọi người bỗng thấy sự duy nhất nhiệm màu.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.3. Sa nhân tìm cách tìm ra một khía cạnh nhỏ mà họ cho là không toàn hảo dựa theo tiêu chuẩn của họ. Con phản ứng lại điều này dựa trên tầng tâm thức của con ở thời điểm đó.

Đại thiên thần Uriel, từ trên Ngai Cao ngất,
Hàng triệu cái kèn đồng vang lên Âm Duy nhất, 
Tan hết mọi bất hòa trong ca khúc hài hòa,
Là âm của mọi âm, đời giải thoát mở ra.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.4. Ở tầng tâm thức này, con cảm thấy con phải toàn hảo, con vẫn còn bị dính mắc vào toàn bộ khái niệm cầu toàn do sa nhân áp đặt lên con người.

Đại thiên thần Uriel, mọi chiến tranh chấm dứt,
Khi thày đem thông điệp từ trái tim Duy nhất, 
Hòa bình trong tim người trổi lên thành hợp xướng
Cứ thế lớn thêm mãi trong vòng xoáy yêu thương.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.5. Con dùng lời lên án của sa nhân để quyết định; “Con đã sai. Con không toàn hảo.” Đây là một trong những lý do thông thường nhất khiến học viên của chân sư thăng thiên không dám biểu hiện quả vị Ki-tô của họ. Con nghĩ rằng con phải toàn hảo mới có thể biểu hiện quả vị Ki-tô.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình thày vô biên,
Giải vây hành tinh khỏi mọi sinh thể hiếu chiến, 
Chiến tranh là nhà tù mà con đã vượt ngục,
Ôm chầm lấy bình an của đoàn kết chân thực.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.6. Con nghĩ rằng Thượng đế hay các chân sư thăng thiên đã quy định tiêu chuẩn và con nghĩ con sai dựa theo tiêu chuẩn trong quá khứ này khi con cố gắng biểu hiện quả vị Ki-tô của mình. Do đó, con quyết định con sẽ không biểu hiện quả vị Ki-tô nữa cho tới khi con chắc chắn là con toàn hảo.

Đại thiên thần Uriel, con thỉnh cầu thiết tha,
Thày lộ ra Duy nhất sẽ kết hợp tất cả, 
Giúp con thấy viễn ảnh của hòa bình không xa,
Khi tranh chấp xung đột, chúng con đã buông xả. 

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.7. Con biết sa nhân cười chuyện này, nhưng con sẽ là người cười sau cùng. Con sẽ vươn lên trên điều này. Con nhận ra quả vị Ki-tô cần và phải được biểu hiện tại mỗi tầng của 144 tầng tâm thức. Và tại các tầng thấp hơn, không thể nói là biểu hiện của quả vị Ki-tô là “toàn hảo.”

Đại thiên thần Uriel, sự sống thày phụng sự,
Giải vây con thoát khỏi đấu tranh và phân hóa,
Việc quên đi tự ngã đích thực là chìa khóa
Để sống cuộc đời mình cho thật sự thuận hòa.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.8. Con sẽ không đổ lỗi cho mình là trong quá khứ con đã biểu hiện quả vị Ki-tô, mà không phải là biểu hiện cao nhất của quả vị Ki-tô có thể có được trên trái đất. Con sẽ chấp nhận là con biểu hiện quả vị Ki-tô ở tầng tâm thức của con lúc đó.

Đại thiên thần Uriel, địa cầu nâng tâm thức,
Khỏi mây mù nhị nguyên chỉ đem đến tiêu diệt,
Lửa Hòa bình của thày, con thỉnh cầu tha thiết,
Ra lệnh cho tranh cãi nhỏ mọn phải dứt tuyệt.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.9. Con biểu hiện quả vị Ki-tô để thách thức một tầng tâm thức đặc thù và do đó sự biểu hiện quả vị Ki-tô của con là tốt đủ, là hoàn toàn chấp nhận được và nó thách thức một ảo tưởng đặc thù nào đó.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình là chuyện thường
Khi địa cầu hưởng ứng một viễn kiến cao hơn,
Hòa bình ở bên trong, người mở tâm rộng lớn,
Thì Thời đại Hoàng kim sẽ là phần giải thưởng.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

Phần 4

4.1. Con không cần phải toàn hảo để biểu hiện quả vị Ki-tô ngày hôm nay. Con chỉ cần giản dị nhận ra con đang ở tầng tâm thức nào và con dám biểu hiện quả vị Ki-tô của con tại tầng tâm thức đó dựa trên viễn kiến mà con có.

Đại thiên thần Gabriel, ánh sáng con kính mến,
Chẳng còn gì sợ hãi, trầm mình trong Hiện diện,
Làm đệ tử Ki-tô nay con đã thật quên
Tự ngã với tham vọng đáp trả miếng từng miếng.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.2. Khi con tính chuyện biểu hiện quả vị Ki-tô của mình ở tầng tâm thức hiện nay, con không thể và con không phải chờ đợi mình toàn hảo. Lẽ dĩ nhiên, sự biểu hiện quả vị Ki-tô của con sẽ bị pha màu bởi những ảo tưởng mà con chưa bỏ được, những ảo tưởng cao hơn tầng tâm thức hiện nay của con. Nó không thể nào khác được.

Đại thiên thần Gabriel, con không sợ ánh sáng,
Trong lửa trắng thanh tẩy, sao con thấy rộn ràng,
Tay con trong tay thày, mỗi thử thách trực diện
Là ân huệ không ngớt để con cứ theo lên.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.3. Con buông bỏ ý niệm rằng nếu con là Ki-tô đang hành động, con không bao giờ được nổi giận hay có những cảm xúc cường độ khác.

Đại thiên thần Gabriel, lửa trắng thày thiêu cháy,
Bước ra khỏi đêm tối, con thăng lên cùng thày.
Chẳng còn một nơi chỗ cho tự ngã trốn chạy,
Con trụ vững trong thày, thăng thiên theo ốc xoáy.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.4. Sa nhân tìm cách tạo ra một khoảng cách mà con không bao giờ bước qua được giữa chỗ con đang đứng bây giờ và quả vị Ki-tô. Con cảm tưởng như là giữa con và quả vị Ki-tô có một khoảng cách lớn đến độ con không thể bước qua.

Đại thiên thần Gabriel, con nghe thấy tiếng kèn,
Báo hiệu ngày đản sanh của Ki-tô gần đến.
Trong bản thể nhẹ nhõm con đang được tái sinh,
Cùng Ki-tô con bước vào buổi sáng Phục sinh.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.5. Trên thực tế, khoảng cách nhỏ hơn nhiều. Nó không phải là khoảng cách giữa tầng tâm thức 48 và tầng 144. Nó là khoảng cách giữa tầng tâm thức hiện nay của con và tầng kế tiếp. Khoảng cách này, con có thể bước qua bất cứ lúc nào bằng cách chuyển vọt tâm thức của mình.

Đại thiên thần Gabriel, địa cầu nay giải thoát,
Ôm chầm lấy thực tại của bất nhị quang minh.
Đây phán xử Ki-tô đập xuống lực tà ác,
Luôn phủ nhận mỗi người có đốm lửa tâm linh.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.6. Con không phải là Ki-tô giống như Giê-su là Ki-tô trước khi bị đóng đinh. Con dám là Ki-tô thách thức ảo tưởng ở tầng tâm thức hiện nay của con dù rằng con không toàn hảo khi làm vậy.

Đại thiên thần Gabriel, bao thiên sứ trắng ngần
Đang nâng cao địa cầu khỏi vùng đêm u ẩn,
Khi Lời của Thượng đế được ai nấy cùng ngân,
Thì những kẻ sa ngã bị trói bởi kiếm thần.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.7. Thày Nada, xin thày giúp con chuyển vọt tâm mình và vứt đi phàm linh nội tại này, cái ta tách biệt cầu toàn này. Con nói: “Con thật sự toàn hảo khi biểu hiện quả vị Ki-tô của con tại tầng tâm thức hiện nay của con.”

Đại thiên thần Gabriel, nay chúng con gọi thày
Đem ánh sáng hỏa thiêu, khắp trung giới thanh tẩy.
Những tà thể, hồn bóng với ma quỷ trói lại,
Khi thày cùng chúng con ngân Lời Thánh quyền oai.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.8. Toàn hảo chân chính là đạt tới một bước cao hơn tầng tâm thức hiện nay của con. Toàn hảo không phải là một tầng tối hậu nào đó không hiện hữu, ngoại trừ trong tâm của sa nhân.

Đại thiên thần Gabriel, một ngày mới huy hoàng
Khi thiên thần rạng rỡ ở lại với nhân gian,
Ngọn lửa thày thanh tẩy bừng lên ánh lửa trắng,
Ý muốn con tinh sạch, tim con bay ngút ngàn.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.9. Thày Nada, xin thày giúp con vượt lên trên ý niệm cầu toàn này, ý niệm con phải toàn hảo trong mọi chuyện con làm. Xin thày giúp con nhận ra liệu con có dùng giáo lý chân sư thăng thiên để xây dựng một hình ảnh rất chi tiết là con cần như vậy.

Đại thiên thần Gabriel, hành tinh quá trong lành,
Ai ai cũng yên ổn nhìn tương lai sáng lạng,
Bao bọc quanh địa cầu là một dải ánh sáng,
Khai mở thời hoàng kim của thày Saint Germain.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

Phần 5

5.1. Xin thày giúp con nhận ra liệu con có dùng tâm vỏ ngoài để tạo ra cái áo tù, rồi con ép mình mặc nó vào, đến độ con gần như không đụng đậy được. Con nhận ra rằng các chân sư thăng thiên không phải là người muốn con làm điều này. Chính một phàm linh nội tại khiến con làm điều này.

Chân sư Nada, cái đẹp quyền năng,
Nở ra như một đóa hoa tuyệt trần.
Chân sư Nada, ôi sao thâm trầm, 
Ý chí chinh phục được cả thời gian. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản
.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.2. Con tách mình ra khỏi phàm linh này một cách ý thức và con nhận ra nó dựa trên một mục tiêu hoàn toàn không khả thi do sa nhân định ra. Không có trạng thái toàn hảo có thể làm được trên trái đất hay do các chân sư thăng thiên đòi hỏi.

Chân sư Nada, thày là cội nguồn
Minh triết chảy ra như dòng nước cuốn.
Chân sư Nada, tâm thày cường tráng, 
Dâng lên theo cánh bài ca thường hằng. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.3. Thày Nada, xin thày giúp con thật sự chấp nhận là thày chấp nhận con hoàn toàn, trọn vẹn và tuyệt đối như con là ngay bây giờ. Thày không có tiêu chuẩn đòi hỏi con phải ở tầng 144 trước khi thày có thể dạy con.

Chân sư Nada, hương thơm tuyệt hảo,
Tình thương của thày từ cõi thiên thai.
Chân sư Nada, hiền dịu từ ái, 
Nương cánh tình yêu con vươn lên hoài. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.4. Thày không phê phán con là không toàn hảo ở tầng tâm thức hiện nay của con. Thày chấp nhận con hoàn toàn như con là ở tầng hiện nay và thày chỉ chú tâm giúp con thấy ảo tưởng đó và đi lên bước kế tiếp.

Chân sư Nada, ánh sáng Mẹ đây,
Như diều phơi phới, tim con bay nhảy.
Chân sư Nada, trong mắt của thày,
Sự sống trinh bạch như hạt sương mai. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.5. Con sẽ không bao giờ bình an với chính mình nếu con đánh giá mình dựa trên một tiêu chuẩn toàn hảo mà con không bao giờ đạt được. Nếu con luôn luôn đánh giá mình là bất toàn, thì làm sao con có thể bình an với chính mình được?

Chân sư Nada, thày đem chân lý,
Như chim buổi sáng hát bản tình ca.
Chân sư Nada, bốn thể phàm ngã, 
Tình yêu của thày hàn gắn được cả. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.6. Nếu con đã luôn luôn phê phán là con đã làm điều gì sai trên trái đất và con chỉ có thể làm điều gì sai trên trái đất, thì làm sao con có thể cảm thấy bình an ở đây? Làm sao con bình an được trên con đường tâm linh nếu con nghĩ rằng biểu hiện quả vị Ki-tô đòi hỏi con phải toàn hảo?

Chân sư Nada, yên tâm phục vụ,
Bao nhiêu tình cảm giải hóa sạch rồi.
Chân sư Nada, cuộc đời hứng thú, 
Và đám rối dương* sáng như mặt trời.
(*: solar plexus) 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.7. Sâu trong tâm con, con có động lực đẩy con đi trên con đường tâm linh. Sau đó, con có một số cơ cấu trong các thể bản sắc, tư tưởng và tình cảm đi ngược lại động lực này và điều này làm con cảm thấy bất an với chính mình.

Chân sư Nada, tình yêu tự do,
Không còn điều kiện, không còn so đo.
Chân sư Nada, vươn lên buông bỏ
Sắc thái phàm phu tình yêu thấp nhỏ.

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.8. Thày Nada, xin thày giúp con đi qua các sáng ngộ giải quyết tất cả những cơ cấu đi ngược lại động lực tự nhiên của con để con tự do nhận ra động lực từ Hiện diện TA LÀ của con, động lực thăng vượt chính mình và là cánh cửa mở.

Chân sư Nada, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Nada, vươn lên rọi sáng, 
Vẻ đẹp thần thánh ôi sao huy hoàng.

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.9. Một phần của tinh thần cầu toàn là ý niệm con đã làm gì sai khi hiện thân. Chuyện gì đó đáng lý không được xảy ra và do đó con không bao giờ bình an được cho tới khi con vượt qua nó.

Chân sư Nada, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Hoà bình Thượng đế chúng con rải truyền. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

Phần 6

6.1. Con không làm gì sai khi hiện thân. Con chỉ làm điều con phải làm khi hiện thân trong một hành tinh như trái đất và con mang vào những ảo tưởng xuống tới tầng 48. Bây giờ, con đang ở trong tiến trình vươn lên khỏi các ảo tưởng này, từng ảo tưởng một.

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.2. Con không bất toàn! Con chỉ giản dị đang ở một tầng nào đó trên đường tu. Đâu có gì sai trái với điều này đâu. Ngay đây con ngừng không đuổi theo cái cầu vồng của toàn hảo – cuối cầu vồng không có hũ vàng nào.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.3. Con chấp nhận mình tại tầng hiện nay trên con đường tâm linh. Con chấp nhận là con có thể biểu hiện quả vị Ki-tô ở một tầng nào đó và con sẽ dám biểu hiện nó. Tầng con đang ở hiện nay cao hơn nhiều so với hầu hết mọi nguời trên trái đất. Con có thể biểu hiện điều gì đó có thể giúp nhiều người lên cao hơn. Con chấp nhận như vậy là đủ tốt rồi.

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao, 
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.4. Con nhìn vào tầng con đang ở và chú tâm vào đó. Con không băn khoăn tới các tầng cao hơn, con không trăn trở phải tuân theo một tiêu chuẩn toàn hảo nào đó. Con bình an ở chỗ con đang ở và biểu hiện quả vị Ki-tô ở tầng này.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.5. Con đang ở đúng ngay chỗ con phải ở ngay bây giờ, và con sẵn sàng xem xét ảo tưởng mà con đang phải đối phó ngay bây giờ, thăng vượt ảo tưởng đó và sau đó biểu hiện quả vị Ki-tô của con qua việc thách thức ảo tưởng đó.

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.6. Con đã chọn lựa chứng minh cách vươn lên những tầng tâm thức cao hơn và cao hơn. Con không ở đây để chứng minh cách nhảy từ tầng 48 lên tầng 144 vì không ai có thể xem đó là một gương mẫu.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất,
Serapis Bey, vạch trần cái ngã
Cứ muốn cướp đi đời sống hài hòa.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.7. Con cần là tấm gương để mọi người có thể thấy là có những người giống như họ, bắt đầu giống như họ nhưng đã vươn cao hơn. Do đó, mọi người có thể tin rằng nếu một người đã làm được thì tất cả có thể làm được.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.8. Cầu toàn là một trong những âm mưu quỷ quyệt nhất của sa nhân. Ở tầng hiện nay của con, con chỉ cần bước thêm một bước nữa để vượt qua nó. Con thấy phàm linh này, con thấy nó như nó là, con thấy nó là một yếu tố ngoại lai trong bốn thể phàm của con, con nhìn nó và nói: “Bước ra đằng sau ta, Satan, ngươi không phải là một phần của ta nữa.”

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.9. Con sẽ cho phép chiến thắng này thấm xuống tầng ý thức của con. Con thấy phàm linh, con thấy sự cầu toàn này và con không phản ứng đổ lỗi cho mình vì đã chịu ảnh hưởng của cầu toàn. Con bước ra khỏi cỗ máy chạy và con giản dị nói: “Ồ, đây nhé, chỉ là thêm một phàm linh khác phải ra đi. Bao nhiêu con đã ra đi rồi, thêm một con nữa có là gì đâu?”

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế chúng con rải truyền.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu tự do khỏi đổ lỗi (6 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Peace và Aloha và Heros và Amora, Đại thiên thần Uriel và Aurora và Chamuel và Charity, Chân sư Nada và Paul người Venice yêu dấu, hãy giúp con vượt qua mọi khuynh hướng đổ lỗi cho chính mình. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với thày Nada và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Trong quá khứ, con đã không đi theo đám đông, và sa nhân đã tìm cách gây chấn thương tâm lý cho con khiến con đã liên kết cảm giác sợ hãi và tổn thương với việc biểu lộ chính mình.

Ôi Elohim Peace, trong Ngọn lửa Kết hợp,
Nhị nguyên không còn chỗ để bày trò cuộc chơi, 
Con biết mọi hình tướng tuôn ra từ một cội,
Con lấy uy lực đó định ra hướng đi mới. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.2 Đây là cơ chế trong tâm khiến con sợ là khi con bắt đầu biểu lộ chính mình, thì con sẽ bị chế giễu, chỉ trích và ngay cả bị hậu quả vật lý, như bị giết, tra tấn hay bỏ tù.

Ôi Elohim Peace, hồi chuông đã vang rền,
Khiến từng hạt nguyên tử ca hát và rung lên.
Con nay bỏ lại hết ý niệm ngã riêng biệt
Khi con vượt biển cả của luân hồi trùng điệp. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.3. Con đã tạo ra trong tâm con cơ chế cho rằng: “Con không muốn biểu hiện quả vị Ki-tô của con, nhưng con biết con ở đây để biểu hiện quả vị Ki-tô do đó con cần một lý do tại sao con không thể biểu hiện quả vị Ki-tô.”

Ôi Elohim Peace, thày hãy giúp con ngộ
Rằng Giê-su giáng thế để ban con Ngọn lửa,
Rải cho ai sẵn lòng rũ hết chuyện ganh đua,
Nhập sự sống bất tận mà theo chân Ki-tô. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.4. Ý tưởng này khiến con nghĩ con không thể biểu hiện quả vị Ki-tô của con khi một điều kiện bên ngoài nào đó chưa thay đổi. Nghĩ như thế làm cho tự ngã và các phàm linh nội tại của con cảm thấy an toàn.

Ôi Elohim Peace, qua mắt thày con biết
Rằng chỉ trong cái Một con mới mong giải thoát,
Và cũng thấy được rằng chẳng vật gì tách biệt,
Khi cái ngã phàm phu, con buông bỏ đoạn tuyệt. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.5. Con sẵn sàng nhìn vào phản ứng nội tâm của con khi được tiết lộ điều này. Phản ứng sẽ giúp con nhận ra điều gì trong con đang ngăn cản con chấp nhận chính mình và cảm thấy bình an với mình là mình.

Ôi Elohim Peace, thày chỉ con lối đi, 
Ngừng đấu đá nhị nguyên, con thông sạch tâm trí,
Thày đâm xuyên ảo giác thời gian lẫn không gian,
Đem Hồng ân Bất tận tiêu hủy mọi phân ly. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.6. Con buông bỏ phàm linh nội tại muốn tránh né không nhìn chính mình bằng cách luôn luôn phóng chiếu ra ngoài là điều này hay điều kia không được xảy ra.

Ôi Elohim Peace, tên thày sao đẹp quá,
Nỗi nhị nguyên tủi hổ trong con thày giải tỏa,
Trút gánh nặng sợ hãi, địa cầu được tự do,
Và chào đón thái bình hiển hiện khắp đây đó. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.7. Đây là một cơ chế phòng vệ của tự ngã vì nó không muốn con nhận ra cơ chế đã cho nó quyền lực khuynh đảo con. Cơ chế này khiến con phóng chú ý ra ngoài và không nhìn chính mình.

Ôi Elohim Peace, với Ki-tô bên cạnh,
Không thế lực nhị nguyên nào có thể lẩn tránh,
Chính qua sự rung động của Ngọn lửa Hoàng kim
Mà ảo ảnh sự chết được Ki-tô nhận chìm. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.8. Con sẵn sàng nhìn vào sự kiện là con có cơ chế đó, khuynh hướng trì hoãn việc biểu lộ quả vị Ki-tô của mình. Con sẵn sàng nhìn chính con, nhìn bất cứ điều gì bên trong con mà con cần giải quyết, dù chuyện đó làm con đau lòng.

Ôi Elohim Peace, thày đem vào thế giới
Lửa Tái sinh Vũ trụ mà chẳng ai ngăn nổi,
Chúng con từ bỏ hẳn mọi ý niệm “cái tôi”,
Để Ánh sáng của thày trong chúng con chiếu rọi.

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.9. Thày Nada, xin thày giúp con tới điểm con có thể nhìn mình mà không đau lòng, tủi hổ về mình.

Ôi Elohim Peace, hòa bình con cảm được,
Mọi ký ức chiến tranh thày đã khuây khỏa hết,
Bao thế lực xung khắc, địa cầu đã thăng vượt,
Và phục hồi hành tinh trở về với thanh khiết. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

Phần 2

2.1. Thày Nada, xin thày giúp con khắc phục khuynh hướng vi tế cảm thấy hổ thẹn mỗi khi con thấy điều gì trong con cần được vượt qua.

Heros-Amora, trong tình thương màu hồng,
Con không cần biết đến ai nghĩ gì về con,
Trong hợp nhất với thày, con gọi một ngày mới,
Như trẻ thơ trong trắng, con đùa giỡn vui chơi.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

2.2. Phản ứng này do sa nhân tạo ra. Có một lúc nào đó trong một kiếp quá khứ, con đã dám biểu lộ một khía cạnh của quả vị Ki-tô và sa nhân đã làm đủ mọi cách để đập dí con xuống.

Heros-Amora, đời mới đã khởi sự,
Con cười vào mặt quỷ, là đứa luôn nghiêm nghị,
Với rắn bị kẹt cứng trong nhị đối của y,
Nhưng con thì thoát được nhờ Tình thương vô kỷ.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

2.3. Con nhìn nhận là sa nhân không thỏa mãn chỉ ngăn cản con trong một kiếp mà thôi. Họ muốn bảo đảm là con sẽ không bao giờ dám biểu lộ quả vị Ki-tô nữa.

Heros-Amora, tỉnh ngộ con phát hiện
Rằng tình thương đích thực không hề có điều kiện,
Con tắm trong Mặt trời màu Hồng Đỏ lộng lẫy,
Biết rằng Thượng đế muốn cuộc đời vui thơ ngây.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

2.4. Họ thực hiện điều này bằng cách đút vào trong bản thể con một phản ứng khiến con cảm thấy sai quấy vì đã biểu lộ quả vị Ki-tô. Con sai quấy khi con thách đố họ, con sai quấy khi con đứng lên nói sự thực. Con sai quấy vì con quá ư khác chuẩn mực.

Heros-Amora, cuộc đời thật vui thay,
Tưởng chừng như thế giới là đồ chơi vĩ đại,
Tâm con phóng thế nào thì đời như thế nấy,
Vì tấm gương cuộc sống phản chiếu đúng như vậy.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

2.5. Một trong những chiến thắng lớn của sa nhân là khi họ đút được một cơ chế vào bốn thể phàm của con khiến con cảm thấy biểu lộ quả vị Ki-tô của con là một điều sai quấy, con cảm thấy là con sai quấy khi con biểu lộ quả vị Ki-tô, do đó con không bao giờ dám làm điều này nữa.

Heros-Amora, đốt hết mọi điều kiện,
Con biết con toàn quyền được lật sang trang mới,
Trầm mình trong dòng chảy của Tình yêu vô biên,
Con biết rằng Tánh linh đã từ Trên xuống đời.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

2.6. Đây là lý do vì sao con có cơ chế khác khiến con liên kết việc biểu hiện quả vị Ki-tô của con với một số điều kiện nào đó trên trái đất. Con liên kết sự phản ứng tiêu cực mà con gặp khi con biểu hiện quả vị Ki-tô với các điều kiện bên ngoài lúc đó trên trái đất, và con nghĩ các điều kiện này không thuận lợi.

Heros-Amora, rốt cuộc con cảm thấy
Mình đã vượt lên trên vùng dĩ vãng sa lầy.
Trong tình yêu chân thật con tự do phát triển,
Mãi mãi con là một với Dòng Từ vô biên.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

2.7. Quả vị Ki-tô chỉ có một mục tiêu là thách đố hiện trạng để mọi người có thể thấy là có một cách khác hơn là hiện trạng. Sẽ không bao giờ có điều kiện trên trái đất giúp con biểu lộ quả vị Ki-tô của mình một cách an toàn.

Heros-Amora, điều kiện vốn trói buộc,
Chúng hình thành mạng lưới những lừa dối gian manh,
Nhưng thày giải cứu con nhờ sẵn thuốc giải độc,
Và đem con vượt khỏi mọi điều kiện khởi sanh.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

2.8. Dù con đang sống trong xã hội nào, dù con đang ở thời đại nào, vai trò của con như một sinh thể Ki-tô luôn luôn là thách đố chuẩn mực. Việc biểu lộ quả vị Ki-tô sẽ không bao giờ an toàn, không bao giờ vừa lòng mọi người, không bao giờ được chấp nhận.

Heros-Amora, tình yêu không buộc trói,
Nó chỉ muốn vượt qua, giải thoát con ra khỏi,
Nó bay xa mãi mãi vì nó không biên giới,
Nâng cao muôn sự sống vào trời Hồng ngọc tươi.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

2.9. Biểu lộ quả vị Ki-tô không phải là tranh giải ai được đại chúng ưa thích nhất. Nó chưa bao giờ như thế, sẽ không bao giờ như thế. Nó không thể như thế vì đây không phải là tính chất của việc biểu lộ quả vị Ki-tô.

Heros-Amora, tình yêu ngập cõi trần,
Đổ đầy tim ai nấy một niềm vui bất tận,
Vì không thể còn chỗ cho tuyệt vọng sợ hãi,
Khi tất cả tỉnh giấc: Tình yêu nổ bùng dậy!

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

Phần 3

3.1. Có một lúc nào đó trong quá khứ con đã chấp nhận niềm tin là con sai quấy khi thách thức hiện trạng, đáng lẽ con không được thách thức sa nhân, đáng lẽ con không được thách thức những người chung quanh con.

Đại thiên thần Uriel, với uy lực dũng mãnh,
Các thiên thần hòa bình nuốt trọn hết chiến tranh. 
Bọn quỷ dữ hung hăng không thể nào địch nổi
Ánh sáng đang thiêu chúng, lửa rực lên sáng ngời.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.2. Từ đó con nghĩ đáng lý con phải tuân theo chuẩn mực quy định hành vi và lời nói được xã hội chấp nhận.

Đại thiên thần Uriel, âm thanh vang cùng thấu,
Khi hàng triệu thiên thần góp giọng ca hợp tấu, 
Tiếng hát nâng cường độ chọc thủng qua đêm thâu,
Và mọi người bỗng thấy sự duy nhất nhiệm màu.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.3. Mọi người phản ứng tiêu cực với con và con nhận phản ứng tiêu cực này vào trong bản thể của con và chấp nhận tin tưởng con đã sai quấy khi đứng lên khỏi đám đông.

Đại thiên thần Uriel, từ trên Ngai Cao ngất,
Hàng triệu cái kèn đồng vang lên Âm Duy nhất, 
Tan hết mọi bất hòa trong ca khúc hài hòa,
Là âm của mọi âm, đời giải thoát mở ra.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.4. Con nhìn nhận tin tưởng này tạo ra một phàm linh nội tại, một ngã tách biệt và nó vẫn còn ở trong con.

Đại thiên thần Uriel, mọi chiến tranh chấm dứt,
Khi thày đem thông điệp từ trái tim Duy nhất, 
Hòa bình trong tim người trổi lên thành hợp xướng
Cứ thế lớn thêm mãi trong vòng xoáy yêu thương.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.5. Con nhìn nhận nó chỉ là vậy: nó chỉ là một phàm linh nội tại, nó chỉ là một ngã tách biệt – nó không phải là con. Con không phải là vậy. Con thật ra không cảm thấy sai quấy khi con biểu lộ quả vị Ki-tô của mình.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình thày vô biên,
Giải vây hành tinh khỏi mọi sinh thể hiếu chiến, 
Chiến tranh là nhà tù mà con đã vượt ngục,
Ôm chầm lấy bình an của đoàn kết chân thực.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.6. Phàm linh nội tại cảm thấy nó sai quấy và do đó nó luôn luôn tìm cách ngăn cản con biểu lộ quả vị Ki-tô. Một cách nó làm là khiến con nghĩ con phải cảm thấy hổ thẹn về mình, con phải cảm thấy tội lỗi.

Đại thiên thần Uriel, con thỉnh cầu thiết tha,
Thày lộ ra Duy nhất sẽ kết hợp tất cả, 
Giúp con thấy viễn ảnh của hòa bình không xa,
Khi tranh chấp xung đột, chúng con đã buông xả. 

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.7. Để tránh không đau lòng vì cảm xúc hổ thẹn, con điều chỉnh hành vi bên ngoài của con, điều chỉnh ngay cả cách con nhìn cuộc sống. Nhiều khía cạnh của quan hệ của con với cuộc sống trên trái đất bị cơ chế này ảnh hưởng.

Đại thiên thần Uriel, sự sống thày phụng sự,
Giải vây con thoát khỏi đấu tranh và phân hóa,
Việc quên đi tự ngã đích thực là chìa khóa
Để sống cuộc đời mình cho thật sự thuận hòa.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.8. Khuynh hướng phản ứng này tạo nên một khuôn nếp bù đắp trong con. Con cảm thấy có cái gì không ổn và bây giờ con tìm cách bù đắp lại.

Đại thiên thần Uriel, địa cầu nâng tâm thức,
Khỏi mây mù nhị nguyên chỉ đem đến tiêu diệt,
Lửa Hòa bình của thày, con thỉnh cầu tha thiết,
Ra lệnh cho tranh cãi nhỏ mọn phải dứt tuyệt.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.9. Con tin rằng có cái gì sai trái với việc con ở trên trái đất và con cần bù đắp lại.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình là chuyện thường
Khi địa cầu hưởng ứng một viễn kiến cao hơn,
Hòa bình ở bên trong, người mở tâm rộng lớn,
Thì Thời đại Hoàng kim sẽ là phần giải thưởng.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

Phần 4

4.1. Những khuôn nếp bù đắp này làm con mất quân bằng trong cách con tu tập trên con đường tâm linh, đến độ như con gần như bị chứng loạn thần ám ảnh và cưỡng bức (obsessive compulsive disorder)

Đại thiên thần Chamuel, uy lực tia ngọc hồng,
Con biết con đang tắm trận mưa ban sự sống,
Bao ý chí sa đọa đốt sạch bởi tình thương,
Bỗng nhiên bao ham muốn như chìm nghỉm lắng xuống.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.2. Con sẵn sàng đứng lui lại và quan niệm con đường tu, kể cả việc đọc chú và thỉnh, với một thái độ khác. Con không đọc vì bị thúc đẩy bởi khuôn nếp bù đắp đã được tạo ra khi con phản ứng lại với sa nhân.

Đại thiên thần Chamuel, ánh sáng dâng cuồn cuộn,
Tia hồng ngọc rực lửa đâm xuyên qua đêm trường,
Mọi thế lực bóng tối bị lửa thày thiêu nướng,
Thiêu sạch cả những ai không chịu bước cao hơn.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.3. Thày Nada, xin thày giúp con tới điểm mà con không tu tập dựa trên phản ứng đối với sa nhân nhưng dựa trên phản ứng với các chân sư thăng thiên.

Đại thiên thần Chamuel, tình yêu thày bao la,
Cuộc sống nay ý nghĩa do tầm nhìn sáng tỏ,
Khi mục đích cuộc đời con nhận ra quá rõ,
Nhận cả đấng Duy nhất trong tình thương chan hòa.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.4. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra là khi thày chỉ cho con thấy là con có khuynh hướng nghĩ là con sai quấy vì ở đây, con lại phản ứng cùng theo cơ chế đó, khiến con cảm thấy sai quấy vì có khuynh hướng cảm thấy mình sai quấy.

Đại thiên thần Chamuel, đem bình an bất nhị,
Thậm chí cả cái chết mà cũng chẳng là chi,
Thật sự trong tình thương không thể có phân hủy,
Tình thương là thăng vượt vào ngày mới vô thỉ.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.5. Con nhận ra là khi thày chỉ cho con thấy là con có khuynh hướng đổ lỗi cho mình, con lại đổ lỗi cho mình là con có tật đổ lỗi cho mình. Con nhận ra đây là một trong những cái máy chạy bộ mà con không thể thoát ra được nếu con cứ tiếp tục chạy trên đó.

Đại thiên thần Chamuel, Lửa Thượng đế ban xuống,
Cho người người khao khát được nếm trọn yêu thương,
Mọi hoàn cảnh trong đời, con biết đều không thực,
Khi tình yêu Thượng đế được chứng trong tâm thức.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.6. Máy chạy bộ bù đắp này khiến con càng lúc càng chạy nhanh hơn, tìm cách làm nhiều điều hơn – bù đắp, bù đắp, bù đắp.

Đại thiên thần Chamuel, hạt yêu thương thày gieo,
Trong trái tim của người không màng chuyện sở hữu,
Tình nào cố sở hữu sẽ sợ hãi ưu phiền,
Đâm vào tim nhức nhối là ngọn giáo nhị nguyên.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.7. Không có mục đích đường thẳng nào có thể hoàn thành trên chiếc máy chạy bộ vì nó chỉ có thể đi theo vòng tròn luẩn quẩn. Do đó, con cần ngưng vật lộn.

Đại thiên thần Chamuel, con sẽ không kiểm soát,
Vì đó là quỷ dữ muốn hồn con giam chặt,
Bẻ gẫy vòng dây xích mà rắn đã cài đặt,
Con tìm lại Thượng đế trong tình yêu giải thoát.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.8. Con nhận ra khuôn nếp con đổ lỗi cho mình và con dùng giáo lý tâm linh để đổ lỗi cho mình.

Đại thiên thần Chamuel, thày sao tài tình thật,
Giúp con nhận tình yêu của Thượng đế chân thực,
Con thừa biết tình yêu mà con hằng mong ước,
Không cần phải xứng đáng hay bỏ công tìm được.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.9. Giờ đây con nhận ra con không cần cảm thấy hổ thẹn với chính mình khi con đang tu trên con đường của các chân sư thăng thiên.

Đại thiên thần Chamuel, để nhận được tình thương,
Con không cần toàn hảo hay giỏi giang phi thường,
Tình thương luôn chảy xiết, không bao giờ im đứng,
Chỉ đòi hỏi con chịu tiến bước lên không ngừng.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

Phần 5

5.1. Thày Nada, xin thày giúp con bước ra khỏi cỗ máy chạy trong thể tình cảm, tư tưởng và bản sắc của con. Con thấy phàm linh nội tại và con nói: “Satan hãy bước ra sau lưng ta, ta không cần ngươi trong đời ta nữa.”

Chân sư Nada, cái đẹp quyền năng,
Nở ra như một đóa hoa tuyệt trần.
Chân sư Nada, ôi sao thâm trầm, 
Ý chí chinh phục được cả thời gian. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.2. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra bất cứ khuynh hướng nào khiến con cảm nhận là đáng lý con không được phản ứng lại sa nhân với trạng thái tâm thức thấp hơn.

Chân sư Nada, thày là cội nguồn
Minh triết chảy ra như dòng nước cuốn.
Chân sư Nada, tâm thày cường tráng, 
Dâng lên theo cánh bài ca thường hằng. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.3. Con phản ứng như vậy vì để có thể hiện thân trên trái đất, con phải nhận vào những ảo tưởng kéo con xuống tầng tâm thức thấp hơn. Con phản ứng với tầng tâm thức thấp hơn là chuyện tự nhiên.

Chân sư Nada, hương thơm tuyệt hảo,
Tình thương của thày từ cõi thiên thai.
Chân sư Nada, hiền dịu từ ái, 
Nương cánh tình yêu con vươn lên hoài. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.4. Không ai trên cõi thăng thiên chê trách con vì con đã phản ứng như vậy với sa nhân. Không ai trên cõi thăng thiên muốn con chê trách mình vì đã phản ứng như thế với sa nhân.

Chân sư Nada, ánh sáng Mẹ đây,
Như diều phơi phới, tim con bay nhảy.
Chân sư Nada, trong mắt của thày,
Sự sống trinh bạch như hạt sương mai. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.5. Con phản ứng với một phản ứng thấp hơn là điều không tránh được. Con phải làm điều này để chứng minh là con có thể vượt lên trên phản ứng đó.

Chân sư Nada, thày đem chân lý,
Như chim buổi sáng hát bản tình ca.
Chân sư Nada, bốn thể phàm ngã, 
Tình yêu của thày hàn gắn được cả. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.6. Sa nhân đã phóng chiếu là nếu con là một người tâm linh, con đáng lý không bao giờ được phản ứng một cách bất toàn. Sa nhân đập dí con xuống. Họ khiến con phản ứng tiêu cực và bây giờ họ khiến con chê trách mình vì đã có phản ứng tiêu cực đó.

Chân sư Nada, yên tâm phục vụ,
Bao nhiêu tình cảm giải hóa sạch rồi.
Chân sư Nada, cuộc đời hứng thú, 
Và đám rối dương* sáng như mặt trời.
(*: solar plexus) 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.7. Con có cảm tưởng là con không thể xóa bỏ chuyện đã xảy ra trong quá khứ, và do đó con bị kẹt vào cỗ máy chạy bộ không ngừng để tìm cách bù đắp lại.

Chân sư Nada, tình yêu tự do,
Không còn điều kiện, không còn so đo.
Chân sư Nada, vươn lên buông bỏ
Sắc thái phàm phu tình yêu thấp nhỏ. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.8. Con không thể thay đổi hành động vật lý đã xảy ra trong quá khứ nhưng hành động vật lý không quan trọng nữa vì thời gian đã trôi qua. Bây giờ con mang theo mình một phàm linh nội tại, nhưng con có thể tách mình ra khỏi phàm linh này, đuổi nó đi và cho nó chết. Khi con xóa bỏ phàm linh, con cũng xóa bỏ chuyện con đã làm trong quá khứ.

Chân sư Nada, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Nada, vươn lên rọi sáng, 
Vẻ đẹp thần thánh ôi sao huy hoàng.

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.9. Thày Nada, xin thày giúp con khắc phục phàm linh đằng sau cảm giác có điều gì đó sai trái với con. Sa nhân muốn con cảm thấy là vươn lên trạng thái tâm thức hiện nay của con là điều sai trái. Con hiện thân là sai trái.

Chân sư Nada, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Hoà bình Thượng đế chúng con rải truyền. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

Phần 6

6.1. Sa nhân muốn con cảm thấy như vậy vì con là mối đe dọa cho họ. Con không muốn chấp nhận điều này. Con không muốn chấp nhận lý luận của họ, con không sai trái khi con vươn lên tầng tâm thức hiện nay của con. Giờ đây con chấp nhận trong ý thức sự kiện này: “Không có gì sai trái với tôi cả.”

Ôi chân sư Paul, thày là giấc mơ,
Thày yêu cái đẹp hằng chảy tuôn ra.
Ôi chân sư Paul, tình mang trong dạ
Quyền năng đập vỡ nấm mồ tự ngã.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.2. Con sẽ giám sát mình và khi nào con cảm thấy có phóng chiếu cho rằng có điều gì sai trái với con, con nói: “Không có điều gì sai trái với tôi cả. Tôi hoàn toàn chấp nhận là không có điều gì sai trái với tôi cả.”

Ôi chân sư Paul, là nguồn khuyên nhủ,
Tâm con bay vút lên đỉnh trời cao.
Ôi chân sư Paul, minh triết ấp ủ
Cái đẹp chảy xuống từ Trên nhập vào.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.3. Con tách mình ra khỏi phàm linh này. Con nhìn nó và cảm thấy nó không ảnh hưởng con được nữa. Nó tan đi vì cái giữ cho nó sống là năng lượng mà con cho nó khi con tin vào ảo tưởng có điều gì sai trái với con.

Ôi chân sư Paul, yêu là nghệ thuật,
Mở trái tim ra căn phòng mật thất.
Ôi chân sư Paul, ào ào chảy xuống,
Cho tim tràn ngập ánh sắc yêu thương.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.4. Thày Nada, xin thày giúp con khắc phục chứng loạn thần ám ảnh và cưỡng bức và bắt đầu tu theo cách không ám ảnh, không cưỡng bức, không bị loạn thần. Động lực tự nhiên của con là muốn trải nghiệm cái gì hơn nữa và muốn biểu hiện cái hơn nữa.

Ôi chân sư Paul, gia tốc mài miệt,
Trụ vào từ bi, con thiền nhận biết.
Ôi chân sư Paul, ý định thuần khiết
Sẽ được bảo đảm thăng lên siêu việt.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.5. Khi con còn bù đắp, thì con không thể cảm thấy tự do biểu hiện mình, con không thể cảm thấy tự do sáng tạo.

Ôi chân sư Paul, tình yêu hàn gắn,
Thày mở lộ ra ánh sáng nội tâm.
Ôi chân sư Paul, tình yêu an ủi,
Để con nguyên vẹn trong một niềm vui.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.6. Sáng tạo là vượt lên trên hiện trạng. Con chỉ sáng tạo khi con vượt lên trên hiện trạng.

Ôi chân sư Paul, phụng sự Tất cả,
Giúp mọi chúng sinh thăng vượt sa ngã.
Ôi chân sư Paul, an bình ra khơi,
Mặc cho tự ngã tất phải tàn hơi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.7. Khi con bù đắp, mong muốn bù đắp này thật sự dựa trên hiện trạng vì con nói: “Hiện trạng là tôi làm điều gì đó sai trái trong quá khứ và tôi cần bù đắp lại.”

Ôi chân sư Paul, tình yêu giải phóng,
Thày yêu mãi mãi, cho con nhập dòng.
Ôi chân sư Paul, thày là vị Chủ
Giúp cho hành trình của con hứng thú.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.8. Bù đắp và sáng tạo xung khắc nhau và con sẽ không bao giờ là một sinh thể hoàn toàn sáng tạo khi con còn tìm cách bù đắp lại điều gì đó.

Ôi chân sư Paul, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư Paul, thày tô bầu trời,
Cái ta mừng rỡ trong màu vui tươi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.9. Con sáng tạo trên nền tảng của tình thương, chứ không phải dựa trên cơ chế bù đắp thúc đẩy con làm điều gì đó bất thường để gây chú ý. Con tự do biểu hiện sự sáng tạo của Hiện diện TA LÀ của con.

Ôi chân sư Paul, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tình yêu Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu viễn kiến thấy mọi điều kiện là cơ hội (6 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Peace và Aloha và Apollo và Lumina, Đại thiên thần Uriel và Aurora và Jophiel và Christine, Chân sư Nada và Đức Lanto yêu dấu, hãy giúp con chấp nhận là mọi điều kiện trên trái đất là cơ hội để tăng triển. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với thày Nada và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Thày Nada, xin thày giúp con nhìn quá tự ngã, nhìn xuyên qua tự ngã và nhận ra khi nào phản ứng của con đến từ tự ngã. Xin thày giúp con tách ra khỏi phản ứng của tự ngã và tránh không bị chìm đắm trong nó. Xin thày giúp con tránh không phản ứng theo phản ứng của tự ngã.

Ôi Elohim Peace, trong Ngọn lửa Kết hợp,
Nhị nguyên không còn chỗ để bày trò cuộc chơi, 
Con biết mọi hình tướng tuôn ra từ một cội,
Con lấy uy lực đó định ra hướng đi mới. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.2. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra trong ý thức là phản ứng không đến từ con, từ bản thể thật bên trong của con. Phản ứng đến từ tự ngã của con, từ một phàm linh nội tại, từ một cái ta tách biệt. Nó là một phản ứng trong bốn thể phàm của con, nhưng nó không phải là phản ứng của con.

Ôi Elohim Peace, hồi chuông đã vang rền,
Khiến từng hạt nguyên tử ca hát và rung lên.
Con nay bỏ lại hết ý niệm ngã riêng biệt
Khi con vượt biển cả của luân hồi trùng điệp. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.3. Con nhận ra rằng phản ứng là chỉ dấu con có một phàm linh nội tại, một cái ta tách biệt, một phần của tự ngã đang phản ứng. Đây là cơ hội để con nhìn nó, tách mình ra khỏi nó và nhờ vậy thăng vượt khỏi nó.

Ôi Elohim Peace, thày hãy giúp con ngộ
Rằng Giê-su giáng thế để ban con Ngọn lửa,
Rải cho ai sẵn lòng rũ hết chuyện ganh đua,
Nhập sự sống bất tận mà theo chân Ki-tô. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.4. Khi con còn phản ứng liên tục và cho phép mình bị lôi kéo vào những khuôn nếp phản ứng lại một điều kiện nào đó trong thế gian, thì con đang tạo nghiệp, con đang làm, con đang chìm xuống cát lún.

Ôi Elohim Peace, qua mắt thày con biết
Rằng chỉ trong cái Một con mới mong giải thoát,
Và cũng thấy được rằng chẳng vật gì tách biệt,
Khi cái ngã phàm phu, con buông bỏ đoạn tuyệt. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.5. Chỉ khi nào con tới điểm thoát được một phản ứng nào đó thì thế gian này không còn ảnh hưởng được con và con tránh bị lún xuống.

Ôi Elohim Peace, thày chỉ con lối đi, 
Ngừng đấu đá nhị nguyên, con thông sạch tâm trí,
Thày đâm xuyên ảo giác thời gian lẫn không gian,
Đem Hồng ân Bất tận tiêu hủy mọi phân ly. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.6. Con nhận ra khi con thảo Sứ vụ Thiêng liêng của mình, con ở trong một trạng thái tâm thức cao hơn, nhưng không phải là trạng thái tâm thức tối hậu.

Ôi Elohim Peace, tên thày sao đẹp quá,
Nỗi nhị nguyên tủi hổ trong con thày giải tỏa,
Trút gánh nặng sợ hãi, địa cầu được tự do,
Và chào đón thái bình hiển hiện khắp đây đó. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.7. Con thảo Sứ vụ Thiêng liêng của mình trong trạng thái tâm thức cao nhất mà con có tiềm năng vươn tới trong kiếp sống này.

Ôi Elohim Peace, với Ki-tô bên cạnh,
Không thế lực nhị nguyên nào có thể lẩn tránh,
Chính qua sự rung động của Ngọn lửa Hoàng kim
Mà ảo ảnh sự chết được Ki-tô nhận chìm. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.8. Khi con xuống đầu thai, con bắt đầu ở cùng tầng tâm thức với lúc con hiện thân kiếp trước.

Ôi Elohim Peace, thày đem vào thế giới
Lửa Tái sinh Vũ trụ mà chẳng ai ngăn nổi,
Chúng con từ bỏ hẳn mọi ý niệm “cái tôi”,
Để Ánh sáng của thày trong chúng con chiếu rọi.

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.9. Điều này có nghĩa là con quên mất trạng thái tâm thức khi con thảo Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Ôi Elohim Peace, hòa bình con cảm được,
Mọi ký ức chiến tranh thày đã khuây khỏa hết,
Bao thế lực xung khắc, địa cầu đã thăng vượt,
Và phục hồi hành tinh trở về với thanh khiết. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

Phần 2

2.1. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra khuynh hướng nhìn Sứ vụ Thiêng liêng của mình với tư duy đường thẳng và nghĩ nếu các chân sư thăng thiên có một mục đích và nếu con có mặt ở đây để giúp các thày, thì con cần lấy những biện pháp tích cực để hoàn tất mục đích này.

Apollo yêu dấu, trong tia sáng thứ hai,
Thày mở mắt con ra để con nhìn ngày mới,
Vượt lên trên khuôn đúc tư duy gây thảm bại,
Con nhìn thấu xuyên qua lừa lọc của nhị đối.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.2. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra là nếu con muốn thật sự hoàn tất mục đích con cần đạt trong Sứ vụ Thiêng liêng của kiếp sống này, trước hết con cần vươn lên trạng thái tâm thức cao nhất mà con có thể đạt được trong kiếp sống này.

Apollo yêu dấu, trong ánh lửa con biết
Có dòng nước hằng chảy là dòng sông minh triết,
Kìa ý chí cao nhất nay con đã phát hiện,
Trầm mình trong dòng nước không bao giờ đứng yên.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.3. Con nhận ra khi con khám phá ra giáo lý, con quyết định với tâm vỏ ngoài, dựa trên tầng tâm thức của con lúc đó, là con sẽ làm gì liên quan tới việc đọc bài chú bài thỉnh.

Apollo yêu dấu, ánh sáng thày soi rõ
Tại sao chúng con lại hiện thân ở đây nhỉ,
Rõ cả những lọc lừa đã khiến mình sa ngã,
Thày giúp con tìm lại duy nhất với tất cả.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.4. Con sẽ để việc này qua một bên và nhận ra mục đích lúc này là vươn lên một tầng tâm thức cao hơn giúp con có một cái nhìn khác về Sứ vụ Thiêng liêng của mình và việc con cần làm trong kiếp này.

Apollo yêu dấu, vạch trần từng dối trá,
Từng sợi dây tự ngã chúng con nay buông bỏ,
Và hiểu ra thật sự nhận thức là chìa khóa
Để vượt qua nhị đối cho nội tâm sáng tỏ.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.5. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra là có một yếu tố trong tự ngã của con, có một phàm linh nội tại, có một cái ta tách biệt được tạo ra bởi tin tưởng là con không thể là một người tâm linh trọn vẹn, con không thể là một sinh thể Ki-tô, con không thể hoàn toàn bình an với mình nếu một điều kiện nào đó trên trái đất chưa thay đổi.

Apollo yêu dấu, con nghe lời thày gọi,
Ở Đại sảnh Minh triết tiếng gọi dìu con tới,
Đây bầu cõi vũ trụ chúng con phải nâng cao,
Và cùng nhau hình thành mũi đầu của ngọn giáo.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.6. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra phản ứng cá nhân khiến con cảm thấy vì điều kiện đó như vậy nên con không thể trọn vẹn là mình được.

Apollo yêu dấu, trí tuệ thày sáng rỡ,
Trong hợp nhất với thày, rắn độc con chẳng sợ,
Cái đà trong con mắt, con nay thấy lồ lộ,
Thoát khỏi vùng nhị đối, con tìm được tự do.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.7. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra niềm tin rằng có điều gì con không thể làm, có điều gì con không thể là, vì có điều kiện bên ngoài không đúng như chúng phải là.

Apollo yêu dấu, thày giúp con nhìn rõ,
Bằng chính mắt của thày, con mới thực tự do,
Khi mắt thày soi rọi, con tình nguyện đứng đó,
Rồi bước khỏi mê cung với uy lực thày cho.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.8. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra đây là một khuôn nếp phản ứng. Con nhìn vào các điều kiện trên trái đất và con phải ứng lại bằng cách cảm thấy mình bị hạn chế. Con cảm thấy con không thể nào trọn vẹn là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con bởi vì có điều kiện bên ngoài này, và đây là khuôn nếp phản ứng đang hạn chế con.

Apollo yêu dấu, chúng con nâng viễn kiến
Và dõi nhìn trái đất bước vào tân kỷ nguyên,
Không gì ngăn cản được hiểu biết mà thày truyền
Phơi bày ra sự thật: Chẳng gì đứng tách riêng.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.9. Con không thể hoàn toàn cảm thấy thoải mái với chính mình nếu con còn khuôn nếp này. Con không thể nào hoàn toàn bình an trong nội tâm vì con không bình an với việc mình hiện thân trên trái đất này.

Apollo yêu dấu, chúng con đang chung sức,
Để nâng cao địa cầu trong niềm vui nối kết,
Khi thày đem tỏ lộ Ngọn lửa của Minh triết,
Người người thấy tận mắt cái gì là chân thực.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

Phần 3

3.1. Con nhận ra để có thể bình an trong chính mình, con cần bình an với chuyện sống trên trái đất, bình an với chuyện hiện thân trên trái đất.

Đại thiên thần Uriel, với uy lực dũng mãnh,
Các thiên thần hòa bình nuốt trọn hết chiến tranh. 
Bọn quỷ dữ hung hăng không thể nào địch nổi
Ánh sáng đang thiêu chúng, lửa rực lên sáng ngời.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.2. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra khuôn nếp phản ứng trong tiềm thức của con nói: “Ồ, tôi không thể bình an được khi điều kiện này vẫn còn như vậy.”

Đại thiên thần Uriel, âm thanh vang cùng thấu,
Khi hàng triệu thiên thần góp giọng ca hợp tấu, 
Tiếng hát nâng cường độ chọc thủng qua đêm thâu,
Và mọi người bỗng thấy sự duy nhất nhiệm màu.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.3. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra liệu con có bực dọc vì cảm thấy bất lực không thay đổi được điều kiện bên ngoài.

Đại thiên thần Uriel, từ trên Ngai Cao ngất,
Hàng triệu cái kèn đồng vang lên Âm Duy nhất, 
Tan hết mọi bất hòa trong ca khúc hài hòa,
Là âm của mọi âm, đời giải thoát mở ra.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.4. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra liệu con có khởi ý niệm tinh tế đổ lỗi cho người khác, cho sa nhân, cho Ánh sáng Mẹ.

Đại thiên thần Uriel, mọi chiến tranh chấm dứt,
Khi thày đem thông điệp từ trái tim Duy nhất, 
Hòa bình trong tim người trổi lên thành hợp xướng
Cứ thế lớn thêm mãi trong vòng xoáy yêu thương.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.5. Con sẽ làm mọi điều con có thể làm được để nhận ra là nó dựa trên một ảo tưởng. Không một điều kiện bên ngoài nào có thể ngăn cản con là cánh của mở cho Hiện diện TA LÀ của con. Con vẫn có thể bình an dù rằng con không thay đổi được hoàn cảnh bên ngoài.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình thày vô biên,
Giải vây hành tinh khỏi mọi sinh thể hiếu chiến, 
Chiến tranh là nhà tù mà con đã vượt ngục,
Ôm chầm lấy bình an của đoàn kết chân thực.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.6. Ý nghĩa của giáo lý chân sư thăng thiên là con đi trên con đường tu để trở nên độc lập về mặt tâm lý, mặt tâm linh, mặt tâm lý-tâm linh, với các điều kiện trên trái đất . Không có điều kiện nào trên trái đất có thể lấy đi sự bình an nội tâm của con.

Đại thiên thần Uriel, con thỉnh cầu thiết tha,
Thày lộ ra Duy nhất sẽ kết hợp tất cả, 
Giúp con thấy viễn ảnh của hòa bình không xa,
Khi tranh chấp xung đột, chúng con đã buông xả. 

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.7. Đáp số hiển nhiên cho câu đố bí ẩn là nếu con không thay đổi được điều kiện bên ngoài, con vẫn có được bình an nội tâm bằng cách tác động trên chính mình, thay đổi chính mình.

Đại thiên thần Uriel, sự sống thày phụng sự,
Giải vây con thoát khỏi đấu tranh và phân hóa,
Việc quên đi tự ngã đích thực là chìa khóa
Để sống cuộc đời mình cho thật sự thuận hòa.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.8. Sứ vụ Thiêng liêng của con có mục đích bên ngoài và mục đích bên trong. Mục đích bên trong là sự tăng triển tâm thức của chính con, và không có điều kiện nào trên trái đất có thể ngăn chặn hay hạn chế sự tăng triển tâm thức của con.

Đại thiên thần Uriel, địa cầu nâng tâm thức,
Khỏi mây mù nhị nguyên chỉ đem đến tiêu diệt,
Lửa Hòa bình của thày, con thỉnh cầu tha thiết,
Ra lệnh cho tranh cãi nhỏ mọn phải dứt tuyệt.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.9. Điều kiện trên trái đất chính thật là những yếu tố giúp con tăng triển tâm thức. Chúng không phải là kẻ thù của sự tăng triển tâm thức của con; chúng là cơ hội cho con tăng triển.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình là chuyện thường
Khi địa cầu hưởng ứng một viễn kiến cao hơn,
Hòa bình ở bên trong, người mở tâm rộng lớn,
Thì Thời đại Hoàng kim sẽ là phần giải thưởng.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

Phần 4

4.1. Con tăng triển tâm thức khi con vượt qua một phàm linh nội tại cá biệt khiến con phản ứng với một điều kiện nào đó trên trái đất. Khi con không còn phản ứng với điều kiện, con đã tăng triển tâm thức và con bước gần hơn tới sự bình an nội tâm của con.

Đại thiên thần Jophiel, trong ánh sáng minh triết,
Mọi lừa dối gian xảo đã phơi bày trước mặt.
Thường thường trong tâm người, chúng tinh vi luồn lách,
Nhưng con có thày rồi, là vị thày thượng sách.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.2. Con nhận ra bình an nội tâm của con không dính dáng gì tới điều kiện trên trái đất. Nó là một điều kiện nội tâm. Không có điều kiện bên ngoài nào có thể ngăn cản sự bình an nội tâm của con.

Đại thiên thần Jophiel, con đón mừng minh triết,
Tấm màn của nhị nguyên, thày lấy gươm chặt đứt,
Khi được thày chỉ lối, con biết đâu là thực,
Con hóa giải tức khắc bùa mê với ngờ vực.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.3. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra điều kiện nào khuấy động nhiều nhất sự bình an của con trên trái đất. Xin thày giúp con nhận ra điều kiện này không phải là kẻ thù của sự tăng triển tâm linh của con; nó là cơ hội cho con tăng triển. Điều kiện này giúp con tăng triển.

Đại thiên thần Jophiel, thực tại của thày đó,
Là liều thuốc thần diệu giải độc chất nhị nguyên,
Dối trá không thể còn khi có thày Hiện diện,
Với thày đứng bên cạnh, tà kiến con cắt liền.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.4. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra con không thể làm hòa với việc con đang hiện thân trên trái đất nếu con có một mục đích tâm linh nào đó nhưng cũng có một cơ chế trong bốn thể phàm đang ngăn cản con đạt mục đích đó.

Đại thiên thần Jophiel, tâm Thượng đế trong con,
Con nhận trí tuệ thày, ánh sáng rạng đầu non,
Con gặp được Duy nhất khi tách biệt tiêu mòn,
Và tâm này toàn vẹn, là chiến thắng của con.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.5. Cơ chế này ngăn cản con đạt mục đích vì con nghĩ con không thể nào đạt mục đích nội tâm nếu điều kiện bên ngoài chưa thay đổi.

Đại thiên thần Jophiel, chỉ cho con đường tiến,
Dẫn chúng con vượt khỏi tranh chấp của nhị nguyên,
Chúng con muốn phân biện đâu là giả, là chân,
Và tháo gỡ tất cả bao nút nhợ của rắn.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.6. Con nhận ra cơ hội tăng triển tâm linh chỉ là nhận ra rằng tất cả điều kiện trên trái đất là cơ hội để vượt qua dính mắc và khuôn nếp phản ứng.

Đại thiên thần Jophiel, ngay đây thày Hiện diện,
Vì vậy tâm chúng con được hoàn toàn minh mẫn,
Nhập nguồn suối trí tuệ chúng con bước vào tắm,
Và đủ sức cưỡng lại quỷ dữ đang nổi giận.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.7. Con đang chuyển vọt tâm thức và con bình an với việc hiện thân trên một hành tinh dày đặc và thấp như trái đất hiện nay. Con vươn lên trên sự vật vã nội tâm liên tục khi con đang hiện thân và cảm thấy bực dọc và bị hạn chế vì đang ở đây. Con nói: “Nhưng đây không phải là một hạn chế – đây là môt cơ hội.”

Đại thiên thần Jophiel, công việc thày là chính,
Để nâng cao nhân loại nếu người ta chịu thỉnh,
Vậy nhân danh mọi người đang mang bệnh mù quáng,
Chúng con yêu cầu thày hãy giúp họ khôn ngoan.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.8. Con tạm thời để qua một bên ước muốn làm điều gì đó trong thế gian. Con muốn có một viễn kiến cao hơn, nhưng con sẽ không có viễn kiến đó khi con còn chú tâm quá nhiều tới bên ngoài con, thay vì chú tâm vào bên trong.

Đại thiên thần Jophiel, thày Hiện diện con mừng,
Vì tấm màn đang được Ánh sáng thày chọc thủng,
Những con rắn không thể tung ra lời gạt gẫm,
Khi mọi người đã nhận Lửa Minh triết trong tâm.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.9. Con đường dẫn tới thăng thiên là con đường nội tâm chính là vì con không cần vượt qua bất cứ điều kiện bên ngoài nào. Con chỉ cần vượt qua điều kiện nội tâm mà thôi. Hầu hết các điều kiện nội tâm đó là những khuôn nếp phản ứng với những điều kiện bên ngoài trong đó con – hay đúng hơn một phàm linh nội tại của con – tin rằng điều kiện bên ngoài có thể hạn chế tăng triển tâm linh của con.

Đại thiên thần Jophiel, con không đi đâu khác,
Khi chân lý tối thượng con vẫn mong chứng đạt,
Thày vui lòng chia sẻ toàn bản thể cùa thày,
Cho con được viễn kiến càng rộng lớn hơn thay.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

Phần 5

5.1. Khi lần đầu tiên con nghe tới phàm linh nội tại, con ở một tầng tâm thức nào đó. Trong tâm vỏ ngoài của con, con đã nhìn các khái niệm này dựa trên tầng tâm thức đó. Thày Nada, xin thày giúp con tiến lên một bước và có cái nhìn cao hơn về các khái niệm này.

Chân sư Nada, cái đẹp quyền năng,
Nở ra như một đóa hoa tuyệt trần.
Chân sư Nada, ôi sao thâm trầm, 
Ý chí chinh phục được cả thời gian. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.2. Phàm linh nội tại được tạo ra từ một tin tưởng nào đó. Sa nhân rất giỏi trong việc cho con gặp phải một điều kiện rất khó khăn trên trái đất. Để đối phó với điều kiện này, con tạo ra một phàm linh nội tại và nó được tạo ra dựa trên một tin tưởng nào đó.

Chân sư Nada, thày là cội nguồn
Minh triết chảy ra như dòng nước cuốn.
Chân sư Nada, tâm thày cường tráng, 
Dâng lên theo cánh bài ca thường hằng. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.3. Con vươn lên trên phàm linh nói rằng con không thể bình an vì điều kiện này hay điều kiện kia có mặt trên trái đất và đáng lẽ nó không được có mặt. Con tách mình ra khỏi phàm linh và con nhận ra đây là một khuôn nếp phản ứng và nó không phải là phản ứng của con. Nó không phải là điều con tin.

Chân sư Nada, hương thơm tuyệt hảo,
Tình thương của thày từ cõi thiên thai.
Chân sư Nada, hiền dịu từ ái, 
Nương cánh tình yêu con vươn lên hoài. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.4. Con nhận ra phàm linh nội tại sẽ không bao giờ vượt được ra ngoài niềm tin đã tạo ra nó.

Chân sư Nada, ánh sáng Mẹ đây,
Như diều phơi phới, tim con bay nhảy.
Chân sư Nada, trong mắt của thày,
Sự sống trinh bạch như hạt sương mai. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.5. Con nhận ra con không thể nào lý luận với tự ngã của con, với các phàm linh nội tại của con, với các ngã tách biệt của con. Con buông bỏ mong muốn tìm ra một luận cứ làm cho phàm linh thấy là nó sai.

Chân sư Nada, thày đem chân lý,
Như chim buổi sáng hát bản tình ca.
Chân sư Nada, bốn thể phàm ngã, 
Tình yêu của thày hàn gắn được cả. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.6. Phàm linh sẽ không bao giờ thấy lập trình của nó có gì sai. Đối với phàm linh ảo tưởng tạo ra nó là sự thật tuyệt đối, không thể sai – và nó sẽ luôn luôn như thế.

Chân sư Nada, yên tâm phục vụ,
Bao nhiêu tình cảm giải hóa sạch rồi.
Chân sư Nada, cuộc đời hứng thú, 
Và đám rối dương* sáng như mặt trời.
(*: solar plexus) 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.7. Con hoàn toàn nhận ra ảo tưởng là ảo tưởng, và do đó, con cho phép phàm linh chết đi. Con cho nó tan biến đi vì con nhận ra: “Phàm linh này không phải là con. Nó đã từng là một phần của con, nhưng con không muốn kéo nó theo con thêm nữa. Con buông bỏ nó.”

Chân sư Nada, tình yêu tự do,
Không còn điều kiện, không còn so đo.
Chân sư Nada, vươn lên buông bỏ
Sắc thái phàm phu tình yêu thấp nhỏ.

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.8. Thày Nada, xin thày giúp con hiểu được trong tâm ý thức những gì con đã hiểu ở tầng bản sắc để nó thấm xuống tâm ý thức của con và con có thể thể nhập nó và hoàn toàn chấp nhận nó.

Chân sư Nada, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Nada, vươn lên rọi sáng, 
Vẻ đẹp thần thánh ôi sao huy hoàng.

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.9. Thày Nada, xin thày giúp con, ở tầng tâm ý thức, nhìn thấu ảo tưởng, buông bỏ phàm linh, buông bỏ cái ngã tách biệt. Con có một thái độ cao hơn về cuộc sống.

Chân sư Nada, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Hoà bình Thượng đế chúng con rải truyền. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

Phần 6

6.1. Con nhận ra con đã có cơ chế chống kháng việc con đang hiện thân trên trái đất vì con cho rằng trái đất hay một số điều kiện nào đó trên trái đất đang hạn chế sự tăng triển tâm linh của con. Con chuyển vọt tâm thức và bây giờ con thấy mọi điều kiện trên trái đất như cơ hội cho con vượt qua một phàm linh nội tại, một cơ cấu nội tại, một khuôn nếp phản ứng.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.2. Con làm điều này ở tầng tâm ý thức, và con thật sự bình an với việc con đang ở đây trên trái đất.

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.3. Con không muốn sống phần còn lại của kiếp sống này mà cảm thấy bực bội, cảm thấy mình không muốn ở đây, cảm thấy mình không muốn gia nhập cuộc sống hay con đường tu tâm linh. Con vươn lên trên phàm linh nội tại đang chống lại việc con đang sống trên trái đất và con cảm thấy bình an sống ở đây.

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.4. Dù trái đất là một hành tinh tối đen, dày đặc và khó khăn, nó cũng là một cơ hội tăng triển lớn lao. Con có tiềm năng tăng triển lớn lao trong quãng đời còn lại. Để thực hiện tiềm năng này, con cần vượt lên trên phàm linh nội tại đang khiến con chống kháng việc con sống ở đây.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.5. Con đã chọn tới đây, con đã chọn ở đây. Vì đây là chọn lựa của con, sự việc con ở đây không phải là một sự trừng phạt. Việc con ở đây không phải là một sự bất công. Con đã chọn cơ hội này vì con thấy đây là cơ hội tăng triển cho riêng cá nhân con – đây là cơ hội tốt nhất con có thể có được dựa trên tầng mức tăng triển tâm linh hiện nay của con.

Chân sư Lanto, chúng con viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.6. Con sẵn sàng bước ra ngoài ý niệm bản sắc bình thường của con và nhìn một cách ý thức vào dòng sống của con như con đã nhìn ở tầng bản sắc. Do đó, con hoàn toàn bình an khi con nhận ra con đã chọn hiện thân trong những điều kiện đặc thù của con vì chúng là cơ hội tối đa cho sự tăng triển của riêng cá nhân con.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.7. Không có điều kiện nào trên trái đất mà tối hậu không thay đổi được. Có một số điều kiện mà con không thay đổi được ngay lúc này, nhưng không có điều kiện nào trên trái đất ngăn cản được con thay đổi chính mình.

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.8. Con sẵn sàng thay đổi chính mình. Con sẵn sàng nhìn vào bất cứ điều kiện nào khiến con bực bội việc con đang hiện thân trên trái đất. Con sẽ đi tìm ảo tưởng và con sẽ tách ra khỏi ảo tưởng và cho phép con cảm thấy: “Vâng, con đang ở đây ngay bây giờ vì con muốn ở đây. Con muốn nâng tâm thức lên cao hơn và con vươn lên cao hơn bằng cách thăng vượt điều kiện đặc thù mà con đang đối mặt ngay bây giờ.”

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, chúng con cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.9. Con thấy điều kiện từ bên ngoài, con tách mình ra khỏi nó, và con nhận ra nó không phải là điều kiện của con (nó chỉ là điều kiện của một phàm linh nội tại). Do đó, con tự do, con bình an là chính mình và bình an hiện thân ở đây.

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu kỹ năng sống không tạo nghiệp (6 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Peace và Aloha và Hercules và Amazonia, Đại thiên thần Uriel và Aurora và Michael và Faith, Chân sư Nada và MORE yêu dấu, hãy giúp con biết cách sống trên trái đất mà không tạo nghiệp. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với thày Nada và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Phụng sự chân chính nâng hành tinh vượt lên trên trạng thái tâm thức nhị nguyên. Để phụng sự được như vậy, con phải bình an bên trong con.

Ôi Elohim Peace, trong Ngọn lửa Kết hợp,
Nhị nguyên không còn chỗ để bày trò cuộc chơi, 
Con biết mọi hình tướng tuôn ra từ một cội,
Con lấy uy lực đó định ra hướng đi mới. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.2. Nguyên nhân chính của xung đột là một trạng thái tâm. Trạng thái tâm này không thể đem lại hòa bình.

Ôi Elohim Peace, hồi chuông đã vang rền,
Khiến từng hạt nguyên tử ca hát và rung lên.
Con nay bỏ lại hết ý niệm ngã riêng biệt
Khi con vượt biển cả của luân hồi trùng điệp. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.3. Con người phóng chiếu năng lượng ra với cả bốn thể phàm của họ, và tất cả các điều đó là điều họ làm, đều là hành động. Tất cả đều tạo ra những khuôn đúc nghiệp quả.

Ôi Elohim Peace, thày hãy giúp con ngộ
Rằng Giê-su giáng thế để ban con Ngọn lửa,
Rải cho ai sẵn lòng rũ hết chuyện ganh đua,
Nhập sự sống bất tận mà theo chân Ki-tô. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.4. Muốn có hòa bình trên thế giới, con người cần ngưng làm. Họ cần ngưng những hành động tạo ra nghiệp.

Ôi Elohim Peace, qua mắt thày con biết
Rằng chỉ trong cái Một con mới mong giải thoát,
Và cũng thấy được rằng chẳng vật gì tách biệt,
Khi cái ngã phàm phu, con buông bỏ đoạn tuyệt. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.5. Không làm không có nghĩa là con không làm gì cả. Con vẫn có thể sống năng hoạt mà tránh không tạo nghiệp.

Ôi Elohim Peace, thày chỉ con lối đi, 
Ngừng đấu đá nhị nguyên, con thông sạch tâm trí,
Thày đâm xuyên ảo giác thời gian lẫn không gian,
Đem Hồng ân Bất tận tiêu hủy mọi phân ly. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.6. Để tránh tạo nghiệp, con không thể hành động thông qua trạng thái tâm thức nhị nguyên, thông qua tâm dựa trên sợ hãi.

Ôi Elohim Peace, tên thày sao đẹp quá,
Nỗi nhị nguyên tủi hổ trong con thày giải tỏa,
Trút gánh nặng sợ hãi, địa cầu được tự do,
Và chào đón thái bình hiển hiện khắp đây đó. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.7. Giê-su tìm cách chỉ cho con con đường phá vỡ những khuôn nếp nghiệp quả, những khuôn đúc nghiệp quả, bằng cách nâng mình cao hơn phản ứng dựa trên sợ hãi.

Ôi Elohim Peace, với Ki-tô bên cạnh,
Không thế lực nhị nguyên nào có thể lẩn tránh,
Chính qua sự rung động của Ngọn lửa Hoàng kim
Mà ảo ảnh sự chết được Ki-tô nhận chìm. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.8. “Hãy thương kẻ thù của con. Hãy chìa má bên kia” là những lời hướng dẫn giúp con ngưng hành động tạo nghiệp ở các tầng vật lý, tình cảm, tư tưởng và bản sắc.

Ôi Elohim Peace, thày đem vào thế giới
Lửa Tái sinh Vũ trụ mà chẳng ai ngăn nổi,
Chúng con từ bỏ hẳn mọi ý niệm “cái tôi”,
Để Ánh sáng của thày trong chúng con chiếu rọi.

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.9. Dù con đã ngừng không có hành động hung hãn nữa, nhưng con vẫn chưa hoàn toàn ngừng làm thông qua tâm thức nhị nguyên, thông qua các thể tình cảm, tư tưởng và bản sắc.

Ôi Elohim Peace, hòa bình con cảm được,
Mọi ký ức chiến tranh thày đã khuây khỏa hết,
Bao thế lực xung khắc, địa cầu đã thăng vượt,
Và phục hồi hành tinh trở về với thanh khiết. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

Phần 2

2.1. Con nhận ra là trước khi con có thể tiến xa hơn tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày Nada, con nhất định cần phải ngừng những hành động nhị nguyên, dựa trên sợ hãi ở các tầng bản sắc, tư tưởng và tình cảm.

Hercules Xanh ngắt, ý chí thày duy nhất,
Trong con còn khoảng trống, thày đổ đầy Lửa Xanh,
Ngọn hải đăng sáng rực, tỏa rạng trên trái đất,
Phục hồi lại sự sống cho tất cả hành tinh.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.2. Chân sư Nada, xin thày giúp con nhận ra sự giận dữ, hung hãn và sợ hãi của con. Con sẵn sàng thấy con có những hành động dựa trên sợ hãi, phóng chiếu ra ngoài năng lượng dựa trên sợ hãi xuyên qua ba thể cao của con.

Hercules Xanh ngắt, thày trí tuệ cao xa,
Tạo cảm giác trong con hiểu biết nơi tất cả.
Nay tâm con rất mới bỗng nhận được khung nền,
Để vượt qua giới hạn của đau đớn nhị nguyên.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.3. Con cần tha thứ vô điều kiện để thực sự tha thứ. Con cần tha thứ vì đây là cách duy nhất để con có thể giải thoát mình khỏi hoàn cảnh.

Hercules Xanh ngắt, với tất cả tình thương,
Con dâng lên Thượng đế, hằng hà lời tán thưởng,
Bây giờ con thấy rõ khi cảm được lửa sáng,
Cái ta cũng thăng vượt như đá hóa thành vàng.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.4. Con không quan tâm đến người khác, điều con quan tâm là con được giải thoát khỏi quá khứ và khuôn nếp phóng chiếu ra ngoài.

Hercules Xanh ngắt, chữa lành muôn sự sống,
Bao bọc quanh tất cả, Xanh ngọn lửa Niêm phong.
Con biết ơn quá đỗi được tự tay góp phần
Trong tác phẩm của Ngài đẹp tinh xảo vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.5. Chân sư Nada, xin thày giúp con nhận ra con đang vùng vẫy chống điều gì đó trên trái đất và điều này khiến con càng lúc càng chìm sâu hơn trong cát lún của nghiệp quả.

Hercules Xanh ngắt, ngôi Đền của Ánh sáng,
Được tỏ lộ cho con lúc dõi nhìn vào trong,
Khi uy lực của thày giục con bước mạnh dạn,
Băng qua bao rặng núi, xuyên qua mọi tấm màn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.6. Con nhận ra là chính sự vùng vẫy của con đã khiến con bị lún sâu. Chân sư Nada, xin thày giúp con ngưng làm ở các tầng tình cảm, tư tưởng và bản sắc.

Hercules Xanh ngắt, con dâng hiến cuộc đời
Giúp cho cả hành tinh vượt tranh chấp loài người,
Khi lọc lừa nhị đối bị ánh sáng chọc thủng,
Trả lại cho trọn vẹn cái nhìn ở thâm cung.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.7. Chân sư Nada, xin thày giúp con giữ hành động, tình cảm, tư tưởng và ý niệm bản sắc của con yên lặng.

Hercules Xanh ngắt, chúng con sẽ cởi xiềng,
Mọi sự sống thoát khỏi vi tế nhất nhị nguyên,
Hoàng tử của trần thế không còn gì để nắm,
Khi con đã cùng thày vượt lên trên hoàn toàn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.8. Chân sư Nada, xin thày giúp con vào trạng thái trung hòa, tức là con chỉ quan sát mà thôi. Con ở trong nhận biết thuần khiết, chỉ quan sát mà không làm gì cả.

Hercules Xanh ngắt, với thày con hợp nhất,
Để con mở tim ra cho thực tại của thày,
Ngọn lửa xanh như điện mở mắt cho con thấy
Rằng sống trong chân thực: khát vọng của con đây.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.9. Chân sư Nada, xin thày giúp con nhận ra cách di chuyển xuyên qua bốn tầng của vũ trụ vật chất trong trạng thái tâm trung hòa. Xin thày giúp con di chuyển mà không làm sự di chuyển.

Hercules Xanh ngắt, nơi nơi thày đổ tràn
Quyền năng vô bờ bến với Hồng ân vô hạn,
Chìa khóa của sáng tạo, chính thày là hiện thân,
Biểu lộ qua ý chí vượt thăng đến Vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

Phần 3

3.1. Còn có thể di chuyển trong bốn thể của con mà không làm, không tranh đấu và do đó không bị chìm sâu.

Đại thiên thần Uriel, với uy lực dũng mãnh,
Các thiên thần hòa bình nuốt trọn hết chiến tranh. 
Bọn quỷ dữ hung hăng không thể nào địch nổi
Ánh sáng đang thiêu chúng, lửa rực lên sáng ngời.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.2. Thế giới vật chất không phải là kẻ thù của con, nó không hạn chế con, nó không có ý định tấn công con.

Đại thiên thần Uriel, âm thanh vang cùng thấu,
Khi hàng triệu thiên thần góp giọng ca hợp tấu, 
Tiếng hát nâng cường độ chọc thủng qua đêm thâu,
Và mọi người bỗng thấy sự duy nhất nhiệm màu.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.3. Con có thể sống trên hành tinh trái đất một đời sống bình thường, năng động mà không tạo nghiệp.

Đại thiên thần Uriel, từ trên Ngai Cao ngất,
Hàng triệu cái kèn đồng vang lên Âm Duy nhất, 
Tan hết mọi bất hòa trong ca khúc hài hòa,
Là âm của mọi âm, đời giải thoát mở ra.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.4. Con có thể sống mà không tạo những dấu vết năng lượng sẽ giới hạn những hành động và chọn lựa tương lai của con.

Đại thiên thần Uriel, mọi chiến tranh chấm dứt,
Khi thày đem thông điệp từ trái tim Duy nhất, 
Hòa bình trong tim người trổi lên thành hợp xướng
Cứ thế lớn thêm mãi trong vòng xoáy yêu thương.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.5 Con nhận ra nhu cầu phải chú tâm để không tạo nghiệp với cả bốn thể năng lượng của con.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình thày vô biên,
Giải vây hành tinh khỏi mọi sinh thể hiếu chiến, 
Chiến tranh là nhà tù mà con đã vượt ngục,
Ôm chầm lấy bình an của đoàn kết chân thực.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.6. Mục đích cao là con ở lại trong thế gian nhưng con ở trong thế gian mà không thuộc về thế gian. Con đi lại và hành động trong thế gian mà không tạo nghiệp cho mình.

Đại thiên thần Uriel, con thỉnh cầu thiết tha,
Thày lộ ra Duy nhất sẽ kết hợp tất cả, 
Giúp con thấy viễn ảnh của hòa bình không xa,
Khi tranh chấp xung đột, chúng con đã buông xả. 

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.7. Khi con làm được điều này, ở lại thế gian hay thăng thiên không còn khác biệt gì nhiều đối với con.

Đại thiên thần Uriel, sự sống thày phụng sự,
Giải vây con thoát khỏi đấu tranh và phân hóa,
Việc quên đi tự ngã đích thực là chìa khóa
Để sống cuộc đời mình cho thật sự thuận hòa.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.8. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra những cảm nhận của con về những giới hạn và dày đặc của cõi vật lý và ngay cả bốn cõi của trái đất. Xin thày giúp con nhận ra phản ứng của con khi ở đây.

Đại thiên thần Uriel, địa cầu nâng tâm thức,
Khỏi mây mù nhị nguyên chỉ đem đến tiêu diệt,
Lửa Hòa bình của thày, con thỉnh cầu tha thiết,
Ra lệnh cho tranh cãi nhỏ mọn phải dứt tuyệt.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

3.9. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra con có thể vượt lên trên những cảm nhận này. Con có thể sống trong thế gian với tâm bình an vì con có thể đi lại trong thế gian này mà không tạo nghiệp.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình là chuyện thường
Khi địa cầu hưởng ứng một viễn kiến cao hơn,
Hòa bình ở bên trong, người mở tâm rộng lớn,
Thì Thời đại Hoàng kim sẽ là phần giải thưởng.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

Phần 4

4.1. Điều này không có nghĩa là con không thể hành động. Con có thể hành động mà không tạo nghiệp cho mình vì con hành động từ một trạng thái tâm thức cao hơn.

Đại thiên thần Michael, trong ngọn lửa xanh ngắt,
Không còn bao đêm tối mà chỉ thày có mặt.
Trong hợp nhất với thày, con đã ngập ánh sáng,
Cảnh rực rỡ nhiệm màu hiện ra ngay trước mắt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.2. Con sẵn sàng chuyển hóa tâm thức và suy ngẫm là đi lại trong thế gian mà không tạo nghiệp là điều có thể làm được.

Đại thiên thần Michael, thày cho con che chở,
Sau tấm khiên màu xanh con được sống muôn thuở.
Niêm con khỏi hồn bóng đang lang thang đêm tối,
Con ở trong cõi thày, rực sáng màu xanh tươi.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.3. Sa nhân không bỏ cuộc chỉ vì con tìm thấy con đường tâm linh và giáo lý chân sư thăng thiên.

Đại thiên thần Michael, thày đem bao uy lực,
Mà hàng triệu thiên thần sẽ ca ngợi công đức.
Thiêu đốt muôn loài quỷ của nghi ngờ sợ hãi,
Con biết thày Có Mặt ở bên con hoài hoài. 

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.4. Sa nhân không bỏ cuộc khi con khám phá ra khóa học này và quyết định tận tụy theo học hết khóa.

Đại thiên thần Michael, ý Thượng đế thày yêu,
Từ Trên thày đem xuống ánh sáng của thiên triều.
Thượng đế chỉ muốn thấy mọi sự sống chuyển vọt,
Vươn cao trên bản ngã là quyền linh chót vót.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.5. Sa nhân sẽ tìm cách kéo con trật đường rày ở mỗi tầng cấp của con đường.

Đại thiên thần Michael, là bạn thân con đó,
Bao cạm bẫy thế gian, thày dang tay phù hộ.
Ác quỷ không thể sánh được quyền năng ánh sáng,
Nên linh hồn tất cả được bay bổng thênh thang.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.6. Một trong những cách tinh tế họ dùng để làm con trật đường rày là họ nêu lên sự kiện con có một Sứ vụ Thiêng liêng và con có mặt ở đây để đem lại những thay đổi tích cực trên trái đất.

Đại thiên thần Michael, như bày trẻ đùa chơi,
Chúng con dìu trái đất thức dậy trong ngày mới,
Nâng địa cầu ra khỏi lề lối đã ăn sâu,
Cho câu chuyện hành tinh được kể lại từ đầu.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.7. Sa nhân sẽ tìm cách pha màu tâm của con với tâm thức rất cũ xưa cho rằng con phải làm một điều gì đó trên trái đất.

Đại thiên thần Michael, Thượng đế tỏ quyền năng,
Mà chúng con biết thày không ai thể chiến thắng,
Thày không còn tách biệt nên vượt qua chắc chắn,
Mọi mưu mô hung tợn và thâm độc của rắn.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.8. Nhiều học viên tâm linh thấy có nhiều chuyện không đúng trên trái đất cần phải thay đổi. Họ bị các sa nhân cám dỗ khiến họ tin rằng vai trò của họ là làm điều gì đó, thay đổi chuyện gì đó.

Đại thiên thần Michael, thày đến nâng địa cầu,
Để khắp nơi khắp chốn được tái sinh cùng thấu,
Để tâm của tập thể cùng đi lên một lượt,
Cho chúng con vui mừng mà ngợi ca không ngớt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.9. Nhiều học viên đã lao mình vào một cuộc thánh chiến hay chiến dịch để triệt tiêu một vấn nạn nào đó.

Đại thiên thần Michael, trái đất nay đổi mới,
Lửa xanh dương bao phủ giống như hạt sương rơi,
Hành tinh nay lóng lánh giữa không gian rộng lớn,
Để chúng con hứng lấy những hồng ân vô tận.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

Phần 5

5.1. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra là trong Sứ vụ Thiêng liêng của con có phần hành động và tham gia vào một khía cạnh nào đó của cuộc sống.

Chân sư Nada, cái đẹp quyền năng,
Nở ra như một đóa hoa tuyệt trần.
Chân sư Nada, ôi sao thâm trầm, 
Ý chí chinh phục được cả thời gian. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.2. Thày Nada, xin thày giúp con tránh thực thi Sứ vụ Thiêng liêng trong trạng thái tâm muốn làm, rồi hành động theo nhãn quan nhị nguyên dựa trên sợ hãi.

Chân sư Nada, thày là cội nguồn
Minh triết chảy ra như dòng nước cuốn.
Chân sư Nada, tâm thày cường tráng, 
Dâng lên theo cánh bài ca thường hằng. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.3. Con không thể hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con nếu con ở trong tầng tâm thức nhị nguyên.

Chân sư Nada, hương thơm tuyệt hảo,
Tình thương của thày từ cõi thiên thai.
Chân sư Nada, hiền dịu từ ái, 
Nương cánh tình yêu con vươn lên hoài. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.4. Con nhận ra là sa nhân rất quỷ quyệt khi thiết lập ý tưởng là con cần làm.

Chân sư Nada, ánh sáng Mẹ đây,
Như diều phơi phới, tim con bay nhảy.
Chân sư Nada, trong mắt của thày,
Sự sống trinh bạch như hạt sương mai. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.5. Con sẵn sàng xem xét liệu con có quá chú tâm làm điều gì đó trong thế giới bên ngoài và điều này ngăn cản con tiến hơn trên con đường đưa tới quả vị Ki-tô.

Chân sư Nada, thày đem chân lý,
Như chim buổi sáng hát bản tình ca.
Chân sư Nada, bốn thể phàm ngã, 
Tình yêu của thày hàn gắn được cả. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.6. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra khi con chú tâm làm điều gì đó với tầng viễn kiến, tầng nhận thức mà con có hiện nay.

Chân sư Nada, yên tâm phục vụ,
Bao nhiêu tình cảm giải hóa sạch rồi.
Chân sư Nada, cuộc đời hứng thú, 
Và đám rối dương* sáng như mặt trời.
(*: solar plexus) 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.7. Con mở tâm đón nhận khả năng nhận một viễn kiến cao hơn, qua đó con sẽ làm điều gì đó, nhưng con sẽ làm dựa trên một khuôn khổ và nền tảng hoàn toàn khác.

Chân sư Nada, tình yêu tự do,
Không còn điều kiện, không còn so đo.
Chân sư Nada, vươn lên buông bỏ
Sắc thái phàm phu tình yêu thấp nhỏ.

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.8. Nhiều học viên tâm linh có ý niệm đúng đắn điều gì cần làm, nhưng họ lại không có viễn kiến rõ ràng làm như thế nào.

Chân sư Nada, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Nada, vươn lên rọi sáng, 
Vẻ đẹp thần thánh ôi sao huy hoàng.

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

5.9. Con nhận ra con không thể hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình với tầng tâm thức và nhận thức hiện nay của con.

Chân sư Nada, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Hoà bình Thượng đế chúng con rải truyền. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

Phần 6

6.1. Thày Nada, xin thày giúp con bước lui ra khỏi cách nhìn hiện nay của con về cuộc sống, về hành tinh, và chính mình.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.2. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra con có thể làm điều gì đó trên trái đất, con có thể đi lại trong bốn tầng của vật chất mà không tạo nghiệp.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.3. Con sẽ không hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng nếu con tạo thêm nghiệp cho chính mình.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.4. Con nhìn thấu gian kế của sa nhân là cứu cánh biện minh cho phương tiện. Con nhận ra không đáng cho con tạo nghiệp để hoàn thành một mục tiêu cuồng đại.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.5. Con nhận ra toàn thể tâm thức cuồng đại do sa nhân tạo dựng và không liên quan gì tới mục tiêu của các chân sư thăng thiên.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.6. Con nhận ra đã tới lúc, trong sự phát triển cá nhân của mình và của hành tinh, đã tới lúc vượt lên trên tranh đấu nhị nguyên, và bỏ nó lại đằng sau.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.7. Thày Nada, xin thày giúp con nhận ra con có thể hiện thân trong thân vật lý, con có thể hành động và có một cuộc sống năng động, mà không cần làm thông qua tư duy cuồng đại, không cần làm với một xung lực nhị nguyên tạo nghiệp cho con.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.8. Thày Nada, xin thày giúp con hội nhập nhận thức là các chân sư thăng thiên không chú tâm vào việc đạt được một kết quả vỏ ngoài đặc trưng nào đó trên hành tinh này.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.9. Các thày chỉ chú tâm vào việc nâng cao tâm thức tập thể, nhưng đối với cá nhân con, chú tâm thật của con là nâng cao tâm thức của con. Ở tầng này của con đường tu của con, con không quan tâm vào việc đạt được một mục tiêu vỏ ngoài trong thế giới này.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

13 | Nắm bắt bản chất cách mạng của từ bi

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Quan Âm qua trung gian Kim Michaels ngày 2/12/2018, nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Quan Âm, và như con cũng biết, thày là chân sư cầm giữ Ngọn lửa Từ bi cho trái đất. Con yêu dấu, từ bi là gì? À, có một cái nhìn thế gian về từ bi và có một cái nhìn thăng thiên về từ bi. Hiển nhiên mục đích của thày là cho con một sự thưởng thức, một trải nghiệm về cái nhìn thăng thiên. Trước tiên chúng ta hãy xem cái nhìn thế gian. Quá nhiều lần con đã chứng kiến một tình huống, chẳng hạn có kẻ xâm lược đến chiếm đóng một ngôi làng và họ sắp sửa sát hại một người, và người đó nói: “Xin ông thương tôi.” Thế thì lòng từ bi được coi là sự kiện con không giết người đó. Người ta xem đó là từ bi. Bây giờ thày là một chân sư thăng thiên sẽ nhìn lòng từ bi như thế nào?

13.1. Hình thức phi từ bi to lớn nhất

Vậy đâu là sự phi từ bi vĩ đại nhất, sự thiếu từ bi to lớn nhất trên một hành tinh phi tự nhiên như địa cầu? Đây là một điều mà hầu hết mọi người chưa bao giờ xét đến. Các con đây có thể hiểu được điều này vì các thày đã cho con tất cả bối cảnh – các thày đã cho con rồi đó – nhưng một người trung bình sẽ không có cả từ vựng để mà hiểu được. Các thày đã nói gì với con trong các lời dạy trao truyền kể từ quyển sách Các kiếp của tôi cùng quyển sách về chấn thương nhập đời? Các thày đã nói con là một sinh thể vô hình tướng. Con đã đi xuống một thế giới hình tướng. Con đã lấy nhiều quyết định và các quyết định này đã dẫn đến hậu quả vật lý. Trong trạng thái lý tưởng – con yêu dấu, con hãy nghe thật kỹ – trong trạng thái lý tưởng như một người đồng sáng tạo, ngay cả trên một hành tinh phi tự nhiên, con phải có thể đồng sáng tạo nhưng tạo vật của con không quy định được con.

Con tạo ra một cái gì có một độ bền bỉ nào đó trong thời gian lẫn không gian. Con tạo ra một cái gì sẽ kéo dài. Nó không chỉ xuất hiện một giây rồi biến mất. Nó tồn tại trong thời gian nhưng dẫu vậy, cho dù con đã tạo ra nó, nó đúng lý không quy định được con. Con đúng lý vẫn là một sinh thể vô hình tướng. Nhưng tất nhiên chuyện gì xảy ra trên trái đất? Thày không nói điều này để chê trách bất cứ ai mà thày chỉ trình bày sự việc xảy ra như thế nào trên một hành tinh phi tự nhiên. Việc xảy ra trên trái đất là khi con tạo ra điều gì có một độ bền bỉ nào đó, con bắt đầu tự nhận diện dựa theo cái con đã tạo ra. Điều cũng xảy ra là những người khác cũng bắt đầu nhận diện con dựa theo cái đó.

Tất nhiên toàn bộ vấn đề này khởi sự với sa nhân, chúng biết rất rõ là khi một avatar đi xuống địa cầu, con đi xuống tầng tâm thức thứ 48 cho nên con không có quả vị Ki-tô trọn vẹn. Vì vậy con sẽ lấy một số quyết định, con sẽ tạo ra một số điều không phải là cao nhất. Xong chúng lập ra chuẩn mực về đúng và sai, về toàn hảo và tồi tệ, để chúng có thể dễ dàng chê con là bất cứ gì con đồng sáng tạo cũng không đủ tốt, không toàn hảo và sai trái dựa theo tiêu chuẩn. Xong chúng hung hãn dùng lý cớ này để áp đặt lên con ý tưởng là chính bản thân con có gì không ổn. Nếu tạo vật của con dở thì có nghĩa là chính con cũng dở. Cho nên con dần dần bắt đầu phản ứng lại sự tấn công vô cùng hung dữ này bằng cách tạo ra những cái ngã tách biệt kia. Các ngã tách biệt đó là ngã phản ứng, chúng được tạo ra để đáp lại một điều kiện nhất định có sự bền bỉ trong thời gian và không gian. Con đã tạo ra một cái gì, rồi con bị chỉ trích hay nhục mạ vì cái đó. Và con phản ứng lại bằng cách tạo ra một cái ngã và ngã này cũng có sự bền bỉ. Khi con nhận chịu chấn thương nhập đời, như các thày đã có giảng, thế là bỗng nhiên mọi chuyện trở thành chuyện cá nhân, hay ít ra cuộc sống trên trái đất trở thành chuyện cá nhân đối với con. Con xem sự tấn công của sa nhân là một tấn công cá nhân nhắm vào con.

Vậy phi từ bi là gì? Thế nào là đối nghịch của từ bi? Đó là khi bất cứ ai, cho dù là con hay một người khác, cầm giữ trong tâm họ một hình ảnh cố định về con như một sinh thể vô hình tướng. Người đó lấy một hình ảnh có hình tướng, phóng chiếu lên con là một sinh thể vô hình tướng và nói: “Bạn là thế này này.” Họ làm đông đặc một hình ảnh của Dòng sông sự Sống. Họ lấy một hình chụp của Dòng sông sự Sống và nói: “Dòng sông như thế này này. Người ta có thể biết tất cả về dòng sông bằng cách nhìn vào tấm hình tĩnh vật này.” Đây là điều họ làm với con. Đây là điều chính con làm với con. Đây là phi từ bi. Cho nên từ bi là gì chứ? Là khi con nhận biết có một hình ảnh cố định về một sinh thể vô hình tướng, cho dù là con hay một người khác, xong con chỉ đơn giản nhả ra cho nó đi. Như Chân sư MORE đã mô tả, khi con nhìn một hình ảnh về một sự việc trong quá khứ, con có thể buông nó ra, con có thể gạt bay nó đi, con có thể từ bỏ nó, rũ bỏ nó. Đấy là từ bi.

13.2. Những đệ tử của chân sư bị kẹt lại

Về điểm này, chúng ta hãy lấy một hướng hơi khác và bàn về các đệ tử của chân sư thăng thiên. Có những người đã đến với giáo lý của chân sư, và khi họ tìm thấy giáo lý, tất nhiên là họ ở một tầng tâm thức nào đó – chuyện này không thể tránh được như con cũng hiểu. Họ có một tâm lý nào đó, họ có một số ngã tách biệt và họ đến với giáo lý của chân sư xuyên qua tầng tâm thức của họ vào lúc đó. Không ai đã làm gì khác hơn. Không có gì sai trái và cũng không có trách móc vì chuyện này đơn giản không thể tránh được. Con tìm thấy giáo lý ở một thời điểm, con nhìn giáo lý theo một cách nào đó, qua tâm thức con đang có và các ngã tách biệt con đang có.

Việc xảy ra cho một số đệ tử của chân sư thăng thiên – không phải tất cả, cũng không phải đa số, nhưng một số – là họ hình thành một quan điểm và một niềm tin rất mạnh mẽ về các thày, về giáo lý của các thày và về chính họ như một đệ tử. Họ làm vậy vì họ có một ngã tách biệt với một nhu cầu nhất định. Có thể là nhu cầu cảm thấy mình tốt đủ, mình không đến nỗi tệ, hay có thể một nhu cầu cảm thấy mình cao trội. Đặc biệt có một nhóm đệ tử có nhu cầu cảm thấy cao trội hơn người hay không chê vào đâu được, rằng mình hiểu biết những chuyện mà người khác không hiểu nổi. Khi họ tìm thấy giáo lý, họ dựng lên một hình ảnh về họ là đệ tử cao cấp, nhưng đó là một ngã tách biệt đang tạo dựng và cầm giữ hình ảnh này.

Bây giờ vấn đề là: Liệu các đệ tử này sau khi học và áp dụng giáo lý được một thời gian, có thể nào khắc phục ngã tách biệt đó hay không? Một số sẽ có thể, và như vậy họ sẽ bước tới và tăng triển. Còn một số khác, con yêu dấu, sẽ không thể hay không muốn, cho nên mặc dù họ đã học và áp dụng giáo lý và đã có tiến bộ trong những cách khác, thì trong họ vẫn còn cái ngã ban đầu đã khiến họ hình thành cái nhìn kia về bản thân và về giáo lý. Ngã này, họ chưa đụng đến. Cho dù họ đã học và áp dụng giáo lý hàng 30, 40 năm, có những đệ tử vẫn chưa đụng đến cái ngã tách biệt ban đầu này. Họ chưa bắt đầu nhìn ra đó là một ngã tách biệt. Họ tin chắc rằng cách họ nhìn các chân sư, con đường tâm linh cùng bản thân họ là cái nhìn tối hậu. Họ không cần thay đổi cái nhìn này.

Các thày có thể làm gì với những đệ tử như vậy? Theo một nghĩa nào đó, các thày không làm gì cả vì các thày không thể chạm được họ. Điều các thày làm là nói: “Bây giờ đã đến lúc đưa ra một tầng cấp giáo lý cao hơn, vì có một số tới hạn những đệ tử đã sẵn sàng nhận được.” Điều thường xảy ra sau đó là đối với những đệ tử xem mình là cao cấp, cái nhìn nguyên thủy của họ về các chân sư, về giáo lý và về chính họ sẽ bị giáo lý mới thách thức. Một số giờ đây có thể thấy được điều này, họ thấy là cái nhìn cố hữu của họ chỉ xuất phát từ một ngã tách biệt và họ có thể buông nó ra. Nhưng một số khác không sẵn lòng làm vậy, họ không sẵn lòng chất vấn hình ảnh mình là đệ tử cao trội, mình nắm chắc đường tu trong tay, mình biết rõ đường tu là gì và một đệ tử phải như thế nào. Trong nhiều trường hợp, những người này sẽ bác bỏ giáo lý mới. Rất nhiều lần trong quá khứ, các thày đã đỡ đầu một tổ chức trong một thời gian, xong đã rút lại sự đỡ đầu và ngừng trao thêm tiết lộ tuần tự cho phong trào đó. Khi các thày khởi sự một phong trào mới, một số đệ tử của phong trào cũ đã đi theo, nhưng những ai tự xem mình là giỏi giang và cao cấp nhất thì lại không theo, vì phong trào mới hơi khác lạ cho nên nó thách thức cái nhìn của họ về đường tu.

Điều này tất nhiên có thể xảy ra ngay cả trong một tổ chức như vừa xảy ra gần đây cho một số người khi các thày ban truyền giáo lý mới về ngã gốc và ngã tách biệt cùng quyển sách Các kiếp của tôi. Tại sao thày lại đề cập đến chuyện này? À, bởi vì các đệ tử đó chính là một ví dụ về sự phi từ bi. Họ đã không neo chặt vào Ngọn lửa Từ bi. Nếu con thực sự nắm bắt được từ bi là gì, con sẽ nhận ra con đường tâm linh, con Đường Quả vị Ki-tô, là một tiến trình đi qua mấy giai đọan. Khi con từ bi với bản thân và với người khác, con nhận ra là những gì áp dụng cho một giai đoạn chỉ được trao truyền để đưa con đến một tầng nào đó của đường tu. Khi con đạt đến tầng này, thách thức của con là bước lên một tầng cấp mới, và như các thày đã giảng, con không thể vươn lên tầng mới bằng cách tiếp tục làm giống như tầng cũ.

13.3. Từ bi với chính mình

Con đang ở một tầng nào đó trên đường tu. Những gì con đã làm để đạt đến điểm này hoàn toàn có giá trị, nhưng những gì đã đưa con đến đây không thể đưa con đi xa hơn. Nếu con không có lòng từ bi, con sẽ có xu hướng bám giữ một cái nhìn cố định về đường tu, về các chân sư, về chính con. Con sẽ thấy là rất rất nhiều đệ tử suốt các thời đại đã nhìn vào một đợt truyền pháp mới và tìm thấy một điểm nào đó mà họ có thể chỉ ngón tay: “Ồ, chân sư sẽ không bao giờ nói điều này. Chân sư sẽ không bao giờ diễn đạt theo kiểu đó, chân sư sẽ không bao giờ nói về các đề tài đó,” toàn những chuyện như vậy. Đây thật sự là một biểu hiện của lòng phi từ bi.

Nhưng liệu thày có nói điều này vì thày muốn mọi người đầu thai có lòng từ bi với các chân sư thăng thiên? Dĩ nhiên là không! Thày không cần đến lòng từ bi của con. Chính con mới cần đến lòng từ bi của con, vì các đệ tử kia làm gì chứ? Họ đang giam họ lại trong một hình ảnh cố định về chính họ. Cho nên họ không đang từ bi với chính họ. Hơn nữa, họ cũng thường không từ bi với các đệ tử khác. Họ trở nên rất xét đoán với các đệ tử đã bước đi tiếp, chẳng hạn. Có lẽ họ sẽ cố thuyết phục, hay hù doạ để các đệ tử này không nên bước đi tiếp, bằng đủ loại mưu chước dọa dẫm rằng giáo lý mới là sai lầm, là giả trá, là không phải chân sư và vân vân.

Ở đây có một tư duy vô cùng cứng nhắc len lỏi vào, và sự cứng nhắc này trong tư duy thiếu hẳn lòng từ bi. Con thử nhìn các tín đồ Cơ đốc cực chính thống mà xem, họ mang tư duy rất cứng nhắc rằng Kinh thánh là lời của Thượng đế và họ không cần gì khác hơn để được cứu rỗi. Đây là một biểu hiện khá cùng cực của lòng phi từ bi. Thày biết là hầu hết mọi người chưa bao giờ nhìn vấn đề này theo cách đó, nhưng đây là sự thật. Họ hoàn toàn thiếu từ bi đối với chính họ và những ai họ phán xét.

Con đây, con là đệ tử của chân sư thăng thiên thì hiển nhiên con có khả năng bước lên cao hơn vậy. Con đã mở tâm ra với giáo lý của các thày về ngã gốc, chấn thương nhập đời và tất cả các ngã tách biệt kia, thì con có thể dùng điều này để nói: “Con sẽ cần kinh qua những gì ở đây?” Thày vừa đề cập đến các đệ tử kia như một ví dụ mà thôi. Con không cần dính mắc chuyện đó, con không cần cố thuyết phục họ chút nào, mà con chỉ cần nhìn vào bản thân và nói: “Liệu tôi có mang một yếu tố phi từ bi nào đối với chính mình, hay thậm chí đối với cái nhìn của mình về người khác? Liệu tôi có xu hướng bám giữ một hình ảnh cố định về bản thân, về đường tu hay về các chân sư?” Giê-su đã giảng về cách vận hành của con trong liên hệ với các thày, nhưng quan trọng hơn, con cần hỏi: “Tôi nhìn chính tôi như thế nào?”

Điều thày muốn dẫn con đến là sự công nhận rằng đường tu tâm linh, con đường quả vị Ki-tô, có những giai đoạn riêng biệt, những thời kỳ riêng biệt. Có nghĩa là con, như một đệ tử của chân sư thăng thiên, không thể cho phép mình cầm giữ hình ảnh trong tâm rằng: “Tôi đã nắm được căn bản của đường tu. Nó bảo tôi phải làm thế này thì tôi cứ việc làm tiếp như thế cho đến hết kiếp và tôi sẽ tiến bộ tối đa.” Nhưng đơn giản là không phải vậy. Sẽ tới một điểm khi những gì con đã từng làm cho đến giờ sẽ không đưa con vào giai đoạn kế tiếp. Cho nên con cần đủ linh hoạt uyển chuyển để sẵn lòng buông bỏ hình ảnh đó về người đệ tử và về đường tu, và con nói: “Tôi thực sự cần gì để tăng triển lên giai đoạn kế tiếp?”   

Con thấy đó, con yêu dấu, có những đệ tử sẽ nhìn vào bất cứ gì mới mà các thày truyền dạy và xét đoán nó trên căn bản các lời dạy trước đó. Chẳng hạn có những đệ tử sẽ nhìn vào một đợt truyền pháp mới, so sánh với giáo lý của đợt truyền pháp trước và bảo: “Ồ cái mới này không thể nào đúng được vì nó mâu thuẫn hay nó đi xa hơn cái cũ.” Con yêu dấu, con tỉnh giấc đi nhé! Sẽ ích lợi gì mà khởi sự một đợt truyền pháp mới nếu nó không đưa ra được gì vượt khỏi cái cũ? Con hãy nhận rõ là xu hướng này có mặt.

13.4. Những cái bẫy để đánh bẫy đệ tử tâm linh  

Điểm này cho phép thày dẫn con đến một chủ đề mà thày thật muốn nói đến, đó là khi con bắt đầu giáp mặt với những vấn đề sâu thẳm của chấn thương nhập đời, của ngã gốc – cùng các ngã tách biệt kia mà con đã tạo ra ngay ở đầu thời gian sinh sống trên trái đất – con cần nhìn ra là sa nhân đã rất khéo léo gài bẫy các đệ tử tâm linh, đặc biệt là avatar. Chúng nghĩ: “Làm thế nào chúng ta có thể đánh bẫy khiến cho một avatar bám giữ một hình ảnh về chính họ sẽ ngăn cản họ thể hiện quả vị Ki-tô?” Và chúng đã tạo ra cái gần như có thể gọi là những cỗ máy nhằm mục đích đánh bẫy con người, không chỉ các avatar nhưng chủ yếu là avatar vì avatar là mối đe dọa lớn nhất cho sa nhân.

Tới một giai đoạn khi thỉnh thoảng con phải có biện pháp để khắc phục một ngã tách biệt nào đó, có vẻ như biện pháp con phải lấy rất khác với cách nhìn cố hữu của con về đường tu. Có vẻ như biện pháp này gần như cách mạng so với những gì con đã làm trước đó. Và điểm này dẫn thày đến chủ đề làm thế nào con có thể thoát khỏi những lỗi lầm mà con nghĩ con đã phạm phải trong quá khứ. Nếu con đã đến đây như một avatar – thật không thành vấn đề nếu con đã hứng chịu cùng loại chấn thương được mô tả trong sách Các kiếp của tôi hay không, vì một số trong các con đã sống qua những hoàn cảnh khác – nhưng tất cả các con trong tư cách là avatar đều đã có một thời điểm cảm thấy mình sai lầm khi mình đến hành tinh này. Điều này dựa trên trải nghiệm là tất cả những gì con làm hay đem lại, theo cách diễn đạt của Nada, đều đã bị sa nhân “đập dí xuống” và quy ghép là sai lầm. Bất cứ gì con làm đều không ổn, và chính con cũng không ổn. Nếu bất cứ gì con làm đều sai trái thì bản thân con phải sai trái. Đây là khẩu hiệu của sa nhân.

Con yêu dấu, con phải làm gì để khắc phục ngã tách biệt này? Đây là khi con cần linh hoạt uyển chuyển. Lẽ tự nhiên, các thày đã dạy là con cần nhận lãnh trách nhiệm về bản thân mình, về đường tu của mình, về sự phát triển của mình, vân vân. Điều thày sắp nói tiếp theo đây sẽ có vẻ đi ngược lại lời dạy đó từ một nhãn quan đường thẳng.

13.5. Hãy ngừng nhận trách nhiệm về bất cứ gì

Thật ra bây giờ thày bảo con cần ngừng nhận trách nhiệm về bất cứ việc gì con đã từng làm trên trái đất. Tại sao thày lại nói vậy? Con yêu dấu, bởi vì sa nhân đã khuynh đảo để con tạo ra một ngã tách biệt khiến con cảm thấy chính con đã làm gì sai trái. Nhưng các thày đã dạy con điều gì?

Con là ai chứ? Con là cái Ta Biết. Con là một sinh thể vô hình tướng. Con có quyền đi xuống địa cầu. Con khoác vào hình tướng của bốn thể phàm của con, con đi xuống tầng tâm thức thứ 48. Con hành xử dựa trên tầng này, con nhận được hồi đáp, xong trong kịch bản lý tưởng con tăng triển lên tầng 49. Con tăng triển lên tầng 50 và cứ như vậy con tăng triển cho đến khi con lại nhận biết: “Tôi là một sinh thể vô hình tướng. Hình tướng không quy định được tôi.” Đây là tiến trình các thày đã gọi là sự trầm mình và sự thức tỉnh. Điều sa nhân đã thành công làm được đối với nhiều các con là chúng đã cưỡng bức con tạo ra cái ngã tách biệt giờ đây cầm giữ một hình ảnh cố định về chính con – rằng con không phải là một sinh thể vô hình tướng mà là một sinh thể mang một hình tướng đặc thù, và hình tướng này thì sai trái dựa theo một tiêu chuẩn nào đó. Đối với nhiều các con, ngã này đã có mặt ngay từ kiếp hiện thân đầu tiên hay một trong những kiếp đầu tiên sau khi con đến trái đất. Ngã này con đã kéo lê theo con suốt một thời gian rất rất dài, và ngã này là một trong những yếu tố chủ yếu ngăn con vươn lên một tầng mức quả vị Ki-tô nào đó. Con không thể vươn lên quá mức này trên đường tu chừng nào con còn kéo lê nó theo con.

Con phải làm gì để khắc phục ngã này? À, đây là điều thày đề nghị con cân nhắc: Tại sao con đã làm bất cứ gì trên trái đất? Khi con đi xuống tầng 48, các thày có giảng là con khoác vào tất cả những ảo tưởng kia giống như những tấm màn mà con trùm vào. Con nhìn cuộc sống xuyên qua những tấm màn này đang bóp méo và tô màu tầm nhìn của con. Tại sao con làm điều con đã làm? Có phải là con, cái Ta Biết xem mình như một sinh thể vô hình tướng, làm những điều con đã làm? Không đâu! Con, cái Ta Biết làm những gì con đã làm không phải trong nhãn quan mình là một sinh thể vô hình tướng, mà trong nhãn quan mình là một sinh thể có hình tướng dựa trên các ảo tưởng con đã khoác vào. Đó có thực là con, có là con người thực của con, có là sinh thể vô hình tướng, hay đó là một ngã tách biệt con đã tạo ra để đi xuống cõi hiện thân vật lý?

Con có thấy ý thày muốn nói ở đây chăng? Các thày có giảng là con nhận chịu chấn thương nhập đời và sau đó con tạo ra ngã gốc, nhưng ngay cả để đi xuống tầng 48 và hiện thân, con đã phải tạo ra những ngã tách biệt đó, cái cỗ xe linh hồn đó, bốn thể phàm đó của con, đặc biệt là ba thể cao của con. Điều thày cố giúp con nhìn ra ở đây là sẽ tới một điểm trên đường tu tâm linh con cần đương đầu với vấn đề này.

Tất nhiên là con không thể làm vậy ở những tầng thấp hơn. Một đệ tử mới của chân sư thăng thiên không thể sẵn sàng nhận giáo lý này trừ khi con đã được chuẩn bị trong các kiếp trước. Hầu hết mọi người sẽ không sẵn sàng cho giáo lý này trong một khoảng thời gian, nhưng sẽ tới một điểm con phải bắt đầu suy nghiệm và nhận ra: “Nếu tôi thực là cái Ta Biết, nếu tôi thực là một sinh thể vô hình tướng, thì tôi không phải là bất kỳ ngã tách biệt nào của tôi. Tôi đã chỉ đồng hóa là ngã tách biệt mà thôi, vì tôi đã chui vào trong ngã và nhìn xuyên qua phin lọc đó. Giờ đây tôi bắt đầu cảm nhận mình là một sinh thể vô hình tướng thì đã đến lúc tôi bước lui lại và nói: “Phải, tôi đã hành động khi tôi mới đến địa cầu. Tôi đã hành xử hoàn toàn trong sáng với ý định tốt đẹp nhất để giúp đỡ người khác. Tôi đã bị những cú giáng tàn bạo của sa nhân và tôi đã phản ứng bằng cách tạo ra ngã tách biệt này, nó cảm thấy là tôi sai trái hay đã sai lầm khi đến hành tinh này, hay cho dù tôi tự biểu hiện thế nào trên hành tinh này thì điều đó cũng sai lầm! Chính tôi đã thiết kế ngã này, và sau khi tôi tạo ra nó, tôi đã bắt đầu lấy quyết định xuyên qua nó.”

Đây là điều mà Mẹ Mary đã phần nào gọi là những quyết định tránh né. Người ta đã cho con cảm tưởng là con sai lầm khi con biểu đạt con người thực của con. Và con quyết định: “Tôi không thể biểu hiện con người thực của tôi,” cho nên con đã bắt đầu lấy tất cả những quyết định kia để tránh bị sai lầm thêm một lần nữa. Giống như thể mục đích toàn bộ của con – hay ít ra mục đích toàn bộ của ngã này – là mình sẽ không sai lầm nữa, cho nên con đã dựa vào đó để quyết định. Vậy con có thể tự nhủ: “Phải, tôi đã làm một chuyện sai lầm .” Đó có thể là chuyện gì trong kiếp này, hay nếu con nhận ra đó là một chuyện trong tiền kiếp, con nói: “Phải, tôi đã làm chuyện đó. Từ một góc cạnh thường tình thì tôi đã làm chuyện đó, nhưng từ một nhãn quan cao hơn, có thực là tôi đã làm hay không? Có phải là tôi, sinh thể vô hình tướng, đã làm chuyện này hay kỳ thực là một ngã tách biệt đã quyết định làm vậy? Ai đã làm, tôi hay ngã tách biệt?”

Khi con bắt đầu suy ngẫm, hay dù con chỉ đặt ra câu hỏi như vậy, thì con cũng bắt đầu tách mình ra khỏi ngã tách biệt đó. Con tách cái Ta của con ra khỏi ngã tách biệt. Sau khi con làm vậy, con có thể ngộ ra: “Tôi không là ngã tách biệt đó, tôi là nhiều hơn, tôi là một sinh thể vô hình tướng.” Con có thể chợt thoáng trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết này, là cảm nhận mình đang ý thức nhưng mình không ý thức về chính mình như một sinh thể đặc thù hay về một tình huống đặc thù. Xong con ngộ ra: “Tôi không phải là ngã tách biệt. Ừ nhỉ, nếu tôi không là ngã tách biệt thì đương nhiên tôi cũng không làm những gì ngã tách biệt đã làm.” Nếu chính con không làm những gì ngã tách biệt đã làm thì tại sao con lại cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm? Tại sao con phải cảm thấy là mình trách nhiệm chuyện đó?

13.6. Con có thể gỡ bỏ những gì mình đã làm không?

Con thấy không, điều sa nhân muốn con cảm thấy là con đã phạm phải lỗi lầm khủng khiếp kia trong quá khứ và điều này chứng tỏ là con xấu xa. Con sẽ xấu xa mãi mãi, xấu xa vĩnh viễn vì con sẽ không bao giờ vượt qua được. Con sẽ không bao giờ tháo gỡ được những gì con đã làm trong quá khứ. Điều này chứng tỏ là con xấu và con sẽ xấu mãi mãi do con không thể vượt qua được. Con không thể gỡ bỏ những gì mình đã làm trong quá khứ.

Cũng đúng là từ một góc độ nào đó, con không thể thay đổi sự kiện là việc đó đã xảy ra. Tất nhiên, con có thể dùng dụng cụ các thày đã trao truyền để khắc phục ký ức, vân vân. Thày sẽ cho con ở đây thêm một dụng cụ nữa, là con nói với ác quỷ: “Được rồi ác quỷ, mi bảo là việc đó đã xảy ra và không thể được tháo gỡ. Tại sao mi lại nói điều này với ta? Ta có làm chuyện đó đâu. Đó là ngã tách biệt, nhưng ngã này không phải là ta. Phải, mi nói đúng, ác quỷ, ta đã tạo ra ngã tách biệt này. Ta nhận hoàn toàn trách nhiệm về việc tạo ra ngã tách biệt này. Mi có biết điều tuyệt diệu là gì không, ác quỷ? Cái gì ta đã tạo ra thì ta có thể giải thể. Mi không có quyền năng gì trên ngã tách biệt này. Hay đúng hơn, có thể mi có khả năng thao túng ngã tách biệt nhưng mi đã không đã tạo ra nó và mi không thể giải thể nó – nhưng ta đây có khả năng giải thể nó. Ta có khả năng để nó chết đi, và mi biết gì không? Ta đang để nó chết đi ngay bây giờ, và bây giờ nó không còn nữa. Vậy tại sao mi lại đến phiền ta? Mi hãy đi chỗ khác, hãy tìm ai khác mà làm phiền, một ai khác vẫn còn ngã tách biệt. Hãy lui ra sau ta, Satan.”

Con thấy đó, có một giai đoạn trên đường tu tâm linh khi con cần nhận trách nhiệm về bản thân, con cần đọc chú đọc thỉnh để biến hóa năng lượng, con cần làm việc trên tâm lý của con và điều này điều nọ. Thế rồi đến một điểm con sẽ cần bước lui lại, nhìn từ một góc độ khác và nói: “Bây giờ thật ra tôi cần ngừng nhận trách nhiệm.” Con vẫn là người trách nhiệm ở chỗ con nhận trách nhiệm về việc tạo ra ngã tách biệt và con cũng nhận trách nhiệm về việc để cho nó chết. Nhưng con yêu dấu, khi con để cho ngã tách biệt chết rồi, con không còn trách nhiệm gì về hành vi của nó hay xuyên qua nó nữa. Đây là điểm con cần hòa điệu với Ngọn lửa Từ bi đích thực và ngộ ra: “Tôi cần từ bi với chính tôi. Tôi cần tha thứ mình hoàn toàn và vô điều kiện về những việc tôi đã làm trong quá khứ, thậm chí cho đến độ tất cả mọi việc tôi đã làm trong quá khứ không còn quan trọng gì nữa.” Khi con nhận ra là nó không quan trọng gì nữa, con có thể làm điều Chân sư MORE đã chỉ dạy: Con có thể xóa hẳn hình ảnh là mình đã làm việc đó, cho nên ngay cả ký ức về nó cũng không còn.

Con có thể sẽ khó xóa bỏ hình ảnh cho tới khi con đã tự tha thứ mình, đã hòa điệu với Ngọn lửa Từ bi, đã sử dụng Ngọn lửa Từ bi để tẩy xóa cảm nhận tội lỗi, xấu hổ, tủi thẹn,… bất kể đó là gì. Ngọn lửa Từ bi mà thày cầm giữ là cục tẩy cho các loại cảm xúc đó. Con có thể thỉnh nó qua nhiều cách: qua bài thỉnh, ngay cả câu thần chú Om Mani Padme Hum và nhiều cách nữa để hoà nhập vào Bản thể của thày. Điều cần thiết là con phải hoàn toàn tự tha thứ chính mình và nói: “Tôi đã không làm chuyện đó. Tôi là một sinh thể vô hình tướng và tôi đã không làm chuyện đó!” Thế là con tự do.

13.7. Tự giải thoát bằng cách tha thứ tất cả những ai đã làm hại con

Điều này, tất nhiên, mới chỉ là một mặt của đồng tiền của sự tự do. Bây giờ con cần nắm lấy những gì con đã nhập tâm về bản thân mình và áp dụng vào người khác. Có ai đó đã làm con thương tổn, thậm chí ở cùng cực có sa nhân đã gây chấn thương nhập đời cho con. Chúng đã làm một điều gì đó tuyệt đối khủng khiếp, tuyệt đối hung hãn và tàn khốc. Nhưng này, tại sao con làm chuyện con đã làm chứ? À đúng vậy, con hành động xuyên qua một ngã tách biệt, con bị mù quáng bởi ngã tách biệt. Tại sao sa nhân làm chuyện chúng đã làm? Đúng vậy, chúng cũng đang hành động xuyên qua một ngã tách biệt. Ác quỷ là gì? Nó có là thần thánh gì không? Không đâu, nó là một tập hợp những ngã tách biệt. Ở đâu đó – trong con người của Satan hay của Lucifer, bất kể – có một cái Ta Biết không còn nhận biết gì về sự hiện hữu của nó, vì nó đã bị hoàn toàn chiếm lãnh và đồng hóa bởi tất cả những ngã tách biệt vô cùng hung hãn, vô cùng tiêu cực kia. Nhưng chúng vẫn là ngã tách biệt, chúng không có thực tại lâu dài nào cả, chúng không bao giờ có thể thăng thiên và trở nên thường hằng. Chúng vô thường. Và chúng sẽ bị tẩy xóa ở một thời điểm nào đó, nếu không trước khi bầu cõi thăng thiên thì chắc chắn vào lúc bầu cõi thăng thiên. Con không cần tha thứ cho một ngã tách biệt vì nói cho cùng, nó không thực, nhưng điều con cần làm là tha thứ cho tất cả những ai đã làm hại con.

Con cần có lòng từ bi với họ, và điều này con có thể thực hành dễ nhất với những người con quen biết trong kiếp hiện thân này, chẳng hạn như người thân trong gia đình, vợ chồng, hay cả vợ cũ, chồng cũ. Con chỉ cần đạt tới điểm nhận ra là dù họ có đã làm gì con, không phải cái Ta Biết trong con người họ đã làm điều đó mà là một ngã tách biệt. Cho nên con có thể tha thứ, con có thể từ bi với họ bằng cách không cầm giữ hình ảnh họ là ngã tách biệt, họ hành xử giống như ngã tách biệt đã hành xử với con. Con có thể tránh phản ứng: “Bạn con người như vậy, bạn loại người như thế.” Con có thể tránh được điều đó. Con có thể tẩy xóa nó đi. Con có thể đạt tới điểm tha thứ những ai đã làm hại con. Khi con làm được vậy, không cứ là con đã giải phóng cho họ, vì khi con tha thứ thì họ vẫn bị tô màu bởi ngã tách biệt cho nên họ vẫn không được giải thoát. Vậy ai sẽ được giải thoát khi con tha thứ? À, chính con đó. Con được giải phóng vì chừng nào con còn cầm giữ một hình ảnh nhất định về một người thì, thật vậy, làm sao con tự do cho được?

Làm thế nào con cầm giữ được một hình ảnh mang hình tướng về một người khác? Chỉ khi nào con có một cái ngã hữu hình đang cầm giữ hình ảnh này. Trong tư cách cái Ta Biết, con không thể cầm giữ một hình ảnh đặc thù về một người khác. Nếu con thực sự ở trong cái Ta Biết và không có ngã tách biệt nào – như khi con sẽ đạt được ở tầng tâm thức 144, hay ít ra khi con tiến đến gần đó và ngày càng có ít ngã tách biệt – con sẽ không nhìn người khác theo một cách nhất định. Con không mang một hình ảnh hay một ấn tượng định sẵn về con người của họ. Giống như thể con thức dậy buổi sáng, nhìn sang phía chồng con hay vợ con ở bên kia giường và trong một khoảnh khắc ngắn ngủi: “Ủa, người này là ai vậy? Sao tôi không quen?” Con không mang theo con bất kỳ hình ảnh định sẵn nào. Giống như người ta nói, con sống trong hiện tại, theo nghĩa là mỗi hiện tại đều là một khoảnh khắc mới. Con không đòi hỏi người đó phải thỏa mãn một hình ảnh nhất định. Con không đổ lỗi cho họ về những sự việc đã xảy ra trong quá khứ. Con gặp họ mỗi lần như một người mới vì con cho phép chính mình là một người mới mỗi ngày.

Cho dù con không có người bạn đời thì khi con đạt đến các tầng tâm thức cao hơn, con cũng thức dậy buổi sáng, nhìn vào gương và nói: “Người này là ai vậy?” Con tự do khi con hỏi: “Hôm nay tôi muốn là ai đây?” Hầu hết mọi người không có tự do nói được như vậy vì họ thức dậy với một khuôn nếp đem theo từ tối hôm trước và khuôn nếp này bảo: “Đây là con người bạn sẽ phải là hôm nay! Bạn phải là đúng như thế này.” Khi con lên đến các tầng cao hơn, con càng ngày càng có nhiều tự do hơn, và lẽ tự nhiên, khía cạnh omega là con cũng trao tự do cho người khác. Có thể con biết là người ta sẽ hành xử giống như mọi ngày và không thay đổi gì hết, nhưng con không quan tâm đến điều này nữa. Con chỉ giải phóng họ, qua đó con cũng giải phóng chính con. Con nói: “Bạn có quyền hành xử giống như bạn đã hành xử hôm qua, nhưng tôi sẽ không phản ứng giống như tôi đã phản ứng hôm qua. Tôi sẽ không hành xử theo cách bạn chờ đợi tôi hành xử. Tôi sẽ hoàn toàn tự do khi tôi chọn: Hôm nay tôi sẽ muốn là ai đây?”

13.8. Không ai đã làm gì tới con

Sau khi con đã làm vậy, đã đạt đến mức tha thứ cho mình, có lòng từ bi với mình, có lòng từ bi với người khác, thì con có thể bước thêm một bước thật triệt để. Con có thể ngộ ra điều mà sứ giả này đã ngộ được trong thời gian qua khi hôm đó ông chợt hiểu: “Không ai đã làm gì tôi cả.” Con hãy suy nghiệm câu nói này. Con hãy thử tưởng tượng con thốt lên câu này trong khi con nhìn lại toàn bộ quá trình của mình trong kiếp này cùng những gì con cảm nhận được từ những kiếp trước, xong con nói: “Không ai đã làm gì tôi cả.” Và con hãy theo dõi phản ứng của con, nhìn xem bên trong con có giọng nói nào đang lên tiếng phản đối. Nếu có thì con sẽ biết là một ngã tách biệt đang có mặt, và con có thể xem xét nó hầu con thoát ra khỏi nó.

Thày vừa nói là con cần ngừng nhận trách nhiệm về hành động của mình. Con cũng rất cần ngừng nhận trách nhiệm về cách phản ứng của người khác đối với con. Lẽ tự nhiên khi con mới đến trái đất, sa nhân đã tấn công con và cố biến nó thành một sự tấn công rất rất cá nhân: Chính bản thân con có gì không ổn, chính con đã sai lầm khi làm vậy. Một khi con nhận ra sa nhân gây ra chuyện đó cho con là do chúng có ngã tách biệt, thì con có thể đạt tới điểm nói rằng: “Ồ, vậy có nghĩa là kỳ thực chúng đã không nhắm vào tôi, vì chúng chỉ hành xử theo ngã tách biệt của chúng. Nếu có ai khác đứng ở vị trí của tôi thì chúng cũng đã hành xử y như vậy với họ, có nghĩa đây không phải là chuyện nhắm vào cá nhân tôi. Đơn giản là tôi đã tạo ra một cái ngã tách biệt xem đây là một chuyện cá nhân.”

Một trong những bước tuyệt đối quan trọng nhất mà con có thể thực hiện trên con đường quả vị Ki-tô là đạt tới điểm con nhận diện trong người con có một ngã tách biệt đang phản ứng. Bất cứ khi nào có gì xảy ra cho con – có thể là khi con lầm lỗi, con làm điều gì mà con xem là ngu ngốc hay đáng hổ thẹn, con làm điều gì mà người khác không ưa hay khó chịu, hay bất cứ gì khác tùy theo mỗi cá nhân – thì đó là điều con đã làm và khi con làm như vậy, con cảm thấy chính cá nhân con đã làm chuyện kinh khủng này, đã phạm lỗi lầm này cho nên con phải có cảm xúc này. Đây chỉ là một ngã tách biệt giống như mọi ngã tách biệt khác.

Con hãy lưu ý, con yêu dấu, ngã này có thể rất khó khắc phục vì đó là cái ngã xem mọi chuyện là cá nhân. Nó khiến con cá nhân hóa mọi chuyện và nó sẽ cố khiến con cá nhân hóa cả sự kiện con mang cái ngã đang cá nhân hóa mọi chuyện. Có thể con sẽ phải gần như tự đánh lừa mình, tức là thay vì xem nó đơn giản là một ngã tách biệt, con phải bước lui lại hai lần và thấy nó là một ngã tách biệt đã khiến con bực bội với tất cả những ngã tách biệt kia cùng mọi việc con đã làm. Dù sao thì một khi con lui lại đủ, con sẽ thấy nó chỉ là một ngã tách biệt.  

Thật ra con có thể nhận thấy là cái ngã cá nhân hóa mọi chuyện đã được tạo ra để phản ứng lại việc người khác trách cứ con. Con có thể nhận ra là họ không trách cứ bản thân con mà họ chỉ hành xử xuyên qua tâm lý chưa giải quyết của họ. Cho dù họ đã có làm gì con thì họ chỉ đang hành xử xuyên qua tâm lý chưa giải quyết của họ. Con hãy suy ngẫm câu này. Dù bất cứ ai đã làm điều gì tiêu cực cho con thì họ chỉ đang hành xử xuyên qua tâm lý chưa giải quyết của họ. Nếu họ hành xử xuyên qua tâm lý chưa giải quyết và họ trách cứ con, thì tại sao con lại phải nhận lấy trách cứ đó, xem đó là chuyện cá nhân và nói: “Ồ, chắc tôi là người đã làm họ bực mình.”

Con đã không tạo ra ngã tách biệt của họ. Con không chịu trách nhiệm về các ngã đó, cho nên con không cần xem đó là chuyện cá nhân. Con không cần cảm thấy mình trách nhiệm. Con chỉ đơn giản nhận ra là không có gì nhắm vào cá nhân con. Họ mang một ngã tách biệt khiến họ bực bội, xong họ có một ngã tách biệt khác khiến họ nghĩ sự bực bội này không phải là lỗi của họ, mà là lỗi của con đã làm gì đó, cho nên ngã tách biệt này phóng lời trách móc vào con. Nếu không phải là con mà có ai khác đang đứng ngay đó thì họ đã phóng vào người kia. Không có gì cá nhân nhắm vào con. Cái họ phóng ra là chuyện cá nhân của họ, có nghĩa là con không phải nhận lấy và biến nó thành chuyện cá nhân của con.

Một khi con nhận diện được điều này, con có thể thực hiện bước kế tiếp, có lẽ là bước cách mạng hơn cả, và nói: “À, hóa ra không ai đã làm gì tôi cả.” Một đằng, thật sự không có ai đã bực bội với con hay trách móc gì con. Chỉ đơn giản là chuyện tâm lý chưa giải quyết của họ mà họ hướng về con. Vậy con có thể nói: “Thôi được, không có gì cá nhân trong lời trách móc đó, nhưng tôi vẫn cảm thấy buồn bực vì lời này.” Và con có thể nói: “Nhưng có phải là họ đã khiến tôi buồn bực không? Không. Tôi buồn bực là vì tôi có một ngã tách biệt mà tôi đã tạo ra trong quá khứ đang làm tôi buồn bực trong loại hoàn cảnh đặc thù này. Cho nên chẳng có ai đã làm gì tôi cả, vì điều duy nhất đã tác động đến tôi không phải là việc làm của người khác, mà là phản ứng của tôi đối với việc làm này. Chính trải nghiệm nội tâm của tôi về việc làm của họ đã tác động đến tôi, chứ không phải hành động vỏ ngoài của họ.” Con thấy đó, con yêu dấu, trong tâm con khởi lên sáng ngộ là có một sự khác biệt căn bản giữa những gì người ta làm bên ngoài bốn thể phàm của con và những gì xảy ra bên trong bốn thể phàm của con.

13.9. Trách nhiệm nội tâm của con

Một lần nữa, tuyệt đối không có sự chê trách nào ở đây. Khi con đi xuống tầng 48 và chạm trán với sự hung hãn của sa nhân, con chỉ có thể phản ứng dựa trên tầng tâm thức 48. Vì vậy con không thể tránh xem đó là chuyện cá nhân và tạo ra những ngã tách biệt để ứng phó. Tất cả các thày từng hiện thân trên một hành tinh phi tự nhiên cũng đã đều làm vậy. Không có lý do gì con phải tự trách mình đã làm vậy, nhưng con cần công nhận là con đã làm vậy. Sau đó con cần thực hiện một cuộc xoay chuyển, thật ra con cần nhận lãnh một loại trách nhiệm khác. Con không trách nhiệm về những việc con đã làm xuyên qua một ngã tách biệt, nhưng con trách nhiệm về việc tạo ra ngã tách biệt.

Con đã tạo ra ngã đó dựa trên tầng tâm thức của con lúc đó, nhưng giờ đây con đã vươn lên một tầng tâm thức cao hơn. Cho nên con có thể xem lại ngã tách biệt này và nói: “Ta không còn cần đến mi nữa vì ngày hôm nay ta không phản ứng theo cách đó. Ngày hôm nay ta đã hiểu biết hơn, ta đã trưởng thành hơn, nhưng ta vẫn còn ngã này mà ta đã đem theo suốt bao nhiêu kiếp sống. Bây giờ là lúc ta nhìn thấy nó, bây giờ là lúc ta sa thải nó và như vậy ta khoá nó lại trong Ngọn lửa Từ bi, ta sử dụng Ngọn lửa Từ bi và tự giải thoát khỏi cái ngã có hình tướng này. Ta tự giải thoát để là sinh thể vô hình tướng mà ta là. Ta ngộ ra là cho dù có ai làm gì ta, ta không phải phản ứng lại theo một cách nhất định nữa. Ta không phải phản ứng theo cách quen thuộc trước kia nữa. Và trên thực tế, cho dù có ai làm gì ta thì ta không phải phản ứng lại.”

Có một ngã tách biệt vô cùng mạnh mẽ trong tâm thức tập thể trên địa cầu. Tất cả mọi người đã đem nó vào hào quang của mình và cho phép nó trú ngụ ở đó. Ngã tách biệt này bảo rằng khi có ai tiếp cận con thì con phải phản ứng, con phải đáp trả. Con không thể chỉ làm ngơ. Đâu là điều tệ nhất con có thể làm cho người khác? Đó là làm ngơ họ, không phản ứng gì hết. Con hãy nhìn bao nhiêu người giận dữ tiến đến con, trách móc con chuyện gì đó. Họ chờ đợi con sẽ phản bác lại hay cảm thấy bực dọc, họ chờ đợi con sẽ đáp trả. Con yêu dấu, một trong những điều buồn cười nhất con có thể chứng kiến trên trái đất là khi có một người như vậy tiến đến trách móc con nhưng con lại không phản ứng gì hết. Con nhìn xem điều gì xảy ra khi họ không nhận được phản ứng mà họ chờ đợi.

Con yêu dấu, con có quyền tự quyết. Các thày đã chẳng nhắc nhở con quá nhiều lần rồi sao, rằng con có quyền tự quyết? Sự kiện con đầu thai trong một đơn vị gia đình hay một nhóm nào khác, hay ngay cả khi con gặp người lạ ngoài đường, không có nghĩa là con phải phản ứng, phải hồi đáp lại họ. Nếu họ tiến đến, ném vào con một điều gì mà con cảm thấy không muốn hồi đáp, thì con có tự do không hồi đáp. Con có quyền tự do bước đi, không tương tác với họ cùng sự tiêu cực của họ. Đây là một quyền con có. Đây là một quyền mà rất rất ít người sử dụng. Những ai đã sử dụng quyền này thường bị dán nhãn là lập dị, là ích kỷ, là điên rồ – họ không đáp trả lại theo cách quen thuộc của người đời.

Thày không đang bảo là bây giờ con phải bắt đầu làm ngơ tất cả mọi người. Điều thày muốn nói là có lẽ một số các con có thể nhận diện được một số người trong vòng ảnh hưởng của mình luôn luôn tìm cách lôi kéo con vào một khuôn nếp tiêu cực, cuốn hút con vào một khuôn nếp cứ mãi lặp đi lặp lại với mục đích duy nhất là giành được sự chú ý của con để họ có thể đoạt lấy năng lượng của con. Con có quyền quyết định thật đơn giản: “Tôi sẽ không đáp lại chuyện này nữa.”

Sứ giả này trong suốt thời gian ông làm sứ giả đã gặp phải khá nhiều người đến với ông với đủ loại lý do, có khi họ muốn tương tác với ông một cách hùng hổ nào đó. Những năm đầu tiên, đó là một gánh nặng cho ông vì ông cảm thấy ông phải dễ thương với mọi người, phải cố giúp mọi người. Ông đã học được, phần nào qua kinh nghiệm cay đắng, là có những người mình không thể nào giúp được. Có những người mình sẽ không bao giờ thỏa mãn được vì họ không thực sự muốn thay đổi mà chỉ muốn lôi kéo mình vào tương tác với họ. Ông đã học được là ông có quyền nói: “Có những người tôi không thể giúp đỡ và tôi chọn không giao tiếp với họ. Ngay cả việc hồi đáp tôi cũng sẽ không làm.”

Con yêu dấu, đây là một quyền hạn mà con có. Khi con thực sự suy ngẫm điều này, nếu có ai đó đến gặp con, muốn lôi kéo con vào một khuôn nếp tiêu cực và con không hồi đáp thì con đang làm gì? Con đang từ bi với họ. Làm sao con lại từ bi? À, từ bi là gì chứ? Là khi con không cầm giữ một hình ảnh cố định về chính con hay về người khác. Và đây có một người đến gặp con với một tâm thái tiêu cực, muốn kéo con vào một cuộc tranh luận. Họ chờ đợi một sự hồi đáp nào đó từ con. Con nghĩ: “Tôi sẽ hoàn toàn không hồi đáp lại chuyện này, vì nếu tôi hồi đáp theo cách họ chờ đợi thì tôi sẽ chỉ xác chứng cho ngã tách biệt đó và họ sẽ không thể nào nhìn ra ngã này, họ sẽ chỉ bị cuốn hút vào việc lặp lại khuôn nếp này mãi mãi. Nhưng nếu tôi không hồi đáp theo cách họ chờ đợi thì có lẽ họ sẽ nhìn lại cách phản ứng của họ, họ sẽ ngạc nhiên và có cơ hội xem xét phản ứng đó rồi tự hỏi tại sao nó lại xảy ra. Chính điều này mới có tiềm năng giải thoát được họ. Nếu tôi hồi đáp theo cách họ chờ đợi thì đảm bảo họ sẽ không thoát ra được, nhưng nếu tôi hồi đáp theo cách họ không chờ đợi, ít ra có chút khả năng là điều này sẽ giúp được họ. Và đây chính là lòng từ bi” – mặc dù, tất nhiên. người kia sẽ không nhìn thấy như vậy, và kỳ thực họ có thể sẽ lên án con là người không từ bi nếu họ dùng từ ngữ này.

13.10. Tự thăng vượt là một tiến trình không ngừng

Khi con không cầm giữ trong tâm mình bất kỳ hình ảnh cố định nào về người khác, đó là từ bi. Hệ quả là con cũng không cầm giữ một hình ảnh cố định nào về cách con hồi đáp như thế nào, ngay cả khi con đã quen biết những người đó cả đời. Con có thể chọn làm điều gì đó mà con chưa từng làm bao giờ. Con có thể chọn một cách hồi đáp mới lạ, khác hẳn cách hồi đáp trước kia của con, và đây là từ bi. Con yêu dấu, con sẽ không từ bi với chính con nếu con nghĩ rằng khi con tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên thì vào lúc đó con đã có một trạng thái tâm thức khả dĩ hiểu được trọn vẹn sự sâu sắc của giáo lý. Điều này không từ bi. Đó là hiểu lầm con đường tâm linh, vì con đường này là một tiến trình tự thăng vượt không ngưng nghỉ.

Có những người tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên hay một giáo lý nào khác, và họ có một ngã tách biệt chặn đứng tầm nhìn của họ về nhu cầu tự thăng vượt không ngưng nghỉ. Kỳ thực, ngã này cho rằng toàn bộ mục đích của việc tìm ra giáo lý của chân sư thăng thiên là để xác chứng cho hình ảnh cao trội mà họ, hay ngã của họ, cầm giữ. Có những người đã bước vào giáo lý của chân sư thăng thiên, đã đi theo suốt mấy chục năm trời, nhưng mục tiêu duy nhất của họ là dùng giáo lý để xác chứng niềm tin là họ cao trội hơn người khác, cho dù là người bên ngoài giáo lý hay một người đồng môn trong cùng giáo lý. Các thày đã chứng kiến trong các tổ chức trước đây những người lập ra một đẳng cấp rõ rệt gồm các đệ tử đã theo giáo lý lâu năm nhất, gần gũi với sứ giả nhất, hay nắm giữ một địa vị nào đó trong tổ chức. Họ lập ra đẳng cấp đó mà chúng ta chỉ có thể gọi là một hàng ngũ giả trá, con yêu dấu, vì ý niệm cho rằng mình cao siêu hơn mọi người không đến từ các chân sư thăng thiên.

Có những bè phái được hình thành gồm những kẻ cho mình có đẳng cấp cao hơn mọi người khác. Đôi khi đây là những người đã theo học giáo lý của chân sư thăng thiên hàng 30, 40 năm nhưng họ vẫn chưa bắt đầu nhìn ra ngã này, có nghĩa là trong một số trường hợp, họ đã tiến bộ rất ít trong suốt 30, 40 năm trời họ tưởng họ đã đi theo và áp dụng giáo lý của chân sư thăng thiên.

Vậy các thày có làm được gì không trước sự thể này? Không, các thày không thể làm gì một cách trực tiếp, nhưng ít ra các thày có thể trình bày công khai là chuyện này có thể xảy đến cho con người. Luôn luôn có tiềm năng sẽ có những người sẵn lòng nhìn ra điều này, mặc dù nó thường rất khó khăn cho họ vì họ đã quá phê phán người khác trong một thời gian rất dài. Con yêu dấu, đâu là cạm bẫy lớn nhất trong thái độ phê phán này, một thái độ hiển nhiên thể hiện lòng phi từ bi? Đâu là cạm bẫy lớn nhất khi họ phê phán người khác? À, nó luôn luôn dựa trên thái độ xem mình là cao trội. “Tôi hiểu biết hơn, tôi có trình độ cao hơn, tôi là một đệ tử cao cấp hơn bạn, cho nên tôi có thể phê phán bạn và điều này hoàn toàn chấp nhận được. Thật ra việc tôi phê phán bạn sẽ rất tốt cho bạn.” Đây là những gì họ cảm thấy và nó khiến họ cảm thấy cao trội. Bây giờ nếu họ nhận ra là thái độ phê phán này cần ra đi, rằng nó không phải là cao nhất, thì họ sẽ nhìn sự việc như thế nào? À, họ sẽ nhìn nó xuyên qua cùng trạng thái tâm thức đã khiến họ phê phán người khác. Có nghĩa là giờ đây, họ sẽ bắt đầu phê phán chính họ cũng nghiêm khắc y như họ đã phê phán người khác.

Một số người sẽ không thể vượt được bước này trong kiếp này. Có những người – không cứ là đệ tử của chân sư thăng thiên vì con có thể tìm thấy họ khắp mọi nơi, trong lãnh vực khoa học hay tôn giáo chẳng hạn – đã khóa chặt mình lại trong niềm tin cao trội này và để khắc phục nó, họ sẽ phải tự phê phán bản thân cũng nghiêm khắc y như họ đã phê phán người khác. Họ không thể chịu nổi nỗi đau của sự phê phán cho nên họ rơi vào tâm thái phủ nhận nó cho đến hết kiếp này, có nghĩa là họ sẽ không tiến bộ gì hết. Đối với một số, họ có thể bứt ra khỏi thái độ này ở giữa hai kiếp sống. Tức là ở thời điểm họ chọn kiếp đầu thai kế tiếp giữa hai kiếp sống, họ sẽ chọn đầu thai trong những hoàn cảnh thật khiêm tốn, không mang địa vị mà còn bị trấn áp để họ có thể khắc phục niềm tin cao trội.

Tại sao thày lại trình bày điều này? Là vì thày cầm giữ Ngọn lửa Từ bi cho trái đất. Không có một đặc tính nhân gian nào mà Ngọn lửa Từ bi không thể tiêu hủy, không thể giúp con khắc phục. Nếu con nhận ra: “Tôi đã quá xét đoán người khác,” thì con đừng ngần ngại đến gần thày. Thày sẽ không phê phán con như con đang tự phê phán mình. Thày sẽ giúp con khắc phục cảm nhận cao trội, khắc phục cảm nhận phê phán bản thân, bởi vì đó là một ngã tách biệt. Có một ngã tách biệt cho con nhu cầu muốn cảm thấy hơn người, có một ngã tách biệt cho con nhu cầu phê phán. Hai ngã này làm việc đồng hành với nhau và khi chúng phối hợp thì chúng có thể khó khắc phục. Việc khắc phục sẽ không thể xảy ra nếu con không có thuốc giải độc là Ngọn lửa Từ bi.

13.11. Ngọn lửa Từ bi là khung tham chiếu của con

Nhưng này con, cùng điều này có thể áp dụng cho tất cả các con. Tất cả các con đều mang một cái ngã tự phê phán bản thân, và tất cả các con đều mang một cái ngã khác phản ứng lại sự trấn áp của sa nhân, là khi con cố tự cổ võ và con nói: “Phải, có thể là đôi khi tôi đã lầm lỗi, nhưng chắc chắn tôi không hoàn toàn vô giá trị, tôi có một số đặc tính tốt.” Con sẽ thấy rất nhiều người khi họ tìm thấy đường tu tâm linh, họ cần đến một sự công nhận kiểu đó. Đó là tại sao, chẳng hạn, họ xem bói toán hay chiêm tinh học hay bất cứ gì khiến họ nổi bật giữa đám đông. Họ cảm thấy: “Vì tôi có những con số đặc biệt này trong tên tôi hay những chùm sao này trong tử vi của tôi, cho nên tôi cũng tốt.”

Điều này cũng tốt thôi. Ở một giai đoạn nào đó trên đường tu, đó là một nhu cầu chính đáng, nhưng làm thế nào con sẽ khắc phục được chuyện này trừ khi, như thày vừa nói, con bắt đầu có lòng từ bi đối với chính con? Khi con neo trụ vào Ngọn lửa Từ bi, con nhận ra chính xác là tất cả những chuyện vỏ ngoài đó là không thực. Và vì chúng không thực cho nên chúng không quan trọng gì.

Như các thày đã có nói trước đây, con có nhu cầu đạt tới điểm con có thể nhìn vào một sự việc trên trái đất, một việc gì đó mà con đã làm trên trái đất, và nói: “Thì đã sao đâu? Thật không quan trọng, không quan trọng gì hết.” Điều này có thể khó thực hiện trừ khi con có một khung tham chiếu, và con yêu dấu, Ngọn lửa Từ bi có thể cho con khung tham chiếu này. Con ngộ ra là so với Ngọn lửa Từ bi – là một cái gì vô cùng thực một khi con trải nghiệm nó – tất cả mọi chuyện phù phiếm kia của nhân gian đều không thực. Chúng hoàn toàn vô nghĩa.

Con có hiểu điều thày đang nói ở đây? Thày không nói là thày không quan tâm đến con trong hoàn cảnh hiện tại của con. Thày luôn luôn thấy con là nhiều hơn bất kỳ hoàn cảnh vỏ ngoài nào con gặp. Cho nên thày thấy rõ là con có khả năng thoát ra khỏi nó. Thày cũng biết – và như các thày đã có nói, tất nhiên điểm này là bí quyết của giáo lý các thày đã trao con – rằng con sẽ không thoát ra khỏi hoàn cảnh hiện tại của con bằng cách làm một cái gì đó hay bằng cách giải quyết một vấn đề.

Như các thày đã giảng nhiều lần, ngã tách biệt phóng chiếu ra là có một vấn đề phải giải quyết hay một điều kiện nào đó cần thay đổi. Nhưng cho dù con có giải quyết vấn đề, con vẫn sẽ không thoát khỏi ngã tách biệt, và nó sẽ chỉ phóng thêm một vấn đề nữa. Giải pháp duy nhất là con bước ra ngoài ngã tách biệt và buông nó ra.

Thày cống hiến cho con Ngọn lửa Từ bi của thày để giúp con trong tiến trình này. Bất cứ khi nào con phải đương đầu với một ngã tách biệt, con chỉ cần hỏi thày. Con chỉ hỏi thày: “Quan Âm, hãy giúp con nhìn ra điều này. Quan Âm hãy giúp con trải nghiệm Ngọn lửa Từ bi, giúp con có được tầm nhìn, giúp con thấy được như thày đang thấy. Giúp con có được khung tham chiếu qua việc trải nghiệm sự thực của Ngọn lửa Từ bi và sự không thực của thân phận con người.”

Con yêu dấu, thật là một niềm vui rất lớn cho thày được hòa điệu với con theo cách này, nhưng sẽ là một niềm vui lớn hơn nữa nếu mỗi cá nhân con có thể thỉnh thoảng chú ý đến thày chút xíu và cho phép thày hòa điệu trực tiếp với con ngay trong tim con, một điều mà thày hoàn toàn có khả năng làm được. Tất cả các con đều có khả năng làm được nếu con chỉ dành ra một chút chú ý, có lẽ nỗ lực bước vào một tâm thái trung hòa nơi con cho phép nó trải bày ra tự nhiên thay vì mang sẵn định kiến. Nếu trước đây con chưa thể hoà điệu với thày, con hãy cố gặp thày với một tầm nhìn mới. Con hãy cố giải phóng thày, cố giải phóng con, và gặp thày như một con người mới, và sẽ tới một điểm con sẽ trải nghiệm được Hiện diện của thày nơi con.

Thoát khỏi tinh thần trốn tránh

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 24/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada, và thày rất vui mừng chào đón con ở tầng cuối cùng của khóa nhập thất của thày. Thày muốn bắt đầu bằng cách duyệt lại những gì thày nói về quan hệ giữa con người trong bài giảng trước. Con nhận ra, khi con đứng lui lại và nhìn các quan hệ giữa con người, thì đại đa số (và thày muốn nói hơn 90 phần trăm) dựa trên, bị thúc đẩy bởi, bị kiểm soát bởi phàm linh nội tại trong những con người liên hệ. Con có thể nhìn tình trạng nhiều gia đình và con thấy sự tương tác giữa những thành viên hoàn toàn bị điều khiển bởi các phàm linh nội tại mà họ đã tu bồi, có khi trong nhiều kiếp. Rất hiếm khi, hay không bao giờ, trong suốt một đời người có những giây phút sáng suốt khi con người liên hệ với nhau một cách trực tiếp, cởi mở, không có phin lọc.

Con thấy là trong nhiều quan hệ tình yêu khi hai người mới gặp nhau và yêu nhau, họ có thể có một giai đoạn cởi mở với nhau. Sau đó, khi mối quan hệ trở nên ổn định, thì phàm linh giành quyền điều khiển. Lẽ tự nhiên, như một đệ tử chân sư thăng thiên, con có thể nhìn các sự kiện này và nói: “Tôi không muốn cả đời còn lại của tôi bị điều khiển bởi phàm linh, trong đó tôi lúc nào cũng phản ứng lại phàm linh của người khác qua phàm linh nội tại của chính tôi.” Lẽ tự nhiên, con muốn cố gắng và dùng những dụng cụ mà các thày đã cung cấp để vượt lên trên những phàm linh mà con có trong các mối quan hệ với người khác.

16.1. Giải thoát khỏi áp lực bên trong

Con có thể tiến thêm một bước nữa và nhìn vào: “Quan hệ của tôi với các chân sư thăng thiên, với con đường tâm linh là gì? Cách tôi quan niệm con đường tâm linh có bị phàm linh ảnh hưởng chăng?” Lẽ dĩ nhiên là phần nào. Trong bài giảng trước, thày có nói là thày muốn giải thoát con khỏi mọi áp lực con cảm thấy khi là đệ tử chân sư thăng thiên đang trên con đường đi tới thăng thiên. Nếu con đứng lui lại và nhìn vào chính mình một cách thành thực, con sẽ thấy là con có một số căng thẳng về điều con phải làm và không được làm khi là đệ tử chân sư thăng thiên.

Ta đã thấy trong quá khứ có tổ chức do chân sư thăng thiên bảo trợ đã dựng lên một văn hóa tập thể dựa trên một số quy luật vỏ ngoài quy định thành viên phải làm gì và không được làm gì. Kết quả là cả tổ chức bị bao trùm bởi một phàm linh tập thể khiến họ phán xét lẫn nhau dựa trên các tiêu chuẩn vỏ ngoài đó. Con cũng thấy điều này nơi nhiều tổ chức tôn giáo, nhưng con cũng thấy nơi nhiều tổ chức chính trị, và trong nhiều khung cảnh khác, trong đó, dĩ nhiên, có gia đình. Con thấy là trong thế giới có khuynh hướng đặt ra một tiêu chuẩn cư xử cho thành viên của một nhóm người, và sau đó phán xử những người không tuân theo chuẩn mực hay sự chờ đợi của tập thể.

Con yêu dấu, con có quyền tự quyết và thày tôn trọng quyền tự quyết của con. Lẽ dĩ nhiên, con được phép liên hệ với các chân sư thăng thiên với khuôn nếp hiện nay qua một phàm linh nội tại được tạo ra theo một phàm linh tập thể. Tuy nhiên, nếu con muốn tiếp tục quan hệ với các vị thày tâm linh trên căn bản những phàm linh nội tại và phàm linh tập thể đó, thì thày có một yêu cầu. Con hãy để các thày, các chân sư thăng thiên, ra ngoài các trò chơi tâm lý khuynh đảo nhỏ bé của con. Con hãy tìm các thày khác để chơi các trò chơi này với con vì các thày không muốn chơi các trò chơi này.

Chúng ta đã tới điểm trong khóa tu này là nơi tất cả các thày muốn con phải đối diện nhu cầu ngưng các trò chơi này. Con hãy ngưng liên hệ với các thày qua các trò chơi thế gian này, thường do sa nhân xúi giục. Con hãy tạo dựng một quan hệ cá nhân trực tiếp hơn qua đó con tới với các thày với tâm cởi mở và ngây thơ và không nhìn các thày qua các phin lọc. Lẽ dĩ nhiên, có nhiều phàm linh tập thể mà con người đã tạo ra với các vị thày, các khuôn mặt uy quyền, và với người khác. Trong khóa tu học này, các thày đã cho con dụng cụ để nhìn thấy chúng, nhận diện chúng và vượt lên trên chúng. 

Thày muốn con, khi con hoàn tất tầng này của khóa học, dành một chút thì giờ trước khi con bắt đầu tầng thứ bảy với thày Saint Germain để xem xét quan hệ của con với chân sư thăng thiên, nhìn vào các phàm linh mà con có liên quan đến các thày, và sẵn sàng đuổi chúng đi. Thày làm điều này vì sáu vị Thượng sư đầu có mục tiêu chuẩn bị con cho những khai ngộ mà con sẽ nhận được từ Saint Germain. Những khai ngộ này rất liên quan đến cách con thực thi khả năng đồng sáng tạo. Để con thực thi trọn vẹn khả năng đồng sáng tạo, lẽ tự nhiên con cần phắc phục những ảo tưởng ở các tầng tâm thức thấp ngăn cản con không trở nên hoàn toàn sáng tạo vì con nghĩ cách duy nhất để sáng tạo là biểu lộ mình qua một phàm linh nội tại.

Lẽ dĩ nhiên, con không thể thực sự sáng tạo nếu con tìm cách sáng tạo qua một phàm linh nội tại. Con chỉ thực sự sáng tạo khi con đã sạch phàm linh nội tại tới mức có một kẽ hở để ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của con chiếu qua và thúc đẩy nỗ lực sáng tạo của con. Như Giê-su nói: “Tự riêng ta (cái ta thấp, bốn thể phàm) không làm gì được. Chính là Cha ta (Hiện diện TA LÀ) trong ta làm công việc.”

16.2. Một phiên bản đặc biệt của phản ứng tháo chạy

Ở tầng cuối mà thày đi với con trên con đường tu, thày muốn nói tới một cơ chế khác đã được các tâm lý gia nhận diện. Thày đã nói tới một cơ chế muốn trốn tránh một số chuyện là tư duy thần diệu qua đó con coi mình là trung tâm vũ trụ và coi mọi việc như xảy đến cá nhân mình. Bây giờ thày muốn nói tới một cơ chế khác mà các tâm lý gia đã gọi là phản ứng chiến đấu hay tháo chạy. 

Ngày hôm nay, nếu con nhìn vào nhiều người trên thế gian thì con thấy là họ tương tác với người khác dựa trên phản ứng chiến đấu. Con người rất, rất nhạy cảm và họ coi mọi việc hướng đến cá nhân họ, do đó họ rất dễ cảm thấy chính cá nhân họ bị tấn công. Khi hó cảm thấy bị tấn công, họ cảm thấy phản ứng tự vệ và đánh trả lại là chính đáng. Họ tự vệ bằng cách đánh lại người kia. Con thấy trong rất nhiều cuộc cãi vã khi một người nói điều gì khiến người kia cảm thấy bị tấn công. Người đó tấn công lại và cuộc cãi vã tiếp tục cho tới khi cả hai cạn tiệt năng lượng (trong nhất thời) và mỗi người đi một nẻo. Nhiều khi, họ trở lại sau đó và tiếp tục cãi vã khi họ đã phục hồi năng lượng.  

Con yêu dấu, lẽ dĩ nhiên hiện tượng này do phàm linh nội tại và một số phàm linh tập thể rất dũng mạnh thúc đẩy. Thày muốn con nhận ra là con là một người tâm linh và con đã là một người tâm linh trong nhiều kiếp. Nhiều người trong số các con đang theo học khóa học này đã đi trên con đường tâm linh từ 2000 năm nay, từ khi Giê-su trao truyền giáo lý về chìa má bên kia, thương yêu kẻ thù, làm cho người khác những gì mình muốn họ làm cho mình. Con đã cố hết sức theo giáo lý vỏ ngoài của Cơ đốc giáo và con đã tìm cách chế phục phản ứng chiến đấu trong con mà nó cũng ngự trị trong tâm nhiều người trên trái đất. Phản ứng chiến đấu này, lẽ dĩ nhiên, lúc đầu do một phàm linh bên ngoài tạo ra, và phàm linh đã có từ rất, rất lâu trên hành tinh này và do đó đã trở nên rất dũng mãnh. Nó đã được liên tục củng cố và ngày nay vẫn được củng cố bởi những người hành xử như vậy. 

Nhiều người trong số các con, trong suốt 2000 năm qua, đã cố gắng tự giải thoát mình khỏi khuynh hướng đó. Tuy nhiên, vì giáo lý của Giê-su bị bóp méo và tha hóa và vì quá nhiều phần bị loại bỏ, con không nhất thiết đã làm đúng theo những gì Giê-su chỉ dạy. Lẽ dĩ nhiên, Giê-su muốn con đi trên con đường của quả vị Ki-tô trực tiếp với thày trong 2000 năm qua. Nhiều người trong các con đã không tìm được con đường này vì giáo lý vỏ ngoài của Giê-su bị bóp méo và vì các phong trào thần bí bí truyền bị Cơ đốc giáo đàn áp.

Con cần nhận ra là con có phản ứng bản năng theo mô thức chiến đấu hay tháo chạy khi con đối diện sự hung hãn của người khác. Lẽ dĩ nhiên, có một lối phản ứng khác dựa trên quả vị Ki-tô, nhưng khi con chưa thấy con đường của quả vị Ki-tô, con thường không thể thấy làm sao con có thể đáp ứng một cách trực tiếp khi bị tấn công. Do đó, đa số các con đã đi vào khuynh hướng cảm thấy không bao giờ được tỏ ra hung hãn, lúc nào cũng phải chìa má bên kia, làm cho người khác những gì mình muốn họ làm cho mình, tránh hung hãn khi con chạm mặt sự hung hãn.

Dựa trên hiểu biết vỏ ngoài đã lưu hành sau khi các giáo hội Cơ đốc giáo méo mó được thành hình, thì đây là một phản ứng chừng mực và thực tiễn. Con không thể làm gì khác. Việc con tự kỷ luật mình để không phản ứng một cách hung hãn, không ăn miếng trả miếng, là một thái độ xây dựng. Tuy nhiên, con cần nhận ra là khi con không thể đáp ứng trực tiếp với sự hung hãn, con khó tránh chuyển qua phản ứng tháo chạy. Phản ứng tháo chạy, lẽ dĩ nhiên, là khi con tìm cách tránh xa điều kiện mà con cảm thấy khó khăn hay không chịu được. Con tìm cách tránh xa người tấn công con. Điều này đã phần nào dẫn tới khuôn nếp né tránh mà thày có nói tới trong bài giảng trước, nhưng đề tài này có nhiều khía cạnh hơn nữa.

16.3. Một lối thoát do sa nhân cống hiến

Con yêu dấu, nếu con xem xét 144 tầng tâm thức, thì con thấy là giáo lý mà Giê-su trao truyền 2000 trước đây, là giáo lý vỏ ngoài được ghi lại trong kinh điển, đã thực sự nhắm vào những người có tâm thức dưới tầng 48 nhưng không quá xa tầng 48. Giáo lý được trao truyền với mục đích giúp con người mau chóng vươn lên tầng 48, và sau đó bắt đầu đi theo con đường dẫn tới tầng 96. Điều con cần nhận ra là ở mỗi tầng tâm thức từ 48 đến 96, có một ảo tưởng mà con cần vượt qua. Con cần chế phục một phàm linh tập thể và một phàm linh nội tại trong tâm con.

Ở mỗi tầng con đối diện một thử thách. Thí dụ, khi con ở tầng tâm thức 48, con nhìn đời xuyên qua một phin lọc nào đó. Có nghĩa là khi con chạm mặt một hành động nào đó từ người khác, con có khuynh hướng coi đó là một hành động hung hãn. Ở tầng 48, có một dạng phản ứng chiến đấu hay tháo chạy bình thường ở tầng đó. Ở tầng 48, nếu con có phản ứng chiến đấu thì con sẽ có hành động hung hãn dựa trên cảm xúc tức giận của mình. Rất có thể con sẽ tự bảo vệ khi bị tấn công vật lý.

Lúc đó, nếu con theo lời dạy của Giê-su khuyên nên tránh hung hãn vật lý (con nên chìa má bên kia, con không nên hung hãn) thì con sẽ làm gì? Con sẽ theo phản ứng tháo chạy, cũng bình thường ở tầng 48. Con không thể làm gì khác. Thày không nói điều này để chê trách con; ai ai trong chúng ta đều đã phản ứng như vậy. Điều con cần nhận ra là sa nhân rất xảo quyệt. Thày có nói là họ thích tạo chia rẽ ngay trong tâm con. Họ muốn đẩy con người tới chỗ không kiểm soát được đời sống của mình, tâm hoàn toàn hỗn loạn. Lúc đó, sa nhân có thể bất cứ lúc nào khuấy động họ để họ trở nên tức giận hay phản ứng một cách bất quân bằng. Có người tới điểm giản dị từ chối không chịu chơi trò chơi này nữa. Sa nhân làm gì với những người này? Nếu sa nhân không thể đẩy con người vào phản ứng chiến đấu, thì họ rất xảo quyệt đẩy con người vào phản ứng tháo chạy.

Một mặt sa nhân đưa con gặp một hoàn cảnh hung hãn khó chịu mà hầu như con không thể thoát được trong cõi vật lý. Vì họ không thể khiến con đánh lại, họ cho con một lối thoát khỏi điều kiện mà chính họ đã tạo ra. Như thày có giảng, một số có khuynh hướng theo phản ứng chiến đấu. Họ bị sa nhân làm kẹt trong khuôn nếp phản ứng hung hãn chống lại một hành động hung hãn. Những người không theo khuôn nếp này, thì họ theo (thường khi một cách vô ý thức) một lối thoát mà sa nhân cống hiến ở tầng tâm thức của họ. Điều thày muốn nói là nếu con nhìn vào các tầng tâm thức từ 48 đến 96 (và các tầng tâm thức dưới tầng 48 cũng vậy) thì con thấy ở mỗi tầng có một cơ chế trốn tránh qua đó con trốn tránh hoàn cảnh mà ở tầng đó con cảm thấy không chịu nổi, không thể đối phó nổi.

Con không thể đánh lại hoàn cảnh; con không thể sống mà phải gặp nó hoài do đó con tìm một lối thoát, một cách tránh xa nó. Các cơ chế trốn tránh này ở đâu? Có nhiều ở cõi vật lý. Con có thể thấy, tỷ dụ (thày nghĩ con có thể nhận ra dễ dàng) là chất ma túy và rượu là một trong những cơ chế trốn tránh cơ bản. Có những cơ chế trốn tránh vật lý khác, tỷ dụ như trong thời Trung cổ, con người xây lâu đài và thành quách để họ có thể sống sau những bước tường dày và cảm thấy được bảo vệ khỏi sự hung hãn. Con người cũng tìm cách tránh xa hiểm nguy tiềm tàng bằng cách dời tới những nơi hẻo lánh. Có nhiều người, tỷ dụ, đã bị dính dấp vào chiến tranh và xung đột trong kiếp này hay kiếp trước, nên đã tìm về sống như nông dân ở vùng hẻo lánh để không phải gặp chiến tranh trong kiếp sống này.

Lẽ dĩ nhiên, không có gì sa nhân làm ở cõi vật lý chỉ đơn thuần ở cõi vật lý, do đó họ cũng tạo cơ chế trốn tránh, hay cõi trốn tránh, ở cõi trung giới, cõi cảm xúc, cõi lý trí và ngay cả phần thấp của cõi bản sắc. Con có thể thấy là nhiều người đã tìm ra cách tự bảo vệ khỏi những hình thức hung hãn tệ hại nhất trong kiếp sống này. Con có thể thấy nhiều người trong các nước tiên tiến là nơi hiểm họa chiến tranh rất thấp, đã sống cuộc đời thoải mái, an toàn. Con cũng thấy những người đại phú sống trong những nơi gọi là cộng đồng đóng rào là nơi người khác không thể giản dị bước vào mà cần phải được phép. Có nhiều thí dụ con người đã tìm cách sống cách ly vật lý. Tuy nhiên, không có hành động nào đơn thuần vật lý, do đó có chuyện xảy ra trong tâm song song với hành động vật lý. Hay đúng hơn, ta có thể nói là một phản ứng trong tâm thức đã tạo ra hành động vật lý.

16.4. Trốn tránh trong tâm

Phản ứng trong tâm này được tạo thành như thế nào? Nó được tạo ra khi con có một ước muốn. Con lấy quyết định: “Tôi không bao giờ muốn trải nghiệm điều này nữa.” Vì con không thể hành động hung hãn chống điều đó, nên con đi vào cơ chế trốn tránh, cơ chế tháo chạy, qua đó con tìm cách trốn tránh khỏi nó trong tâm. Con chấp nhận một phàm linh tập thể, con tạo ra một phàm linh nội tại cho con (trong tâm con) một lối thoát hay một cảm giác khuây khỏa khỏi điều kiện vật lý mà con không muốn đối mặt nữa.

Con cần nhận ra là ở mỗi tầng từ 48 đến 96, có một cơ chế trốn tránh sẽ, nếu con dùng nó, buộc con vào cõi trung giới, cõi tư tưởng hay cõi bản sắc. Con bị buộc vào cõi trốn tránh của sa nhân, nơi đó con cảm thấy khuây khỏa và an toàn khỏi một số điều kiện. Con sẽ thấy, tỷ dụ, là ở cõi xúc cảm con được cho cảm giác là nếu con có đủ tiền, con sẽ được bảo vệ. Con thấy có nhiều người giàu có bị trói buộc rất chặt vào cõi này trong thể cảm xúc của họ, và họ cảm thấy an toàn khi họ có đủ tiền. Lẽ dĩ nhiên, thật ra thì không phải là tiền giúp họ cảm thấy an toàn. Đó là một cảm giác, và cảm giác này có trong thể cảm xúc của họ, nhưng nó được tăng cường bởi cái cõi trốn tránh trong thể cảm xúc của hành tinh. Có những sa nhân, tà linh và quỷ dữ ở nơi đó khiến con người cảm thấy an toàn vì như vậy họ bị ru ngủ và không đi trên con đường tới quả vị Ki-tô là nơi họ có thể tìm thấy con Đường Ki-tô, con Đường Tâm linh dựa trên Ki-tô giúp họ đáp ứng những điều kiện mà họ muốn tránh.

Thày không muốn nói là con cần đi trở ngược và xem xét mỗi tầng từ 48 đến 96 và tìm ra cơ chế trốn tránh của con. Thông thường thì con không còn một cơ chế trốn tránh ở mỗi tầng, nhưng con cũng còn một số hình thức của cơ chế trốn tránh.  Điều này, lẽ dĩ nhiên, dính liền với điều thày nói ở đầu bài, là cách con chơi một số trò chơi với ý tưởng thày giáo. Con yêu dấu, thực tế đơn giản là nhiều người đã dùng giáo lý tôn giáo hay tâm linh làm căn bản của cơ chế trốn tránh cá nhân của họ.

Con có thể thấy những hình thức cực đoan của hiện tượng này, tỷ dụ như các nhóm Cơ đốc giáo cực chính thống tin chắc là chỉ mình họ có cách diễn giải Thánh kinh chính xác. Họ nghĩ rằng vì niềm tin này, họ được bảo đảm sẽ được cứu rỗi. Nhiều người trong các nhóm đó tin rằng sự cứu rỗi đã gần kề vì bất cứ lúc nào Giê-su sẽ hiện ra trên trời, mang họ lên thiên đàng, gửi hết các người còn lại xuống địa ngục và sau đó cuộn thế giới lại như một cuộn giấy. Đây là cơ chế trốn tránh của họ. Có một số điều kiện trên thế giới mà họ không đối phó nổi, và để tránh giải quyết những vấn đề này, họ tạo ra niềm tin là bởi vì họ thuộc vào nhóm tôn giáo vỏ ngoài đó, họ sẽ được cứu rỗi. Niềm tin này khiến họ cảm thấy an toàn.

Con hiểu chăng là mục đích của bất cứ cơ chế trốn tránh nào là khiến con cảm thấy an toàn. Nó cũng ngăn cản con thăng vượt chính mình vì nếu con cảm thấy an toàn, thì tại sao con lại cần thăng vượt chính mình và đi trên con đường quả vị Ki-tô? Con chỉ cần ở lại tầng tâm thức đó và chờ vị cứu tinh bên ngoài tới và cứu con.

Con có thể thấy tín đồ nhiều tôn giáo khác cũng đã làm tương tự. Nếu con nhìn giáo lý của các nhóm Thời đại mới, con sẽ thấy là nhiều người đã chế ra những giáo lý chỉ giản dị là cơ chế trốn tránh. Con hãy lấy thí dụ sự cuồng loạn xảy ra trước năm 2012 vì có nguời cho rằng lịch cổ của người Maya chấm dứt vào năm đó. Con có thấy là biết bao nhiêu người tin rằng một biến cố trọng đại sẽ xảy ra, và vì họ là những người đã tiên đoán trước nên họ sẽ có một địa vị nổi bật sau đó. Đây là một cơ chế trốn tránh khiến con người cảm thấy an toàn, giúp họ cảm thấy họ có thể đương đầu được với đời sống trên trái đất lúc này vì họ đã tạo ra trong tâm trí họ hoàn cảnh sẽ xảy ra trong tương lai gần hay xa.

16.5. Con không cần cơ chế trốn tránh nữa

Thực tế là con đang sống trên một hành tinh rất tăm tối, rất khó khăn. Có nhiều điều kiện trên trái đất khó đối phó ở mặt tình cảm, tư tưởng và bản sắc. Để có thể sống ở đây, gần như không tránh được việc con cần tạo ra một cơ chế trốn tránh để con có thể cảm thấy yên ổn, an toàn. Con có thể cảm thấy phần nào quân bằng trong thế giới rất khó khăn này.

Con yêu dấu, một lần nữa thày không chê trách con. Không có gì đáng chê trách khi con tạo ra một cơ chế trốn tránh. Thày chỉ giản dị nói là ở tầng này của con đường tu, khi con chuẩn bị có liên hệ trực tiếp với Saint Germain và học cách sử dụng khả năng đồng sáng tạo của mình, đã đến lúc con nhìn vào các cơ chế trốn tránh hiển nhiên nhất của con và nhận ra con không cần chúng nữa ở tầng tâm thức này. Khi con đã đạt được một tầng quả vị Ki-tô nào đó, thì con không cần cơ chế trốn tránh nữa vì các điều kiện thế gian mà con cảm thấy không thể đương nổi khi con ở tầng tâm thức 48 hay thấp hơn, nay con không còn cảm thấy như vậy nữa.

Khi con đã có phần nào phân biện Ki-tô, con có thể đối phó với hoàn cảnh một cách xây dựng mà không cảm thấy quá tải. Con yêu dấu, nếu ta nói một cách thẳng thắn không vị nể, thì nếu con nhìn vào phong trào Thời đại mới, thì 98 phần trăm sinh hoạt của các nhóm đó chỉ là cơ chế trốn tránh. Điều này có vẻ sửng sốt, và nhìn dưới góc độ nào đó nó quả thật sửng sốt. Lẽ dĩ nhiên, khi con nhìn vào các tôn giáo chính thức thì tình hình cũng tương tự. Khi con nhìn vào các tổ chức chính trị, thì cũng tương tự. Nhiều người trong hai trăm năm qua tin vào chủ nghĩa Mác-xít qua nhiều hình thức cũng đã tự tạo cho họ một cơ chế trốn tránh. Có người khác cũng làm như vậy bằng cách suy tưởng một xã hội lý tưởng tương lai và họ là người tiên phong vì chỉ có họ mới thấy ra tương lai đó.

Như phần nối dài của bảy khai ngộ mà con đã nhận từ thày và các khai ngộ mà con đã nhận từ các Thượng sư khác, thày cần con sẵn sàng đứng lui lại và xem xét cơ chế trốn tránh cá nhân của con. Như một chuẩn bị để bắt đầu các khai ngộ với Saint Germain, thày cần con xem xét cách con đã dùng giáo lý chân sư thăng thiên để củng cố một cơ chế trốn tránh sẵn có mà con đã mang trong nhiều kiếp.

Một trong những cơ chế trốn tránh chính yếu của những tín đồ tôn giáo là niềm tin rằng tôn giáo của họ có chân lý duy nhất, tuyệt đối hay cao nhất. Niềm tin này khiến họ cảm thấy khác những người không thuộc tôn giáo họ. Nó khiến họ tin rằng họ là những người được bảo đảm cứu rỗi trong khi những người khác thì có thể sẽ không được cứu rỗi hay chắc chắn sẽ không được cứu rỗi.

16.6. Trốn tránh không nhìn vào chính mình

Con có thể thấy là cơ chế trốn tránh cho con người một cái cớ để nói: “Nhưng tôi thuộc vào phong trào vỏ ngoài này, tôi tin vào giáo lý vỏ ngoài này, tôi không làm những chuyện họ nói tôi không được làm, và tôi làm hầu hết các chuyện mà họ nói tôi phải làm. Do đó, tôi là một thành viên ngoan đạo của giáo lý vỏ ngoài này, và do đó tôi không cần xem xét một số điều trong tâm lý của tôi. Tôi không cần nhìn vào cái đà trong chính mắt tôi.”

Đây là tác động chính yếu của các cơ chế trốn tránh đặc biệt áp dụng cho tôn giáo. Phàm linh tập thể này rất, rất mạnh trên hành tinh này. Con không thể nào đã đầu thai trên hành tinh này, bất kể dài lâu, mà không bị nó ảnh hưởng. Thày đặc biệt nói với con, như thày đã nói trước đây, là nhiều người trong các con đã chấp nhận lý tưởng không hung hãn của Cơ đốc giáo mà không nhận được trọn vẹn giáo lý về quả vị Ki-tô. Do đó con cảm thấy bị mắc kẹt, con cảm thấy bất lực. Con bị đặt vào hoàn cảnh hung hãn nhưng con không thể phản công một cách hung hãn, do đó con cảm thấy lý tưởng tôn giáo của mình đã khiến mình bất lực.

Kết quả là con cảm thấy cần trốn tránh điều mà con không thể thay đổi, điều mà con không thể đối phó. Điều mà các thày, cả sáu Thượng sư, đã dạy con trong khóa này là con không bao giờ bất lực. Không có hoàn cảnh nào trên trái đất mà con không thể đối phó được bằng cách khắc phục phàm linh nội tại đã khiến con phản ứng lại điều kiện đó với phản ứng chiến đấu hay tháo chạy. Con thấy là con cần nhìn: “Đâu là những điều kiện trên trái đất mà con cảm thấy con không thể đối phó được, con không thể sống với?” Khi con nhận ra điều kiện đó thì con có thể bắt đầu nhận diện cơ chế trốn tránh mà con đã tạo ra để tới điểm biết là mình đang hiện thân ở cõi vật lý, biết là điều kiện này có mặt trên trái đất, nhưng con có được cơ chế này để cảm thấy an toàn. Con cảm thấy con có thể ổn định cuộc sống dù rằng điều kiện kia vẫn còn trên trái đất.

Con yêu dấu, thày cần con xem xét như vậy vì nếu con liên hệ với các chân sư thăng thiên và với Hiện diện TA LÀ của con qua phin lọc của các cơ chế trốn tránh, con sẽ không thể bắt đầu thực thi vai trò đồng sáng tạo thật của mình. Đúng thực là một số các con có trong Sứ vụ Thiêng liêng việc đối phó với cơ chế khiến con cảm thấy có chuyện không thể chịu đựng nổi. Làm sao con có thể đối phó với điều kiện đó nếu cách con nhìn nó bị pha màu bởi cơ chế trốn tránh khiến con muốn tránh xa điều kiện đó? Không phải là con cần trải nghiệm chiến tranh, chẳng hạn, ở cõi vật lý nhưng có thể là con có nhiệm vụ thách thức một khía cạnh nào đó của tâm thức tạo ra chiến tranh. Con sẽ không làm được chuyện này nếu con còn cơ chế trốn tránh khiến con không muốn xem xét chiến tranh vì con không muốn trải nghiệm lại chấn thương mà con trải qua trong quá khứ khi chạm trán chiến tranh. Con yêu dấu, con thấy chăng khuôn nếp đó?

16.7. Tinh thần trốn tránh ngăn chặn Sứ vụ Thiêng liêng

Để thực thi Sứ vụ Thiêng liêng của con và giúp nâng hành tinh này lên trên một tầng tâm thức nào đó, con phải sẵn sàng nhìn vào tâm thức đó ở các tầng bản sắc, tư tưởng, và tình cảm. Con cần xem xét các ảo tưởng của chính con và các ảo tưởng tập thể liên quan đến tâm thức đó. Sau đó, con vượt qua nó trong chính con và con thách thức tâm thức tập thể bằng cách đọc bài chú bài thỉnh hay đứng lên phơi bày một điều gì đó. Điều kiện đầu tiên mà con cần thực hiện là con không còn tìm cách trốn tránh điều kiện mà con muốn thay đổi. Con không thể thay đổi điều gì bằng cách tránh xa nó, vì cách duy nhất để thay đổi một điều là xem xét nó và đi vào trong nó. Con không thể đi vào trong điều gì khi con muốn tránh xa nó trong các thể tình cảm, tư tưởng hay bản sắc. Đó là lý do vì sao từ thời cổ xưa người ta đã nói là cách duy nhất để vượt qua sợ hãi là đối mặt nó.

Các thày đã cho con dụng cụ để giúp giải quyết vấn đề. Các thày đã dẫn con đến tầng tâm thức nơi con không còn bị sợ hãi thúc đẩy. Con nhận ra khi con xem xét các nỗi sợ của mình, chúng không làm con choáng ngợp như trước khi con bắt đầu khóa học. Con toàn toàn có khả năng nhìn thẳng vào chúng và xem xét cách con đã dùng giáo lý chân sư thăng thiên như một loại cơ chế trốn tránh để con cảm thấy an toàn vì con đang học giáo lý này.

Thày cần con nhận ra là một số người trong các con đã đi vào trạng thái tâm qua đó con cảm thấy tất cả những gì con cần làm là xem xét tâm lý cá nhân của chính mình. Nếu con khắc phục mọi thứ trong tâm lý cá nhân, thì con không cần xem xét các khía cạnh của tâm lý tập thể.

Nhiều người trong các con trong quá khứ đã bị dính líu vào chiến tranh, và đã cảm thấy chiến tranh là một quái vật vĩ đại trên hành tinh, và cá nhân con không thể làm gì để giải quyết vấn đề. Con đã tạo ra cơ chế trốn tránh qua đó con không thực sự muốn nhìn vào chiến tranh và tâm thức đã tạo ra chiến tranh. Con đã dùng giáo lý của các thày để khiến con tin rằng con không cần xem xét nó, con chỉ cần xem xét tâm thức của mình mà thôi. Con yêu dấu, khi con tiến lên những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, con cần trực diện các quái vật tập thể đó. Đây là điều Giê-su đã làm trong sứ vụ công chúng của thày. Thày không nói là con cần bắt đầu làm việc này ngay lúc này, vì thành thật mà nói, đây là việc con cần làm khi con đã đi quá tầng 96 – bằng hành động vỏ ngoài của con. Ngay lúc này, con cần nhận ra cơ chế trốn tránh và cơ chế này ảnh hưởng cách con nhìn con đường tu như thế nào. Con cũng cần nhận ra là con không thể nào hoàn toàn sáng tạo khi con còn một cơ chế trốn tránh.

16.8. Là người đồng sáng tạo

Là người đồng sáng tạo với Hiện diện TA LÀ có nghĩa gì? Nó có nghĩa con là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con. Thế nào là cánh cửa mở? Nó có nghĩa con không ngăn chặn những nơi mà Ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ có thể chảy qua. Nếu con có một cơ chế trốn tránh nói rằng con không muốn xem xét một điều kiện nào đó, thì làm sao Ánh sáng của Hiện diện TA LÀ có thể chảy vào điều kiện đó? Ánh sáng của Hiện diện TA LÀ chảy qua bốn thể phàm của con. Nó chảy qua cây cầu của sự chú ý có ý thức của con. Nếu con không chịu đặt sự chú ý ý thức của con vào một số điều kiện, thì Ánh sáng của Hiện diện TA LÀ không thể chảy qua nó vì không có sự kết nối giữa điều kiện và tâm của con. Do đó, không có sự kết nối giữa điều kiện và Hiện diện TA LÀ vì tâm của con là cái đứng giữa làm trung gian.

Điều đơn giản là đã đến lúc trong khóa học này con cần nhận ra là con đã tới trình độ không còn cần các cơ chế trốn tránh nữa. Con yêu dấu, một số trong các con có thể cảm thấy là, một lần nữa, thày đã chỉ con một điều con chưa làm đủ, một điều con cần khắc phục, một điều con thiếu sót, một điều con không làm tốt đủ. Đây không phải là điều thày đang làm. Thày đang chỉ cho con thấy là, qua quá trình học khóa học này và sẵn sàng vươn lên từ tầng 48 tới tầng này, con đã tiến triển rất nhiều. Con đã vươn lên cao hơn rất nhiều tâm thức của đa số con người trên hành tinh này.

Thày biết rằng, đã nhiều lần trong tâm vỏ ngoài con chưa nhìn nhận điều này. Các thày thường thấy hai khuynh hướng nơi các đệ tử tâm linh. Các thày thấy có một số đệ tử rất sốt sắng muốn cảm thấy họ đã đạt được điều gì, họ đã tiến bộ trên con đường tu, và điều này khiến họ hơn người khác. Đây là những người chưa khắc phục mặc cảm tự tôn. Họ có thể dùng giáo lý chân sư thăng thiên để xây dựng một sự kiêu hãnh tâm linh, cũng là một cơ chế trốn tránh. Họ cảm thấy mình hơn người khác. Đa số đệ tử của các thày không rơi vào thành phần này, nhưng lại rơi vào thành phần những người chưa hoàn toàn khắc phục mặc cảm tự ti. Những người này có khuynh hướng không thấy một cách ý thức những thành đạt và thành quả của mình.

Con yêu dấu, dù con có trong thành phần nào chăng nữa, thày cần con tới điểm không còn vấn đề tự tôn hay tự ti, thổi phồng thành đạt của mình thay hạ thấp thành đạt của mình. Điều quan trọng là phải thiết thực và nhận ra là bây giờ con đã tới một tầng cao trên con đường tâm linh. Điều này có nghĩa là có một số điều con không còn cần nữa. Con có thể nhìn chúng và con nói: “Tôi không cần điều này nữa.”

Khi con biết con không bất lực, khi con biết không có điều gì trên trái đất quy định được con, khi con biết bất cứ phản ứng nào cũng là một phàm linh nội tại và khi con biết cách khắc phục phàm linh nội tại, thì tại sao con lại cần trốn tránh bất cứ điều kiện nào trên trái đất? Con biết điều kiện chỉ có thể ảnh hưởng con qua phản ứng của con, mà phản ứng này dựa trên một phàm linh nội tại. Nếu con đuổi được phàm linh, điều kiện không thể ảnh hưởng ba thể cao của con và do đó tại sao con lại phải sợ khi xem xét nó? Tại sao con cần trốn tránh xem xét nó?

Con có thể đi vào một điều kiện ở tầng bản sắc, thấy nó ảnh hưởng bản sắc con ra sao, và nó ảnh hưởng bản sắc người khác ra sao. Con có thể đi vào điều kiện ở tầng tư tưởng, và xét xem điều kiện ảnh hưởng thể tư tưởng của con ra sao, và người khác đã chế ra những biện minh cầu kỳ như thế nào ở tầng tư tưởng. Con có thể đi vào thể tình cảm của mình, xét xem điều kiện ảnh hưởng con ra sao và thấy người khác đã dựng lên nỗi sợ hãi và thù ghét mạnh đến độ họ không thể đối phó với nó và do đó đã tìm cách trốn tránh điều kiện này. Con có thể thấy có người khác đã bị mắc kẹt trong phản ứng chiến đấu hung hãn chống lại các điều kiện này. Sau đó, khi con đã giải thoát mình khỏi các phản ứng trong chính tâm của con, thì con tự do thách thức chúng mỗi khi con có cơ hội.

16.9. Một cơ hội chưa từng có để giúp người khác

Con yêu dấu, con có nhận ra là con đang sống trong một thời đại trong đó mọi con người có cơ hội chưa từng thấy để biểu lộ chính họ dùng dụng cụ phi thường, mà con thể nào cũng đã biết tới, gọi là mạng Internet? Con có cơ hội, chưa từng có trong các thời đại trước, nói lên sự thực của mình như mình thấy ở tầng tâm thức hiện nay của con. Thày sẽ không nói con vào chi tiết con cần làm gì, nhưng con hãy nhìn những phương tiện hiện có trên mạng Internet và xem con có thể dùng mạng Internet để nói lên những khai ngộ mà con đạt được trong khóa học này hay trong giáo lý chân sư thăng thiên. Nếu con nhìn vào ứng dụng Facebook, thì con thấy có nhiều người (trong đó có một số trong các con) hay lặp lại những câu nói rất, rất dễ thương hay phim ngắn về chuyện này chuyện nọ, các chuyện này chỉ giản dị là chuyện vô bổ, một hình thức cơ chế trốn tránh nhằm giúp con người nhất thời cảm thấy dễ chịu.

Các đệ tử chân sư thăng thiên có thể nào dùng mạng Internet để chia sẻ một số các sáng ngộ thật, các sáng ngộ thách thức, mà con đã đạt được khi là đệ tử chân sư thăng thiên và khi theo học khóa học này? Con hãy suy ngẫm chuyện này. Một lần nữa, thày không muốn con phải cảm thấy hổ thẹn nếu con chưa làm, nhưng mặt khác thày muốn đủn con một chút về hướng thấy là con nay đã sẵn sàng nói lên sự thực của mình như con thấy nó. Con không cần phải đợi các điều kiện vỏ ngoài thuận tiện. Con chỉ cần lấy quyết định và chấp nhận là con có một điều gì mà hầu hết mọi người trên hành tinh này không có. Con có sáng ngộ, con có nhận biết, con có nhiều tự do hơn. Do đó, con có thể giúp người khác và có thể một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con là làm điều này.

Một lần nữa, một khi con đã loại cơ chế trốn tránh thì con nhận ra là con đã có cơ chế trốn tránh khiến con cảm thấy con không cần, con không nên, hay con sẽ gặp nguy hiểm nếu con thách thức các ảo tưởng và dối trá của sa nhân. Do đó, bất kể lý cớ nào mà con đã tạo ra cho mình, cơ chế trốn tránh căn bản nhất, khó loại trừ nhất, của con là con cảm thấy: “Ồ, thật ra tôi không cần biểu hiện quả vị Ki-tô của tôi, ít nhất là chưa làm ngay bây giờ, hay không qua cách này hay cách nọ, hay bằng cách thách thức điều kiện này hay điều kiện nọ.” Cơ chế trốn tránh căn bản là cơ chế khiến con cảm thấy con làm đúng, con được an toàn khi con không biểu hiện quả vị Ki-tô của con, hay con chưa làm ngay bây giờ, hay con không biểu hiện nó cách này hay cách khác.

Con yếu dấu, nếu con chịu nhìn vào cơ chế này và vượt lên trên nó, thì con sẽ sẵn sàng để nhận những chỉ dẫn của thày Saint Germain. Con nhận ra là khi con đưa ra một lời hướng dẫn, con nhắm vào một trình độ nào và do đó chỉ có những người đã lên tới trình độ đó mới nhận được lợi ích của lời chỉ dẫn. Thày Saint Germain sẽ không đưa ra lời chỉ dẫn cho tầng 48. Mục đích của thày là dẫn con tới tầng 96 và đặt con vững vàng trên con đường tới quả vị Ki-tô sẽ dẫn con tới tầng 144. Thày sẽ giả sử là con tới khóa nhập thất sẵn sàng đón nhận các chỉ dẫn mà thày đã sửa soạn cho con.

Nếu con chưa sẵn sàng thì con vẫn có thể đọc quyển sách của thày Saint Germain với trí vỏ ngoài, con có thể đọc các bài thỉnh và làm các thực tập, nhưng con sẽ không nâng tâm thức mình lên. Do đó, con sẽ không thể biểu lộ khả năng đồng sáng tạo của mình. Con không thể là người có thuật biến hóa huyền bí. Con sẽ không đạt được khả năng kết đọng những thay đổi mà thày Saint Germain sẽ dạy con. Có thể nói là sáu Thượng sư đầu chỉ giản dị chuẩn bị con tới khóa học của thày Saint Germain. Lẽ dĩ nhiên, các thày cũng đã chuẩn bị con cho chính các thày, vì nếu con chưa hoàn tất các khai ngộ do Chân sư MORE trình bày, thì con chưa sẵn sàng tới thày Lanto, vân vân và vân vân.

16.10. Vượt qua sự nản chí

Một đề tài mà thày muốn trình bày trong phần cuối này là sa nhân, như thày đã nói, thích tạo cho con một hoàn cảnh và sau đó khiến con cảm thấy con không có lối trốn thoát. Họ cũng thích tạo cho con một hoàn cảnh mà con cảm thấy con có lối thoát ra, con có cảm tưởng có thể tạo một cuộc sống tốt đẹp hơn cho mình hay cho hành tinh – và sau đó các chuyện này không xảy ra và con cảm thấy nản chí. Người ta có câu: thối chí là dụng cụ sắc bén nhất trong hộp dụng cụ của ác quỷ. Nếu con nhìn lịch sử các tôn giáo trên trái đất một cách thành thực, thì con thấy rất, rất nhiều người đã cải đạo theo một tôn giáo, đã cảm thấy đầy lạc quan và hy vọng, và sau đó, có thể là sau nhiều kiếp theo tôn giáo đó, họ bị thất vọng và cảm thấy thối chí.

Các thày có nói là có nhiều người hiện sống trong thế giới Tây phương theo thuyết vô thần hay chống Cơ đốc giáo vì trong nhiều kiếp sống họ đã tin và áp dụng những nghi thức của đạo Cơ đốc giáo. Sau nhiều kiếp sống họ nhận ra rằng họ không được cứu rỗi sau kiếp đó mà phải đầu thai trở lại, thì họ bỏ cuộc không theo Cơ đốc giáo nữa, trở nên thối chí và theo khuynh hướng vô thần, duy vật hay hình thức chối bỏ tôn giáo khác. Thày muốn làm một cố gắng nhỏ giúp con đến được điểm không rơi vào bẫy của hình thức thối chí mà sa nhân muốn con rơi vào.

Con yêu dấu, nếu con đã theo học khóa học này (con đã nghiên cứu các bài truyền đọc và đọc các bài thỉnh ít nhất trong chín ngày) thì con đã tiến bộ đáng kể trên con đường tâm linh. Có thể con không cảm thấy như vậy, dù rằng đa số học viên theo học khóa này đã cảm thấy tiến cao hơn, và khóa này đã đáng công sức học. Con nhận ra tâm thức của con đã chuyển vọt. Những người trong các con chưa cảm thấy vậy, thì con có thể nhận ra bằng cách chuyển đổi thái độ của con về đời sống trên trái đất như thày có trình bày trong các bài giảng trước, nhưng thày sẽ bình luận thêm về chủ đề này ở đây.

Con yêu dấu, con có nhớ câu nói cổ: “Ly nước nửa đầy hay nửa vơi?” Câu này có nghĩa là trên một hành tinh như trái đất, rất rất dễ thấy một số điều kiện tiêu cực khiến con nhận định đời sống không thể chịu đựng được, có quá nhiều vấn đề và tiến triển quá chậm. Con thấy nhiều người tin vào các lời tiên tri tiêu cực và nghĩ rằng có tai họa nào đó sẽ xảy ra bất cứ lúc nào, và do đó không có lý do để trở thành Ki-tô đang hành động. Một lần nữa đây là một cơ chế trốn tránh. Con yêu dấu, có một tâm thức nghèo đói rất mạnh trên trái đất. Lẽ dĩ nhiên, con biết có hàng tỷ người sống trong nạn nghèo đói. Vì sao vậy? Vì họ bị mắc kẹt trong phàm linh tập thể về nghèo đói và thiếu thốn, mà ta có thể gọi là “thái độ thiếu hụt”. Phàm linh này do sa nhân tạo ra. Ngay từ ban đầu, họ đã tạo ra thái độ thiếu hụt đó vì cuộc sống của họ dựa trên một sự thiếu hụt. Tại sao vậy? Họ không nhận được Ánh sáng từ cõi thăng thiên, từ Hiện diện TA LÀ của họ. Họ bị bắt buộc phải làm những chuyện họ làm để ăn cắp ánh sáng từ bốn cõi thấp của vũ trụ vật chất, và do đó họ lúc nào cũng có trải nghiệm thiếu hụt. Lúc nào cũng thiếu hụt năng lượng, thiếu hụt tiền bạc, thiếu hụt mọi thứ. Con cần nhận ra đây là một phàm linh tập thể rất mạnh, và rất có thể con đã bị nó ảnh hưởng và đã tạo ra một phàm linh nội tại cho rằng có cái gì đó thiếu sót, có cái gì đó thiếu hụt, có cái gì vắng mặt, có cái gì đó không tốt đủ hoặc trên hành tinh, trong cuộc đời mình hay trong tâm thức mình. 

Con yêu dấu, thày không quan tâm việc con thay đổi hành tinh. Thày còn không quan tâm hoàn cảnh bên ngoài của con. Điều thày quan tâm là giúp con nhận ra là nếu con còn nhìn qua phin lọc của phàm linh nội tại này, con sẽ chỉ thấy cái thiếu sót, con sẽ chỉ thấy cái tiêu cực. Con có thể thấy tất cả những biện minh tại sao con không tốt đủ, tại sao con chưa tiến bộ đủ trên con đường tu, tại sao con chưa thăng vượt điều này điều nọ, tại sao con không đạt được trong khóa học này điều con chờ đợi khi bắt đầu khóa học. Con yêu dấu, thày đã nói gì trước đây? Khi con nghe tới Sứ vụ Thiêng liêng lần đầu, con nhìn vào Sứ vụ Thiêng liêng dựa trên tầng tâm thức con có lúc đó, và con có những chờ đợi làm sao con sẽ hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng. Giống như vậy, khi con bắt đầu học khóa này, con ở một tầng tâm thức thấp hơn ngày hôm nay. Con mong chờ khóa học này sẽ đem lại cho con điều gì đó dựa trên tâm thức đó.

Ngày hôm nay con đã vươn lên một tầng tâm thức cao hơn và điều giản dị là con sẵn sàng nhìn vào sự mong chờ trước kia của con và nói: “Tôi không cần bạn nữa vì tôi đã vươn lên một tầng tâm thức cao hơn và bây giờ tôi sẵn sàng nhìn khóa học, nhìn con đường tâm linh, nhìn chính mình dựa trên tầng tâm thức hiện nay của tôi.” Con yêu dấu, nếu con sẵn sàng làm bước chuyển vọt này, thì con có thể quyết định một cách ý thức – và con sẽ cần một quyết định có ý thức; điều đó sẽ không giản dị xảy ra vì con đã theo học khóa này hay làm chuyện gì khác – là con sẽ có một thái độ tích cực, một cách tiếp cận tích cực, một cái nhìn tích cực về mình, về con đường tâm linh và về sự thành đạt tâm linh của mình.

Các thày đã nói gì trong suốt khóa học này? Bất cứ phản ứng nào của con không dựa trên tình thương, không tích cực, đều đến từ phàm linh nội tại. Nếu con có phản ứng với khóa học này, với chính con, với tiến triển tâm linh qua các thiếu sót của mình, thì phản ứng này không phải là con. Không phải là cái Ta Biết đã phản ứng như vậy vì cái Ta Biết biết là không có gì trên trái đất có thể quy định nó. Đây là một phàm linh nội tại đang phản ứng, vậy con hãy sẵn sàng nhìn phàm linh nội tại này và sử dụng các dụng cụ và thủ tục mà các thày đã cung cấp để buông bỏ nó. Lẽ dĩ nhiên, con có quyền tự quyết. Nếu con muốn sống phần còn lại cuộc đời trên hành tinh này với một thái độ tiêu cực, với một cảm nhận thiếu hụt, thì thày sẽ tôn trọng quyền tự quyết của con. Nếu như vậy thì con không sẵn sàng đón nhận những khai ngộ mà Saint Germain cống hiến, và con sẽ không hưởng được lợi lạc gì dù con vẫn đọc quyển sách và các bài thỉnh.

Con không thể là một người đồng sáng tạo khi con ở trong trạng thái thiếu hụt. Con chỉ có thể là người đồng sáng tạo khi trong tâm con biết: “Tự con không làm được điều gì, chính đấng Cha trong con đang làm và với Thượng đế điều gì cũng có thể làm được.” Giê-su nói điều này 2000 năm trước đây. Nếu con đường tới quả vị Ki-tô được duy trì, thì con người đã có thể tới điểm không những chỉ tin và hiểu mà thực sự trải nghiệm sự thực hằng sống là con có thể đồng sáng tạo hoàn cảnh sống tốt hơn cho chính mình và đóng góp đồng sáng tạo hoàn cảnh tốt hơn cho thế giới. Con đã đóng góp xây dựng hoàn cảnh tốt hơn cho thế giới bằng cách vươn lên tầng tâm thức mà con đạt được ngày hôm nay. Con hãy cho phép mình công nhận điều này, cho phép mình cảm thấy, biết, và trải nghiệm là mình đã tiến triển.

Do đó, con yêu dấu, thày chỉ còn một công việc cuối. Công việc này không dựa trên các khai ngộ mà con đã nhận từ thày, mà dựa trên những gì con đã nhận được từ tất cả các Thượng sư. Đây không phải là điều chỉ mình thày, Nada, nói mà là điều cả sáu vị: Chân sư More, Lanto, Paul người Venice, Serapis Bey, Hilarion, và thày đồng nói: “Con, người giúp việc tốt và trung thành, đã làm việc giỏi. Con đã trung thành làm nhiều chuyện, bây giờ con hãy sẵn sàng để Saint Germain biến con thành người ngự trị trên nhiều chuyện.”

Tìm được bình an trong quan hệ

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 23/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada. Ở tầng thứ sáu của khóa nhập thất của thày, lẽ tự nhiên con giáp mặt với hai liều lượng của Tia thứ Sáu. Thày muốn bắt đầu bằng khai triển thêm những điều thày đã giảng trong các bài trước, đặc biệt liên quan đến nghiệp quả. Hiển nhiên có nhiều hiểu biết, ý tưởng và lý thuyết phiến diện về nghiệp quả lưu truyền trên thế giới. Thầy cần con vượt quá những thuyết này và hiểu một cách sâu sắc hơn con tạo nghiệp như thế nào.

Có rất, rất nhiều người tin vào một triết lý Đông phương hay Thời đại mới cho rằng nghiệp quả là hậu quả của một hành động, có nghĩa là họ tin rằng nghiệp quả cơ bản là một hiện tượng vật lý. Con làm một hành động vật lý tạo ra nghiệp, và khi nghiệp quả trở lại, nó tạo ra một sự việc vật lý xảy ra cho con. Như thày đã giảng trong các bài trước, hiểu như vậy không đúng. Ta không thể nói nghiệp quả ở tầng vật lý vì xung lực nghiệp mà con tạo ra (ngay cả khi được tạo ra bằng một hành động vật lý) không phải là một xung lực trong quang phổ rung động vật lý. Nó là một xung lực đi vào ba thể cao và luân lưu trong ba tầng cao cho tới khi nó có thể trở về trong trường năng lượng của con. Sau đó, như thày đã giảng, nó có thể, và cũng có thể không, trở thành một sự việc vật lý tùy theo con đã thay đổi tâm thức hay chưa.

Lý do vì sao con cần suy ngẫm điểm này vì con nhận ra là không có gì trong cõi vật lý quy định được con. Con cũng nhận ra là không có gì trong thế giới vật lý có thể định đoạt con sẽ thăng thiên hay không. Nhiều người trong các con đã chấp nhận quan niệm cho rằng, để hội đủ điều kiện thăng thiên, con cần cân bằng nghiệp quả. Điều này không sai, nhưng nghiệp quả không phải là nghiệp quả vật lý. Cân bằng nghiệp quả, trước hết, là thanh lọc các thể cảm xúc, tư tưởng và bản sắc khỏi các phàm linh hiện diện trong ba thể đó. Quả thực cân bằng nghiệp quả không phải là bù đắp một điều gì đó bằng một hành động vật lý. Nó trước tiên là giải quyết các phàm linh nội tại để khi ông hoàng thế gian tới, y không tìm thấy gì trong ba thể cao của con để y có thể khiến con đi vào một khuôn nếp phản ứng. Đây chính thực là ý nghĩa cân bằng nghiệp quả.

Lẽ dĩ nhiên, trong tiến trình nghiệp quả có một xung lực năng lượng, nhưng một lần nữa, xung lực này không có tính chất vật lý. Thày không phủ nhận là con cần đọc một số bài chú bài thỉnh để làm rã tan xung lực năng lượng đó, nhưng khía cạnh quan trọng nhất của cân bằng nghiệp quả là làm rã tan các phàm linh.

14.1. Tương tác với người khác mà không tạo nghiệp

Tuy nhiên, có một khía cạnh khác, có thể gọi là khía cạnh Omega, của cân bằng nghiệp quả là tránh tạo ra nghiệp mới. Lẽ tự nhiên, nếu con tiếp tục tạo nghiệp mới, thì con càng phải thỉnh cầu nhiều hơn ngọn lửa tím để cân bằng tất cả nghiệp quả. Con cần áp dụng nguyên tắc đầu tiên của khoa Cấp cứu, là ngưng tai nạn. Nói cách khác, con cần ngưng tạo nghiệp mới, ngưng những vòng xoắn phản ứng khiến con tạo nghiệp. Trong bài trước, thày có giảng làm sao ngưng phản ứng với sa nhân, không phản ứng khi họ khiến con cảm thấy tội lỗi, không xứng đáng, bất toàn hay bất cứ gì khác.

Bây giờ thày đặt trọng tâm vào cách thông thường nhất mà con người tạo nghiệp, đó là khi họ tương tác với người khác. Lẽ tự nhiên, con là đệ tử chân sư thăng thiên và con đã theo học giáo lý của các thày một thời gian rồi nên đã tới tầng khai ngộ này. Con đã chế ngự được những lối tương tác vật lý, hung bạo, hung hãn. Tuy nhiên, con đang ở một tầng tâm thức nơi con chưa hoàn toàn tự giải thoát khỏi những vòng xoắn phản ứng với người khác. Với một người ở tầng tâm thức của con, con không có hành động hung hãn với người khác, nhưng con vẫn có khuynh hướng nghĩ rằng người khác đang có hành động hung hãn với con – và dĩ nhiên là họ làm vậy.

Con có thể nhìn cuộc đời Giê-su và thấy là khi thày ở tầng tâm thức 143, sa nhân hành động chống thày và đem thày đóng đinh trên thập tự giá. Tuy nhiên, điều thày muốn nói đặc biệt ở tầng này, là con có cảm giác người khác có thể có hành vi hung hãn với con và con thường cảm thấy bất lực khi đối phó với hoàn cảnh này. Thày có nói tới nhu cầu tôn trọng quyền tự quyết, vậy nếu con hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết của họ thì con không thể ngăn họ có hành động hung hãn với con. Vậy làm sao con tránh cảm thấy bất lực?

Con yêu dấu, con cần hiểu sâu sắc cách luật tự quyết tự trải bày, đặc biệt liên quan đến nghiệp quả. Chúng ta hãy bắt đầu bằng cách xem xét trái đất là loại hành tinh nào. Thày có nói là có rất nhiều hành tinh có tầng tâm thức cao hơn trái đất nhiều, và tại các nơi đó không có sự hung hãn mà con thấy trên trái đất. Trái đất là một trong những hành tinh thấp nhất khi so sánh mức độ hung hãn giữa con người với nhau. Khi con nhìn nhận sự kiện này, con có thể bắt đầu xem xét con chờ đợi được gì nơi cuộc sống trên trái đất.

Có một số người trong các con là a-va-ta đến từ hành tinh tự nhiên là nơi con không bao giờ chạm mặt sự hung hãn. Do đó, con có một ký ức vi tế là đáng lẽ không được có sự hung hãn. Chuyện con người có hành động hung hãn với nhau là điều không tự nhiên. Một số khác trong các con là cư dân nguyên thủy của trái đất, và con có một ký ức vi tế về đời sống trên trái đất trước khi sa nhân được phép đầu thai xuống đây. Con cũng có cảm giác là con người có hành động hung hãn với nhau là không “tự nhiên”, không “đúng”.

14.2. Một mong chờ không thiết thực khác

Con có thấy chăng là con chờ đợi cuộc sống phải như thế nào trên trái đất. Tuy nhiên, chờ đợi này không phù hợp với thực tại cuộc sống gì trên trái đất. Có một khoảng cách giữa chờ đợi của con và thực tại. Do đó, con cần phải làm một lượng định đơn giản. Con có thể thay đổi hiện trạng trên trái đất chăng? Lẽ dĩ nhiên là không. Con không thể chỉ búng tay là loại bỏ chiến tranh và sự hung hãn khỏi hành tinh.

Con có thể chọn hướng hành động thiết thực nào? Đó là con buông bỏ những chờ đợi mà con đã tạo ra trên một hành tinh khác hay khi trái đất không như ngày nay. Nói cách khác, con nhận ra con có một chờ đợi không thiết thực và đã tới lúc con sẵn sàng nhận ra là nó kềm hãm sự tiến bộ của con. Nó tạo căng thẳng, mâu thuẫn trong con, khiến con bị kéo đi nhiều hướng. Nó khiến con như căn nhà bị chia rẽ bên trong, giống như điều các phàm linh nội tại vẫn làm. Như thày đã giảng, sa nhân rất vui sướng tạo ra một sự chờ đợi nơi con, tỷ dụ như Thượng đế sẽ tới và cứu con, và sau đó con thấy thực tại phá tan kỳ vọng đó, khiến con hồ nghi không biết đâu là thật, đâu là giả.

Con cần tới điểm nhìn nhận là con đang ở trên một hành tinh rất dày đặc, rất khó khăn, và do đó con cần nhìn vào sự chờ đợi của mình và nói: “Chúng không áp dụng vào hành tinh này. Chờ đợi của tôi không thiết thực, không hợp lý, không phù hợp với thực tại trên hành tinh này.” Sau đó, con giản dị buông bỏ nó. Con cần buông bỏ nó – giống như con buông bỏ mọi phàm linh khác, vì sự chờ đợi không thiết thực của con đã trở thành một phàm linh nội tại. Con yêu dấu, con buông bỏ nó.

Con nhận ra trái đất là loại hành tinh nào và con nói: “Dựa trên những gì con biết về hành tinh này, dựa trên những gì con biết về quyền tự quyết, con có thiết thực chăng nếu con có bất cứ chờ đợi nào về điều phải xảy ra hay không được xảy ra trên trái đất?” Câu trả lời sỗ sàng là: “Không”. Câu trả lời này thoạt nghe có thể sỗ sàng, nhưng khi con chấp nhận nó, nó đem lại giải thoát. Con thấy là không có lý do gì để có bất cứ mong chờ nào và do đó không có gì trong con chống cự đời sống trên trái đất. Khi con không mong chờ điều phải xảy ra hay điều không được xảy ra, thì con có thể đến với cuộc đời mà không bị ý tưởng nào bao phủ. Con có thể đến với cuộc sống, như Giê-su nói, với tâm ngây thơ của trẻ thơ.

Khi con ngây thơ như thế, không mong chờ điều phải xảy ra hay điều không được xảy ra, thì con đang ở trong vương quốc của Thượng đế trong chính tâm con. Lúc đó con nhận ra là không có lý do nào để chờ đợi điều này phải xảy ra hay không được xảy ra. Con biết không có điều gì xảy ra hay không xảy ra có thể quy định được con. Không có gì trong cõi vật lý quy định được con. Không có gì trong cõi vật lý ngăn cản được sự thăng thiên của con.

Con có thể tới điểm nhìn người khác và nói: “Tại sao tôi lại có bất cứ chờ mong người khác phải làm điều này hay không được làm điều nọ?” Nếu con nhìn lại cuộc đời mình, con thấy là suốt cuộc đời (và thày có thể bảo đảm với con là trong nhiều kiếp trước cũng vậy) con có những chờ đợi, có khi vi tế có khi hiển nhiên, về người khác. Con muốn họ làm một số chuyện, con không muốn họ làm một số chuyện, và tình trạng này khiến con lúc nào cũng trong trạng thái căng thẳng với người khác. Các chờ mong cũng khiến con cảm thấy bất lực vì một đằng con mong muốn ngăn ngừa người khác làm điều gì hại con hay tự hại, nhưng mặt khác con cảm thấy con không được phép dùng bất cứ phương tiện hung hãn nào để ép buộc họ. Một lần nữa, con lại cảm thấy bất lực.

14.3. Thế giới không xoay quanh con

Một khi con buông bỏ chờ đợi người khác làm điều này điều kia, thì con không cần cảm thấy bất lực nữa. Lúc đó, con nhận ra là con có thể tiến thêm bước nữa về hướng an bình nội tâm bằng cách nhớ lại những gì thày nói về tư duy thần diệu. Trong thế giới có một phàm linh tập thể dựa trên trải nghiệm của trẻ thơ khi chúng còn trong bụng mẹ. Tất cả những người đã sinh ra trong suốt lịch sử trái đất đã góp phần vào phàm linh này.

Khi một bà mẹ mang thai nhi trong dạ, bà biết là nó là một sinh thể khác, một xác thân khác đang lớn lên trong bụng bà. Bà nhận ra điều này vì bà nhớ rất rõ lúc bà không mang thai, là lúc bà làm chủ thân thể của bà. Khi bà mang thai thì có một sinh thể khác lớn lên bên trong thân thể của bà, và bà nhận ra điều này rất rõ. Đây là con của bà, bà có sự nối kết với nó, nhưng bà biết nó là một sinh thể khác ngày nào đó sẽ sinh ra và có cuộc sống riêng biệt. Nhưng về phía hài nhi thì nó cảm thấy thế nào?

Đa số con người không có ký ức về thơi kỳ mình chưa sinh ra, nhưng nếu con có ký ức đó thì con sẽ thấy là hài nhi trong bụng mẹ không trải nghiệm nó là một thân thể tách biệt vì hài nhi trải nghiệm thân thể bà mẹ là thân thể của nó. Hài nhi không biết là có một sinh thể khác ở trong thân thể bà mẹ. Nó thực sự cảm thấy thân thể bà mẹ là thân thể của , và khi hài nhi lớn lên trong bụng mẹ, nó bắt đầu cảm thấy hơi bối rối về sự hiện diện của thân thể này bên trong thân thể lớn hơn. Kết quả là đa số trẻ thơ sinh ra với ý niệm thế giới là một sự nối dài của thân thể của chúng. Hài nhi đã quen coi thân thể bà mẹ như sự nối dài của nó. Khi chúng sinh ra, lúc ban đầu chúng cảm thấy thế giới là một sự nối dài của thân thể của chúng. Chúng chưa có ý niệm là một sinh thể tách biệt trong một thân thể tách biệt. Không phải tất cả trẻ thơ, nhưng đa số trẻ thơ cảm thấy như vậy.

Kết quả là nhiều trẻ thơ trải qua một giai đoạn, mà các tâm lý gia đã nhận diện, khi chúng cảm thấy: “Thế giới là một sự nối dài của con, con là trung tâm thế giới. Do đó, con chịu trách nhiệm tất cả những gì xảy ra. Mọi chuyện xảy ra đều xoay quanh con và liên quan tới con.”

Thày cần con nhận ra là trong ba thể cao của con, đặc biệt là trong thể tình cảm, có một phàm linh nội tại vẫn còn cảm thấy nó là trung tâm của thế giới của con. Nó có thể không cảm thấy có trách nhiệm về tất cả những gì xảy ra trên thế giới, và nó nhận ra người khác là sinh thể tách biệt. Tuy nhiên, phàm linh này cảm thấy mọi chuyện xảy ra trong cuộc sống của nó xoay quanh nó. Mọi chuyện mà người khác làm liên quan tới nó.

Khi con chưa nhìn thấu phàm linh này, thì con có khuynh hướng cảm thấy, có thể là ở trong tiềm thức, là điều người chung quanh con làm liên quan tới con. Nói cách khác, con có thể cảm thấy có trách nhiệm về điều họ làm, bị tổn thương bởi hành động của họ, cảm thấy họ làm điều đó chống lại con. Bây giờ thày cần con suy ngẫm điều này vì điều quan trọng là con nhận ra đây là cảm nhận của một phàm linh nội tại. Cái Ta Biết không cảm thấy như vậy. Cái Ta Biết biết nó là một sinh thể tách biệt, người khác là sinh thể tách biệt và họ có quyền tự quyết giống như con có quyền tự quyết của mình. Một khi con tách ra khỏi phàm linh thì con nhận ra một điều rất, rất quan trọng.

14.4. Cảm thấy con là nguyên nhân của hành vi người khác

Con có thể có một người trong gia đình hay một người thân cận nổi giận với con. Có thể là người đó lên án con đã làm một điều mà đáng lẽ con không được làm, hay đã không làm điều mà con phải làm, theo sự đánh giá của người đó. Người đó đến với con với năng lượng hung hãn và lên án, và phản ứng bình thường của con là cảm thấy vì có chuyện gì con đã làm hay không làm nên người đó mới nổi giận như vậy. Nói cách khác, con cảm thấy có trách nhiệm, con cảm thấy con là nguyên nhân của hành vi người đó.

Chúng ta đã nói về đề tài này nhưng con cần nhìn lại một lần nữa và nhận ra là người kia không nói và làm như vậy bởi vì con. Con không chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của người khác. Con chịu trách nhiệm về những lựa chọn của chính con nhưng không chịu trách nhiệm về lựa chọn của người khác. Đúng là con chịu trách nhiệm về những hành động của con, những gì con làm, những gì con nói, nhưng con không chịu trách nhiệm về phản ứng của người kia đối với hành động của con.

Đa số đệ tử chân sư thăng thiên tới tầng này không gặp khó khăn đạt khai ngộ mà thày nói tới trong bài giảng trước khi thày nói là con cần nhận ra là con chịu trách nhiệm về phản ứng của mình. Nhưng họ thường khó nhận ra mặt kia của đồng tiền và nói: “Nếu tôi chịu một trăm phần trăm trách nhiệm về các phản ứng của tôi, thì tôi một trăm phần trăm không chịu trách nhiệm về phản ứng của người khác.” Con cần bước lùi lại và nói: “Tại sao người kia lại làm điều này với tôi? Có thể tôi đã làm điều gì kích động một phản ứng nơi người kia, và phản ứng này khiến họ lên án tôi. Tuy tôi chịu trách nhiệm về hành động của tôi, nhưng tôi không chịu trách nhiệm về phản ứng của người kia.”

Do đó, con không cá nhân hóa hoàn cảnh bằng cách nhận ra rằng người kia không làm điều đó chống lại con. Người kia làm điều đó để phản ứng lại con nhưng người kia không làm điều đó chống lại con. Con bây giờ có thể bắt đầu tạo sự khác biệt trong tâm mình.

Điều quan trọng là ở đây con nhận ra sự khác biệt vi tế, không dễ hiểu, giữa tâm thức nhị nguyên và tâm thức Ki-tô. Các thày đã gọi tâm thức nhị nguyên là tâm thức tách biệt vì nó tách mọi thứ ra thể loại khác nhau. Nó tách con ra khỏi Thượng đế, người khác và hành tinh nơi con sống. Tâm thức Ki-tô không tách ra nhưng nó phân biện – nó nhận ra sự khác biệt.

Con cần nhận ra sự khác biệt khi con nhận ra con có khuynh hướng cảm thấy là khi người khác làm điều gì ảnh hưởng đến con, họ làm chống lại con, họ chống lại cá nhân con. Nếu họ tức giận, con nghĩ họ giận con và con cảm thấy có trách nhiệm. Vì con là người tâm linh sẵn sàng sửa đổi chính mình, con lúc nào cũng nhìn vào: “Làm sao tôi có thể thay đổi chính tôi để người kia không tức giận tôi?” Một khía cạnh của việc tăng triển tâm thức Ki-tô là con có thể tới điểm phân biện và nói: “Điều người kia làm không phải là để trực tiếp chống lại tôi. Nó không phải là một sự tấn công cá nhân tôi. Nó do phản ứng nội tâm của người đó gây ra.”

14.5. Vòng xoắn nghiệp quả không bao giờ dứt

Con yêu dấu, con cũng hiểu là thách đố lớn nhất cho đa số người trên trái đất là đối xử với những người thân cận nhất, tỷ dụ như trong gia đình. Con cảm thấy không thể rời bỏ các người đó. Do đó, con cảm thấy phải phản ứng lại họ và phải coi trọng những gì họ làm hay nói – con phải coi là những điều đó liên hệ tới cá nhân con. Kết quả là đa số con người đã tạo ra những khuôn nếp phản ứng khi liên hệ với nhau. Nếu một người trong gia đình nổi giận với con, con cảm thấy có trách nhiệm, con cảm thấy phải coi chuyện này như liên hệ tới cá nhân con, con phải xét xem con có thể thay đổi như thế nào để tránh người đó nổi giận.

Sự việc này khiến đa số con người trên trái đất bị dính líu vào cái mà các thày đã gọi là vòng xoắn nghiệp quả hay nghiệp quả nhóm, tức là họ có khuôn nếp phản ứng rất mạnh giữa nhau tiếp nối từ kiếp này sang kiếp khác. Con thấy hiện tượng này ở khắp nơi. Thày cần con nhận ra là những người đó không làm điều đó chống lại cá nhân con. Họ có thể là người trong gia đình con và con có thể có liên hệ cá nhân với họ, nhưng họ không tức giận cá nhân con. Điều này có thể hơi khó hình dung, vậy chúng ta hãy làm một thí nghiệm tư tưởng. Ta hãy giả thử con có một người trong gia đình tức giận con về một điều gì con đã làm. Bây giờ, con hãy tưởng tượng người đó có một người khác cũng làm với họ điều mà con đã làm. Liệu người đó có tức giận với người sau hay không? Câu trả lời là: “Rất có thể”

Câu chuyện không phải lúc nào cũng xảy ra như vậy, vì có lúc một người tự cho phép nổi giận với một người trong gia đình nhưng không nổi giận với người ngoài. Con có thể thấy là con người có khuynh hướng đối xử với người trong gia đình, được gọi là người “thân thương”, tệ hơn người hoàn toàn xa lạ.

Trong đa số trường hợp, con thấy là nếu một người khác làm (hay ít ra là đã từng làm) cùng việc con làm với người thân nhân của con, thì người thân nhân cũng sẽ tức giận với người này y như với con. Điều này giúp con nhận ra là sự tức giận của người thân nhân không gắn liền với cá nhân con. Nó có thể hướng tới người khác như tới con. Nếu sự tức giận của người đó không hướng tới cá nhân con, thì đâu là tính cách cá nhân trong đó? Nó có tính cách cá nhân bên trong tâm thức người thân nhân. Sự tức giận nằm bên trong các thể tình cảm, tư tưởng và bản sắc của người đó. Con có thể đã kích động sự tức giận nhưng con không phải là nguyên nhân. Nguyên nhân là một cơ chế nội tại trong tâm lý người đó, giống như sự tức giận của con là một cơ chế nội tại trong tâm lý của con.

14.6. Cảm thấy mình có trách nhiệm về tâm lý người khác

Con yếu dấu, con đã sẵn sàng nhìn vào tâm lý của chính mình nếu không thì con đã không theo khóa học này cho tới đây. Người thân nhân con có thể không sẵn sàng làm vậy. Con cần nhận ra là con cần thận trọng trong việc sẵn sàng nhìn vào tâm lý mình. Con không nên quá sẵn sàng nhìn vào tâm lý mình đến độ con nhận trách nhiệm về cơ chế tâm lý trong tâm người khác. Sự tức giận của người kia là một cơ chế tâm lý trong bốn thể phàm của người ấy, không phải trong tâm của con, không phải trong thể phàm của con. Do đó, con không thể nhận trách nhiệm về sự tức giận này và tìm cách thay đổi mình để né tránh sự tức giận của người kia. Con không thể né tránh được, sự tức giận vẫn có mặt trong tâm người đó và chỉ chờ một yếu tố kích động khác.

Điều con và đa số mọi người làm trong trường hợp này là tạo dựng trong tâm mình ý tưởng phải tránh hành vi nào hay phải làm hay nói điều gì để né tránh sự tức giận của người kia. Điều này có nghĩa là lúc đó con tạo ra một hành động thiếu cân bằng trong con, do sự bất cân bằng của người kia gây nên. Điều thày muốn chỉ cho con thấy là để bước ra khỏi khuôn nếp phản ứng với người khác, để đạt được an bình trong quan hệ của con với người khác, con cần nhìn vào chính mình và phân biện rằng: “Tôi sẽ không cảm thấy có trách nhiệm đối với vấn đề tâm lý của người khác và tôi sẽ không cho phép mình tiếp tục mang những phàm linh nội tại mà tôi đã tạo ra để bù đắp hay né tránh những vấn đề xúc cảm của họ.”

Con cần nhìn vào chính mình trong quan hệ của con với người khác và nhận ra những khuôn nếp phản ứng mà con đã tạo dựng. Rồi con thấy được có một phàm linh đằng sau khuôn nếp đó và con buông bỏ nó. Con có quyền buông bỏ phàm linh này. Con yêu dấu, khi con có thể nhìn vào quan hệ của con với một người khác và dùng nó để thấy khuôn nếp phản ứng của mình, phàm linh nội tại của mình, thì con giải thoát mình khỏi bất cứ khuôn nếp nào với người đó.

14.7. Thay đổi cách quan hệ vận hành

Lúc đó, có hai chuyện sẽ xảy ra. Trước nhất, con được giải thoát khỏi mọi khuôn nếp phản ứng, con có thể gặp người kia với tâm ngây thơ của trẻ thơ, và con có thể tránh không phản ứng lại người đó nữa. Con có thể tránh phản ứng như con đã phản ứng trong quá khứ. Con sẽ thấy là khi con ngưng phản ứng theo kiểu họ chờ đợi, có khi họ bị ngạc nhiên. Có nhiều trường hợp chỉ việc này thôi cũng đủ để thay đổi cách mối quan hệ vận hành. Cũng có thể là người kia sẽ thay đổi.

Lẽ dĩ nhiên, cũng có trường hợp người kia không chịu thay đổi, dù con đã thay đổi. Người đó bị quá bao trùm trong vòng xoắn của họ, trong tâm lý của họ, và không chịu thay đổi. Trong trường hợp này, một số chuyện có thể xảy ra. Khi con đáp lại sự hung hãn của người khác với tâm trẻ thơ, tâm hoàn toàn vô tư, tâm dựa trên tình thương, thì người đó lãnh chịu sự xét xử của Ki-tô. Sự xét xử của Ki-tô là một cơ hội cho người đó nhìn vào tâm mình. Nếu họ không nắm lấy cơ hội, thì điều sẽ xảy ra trong thực tế (ta có thể nói là trên phương diện nghiệp quả) là con sẽ được giải thoát khỏi người đó. Lúc đó, con có tự do chọn lựa con có muốn ở gần người đó hay không.

Con yêu dấu, con sẽ nhiều lần thấy là khi con tự giải thoát khỏi một khuôn nếp phản ứng với người khác, thì bỗng nhiên người đó không còn có mặt trong đời con nữa. Lẽ dĩ nhiên, có trường hợp người trong gia đình mà con không thể cách ly một cách vật lý, nhưng con tới điểm không còn khuôn nếp phản ứng với họ, và do đó, bất kỳ họ làm gì, con không phản ứng lại. Hành động của họ không làm con xáo trộn, không làm con khó chịu. Con chỉ cho nó vào tai này qua tai kia, như người ta thường nói.

Con thấy đây là một cách liên hệ rất khác, và nó thực sự là cách duy nhất giúp con đạt được bình an trong quan hệ với người khác. Con không có ý định hành động hung hãn. Như thày có giảng trong bài trước, con không có ý định khuynh loát hay ảnh hưởng quyền tự quyết của người khác. Con yêu dấu, con chỉ làm được một điều là giải thoát mình khỏi các khuôn nếp phản ứng, và trở lại là chính mình. Con hãy biểu hiện mình ở tầng tâm thức hiện nay của mình và qua đó cho người kia cơ hội vươn lên cao hơn khuôn nếp của họ. Nếu họ không nắm lấy cơ hội này, thì họ chống lại con không sao cả vì con không bị xáo trộn.

Nói cách khác, con cần tới điểm có thể nói về một mối quan hệ thân thiết: “Nếu người kia không thay đổi, tôi có thể chấp nhận được.” Sau đó, con có thể nói: “Tôi có thể tách ra khỏi người này chăng?” Nếu con quyết định: “Không được, mối quan hệ này quá thân thiết, tôi không muốn tách ra khỏi người này.” thì lúc đó con có thể ở với người đó mà không bị xáo trộn bởi tâm lý của người đó. Có trường hợp con tới điểm cảm thấy: “Có, tôi có thể chấp nhận người kia không thay đổi, nhưng tôi không muốn làm như vậy.” Lúc đó con có quyền tách ra khỏi người đó và nói: “Tôi không muốn những người như thế này trong đời tôi nữa.” Đây không phải là con tìm cách tránh né khuôn nếp phản ứng trong con, đó chỉ giản dị là con cảm thấy và nhận ra là con đã vươn lên cao hơn tâm thức của những người đó. Do đó con có quyền quyết định là con thích giao tiếp với những người cùng tầng tâm thức hay cao hơn tầng tâm thức của con.

14.8. Tạo nghiệp với sa nhân

Bây giờ chúng ta cần đi xa hơn nữa và tự đặt một số câu hỏi. Thày có nói là con sống trên một hành tinh dày đặc nơi có nhiều sự hung hãn. Ở đây có sa nhân. Sa nhân đang đầu thai có thể có hành động hung hãn với con. Cũng có những người không phải là sa nhân nhưng tâm họ tạm thời bị sa nhân xâm chiếm. Họ bị sa nhân ở các tầng cao bắt họ có hành động hung hãn với con. Con nhận ra câu hỏi là: “Nếu một người có hành động hung hãn chống lại con, thì hệ quả là gì trên mặt nghiệp quả?”

Ở đây, chúng ta cần nhận ra là có một phàm linh tập thể được thiết kế để khiến con cảm thấy có trách nhiệm về những chuyện không thuộc trách nhiệm của con. Thí dụ, sa nhân thích xâm phạm con, khiến con phản ứng lại họ, rồi họ làm cho con cảm thấy vì phản ứng của con không phải là phản ứng cao nhất, con thể nào cũng đã tạo nghiệp với sa nhân. Con yêu dấu, có đúng vậy chăng?

Chúng ta hãy lấy một lập trường cực đoan hơn. Giê-su dạy con hãy chìa má bên kia. Thày chứng minh là đối với những người có hành động hung hãn với thày, thày chìa má kia và để cho họ đóng đinh thày lên cây thập tự. Giê-su lúc đó đã ở một tầng tâm thức rất cao do đó thày đã khắc phục được hầu hết các ảo tưởng mà thày nói con lấy vào để đi xuống tầng 48. Giê-su không phản ứng lại sa nhân dựa trên sợ hãi nhưng dựa trên tình thương. Trong trường hợp này, khi con hoàn toàn không dính mắc, con có thể thấy một cách dễ dàng là Giê-su không tạo nghiệp vì sa nhân đóng đinh thày lên cây thập thự. Thày tin rằng con thấy điều này một cách dễ dàng.

Sa nhân có hành động hung hãn chống lại một sinh thể có quyền tự quyết. Lẽ dĩ nhiên, họ tạo nghiệp khi làm vậy nhưng Giê-su (vì thày không phản ứng dựa trên sợ hãi) không tạo nghiệp. Còn con thì sao? Giả thử con xuống trái đất lần đầu ở tầng tâm thức 48. Con bị sa nhân tấn công, và lẽ tự nhiên con (vì con không thể làm gì khác) phản ứng lại họ dựa trên tầng tâm thức 48.

Ở đây chúng ta cần thấy một khác biệt. Nếu con có hành động vật lý, chẳng hạn con chống trả và giết sa nhân, thì con tạo nghiệp vì hành động đó. Nếu con tránh không có hành động vật lý (như nhiều người trong con các con đã làm được khi phải giáp mặt với hành động hung hãn cao độ), thì con không tạo nghiệp. Con có thể nói với chính mình: “Nhưng con có tạo nghiệp vì đã phản ứng một cách giận dữ chăng?” Điều này tùy thuộc mức độ giận dữ của con.

Khi con xuống tầng 48, con lấy vào hết ảo tưởng này tới ảo tưởng khác cho tới khi con tới tầng 48. Ở tầng 48, con thấy sự việc qua một tấm màn, một tấm kiếng mờ, một phin lọc. Dựa trên cách con nhìn đời xuyên qua phin lọc đó, con phản ứng lại những gì con giáp mặt. Ở tầng 48, con không thể tránh phản ứng với đôi chút giận dữ khi con bị người khác xâm phạm. Nếu con chỉ phản ứng với mức độ giận dữ đó thôi, thì con không tạo nghiệp vì phản ứng đó. Con ở tầng 48; không thể chờ đợi con ở một tầng cao hơn. Con không tạo nghiệp khi con đáp ứng ở tầng tâm thức của con.

Bây giờ, nếu sự giận dữ của con cao hơn mức độ bình thường ở tầng 48, con sẽ tạo nghiệp vì phần giận dữ phụ trội đó. Ta cũng có thể nói là tuy con ở tầng 48 và nhìn đời qua phin lọc ở tầng đó, lúc nào cũng có một phản ứng cao và một phản ứng thấp. Nói cách khác, phản ứng thấp củng cố tầng tâm thức 48, hay ngay cả khiến con tuột xuống tầng 47, còn phản ứng cao thăng vượt tầng 48 và giúp con vươn lên tầng 49.

Nếu con đi con đường thấp thì con tạo nghiệp. Nếu con đi con đường cao, con không tạo nghiệp dù hành động của con chưa phải là sự không dính mắc của tâm Phật. Con yêu dấu, nghiệp quả không giản dị, không đi theo đường thẳng như sa nhân trình bày. Thày bảo đảm với con là sa nhân đã tìm cách ảnh hưởng tất cả các giáo lý hiện hành về nghiệp quả, như của Ấn giáo và Phật giáo, Đạo Lão hay nhiều phái thuộc khuynh hướng Thời đại mới.

14.9. Không cá nhân hóa quan hệ

Điều con có thể bắt đầu nhận ra ở đây là con đã tới điểm có thể đi một bước rất quan trọng, sẽ giải thoát con như bước mà thày dạy con trong bài giảng trước. Đây là bước con không cá nhân hóa quan hệ của con với người khác. Con nói: “Bất cứ họ làm gì đối với tôi, họ không chống lại cá nhân tôi vì họ hành động dựa trên tầng tâm thức của họ, dựa trên ảo tưởng của họ, có thể là vì họ bị tà lực xâm nhập. Nhưng ở bất cứ trình độ nào, họ không chỉ chống lại riêng cá nhân tôi. Đúng thực là nếu tôi không ở đó, họ sẽ tìm một người khác để chống lại, họ sẽ chỉ tìm người khác để làm cái cớ để biểu lộ sự hung hãn bên trong họ, và họ cần thể hiện sự hung hãn lên ai đó vì họ không chịu đựng được nó bên trong họ.”

Chắc con đã nhận ra là khi một người hung hãn với người khác, không phải là họ muốn chống lại người đó. Họ chỉ đơn giản có căng thẳng bên trong đến độ nó trào ra, họ mất tự chủ và lúc đó họ phải hướng nó ra ngoài vì nếu không họ không thể ở trong chính hào quang của họ. Đây là cơ chế đằng sau hầu hết mọi sự hung hãn trên hành tinh này.

Một người có sự chia rẽ nào đó trong tâm lý. Sa nhân khai thác sự chia rẽ đó để dần dần tăng độ căng thẳng cho đến khi nó tới điểm bùng nổ và người đó không chịu nổi sự hỗn loạn và căng thẳng nội tại. Sau đó, sa nhân lại khiến người đó tạo ra niềm tin, tạo ra phàm linh nội tại, là hướng cơn giận về người khác là điều chấp nhận được vì người khác đó là nguyên nhân cơn giận. Người đó bị phàm linh làm mù quáng nên không thấy cơn giận là một cơ chế trong nội tâm. Y thực sự tin rằng y nổi giận vì điều người khác làm, và cơn giận chính đáng vì người kia đáng lẽ không được làm như vậy. Con thấy là khi người khác có hành động hung hãn, họ tạm thời bị một tà linh xâm nhập, họ không kềm chế hành động của họ được, họ không hành động theo lý trí. Vì vậy con nói: “Tôi nhìn nhận tôi đang sống trong loại hành tinh như thế nào. Tôi nhìn nhận ở đây có sa nhân và tà linh, họ luôn tìm cách tạo ra hỗn loạn và bất hòa, và họ hướng điều này tới bất cứ ai có hài hòa và bình an.” Con nhìn nhận đây chỉ là một lực.

Con yêu dấu, bây giờ giả thử con đang trong trận mưa bão có sấm chớp ngay trên đầu con, tiếng sấm rất, rất lớn và có sét đánh xuống mặt đất không xa chỗ con đứng. Con có cảm thấy là đám mây bão đang giận con và đang tìm cách đánh trúng cá nhân con chăng? Thày đoán là con không cảm thấy như vậy ở tầng tâm thức của con, nhưng con nhìn nhận là có người trên thế gian (và chắc chắn là có trong quá khứ) cảm thấy có những thần linh hung hãn trong thiên nhiên tìm cách hại cá nhân họ. Do đó, họ cảm thấy có một thần linh ác độc đang điều khiển sét đánh họ, trong khi ngày nay con có khuynh hướng nhìn sấm sét như một lực thiên nhiên không có cá nhân tính.

Điều thày muốn nói với con là quả thực có sa nhân đang muốn tấn công con vì họ muốn ngăn chặn quả vị Ki-tô nơi con, nhưng họ muốn tấn công bất cứ ai có tầng quả vị Ki-tô đó. Một cách nhìn lành mạnh là con đứng lui lại và xem chuyện này như một lực vô tư và không liên quan đến riêng ai. Do đó con tránh không phản ứng lại một cách cá nhân. Thày chỉ muốn giúp con chuyển đổi tâm, nhìn sự việc và nói: “Con không cần xem việc này như một tấn công cá nhân con. Con không cần cảm thấy mình là nguyên nhân, mình chịu trách nhiệm về nó, mình cần phản ứng lại, mình cần thay đổi hành vi hay cách nhìn đời của mình để né tránh nó. Con chỉ cần nhìn vào nó và sau đó con hành động theo khía cạnh kia của nguyên tắc chìa má bên kia. Con có thể nhìn nó và để cho nó đi xuyên thẳng qua con mà không cho nó gây ra bất cứ phản ứng nào trong con.”

14.10. Khi người khác không thể lấy đi sự bình an của con

Một khai ngộ quan trọng trên con đường đưa tới quả vị Ki-tô là khi con phải đương đầu với một người đang nổi giận, đang la hét kết án con đủ điều, nhưng con đứng yên và không có phản ứng nào trong con. Khi con làm được điều này với sa nhân, tà lực và tất cả mọi người khác, thì con tới điểm cảm thấy con không bất lực. Con có quyền lực làm chủ phản ứng của mình, bứng đi các phàm linh nội tại khiến con có khuôn nếp phản ứng. Khi con dùng quyền lực này, con có thể tới điểm mà con hoàn toàn bình an bên trong vì con không chờ đợi người khác phải làm gì hay không được làm gì.

Con biết rằng bất cứ điều gì người khác làm sẽ không tạo phản ứng trong con. Do đó, con không cần chờ mong vì con không sợ họ sẽ làm điều gì đó tạo phản ứng trong con. Nếu con đứng lui lại và trung thực nhìn vào cuộc đời của con cho tới điểm này, con thấy là đã có rất, rất nhiều lần con quan ngại những gì người khác có thể làm. Con biết nếu họ làm một số điều, chúng sẽ tạo phản ứng trong con. Phản ứng đó không thoải mái và nó có thể khiến con chê trách mình vì con nghĩ một người “tâm linh” không được phản ứng như vậy.

Con hãy nhìn mình một cách trung thực và thấy là con vẫn còn những cơ chế lẩn tránh. Con không tìm cách bù đắp mà tìm cách lẩn tránh. Con cũng có thể có khuôn nếp bù đắp khiến con cố gắng dễ thương với người khác để họ không nổi đóa với con. Thông thường hơn là ước muốn né tránh người khác hay né tránh hành vi của người khác vì con muốn né tránh phản ứng trong con.

Lẽ tự nhiên, con nay đã tới điểm con có thể nhìn những việc này và nói: “Nhưng phản ứng nằm trong con. Như vậy có nghĩa là con có quyền lực để thay đổi nó. Con không cần thay đổi người khác nữa. Con chỉ cần thay đổi chính mình. Con cần tách mình ra để thấy được phản ứng này chỉ là một phàm linh nội tại. Nó chỉ là thêm một phàm linh nội tại khác giống như nhiều phàm linh nội tại mà con đã loại bỏ trong khóa học này. Do đó lẽ tự nhiên con cũng có thể loại bỏ phàm linh này.” Con làm theo những bước cần thiết mà các thày đã dạy con. Con buông bỏ phàm linh, con tiêu trừ năng lượng, con thấy ảo tưởng, và con giải thoát.

Con yêu dấu, thành thực mà nói thì tới điểm này trên con đường tu con muốn bình an trong quan hệ với người khác. Con có bao giờ đạt được bình an bằng cách thay đổi người khác chăng? Dĩ nhiên là không, do đó cách duy nhất là thay đổi chính mình bằng cách buông bỏ các phàm linh và có thái độ là con không cần thay đổi người khác, vì quả vị Ki-tô của con không tùy thuộc vào hành vi của người khác. Nó hoàn toàn dựa vào chuyện gì xảy ra trong chính bốn thể phàm của con, bên trong hào quang và tâm của con.

14.11. Một lời về cách phụng sự đích thực

Các con yêu dấu, con có thể nghĩ là cho tới giờ thày chưa nói gì nhiều về phụng sự. Thày sẽ đưa ra vài nhận xét về đề tài này trong phần sau đây. Nếu con nhìn vào cuộc đời mình, con thấy con có một số mong chờ về hình thức phụng sự mà con phải hiến tặng đời sống như một phần của điều kiện thăng thiên của con, một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con có thể đã dùng giáo lý chân sư thăng thiên để tạo ra một mong chờ khiến con cảm thấy căng thẳng bên trong tâm.

Con có thể cảm thấy rằng: “Chắc hẳn con phải phụng sự, nhưng con đang không làm hay đang không làm đủ. Con quá bận rộn với đời sống hàng ngày nên không có thì giờ phụng sự.” Con cảm thấy xấu hổ, con cảm thấy tội lỗi, con cảm thấy mình chậm trễ, con cảm thấy căng thẳng.

Con yêu dấu, thày không phủ nhận là con có một Sứ vụ Thiêng liêng và con có việc phụng sự, nhưng việc làm phụng sự đó không được quy định bởi tâm vỏ ngoài của con. Nó được quy định trước khi con đầu thai và nó được quy định dựa trên một tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức khi con đầu thai.

Lúc nào đó, con tìm ra một giáo lý tâm linh, con học về khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng và phụng sự đời sống. Chuyện này xảy ra vào một lúc trong quá khứ khi con ở tầng tâm thức thấp hơn bây giờ. Điều này có nghĩa là trong tâm vỏ ngoài, con tạo ra một mong chờ dựa trên tầng tâm thức lúc đó và tiếp tục mang nó trong tâm cho đến nay. Do đó, con nghĩ là cách con nhìn Sứ vụ Thiêng liêng lúc đó là cách nhìn đúng, và con cần thực thi những chờ mong đó với lý luận đường thẳng.

Điều thày muốn nói với con là nay con đã lên một tầng tâm thức cao hơn nhiều. Do đó, đã đến lúc con nhìn vào mong chờ này và nói: “Điều giản dị là nó không thiết thực vì nó dựa trên một tầng tâm thức thấp hơn của con ngay bây giờ. Do đó, con cần buông bỏ mong chờ này. Con cần bước lui lại và cho phép một cái nhìn mới về Sứ vụ Thiêng liêng của con được hiện ra từ bên trong.” Để làm được điều này, một lần nữa con cần tâm cởi mở và thơ ngây của trẻ thơ. Con có thể có trạng thái tâm này nếu con nghe theo điều thày sắp nói sau đây.

Ta là Nada, là vị thày chính lo việc khai ngộ con ở tầng này của con đường tu của con, tại đây cho phép con buông bỏ mọi mong chờ liên quan tới Sứ vụ Thiêng liêng của con và việc phụng sự của con trên trái đất. Thày cho phép con buông bỏ hết; để nó qua bên và không lo lắng con phải làm gì trong Sứ vụ Thiêng liêng hay việc phụng sự của con. Thày cho phép con bỏ qua bên toàn bộ ý niệm con phải làm điều gì đó trong cương vị một người tâm linh.

Nếu con chấp nhận nghe lời thày, thì nó sẽ tạo ra sự yên lặng, sự vắng bóng căng thẳng trong tâm con để con có thể bắt đầu lắng nghe nội tâm. Con có thể nghe thấy Hiện diện TA LÀ cho con biết về Sứ vụ Thiêng liêng của con thay vì một phàm linh nội tại (mà con đã tạo ra ở tầng tâm thức thấp hơn) cho con biết về Sứ vụ Thiêng liêng của con. Sứ vụ Thiêng liêng của con không phải là nguồn căng thẳng. Sứ vụ Thiêng liêng của con là niềm vui lớn nhất của con.

Nó không phải là một phận sự hay một bổn phận. Nó không phải là điều con cảm thấy con phải làm. Khi con cảm thấy có bổn phận, phận sự hay con phải làm điều gì, thì đó là vì có một phàm linh đang xen vào tiến trình phụng sự sự sống của con. Con cần nhận ra điều này, vô hiệu hóa phàm linh, vượt qua nó, và lắng nghe. Con lắng nghe với tâm ngây thơ, cởi mở của trẻ thơ, với tâm vô tư, và con có thể nhận được những khía cạnh trong Sứ vụ Thiêng liêng thích hợp với tầng tâm thức hiện nay của con. Con sẽ cảm thấy niềm vui, không phải một gánh năng, khi con nhận được tín hiệu đó.

Con yêu dấu, thày đã cho con nhiều chuyện để suy ngẫm. Thày không muốn bài giảng này là một gánh nặng cho con. Do đó, thày sẽ giản dị chấp nhận là thày đã cho con đủ để dẫn con tới tầng khai ngộ cuối ở khóa nhập thất của thày. Tại đó, thày sẽ giúp con đạt được nhiều tự do hơn khỏi các căng thẳng mà con cảm thấy khi con là đệ tử chân sư thăng thiên đang đi trên con dường dẫn tới thăng thiên.

Vượt qua tinh thần trách nhiệm giả, 14 đoạn

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 23/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada. Ở tầng sáng ngộ thứ năm của khóa nhập thất của thày, chúng ta gặp gỡ an bình phối hợp với viễn kiến. Thày muốn bắt đầu bài giảng này với một khái niệm mà các tâm lý gia gọi là “tư duy thần diệu”. Nó có thể đưa đến những hình thức đã được gọi là mê tín dị đoan.

Tư duy này thường được mô tả như sự lẫn lộn nguyên nhân và hậu quả, tức là những người mắc tư duy đó chế ra một lối giải thích xoay quanh chính họ, thường khiến họ nghĩ tư tưởng của họ đã là nguyên do khiến một số sự việc bên ngoài xảy ra hay không xảy ra. Nơi các trẻ em, tư duy này được mô tả như cảm thấy tư tưởng của mình đã khiến một số sự việc xảy ra trên đời, và là một cố gắng giải thích mọi chuyện dựa trên điều mình biết ngay bây giờ, cùng lúc liên kết mọi chuyện xảy ra với chính mình.

12.1. Ước muốn bất khả xâm phạm

Con yêu dấu, tư duy thần diệu có nhiều khía cạnh, trong đó có nhiều khía cạnh mà các tâm lý gia chưa biết đến. Thầy muốn bắt đầu bằng cách nhắc lại những gì thày giảng trong bài đầu. Có một số đệ tử tâm linh mong tới được điểm mà họ không thể làm gì sai và không có gì có thể gây thương tổn cho họ. Chắc con cũng biết có một số trò chơi vi tính trong đó con sống trong một thế giới có kẻ thù bắn đạn tới con, nhưng con có thể dương lên một lá chắn khiến con bất khả xâm phạm, ít nhất là trong một thời gian.

Khi con nhớ lại những điều thày đã giảng, rằng trong quá khứ con đã biểu lộ quả vị Ki-tô và bị sa nhân đánh lừa khiến con nghĩ làm vậy là sai quấy, thì con có thể nhận ra một sắc thái của tư duy thần diệu là con không thể làm gì sai và không có gì có thể gây thương tổn cho con. Đây có thể coi như là sự nối dài của ước mong nơi trẻ em tưởng tượng là chúng bất khả xâm phạm, nhưng nó cũng là một ý tưởng in sâu vào tâm thức tập thể.

Như thày có nói, khi con lớn lên trong bất cứ nền văn hóa nào trên trái đất, con chịu ảnh hưởng của một số niềm tin rất vi tế. Lẽ dĩ nhiên, khi con nhìn suốt chiều dài lịch sử của trái đất, con thấy là có rất, rất nhiều người đã trải qua những cảnh huống chấn thương đã để lại nơi họ những vết thương tâm lý sâu đậm. Họ đã tìm cách tạo ra một phàm linh, và phàm linh này đã phát triển thành một phàm linh tập thể, để giải thích chuyện đã xảy ra, hay cho họ hy vọng là sẽ có ngày họ trở nên bất khả xâm phạm và không phải chịu các cảnh huống đó nữa. Con thấy chăng là một phần tư duy thần diệu là ý tưởng con thực sự có thể kiểm soát vũ trụ, con có thể kiểm soát một số khía cạnh của thế giới này, và do đó con có thể tránh điều xấu và thu hút điều lành. Có những người dị đoan khi chơi bài bạc, chẳng hạn, và nghĩ rằng nếu họ đeo một lá bùa thì họ sẽ hên hơn. Có nhiều khía cạnh khác của lối hành xử dị đoan qua đó người ta tìm cách làm điều gì đó để kiểm soát chuyện gì sẽ xảy ra hay không xảy ra cho họ. Nhiều người cho rằng đeo một mề đay có khắc hình một vị thánh sẽ che chở họ khỏi sự việc xấu.

Con yêu dấu, con cần nhận ra là có một truyền thống hay phong trào rất, rất cổ xưa trên thế gian giải thích tại sao một số chuyện xảy ra và tìm cách bảo vệ con người khỏi một số chuyện khác. Con muốn tránh điều dữ và thu hút điều lành. Con nghĩ rằng nếu con làm một số chuyện thì con sẽ đạt được ước muốn này. Nói cách khác, có một phàm linh (đã được tạo ra từ rất lâu trên trái đất) khiến con người tin rằng họ có thể kiểm soát thế giới bằng cách nào đó.

Như một đệ tử chân sư thăng thiên con đã lớn lên trong một môi trường trong đó phàm linh này đã ảnh hưởng đa số con người bằng cách này hay cách khác, và lẽ tự nhiên con đã bị nó ảnh hưởng. Một lần nữa, thày hoàn toàn không chê trách con. Thày chỉ nêu lên sự kiện là ở tầng khai ngộ này của khóa học, con đã sẵn sàng để đối phó với vấn đề này. Con đã sẵn sàng để nhìn vào những thành phần của tư duy thần diệu mà con có trong tâm, và con đã sẵn sàng để vượt lên trên chúng và thoát khỏi chúng. Con yêu dấu, khi con buông bỏ chúng, con sẽ cảm thấy tự do hơn là bất cứ gì con mơ ước khi con ở trong vòng ảnh hưởng của phàm linh tập thể và ngay cả một số phàm linh nội tại mà con có trong các thể cao.

12.2. Ảo tưởng có một Thượng đế toàn năng

Con yêu dấu, bây giờ chúng ta hãy xem xét ước muốn được bất khả xâm phạm, bất khả chiến bại. Trong quá khứ có thể con đã bị sa nhân tấn công một cách rất độc ác, không khoan nhượng. Lẽ tự nhiên, con muốn tránh bị chấn thương, bị đau đớn như vậy, và do đó con đã tạo ra một phàm linh nội tại khiến con nghĩ rằng sẽ có ngày con trở nên người bất khả chiến bại. Con sẽ có khả năng đánh bại sa nhân, diệt trừ sa nhân, diệt trừ bất cứ ai tấn công con hay những người con cảm thấy có trách nhiệm bảo vệ, tỷ dụ như người vô tội.

Thày cần con suy ngẫm phàm linh này từ đâu tới. Nó, như tất cả phàm linh (ít nhất là các phàm linh chính), do sa nhân tạo ra. Ta có thể nói là tất cả phàm linh đều do sa nhân tạo ra, theo nghĩa là chúng nảy sinh từ các tấn công và ảo tưởng của sa nhân. Lẽ dĩ nhiên, một phàm linh riêng lẻ đã do một người tạo ra khi họ phản ứng lại sa nhân.

Điều sa nhân muốn con nghĩ là có một thực thể nhân từ, thường được gọi là Thượng đế, có quyền kiểm soát tối hậu trên vũ trụ. Một khi con tin điều này, con nghĩ một số điều đáng lý không được xảy ra. Suốt mấy ngàn năm, nhiều người cảm thấy sự hiện diện hiển nhiên của sự ác độc trên hành tinh này thách thức sự hiện hữu của Thượng đế. Nếu thực sự có một Thượng đế, và Thượng đế đó nhân từ và toàn năng, thì tại sao ngài lại để cho sự ác độc có mặt trên trái đất?

Con thấy là sa nhân đã từ khởi thủy tạo ra ảo tưởng là có một Thượng đế toàn năng kiểm soát vũ trụ. Rồi chính họ đã làm nhiều chuyện độc ác đối với con người, thách thức sự hiện hữu của Thượng đế nhân từ và toàn năng này. Do đó, sa nhân đã tạo một mâu thuẫn trong tâm của hầu hết mọi người. Con nghĩ đúng lý con phải có cách kiểm soát chuyện gì xảy ra cho con trong cuộc đời. Con nghĩ đúng lý phải có một thực thể nhân từ kiểm soát mọi chuyện. Do đó, con nghĩ nếu con cầu xin thực thể đó bằng một tư duy thần diệu nào đó, con sẽ có thể cầu xin sự phù hộ của thực thể đó để chỉ có chuyện tốt xảy ra cho con và chuyện xấu không xảy ra cho con.

Một số người sống nhiều kiếp với niềm tin đó và nghĩ rằng niềm tin này không bị thách thức vì không có chuyện gì xấu xảy ra cho họ. Một số người khác ban đầu có niềm tin này nhưng sau đó có chuyện xấu xảy ra cho họ, và bỗng nhiên họ bị khủng hoảng niềm tin, có thể đi đến chối bỏ khái niệm tôn giáo và Thượng đế. Trong cả hai trường hợp, đây là điều sa nhân mong muốn vì họ giữ con người trong một khuôn nếp phản ứng. Ngay cả những người cho rằng họ có thể kiểm soát Thượng đế và vũ trụ bằng một số hành động, họ cũng bị sa nhân giữ trong một ảo tưởng.

Mục tiêu của các thày trong khóa học này là gì? Các thày đã tìm cách giúp con nhận lãnh càng ngày càng nhiều trách nhiệm về hoàn cảnh của mình. Nhận lãnh trách nhiệm có lợi ích gì? Lợi ích là con thấy con có thể ảnh hưởng hoàn cảnh của mình. Con có thể hỏi: “Vậy đây không phải là tư duy thần diệu à? Ban đầu thày nói là sa nhân tạo ra ảo tưởng có một Thượng đế toàn năng kiểm soát cả vũ trụ. Mặt khác thày nói là các con phải vượt qua tư duy thần diệu, nhưng bây giờ thày lại nói là chúng con cần nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời mình và thấy là chúng con đang đồng sáng tạo hoàn cảnh của mình. Làm sao chúng con phối hợp được các thành phần này?” Ấy, chúng ta sẽ không phối hợp các thành phần đó. Chúng ta sẽ xem xét từng thành phần một và xem chúng là gì.

12.3. Từ bỏ niềm tin có một Thượng đế của riêng mình

Trước tiên, lẽ dĩ nhiên là có một đấng Sáng tạo, theo một nghĩa nào đó, có quyền kiểm soát tối hậu trên vũ trụ. Đấng Sáng tạo tạo ra thế giới hình tướng, trong đó có bầu cõi nơi con đang sống. Như các thày đã thuyết giảng qua trung gian của vị sứ giả này, một bầu cõi được tạo ra như một bầu cõi chưa thăng thiên, có nghĩa là nó chưa đạt được tính chất thường hằng. Mục đích tạo ra một bầu cõi trong trạng thái đó là để luật tự quyết trải bày. Các sinh thể có tự nhận biết được gửi xuống hiện thân trong bầu cõi có thể biểu lộ quyền tự quyết của họ nhưng những gì họ tạo ra không thường hằng. Bất cứ những gì họ tạo ra, họ đều có thể xóa đi hay khắc phục. Nói cách khác, họ không thể bị mắc kẹt trong những gì họ tạo ra.

Vì bầu cõi trong đó con sống không thường hằng, nên con có thể để cho luật tự quyết trải bày bất cứ cách nào con muốn. Khi thày nói “con”, thày không chỉ nói riêng con. Tất cả các sinh thể đồng sáng tạo trong bầu cõi chưa thăng thiên đều có quyền tự quyết, một quyền tự quyết không giới hạn. Con có thể có hành động giới hạn chính mình, con có thể có hành động hại người khác, và các điều này đều được phép vì bầu cõi không thường hằng. Tuy nhiên, để cho quyền tự quyết được trải bày, đấng Sáng tạo cũng đã để qua một bên quyền kiểm soát của ngài trên bầu cõi chưa thăng thiên. Điều này không có nghĩa là Thượng đế không can thiệp vào được, nếu đó là điều đấng Sáng tạo mong muốn. Đấng Sáng tạo có thể xóa bỏ toàn thể bầu cõi trong một khoảnh khắc nếu ngài muốn. Tuy nhiên, luật tự quyết có nghĩa là đấng Sáng tạo đã nói: “Ta sẽ cho những sinh thể có tự nhận biết này thời gian để học hỏi với quyền tự quyết của họ và đi tới kết luận, dựa trên thử nghiệm với quyền tự quyết, rằng điều tốt nhất cho toàn thể cũng là điều tốt nhất cho cá nhân.”

Lẽ dĩ nhiên, thực tế là trái đất là một trong số ít hành tinh trong toàn thể vũ trụ có một tầng tâm thức rất, rất thấp. Con có thể nhìn những chuyện xảy ra trên trái đất và nói là Thượng đế không được để cho những điều ác độc đó xảy ra và do đó Thượng đế phải tiêu hủy toàn bộ bầu cõi chưa thăng thiên. Tuy nhiên, có hàng tỷ hành tinh có tầng tâm thức cao hơn trái đất rất nhiều. Tại sao Thượng đế lại phải xóa bỏ toàn thể bầu cõi dựa trên những gì xảy ra trên hành tinh nhỏ bé này?

Như một đệ tử chân sư thăng thiên đã tới tầng này, con cần buông bỏ ảo tưởng do sa nhân tạo ra là có một Thượng đế cá nhân quan tâm mật thiết đến đời sống và hoàn cảnh cá nhân của con trên trái đất. Con cần buông bỏ ý tưởng rằng đâu đó ở trên thiên đàng có một ông già râu bạc đặc biệt quan tâm tới con và lúc nào cũng theo dõi mọi chuyện con làm, nghĩ hay cảm nhận. Vị Thượng đế xa xăm trên trời đó là một sáng chế hư cấu của sa nhân. Đã đến lúc con buông bỏ nó. Đã đến lúc con nhìn nhận là không có Thượng đế đó.

12.4. Người trợ giúp thần diệu

Một khía cạnh của tư duy thần diệu hay tìm thấy nơi trẻ em là niềm tin có một người trợ giúp thần diệu. Nếu một em bé cảm thấy khổ sở, bị đe dọa hay sợ hãi, thì em nghĩ có một người trợ giúp thần diệu sẽ một ngày nào đó hiện ra và thay đổi hoàn cảnh bên ngoài cho em. Một lần nữa, niềm tin này có thể hiểu được ở một tầng tâm thức nào đó. Niềm tin này thu hút chính yếu những người ở dưới tầng tâm thức 48. Vì nó rất mạnh dưới hình thức một phàm linh tập thể, nên con đã lớn lên với nó, con đã bị nó ảnh hưởng. Ở tầng tâm thức hiện nay của con, con chỉ cần giản dị nhìn vào nó và cho nó biến đi.

Tư duy thần diệu cho rằng, tỷ dụ, nếu con không có một số tư tưởng, nếu con không có một số hành động, nếu con có tư tưởng tích cực hay đeo một mề đai có khắc hình thánh Christopher, thì chuyện xấu sẽ không xảy ra cho con. Vấn đề với lối suy nghĩ này là nó khiến con nghĩ có một người trung gian. Con nghĩ con ở trong hoàn cảnh mà cá nhân con không làm được gì, nhưng có một thực thể bên ngoài con có thể làm gì đó để giải quyết vấn đề – và ước gì con tìm ra cách kích hoạt thực thể đó hành động và sử dụng quyền năng của nó.

Con có thấy chăng hậu quả tâm lý của lối suy nghĩ này? Con cảm thấy bất lực, con phản ứng dựa trên cảm giác bất lực bằng cách cầu thỉnh một thực thể tưởng tượng mà con nghĩ có quyền năng mà con không có. Một lần nữa, điều này hiểu được nơi trẻ thơ hay nơi những người ở một tầng tâm thức nào đó. Con nay ở tầng tâm thức cao hơn rất nhiều. Do đó, đã đến lúc con nhìn vào điều này và nhận ra nó hoàn toàn dựa trên một ảo tưởng.

12.5. Con không bao giờ bất lực

Trước tiên, thày muốn giải quyết cảm giác bất lực. Con yêu dấu, con không bao giờ bất lực. Thày không thể nói điều này ở một tầng tâm thức thấp hơn, vì những người ở dưới tầng 48 sẽ không tin. Ngay cả những người tham dự khóa học này nhưng ở tầng tâm thức thấp cũng thấy rất khó mà hoàn toàn tin điều này. Đó là lý do các thày phải giảng nhiều lần, dưới nhiều hình thức khác nhau.

Sự thực là con không bao giờ bất lực. Lẽ đương nhiên, câu này cần được hiểu một cách sâu sắc. Như thày có nói, sa nhân thích đưa con vào hoàn cảnh trong đó con cảm thấy không có điều gì xấu có thể xảy ra cho con, sau đó họ làm một chuyện vật lý tàn tệ và khiến tâm con bắt đầu hồ nghi. Lẽ tự nhiên, như một đệ tử chân sư thăng thiên, con cần xem xét vấn đề này. Con cần nhận ra là luật tự quyết ngự trị tối cao trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Con cũng cần nhận ra là trái đất là một trong những hành tinh có tâm thức thấp nhất trong bầu cõi của con. Điều này có nghĩa là khi con đầu thai trên trái đất, một số chuyện có thể xảy ra cho con vì người khác có thể dùng quyền tự quyết của họ để hại con. Có một số người khác đã dùng quyền tự quyết để mở cửa đón nhận sự kiểm soát của sa nhân trên các cõi xúc cảm, tư tưởng và bản sắc. Do đó, họ có thể hại con trên mặt vật lý. Họ có thể có hành động vật lý để hại con.

Thày cần con nhận ra rằng con không làm được gì về chuyện này và lý do là vì luật tự quyết, như thày có nói, phải được phép trải bày ra. Con có thể cần suy ngẫm điều này, và nếu con cảm thấy khó chấp nhận rằng quyền tự quyết phải được phép trải bày ra, thì thày khuyên con nên đọc quyển sách, Các kiếp sống của tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su. Quyển sách này giải thích rất cặn kẽ mục đích của luật tự quyết và cách luật tự quyết trải bày ra.

Thầy cần con suy ngẫm và tới điểm chấp nhận là trái đất là một hành tinh có tâm thức rất thấp và do đó có thể là một số chuyện sẽ xảy ra cho con. Con bất lực vì con không thể ngăn chặn người khác lạm dụng quyền tự quyết của họ. Con không làm được gì để ảnh hưởng quyền tự quyết của người khác. Thày biết rằng có rất, rất nhiều người (trong đó có nhiều đệ tử chân sư thăng thiên) cảm thấy rằng đáng lý phải có cách ảnh hưởng quyền tự quyết của người khác để không hại được mình. Thày cần con buông bỏ niềm tin này vì lý do giản dị là con không muốn ảnh hưởng quyền tự quyết của người khác. Đây là một điều khó chấp nhận, ngay cả với đệ tử chân sư thăng thiên đã biết mọi chuyện cần biết về nhị nguyên, luật tự quyết và mục đích của vũ trụ. Thầy cần con bỏ ra một chút thì giờ để suy ngẫm điều này.

12.6. Hình thức nghiệp nặng nhất

Con cần nhận ra là khi con có hành động hại người khác, con tạo ra nghiệp. Tuy nhiên, nghiệp tạo ra bởi bất kể hành động vật lý nào không phải là hình thức nghiệp nặng nhất. Hình thức nghiệp nặng nhất mà con có thể tạo ra là khi con can thiệp vào quyền tự quyết của người khác. Con có thể nói ở đây: “Nhưng nếu việc con làm là ngăn họ tự giết họ? Nếu con làm vậy thì con can thiệp vào quyền tự quyết của họ, nhưng có phải chăng không tự sát là điều tốt cho họ? Vậy có phải chăng việc con can thiệp vào quyền tự quyết của người đó là việc làm đúng?” Không, con yêu dấu, việc đó không đúng và con sẽ tạo nghiệp nếu con làm như vậy.

Con có thể nói: “Nếu sa nhân sắp sửa giết một trẻ thơ, thì phải chăng việc làm đúng là con can thiệp vào quyền tự quyết của họ và khiến họ không làm hành động đó?” Một lần nữa, con yêu dấu, việc đó không đúng, con sẽ tạo nghiệp nếu con làm như vậy. Đây là loại nghiệp mà sa nhân đã tạo ra từ khi họ sa ngã và thày bảo đảm với con là, như một đệ tử chân sư thăng thiên đang đi trên con đường dẫn tới thăng thiên, con không muốn tạo ra loại nghiệp đó. Con yêu dấu, đây là lúc con cần nhận ra điều ta có thể gọi là hai tầng của tâm thức nhị nguyên. Ở tầng đầu, con hướng mọi chuyện về chính mình, con chú tâm vào chính mình, và con lúc nào cũng cố gắng làm điều tốt nhất cho mình. Nhưng có một tầng thấp hơn, là tầng của sa nhân, là nơi con cố ý tìm cách kiểm soát người khác. Ở tầng đầu, con tìm cách được những gì mình muốn và khiến người khác cho mình cái mình muốn. Con không làm với ý định hiểm độc kiểm soát hay diệt trừ người khác. Sa nhân ở tầng tâm thức mà họ tìm cách kiểm soát người khác một cách cố ý và hiểm độc. Họ làm vậy không chỉ để có được cái họ muốn, nhưng họ tìm cách tàn phá người khác bằng cách tạo ra đủ loại chia rẽ và mâu thuẫn trong bốn thể phàm của người khác, khiến người khác bị chia rẽ chính trong nội tâm.

Có một điểm khác biệt vi tế giữa hai loại nghiệp. Điều thày nói ở đây là để con thấy sự tương phản. Thày muốn nói là hình thức nghiệp nặng nhất mà con có thể tạo ra là khi con can thiệp vào ba thể cao của một người và ảnh hưởng chọn lựa của họ. Dù con nghĩ con can thiệp để đem lại điều tốt cho họ, con vẫn tạo nghiệp rất nặng khi làm thế. Đã đến lúc con nhận ra là nếu con có ý định chân thật muốn thăng thiên, muốn hội đủ điều kiện thăng thiên, trong kiếp sống này, thì con không thể cho phép mình tạo ra loại nghiệp này. Do đó, con cần tới chỗ chấp nhận hoàn toàn và tuyệt đối là người khác phải được phép trải bày quyền tự quyết của họ dù rằng khi làm vậy họ sẽ tự hại họ hay hại con.

Lẽ tự nhiên, điều này không cấm con giúp họ nhận ra điều họ đang làm hay cố gắng cho họ thấy điều mà họ không thấy. Điều con không được làm là khuynh loát hay kiểm soát người khác. Đây là lý do thầy cần con nhận ra là con không nên có niềm tin cho rằng Thượng đế, một vị thánh hay thiên thần nào đó có thể khiến người khác làm hay không làm điều gì. Cầu nguyện Thượng đế để ngăn cản người khác làm điều gì có thể sẽ hại con hay chính họ không phải là việc làm chính đáng.

Con yêu dấu, con thấy chăng là không có thẩm quyền nào trên thiên đàng có quyền can thiệp vào quyền tự quyết của những người đang hiện thân. Do đó, con chỉ phí hơi vô ích nếu con cầu nguyện xin Thượng đế thay đổi tâm người khác, điều này đi ngược lại Luật Tự Quyết. Con thực sự sẽ tạo nghiệp khi con làm vậy. Nghiệp này không nặng bằng nghiệp con tạo ra khi con tìm cách ảnh hưởng hay khuynh loát người khác, nhưng con vẫn sẽ tạo nghiệp.

12.7. Hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết

Thày muốn con nhận ra là có một trạng thái tâm trong đó con nhìn trái đất như nó đang là ngay lúc này và có thể chấp nhận quyền tự quyết một cách hoàn toàn, vô điều kiện và không khoan nhượng. Con nhìn nhận trái đất là một hành tinh có tâm thức thấp và điều đơn giản là một số chuyện sẽ xảy ra trên một hành tinh như trái đất. Thày muốn con tới điểm con nói: “Tôi đã đầu thai trên trái đất và lý do tối hậu là vì tôi đã chọn tới đây. Tôi biết trái đất là loại hành tinh như thế nào trước khi tôi đầu thai lần đầu ở đây. Bây giờ tôi nhận ra tôi có lý do của tôi, tôi có thể không nhớ rõ một cách ý thức những lý do này, nhưng một phần lý do chắc hẳn là tôi muốn tăng triển qua việc trải nghiệm cuộc sống trên một hành tinh như thế này. Vậy làm sao tôi tăng triển? Tôi tăng triển bằng cách nhận ra là vì quyền tự quyết, tôi không thể ngăn cản người khác làm điều mà họ chọn làm. Vả lại đây cũng không phải là vai trò của tôi.”

Do đó, con có thể buông bỏ ước muốn tìm một phương pháp thần diệu để ngăn cản người khác hại chính họ hay hại người. Con buông bỏ ước muốn ảnh hưởng Thượng đế hay ngay cả tìm cách ảnh hưởng người khác. Con chấp nhận là khi con đầu thai trên trái đất này, con không ngăn cản được một số sự việc vật lý xảy ra.

12.8. Bất lực có nghĩa gì?

Con có thể tới điểm chấp nhận điều trên, và con sẽ dễ chấp nhận điều trên hơn, khi con nhận ra là tuy con đối mặt một sự việc và không thể ngăn chặn nó, nhưng con vẫn không bất lực. Con cần suy ngẫm điều này một chút. Bất lực có nghĩa gì? Lẽ tự nhiên, con cảm thấy (đây cũng là một phàm linh tập thể rất mạnh trên trái đất) là các chuyện xấu đáng lý không được xảy ra và đáng lý phải có quyền lực nào ngăn chặn chúng. Nếu con bị một sự việc nào đó đe dọa, con cảm thấy trong tâm là hoặc đáng lý con phải chặn được nó, hoặc Thượng đế phải chặn nó, và nếu cả hai chuyện này đều không xảy ra thì con cảm thấy bất lực. Khi con đứng lùi lại, thì con nhận ra đây là một hiểu biết sai lạc về ý nghĩa của quyền năng; quan niệm trên không thừa nhận loại hành tinh nơi con đang sống.

Con đang ở trong một bầu cõi chưa thăng thiên nơi luật tự quyết ngự trị tuyệt đối vì mục đích của một bầu cõi chưa thăng thiên là cho phép quyền tự quyết tự trải bày ra. Thêm vào đó, con đang ở trên một trong những hành tinh có tâm thức thấp nhất, có nghĩa là con đang ở trên một hành tinh nơi rất, rất nhiều chuyện xấu có thể xảy ra vì con người chọn thực thi quyền tự quyết một cách cực đoan, một cách tối ích kỷ. Khi con nhận ra là con đang ở trên loại hành tinh nào, thì con nhận ra con không thực tế nếu con nghĩ con có quyền năng ngăn chặn một sự việc bên ngoài. Con không thực tế nếu con nghĩ con có quyền năng ngăn chặn một cuộc chiến bùng nổ khi hàng triệu triệu người đã lấy quyết định tập thể để giao chiến.

Con không thực tế nếu con nghĩ con, như là một người đang hiện thân, có quyền năng đó. Con cũng không thực tế khi con nghĩ Thượng đế hay một sinh thể nào khác trên trời có quyền năng đó. Điều đơn giản là quyền năng đó không hiện hữu trên trái đất. Hy vọng vào quyền năng đó cũng ngây thơ như nghĩ rằng ta có thể ngưng trọng lực và bay bổng trong không khí. Con yêu dấu, khi con thực sự nhìn nhận điều này, con thấy là tuy con không có quyền năng ngăn chặn một sự việc bên ngoài, điều này không có nghĩa là con bất lực và không có nghĩa là con phải cảm thấy bất lực. Sa nhân đã thiết lập một cơ chế khiến con nghĩ là phải có một quyền lực ngăn chặn được những sự việc này và khi con kinh nghiệm là không có quyền lực nào, thì con cảm thấy hoàn toàn bất lực, con cảm thấy mình trong vòng kềm tỏa của những sự việc ngoài tầm kiểm soát của mình. Cái gì đang cảm thấy như vậy? Đó là một phàm linh cảm thấy như vậy, không phải là con. Điều thày cần con làm là bước lui lại, nhìn việc đang xảy ra, thấy là có phàm linh đang cảm thấy bất lực và con tự hỏi: “Vậy thì con cảm thấy thế nào?” Con, là cái mà các thày gọi là cái Ta Biết, không cảm thấy bất lực. Cái Ta Biết, khi nó biết nó là ai, nó là gì, không bao giờ cảm thấy bất lực.

Khi cái Ta Biết nhận biết nó là ai và là cái gì, thì nó nhận ra là không có điều gì trên trái đất quy định được nó. Chuyện gì xảy ra khi con bị dính líu vào một biến cố vật lý rất tang thương? Lẽ dĩ nhiên là có hậu quả vật lý. Con có thể bị giết, gia đình và bạn bè của con có thể bị giết, xã hội của con có thể bị tiêu diệt. Chuyện này đã xảy đến cho đa số các con trong những kiếp trước, và cho một số nhỏ trong kiếp này, nhưng con yêu dấu, có phải chăng là hoàn cảnh bên ngoài đã ảnh hưởng con?

Thày có nói là cái Ta Biết không thể nào bị quy định hay ảnh hưởng bởi bất cứ điều gì trên thế gian. Con là nhận biết thuần khiết, con luôn luôn có thể trở về nhận biết thuần khiết và do đó tách mình ra khỏi những vết thương trong ba thể cao của con. Cái gì tác động con trong một sự việc bên ngoài? Ấy, đấy là cách con phản ứng lại hoàn cảnh. Phản ứng của con tạo ra một phàm linh nội tại và phàm linh này ở lại trong ba thể cao của con ngay cả trong các kiếp sau đó. Như các thày đã lặp đi lặp lại nhiều lần trong khóa học này và trong các bài giảng khác, con không phải là phàm linh đó. Rất có thể là, cho tới điểm này, con đã nhìn thế giới qua phàm linh này và phản ứng lại phàm linh này nhưng tuy vậy, con không phải là phàm linh. Trong khóa học này, con đã chế phục nhiều phàm linh nội tại, và do đó, lẽ dĩ nhiên là con có thể chế phục thêm nhiều phàm linh nữa. Thày chỉ giản dị muốn con chế phục thêm một phàm linh nữa bằng cách nhận ra rằng, bất kể những chấn thương mà con đã gánh chịu trong kiếp này hay các kiếp trước, hậu quả kéo dài của các sự việc vật lý này là các phàm linh nội tại mà con mang theo trong ba thể cao của con. Chính những phàm linh này đang tác động con.

12.9. Nhận ra hồng ân của thời gian

Con yêu dấu, bây giờ thày cần con đứng lui lại và nhận ra là thời gian là một hồng ân. Nhiều người trong số các con không nhìn thời gian dưới góc độ này vì thời gian được xem như cái gì đòi hỏi hay giới hạn con. Trong đời sống hàng ngày, con lúc nào cũng phải ở nơi nào đó vào lúc nào đó, con cần phải đi làm trong một khoảng thời gian nào đó, con không được tự do với thời gian của mình. Nhiều người trong các con cảm thấy đời sống ngắn ngủi và thời gian trôi qua nhanh, và do đó con người có một quan hệ khá khó chịu với thời gian. Thày sẽ cố gắng cho con một tầm nhìn khác.

Chúng ta hãy coi là một lúc nào đó trong quá khứ, trong kiếp này hay một kiếp trước, con bị dính líu vào một biến cố rất tang thương, tỷ dụ như một chiến tranh tiêu diệt gia đình và xã hội của con. Đây là một sự việc vật lý, nhưng sự việc vật lý xảy ra ở một thời điểm nào đó và bây giờ thời gian đã trôi đi. Con không còn sống ở mốc thời gian cũ nữa. Điều này có nghĩa là con nay có thể nhìn sự việc và nói: “Không thể chối cãi là sự việc vật lý này đã xảy ra trong cõi vật lý. Nhưng ngày hôm nay, sự việc này ở đâu trong cõi vật lý?” Nó không còn trong cõi vật lý vì thời gian đã trôi đi.

Có thể là vẫn còn một số hậu quả, một số tác dụng của sự việc vẫn còn hiện diện trong thế giới vật lý. Để giúp chúng ta hiểu dễ hơn, chúng ta hãy giả thử là mấy ngàn năm trước đây trong một kiếp trước, con bị dính líu vào một biến cố tang thương khi Đế quốc La mã chinh phục và tàn phá thành phố nơi con sống. Biến cố này xảy ra 2000 năm trước đây. Ngày nay, không còn dấu vết nào của biến cố đó trong cõi vật lý, cũng không có hậu quả gì, ít nhất là hậu quả trực tiếp. Biến cố này có còn tác động con chăng? Con phải nhìn nhận là, ở tầng vật lý, biến cố này không còn tác động con. Điều này chính thực cũng áp dụng cho một sự việc xảy ra năm phút trước đây.

Hồng ân của thời gian là nó cứ liên tục trôi đi, có nghĩa là khi thời gian trôi đi, nó tẩy xóa các sự việc cũ. Đó là những sự việc vật lý đã xảy ra trong tầng vật lý nhưng thời gian đã tẩy xóa chúng. Điều này có nghĩa là, dù ở thời điểm sự việc xảy ra, con bất lực không ngăn cản được sự việc ảnh hưởng con, thời gian đã cho con cơ hội mới để khắc phục ảnh hưởng của sự việc. Ta có thể nói: “Ngày hôm nay, sự việc vật lý xảy ra 2000 năm trước đây có tầm quan trọng nào chăng?” Ở tầng vật lý, rõ ràng là không.

Tuy nhiên, khi sự việc xảy ra, con phản ứng dựa trên tầng tâm thức của con lúc ấy và con tạo ra một số phàm linh nội tại. Nếu các phàm linh này vẫn còn ở trong ba thể cao của con, nếu con vẫn mang chúng theo mình trong suốt bao nhiêu kiếp từ khi biến cố xảy ra, thì sự việc vẫn ảnh hưởng con. Tuy nhiên, nó không ảnh hưởng con một cách vật lý, và như vậy có nghĩa là con không bất lực và con có thể khắc phục nó. Vấn đề không phải là con ngăn chặn sự việc vật lý, mà con không thể ngăn chặn được vì nó không có mặt ở đây nữa. Vấn đề là con chế phục hậu quả của sự việc đó, tức là các phàm linh nội tại. Con thật sự quyền lực làm rã tan các phàm linh này và giải thoát con khỏi chúng.

12.10. Nghiệp quả luân lưu ra sao qua bốn cõi

Trong quá khứ (dù là hai phút hay 2000 năm trước đây) con bị dính líu vào một sự việc nào đó. Con phản ứng dựa trên tầng tâm thức mà con có lúc đó. Con tạo ra một phàm linh dựa trên phản ứng của con trước sự việc. Con không có lỗi gì cả. Con có thể làm gì khác việc phản ứng dựa trên tầng tâm thức mà con có khi con trải nghiệm sự việc?

Bây giờ con đã lên một tầng tâm thức cao hơn và do đó con có quyền lực tìm các phàm linh đã được tạo ra ở một tầng tâm thức thấp hơn, thấy chúng như chúng là, tách mình ra khỏi chúng và nói: “Hãy đứng phía sau ta, Satan.” Con có thể cầu thỉnh Đại thiên thần Michael, Astrea hay các chân sư khác trói buộc, tiêu hủy và làm rã tan các phàm linh đó. Khi con thấy ảo tưởng đã tạo ra phàm linh, con có thể buông bỏ ảo tưởng và con được giải thoát!

Thày cần con nhận ra nơi đây một khía cạnh vi tế của nghiệp quả mà nhiều đệ tử tâm linh chưa hiểu thấu. Con yêu dấu, con có thể nghĩ nghiệp quả là một sự vật vật lý. Rất nhiều người (ở phương Đông và ngay cả trong các cộng đồng Thời đại mới) tin rằng khi con có một hành động vật lý, con tạo một nghiệp vật lý, và một ngày nào đó nghiệp quay trở lại và đập con, có nghĩa là một chuyện gì xấu sẽ xảy ra cho con. Tuy nhiên, nghiệp quả không vận hành như vậy. Các thày đã nói trước đây: “Nghiệp quả không phải là trừng phạt.”

Các thày cũng có nói là một khía cạnh khác của thời gian là khi con gửi đi một xung lực nghiệp qua một hành động nào đó, nó không trở lại con ngay tức khắc. Đây lại là, một lần nữa, một khoảng cách hồng ân khi xung lực luân lưu qua bốn tầng của vũ trụ vật chất. Khi xung lực trở về cõi vật lý, nếu con đã học bài học, nếu con đã vượt qua tâm thức đã khiến con tạo nghiệp, thì sẽ không có chuyện gì xấu xảy ra cho con trong cõi vật lý. Con có hiểu thày chăng? Mục đích của nghiệp quả không phải là để trừng phạt con vì những gì con đã làm.

Điều này cũng giải thích một cách sâu sắc vì sao những cơ chế bù đắp hoàn toàn không có lợi ích gì. Vấn đề không phải là, nếu con giết một người trong quá khứ, nhưng con đã làm đủ việc thiện nhưng không thay đổi tâm thức, thì con sẽ không bị giết trong tương lai khi nghiệp quả trở lại. Khi nghiệp quả trở lại, nó đi xuống thể bản sắc, thể tư tưởng và thể cảm xúc của con. Nếu con vẫn còn có cùng tâm thức, cùng phàm linh nội tại, đã khiến con giết một người mười kiếp trước đây, thì khi nghiệp quả vào thể bản sắc của con nó được khơi động – nó được phóng đại – bởi phàm linh nội tại trong thể bản sắc của con. Phàm linh nội tại đó có thể nghĩ việc giết người đó trong hoàn cảnh nào đó là điều chính đáng.

Sau đó nghiệp quả xuống thể tư tưởng. Nếu con vẫn còn một phàm linh giải thích là việc con giết người đó chấp nhận được, nó lại được phóng đại và sau đó nó xuống tầng cảm xúc. Nếu con vẫn còn cảm xúc giận dữ mà con chưa giải quyết, nó lại được phóng đại nữa. Sau đó, nó xuống cõi vật lý nơi nó có thể kết đọng xuống thành một biến cố tang thương khiến con có thể bị giết hoặc chuyện gì khác xảy ra cho con. Nếu con đã tháo bỏ những phàm linh trên ba thể cao, không có gì phóng đại xung lực nghiệp quả và do đó nó sẽ không xuống cõi vật lý. Nó giản dị tan rã đi trước khi nó tới cõi vật lý.

Nghiệp quả không phải là trừng phạt. Nó là một cơ hội để học bài học mà con không học lúc ban đầu. Nếu trong khoảng thời gian sau đó con đã học xong bài học, thì con không cần nghiệp quả xuống cõi vật lý là nơi con không thể lờ nó đi. Con không còn cần nghiệp quả và đó là lý do nó có thể tan rã hoàn toàn trong ba thể cao của con hoặc một chân sư thăng thiên có thể quyết định lãnh chịu nó để giúp con tránh một sự việc vật lý có thể trì hoãn tiến bộ của con.

12.11. Kéo theo sau những phàm linh cũ

Thày cần con nhận ra là dù con đang phải đối đầu với một hoàn cảnh rất khó khăn, một hoàn cảnh vật lý khó khăn mà con không thể tránh, con vẫn không bất lực. Có thể là con không ngưng được hoàn cảnh vật lý. Nếu quyền tự quyết của người khác dính líu vào hoàn cảnh, thì con không muốn ngưng nó trải bày. Thay vào đó, điều con cần làm là chú tâm vào việc kiểm soát phản ứng của con đối với hoàn cảnh. Đây là cơ hội cho con thấy nếu còn một số phàm linh nội tại đã được tạo ra trong các hoàn cảnh tương tự trong quá khứ, khiến con phản ứng với hoàn cảnh hôm nay với tầng tâm thức của con khi các phàm linh này được tạo ra. Con có thấy cơ chế này chăng?

Nếu con bị dính líu vào một biến cố tang thương 2000 năm trước, khi con ở, thí dụ, tầng tâm thức 48, con đã tạo ra phàm linh nội tại khi con phản ứng ở tầng 48. Bây giờ con ở một tầng tâm thức cao hơn nhiều. Đâu có lý do nào khiến con muốn phản ứng dựa trên tầng tâm thức 48, khi con có đầy đủ khả năng phản ứng ở tầng tâm thức hiện nay của con? Tuy nhiên, để tránh phản ứng ở tầng tâm thức cũ, con cần làm rã tan phàm linh đã được tạo ra trong quá khứ.

Mọi hoàn cảnh đều là một cơ hội để con nhìn vào phản ứng của mình, thấy phàm linh đã khiến con phản ứng trong quá khứ (khi con ở một tầng tâm thức thấp hơn), làm nó rã tan đi, vươn lên trên nó, và sau đó giải thoát con khỏi phàm linh này. Một lần nữa, thày không đòi hỏi con phải toàn hảo. Thày không đòi hỏi con phản ứng với mọi hoàn cảnh mà con gặp trên đời với tầng tâm thức 144 là tầng tâm Phật không dính mắc. Thày muốn con nhận ra con đang ở một tầng tâm thức nào đó. Con phản ứng ở tầng tâm thức 84 hay 87 là điều hoàn toàn thích nghi. Con không làm gì sai trái khi con phản ứng ở tầng tâm thức hiện nay của con; con không cần chê trách mình nếu con làm vậy. Con không cần cho phép sa nhân đánh lừa con và khiến con nghĩ, vì con là đệ tử chân sư thăng thiên, đáng lý con phải phản ứng với tầng tâm thức cao nhất. Đây không phải là yêu cầu, đây không phải là cách tu tập.

Một lần nữa, con đường tu là con đường tuần tự. Con bước đi từng bước một. Ở mỗi lúc, con ở một tầng tâm thức nào đó, và lẽ tự nhiên con phản ứng lại hoàn cảnh ở tầng đó. Thày có thể bảo đảm với con là, ở tầng tâng thức hiện nay của con, phản ứng trước bất kỳ hoàn cảnh nào sẽ không khắt khe bằng phản ứng với tầng tâm thức 48 hay một tầng tâm thức thấp khác. Do đó, con cần nhận ra là con có thể đang gặp một hoàn cảnh không vui và con e ngại không biết hoàn cảnh sẽ tiến triển ra sao, nhưng nỗi sợ này dựa trên một phàm linh thấp mà con chưa làm rã tan đi. Nếu con làm phàm linh đó rã tan đi, con có thể phản ứng với tầng tâm thức hiện nay của con, và nỗi sợ và sự hung hãn của con sẽ ít cường độ hơn nhiều.

12.12. Vì sao con không bất lực

Con yêu dấu, con có thấy chăng là con không bao giờ bất lực. Bất lực là chuyện không có. Một lần nữa con có thể nói: “Nhưng con không ngăn được sự việc vật lý xảy ra.” Con yêu dấu, đúng là con không ngăn được sự việc vật lý nhưng nó không ảnh hưởng con. Chính phản ứng của con trước hoàn cảnh đã ảnh hưởng con. Nếu con kiểm soát được phản ứng của mình, nếu con làm rã tan đi các phàm linh thấp đã khiến con phản ứng trong những hoàn cảnh tương tự với một tầng tâm thức thấp hơn, thì con có quyền lực trên phản ứng của con trước hoàn cảnh.

Con yêu dấu, một phần của tư duy thần diệu là con cảm thấy có trách nhiệm với chuyện xảy ra. Các tâm lý gia cho rằng trẻ thơ cảm thấy thế giới là một phần nối dài của chúng và của thân thể chúng, và do đó chúng cảm thấy có trách nhiệm với bất cứ chuyện gì xảy ra.

Một thí dụ là nhiều trẻ thơ bị chấn thương tâm thần vì chúng cảm thấy có trách nhiệm khi cha mẹ chúng cãi nhau. Tinh thần trách nhiệm này không thích hợp. Các thày đã nói gì trong khóa học này? Các thày muốn các con chấp nhận càng ngày càng nhiều trách nhiệm về chính mình và về phản ứng của mình, nhưng đồng thời con phải ngưng nhận trách nhiệm về những gì con không có trách nhiệm.

Đâu là yếu tố giải thoát khi con nhìn nhận quyền tự quyết? Con yêu dấu, đó là con nhận ra là con chịu trách nhiệm cách con thực thi quyền tự quyết của mình nhưng con tuyệt đối không chịu trách nhiệm khi những sinh thể khác thực thi quyền tự quyết của họ. Con cần đặc biệt nhận biết là con không chịu trách nhiệm khi sa nhân thực thi quyền tự quyết của họ. Con cần duyệt lại một lần nữa vấn đề của sự ác độc đã khiến nhiều nhà tôn giáo và triết gia bối rối.

Sự ác độc như ta thấy trên trái đất không phải là quy luật, nó là một ngoại lệ hiếm hoi. Có hàng tỷ hành tinh trong vũ trụ của con đang theo một vòng xoắn hướng thượng nơi đó không có chiến tranh hay các hình thức bạo lực, tra tấn và độc ác mà con thấy trên trái đất. Trái đất là một trong số rất, rất ít hành tinh mà tình trạng này được cho phép xảy ra. Con cần giản dị nhìn nhận đây là loại hành tinh nơi con đang hiện thân. Do đó, con cần nhìn nhận là sự kiện sa nhân đã và đang làm đủ loại điều tàn ác không phải là lỗi của Thượng đế, đây là lỗi của họ. Con cũng cần nhìn nhận là sự kiện sa nhân làm điều mà họ làm không phải là lỗi của con.

12.13. Con không đáng bị mọi chuyện đã xảy ra

Các đệ tử tâm linh thường có cảm nhận là – và đây cũng là một khía cạnh vi tế của tư duy thần diệu – nếu điều gì không tốt xảy ra cho họ, thì chắc là họ đã làm điều gì đó để đáng bị như vậy. Ý niệm này dựa trên ước mơ là tối hậu có một Thượng đế nhân từ kiểm soát vũ trụ. Con cũng có một câu mà các thày đôi khi đã dùng: “Trong vũ trụ không có bất công.” Con có thể dùng suy luận cao và nói, vì có luật tự quyết và vì luật tự quyết phải được phép trải bày ra, không có bất công trong vũ trụ, vì bất kỳ sa nhân đã làm gì với quyền tự quyết của họ, họ rốt cuộc sẽ phải chịu trách nhiệm về hành động của họ.

Tuy nhiên, nếu con nhìn vào một hành tinh như trái đất, con có thể nói là nếu ta thẩm định những sự việc đã xảy ra trên trái đất, thì chắc chắn là bất công trên trái đất. Nhưng có nhiều đệ tử tâm linh nghĩ như sau: “Ồ, thực tế tối hậu là Thượng đế là đấng nhân từ và Thượng đế kiểm soát mọi chuyện, do đó Thượng đế có một kế hoạch cho vũ trụ, và Thượng đế đã cho phép những chuyện xảy ra trên trái đất. Điều này có nghĩa là Thượng đế đã định ra một luật là điều xấu chỉ có thể xảy ra cho tôi nếu tôi đã làm điều gì đó để đáng bị như vậy. Do đó, chắc chắn phải có vấn đề gì đó với tư tưởng của tôi, với tâm của tôi đã khiến tôi thu hút các hoàn cảnh trong đó tôi bị sa nhân hành hạ.”

Đây là một khía cạnh của tư duy thần diệu khiến con nghĩ là chắc con đã làm điều gì nên con đáng để bị sa nhân hành hạ. Con có thể nói là con đã làm điều gì để đáng bị sa nhân hành hạ, đó là con đã chọn đầu thai trên trái đất và sự hiện diện của con đã bị sa nhân coi là một thách đố. Lẽ dĩ nhiên, đây không phải là vấn đề công lý hay bất công. Đây là chuyện quyền tự quyết trải bày.

Con có thấy chăng, không phải là vì trong con có điểm gì thiếu sót mà sa nhân cảm thấy bị đe dọa bởi ánh sáng tâm linh của con và tìm cách tiêu diệt con. Con không thể cho phép mình cảm thấy có trách nhiệm về chuyện này. Tuy nhiên, khi con ở một tầng tâm thức thấp, con không thể tránh phản ứng lại sa nhân bằng cách tạo ra một phàm linh nội tại dựa trên ảo tưởng mà con có ở tầng đó. Một lần nữa, con không cần trách mình. Con chỉ cần giản dị nhìn nhận là ở một thời điểm nào đó, con ở trong một tầng tâm thức thấp, con bị sa nhân tấn công và tìm cách tiêu diệt con, và con đã phản ứng dựa trên viễn kiến mà con có lúc đó, dựa trên những ảo tưởng mà con đã lấy vào để xuống tầng tâm thức đó. Do đó, con tạo ra một phàm linh nội tại dựa trên niềm tin là vũ trụ này không bất công và do đó chắc là con đã làm điều gì đó nên Thượng đế đã cho phép sa nhân hành hạ con.

Đây là phản ứng của một phàm linh nội tại – không phải của con. Ở tầng này của con đường tu, con đã sẵn sàng để thấy điều này. Con đã sẵn sàng trải nghiệm cảm giác giải thoát nhất mà con có thể có, đó là con trải nghiệm: “Tôi không chịu trách nhiệm về những điều sa nhân làm đối với tôi, tôi không làm gì sai trái hết, tôi không làm gì để đáng bị sa nhân tấn công. Tôi không cần tìm điểm thiếu sót trong con người tôi để giải thích tại sao chuyện sa nhân hành hạ tôi được phép xảy ra. Không có thiếu sót gì trong con người tôi. Tuy nhiên tôi đã tạo ra một phàm linh nội tại ở tầng tâm thức mà tôi có khi bị sa nhân tấn công. Tôi cần nhìn vào phàm linh này; tôi cần làm nó rã tan đi và sau đó tôi sẽ được tự do.”

12.14. Một bước ngoặt lớn

Con yêu dấu, quả thật đây là một bước ngoặt lớn trên con đường tâm linh khi con nhận ra là con không chịu trách nhiệm về những điều người khác đã làm đối với con. Lẽ dĩ nhiên, ta cần xem xét điều này kỹ càng hơn. Như thày đã nói, trong các kiếp trước con có trình độ tâm thức thấp hơn hiện nay. Ở tầng tâm thức thấp đó, con có thể đã làm điều gì xúc phạm người khác. Do đó, con đã tạo nghiệp và nếu con chưa làm rã tan đi những phàm linh ở ba thể cao, thì nghiệp quả sẽ trở lại con như một sự việc trong đó người khác sẽ xúc phạm con. Trong trường hợp này, con có thể nói: “Đúng rồi! Tôi đã làm điều gì đó nên đáng bị như vậy.” Không phải là con đáng bị như vậy, nhưng là vì con đã không làm rã tan đi phàm linh đã khiến con tạo ra điều gì tương tự cho người khác trong quá khứ.

Một lần nữa, có thể có một khuôn nếp mà con cần xem xét: “Tại sao chuyện này lại xảy ra cho tôi? Phải chăng trong tâm lý tôi cũng có một cơ chế tương tự với cơ chế mà tôi thấy nơi những người xúc phạm tôi? Phải chăng tôi có những phàm linh nội tại cùng một loại với phàm linh nội tại mà những người này có, cho nên những điều mà những người này làm đối với tôi bây giờ cũng là những điều mà tôi đã làm đối với người khác trong quá khứ?” Trong trường hợp này, lẽ dĩ nhiên con cần làm việc với chính mình để làm rã tan phàm linh đi.

Chúng ta đang nói hai chuyện khác nhau. Điều mà thày đang nói bây giờ có thể gọi là chuyện tạo nghiệp hàng ngày trên một trái đất dày đặc như trái đất. Điều thày nói ở phần trên là khi con bị sa nhân cố ý xúc phạm lần đầu, hành động xúc phạm khởi thủy này của sa nhân không phải là nghiệp báo do con tạo ra. Con không làm gì trước đó để đáng bị như vậy. Đó là lý do vì sao bây giờ con có thể nhận ra điều đó. Con nhận ra là sa nhân đã khuynh loát con để con tạo ra một phàm linh nội tại cảm thấy mình có tội khi tương tác với sa nhân. Con cảm thấy có tội ngay cả chỉ vì con có mặt trên trái đất, và mang theo ánh sáng thách đố sa nhân.

Thày có nói là con tạo ra phàm linh phản ứng lại sa nhân, phàm linh khiến con cảm thấy mình bất toàn – mình có điều gì sai trái. Đây là một sắc thái khác của điều trên, khiến con cảm thấy tội lỗi. Con cảm thấy tội lỗi đã là chính mình, con cảm thấy đáng lý con không được ở đây, con không được thách thức sa nhân. Con cũng có thể cảm thấy tội lỗi vì đã biểu lộ quả vị Ki-tô trong một kiếp trước vì đó không phải là tầng tối hậu của quả vị Ki-tô.

Khi con thấy ra những điều này, khi con tới điểm tách mình ra khỏi chúng, thì đây có thể là một bước ngoặt trọng đại trên con đường tu của con. Lúc đó, bỗng nhiên tất cả cảm giác tội lỗi vì mình ở trên trái đất tan biến đi. Làm sao con có thể an bình với chính mình khi con cảm thấy tội lỗi là chính mình, ít ra là chính mình trong môi trường trái đất? Làm sao con có thể an bình với việc ở trên trái đất nếu con cảm thấy tội lỗi chỉ vì đã hiện diện ở đây? Con có thể cảm thấy tội lỗi khi con đã làm một số chuyện, nhưng đằng sau cảm giác tội lỗi này là cảm giác tội lỗi chỉ vì con hiện diện ở đây.

Con yêu dấu, khi con thấy những điều này, khi con thấy đây là một phàm linh nội tại, khi con nói: “Hãy đứng phía sau ta, Satan”, khi con có cảm giác giải thoát khi con thấy ảo tưởng và thấy con thoát ra khỏi nó, thì con thực sự cảm nhận một mức độ tự do mới. Thày rất vui mừng khi thấy đệ tử tới điểm này trên cõi bản sắc, nhưng thày lại càng vui mừng hơn nữa khi thấy đệ tử tới điểm này ở tầng vật lý. Thày thật sự hy vọng con sẽ có trải nghiệm đó khi con làm việc với bài giảng này.

Ảo tưởng cầu toàn, 8 đoạn

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 22/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada, và thày muốn bắt đầu bài giảng thứ tư này bằng điều mà trong bài trước thày có gọi là cơ chế bù đắp. Trong bài trước, thày có nói là con có cảm tưởng là trong quá khứ con đã làm điều gì sai trái và bây giờ con tìm cách bù đắp lại. Lẽ dĩ nhiên thày có nói là con cần biết một cách ý thức cơ chế này có mặt, nhìn vào nó, tách mình ra khỏi nó và buông bỏ nó. Con ngừng không đặt con đường tu trên căn bản mong muốn bù đắp có tính chất ám ảnh-cưỡng bức (obsessive-compulsive) này. Thày muốn tiến thêm một bước nữa và xem xét quan niệm là mình đã làm điều gì sai trái. Làm điều sai trái thật sự nghĩa là gì?

Các thày đã trao truyền nhiều giáo lý qua sứ giả này trong nhiều năm qua về trạng thái tâm nhị nguyên, về tư duy cuồng đại. Thày đã trao truyền nhiều giáo lý về sa nhân và những cách họ đã dùng để khuynh loát mọi khía cạnh đời sống trên trái đất. Lẽ dĩ nhiên, một trong những cách tinh tế mà sa nhân dùng để khuynh loát sự sống và con người là quy định tiêu chuẩn đúng và sai. Khía cạnh tinh tế nhất là trong nhiều nền văn hóa, sa nhân đã làm cho đa số con người tin rằng không phải là sa nhân, mà là Thượng đế đã quy định tiêu chuẩn đúng sai. Có một đấng cao cả bên ngoài cõi vật chất đã quy định tiêu chuẩn đúng sai. Có một Thượng đế giận dữ trên trời đang quan sát tất cả mọi hành động của con và phán xét con dựa trên tiêu chuẩn đúng sai đó. Nếu con làm điều gì sai trái, con sẽ bị Thượng đế đó trừng phạt, có thể là bằng cách bị đốt cháy vĩnh viễn trong địa ngục.

Như một đệ tử chân sư thăng thiên, con có thể thấy là trong đa số các nền văn hóa (bất cứ nơi nào mà con có thể khôn lớn lên trên hành tinh này) trong tâm thức tập thể có cơ chế đó do sa nhân tạo ra. Con người thực sự tin rằng Thượng đế đã quy định tiêu chuẩn đúng sai. Con hầu như không thể lớn lên trên trái đất này mà không bị niềm tin đó ảnh hưởng. Một lần nữa, đây không phải là một lý do để cảm thấy hổ thẹn nhưng đã đến lúc con nhận ra một cách ý thức là nó đã ảnh hưởng con. Con có thể rất mau chóng nhận ra là nếu trong quá khứ con có cảm tưởng mình đã làm điều gì sai trái nhưng cảm giác này dựa trên tiêu chuẩn do sa nhân quy định, thì có thể là con đã không làm gì sai trái hết. Do đó, sẽ chẳng lợi ích gì nếu con tiếp tục khuôn đúc tìm cách bù đắp cho việc làm sai trái – nếu sự thực là con chẳng làm gì sai trái cả.

Con có thể thấy là tất cả các con đã có tinh thần trách nhiệm. Con có ý tưởng rằng: “Tôi đã tạo nghiệp trong quá khứ và nay tôi cần cân bằng nghiệp quả đó.” Con có thể nhìn việc cân bằng nghiệp quả như một nỗ lực bù đắp. Con bù đắp lại một điều gì con đã làm trong quá khứ. Như thày có nói trong bài giảng trước, con cần cân bằng nghiệp quả nhưng có sự khác biệt giữa cân bằng nghiệp qua trong trạng thái tâm trung hòa và cân bằng nghiệp với ham muốn bù đắp có tính chất ám ảnh-cưỡng bức (obsessive-compulsive). Thày tin rằng là con đã bắt đầu thấy sự khác biệt này sau khi con lĩnh hội bài giảng trước của thày.

10.1. Xem xét cách tu của con

Lẽ tự nhiên, ở đây chúng ta cần vô tư và tinh ý. Ta cần giản dị quan sát là con đã tạo nghiệp trong quá khứ, con cần cân bằng nghiệp quả đó và con cần làm những gì cần thiết để cân bằng nghiệp quả – tỷ dụ bằng một số hành động hay bằng cách đọc bài chú bài thỉnh. Trước tiên, điều quan trọng trong việc cân bằng nghiệp là nâng cao tâm thức, buông bỏ các phàm linh nội tại đã khiến con có hành động đã tạo ra nghiệp. Bây giờ con cần tiến thêm một bước nữa và nhận ra là nếu con hành động trong khuôn nếp bù đắp, con sẽ có cảm giác là ngưng hành động đó là một điều sai trái. Thày cần con thành thực nhìn vào chính mình và tự hỏi: “Tôi đã làm gì trong những năm vừa qua? Tôi có đã đọc bài chú bài thỉnh không?” Sau đó con cần suy ngẫm: “Tôi sẽ cảm thấy thế nào nếu ngày hôm nay tôi ngưng không đọc chú đọc thỉnh nữa?” Nếu con cảm thấy có phản ứng trong tâm, có thể là cảm giác sợ sệt là sẽ có điều không lành xảy ra hay con làm vậy là sai quấy, thì đây là một khuôn nếp bù đắp, đây là chỉ dấu ám ảnh-cưỡng bức.

Thày không nói con nên ngưng đọc chú đọc thỉnh. Thày muốn con giám sát phản ứng của con trước việc đó. Con có thể nhận ra là nếu con bị ý muốn ám ảnh-cưỡng bức thúc đẩy con phải bù đắp những sai lầm con đã phạm trong quá khứ , thì con không hoàn toàn làm chủ phản ứng của mình. Như thày có nói trong bài giảng trước, con đã phản ứng với sa nhân thay vì với các chân sư thăng thiên. Các thày muốn con cân bằng nghiệp và khi con làm xong, con tiến lên làm gì khác thay vì tiếp tục làm cùng chuyện cũ.

Con đã tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên, con hiểu hơn về con đường tâm linh và nghiệp quả, con học cách cân bằng nghiệp quả bằng cách cầu thỉnh ánh sáng tím, tỷ dụ, và con quyết định với tâm vỏ ngoài là con sẽ đọc bài thỉnh ánh sáng tím một tiếng mỗi ngày. Con nghĩ đây là điều con cần làm cho tới cuối đời để bảo đảm là nghiệp quả được cân bằng. Như thày có nói trong bài giảng trước, con sẽ tới điểm con bắt kịp tầng tâm thức hiện nay của con, con đã cân bằng nghiệp quả cho tới tầng đó, và nay con không cần làm tiếp đúng y như những gì con quyết định nhiều năm trước đây.

Bây giờ con cần hòa điệu với thử thách con phải đối mặt ở tầng tâm thức hiện nay của con và làm sao con tiến lên tiếp từ chỗ này? Thày muốn con đi sâu hơn vào sự hòa điệu với vị trí hiện nay của con trên con đường tu. Sau đó con cần xem xét: “Có phải chăng là tôi đã lấy quyết định hai, năm, mười, ba mươi năm trước đây là tôi sẽ thực tập như thế nào đó mỗi ngày cho đến cuối đời?” Nếu con đã làm vậy, thì tiếp tục hành động theo quyết định này có lợi ích chăng? Có lợi ích hơn chăng nếu con hòa điệu với tầng tâm thức hiện nay của con và với điều con cần làm để vươn lên tầng kế tiếp?

Con có thấy chăng sự trớ trêu là nếu sa nhân trong quá khứ đã khiến con tin rằng con đã làm điều gì sai quấy và điều này tạo nên khuôn nếp bù đắp, nhưng nếu thực sự con đã không làm điều gì sai trái cả, thì việc cố gắng bù đắp một điều không sai trái là chuyện hoàn toàn vô nghĩa. Con có thấy chăng là con đang tìm cách cân bằng một nghiệp quả nhưng nghiệp quả đó không có.

10.2. Có nhiều tầng của quả vị Ki-tô

Bây giờ thày cần con đứng lui lại và nhìn vào quan niệm đúng và sai của con. Thầy cần con sẵn sàng mở tâm đón nhận một cái nhìn mới về vấn đề này. Điều này hoàn toàn không có nghĩa là điều con làm trước đây là sai trái. Chỉ giản dị có nghĩa là con nay đã đến gần tầng thứ 90 trên con đường tâm linh. Con đang tới gần các khai ngộ của Tia thứ Bảy dưới thày Saint Germain và do đó con đã sẵn sàng để xem xét chuyện này.

Con yêu dấu, chúng ta hãy bắt đầu bằng xem xét khái niệm quả vị Ki-tô. Các thày đã trao truyền nhiều giáo lý về quả vị Ki-tô và các thày đã trao truyền tùy theo trình độ tâm thức. Như các thày có nói, điều tự nhiên là khi con nghe về khái niệm quả vị Ki-tô lần đầu, con nhìn nó với tầng tâm thức lúc đó của con. Thực ra, có nhiều tầng của quả vị Ki-tô và do đó con phải nhận ra là con không thể lấy khái niệm đầu tiên của con về quả vị Ki-tô và đem nó theo với con khi con nâng cao tâm thức.

Tại sao lạ như vậy? Nếu con lấy khái niệm phổ thông nhất về quả vị Ki-tô trên trái đất, thì đó là khái niệm do các giáo hội Công giáo chính thức cổ xúy. Theo cái nhìn này, Giê-su là người duy nhất đạt được quả vị Ki-tô, và quả vị Ki-tô được trình bày như một trạng thái toàn hảo. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên có phần nào quan niệm quả vị Ki-tô có nghĩa là – bỗng nhiên – con đạt một tầng tâm thức, và từ lúc đó con có viễn quan sáng rõ về mọi chuyện, và mọi chuyện con làm đều đúng. Tỷ dụ, họ nghĩ rằng Giê-su đã một ngày nào đó đạt được quả vị Ki-tô, hay cũng có thể thày đã có sẵn từ khi sinh ra, và do đó thày không bao giờ làm điều gì sai trái.

Thực tế tinh tế hơn và có thể hiểu bằng cách kết nối với điều thày nói trong bài giảng trước. Thày nói: “Quả vị Ki-tô là thách thức hiện trạng.” Hiện trạng dựa trên cái gì? Nó dựa trên một ảo tưởng. Con nay có thể thấy là ở mỗi tầng của 144 tầng tâm thức trên trái đất, có một ảo tưởng dính liền với tầng tâm thức đó. Chính ảo tưởng quy định tầng tâm thức đó. Do đó ảo tưởng cũng quy định điều mà những người vẫn còn mù quáng bởi tầng tâm thức đó coi là hiện trạng.

Ở mỗi tầng của 144 tầng, có một ý niệm hiện trạng dựa trên một ảo tưởng nào đó. Quả vị Ki-tô là gì? Quả vị Ki-tô là thách thức ảo tưởng ở mỗi tầng của 144 tầng tâm thức. Con nay thấy là có 144 tầng của quả vị Ki-tô. Con yêu dấu, nếu con thách thức ảo tưởng ở tầng tâm thức thấp nhất trên trái đất, là nơi con người chỉ nghĩ đến mình, vị kỷ, chỉ muốn vơ về cái ngã, thì dĩ nhiên quả vị Ki-tô rất khác so với việc thách thức ở một tầng tâm thức cao hơn.

Do đó con bây giờ thấy có nhiều biểu hiện khác nhau của quả vị Ki-tô. Nếu con áp dụng tiêu chuẩn sa ngã, thì nhiều hành xử của quả vị Ki-tô thách thức ảo tưởng ở các tầng tâm thức thấp sẽ bị xem là sai trái. Điều thày muốn con nhận ra là việc con chấp nhận trách nhiệm về hành động quá khứ của mình là điều tốt. Nhưng chứng loạn thần ám ảnh-cưỡng bức khiến con chấp nhận trách nhiệm về điều con không làm. Nó khiến con chấp nhận trách nhiệm về điều không phải là trách nhiệm của con. Thày có nói quả vị Ki-tô không phải là một cuộc thi xem ai được ưa chuộng nhất vì sa nhân sẽ không bao giờ chấp nhận bất cứ biểu hiện nào của quả vị Ki-tô. Bây giờ con hãy cùng thày nhìn quá khứ của con một cách khác.

10.3. Quả vị Ki-tô không có nghĩa là con phải toàn hảo

Trong quá khứ, con ở một tầng tâm thức thấp hơn. Việc con ở trên hay dưới tầng 48 không quan trọng. Làm sao con vươn lên một tầng tâm thức cao hơn? Con đã vươn lên vì con thấy được ảo tưởng ở tầng tâm thức đó. Khi con nhìn thấu suốt ảo tưởng đó, thì điều đó trở nên một thách thức, không chỉ đối với sa nhân mà còn đối với những người chung quanh con vẫn còn bị kẹt trong ảo tưởng đó. Con có nhận ra chăng là trong quá khứ, con đã có một số kiếp sống trong đó con nhìn thấu một ảo tưởng. Ảo tưởng đó có thể là một ảo tưởng ở các tầng tâm thức thấp, và con công khai và thẳng thắn thách thức những người vẫn nắm giữ ảo tưởng đó.

Có thể là lúc đó con đã thách thức một số sa nhân đang lãnh đạo xã hội và kềm giữ xã hội trong tầng ảo tưởng đó, thí dụ như gây chiến với một nước khác hay một nhóm người khác. Do đó, con có thể đã thách thức ảo tưởng đó, hiện trạng đó, và sa nhân đã làm đủ mọi cách để con cảm thấy là con đã làm một điều sai quấy.

Con yêu dấu, không phải là sa nhân chỉ tìm cách khiến con cảm thấy con đã làm gì sai trái một cách chung chung. Điều sa nhân thường làm là họ nhìn vào hành động, lời nói của con và họ tìm một khía cạnh không vẹn toàn. Con hãy suy ngẫm kỹ lưỡng điều thày đang nói. Con thách đố một hiện trạng, con thách đố một ảo tưởng. Ảo tưởng này có thể ở một tầng tâm thức rất thấp, thấp hơn tầng 48 nhiều. Không có nghĩa là con ở tầng tâm thức đó, nhưng con thấy được ảo tưởng trong xã hội và con thách thức nó.

Ảo tưởng đó là một ảo tưởng thấp. Thách thức một ảo tưởng, thí dụ ở tầng tâm thức thứ 25, có nghĩa gì? Không có nghĩa là khi con thách thức ảo tưởng ở tầng thấp đó, con biểu lộ chân lý cao nhất. Nếu ta giả dụ có một chân lý cao nhất, thì không ai ở tầng tâm thức 25 có thể hiểu chân lý cao nhất đó. Khi con thách thức ảo tưởng ở tầng tầm thức 25, thì hành động thách thức của con không “toàn hảo”, giả dụ là có một hành động toàn hảo. Chính sa nhân đã tạo ra khái niệm là đúng lý phải có cái gì đó toàn hảo.

Con có thấy điều thày muốn nói không? Con thách đố ảo tưởng ở tầng tâm thức 25, con làm điều này bằng cách đưa ra một chân lý cao hơn tầng 25 một chút, nhưng chắc chắn không phải là chân lý cao nhất trên trái đất. Lúc đó, sa nhân nhìn hành động và lời nói của con, và họ tìm cách moi ra một khía cạnh nhỏ mà họ cho là không toàn hảo dựa theo tiêu chuẩn của họ. Con yêu dấu, con phản ứng lại như thế nào? Con không phản ứng với tầng tâm thức hiện nay của con, con phản ứng với tầng tâm thức của con ở thời điểm đó. Giả sử lúc đó con ở tầng tâm thức 48, và con thách thức ảo tưởng của tầng tâm thức 25. Con bị sa nhân tố cáo là con không toàn hảo, và lẽ tự nhiên là con phản ứng lại lời tố cáo đó dựa trên tầng tâm thức 48.

Ở tầng tâm thức đó, con quả thực nghĩ là con phải toàn hảo, con vẫn còn bị dính mắc trong khái niệm cầu toàn do sa nhân áp đặt lên con người. Con nghe lời tố cáo của sa nhân và quyết định; “Tôi đã sai trái. Tôi không toàn hảo.” Đây là một trong những lý do quỷ quyệt nhất, vi tế nhất, nhưng cũng thông thường nhất khiến đệ tử chân sư thăng thiên không dám biểu hiện quả vị Ki-tô của họ. Con nghĩ rằng con phải toàn hảo mới có thể biểu hiện quả vị Ki-tô. Con nghĩ rằng có một chuẩn mực toàn hảo có phần nào giá trị. Con không nghĩ là sa nhân đã đặt tiêu chuẩn đó lên con vì con chưa nhận ra điều này. Con nghĩ rằng chính Thượng đế hay các chân sư thăng thiên đã quy định tiêu chuẩn. Con nghĩ con đã sai trái dựa theo tiêu chuẩn trong quá khứ này khi con cố gắng biểu hiện quả vị Ki-tô của mình. Do đó, con quyết định con sẽ không biểu hiện quả vị Ki-tô nữa cho tới khi con chắc chắn là con toàn hảo.

10.4. Dám bất toàn

Con thấy chăng, điều này khiến sa nhân cười khoái trá vì đã thắng lợi. Con bây giờ ở tầng tâm thức khiến con có thể nhìn lại và nói: “Tôi sẽ là người cười sau cùng. Sa nhân sẽ không là người cười sau cùng. Họ có thể đã thắng lợi trong nhiều kiếp sống nhưng họ sẽ không thắng nữa vì tôi sẽ vươn lên khỏi quan niệm này. Tôi sẽ nhận ra là quả vị Ki-tô cần và phải được biểu hiện ở mỗi tầng của 144 tầng tâm thức. Và ở các tầng thấp, không thể nào nói hành động biểu hiện quả vị Ki-tô là “toàn hảo”, là hình thức chân lý cao nhất.”

“Lẽ tự nhiên, biểu hiện quả vị Ki-tô thách thức ảo tưởng ở tầng 25 sẽ là một biểu hiện thấp hơn là điều tôi có thể biểu hiện ở một tầng cao hơn. Đây là chuyện tự nhiên, do đó tôi sẽ không chê trách mình vì trong quá khứ đã có một biểu hiện quả vị Ki-tô không phải là biểu hiện cao nhất có thể có trên trái đất. Tôi chấp nhận là tôi đã biểu hiện quả vị Ki-tô ở tầng tâm thức của tôi lúc đó. Tôi đã biểu hiện quả vị Ki-tô để thách thức một tầng tâm thức đặc thù và do đó sự biểu hiện quả vị Ki-tô của tôi là tốt đủ, là hoàn toàn chấp nhận được và sự biểu hiện này làm đúng chức năng của nó là thách đố một ảo tưởng đặc thù thuộc tầng tâm thức đặc thù đó. Tôi không cần phải toàn hảo mới có thể biểu hiện quả vị Ki-tô bây giờ, tôi chỉ cần nhận ra tầng tâm thức hiện nay của tôi, và tôi sẽ dám biểu lộ quả vị Ki-tô ở tầng tâm thức này dựa trên viễn kiến mà tôi có ở tầng tâm thức này.”

Con yêu dấu, con hãy suy ngẫm điều thày Hilarion nói. Ở mỗi tầng tâm thức khi con xuống từ tầng 144 đến tầng 48, con lấy vào một ảo tưởng. Nếu hiện nay con đang ở tầng tâm thức 56, 85 hay 93, con vẫn còn nhiều ảo tưởng trong bốn thể phàm của con. Không có gì sai trái với việc này cả, đâu cách nào khác để đi trên con đường tâm linh. Làm sao con có thể hiện thân trong cõi vật chất mà không lấy vào những ảo tưởng đó? Khi con tính chuyện biểu lộ quả vị Ki-tô của mình ở tầng tâm thức hiện nay, con không thể và con không phải chờ đợi mình toàn hảo. Lẽ dĩ nhiên, sự biểu hiện quả vị Ki-tô của con sẽ bị pha màu bởi những ảo tưởng mà con chưa bỏ được, những ảo tưởng cao hơn tầng tâm thức hiện nay của con. Con yêu dấu, tình trạng này không thể nào tránh được.

Khi Giê-su bắt đầu lần đầu thai của thày, khi thày bắt đầu sứ vụ công chúng, thày không ở tầng tâm thức 144. Do đó, thày đã phản ứng như đã được ghi lại khi thày đuổi những người đổi tiền ra khỏi giáo đường. Hành động này không phải là cách biểu hiện quả vị Ki-tô cao nhất, nhưng nó thích hợp với quả vị Ki-tô ở tầng tâm thức của Giê-su lúc đó. Con yêu dấu, con có hiểu chăng điều thày giảng ở đây?

Rất nhiều người trong các con cảm thấy rằng, nếu con là Ki-tô đang hành động, con không bao giờ được nổi giận. Con yêu dấu, ở một số tầng tâm thức, khi con đang đối phó với một ảo tưởng rất thấp, con khó tránh đối phó với hoàn cảnh này mà không cảm thấy tức giận hay ít nhất có cảm xúc cường độ. Thày biết là các thày đã trình bày cho con một số lý tưởng, tỷ dụ như quả vị Phật khi con hoàn toàn không dính mắc. Như thày đã nói trong bài giảng trước, con chỉ đạt toàn vẹn quả vị Phật ở tầng 144.

10.5. Khắc phục sự cầu toàn

Con có thấy chăng là sa nhân tìm cách tạo ra một hố sâu, một khoảng cách mà con không bao giờ bước qua được, giữa trạng thái tâm thức hiện nay của con và quả vị Ki-tô? Con có cảm tưởng như là giữa con và quả vị Ki-tô có một khoảng cách, một hố sâu lớn đến độ con không thể bước qua. Hoặc có thể con chỉ có thể thực hiện điều này ngay trước khi con thăng thiên. Trên thực tế, khoảng cách nhỏ hơn nhiều. Nó không phải là khoảng cách giữa tầng tâm thức 48 và tầng 144, lẽ dĩ nhiên khoảng cách này con không thể vượt qua bằng một cú nhảy vọt. Nó là khoảng cách giữa tầng tâm thức hiện nay của con và tầng kế tiếp. Khoảng cách này, con có thể bước qua bất cứ lúc nào bằng cách chuyển vọt tâm thức của mình.

Ở tầng tâm thức hiện nay của con, thày không muốn con là Ki-tô giống như Giê-su là Ki-tô trước khi bị đóng đinh. Thày muốn con dám là Ki-tô thách thức ảo tưởng ở tầng tâm thức hiện nay của con dù rằng con không toàn hảo khi làm vậy. Thật sự là thày muốn con chuyển vọt tâm mình và vứt đi phàm linh nội tại, cái ngã tách biệt cầu toàn, để con nói: “Nhưng tôi đang thật sự toàn hảo khi biểu hiện quả vị Ki-tô ở tầng tâm thức hiện nay của tôi.” Đây chính thực là toàn hảo, nếu con muốn dùng từ này. Toàn hảo là đạt một bước cao hơn tầng tâm thức hiện nay của con. Toàn hảo không phải là một tầng tối hậu nào đó không hiện hữu, ngoại trừ trong tâm của sa nhân.

Một trong những thử thách mà con đối mặt ở tầng này là vượt qua ý niệm cầu toàn, ý niệm con phải toàn hảo trong mọi chuyện con làm. Nhiều đệ tử thăng thiên đã dùng giáo lý của các thày để xây dựng một ý niệm cầu kỳ về quần áo họ mặc, cách họ hành xử, cách họ nói chuyện, thực phẩm họ ăn và tránh ăn, cách họ thực hành tâm linh, cách họ phải nghĩ và cảm nhận – và không bao giờ được giận dữ và không được biểu lộ tình cảm, vân vân và vân vân. Làm như vậy là dùng tâm vỏ ngoài để tạo ra cái áo khóa tay, rồi con ép mình mặc nó vào, và nay con chỉ làm được một số chuyện. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã làm điều này trong mấy thập niên vừa qua và đã dùng giáo lý của các thày để biện minh cho điều này.

Thày muốn con nhận ra rằng các chân sư thăng thiên không phải là người muốn con làm điều này. Các thày không thúc đẩy con làm điều này. Chính một phàm linh nội tại khiến con làm điều này. Thày muốn con tách mình ra khỏi phàm linh này một cách ý thức để nhận ra nó, nhận ra là nó dựa trên một mục tiêu hoàn toàn không khả thi do sa nhân định ra. Không có trạng thái toàn hảo có thể đạt được trên trái đất hay do các chân sư thăng thiên đòi hỏi.

10.6. Các chân sư chấp nhận con như con là

Con yếu dấu, như các Thượng sư khác đã nói trước thày, thày chấp nhận con hoàn toàn và tuyệt đối như con là ngay bây giờ. Thày không có tiêu chuẩn ở trong tâm thày hay ở khóa nhập thất của thày đòi hỏi con phải ở tầng 144 trước khi thày dạy con. Vai trò của thày là làm việc với con ở tầng tâm thức hiện nay của con và giúp con bước một bước để lên tầng tâm thức kế tiếp – và tiếp tục bước đủ bảy bước trước khi thày hoàn thành nhiệm vụ của thày và chuyển con qua để thày Saint Germain dẫn con cao hơn nữa. Thày không phê phán con là không toàn hảo ở tầng tâm thức hiện nay của con. Thày chấp nhận con hoàn toàn như con là ở tầng hiện nay và thày chỉ chú tâm giúp con thấy ảo tưởng đó và đi lên bước kế tiếp.

Con yêu dấu, thày đã nói là con cần cảm thấy an bình với chính mình và với việc con đang ở trên trái đất. Làm sao con có thể an bình với chính mình nếu con đánh giá mình dựa trên một tiêu chuẩn toàn hảo mà con không bao giờ đạt được? Nếu con luôn luôn đánh giá mình là bất toàn, thì làm sao con có thể bình an với chính mình được? Nếu con đã luôn luôn phê phán là con đã làm điều gì sai trái trên trái đất và con chỉ có thể làm điều sai trái trên trái đất, thì làm sao con có thể cảm thấy bình an ở trên trái đất này? Làm sao con bình an được trên con đường tâm linh nếu con nghĩ rằng biểu hiện quả vị Ki-tô đòi hỏi con phải toàn hảo?

Con yêu dấu, con có hiểu chăng là sâu trong tâm con, con có động lực thúc đẩy con đi trên con đường tâm linh. Nó chính là nguyên do khiến con tìm ra khóa học này và theo học cho tới tầng này. Con có một động lực thúc đẩy con đi về một hướng nào đó. Sau đó, con có một số cơ chế trong các thể bản sắc, tư tưởng và tình cảm chống kháng động lực này và điều này làm con cảm thấy bất an với chính mình.

Trong khóa học này, chúng ta đã làm gì? Thày đang làm gì trong phần này của khóa học? Thày đang tìm cách dẫn con qua các sáng ngộ giúp con giải quyết tất cả các cơ chế đi ngược lại động lực tự nhiên của con để con tự do nhận ra động lực này. Con biểu hiện động lực nội tại này, là động lực từ Hiện diện TA LÀ của con, là động lực muốn hơn nữa, muốn thăng vượt chính mình, muốn là cánh cửa mở để Hiện diện TA LÀ biểu lộ trong thế giới này.

Con có thể nói đây là việc tảy rửa bốn thể phàm của con. Các thày lần lượt cho con thấy các cơ chế này và chỉ cho con những điều đang ngăn cản không cho con thăng vượt lên tầng kế tiếp. Thày biết là với tâm đường thẳng con sẽ rất mau chóng đứng lui lại nhìn toàn bộ khóa học này và nói: “Nhưng con bắt đầu ở tầng 48, và Chân sư MORE nói là con có vấn đề này, khuynh hướng kia, vướng mắc nọ, và con cần khắc phục điều này và vượt qua điều kia. Bây giờ con tới tầng thứ 6 của khóa học, và thày Nada vẫn còn nói con những điều con cần khắc phục – tới bao giờ thì mới thôi?” Con yêu dấu, tiến trình này sẽ xong ở tầng 144 khi con vượt qua ảo tưởng cuối cùng mà con đã mang vào khi con hiện thân trên trái đất – và điều này có gì sai trái đâu? Điều này đâu có gì không tốt đâu?

10.7. Hãy chấp nhận mình ở tầng này của đường tu

Con thấy chăng là một phần của tinh thần cầu toàn là ý niệm con đã làm gì sai quấy khi hiện thân trên trái đất này. Chuyện gì đó đáng lý không được xảy ra và do đó con không bao giờ bình an được cho tới khi con vượt qua cảm giác đó. Điều thày tìm cách nói con ở đây là con không làm gì sai trái khi hiện thân ở đây. Con chỉ làm điều con phải làm khi hiện thân trong một hành tinh như trái đất: mang vào những ảo tưởng khi đi xuống tới tầng 48. Bây giờ, con đang ở trong tiến trình vươn lên khỏi các ảo tưởng này, từng cái một – và con chỉ có thể vượt qua chúng từng ảo tưởng một. Không phải vì con vẫn còn nhiều ảo tưởng cần vượt qua mà con bất toàn.

Không, con yêu dấu, con không bất toàn! Con chỉ giản dị đang ở một tầng nào đó trên đường tu. Không có gì sai trái với điều này. Con hãy ngừng đuổi theo cái cầu vồng của toàn hảo – không có hũ vàng nào ở dưới chân cầu vồng cả. Sa nhân không có gì mà con ước muốn, họ không thể cống hiến gì cho con. Con hãy chấp nhận chính mình, ở tầng hiện nay của con trên con đường tâm linh. Con hãy chấp nhận là con có thể biểu hiện quả vị Ki-tô ở một tầng nào đó và con hãy dám biểu hiện nó. Con đang ở tầng tâm thức cao hơn nhiều so với hầu hết mọi nguời trên trái đất. Con có thể biểu hiện một tầng tâm thức cao hơn nhiều, nhưng hiện nay con cũng đã có khả năng biểu hiện một điều gì giúp nhiều người vươn lên cao hơn. Con hãy chấp nhận như vậy là đủ tốt rồi.

Chính Giê-su có nói là con có thể nhìn vào mỗi ngày và xem cái ác của ngày đó là đủ. Con có thể lấy câu nói và tiến thêm một bước nữa và nói: Hãy xem cái tốt của ngày đó là đủ. Nói cách khác, con nhìn vào tầng tâm thức con đang ở hiện nay và chú tâm vào đó. Con đừng băn khoăn tới các tầng cao hơn, con không trăn trở phải tuân theo một tiêu chuẩn toàn hảo nào đó. Con hãy chú tâm vào tầng tâm thức của con, con bình an ở chỗ con đang ở và biểu hiện quả vị Ki-tô ở tầng này.

Con yêu dấu, thày biết tâm đường thẳng của con muốn nói: “Nhưng có 144 tầng tâm thức. Ta cần vượt qua mọi ảo tưởng, ta cần khắc phục mọi dính mắc, sau đó ta đạt quả vị Ki-tô, ta đạt quả vị Phật, và khi ta chưa tới đó thì ta chưa tới nơi ta phải tới.” Con yêu dấu, con đang ở đúng ngay chỗ con phải ở ngay bây giờ, nếu con sẵn sàng xem xét ảo tưởng mà con đang phải đối phó ngay bây giờ, thăng vượt ảo tưởng đó và sau đó biểu hiện quả vị Ki-tô bằng cách thách thức ảo tưởng đó. Nếu con làm vậy thì con ở đúng ngay chỗ con phải ở.

10.8. Trút lớp da rắn của tinh thần cầu toàn

Con không thể và không đang ở tầng tâm thức 144 vì con không chọn con đường đó. Con đã chọn lựa chứng minh cách vươn lên những tầng tâm thức càng ngày càng cao hơn. Con không ở đây để chứng minh cách nhảy từ tầng 48 lên tầng 144. Không ai có thể xem đó là một gương mẫu. Đó là điều sa nhân đã cố làm với cuộc đời Giê-su: họ đã khiến con người tin rằng Giê-su đã không phát triển khả năng bằng cách đi trên con đường tu nhưng đã đựơc sinh ra ở tầng tâm thức cao, và do đó không ai có thể nhìn thày như một tấm gương mà họ có thể noi theo. Con hãy nhìn tất cả những tín đồ Cơ đốc giáo không chịu coi Giê-su là một tấm gương. Đó là lý do vì sao con cần là tấm gương để mọi người có thể thấy là có những người giống như họ, đã bắt đầu giống như họ nhưng đã vươn cao hơn. Do đó, mọi người có thể tin rằng nếu một người đã làm được thì tất cả có thể làm được.

Con yêu dấu, tinh thần cầu toàn thực sự là một trong những âm mưu quỷ quyệt nhất của sa nhân. Không dễ vượt qua nó, nhưng ở tầng tâm thức hiện nay của con, vượt qua nó không khó. Lẽ dĩ nhiên, có người mang bệnh cầu toàn ở tầng tâm thức 48 vì ở tầng đó rất khó chế ngự tinh thần cầu toàn. Ở tầng tâm thức hiện nay của con, con chỉ cần bước thêm một bước nữa, một bước nhỏ, có thể làm được, để vượt qua nó, để thấy phàm linh, thấy nó như nó là, thấy nó là một yếu tố ngoại lai trong bốn thể phàm của con, nhìn nó và nói: “Bước ra đằng sau ta, Satan, ngươi không phải là một phần của ta nữa.”

Con yêu dấu, thày rất vui mừng khi thày thấy học viên thấu hiểu điều này trong thể bản sắc của họ. Thày lại càng vui mừng hơn khi thày có học viên đã cho phép nhận thức này thấm xuống tầng ý thức của họ. Con thấy phàm linh, con thấy tinh thần cầu toàn và con không phản ứng đổ lỗi cho mình vì đã bị nó ảnh hưởng. Con bước ra khỏi cỗ máy chạy và giản dị nói: “Ồ, đây nhé, đây chỉ là thêm một phàm linh khác phải ra đi. Bao nhiêu phàm linh khác đã ra đi rồi, thêm một con nữa có là gì đâu?”

Thày biết phàm linh này tự coi mình là phàm linh tối hậu vì con cần phải toàn hảo mới được Thượng đế chấp nhận, nhưng điều này không đúng, con yêu dấu. Thượng đế chấp nhận con như con là ngay lúc này. Thực ra, con có thể nói là đối với Thượng đế, chấp nhận được hay không chấp nhận được là những khái niệm vô nghĩa. Con là môt biểu hiện của Thượng đế. Làm sao Thượng đế lại có thể không chấp nhận con?

Con yêu dấu, con hãy suy ngẫm điều này với tâm ý thức của con. Con hãy xem lại bài giảng này nhiều lần. Nếu con cảm thấy con cần nhiều hơn chín ngày để khắc phục tinh thần cầu toàn, thì con hãy lấy thêm thì giờ. Con yêu dấu, khóa học này không phải là một cuộc chạy đua. Không có cuộc thi đua xem ai hoàn thành khóa học này trong thời gian ngắn nhất.

Như thày có nói, con có thể hoàn tất khóa học một cách nhanh chóng với tâm vỏ ngoài, nhưng điều này không có nghĩa là con đã đạt các khai ngộ vì con đã không thể nhập chúng và do đó chưa vươn lên tầng tâm thức cao hơn. Con hãy dành thời gian cần thiết. Tinh thần cầu toàn đã đánh bẫy biết bao nhiêu đệ tử tâm linh trong mấy ngàn năm qua và trì hoãn sự tiến bộ của họ, có khi trong nhiều kiếp sống. Thày không muốn thấy con là một trong những người đó. Thày muốn thấy con đạt được khai ngộ này, trút bỏ lớp da rắn của tinh thần cầu toàn, bỏ nó lại đằng sau và tiến tới một ngày mới trong đó con vui thú với gì mình là, biết rằng ngày mai con sẽ hơn nữa.

Làm sao ngưng đổ lỗi cho mình, 13 đoạn

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 16/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada. Ở tầng thứ ba này của khóa nhập thất, thày muốn bắt đầu bằng cách nhắc lại một điểm mà thày đã nêu ra trong bài giảng trước. Trong bài đó, thày chỉ cho con thấy là trong tâm thức con có một cơ chế khiến con cảm thấy con không thể là gì con muốn vì có một số điều kiện trong thế giới, và đặc biệt là ở đây trên trái đất, không đúng như chúng phải là. Con không thể an bình, con không thể là chính mình, con không thể hoàn toàn biểu lộ chính mình trên trái đất.

Con yêu dấu, cái gì đằng sau điều kiện tâm lý này? Vì sao con lại chấp nhận là vì có một số điều kiện trên trái đất, con không thể biểu lộ khả năng sáng tạo, quả vị Ki-tô của mình, con không thể dâng tặng món quà mà con đến hành tinh này để dâng tặng? Con yêu dấu, ta cần nhìn nhận là sa nhân rất, rất là tinh tế, rất rất khôn ngoan, và rất rất quyết tâm ngăn chặn bất cứ ai biểu lộ quả vị Ki-tô.

Lẽ tự nhiên là các thày đã trao truyền giáo lý về khái niệm có nhiều người tâm linh là a-va-ta (avatars) đến từ hành tinh khác để đặc biệt phụ giúp vào tiến trình nâng cao tâm thức tập thể. Thày bảo đảm với con là sa nhân cũng rất rất quyết tâm ngăn chặn các cư dân nguyên thủy của trái đất không cho họ vươn lên tầng quả vị Ki-tô và bắt đầu biểu lộ quả vị Ki-tô vì, thực sự đây là mối đe dọa lớn hơn cho họ.

Như các thày đã giảng trước đây, tiến bộ thực sự của hành tinh tùy thuộc vào các cư dân nguyên thủy của trái đất. Các a-va-ta có thể giúp nâng cao tâm thức tập thể nhưng họ không thực sự có thể khiến trái đất thực hiện bước nhảy vọt quyết định. Cần có đủ số cư dân nguyên thủy đã nâng tâm thức của họ lên trên một tầng nào đó để có thể có một cuộc chuyển vọt quyết định. Lẽ dĩ nhiên, bước chuyển vọt này chỉ xảy ra trong tập thể cư dân nguyên thủy khi có một số người trong họ đã đạt được tầng quả vị Ki-tô và biểu lộ quả vị Ki-tô, do đó sa nhân rất nôn nóng muốn ngăn chặn chuyện này.

8.1. Bị đập dí vì biểu lộ chính mình

Chuyện đã xảy ra cho con trong quá khứ là con đã dám biểu lộ điều gì đó vượt quá bình thường. Con đã dám không theo đám đông, và sa nhân đã có mặt để đập dí con xuống, tạo ra một chấn thương tâm lý khiến con liên kết cảm giác sợ hãi và tổn thương (hay cảm giác bất lực và tuyệt vọng, cảm giác không có gì thật sự quan trọng) với việc biểu lộ chính mình, biểu lộ khả năng sáng tạo, đứng lên cổ vũ một chân lý cao hơn, hay những hành động vượt ra ngoài khuôn mẫu bình thường khác. Nhiều người trong các con có trong tâm một cơ chế khiến con cảm thấy sợ là khi con bắt đầu biểu lộ chính mình thì con sẽ bị chế giễu, chỉ trích và ngay cả bị hậu quả vật lý, như bị giết, tra tấn hay bỏ tù vân vân. Con đã tạo ra trong tâm con một cơ chế cho rằng: “Tôi không muốn biểu hiện quả vị Ki-tô của tôi, nhưng tôi biết tôi ở đây để biểu hiện quả vị Ki-tô do đó tôi cần một lý do tại sao tôi không thể biểu hiện quả vị Ki-tô của tôi.” Lẽ dĩ nhiên ý tưởng này khiến con nghĩ con không thể biểu hiện quả vị Ki-tô của con khi một điều kiện bên ngoài nào đó chưa thay đổi.

Nghĩ như thế làm cho tự ngã và các phàm linh nội tại của con cảm thấy an toàn, vì lẽ tự nhiên sẽ cần thời gian rất dài (hay ít ra đó là cảm tưởng trong quá khứ) để trái đất sẵn sàng khắc phục được nạn chiến tranh. Con biết là trong nhiều kiếp đầu thai tương lai, con không cần lo lắng về việc biểu lộ quả vị Ki-tô vì con có cái cớ toàn hảo. Việc biểu lộ quả vị Ki-tô bị nối liền với một điều kiện bên ngoài thay đổi, và thay đổi này quá khó khăn và sẽ cần rất nhiều thời gian, nên tự ngã của con có thể cảm thấy an toàn trong một thời gian.

8.2. Xem xét phản ứng nội tâm

Khi thày phơi bày một chuyện như vậy cho con, thày muốn con xem xét phản ứng nội tâm của con với điều thày nói. Con có thể nói là thày đã rất thẳng thắn, thiếu nhân từ, khi thày phơi bày cơ chế này. Một số trong các con có thể nghĩ thày không nên thẳng thắn như vậy. Một số có thể nghĩ thày không nên phơi bày cơ chế này ra. Có thể có một phản ứng dâng lên trong con, và phản ứng này có thể có một trong hai hình thức. Một là con cảm thấy thày không nên thẳng thắn như vậy khi trình bày vấn đề với con. Hai là con chấp nhận điều thày nói và con lập tức cảm thấy xấu hổ vì đã có cơ chế đó.

Điều thày muốn nói rõ ở đây là trong bài giảng trước thày có nói là con không thể thực sự an bình nếu con không chấp nhận các điều kiện trên trái đất và chấp nhận mình hiện thân ở đây. Nếu con cứ tiếp tục vật lộn với việc mình hiện thân ở đây, chống đối việc mình ở đây, thì đương nhiên con không cảm thấy an bình. Điều thày muốn con nhìn nhận trong bài giảng này là nếu con không chấp nhận chính mình, thì con cũng không thể an bình. Tại sao thày lại nêu lên điểm này khi thày chỉ cho con thấy cơ chế khiến con trì hoãn việc biểu lộ quả vị Ki-tô? À, đó là vì khi thày chỉ cho con thấy có cơ chế đó trong tâm con, thì thường trong con có một phản ứng. Phản ứng đó có thể giúp con nhận ra điều gì trong con đang ngăn cản con không chấp nhận chính mình, không cảm thấy bình an với mình là mình.

Có một số trong các con (không phải là đa số, nhưng có một số) sẽ phản ứng với cảm giác bị xúc phạm là thày đã phơi bày ra điều này. Đó là vì con vẫn ở chỗ muốn tránh né không nhìn chính mình bằng cách luôn luôn phóng chiếu ra ngoài là điều này hay điều kia không được xảy ra. Thày muốn con nhận biết phản ứng này và thày cần con nhận ra đây chỉ là một phàm linh – một phần tự ngã của con – đang phản ứng như vậy. Đây là một cơ chế phòng vệ của tự ngã vì nó không muốn con nhận ra cơ chế đã cho nó quyền lực khuynh đảo con. Cơ chế này khiến con luôn luôn phóng chú ý ra ngoài và nói điều này hay điều kia không được xảy ra.

Thày cần con tách mình ra khỏi cơ chế đó, và thày biết rất rõ là khi con làm điều này, con sẽ nhận ra con cần nhìn vào chính mình, con cần nhìn vào cơ chế. Thay vì nói thày không được nêu điều này ra, con nên nhìn vào sự kiện con có cơ chế đó, khuynh hướng trì hoãn việc biểu lộ quả vị Ki-tô của mình. Khi đó, con sẽ làm được điều mà một số đệ tử đã làm được từ ít lâu nay, đó là nhìn vào chính mình, nhìn vào bất cứ điều gì bên trong con mà con cần giải quyết.

Thày biết là đối với nhiều người trong các con, đúng hơn là hầu hết các con, nhìn vào điều kiện này là một sự đau lòng. Nhiều người trong các con đã nhiều lúc, trong khóa học này hay trên con đường tâm linh trước khi tham dự khóa học này, cảm thấy đau đớn khi một điều nào đó bị phơi bày trong nội tâm mình. Nó tạo một phản ứng trong tâm con.

8.3. Chân sư thăng thiên không vui thú khi thấy người khác đau khổ

Con yêu dấu, các chân sư thăng thiên không thuộc những người vui thú khi thấy người khác đau khổ; các thày không cố ý làm con khổ sở. Các thày không vui thú khi chỉ cho con thấy một cơ chế trong tâm lý khiến con cảm thấy đau lòng, xấu hổ. Ngược lại, ở tầng này của khóa nhập thất của thày, thày không mong gì hơn là giúp con tới điểm con có thể nhìn mình mà không đau lòng, xấu hổ về mình.

Toàn bộ mục đích của bài giảng thứ ba ở khóa nhập thất này là dẫn con tới điểm con khắc phục được khuynh hướng rất, rất vi tế cảm thấy hổ thẹn khi con thấy điều gì trong con cần được vượt qua. Nhiều người trong các con có cảm giác là điều gì không được ở đó, ngay từ sơ thủy đáng lý đã không được ở đó. Con yêu dấu, con cần nhận ra là phản ứng đó đã do sa nhân tạo ra. Thày phải nói lại cho đúng là phản ứng này, dĩ nhiên, không do sa nhân tạo ra, nhưng họ đã tạo ra hoàn cảnh bên ngoài khiến con phản ứng như vậy.

Có một lúc nào đó trong một kiếp quá khứ, con đã dám biểu lộ một khía cạnh của quả vị Ki-tô và sa nhân đã làm đủ mọi cách để đập dí con xuống để con không thể trong kiếp sống đó tiếp tục biểu lộ sắc thái quả vị Ki-tô đó. Con cần nhận ra là sa nhân không thỏa mãn chỉ ngăn cản con trong kiếp đó mà thôi. Sa nhân trông chừng xem có bất cứ ai dám biểu lộ một thành phần của quả vị Ki-tô. Có những sa nhân trên các tầng bản sắc, tư tưởng và cảm xúc sử dụng những sa nhân đang đầu thai trong cõi vật lý để bảo đảm là con sẽ không bao giờ dám biểu hiện quả vị Ki-tô nữa. Họ thực hiện điều này bằng cách đút vào trong bản thể con một phản ứng khiến con cảm thấy con đã sai quấy khi biểu hiện quả vị Ki-tô. Con sai quấy khi con thách đố họ, con sai quấy khi con đứng lên nói sự thật. Con sai quấy vì con quá ư khác chuẩn mực, khác người khác hay bất cứ cơ chế nào khác.

8.4. Quả vị Ki-tô có nghĩa thách đố hiện trạng

Thày cần con nhận ra là một trong những chiến thắng lớn của sa nhân là khi họ bắt được một dòng sống đã sẵn sàng biểu lộ quả vị Ki-tô và đút một cơ chế vào bốn thể phàm của sinh thể đó. Cơ chế đó khiến con cảm thấy biểu lộ quả vị Ki-tô là một điều sai quấy, con cảm thấy là con đã sai quấy khi biểu lộ quả vị Ki-tô, do đó con không bao giờ dám làm điều này nữa.

Đây là lý do vì sao con có cơ chế khác khiến con liên kết việc biểu hiện quả vị Ki-tô của con với một số điều kiện nào đó trên trái đất. Nói cách khác, con biết là con ở đây để biểu lộ quả vị Ki-tô. Sâu thẳm trong tâm con có ký ức đây là lý do vì sao con ở đây. Điều mà con trải nghiệm rất xa trong quá khứ là con đã gặp một phản ứng tiêu cực khi con biểu lộ quả vị Ki-tô của mình. Vì một lý do nào đó, con liên kết sự phản ứng tiêu cực đó với các điều kiện bên ngoài lúc đó trên trái đất, và con nghĩ các điều kiện này không thuận lợi. Con đợi cho những điều kiện bên ngoài này thay đổi để con cảm thấy an toàn khi biểu lộ quả vị Ki-tô.

Con yêu dấu, con có hiểu chăng là quả vị Ki-tô chỉ có một mục tiêu là thách đố hiện trạng để mọi người có thể thấy là có một cách khác hơn là hiện trạng. Sẽ không bao giờ có điều kiện trên trái đất giúp con biểu lộ quả vị Ki-tô của mình một cách an toàn. Ngay cả khi Thời đại Hoàng kim của Saint Germain được biểu hiện hoàn toàn, tình trạng xã hội vẫn chưa cho phép con biểu lộ quả vị Ki-tô một cách an toàn.

Nếu con nhìn vào xã hội ngày nay và nói: “Tôi sẽ bị chỉ trích điều gì nếu tôi biểu lộ quả vị Ki-tô?” thì con có thể phóng tầm nhìn tới thời hoàng kim và thấy rằng trong thời hoàng kim, điều ngày hôm nay bị lên án sẽ trở nên hoàn toàn bình thường và dễ chấp nhận. Trong thời hoàng kim vẫn sẽ có một số người muốn giữ hiện trạng lúc đó. Hiện trạng lúc đó cao hơn hiện trạng ngày nay nhiều, nhưng sẽ vẫn có người, vì nhu cầu an toàn của họ, cho rằng mọi chuyện đang xảy ra như chúng phải xảy ra và không cần thay đổi. Dù con đang sống trong xã hội nào, dù con đang ở thời đại nào, vai trò của con như một sinh thể Ki-tô luôn luôn là thách đố chuẩn mực. Việc biểu lộ quả vị Ki-tô sẽ không bao giờ an toàn, không bao giờ vừa lòng mọi người, không bao giờ được chấp nhận. Thày cần con hiểu điều này một cách ý thức vì con đã hiểu ở tầng thể bản sắc của con.

Thày cần con mang hiểu biết này xuống tầng ý thức và nhận ra là vai trò của một sinh thể Ki-tô luôn luôn là thách đố hiện trạng. Do đó, con yêu dấu, biểu lộ quả vị Ki-tô sẽ không bao giờ được sa nhân chấp thuận. Nó cũng sẽ không làm vừa lòng nhiều người, ngay cả hầu hết mọi người, trong đại chúng. Con hãy nhận ra điều này: biểu lộ quả vị Ki-tô không phải là tranh giải ai được đại chúng ưa thích nhất. Nó chưa bao giờ như thế, sẽ không bao giờ như thế, nó không thể như thế vì đây không phải là tính chất của việc biểu lộ quả vị Ki-tô. Ở đây, con cần nhận ra là có một lúc nào đó trong quá khứ con đã lý luận và chấp nhận niềm tin là con sai quấy khi thách thức hiện trạng, đáng lẽ con không được thách thức sa nhân, đáng lẽ con không được thách thức những người chung quanh con. Con đáng lý phải tuân theo chuẩn mực quy định hành vi và lời nói được xã hội chấp nhận.

Thầy cần con nhận ra là người khác phản ứng tiêu cực với con và con nhận phản ứng tiêu cực này vào trong bản thể của con và con chấp nhận tin tưởng con đã sai quấy khi đứng lên khỏi đám đông. Sau đó, thày cần con nhìn vào niềm tin này và nhận ra nó được tạo ra bởi một phàm linh nội tại, một ngã tách biệt và nó vẫn còn ở trong con. Con yêu dấu, con cần bắt đầu nhận ra một cách ý thức nó chỉ là vậy: nó chỉ là một phàm linh nội tại, nó chỉ là một ngã tách biệt – nó không phảicon. Con không phải là vậy. Con thật ra không cảm thấy sai quấy khi con biểu lộ quả vị Ki-tô của mình, khi con đứng lên khỏi đám đông, khi con thách thức hiện trạng.

Phàm linh nội tại cảm thấy sai quấy và do đó nó luôn luôn tìm cách ngăn cản con biểu lộ quả vị Ki-tô. Một cách nó làm là khiến con nghĩ là biểu lộ quả vị Ki-tô dính liền với một điều kiện bên ngoài trên trái đất. Một cách khác là nó khiến con phải cảm thấy hổ thẹn, con phải cảm thấy tội lỗi khi con làm điều gì không được xã hội chấp thuận. Để tránh không đau lòng vì cảm xúc hổ thẹn, con điều chỉnh hành vi bên ngoài của con, điều chỉnh ngay cả cách con nhìn cuộc sống trên trái đất – những gì con có thể làm, những gì con không làm được, đến ngay cả cách con nhìn chính mình. Có nhiều khía cạnh của quan hệ của con với cuộc sống trên trái đất bị cơ chế này ảnh hưởng.

8.5. Tìm cách bù đắp những gì sai quấy

Các thày có nói về khuôn nếp phản ứng xảy ra khi con có một phản ứng trong tâm trước một hoàn cảnh bên ngoài. Vì phản ứng nội tâm đó, con đi vào một khuôn nếp cư xử, xúc cảm hay tư tưởng. Thày muốn nêu ra một khía cạnh khác nữa là những khuôn nếp phản ứng đó đặt con vào một trạng thái tâm nào đó và tạo nên một khuôn nếp bù đắp trong con. Nói cách khác, con có trạng thái tâm là có chuyện gì đó không ổn và bây giờ con tìm cách bù đắp lại. Điều này đã được biểu hiện một cách hiển nhiên và thô sơ, tỷ dụ trong Cơ đốc giáo, qua khái niệm tội lỗi.

Khái niệm con đã có tội khi được tạo ra, con đã làm điều gì sai quấy trong kiếp sống này, và con cần bù đắp lại. Con cần hoặc làm một điều gì để đền bù hoặc con phải đau khổ một thời gian và sau đó con trả xong tội. Bên phương Đông con có quan niệm nghiệp quả qua đó con người cảm thấy họ đã tạo nghiệp và nay cần cân bằng nghiệp quả. Có cả đệ tử chân sư thăng thiên nghĩ rằng họ đã tạo nghiệp trong những kiếp trước và nay cần bù đắp lại bằng cách đọc chú thỉnh ánh sáng tím để cân bằng nghiệp quả. Con có thấy chăng đây là khuôn nếp bù đắp?

Điều đã xảy ra là nhiều người trong các con tin là con có cái gì sai trái, hay ít ra có gì sai trái với việc con ở trên trái đất, và con cần bù đắp lại. Thày muốn lưu ý con là một cách chính mà khuôn nếp bù đắp đã ảnh hưởng con là trong cách con quan niệm con đường tâm linh, trong đó có giáo lý các thày, và khoá học này.

Con có cảm giác có gì không ổn với chính mình hoặc con đã làm gì sai quấy trong quá khứ. Khi con tìm ra con đường tâm linh, khi con tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên, con được học về nghiệp quả, về luân hồi và khả năng cân bằng nghiệp quả, và con lao mình vào công việc đó với một lòng hăng hái đáng khen nhưng cũng phát xuất từ khuôn nếp bù đắp. Con tìm cách bù đắp lại những lầm lẫn mà con đã phạm trong quá khứ. Con thấy nhiều đệ tử tìm ra giáo lý các thày và tới điểm nhận ra cơ hội cân bằng nghiệp quả. Họ trở nên rất sốt sắng trong việc đọc chú và thỉnh, tỷ dụ để cầu thỉnh ánh sáng tím. Họ bỏ ra nhiều giờ mỗi ngày đọc chú và thỉnh. Nhiều đệ tử đã làm vậy trong nhiều năm hay nhiều chục năm.

8.6. Vượt qua khuynh hướng ám ảnh và cưỡng bức

Nếu chúng ta nói một cách hoàn toàn thành thực và không nể nang, thì ta thấy cách nhiều đệ tử tu tập, đặc biệt cách họ đọc chú và thỉnh, thực sự là chứng bệnh mà các tâm lý gia gọi là chứng loạn thần ám ảnh và cưỡng bức (obsessive compulsive disorder). Con yêu dấu, tâm lý như vậy không lành mạnh. Trên đường dài, quan niệm này không lành mạnh cho con và các thày không muốn thấy con làm vậy.

Con có thấy chăng là lối hành xử đó do khuôn nếp bù đắp tạo ra vì con cảm thấy có điều gì con cần bù đắp? Bây giờ, nhiều người trong các con sẽ nói: “nhưng có phải chăng là con đã gây tội trong quá khứ, có phải chăng là con đã tạo nghiêp và bây giờ cần cân bằng nghiệp quả? Có phải là thày bây giờ nói là con không cần cân bằng nghiệp quả?” Con yêu dấu, đây là tâm đường thẳng đang nói đó, và thày muốn con bỏ phản ứng này qua một bên và thực sự nghe và hiểu điều thày sắp giảng.

Thày không bao giờ nói là việc con đọc chú và thỉnh là điều sai quấy. Nó thực sự đã cần thiết cho con. Con quả thực có nghiệp và con cần cân bằng nghiệp quả. Điều thày muốn nói là con nay đã tới điểm con có thể đứng lui lại, xem xét tình hình và nói: “Lẽ đương nhiên là ở tầng tâm thức này, tôi chưa hội đủ điều kiện để thăng thiên. Tôi chưa cân bằng hết nghiệp quả. Không phải là tôi phải ngưng đọc chú và thỉnh, nhưng có lẽ tôi nên đứng lui lại, và quan niệm con đường tu, kể cả việc đọc chú và thỉnh, với một thái độ khác. Tôi không đọc vì bị thúc đẩy bởi khuôn nếp bù đắp đã được tạo ra khi tôi phản ứng lại với sa nhân.

Thày muốn con tới điểm không tu tập dựa trên phản ứng đối với sa nhân nhưng dựa trên đáp ứng với các chân sư thăng thiên. Có thể nhiều người trong các con nghĩ là các con đang đáp ứng với các chân sư thăng thiên vì các con đang theo giáo lý các thày. Con đang phần nào làm vậy nhưng con không hoàn toàn tu tập dựa trên đáp ứng với các thày. Trong bốn thể phàm con có cơ chế bù đắp do sa nhân đã làm con tin rằng con sai quấy và con chỉ có thể sai quấy khi con ở trên trái đất. Do đó, con tìm cách bù đắp lại và con dùng các kỹ thuật của chân sư thăng thiên để bù đắp. Điều này chấp nhận được cho tới điểm này, nhưng bây giờ con không cần lôi nó theo con nữa. Sự thật là con không thể an bình với chính mình nếu con còn lôi cơ chế này theo con.

8.7. Sự trớ trêu của việc đổ lỗi cho mình vì đã đổ lỗi cho mình

Thày cần con đứng lui lại và thấy sự trớ trêu của tình trạng này. Có một sự rất trớ trêu, vì con có thể nhận ra, nếu con thành thật, là con có một phản ứng khi thày nói lên những điều trên. Rất có thể là con đã cảm thấy mình sai quấy vì có cơ chế bù đắp, và đây lại thêm một điều nữa sai quấy với con, và nó cần phải thay đổi, nó cần phải cải sửa. Có thể là con đã phản ứng với một số cảm xúc, nhưng con có thấy điều trớ trêu ở đây chăng? Thày đang chỉ cho con thấy là con có khuynh hướng nghĩ mình sai quấy vì ở đây. Khi thày chỉ cho con điều đó, con đã phản ứng ra sao với lời nói của thày? Con phản ứng với cùng cơ chế khiến con cảm thấy con sai quấy vì đã có khuynh hướng cảm thấy mình sai quấy. Con có thấy chăng đây là điều mà các khoa học gia gọi là suy luận nghịch hành vô tận? Nó là một vòng khép kín, một cái máy chạy bộ. Con sẽ không bao giờ thoát ra khỏi nó.

Thày chỉ cho con thấy là con có khuynh hướng đổ lỗi cho mình, và con lại đổ lỗi cho mình là con có tật đổ lỗi cho mình. Khi nào thì cơ chế này mới ngưng? Khi nào thì phản ứng này mới ngưng? Con yêu dấu, nó sẽ ngưng khi con nhận ra đây là một trong những cái máy chạy bộ mà con không thể thoát ra được nếu con cứ tiếp tục chạy trên đó.

Nếu con không có hình ảnh này trong đầu, thì con hãy lên mạng Internet và tìm xem phim về con chuột nhỏ nuôi trong lồng chạy trên một bánh xe. Sau đó con hãy tự hỏi mình một câu giản dị: “Con chuột có bao giờ ra khỏi bánh xe bằng cách chạy nhanh hơn không?” Câu trả lời đương nhiên là “Không”. Con chuột có chạy nhanh bao nhiêu nó vẫn không thể ra khỏi bánh xe. Chuyện có thể xảy ra là nó mệt lả, hay bị đau tim và chết, nhưng đó là cách duy nhất thoát ra khỏi bánh xe chạy.

Con nhận ra là máy chạy bộ mà thày nói đến nằm trong tâm lý của con. Cái máy chạy bù đắp đó có thể khiến con chạy càng lúc càng nhanh hơn trong cuộc sống bên ngoài, đọc càng ngày càng nhiều bài chú, làm càng ngày càng nhiều chuyện – bù đắp, bù đắp, bù đắp. Cả cuộc đời con trở thành cơ chế bù đắp khiến con chạy càng ngày càng nhanh cho tới khi con bị đau tim và chết. Cơ chế nằm trong ba thể cao của con và do đó con mang nó theo kiếp sống tới. Và sau đó, trong kiếp sống đó, con lại làm việc cho đến khi xác thân vật lý mệt lả và con chết, và con cứ tiếp tục như vậy từ kiếp này sang kiếp khác.

Sư thực là có những người đã sống như vậy. Có đệ tử chân sư thăng thiên đã làm như vậy và đang làm trong kiếp sống này điều mà con đã làm trong ba hoặc bốn kiếp trước. Câu hỏi duy nhất của thày là: “Có bao giờ con bước ra khỏi cỗ máy chạy bộ ở tầng xúc cảm, tư tưởng và bản sắc bằng cách chạy nhanh hơn trong thể vật lý, và luôn cả trong ba thể cao?” Lẽ dĩ nhiên là con không thể thoát được bằng cách đó. Không có mục tiêu đường thẳng nào mà con có thể hoàn thành trên cỗ máy chạy bộ vì nó chỉ có thể đi theo một vòng tròn luẩn quẩn. Con phải làm gì? Con cần ngừng vật lộn. Lúc đó, cỗ máy chạy bộ sẽ ngưng lại và con có thể nhảy ra khỏi nó.

8.8. Dùng một giáo lý để đổ lỗi cho mình

Thày muốn con nhận ra khuôn nếp đổ lỗi cho mình và ngay cả dùng giáo lý của các thày để đổ lỗi cho mình, để cảm thấy mình lại làm thêm một điều sai quấy nữa. Đây lại thêm một điều mà con cần bù đắp, và bây giờ con cần cảm thấy hổ thẹn và chạy nhanh hơn nữa. Thày cần con giản dị đứng lui lại và nói: “Tại sao tôi lại phải cảm thấy hổ thẹn với chính mình khi tôi đang tu trên con đường của các chân sư thăng thiên?”

Con yêu dấu, chắc con nhận ra là trong các kiếp trước, và có thể ngay trong kiếp này, con đã gặp các thày giả. Giáo hội Công giáo là một tổ chức muốn thành viên cảm thấy hổ thẹn với chính mình. Giáo hội muốn thành viên cảm thấy họ là người tội lỗi vì đó là cách duy nhất khiến họ quy phục điều giáo hội ra lệnh cho họ và không chất vấn sự phi lý của học thuyết của giáo hội.

Con nhận ra là có nhiều thày giả trên thế giới muốn con cảm thấy hổ thẹn với chính mình. Họ thực sự lợi dụng cơ chế bù đắp của con để giữ con tham gia điều họ đang muốn con tham gia để lấy năng lượng của con. Con yêu dấu, các thày là chân sư thăng thiên. Các thày không cần năng lượng của con và các thày nhất định không muốn con cảm thấy hổ thẹn với chính mình. Các thày không muốn con tu tập trên con đường mà các thày cống hiến với cơ chế bù đắp khiến con cảm thấy cần phải làm càng ngày càng nhiều hơn để tránh không cảm thấy hổ thẹn với chính mình trong nội tâm. Con yêu dấu, thày không cần con chạy trên bất cứ cỗ máy chạy nào để có thể theo những khai ngộ ở khóa nhập thất của thày. Thày không muốn con ở trên bất cứ cỗ máy chạy nào. Mong muốn chính của thày ở tầng này là giúp con bước ra khỏi cỗ máy chạy trong thể tình cảm, tư tưởng và bản sắc của con để con cảm thấy (khi con ngừng chạy, khi con ngừng tìm cách bù đắp) nó tự nhiên chậm lại và ngừng hẳn. Con nhảy ra ngoài nó, con nhìn lại cái ngã đó, con nhìn phàm linh nội tại đó và con nói: “Satan hãy bước ra sau lưng ta, ta không cần ngươi trong đời ta nữa.”

Con yêu dấu, một lần nữa thày đã từng hiện thân trên trái đất. Đa số các chân sư thăng thiên cũng vậy, và chắc chắn là tất cả các Thượng sư đều đã như vậy. Các thày đã từng tạo ra cho mình các cơ chế bù đắp, các thày đã từng ở trên cỗ máy chạy bộ. Các thày biết rõ thực trạng đó. Các thày biết là bước ra khỏi cỗ máy là điều khó làm, nhưng các thày biết là có thể làm được. Các thày biết là con sẽ cảm thấy tự do hơn nhiều, an bình hơn nhiều khi con bước ra khỏi cỗ máy chạy khiến con dùng giáo lý tâm linh và dụng cụ tâm linh để bù đắp điều con nghĩ con đã sai quấy trong quá khứ.

8.9. Tha thứ mình đã phản ứng

Con yếu dấu, thày Hilarion đã giảng một bài rất, rất quan trọng mà một số trong các con chưa neo chặt mình vào. Thày Hilarion nói là khi con xuống đầu thai, con không chỉ giản dị đi xuống tầng thứ 48, và hiện thân lần đầu ở tầng 48. Để đi xuống tới tầng 48, con cần đi qua tất cả các tầng ở trên, bắt đầu bằng tầng 144. Thày Hilarion cũng nói là khi con đi xuống một tầng tâm thức, con lấy vào ảo tưởng liên hệ với tầng đó.

Con yêu dấu, con có hiểu chăng điều thày đang muốn giảng? Cách con xuống trái đất, dù con là một a-va-ta từ hành tinh khác đến hay là một cư dân nguyên thủy, không quan trọng. Nếu con là một a-va-ta, bất kỳ con ở tầng tâm thức nào trước khi tới trái đất, con vẫn xuống tầng 48 khi đầu thai lần đầu, và điều này có nghĩa là con nhận vào tất cả các ảo tưởng ở trên tầng 48. Bây giờ, con yêu dấu, điều này có nghĩa gì? Có nghĩa là con có thể là một a-va-ta tới đây từ một hành tinh tự nhiên, và với tầng tâm thức của con ở đó con có thể tránh phản ứng lại sa nhân.

Ngày hôm nay, con có thể cảm thấy là đáng lẽ con phải tránh phản ứng lại sa nhân, nhưng con cần nhận ra là mục đích con xuống đầu thai ở đây là chứng minh cho mọi người trên trái đất thấy là con có thể bắt đầu ở tầng 48 và vươn lên những tầng tâm thức cao hơn. Do đó, con phải xuống tầng 48. Khi con xuống tầng 48 trên trái đất, con sẽ phản ứng với những điều sa nhân bắt con chạm trán với tầng tâm thức 48. Con không có cách phản ứng nào khác vì lúc đó con nhìn đời sống trên trái đất với phin lọc nhận thức của tất cả các ảo tưởng mà con phải mang vào khi con xuống tầng 48.

Con yêu dấu, con không thể phản ứng cách nào khác trên trái đất. Điều này có nghĩa là không ai trên cõi thăng thiên chê trách con vì con đã phản ứng như vậy với sa nhân. Các thày đều đã làm giống con, và đó là lý do vì sao không ai trên cõi thăng thiên muốn con chê trách mình vì đã phản ứng như thế với sa nhân. Con yêu dấu, con phải hiểu là ở tầng tâm thức 48, có một phản ứng cao và một phản ứng thấp, nhưng phản ứng cao ở tầng 48 không phải là trình độ tâm Phật qua đó con hoàn toàn không dính mắc. Điều này chỉ tới với tầng tâm thức 144.

Việc con đã phản ứng với một phản ứng thấp hơn là điều không thể tránh được. Con phải làm như vậy để chứng minh là con có thể vượt lên trên phản ứng đó. Con yêu dấu, con phải hiểu là sa nhân đã phóng chiếu một tâm thức cho rằng nếu con là một người tâm linh (dù con là một cư dân nguyên thủy đã vươn lên một tầng tâm thức cao hơn hay con là một a-va-ta), con đáng lẽ không bao giờ được phản ứng một cách tiêu cực, bất toàn. Do đó, sa nhân (khi con dám biểu lộ quả vị Ki-tô trong quá khứ) đập dí con xuống. Họ khiến con phản ứng tiêu cực và bây giờ họ khiến con chê trách mình vì đã có phản ứng tiêu cực đó. Con có cảm giác đó vì con cảm thấy giống như chuyện Humpty Dumpty trong bài đồng dao, con ngồi trên đầu tường té xuống và tất cả người và ngựa của nhà vua không thể ráp con nguyên vẹn trở lại được. Con cảm thấy con không thể xóa bỏ chuyện đã xảy ra trong quá khứ. Do đó, con bị kẹt vào cỗ máy chạy bộ không ngừng để tìm cách bù đắp lại.

8.10. Cách duy nhất để khắc phục quá khứ

Con yêu dấu, thực ra con có thể xóa bỏ những gì con đã làm trong quá khứ. Nhiều người trong các con chưa hiểu ra điều này với tâm ý thức. Con có thể làm gì để xóa bỏ chuyện con đã làm trong quá khứ? À, thày đã nói rồi nhưng thày sẽ nhắc lại ở đây. Con không thể thay đổi hành động vật lý đã xảy ra trong quá khứ nhưng hành động vật lý không quan trọng nữa vì thời gian đã trôi qua. Điều quan trọng là phàm linh mà con mang theo trong bốn thể phàm. Con yêu dấu, con có thể tách mình ra khỏi phàm linh, đuổi nó đi và cho nó chết. Khi con xóa bỏ phàm linh, con cũng xoá bỏ chuyện con đã làm trong quá khứ.

Đây là sự bù đắp tối hậu và nó là sự bù đắp duy nhất hữu hiệu. Con phải hiểu là có một phàm linh khiến con ở trên cỗ máy chạy, cảm thấy là con cần luôn luôn chạy nhanh hơn, con cần phải làm gì đó để đền bù những điều sai quấy con đã làm trong quá khứ. Con có biết câu nói bình dân: “Hai điều sai trái không đưa đến một điều đúng.” Con yêu dấu, con có thấy chăng là: “Hai điều đúng không đền bù được một điều sai trái?” Bất kể bao nhiêu điều đúng con làm, con sẽ không bao giờ đền bù chuyện sai trái mà con đã làm trong quá khứ khi phàm linh mà con đã tạo ra vẫn còn tồn tại trong các thể cao của con.

Có những người, có mặt trong hầu hết các tôn giáo và tổ chức tâm linh, đã trong nhiều kiếp tìm cách đền bù một điều sai trái nào đó mà họ đã làm trong quá khứ, bằng cách làm điều đúng theo giáo lý của tôn giáo hay tổ chức tâm linh của họ. Thí dụ, có những người bên Tây Tạng bỏ ra cả đời mình xoay bánh xe cầu nguyện, nghĩ rằng hành động này sẽ đền bù cho một điều sai trái mà họ đã làm trong quá khứ. Có những người khắp nơi đọc kinh, dự lễ, đốt nến, tập yoga, đọc chú, và vân vân.

Con yêu dấu, có một khía cạnh máy móc là khi con làm điều gì, con tạo nghiệp. Con có thể cân bằng nghiệp quả đó bằng cách, thí dụ, đọc một số lượng bài chú nào đó. Nhưng khi con đã tới tầng này của con đường tự điều ngự, con cần nhận ra là vấn đề chính yếu của con bây giờ không phải là cân bằng nghiệp quả. Khi con đã vươn lên tầng này, khi con đã đọc số lượng bài chú bài thỉnh, hầu hết các con đã trên con đường cân bằng nghiệp quả, ít nhất là phần lớn nghiệp quả. Không phải là con cân bằng hết nghiệp quả khi con hòan tất khóa học này. Con trên con đường cân bằng hết nghiệp quả ở cuối đời này vì con cần nhận ra rằng ở mỗi tầng cho tới tầng 144, có một số lượng nghiệp quả cần được cân bằng ở tầng đó.

Điều quan trọng không phải là cân bằng tất cả nghiệp quả ở tầng này của con đường tu, nhưng điều quan trọng là cân bằng nghiệp quả cho tới tầng tâm thức hiện nay của con. Con có thấy điểm này chăng? Con có thể bị chậm trễ trong việc cân bằng nghiệp quả , nhưng con cũng có thể tới điểm con bắt kịp ở tầng tâm thức hiện nay trên con đường tu, có nghĩa là con không còn nghiệp quả tàn dư nào từ các tầng thấp hơn. Con đã cân bằng tất cả nghiệp quả cho tới tầng mà con đang ở dù đó là tầng 48, hay 56, hay 63, hay 85. Con đã cân bằng hết nghiệp quả đó, và như vậy có nghĩa là con đã bắt kịp, và con không cần bận tâm chuyện cân bằng nghiệp quả nữa. Khi con tiếp tục đọc chú và thỉnh ở các tầng cao hơn, con sẽ tiếp tục cân bằng nghiệp quả ở các tầng đó.

8.11. Không có gì sai trái với con cả

Điều mà thày quan tâm ở điểm này là dẫn con tới điểm con nhận ra là vấn đề là làm tan đi các phàm linh nội tại đó. Con yêu dấu, đây là phàm linh mà con cần khắc phục ngay lúc này: cảm giác con có gì sai trái.

Con yêu dấu, con có hiểu chăng là sa nhân muốn con cảm thấy là vươn lên tầng tâm thức này của con là điều sai trái? Đầu thai vào trái đất và vươn lên tới tầng này là điều sai trái. Họ muốn con cảm thấy như vậy vì con là một mối đe dọa cho họ, và chắc hẳn con thấy được là đây không phải một điều con muốn chấp nhận. Con không muốn chấp nhận lập luận của họ, và lẽ dĩ nhiên con không sai trái khi con vươn lên tầng tâm thức hiện nay của con. Con cần buông bỏ cơ chế đó đi. Con cần tới điểm con chấp nhận một cách ý thức sự kiện đơn giản sau: “Không có gì sai trái với tôi cả”. Có thể con cần (như người sứ giả này đã làm nhiều năm trước đây) trải qua một giai đoạn con dùng câu này như một lời khấn nguyện. Con giám sát mình và con nhận ra (đôi khi vì một hoàn cảnh bên ngoài, đôi khi chỉ đột nhiên xuất hiện) là có một xung lực khởi lên trong con nói rằng con đã sai quấy, con đã làm điều gì sai quấy, rằng con không được làm điều này, con không được làm điều kia. Có thể con cần một giai đoạn giám sát mình, và khi xung lực khởi lên, con hóa giải nó bằng cách nói trong ý thức, hoặc ra lời hoặc nói thầm: “Không có điều gì sai trái với tôi cả. Tôi hoàn toàn chấp nhận là không có điều gì sai trái với tôi cả.”

Con yêu dấu, khi con làm điều này và tiếp tục làm điều này, thì con sẽ tới điểm con tách mình ra khỏi phàm linh đó, ngã tách biệt đó. Con có thể nhìn nó và cảm thấy nó không ảnh hưởng con được nữa. Lúc đó, nó tan đi vì cái giữ cho nó sống là năng lượng mà con cho nó khi con tin vào ảo tưởng có điều gì sai trái với con.

8.12. Con không sai trái vì ở trên trái đất

Con yêu dấu, con thấy chăng là điều các thày mong muốn trong khóa học này là giúp con vượt qua ảo tưởng ở mỗi tầng tâm thức giữa tầng 48 và 96. Một trong những ảo tưởng này là ý tưởng có điều gì sai trái với việc con ở trên trái đất.

Nếu con là một a-va-ta thì trên một hành tinh tự nhiên con chưa bao giờ trải nghiệm lời cáo buộc có cái gì sai trái với con. Trong quá khứ xa, trước khi trái đất rơi vào nhị nguyên, nếu con là cư dân nguyên thủy con cũng không trải nghiệm điều này. Do đó, con có trong con cảm giác là thực sự con không có gì sai trái. Bởi vì con đã quá nhiều lần trải nghiệm bên ngoài (qua sa nhân và qua người khác và xã hội nói chung) lời cáo buộc con có gì sai trái, nên con đã đi tới điểm nghĩ rằng có lẽ điều gì sai trái với việc con ở trên trái đất. Có thể là trái đất đã khiến con sai trái, đã khiến con cảm thấy mình sai quấy? Lẽ dĩ nhiên, đó là một lý do khiến con khó chấp nhận là mình đang ở đây.

Nếu con nhìn lại chính mình, thì có lẽ con nhận ra là nhiều người tâm linh đã cảm thấy bị xã hội ruồng bỏ. Khi con là trẻ thơ, con đã cảm thấy mình không hòa nhập với trẻ em khác, không có ai con có thể nói chuyện về những niềm tin tâm linh của mình. Nhiều người trong các con đã bị chế giễu vì những niềm tin tâm linh của mình. Nhiều người trong các con có thể đã tìm ra một phong trào tâm linh, theo nó một thời gian và sau đó (khi con bắt đầu đặt một số câu hỏi thách đố hiện trạng của phong trào đó) con bị phong trào đó trù dập.

Con có thể đã có cảm giác: “Tôi thuộc về đâu, tôi hòa nhập được với ai?” Lẽ dĩ nhiên, điều này đã nuôi dưỡng cơ chế bù đắp mà thày đã phơi bày. Một khi con buông bỏ được cơ chế đó, con có thể tới một tầng của con đường tâm linh hoàn toàn dựa trên tình thương. Con không đi trên con đường tâm linh để bù đắp bất cứ điều gì. Con theo con đường tâm linh vì có điều gì đó mà con thương yêu, bất kể tình thương này thể hiện ra sao cho mỗi người. Đối với con, đó là một động lực dựa trên tình thương, không phải một động lực dựa trên bù đắp.

8.13. Vượt qua nỗi sợ sáng tạo

Đây là diểm con khắc phục chứng loạn thần ám ảnh và cưỡng bức và bắt đầu tu theo cách không ám ảnh, không cưỡng bức. Đây không phải là tâm thần loạn động, mà chỉ giản dị là động lực tự nhiên, dựa trên tình thương, thúc đẩy con vươn lên cao hơn, trải nghiệm cái gì hơn nữa và muốn biểu hiện cái hơn nữa.

Con yêu dấu, sự thực là khi con còn bù đắp, con không thể cảm thấy tự do biểu hiện mình, con không thể cảm thấy tự do sáng tạo. Con sẽ sợ không dám sáng tạo, vì sáng tạo là gì? Sáng tạo là vượt lên trên hiện trạng. Con chỉ sáng tạo khi con vượt lên trên hiện trạng. Khi con bù đắp, mong muốn bù đắp này thật sự dựa trên hiện trạng vì con nói: “Hiện trạng là tôi làm điều gì đó sai trái trong quá khứ và tôi cần bù đắp lại.”

Bù đắp và sáng tạo xung khắc nhau và con sẽ không bao giờ là một sinh thể hoàn toàn sáng tạo khi con còn tìm cách bù đắp lại điều gì đó. Lẽ dĩ nhiên, có người được coi là nghệ sĩ nhưng lại bị thúc đẩy bởi khuôn nếp bù đắp trong tâm lý và tìm cách bù đắp qua tác phẩm của họ. Con cũng có thể thấy có người bị ám ảnh với việc vẽ càng nhiều tranh càng tốt, hay khắc càng nhiều tượng càng tốt, hay điều gì khác. Con có thể thấy nhiều nghệ sĩ, thí dụ, thực sự bị thúc đẩy bởi chứng loạn thần ám ảnh và cưỡng bức để biểu hiện nghệ thuật thách đố hiện trạng. Dù họ đang thách đố hiện trạng, họ không thực sự thách đố một cách sáng tạo. Đó là lý do vì sao rất nhiều tác phẩm nghệ thuật tân thời không cân bằng và không thẩm mỹ. Chúng tơi tả, bất hài hòa. Chúng được tạo ra với ý định khiêu khích, nhưng chúng không nâng tinh thần người thưởng ngoạn mà chỉ làm gai mắt họ qua sự thiếu thẩm mỹ.

Nhiều người có quan niệm cái gì là thẩm mỹ nhưng nhiều nghệ nhân tân thời đã tìm cách bù đắp vì họ cho rằng đó là hiện trạng cần thách đố. Con yêu dấu, con thấy chăng là thẩm mỹ không phải là một vấn đề hiện trạng, tuy rằng, lẽ dĩ nhiên, trong quá khứ đã có nhiều thí dụ một lối vẽ nào đó được coi là cách vẽ duy nhất và do đó nó trở thành hiện trạng. Tuy nhiên, có một điểm khác biệt vì có một số nét đẹp, một quan niệm về cái đẹp, mà con có trong con và đa số tác phẩm nghệ thuật tân thời giản dị nằm ngoài quan niệm đẹp của đa số con người. Các nghệ nhân này cảm thấy họ thách đố hiện trạng, nhưng họ lại có cơ chế loạn thần ám ảnh và cưỡng bức, và bù đắp, khiến họ cảm thấy cần thách đố hiện trạng của xã hội thay vì thách đố cơ chế bù đắp nơi chính họ. Họ chú tâm vào thay đổi xã hội thay vì thay đổi chính mình, thăng vượt tâm thức của chính họ.

Lẽ dĩ nhiên các thày muốn các đệ tử sáng tạo, nhưng các thày muốn con sáng tạo trên nền tảng của tình thương, chứ không phải dựa trên cơ chế bù đắp thúc đẩy con làm điều gì đó bất thường để gây chú ý. Con yêu dấu, thày đã chiếm nhiều chú ý của con với bài giảng này, và thày cảm ơn con đã chịu bước đi trên con đường mà thày vạch ra trước mắt con.

Mọi điều kiện trên trái đất đều là cơ hội, 12 đọan

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 14/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada, và thày chào đón con vào tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày. Con có thể nghĩ là bài giảng đầu của thày quá nghiêm khắc, nhất là vì thày là một chân sư phái nữ. Một số người vẫn chờ đợi là các chân sư nữ dịu dàng hơn các chân sư nam. Con yêu dấu, thật ra thày đã dịu dàng hơn một chân sư nam, vì nếu Đại thiên thần Michael đã trao truyền cùng thông điệp, thì nó đã nghiêm khắc hơn nhiều.

Con yêu dấu, con biết rằng, như các chân sư khác đã nói với con, con đã đến mức các thày không còn chơi trò chơi với con nữa. Các thày không còn cho con phiên bản dịu dàng của giáo lý. Các thày nói một cách tự do và thẳng thắn với con vì con đã tới mức sẵn sàng để nghe. Do đó không có lý do gì để chơi những trò chơi như con người thường chơi trên trái đất. Điều quan trọng không là ve vuốt tự ngã, tránh làm tự ngã tổn thương vì con đã tới điểm cần nhìn quá tự ngã, nhìn xuyên qua tự ngã. Con cần nhận ra khi nào phản ứng của con dâng lên, con biết chúng đến từ tự ngã. Do đó con có thể tách ra khỏi phản ứng và tránh không bị chìm đắm trong nó. Con có thể tránh không phản ứng theo phản ứng của tự ngã.

6.1. Điều không nên chờ đợi nơi chính mình

Điều này không có nghĩa là con không có phản ứng. Con yêu dấu, dĩ nhiên có câu chuyện Đức Phật, khi thày chứng ngộ lần cuối trước khi thành đạo, lúc đó thày tọa thiền dưới cội Bồ đề và ma vương Mara hiện ra. Ma vương tìm cách khiến thày phản ứng một cách nào đó. Vì thày không phản ứng nên thày đạt được chứng ngộ và thành đạo. Chúng ta không ở trình độ này. Con chưa tới điểm sẵn sàng thành đạo. Con đang ở tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày và con đang ở dưới tầng tâm thức 96. Các thày hoàn toàn không có ý định đòi hỏi con ngưng mọi phản ứng. Con yêu dấu, các thày không muốn con cảm thấy mình đã thất bại nếu con phản ứng trước những điều kiện của thế gian. Điều tự nhiên là con có phản ứng với thế gian ở tầng tâm thức hiện nay của con.

Điều mà các thày muốn con làm ở điểm này là bắt đầu nhận ra trong ý thức là phản ứng không tới từ con, tức là bản thể thật bên trong của con. Phản ứng đến từ cái mà các thày gọi là tự ngã của con, là một phàm linh nội tại hay một cái ngã tách biệt. Nói cách khác, đó là phản ứng của bốn thể phàm của con, nhưng nó không phải là phản ứng của con. Thày có đặt cho con mục đích là con tới được điểm con có thể đi lại trong bốn tầng của vũ trụ vật chất – con có thể sống trong đời – nhưng con không làm với tâm thức tách biệt. Con hành động, con sống một cuộc sống năng động. Con làm, nhưng con cũng không làm. Con làm với tâm đang là, tâm trong trạng thái bình an nội tại.

Khai ngộ mà con cần đạt được ở tầng thứ nhất là nhận ra là con không thể tạo ra bình an bằng cách làm, làm thêm một điều gì đó, làm thêm điều gì khác. Điều quan trọng không phải là khám phá ra bí quyết bí mật mà chưa ai đã tìm ra, và sau đó con sẽ tạo ra bình an. Không có bí quyết gì để khám phá cả – ngoài giáo lý mà các thày đã trao cho các con về tâm thức nhị nguyên và vươn lên trên nó. Lẽ dĩ nhiên, điều này sẽ xảy đến từ từ. Nó sẽ xảy đến từng phần. Khi con ở điểm này, các thày không đòi hỏi con hoàn toàn vượt lên trên tâm thức nhị nguyên và không có phản ứng gì trước những điều kiện trên trái đất.

Các thày muốn con bắt đầu tách mình ra khỏi phản ứng để nhận ra rằng, tuy phản ứng có mặt trong bốn thể phàm của con, chúng không thực sự là phản ứng của con. Lẽ dĩ nhiên, không có nghĩa là con lờ đi không để ý tới phản ứng vì con nhận ra là khi con có phản ứng, đây là chỉ dấu có một phàm linh nội tại, một cái ngã tách biệt, một phần của tự ngã đang phản ứng. Do đó, đây là cơ hội để con nhìn nó, tách mình xa khỏi nó và nhờ vậy thăng vượt khỏi nó, vượt lên trên nó.

Con hiểu chăng là khi thày nói là con đang ở trong một bãi cát lún và cả bốn tầng của thế giới vật chất là một hình thức cát lún, thì điều thày thực sự muốn nói là nếu con ở trong thế gian và phản ứng liên tục và cho phép mình bị lôi kéo vào những khuôn nếp phản ứng lại một điều kiện nào đó trong thế gian, thì con đang tạo nghiệp, con đang làm, và con đang chìm xuống cát lún. Chỉ khi nào con tới điểm thoát được một phản ứng nào đó thì thế gian cát lún mới không còn ảnh hưởng được con và con tránh bị lún xuống. Điều thày nói trong bài giảng trước là thày muốn con bắt đầu suy ngẫm điều gì tước đi sự bình an của con và khiến con làm, khiến con đi vào các khuôn nếp phản ứng thúc đẩy con làm.

6.2. Con tạo ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình như thế nào

Trong bài giảng này, thày muốn trình bày một khía cạnh của điều này, một cơ chế liên hệ. Thày có nói trước đây là đa số đệ tử tâm linh có một phản ứng đối với thế gian. Thực sự ta có thể nói là tất cả con người hiện thân đều có một phản ứng đối với thế gian. Ngay cả những người không đặc biệt gì tâm linh cũng có một phản ứng nào đó, một cách nhìn cuộc đời nào đó. Lẽ tự nhiên là sa nhân có phản ứng không muốn ở trên thế gian này, cảm thấy không công bằng là họ phải ở đây, vân vân. Các con là người tâm linh (đa số các con có lẽ là người từ hành tinh khác xuống đầu thai trên trái đất (avatar) nếu các con đã theo học khóa này, nhưng chắc chắn là khóa này cũng ứng dụng cho những cư dân nguyên thủy của trái đất) thì các con có một phản ứng, một cảm giác, là mọi chuyện trên trái đất không được ổn. Đây là một bí ẩn mà con cần giải đáp để tránh không bị kéo vào khuôn nếp phản ứng.

Lẽ tự nhiên là con có một Sứ vụ Thiêng liêng. Khi con thảo Sứ vụ Thiêng liêng này, con nhìn xuống trái đất và con thấy là có những điều kiện có thể nói là không tự nhiên trên hành tinh này. Con thấy là các chân sư thăng thiên có mục đích nâng hành tinh lên trên các điều kiện này, và con quyết định góp phần vào việc thực hiện mục đích này. Điều con cần nhận ra là khi thảo Sứ vụ Thiêng liêng của mình, con ở trong một trạng thái tâm thức cao hơn. Nhưng không có nghĩa là con thảo Sứ vụ Thiêng liêng trong trạng thái tâm thức tối hậu, tức là trạng thái hoàn toàn không có tự ngã. Nhưng có nghĩa là con thảo Sứ vụ Thiêng liêng của mình trong trạng thái tâm thức cao nhất mà con có tiềm năng vươn lên tới trong kiếp sống này. Sứ vụ Thiêng liêng của con có hai tầng. Một là những điều con muốn làm trong thế gian, những gì con muốn thực hiện. Tầng kia là con muốn tăng triển như thế nào, con muốn nâng tâm thức tới mức nào. Con cần nhận ra là Sứ vụ Thiêng liêng của con bắt đầu ở tầng tâm thức mà con có khi con rời kiếp sống trước, và định ra mục đích mà con và các vị thày của con lượng định là con có thể đạt được ở cuối kiếp sống này. Sứ vụ Thiêng liêng của con được tạo ra từ trạng thái tâm thức cao nhất mà con có tiềm năng vươn tới trong kiếp sống này.

Lẽ dĩ nhiên là khi con xuống đầu thai, con bắt đầu ở cùng tầng tâm thức với lúc con hiện thân kiếp trước – nghĩa là tầng tâm thức thấp nhất trong khoảng tiềm năng của kiếp này. Điều này có nghĩa là con quên mất trạng thái tâm thức khi con thảo Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Các con thường có khuynh hướng nhìn Sứ vụ Thiêng liêng của mình với tư duy đường thẳng và nghĩ nếu các chân sư thăng thiên có một mục đích, tỷ dụ như chấm dứt mọi chiến tranh, và nếu con có mặt ở đây để giúp các thày, thì con cần lấy những biện pháp tích cực, con cần làm chuyện gì tích cực, để hoàn tất mục đích này.

Con yêu dấu, nếu con muốn thật sự hoàn tất mục đích con cần đạt trong Sứ vụ Thiêng liêng của kiếp sống này, trước hết con cần vươn lên trạng thái tâm thức cao nhất – không nhất thiết là trạng thái tuyệt đối cao nhất nhưng ít ra cũng gần tới đó – mà con có thể đạt được trong kiếp sống này. Nói cách khác, để hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng, con cần vươn lên một tầng tâm thức cao hơn khi con bắt đầu kiếp sống này. Lẽ dĩ nhiên con đã làm chuyện này. Tuy nhiên, điều thày muốn chỉ rõ là con dễ có cảm giác con cần làm điều gì đó tích cực. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên, khi họ khám phá ra giáo lý của các thày, họ quyết định với tâm vỏ ngoài, dựa trên tầng tâm thức của họ khi họ tìm ra giáo lý, là họ sẽ làm gì đó. Họ sẽ đọc bài chú, bài thỉnh và vân vân.

6.3. Con cảm thấy gì về trái đất?

Điều thày muốn con làm ở tầng này là để các việc đó qua một bên và nhận ra mục đích lúc này là vươn lên một tầng tâm thức cao hơn giúp con có một cái nhìn khác về Sứ vụ Thiêng liêng của mình, một cái nhìn khác về việc con cần làm trong kiếp này. Để làm điều này, ở tầng này thày muốn con một lần nữa nhìn trái đất với tâm ý thức hiện nay của con. Điều mà thày muốn các học viên tới khóa nhập thất của thày làm là chia ra thành nhóm nhỏ và nói lên họ nghĩ thế nào, họ cảm thấy thế nào về trái đất và hiện trạng của nó. Con cũng có thể tự làm điều này. Con có thể đi vào một căn phòng yên tĩnh, và nói lên cảm nghĩ của mình về trái đất, đời sống trên trái đất, con người, sa nhân và các vấn đề khác. Đa số học viên ở tầng này cảm thấy có cái gì không ổn trên trái đất, có cái gì đã đi sai đường.

Lẽ tự nhiên, nếu con là một người từ hành tinh khác đến đây, con còn nhớ đời sống trên một hành tinh tự nhiên như thế nào. Con biết trái đất ở trình độ thấp hơn một hành tinh tự nhiên rất nhiều. Nếu con là một trong những cư dân nguyên thủy của trái đất, con có (trong ký ức nội tâm) cảm nhận là có một thời trong quá khứ trái đất đã ở một trình độ cao hơn, nhưng nay thì đã rơi xuống thấp hơn. Thí dụ, trong quá khứ không có chiến tranh trên trái đất, nhưng nay thì có. Tất cả đệ tử tâm linh có cảm giác có chuyện gì không ổn, không đúng, cần được sửa, cần thay đổi. Đây là điểm ta cần xem xét bí ẩn.

6.4. Bí ẩn về việc thay đổi tình trạng trái đất

Con yêu dấu, dưới một tầm nhìn nào đó, tất cả các điều này đều chính xác. Các chân sư thăng thiên có muốn dẫn trái đất theo một tiến trình qua đó chúng ta nâng trái đất lên để một số biểu hiện, trong đó có chiến tranh, không còn có mặt nữa. Ta có thể quan niệm đây là một tiến trình đường thẳng. Ta bắt đầu ở một tầng nào đó, ta dần dần vươn lên tầng kế tiếp, và sau đó lên tầng kế tiếp, và vân vân. Chúng ta nâng tâm thức tập thể lên từng bước một cho tới lúc ta tới một bước ngoặt khi một biểu hiện bị chế phục. Điều này chưa xảy ra với chiến tranh. Nó đã phần lớn xảy ra với nạn nô lệ và một số điều kiện khác mà ngày nay con không còn thấy nữa, ít nhất là không còn thấy nhiều trong thế giới tiên tiến.

Có thể nói là một mục đích. Có thể nói là một tiến trình đường thẳng dẫn tới mục đích đó. Điều thày muốn con nhận ra là có một yếu tố trong tự ngã của con, có một phàm linh nội tại, có một cái ngã tách biệt đã chấp nhận (hay nói đúng hơn, đã được tạo ra bởi) tin tưởng là con không thể là một người tâm linh trọn vẹn, con không thể là một sinh thể Ki-tô, con không thể nào hoàn toàn bình an với mình nếu một điều kiện nào đó trên trái đất chưa thay đổi.

Con yêu dấu, con có thấy chăng là đa số người tâm linh cảm thấy có chuyện cần thay đổi, nhưng họ thường không nhận ra là bên dưới cảm giác đó là một phản ứng cá nhân khiến họ cảm thấy vì điều kiện đó như vậy nên họ không thể trọn vẹn là mình được. Tỷ dụ, con không thể hoàn toàn bình an, con không thể hoàn toàn chấp nhận mình ở đây trên trái đất, con không thể hoàn toàn vui hưởng cuộc sống, con không thể hoàn toàn tham gia vào đời sống hay con đường tâm linh. Có điều gì đó con không thể làm, có điều gì đó con không thể , vì có điều kiện bên ngoài không đúng như chúng phải là.

Con yêu dấu, đây hoàn toàn là một ảo tưởng mà con nhất thiết phải khắc phục. Thày không đòi hỏi con hoàn toàn khắc phục nó ở tầng này, nhưng thày muốn con bắt đầu có ý thức về nó. Có nhiều lý do vì sao cần như vậy. Trước hết, con sẽ không cảm thấy thoải mái với chính mình nếu con còn bị kẹt trong khuôn nếp này. Nó thực ra là một khuôn nếp phản ứng. Con nhìn vào các điều kiện trên trái đất và con phản ứng lại bằng cách cảm thấy mình bị hạn chế. Con cảm thấy con không thể nào trọn vẹn là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con bởi vì có điều kiện bên ngoài này, và đây là khuôn nếp phản ứng đang hạn chế con. Con không thể hoàn toàn cảm thấy thoải mái với chính mình nếu con còn khuôn nếp này. Con không thể nào hoàn toàn bình an trong nội tâm vì con không bình an với việc mình hiện thân trên trái đất này.

Nhiều học viên đã nghe thày nói là mục đích của khóa nhập thất của thày là con bình an trong chính mình. Họ không nhận ra rằng nếu muốn bình an trong chính mình, con cần bình an với chuyện sống trên trái đất, bình an với chuyện hiện thân trên trái đất. Do đó, họ không nhận ra là họ có một khuôn nếp phản ứng trong tiềm thức của họ nói: “Ồ, tôi không thể bình an khi điều kiện này vẫn còn như vậy.” Con có thấy chăng là có một cơ chế, một khuôn nếp phản ứng bên trong con đang ngăn trở con không bình an vì một số điều kiện bên ngoài như vậy?

Bây giờ, đối với trí suy luận đường thẳng, tâm vỏ ngoài, tự ngã, phàm linh nội tại, tự ngã tách biệt, chỉ có một giải pháp là điều kiện bên ngoài phải thay đổi. Có đệ tử chân sư thăng thiên đã theo học giáo lý các thày từ mấy chục năm, nhưng vẫn bị kẹt trong khuôn nếp chú tâm vào ngoại cảnh phải thay đổi, vì họ cảm thấy họ không thể an bình trong chính họ nếu điều kiện bên ngoài chưa thay đổi. Họ chú tâm đến phía ngoài họ, hướng sự chú ý đến việc làm sao đóng góp thay đổi điều kiện bên ngoài.

6.5. Nỗi bực dọc tinh tế trong nội tâm

Vì họ đương nhiên cảm thấy bất lực không thay đổi được nhiều điều kiện bên ngoài, như chiến tranh, nên họ cảm thấy bực dọc. Điều này khiến họ khởi ý niệm tinh tế đổ lỗi cho người khác, cho sa nhân, cho Ánh sáng Mẹ – hay bất kỳ điều gì khác. Trong nhiều trường hợp, họ đổ lỗi cho cả ba. Có nhiều học viên ở đây cảm thấy: “Tôi không thể an bình vì điều kiện bên ngoài chưa thay đổi, và điều kiện bên ngoài chưa thay đổi vì con người không chịu thay đổi, sa nhân vẫn hiện diện và Ánh sáng Mẹ vẫn tiếp tục biểu hiện những điều kiện này như trước và sẽ không thay đổi.” Họ cảm thấy bực dọc. Do vậy, con yêu dấu, làm sao thày có thể giúp con an bình với chính mình nếu con vẫn còn nỗi bực dọc này?

Thày cần con nhận ra nỗi bực dọc này, nói rõ ra nếu con thấy cần. Con hãy đi vào một căn phòng yên tĩnh, và nói lên nỗi bực dọc mà con cảm thấy. Sau đó, thày cần con nhận ra một điều giản dị, đó là: “Nếu tôi không thể thay đổi điều kiện bên ngoài, vậy có phải chăng là tôi không thể an bình?” Một số học viên tin như vậy. Thày làm tất cả những gì thày có thể làm ở cõi ê-the trong khóa nhập thất của thày để giúp họ hiểu là điều này không đúng. Thày muốn con làm tất cả những gì con có thể làm ở tầng tâm ý thức. Lẽ dĩ nhiên là các thày đã giảng điều này rồi, nhưng thày vẫn có học viên tới tầng khai ngộ này của khóa nhập thất của thày mà vẫn chưa hiểu ra điều này với tâm ý thức của họ.

Lập luận không thể thay đổi chính mình khi ngoại cảnh chưa thay đổi không đứng vững, vì toàn bộ ý nghĩa của giáo lý chân sư thăng thiên là con đi trên con đường tu để trở nên độc lập về mặt tâm lý, mặt tâm linh, mặt tâm lý-tâm linh, với các điều kiện trên trái đất . Đó là lý do vì sao Đức Phật đạt được khai ngộ khi ngài ngồi dưới chân cội bồ đề. Thày độc lập trên mặt tâm lý-tâm linh với mọi điều kiện trên trái đất. Không có điều kiện nào trên trái đất có thể ảnh hưởng thày vì thày không nghĩ có điều kiện nào trên trái đất có thể lấy đi sự bình an nội tâm của thày. Đáp số hiển nhiên cho câu đố bí ẩn là nếu con không thay đổi được điều kiện bên ngoài, con vẫn có được bình an nội tâm bằng cách tác động trên chính mình, thay đổi chính mình.

Đúng là rất có thể một phần Sứ vụ Thiêng liêng của con là đem lại một số thay đổi bên ngoài cho trái đất, nhưng Sứ vụ Thiêng liêng của con cũng bao gồm việc đạt được an bình nội tâm. Con cần nhận ra là con có mục đích bên ngoài và mục đích bên trong. Mục đích bên trong là sự tăng triển tâm thức của chính con, và không có điều kiện nào trên trái đất có thể ngăn chặn hay hạn chế sự tăng triển tâm thức của con. Con yêu dấu, ngược lại, điều kiện trên trái đất chính thật là những yếu tố giúp con tăng triển tâm thức. Chúng không phải là kẻ thù của sự tăng triển tâm thức của con; chúng là cơ hội cho con tăng triển. Làm sao con tăng triển tâm thức? Bằng cách vượt qua một phàm linh nội tại cá biệt khiến con phản ứng với một điều kiện nào đó trên trái đất. Khi con không còn phản ứng với điều kiện, con đã tăng triển tâm thức và lúc đó, con bước gần hơn tới sự bình an nội tâm của con.

Con yêu dấu, con có thấy chăng đây chính là mục đích của con đường tâm linh? Từ xưa đến nay vẫn luôn luôn như vậy. Các Thượng sư khác cũng đã nói điều này, nhưng có nhiều mức độ thể nhập chân lý này. Con có thể nghĩ con đã hiểu chân lý này khi con ở Tia thứ Nhất, Tia thứ Hai hay tia nào khác, nhưng có những mức độ hiểu sâu hơn. Ở tầng này, thầy cần con nhận ra là an bình nội tâm của con không dính dáng gì đến điều kiện trên trái đất. Nó là một điều kiện nội tâm. Không có điều kiện bên ngoài nào có thể ngăn cản an bình nội tâm của con. Nếu con đang nghĩ, hay trước đây có nghĩ, là có một điều kiện có thể ngăn cản bình an nội tâm của con, thì điều kiện đó là cơ hội để con vươn lên tầng cao hơn.

6.6. Điều gì khiến con trăn trở nhất trên trái đất

Con yêu dấu, con có thấy chăng là thày muốn con, ở tầng này, bước lui lại, nhìn vào cuộc đời, con đường tâm linh, và tâm lý của mình. Sau đó con hãy nhìn trái đất và nói: “Điều kiện nào khuấy động nhiều nhất sự bình an của con trên trái đất? Điều kiện nào thường khiến con cảm thấy phẫn nộ, cảm thấy không muốn ở đây, cảm thấy có điều gì đó không đúng, có điều gì đó đáng lẽ không được như vậy?” Con hãy nhận diện điều kiện đó, và nhận ra điều kiện đó chính là điều kiện con cần vượt qua ở tầng khai ngộ này của khóa nhập thất của thày. Điều kiện này không phải là kẻ thù của sự tăng triển tâm linh của con; nó là cơ hội cho con tăng triển. Do đó, điều kiện này giúp con tăng triển.

Làm sao con làm hòa với việc mình đang hiện thân trên trái đất? Tại sao con không an bình? Đó là vì con có một mục đích tâm linh, nhưng đâu đó trong bốn thể phàm của con cũng có một cơ chế ngăn cản con đạt được mục đích đó. Nó ngăn cản không cho con đạt mục đích vì con nghĩ con không thể đạt được mục đích nội tâm nếu điều kiện bên ngoài chưa thay đổi. Cơ hội tăng triển tâm linh chỉ là nhận ra rằng tất cả điều kiện trên trái đất là cơ hội để vượt qua dính mắc và khuôn nếp phản ứng.

Con yêu dấu, nếu con chuyển vọt tâm thức được như vậy, thì con sẽ bình an với việc hiện thân trên một hành tinh dày đặc và thấp như trái đất hiện nay. Điều thày mong muốn là giúp con vươn lên trên sự vật vã nội tâm liên tục khi con biết là mình đang hiện thân, con biết mình không thể búng tay và rời kiếp sống này, nhưng con cảm thấy bực dọc và bị hạn chế vì đang ở đây. Thày mong muốn giúp con chuyển vọt tâm thức, nhìn cuộc đời và nói: “Nhưng đây không phải là một hạn chế – đây là môt cơ hội.”

Thày biết là tâm của con sẽ khởi lên tư tưởng này: “Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra với các điều kiện bên ngoài? Có đúng chăng là tôi phải làm điều gì?” Con yêu dấu, tất cả điều thày muốn con làm, khi con đang trải qua các khai ngộ ở khóa nhập thất của thày, là con tạm thời để qua một bên ước muốn làm điều gì đó trong thế gian. Đúng thực là sau này con sẽ có thể làm gì đó, nhưng chuyện này sẽ xảy ra khi con có viễn kiến cao hơn. Con sẽ không có viễn kiến đó khi con còn chú tâm quá nhiều tới bên ngoài, thay vì chú tâm vào bên trong. Thày cần con, khi con đang trải qua các khai ngộ ở khóa nhập thất của thày, rút sự chú tâm có ý thức khỏi những gì con có thể thay đổi trong thế gian, và nhìn vào những gì con có thể thay đổi nơi chính mình. Thày cần con nhìn vào những gì lấy đi sự bình an của con, và nhìn điều kiện đó như một cơ hội.

Con yêu dấu, con đường tâm linh, con đường dẫn tới thăng thiên là con đường nội tâm, và nó thuộc nội tâm chính vì con không cần vượt qua bất cứ điều kiện bên ngoài nào. Con chỉ cần vượt qua điều kiện nội tâm mà thôi. Hầu hết các điều kiện nội tâm đó là những khuôn nếp phản ứng với những điều kiện bên ngoài trong đó con – hay đúng hơn là tự ngã, tự ngã tách biệt, phàm linh nội tại của con – tin rằng điều kiện bên ngoài có thể hạn chế tăng triển tâm linh của con.

6.7. Niềm tin đằng sau phàm linh nội tại

Con yêu dấu, các thày có nói về phàm linh nội tại, cái ngã tách biệt và các khía cạnh của tự ngã. Điều mà thày muốn con nhận ra là khi lần đầu tiên con nghe tới các khái niệm đó, con ở một tầng tâm thức nào đó. Do đó, trong tâm vỏ ngoài của con, con đã nhìn các khái niệm này dựa trên tầng tâm thức đó. Bây giờ thì con đã theo học khóa này cho tới điểm này với Tia thứ Sáu, con đã vươn lên một tầng tâm thức cao hơn. Điều này có nghĩa là đã đến lúc con tiến lên một bước và có cái nhìn cao hơn về các khái niệm này.

Một phàm linh nội tại, một cái ngã tách biệt được hình thành như thế nào? Nó được tạo ra từ một tin tưởng nào đó. Thường thì các niềm tin này không được tạo ra từ bên trong tâm con vì chúng đã có mặt trong tâm thức đại chúng từ lâu rồi. Sa nhân đã tạo ra nhiều niềm tin đó, do đó có một số phàm linh tập thể. Sa nhân rất giỏi trong việc cho con gặp phải một điều kiện trên trái đất rất khó khăn trên diện vỏ ngoài dẫn tới một hoàn cảnh tạo chấn thương tâm lý. Để đối phó với điều kiện này, con tạo ra một cái ngã tách biệt, một phàm linh nội tại. Phàm linh nội tại này được tạo ra dựa trên một tin tưởng nào đó.

Niềm tin này có thể là, thí dụ, nếu chiến tranh còn có mặt trên trái đất (và do đó con có nguy cơ lại rơi vào chiến tranh) thì con không thể hoàn toàn an bình. Con lúc nào cũng phải đề phòng. Con lúc nào cũng cần biết là điều gì đó có thể xảy ra, một cuộc chiến có thể bùng nổ và con bị lôi kéo vào đó. Đó là lý do vì sao con thấy có rất nhiều người tâm linh, rất nhiều người thuộc khuynh hướng Thời đại Mới, tin vào các lời sấm kí tiêu cực. Họ lúc nào cũng đợi năm 2012 hay bất kỳ năm nào khác được sấm kí cho rằng sẽ có một thay đổi lớn lao, chấn động, hoặc sẽ có một khủng hoảng lớn hay một chiến tranh lớn. Họ lúc nào cũng tìm xem những sấm kí ghê gớm nhất và bị chìm đắm trong đó. Họ không thể buông bỏ chúng, và lý do đơn giản là vì họ có một phàm linh.

Con yếu dấu, một lần nữa, các thày không chê trách các con. Tất cả chúng ta, đã từng hiện thân trên trái đất, đều đã phải chịu chấn thương nặng dưới tay sa nhân. Có thể con không bị tấn công trực tiếp, nhưng con có thể đã bị dính líu vào một cuộc chiến. Thí dụ, con thấy gia đình mình bị giết, con bị giết, con chịu nhiều đau khổ, con bị thương tích, hay bất cứ thảm trạng gì khác. Tất cả chúng ta đã từng hiện thân đều đã gánh chịu những chấn thương đó. Không ai chê trách con vì con đã tạo ra phàm linh đó. Thày không muốn con cảm thấy hổ thẹn vì đã có những phàm linh nội tại đó. Các thày đều đã từng có chúng khi các thày hiện thân trên trái đất. Các thày cũng đã thăng thiên và không còn đầu thai nữa vì các thày đã khắc phục được chúng, từng phàm linh một. Đây là lý do: “Điều một người làm được, tất cả mọi người đều làm được”. Các thày đã làm được. Các thày biết là con làm được, và các thày chỉ hướng dẫn con qua hành trình đó – từng phàm linh một.

6.8. Làm sao khắc phục phàm linh phản hòa bình

Phàm linh mà thày muốn con giải quyết lúc này là phàm linh cho rằng con không thể bình an vì điều kiện này hay điều kiện kia có mặt trên trái đất và đáng lẽ nó không được có mặt. Thày muốn con bắt đầu tách mình ra khỏi phàm linh và nhận ra đây là một khuôn nếp phản ứng và nó không phải là phản ứng của con. Nó không phải là một điều con tin. Niềm tin này đã được lập trình vào phàm linh nội tại. Sau đó, con cần nhận ra là phàm linh nội tại sẽ không bao giờ vượt được ra ngoài niềm tin đã tạo ra nó.

Có đệ tử tâm linh (và dĩ nhiên, họ đang ở tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày là nơi Tia thứ Sáu phối hợp với Tia thứ Hai của minh triết) nghĩ rằng họ có thể lý luận với tự ngã của họ, với các phàm linh nội tại của họ, với các ngã tách biệt của họ. Họ nghĩ rằng họ có thể nhìn vào một phàm linh, thấy là nó dựa trên một niềm tin nào đó, và đưa ra một luận cứ. Phàm linh sẽ đột nhiên thấy ra là nó sai và do đó, nó tan biến đi.

Điều này sẽ không xảy ra. Phàm linh sẽ không bao giờ thấy lập trình của nó có gì sai. Đối với phàm linh ảo tưởng tạo ra nó là sự thật tuyệt đối, không thể sai – và nó sẽ luôn luôn như thế. Điều con có thể làm là con tới điểm con hoàn toàn nhận ra ảo tưởng là ảo tưởng. Do đó, con cho phép phàm linh chết đi, con cho phép cái ngã tách biệt chết đi. Con cho nó tan biến đi vì con nhận ra: “Phàm linh này không phải là con. Nó đã từng là một phần của con, nhưng con không muốn kéo nó theo con thêm nữa. Con muốn buông bỏ nó.”

Đây là toàn bộ tiến trình tu tập trên con đường tâm linh. Thày biết là một số học viên sẽ cảm thấy thất vọng. Một số học viên đã nhận được thông điệp này trước đây vì các Thượng sư khác có đề cập đến một cách ít hay nhiều thẳng thắn. Một số học viên tới tầng này của khóa nhập thất của thày và chưa hoàn toàn thể nhập điều này. Khi họ phải đối mặt với sự thực này ở tầng ê-the thì họ cảm thấy thất vọng. Con cần nhận ra điều mà các thày đã luôn luôn nói, là khi con tham gia vào khóa học này con đi tới các trung tâm nhập thất của các Thượng sư vào ban đêm trong thể bản sắc của con. Điều con cần nhận ra là khi con tới khóa nhập thất trong thể bản sắc, con lãnh hội bài học, các sáng ngộ dễ dàng hơn nhiều khi so sánh với khi con ở trong tâm ý thức.

Điều thường xảy ra là học viên thấu hiểu ở tầng bản sắc, nhưng có sự chống kháng, thí dụ, ở thể cảm xúc hay thể tư tưởng, ngăn chặn họ hiểu ở tầng tâm ý thức. Ta có thể nói là các quyển sách, các bài truyền đọc và các bài thỉnh chỉ có một mục đích, đó là giúp con thấu hiểu ở tầng vật lý, ở tầng tâm ý thức những gì con đã hiểu ở tầng bản sắc để nó thấm xuống tâm ý thức của con. Do đó, con thể nhập nó, con hoàn toàn chấp nhận nó. Lúc đó, con có thể một cách ý thức nhìn thấu ảo tưởng, buông bỏ phàm linh, buông bỏ cái ngã tách biệt, và do đó, con có một thái độ cao hơn về cuộc sống.

Điều thày mong đạt được trong bài giảng thứ hai này là giúp con nhận ra con có một cơ chế chống kháng việc con hiện thân trên trái đất vì con cho rằng trái đất hay một số điều kiện nào đó trên trái đất đang hạn chế sự tăng triển tâm linh của con. Thày mong giúp con chuyển vọt tâm thức để thấy mọi điều kiện trên trái đất như cơ hội cho con vượt qua phàm linh nội tại đó, cơ chế nội tại đó, khuôn nếp phản ứng đó.

6.9 An bình với việc hiện diện trên trái đất

Khi con làm được điều này ở tầng tâm ý thức, thì con thật sự bình an với việc con đang ở đây trên trái đất. Lẽ dĩ nhiên, thày biết rất rõ đời sống trên trái đất rất khó khăn. Con yêu dấu, một lần nữa, các thày không chỉ trích. Thày biết là có rất nhiều điều kiện trên trái đất lôi kéo con để khiến con phản ứng lại chúng. Thày biết là ngưng phản ứng rất khó. Thày cũng biết là thày không muốn con sống phần còn lại của kiếp sống này mà cảm thấy bực bội, cảm thấy mình không muốn ở đây, cảm thấy mình không muốn gia nhập cuộc sống hay con đường tu tâm linh. Thày muốn giúp con vươn lên trên phàm linh nội tại đang chống lại việc con đang sống trên trái đất để con cảm thấy bình an sống ở đây.

Con yêu dấu, nếu con đứng lui lại trong tâm ý thức, như con đã làm dễ dàng trong thể bản sắc, và nhìn trái đất với tầm nhìn rộng lớn hơn, với tầm nhìn toàn vũ, thì con có thể nhận ra là dù trái đất là một hành tinh tối đen, dày đặc và khó khăn, nhưng nó cũng là một cơ hội tăng triển lớn lao. Những người trong các con đang ở đây và đã tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên, các con có tiềm năng tăng triển lớn lao trong quãng đời còn lại. Để thực hiện tiềm năng này, con cần vượt lên trên phàm linh nội tại đang khiến con chống kháng việc con sống ở đây. Con đã chọn tới đây, và nếu con là một cư dân nguyên thủy, con đã chọn ở đây, con đã chọn ở lại đây. Trong nhiều trường hợp, các con đã chọn lựa như vậy vì con muốn nâng trái đất lên. Con có thấy chăng, vì đây là chọn lựa của con, sự việc con ở đây không phải là một sự trừng phạt. Việc con ở đây không phải là một sự bất công. Nó thực sự là một cơ hội mà con đã chọn vì con thấy đây là cơ hội tăng triển cho riêng cá nhân con – đây là cơ hội tốt nhất con có thể có được dựa trên tầng mức tăng triển tâm linh và toàn vũ hiện nay của con.

Nếu con có thể nhìn một cách ý thức vào dòng sống của con như con có thể nhìn ở cõi bản sắc (và dĩ nhiên là con có thể, nếu con sẵn sàng bước ra ngoài ý niệm bản sắc bình thường của con) thì con có thể hoàn toàn bình an khi con nhận ra con đã chọn hiện thân trong những điều kiện đặc thù của con vì chúng là cơ hội tối đa cho sự tăng triển của riêng cá nhân con.

6.10. Tăng triển cá nhân và phụng sự

Thày biết là có học viên ở tầng này sẽ nói: “Nhưng có phải chăng là mục đích của con đường tâm linh là khắc phục lòng vị kỷ? Có phải chăng là khi con đi xuống những tầng tâm thức thấp nhất trên trái đất, con càng đi xuống sâu thì con người càng ích kỷ và chỉ để ý đến tự ngã mình? Do đó, có phải chăng là có lúc trên con đường tâm linh chúng con cần chú tâm vào phụng sự một đại nghĩa cao hơn thay vì chỉ lo cho riêng mình?” Có học viên cảm thấy là thày dạy phải chú tâm vào chính họ nhiều đến độ (cũng có cả học viên nghĩ như vậy về toàn thể khóa học này và về giáo lý chân sư thăng thiên nói chung) họ bị ngăn cản không phụng sự được. Con được dạy phải chú tâm vào sự phát triển tâm linh của con, sự phát triển của riêng cá nhân con thay vì phụng sự.

Thày đã nói gì trong bài giảng trước của thày? Con không thể thực sự phụng sự trái đất bằng cách làm. Đây là điều những người sống ở Trung đông đã làm suốt mấy ngàn năm qua. Họ nghĩ rằng: “Nguyên do của chiến tranh là những người kia, và nếu mình có thể tiêu diệt họ, thì sẽ có hòa bình trên trái đất.” Họ cố gắng làm, làm và tất cả những gì họ làm là tạo thêm nghiệp, thêm xung đột. Cách duy nhất để nâng hành tinh lên trên một biểu hiện nào đó, tỷ dụ như chiến tranh, là nâng cao tâm thức tập thể cho đến lúc đủ số người thấy sự dối trá đằng sau chiến tranh và thăng vượt nó.

Con yêu dấu, làm sao con nâng tâm thức tập thể? Con có thể đóng góp vào tiến trình này bằng cách thức tỉnh con người, cho họ biết về con đường tâm linh, hay về các dối trá, khai ngộ và sự thực. Con yêu dấu, cách chủ yếu mà riêng con có thể dùng để nâng cao tâm thức tập thể là nâng cao tâm thức của chính mình. Khi con đang hiện thân trên trái đất, con thuộc về tâm thức tập thể của trái đất. Con càng nâng cao tâm thức của mình thì con càng nâng cao tâm thức tập thể. Đây là điều tất nhiên, con yêu dấu. Nếu con nhìn một cách triệt để, con có thể nói là nếu con sống cả một kiếp người chỉ chú tâm một trăm phần trăm vào việc nâng cao tâm thức của mình, và không bao giờ, dù chỉ một lần tìm cách sửa đổi tâm thức của một người khác, thì con đã có đóng góp tối đa vào việc nâng cao tâm thức tập thể.

Tuy nhiên, đa số các con không có nhiệm vụ ngồi thiền trong một hang động trong Hy mã lạp sơn. Nhiệm vụ của con là sống một đời sống tích cực trong xã hội. Có nghĩa là, đối với con, cơ hội tối ưu là một tương tác qua đó con nâng tâm thức của mình đồng thời tương tác với người khác. Dù con có trực tiếp nói với họ về giáo lý chân sư thăng thiên hay chân lý cao hơn hay không, con vẫn cho họ một tấm gương thế nào là sống cuộc đời tâm linh. Đối với con, đây là một tương tác, nhưng con nên hiểu tương tác này là một dòng chảy hình số tám. Làm sao con có thể giúp những người kia nhìn ra sự thật nếu con chưa thấy sự thật? Có một sự trao đổi qua đó con nâng cao tâm thức của mình, sau đó con giúp người khác, sau đó con nâng tâm thức mình thêm nữa và con giúp người khác vượt qua một ảo tưởng khác.

6.11. Nâng cao tâm thức và lan truyền chân lý

Nếu con nhìn vào các phòng trào tâm linh, tôn giáo, chính trị hay từ thiện, con thấy cách họ hoạt động dựa vào ý tưởng sau đây: “Chúng tôi có chân lý, và nếu tất cả mọi người khác có thể thấy chân lý như chúng tôi thấy, thì hành tinh sẽ thay đổi.” Quan niệm này dựa vào một ý niệm đường thẳng, vỏ ngoài của chân lý qua đó con nghĩ rằng nếu con đi và cải đạo người khác để họ tin vào hệ thống niềm tin của con, nếu con thuyết phục được họ theo chân lý của con, thì lúc đó con đã thay đổi được tâm thức tập thể. Con yêu dấu, thay đổi tâm thức tập thể không phải là chuyện cho con người một hiểu biết trí năng. Một hiểu biết trí năng là một phần trong việc thay đổi tâm thức tập thể, nhưng nó không phải là phần chính vì con cũng cần thay đổi thể cảm xúc và thể bản sắc của con người.

Làm sao con làm được việc này? Có rất nhiều thí dụ trên thế giới của những người đi làm việc truyền đạo, đã gia nhập thánh chiến để cải đạo người khác (dù đây là một tôn giáo, hay quan niệm khoa học duy vật, hay bất cứ điều gì khác), và họ cố gắng làm điều này bằng tâm đường thẳng, trí thức, phân tích. Họ nghĩ rằng nếu họ thuyết phục được người khác tin vào một chân lý, thì thế giới đã có tiến bộ.

Trừ phi con đã thể nhập chân lý đó trong cả bốn thể phàm, con không thực sự có thể giúp nâng người khác lên cao hơn, con không thực sự giúp nâng tâm thức tập thể lên. Thày cần con nhận ra là trong phạm vi công việc phụng sự của con, con cần nâng tâm thức mình lên trong cả bốn cõi. Con cần khắc phục các phàm linh, và do đó, con cần vượt qua ảo tưởng là công việc phụng sự của con tùy thuộc vào việc thay đổi người khác. Công việc phụng sự của con không tùy thuộc vào thay đổi người khác; công việc phụng sự của con tùy thuộc việc nâng cao tâm thức của con – thay đổi chính con.

6.12. Thay đổi thế giới mà không thay đổi chính mình

Có một ảo tưởng vi tế trong giới các người tâm linh là con có thể thay đổi thế giới mà không thay đổi chính mình bằng cách đơn giản thay đổi người khác hay qua cách đọc chú, đọc thỉnh hay bất kỳ phương tiện tâm linh nào khác. Nhưng thực sự vấn đề là, trên hết, con phải thay đổi tâm thức của mình, nâng cao tâm thức của mình.

Cũng có một ảo tưởng khác cho rằng con không thể phụng sự thực sự nếu con chú tâm quá nhiều vào chính mình. Thày muốn con tiến lên một bước và nhận ra là có khác biệt cơ bản giữa việc chú tâm vào tăng triển cá nhân bằng cách khắc phục những dính mắc và phàm linh nội tại, và chú tâm tôn vinh tự ngã mà con thấy nơi các người ở dưới tầng tâm thức 48. Con đã tiến xa hơn tầng 48. Do đó, con không ích kỷ như những người kia. Con không chú tâm vào chính mình theo kiểu tôn vinh tự ngã. Có thể là (nếu con chưa đạt khai ngộ ở tầng 96 và tiến về các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô) con sẽ thoái hóa trở lại tôn vinh tự ngã qua ham muốn nâng cao mình lên. Đây chính là lý do vì sao thày cho con các hiểu biết này vì một trong những cách người tâm linh bị lôi kéo vào cạm bẫy đó là qua ảo tưởng họ cần phải thay đổi điều gì đó bên ngoài chính họ. Họ nghĩ rằng thay đổi người khác quan trọng đến độ họ có thể bỏ qua bên tiến bộ tâm linh của họ, họ không cần xem xét chính mình, và họ có thể chú tâm vào việc thay đổi người khác. Có những người đã bị lôi kéo vào cạm bẫy đó cho tới tầng 96, và sau đó, họ lại đi trở xuống chân đồi.

Con cần suy ngẫm những ý kiến này. Thày biết là thày đã cho con nhiều chất liệu trong bài giảng này, nhưng thày hy vọng là con nhận ra rằng các khai ngộ sẽ không dễ dàng hơn khi con đi lên cao hơn trên con đường tâm linh. Con sẽ cần suy ngẫm nhiều điều hơn nữa, hay như theo lối nói bình dân, con cần lấy tâm bao chung quanh nhiều vấn đề nữa. Nhưng thực ra thì con không lấy tâm bao quanh vấn đề, mà thực sự con phải tháo gỡ tâm ra, vì chính các phàm linh nội tại đã khiến tâm con bị bao chặt chung quanh một niềm tin khiến con không thể đứng lui lại và nhận ra nó là ảo tưởng. Con nghĩ rằng nó là một chân lý tuyệt đối hay là một điều kiện không thể thay đổi được.

Con yêu dấu, không có điều kiện nào trên trái đất mà tối hậu không thay đổi được. Lẽ dĩ nhiên, có một số điều kiện mà con không thay đổi được ngay lúc này. Nhưng không có điều kiện nào trên trái đất ngăn cản được con thay đổi chính mình, và đó là chân lý và hiểu biết mà con cần phải thấu hiểu với tâm ý thức ở tầng này.

Sau đó, con cần quyết định là con sẵn sàng thay đổi chính mình, con sẵn sàng nhìn vào bất cứ điều kiện nào khiến con bực bội việc con đang hiện thân trên trái đất. Con sẽ đi tìm ảo tưởng và con sẽ tách ra khỏi ảo tưởng và cho phép con cảm thấy: “Vâng, tôi đang ở đây ngay bây giờ vì tôi muốn ở đây. Tôi muốn nâng tâm thức lên cao hơn và tôi vươn lên cao hơn bằng cách thăng vượt điều kiện đặc thù mà tôi đang đối mặt ngay bây giờ.”

Một khi con thấy điều kiện từ bên ngoài, một khi con tách mình ra khỏi nó và nhận ra nó không phải là điều kiện của con (nó chỉ là điều kiện của một phàm linh nội tại), thì con yêu dấu, con được tự do. Con cảm thấy bình an là chính mình và con bình an hiện thân ở đây. Thày thực sự mong muốn cho con an bình đó, vì thày là Thượng sự của Tia thứ Sáu của An bình.

Làm sao sống mà không tạo nghiệp

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 10/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada. Thày là Thượng sư của Tia thứ Sáu. Con nay đang ở tầng khai ngộ đầu ở khóa nhập thất của thày bên trên nước Ả Rập Xê-út. Khi các học viên đến khóa nhập thất của thày, việc đầu tiên mà thày làm là tập họp họ vào một căn phòng và yêu cầu họ nói lên những gì họ chờ đợi từ khóa nhập thất. Con chờ đợi gì khi con tới Tia thứ Sáu? Con chờ đợi được khai ngộ điều gì?

Một số học viên, khi nói về các chờ mong của mình, nói đến phụng sự. Lẽ đương nhiên là tất cả học viên biết là Tia thứ Sáu theo truyền thống là tia của an bình và phụng sự. Nhiều học viên khi đến đây cảm thấy là họ đã đi một thời gian dài trên con đương tu dưới năm vị Thượng sư trước và họ đã đạt được nhiều tiến bộ, nên bây giờ đã tới lúc họ chú tâm vào nghĩa vụ mà họ đến đây để đóng góp, món quà mà họ muốn dâng hiến trái đất này. Họ cần làm điều gì trong Sứ vụ Thiêng liêng của họ để giúp nâng cao tâm thức nhân loại?

Con yêu dấu, chờ mong này hoàn toàn hiểu được. Như mọi khi, các thày không trách cứ, các thày không lên án. Nhưng thày phải nói với con là nhiều học viên tới đây với chờ mong không thiết thực về các khai ngộ của Tia thứ Sáu. Không phải là Tia thứ Sáu không quan tâm đến việc phụng sự. Lẽ tự nhiên là phụng sự là một phần các khai ngộ của Tia thứ Sáu, tuy nhiên, con làm sao phụng sự một cách chân chính? Phụng sự chân chính gì? Phụng sự chân chính nâng hành tinh vượt lên trên trạng thái tâm thức nhị nguyên. Làm sao con có thể góp phần vào việc nâng hành tinh lên trên trạng thái tâm thức nhị nguyên, nếu con không bình an bên trong con?

Do đó có nhiều học viên cảm thấy rằng, dựa trên những gì họ đã học với năm vị Thượng sư trước, họ đã sẵn sàng để làm gì đó. Họ sẵn sàng để năng động hơn, hướng ngoại hơn. Họ sẵn sàng để đóng góp phần của mình, cũng có thể là làm điều gì quan trọng. Do đó, họ khá thất vọng khi nghe thấy trọng tâm của khóa nhập thất của thày là đạt được an bình nội tâm.

Thày thấy rất rõ trong hào quang của họ là họ có một sự mâu thuẫn, có cảm giác bị kéo bởi hai xung lực khác biệt. Một đằng họ tự nhiên muốn nghe điều thày giảng vì họ biết thày là người sẽ khai ngộ họ. Nhưng mặt khác, họ vẫn muốn làm cái gì đó. Họ cảm thấy rằng, với những kinh nghiệm, những khai ngộ mà họ đã đạt được trên năm tia, họ quả thực đã sẵn sàng bước vào phụng sự trong lãnh vực nào đó. Lẽ dĩ nhiên là con đã sẵn sàng phụng sự, nhưng câu hỏi là: Con có một cái nhìn thiết thực về phụng sự và hình thức phụng sự cao nhất là gì chăng?

4.1. Lý do không đường thẳng của xung đột con người

Để các học viên bắt đầu chất vấn quan niệm phụng sự của họ, điều thuận lợi là khóa nhập thất của thày tọa lạc trên Ả Rập Xê-út. Lẽ tự nhiên, vì đây là một địa điểm nhập thất trên cõi ê-the nên vị trí địa dư không quan trọng, nhưng đây là một dịp để khiến học viên nhìn vào những gì đang xảy ra tại Trung đông, và đã xảy ra trong vùng này từ mấy ngàn năm nay. Các học viên có thể thấy dễ dàng là trong vùng này có xung đột, và đây là một xung đột đã kéo dài liên tục.

Thày mời học viên nhìn vào vấn đề này, và thày khiến họ làm việc trong nhóm nhỏ để tìm ra nguyên do của sự xung đột. Họ bắt đầu với tình hình hiện tại, xem xét những xung đột đang có, và tìm cách xem xét bối cảnh lịch sử, nguyên do lịch sử của tình hình hiện tại. Khi họ đi ngược dòng lịch sử, họ khám phá nhiều xung đột khác, nhiều xung đột mới. Họ bắt đầu thấy là xung đột dẫn tới xung đột lại dẫn tới xung đột. Khi dọ lần dây chuỗi “xung đột tạo ra xung đột” trở về thời lịch sử sơ khai, họ bắt đầu nhận ra là nếu ta muốn hiểu tại sao có xung đột ở Trung đông, ta không thể chỉ xem xét những nguyên do bề ngoài của sự xung đột. Con không thể xem xét tình hình Trung đông – và đúng hơn là ở mọi nơi trên trái đất – và chỉ nhìn vào các điều kiện bề ngoài. Con không thể nhìn việc nhóm người này đã tấn công nhóm người kia nhiều năm trước, và đó là lý do nhóm thứ hai tìm cách trả thù hay bảo vệ chính họ. Con không thể nhìn những diễn biến bề ngoài và qua đó tìm ra nguyên nhân xung đột.

Các học viên mau chóng nhận ra là ta có thể đi trở ngược dòng lịch sử và thấy một hoàn cảnh bên ngoài đã tạo ra một xung đột đã khiến bạo lực bùng nổ. Bạo lực này, bất kỳ nó biểu hiện ra sao, tạo ra một xung đột mới, một mức độ hận thù mới, tạo ra khung cảnh cho một xung đột mới. Con có thể đi ngược trở về cả mấy ngàn năm như vậy. Ngay cả nếu con có tìm được nguyên nhân nguyên thủy, hành động nguyên thủy đã tạo ra sự xung đột đầu tiên, thì thực sự không thể nói là hành động nguyên thủy này (đã xảy ra nhiều ngàn năm trước đây) là nguyên nhân của xung đột hiện nay. Mặt khác, cũng không thể nói là lần bạo động hay xung đột trước là nguyên do của tình hình hiện nay. Điều mà học viên bắt đầu nhận ra là quan niệm truyền thống, đường thẳng, về nguyên nhân và hậu quả đơn giản là không thể áp dụng vào tình hình Trung đông, và cũng không thể áp dụng vào xung đột con người nói chung.

Chắc hẳn là các học viên biết về sa nhân và đã học và nghiên cứu giáo lý của các thày về sa nhân. Con biết là sa nhân đã sa ngã trong các bầu cõi trước, và họ đem ý đồ của họ vào bầu cõi này. Con biết là chính sa nhân đã đem chiến tranh vào hành tinh này và đã tạo ra đa số các xung đột trên trái đất. Điều mà học viên bắt đầu nhận ra, khi họ tìm về nguồn gốc của xung đột tại Trung đông, là ta không thể nói là sa nhân là nguyên nhân duy nhất của sự xung đột. Họ đúng là nguyên nhân bề ngoài, nhưng họ không phải là nguyên nhân bên trong. Điều mà học viên mau chóng nhận ra là nếu ta muốn hiểu nguyên nhân xung đột ở Trung đông (và ngay cả trên toàn thế giới) thì ta không thể chỉ xem xét các biến cố bề ngoài và cái gọi là nguyên nhân bề ngoài. Con phải nhìn vào bên trong. Con cần nhìn vào tâm lý những người trong cuộc và tại sao họ phản ứng như họ đã làm.

Lẽ dĩ nhiên, với đa số học viên điều này không mới lạ. Điều mới lạ là họ bắt đầu thấy viễn cảnh lịch sử rộng lớn mà họ bỗng nhiên thấy được ở khóa nhập thất của thày vì họ được đọc kho dữ liệu Akasha và có thể thấy những diễn tiến không được lịch sử ghi chép. Thày cho học viên thời gian để làm việc trong nhóm nhỏ và nhận ra các điều này, sau đó tất cả học viên mang ra thảo luận chung. Sau đó, thày đợi. Thày để cho cuộc thảo luận tiếp diễn. Nếu các học viên chưa thấy ra những bài học mà thày tìm cách giúp họ nhận ra, thì họ trở lại nghiên cứu tài liệu lịch sử. Sau một thời gian, ánh sáng bắt đầu lóe lên trong tâm học viên – bình thường là bắt đầu với một người, sau một người nữa, và càng lúc càng nhiều, cho tới khi toàn thể học viên thấy ra – là nguyên nhân thực sự của xung đột là một trạng thái tâm. Trạng thái tâm này không thể đem lại hòa bình. Điều rất quan trọng là con cần hiểu thấu điều này bằng tâm ý thức của con – và đó là lý do tại sao thày nêu lên ở đây để con hội nhập vào tâm ý thức những hiểu biết mà con gặt hái được ở khóa nhập thất của thày.

4.2. Vì sao ta không thể ngưng chiến tranh bằng lý trí

Con yêu dấu, chắc con cũng thấy là có một tâm thức trong thế giới biết rằng chiến tranh là không đúng, chiến tranh đúng lý không được có mặt, chiến tranh phải được chấm dứt. Con thấy rất, rất nhiều người thiện tâm trên trái đất mong muốn chấm dứt chiến tranh. Trong số đó, có những nhà triết học, có nghệ sĩ, có nhà trí thức, có chính trị gia. Họ có mặt trong nhiều lãnh vực xã hội, trong đó có những tổ chức quốc tế, từ các tôn giáo đến Liên hiệp quốc, tổ chức chính trị, và nhiều loại hội từ thiện. Có hàng triệu người biết là chiến tranh phải chấm dứt. Tuy nhiên, họ nghĩ rằng ta có thể dùng lý trí suy luận với những người đang tham gia vào chiến tranh và xung đột.

Con có thể thấy là, ngay cả trong vài thập niên gần đây, thỉnh thoảng có một quốc gia hay một tổ chức quyết định khởi sự một nỗ lực để, tỷ dụ, đem người Do thái và người Pa-le-xtin (Palestine) ngồi vào bàn hội nghị để họ thương thảo ngừng xung đột. Nhưng, như các thày đã nói trước đây, chuyện này sẽ không xảy ra. Người Do thái sẽ không bao giờ làm hòa với người Pa-le-xtin hay các người Ả-rập khác trong vùng. Lý do là vì người Do thái đã định nghĩa bản sắc dân tộc của họ và người Ả-rập đã định nghĩa bản sắc dân tộc của họ theo một cách nhìn chỉ có thể dẫn tới xung đột. Điều cần thiết là người Do thái gia tốc tới một quan niệm bản sắc dân tộc mới, và người Ả-rập cũng gia tốc tới một quan niệm bản sắc dân tộc mới hay quan niệm bản sắc nhóm mới. Lúc đó, có thể là các bản sắc mới này sẽ tìm ra cách sống chung hòa bình. Khi quan niệm bản sắc của các nhóm người còn được quy định dựa trên xung đột, thì hòa bình không thể xảy ra. Rất, rất nhiều người thiện tâm trên trái đất nghĩ rằng nếu họ tìm ra được lập luận đúng, nếu họ tìm ra được sự khích lệ thích hợp, thì sẽ có thương thảo xây dựng và một thỏa hiệp hòa bình có thể xảy ra.

Đệ tử chân sư thăng thiên dễ dàng thấy điều này vì các con đã biết về sa nhân, tự ngã, phin lọc nhận thức và nhiều đề tài khác. Điều thày muốn làm là giúp các học viên tới khóa nhập thất của thày có một hiểu biết thâm sâu hơn về vấn đề. Các con hãy để thày giảng sơ về luật nhân quả để minh họa.

4.3. Luật nhân quả thực sự vận hành như thế nào

Lẽ đương nhiên con quen thuộc với khái niệm nghiệp quả, nhưng con có thực sự quen thuộc với cách nó vận hành chăng? Bên phương Đông, chữ nghiệp nguyên thủy có nghĩa là hành động. Con có một hành động, và nó có một hậu quả. Hậu quả đó là nghiệp. Nó tạo bối cảnh cho hoàn cảnh sau đó. Khi con có hành động trong hoàn cảnh mới đó, con tạo ra nghiệp mới, và nghiệp này tạo bối cảnh cho hoàn cảnh kế tiếp, và cứ tiếp nối như vậy trong bánh xe luân hồi, Biển Luân hồi Sinh tử, cỗ máy chạy kéo con người đi trong kiếp sống con người.

Điều học viên có thể mau chóng nhận ra là ở Trung đông, con người đã tạo nghiệp. Các nhóm người đã tạo nghiệp với nhau từ mấy ngàn năm. Thày có thể cho thấy trên một màn ảnh một thí dụ tình trạng xung đột giữa hai nhóm người. Thày cho thấy ở tầng năng lượng là mối xung đột, nhất là khi nó trở thành bạo lực vật lý, đã tạo nên những tỳ vết năng lượng, những khuôn đúc năng lượng, trong các thể và tầng xúc cảm, tư tưởng và bản sắc. Những khuôn đúc năng lượng này một phần ở trong hào quang (trường năng lượng) của những người liên hệ. Nó cũng ở trong hào quang của nhóm, trong tâm thức của nhóm. Nó cũng có phần dính liền với ngay vị trí địa dư.

Điều mà học viên thấy là con người phản ứng lại tình hình nguyên thủy và tạo ra một khuôn đúc năng lượng. Họ có thể thấy là khuôn đúc này kéo dài, và khi họ tái sanh lần tới, họ vẫn giữ khuôn đúc này trong các thể phàm của họ. Điều này khiến họ hòa điệu với – hay bị ma nhập bởi – khuôn đúc tập thể. Cách họ phản ứng lại tình hình nguyên thủy tạo ra một khuôn đúc đã giới hạn khả năng chọn lựa phản ứng lại tình hình sau, dù tình hình này xảy ra trong cùng kiếp sống hay trong một kiếp tới.

Vì các người liên hệ đã phản ứng bằng bạo lực trước đó, nhận thức của họ trở nên méo mó, bị pha màu, bị giới hạn bởi phản ứng đó. Khi một tình hình xung đột mới xảy ra, họ không thể thấy được một cách đáp ứng hòa bình. Họ chỉ có thể thấy những cách đáp ứng sẽ gia tốc những gì họ đã làm trước kia. Họ có khuynh hướng phản ứng bằng bạo lực, họ dễ dàng phản ứng bằng bạo lực.

Các học viên có thể thấy những người đó đã tạo ta các vết nghiệp quả mà họ mang theo họ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Học viên có thể thấy họ xây dựng các khuôn đúc tập thể càng ngày càng mạnh, và do đó có thể dễ dàng trấn áp tâm của những cá nhân sinh ra trong tập thể đó. Học viên cũng có thể thấy là một nhóm người tham gia vào một cuộc xung đột với một nhóm người khác, và khi họ chết, một số đầu thai vào nhóm kia trong kiếp sống tới. Trong kiếp này con là người Do thái, trong kiếp tới con là người Ả-rập, hay ngược lại. Học viên có thể thấy là tuy các người liên hệ đầu thai vào nhóm khác, nhưng họ vẫn mang theo khuôn đúc phản ứng bằng bạo lực và thù hận. Do đó, ở trong nhóm nào không phải là điều quan trọng. Họ vẫn phản ứng theo cùng một kiểu.

Học viên cũng thấy rõ là có một khác biệt căn bản giữa việc thù hận một nhóm người khác và chuyển sang hành vi bạo lực. Học viên thấy rõ là khi con có hành động vật lý, con làm một hành động ở tầng vật lý, và rõ ràng là con đang làm một cái gì đó. Nó cũng có hậu quả trầm trọng hơn. Tuy nhiên, học viên cũng mau chóng thấy là khi con phóng chiếu tới một nhóm người khác một cảm giác thù hận mạnh mẽ, thì con làm một cái gì đó ở tầng xúc cảm. Nếu con có tư tưởng mạnh mẽ là tại sao một nhóm người khác xấu và họ đã làm gì cho nhóm của con trong quá khứ, thì con làm một cái gì đó ở tầng tư tưởng. Nếu con có một ý niệm bản sắc rất rõ ràng là con hơn nhóm người kia dựa trên bất cứ tiêu chuẩn nào mà con đặt ra, thì con làm một cái gì đó ở tầng bản sắc. Học viên có thể thấy là con người phóng chiếu năng lượng ra với cả bốn thể phàm của họ, và tất cả các điều đó là điều họ làm, đều là hành động. Tất cả đều tạo ra những khuôn đúc nghiệp quả sẽ giới hạn nhận thức của con người, giới hạn quyền tự do chọn lựa hành động của họ.

4.4. Làm sao tránh tạo nghiệp

Học viên mau chóng nhận ra là nếu muốn có hòa bình ở Trung đông, người dân phải ngưng làm. Họ cần ngưng những hành động tạo ra nghiệp. Bây giờ, điều này đối với một số học viên là một điều bí ẩn. Đa số học viên ở mức độ này có thể mau chóng tìm ra giải đáp, vì lẽ tự nhiên, điều này không có nghĩa là con không làm gì cả. Các thày không nói là để tránh tạo nghiệp, con không thể có một cuộc sống năng hoạt. Các thày không nói là con phải về ở ẩn trong hang động của núi Hy Mã Lạp Sơn và thiền về Thượng đế 24 tiếng mỗi ngày.

Điều con cần nhận ra, và học viên có thể dễ dàng nhận ra điều này, là con không thể hành động thông qua trạng thái tâm thức nhị nguyên, thông qua tâm dựa trên sợ hãi. Do đó, học viên thấy rõ ràng là Giê-su tìm cách chỉ con đường phá vỡ những khuôn nếp nghiệp quả, những khuôn đúc nghiệp quả, bằng cách nâng mình cao hơn phản ứng dựa trên sợ hãi. “Hãy thương kẻ thù của con. Hãy chìa má bên kia. Hãy làm cho người khác những gì con muốn họ làm cho mình.” Đây là những lời hướng dẫn chỉ cách ngưng hành động tạo nghiệp ở tầng vật lý. Những lời hướng dẫn này giúp con người ngưng hành động ở các tầng tình cảm, tư tưởng và bản sắc.

Giê-su dạy con người – một cách gián tiếp – là họ, tỷ dụ, không phải là người Do thái hay người Ả-rập. Họ là con trai hay con gái của Thượng đế. Giê-su dạy họ cách vượt qua giận dữ và thù hận. Giê-su dạy họ cách vượt qua những hành động tạo nghiệp. Ngay cả những giáo lý được trao truyền qua Mohammed (ít ra là giáo lý trong sáng, nguyên thủy) cũng có những thành phần này. Nếu những người nhận những giáo lý này đã làm theo, thì họ cũng đã giúp ngưng các vòng xoắn nghiệp quả. Con là đệ tử chân sư thăng thiên có thể mau chóng nhận ra là con người cần ngưng hành động nhị nguyên, dựa trên sợ hãi nếu muốn có hòa bình.

Khi học viên đã trải qua giai đoạn (bất kể cần bao nhiêu thời gian) thấy nguyên nhân tình hình Trung đông, thì thày, dĩ nhiên, làm việc mà các chân sư thăng thiên đều làm. Thày thảo luận với học viên những hiểu biết sâu sắc mà họ đã nhận ra qua tình hình Trung đông, chúng cũng áp dụng ra sao cho mọi người khác, và thày nói: “Thày không cho các con nghiên cứu vấn đề này để các con đi tái lập hòa bình ở Trung đông. Thày muốn con nghiên cứu vấn đề này vì thày muốn con nhận ra là cơ chế mà con thấy áp dụng cho Trung đông cũng áp dụng cho chính con.”

4.5. Vượt qua bạo lực nơi các thể cao

Lẽ dĩ nhiên là đa số học viên đã ngừng không có hành động hung hãn nữa, nhưng họ vẫn chưa hoàn toàn ngưng không làm thông qua tâm thức nhị nguyên, thông qua các thể tình cảm, tư tưởng và bản sắc. Điều thày muốn học viên phải đối mặt là trước khi họ có thể tiến xa hơn tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày, họ nhất định cần phải ngừng những hành động nhị nguyên, dựa trên sợ hãi ở các tầng bản sắc, tư tưởng và cảm xúc. Con không thể đi quá tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày nếu con còn làm những hành động này. Một số học viên bị chấn động khi nghe thày nói vậy vì họ nghĩ là họ đã vượt qua những hành động này rồi. Ho nghĩ là họ đã vượt qua phần lớn các sự giận dữ, hung hãn và sợ hãi của họ, và họ không có hành động dựa trên sợ hãi, không phóng chiếu ra ngoài năng lượng dựa trên sợ hãi xuyên qua ba thể cao của họ.

Như thày có giảng trong một bài truyền đọc khác, thày có thể đưa học viên vào một căn phòng trong đó họ được niêm phong khỏi ảnh hưởng của thế giới và có thể tạo trong tâm hình ảnh của những cảnh huống bình an nhất. Sau đó, họ dần dần cảm thấy những thành phần phản bình an dâng lên trong tâm họ. Đây là một trải nghiệm rất hữu ích cho học viên vì họ thấy vẫn còn những điều mà họ chưa giải quyết. Dĩ nhiên, các thày có nguyên một bộ giáo lý, giáo lý thực của Giê-su, về tha thứ, chìa má bên kia, tha thứ vô điều kiện, và vì sao con cần tha thứ vô điều kiện để thực sự tha thứ. Điều quan trọng không phải là trừng phạt người khác, khiến họ thay đổi hay sống theo một số điều kiện. Con cần tha thứ vì đây là cách duy nhất để con có thể giải thoát mình khỏi hoàn cảnh. Con không quan tâm đến người khác, điều con quan tâm là con được giải thoát khỏi quá khứ và khuôn nếp phóng chiếu ra ngoài.

4.6. Cát lún của phản bình an

Khi học viên đã có đủ thì giờ để thấu hiểu các điều trên thì thày dẫn họ đi bước kế tiếp. Bước khai ngộ này thoạt trông có vẻ khắc nghiệt, nhìn từ góc độ tâm thức bình thường, lúc tỉnh dạy. Con biết là trên trái đất có một chất gọi là cát lún, và con cũng biết là có người bước vào một vũng cát lún và bị thiệt mạng vì họ cứ bị lún sâu mãi. Thày có ở khóa nhập thất của thày một chất tương tự. Khác biệt, dĩ nhiên, là con ở trong thể bản sắc. Con không cần thở dưỡng khí để sinh tồn do đó không thể bị chết khi làm thí nghiệm này.

Điều thày làm là thày để học viên vào một vũng cát lún ê-the và đơn giản để họ hoặc bơi hoặc chìm. Lẽ dĩ nhiên kết quả là đa số học viên bị chìm vào trong chất đó. Họ vẫn còn sống nhưng họ cảm thấy là họ đang lún xuống càng ngày càng sâu. Lý do vì sao họ bị lún là vì họ vùng vẫy chống lại cát lún. Họ vùng vẫy để không bị chìm.

Khi học viên còn vùng vẫy thì thày phải để họ vùng vẫy. Thày không thể giúp họ. Thày không thể giúp họ. Thày không thể giúp họ gì hết. Họ được phép tiếp tục vùng vẫy. Có nghĩa là có học viên chìm rất sâu vào cát lún. Họ bị cát lún hoàn toàn bao quanh. Họ cũng cảm thấy là họ càng chìm sâu thì động tác của họ càng bị giới hạn, họ càng không cục cựa được. Họ tiếp tục vùng vẫy cho tới khi họ tới điểm chịu thua. Họ bỏ cuộc. Họ nhận ra là vùng vẫy không đưa họ đến đâu hết.

Một số học viên tự họ nhận ra điều này, nhưng số khác thì đột nhiên nhớ là họ đang ở khóa nhập thất của Thượng sư Tia thứ Sáu. Họ đột nhiên có ý nghĩ: “Hay là thày Nada có thể giúp tôi?” Do đó, họ la lên: “Thày Nada, hãy giúp con!” Thày đương nhiên gửi họ một xung lực: “Ngưng vùng vẫy. Ngưng làm. Nằm thật yên.” Lúc đó, hầu hết học viên chợt tỉnh ngộ. Đây là một tỉnh ngộ khai phá, chấn động, quyết định.

Học viên nhận ra rằng chính vì họ vùng vẫy nên bị lún sâu. Khi họ nhận ra điều này, họ tức khắc nằm thật yên. Họ nhận ra rằng khi họ nằm thật yên thì họ không còn chìm nữa. Lúc đó, đa số học viên chưa trồi lên, nhưng họ đã ngừng chìm xuống. Họ nhận ra rằng nếu họ không vùng vẫy thì họ không lún xuống. Họ cũng nhận ra rằng nếu khi bắt đầu họ không vùng vẫy thì họ sẽ vẫn còn nổi trên mặt cát lún. Bây giờ họ nhận ra là họ đã chìm sâu vào cát lún, và làm sao họ có thể trở lên mặt cát?

Sau khi suy ngẫm điều này, một số tự mình tìm ra giải đáp, một số xin thày giúp. Một lần nữa thày nói (tuy họ ở trong thể bản sắc của họ): “Con đã ngừng vùng vẫy ở cấp tương đương với tầng vật lý. Con đã ngừng làm việc vật lý, nhưng con cũng cần ngừng làm ở tầng xúc cảm, tư tưởng và bản sắc. Con cần phải giữ hành động, xúc cảm, tư tưởng và ý niệm bản sắc của con yên lặng. Con cần phải vào trạng thái trung hòa, tức là con chỉ quan sát. Con là nhận biết thuần khiết, chỉ quan sát mà không làm gì cả.” Khi họ đi vào trạng thái tâm này thì họ trải nghiêm là họ từ từ, nhưng chắc chắn, trồi lên mặt cát. Khi họ trồi ra khỏi mặt cát thì thày có mặt ở đó để đón họ. Lúc đó, thày gợi thêm cho họ một ý nữa. Thày nói: “Bãi cát lún này tượng trưng cho bốn tầng của vũ trụ vật chất là nơi con sống với bốn thể phàm của con. Thày muốn con đi qua bãi cát lún đó với tâm trung hòa. Thày muốn con đi qua mà không làm việc đi qua.”

Học viên thường cần một chút thời gian để thể nhập điều này. Nhưng không lâu sau, họ thấu hiểu. Họ nhận ra là trong thể bản sắc của họ, họ có thể di chuyển, lên xuống, tới lui, trong cát lún mà không làm, không vùng vẫy và do đó không bị lún sâu. Họ nhận ra là cát lún không phải là kẻ thù của họ, nó không phải là sự hạn chế, nó không có ý định tấn công họ. Do đó, họ có thể di chuyển xuyên qua cát lún một cách khác, là cách không tạo nghiệp khi di chuyển. Lẽ tự nhiên là khi học viên đã trải nghiệm bãi cát lún, thì họ đi ra khỏi chỗ đó. Thày họp với cả nhóm, và lúc đó học viên nhận ra là điều họ đã làm được trong bãi cát lún, họ cũng có thể bắt đầu làm được ở bốn tầng của vũ trụ vật chất, trong đó có tầng vật lý.

4.7. Làm mà không tạo nghiệp

Khai ngộ ở tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày là con bắt đầu suy ngẫm và nhận ra là con có thể sống trên hành tinh trái đất – dù trái đất dày đặc và đầy xung đột như hiện nay – một đời sống bình thường, năng động nhưng con không tạo nghiệp quả khi sống. Con không tạo ra những dấu vết năng lượng sẽ giới hạn những hành động và chọn lựa tương lai của con. Có nhiều học viên, tuy đã đi trên con đường tâm linh từ lâu và nghiên cứu nhiều giáo lý tâm linh, không bao giờ suy ngẫm điều này. Tỷ dụ, nhiều đệ tử chân sư thăng thiên quá chú tâm vào việc quân bằng nghiệp quả bằng cách cầu thỉnh ánh sáng tím nên nghĩ rằng yêu cầu chính để thăng thiên là thỉnh cầu đủ ánh sáng tím để quân bằng tất cả nghiệp quả. Họ đã không chú tâm đủ đến việc không tạo nghiệp ngoài việc nghĩ rằng, nếu họ không có hành động bạo hành vật lý thì sẽ không tạo nhiều nghiệp hơn là có thể quân bằng.

Ở tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày, thày không quá quan tâm việc con quân bằng tất cả nghiệp quả và rời trái đất càng sớm càng tốt. Mục đích cao mà thày muốn đặt cho con là con ở lại trong thế gian nhưng con trong thế gian mà không thuộc về thế gian. Con đi lại và hành động trong thế gian mà không tạo nghiệp cho mình. Do đó, có thể nói là khi con làm được điều này, ở lại thế gian hay thăng thiên không còn khác biệt gì nhiều đối với con.

Con hãy suy ngẫm việc này: con yêu dấu, thày biết rất rõ là tất cả đệ tử tâm linh không có cảm tình với những giới hạn và dày đặc của cõi vật lý và ngay cả bốn cõi của trái đất. Đối với tất cả các con, sống nơi đây không thoải mái. Các con có những phản ứng khác nhau, từ cảm thấy bị quấy nhiễu quá nặng tới cảm thấy khó chịu và bị giới hạn khi ở đây. Con yêu dấu, viễn kiến mà thày muốn cho con ở đây là con có thể vượt lên trên những cảm xúc này. Con có thể tới điểm con sống trong thế gian với tâm bình an vì con có thể đi lại trong thế gian này mà không tạo nghiệp. Điều này không có nghĩa là con không thể hành động. Có một số hành động con sẽ tự nhiên không làm, nhưng có một số hành động con có thể làm vì chúng không tạo nghiệp cho con vì con hành động từ một trạng thái tâm thức cao hơn.

Đối với đa số học viên tới tầng này, đây là một chuyển vọt tâm thức lớn. Thực sự, đây là một chuyển vọt lớn đến độ họ bình thường cần thời gian để suy ngẫm và hội nhập ý tưởng này. Thày không muốn con, ở tầng thứ nhất này của khóa nhập thất của thày, có được khả năng đi lại trong thế gian mà không tạo nghiệp. Đây là một trong những mục đích của toàn khóa nhập thất của thày. Ngay lúc này, thày muốn con suy ngẫm chuyện đi lại trong thế gian mà không tạo nghiệp là việc có thể làm được.

Vì thày biết đây là một ý tưởng rất lạ thường cần thời gian để hội nhập, thày muốn con bỏ ra nhiều thời giờ hơn cho bài giảng đầu này. Các thày có nói là con có thể dành chín ngày cho mỗi bài giảng. Con nghiên cứu bài giảng và con đọc bài thỉnh tương ứng mỗi ngày một lần trong vòng chín ngày. Cho bài giảng đầu này, thày muốn con dành cho nó 33 ngày vì nó là một chuyển vọt lạ thường cho đa số các con. Do đó con nên dành thì giờ để hội nhập điểm này. Thày biết là một số học viên sẽ cảm thấy thời gian này rất dài. Có học viên nghĩ là đã hiểu bài học rồi, vậy tại sao cần lặp đi lặp lại? Thày bảo đảm với con là thày có lý do, và lý do là khi con đọc bài thỉnh trong vòng 33 ngày, con sẽ hội nhập bài giảng và trong lọc ba thể cao của con khỏi mọi dấu vết của ý tưởng cần làm chuyện gì.

4.8. Cạm bẫy của làm

Con yêu dấu, con cần nhận ra là sa nhân không bỏ cuộc chỉ vì con tìm thấy con đường tâm linh và giáo lý chân sư thăng thiên. Sa nhân không bỏ cuộc khi con khám phá ra khóa học này và quyết định tận tụy theo học hết khóa. Sa nhân sẽ tìm cách kéo con trật đường rày ở mỗi tầng cấp của con đường. Một trong những cách tinh tế họ dùng để làm con trật đường rày là họ nêu lên sự kiện con có một Sứ vụ Thiêng liêng và con có mặt ở đây để đem lại những thay đổi tích cực cho trái đất. Sau đó, họ tìm cách đổi màu câu chuyện, pha màu tâm của con với tâm thức rất cũ xưa cho rằng con phải làm một điều gì đó trên trái đất. Nói cách khác, suốt dòng lịch sử đã có nhiều học viên tâm linh đã hiểu thực tại tâm linh tới một mức nào đó. Họ đã thấy có nhiều chuyện không đúng trên trái đất cần phải thay đổi. Họ bị các sa nhân cám dỗ khiến họ tin rằng vai trò của họ là làm cái gì đó để thay đổi những biểu hiện mà họ cho là không đúng. Do đó, nhiều học viên đã lao mình vào một cuộc thánh chiến – ta có thể gọi là một chiến dịch – để triệt tiêu một vấn nạn nào đó.

Lẽ dĩ nhiên là có trường hợp một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con là hành động và tham gia vào một khía cạnh nào đó của cuộc sống. Nhưng không có trong Sứ vụ Thiêng liêng là con hành động trong trạng thái tâm muốn làm, rồi hành động theo nhãn quan nhị nguyên dựa trên sợ hãi. Con không thể hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con với tầng tâm thức đó. Con cần nhận ra là sa nhân đã rất quỷ quyệt khi thiết lập ý tưởng là con cần làm.

Nếu con quan sát thế giới hiện nay, con thấy là có nhiều người đang tham gia, thí dụ, vào nỗ lực đem lại hòa bình, đã ở tầng tâm thức khiến họ có thể tiến xa hơn trên con đường đưa tới quả vị Ki-tô. Họ bị ngăn chặn không tiến thêm được trên con đường tới quả vị Ki-tô (ít nhất là trong tâm ý thức của họ) vì họ quá chú tâm làm điều gì đó trong thế giới bên ngoài. Họ đang chú tâm làm điều gì đó với tầng mức viễn kiến, với mức nhận thức mà họ có hiện nay. Họ không mở tâm đón nhận khả năng nhận một viễn kiến cao hơn qua đó họ vẫn sẽ làm điều gì đó, nhưng sẽ làm dựa trên một khuôn khổ và nền tảng hoàn toàn khác. Điều họ làm sẽ khác đến độ họ không thể thấy nó lúc này.

Các thày có nói về sự kiện nhiều học viên tâm linh có ý niệm đúng đắn điều gì cần làm, nhưng lại không có viễn kiến rõ ràng làm như thế nào. Dĩ nhiên, lý do là vì nhiều học viên có cảm nhận là họ ở trên đời để làm chuyện gì đó trong Sứ vụ Thiêng liêng của họ, nhưng họ nghĩ là họ có thể hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng với tầng tâm thức và nhận thức hiện nay của họ.

4.9. Tìm một nhận thức cao hơn trước khi hành động

Điều thày muốn nói với con là con cần bước lui ra khỏi cách nhìn hiện nay của con về cuộc sống, về hành tinh, và chính mình. Thày biết là con đã làm điều này với thày Hilarion để thanh lọc viễn kiến của mình. Thày muốn dẫn con đi lên một tầng cao hơn bằng cách khiến con bước lui lại và nhận ra là con có thể làm điều gì đó trên trái đất, con có thể đi lại trong bốn tầng của vật chất mà không tạo nghiệp. Con yêu dấu, con sẽ không hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng nếu con tạo thêm nghiệp cho chính mình.

Thày biết là với một số trong chúng con, đây là một lời tuyên bố rất lạ thường vì con bị một kế gian khác của sa nhân cám dỗ, đó là cứu cánh biện minh cho phương tiện. Nói cách khác, có một đại nghĩa quan trọng đến độ ngay cả nếu con phải tạo đôi chút nghiệp, thì điều đó cần thiết (và đáng làm) để đạt được mục tiêu cuồng đại đó. Con yêu dấu, con thấy là toàn thể tâm thức cuồng đại do sa nhân tạo dựng ra và không liên quan gì tới mục tiêu của các chân sư thăng thiên.

Các chân sư thăng thiên đã không tạo ra đấu tranh cuồng đại. Mặc dù con có thể trở về các tổ chức chân sư thăng thiên trước và thấy rằng họ không thách thức quan niệm tranh đấu cuồng đại, nhưng thày nói với con đây là lúc – trên cả hai phương diện phát triển cá nhân và của hành tinh – vượt lên trên quan niệm này. Đã tới lúc vượt lên trên tranh đấu nhị nguyên và bỏ nó lại đằng sau. Đã tới lúc con nhận ra con có thể hiện thân trong thân vật lý, con có thể hành động và có một cuộc sống năng động, mà không cần làm thông qua tư duy cuồng đại, không cần làm với một xung lực nhị nguyên tạo nghiệp cho con.

Các thày có nói là các thày không chú tâm đạt được một kết quả vỏ ngoài đặc trưng nào đó trên hành tinh. Các thày chỉ chú tâm vào việc nâng cao tâm thức tập thể, nhưng đối với cá nhân con, chú tâm thật của các thày là nâng cao tâm thức của con. Ở tầng này của con đường tu của con, thày không quan tâm con có đạt được một mục tiêu vỏ ngoài trong thế giới này. Quan tâm ngay lúc này của thày là con đạt được khai ngộ ở tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày để con có thể tiến lên tầng thứ hai. Thày đã cho con mọi chìa khóa để đạt được khai ngộ này, và thày bảo đảm với con là, ở tầng ê-the, con sẽ không tiến lên khai ngộ thứ nhì nếu con không đạt được khai ngộ thứ nhất này.

Thày biết là thày đã cho con một quyển sách ở tầng vật lý. Do đó, con có thể quyết định với tâm vỏ ngoài: “Ồ, tôi đã đạt được khai ngộ thứ nhất, tôi sẽ đi tiếp tới chương thứ hai.” Con yêu dấu, điều này không có nghĩa là con tiến lên ở cõi ê-the. Con có thể đọc hết quyển sách của thày, nhưng nếu con chưa thấu hiểu và đạt được khai ngộ ở tầng thứ nhất, con sẽ không tiến lên thêm trên tầng ê-the.

Thày đã nói rõ chưa?

23 | Thoát khỏi ngã gốc của con

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 3 tháng 12 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày muốn con nghĩ tới nhiều tín đồ Cơ đốc đang ngồi thờ phượng trong giáo đường của họ vào một buổi sáng Chủ nhật khắp nơi trên thế giới. Nhiều người trong họ thuộc về một giáo hội đặc thù và họ tin rằng giáo hội của họ có sự diễn giải chân chính về cuộc đời của thày và có khi còn là diễn giải chân chính duy nhất.

Nhiều người trong những tín đồ Cơ đốc này cho rằng họ diễn giải Kinh thánh theo nghĩa đen. Họ tuyên bố là họ diễn giải Thánh kinh theo nghĩa đen. Giờ đây, con yêu dấu, thày có thể chứng minh họ sai chỉ qua vài câu. Tất cả các con đều biết câu trích dẫn lời thày nói trong Thánh kinh: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nhưng ai vì ta mà mất mạng sống mình thì sẽ được sự sống thật, sự sống trường cửu.” Con yêu dấu, nếu con tuyên bố diễn giải thánh kinh theo nghĩa đen, thì câu hỏi là: “Vậy thì tại sao con chưa kết liễu mạng sống mình?”

Nếu con vẫn còn sống thì sự thật giản dị là con đã không hiểu theo nghĩa đen tất cả mọi câu trong Thánh kinh. Nếu con không hiểu theo nghĩa đen một câu nói (vì con đã không bỏ mạng sống mình để đi tìm đời sống vĩnh cửu), vậy thì tại sao con không hiểu câu nói đó theo nghĩa đen? Lẽ dĩ nhiên đó là vì con nhận ra ý của câu này không thể hiểu theo nghĩa đen được. Nếu có một câu không nên hiểu theo nghĩa đen, thì phải chăng nhiều câu khác cũng thế? Còn hơn thế nữa, phải chăng là tất cả những câu nói của thày không nên hiểu theo nghĩa đen?

Ngay cả Thánh kinh cũng chứng minh là thày giảng giáo lý thấp hơn cho đại chúng và giáo lý cao hơn cho các tông đồ của thày. Có khó lắm không để thấy là thày đã dạy một giáo lý có thể hiểu ở nhiều trình độ khác nhau vì thày chờ đợi là các con dùng giáo lý để gia tăng sự hiểu biết, để nâng cao sự nhận biết của các con? Khi làm như thế, con sẽ hiểu được ý nghĩa sâu sắc hơn đằng sau những lời thày nói. Cho nên, những ai hiểu Thánh kinh theo nghĩa đen đang không đi trên con đường tu, con Đường Đạo mà thày đã phác họa. Có khó lắm chăng để thấy điều này, con yêu dấu?

23.1. Những cái ngã của con bị kẹt trong một nhận thức đặc thù

Lẽ dĩ nhiên thày biết là tất cả các con có thể thấy được điều này vì nếu không thì các con đã không theo học giáo lý của các chân sư thăng thiên. Thày nêu lên điều này bởi vì ngay cả những người trong các con đã mở tâm đón nhận giáo lý của các thày, các con quả thực cũng nhận ra có những phần trong tâm thức mình đã hiểu một số điều theo nghĩa đen. Thày đã nói tới những cái ngã mà con đã tạo ra khi con phản ứng lại những kinh nghiệm con trải qua trong thế gian này. Con yêu dấu, có thể nói một cái ngã như thế bị kẹt trong một trạng thái tâm thức mà con thấy nơi nhiều tín đồ Cơ đốc giáo cực chính thống.

Cái ngã được tạo ra cho một mục đích đặc thù và nó chỉ có thể nhìn cuộc đời (hay nhìn một khía cạnh đặc thù của cuộc đời) theo cách nhìn được quy định khi nó được tạo ra. Nó giống như cái máy cứ giản dị lặp đi lặp lại cùng một khuôn nếp. Giáo lý mà các thày trao truyền ở đây lẽ dĩ nhiên không dành cho người mới bắt đầu tu, ngay cả những người mới bắt đầu tu theo giáo lý của các chân sư thăng thiên. Nó được trao truyền đặc biệt cho những người đã tiến lên những tầng cao hơn. Giáo lý thày trao truyền trong lần truyền giảng này đặc biệt dành cho những người đã đọc quyển sách mà các thày đã trao truyền (Các Kiếp sống của tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su) và do đó họ đã sẵn sàng đối phó với các khai ngộ này vì họ nhận ra họ là một avatar đã đầu thai trên trái đất. Thày yêu cầu con, nếu con cảm thấy mình chưa tới tầng mức này, thì con để qua bên giáo lý này và tìm hiểu một số giáo lý khác cho tới khi con cảm thấy mình sẵn sàng học nó. Nhiều người trong các con đã sẵn sàng và đó là lý do tại sao các thày không giữ lại giáo lý này.

Các thày đã trao truyền cho các con một số giáo lý về những cái ngã mà con đã tạo ra, những khía cạnh của tự ngã, những phàm linh nội tại. Đầu năm nay, thày có nói tới cách hành xử của con, cách con nhìn các chân sư thăng thiên. Thày đã nói con nhìn thế giới vật chất như thế nào và tất cả những giáo lý này là dụng cụ để giúp con khám phá ra con đã tạo ra những cái ngã nào bên trong con và chúng vẫn còn ở đó và con vẫn còn mang chúng bên trong con. Chúng là gánh nặng đè lên con, kiềm giữ con lại trên nhiều khía cạnh. Ví dụ như chúng có thể khiến cho tư tưởng của con đi vào những khuôn nếp lặp đi lặp lại. Chúng có thể khởi động một phản ứng xúc cảm khi con ở trong một số tình huống nào đó. Xúc cảm này có thể là sợ hãi, có thể là mắc cở hay hổ thẹn. Nó có thể là giận dữ; nó có thể là nhiều xúc cảm khác. Mỗi người mỗi khác, nhưng điểm chính là con nhận ra có một khuôn nếp được lặp đi lặp lại. Con yêu dấu, con lưu ý điều sau: Cái Ta Biết của con, cốt lõi của bản thể con là một sinh thể sáng tạo.

Nó muốn luôn luôn tiến lên và trải nghiệm cái mới. Đó là lý do tại sao con tới đây ngay từ đầu. Sau khi đã sống trên các hành tinh tự nhiên một thời gian dài, con muốn trải nghiệm cái gì mới, cái gì khác. Một lần nữa, điều này không có gì sai trái. Hiếu kỳ có thể giết con mèo nhưng các con không phải là mèo. Hiếu kỳ là điều hoàn toàn tự nhiên đối với một sinh thể đang mở rộng tự nhận biết của nó. Làm sao con có thể mở rộng tự nhận biết nếu con không hiếu kỳ về những gì ở bên ngoài ý niệm bản ngã hiện hành của con?

Con nhận ra ở đây là cốt lõi của bản thể con là hiếu kỳ, thích tiến sang chuyện khác, thích trải nghiệm những cái mới. Điều này có nghĩa là bất cứ khi nào con thấy có một khuôn nếp lặp đi lặp lại trong bốn thể phàm của mình, thì con biết đây không phải là cái ta thật của con. Con cũng biết là nó kiềm giữ con lại và có thể là nó khiến cho cái ta thật của con cảm thấy bực bội, bất toại nguyện, không vui khi phải ở đây.

23.2. Sự tạo thành của cái ngã tách biệt đầu tiên của con

Giờ đây, khi thày nói điều này, lẽ dĩ nhiên chúng ta cần phân biệt. Chúng ta cần tự hỏi: “Nếu cái Ta Biết là nhận biết thuần khiết, thì có thể nào cái Ta Biết thực sự cảm thấy không vui, nóng giận, bực bội chăng?” Câu hỏi này không có câu trải lời giản dị, đường thẳng. Lý do là vì con đã đầu thai trong một thời gian rất dài và do đó con đã tạo ra những cái ngã vi tế đến độ con bây giờ không thể thấy được sự khác biệt giữa cái Ta Biết và những cái ngã này.

Đó là lý do tại sao các thày đã bắt đầu nói với các con về một số ngã có tính cách phiến diện hơn và con có thể thấy rất dễ dàng là những ngã này liên quan tới những tình huống đặc thù hay khía cạnh đặc thù của cuộc sống. Con nhìn ra những ngã phiến diện này dễ hơn, con nhận diện chúng là ngã tách biệt và chúng không phải là cái ta thật của con. Trước đây các thày có trao truyền giáo lý về chấn thương nhập đời mà con gánh chịu khi con xuống đầu thai lần đầu trên trái đất, thì bây giờ các thày đã sẵn sàng trao cho các con sự hiểu biết là khi các con trải qua chấn thương nhập đời này, thì con tạo ra một cái ngã. Nó không phải là cách cơ bản con liên hệ với trái đất nhưng là cách cơ bản con liên hệ với trái đất sau khi bị chấn thương. Nói cách khác, để có thể đối phó với chấn thương, con tạo ra cái ngã tách biệt đầu tiên này. Chúng ta có thể nói ý niệm bản ngã mà con có trước khi bị chấn thương, ý niệm bản ngã mà con tạo ra khi con tạo ra bốn thể phàm của con, nó đã chết đi vì con bị chấn thương nhập đời.  

Con lưu ý là các thày đã giảng điều này trước đây nhưng thày sẽ tóm tắt ở đây. Để có thể đầu thai lần đầu trên một hành tinh dày đặc như trái đất, con tạo ra (với sự nhận biết mà con có trước khi con tới đây) thể bản sắc, thể lý trí, thể tình cảm và cuối cùng là thể vật lý (nghĩa là cái tâm liên quan tới thể vật lý). Ba thể cao được tạo ra dựa trên viễn quan về trái đất mà con có trước khi con thật sự kinh nghiệm cuộc sống trên trái đất. Nó là một cái ngã phần nào có tính cách lý thuyết. Sau đó, con đi xuống với ý định tốt nhất, với cái ngã con đã tạo ra với những mong chờ về những gì con muốn làm, về những gì con có thể gặp, về hậu quả của sự hiện diện của con ở đây. Sau đó, con trải nghiệm chấn thương nhập đời khi con gặp các sa nhân, và cái ngã nguyên thủy chết đi. Một cái ngã mới được tạo ra khi con phản ứng lại sa nhân và các điều kiện trên trái đất. Ta có thể nói là quả thực cái Ta Biết không thể cảm thấy buồn phiền, bực dọc hay bất toại nguyện khi nó nhận ra nó là nhận biết thuần khiết. Trong nhận biết thuần khiết không có cảm xúc tiêu cực, cũng không có bất cứ cảm xúc nào được gọi là cảm xúc tích cực trên trái đất. Trong nhận biết thuần khiết con chỉ giản dị quan sát. Nếu con có thể trụ mình vào nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết, con có thể chỉ quan sát trái đất. Con không lượng định, phê phán. Không có phán xét giá trị, không có cái phải là hay cái không được là: Con chỉ quan sát.

Đây là trạng thái tâm thức mà Phật đã chứng minh khi thày đạt sáng ngộ cuối cùng khi thày ngồi thiền định dưới cội cây Bồ đề, và quỷ sứ của Ma vương lại gần và tìm cách khích động thày phản ứng lại chúng một cách nào đó. Thày trụ trong tâm không dính mắc, thày đứng ra ngoài các khuôn nếp phản ứng bằng cách ở trong nhận biết thuần khiết trong đó thày thấy chuyện gì đang xảy ra trên trái đất nhưng chỉ quan sát mà không phản ứng.

Giờ đây lẽ dĩ nhiên, con yêu dấu, con không ở đây để ngồi dưới một gốc cây và chỉ quan sát. Con ở đây để tham gia vào cuộc sống trên trái đất. Con cần gì để có thể tham gia vào cuộc sống? Con cần một thể bản sắc, một thể lý trí, một thể tình cảm và một thể vật lý. Hệ quả là con có một cái ngã và điều này nghĩa là con có thể bước lui ra khỏi cái ngã đó, đi vào nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết và chỉ quan sát. Lẽ dĩ nhiên đây không phải là điều con làm trong đời sống thường nhật thực tiễn. Ngay lúc con chú ý bên ngoài để thực sự tham gia vào cuộc sống trên trái đất này, thì con (như là cái Ta Biết) đang trải nghiệm cuộc sống qua cái ngã mà con tạo ra. Đó là lý do tại sao cái Ta Biết có thể kinh nghiệm sự bực bội, thất vọng, cảm giác bị ruồng bỏ.

Trên mặt lý thuyết đây không phải là cái Ta Biết. Những cảm xúc này không ở trong cái Ta Biết nhưng cái Ta Biết đang kinh nghiệm cuộc sống qua cái ngã đó. Đó là lý do tại sao đây là một ý niệm sâu thẳm về bản ngã mà hầu hết không ai thấy được. Ngay cả những người đã đi trên con đường tu một thời gian khá dài cũng không thấy được điều này vì đây quả thực là cái ngã cơ bản mà họ đã tạo ra sau khi tới đây. Nó là cái ngã sinh ra sau khi cái ngã đầu tiên chết đi. Nó bám chặt, nó ăn sâu, nó vi tế đến độ con xem nó là đương nhiên. Con nghĩ đây là cách duy nhất để kinh nghiệm cuộc sống trên trái đất.

23.3. Con đã buông bỏ những cái ngã khác

Các thày đã trao truyền cho con khái niệm về những cái ngã phiến diện hơn liên quan tới một điều kiện đặc thù. Mục đích là giúp con nhận ra con đã thấy một số các ngã này. Con đã đi trên con đường tâm linh, ngay cả nếu con chỉ mới đi trong một thời gian ngắn (và ở đây thày không nói tới chuyện con tìm thấy những giáo lý đặc thù này vì nhiều người trong các con đã đi trên con đường tu nhiều năm trước khi con tìm thấy các giáo lý này). Nếu con đã đi trên con đường tu một thời gian, thì con đã thấy một số các ngã vỏ ngoài này, con đã tách mình ra khỏi chúng và con đã buông bỏ chúng.

Con đã quen thuộc với tiến trình buông bỏ đó. Một khi con nghĩ về nó và xem xét đường tu của mình, con nhận ra là con đã buông bỏ một số ngã này (có thể là con buông bỏ một cách không có ý thức). Ngày hôm nay con không phản ứng giống như trước khi con tìm thấy con đường tâm linh. Con đã thăng vượt một số khuôn nếp phản ứng, con đã bỏ chúng lại đằng sau, và đó là vì con đã vượt lên trên những cái ngã vỏ ngoài này. Điều thày muốn nói ở đây là một cái ngã vỏ ngoài là một cái ngã vỏ ngoài. Con có thể có một cái ngã vỏ ngoài liên quan tới cách con hành xử với những người nổi giận với con. Lẽ dĩ nhiên nó là một cái ngã vỏ ngoài đặc thù hơn cái ngã con đã tạo ra khi con phản ứng lại chấn thương nhập đời, nhưng trên căn bản cả hai đều được tạo ra theo cùng một cách.

Cả hai đều dựa trên một ảo tưởng cho nên cách khắc phục chúng quả thực là một. Con nhận ra nó là một cái ngã vỏ ngoài và con quyết định con không muốn mang nó trong mình nữa. Sau đó con có thể buông bỏ nó. Tuy nhiên với cái ngã mà con tạo ra trong chấn thương nhập đời vũ trụ, mà chúng ta có thể gọi là ngã gốc, thì lẽ dĩ nhiên buông bỏ nó khó hơn vì nó vi tế hơn.

23.4. Cái ngã mà con có trong kiếp đầu thai đầu tiên

Khi thày nói con xuống đầu thai với một cái ngã mà con đã tạo ra trước khi con kinh nghiệm cuộc sống trên trái đất và cái ngã này chết đi và con tạo ra một cái ngã khác, thì điều này thực sự có nghĩa gì? Ấy, điều này có nghĩa, con yêu dấu, là khi cái ngã trước của con chết đi, con mất đi khung tham chiếu mà cái ngã này có thể cho con. Nói cách khác, cái ngã mà con có khi con xuống đây được tạo ra với tầm nhìn của con từ một cõi cao hơn, dựa trên cuộc sống của con trên một hành tinh tự nhiên. Lẽ dĩ nhiên cái ngã này không đầy đủ vì nó không biết cuộc sống ở đây ra sao. Điều nó biết là có một lối sống khác với lối sống trên trái đất, có một dạng sống tốt hơn; có một cái gì khác. Khi con trải qua chấn thương và cái ngã đó chết đi, con mất đi khung tham chiếu này, ít nhất là trong tâm ý thức của con.

Điều này có nghĩa là từ lúc đó con bắt đầu nghĩ và kinh nghiệm là cách duy nhất để nhìn cuộc sống là cách con đang nhìn cuộc sống qua cái ngã mới, cái ngã gốc mà con đã tạo ra khi con phản ứng lại chấn thương nhập đời và các điều kiện trên trái đất. Do đó nhận diện cái ngã này khó hơn nhận diện những cái ngã phiến diện hơn. Con phải làm việc nhiều hơn nhưng các thày đã trao truyền giáo lý và dụng cụ cho các con. Dụng cụ của Mẹ Mary để giúp con tiếp cận chấn thương nhập đời là một dụng cụ tuyệt diệu giúp con có một nhận biết, một nhận biết rộng hơn về cái ngã mà con đã tạo ra để con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi nó. Có thể nói là con có thể bắt đầu thấy ngã này từ bên ngoài thay vì con nhìn cuộc sống xuyên qua cái ngã, từ bên trong cái ngã.

23.5. Buông bỏ cái ngã thâm sâu

Thày tin là con cũng thấy sự thật hiển nhiên là ngày nào con còn ở trong một cái ngã, thì con không thể thấy cái ngã đó. Nếu con mang cặp mắt kính màu vàng và con không biết mình đang mang kính thì con không thể thấy cặp kính này. Để có thể thấy được cái ngã, thì con phải bước ra bên ngoài nó. Lẽ dĩ nhiên, mục đích của các thày là dẫn con theo một tiến trình trong đó con dần dần buông bỏ tất cả những phàm linh và ngã phiến diện cho tới khi con tới điểm cái ngã duy nhất còn lại là ngã gốc. Khi con đã đi qua tiến trình này, thì con có thể chuyển đổi nhận thức và nhận ra con có một ngã gốc. Nó vi tế hơn các ngã khác nhưng nó vẫn chỉ là một cái ngã được tạo ra theo cùng một cách. Sau đó con có thể bắt đầu nhận ra nó không phải là con người thật của con. Nó là một cái ngã được tạo ra để đáp ứng lại một tình huống rất khó khăn, làm con bị chấn thương mạnh, xảy ra cho con trên trái đất.

Một lần nữa các thày hoàn toàn không trách cứ con. Các thày đã từng đầu thai; các thày đã tạo ra một ngã gốc khi phản ứng lại chấn thương nhập đời trên hành tinh này. Các thày chỉ có mặt ở đây để chứng minh cho các con thấy là các thày đã khắc phục cái ngã gốc đó và do đó các con cũng làm được. Điều mà một người đã làm được thì tất cả đều có thể làm được.

Vậy thì làm sao con khắc phục cái ngã gốc được? Ấy, như các thày đã nói trước đây, chìa khóa là con nhận ra là bất cứ mọi cái ngã đều được tạo ra với một mục đích đặc trưng, với một tầm nhìn đặc trưng. Do đó, chúng ta có thể nói là trong cốt lõi, cái ngã có một vấn đề nào đó. Nó có một vấn đề cố hữu và khi con nhìn từ bên trong cái ngã, vấn đề này phải được giải quyết một cách nào đó. Các thày đã nói là các con có thể đã tới đây với ý định tạo ra một sự thay đổi bên ngoài nào đó trên trái đất. Sau đó khi con tạo ra một cái ngã dựa trên những gì xảy ra cho con trên trái đất, cái ngã này có thể phóng chiếu ra hay nó có thể thấy một vấn đề đặc trưng nào đó ở đây trên trái đất nhất định phải được giải quyết. Như thày có nói, nếu vấn đề là chiến tranh, thì phải loại trừ chiến tranh ra khỏi trái đất trước khi con có thể giải quyết vấn đề.

Lẽ dĩ nhiên đây không phải là cách giúp con khắc phục một cái ngã như thế. Ngay cả nếu con giải quyết được vấn đề mà cái ngã phóng chiếu ra, như loại trừ tất cả chiến tranh, thì con vẫn không tự động khắc phục được cái ngã vỏ ngoài này. Bí quyết ở đây là con bắt đầu nhận ra là con sẽ không vượt lên trên ngã gốc bằng cách giải quyết vấn đề hay thay đổi điều kiện đã khiến con phản ứng lại và tạo ra ngã gốc.

Con sẽ chỉ khắc phục nó khi con nhận ra nó là một ngã tách biệt, nó dựa trên một ảo tưởng và không có vấn đề nào cần giải quyết. Điều này lẽ dĩ nhiên không đơn giản. Đúng là có chiến tranh trên trái đất. Đúng là các chân sư thăng thiên muốn loại trừ chiến tranh khỏi trái đất, và tất cả các con cũng vậy. Nó là một vấn đề thật, nhưng con không thể giải thoát khỏi ngã gốc bằng cách giải quyết vấn đề ở bên ngoài. Nó chỉ làm được bằng cách giải quyết cơ cấu bên trong con khiến con nghĩ rằng cuộc sống của con trên hành tinh này, ý niệm bản ngã của con và việc con rời khỏi hành tinh này, tùy thuộc vào bất kỳ điều kiện nào ở đây.

Một lần nữa chúng ta có thể xem xét những gì thày nói, trích dẫn từ thánh kinh: “Ông Hoàng Thế gian tới và không nắm được gì nơi ta.” Câu này có nghĩa gì? Nó có nghĩa là không có lực nào trên trái đất có sức thu hút trên con khiến con phải làm điều gì đó, phải thay đổi điều gì đó, phải giải quyết điều gì đó ở đây. Không có lực nào có thể ra lệnh cho con là con phải phản ứng theo kiểu nào đó, con phải có cảm xúc như thế nào đó.

23.6. Cảm nhận của ngã gốc

Giờ đây, lẽ dĩ nhiên là không phải tất cả các con đều đã tạo ra một ngã gốc có mục đích giải quyết một vấn đề nào đó. Một số các con đã tạo ra một ngã gốc cảm thấy mình bị sa nhân hoàn toàn bác bỏ. Một số các con đã tạo ra những cái ngã cảm thấy một nỗi buồn chung về cuộc sống, cảm thấy rất thất vọng và rất bị chấn động vì những điều kiện ở đây, cảm thấy mình quá bất lực không thay đổi được chúng, cho nên việc mình tới đây không có ý nghĩa gì và không đạt được mục đích gì. Việc mình tới đây đã là một sai lầm.

Mỗi người trong các con phải dùng các dụng cụ của các thày, dùng bài tập của Mẹ Mary, để chiêm nghiệm xem ngã gốc của mình là gì. Cốt lõi của nó là gì? Phản ứng là gì? Niềm tin là gì? Sau đó, con cần nhận ra là ngã gốc đã cho con một cảm nhận gốc, một ý niệm gốc về trái đất và đời sống trên trái đất. Lẽ dĩ nhiên ý niệm này không đẹp đẽ cho nên con biết đáng lẽ nó phải khác. Như thày đã nói, dù là cái ngã nguyên thủy của con đã chết, một số các con vẫn có thể còn cảm nhận là có một lối sống khác với lối sống trên trái đất, có một cõi khác nơi, ví dụ, chiến tranh không có mặt.

Con cảm thấy một sự bất an nào đó, một sự căng thẳng nào đó. Có điều gì đó sai, có điều gì đó làm con bất an. Con cần tới được điểm con nhận diện chính xác cảm giác đó, niềm tin đó vì, như các thày đã nói với con, khi con gặp chấn thương nhập đời thì con lấy một quyết định. Đây có thể là một quyết định khó có thể diễn tả chính xác bằng lời. Như được nói trong quyển sách, con đã lấy quyết định: “Tôi không bao giờ muốn kinh nghiệm điều này nữa.” Điều chính xác nào con không muốn kinh nghiệm nữa? Con cũng đã lấy quyết định điều gì con có thể làm và điều gì con muốn làm trên trái đất kể từ lúc đó – nghĩa là con sẽ tiếp cận cuộc sống như thế nào. Ở đây con cần nhận ra một sự vận hành cơ bản.

23.7. Sa nhân phá hoại sứ vụ của con

Có nhiều sa nhân đang đầu thai mà có thể con đã gặp họ nhưng họ không ý thức điều này. Các sa nhân ở cõi bản sắc chắc chắn ý thức điều này. Họ biết về các avatar, họ biết đã có nhiều sinh thể tới trái đất để nâng hành tinh này lên. Họ biết rằng sự thống trị trái đất của họ tùy thuộc họ có phá hoại được sứ vụ của các avatar này không hay ít nhất trì hoãn được sứ vụ đó. Điều họ thực sự muốn làm là cho con một cú sốc lớn đến độ con cảm thấy sứ vụ nguyên thủy của con khi xuống đây không thể hoàn thành được. Do đó con cảm thấy con đã sai lầm khi tới đây vì con không thể đem lại thay đổi. Con không thể thay đổi bất cứ điều gì trên trái đất.

Nhiều người trong các con khi trải qua chấn thương nhập đời vũ trụ đã bị cú sốc vì các con tới đây với ý định trong sáng nhất. Điều này có nghĩa là các con thấy mọi người trên trái đất đang đau khổ, tỷ dụ vì có chiến tranh trên trái đất. Con giả định là nếu con người đang đau khổ, thì họ muốn thoát khỏi đau khổ và do đó họ muốn khắc phục chiến tranh. Con xuống đây và con nghĩ lẽ hiển nhiên con người muốn khắc phục chiến tranh. Khi con đề nghị cách thực hiện điều này, thì con chờ đợi là mọi người sẽ tiếp nhận một cách tích cực.

Khi con ở trên hành tinh tự nhiên, con quen thấy mọi người đều muốn cải thiện cuộc sống của họ. Sau đó, con xuống trái đất và con nhận ra hai điều. Trước tiên, có những người trên trái đất không muốn thay đổi, họ không muốn khắc phục đau khổ của họ; họ không muốn từ bỏ chiến tranh hay bất cứ điều gì khác. Họ không muốn thay đổi. Sau đó, khi con ở dưới này, con trải nghiệm trọn vẹn hiện thực tuyệt đối, không thay đổi được của quyền tự quyết. Trước đây, khi con nhìn xuống trái đất từ trên cao, con không thực sự hiểu thấu điều này. Tất cả chúng ta thật sự không hiểu thấu rằng nếu con người trên trái đất không muốn từ bỏ chiến tranh, thì con không ép họ được. Khi con ở dưới này, thì con nhận ra (và đây thường là cú sốc lớn nhất) là dù con biết cách khắc phục các vấn đề và giới hạn của nhân loại, nhưng con không làm gì được vì con người không hưởng ứng.

23.8. Cú sốc khi gặp sự chống đối thay đổi

Lẽ dĩ nhiên con không thể đi ngược lại quyền tự quyết của họ. Quả thực là con không muốn đi ngược lại quyền tự quyết của họ, nhưng trước khi con tới đây, con giản dị nghĩ nếu con chỉ cho họ con đường thoát khỏi lầm than, thì họ sẽ muốn theo con đường này. Con bị cú sốc khi nhận ra có một số sinh thể, các sa nhân, không những không muốn thay đổi mà còn tìm cách tiêu diệt con. Trong một số trường hợp con có thể đối phó với điều này, nhưng con cũng nhận ra là đại đa số người trên hành tinh này không muốn tiêu diệt con, họ chỉ không muốn dính dáng tới con. Họ không muốn lắng nghe con, họ không muốn thay đổi.

Khi con kinh nghiệm điều này, thì con rất dễ (và chúng ta đều đã làm như thế) lấy quyết định (quyết định này hơi khác tùy theo mỗi cá nhân) rằng: “Đáng lẽ tôi không nên tới đây, đó là một sai lầm, tôi chẳng làm được gì ở đây, tôi có mặt ở đây vô ích, tôi không thay đổi được sa nhân, tôi còn không thay đổi được con người vì họ không muốn thay đổi, họ không muốn vượt lên trên đau khổ của họ, họ còn không muốn lắng nghe tôi. Quả thực họ không muốn tôi ở đây.”

Trải nghiệm này khiến con có nỗi bất mãn sâu xa. Tại sao tôi ở đây? Tôi ở đây để làm gì? Ngay lúc sự bất mãn của con lên tới cùng cực, thì con lấy một quyết định là từ nay về sau con sẽ tiếp cận cuộc sống ra sao. Mỗi người sẽ biểu hiện quyết định đó thành lời khác nhau và đó là lý do tại sao con cần khám phá ra quyết định của riêng mình. Một ví dụ chung chung là con có thể quyết định rằng: “Tôi sẽ không can thiệp vào quyền tự quyết của con người.” Hoặc: “Tôi sẽ không bao giờ ép buộc ai. Tôi sẽ không bao giờ lấy quyết định ảnh hưởng tới người khác vì tôi không muốn ép buộc ai cả.” Hoặc: “Tôi sẽ không thách thức sa nhân.” Hoặc con có thể lấy quyết định, như quyển sách đã mô tả, là con sẽ chống lại sa nhân; hay quyết định là con muốn hiểu sa nhân và tại sao họ phản ứng như thế.

23.9. Tái sinh trong Ki-tô

Các quyết định đó đã tạo ra một cái ngã đã pha màu cách con nhìn mình như thế nào như một sinh thể trên trái đất. Đây là cái ngã cuối cùng, cái ngã gốc, mà con có thể buông bỏ, và con có thể buông bỏ nó. Con có thể buông bỏ nó từng phần một. Con có thể tới điểm con cho cái ngã đó chết đi và con tái sinh trong một ý niệm bản sắc mới dựa trên hiểu biết mà con có lúc này và dựa trên sự việc con đã phần nào tiếp xúc được với Hiện diện TA LÀ của con. Do đó con có thể được tái sinh trong Ki-tô vì đây không phải là một cái ngã vỏ ngoài dựa trên sợ hãi và phản ứng lại trái đất. Đây là cái ta hòa điệu với Hiện diện TA LÀ hay là nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, cá thể của Hiện diện TA LÀ của con, và thực tại Ki-tô là con là một sinh thể tâm linh, là nhận biết thuần khiết không thể bị ảnh hưởng hay thay đổi bởi bất cứ điều gì trên trái đất.

Lúc ấy, con có thể vượt lên trên ngã gốc và tái sinh trong ý niệm bản sắc mới qua đó con thấy cuộc sống trên trái đất là điều tích cực. Giờ đây con có cái nhìn tích cực, một mục tiêu tích cực, một cảm nhận tích cực. Điều này không có nghĩa là con có một vấn đề mà con nhất định phải giải quyết bằng được. Con nhận ra sự có mặt của con ở đây có ý nghĩa vì chỉ vỏn vẹn con có mặt ở đây là con đang tỏa chiếu ánh sáng vào tăm tối. Con đang cho mọi người một tấm gương là có một cách sống khác với tâm thức nhị nguyên, khác với đau khổ, khác trạng thái tâm loạn động như tâm của mọi người.

23.10. Khi cái bất thường trở thành bình thường

Mọi người trên trái đất đều không vui, bất toại nguyện và xáo trộn trong tâm: điều này hoàn toàn thật. Nhưng để có thể sống được thì mọi người tới điểm xem trạng thái mất quân bình là bình thường. Đó là lý do tại sao chế độ cộng sản sống còn lâu như vậy. Hầu hết mọi người chấp nhận đó là tình trạng bình thường để họ có thể sống được với nó và do đó họ có thể sống còn. Điều này không có nghĩa là họ bằng lòng với chế độ này. Điều này không có nghĩa là họ đang tăng triển nhưng họ có thể sống còn. Lẽ dĩ nhiên con cũng đã làm như thế: con đã tạo ra một chuẩn mực cho phép con sống còn. Con đã tìm ra một cách sống trên trái đất giúp con tránh được những cảnh huống khơi dậy cảm xúc mà con có khi trải qua chấn thương nhập đời của mình.

Gần giống như là con đã tìm ra một cách ru ngủ ngã gốc, cho nó bị hôn mê, vì con đã học cách tạo ra những hoàn cảnh bên ngoài không đánh thức nó dậy. Quả thực con có thể sống như vậy trong vài kiếp và con có thể tiến bộ trong việc vứt bỏ một số ngã vỏ ngoài nhưng con thật sự chưa bao giờ chạm vào ngã gốc. Có những trường hợp đệ tử chân sư thăng thiên đã theo học giáo lý của các chân sư thăng thiên vài thập kỷ và họ đã có tiến bộ nhưng họ còn chưa bắt đầu nhìn vào ngã gốc.

Một lần nữa không nhất thiết chuyện này là sai trái. Con không thể nhìn vào ngã gốc khi con chưa sẵn sàng. Nhưng con sẽ tới điểm quả thực dậm chân tại chỗ nếu con không bắt đầu nhìn vào ngã gốc. Con sẽ không tăng triển, có thể cho tới cuối kiếp sống này, bởi vì con có cảm nhận là có điều gì trong con mà con không muốn chạm tới, con không muốn đối phó – vì chuyện này khó quá.

23.11. Chuyển đổi đồng hóa mình với ai

Con có thể có cảm nhận là con biết mình đã buông bỏ nhiều cái ngã khác và làm điều này không có vấn đề. Cái ngã này, con cảm thấy không bỏ nó được vì con cảm thấy mình sẽ chết nếu bỏ nó. Con sẽ chết. Con yêu dấu, đúng thế. Con sẽ chết. Cái “ngã” qua đó con nhìn mình như một sinh thể trên trái đất, cái ngã đó sẽ chết. Điều này không có nghĩa là cái ta thật của con sẽ chết vì con sẽ tái sinh trong một cái ta mới mà con sẽ phải tuần tự tạo ra, lẽ dĩ nhiên. Con thấy là các thày hoàn toàn ý thức, con yêu dấu, là điều mà các thày yêu cầu con làm ở đây (trong các giáo lý gần đây về chấn thương nhập đời và hành trình của các con trên trái đất) là một việc làm rất, rất phức tạp. Con không thể phất tay một cái là làm xong. Con cần nhiều thời gian, một số năm, có khi vài thập kỷ vì con sẽ dần dần phá bỏ cái ngã cũ và đồng lúc con cũng tạo ra một cái ta mới.

Đây là một việc làm phức tạp, nhưng việc này có thể làm được và con đã trong tiến trình làm việc này. Những gì thày mô tả ở đây nghe rất lớn lao nhưng nó không lớn lao như thế. Khi con đi trên con đường tu, con buông bỏ một số ngã phiến diện, con cũng tạo ra một ý niệm bản ngã mới dựa trên một tầm nhìn tích cực, dựa trên sự hiểu biết của con về giáo lý. Không phải là con phải hoàn toàn phá vỡ ngã gốc và nó chết đi và con không còn gì cả – và sau đó con có thể bắt đầu xây dựng lại một cái ta mới. Mọi chuyện không xảy ra như thế. Con phá vỡ cái cũ và con tạo ra cái mới cùng một lúc.

Điều gì có thể mang lại sự chuyển đổi nơi con? Ấy nó giản dị như thế này. Thày không nói là tất cả các con đều làm được ngay bây giờ nhưng sẽ tới lúc con đã phá vỡ phần lớn ngã gốc của mình. Con đã tạo ra một cái ngã mới, nhưng trong bản thể của con vẫn còn một điểm nơi con đồng hóa mình với ngã gốc. Con vẫn nhìn cuộc sống trên trái đất qua ngã gốc này. Khi thày nói cho ngã gốc chết đi, thì đó là điểm con nhìn thấy nó, con thấy cái ngã đó và con có thể buông bỏ nó. Con có thể cho ngã gốc chết đi. Đó là lúc thày nói con tái sinh.

Điều thật sự xảy ra là trọng tâm bản sắc của con, trung tâm bản sắc của con, dời chuyển từ ngã gốc sang cái ta mới mà con đã gày dựng bấy lâu nay. Bất thình lình, con thoát khỏi cái nhìn tiêu cực về trái đất và cuộc sống trên trái đất và bây giờ con nhìn cuộc sống qua cái nhìn tích cực. Con nhìn mình với cái nhìn tích cực. Con không còn cái nhìn tiêu cực về điều gì con làm được hay không làm được trên trái đất, tại sao con ở đây và con đã ngu xuẩn khi tới đây – điều này và điều kia. Nó không còn nữa. Nó đã chết.

23.12. Khi chết là đồng minh của con

Con yêu dấu, con hiểu là có một câu trích từ thánh kinh nói rằng kẻ thù cuối cùng mà chúng ta chinh phục là cái chết. Câu này không chỉ cái chết vật lý. Tất cả các con đều là người tâm linh, các con đều nhận ra là các con đã từng sống trước đây và các con đều đã kinh nghiệm nhiều lần là thân xác vật lý chết đi nhưng con thì vẫn tồn tại. Thân xác có thể tới, có thể đi nhưng ta tồn tại mãi mãi. Chuyện xảy ra ở đây không phải là con chết (cái ta thật của con không chết) nhưng có một cái “ta”, một cái ngã đúng thực chết. Lẽ dĩ nhiên cái ngã này sẽ chống trả không muốn chết. Nó không có tự nhận biết nhưng nó có đủ tâm thức để chống lại cái chết. Lẽ dĩ nhiên nó sẽ phóng chiếu lên con là con sẽ chết khi chết. Đó là lý do tại sao con cần tới điểm xét lại quan điểm của mình về cái chết. Cái chết có thực là kẻ thù không?

Khi con nhận ra là cốt lõi bản sắc của mình là Hiện diện TA LÀ, ở trên cõi tâm linh, một cõi vượt lên trên thời gian và không gian, thì con biết là Hiện diện TA LÀ của con không thể chết. Các thày đã nói nhiều lần với các con là cái Ta Biết là một nối dài của Hiện diện nên nó cũng không thể chết. Khi con bắt đầu kết nối với ý niệm nhận biết thuần khiết đó (ý niệm biết mình hơn cái ta vỏ ngoài, hơn bất cứ điều gì trên trái đất), con có thể chuyển đổi nhận thức và nhận ra rằng con không thể chết. Cái có thể chết chỉ là ý niệm cái “ta”, ý niệm cái ngã, ý niệm mình là ai. Bởi vì ý niệm bản ngã của con giới hạn, nên con có thật sự mất mát chăng khi cái ngã đó chết đi? Hay đó là một thắng lợi cho con vì cái nhìn tiêu cực về mình đã chết, và con tái sinh trong cái nhìn tích cực? Nói cách khác, con tự do hơn sau khi cái ngã chết đi.

Kẻ thù cuối cùng mà mình chinh phục là cái chết, câu này nghĩa là gì? Nó nghĩa là con nhận ra cái chết không phải là kẻ thù của mình. Cái chết là bạn của mình. Cái chết là một dụng cụ giúp cho cái ngã giới hạn chết đi và nhờ vậy mình được tự do. Lẽ tự nhiên hầu hết mọi người chống cự lại cái chết vì họ quá đồng hóa họ với thân xác của họ và ngay cả thân xác cũng có nhận biết của nó, được gọi là bản năng sinh tồn khiến nó chống cự lại cái chết. Con biết là con sẽ không chết khi cái ngã tách biệt chết. Chúng ta không nói chuyện ở đây về cái chết vật lý. Chắc chắn đây không phải là giáo phái tự vận cuồng tín. Các con yêu dấu, chúng ta nói là con sẽ tới điểm thay vì sợ chết, sợ và chống cự cái ngã tách biệt chết, thì con cho phép nó xảy ra. Con đón mừng nó vì con nhận ra con sẽ tự do hơn sau cái chết của ngã tách biệt này. Đây là ý nghĩa đích thực của phục sinh.

23.13. Phục sinh đích thực

Phục sinh không thực sự là phục sinh thân xác như một số tín đồ Cơ đốc mơ tưởng. Trên căn bản nó là một khai ngộ tâm linh. Nó là điều con thấy khi thày đang bị treo trên cây thập tự và lúc đầu thày kêu lên: “Ôi Thượng đế, ôi Thượng đế, sao ngài lại bỏ rơi con?” Tại sao thày đã hành động như thế? Bởi vì cho tới lúc đó, thày có một cái ngã nghĩ rằng một cách nào đó Thượng đế sẽ làm phép lạ, gửi các thiên thần xuống giải cứu thày để thày không phải chết trên cây thập tự. Sau đó thày vẫn bị treo ở đó và thày nhận ra đây là một ảo tưởng. Có một cái ngã tách biệt mang ảo tưởng này. Quả thực nó là cái ngã tách biệt mà thày đã tạo ra khi bị chấn thương nhập đời. Nó là cái ngã tách biệt gốc của thày.

Trước khi thày xuống đầu thai lần đầu tiên trên trái đất, thày biết rất rõ tự thân mình không làm được điều gì cả. Thày biết rất rõ là cần có người đầu thai trên trái đất để làm cánh cửa mở cho uy lực của Thượng đế làm việc trong cõi vật chất của hành tinh này. Thày tình nguyện làm chuyện này, nhưng thày cũng đã xây đắp kỳ vọng là khi thày làm việc phụng sự Thượng đế thì Thượng đế sẽ can thiệp không để điều gì quá tệ hại xảy ra cho thày. Do đó, khi chuyện quá sức tệ hại xảy ra, thì Thượng đế sẽ tới và giải cứu thày bằng một phép lạ nào đó.

Đó là cái ngã thày đã xây dựng, đó là cái ngã thày đã có khi đầu thai. Sau đó, khi thày bị chấn thương nhập đời, thì thày đích thực nhận ra chuyện này sẽ không xảy ra. Thượng đế sẽ không dùng phép lạ để giải cứu thày khỏi hoàn cảnh rất khó khăn khiến thày bị chấn thương nhập đời. Thày phản ứng lại bằng cách tạo ra một ngã gốc giải thích tại sao Thượng đế đã không cứu thày trong hoàn cảnh đó. Đồng thời, thày cũng không thật sự chấp nhận thực tế của quyền tự quyết và Thượng đế không thể nào can thiệp vào quyền tự quyết và do đó trong một số trường hợp Thượng đế sẽ không thể nào giải cứu thày. Thày không chấp nhận điều này cho nên thày vẫn kỳ vọng là nếu thày thật sự, thật sự cần được giải cứu thì Thượng đế sẽ cứu thày.  

Cái ngã gốc của thày phải chịu tin là, thôi thì trong hoàn cảnh đó, dù nó tạo chấn thương tâm lý mạnh cho thày, thày quả thực không cần được giải cứu vì thày có thể đối phó được với chuyện đó. Nhưng nếu có một hoàn cảnh mà thày thật sự cần thì Thượng đế sẽ giải cứu thày. Nhiều nhiều năm sau đó, trong kiếp đầu thai cuối cùng của thày, thân xác thày đang bị treo trên cây thập tự và bỗng nhiên thày đối mặt với ngã gốc và kỳ vọng đây là một trong những cảnh huống mà thày thật sự, thật sự cần được giúp và bây giờ Thượng đế sẽ giải cứu cho thày. 

Lần đầu tiên thày thấy thực tế, toàn bộ thực tế của quyền tự quyết. Thày thật sự thấy nó và thày nhận ra là Thượng đế sẽ không giải cứu thày. Sau đó, thay vì tạo ra một cái ngã khác để đối phó với chuyện này, thì thày bỗng nhiên nhận ra đó là một cái ngã không thật. Nó chỉ là một ảo tưởng và thày thấy nó từ bên ngoài, và đó là lúc, như trong thánh kinh nói, thày “buông bỏ hồn ma.” Thày buông bỏ cái ngã cho rằng nó đặc biệt và do đó nó được quyền nhận phép lạ từ Thượng đế vì nó đã phụng sự Thượng đế trên trái đất này. Thày buông bỏ nó. Thày buông bỏ nó và sau đó thân xác thày chết đi nhưng điều thật sự quan trọng trong cảnh huống này là thày tái sinh theo nghĩa tâm linh. Cái ngã tách biệt, ngã gốc chết đi và thày tái sinh. Sau đó, thày không cần phải đầu thai trở lại trên trái đất nữa. Thày có thể từ bỏ trái đất. Dù rằng sau đó, thày được phép thị hiện một thân vật lý, điều này chính là để khởi động phong trào Cơ đốc và để khắc phục một số mong muốn vỏ ngoài không liên quan tới ngã gốc của thày. Tiến trình thật sự là việc cho phép cái ngã chết đi và con yêu dấu, có thể nói là khi con cho ngã gốc chết đi, con phải trải qua kinh nghiệm cảm thấy mình sẽ chết. Con cảm thấy con đang chết.

23.14. Chấp nhận cái chết

Giờ đây, con sẽ thấy, nếu con đã đọc về các kinh nghiệm cận tử, là có nhiều người đã trải qua kinh nghiệm cận tử trong một hoàn cảnh rất nguy hiểm, tạo chấn thương tâm lý. Trong một khoảng thời gian, bản năng sinh tồn của họ khiến họ chống cự lại và không chịu rời bỏ thân xác. Sau đó, họ tới điểm bỗng nhiên cảm thấy một sự bình an nội tâm và lúc đó họ buông bỏ thân xác và nói: “Bất chấp chuyện gì xảy ra.” Trong sự phó thác này, họ rời bỏ thân xác. Sau đó, họ có kinh nghiệm cận tử và trở về và kể lại câu chuyện. Con có thể tới điểm nhận diện ra ngã gốc, con biết nó cần phải chết đi, con biết bây giờ là đúng lúc. Sau đó, thay vì chống lại cái chết của ngã gốc, thì con quy thuận. Con hàng phục. Con cảm thấy bình an trong lòng và con nói: “Hãy cho nó chết đi; bất chấp chuyện gì sẽ xảy ra” hay “Xin ý cha được hoàn thành, không phải ý con.”

Con chỉ cho phép nó xảy ra và con cho phép mình trải qua tiến trình, trong đó mình cảm thấy như mình đang chết, giống như mình đang buông bỏ cái gì đó. Đó là vì con đang buông bỏ thật sự. Lẽ dĩ nhiên con kinh nghiệm là sau khi con buông bỏ cái ngã tách biệt này, con không biến mất, con vẫn còn tự nhận biết. Đấy là lúc con có thể chuyển dời bản sắc của mình tới một cái ta mới, một cái ta được xây dựng trong Ki-tô và con trở thành, như Paul đã diễn tả, “một sinh thể mới trong Ki-tô.”

Không phải tất cả các con đều làm được điều này trong khoảnh khắc. Thày không yêu cầu con làm điều này sau khi nghe hay đọc bài truyền đọc này. Thày yêu cầu con chiêm nghiệm tiến trình này, nhận biết tiến trình này. Khi con tới điểm đã sẵn sàng vì con đã phá vỡ hầu hết ngã gốc của mình, con đã tạo dựng một cái ta mới và quả thực để ngã gốc chết đi không phải là một chuyện lớn lao nữa (nó chỉ là chuyện chuyển dời tâm thức khi con đưa trọng tâm bản sắc của con rời khỏi ngã gốc để chuyển sang cái ta mới), thì lúc đó con không chống cự lại tiến trình. Con cảm thấy: “Ồ, tôi sẵn sàng rồi” và con giản dị buông bỏ. Con đón mừng cái chết. Con đón mừng cái chết của ngã gốc. Con đón mừng cái chết như người bạn của mình. Con ngưng chống lại nó. Con ngưng hờn trách hay chống cự nó. Con đón mừng nó, không phải như sự chết mà là sự tái sinh, là một khởi đầu mới. 

23.15. Hoàn tất lý do con tới trái đất

Con yêu dấu, đấy là lúc con thật sự có thể bắt đầu hoàn tất lý do nguyên thủy tại sao con xuống trái đất. Con không hoàn tất nó bằng cách làm điều gì, bằng cách thay đổi điều gì, bằng cách thay đổi người khác. Con hoàn tất lý do đó chỉ bằng cách con là cái con là và tỏa chiếu ánh sáng, sinh thể, tâm thức và khuôn đúc của cá thể mình. Con không cần giải quyết vấn đề nào và không cần hoàn tất mục tiêu nào. Con nhận ra rằng con chỉ cần ở đây là đã làm điều con tới đây để làm. Con cảm thấy mãn nguyện khi làm vậy vì sự việc con là cái con là không lệ thuộc vào chọn lựa của người khác. Con không cần thay đổi chọn lựa của người khác để là cái con là.

Có thể là con nhận ra, cái ngã gốc đã làm gì? Niềm tin cốt lõi của ngã gốc là gì? Con yêu dấu, nó tin là sự việc con là chính mình, con là cái con là, không tốt đủ. Hoặc như thế là sai trên hành tinh này. Hành tinh này không muốn thấy điều đó.  Nói cách khác, trước khi con xuống đây, con chờ đợi là con chỉ cần tới đây và là cái con là thì mọi người sẽ đón mừng con. Sau đó, con nhận ra là sa nhân và luôn cả hầu hết con người không đón mừng con, chào đón con, chấp nhận con. Con quyết định là hình như con đáng lẽ không nên là cái con là, con không được phép là cái con là trên hành tinh này. Hoặc sự việc con là cái con là vẫn chưa đủ.

Có thể nói là tất cả những gì con đã làm, tất cả những gì đã xảy ra cho con sau chấn thương nhập đời, là con đã dồn nén không cho phép con là cái con là. Đây là điều con có thể giành lại, và khi con giành lại, con sẽ có ảnh hưởng trên trái đất. Con sẽ không dính mắc tới ảnh hưởng này vì con không là cái con là để thay đổi bất cứ điều gì trên trái đất. Con là cái con là vì nó đem lại cho con niềm hỷ lạc và mãn nguyện lớn lao nhất.

Con nhận ra niềm hỷ lạc lớn nhất mà con có thể có trên trái đất là con là cái con là trước mọi điều kiện trên hành tinh này. Con có thể đứng yên và không gì ảnh hưởng được con, giống như Phật ngồi dưới cội bồ đề đối mặt với quỷ dữ của Ma vương đang cám dỗ để thày phản ứng lại chúng. Con có thể nhìn màn xiếc trên trái đất, con có thể nhìn vào quỷ dữ của Ma vương mà không phản ứng. Con vẫn tỏa chiếu ánh sáng của mình, vẫn sinh hoạt trong cuộc sống thường nhật của mình, tương tác với người khác, đi làm, nuôi dạy các con, hay bất cứ điều gì khác. Con cảm thấy dòng chảy, niềm hỷ lạc, khi con cảm thấy con đang biểu lộ cái con là trong mọi việc con làm. Bỗng nhiên rào cản giữa sinh hoạt tâm linh và không tâm linh trở nên hoàn toàn vô nghĩa vì tất cả trở thành sinh hoạt tâm linh. 

Mọi sự đều biểu hiện cái con là. Mọi sự đều mang lại cho con niềm hỷ lạc và mãn nguyện, không còn cái đúng cái sai, hay cái này cái kia. Đây là cách con có thể mang lại ảnh hưởng lớn nhất cho hành tinh này vì nó sẽ kéo tâm thức tập thể lên. Nó sẽ gây cú sốc cho người khác, những người mở tâm để thấy là có một cách sống khác với cách sống mà họ xem là bình thường của con người.

Một lần nữa con không dính mắc chuyện người khác có làm hay không làm. Con không dính mắc chuyện này. Con chỉ chú tâm là cái con là và con vui hưởng làm như thế. Sau đó, con có thái độ là bất cứ chuyện gì xảy ra, con chỉ nói “bất chấp chuyện gì xảy ra.” Con không có ý định gì, con không có ý muốn vỏ ngoài nào. Con chỉ cho phép cuộc sống trải bày ra. Đây là, như các thày đã nói trước đây, ở trong Dòng sông sự Sống. Đây là trôi theo Dòng sông sự Sống. Con yêu dấu, đây đích thực là chứng minh quả vị Ki-tô. Nó có vẻ không lớn lao như nhiều tín đồ Cơ đốc giáo hay ngay cả đệ tử chân sư thăng thiên mường tượng, chẳng hạn như con phải làm tất cả những phép lạ kia hay làm tất cả những biểu hiện thấy rõ kia.

Con yêu dấu, một khía cạnh rất quan trọng, rất cao của quả vị Ki-tô (và lẽ dĩ nhiên có nhiều khía cạnh khác) là con có thể tham gia đời sống thường nhật với một thái độ và cách nhìn đời hoàn toàn tích cực. Phải chăng đây là chứng minh quả vị Ki-tô, con yêu dấu? Đích thực, nó .

Đây là điều mà thày đã không làm trong kiếp đầu thai cuối cùng, thày đồng ý với con. Nhưng phải chăng thày có nói là các con sẽ hoàn thành những việc lớn lao hơn thày? Đây là một ví dụ của những việc lớn lao hơn mà thày chưa đủ khả năng điều ngự để hoàn thành 2,000 năm về trước – con có thấy vậy chăng.

25 | Cảm thấy thoải mái với việc mình ở trên trái đất

Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 3 tháng 12 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama, và trong niềm vui của Phật, thày là. Nhiều người có lẽ không gắn liền Phật với niềm vui vì họ có hình ảnh Phật nghiêm trang, ngồi yên, có vẻ cách biệt khỏi trần thế và những người trong thế gian. Lẽ dĩ nhiên, con yêu dấu, nếu thày thật sự cách biệt khỏi con người thế gian, thì tại sao thày lại rời Niết bàn để giáo hóa họ? Nếu thày thật sự cách biệt, thì liệu thày có phát nguyện nâng cao ngọn lửa của Phật và giữ không gian cho trái đất? Chắc chắn là không, và do đó thày không cách biệt nhưng thày cũng không dính mắc. Trung đạo phải được tìm ra, không nhất thiết giữa hai đối cực mà vượt lên trên chúng.

Trung đạo là một điểm quân bình rất khó tìm trên một hành tinh dày đặc và tăm tối như trái đất. Chắc chắn là những người trong các con đã đến đây như một avatar đã phải đối mặt với thách thức này. Tất cả chúng ta, là những người đã đến đây như avatar, đều đã phải đối mặt với thách thức làm sao ở trong đời nhưng không thuộc vào đời. Lẽ dĩ nhiên, tất cả chúng ta đều đã trải qua một giai đoạn trầm mình vào thế gian, đồng hóa mình với thế gian, và tại sao chúng ta đã làm vậy? Chúng ta đã làm vậy như sự tiếp nối của mong muốn đã đem chúng ta tới đây. Chúng ta đã tới đây để đem lại một thay đổi tích cực và giúp trái đất vượt lên trên một số biểu hiện mà chúng ta thấy rõ là không tự nhiên và không thể hiện hữu trên một hành tinh tự nhiên.

25.1. Mong muốn có quyền năng siêu nhiên

Đó là mục đích đã đem chúng ta tới đây, và chúng ta đã đi vào một khuôn nếp phản ứng khi chúng ta tới đây và thấy là thiện tâm của mình bị bác bỏ và chê bai. Nhiều khi chúng ta lại càng thêm thiết tha, càng thêm dính mắc, muốn làm một việc mà các tà lực, các sa nhân, và các cư dân trái đất – các cư dân nguyên thủy của trái đất – không thể phớt lờ hay chối bỏ. Con thấy chăng, con yêu dấu, là nhiều người trong chúng ta, khi bị chấn thương nhập đời nguyên thủy và bị sa nhân và cư dân trái đất phớt lờ hay chê bai, đã tạo ra mong muốn có khả năng, ngay cả khả năng siêu nhiên, tạo ra một biểu hiện mà họ không thể phớt lờ, không thể chối bỏ.

Con thấy là ngay bây giờ vẫn có nhiều người tâm linh mong muốn thấy một biểu hiện không thể chối cãi chứng tỏ giá trị của cái nhìn tâm linh về đời sống, là đời sống có một khía cạnh tâm linh. Nhiều người mong muốn có được thần nhãn hay quyền năng siêu nhiên khác khiến họ làm được một chuyện mà con người không thể phớt lờ, chối bỏ, hay giải thích bẻ quẹo. Nhiều tín đồ tôn giáo cũng có mong muốn tương tự, như nói được ngoại ngữ lạ hay có khả năng chữa lành (bất kể điều này nghĩa là gì), hoặc Ki-tô trở lại trần thế như một biểu hiện không thể chối cãi trên không trung, khiến không ai có thể chối cãi là chuyện này đã xảy ra.

25.2. Nghi ngờ sự hiện hữu của Thượng đế

Qua các thời đại, nhiều người đã hỏi: “Tại sao Thượng đế không chứng minh là ngài hiện hữu, tại sao ngài không lấy đi sự tà ác và tăm tối khỏi trái đất?” Khi họ thấy là bóng tối tiếp tục tồn tại và Thượng đế dường như không có đó hay có vẻ cách biệt, thì họ bắt đầu nghi ngờ là một Thượng đế. Lẽ dĩ nhiên, đó là lúc sa nhân cảm thấy họ đã thực sự hoàn tất thành quả lớn nhất – khi họ khiến được một avatar nghi ngờ sự hiện hữu của Thượng đế. Quả thực, đây là điểm thấp nhất mà con có thể rơi xuống khi con là một avatar đã tới đây với nhận biết có cái một trong mọi sự sống, và mong muốn nâng mọi sự sống lên. Bây giờ thì con tới điểm nghi ngờ có một đấng tối cao, có một mục đích cao và con có mục đích khi tới đây.

Đó chính là điều sa nhân muốn đạt được. Họ muốn chúng ta rơi vào trạng thái đó, mà tất cả chúng ta đều đã rơi vào, như nhiều vị huynh đệ tôn quý của thày đã nói. Con yêu dấu, chính thày quả thực cũng đã rơi vào trạng thái đó. Thày đã rơi xuống một điểm thấp đến độ những ai có quan niệm tôn thờ Phật sẽ từ chối không chấp nhận. Họ sẽ nói là đây không phải là đức Phật thật đang nói là đức Phật đã rơi xuống trạng thái thấp như vậy, vì đức Phật chắc chắn đã sinh ra toàn hảo. Thày đã không sinh ra toàn hảo, trong kiếp đầu thai cuối hay trong bất cứ các kiếp trước. Con yêu dấu, thày đã phạm những lỗi lầm mà nhiều người trong các con đã phạm.

25.3. Nếu con có quyền năng siêu nhiên thì sao?

Thày cũng đã có mong muốn có được quyền năng sẽ thức tỉnh con người và khiến họ không thể chối bỏ khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Thày đã phải vượt qua mong muốn này trong kiếp đầu thai cuối của thày. Quả thực là khai ngộ cuối cùng mà thày phải đối mặt, khi thày bị Ma vương cám dỗ, đã là ý muốn dùng khả năng của tâm, mà thày đã đạt được, để phản ứng lại các cám dỗ của Ma vương. Khi đó thày đã đạt được một tầng tâm thức của quả vị Phật, nên thày quả thực có một số khả năng mà thày có thể dùng để phản ứng lại các cám dỗ của Ma vương. Nhưng con yêu dấu, thày lại làm vậy để làm gì? Thày đạt được kết quả gì? Nếu thày chứng minh các khả năng của thày, thì thày sẽ đạt được kết quả gì trong công việc giúp sự sống tiến triển?

Con cần tự mình ngẫm nghĩ điều này nếu con nhận ra là con có mong muốn có quyền năng siêu nhiên. Con cần xem xét con sẽ đạt được gì nếu con có quyền năng mà đôi khi con mơ tưởng mình có. Nếu con sử dụng quyền năng đó, thì con sẽ thực sự đạt được kết quả gì?   

Đầu tiên hết con cần nhận ra là sẽ có một số sinh thể, một số người, sẽ chối bỏ tức khắc là biểu hiện đã xảy ra, dù rằng họ đã thấy nó với chính mắt họ. Có những người đã thấy Giê-su đi trên nước và uống rượu mà trước đó Giê-su đã biến ra từ nước, và họ không tin những điều đó. Họ không tin những chuyện mà giác quan của chính họ đã trải nghiệm. Sau khi hiện tượng xảy ra, thì tâm lý trí, phân tích của họ bắt đầu nghi ngờ là chuyện đó đã thực sự xảy ra. Họ bắt đầu nghi ngờ là các hiện tượng đó là chỉ dấu Giê-su đã đạt được sự điều ngự tâm linh. Họ nghĩ rằng có sự gì gian trá bên trong. Họ nghĩ đó là những gian trá của ác quỷ và do đó Giê-su không phải là một vị thày tâm linh thật, thày không phải là đấng Cứu thế vân vân và vân vân. Lẽ dĩ nhiên, sa nhân lập tức tìm cách chống lại những chứng minh quyền năng cao của Giê-su bằng cách khiến con người tin rằng tà lực và ác quỷ đã đánh lừa họ, hay là chúng đã nhập vào Giê-su để thực hiện những trò bịp bợm đó.

Nếu con chuyển sang thời hiện đại, thì các nhà duy vật sẽ tức khắc nghi ngờ là những hiện tượng đó đã xảy ra. Nhiều nhà duy vật sẽ nói là tuy nhiều người đã thấy các biểu hiện bên ngoài đó, nhưng đó chỉ giản dị là tâm họ và tâm tập thể đã đánh lừa họ để họ nghĩ là họ đã thấy những hiện tượng đó, nhưng sự thực thì chúng không có thật. Nếu con suy ngẫm chuyện này, thì con nhận ra là không có bất cứ điều gì mà tâm vỏ ngoài (tâm xác thịt, tâm con người, tâm lý trí, phân tích, đường thẳng) không thể nghi ngờ.

Thực tế là, con yêu dấu, con không bao giờ có thể chứng minh bất cứ điều gì trên một hành tinh có vật chất dày đặc, có tâm thức dày đặc như trái đất. Tại sao vậy? Bởi vì chức năng cốt yếu của một hành tinh có vật chất dày đặc là cho con người một trải nghiệm trầm mình trong đó họ có thể trải nghiệm họ là một sinh thể tách biệt.

25.4. Mục đích của các hành tinh có vật chất dày đặc

Để có được trải nghiệm đó, con không thể có khung tham chiếu mà con có trên một hành tinh tự nhiên, là nơi con cảm thấy sự kết nối với một cái gì lớn hơn là ý niệm bản ngã hiện thời của con, con cảm thấy cái một trong mọi sự sống. Đây không phải là một hiểu biết bằng trí năng mà con có trên một hành tinh tự nhiên. Đây là một trải nghiệm, một trải nghiệm nội tại – mà ngày nay con gọi là “trực nhận” – nhưng trên một hành tinh tự nhiên nó được coi như một trải nghiệm tự nhiên. Nó tự nhiên như khi con mở mắt và thấy mặt trời.

Con không thể có khả năng này nếu con muốn có trải nghiệm trầm mình. Những người trong giai đoạn trầm mình không có ý niệm cái một trong mọi sự sống. Đó chính là lý do vì sao họ không có khung tham chiếu giúp họ có được cảm nhận không thể chối cãi là cuộc sống có cái gì cao hơn những gì họ trải nghiệm qua cái ngã tách biệt. Họ không thể thấy điều mà con thấy khi con thức tỉnh và nhận ra khía cạnh tâm linh của đời sống. Con yêu dấu, không có gì con có thể nói, không có gì con có thể làm, có thể giúp những người đang trong giai đoạn trầm mình trải nghiệm một thực tại cao hơn, như con đã trải nghiệm và nhiều người trong các con coi là đương nhiên, vì các con đã có trải nghiệm này từ quá lâu nên nó có vẻ đương nhiên với con.

Nhiều người trong các con đã có cảm nhận nội tại rằng mình nối kết với một cái gì lớn hơn trong suốt kiếp sống này. Ngay cả khi các con còn thơ ấu, con không thể hiểu vì sao người khác không có cảm nhận đó. Khi con lớn lên, con đã có khi tự hỏi làm sao con có thể nói người khác biết về khía cạnh tâm linh của cuộc sống vì nó quá hiển nhiên với con, nhưng người khác không thấu hiểu được. Họ không thấy điều này hiển nhiên, họ cảm thấy bị đe dọa và họ bác bỏ nó.

Ấy, con yêu dấu, con hiểu chăng là những người đang trong giai đoạn trầm mình bắt buộc phải bác bỏ tầm nhìn cao hơn của con. Vì nếu không họ không thể tiếp tục trầm mình, tiếp tục tự đồng hóa với trái đất và cái ngã vỏ ngoài. Lẽ tự nhiên, chúng ta biết là có nhiều người không tự nguyện ở trong giai đoạn trầm mình. Họ đã bị sa nhân lừa dối, họ đã bị sa nhân thao túng để chấp nhận những khuôn nếp phản ứng giữ họ trong trạng thái trầm mình.

Nếu con tưởng tượng một kịch bản lý tưởng, thì con có thể nói là tất cả những cư dân nguyên thủy của trái đất hiện đang đầu thai đáng lẽ đều đã thăng thiên. Tuy nhiên, vì có luật tự quyết, thì một kịch bản lý tưởng chỉ là một ước tính vì quyền tự quyết phải được phép tự trải bày. Con có thể nói là khi một hành tinh được tạo ra, khi một số dòng sống đầu thai lần đầu trên hành tinh đó, thì có thể có một kịch bản lý tưởng ước tính họ có thể tăng triển như thế nào. Vì có luật tự quyết, nên kịch bản lý tưởng không là thực tế nhất định, và do đó các chân sự thăng thiên sẽ không cho rằng mọi chuyện đã hoàn toàn thất bại nếu kịch bản lý tưởng không được hoàn thành. 

25.5. Chứng minh có chọn lựa khác

Các thày cho phép con người đi lạc vào những nẻo mà họ cần đi vào. Lẽ dĩ nhiên, tình trạng cũng có thể tới chỗ ta có thể nói là sa nhân đã khiến con người đi vào các khuôn nếp phản ứng đó. Con người không có cách cư xử nào khác khuôn nếp phản ứng, do đó ta có thể nói điều chính đáng là các avatar tới đầu thai ở đây để chứng minh là có chọn lựa khác. Con yêu dấu, mục đích của các thày khi trao truyền giáo lý (kể cả trong quyển sách mới) về việc các avatar tới đầu thai trên trái đất, là để nói với các con là các con không đến đây để thực hiện một thay đổi đặc thù trên hành tinh này. Con tới đây chỉ để chứng minh có chọn lựa khác.

Điều này có nghĩa là con cần cho phép những người chưa sẵn sàng hay chưa chịu bước ra khỏi giai đoạn trầm mình, chối bỏ con và bác bỏ những gì con nói. Thày muốn thêm vào những gì Giê-su đã nói, và nói ở đây là khi con xuống đây và gánh chịu chấn thương nhập đời nguyên thủy và tạo ra cái ngã gốc (cái ngã tách biệt đầu tiên mà con tạo ra) (primal self), thì nhiều người trong các con không hoàn toàn nắm vững thực tế của luật tự quyết. Con lúc đó không hoàn toàn chấp nhận là vai trò của con chỉ là nêu tấm ngương mà không thực hiện một thay đổi đặc thù. Con đã tạo ra ngã gốc vì con mong muốn thực hiện một thay đổi nào đó, và điều này đã khiến con mong muốn có được quyền năng đặc biệt thể hiện một biểu hiện đặc biệt mà con người không thể phớt lờ hay bác bỏ. Để hoàn toàn buông bỏ ngã gốc, để thấy là nó không thật, con cần nhận ra là vì có luật tự quyết, con đã có một mong muốn quá quắt, trái luật. Con có mong muốn ép buộc con người thức tỉnh vì như vậy tốt cho họ.

25.6. Làm gì và làm cách nào

Con yêu dấu, sa nhân có gì? Họ có mong muốn ép buộc con người không thức tỉnh vì đây là điều tốt cho họ, tốt cho sa nhân. Điều con cần nhận ra ở đây là, lẽ tự nhiên, trong cương vị một avatar con không nên có mong muốn ép buộc con người thức tỉnh vì như vậy tốt cho họ. Đó là lý do vì sao con tiến thêm bước nữa và nhìn vào ngã gốc mà con đã tạo ra và có mong muốn áp đặt một thay đổi nào đó trên trái đất, ép buộc con người thay đổi bằng cách nào đó, ép buộc họ thức tỉnh. Con cần nhận ra là dù mong muốn này phát sinh từ thiện tâm, nhưng nó cũng phát sinh từ một điều mà các thày đã giảng trước đây: đó là nhiều người hiểu cần làm gì, nhưng họ không có một cái nhìn thực tế là làm cách nào. Con đã tới đây với hiểu biết đúng đắn là trái đất cần thay đổi và con người nên rốt cuộc thức tỉnh. Nhưng con có một hiểu biết không thực tế về cách thực hiện chuyện này, kể cả nghĩ rằng vì sa nhân đã dùng bạo lực để ru ngủ con người, thì con được quyền dùng một bạo lực nhẹ hơn để thức tỉnh họ.

25.7. Một mong muốn vị tha để thỏa mãn cái ngã

Giờ đây, con cần tiến thêm bước nữa và xem xét cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra và nhận ra là tuy ngã tách biệt tin chắc là nó chỉ muốn thức tỉnh con người vì như vậy tốt cho họ, nhưng sự thực là ngã tách biệt muốn thức tỉnh con người vì như vậy tốt cho con, tốt cho . Nói cách khác, mong muốn thức tỉnh con người, sau khi con đã tạo ra ngã tách biệt, thực sự là để con cảm thấy con đã hoàn thành những gì con muốn hoàn thành khi tới trái đất này, nhưng con vẫn chưa hoàn thành được.

Con có thấy chăng là ngã tách biệt tin chắc là nó làm thế vì như vậy tốt cho mọi người, nhưng thực ra đó là vì như vậy tốt cho con, để con thực hiện được mục đích mà con đã tự định ra? Khi con còn nhìn đời qua ngã tách biệt, ngã gốc, thì con sẽ tiếp tục nghĩ là con muốn thức tỉnh con người vì như vậy tốt cho họ, nhưng đó là vì như vậy “tốt” cho con, vì con được cảm thấy thoải mái với việc mình đã tới trái đất.

Lẽ dĩ nhiên, điều này dễ hiểu, ta cũng có thể nói là “tự nhiên”, là khi con tới trái đất và gánh chịu chấn thương nguyên thủy, thì con bị chấn động rất mạnh và không thoải mái với việc mình ở đây, con không thoải mái với việc mình đã đến đây. Do dó, điều tự nhiên là con mong muốn tới được điểm con cảm thấy thoải mái với việc mình ở đây, với việc mình đã đến đây. Con nghĩ rằng, khi con còn ngã tách biệt đó, cách duy nhất để con cảm thấy thoải mái với việc mình đã đến đây là thực hiện mục đích mà con đã định ra khi tới đây.

Điều được nói trong quyển sách mới, một cách vừa gián tiếp vừa tiềm ẩn, là con cần tới điểm nhận ra là hiểu biết, nhận biết mà con có khi con tới đây không phải là nhận biết cao nhất. Chắc chắn là lúc đó, con ở trạng thái tâm thức cao hơn đa số cư dân trái đất, nhưng con không có hiểu biết cao nhất về luật tự quyết và cách nó vận hành. Khi con còn nắm chặt viễn quan nguyên thủy đó, mục đích nguyên thủy đó, thì con không thể cảm thấy thoải mái với việc mình đã đến đây cho tới khi mục đích đó được hoàn thành. Vì bây giờ con nhận ra là mục đích đó không bao giờ hoàn thành được vì có luật tự quyết, thì có nghĩa là khi con còn nắm chặt mong muốn đó, thì con không thể nào cảm thấy thoải mái với việc mình ở trên trái đất.

Thay đổi mà các thày muốn trình bày cho con, mà con cần phải thực hiện, là con cần để cho cái ngã đó chết đi. Khi đó, con tới điểm chấp nhận, như Giê-su đã giảng một cách rất hùng hồn, là con tới đây để là người con là, để tỏa chiếu ánh sáng của con, để cho con người một tấm gương, một khung tham chiếu. Khi con xoay chuyển tầm nhìn, như tất cả các thày đã làm (hay ít ra là hầu hết các thày, trừ những người đã tạo ra một ngã gốc khác), thì con sẽ trút bỏ được gánh nặng cảm thấy không thoải mái với việc mình ở đây, cảm thấy nếu thay đổi này hay thay đổi kia xảy ra thì con sẽ cảm thấy thoải mái với việc mình ở đây. Con cũng có thể trút bỏ hết gánh nặng trách cứ mình đã tới đây, cảm thấy: “Tôi đã quá ngu dốt khi tôi tình nguyện xuống một hành tinh như thế này”. Các cảm nhận này sẽ tan biến đi khi con trải qua tiến trình tuần tự cho tới khi con tới điểm con có thể rũ bỏ chúng. Lúc đó, con yêu dấu, con có thể cảm thấy thoải mái với việc mình ở đây bằng cách giản dị là gì con là.

25.8. Cảm thấy thoải mái là người con là

Con yêu dấu, con thấy chăng là khi con tạo ra cái ngã muốn làm điều gì trên trái đất, thì con không thể là người con là. Đó không phải là người con là. Qua cái ngã đó, cho dù ngã đó cảm thấy nó đã hoàn thành mục đích của nó, con vẫn không thể nào cảm thấy thoải mái với chính mình hay với việc con ở đây. Con chỉ có thể cảm thấy thoải mái với việc mình ở đây khi con cảm thấy thoải mái với chính mình, và cảm giác này chỉ có thể tới từ bên trong. Nó không thể tùy thuộc bất cứ thành quả bên ngoài nào, bất cứ kết quả bên ngoài nào mà con có thể thực hiện trên hành tinh này hay bất cứ hành tinh nào khác. Ngay cả trên một hành tinh tự nhiên, con không thể cảm thấy một cách tối hậu thoải mái với chính mình qua những thành quả bên ngoài của mình. Con phải phát triển cảm nhận từ bên trong cảm thấy thoải mái với chính mình giản dị dựa trên con là ai.

Điều này cho thấy gì về những người trong chúng ta đã chọn lựa là avatar? Nó cho thấy là chúng ta đã chọn tới một hành tinh thấp hơn vì chúng ta chưa hoàn toàn phát triển cảm nhận quý trọng mình là ai từ bên trong chính mình. Chúng ta vẫn còn nghĩ là phẩm giá của mình, cảm nhận thoải mái với chính mình, dính liền với các thành tựu, thành quả của mình. Đó là lý do vì sao chúng ta quyết định cho mình một mục đích khác, đặt mình vào một chu kỳ khác, và lần này đặt cho mình một mục đích khó hơn là đạt được điều không thể đạt được trên một hành tinh tự nhiên, đó là đem lại thay đổi trên một hành tinh không tự nhiên.

Thách đố mà chúng ta đối mặt để có thể thăng thiên là tới điểm hoàn toàn buông bỏ mong muốn cảm thấy thấy thoải mái với chính mình trên căn bản những thành tựu và thành quả của mình, trên căn bản những gì mình đã làm. Con cần tới điểm cảm thấy thoải mái với chính mình trên căn bản mình là ai, mình là , Sinh thể mà con là.

25.9. Khai ngộ sử dụng quyền năng siêu nhiên

Đây là khai ngộ mà thày giáp mặt khi ngồi dưới cội Bồ đề và bị Ma vương thử thách. Thày có thể dùng quyền năng siêu nhiên để làm điều gì, khiến ác ma chấn động và khâm phục. Thày bị cám dỗ trong một giây lát. và đã tới “gần kề” quyết định sử dụng quyền năng đó. Nhưng thày đã có thể tự kiềm chế, giữ tâm không dính mắc, và dùng thủ ấn chạm đất (động tác chạm đất với các ngón tay của một bàn tay) để chạm mặt đất và kêu lên: “Vajra (Kim cương)!” Thày có quyền ở đây mà không làm gì, và chỉ (mà không phải là chỉ) bằng cách là. Con cũng có thể tới điểm đó khi con buông bỏ mong muốn làm bất cứ điều gì trên trái đất.

Điều này không có nghĩa là con sẽ ngồi dưới một gốc cây phần còn lại của cuộc đời và không làm gì cả. Con rất có thể có một cuộc đời tích cực. Con cũng có thể, như Giê-su có nói, có một cuộc đời “bình thường” và biểu hiện bản thể cao của con qua cuộc đời thoạt trông bình thường đó. Con cũng có thể làm một số chuyện tạo được thành quả trong thế gian và cải thiện điều kiện sống trên trái đất, nhưng con không làm từ cái ngã tách biệt lúc nào cũng cảm thấy thiếu thốn, bất toại nguyện. Con chỉ là gì con là và để ánh sáng của Dòng sông sự Sống tuôn chảy xuyên qua con. Con để ánh sáng làm công việc của nó thay vì con làm với tâm vỏ ngoài cảm thấy phải làm việc này, hay cảm thấy chính mình đã hoàn thành việc này. Con nhận ra với Giê-su: “Tự ta, ta không làm được điều gì cả.”

Các con yêu dấu, các thày rất hân hoan được trao truyền các giáo lý này ở hội nghị này, sẽ giúp vị sứ giả hoàn thành một quyển sách là khía cạnh Omega của quyển sách mới. Các con có một số dụng cụ và giáo lý giúp con thiết lập một thủ tục từng bước tháo gỡ những dính mắc mà các avatar thường có. Điều này có nghĩa là con có thể dần dần tới điểm con ngồi yên, giáp mặt Ma vương, chế ngự cám dỗ hành động xuyên qua cái ngã tách biệt muốn làm, muốn người khác khâm phục, muốn ép buộc. Thay vào đó, con có thể trụ vào bên trong, chạm đất và tuyên bố quyền ở đây trong trạng thái tâm là thuần khiết, khác với “mong muốn làm” của tâm thức nhị nguyên.

Dù một số trong các con chưa trải qua tiến trình này và chưa hoàn toàn tới điểm này, nhưng thày muốn các con làm thực tập này với thày. Con hãy giơ bàn tay phải ra, chĩa xuống phía dưới, thày biết là các con không thể chạm mặt đất vì đang ngồi trên ghế, nhưng con hãy tưởng tượng, hình dung là ngón tay con chạm mặt đất. Sau đó, chúng ta cùng nhau nói: “Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra,” và một lần cuối: “Vajra.” 

Như vậy, mọi chuyện đã tác thành và thày niêm phong con, niêm phong hội nghị này trong tình thương và niệm vui của Phật, mà TA LÀ.

22 | Giải thoát mình khỏi những ham muốn bất khả thi

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 2 tháng 12 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô và thày có mặt ở đây để trao cho các con bài giảng về lòng tự trọng đặc biệt dành cho những người trong các con mà các thày chọn gọi là avatar. Các thày đã chọn chữ này vì nhiều lý do, những lý do đã được các con biểu hiện khi phản ứng lại chữ này hay khái niệm này. Tất cả những điều các thày làm đều có mục đích nâng cao tâm thức con người, và đôi khi các thày phải làm chuyện này bằng cách khiêu khích, hay thách thức một số hình ảnh và niềm tin của con người. Thực vậy, con thấy thày đã làm điều này nhiều lần khi thày sống trên trái đất và gặp các thày thông giáo và Pha-ri-si và những cá nhân hay nhóm người khác có tâm khép kín.

Các con yêu dấu, quả thực các quốc gia trước kia nằm dưới gông cùm cộng sản cần làm điều gì đó để gia tăng lòng tự trọng của dân chúng, nhưng ở đây thày muốn đi xa hơn và nói với các con nào đã tới trái đất với một mục đích đặc trưng, không phải do nghiệp quả bắt con xuống đây hay vì hành tinh của con đã thăng thiên và con không thăng theo được. Con tới đây với một mục đích đặc trưng là con muốn là cánh cửa mở, là tấm gương chỉ cho mọi người thấy có một tâm thức khác, không phải là tâm thức đang ngự trị trên hành tinh này. Khi con tới đây, có thể là con có một ý định nào đó, một mục đích nào đó, một ý niệm nào đó về điều con muốn thay đổi trên trái đất.

22.1. Lòng tự trọng tương đối

Điều thày mong con nhận ra ở đây là khi các thày nói tới lòng tự trọng theo nghĩa vỏ ngoài, thì đối với người thế gian, lẽ dĩ nhiên, tất cả mọi người rất cần có lòng tự trọng vì họ thường hoạt động tốt hơn trong cuộc sống của họ so với khi họ không có lòng tự trọng hay có lòng tự trọng rất thấp. Bây giờ, ta có thể nói là mọi người đều có lòng tự trọng. Nó chỉ là chuyện họ thấy họ như thế nào, họ định nghĩa họ như thế nào. Họ định nghĩa họ một cách tích cực hay tiêu cực? Tuy nhiên, điều chúng ta có thể nói về hầu hết mọi người trên thế gian là họ có một lòng tự trọng tương đối vì nó liên quan tới một điều gì đó thuộc về thế gian. Nếu con là một lực sĩ nhảy xa, thì lòng tự trọng của con có thể liên quan tới chuyện con nhảy được bao xa. Nếu con là một thương gia, lòng tự trọng của con có thể liên quan tới số tiền con có hay số tiền con thu nhập.

Con thấy là nhiều người trên thế gian đã tạo ra lòng tự trọng tương đối dựa trên một thước đo liên quan tới thành quả nào đó của họ trong thế gian. Giờ đây, điều này không nhất thiết là sai trái hay dở. Đây là một giai đoạn cần thiết trong tiến trình phát triển của một sinh thể. Các thày có nói là một trong những mong muốn cơ bản của con người là họ nỗ lực làm điều gì đó và họ nhận lãnh kết quả tốt, hay một sự thưởng công cho cố gắng của họ. Con có thể nói là một biểu hiện của lòng mong muốn cơ bản này là con tạo ra lòng tự trọng dựa trên một thang điểm đo lường thành quả của con. Lẽ tự nhiên, thành quả của con càng cao trên thang điểm này, lòng tự trọng của con càng nhiều. Chúng ta có thể gọi nó là lòng tự trọng cao theo ý nghĩa thế gian.

Giờ đây, có những người khác có một dạng tự trọng thấp kém. Thay vì so sánh thành quả của họ với những mục đích mà họ đặt ra, họ luôn luôn so sánh mình với người khác. Họ thành công hơn hay kém hơn người khác? Họ có nhiều hơn hay ít hơn người khác? Ta có thể nhìn đây vẫn là sự biểu hiện của lòng mong muốn cơ bản nỗ lực làm việc và gặt hái sự thưởng công. Nhưng rõ ràng đây là lòng tự trọng thấp kém hơn so với trường hợp con làm việc và chỉ so sánh mình với mình, nhưng nó vẫn chưa phải là lòng tự trọng có tính cách phá hoại.

22.2. Lòng tự trọng và địa vị

Giờ đây con có một loại tự trọng khác không liên quan tới thành quả nhưng liên quan tới địa vị của con trong một thứ bậc giả tạo do con người dựng lên. Tỷ dụ, con có thể có ý niệm là vì con là hoàng đế hay vua, con cao hơn người khác vì con ở địa vị đó. Con có thể có ý niệm là vì con có chức vụ nào đó trong guồng máy nhà nước, con cao hơn người dân thường. Con thấy được là loại tự trọng này không gắn liền với thành quả mà gánh liền với địa vị.

Giờ đây, trong một số trường hợp, lẽ dĩ nhiên để đạt tới chức vụ đó con phải nỗ lực, nhưng tầng thấp nhất của dạng tự trọng này gắn liền với một chức vụ mà con ngẫu nhiên có được qua sự thừa hưởng, qua việc tự cho mình quyền lực, hay bằng cách dùng bạo lực, lừa dối hay cách nào khác. Một khi con đạt được địa vị đó, con nghĩ rằng không có điều gì có thể thách thức địa vị của con và những người ở dưới con không thể thách thức địa vị này. Con thấy là dạng tự trọng này là tự trọng của sa nhân. Lẽ tự nhiên, họ cũng có một ý niệm tự trọng vì họ có quyền lực lớn. Như vậy lòng tự trọng mà họ có liên quan tới thành tích của họ, nó vẫn rõ ràng là một nguồn tự trọng thấp kém khi thành tích của người đó được đo lường dựa theo khả năng dùng quyền lực áp chế người khác.

22.3. Mâu thuẫn trong chữ tự trọng

Nếu chúng ta vượt lên trên tầng mức này, chúng ta có thể thấy là khi chúng ta nói về các avatar, khi chúng ta nói về những người tâm linh đang đi một cách ý thức trên con đường tâm linh (con đường nội tâm chân chính dẫn tới thăng thiên), thì chúng ta cần chú ý tới ý nghĩa cao hơn của lòng tự trọng. Chúng ta cần tự hỏi phải chăng có sự mâu thuẫn trong chữ “tự trọng.” Giờ đây, như Chân sư MORE đã nói tối hôm qua: “Có thể nào con thực sự nóng giận một cách không đặc trưng, hay con cần một đối tượng?” Cũng vậy, con có thể nói: “Có thể nào con thực sự cảm thấy trọng điều gì đó nếu con không có đối tượng để trọng?”

Tự trọng là gì? Nhiều người chưa định nghĩa từ này. Họ nghĩ rằng họ hiểu nghĩa của nó. Con quý trọng mình. Con nghĩ con là người tốt hay người có khả năng. Con cảm thấy thoải mái về mình, bất kể cái mình đó là gì. Cái ta được coi trọng là ai? Là người tâm linh con có thể thấy rõ ràng là đối với hầu hết mọi người trên thế gian, cái ta đó không phải là bản thể nội tâm, cái Ta Biết, bản thể thật của họ đang được quý trọng vì lòng tự trọng liên quan tới điều gì đó trên thế gian, do đó cái ta được trọng không thể nào là cái ta thật của họ. Nó chỉ có thể là cái ngã vỏ ngoài, một phần của cái ngã vỏ ngoài.

Ví dụ, con có thể nói là người lực sĩ nhảy xa đã quy định và tạo ra một cái ngã và khi anh nhảy được xa, cái ngã đó cảm thấy thoải mái, cảm thấy nó có khả năng, cảm thấy nó cao hơn người, hoặc cảm thấy bất cứ điều gì – nhưng nó là cái ngã vỏ ngoài. Kỳ thực, chuyện con nhảy được bao xa ngoài sân vận động có tầm quan trọng tâm linh nào chăng? Con thấy rất đông người trong xã hội đã tạo ra những cái ngã vỏ ngoài, những cái ngã tương đối, những cái ngã liên quan tới một điều kiện đặc thù trên thế gian. Khi họ sống theo những điều kiện này tới một mức nào đó, họ có thể cảm thấy thoải mái về mình và họ có thể cảm thấy mình có một giá trị nào đó. Họ có lòng tự trọng nào đó trong tâm họ và có thể cũng được sự tôn trọng trong tâm người khác.

Lẽ tự nhiên, các thày không mong muốn các con là những đệ tử trực tiếp của các thày bị hạn chế bởi dạng tự trọng này. Các thày mong muốn các con đạt được một tầng cao hơn của lòng tự trọng thật sự đến từ nội tâm và không liên quan tới thành tích của con hay địa vị trên trái đất. Quả thật, khi con xem xét thông điệp trong cuốn sách mới nói về sự tương phản giữa một hành tinh tự nhiên và trái đất, thì con có thể thấy là nếu lòng tự trọng của mình liên quan tới bất cứ điều gì trên một hành tinh thấp như thế này thì quả thực đây không phải là một dạng tự trọng cao mà con có thể có được. 

22.4. Một dạng tự trọng tâm linh

Các thày mong các con vượt lên trên lòng tự trọng vỏ ngoài, tương đối, thế gian, và đạt một dạng tự trọng cao hơn. Bây giờ, lẽ tự nhiên là khi con bắt đầu tìm thấy con đường tâm linh, thì con không có viễn quan và hiểu biết hoàn toàn rõ ràng về mục đích của đường tu và nó dẫn con tới đâu. Trong nhiều trường hợp con chú tâm vào con đường vỏ ngoài nhiều hơn là con đường bên trong. Trong nhiều trường hợp, các đệ tử tâm linh tạo ra một dạng ngã vỏ ngoài khác. Thay vì liên quan tới điều gì đó trong thế gian vật chất, thì nó liên quan tới thành tích của họ trên con đường tâm linh theo cái hiểu của họ.

Bây giờ, một lần nữa, điều này không quá tiêu cực. Nó chỉ biểu hiện sự kiện là khi con bắt đầu tìm thấy con đường tâm linh, thì con dùng động lực này để nỗ lực và gặt hái thành quả để quy định thế nào là một đệ tử tốt, thế nào là tiến bộ trên đường tu, thế nào là nỗ lực để tinh tấn. Con dùng nó để quy định một cái ngã và một cách để lượng định con đang ở đâu trong thành quả của con, và sau đó con có thể cảm thấy thoải mái với mình hay không thoải mái lắm với mình dựa trên tiêu chuẩn này. Đây lẽ dĩ nhiên là một giai đoạn con cần đi qua và sau đó con vượt thăng lên một dạng tự trọng cao hơn.

22.5. Lòng tự trọng tiêu cực

Trước khi thày nói sang phần này, thày muốn nói tới sự kiện là cũng có những người đã quy định một cái ngã mà thày gọi là tiêu cực và điều này khiến họ có lòng tự trọng tiêu cực. Nói cách khác, con có thể có lòng tự trọng mà các thày gọi là tích cực trong đó thành quả của con có thể cao hay thấp, nhưng các con vẫn không phải là người hoàn toàn thất bại. Mặt khác, con thấy chăng, lẽ dĩ nhiên, trong thế gian có nhiều người đã quy định một ý niệm bản ngã tiêu cực trong đó họ thấy là có điều gì sai trái với họ. Đây không phải là chuyện cao hơn hay thấp hơn, đây là chuyện họ cảm thấy họ thấp hay thấp hơn nhiều.

Một trong những hệ quả của chế độ cộng sản là nhiều người có lòng tự trọng tiêu cực cho rằng họ chỉ có thể dở như vậy hay tệ hơn. Nhiều tín đồ Cơ đốc cũng như thế, họ cảm thấy họ là người tội lỗi và do đó họ quy định một ý niệm bản ngã tiêu cực. Một lần nữa, cảm nhận này cũng có thể có một thang điểm trong đó con có thể cảm thấy con là người tội lỗi, nhưng một số người tội lỗi tệ hơn người khác do đó có thể là con không tệ như những người kia đã làm chuyện này chuyện nọ. Điều này vẫn rất tương đối. Con thấy nhiều thí dụ như thế trên thế gian, nhưng điều thày muốn chỉ cho các con là một số trong các con là những avatar và người tâm linh cũng đã từng, thường khi là trong các kiếp trước, quy định một cái ta tiêu cực như thế trong đó các con cảm thấy mình có gì đó sai trái. Con cảm thấy là con đã phạm một lỗi lầm trong quá khứ hay có điều gì đó sai trái về mình, và do đó trên thang điểm này, con không thể thực sự cảm thấy mình ở quá điểm trung bình. Lúc nào con cũng ở trong phần tiêu cực và vấn đề chỉ là con thấp bao nhiêu, con cảm thấy mình sai trái bao nhiêu.

Nhiều người trong các con đã tạo ra những cái ngã này vì các con gặp những hoàn cảnh trong đó con cảm thấy mình đã thất bại không đạt được mục tiêu của mình. Nói cách khác, con có một mục tiêu nào đó nhưng con hoàn toàn thất bại không đạt được mục tiêu này và do đó con quyết định là tự thân con sai trái hay có khuyết điểm nào đó. Sau đó điều này tạo ra những ngã tiêu cực không thể cho con lòng tự trọng mà chỉ có thể cho con điều ngược lại. Lẽ dĩ nhiên con có thể tạo ra những ngã tiêu cực này qua nhiều cách, nhưng điều thày thực sự muốn nói tới là trong nhiều trường hợp, con đã tạo ra những ngã tiêu cực này vì con đã tương tác với các sa nhân. Đây là chỗ con cần hiểu mối tương tác giữa một avatar và một sa nhân như thế nào. Lẽ tự nhiên, cuốn sách mới mô tả đề tài rất, rất rõ và chi tiết, nhưng nó chưa đi sâu vào tâm lý, ít nhất là ở khía cạnh mà thày muốn nói tới ở đây.

22.6. Muốn được sa nhân chấp nhận

Giờ đây, ở một mức hời hợt hơn, chúng ta có thể nói là khi con ở trên một hành tinh tự nhiên, con chưa từng, chưa bao giờ gặp một ai chỉ trích con hay hạ thấp con. Con chỉ gặp những người khuyến khích con và cho con phản hồi tích cực. Điều này không có nghĩa là các vị thày hay ngay cả những người ngang hàng với con trên một hành tinh tự nhiên luôn luôn đồng ý với con về những gì con đang làm, hay nghĩ rằng điều đó là điều hay nhất có thể làm được. Họ luôn luôn cho con phản hồi là con có thể làm hay hơn như thế nào, họ không nói con hay điều con làm có gì sai trái. Con chưa bao giờ gặp chuyện như thế. Ở trên một hành tinh tự nhiên con đã xây dựng sự chờ đợi là khi con làm điều gì tích cực cho người khác, ít nhất là họ không tiêu cực về chuyện này, nhưng có nhiều xác suất là họ cảm kích về điều con làm cho họ. Nói cách khác, khi ý định của con tốt lành, họ không hạ thấp con vì họ nhận ra là con đã hành động với ý định tốt lành nhất.

Có thể nói là nó tạo ra cho con một chờ đợi và ngay cả một mong muốn là người khác sẽ tán thành con và chấp nhận con, và chấp nhận là con có ý định tốt. Có thể nói đây không thực sự là cái mà chúng ta gọi là “lòng mong muốn” trên trái đất. Đó chỉ là vì với những gì con trải nghiệm trên một hành tinh tự nhiên, con có một chờ đợi tự nhiên là khi con làm điều gì cho người khác với ý định tốt lành nhất (và lẽ dĩ nhiên là con chỉ có ý định tốt lành trên một hành tinh tự nhiên), thì họ sẽ chấp nhận con và chấp nhận nỗ lực của con một cách tích cực. Họ có thể đề nghị một cách làm hay hơn, nhưng họ sẽ không hạ thấp con hay chỉ trích con vì con đã có ý tốt lành.

Khi con tới một hành tinh như trái đất và con gặp các sa nhân, con cũng tới đây với ý định tốt lành nhất. Những gì con làm cũng được làm với ý định tốt lành nhất, nhưng khi đó con trải nghiệm là sa nhân không chấp nhận con, không chấp nhận ý định của con, không trân quý bất cứ điều gì con làm. Họ hạ thấp con khi con làm bất cứ điều gì, và ngay cả vì con là con. Dù con không bị hình thức tra tấn cùng cực đã được mô tả trong quyển sách, con vẫn trải nghiệm hiện tượng này. Con sẽ gặp sa nhân trên hành tinh và con sẽ trải nghiệm là họ không chấp nhận con, không tán thành con. Lúc đầu con sửng sốt. Con không thể hiểu được điều này, nhưng có một số avatar sau đó, có thể là trải qua một số kiếp sống, từ từ gày dựng ý muốn được sự tán thành của sa nhân. Con thấy chăng, con yêu dấu, Portia có nói là có một số ít nỗ lực trên trái đất này vô bổ hơn là đi tìm sự tán thành của cái ngã nam tính, nhưng có một nỗ lực vô bổ hơn, đó là nỗ lực tìm sự tán thành của sa nhân. Nhiều người trong các con có vết thương sâu thẳm khi đi tìm sự tán thành của sa nhân, không nhận được nó mà còn nhận được cái ngược lại. Trong nhiều trường hợp, nó càng khiến con hăng hái hơn muốn tìm sự tán thành của sa nhân, muốn hiểu họ. Làm sao con có thể thực sự làm cho họ hài lòng, làm sao con có thể làm điều gì mà họ tán thành, làm sao con có thể giúp họ?

22.7. Tìm cầu cái bất khả thi

Con có thể rơi vào vòng xoáy tìm cầu điều này và lúc đầu con không nhận ra sự tìm cầu này bất khả thi. Nó có thể mang lại cho con những vết thẹo và gánh nặng tâm lý sẽ từ lần phát triển thành những cái ngã tiêu cực. Cái ngã không đáp ứng một cách thuận lý nhưng nó phản ứng lại những cảm xúc bị hạ thấp lần nữa và lần nữa và lần nữa. Đây là một cái ngã đầy cảm xúc chỉ có thể có lòng tự trọng tiêu cực và vấn đề chỉ là nó tiêu cực đến chừng nào. Nói cách khác, có thể có những lúc sa nhân chỉ phớt lờ con và điều đó dẫn tới một mức tự trọng tiêu cực nào đó. Có những lúc khác sa nhân trực tiếp chỉ trích con, hạ thấp con hay giết con và điều này làm cho con bị một mức tự trọng sâu và thấp hơn trên thang điểm tiêu cực.

Nhiều người trong các con có những cái ngã này vẫn còn lởn vởn trong bốn thể phàm, thường là ở trong thể tình cảm. Đây có thể là những cái ngã rất thô, rất nhạy cảm. Con có thể thấy được trong kiếp này con đã rất nhạy cảm với chuyện người khác, cha mẹ, thày cô, anh chị em hay ai ai đó tán thành hay không tán thành con. Do đó, con đã bị tổn thương nhiều lần vì những gì người khác đã làm hay không làm đối với con. Có thể là con không gặp hay có gặp sa nhân trong kiếp này, nhưng họ không đối xử tàn ác khốc liệt đối với con như được mô tả trong quyển sách. Nhưng họ vẫn đã phớt lờ con hay hạ thấp con một cách nào đó. Những cái ngã này của con, lẽ dĩ nhiên, có thể bị tổn thương bởi những người khác không riêng gì sa nhân. Những cái ngã này rất nhạy cảm với sự tán thành của người khác cho nên bất cứ ai cũng có thể khuấy động chúng lên và khiến cho con có một niềm tự trọng tiêu cực.

Lẽ tự nhiên, mong muốn của các thày là giúp con khắc phục được điều này, buông bỏ các ngã này và nhận ra chúng chỉ là những ngã tách biệt. Chúng chỉ giản dị là những ngã vỏ ngoài đã được tạo ra và chúng không phải là con (như chân sư MORE đã nói). Khi con nhận ra chúng là những vật thể (con cũng có thể gọi chúng là những khía cạnh của tự ngã, con có thể gọi chúng là “phàm linh nội tại”, con có thể gọi chúng là những “cái ngã”, gọi tên gì không quan trọng), nhưng khi con thấy điều này và con có thể tách mình ra khỏi chúng, thì con có thể bắt đầu buông bỏ chúng.

Lẽ dĩ nhiên, có thể có năng lượng còn bị tồn đọng trong con và con có thể được lợi lạc khi đọc các bài thỉnh và bài chú để chuyển hóa năng lượng. Điểm mấu chốt là con cần tới điểm nhận ra các ngã này đã được tạo ra từ một ảo tưởng. Ảo tưởng nào của con đã dẫn con tới chuyện tạo ra những ngã này khi con phản ứng lại sa nhân? Ấy, ảo tưởng căn bản là chờ đợi mọi người chấp nhận con khi con làm điều gì cho người khác với ý định tốt lành nhất. Họ sẽ tán thành con, dù họ không tán thành tất cả mọi chuyện con làm.

22.8. Sa nhân sẽ không bao giờ tán thành các avatar

Con yêu dấu, con cần tới điểm nhìn nhận là trên cơ bản một sa nhân sẽ không thể nào tán thành một avatar. Điều này không thể nào làm được. Sa nhân sẽ không bao giờ chấp nhận hay tán thành một avatar ngày nào họ còn ở trong tâm thức sa ngã. Họ chỉ có thể thấy các avatar là mối đe dọa vì họ cảm thấy được trong tiềm thức là người avatar có nhiều ánh sáng hơn họ và vì thế họ cảm thấy bị đe dọa. Vì bản chất sa nhân là vậy nên họ phải cảm thấy bị đe dọa và do đó họ sẽ không bao giờ chấp nhận hay tán thành một avatar. Con cần tới điểm nhận ra là khuôn nếp con có ở các hành tinh tự nhiên và con mang theo tới trái đất giản dị là không thích hợp với một hành tinh như thế này. Do đó, con phải cố gắng một cách ý thức chấp nhận điều này và con sẽ giản dị buông bỏ mong muốn này, chờ đợi này khi con ở trên trái đất.

Sa nhân có tán thành con hay không thực sự không quan trọng ở tầm kích hoàn vũ (ở tầm kích sự tăng triển tâm linh và thăng thiên của con). Sa nhân tuyệt đối không có quyền năng gì trong sự thăng thiên của con. Việc họ không tán thành con không ngăn trở con thăng thiên. Việc họ tán thành con không giúp con thăng thiên. Việc họ không tán thành con có thể ngăn trở con thăng thiên nếu con chấp nhận nó, đem nó vào bên trong mình và nuôi cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra. Đây không phải là sa nhân quy định điều đó, đây chính là phản ứng của con đối với sa nhân. Không một sa nhân nào có thể ngăn trở sự thăng thiên của con một cách trực tiếp. Họ chỉ có thể làm được điều này nếu con cho họ quyền lực nào đó trên bản thể của con qua việc tạo ra những cái ngã phản ứng lại họ.

22.9. Những chờ đợi thiếu thực tế của con về trái đất

Khi con nhận ra điều này, con có thể thấy được là gần như con không thể tránh khỏi, như được mô tả trong quyển sách, là khi con ở trên một hành tinh tự nhiên và con nhìn trái đất và con quyết định tới trái đất, con sẽ có một số chờ đợi thiếu thực tế, không những về cuộc sống trên hành tinh này, mà cũng về phản ứng của con đối với trái đất. Con cần nhận ra đây là những chờ đợi thiếu thực tế và do đó con cần buông bỏ chúng. Chúng dựa trên cuộc sống trên một hành tinh tự nhiên. Trên một hành tinh tự nhiên chúng là những chờ đợi phải chăng nhưng con đâu sống trên một hành tinh tự nhiên, phải không con? Thày giả định là không một ai trong chúng con nghi ngờ chuyện này. Con có thể thấy là những mong chờ này không thực tế ở đây. Giản dị là con phải buông bỏ chúng, và con buông bỏ được khi con thấy một cách ý thức thực chất của chúng và con hiểu những giáo lý các thày đã trao cho các con, trong quyển sách cũng như trong các bài truyền đọc ở đây.

Đây là chuyện mong chờ thiếu thực tế là sa nhân sẽ phản ứng với con như thế nào. Bây giờ, có một tầng mong chờ khác vì lẽ dĩ nhiên con cũng có mong chờ là con sẽ phản ứng như thế nào với sa nhân và cuộc sống nói chung trên trái đất. Những mong chờ này vi tế hơn, và chúng liên quan tới điều mà thày nói trước đây là con có một mong muốn nào đó, một lý do nào đó để tới đây. Con muốn đem lại thay đổi tích cực trên hành tinh. Con thấy chăng, con yêu dấu, giống như những người đã tạo ra một thang điểm đo lường họ nhảy bao xa trên sân vận động và họ đã tạo ra một cái ngã để đo lường lòng tự trọng của họ dựa trên thành quả nhảy của họ, thì con như một avatar cũng có thể đã tạo ra một cái ngã đo lường thành quả của mình trong việc hoàn thành mục tiêu mà con có trong tâm trước khi con tới đây?

Ví dụ, nhiều người trong các con chờ đợi là dù con đã biết đây là một hành tinh thấp và ở đây có chiến tranh và tra tấn và đủ loại tàn sát và đảo điên, con vẫn có thể giữ tâm mình tích cực và con sẽ không rơi vào vòng xoáy phản ứng tiêu cực với sa nhân hay các điều kiện trên trái đất. Như Chân sư MORE đã nói, con nghĩ là con sẽ không nổi giận, sẽ không sợ, sẽ không phản ứng tiêu cực, sẽ không giao chiến với sa nhân, và vân vân. Vì, như Chân sư MORE đã nói, tất cả chúng ta khi tới trái đất đều đã rơi vào khuôn phản ứng lại sa nhận, đều bị sốc, thì có thể an toàn mà nói là tất cả chúng ta đều thất bại, dựa trên sự mong chờ đó. Chúng ta đều đã phản ứng khác với những gì chúng ta nghĩ chúng ta sẽ phản ứng trước khi tới đây – thày cũng vậy, hy vọng là cuốn sách đã chứng minh điều này.    

22.10. Các kỳ vọng của con khi tới trái đất 

Một lần nữa, con phải nhìn chuyện này và nói: “Đây rõ ràng là một chờ đợi thiếu thực tế và tôi cần buông bỏ nó.” Sau đó, còn sự chờ đợi vi tế hơn, liên quan tới điều con hy vọng sẽ hoàn thành, các kết quả con hy vọng thấy được trên trái đất, các thay đổi con hy vọng tạo ra được. Không thể tránh được chuyện con đã tạo ra một cái ngã cảm thấy nó đã thất bại vì không đạt được mục đích khi tới đây. Con không tạo được kết quả mà con hy vọng tạo được, con đã không thấy được một sự thay đổi tích cực.

Con có cái ngã một phần nào tương đương với cái ngã mà nhiều người trên thế gian có khi họ đo lường thành quả của họ dựa trên một tiêu chuẩn. Chỉ khác là tiêu chuẩn của con rất, rất khác. Con có thể nói là các chân sư thăng thiên muốn nâng cao trái đất và cách duy nhất để thực sự nâng cao trái đất là có một số avatar xuống đầu thai trên trái đất và giúp nâng cao tâm thức tập thể. “Vậy phải chăng chúng con có mặt ở đây để đem lại thay đổi tích cực? Phải chăng chờ đợi đem lại sự thay đổi tích cực là một chờ đợi thuận lý?”

Nhìn dưới một góc độ nào đó, các thày có thể nói: “Đúng, đúng, đúng, điều này thuận lý.” Vấn đề là nếu con đã tạo ra một cái ngã cảm thấy đã thất bại nếu chưa tạo ra sự thay đổi mà con mường tượng, thì lúc đó con có một cái ngã ngăn chận con đạt được lòng tự trọng thực mà các thày muốn con đạt được. Cái ngã này giản dị kéo con xuống một cái nhìn tiêu cực về mình, về trái đất, về lý do con tới đây, về thành quả của con ở đây và do đó con không thể đạt được lòng tự trọng thật sự. Thêm vào đó, ngày nào con còn có cái ngã này, con không thể rời hành tinh này vì con sẽ cảm thấy không thể rời nơi này với cái nhìn tiêu cực về lý do con tới đây. Cho tới khi con hoàn thành mục đích khi con tới đây, thì con không rời nơi này được.

22.11. Những chờ đợi ngăn chận con thăng thiên

Điều này co thể trở thành một vấn đề thật liên quan tới sự thăng thiên và tiến triển tâm linh của con vì sự thay đổi mà con hình dung trước khi tới đây nói chung là sự nâng cao tâm thức. Hầu hết các con cũng có một mục đích đặc thù là muốn trái đất thăng vượt một sự biểu hiện tiêu cực nào đó. Nhiều người trong các con muốn trái đất thăng vượt chiến tranh, nhiều người khác muốn trái đất thăng vượt tra tấn. Đối với mỗi biểu hiện tiêu cực, có một số avatar muốn tới đây và thấy trái đất vượt lên trên biểu hiện này.

Giờ đây con yêu dấu, con có thể nói: “Nhưng các chân sư thăng thiên muốn loại chiến tranh ra khỏi trái đất, đúng không?” Vâng, đúng – lẽ dĩ nhiên các thày muốn điều này. Nhưng các thày không nhìn tiến trình đó giống như các con có khuynh hướng nhìn khi các con đầu thai ở đây. Con thấy chăng, con yêu dấu, như các thày đã cố gắng giải thích, các thày tôn trọng quyền tự quyết. Các thày nhận ra rằng muốn loại chiến tranh khỏi trái đất thì phải bứng một số sa nhân ra khỏi trái đất. Các thày không thể bứng các sa nhân đi cho tới khi có đủ túc số cư dân nguyên thủy trên trái đất – những cư dân này khởi thủy đã mời sa nhân tới (một cách vô thức lẽ dĩ nhiên, nhưng họ đã mời sa nhân tới) – nâng cao tâm thức của họ và từ bỏ tâm thức đã khiến sa nhân tới đây vì lúc đó cửa được mở cho họ.

Các thày biết rất rõ là loại trừ chiến tranh khỏi trái đất cần tới chọn lựa tự do của nhiều người trong số các cư dân nguyên thủy trên trái đất. Các thày trao cho các con một giáo lý giúp các con nhận ra điều này và như vậy con thấy được một điều rất, rất giản dị. Thày đã nói là không thể nào làm cho sa nhân tán thành avatar, nhưng đồng thời cũng không thể nào làm cho sa nhân từ bỏ hành động hiếu chiến của họ. Con có thể thấy là nếu con muốn loại trừ chiến tranh trên trái đất, thật là vô bổ nếu con chờ đợi làm được điều này bằng cách thay đổi sa nhân.

Mặt khác, trước khi con tới đây con cũng đã thấy là hầu hết cư dân nguyên thủy trên trái đất có trình độ tâm thức thấp hơn con rất nhiều. Vậy con có thể thấy là khi con chờ đợi loại trừ chiến tranh khỏi trái đất, thì con để sự thành hay bại của sứ vụ của con lệ thuộc vào quyền tự quyết của những sinh thể ở tầng tâm thức thấp hơn con nhiều khi con tới đây. Con yêu dấu, làm như vậy có minh triết chăng? Có minh triết chăng khi con gắn liền thành quả của con, và do đó lòng tự trọng của con, với chọn lựa của ai khác không phải là con? Lẽ dĩ nhiên điều này thiếu minh triết.

Lòng tự trọng của con chỉ nên dựa trên những yếu tố bên trong con mà thôi. Những yếu tố này chính là cách con nhìn mình, cách con nhìn thành quả hay hành động của mình trên trái đất. Con thấy chăng, vì con tạo ra sự chờ đợi thiếu thực tế là con chỉ cần tới đây thì ngay lập tức con có thể nâng mọi người lên và đem lại thay đổi (hay đem lại bất cứ điều gì khác mà con mường tượng trong tâm mình), cho nên con không thể né tránh chuyện con thất vọng khi nhận ra rằng hành tinh này dày đặc hơn nhiều và không thể nào làm được chuyện con chỉ cần tới đây là có thể đem lại thay đổi, dù là con có ý định tốt lành nhất. 

Con thất vọng vì con đã gắn liền sự chờ đợi của con với quyền tự quyết của những người ở trong một trạng thái tâm thức rất thấp, rất nhị nguyên. Con không thể tránh được thất vọng và con cần thấy điều này để con có thể tách mình ra khỏi những cái ngã này và nói: “Tôi không thể cho phép lòng tự trọng của tôi tùy thuộc những cái ngã bị dính vào sự chọn lựa của những sinh thể ở một trạng thái tâm thức thấp. Tại sao tôi lại muốn lòng tự trọng của mình bị gắn liền với chọn lựa của những người trong tâm thức nhị nguyên?”

Lẽ dĩ nhiên, thày không chê trách con khi nói rằng con tạo ra những cái ngã đó bởi vì, như các thày đã nói nhiều lần, trong sứ vụ của các con, các con cần trải qua giai đoạn trầm mình và xác định mình là một con người. Trong tiến trình này, con không tránh được chuyện tạo ra những cái ngã đó. Điều con cần nhận ra là bây giờ con ở một tầng tâm thức cao hơn và con đang nghĩ tới chuyện có thể thăng thiên trong kiếp này, thì con cần xem xét những cái ngã này. Con cần nhìn thấy tại sao chúng được tạo ra, con cần nhìn thấy chúng dựa trên một ảo tưởng và một chờ đợi thiếu thực tế để con thấy được con không cần mang những loại ngã này theo con nữa. Con có thể dùng những dụng cụ để buông bỏ chúng, nhưng trước tiên hết, con cần nhận ra là chúng cần phải ra đi.

22.12. Lòng tự trọng đến từ con là ai

Con yêu dấu, lòng tự trọng thật sự là gì? Nó phải là lòng tự trọng không dựa vào bất cứ điều gì bên ngoài con. Như các thày đã nói nhiều lần, cái ta vỏ ngoài của con, bốn thể phàm của con không phải là cái ta thật của con. Dù rằng con có một số tình trạng, một số ngã trong bốn thể phàm của con, lòng tự trọng thật không thể dựa trên chúng. Lòng tự trọng đến từ đâu? Con cần thấy rằng thế gian có một cái nhìn về lòng tự trọng, một khái niệm về lòng tự trọng không phải là lòng tự trọng cao vì, như thày đã nói, nó liên quan tới điều gì đó trên thế gian. Ngay cả những cái ngã con đã tạo ra dựa trên những chờ đợi của con khi tới đây cũng liên quan tới thế gian này và liên quan tới những gì con đạt được hay không đạt được. Con cần nhận ra ở đây là một avatar như con, một đệ tử tâm linh đã đạt tới những giai đoạn đầu của quả vị Ki-tô, không thể cố gắng đạt được (con không thể chờ đợi là con phải có) loại tự trọng mà con người có trên thế gian.

Vậy thì con làm được gì? Ấy, con có thể tự hỏi: “Cái ta, cái ta thật, cốt lõi của bản thể của tôi là gì?” Các thày đã trao cho các con nhiều giáo lý về đề tài này. Các thày đã trao cho các con giáo lý thật hay trong sách của Guru Ma về tin tưởng những điều nguy hiểm (sách tên là Đừng Mù Quáng Tin Những Giáo Điều Nguy Hiểm, Don’t Drink Your Own Kool-Aid). Con có thể nghiền ngẫm và dùng những giáo lý này để từ từ nhìn lên trên ý niệm bản sắc, ý niệm bản ngã mà con đã tạo dựng trong thế gian này.

Con có thể tới điểm mà con đi vào thể bản sắc của mình và con bắt đầu tra vấn và thách thức ý niệm bản ngã mà con đã tạo dựng trong cuộc hành trình của con trên hành tinh này và con càng ngày càng nhận ra: “Đây không phải là cái ta thật của tôi, nó không phải là cái tôi thật sự là.” Rồi con tới điểm nhận ra con kết nối với cái gì khác, khi cái Ta Biết là nhận biết thuần khiết, như các thày đã nói nhiều lần. Con có thể bắt đầu nghiền ngẫm ý nghĩa của điều này và trong cuốn sách mới (Các Kiếp của Tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su) có nhiều chìa khóa quan trọng và như người sứ giả đã mô tả, những chìa khóa này đã giúp ông hiểu rõ hơn. Dù ông đã nhận được những giáo lý được trao truyền trước đó về đề tài này, trong sách vẫn còn những điều giúp ông nắm vững hơn.

Đích thực là cái ta thật không thể được quy định bằng bất cứ thứ gì trên thế gian này. Đó là lý do tại sao con có thể nhận ra là cái ta thật không cần bất cứ điều gì từ thế gian này – bất cứ sự tán thành nào, bất cứ thành quả nào, bất cứ kết quả nào – để cảm thấy thoải mái về mình. Cái ta thật, cái Ta Biết, có khả năng cảm thấy thoải mái về mình khi nó nhận ra nó là ai và nó là gì. Con là một nối dài của Hiện Diện TA LÀ, một sinh thể tâm linh, bất kể con có thể thấy được nó là gì ngay lúc này, bất kể con có thể mường tượng nó là gì. Thày biết điều này khó hiểu. Điều này khó hiểu bằng khái niệm, vì khi các thày cho các con khái niệm về cái Ta Biết, thì các thày muốn khiến tâm đường thẳng và phân tích của con bị bối rối vì nó không thể nghĩ ra được Cái Ta Biết là gì. Tâm đường thẳng không thể liên hệ cái Ta Biết với bất cứ điều gì nó quen thuộc trên trái đất này. Khi con nhận ra con không phải là bất cứ điều gì được quy định trên trái đất, con có thể thấy lòng tự trọng của mình không gắn liền với bất cứ điều gì trên trái đất, nó đến từ sự kiện con hiện hữu. Vì sự kiện con hiện hữu, con có giá trị. Con được quý trọng. Con xứng đáng được quý trọng. Con thấy chăng, con yêu dấu, lòng tự trọng thật không thể có mặt ngày nào con còn có một vật thể đối tượng, một cái ngã và con đang quý trọng vật thể đó.

22.13. Làm sao thỏa mãn một ước muốn

Do đó, chúng ta có thể nói rằng khi con tới được điểm nhận biết này, khái niệm lòng tự trọng phai mờ đi. Khi con thấy không còn cái ngã thì đâu cần lòng tự trọng nữa. Con chỉ trải nghiệm con như con là. Con còn không quan tâm tới bất cứ dạng tự trọng nào, bất cứ thang điểm cao và thấp nào, bất cứ so sánh nhị nguyên nào. Nó chỉ phai mờ đi.

Thày biết thày đang đặt cho các con một mục đích mà một số trong các con cần thời gian để nhận ra. Thày muốn con biết là không chỉ riêng lòng tự trọng mà nhiều khái niệm khác mà con có trên đường tâm linh, sẽ phai mờ đi khi con tới những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô. Chúng mất đi ý nghĩa vì con nhận ra chúng chỉ có ý nghĩa ở tầng tâm thức thấp hơn. Ở tầng tâm thức cao hơn, chúng không còn ý nghĩa đặc biệt nào, chúng không quan trọng gì cả, chúng không kéo hút con. Con có thể nói, một lần nữa để tâm đường thẳng bị bối rối, là cách duy nhất để đạt được lòng tự trọng thật là tới được điểm là con không cần lòng tự trọng nữa. Con không có nhu cầu được quý trọng.

Có thể nói là cách duy nhất để thỏa mãn những mong muốn của con là tới được điểm con vượt thăng những mong muốn đó và con không còn mong muốn nữa. Đây không phải là vấn đề thỏa mãn nó – đây là vấn đề vượt thăng nó. Điều mà sa nhân muốn con nghĩ – và đây là một trong những cách chính họ giam con trong một khuôn nếp phản ứng – là con mong muốn một điều gì và con cần đạt được điều con mong muốn. Nếu con mong có lòng tự trọng, con cần đạt được lòng tự trọng. Làm sao con đạt được lòng tự trọng? Bằng cách con nhảy xa hơn bất cứ ai khác. Khi tiêu chuẩn này đạt được, thì con sẽ có lòng tự trọng.

Đây không phải là sự thật. Con sẽ không bao giờ, không bao giờ cảm thấy lòng tự trọng thật bằng cách thỏa mãn bất cứ mong muốn nào – đích thực là con không bao giờ có thể thỏa mãn bất cứ mong muốn nào. Con chỉ thực sự trọn vẹn, cảm thấy thật sự thoải mái về chính mình, khi con thăng vượt mong muốn và con không còn cảm thấy mình thiếu thốn nữa. Con sẽ có lòng tự trọng khi con không còn kinh nghiệm mình thiếu lòng tự trọng nữa, nhưng điều này chỉ thành tựu được khi con thăng vượt lòng mong muốn, ngay cả mong muốn có một cái ta có thể được quý trọng.

Cái Ta Biết, khi nó nhận ra nó là nhận biết thuần khiết, không có nhu cầu được quý trọng nữa. Kỳ thực là nó không còn thấy nó là một cái ta nữa. Đúng đấy, thày đang cho con những khái niệm khó hiểu, tinh tế. Cách duy nhất để khắc phục điều này là làm cho tâm đường thẳng và phân tích bối rối để con thoát ra khỏi nó và con trải nghiệm được điều gì cao hơn. Đây là trải nghiệm thày muốn con có. Là một chân sư thăng thiên, lẽ dĩ nhiên thày muốn hướng dẫn con đi từng bước cho tới khi con sẵn sàng có trải nghiệm này vì các ảo tưởng đã từ từ phai mờ đi cho tới khi không còn ảo tưởng nữa và con vụt thoát ra khỏi ý niệm bản ngã giới hạn đó và nó chỉ không còn nữa.

Con yêu dấu, thày đã trao truyền cho con điều thày muốn trao truyền trong kỳ này nhưng thày muốn nói thêm nữa về một số chủ đề đã được nêu lên trong hội nghị này. Thày sẽ làm tròn lời hứa của Chân sư MORE là thày sẽ cho con một số ý tưởng về cách cho cái ngã chết đi. Chủ đề này thày sẽ dành cho ngày mai để con có thể xin, nếu con muốn, tới trung tâm nhập thất của vị chân sư nào con muốn, nhưng thày đề nghị con tới trung tâm ở trên Arabia. Thày sẽ hướng dẫn các đệ tử nào muốn tới đó kết hợp những khái niệm mà thày đã trao cho các con để con được chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận những gì thày sẽ trao truyền ngày mai.

Thày chúc các con một buổi tối an lành và thày cám ơn các con đã luôn luôn chú tâm vui vẻ. Thày luôn luôn cảm thấy một niềm vui lớn lao khi tương tác với những đệ tử đầy lòng hăng hái học hỏi như các con.

20 | Vượt qua nỗi giận chính mình, 16 phần.

Chân sư Thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels, ngày 1 tháng 12 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền tại một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên MORE, và thày là phương cách tối hậu để vượt qua tâm thức thiếu thốn. Khi con hòa điệu với ngọn lửa của thày, thì con sẽ biết là trong Bản thể của thày không có thiếu thốn. Do đó, nếu con cho phép mình nhận cái mà thày rất mong muốn trao cho con, thì con sẽ không thấy thiếu thốn trong con.

Con không phải là một sinh thể bất toàn! Tất cả các hệ thống tư tưởng đã lập trình điều gì vào tâm tập thể từ bao thiên kỷ nay? Đó là ý niệm con người tự bản chất hư xấu và bất toàn. Nếu con nhìn một cách trung thực, thì con sẽ thấy đó là thông điệp của tư tưởng Mác xít và Cộng sản, cũng như là của Giáo hội Công giáo và của tất cả các giáo đoàn Cơ đốc giáo khác cũng dựa trên cùng nền tảng. Con là tội đồ từ trong bản tánh, con vốn dĩ giới hạn, và tâm thức này từ đâu tới?

20.1. Nỗi giận của sa nhân

Ấy, lẽ dĩ nhiên là nó tới từ sa nhân. Ta có thể nói họ có nhu cầu khẩn thiết muốn cảm thấy hơn những người họ rất khó chịu phải chung sống ở đây. Họ tin rằng trái đất là một hành tinh rất thấp và họ đáng lẽ không sống ở đây. Họ đáng lẽ phải sống trên một hành tinh cao hơn nhiều, một hành tinh to lớn hơn nhiều, nơi họ có thể cảm thấy có nhiều uy quyền hơn.

Họ cảm thấy họ đã bị mất giá trị khi họ phải tới hành tinh này. Do đó, nhiều sa nhân có một nỗi giận ăn sâu trong tâm thức họ đối với những người sống trên hành tinh này, gồm cả các cư dân nguyên thủy và các avatar (sinh thể từ hành tinh tự nhiên xuống đầu thai trên trái đất) đã dám tới đầu thai ở đây để thách thức quyền trị vì của họ. Con không thể giải thích nỗi giận này (mà con có thể thấy rõ trong lịch sử, nếu con chịu nhìn) qua những hệ thống tư tưởng truyền thống. Vì sao vậy, con yêu dấu? Đó là vì những hệ thống tư tưởng do sa nhân tạo ra có nhu cầu, kế hoạch và thâm ý tối thượng là che giấu sự hiện hữu của sa nhân. Do đó, lẽ dĩ nhiên là các hệ thống đó không thể giải thích nỗi giận này. Chúng hoặc không đưa ra một lời giải thích, hoặc nêu lên vài ý tưởng mơ hồ là người này người nọ đặc biệt tà ác, hay những chuyện tương tự.

20.2. Sự giận dữ bắt nguồn từ thể bản sắc

Sư thực là sa nhân, lẽ dĩ nhiên, có một nỗi giận ăn sâu trong tâm thức họ, ta có thể nói là một nỗi giận hiện sinh đối với con người. Họ sẵn sàng có những hành động phi lý, nghịch lý để đả thương, phá hoại và tiêu diệt con người, giống như mọi nỗi giận lúc nào cũng có tính chất phi lý và nghịch lý. Sự giận dữ là một xúc động nhưng nó không phải chỉ là một cảm giác, nó hơn một cái gì trong thể tình cảm của con người. Rất, rất ít người tìm hiểu tâm lý học đã hiểu điều này.

Sự thực là sự giận dữ bắt nguồn trong thể bản sắc. Sa nhân có trong thể bản sắc của họ nỗi giận đối với Thượng đế. Nếu con suy nghĩ thêm thì con thấy họ thực sự có phần giận Thượng đế vỏ ngoài mà họ đã tạo ra, nhưng chính thực thì còn hơn thế nữa vì họ giận chính họ. Vì cho dù họ đã sa ngã, nhưng họ đã bắt đầu như một phần nối dài của đấng Sáng tạo, giống như tất cả chúng ta. Trong họ có một nỗi giận ở tầng bản sắc, có một mô thức tư tưởng phức tạp giải thích cơn giận đó và định hướng nó. Lẽ dĩ nhiên, cũng có một mô thức xúc cảm, thường thúc đẩy con người làm những chuyện khi giận dữ mà họ không bao giờ làm nếu họ suy nghĩ sáng suốt dựa trên lý trí. 

Con có thể nói là với đa số con người và avatar trên hành tinh này thì sự giận dữ chủ yếu là một hiện tượng xúc cảm, nhưng với sa nhân thì nó hơn thế. Đó là lý do vì sao, khi con phân tích tâm lý của những người như Hitler, Lê-nin, Stalin, Mao và các nhà độc tài khác trong lịch sử, thì con thấy là sự giận dữ của họ không đơn thuần là xúc cảm. Họ có một nỗi giận rất sâu trong thể lý trí và bản sắc của họ. Nó là một cái gì mà họ thường không làm chủ được – nó làm chủ họ. Con có thể thấy là có những lúc họ hành động không phải vì thịnh nộ mê cuồng mà với một nỗi giận có tính toán, dài hạn và có kế hoạch.  

20.3. Sự giận dữ có tính toán của sa nhân

Vì sao thày lại đề cập đến chuyện này? Áy, thày có một số lý do. Một lý do, lẽ dĩ nhiên, là con cần hiểu là điều đã xảy ra trong Khối Sô viết đưới chế độ Cộng sản, không thể được giải thích bằng sự giận dữ mà thôi. Con cần hiểu nỗi giận rất sâu của sa nhân đối với nhân loại, và ước muốn của sa nhân muốn hoặc kiểm soát nhân loại, hoặc tiêu diệt những ai họ không thể kiểm soát. Con yêu dấu, không phải là Stalin hay những người trong guồng máy Sô viết ở trong cơn thịnh nộ không thể kiềm chế khi họ gõ cửa nhà người dân lúc 4 giờ sáng và đày họ đi Siberia. Không có một cơn giận xúc cảm đằng sau các hành động này, tuy rằng trong một số trường hợp, các tên đồ tể thi hành những lệnh này phải đặt mình vào trong một trạng thái xúc cảm để có thể làm những chuyện này với người đồng hương của họ.

Khi con xem xét nhóm lãnh đạo và đặc biệt là người lãnh đạo tối cao, thì con thấy là trong họ không có nỗi giận xúc cảm. Con có thể thấy là khi Hitler nói một số bài diễn văn thì y có vẻ bị rơi vào trạng thái giận dữ xúc cảm. Nhưng khi y đối xử với các tướng lãnh và những người khác, thì y không xúc động, y rất tính toán – ta còn có thể nói là y hành xử hợp lý. Con chỉ có thể hiểu hiện tượng này khi xem xét tầng sâu hơn mà thày đã đề cập. Thày đang nói với các avatar trong hội trường này, và các con cần hiểu là tuy các cư dân nguyên thủy của trái đất ít khi có cơn giận đi quá tầng xúc cảm, thì một avatar quả thực có thể có một sự giận dữ như vậy.

Điều này không có nghĩa là các con có cùng nỗi giận như sa nhân. Con yêu dấu, khi con nhìn vào tâm lý của một số sa nhân (không phải tất cả, nhưng một số) và tâm lý của một số avatar (không phải tất cả, nhưng một số) thì con thấy là cả hai nhóm có sự giận dữ trong thể lý trí và bản sắc của họ. Nếu con xem xét kỹ hơn, thì con thấy một khác biệt cơ bản. Nỗi giận của sa nhân lúc nào cũng hướng ra ngoài. Trong nhiều trường hợp, nó cũng hướng lên trên, tức là về hướng Thượng đế. Sa nhân không bao giờ cảm thấy giận (một cách ý thức) chính mình. Nhưng, con thấy nơi nhiều avatar một nỗi giận ở tầng lý trí và bản sắc hướng về chính họ. Có nhiều lý do ở tầng lý trí. Ở tầng bản sắc cũng có một số lý do khác nhau, nhưng chúng đều xoay quanh một chủ đề, đó là con giận mình đã tình nguyện xuống hành tinh này. Con giận mình đã chọn lựa tới hành tinh này.

Cũng có một số avatar sau khi đến đây, sau khi đã đi vào nhị nguyên, đã tiếp nhận một số niềm tin vi tế mà sa nhân đã phổ biến. Họ có thể cảm thấy giận Thượng đế đã tạo ra một vũ trụ trong đó những đau khổ mà con thấy trên trái đất có thể xảy ra. Một số avatar có thể có cảm giác như vậy, nhưng nó không giống nỗi giận của sa nhân đối với Thượng đế. Một avatar không có cảm giác giống như sa nhân. Thày sẽ không mô tả ở đây cảm giác của sa nhân, nỗi giận của họ đối với Thượng đế, vì trong cương vị một avatar, con không cần để tâm đến việc này. Thày chỉ nói với các con là, dù con có cảm thấy giận Thượng đế, thì điều này không có nghĩa con là sa nhân.

Con không cần phải chê trách mình vì chuyện này. Con nhận ra rằng nó không phải là một nỗi giận mà con đã mang theo khi con xuống hành tinh này. Sa nhân mang nỗi giận Thượng đế theo họ khi họ tới hành tinh này, và ngay cả khi họ đi vào bầu cõi này. Con thì đã tiếp nhận nó trên trái đất, và như tất cả mọi thứ mà con đã tiếp nhận trên trái đất thì con có thể nhận ra nó, thấy nó không phải là con và buông bỏ nó. Con có thể nâng mình lên khỏi nó.

20.4. Nỗi giận đối với cõi Mẹ

Con cũng có thể cảm thấy giận cõi Mẹ (cõi vật chất) vì cõi Mẹ, Ánh sáng Mẫu-Vật, đã biểu hiện những điều kiện vật lý tạo ra sự đau khổ cùng cực đó. Nhiều avatar cảm thấy điều này, không phải vì những chuyện đã xảy ra cho chính họ, như Mẹ Mary đã nói, nhưng vì những chuyện mà họ đã thấy xảy tới người khác. Con khởi lên lòng từ bi và do đó có một sự giận dữ: “Vì sao vật chất lại để các chuyện này xảy ra, vì sao đá không kêu lên như Giê-su đã nói?” Vì sao các tảng đá không từ chối rơi xuống và đè bẹp con người, con đôi khi có cảm giác như vậy. Lý do là, lẽ dĩ nhiên, chúng ta đang nói những chuyện hơi khác nhau. Giê-su nói là đá kêu lên vì chúng nhận ra Ki-tô, dù con người không nhận ra. Chuyện này khác việc vật chất tạo ra những hậu quả vật lý khe khắt. Như các thày đã giảng, vật chất chỉ là một tấm gương và bắt buộc phải biểu hiện những gì được phóng chiếu lên nó. Con hiểu điều này bằng lý trí, thày hiểu như vậy. Thày chỉ đang nhắc nhở là con có thể cần học hay nghe bài truyền đọc này nhiều lần và suy ngẫm nó cho tới khi con thực sự thấy trong bản thân mình là con có nỗi giận này, và nó không phải là con nhưng chỉ là cái gì con đã tiếp nhận.

Có nhiều người trong các con, có nhiều người tâm linh, nhiều avatar đã đi vào tư duy (mà vị sứ giả này cũng đã nhận ra nơi chính ông) cho rằng một người tâm linh không được cảm thấy giận dữ. Do đó, con không chịu nhìn nhận cơn giận của mình, và như Phật Gautama đã giảng vào đầu năm nay, có khi con cần nhận ra những cảm xúc của mình để có thể tách mình ra khỏi chúng. Phật Gautama có trao cho các con một bài tập trong đó con đi tới một nơi cách biệt không ai có thể nghe thấy con, và con dùng lời để phát biểu cảm xúc của con đối với sa nhân, nhưng ngay cả với Thượng đế và cõi vật chất. Con có thể nói ra nỗi giận của mình, dùng ngôn từ để phát biểu nó. Khi con dùng ngôn từ để phát biểu nó, thì con dễ tách mình ra khỏi nó hơn, và thày sẽ cho con có một gợi ý đơn giản lý do vì sao lại như vậy, con yêu dấu.

20.5. Nói ra lời mình là ai

Con hãy tưởng tượng con đi tới một nơi cách biệt và con nói ra lời nỗi giận của mình. Tôi giận Thượng đế vì lý do này hay lý do khác. Một khi con đã làm xong chuyện này, khi con đã trút hết những gì trong con và không còn lời nào thốt ra nữa, thì thày muốn con làm một chuyện giản dị. Bây giờ thì con hãy nói ra lời con gì. Con thực sự là gì? Đúng, con có thể nói “Tôi là một con người, tôi là một sinh thể tâm linh,” hay là cái gì khác, nhưng con hãy mô tả nó. Con thực sự là gì? Con sẽ thấy là rất khó thêm vào những chữ sâu sắc hay nhiều ý nghĩa. Con có thể thêm vào một số chữ hời hợt dựa trên bất cứ giáo lý tâm linh hay nhân sinh quan nào mà con có, nhưng con sẽ rất khó nói rõ con thực sự gì.

Lý do vì sao rất giản dị. Cái con thực sự là là sự cá biệt neo trong Hiện diện TA LÀ của con, và sự cá biệt này hoàn toàn vượt lên trên ngôn từ. Ta không thể giảm thiểu nó bằng lời nói. Khi con nhận ra là nỗi giận của con có thể được diễn tả bằng lời nói nhưng Bản thể thực của con không thể được diễn tả bằng lời, thì con có thể dễ dàng xoay chuyển tầm nhìn và nhận ra rằng nỗi giận của con không phải là nỗi giận của Bản thể thực của con – nó không phải là nỗi giận của con. Nó chỉ là một điều mà con đã lấy vào ở đây trong bát cung vật lý của trái đất. Con yêu dấu, thày đã đầu thai trong một thời gian rất dài trên hành tinh này. Nếu con tưởng tượng ra bất cứ sự ngu xuẩn, thấp hèn, hư xấu, ngu si nào mà con người có thể làm, thì rất có thể là thày đã trải nghiệm nó.

Bất kể hình ảnh nào về thày đã được tạo ra bởi các giáo lý vỏ ngoài hay trong tâm của các đệ tử và tổ chức chân sư thăng thiên trước đây, thì thày có thể nói một cách rất thành thực, con yêu dấu, là thày đã trải nghiệm hầu như tất cả mọi chuyện có thể trải nghiêm được trên hành tinh này qua nhiều lần đầu thai của thày. Thày không phải lúc nào cũng đã là một vị đạo sư tâm linh có tiến hóa cao hay một vị vua hay một vị vua minh triết. Trong nhiều kiếp con có thể nói là thày rất là con người. Thày không nói điều này để tự hạ mình xuống. Thày nói vậy để giản dị giúp con nhận ra là con không thể tránh cảm thấy giận dữ vì những trải nghiệm của con trên hành tinh này.

20.6. Cảm giác và đồng-sáng tạo

Cách duy nhất để con có thể tới hành tinh này mà không cảm thấy giận dữ, là con không có khả năng cảm thấy bất cứ gì. Con không thể là một sinh thể có tự nhận biết và sáng tạo nếu con không cảm thấy gì, bởi vì làm sao con có thể là một đồng-sáng tạo nếu con không có khả năng cảm giác? Chính qua cảm thể mà con đem các tạo vật của con xuống cõi vật lý, không có cách nào khác.

Con có thể có một họa đồ cực kỳ tinh vi của một ngôi nhà trong thể lý trí của con, nhưng con không thể đem nó thẳng từ cõi lý trí xuống cõi vật lý. Con phải đi qua cõi cảm xúc, và đây là cách con sáng tạo bất cứ gì. Sự kiện con tới đây như một avatar chứng tỏ là con có khả năng cảm giác. Vì sao con lại tới đây nếu con không có lòng từ bi đối với những người sống trên trái đất? Khi con tới đây và trải nghiệm sự đau khổ cùng cực của những người ở đây, thì làm sao con không phản ứng một cách giận dữ?

Thày đã có nhiều kiếp sống trong đó thày đã phản ứng một cách giận dữ, và tất cả những sinh thể đã thăng thiên từ trái đất đã có những kiếp đầu thai như vậy. Một số đệ tử tâm linh có khuynh hướng duy trì hình ảnh tôn sùng El Morya, Saint Germain hay Giê-su, và cho rằng tuy các thày đã từng đầu thai trên trái đất, nhưng các thày lúc nào cũng điềm đạm, bình tĩnh và tự chủ. Các thày không làm gì có thể bị chê trách, không bao giờ làm gì sai trái, không bao giờ mất bình tĩnh, không bao giờ nổi giận. Con yêu dấu, có phải chăng là các thày đã giải thích là vai trò của chúng ta khi đầu thai xuống trái đất (tất cả chúng ta, các con hiện đang ở đây, và các thày đã ở đây trước kia nhưng nay đã thăng thiên) là để trải qua tiến trình trầm mình và thức tỉnh?

20.7. Con coi điều gì quan trọng?

Thày bảo đảm với con là tất cả chúng ta đã trải qua giai đoạn trầm mình đã đi vào đủ loại hành động, cảm xúc và tin tưởng mà con người thường có, và đó là chuyện không thể tránh được. Con tới một điểm nhận ra con là một sinh thể tâm linh, và con giản dị nhìn vào nỗi giận của con và nói: “Đúng rồi, tôi đã làm chuyện này, tôi đã cảm thấy thế này, tôi đã nghĩ những điều này, nhưng đây chỉ là những điều tôi đã lấy vào khi tôi phản ứng lại hành tinh rất khó khăn này.” Sau đó, con bước lui lại và nói: “Có điều gì trên hành tinh này mà tôi coi là quan trọng, có điều gì mà tôi cảm thấy có quyền lực trên tôi như một sinh thể tâm linh?” Con có thể được lợi lạc nếu con thử nhìn những sinh hoạt nhân gian trong thế giới, những sinh hoạt mà con người đang tham gia. Sau đó, con nhận ra trong chính mình: “Tôi có coi những chuyện này quan trọng không? Chúng có níu kéo tôi chăng? Chúng có quyền lực trên tôi chăng?”

Tỷ dụ, con có thể xem xét việc con người đang giao chiến với nhau tại một số vùng trên trái đất và đã giao chiến với nhau suốt nhiều thế hệ. Không ai biết vì sao họ đánh nhau, nhưng họ vẫn tiếp tục đánh nhau. Con có thể nói: “Tôi có coi chuyện này quan trọng chăng, chuyện này có níu kéo tôi chăng?” Con có thể nhìn một số sinh hoạt mà con người tham dự (trong nền văn hóa của con) và nói: “Tôi có coi việc tìm cách tích lũy vài tỷ đô-la là quan trọng chăng, nó có níu kéo tôi chăng?” Con sẽ khám phá là có rất nhiều chuyện trên thế gian con không coi là quan trọng. Con đã thăng vượt chúng, chúng không còn níu kéo con, chúng không còn níu kéo con ở thể tình cảm, lý trí hay bản sắc. Con chỉ cần giản dị nhìn chúng và nói: “Rồi sao, chuyện này không có nghĩa lý gì đối với tôi.” Sau đó, con có thể xem xét vì sao con lại coi chúng quan trọng, vì sao chúng níu kéo con, vì sao con cảm thấy giận điều gì. Nếu con phản ứng với tình cảm tiêu cực, thì tại sao, con yêu dấu, con lại thấy chúng quan trọng? Lẽ dĩ nhiên, con có thể coi chúng quan trọng vì lý do chính đáng, nhưng cũng có thể vì lý do không chính đáng.  

20.8. Khe khắt với chính mình

Lý do chính đáng là trên cương vị một người tâm linh đang đi trên con đường tu, trên cương vị một avatar, con luôn luôn xem xét chính mình. Con luôn luôn lượng định mình và con lúc nào cũng tìm cách làm tốt hơn. Điều này chính đáng, chúng ta ai ai cũng đều phải làm vậy. Các thày đã tìm cách giải thích bằng nhiều cách, có khi vi tế, nhưng nay thày nói thẳng thắn: Vì sao các con là những người tâm linh nhất, ít hung hãn nhất, không phải là người xấu tính theo bất cứ tiêu chuẩn nào, vì sao con lại quá khe khắt với mình như vậy?

Vì sao khuynh hướng tự nhiên và chính đáng xem xét chính mình và lượng định xem mình có thể làm tốt hơn không lại thường khi đi đôi với cảm giác hổ thẹn khi con làm một lỗi lầm, khi con làm một điều mà con nghĩ một người tâm linh không được làm? Vì sao lại thường có một cảm xúc rất mạnh, và ngay cả (nếu con nhìn kỹ) một phản ứng ở thể lý trí, và trong một số trường hợp ở phần thấp của thể bản sắc của con? Con có ý niệm là con không được làm chuyện đó, con không được nổi giận, con không được làm điều mà người thường vẫn làm. Con đáng lẽ phải đứng bên trên phản ứng đó. Tại sao con lại có ý niệm đó, vì sao lại có phán xét giá trị đặt lên trên việc lượng định tự nhiên và xây dựng?

Vì sao một số trong các con đã khắc phục được khuynh hướng đó, nhưng nhiều người thì chưa? Nhiều người, khi mới tìm ra con đường tâm linh, đã trải qua một giai đoạn đối phó với khuynh hướng này. Bỗng nhiên, giáo lý tâm linh trở nên một cách khác để họ lên án mình và cảm thấy là họ không làm tròn bổn phận. Đầu năm nay các thày đã nói là các thày là chân sư thăng thiên chỉ mong muốn một điều là các con cảm thấy thoải mái với chính mình, nhưng rất nhiều khi giáo lý mà các thày trao truyền lại khiến các con cảm thấy không thoải mái bằng trước khi nhận giáo lý.

Vì sao lại có cơ chế đó? Con yêu dấu, nó một phần do sa nhân gài vào. Họ đã đề ra những lý thuyết cầu kỳ cho rằng trong con có điều hư xấu, và con là thế này hay thế khác. Con yêu dấu, con hãy nhìn nhận là sa nhân không chỉ tạo ra, tỷ dụ, quan niệm tội tổ tông (original sin) cho rằng mọi con người đều hư xấu. Họ cũng đã tạo ra một số khái niệm rất, rất vi tế mà con không thể tìm ra trong các bản văn, nhưng vẫn hiện hành trong tâm thức tập thể. Họ nói là nếu con là một người tâm linh thì con không được nổi giận, vì đây là một điều rất, rất xấu. Nếu con nổi giận và mất bình tĩnh thì con phải cảm thấy rất hổ thẹn.

Ý tưởng này do sa nhân tạo ra, không phải – không phải – do chân sư thăng thiên tạo ra. Các thày không muốn các con phán xét mình kiểu đó. Vậy thì vì sao nhiều người trong các con là đệ tử chân sư thăng thiên lại làm theo sa nhân và những gì họ gài vào con, thay vì làm theo các thày, dù con đã biết các thày? Vì sao con vẫn còn cơ chế đó trong bốn thể phàm của mình (mà con không thể khắc phục hoàn toàn) khiến con cảm thấy hổ thẹn? Thày sẽ nói con vì sao! Đó là vì con giận chính mình. Trong rất, rất nhiều kiếp con đã hướng nỗi giận tới chính mình vì con vẫn giữ, hay con đã lấy lại khi con bắt đầu tiến lên trên con đường tu, cảm nhận là cách mọi chuyện đang trải bày trên trái đất không phải là cách duy nhất mà chúng có thể là.

20.9. Chấm dứt vòng xoáy đi xuống

Nhiều người trong các con đã tới từ hành tinh tự nhiên là nơi không có những biểu hiện mà con thấy trên trái đất. Do đó, không bao giờ có một điều kiện bên ngoài nào dữ dội đến độ khiến con cảm thấy giận dữ. Vì vậy, con đã giữ trong bản thể của con cảm nhận (hay con đã nối kết trở lại với cảm nhận đó trong bản thể của con) là con không được nổi giận. Như thày đã nói, mọi chuyện trên trái đất tệ hơn trên các hành tinh tự nhiên rất nhiều, do đó con không thể tránh cảm thấy giận dữ.

Vì con có khuynh hướng lượng định chính mình (là điều cần thiết, vì nếu không thì con không thể tăng trưởng), vì con có cảm nhận là con không được làm như vậy, nên con đã giận mình là đã nổi giận trước những điều kiện trên trái đất. Điều này tạo nên một vòng xoáy và cơn giận chính mình đã tích lũy trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc thấp của con. Điều này có nghĩa là trong kiếp đầu thai tới, khi con gặp một điều kiện dữ dội trên trái đất, con sẽ có khuynh hướng cảm thấy giận điều kiện đó. Sau đó, lẽ dĩ nhiên là con cảm thấy giận mình vì đã nổi giận, và vòng xoáy cứ mạnh thêm và mạnh thêm. 

Con yêu dấu, thày không có ý định – không có ý định – khiến con cảm thấy xốn xang hơn vì có vòng xoáy đó. Thày muốn con nhận ra là con có vòng xoáy đó và đã đến lúc vượt thăng nó. Vậy, con làm sao vượt thăng nó? Ấy, con yêu dấu, mỗi người trong các con có thể cần một tiến trình riêng. Nó bao gồm điều mà thày đã giảng: nhận ra rằng nó không phải là nỗi giận của con. Con không có nó khi con đến đây, con không giận chính mình khi con đến đây. Đây là một cái gì con đã lấy vào khi gặp những điều kiện trên trái đất. Con có thể cần làm bài tập mà thày đã trao cho các con liên quan đến việc nhìn các điều kiện trên trái đất và nói: “Chúng có còn níu kéo tôi nữa chăng? Vì sao tôi lại giận mình vì đã nổi giận trước những điều kiện này?” Con có thể nhờ vậy đi vào tiến trình dần dần buông bỏ một phần nỗi giận.

20.10. Nỗi giận không thể tự nó hiện hữu

Thày không muốn nói là có một chuyện con có thể làm và tức khắc loại bỏ nỗi giận. Con có thể tới điểm nhận ra là nỗi giận không phải là một cảm xúc hay một mô thức tư tưởng có thể tự nó hiện hữu. Các thày có nói tới các ước muốn thật và các ước muốn giả. Ta cũng có thể nói là có cảm xúc thật, cảm xúc giả, cảm xúc cao và cảm xúc thấp. Các thày có nói tới cảm xúc dựa trên tình thương và cảm xúc dựa trên sợ hãi. Ấy, con yêu dấu, sự khác biệt rất giản dị hay ít ra nó có thể được diễn tả một cách rất giản dị.

Một cảm xúc dựa trên tình thương có thể tự nó hiện hữu. Một cảm xúc dựa trên tình thương là một dạng năng lượng tâm linh xuất phát từ cõi cao và tuôn chảy xuyên qua con. Nó có thể hoàn toàn tự nó hiện hữu. Một cảm xúc dựa trên sợ hãi, và giận dữ là một cảm xúc dựa trên sợ hãi, không thể tự nó hiện hữu. Nó có thể tự nó phát triển và trở nên một tà thể (entity) hay ác quỷ (demon), nhưng nó không thể tự nó hiện hữu.

Nó bắt buộc phải có một đối tượng. Con không sợ một cái gì không xác định, con không sợ cái không là vật thể. Khi con sợ thì con phải sợ một cái gì đó. Đúng là giận dữ hay sợ hãi có thể trở nên một cảm xúc chung chung lấp đầy thể cảm xúc của con đến độ con không nhận ra là mình sợ cái gì, nhưng nỗi sợ bắt đầu bằng một nỗi sợ cái gì đó. Tương tự, giận dữ bắt đầu bằng nỗi giận một đối tượng. Có một lý do khiến con giận dữ, và đó là lý do vì sao thày nói con có thể khắc phục cảm xúc đó bằng cách sẵn sàng làm theo lời Giê-su: “Chúng ta hãy cùng nhau suy luận.” Đây là một châm ngôn của các chân sư thăng thiên: “Chúng ta hãy cùng nhau suy luận.”

20.11. Suy luận về sự giận dữ

Nếu con sẵn sàng thì con hãy chọn một vị chân sư thăng thiên. Thày tình nguyện làm việc này, nhưng con hãy chọn vị chân sư nào gần với con. Sau đó, con nói: “Chúng ta hãy cùng nhau suy luận về nỗi giận của con.” Nếu con sẵn sàng đi hết tiến trình này thì con có thể tới điểm dần dần thấy đối tượng nguyên thủy đã khiến con giận hành tinh này. Sau đó, con dần dần thấy là điều đó không còn quan trọng đối với con như lúc ban đầu. Như được giảng trong quyển sách mới, chấn thương nhập đời nguyên thủy, chấn thương đầu tiên của con, không thể được lặp lại vì con không thể cảm thấy lại sự tương phản giữa sự việc gây nên chấn thương và trạng thái ngây thơ của con lúc đó. Khi con nối kết lại với sự việc nguyên thủy đã khiến con giận trái đất, thì nó không còn quan trọng đối với con như lúc đầu nữa. Điều này có nghĩa là con tới điểm nói: “Đúng rồi, tôi có thể buông bỏ nó. Tôi không còn thấy giận chuyện này nữa.” Sau đó, khi con đã phần nào làm được việc này với những đối tượng đã khiến con giận trái đất, thì con có thể xin sự hướng dẫn của vị chân sư để nhận ra: “Tại sao con lại cảm thấy giận chính mình?”

Lúc đó, con sẽ nhận ra là, một lần nữa, có chuyện gì phi lý. Như thày có nói, con không dễ dùng ngôn từ để diễn tả con là gì, và con nhận ra rằng nếu con giận chính mình, thì con đã biến mình thành một vật thể. Con chỉ có thể giận một vật thể, tỷ dụ như con giận một số điều kiện trên trái đất hay con giận sa nhân. Nếu con giận chính mình, thì có nghĩa là có một vật thể mà con giận.

Vật thể đó là gì? Ấy, nó là cái mà các thày đã gọi (trong một số giáo lý mà các thày đã trao truyền) là một sắc thái của tự ngã, một phàm linh nội tại hay một cái ngã tách biệt. Con có thể tới điểm nhận ra con có một cái ngã cảm thấy là, trong cương vị một người tâm linh, con không bao giờ được giận dữ. Do đó, khi con cảm thấy giận dữ, cái ngã đó bắn một mũi tên vào thể cảm xúc của con và khiến con cảm thấy không thoải mái. Con cảm thấy không thoải mái một cách mơ hồ với chính mình. Con cảm thấy con kém cỏi, con thấp kém, con đã phạm một lỗi lầm, con không thể nào chuộc tội. Bởi vì cái ngã đó khiến con cảm thấy không thoải mái, nên con cảm thấy giận cái ngã đó. Sau đó, con nhận ra là đối tượng của nỗi giận chính mình thực ra không phải là con, mà là một cái ngã không phải là con.

Nó chỉ là một cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra để phản ứng lại các điều kiện trên trái đất. Lúc đó, con tách mình ra khỏi cái ngã đó, con nhận ra là nỗi giận với chính mình thực sự không khác nỗi giận mà con cảm thấy khi con thấy có người bị giết trong chiến tranh hay bất cứ điều gì khác mà con đã trải nghiệm trong quá khứ. Con có thể tách mình ra khỏi nỗi giận và nói: “Nhưng nếu có một số điều kiện trên trái đất mà tôi không còn cảm thấy giận nữa, thì tại sao tôi lại cảm thấy giận cái ngã đó? Tôi thấy cái ngã đó không thực, nó không thực sự là tôi, vậy tại sao tôi lại giận cái ngã đó?”

20.12. Một bài tập để giải trừ nỗi giận

Khi con nhận ra là cái ngã mà con giận tách biệt với con, thì con có thể làm một bài tập nhỏ khác. Dựa trên những gì con biết về khía cạnh tâm linh của đời sống và về chính con, thày muốn con hình dung là bây giờ con nhìn vào nỗi giận chính mình (cái ngã tách biệt) và con nói: “Đúng rồi, nhưng bây giờ tôi không muốn hướng nỗi giận về phía cái ngã tách biệt nữa, bây giờ tôi muốn hướng nó về phía cái ta thật của tôi. Vậy cái ta thật của tôi là gì, cái ta thật của tôi ở đâu, tôi muốn xác định nó là gì một cách chính xác.” Con sẽ thấy là nếu con làm việc này, thì tâm của con sẽ trống trơn. Con không thể tạo một hình tư tưởng hay một hình ảnh ngôn từ về cái ta thật của con, vì cái ta thật của con – mặc dù các thày đã gọi nó là Hiện diện TA LÀ và cho con một số khái niệm – vượt ra ngoài những gì con có thể hình dung hay tưởng tượng với tâm vỏ ngoài của con.

Tâm vỏ ngoài không thể hiểu Hiện diện TA LÀ. Cái Ta Biết có thể trong thoáng chốc trải nghiệm Hiện diện TA LÀ, nhưng tâm vỏ ngoài thì không thể. Cái Ta Biết không chĩa nỗi giận, mà là tâm vỏ ngoài, cái ngã vỏ ngoài. Khi con nhận ra là con không thể tìm ra cái ta thật để hướng nỗi giận tới, thì con cũng nhận ra là không phải cái ta thật đang giận dữ. Cái ta thật còn không giận cái ta tách biệt đã khiến con cảm thấy không thoải mái. Cái gì giận cái ta tách biệt? Ấy, đó lại là một cái ngã tách biệt khác.

Bây giờ thì con có một cái ngã tách biệt khiến con cảm thấy không thoải mái và một cái ngã tách biệt khác khiến con giận cái ngã tách biệt đầu. Khi con thấy điều này thì con thấy đây là một trò hề. Không phải là các ngã tách biệt này không có mặt. Con thực sự có thể thấy một nhân vật giống như một anh lùn giữ cửa (gnome) đang có vẻ bị gánh nặng quá tải và bất lực, đang phóng chiếu không ngừng là con phải hổ thẹn vì không toàn hảo. Và có một cái ngã nhăn nhó khác đang phóng chiếu là con phải giận cái ngã đầu. Con có thể thấy là hai cái ngã này có mặt. Lúc đó, con có thể thấy: “Chúng không phải là tôi. Chúng ở trong bốn thể phàm của tôi.” Quả thật là con đã tạo ra chúng, nhưng chúng không phải là con, và con có thể nói: “Tại sao tôi lại muốn kéo lê các ngã này theo tôi? Tại sao?”

Con yêu dấu, nếu con tìm ra được một lý do vì sao con muốn tiếp tục kéo lê các ngã này theo con, thì thày không có vấn đề gì. Thày tôn trọng quyền tự quyết của con. Nếu con muốn mang chúng theo con, thì con hãy làm chuyện này. Thày chỉ muốn cống hiến sự trợ giúp của thày nếu con muốn giải thoát mình khỏi chúng. Lúc đó, con chỉ cần giản dị lấy một quyết định. Con cần lấy quyết định gì? Đó là: “Tôi sẵn sàng để cho các ngã này chết đi.”

20.13. Hội chứng truyền giáo

Giờ đây điều thày nói sau đây có thể cần con suy ngẫm. Một lần nữa, thày tìm cách dùng cái trí của con, cái trí lý luận, lô-gíc, suy luận, để vượt qua khả năng suy luận của nó bằng cách giúp con thấy là đôi khi óc suy luận trở nên quá đáng vì nó tạo ra mâu thuẫn. Điều con cần nhận ra là điều Mẹ Mary đã nói trong bài truyền đọc của thày: “Trong cương vị một avatar con không có mặt trên trái đất để đem lại thay đổi vật lý đặc trưng.” Vì sao lại như vậy? Vì chuyện xảy ra trên trái đất không phải là trách nhiệm của con, mà là trách nhiệm của các cư dân nguyên thủy.

Nếu cần có thay đổi vật lý đặc trưng, tỷ dụ như loại bỏ chiến tranh và không còn chiến tranh trên hành tinh này nữa, thì con, như là một avatar, không thể lấy quyết định đem tình trạng này xuống cõi vật lý. Cần có đủ túc số cư dân nguyên thủy lấy quyết định này, và lúc đó nó sẽ hiện thực trong cõi vật lý. Điều con có thể làm là giúp họ lấy quyết định này. Con làm việc này như thế nào? Không bằng cách ép buộc họ, vì như vậy thì con chỉ làm đúng những gì sa nhân đã làm – con còn không thể ép buộc họ ở các tầng xúc cảm, lý trí và bản sắc.

Con cần nhận ra một điều mà rất rất nhiều người tâm linh hay sùng đạo (nhưng nhiều người tin vào một ý thức hệ chính trị cũng vậy) đã bị mắc bãy, đó là điều mà ta có thể gọi là “hội chứng truyền giáo”. Đây là khi con nghĩ con cần đi ra bên ngoài và cải đạo mọi người theo hệ thống tư tưởng của con bằng cách dùng cảm xúc, thể lý trí và ý niệm bản sắc của họ, để họ đổi ý và tin vào hệ thống tư tưởng của con. Họ lúc đó khoác hệ thống tư tưởng này như một áo choàng và nói: “Tôi bây giờ theo tôn giáo này và do đó tôi sẽ cư xử theo tôn giáo đó.” Đây không phải là lý do vì sao con đã tới đây như một avatar. Như các thày đã giảng, con tới đây để chứng minh tiến trình thức tỉnh khỏi sự tự đồng hóa mình với cõi vật chất. Con ở đây để cho mọi người thấy là bất cứ ai đều có thể nâng mình lên khỏi ý niệm bản sắc mình là một người phàm, và nhận ra là tất cả chúng ta đều là sinh thể tâm linh.

Con ở đây để chứng tỏ sự thức tỉnh, và dù con có thể, con yêu dấu, cải đạo người khác để họ theo một hệ thống tư tưởng – nhưng đó không phải là thức tỉnh. Nhiều người không dễ nhìn ra điều này, nhưng con thì có thể thấy. Nếu con có thể cải đạo tất cả mọi người trên hành tinh để họ trở nên tín đồ Công giáo thuận thành, thì điều này có nghĩa chăng là họ đã tới gần quả vị Ki-tô hơn? Ấy, lẽ dĩ nhiên con biết là không, vì giáo hội Công giáo đã tha hóa khái niệm quả vị Ki-tô.

Con có thể nói: “Nếu con có thể cải đạo mọi người để họ tin giáo lý chân sư thăng thiên, thì điều này có dẫn họ tới gần quả vị Ki-tô hơn chăng?” Ở đây thì ta có một câu hỏi lắt léo hơn vì chính thực là họ sẽ tới gần quả vị Ki-tô hơn, vì giáo lý chân sư thăng thiên có một giáo lý có giá trị hơn nếu con muốn nâng tâm thức mình lên. Con không thể thực sự hết lòng theo giáo lý chân sư thăng thiên mà không nâng tâm thức mình lên. Như các thày đã nói nhiều lần, nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã chứng minh là con có thể theo giáo lý chân sư thăng thiên trong nhiều thập kỷ mà vẫn không thực sự hiểu thế nào là con đường tu nội tâm. Con có nhận ra điều thày nói chăng? Vấn đề không phải là khiến con người tin vào một giáo lý. Cách duy nhất để dẫn con người đến gần quả vị Ki-tô hơn, là con chứng tỏ bằng bản thân mình tiến trình thức tỉnh. Sau đó, lẽ dĩ nhiên con có thể giúp họ khóa chặt họ vào tiến trình đó, nhưng thức tỉnh không phải là chấp nhận một giáo lý vỏ ngoài với tâm vỏ ngoài. Nó là, như chúng ta đều biết, một tiến trình nội tâm. Con yêu dấu, khi con nhận ra điều này thì con nhận ra là con không tới đây để đem lại một thay đổi đặc trưng trên trái đất, và do đó hoàn toàn không có lý do gì để con tiếc nuối những gì con đã làm hay đặc biệt là đã không làm trong kiếp này hay các kiếp trước.

20.14. Không tiếc nuối

Giờ đây chúng ta đang ở Đông Âu, môt vùng đất trước đây ở dưới gông cùm Cộng sản. Mẹ Mary có nói là nhiều người dân Đông Âu cảm thấy không được nuôi dưỡng nhưng họ cũng cảm thấy đời họ là một cơ hội bị mất. Khi con nhìn vào các nước dưới gông cùm Cộng sản thì nhiều người có cảm tưởng là vì họ không có cơ hội biểu lộ sự sáng tạo của họ nên cuộc đời của họ đã là một cơ hội bị mất. Một số người trong các con cũng có thể cảm thấy như vậy, nhưng các con nên biết là nhiều người thuộc thế hệ cha mẹ các con đã cảm thấy như vậy. Cũng có những quốc gia (và chắc chắn nước Estonia này là một trong những nước đó) mà tâm thức quốc gia cảm thấy cơ hội bị mất vì họ nghĩ mức độ phát triển quốc gia của họ sẽ hơn nhiều nếu họ không bị Liên bang Sô viết áp chế.

Rất, rất nhiều avatar có thể có cùng cảm nhận mình đã đánh mất cơ hội. Trong khi nhiều người cảm thấy là có người khác, có một lực bên ngoài đã phá vỡ cơ hội của họ, thì nhiều avatar lại cảm thấy: “Chính tôi đã phá vỡ cơ hội vì tôi đã phản ứng như thế. Tôi đã giận dữ, tôi đã đi vào một vòng xoáy tiêu cực, tôi đã đánh nhau với sa nhân, tôi đã làm điều này, tôi đã làm điều nọ, và do đó tôi đã lãng phí quá nhiều kiếp sống.” Khi vị sứ giả này nhận truyền đọc quyển sách cuối, ông đã phải trải qua một giai đoạn trong đó ông suy ngẫm: “Nhưng nếu tôi cũng đã làm điều mà nhân vật trong quyển sách đã trải qua, là đánh nhau với sa nhân trong vòng một triệu năm, tôi đã lãng phí biết bao nhiêu thời gian trong cuộc đấu tranh nhị nguyên đó.” Con yêu dấu, khi con nhận ra điều thày đã nói: là con không tới đây để đem lại thay đổi vật lý đặc trưng, con ở đây để chứng tỏ tiến trình thức tỉnh, thì con thấy là nhìn từ một tầm nhìn cao, con không bao giờ đánh mất cơ hội. Con không thể nào đánh mất cơ hội, con yêu dấu. Con có thể nói: “Nhưng tôi đã không là người tâm linh trong kiếp sống này, tôi đã không làm việc tâm linh nào cả. Tôi chỉ làm việc tâm linh từ lúc tôi tìm ra giáo lý, nhưng suốt mấy chục năm trước tôi không làm gì tâm linh cả.” Thày sẽ nói: “Vậy vì sao sự việc này lại khiến con đánh mất cơ hội?”

20.15. Không bao giờ đánh mất cơ hội

Con tới đây để làm gì? Con tới đây để chứng tỏ là một người trong quá khứ không tâm linh nay đã thức tỉnh. Nếu trong quá khứ con đã là người tâm linh, thì làm sao con chứng tỏ cách thức tỉnh? Nếu con đầu thai với cùng trình độ tự điều ngự mà nhiều người trong các con nghĩ là Giê-su có khi thày đầu thai, thì họ sẽ làm với con điều họ đã làm với Giê-su: biến con thành một thần tượng. Các thày đã nói điều này và thày lại nói một lần nữa. Nếu một người chứng tỏ Tâm thức Ki-tô, thì sa nhân sẽ lập tức biến vị đó thành một ngoại lệ và nói: “Các người còn lại sẽ không đạt được điều này.” Nếu mười ngàn hay nhiều triệu người chứng tỏ tâm thức Ki-tô, thì sa nhân sẽ không làm được như vậy nữa, và đó chính là kế hoạch mà các thày đã đề ra cho thời đại này. Đây là kế hoạch mà Giê-su đã có 2,000 năm trước khi thày nói: “Những ai tin ta sẽ làm những chuyện ta đã làm và hơn thế nữa.”

Con yêu dấu, quả đúng là sự việc có thể xảy ra sớm hơn. Nhưng nó đã không xảy ra sớm hơn và giờ đây không quan trọng là nó đã không xảy ra sớm hơn, vì nó có thể xảy ra bây giờ nếu con sẵn sàng xoay chuyển tầm nhìn, và giản dị nhìn vào cái ngã giận dữ và nói: “Đây không phải là tôi, tôi sẵn sàng để cho nó chết đi.” Con có thể nhìn vào bất cứ ngã nào đang ngăn trở con, bất cứ ngã nào đang trì hoãn con và con có thể nói: “Tôi thấy đây không phải là tôi, tôi sẵn sàng cho ngã này chết đi.” Sau đó, con để cho nó chết đi, con yêu dấu. Làm cách nào con để cho nó chết đi? Ấy, thày sẽ nhường cho một đồng nghiệp tôn quý của thày diễn giải điều này, vì thày đã nói những gì thày muốn nói lúc này và thày đã trao cho các con những gì con có thể tiếp nhận, và nhiều hơn chút nữa, như thày luôn luôn làm.  

20.16. Chân sư MORE không tự coi mình quá quan trọng

Vì thày là Chân sư MORE, thì làm sao thày lại có thể không cho con nhiều hơn là những gì con có thể tiếp nhận? Bằng cách cho con nhiều hơn những gì con có thể tiếp nhận bây giờ, thì lần tới con có thể tiếp nhận nhiều hơn, và lúc đó thày lại có thể cho con nhiều hơn những gì con có thể tiếp nhận lúc đó. Thày chơi trò chơi này vì đây là ngọn lửa của thày. Con yêu dấu, trong một đợt truyền giáo lý chân sư thăng thiên trước, các đệ tử coi El Morya, như họ gọi thày lúc đó, rất quan trọng. Thày không bao giờ coi mình quan trọng bằng đệ tử coi thày. Vì sao vậy? Ấy, đó là vì các đệ tử chưa thăng thiên nhưng thày thì đã thăng thiên. Họ chưa thăng thiên vì họ coi thày và chính họ quá quan trọng. Thày đã thăng thiên vì thày đã ngưng coi thày và mọi chuyện trên trái đất quá quan trọng. Đó là cách duy nhất để thăng thiên, con yêu dấu.   

Khi nào còn điều gì trên trái đất mà con coi là quan trọng và nghĩ nó có quyền lực trên con (nó có quyền lực giữ con lại trái đất) thì con không thể thăng thiên. Thăng thiên có nghĩa là bỏ lại tất cả mọi chuyện trên trái đất đằng sau mình. Con chỉ có thể bỏ lại một chuyện đằng sau mình khi con tới điểm con có thể nhìn vào nó và con không coi nó quan trọng, nó không níu kéo được con. Con chỉ giản dị nói: “Ấy, rồi sao, chuyện này không có nghĩa lý gì với tôi, tôi đã thăng vượt nó. Trong quá khứ nó có nghĩa lý với tôi.” Việc có những chuyện có nghĩa lý với con là điều bình thường vì nó thuộc vào tiến trình trầm mình và thức tỉnh. Con trầm mình bằng cách coi một số chuyện quan trọng, và như vậy chúng có nghĩa lý với con. Con yêu dấu, con thức tỉnh bằng cách khắc phục khuynh hướng coi các chuyện trên trái đất quan trọng.

Con có thể nói là để thăng thiên, thì con cần coi con đường tu, Hiện diện TA LÀ của con và việc thăng thiên, là quan trọng. Làm sao con có thể coi Hiện diện TA LÀ quan trọng khi con không thể định rõ chính xác nó là gì? Một lần nữa, con coi một chuyện quan trọng vì đối với con nó đã trở thành một vật thể, nhưng con không bao giờ có thể hoàn toàn biến Hiện diện TA LÀ của con thành một vật thể. Con có thể, như một số đệ tử chân sư thăng thiên đã làm, tạo ra một khái niệm Hiện diện TA LÀ là gì và nó gần như đóng vai trò vật thể đối với con. Nếu con bắt đầu nhìn vào việc này, suy luận về nó, thì con sẽ thấy là con không thể biến Hiện diện TA LÀ thành một vật thể. Vì sao vậy? Bởi vì nó không ở bên ngoài con. Con có thể nói con có khái niệm về Hiện diện TA LÀ của con nhưng nó không phải là Hiện diện TA LÀ của con. Con có thể coi khái niệm đó quan trọng, nhưng đó không phải là Hiện diện TA LÀ của con. Con không thể biến cái gì không tách biệt khỏi con thành một vật thể, và con không thể thực sự nắm bắt Hiện diện TA LÀ của con khi con còn ý niệm tách biệt khỏi nó.

Thày đã không cưỡng được cám dỗ cho con nhiều hơn những gì thày đã nói thày muốn cho con. Bây giờ, thì thày sẽ cáo biệt và chúc lành các con vì thày  thực sự vui mừng khi tương tác với bản thể các con. Thày sẽ vui mừng tương tác với từng người trong các con ở mức độ cá nhân, khi con tinh tấn làm việc với thày.

Thày bày tỏ lòng tri ân, tình thương và ngọn lửa HƠN NỮA của thày.

Các kiếp sống của tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su – Chương 25

Trong chương này, bốn vị Gautama, Maitreya, Giê-su, và tác giả, lúc đó đều chưa thăng thiên, nghe chân sư thăng thiên Sanat Kumara giảng về sa nhân tại trường bí giáo của người gốc Kim tinh.

Sanat Kumara: “Trong bầu cõi thứ tư, một số người đồng-sáng tạo nắm lấy vai trò lãnh đạo trên một số hành tinh và dựng lên những nền văn minh rất tinh xảo. Các nền văn minh này giống những gì các con có thể thấy trên trái đất, với một lãnh tụ tối cao ở địa vị cao nhất. Lẽ tất nhiên, trong nhị nguyên lúc nào cũng có hai đối cực, cái này không thể có mặt mà không có cái kia. Khi trên một hành tinh có một người đồng-sáng tạo chọn lựa nâng một cực lên địa vị tuyệt đối, thì không thể tránh có một người đồng-sáng tạo khác nâng cực đối lập lên địa vị tuyệt đối. Và không thể tránh là hai vị lãnh tụ sẽ đối chọi nhau.

Khi bầu cõi thứ tư càng ngày càng tới gần điểm thăng thiên, thì con thấy tình trạng này trải bày trên một số hành tinh. Con thấy có hai nền văn minh đều có lãnh tụ tối cao và họ chống đối nhau trong một trận chiến mà họ coi có tầm quan trọng cuồng đại. Khi bầu cõi tới gần điểm thăng thiên, thì các sinh thể có tâm thức nhị nguyên cảm thấy có một lực lôi kéo họ, và điều này khiến họ cảm thấy một sự cấp bách. Họ dùng tư duy nhị nguyên để diễn giải là điều này có nghĩa là họ cần cấp bách thắng đối thủ. Họ cũng có thể tin rằng việc thắng đối thủ là điều sống còn cho đại nghĩa của vị thần linh của họ hay cho tương lai vũ trụ.

Khi bầu cõi thứ tư tiến gần hơn điểm thăng thiên, thì ở một số hành tinh cuộc đấu tranh này đi tới chỗ cùng cực, dẫn tới tình trạng giống như hiện tượng mà ngày nay con gọi là chiến tranh. Trong một số trường hợp, một nền văn minh đã phá hủy nền văn minh đối lập. Các lãnh tụ phe thắng thế đã diễn giải tình hình như là họ đã cứu nguy vũ trụ hay kế hoạch của Thượng đế.

Theo luật tự quyết thì các chân sư thăng thiên phải để yên con người khi họ đi vào nhị nguyên. Trên những hành tinh phi tự nhiên đó, tất cả nhân loại đầu thai trên hành tinh đã chọn đi vào nhị nguyên và tin thế giới quan do các lãnh tụ đề xướng. Các thày không có quyền can thiệp vào nếu con người không yêu cầu, và con người rất ít khi yêu cầu khi họ ở trong nhị nguyên. Nhưng, vì toàn bầu cõi đã đến gần điểm thăng thiên, thì luật tạo hóa đòi hỏi các thày phải bắt buộc các người đồng-sáng tạo trên các hành tinh phi tự nhiên phải đối đầu nhu cầu thay đổi. Một hành tinh chỉ có thể thăng thiên khi các cư dân dùng quyền tự quyết để quyết định thăng thiên, do đó nếu họ không chịu từ bỏ nhị nguyên thì họ không thể thăng thiên cùng với toàn bầu cõi. Nhưng mặt khác, họ không thể lấy quyết định tự do khi họ không trải nghiệm có gì khác nhị nguyên.

Khi các chân sư thăng thiên xuất hiện trên số ít hành tinh phi tự nhiên đó, thì các cư dân và lãnh tụ không thể chối bỏ là có một thực tại cao hơn. Đây là lần đầu tiên từ khi họ đi vào nhị nguyên, họ có một chọn lựa thật sự tự do. Đa số các người đồng-sáng tạo chọn chấp nhận đề nghị theo một con đường dẫn họ ra ngoài nhị nguyên. Họ nhận được mọi trợ giúp mà họ cần, và sẵn sàng thăng thiên cùng với các phần khác của bầu cõi thứ tư.

Nhưng có một số lãnh tụ tối cao và đàn em của họ bác bỏ những gì các chân sư thăng thiên cống hiến. Điều này có nghĩa là họ không thể thăng thiên cùng với bầu cõi thứ tư, nhưng sự thăng thiên của cả bầu cõi không thể bị đình chỉ vì một số quá nhỏ người đồng-sáng tạo không thăng thiên.

Điều này không phải là một vấn đề và cũng không phải là điều bất ngờ. Bầu cõi thứ tư thăng thiên, và các sinh thể không chịu thăng thiên được đặt vào một thế giới tạm bợ chờ lúc bầu cõi thứ năm được tạo ra. Khi bầu cõi này đã sẵn sàng hiện thân, thì các sinh thể nhị nguyên đầu thai vào đó và họ được đặt vào một số hành tinh được tạo ra hợp với trình độ tâm thức của họ. Ta có thể nói là các sinh thể đó đã sa xuống bầu cõi thứ năm thay vì tình nguyện đầu thai vào bầu cõi thứ năm.

Họ cảm thấy họ bị ép buộc phải đầu thai ở bầu cõi thứ năm ngược lại ý muốn họ, nhưng đó chỉ là trải nghiệm của riêng họ. Sự thực là tình trạng đó là kết quả của những chọn lựa của họ, nhưng vì họ không chịu nhìn nhận điều này, nên họ trải nghiệm họ bị ép buộc vào bầu cõi thứ năm. Do đó họ lại tin chắc hơn là có một lực ngoại lai chống lại quyền tự quyết của họ.

Các sinh thể đó sa xuống bầu cõi thứ năm vì họ không chịu thăng thiên cùng bầu cõi thứ tư. Do đó, thày gọi họ là “sa nhân” để nói là họ sa vào môi trường hiện tại của họ thay vì tự nguyện hiện thân, như trường hợp các người đồng-sáng tạo.

Trong bầu cõi thứ năm và thứ sáu, lại có thêm sinh thể sa ngã, và đó là lý do vì sao bầu cõi này là bầu cõi thứ bảy, cũng là bầu cõi dày đặc nhất, từ khởi đầu đã có một số sa nhân. Lúc đầu họ chỉ ở trên một số hành tinh được đặc biệt tạo ra cho họ, nhưng sau đó họ đã lan sang một số hành tinh khác khi những cư dân hạ thấp tâm thức tập thể đến độ sa nhân có thể đầu thai vào đó.

Đó là lý do vì sao trên trái đất có những sinh thể hoàn toàn không tôn trọng các cư dân nguyên thủy. Các sa nhân tự coi họ cao hơn tất cả các sinh thể sinh ra trong bầu cõi này rất nhiều. Nhìn dưới một góc độ nào đó thì ta có thể nói là họ cao hơn, vì họ có hơn rất nhiều kinh nghiệm dùng nhị nguyên để lừa đảo, khuynh loát và ép uổng người khác. Do đó, trong lãnh vực ép uổng người khác, thì sa nhân quả thật ‘tinh khôn’ hơn.

Họ không ở đây vì họ muốn ở đây, tuy rằng họ đã chọn lựa đi vào một tiến trình mà hậu quả hành động của họ dẫn họ tới đây. Họ chống đối việc họ ở đây, và mỗi người trong số họ đã tạo dựng một thế giới quan giải thích tại sao họ ở đây, tại sao điều này bất công, và vì sao thượng đế đã sai lầm khi để chuyện này xảy ra. Một số sa nhân đã tạo dựng một số lý giải để chứng tỏ vị thượng đế mà chính họ tạo ra đã sai lầm, và họ tìm cách dùng nhân loại như một dụng cụ để chứng minh điều đó. Họ còn nghĩ vai trò của họ là sửa sai những lỗi lầm của thượng đế của họ, và họ nghĩ họ là những người thực sự hiểu cách vũ trụ vận hành, và do đó họ phải là những người điều khiển mọi việc. Một số trong họ tin rằng thượng đế đã sai lầm khi cho con người quyền tự quyết, và họ tin rằng họ có quyền áp đặt ý chí của họ lên tất cả những sinh thể dưới họ. Hiểu được ý đồ này là chìa khóa để hiểu cách sa nhân suy nghĩ và vì sao họ lạnh lùng và coi thường mạng sống và quyền tự quyết của con người.

Bây giờ thì thày thấy các con có nhiều câu hỏi, vậy chúng ta hãy tiếp tục cuộc thảo luận này dựa trên các câu hỏi đó.

***

Giê-su: “Chúng con đều có kinh nghiệm gặp trong nhiều kiếp sống những người rất khác chúng con vì họ hoàn toàn không tôn trọng sự sống. Chúng con gọi họ là những “Người môi giới quyền lực và kiểm soát” (NMGQLKS) vì họ sẵn sàng dùng bạo lực để kiềm chế người khác và họ không màng hậu quả trên người khác. Con bây giờ thấy là hiểu biết của chúng con dựa trên những gì chúng con quan sát trên trái đất, và bài giảng của thày về sa nhân cho chúng con một tầm nhìn rộng rãi hơn nhiều. Xin thày cho chúng con biết thày coi những người mà chúng con gọi là NMGQLKS ra sao, và họ liên quan ra sao với sa nhân?”

Sanat Kumara: “Không phải tất cả các NMGQLKS đều là sa nhân, và không phải mọi sa nhân đều là NMGQLKS. Có một số lãnh tụ mà con thấy ngày hôm nay, và con đã gặp trong các kiếp sống trước, đã không sa xuống từ một bầu cõi trước. Tất cả mọi NMGQLKS đều bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên, vì nếu không thì họ đã không sẵn sàng áp bức người khác. Tuy nhiên, có một số đã đi vào tâm thức nhị nguyên trong bầu cõi này, có nghĩa là họ đã nhất thời khoác lấy tâm thức và có tiềm năng xoay chuyển ra khỏi tâm thức đó khi bầu cõi này thăng thiên. Có một sự xoay chuyển xảy ra khi bầu cõi đầu tiên của một sinh thể thăng thiên và y từ chối không chịu xoay chuyển để bước ra khỏi nhị nguyên. Khi y sa xuống bầu cõi tới thì y quên đi chi tiết vì sao y lại sa xuống, nhưng y giữ lại thế giới quan mà y đã xây dựng trước khi sa xuống. Vì y đã quên đi vì sao y lại có thế giới quan đó, và quên đi là thế giới quan đó đã bị các chân sư thăng thiên thách thức, nên y tự đồng hóa mình với thế giới quan đó nhiều hơn. Điều này không có nghĩa là y không thể thức tỉnh khỏi nhị nguyên, nhưng y khó làm điều này hơn rất nhiều. Điều này đòi hỏi nhiều tính khiêm cung hơn, và đa số sa nhân rất kiêu ngạo, xem mình là đúng và nhiều tính tự tôn nên họ rất khó nhìn nhận họ đã sai lầm và những niềm tin mà họ coi là tuyệt đối thực ra chỉ tương đối.

Thày biết khó phân biệt một sa nhân và một NMGQLKS đã đi vào nhị nguyên trong bầu cõi này, nhưng một sa nhân sẵn sàng đi xa hơn trong nỗ lực chứng minh thế giới quan của mình đúng. Một NMGQLKS đi vào nhị nguyên trong bầu cõi này thường chú tâm vào việc nắm quyền lực cho chính mình, trong khi các sa nhân thường có một ý đồ vượt quá quyền lực cá nhân.”

Giê-su: “Xin thày đem những điều thày vừa giảng áp dụng vào những sinh thể mà chính chúng con đã gặp?”

Sanat Kumara: “Lucifer, Satan và Maleve đều là sa nhân. Lucifer và Satan sa ở bầu cõi thứ năm, và Maleve sa ở bầu cõi thứ sáu. Lucifer và Satan tất nhiên là sa nhân vẫn đang hành xử như NMGQLKS. Nhưng Maleve đã bắt đầu con đường đi ra khỏi tâm thức nhị nguyên, một phần do cô đã gặp hai người các con. Cô không còn hành xử như một NMGQLKS theo nghĩa cô không còn tìm cách áp chế người khác bằng phương tiện vật lý. Điều này chứng tỏ sa nhân có thể thức tỉnh, một phần vì chán ngán tâm thức nhị nguyên và các đấu đá mà nó tạo ra, và một phần do gặp các sinh thể không sống trong nhị nguyên hay ít sống trong nhị nguyên bằng họ.

Lucifer và Satan đại diện hai cực đối nghịch. Như thày có giảng, đấng Sáng tạo đã phát khởi sự sáng tạo của thế giới hình tướng. Ngài làm việc này bằng cách tạo một vòng biên chung quanh ngài và rút ngài vào một điểm dị thường ở trung tâm khoảng không đó. Từ đó, ngài phóng mình ra ngoài và tạo bầu cõi thứ nhất. Có hai lực sáng tạo căn bản, một lực lan tỏa, hướng ngoại, và một lực co thắt, hướng nội. Mọi thứ trong thế giới hình tướng được tạo thành từ sự tương tác cân bằng giữa hai lực đó. Nếu chỉ có lực lan tỏa, thì hình tướng không thể tồn tại, vì nó sẽ bị nổ tung. Nếu chỉ có lực co thắt, thì hình tướng không thể tồn tại, vì nó sẽ bị sụp đổ.

Đấng Sáng tạo đại diện lực lan tỏa hay nguyên tố Cha, và thế giới vật chất đại diện lực co thắt hay nguyên tố Mẹ. Khi hai lực cân bằng thì một hình tướng được duy trì lâu bền. Sự tương tác luôn luôn biến hóa giữa hai lực khiến sự tăng trưởng xảy ra.  Nguyên tố Cha luôn lôn thúc đẩy hình tướng thăng vượt chính nó. Nguyên tố Mẹ có chức năng duy trì hình tướng một thời gian đồng thời ngăn ngừa hình tướng trở nên thường trực. Nếu một hình tướng bị kẹt, thì nguyên tố Mẹ sẽ khiến nó rốt cuộc sụp đổ. Lẽ tất nhiên, hình tướng được tạo ra bởi các sinh thể đồng-sáng tạo có tự nhận biết, và nguyên tố Cha thúc đẩy họ tiếp tục tăng trưởng khả năng sáng tạo của họ. Nguyên tố Mẹ sẽ rốt cuộc tiêu hủy các hình tướng mà họ không chịu buông bỏ, nhưng mục đích là để giải thoát linh thể sáng tạo bị giam hãm trong tạo vật của chính nó. Chức năng của nguyên tố Mẹ là cho phép con sáng tạo một hình tướng bất quân bằng và duy trì nó một thời gian, nhưng không thể duy trì mãi mãi. Nguyên tố Mẽ sẽ không cho phép con bị kẹt trong hình tướng đó mãi mãi.

Tâm thức nhị nguyên lấy hai lực căn bản đó và tha hóa chúng. Lucifer đại diện sự tha hóa của nguyên tố Cha vì y có ý đồ chứng minh một điều gì đó. Các con đã trải nghiệm là ý đồ này thay đổi qua các kiếp sống, nhưng đó là vì y bị kiểm soát bởi một sinh thể trong cõi bản sắc, tên là Giáo chủ Bóng tối. Một số sa nhân có ý đồ chứng tỏ thượng đế sai. Thực ra họ không tìm cách chứng minh là đấng Sáng tạo sai, vì một sinh thể trong nhị nguyên không thể mường tượng đấng Sáng tạo. Họ đang tìm cách chứng minh một thượng đế giả do họ tạo ra đã sai lầm. Đây là một hình ảnh của thượng đế đã được tạo ra trong bầu cõi thứ tư, và được củng cố trong các bầu cõi thứ sáu và thứ bảy. Lucifer và các sa nhân khác đã tin vào sự hiện hữu của thượng đế đó trong một khoảng thời gian rất dài và đã tự đồng hóa với hình ảnh thượng đế đó. Con luôn luôn thấy nơi Lucifer ý đồ chứng minh điều gì, và đó là lý do vì sao y muốn lừa gạt và khuynh loát các con để các con ủng hộ y. Y cần chứng tỏ điều gì, nên y phải thuyết phục các con, chứ không chỉ giản dị bắt buộc các con tuân phục.

Satan đại diện sự tha hóa của nguyên tố Mẹ. Y tìm cách dùng lực căn bản của nguyên tố Mẹ để tạo tàn phá và hỗn loạn. Tuy nhiên, y không làm điều này để giải thoát linh thể của con, nhưng để nô lệ nó bằng cách khiến nó mắc kẹt trong việc đối chọi với y và các nỗ lực tàn phá của y. Ta có thể nói đây cũng là một ý đồ, vì Satan thường bị các sinh thể sa ngã trong cõi tư tưởng và cảm xúc kiểm soát. Các sinh thể này không ‘tinh khôn’ như các sinh thể trong cõi bản sắc, nhưng họ vẫn thông minh, một cách nhị nguyên và đường thẳng, hơn đa số con người đang đầu thai. Tuy nhiên, trong khi hành động của Lucifer có một cơ sở hợp lý, thì hành động của Satan thường khi không có cơ sở nào khác hơn là ý muốn tàn phá, cho y cảm giác có nhiều quyền lực. Y càng tàn phá thì càng cảm thấy có quyền lực. Và y khẩn thiết cần quyền lực vì y đã trải nghiệm là y không thể chế ngự Lucifer, và y trải nghiệm là y không thể chế ngự hai con.”

Gautama: “Thày nói là khi bầu cõi của chúng con được tạo ra, thì sa nhân chỉ có thể đầu thai vào một số hành tinh được đặc biệt tạo ra cho họ. Nhưng sau đó, thì họ đã lan sang một số hành tinh khác vì cư dân ở đó đã hạ tâm thức tập thể xuống. Xin thày mô tả chuyện gì đã xảy ra cho trái đất? Con phỏng đoán là trái đất không được tạo ra cho sa nhân?”

Sanat Kumara: “Trái đất được tạo ra như một hành tinh tự nhiên. Khi trái đất được tạo ra, một đợt người đồng-sáng tạo xuống đầu thai ở đây, và mọi chuyện xảy ra giống như những gì các con đều đã trải nghiệm trên một hành tinh tự nhiên. Làn sóng sống đầu đó, hay chủng tộc gốc đó, đã nâng cao tâm thức của họ, và xây dựng thêm trên nền móng mà họ được phú cho. Khi họ đã nâng tâm thức cá nhân và tập thể tới một mức nào đó, thì họ đều thăng thiên. Sau đó, một đợt thứ hai đầu thai, và họ cũng đều thăng thiên. Đợt thứ ba cũng vậy. Nhưng khi đợt thứ tư xuống đầu thai, thì một sự chuyển đổi xảy ra.

Đợt đồng-sáng tạo thứ tư quyết tâm thử nghiệm nhị nguyên hơn ba đợt trước. Điều này không có nghĩa là họ đi vào các tầng thấp của nhị nguyên. Họ không dùng bạo hành hay áp chế, và chiến tranh chưa có mặt trên trái đất. Họ đã phát triển những nền văn minh rất tinh xảo, tinh xảo hơn những gì các con đã từng chứng kiến trên trái đất rất nhiều. Không có gì tiêu cực trong bản chất các nền văn minh đó, nhưng các nhà lãnh đạo đã khai triển những thế giới quan mà họ tin là tuyệt đối. Lẽ tất nhiên, chúng cũng bất di dịch. Một khi con đã quy định một điều gì là tuyệt đối, thì làm sao con có thể tăng trưởng vượt lên nó được?

Luật tự quyết quy định là một nhóm đồng-sáng tạo có quyền tạo ra bất cứ tình huống nào mà họ muốn trên hành tinh của họ. Lẽ tất nhiên, họ sẽ trải nghiệm hậu quả của những gì họ tạo ra, và điểm hy vọng là khi họ đã trải nghiệm một tình huống nào đó trong một thời gian dài, thì họ sẽ chán ngán và mong muốn cái gì hơn thế. Đó là vì một người đồng-sáng tạo là một nối dài của tâm đấng Sáng tạo, và đấng Sáng tạo luôn luôn có ý chí tăng trưởng, có ý chí hơn nữa. Đây là lý do vì sao đấng Sáng tạo đã quyết định sáng tạo. Động lực tự thăng vượt là động lực sâu thẳm nhất, căn bản nhất nơi mỗi chúng ta.

Các lãnh đạo đợt đồng-sáng tạo thứ tư đã dùng tâm thức nhị nguyên để tạo ra một thế giới quan cho rằng tăng trưởng không cần thiết, và thậm chí bất kỳ thay đổi nào cũng nguy hiểm. Hậu quả là họ tự cắt đứt liên hệ trực tiếp với các chân sư thăng thiên. Các thày không thể thách thức thế giới quan của họ. Họ cũng tin rằng vai trò của họ là duy trì vĩnh viễn nền văn minh của họ và đó là sứ vụ cao cả nhất của họ. Như thày có nói, nền văn minh đó rất tinh xảo và các cư dân có đời sống rất thoải mái, sung túc và an toàn. Dưới mắt họ, đó là thiên đàng hạ thế.

Tuy nhiên, có một giá phải trả. Thày có mô tả là các sinh thể trong bầu cõi thứ tư đã dùng các đối cực của nhị nguyên để tạo ra mâu thuẫn giữa nhau. Một khía cạnh khác của tâm thức nhị nguyên là con người có thể tới điểm xem đối cực là nguy hiểm. Trái đất lúc đó không có chiến tranh như ngày nay, nhưng có lúc có mâu thuẫn giữa những đối cực nhị nguyên. Một số lãnh tụ đã khắc phục điều này bằng cách đề ra triết lý mâu thuẫn là nguy hiểm. Lẽ tất nhiên, điều này không sai, nhưng các lãnh tụ này đã tạo ra một triết lý có mục đích chủ yếu trừ bỏ mọi mâu thuẫn trong xã hội bằng cách khiến mọi người giống nhau, và ngăn trừ mọi sáng chế hay thay đổi, ngay cả những thay đổi cải thiện. Duy trì hiện trạng trở nên thượng đế của họ.

Điều này dẫn tới một nền văn minh đã tạo ra nhiều biện pháp tinh xảo để dạy dỗ con người theo một lối nào đó, thậm chí không cho phép cha mẹ dạy dỗ con cái. Việc dạy dỗ trẻ em do cơ quan nhà nước đảm trách, đây là một sự tảy não trẻ em bằng cách phá hủy cá nhân tính của chúng. Kết quả là một xã hội có rất ít khác biệt ý kiến. Xã hội đó rất tân tiến và có triết lý chung cho rằng mục đích chính yếu của xã hội là duy trì hiện trạng bằng cách tránh mâu thuẫn. Nhưng mục đích này đi ngược mục đích của tạo hóa vì không cư dân nào của xã hội đó tăng trưởng. Do đó, xã hội đó không thể duy trì lâu dài, nhưng các chân sư thăng thiên không có cách nào khiến các cư dân nhận ra điều này. Họ đã quả thật đóng cửa không cho ý kiến nào thách thức thế giới quan chính thức chen vào, vì họ coi đó là một hiểm nguy có thể đưa đến mâu thuẫn. Các lãnh tụ của nền văn minh đó đã dễ dàng loại bỏ các ý kiến có khả năng cứu vãn nền văn minh khỏi nạn tự hủy.

Các chân sư thăng thiên không có chọn lựa nào khác hơn là để yên các cư dân trái đất một thời gian, với hy vọng là họ sẽ chán ngán tình trạng bất động và muốn nhiều hơn. Lẽ tất nhiên, một số cá nhân có chán ngán và các chân sư thăng thiên hướng dẫn trái đất vào lúc đó đã làm việc với họ. Tuy nhiên, thời gian tiếp tục trôi qua và việc nền văn minh không tự thay đổi trở nên quá rõ. Điều này có nghĩa là nền văn minh bắt đầu khơi động nguyên lý trong nguyên tố Mẹ hay nguyên tố Vật chất, là lực co thắt.

Nền văn minh đó rất tiến bộ và mọi thành viên cảm thấy đời sống họ an toàn và trong tầm kiểm soát. Bỗng nhiên, những trục trặc xảy ra và họ không hiểu tại sao. Các chân sư thăng thiên có thể giảng cho họ rõ, nhưng họ không mở tâm lắng nghe. Thay vì thích nghi theo hoàn cảnh bằng cách chất vấn các niềm tin của họ, thì nền văn minh lại tự đồng hóa mình hơn với các niềm tin đó. Các lãnh tụ tạo ra huyền thoại một lực bên ngoài tìm cách phá hủy những gì họ tạo dựng, và khuyến khích dân chúng kháng cự lực đó, có nghĩa là họ khiến mọi người bám chặt hơn vào các niềm tin hiện hành.

Lẽ tất nhiên, khi các lãnh tụ tìm cách giải thích có lực bên ngoài tìm cách phá hủy nền văn minh, thì họ cũng đưa ra ý kiến quy lỗi cho một số người vì họ khác đám đông. Sự thực là có một số người sẵn lòng chất vấn thế giới quan đang thống trị, và nay họ bị dán nhãn là nguyên do các vấn đề. Những người có tiềm năng cứu rỗi nền văn minh bị biến thành kẻ thù.

Trên một hành tinh tự nhiên, các cư dân lúc nào cũng nhận biết hoàn cảnh vật lý là kết quả trạng thái tâm thức của họ. Họ cũng duy trì quyết tâm tăng trưởng, và họ biết là tăng trưởng xảy ra khi có sự tương tác giữa những người khác nhau. Do đó, cá nhân tính, sự khác biệt và đa diện được coi là cội nguồn của tăng trưởng vì chúng tạo ra căng thẳng sáng tạo đưa đến đổi mới.

Một khi hiểu biết này bị mai một, là chuyện lúc nào cũng xảy ra khi con người đi vào nhị nguyên, thì có thể có một sự xoay chuyển khiến cả hành tinh bắt đầu thấy sự khác biệt như nguồn mâu thuẫn thay vì căng thẳng sáng tạo. Lúc đó con người bắt đầu phân cực thành nhóm, và một số nhóm bắt đầu có tư duy cuồng đại, cho rằng có một đại nghĩa tối hậu và có một số người đang đóng góp vào đại nghĩa đó trong khi có một số người chống phá. Lúc đó, thay vì sử dụng khả năng sáng tạo để đồng-sáng tạo một trạng thái cao hơn cho hành tinh, con người dùng quyền năng của mình để ngăn chặn người khác ngõ hầu duy trì hiện trạng, mà hiện trạng không thể duy trì vì không có gì trong thế giới hình tướng có thể đứng yên mãi mãi.

Chính lúc các cư dân một hành tinh hạ thấp tâm thức tập thể đến chỗ đó, là lúc hành tinh tự mở cửa để sa nhân có thể đầu thai vào. Các chân sư thăng thiên hướng dẫn trái đất lúc đó có một chọn lựa tế nhị. Họ có thể dễ dàng tiên đoán là nếu để yên cho trái đất, thì các cư dân sẽ củng cố vòng xoáy hướng hạ mà họ đã tạo ra. Điều này sẽ dẫn tới, trong một tương lai tương đối gần, sự phá hủy hoàn toàn của hành tinh qua các biến cố được gọi là thiên tai. Cư dân của một hành tinh có quyền năng tạo dựng một vòng xoáy hướng hạ tự củng cố khiến lực co thắt của nguyên tố Mẹ khiến hành tinh sụp đổ qua các biến cố khủng khiếp. Do đó, các chân sư có thể thấy là nếu để yên cho trái đất, thì trái đất sẽ tự hủy. Vì tạo dựng một hành tinh đòi hỏi nhiều đầu tư chú ý và năng lượng, nên các chân sư thăng thiên đã quyết định cho phép sa nhân đầu thai vào đây như một thử nghiệm thức tỉnh cư dân trái đất thấy vấn đề mà họ đã tạo ra qua hành động của họ.”

Sanat Kumara dừng lại và nhìn chúng tôi. Maitreya lên tiếng: “Suy luận nào đưa tới quyết định cho phép sa nhân đầu thai ở đây?”

Sanat Kumara: “Khi một hành tinh đã đi quá trớn đến độ tiêu hủy gần kề, thì các chân sư thăng thiên không dễ chọn lựa. Các thày không thể ép buộc các cư dân thay đổi, và rất có thể là khi họ nhìn thấy nhu cầu thay đổi, thì đã quá muộn để cứu hành tinh. Đây không nhất thiết là một sự mất mát. Tạo dựng một hành tinh đòi hỏi một đầu tư đáng kể, nhưng nó chỉ là một cái gì được tạo ra với mục đích giúp các người đồng-sáng tạo tăng trưởng tâm thức. Khi họ thấy là họ đã đóng góp vào việc phá hủy cả một hành tinh, thì nhiều người đồng-sáng tạo đã thức tỉnh và lấy chọn lựa dẫn họ vào con đường đi ra khỏi nhị nguyên. Do đó việc hành tinh tự hủy cũng có thể có kết quả tích cực. Tuy nhiên, các thày có nỗ lực cuối cùng để tránh chuyện này xảy ra, và một cách là cho phép sa nhân đầu thai vào hành tinh.

Trong trường hợp trái đất, vấn đề chính yếu là niềm tin tuyệt đối cần tránh mâu thuẫn. Khi cho phép sa nhân như Lucifer và Satan đầu thai xuống trái đất, chẳng bao lâu niềm tin này không thể duy trì. Nền văn minh đồng dạng đã đe dọa phá hủy trái đất chẳng bao lâu bị thay thế bởi nhiều nền văn minh khác nhau và càng ngày càng khác nhau. Điều này có hậu quả là một số người đồng-sáng tạo đã nhận ra là sự giống nhau phá hủy sáng tạo, và kết quả là một số đông người đồng-sáng tạo đã thăng thiên theo dòng thời gian.

Lẽ tất nhiên, có một giá phải trả, là điều không thể tránh khi có tâm thức nhị nguyên. Chẳng bao lâu sa nhân đem tới chiến tranh trên bình diện quy mô và lúc đó có một thời kỳ chiến tranh và xung đột trở nên phổ thông trên trái đất. Tuy nhiên, ngay cả việc này cũng có một số hậu quả tích cực. Thày không muốn biện hộ cho chiến tranh, thày chỉ muốn chỉ cho các con thấy là tất cả những hành động nhị nguyên đều đưa tới thái quá. Chuyện càng trở nên thái quá, thì con người lại có thêm cơ hội chán ngán và bắt đầu muốn một cách sống khác. Điều này cho phép các chân sư thăng thiên nhập cuộc và chỉ dẫn cách sống khác. 

Điều con thấy trên trái đất là một số linh hồn đã trải nghiệm xung đột. Sau đó họ đã trải nghiệm một xã hội đặt căn bản giống nhau. Sau đó, họ lại trải nghiệm chiến tranh còn tệ hại hơn nữa do sa nhân đem lại. Chuyện tự nhiên là khi một hành tinh rơi vào một cực đoan, thì con người có khuynh hướng chuyển sang cực đoan kia. Nhưng vì trái đất đã làm qua chuyện này rồi, nên mâu thuẫn cùng cực do sa nhân tạo ra khiến một số người nhận ra là cả hai đối cực nhị nguyên không đứng vững, và do đó họ mong ước một con đường cao hơn. Và khi con người hỏi, thì các thày được phép cho họ thấy con đường cao hơn đó, và đó là vươn lên trên nhị nguyên.”

***

Sanat Kumara: “Khi một hành tinh đã đi vào tình trạng không tăng trưởng và không mâu thuẫn, thì các thày khó giúp các cư dân hơn là khi có đa diện. Lẽ tất nhiên, sa nhân thiện nghệ trong việc tạo đa diện, nhưng họ cũng thiện nghệ trong việc dùng đa diện để tạo mâu thuẫn. Mâu thuẫn cũng có thể hủy hoại một hành tinh. Chọn lựa mà các thày phải đối mặt là các thày có thể đứng yên nhìn nền văn minh đồng dạng phá hủy trái đất (và lúc đó điều này chắc chắn sẽ xảy ra) hoặc các thày cho phép sa nhân đầu thai xuống đây và tạo mâu thuẫn. Điều này cũng có thể dẫn tới sự hủy hoại của trái đất, nhưng điều này không chắc chắn xảy ra.

Điều này không có nghĩa là các chân sư thăng thiên cộng tác với sa nhân. Sa nhân không muốn dính dáng đến các thày và họ kịch liệt bác bỏ là các thày có thật. Các con có thể thấy là không có tôn giáo nào trên trái đất đề cập đến các chân sư thăng thiên vì lý do đơn giản là sa nhân đã tìm cách loại trừ sự hiện diện của các thày ra khỏi các kinh sách dành cho con người trên trái đất.

Tuy nhiên, các thày vẫn là các sinh thể có quyền quyết định ai được phép đầu thai vào một hành tinh. Lẽ tất nhiên, khi các thày cho phép sa nhân đầu thai vào địa cầu, thì các thày cũng mở đường để các sinh thể như các con đầu thai vào đây. Các sinh thể đầu thai xuống trái đất có trình độ tâm thức nằm trong một khoảng nào đó. Sa nhân đầu thai xuống đây có một trình độ tâm thức thấp hơn. Quy luật tạo hóa nói rằng khi các sinh thể có trình độ tâm thức thấp được phép đầu thai vào một hành tinh, thì các sinh thể có trình độ tâm thức cao tương ứng cũng có thể đầu thai để giữ cán cân do cư dân nguyên thủy tạo ra.

Điều này bảo đảm là sa nhân chỉ có thể kéo một hành tinh xuống tới một mức độ nào đó. Nỗ lực kéo xuống của họ sẽ được cân bằng bởi tâm thức cao của các sinh thể đang tìm cách nâng hành tinh lên. Bằng cách cho phép sinh thể với tâm thức thấp và cao đầu thai vào một hành tinh, các cư dân nguyên thủy của hành tinh cũng được cơ hội chọn lựa theo ai: theo các avatar hay theo sa nhân.

16 | Một thông điệp cho tất cả những ai đã đến đây với sứ vụ giải cứu

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Sanat Kumara qua trung gian Kim Michaels, ngày 12 tháng 6 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Novosibirsk, Nga.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Sanat Kumara. Thày đến đây với một thông điệp đa diện. Kỳ thực, các thông điệp của các thày luôn luôn đa diện vì chúng có thể hiểu được theo nhiều tầng cấp tâm thức khác nhau. Tuy thế, thông điệp của thày đặc biệt đa diện vì thày không chỉ giản dị nói dựa trên 144 tầng tâm thức có thể có trên trái đất. Thày nói cho nhiều người khác nhau đã đến trái đất để làm điều ta có thể gọi là một sứ vụ giải cứu.

Các con đều đã từng nghe câu truyện là có một điểm khi trái đất ở trong một trạng thái rất thấp và nhiều người trong số các thày cho rằng trái đất không thể tồn tại được. Lúc đó, thày và 144,000 dòng sống từ Kim tinh quyết định đến trái đất để giúp nâng cao hành tinh này. Điều này có nghĩa là 144,000 dòng sống đầu thai trên trái đất trong khi thày thì không đầu thai, nhưng thày có thành lập một tu viện ở đây bên trên sa mạc Gobi được gọi là Shamballa.

Giờ đây, như các thày đã nói trước đây, và thày sẽ nói lần nữa, là lẽ tất nhiên những dòng sống từ Kim tinh không phải là những dòng sống duy nhất tới trái đất để giúp nâng hành tinh này lên, vào lúc đó, hay sau đó. Trước đó và sau đó, đã có những dòng sống khác đã đến trái đất để giúp nâng nó lên vượt qua tầng mức nhị nguyên. Nhóm người Kim tinh là nhóm đơn nhất đông đảo nhất đã tới trái đất nhưng có những nhóm khác nhỏ hơn đã tới, có những cá nhân đã tới và họ có nhiều quá trình khác nhau.

16.1. Hành tinh tự nhiên và không tự nhiên

Các thày có gợi ý là con có thể chia hành tinh thành hai loại: hành tinh tự nhiên và không tự nhiên. Trái đất là một hành tinh không tự nhiên vì tâm thức tập thể dựa trên sợ hãi. Ở đây con có sa nhân đầu thai, con có chiến tranh, xung đột, con có tất cả những biểu hiện bên ngoài đó cho thấy rõ những điều này không thể nào tự nhiên, theo nghĩa chúng không được Thượng đế hay các chân sư thăng thiên sáng tạo hay thiết kế.

Đây là một hiện tượng do quyền tự quyết đem tới khi các sinh thể dùng quyền tự quyết của họ để đi vào nhị nguyên, xem mình là những sinh thể tách biệt. Do đó, họ tạo ra tất cả những biểu hiện mà con thấy trên trái đất, chỉ có thể xảy ra được khi con người quên đi nhân tính cơ bản có trong tất cả mọi người. Vì vậy, họ không thấy là tất cả mọi người là anh chị em tâm linh của họ. Họ nhìn tất cả mọi người như người “khác” và họ rơi vào ảo tưởng cho rằng họ có thể làm những điều đối với người khác mà không bị vũ trụ làm lại đối với họ, không bị tấm gương vũ trụ phản ánh lại họ.

Đây là một ảo tưởng chỉ có thể hiện hữu trên một hành tinh không tự nhiên. Ngược lại, có hàng tỷ hành tinh trong vũ trụ vật chất đang ở trong giai đoạn là hành tinh tự nhiên. Nhiều trong số các hành tinh này có mức tâm thức tập thể rất cao. Do đó chúng tạo ra một lực hút từ tính lớn lao kéo toàn thể vũ trụ lên, kể cả, lẽ dĩ nhiên, hành tinh trái đất. Khi lực kéo này gia tăng, chuyện xảy ra là các hành tinh không tự nhiên vẫn tiếp tục bị hút lên bởi lực hút kéo của toàn thể vũ trụ. Vì các hành tinh này có tầng mức tâm thức tập thể thấp, nguy cơ là sự cưỡng chống có thể tạo ra một sự khác biệt lớn giữa lực kéo lên của vũ trụ và lực cưỡng chống của hành tinh, đến độ hành tinh vật lý không thể tụ dính vào nhau và nó có thể bị vỡ tung ra, theo nghĩa đen.

Để tránh chuyện này xảy ra, cần có những dòng sống từ một số các hành tinh tự nhiên đến trái đất và đầu thai ở đây. Chỉ với sự hiện thân vật lý của họ, có thể nói họ là điểm neo cho hành tinh nhà của họ và các rung động của hành tinh nhà của họ. Đây là nỗ lực cuối cùng cần thiết để giúp giữ hành tinh này tụ dính vào nhau lâu hơn nữa với hy vọng có một ngày tâm thức tập thể được nâng cao để hành tinh không còn bị nguy cơ bị vỡ tung ra. Rất nhiều, rất nhiều dòng sống đã tới với nhiệm vụ như thế.

16.2. Đã tới lúc con biết tại sao con ở đây

Bây giờ con cần cẩn thận nhận ra rằng một mặt, thày muốn nói với các dòng sống này. Thày có một ý định muốn gửi một tín hiệu mạnh mẽ vào tâm thức tập thể, hay đúng hơn vào tâm thức cá nhân của tất cả các dòng sống này, là đã tới lúc các con phải tiến lên cao hơn. Đã tới lúc con ý thức nhận ra tại sao con ở trên hành tinh này: con ở đây không phải chỉ để làm một điểm neo, nhưng cũng để cống hiến một khung tham chiếu tích cực cho những cư dân khác của hành tinh. Thời gian đã chín mùi để con bắt đầu làm việc này.

Tuy thế, để làm tròn nhiệm vụ này, con cần nhận ra rằng tuy con đến từ một hành tinh tự nhiên, việc xuống đầu thai ở một hành tinh thấp như trái đất này không thể làm được khi con còn duy trì trọn vẹn cái biết con là ai và từ đâu đến. Như thày Hilarion đã giảng, con chỉ đầu thai được bằng cách mang vào một số ảo tưởng tương ứng với 144 tầng tâm thức. Đây giản dị là chuyện con phải xuống thấp tới đâu để có thể đầu thai ở đây, và con cần nhận ra là con đã mang vào những ảo tưởng này.

Con cũng cần nhận ra một sự kiện rất giản dị: việc con từ đâu đến và tâm thức con cao tới đâu trước khi con tới trái đất, không phải là điều quan trọng. Một khi con mang vào những ảo tưởng này, thì con sẽ nhìn đời trên trái đất qua phin lọc của các ảo tưởng đó. Điều này có nghĩa là giờ đây con ở trong cùng tình trạng như các cư dân khác trên trái đất. Con không cao hơn, con không khôn ngoan hơn, con không tưởng thành hơn họ vì con phải đối mặt cùng những khai ngộ.

Con có tiềm năng hạ tâm thức xuống, và quả thực một số dòng sống đến từ các hành tinh tự nhiên đã đi xuống thấp hơn tầng tâm thức 48. Nhiều người đã không đi xuống, hầu hết đã không đi xuống nhưng các con vẫn phải đối mặt cùng các khai ngộ. Con cần nhận ra rằng con không thể cho phép mình có ý niệm là con khác, con không thực sự thuộc về nơi đây, hành tinh này ban sơ, con không thể giao tiếp được với những người trên hành tinh và tất cả những chuyện tương tự. Có nhiều dòng sống tới đây với nhiệm vụ giải cứu đã cảm thấy xa cách hay cao hơn những người khác trên trái đất. Lý do rất giản dị. Khi con đi vào sự dày đặc của một hành tinh như trái đất, con mất đi sự kết nối với cái biết mà trong các bài truyền đọc gần đây các thày gọi là nhân tính cơ bản. Con bị cú sốc lớn khi xuống đây và bị những người ở đây đối xử (khi con bị bác bỏ một cách rất tàn bạo thường là ngay lần đầu thai đầu tiên trên hành tinh này) nên con tựa như đánh mất nhân tính cơ bản trong con. Hơn thế nữa, con không thấy được nhân tính cơ bản này nơi những người trên trái đất. Có thể nói là con không thấy được nhân tính cơ bản nơi những sa nhân đã làm con tổn thương một cách rất tàn bạo. Con cũng không thấy nó nơi người dân trung bình trên trái đất vì con thấy rất nhiều người không tăng triển, họ không muốn tăng triển.

Con cần nhận ra ở đây có một động lực rất rất quan trọng, là nhiều dòng sống, trên thực tế hầu hết dòng sống đã tới trái đất từ những hành tinh tiến hóa cao hơn, đã đi vào điều có thể gọi là một trạng thái tâm tiêu cực. Họ có khuynh hướng chê bai trái đất rất nhiều, họ có ý niệm là có lẽ chính vũ trụ vật chất chống lại sự tăng triển tâm linh của họ, vũ trụ vật chất dơ bẩn làm sao đó, con người trên hành tinh này ban sơ, các xã hội ở đây ban sơ. Con thường bị dính mắc vào sự chỉ trích chọn lọc này trong đó con nhìn một số nhóm người đặc thù như rất tiêu cực, lạc hậu hay không tăng triển, và vì sao đó, không xứng đáng để con kính trọng, thương yêu hay quan tâm.

16.3. Bị lừa bởi chủ thuyết Quốc xã

Điều sau đây có thể gây sốc nhưng là một sự thật. Nếu con nhìn vào Đức quốc xã, thì một số những dòng sống đến từ những hành tinh cao đã bị quyến rũ bởi ý thức hệ Quốc xã về dòng giống ưu việt và nhu cầu thanh tẩy dòng giống con người. Thực tế là họ cống hiến ánh sáng của họ để ủng hộ guồng máy Quốc xã đã rốt cuộc dẫn tới việc diệt chủng người Do thái (Holocaust). Thày không nói họ là những người lính canh ngục trong các trại tập trung hay họ đã đẩy người tù vào phòng hơi ngạt, nhưng họ phục vụ ở các cấp cao trong guồng máy Quốc xã. Ánh sáng của họ là một yếu tố giúp kéo dài guồng máy chiến tranh do Hitler tạo ra.

Nếu con nhìn một số dòng sống này, ngay cả qua hình ảnh hay phim xi nê của thời đó, thì con có thể thấy là họ có ánh sáng tâm linh. Họ là những người cao, tóc vàng, mắt xanh dương, thực sự có ánh sáng tâm linh nhưng họ đã bị quyến rũ để ủng hộ ý thức hệ Quốc xã. Họ nghĩ rằng, vì điều kiện thấp trên trái đất và đặc biệt là điều kiện thấp của một số nhóm người, có lẽ đã tới lúc dùng những biện pháp quyết liệt để nâng trái đất lên trên cái mà họ thấy là sự điên rồ đã bỗng nhiên bao trùm trái đất. Con cần nhìn nhận rằng khi con đầu thai trên trái đất (đặc biệt là khi con xuống, không nhất thiết là dưới tầng 48, nhưng chắc chắn là dưới tầng 96), dù con đến từ một hành tinh cao, nhưng con vẫn có thể dễ bị thu hút và say mê một ý tưởng, một lý tưởng. Thực tế là con có thể bị quyến rũ để nghĩ rằng để đẩy mạnh lý tưởng này, việc giết những người hành động chống lại điều mà con cho là lý tưởng cho hành tinh này là chuyện chính đáng.

Con yêu dấu, ở đây thày kêu gọi những ai trong các con đã đến từ hành tinh tự nhiên, là đã đến lúc các con nâng mình lên khỏi ảo tưởng này một cách vĩnh viễn. Con chỉ có thể làm điều này bằng cách nghe theo lời khuyên của các thày để: 1) Ngưng không coi cá nhân mình là trung tâm của cuộc đời và con đường tu của mình, và 2) Tìm ra cái mà các thày gọi là nhân tính cơ bản trong mình.

16.4. Nâng cao chính mình hay toàn thể

Bây giờ, tại sao các thày gọi nó là “nhân tính cơ bản”? Một số người sẽ nói tại sao không gọi là “bản sắc tâm linh?” Ấy, đó là vì có một lúc trên con đường tâm linh, như các thày đã nói nhiều lần, khi con cần nâng mình lên khỏi sức hút kéo xuống của tâm thức đại chúng. Các thày đã cố chỉ cho chúng con một con đường tu có hệ thống trong khóa học tự điều ngự trong đó con có thể nâng mình lên qua bảy tia sáng, từ tầng 48 tới tầng 96. Các thày cũng nói là khi con đạt tầng 96, thì con đối mặt một khai ngộ đặc thù, đó là con sẽ tiếp tục chú tâm vào việc nâng cao chính mình hay con sẽ xoay chuyển và bắt đầu chú tâm vào việc nâng cao tổng thể.

Làm sao con có thể xoay chuyển và chú tâm vào việc nâng cao tổng thể? Chỉ bằng cách nhận ra cái mà trong những lần giảng khác các thày đã gọi là tâm thức Ki-tô. Chỉ khi nào con bắt đầu nhận ra tâm thức Ki-tô trong chính con, và bắt đầu hiểu tâm thức Ki-tô là sợi dây nối kết mọi sự sống, thì con mới có thể thực sự nhận ra tại sao con ở đây.

Con yêu dấu, con không ở đây để nâng cao tâm thức mình lên một tầng cao hơn rất nhiều các cư dân khác trên trái đất để con có thể cảm thấy mình hơn họ. Con ở đây để nâng cao tâm thức của tổng thể. Con không thể làm được điều này nếu con dùng sự tiến bộ trên đường tu của mình để quyết định là, vì con đã tiến tới một tầng nào đó của con đường tâm linh và vì con đến từ một thế giới tốt đẹp hơn, nên con hơn những cư dân khác trên trái đất. Con cần khám phá yếu tố của tâm thức Ki-tô kết nối con với mọi sự sống, kể cả những cư dân trên trái đất, bất kể họ đang ở tầng tâm thức nào.

Đây là một yếu tố của tâm thức Ki-tô mà Giê-su đã mô tả khi thày nói: “Hễ các người làm điều gì cho người thấp hèn nhất trong anh em của ta, thì các người đã làm điều đó cho chính ta.” Nếu con nhìn vào đời của Giê-su, dù Thánh kinh chỉ ghi lại những đoạn rời rạc về đời thày, thì con có thể thấy là thày không coi mình hơn người khác. Thày không làm điều mà nhiều người Do thái đã làm thời đó: cảm thấy hơn những người khác đang sống trên mảnh đất đó, như người Xa-ma-ri-a và những người khác. Thày tiếp cận tất cả mọi người và đó là lý do vì sao các thày gọi đó là nhân tính cơ bản.

16.5. Tránh coi mình hơn người

Bây giờ, chúng ta đã nói tới nhu cầu là mọi người khám phá ra nhân tính cơ bản đó, họ có thể bắt đầu hợp tác với nhau dựa trên tin tưởng và quan niệm mọi người bình đẳng. Điều con cần nhận ra, trên cương vị một người tâm linh, là con cũng đối mặt với cùng khai ngộ đó, nhưng chỉ khác đi một chút. Thử thách chính của con không giống như thử thách của hầu hết mọi người trên trái đất. Thử thách của con trước tiên là tránh không coi mình hơn người khác. Làm sao con làm được điều này? Một phần bằng cách neo mình vào yếu tố của tâm thức Ki-tô hoàn toàn vượt lên trên ý niệm thứ bậc do con người tạo lập trên trái đất.

Khi con nhìn vào trái đất, con có thể nhìn trở lại lịch sử được biết và con sẽ thấy là tất cả mọi xã hội đều có ý niệm thứ bậc này. Một số người không những ở địa vị quyền uy hơn người khác, nhưng họ thường được xem là thuộc một giai cấp tách biệt vì họ trong bản chất giỏi hơn, cao cấp hơn người khác (ít ra là họ tự coi mình như thế nhưng người khác cũng thường coi họ như thế). Thậm chí một số người còn tin rằng họ được Thượng đế sinh tạo ra như thế. Đáng tiếc thay, nhiều người đến từ các hành tinh tự nhiên đã bị quyến rũ bởi những hệ thống tư tưởng này vì họ cảm thấy họ trưởng thành hơn, tinh tế hơn những cư dân của hành tinh này. Thày thách thức con phân biện, sự phân biện chỉ có thể làm được với tâm Ki-tô, là sự kiện con ở một tầng cao hơn trên con đường tu và ở một tầng tâm thức cao hơn, không khiến con hơn những người ở các tầng thấp hơn. Thật ra, con càng lên cao về hướng tầng 144 của tâm thức, thì con càng ít cảm thấy mình hơn người, con càng cảm thấy mình là một với mọi sự sống và con càng muốn nâng cao mọi sự sống. Con chỉ có thể vượt qua thử thách này nếu con hiểu được ý nghĩa của việc không coi cá nhân mình là trung tâm của cuộc đời mình. Con hoàn toàn không tìm cách đạt được một địa vị nào đó trong thứ bậc thế gian khiến cho người khác hay chính con nghĩ là con hơn người. Con cũng không đi trên con đường tâm linh, và có lẽ đạt được một địa vị nào đó trong một tổ chức chân sư thăng thiên, để được các chân sư thăng thiên công nhận. Con hiểu chăng, con yêu dấu, là khái niệm thứ bậc có giá trị là vì một thứ bậc trên cõi thăng thiên. Con yêu dấu, sinh thể thăng thiên cao nhất đang làm việc với cõi chưa thăng thiên này không cảm thấy mình cao hơn các sinh thể chưa thăng thiên đang sống trên trái đất. Không có sự cao hơn. Có thứ bậc theo nghĩa là có một số sinh thể giữ chức vụ cao, nhưng không hề có sự đánh giá giá trị, không hề có ý niệm cao hơn liên quan tới thứ bậc này.

16.6. Một thứ bậc giả

Con biết quá rõ là sa nhân rất thiện nghệ trong việc lấy một ý niệm có giá trị và tha hóa nó. Trên trái đất này, họ chỉ cần lấy khái niệm thứ bậc và tha hóa nó với sự phán xét giá trị của tâm nhị nguyên. Điều này dẫn tới hai chuyện. Một là những người ở trên đỉnh thứ bậc trên trái đất giỏi hơn những người ở các tầng thấp hơn. Con cũng có thể thiết lập điều kiện được thấy ở Đức quốc xã là nòi giống A-ri-an cao hơn các nòi giống khác. Con cũng có thể thấy ở Liên Xô là một số người cảm thấy những người cộng sản chân chính tại Liên Xô cao hơn những người trong các quốc gia không cộng sản hay ngay cả những người ở các nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa khác. Con có thể thấy nhiều, rất nhiều ví dụ như thế hiện nay và trong lịch sử. Con yêu dấu, con có thực sự tin rằng tâm thức này có thể sống sót trong Thời Hoàng kim chăng? Nó không thể nào.

Khía cạnh khác của tâm thức này là một khi con đã thiết lập thứ bậc, những người ở chóp bu không thể nào bị người ở cấp thấp hơn chất vấn hay phản bác. Lẽ tự nhiên điều này đã dẫn tới những hoàn cảnh quả thực điên rồ, ví dụ như khi con nhìn vào cuộc đời của Adolf Hitler, thì con sẽ thấy là trong nhiều trường hợp ông đã cố ý lờ đi lời khuyên của tướng lãnh của ông nói cho ông biết cuộc chiến đang diễn tiến ra sao. Ông nghĩ rằng họ quá tiêu cực và giới hạn và quân đội của ông có thể làm những điều mà các tướng lãnh cho là không thể làm được. Ở giai đoạn đầu của cuộc chiến, điều này quả thực đã xảy ra trong một số trường hợp. Các tướng lãnh lượng định một số điều không làm được, nhưng Hitler cứ ra lệnh tiến tới và kết quả đạt được. Ông tự ru ngủ mình trong tâm thức là ông không bao giờ cần lắng nghe lời khuyên của người khác và ông không cần biết chuyện gì thực sự xảy ra trên chiến trường. Ông chỉ cần đi vào nội tâm và có viễn kiến điều gì phải xảy ra và sau đó ông ra lệnh là nó sẽ xảy ra. Lẽ dĩ nhiên các con đều biết là ông tới điểm giản dị cạn kiệt động lượng tiến tới và mọi chuyện bắt đầu sụp đổ. Thay vì nhìn nhận chuyện này và làm những điều chỉnh cần thiết, ông cứ tiếp tục đi theo hướng cũ và vì vậy đã khuếch đại mức tai họa thật sự xảy ra.

16.7. Những thách đố của thời Song Ngư

Con yêu dấu, con cần nhận ra ở đây là các thày, các chân sư thăng thiên không muốn thiết lập loại thứ bậc này trên trái đất. Con có thể tự hỏi tại sao lại có một số tổ chức chân sư thăng thiên đã có đúng hệ thống thứ bậc đó? Một lần nữa, đó là vì các thày phải làm việc với trình độ tâm thức tập thể và các thày phải làm việc với trình độ của những người ở các tầng cao hơn và có nhiều tiềm năng theo học giáo lý của các thày hơn. Ai là người đã đưa ra ví dụ này: “Hễ các người làm điều gì cho người thấp hèn nhất trong anh em của ta, thì các người đã làm điều đó cho chính ta?” Đó chính là Giê-su và Giê-su là người khai sáng Thời Song ngư. Thách đố cần được vượt qua ở cuối thời Song ngư là gì? Nó chính là việc khắc phục trạng thái tâm thức đó, ý niệm mình cao hơn đó, ý niệm về cấp bậc, và khám phá ra nhân tính cơ bản gắn bó con với tất cả mọi người.

Có một điểm vào những năm 1900 các thày nhận ra đã tới lúc trao truyền một giáo lý trực tiếp hơn từ cõi thăng thiên và các thày được phép tấn phong sứ giả và trao truyền các bài truyền đọc trực tiếp. Các thày cũng nhìn nhận là tâm thức của các đệ tử nói chung, những người có tiềm năng theo học giáo lý của các thày, giản dị là chưa tới trình độ có thể vượt qua khai ngộ đó của thời Song ngư. Nhiều người trong số họ chưa sẵn sàng vượt qua khai ngộ đó vì họ vẫn còn mắc kẹt trong nhu cầu cảm thấy họ đang làm một việc quan trọng. Các thày luôn luôn phải đối mặt với tình thế khó xử là các thày muốn thu hút một nhóm người bằng cách trao truyền một giáo lý có thể đưa họ tiến lên cao hơn, nhưng để làm được điều này, các thày phải có một lượng định thực tế về trình độ tâm thức hiện thời của họ.

Các thày phải nhìn xem động cơ thúc đẩy họ chính xác là gì, và sau đó các thày phải cho họ điều gì đó hấp dẫn động cơ này – để khiến họ chấp nhận giáo lý của các thày và bắt đầu con đường mà các thày cống hiến. Các thày phải cho họ giáo lý mang những chìa khóa cần thiết sẽ giúp họ thăng vượt tầng tâm thức đó, nhưng vẫn còn một số yếu tố hấp dẫn động cơ muốn cảm thấy đang làm điều gì đó rất quan trọng để cải thiện hành tinh trái đất.

16.8. Bước lên một động cơ cao hơn

Điều thày đang nói là từ nhiều năm nay qua trung gian người sứ giả này, các thày đã trao truyền một giáo lý cao về nhị nguyên, về tư duy cuồng đại, về tự ngã và khắc phục khuynh hướng tự tôn xen lẫn tự ti. Đây thực sự là lời kêu gọi của thày gửi đến tất cả những dòng sống đã tới trái đất từ một hành tinh cao, là đã tới lúc các con thức tỉnh và vượt qua khai ngộ này, vượt qua điểm gay go này và bước lên một động cơ cao hơn. Con không đi theo con đường tâm linh hay theo một giáo lý tâm linh hay thực tập để nâng cao mình lên, để khiến mình cảm thấy hơn người khác, hay để củng cố ý niệm tự tôn mà con đã có sẵn, hay để cảm thấy mình thuộc thiểu số người đang cứu nguy hành tinh và đang làm một việc quan trọng cho các chân sư thăng thiên. Con nhận ra rằng đã đến lúc con vượt lên trên tầng tâm thức đó và hoàn toàn nhìn nhận đó không phải là lý do tại sao con ở đây. Do đó con cần làm điều mà các thày đã trao truyền giáo lý và các dụng cụ để con làm: con trở về và xem xét chấn thương nhập đời mà con phải gánh chịu khi con đầu thai trên trái đất và bị cú sốc khi thấy điều kiện sống ở đây.

Con cần nhìn nhận rằng kể từ lúc đó, con đã duy trì thái độ chỉ trích hành tinh này, con cảm thấy đây là một hành tinh thấp kém, những cư dân ở đây rất thấp so với con, họ không xứng đáng đón nhận ánh sáng và tình thương của con, và ngay cả cõi vật chất này là thù nghịch của sự tăng triển tâm linh của con. Con có thể đã nảy nở mong muốn thoát ra khỏi nơi đây. Đã tới lúc con nhìn nhận, con yêu dấu, là con tới trái đất để đem lại sự thay đổi tích cực, nhưng con không thể đem lại thay đổi tích cực khi con ở trong một trạng thái tâm tiêu cực. Con không thể đem lại thay đổi tích cực trên trái đất nếu con có một thái độ tiêu cực đối với hành tinh trái đất và những người sống trên đó.

Con cần nhìn nhận là đã tới lúc, thực ra con phải làm điều này từ lâu rồi, con vượt lên trên toàn bộ tâm thức đó và tới điểm con nhìn vào động cơ cá nhân nào thúc đẩy con đi trên con đường tâm linh. Con đã thấy được những yếu tố tiêu cực trong đó, những yếu tố muốn nâng mình lên trên người khác hay những yếu tố muốn thoát khỏi nơi đây. Con cần nhìn nhận, con yêu dấu, một sự thật giản dị, mà các thày khác đã nói trước đây, là chỉ khi nào con hoàn toàn bình an với sự kiện con ở trên hành tinh này, khi nào con hoàn toàn chấp nhận con đang ở trên hành tinh này và khi nào con cảm thấy thoải mái là con đang ở trên hành tinh này, thì con mới ra khỏi hành tinh này được.

16.9. Nghĩ rằng luật lệ không áp dụng cho con

Một số các con, các con yêu dấu, có một ý niệm rất vi tế (và thường thường là con không nhận ra) là vì con đến từ một hành tinh tự nhiên, nơi đó các luật thiên nhiên và ngay cả các luật tâm linh cũng khác, cho nên dù bây giờ con đang đầu thai trên một hành tinh không tự nhiên, nhưng con không phải theo những luật lệ hiện hành ở đây. Con nghĩ là đáng lẽ con có thể tới đây và quần áo của con không bị dơ bẩn, và con không phải đối mặt hậu quả của những chọn lựa của mình, con không phải chịu trách nhiệm những phản ứng của mình. Con yêu dấu, khi con chọn tới đây, con biết rõ là khi con đầu thai, con sẽ phải chịu những quy luật hiện hành trên hành tinh này. Con sẽ phải đối mặt cùng những khai ngộ như mọi người khác, và con sẽ phải làm cùng những việc như người khác để nâng cao tâm thức mình và hội đủ điều kiện thăng thiên.

Con hãy bước ra khỏi giấc mộng, mà một số các con có, là con có thể tìm ra một ngõ tắt, một công thức thần thông khiến con bỗng nhiên có thể thoát khỏi việc phải đi trên con đường tu giống như mọi người. Con hãy vứt nó đi! Nó không giúp con, nó không giúp con hoàn thành mục tiêu đã khiến con tới đây. Con hãy nhìn nhận, con yêu dấu, sự kiện là sa nhân đã thiết lập một tình trạng rất đặc thù trên hành tinh này. Các thày đã dạy về tâm thức nhị nguyên và tư duy cuồng đại, nhưng thày muốn trao cho con một giáo lý còn sâu xa hơn về đề tài này bởi vì một số trong các con đã sẵn sàng nhận nó.

16.10. Làm sao vượt lên trên nhị nguyên

Thày đã nói là sa nhân luôn luôn muốn thiết lập một thứ bậc và đặt họ ở chóp bu để không ai chạm tới họ được, không ai ở dưới phản bác hay thách thức họ được. Lẽ dĩ nhiên không ai ở trên họ có thể thách thức hay phản bác họ được vì họ đã cố ngăn chận mọi sự hiểu biết về các chân sư thăng thiên trên hành tinh này. Điều mà họ đã thực sự làm là dùng tâm thức nhị nguyên để tạo ra một số khái niệm rất vi tế. Điều các sa nhân muốn làm trên hành tinh này là đặt họ vào vị thế trở thành bất bại, bất khả xâm phạm. Giờ đây con có thể nghĩ là khái niệm này có một giá trị nào vì chắc chắn Đại thiên thần Michael bất bại và bất khả xâm phạm. Nhưng thày không bất bại theo cách nhị nguyên, thày bất bại vì thày vượt lên trên nhị nguyên. Câu hỏi đặt ra là: “Làm sao con vượt lên trên nhị nguyên?”

Thày có nói trước đây là một số người tới trái đất với nhiệm vụ giải cứu bị quyến rũ bởi ý thức hệ Quốc xã và ý thức hệ về một nòi giống ưu việt. Ấy, một cách để nâng mình lên trên sự khốn khổ, xung đột, đấu tranh, đau khổ trên hành tinh này là tìm cách khiến mình trở thành bất bại. Nhiều người trong số những dòng sống tiến hóa hơn đã tới đây đã bị quyến rũ nghĩ rằng họ nên dùng sự thành đạt tâm linh và uy lực của mình để đặt mình vào vị thế bất bại. Một số đã bị quyến rũ bởi truyền thống chiến sĩ, nghĩ rằng họ phải trở thành chiến sĩ bất bại, một số cố gắng đạt điều này bằng những cách khác. Một số còn tìm cách dùng con đường tu và giáo lý của các chân sư thăng thiên để đặt họ vào vị thế bất bại. Con yêu dấu, mục đích của con đường quả vị Ki-tô không phải là trở nên bất bại theo cách nhị nguyên. Giê-su có bất bại không? Ấy, nếu thày bất bại thì tại sao thày bị đóng đinh trên thập tự? 

Con phải nhận ra rằng khi con ở trên một hành tinh có nhị nguyên, thì con đường tâm linh có nhiều giai đoạn. Con tiến triển không phải chỉ bằng cách kéo mình ra khỏi nhị nguyên. Các thày có nói tới giai đoạn trầm mình và giai đoạn thức tỉnh. Con nhận ra rằng, khi con ở trong giai đoạn trầm mình, không phải con chỉ đi xuống thấp hơn trong tâm thức, con cũng có thể đi lên cao hơn, nhưng cách con đi lên cao hơn là trải nghiệm những tương phản cùng tột mà con tìm thấy trên trái đất. Một số người đã trải qua nhiều kiếp sống để mưu cầu mục đích bất bại hay hơn người. Họ đã cố gắng làm cho mình bất bại và đưa mình lên một địa vị nào đó trong thứ bậc thế gian khiến họ có vẻ cao hơn người khác, nhưng đây có thể trở thành một cái bẫy khó thoát ra. Làm sao con người có thể thoát ra khỏi cái bẫy này nếu họ không muốn một cách ý thức, nếu họ không muốn nhìn thấy ảo tưởng cao hơn và bất bại? Ấy, họ sẽ phải trải nghiệm một số kiếp sống trong đó họ ở đối cực hoàn toàn ngược lại là họ hoàn toàn không tự bảo vệ mình được và họ hoàn toàn thấp kém. Đây là một trong những lý do tại sao hành tinh này đã kết đọng hiện tượng nô lệ.

Nhiều lần, con sẽ thấy, ví dụ như trong xã hội La Mã, một linh hồn trong nhiều kiếp ở chóp bu của thứ bậc La Mã nhưng sau đó bỗng nhiên, linh hồn đó đi xuống và giờ đây đầu thai là một nô lệ trong một số kiếp sống. Qua sự trải nghiệm cả hai tương phản cùng tột này trên trái đất, rốt cuộc điều này sẽ khiến một số dòng sống nhận ra trong họ cái mà các thày gọi là nhân tính cơ bản. Họ nhận ra rằng dù họ ở một vị thế cao hay vị thế thấp, dù họ bất bại tối đa hay họ bất lực tối đa, vẫn có một phần trong họ không có gì thay đổi. Có một phần của con người họ là thật và phần đó sẽ tiếp tục tăng triển bất kể hoàn cảnh bên ngoài của họ. Có thể nói là các dòng sống này đã bắt đầu buông bỏ tính cá nhân của những tương phản cùng tột mà con thấy trên trái đất. Họ bắt đầu không đồng hóa mình với vở tuồng thế gian này và đấy là cách họ tìm ra cái hơn nữa, cái mà thày Gautama gọi là trung đạo không bị chi phối bởi tương phản. Đây là điều đã khiến tất cả các con tới được điểm mở tâm ra với giáo lý của chân sư thăng thiên. Điều thày trao truyền cho con bây giờ là thách đố con bước lên một tầng cao hơn của giáo lý bằng cách nhận ra trong chính mình là con đã đi giữa hai đối cực này như một phần không né tránh được trong sự tăng triển của mình.

Bây giờ đã tới lúc thăng vượt chúng, nhận ra rằng, con yêu dấu, không có sự an toàn tối hậu khi con bất khả xâm phạm trên trái đất, cũng như không có sự nhục nhã tối hậu khi con hoàn toàn không có khả năng bảo vệ mình. Con tới được điểm con nhận ra là khi so sánh với sự liên tục của bản thể của con, với nhân tính cơ bản hay với tâm Ki-tô trong bản thể của con, thì tất cả những điều kiện bên ngoài kia chẳng có gì quan trọng. Nếu chúng không quan trọng, thì tại sao con cứ phải tiếp tục đi trên đường tu của các chân sư thăng thiên với động cơ muốn cảm thấy mình cao hơn, giỏi hơn, có một cấp bậc hay nhiệm vụ quan trọng nào đó?

16.11. Một động cơ cao để đi trên con đường tu

Bây giờ, một số các con sẽ nói: “Nhưng làm sao chúng con có động cơ đi trên con đường tu khi chúng con không có ý niệm là chúng con đang làm một điều gì quan trọng để cứu trái đất hay đem lại thời hoàng kim?” Ấy, con yêu dấu, con có thể có động cơ tình thương – vì tình thương chính là động cơ khiến con tới đây. Con hãy nối kết lại với động cơ nguyên thủy đưa con tới đây, và sau đó con sẽ có thể tìm được một động cơ hoàn toàn mới để đi trên con đường tu. Con sẽ không bị lôi kéo tới chỗ này hay chỗ kia bởi các đối cực. Ví dụ, con sẽ không bị lôi kéo vào mấy lời tiên tri tiêu cực, nghĩ rằng con phải chú ý tới chúng.

Con sẽ tìm ra một sự tiến triển vững vàng đều đặn hơn, một sự phát triển vững vàng đều đặn hơn. Đây là một sự điều chỉnh mới cho con vì con sẽ không phải trải qua những kinh nghiệm cùng tột mà một số các con đã trải qua trên con đường tu. Có những tầng thấp trên đường tu khi con có thể có những trải nghiệm mà mọi người gọi là “trải nghiệm tột đỉnh.” Nhiều đệ tử quả thực đã bị mắc kẹt trong một dạng ghiền nghiện cứ mãi đi tìm trải nghiệm tột đỉnh cao hơn và cao hơn. Con chỉ có tột đỉnh khi con có thung lũng và con chỉ có kinh nghiệm cao khi con có sự tương phản của kinh nghiệm thấp. Khi con tìm ra con đường trung đạo thật, con vượt lên trên các cặp, các đối cực và do đó càng ngày con càng có bớt những tương phản trên đường tu.

Lúc đầu, con sẽ thấy chuyện này khó hiểu và gây bối rối cho mình. Khi con tiếp tục áp dụng những giáo lý mà các thày đã trao truyền, thì con có thể tới được điểm con vượt thăng nó được. Con không cần có động cơ cũ đó nữa, cái ý niệm cũ là mình quan trọng. Con là người con là, con đang làm cái con đang làm với động cơ dựa trên tình thương.

16.12. Sự kiên nhẫn vô biên và vô điều kiện

Điều này cũng có nghĩa là con phát triển một đức tính mà nhiều học viên tâm linh không phát triển, đó là tính kiên nhẫn vô biên và vô điều kiện. Nhiều người trong các con cảm thấy một sự thôi thúc phải đẩy mạnh trên đường tu cá nhân. Một lần nữa, chuyện này có giá trị trong một thời gian vì con cần nâng mình lên khỏi sức hút của tâm thức đại chúng. Nhưng sẽ tới một lúc, con yêu dấu, con cần vượt lên trên thái độ này. Con không tìm cách đặt ra tất cả những mục tiêu đó, hay đặt ra mục tiêu thấy một số chuyện xảy ra ở cấp hành tinh, hay lúc nào một điều kiện nào đó phải thay đổi. Một số các con đã bị ám ảnh bởi tầm quan trọng của chính mình đến độ con nghĩ rằng nếu con đọc rất nhiều bài cầu thỉnh và cầu chú trong một thời gian nào đó thì hành tinh phải thay đổi hay một số quốc gia đặc thù phải thay đổi. Nếu chúng không thay đổi, con trở nên thất vọng, con bắt đầu nghi ngờ không biết giáo lý có hữu hiệu không, và vân vân. Con có thể vượt thăng hết các chuyện này và nhận ra rằng con ở đây để tiếp tục nâng cao tâm thức mình, để làm điều mà trực giác bên trong bảo con làm, và con không dính mắc vào kết quả vật lý. Con vui mừng khi thấy chúng nhưng con không bất toại nguyện, nổi giận hay hoài nghi nếu không thấy chúng. Con nhận ra rằng con phải làm việc trong những giới hạn của quyền tự quyết, như các thày là chân sư thăng thiên đang làm.

Con yêu dấu, thày tới trái đất này từ xa xưa lắm. Nếu thày thiếu kiên nhẫn như nhiều người trong các con, thì thày đã tự tàn phá mình về mặt tâm lý từ xa xưa khi thấy trái đất không tiến triển. Các thày là chân sư thăng thiên có một tầm nhìn hoàn toàn khác. Như các thày mới đây có nói, mục đích của các thày không phải là tạo nên những thay đổi đặc thù bên ngoài nhưng mục đích là nâng cao tâm thức tập thể. Chuyện này chỉ làm được bằng cách làm việc với con người để họ tới được điểm họ có thể chọn lựa một cách ý thức, tự do là họ muốn lên cao hơn. Đấy là mục đích của các thày. Mục đích của các thày không phải là biểu thị những thay đổi bên ngoài mà nhiều đệ tử tâm linh đã bị dính mắc vào. Khi con có thể vượt lên trên các điều này, thường lôi kéo con vào trạng thái tâm tiêu cực, chỉ trích, thì con có thể tìm thấy sự bình an khi sống trên hành tinh này. Con có thể chấp nhận đang ở trên hành tinh này. Con có thể chấp nhận hành tinh này như nó là, không có nghĩa là con phải duy trì tình trạng hiện nay của nó, nhưng con chấp nhận nó như nó là: một trường học cho những dòng sống ở đây. Con có thể tôn trọng điều mà các thày đã dạy về quyền tự quyết và con chấp nhận cách nó vận hành. Vì vậy, con có thể tới được điểm con bình an với việc con đang ở đây. Con có thể cho phép mình cảm thấy thoải mái về chuyện con là một con người đang đầu thai ở đây, không vượt lên trên các luật lệ của hành tinh này, nhưng là một với mọi người. Con đồng hóa mình với họ ở mức tâm Ki-tô, con thấy nhân tính cơ bản của họ và con luôn luôn tìm cách nâng nó lên cao hơn.

Con yêu dấu, đây là món quà của thày cho các con ngày hôm nay. Như thày đã nói, thông điệp này đa diện và con nên học tập nhiều, nhiều lần để có thể rút ra hết giá trị của nó, nhiều khi hầu như chôn giấu giữa các hàng chữ. Con hãy đọc giữa các hàng chữ. Con hãy hòa điệu với Bản thể của thày vượt lên trên từ ngữ và thày sẽ cho con, khi con sẵn sàng muốn, điều không gói ghém được trong từ ngữ – ít nhất, không phải ở tầng mà tâm vỏ ngoài của con có thể hiểu được qua từ ngữ mà thôi.

Do đó, một lần nữa, thày cảm ơn các con, đã là những điện cực để lan tỏa thông điệp của thày đến tâm thức tập thể. Con hãy chắc chắn là con không luôn luôn coi xem những người ngoài kia cần phải thay đổi ra sao. Bài truyền đọc này đặt một tấm gương trước mặt con và nói: “Bây giờ con nhìn xem con cần thay đổi như thế nào.”

15 | Phân biện vi tế giữa Ki-tô và phản-Ki-tô

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 11 tháng 6 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Novosibirsk, Nga.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày tới đây để trao truyền một giáo lý ít khi được trao truyền trên hành tinh này, ít khi được đệ tử các phong trào tâm linh hay tôn giáo hiểu thấu. Thày trao truyền bài giảng này vì các con là đệ tử khắp nơi trên thế giới đã đạt được một trình độ tâm thức giúp các con bắt đầu nghiền ngẫm chủ đề này trong tâm, và có thể thảo luận với nhau dựa trên kinh nghiệm của mình khi học một số giáo lý và tham gia một số phong trào tâm linh.

15.1. Biểu hiện khắc nghiệt nhất của phản-Ki-tô

Các con yêu dấu, thày bây giờ bắt đầu bằng cách hỏi các con nghĩ tới hình thức dày đặc nhất, khắc nghiệt nhất, cực đoan nhất của phản-Ki-tô mà con có thể tưởng tượng. Lẽ đương nhiên, nhiều người trong các con sẽ nêu lên những thể hiện của tà ác, như giết chóc quy mô hay một số hành động tàn bạo, mà con người đã kết đọng xuống trái đất. Lẽ dĩ nhiên, đây là một sự trải bày, một biểu hiện của tâm phản-Ki-tô, nhưng thực ra thì chúng không phải là biểu hiện khắc nghiệt nhất của tâm phản-Ki-tô.

Con yêu dấu, con thấy là khi nhiều người nghe nói về các khái niệm Ki-tô, quả vị Ki-tô hay tâm thức Ki-tô, thì họ làm một điều mà các thày đã nói tới nhiều lần: họ phóng chiếu hiểu biết hiện tại, tâm thức hiện tại của họ lên các khái niệm đó. Họ nhìn quả vị Ki-tô qua phin lọc của hiểu biết hiện tại của họ. Lẽ dĩ nhiên, đây là điều tự nhiên; con không thể làm gì khác. Những người trong các con đã sẵn sàng thì có thể bắt đầu nhận ra là Ki-tô là một nguyên lý chỉ có một mục đích duy nhất, đó là bảo đảm con không thể nào tách biệt khỏi cội nguồn của mình, khỏi đấng Sáng tạo, một cách thường trực hay tuyệt đối.

Ki-tô cần thiết vì con được ban quyền tự quyết. Như thày Lanello đã nói quá hay: “Quả là một sáng kiến thần tình của đấng Sáng tạo!” Bởi vì con được ban quyền tự quyết, nên con được cho cơ hội bước ra khỏi cái Một. Do đó, thực sự không có gì giới hạn con rời cái Một xa chừng nào. Một khi con đi vào tách biệt và tạo ra thế giới quan của mình (mà con tin là tuyệt đối) thì con sẽ cứ tiếp tục trôi theo vòng xoáy đi xuống, càng ngày càng ăn sâu vào thế giới quan của mình. Ki-tô là nguyên lý bảo đảm là khi con đã chán ngán kinh nghiệm đó, khi con mong muốn và sẵn sàng đi ngược trở lại (bắt đầu đi trở lại về hướng cái Một) thì Ki-tô sẽ có mặt dưới bất cứ hình thức nào mà con có thể thấu hiểu ở trình độ tâm thức mà con có khi con quay đầu và muốn trở về cái Một.

Điều này có nghĩa là Ki-tô là nguyên lý tăng triển, tăng triển liên tục. Như các thày đã nói nhiều lần, không có gì tối hậu trên trái đất, không có trạng thái tâm thức tối hậu trên trái đất. Ki-tô và tâm thức Ki-tô là một tiến trình liên tục mà chung cuộc là dẫn con tới thăng thiên, nhưng lẽ dĩ nhiên, con có thể tiếp tục tăng triển khi con ở trên cõi thăng thiên. Đây là điểm quan trọng nhất mà con nên hiểu về tâm thức Ki-tô: đó là sự liên tục của nó. Nó luôn luôn, đều đặn và dần dần kéo con thăng vượt tầng tâm thức hiện tại của mình cho tới khi con tới tầng tâm thức mà bước thăng vượt kế tiếp là thăng thiên.

Đây là một nguyên lý mà rất ít người đã hiểu. Đại đa số đệ tử tâm linh, kể cả đệ tử chân sư thăng thiên, chưa sẵn sàng hiểu thấu nguyên lý này. Nhiều người trong các con đã sẵn sàng, và đó là lý do vì sao thày trao truyền bài giảng này. Lý do khác là vì các con có khả năng giữ quân bình, có thể nói là các con có thể là điện cực giúp gửi nguyên lý này tới tâm thức tập thể. Có lẽ con nhớ câu chuyện đám đông đầy giận dữ sắp sửa ném đá chết một phụ nữ, và lúc đó thày lấy một cây gậy và vạch một đường trên cát. Ấy, có thể nói là qua bài giảng này thày cũng vạch một đường trên cát và nói: “Bây giờ là lúc bước qua đường này và tiến tới một hiểu biết cao hơn về quả vị Ki-tô.”

Để minh họa diều thày muốn nói, thì chúng ta hãy trở về ý niệm đâu là biểu hiện khắc nghiệt nhất của phản-Ki-tô trên trái đất. Khi thày nói “biểu hiện khắc nghiệt nhất của phản-Ki-tô” thì nay con có thể hiểu câu này thực sự nghĩa là: “Điều gì ngăn cản con người tăng triển, tiếp tục tăng triển?”

Con hẳn nhớ là trong Thánh kinh, có một câu nói được gán cho thày, như sau: “Ta mong con hoặc nóng hoặc lạnh, nhưng vì con âm ấm nên ta sẽ nhổ con ra khỏi miệng ta.” Có một số người đang đi về một hướng và họ đang tách rời khỏi cái Một. Có một số người khác đi ngược lại và họ đang đi về hướng cái Một, nhưng đa số con người trên trái đất không đi về hai hướng đó. Họ giản dị không di động và đây là biểu hiện khắc nghiệt nhất của phản-Ki-tô trên trái đất, khi con xem xét điều gì ngăn chặn sự tăng triển của con người.

15.2. Những người không di động

Bây giờ, thày Gura Ma có nói là con có thể có một số điểm cố định trong tâm khiến tâm con có thể chuyển động và con đang thu thập dữ kiện mới, nhưng con không chuyển đổi lên một tầng cao hơn, vì tâm con giống như một cỗ máy chạy bộ đang chuyển động (có lẽ rất nhanh) nhưng không đưa về đâu cả. Nó không di động khỏi chỗ nó đang đứng và đây là cách rất nhiều người trên trái đất bị mắc kẹt ở một điểm và không thực sự di chuyển. Bây giờ thì ta có thể nhìn sự kiện trên bình diện thế giới. Lẽ dĩ nhiên, ở nhiều khu vực trên thế giới, đa số dân chúng đang di động một cách nào đó. Không có nghĩa là họ đang đi trên đường quả vị Ki-tô một cách có ý thức, nhưng họ đang di động.

Lý do vì sao thày nói là việc con đang tách rời khỏi cái Một vẫn tốt hơn là nếu con đứng yên, là vì khi con di động thì lúc nào con cũng có thể đổi hướng. Nếu con đang tách rời khỏi cái Một nhưng đổi hướng đủ thì con sẽ bắt đầu đi ngược trở lại. Nếu con đứng yên thì con không thể đổi hướng vì con không đang đi về hướng nào cả – không có hướng đi nào cả.

Con yêu dấu, khi con nhìn vào hiện trạng trái đất thì con thấy là ở nhiều quốc gia trên thế giới có nhiều nhóm đông người đang ở trong trạng thái tâm thức không di động. Một cách để nhận ra điều này là nhìn vào những người sinh ra và lớn lên trong một nếp sống nào đó, một nền văn hóa nào đó, một quốc gia nào đó, sau đó họ tìm một việc làm (thường là một việc làm khá máy móc) và giản dị muốn tiếp tục làm việc đó cho đến hết đời. Họ thường sống trong cùng căn nhà, cùng chung cư, và họ làm rất ít để cải thiện môi trường bên ngoài của họ. Cuộc đời của họ giản dị ở thế bế tắc. Họ muốn một sự ổn định nào đó, họ muốn ở nơi họ cảm thấy thoải mái, và tiếp tục làm cùng một việc năm này qua tháng nọ.

Bây giờ, con yêu dấu, cuộc đời là một cơ hội quý báu. Nó là một cơ hội để con bảo đảm con rời bát cung vật lý với một tầng tâm thức cao hơn khi con đi vào. Có câu nói bình dân là con không thể đem gì theo mình, ý nói là con vào đời trần trụi và con lìa đời cũng trần trụi, và con không thể đem theo bất kỳ sở hữu vật chất nào. Điều này không đúng, con yêu dấu, vì con có thể mang theo sự tăng triển tâm thức. Con mang nó theo con khi đầu thai lần tới. Do đó, con có thể sinh ra trong hoàn cảnh tốt hơn, và có cơ hội tăng triển tốt hơn. Nếu con lại tận dụng cơ hội thì con sẽ tiếp tục đi theo vòng xoáy hướng thượng.

Bài giảng này không đặc biệt chú tâm vào nước Nga, nhưng vì chúng ta đang ở trên nước Nga nên thày sẽ lấy nó làm thí dụ. Nếu con đi ngược trở về thời kỳ trước cuộc cách mạng cộng sản, cuộc Cách mạng Bôn-sê-víc, thì con thấy, như các thày có nêu lên, là vua Peter Đại Đế đã cố gắng nâng nước Nga lên một tầng cao hơn. Thời đó, có nhiều người trong giới quyền quý chống đối, nhưng cũng có nhiều người dân không tích cực chống đối – họ chỉ không động đậy. Họ không muốn động đậy. Con sẽ thấy đây là một trở ngại lớn cho sự tăng triển. Thày Lanello có bài giảng hùng hồn về vị Nga hoàng cuối và ông đã bỏ lỡ cơ hội ra sao, nhưng ta cũng phải nói là ông phải đương đầu với một tình hình rất khó khăn vì nhiều người trong dân chúng không chịu động đậy. Giống như là họ lớn lên để ở một đia vị nào đó trong xã hội, họ nghĩ họ phải giống cha mẹ họ, phải cố gắng làm một loại công việc nào đó và sống trong một căn nhà thuộc loại nào đó. Một khi họ đạt được điều này, thì họ sẽ tiếp tục ở đó cho đến cuối đời.

15.3. Ngay cả phản-Ki-tô cũng có thể đưa tới tăng triển

Con thấy là trên khắp thế giới có những thành phần đông đúc dân chúng không di động và không muốn di động. Bây giờ thì các con phải cẩn thận tìm một hiểu biết cao về điều thày đang giảng. Khi con có một dân tộc bị đóng băng (đóng băng vào một thời điểm), thì điều gì có thể kéo họ ra khỏi trạng thái cô-ma, trạng thái ngủ sâu mùa đông đó? Con yêu dấu, điều gì có thể kéo họ ra? Ấy, các chân sư thăng thiên và những người đại diện của các thày không thể làm chuyện này vì chúng tôi tôn trọng quyền tự quyết. Các thày sẽ không áp đặt người khác, các thày sẽ không xâm phạm họ. Lẽ tự nhiên, các thày có cho con hiểu là các thày không coi cuộc Cách mạng Bôn-sê-víc là một phát triển tích cực, và chắc chắn là những gì xảy ra sau đó lại càng không tích cực. Nhưng con hãy lắng nghe kỹ. Khi con có một dân tộc đã bị đóng băng vào một thời điểm, thì ngay cả một thay đổi tàn bạo do sa nhân đề xướng cũng có thể trong một thời gian ngắn đem dân tộc đó tới gần quả vị Ki-tô hơn, hay ít ra là cho họ một cơ hội.

Con hiểu là khi một nhóm dân không di động, thì không ai có thể làm gì được. Họ không tiến tới gần cái gì cả. Bất cứ thay đổi nào bắt buộc họ phải đối diện một tình hình mới, lay động họ ra khỏi lối suy nghĩ cũ, và ngay cả bắt buộc họ thay đổi lối sống, thì quả thực là một cơ hội cho những người đó.

Bây giờ, thày không nói là Lê-nin và nhóm Bôn-sê-víc đại diện Ki-tô. Thày chỉ đang nói là họ đóng vai trò lay động người dân Nga nhiều hơn là Nga hoàng đã làm được, vì Nga hoàng không sẵn sàng giết nhiều đồng bào của mình bằng nhóm Bôn-sê-víc. Thày không thừa nhận sự giết chóc, thày không bào chữa cho nó. Thày chỉ muốn nói là trong một hệ thống khép kín, con người sẽ thu hút điều gì làm xập hệ thống – và điều này cho họ cơ hội để chuyển bước đi tiếp vì họ đã không sẵn sàng tự họ làm điều này.

Con cần nhận ra ở đây một nguyên lý rất quan trọng: đứng yên là kẻ địch tệ hại nhất của Ki-tô vì nó trái ngược với tăng triển. Điều này có nghĩa là có một số người đã phần nào hòa điệu được với nhu cầu thay đổi, và họ làm việc để đem lại thay đổi dựa trên tâm thức của họ và tâm thức tập thể của quốc gia đó. Trong sự hòa điệu dó – con hãy cẩn thận nghe kỹ – họ không đại diện Ki-tô, nhưng họ quả thực cùng hướng với tâm Ki-tô vì tâm Ki-tô cũng muốn mang lại thay đổi. Tâm Ki-tô dĩ nhiên không muốn đem lại thay đổi bằng vũ lực và bạo hành, nhưng khi con người không chịu đáp ứng, thì tâm Ki-tô sẽ đứng lui lại và để cho những người bị kẹt trong tâm phản-Ki-tô làm những chuyện mà họ lúc nào cũng muốn làm: đó là kiểm soát, gây xáo trộn hay tàn phá.

Đó không phải là vì tâm Ki-tô muốn thấy chuyện này xảy ra, nhưng là vì tâm Ki-tô luôn luôn tôn trọng quyền tự quyết của con người. Khi con người không chịu tự mình chuyển động bằng cách lấy chọn lựa của mình, thì tâm Ki-tô phải bước lui lại và để cho Quy luật thứ Nhì của Nhiệt động học hay Quy luật Nhân quả trải bày. Lúc đó, những người đó phải đối mặt một hoàn cảnh ép buộc họ ra khỏi hộp tư tưởng, ra khỏi sự ù lì, không muốn thay đổi của họ.

15.4. Cách mạng Bôn-sê-víc và Stalin

Có một khoảng thời gian trong đó những người đem lại cuộc Cách mạng Bôn-sê-víc đã phần nào đứng cùng hướng với tâm Ki-tô. Thày biết điều này sẽ khiến nhiều người, nhiều đệ tử chân sư thăng thiên, ngạc nhiên. Một lần nữa, con hãy cẩn thận: thày không nói là họ đại diện Ki-tô, nhưng họ cùng hướng với mục tiêu của Ki-tô, là đặt con người vào một hoàn cảnh khiến họ bị ép buộc phải tăng triển vì họ không chịu tự mình tăng triển. Điều con cần nhận ra là giai đoạn đó (khi họ cùng hướng với tâm Ki-tô) không kéo dài. Nếu con nghiên cứu lịch sử cuộc Cách mạng Bôn-sê-víc thì con thấy là họ rất mau chóng tha hóa và càng ngày càng sẵn sàng dùng bạo lực, càng ngày càng sẵn sàng đàn áp con người, đàn áp chống đối, đàn áp mọi hình thức tự do ngôn luận. Họ đã làm những gì sa nhân luôn luôn làm: họ trở nên vô cảm với con người. Lẽ dĩ nhiên, điều này đưa tới tình trạng Lê-nin rơi vào một vòng xoáy hướng hạ khiến ông đau ốm và chết, và Stalin lên thay thế.

Đây là chỗ con cần phân biện: Stalin không bao giờ thẳng hàng với tâm Ki-tô. Stalin không bao giờ ép buộc dân chúng phải đối mặt một hoàn cảnh khiến họ phải suy nghĩ lại cách họ sống và nhìn cuộc đời. Stalin chỉ giản dị củng cố vòng xoáy hướng hạ mà người khác đã kéo dân tộc Nga vào, và ông đã thiết lập mình thành nhà độc tài tối hậu, và từ điểm đó thì không còn tăng triển nữa. Tiềm năng tăng triển không còn nữa vì ông tạo ra một triều đại khủng bố đã bóp nghẹt mọi ý muốn của người dân muốn xem xét lại, mọi óc phê bình chỉ trích, mọi ý muốn cải thiện nơi người dân. Đó là lý do vì sao con thấy là rất rất nhanh sau khi Stalin lên nắm quyền thì người dân lại rơi vào trạng thái ù lì. Ta có thể nói là trạng thái ù lì này sâu đậm hơn trước vì mọi người đều nghĩ rằng phản đối chế độ hoàn toàn không lợi ích gì vì mình sẽ chỉ bị giết. Sau đó, họ cũng lấy quyết định (dĩ nhiên là trong tiềm thức): cố gắng cải thiện bất cứ gì đều vô ích, vì cuộc sống sẽ giản dị không thay đổi. Họ nay sống trong Liên bang Sô viết và người dân bình thường không thể làm gì khác ngoài việc tìm cách để cuộc sống tạm chịu được.

Con thấy là Stalin đã ép người dân Nga vào một tình trạng cô-ma, ù lì sâu đậm hơn, khiến họ không muốn thay đổi, không muốn cải thiện bất cứ gì. Con thấy là hiện nay vẫn còn nhiều người Nga có thái độ đó. Con chỉ cần bước ra và nhìn các khu vực ở Nga có những chung cư hay nhà cửa không được bảo trì, là chỉ dấu rõ rệt là những cư dân ở đó đã bỏ cuộc. Họ còn không màng giữ sạch môi trường, họ không muốn làm đẹp hay cải thiện bất cứ gì. Họ đã chấp nhận là họ sống một cuộc đời bất di dịch, họ có một lợi tức bất di dịch và họ không thể làm gì để thay đổi sự kiện này – đó là điều họ nghĩ. Đây là một thí dụ của sự ù lì rất rất dày đặc, rất rất nặng nề đã khiến mọi nỗ lực thay đổi nước Nga bị kéo lại, bị kéo xuống.

15.5. Sự giải thể của Liên bang Sô viết

Bây giờ thì thày muốn tới giai đoạn Liên bang Sô viết giải thể. Đây lại là một diễn biến chấn động khác. May thay, lần này không có bạo động và đổ máu quy mô. Đối với nhiều người, đây là một diễn biến khiến họ bị sốc hơn là cuộc Cách mạng Bôn-sê-víc vì quả thật có người nghĩ rằng Liên bang Sô viết sẽ tồn tại mãi mãi, ít ra là trong suốt cuộc đời họ. Do đó, họ nghĩ không có gì có thể giúp họ cải thiện điều kiện sống của họ và tìm cách cải thiện là chuyện vô ích – nên họ chỉ muốn sống một cuộc đời thoải mái trong khuôn khổ chế độ.

Bây giờ, lẽ dĩ nhiên là một số đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước đã nói Gorbachev là một sa nhân. Tuy nhiên, có một khoảng thời gian trong đó ông cùng hướng với tâm Ki-tô vì ông nhận ra nhu cầu thay đổi và tìm cách đem lại thay đổi. Thày không nói là ông đại diện Ki-tô, nhưng ông cùng hướng với tâm Ki-tô. Boris Yeltsin cũng cùng hướng với tâm Ki-tô khi ông giải thể Liên bang Sô viết. Một lần nữa, thày không nói là ông đạt được một tầng tâm thức Ki-tô nào đó hay đại diện Ki-tô. Thày chỉ nói là ông cùng hướng với tâm Ki-tô khi ông thấy nhu cầu thay đổi sẽ ép dân Nga ra khỏi trạng thái cô-ma.

Đúng thực là Yeltsin nhận ra một điều mà Gorbachev không bao giờ nhận ra, đó là dân Nga đang ở trong trạng thái cô-ma và chủ thuyết cộng sản đã quả thực có tác dụng đưa con người vào trạng thái cô-ma, khi ông nhận ra rằng người dân Nga không đang làm những điều mà người dân trung bình ở đa số các nước Tây phương đang làm. Họ đang tìm cách cải thiện đời sống vật chất của họ bằng cách làm việc nhiều hơn, cải thiện điều kiện sinh sống, nhà cửa, nhà chung cư, mua xe lớn hơn và điều này điều nọ. Ý tưởng này chắc chắn cùng hướng với tâm Ki-tô vì những người đó thấy nhu cầu thay đổi.

15.6. Nhóm tài phiệt

Bây giờ thì con hãy xem xét tình hình trong những năm ngay sau Liên bang Sô viết giải thể. Lúc đó một phần lớn dân chúng, đại đa số dân chúng, vẫn còn trong trạng thái cô-ma, và đã ở trong trạng thái cô-ma trong suốt thời kỳ Sô viết. Họ đã ở trong trạng thái này suốt đời họ. Lúc đó họ ở trong trạng thái bị sốc mạnh. Họ bị ép buộc phải suy nghĩ lại một số chuyện, nhưng họ ở trong trạng thái bị sốc mạnh đến độ họ vẫn chưa chuyển động và không biết phải hành xử ra sao trước tình thế mới. Con thấy gì lúc đó? Con thấy là có một số người nhận ra cơ hội tốt và họ bước ra thành lập một số thương vụ. Họ bắt đầu tiếp thu kỹ nghệ dầu khí, tạo ra những cơ sở thương mại càng ngày càng lớn, và trở nên nhóm được gọi là “nhóm tài phiệt”.

Con có thể xem xét tình hình và thấy là những người đó đã thu thập được tài sản đồ sộ, họ đã không đếm xỉa đến tình trạng khó khăn của người dân, họ tránh đóng thuế, họ dùng hối lộ khi họ muốn, và đặt mình vào thế thượng tôn như tiểu Nga hoàng không bao giờ bị trừng phạt. Nếu con trở lại những năm ban đầu đó, thì con thấy đa số người Nga không sẵn sàng có tinh thần sáng kiến chủ động có thể giúp nền kinh tế tiến lên. Những người trong guồng máy chính quyền cũng không làm được chuyện này vì (như sự việc nền kinh tế Liên bang Sô viết bị suy thoái đã chứng minh) nhà nước và những người trong guồng máy nhà nước không có khả năng cải tổ nền kinh tế và đẩy nó đi lên. Họ có đầy đủ quyền lực để làm chuyện này nhưng họ đã không làm được. Gorbachev nhận ra điều này, tìm cách thay đổi, mong có thể tạo nền móng ổn định cho nền kinh tế Liên bang Sô viết và tránh giải thể Liên bang Sô viết, nhưng điều này không thể làm được. Tuy nhiên, đây là một sự di động về một hướng nào đó, đó là một cố gắng khiến bánh xe chuyển động, nhưng ông không thành công, không khắc phục được sự chống đối trong guồng máy nhà nước, và không làm cho họ có sáng kiến chủ động được.

Tình hình lúc đó như thế nào? Người dân không có tinh thần sáng kiến chủ động. Nhà nước không có tinh thần sáng kiến chủ động. Cần có ai đó có tinh thần sáng kiến chủ động để làm nền kinh tế chuyển động, và một số người đã có khả năng làm việc này. Ngay cả nhóm tài phiệt cũng đã, trong một khoảng thời gian, cùng hướng với tâm Ki-tô vì họ đã mang lại thay đổi. Khi một dân tộc ở trong trạng thái cô-ma như vậy thì gần như bất cứ thay đổi nào cũng hơn là không thay đổi. Con lúc nào cũng có thể trở ngược lại và phân tích tình hình và nói: “Cách mạng Bôn-sê-víc có phải là một thay đổi tốt hay chăng?” Ấy, nó đúng là một thay đổi tốt trong một khoảng thời gian ngắn vì nó đem lại một sự hồi phục và ép mọi người phải suy nghĩ trở lại. Lẽ dĩ nhiên, sau đó nó đi vào vòng xoáy đi xuống và không còn là một thay đổi tốt nữa. Đây cũng là chuyện đã xảy ra với nhóm tài phiệt.

Có một khoảng thời gian trong đó họ đã giúp nền kinh tế tiến tới. Sau đó, họ sang giai đoạn cảm thấy họ kiểm soát được nền kinh tế. Đây là điều luôn luôn xảy ra với sa nhân hay những người bị mắc bẫy sa nhân: họ tìm cách củng cố tầm kiểm soát của họ. Thay vì chia sẻ tài sản với dân chúng, thì họ tìm cách củng cố sự kiềm tỏa nền kinh tế của họ. Lúc đó thì họ không còn cùng hướng với tâm Ki-tô nữa, và họ không còn phụng sự sự tăng trưởng của đất nước.

Điều may mắn là trong khoảng thời gian đó, có nhiều người trong dân chúng đã tiến lên tới điểm họ sẵn sàng và có khả năng lấy sáng kiến chủ động. Con thấy được sự chuyển động trong nền kinh tế nước Nga với một số thương vụ mới mọc lên, một số thương vụ tầm cỡ nhỏ mọc lên, vân vân. Nhưng sự chuyển động này vẫn chậm hơn tiềm năng, vì hai yếu tố. Một là sự ù lì của nhiều thành phần dân chúng, và hai là ảnh hưởng của nhóm tài phiệt. Nhóm này, sau thời gian đầu tạo tăng trưởng, đã quay về khuynh hướng muốn kiểm soát nền kinh tế và lúc đó đã thực sự ngăn trở sự tăng trưởng kinh tế.

15.7. Nhóm tư bản sơ khai

Con yêu dấu, con thấy là cùng chuyện đã xảy ra tại Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 19 khi cuộc cách mạng kỹ nghệ, những cải thiện kỹ thuật và phát minh mới, đã đem lại cơ hội mới để nâng nền kinh tế lên một mức cao hơn. Đa số những người lớn lên trong nông trại không có khả năng có sáng kiến chủ động. Nhà nước cũng không làm được vì trong thể chế chính trị Hoa Kỳ nhà nước không có quyền hạn đó. Một nhóm nào đó cần có sáng kiến chủ động, và nhóm này về sau được gọi là nhóm tư bản sơ khai.

Các con đều biết tên họ. Có lẽ các con cũng đều biết họ là sa nhân. Trong một khoảng thời gian, họ cùng hướng với tâm Ki-tô nhưng không đại diện tâm Ki-tô. Họ đem lại thay đổi bằng cách duy nhất có thể xảy ra lúc đó. Lẽ dĩ nhiên, sau đó tới giai đoạn nhóm tư bản này (giống y như nhóm tài phiệt ở Nga) muốn kiểm soát nền kinh tế. Họ muốn tạo ra thế độc quyền, mà từ lúc đó cho đến ngày nay, họ đã là một lực ngăn trở và kiềm giữ sự tăng triển kinh tế. Nhưng Hoa Kỳ cũng mau chóng tới điểm có nhiều người dân sẵn sàng có sáng kiến chủ động và đứng ra thành lập thương vụ của họ, và đây chính là yếu tố duy nhất giúp nền kinh tế không sụp đổ. Đây là điều đã duy trì sự tăng trưởng kinh tế mà các con đã thấy.

15.8. Nguyên lý Ki-tô là thay đổi

Điều thày muốn chỉ cho các con thấy ở đây là nguyên lý tâm thức Ki-tô không phải như đa số thường nghĩ, kể cả các đệ tử chân sư thăng thiên. Tâm thức Ki-tô là cái đem lại thay đổi ở một tầng nào đó. Đó là tâm thức Ki-tô. Nó đem lại thay đổi vì thay đổi cho con người cơ hội chọn lựa: họ muốn đi theo vòng xoáy đi lên, hay họ muốn lui về trạng thái cô-ma, và do đó phải củng cố nó và đi vào vòng xoáy đi xuống? Tâm thức Ki-tô phơi bày chọn lựa đó. Khi một nhóm người ở trong tình trạng bế tắc, thì tâm thức Ki-tô không thể làm điều này với những người đại diện tâm Ki-tô vì những người này không thể vi phạm quyền tự quyết. Do đó tâm thức Ki-tô chỉ có thể làm xuyên qua những người trong tâm phản-Ki-tô vì họ sẵn sàng vi phạm quyền tự quyết.

Con có thể nói: “Ấy, sao có thể nói là tâm Ki-tô đem lại thay đổi đó?” Như thày có nói, thực sự không phải là tâm Ki-tô làm điều này, nhưng tâm Ki-tô đứng lui ra và cho phép cơ chế mà các thày gọi là Quy luật Nhân quả hay Quy luật thứ Nhì của Nhiệt động học làm công việc của nó. Đây là cơ chế an toàn được thiết kế trong vũ trụ vật chất, chính là để con người không thể rơi vào tình trạng thoải mái và ở đó mãi mãi và không tăng triển. 

15.9. Đệ tử chân sư thăng thiên và quả vị Ki-tô

Bây giờ các con cần nhận ra một cơ chế áp dụng vào trường hợp các đệ tử chân sư thăng thiên. Từ lúc các thày bắt đầu giảng về chân sư thăng thiên, và đặc biệt về con đường quả vị Ki-tô, thì các thày đã giảng bài cho các đệ tử có một trình độ tâm thức cao hơn con người trung bình. Đệ tử của các thày không ở trong tình trạng cô-ma, họ không ở trong tình trạng ù lì khiến họ không muốn tăng trưởng. Nhưng điều này không có nghĩa, con yêu dấu, là con cần có một tâm thức cao để có thể nhận ra một giáo lý chân sư thăng thiên vỏ ngoài. Con cần có một trình độ tâm thức cao hơn trung bình, nhưng điều này không có nghĩa là con đã tới gần quả vị Ki-tô toàn vẹn. Các đệ tử sẽ nhìn khái niệm quả vị Ki-tô qua phin lọc của tầng tâm thức hiện tại của họ, và họ sẽ hiểu những gì họ có thể hiểu. Sau đó, họ sẽ tạo ra hình ảnh và phóng chiếu hình ảnh này lên nó.

Một trong những hình ảnh mà rất rất nhiều đệ tử đã tạo ra trong nhiều thập niên là quả vị Ki-tô là một trạng thái toàn hảo. Lẽ dĩ nhiên, điều này xảy ra một phần vì giáo hội Công giáo đã, như thày đã giảng nhiều lần, nâng thày lên địa vị người con duy nhất của Thượng đế, đã toàn hảo ngay từ lúc ban đầu, và do đó được đặt trên bệ cao ngoài tầm với của con người. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã tiếp thu khái niệm này, rõ ràng do sa nhân tạo ra, và phóng chiếu nó lên quả vị Ki-tô. Họ nghĩ rằng quả vị Ki-tô có tính chất có-không. Hoặc con không có quả vị Ki-tô, hoặc con có nó – và nếu con có nó thì con là người toàn hảo.

Ý kiến này thực sự không xây dựng vì hình ảnh của sự toàn hảo thông thường nhất trên trái đất là một cái gì không cần thay đổi. Tại sao một cái gì đã toàn hảo lại cần thay đổi? Điều này có nghĩa sự toàn hảo là một trạng thái bất động, và đó là lý do thày nói với các con: quan niệm toàn hảo này hoàn toàn không dính dáng gì đến quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô là sự tự thăng vượt liên tục, sự tự thăng vượt luôn luôn di động. Nó không bao giờ đứng yên. Tâm Ki-tô không bao giờ đứng yên và đó là lý do vì sao nó không tương hợp với khái niệm toàn hảo hiện tại. Bây giờ thì con có thể có một khái niệm khác của sự toàn hảo là khái niệm toàn hảo năng động, nghĩa là con luôn luôn sẵn sàng xem xét chính mình và thăng vượt trạng thái tâm thức của mình. Đó là cách con có thể, như tông đồ Paul có nói, “trở nên toàn hảo trong Ki-tô.” Điều quan trọng ở đây là quả vị Ki-tô không bao giờ, và sẽ không bao giờ đứng yên. Không có trạng thái quả vị Ki-tô tối hậu.

15.10. Đệ tử tâm linh không cùng hướng với Ki-tô

Tại sao hiểu chuyện này lại rất quan trọng? Ấy, đó là vì thày vừa khiến con nhận ra một sự kiện chấn động – ít ra là cho một số các con – là những người mà con cho là sa nhân có thể trong một số trường hợp cùng hướng với tâm Ki-tô. Bây giờ thì chúng ta cần đi sang đầu kia của quang phổ và xem xét sự kiện nhiều người đã đạt được một trình độ nhận biết tâm linh, và ngay cả đạt được một tầng nào đó của quả vị Ki-tô, nhưng trong một số trường hợp, lại có thể hoàn toàn không cùng hướng với tâm Ki-tô.

Nếu con sẵn sàng nhìn một cách trung thực thì con thấy là nhiều tổ chức tâm linh đã kết đọng (precipitated) nhiều sự tàn bạo đáng kể. Một lần nữa, chúng ta có thể trở lại trường hợp giáo hội Công giáo vì nó là một thí dụ hàng đầu. Sự việc quá hiển nhiên nên ta khó không đề cập tới nó. Phong trào Cơ đốc giáo đã có thời nào cùng hướng với tâm Ki-tô chăng? Có. Giáo hội Công giáo có thời nào đã cùng hướng với tâm Ki-tô chăng? Ấy, đây là một câu hỏi vi tế hơn. Điều ta có thể nói là giáo hội Công giáo đã từng kết đọng sự tàn sát người Cathars, tòa án dị giáo (inquisition), các cuộc thánh chiến, vân vân. Rõ ràng là những hành động này không cùng hướng với tâm Ki-tô. Vì sao một phòng trào do chính thày khởi xướng và lúc ban đầu cùng hướng với tâm Ki-tô, lại có thể tha hóa đến độ kết đọng những sự tàn bạo đó, hiển nhiên là biểu hiện của tâm phản-Ki-tô? 

Lấy thí dụ khác, làm sao có thể xảy ra chuyện có những đạo sư bỗng nhiên trở nên nổi tiếng, thu hút nhiều người theo, rồi bỗng nhiên phong trào của họ bắt đầu suy thoái, và nhiều hình thức bạo hành bị phơi bày? Nguyên một phong trào, chỉ vài năm trước đang lành mạnh và cường thịnh, có thể suy thoái và ngay cả hoàn toàn tan biến. Tại sao một tổ chức chân sư thăng thiên (sau khi đã được các chân sư thăng thiên bảo trợ, đã có đệ tử hăng say đi trên con đường quả vị Ki-tô) lại có thể tới điểm mà các chân sư thăng thiên phải ngưng bảo trợ, đứng lui ra và nhìn nó đi vào suy thoái? Nó trở nên càng ngày càng bảo thủ, càng ngày càng cứng ngắc, càng ngày càng chú trọng con đường vỏ ngoài, càng ngày càng chú trọng nghi lễ, quy tắc, luật lệ. Tình trạng tới chỗ đa số thành viên của tổ chức không còn tăng trưởng tánh Ki-tô của họ. Họ thoải mái, nhưng không tăng trưởng. Họ có thể tự coi mình thánh thiện hơn người khác và cảm thấy hơn những người không phải là đệ tử chân sư thăng thiên, nhưng họ không còn tăng trưởng tánh Ki-tô. Họ đã đình trệ, họ đã đứng yên.

Làm sao một người đã phần nào cùng hướng với tâm Ki-tô và, tỷ dụ, nhận ra nhu cầu thay đổi, lại một thời gian sau đó sẵn sàng dùng bạo lực để đem lại sự thay đổi đó? Con đã thấy trong lịch sử có nhiều nhà lãnh đạo đã thấy nhu cầu thay đổi, đã làm việc để đem lại thay đổi, nhưng sau đó lại xoay chuyển. Như thể là lúc đó họ sẵn sàng dùng vũ lực và uy quyền để củng cố địa vị khiến mọi chuyện bị hư hỏng và rơi vào một chu kỳ bạo lực ngày càng đi xuống.

Câu hỏi thực sự ở đây là: “Có thể nào một người đã đạt được một phần quả vị Ki-tô nhưng vẫn chọn lựa đi ngược lại, bắt đầu rơi vào vòng xoáy hướng hạ dẫn họ xuống thấp hơn rất nhiều tầng tâm thức mà họ đã đạt được? Câu trả lời là: “Có.” Cho tới lúc con thăng thiên, con vẫn có thể bắt đầu đi ngược lại.

15.11. Sinh thể Ki-tô bị phản-Ki-tô lừa

Thày có đề cập tới giai đoạn con tới tầng 96 và phải đối mặt một quyết định rất quan trọng, đó là con có thực sự tới điểm nhận ra: “Tôi không phải là trụ điểm.” Hoặc con bắt đầu phụng sự tổng thể với tinh thần vị tha; hoặc con chú tâm hơn vào chính mình, cố gắng tăng trưởng thêm bất cứ ước muốn nào mà con có, có thể là muốn cảm thấy mình đang làm việc gì quan trọng, hay cảm thấy mình lịch duyệt hơn người khác, hay bất cứ ước muốn gì khác. Chắc chắn là khi con đã lấy quyết định và hiểu rằng quả vị Ki-tô là khắc phục cái ngã vỏ ngoài, thì con khó đi giật lùi. Như thày có nói trong nhiều bài giảng (ở cả Hàn Quốc lẫn Hòa Lan), là từ tầng 48 đến tầng 96, con có thể đã đạt được một phần quả vị Ki-tô nhưng bỗng nhiên, vì một lý do cá nhân nào đó, con không muốn tăng triển nữa, con không muốn đi xa hơn nữa. Có một điểm cố định trong tâm thức mà con không chịu nhìn vào và tra vấn, và do đó con đình trệ. Con cũng có thể đi giật lùi.

Điều này cũng giải thích hiện tượng các lãnh tụ được xem là có sức lôi cuốn mà con thấy trong lịch sử. Nhiều người nhìn vào các nhà lãnh tụ đó và nghĩ: “Người này có cái gì đó. Người này có đôi chút Ánh sáng! Tôi nghĩ hào quang người này có cái gì chân chính.” Họ bị thu hút vì họ nhận ra người đó có cái gì chân chính. Sau đó, ta có thể thấy rõ là có một điểm người lãnh tụ đó bắt đầu đi xuống và dẫn thần dân xuống vực thẳm. Một số người đã hỏi, và nhiều người hơn phải hỏi: “Làm sao chuyện này có thể xảy ra?”

Ấy, con yêu dấu, chuyện này có thể xảy ra vì quả vị Ki-tô là sự liên tục, nhưng con có thể tới một tầng nào đó của quả vị Ki-tô và dùng những gì con đạt được để đem lại một hoàn cảnh bên ngoài dựa trên một viễn quan mà con có, tỷ dụ là nâng mình lên thành lãnh tụ một quốc gia hay một phong trào tâm linh. Lúc đó, vì con đã thiết lập mình vào địa vị đó nên con không còn sẵn sàng tăng triển nữa, con không sẵn sàng tiến bước. Có một điểm cố định trong tâm thức mà con không chịu nhìn vào. Lúc đó, điều đương nhiên xảy ra là trái đất được liên tục kéo lên bởi sự gia tốc của toàn thể vũ trụ và tâm thức tập thể được nâng lên.

Khi con đứng yên thì con phải đối mặt lực đang kéo con phải thay đổi đó, và nếu con không chịu thay đổi thì con phải chống kháng lực thay đổi đó. Điều này có nghĩa là thay vì đạt và biểu lộ một tầng quả vị Ki-tô, thì con lúc đó trở nên một hệ thống khép kín.

Lúc đó, con mất quả vị Ki-tô vì quả vị Ki-tô là sự kết nối với tổng thể, và tổng thể luôn luôn gia tốc. Khi con từ chối gia tốc, thì con phải bắt buộc mất sự kết nối với tâm Ki-tô. Con lúc đó đi vào vòng xoáy muốn bảo tồn quyền lực, bằng cách càng ngày càng cực đoan và cuồng loạn. Tình trạng này nhất thiết dẫn tới suy thoái. Sẽ có người cảm thấy được điều này và họ sẽ ra đi. Sẽ có người khác chống đối và một số chuyện có thể xảy ra. Con thấy hiện tượng này xảy ra nhiều lần nơi các phong trào tâm linh. Con cũng thấy hiện tượng này trong thế kỷ vừa qua nơi một số phong trào, kể cả một số phong trào chân sư thăng thiên. Con thấy một giai đoạn tăng triển ban đầu, sau đó mức độ tăng triển chậm lại một cách vi tế, và không lâu sau đó thì sự ù lì xảy ra. Ấy, ù lì là một từ khác để chỉ cái chết.

15.12. Xem xét các tổ chức chân sư thăng thiên

Đây là một bài giảng quan trọng cho những ai đang đi trên con đường tâm linh. Bài này đặc biệt quan trọng cho những ai đã và đang tham gia một tổ chức chân sư thăng thiên. Con có thể dùng bài giảng này để nhìn vào các tổ chức đó và suy ngẫm chuyện gì đã xảy ra, suy ngẫm kinh nghiệm riêng của mình và đạt được một tầm nhìn cao hơn. Con có thể dùng bài giảng này để giúp con tăng triển bằng cách quay lại, nhìn vào chính mình và nói: “Tôi có điểm cố định nào trong tâm thức của mình? Tôi đã có dùng giáo lý chân sư thăng thiên để củng cố các điểm cố định đó chăng?”

Như thày có giảng tại Hòa Lan, con tự hỏi: “Tôi có đang dùng giáo lý chân sư thăng thiên để củng cố quan niệm của tôi về các chân sư thăng thiên, lối hành xử tâm linh của tôi, và tôi đã bị mắc kẹt trong đó?” Sau đó, con có thể nhìn gương các tổ chức đó, các nhà lãnh đạo đó, và con nói: “Tôi bây giờ đã thấy chuyện gì xảy ra, và tôi không muốn rơi vào cạm bẫy đó. Tôi muốn tiếp tục tăng triển, và điều này đòi hỏi gì? Ấy, nó đòi hỏi tôi phải luôn luôn sẵn sàng  nhìn vào chính mình, nhìn vào các điểm cố định đó, nhìn vào những nơi tôi bị mắc kẹt, và tôi phải ngưng phóng chiếu là lỗi tại người khác. Tôi nhận lãnh trách nhiệm, và tôi nhận ra là tăng triển tâm linh của tôi, quả vị Ki-tô của tôi, là trách nhiệm của riêng tôi.”

“Tôi có thể có một vị đạo sư, tôi có thể có một vị thày nhưng vị thày không thể thay tôi chuyển đổi tâm thức của tôi – chỉ có tôi mới làm được chuyện này, do đó tôi không bị giới hạn bởi bất cứ vị đạo sư nào, bất cứ vị thày nào, bất cứ giáo lý nào, bất cứ tổ chức vỏ ngoài nào. Nếu tôi cảm thấy tôi đang không tăng triển, thì thay vì phóng chiếu là người khác chịu trách nhiệm về sự không tăng triển này, thì tôi có thể xoay chuyển, nhận trách nhiệm và nói: “Nhưng tôi không bị giới hạn bởi bất cứ ai hay bất cứ điều gì trên trái đất cả! Không có điều gì bên ngoài tôi có thể ngăn tôi xoay chuyển tâm thức của mình, chỉ cần tôi sẵn sàng nhìn vào chính mình.”

15.13. Quả vị Ki-tô và ảo tưởng toàn hảo

Điều này có nghĩa là con có thể bắt đầu chuyển đổi quan niệm về quả vị Ki-tô và không cố gắng đạt được trạng thái toàn hảo nào đó. Con yêu dấu, con hãy nghe thày tuyên bố một cách rất rất rõ ràng. Có nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã trở nên rất chân thành, rất nghiêm túc trong việc tu tập, đọc bài chú, đọc bài thỉnh, đi những bước khác, rất chú tâm, rất nghiêm túc. Có một giai đoạn làm như vậy hoàn toàn cùng hướng với tâm Ki-tô vì con cần giải thoát mình khỏi tâm thức tập thể và sức hút của nó. Nhưng sẽ có lúc con tới giai đoạn khác khi sự chú tâm vào những công việc vỏ ngoài đó có thể ngăn trở con đi vào nội tâm, nhìn vào tâm lý của mình và nói: “Điều gì trong tôi cần thay đổi?”

Con có thể, tỷ dụ, quá chú tâm vào việc thay đổi thế giới, đến độ con không nhìn vào chính mình. Con hãy cẩn trọng và nhận ra là có nhiều đệ tử có viễn quan là có một trạng thái tâm thức cao hơn và họ chân thành cố gắng đạt được trạng thái đó, nhưng họ vẫn chưa buông bỏ ý niệm quả vị Ki-tô là một trạng thái toàn hảo.

15.14. Tinh thần sùng bái và cấp bậc trong các tổ chức tâm linh

Nhiều người trong số các người đó – như đã xảy ra trong nhiều tổ chức chân sư thăng thiên – đã tôn sùng người sứ giả, vì họ nghĩ là để trở thành sứ giả thì người đó phải đạt được một phần quả vị Ki-tô và do đó đã “hầu như toàn hảo trên mọi phương diện”. Ấy, con yêu dấu, chỉ có Mary Poppins mới hầu như toàn hảo trên mọi phương diện. Không có một người nào đã từng như vậy và sẽ không có ai như vậy. Con cần nhận ra vấn đề thực khi con tôn sùng vị sứ giả hay vị đạo sư, và ngay cả tôn sùng Giê-su, thì sự sùng bái đó duy trì hình ảnh quả vị Ki-tô là một trạng thái toàn hảo.

Các thày đã thấy rất rất nhiều đệ tử thành tâm cố gắng đạt quả vị Ki-tô, nhưng tự ngã của họ đã đánh lừa họ và khiến họ nghĩ là một khi họ đã đạt được một tầng nào đó của quả vị Ki-tô thì họ không còn cần nhìn vào chính họ và tâm lý của họ. Họ không cần thay đổi nữa, họ không cần nghe bất cứ ai thấp hơn họ. Họ nghĩ rằng khi họ đạt được một phần nào đó của quả vị Ki-tô thì họ được một cấp bậc, họ nghĩ rằng những ai đạt được một phần của quả vị Ki-tô bỗng nhiên hơn những người dưới họ và do đó không cần nghe những người này. Họ không cần chú ý tới những người này khi những người này cho họ biết những điều họ cần nhìn nơi chính họ.

Đây là lý do vì sao sự tăng triển của con ngưng lại, và bỗng nhiên sự ù lì đóng rễ vì lúc đó con đã tới một địa vị nào đó trong tổ chức tâm linh, hay ngay cả trạng thái trong tâm mình, khi con cảm thấy thoải mái và không nghĩ mình cần tăng triển nữa. Nhiều người đệ tử đó nhận ra là họ chưa đạt được trạng thái tối hậu của quả vị Ki-tô vì chỉ có vị sứ giả là đã đạt được trạng thái này. Họ đã tạo ra một niềm tin vi tế cho rằng: “Ồ, người sứ giả thuộc vào một thành phần khác, giống như Giê-su vậy.” Họ nghĩ họ sẽ không bao giờ đạt được mức đó, nhưng họ cũng đã đạt được một tầng nào đó và do đó họ chắc chắn cao hơn những đệ tử khác trong tổ chức.

Khi con có một cấp bậc nhân gian như vậy, thì một tổ chức có thể bị đứng dừng lại. Chỉ yếu tố này thôi cũng có thể khiến một tổ chức tâm linh đứng dừng lại, nếu nó không được nhận ra và giải quyết. Nó có thể khiến những người bên dưới cảm thấy không có chỗ để họ biểu lộ quả vị Ki-tô của họ. Họ có hai chọn lựa: hoặc họ ngưng tăng triển về hướng quả vị Ki-tô để không quấy rầy những người ở trên và gây khó khăn cho họ, hoặc họ rời tổ chức và biểu lộ quả vị Ki-tô của họ nơi khác. Nếu những người sẵn sàng biểu lộ quả vị Ki-tô rời tổ chức, thì tổ chức không thể tiếp tục tăng trưởng. Điều này rất đơn giản, và đã xảy ra với nhiều tổ chức được chân sư thăng thiên bảo trợ. Thày không cần nêu danh những tổ chức này vì những người trong các con đã từng tham gia một tổ chức chân sư thăng thiên có thể rõ ràng nhận ra mô thức nếu con muốn.

15.15. Định nghĩa quả vị Ki-tô bằng phản-Ki-tô

Vấn đề thực ở đây là ý niệm quả vị Ki-tô là một trạng thái toàn hảo đã đến từ tâm phản-Ki-tô. Ở mức độ cá nhân thì nó tới từ tự ngã của con, và lý do là vì các lực phản-Ki-tô luôn luôn tìm cách ngăn cản không cho con thăng thiên. Họ biết là họ có tiềm năng ngưng con lại mỗi tầng trước tầng 144. Họ luôn luôn tìm cách dẫn con tới điểm con nghĩ con không cần tăng triển nữa, con không cần thăng vượt nữa, con không cần tiến lên tiếp. Do đó, có điểm cố định đó trong tâm thức con, ảo tưởng cuối cùng, như Hilarion có nói, mà con không chịu nhìn vào. Nếu con không chịu nhìn vào nó, thì con không thể buông bỏ nó, và do đó con vĩnh viễn bị mắc kẹt trong ảo tưởng đó.

Con yếu dấu, con không được danh dự gì khi con đạt tầng tâm thức 143 và ngừng ở đó. Tình trạng này rất rất bi thương. Các thày chưa bao giờ thấy chuyện này, nhưng nếu nó xảy ra, thì tình trạng này rất bi thương. Thật ra nó cũng gần bi thương như tới tầng tâm thức 77 và ngừng ở đó. Điều các thày luôn luôn muốn là các con thăng thiên, mà con không thể thăng thiên từ tầng 77 hay tầng 143! Con chỉ có thể thăng thiên từ tầng 144, và ngay lúc đó con vẫn cần thăng vượt ảo tưởng cuối cùng đó.

Con yêu dấu, bài giảng này đã dài. Bài giảng này có thể đã khiến con bị sốc. Thày đã nói điều thày cần nói, và thày cảm ơn các con đã sẵn sàng là cánh cửa mở để tỏa sáng bài giảng này tới tâm thức tập thể. Con có thể nghĩ là thày đã không nói nhiều đến nước Nga, nhưng thày bảo đảm là thày đã tỏa sáng năng lượng và xung lực vào tâm thức tập thể của nước Nga, đủ để xoay chuyển nước Nga vào một vòng xoáy hướng thượng – nếu có đủ người sẵn sàng đứng cùng hướng với những xung lực đến từ tâm Ki-tô. Do đó, thày đã đóng góp vào vòng xoáy hướng thượng và việc thể hiện thời đại hoàng kim trong đất nước tươi đẹp và yêu dấu này.

Khắc phục nỗi sợ lấy quyết định

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 6 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Novosibirsk, Nga.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary. Thật là một niềm vui lớn được nói chuyện với các con, nhưng hơn thế nữa là niềm vui được với các con trong buổi họp tuyệt vời của những trái tim tuyệt vời của các con ở nơi chốn tuyệt vời này. Các con yêu dấu, Đại thiên thần Michael đã ra lệnh cho chúng ta bắt đầu, nói theo nghĩa bóng. Do đó, thày muốn nói lên một số ý từ trái tim của thày và cho con một dụng cụ thực tiễn có thể giúp con khắc phục nỗi đau khi lấy quyết định.

13.1. Những quyết định né tránh

Trước kia ở đây trên nước Nga chúng ta có nói đến vấn đề lấy quyết định, đưa ra một số hướng dẫn đặc biệt cho người dân Nga, nhưng thày muốn cho các con một dụng cụ phổ quát cho tất cả. Thực tế là khi con nhận ra giáo lý rất cơ bản mà các thày đã trao truyền, là mọi sự trong toàn thể vũ trụ xoay quanh quyền tự quyết, thì con cũng nhận ra rằng mục đích căn bản của sa nhân (từ lúc họ xuống hành tinh này và thật vậy, từ lúc họ sa ngã), là khiến cho những dòng sống có tự nhận biết và chưa sa ngã lấy những quyết định mà sa nhân sau đó có thể dùng để chi phối họ bằng nhiều cách.

Đầu tiên hết, mục đích của họ, lẽ dĩ nhiên, là chứng minh là Thượng đế đã sai khi cho các con quyền tự quyết. Họ cũng muốn giam hãm con vào đủ loại vòng xoáy đi xuống khi con lấy một quyết định tạo cho con một nỗi đau thống thiết. Lẽ dĩ nhiên, nỗi đau không do quyết định của con nhưng do sự thao túng và phản ứng của sa nhân. Dù gì chăng nữa, họ khiến con lấy quyết định, họ làm cho con đau đớn và sau đó tìm cách dụ dỗ con rơi vào một vòng xoáy vô tận trong đó hoặc con tìm cách che giấu nỗi đau của quyết định đầu, tìm cách biện minh cho nó, tìm cách giải thích tại sao, hoặc con tìm cách tránh không lấy quyết định nữa. Lẽ dĩ nhiên, sa nhân rất giỏi trong chuyện dàn xếp để con rơi vào những hoàn cảnh thực tiễn trên trái đất khiến con phải lấy quyết định. Vì con muốn tránh không làm lại những quyết định đã khiến con đau đớn lúc đầu, nên họ tìm cách khiến con lấy những quyết định khác mà chúng ta có thể gọi là “quyết định né tránh”. Đây là những quyết định có mục đích, trong tâm con, né tránh lấy những quyết định đã tạo cho con nỗi đau quá lớn.

Con nghĩ rằng nếu con lấy những quyết định loại khác, thì con có thể né tránh nỗi đau. Lẽ dĩ nhiên, điều này dẫn tới những đau đớn loại khác và chẳng bao lâu con bị vướng trong một màng nhện trong đó con càng cựa quậy, con càng dính thêm và càng bị bao bọc bởi một chất nhựa, và càng mất khả năng cử động. Chẳng bao lâu, con ngồi yên như một con muỗi bị mắc bẫy trong màng nhện và tất cả những gì con làm được là kêu vo ve tại chỗ vì con thực sự không thể di động khỏi chỗ đó. Con có thể tiếp tục làm như thế trong khi sa nhân vắt lấy năng lượng của con hoặc là cho tới khi con quyết định như vậy là đủ rồi và đã tới lúc con tiến lên cao hơn trên con đường tâm linh.

13.2. Tránh không lấy những quyết định né tránh

Các con yêu dấu, các thày biết rõ hoàn cảnh của các con trên trái đất và các thày biết sống hiện thân trên trái đất khó khăn như thế nào. Các thày cũng biết cơ cấu dẫn tới những quyết định né tránh. Các thày biết khó tránh những quyết định né tránh, nhưng các thày cũng biết các con không thể nào đi vào con đường quả vị Ki-tô bằng cách lấy những quyết định né tránh.

Bây giờ con hãy nghe chăm chú. Con có thể bắt đầu con đường tâm linh khi vẫn còn bị mắc kẹt trong những quyết định né tránh này. Con có thể tiến bộ trên con đường tâm linh bằng cách học giáo lý tâm linh và thực hành những kỹ thuật tâm linh. Để có thể bước ra khỏi con đường mà ta có thể gọi là con đường vỏ ngoài (hay con đường tâm linh) để bước vào con đường nội tâm (hay con đường quả vị Ki-tô), thì con phải sẵn sàng lấy những quyết định không nhắm mục tiêu né tránh một quyết định lớn hơn, những quyết định không tìm cách né tránh nỗi đau. Chúng không phải là sự phản ứng lại hoàn cảnh bên ngoài trong đó con lấy quyết định đi theo một vị thày bên ngoài hay tuân thủ một nghi thức vỏ ngoài. Con thực sự làm như thế để tránh không phải lấy những quyết định sâu xa hơn, tỷ dụ như con là loại sinh thể nào, con muốn sống trong một thế giới như thế nào, con sẵn sàng muốn nhìn vào những gì trong chính mình để thay đổi hoàn cảnh bên ngoài và để thay đổi hoàn cảnh nội tâm và để giải thoát mình khỏi những khuôn nếp trong tâm do sa nhân lập trình.

Giờ đây, như cả người sứ giả và Đại thiên thần Michael đều đã nói, các thày chỉ có mong muốn duy nhất là thấy con thoát khỏi bất cứ điều gì hạn chế con. Những giới hạn này, trong ngắn hạn ngăn trở con cảm thấy thoải mái với chính mình, và trong dài hạn ngăn trở con con hội đủ điều kiện để thăng thiên và biểu hiện quả vị Ki-tô. Tại Hòa Lan, các thày nói nhiều về chuyện cảm thấy thoải mái với chính mình và tầm quan trọng của nó. Ấy, con yêu dấu, thày có thể hỏi con một câu hỏi giản dị: “Con có nghĩ là một sinh thể Ki-tô không cảm thấy thoải mái với chính mình?”

Lẽ tự nhiên, nếu con nghĩ về điều này, thì con nhận ra rằng khi con càng ngày càng đi cao hơn trên con đường tu, con biểu hiện một tầng mức càng ngày càng cao hơn của quả vị Ki-tô. Con nhận ra rằng lẽ tự nhiên con phải cảm thấy càng ngày càng thoải mái hơn với chính mình. Dù gì chăng nữa, Giê-su đã nói gì? Thày nói: “Ta và Cha ta là một.” Đấy, nếu con là một với Cha, là Hiện diện TA LÀ của con, thì lẽ tự nhiên con sẽ cảm thấy thoải mái với chính mình vì Hiện diện TA LÀ của con không ở trong thế gian này hay không thuộc về thế gian này, và nó cảm thấy thoải mái với chính nó.

13.3. Một bài tập để phơi bày các quyết định gây giới hạn

Thày đã trao truyền một số câu chú và thỉnh nguyện để thanh tẩy các luân xa của con, và con nên đọc những câu chú và thỉnh này mỗi lần con làm bài tập sắp tới đây. Thày muốn con trụ vào trái tim của mình, đặt tư tưởng vào luân xa tim, và thày muốn con lấy quyết định là con có muốn thày hướng dẫn con để con khám phá ra quyết định nào đã làm nghẽn luân xa tim của con, đã ngăn chận ánh sáng không biểu lộ được trọn vẹn trong luân xa tim của con chăng?

Nếu con trả lời là “Có” thì Mẹ yêu cầu con hình dung Mẹ đang ngồi trên một chiếc ghế và con giống một trẻ thơ. Con đi lại gần Mẹ và con giơ hai cánh tay lên. Mẹ cúi xuống và bế con lên và đặt con vào lòng Mẹ và Mẹ ôm con trong vòng tay Mẹ. Bây giờ, con được hoàn toàn bảo bọc bởi vòng tay đầy tình thương của Mẹ, bởi hào quang đầy tình thương của Mẹ, bởi rung động đầy tình thương của Mẹ. Con được bảo vệ khỏi mọi hiểm nguy của thế gian này. Chắc chắn là Mẹ Thiêng liêng có thể bảo vệ con khỏi bất cứ điều gì trên thế gian này, vì thế gian đã được tạo ra từ Bản thể và bản chất của Mẹ Thiêng liêng. Trong khi con đang ở trong lòng Mẹ, Mẹ yêu cầu con đặt một câu hỏi giản dị: “Mẹ Mary, hãy chỉ cho con thấy quyết định nào đang làm nghẽn luân xa tim của con.” Sau đó, trong khi con làm tiếp bài tập này một mình, con có thể chậm rãi, con có thể mở nhạc làm nền, và con có thể thiền định về Hiện diện của Mẹ, mà không suy nghĩ trước, không suy nghĩ phân tích hay đường thẳng, không có câu chú hay nghi thức hay bất cứ điều gì khác trong tâm con. Con để tâm lắng yên xuống và chỉ giản dị lắng nghe. Trong hầu hết các trường hợp, Mẹ sẽ không gửi cho con ngôn từ, nhưng Mẹ có thể gửi cho con hình ảnh hay cảm nhận liên quan tới loại quyết định nào con đã lấy. Lẽ tự nhiên, con biết luân xa tim là biểu hiện của tình thương và như thế quyết định của cá nhân con, rất có thể sẽ liên quan đến chuyện con cảm thấy tình thương của mình đã bị bác bỏ và con quyết định là con sẽ không biểu lộ tình thương nữa trên hành tinh đen tối này.

Bây giờ, có thể là trong khi con làm bài tập này, thì con có thể nhận một xung lực mà con muốn quán chiếu hay khai triển. Con cũng có thể muốn Mẹ giúp con giải tỏa vấn đề này. Quả thực là con sẽ phải tới điểm thấy được vấn đề rõ ràng và con quyết định sẽ tháo gỡ quyết định ban đầu đó vì bây giờ con biết con đã tiến lên cao hơn trên con đường tâm linh, con đã tiến lên cao hơn trên con đường quả vị Ki-tô. Do đó, con sẽ không còn cảm thấy nỗi đau mà trước kia con cảm thấy khi tình thương của con bị bác bỏ. Nếu tình thương của con lại bị bác bỏ nữa, thì con cũng không cảm thấy đau đớn như xưa vì bây giờ con là một sinh thể khác và do đó con không cần cảm thấy sợ hãi khi nhìn lại quyết định của mình và thay đổi nó. Con không cần sợ biểu tỏ tình thương của con nữa.

Nếu con không có một cảm giác đặc thù, thì có thể con cần làm việc với một luân xa khác và do đó Mẹ đề nghị con tiếp tục tiến hành bài tập này. Khi Mẹ đi qua một luân xa, nếu con có phản ứng mạnh, thì con có thể tạm ngưng hay ngừng hẳn bài tập và chú tâm vào luân xa này. Con có thể đọc bài chú, bài thỉnh về nó, con có thể kêu gọi trái tim của Mẹ, con có thể nghe nhạc, hoặc làm bất cứ điều gì khác mà con cảm thấy muốn làm, con yêu dấu.

Bây giờ, Mẹ yêu cầu con hình dung con đi từ luân xa tim lên luân xa cổ họng. Con hòa điệu với luân xa cổ họng, con đi vào trong đó và con lại hỏi mẹ: “Mẹ Mary, xin giúp con thấy quyết định nào đã làm nghẽn luân xa cổ họng của con.” Lẽ dĩ nhiên, con biết luân xa cổ họng liên quan tới sự biểu lộ uy lực và ý chí. Đã có một thời con dám biểu lộ uy lực của con. Vì lý do nào đó, quyết định này khiến con đau đớn và con quyết định con sẽ không bao giờ biểu lộ uy lực nữa. Con sẽ không bao giờ biểu lộ ý chí mạnh mẽ như vậy, con sẽ bớt cả quyết hơn, bớt sẵn sàng đứng lên bảo vệ lập trường mình, nhưng con chịu uốn mình theo hoàn cảnh, theo bất cứ chuyện gì xảy ra cho con để con tránh né nỗi đau này. Một lần nữa, con có thể xin Mẹ hướng dẫn giúp con thấy quyết định này. Con có thể biết là con đã tiến lên cao hơn và do đó, một lần nữa, con có thể tới điểm thấy được quyết định và con quyết định: “Con sẵn sàng muốn biểu lộ uy lực Thượng đế của con, dùng ý chí của con để bảo vệ lập trường và nói: “Tới đây là đủ rồi, không được xa hơn nữa, từ đây con sẽ tiến lên phía trước.”

Kế tiếp, Mẹ yêu cầu con đi từ luân xa tim xuống đám rối dương (solar plexus). Một lần nữa, con đi vào luân xa rối dương và con hỏi Mẹ: “Mẹ Mary, xin giúp con thấy quyết định nào đã làm nghẽn luân xa rối dương của con.” Lẽ tự nhiên, luân xa rối dương liên quan tới an bình, liên quan tới phụng sự. Có thể đã có một thời điểm con quyết định đứng lên đòi hòa bình và sa nhân đã tìm cách nào đó để khiến con bị đau đớn. Có thể đã có một thời điểm con quyết định phụng sự đời sống và một lần nữa sự phụng sự của con bị bác bỏ và tạo ra trong con nỗi đau. Một lần nữa, con hãy thiền về tim của Mẹ, và xem có điều gì khởi lên trong con chăng. Con hãy áp dụng các dụng cụ và giáo lý cho tới khi con thấy rõ ràng quyết định cũ đó và con lấy quyết định sẵn sàng muốn phụng sự, sẵn sàng thực sự muốn bình an vì con biết rằng ngày nay sự bình an của con không dễ bị phá rối như trong quá khứ.

Sau đó, chúng ta lại tiến lên từ luân xa tim lên con mắt thứ ba, và con trụ vào trong đó và hỏi Mẹ: “Mẹ Mary, xin giúp con thấy quyết định nào đã làm nghẽn luân xa con mắt thứ ba của con.” Đây là luân xa của viễn kiến. Đây là luân xa của sự nhìn thấy sự thật và chân lý. Có thể con đã bảo vệ sự thật và sa nhân đã tìm cách làm tổn thương con. Có thể con đã biểu lộ một viễn kiến cao hơn và nó bị bác bỏ. Một lần nữa, khi con thấy được quyết định này, thấy nó như nó là, con có thể quyết định là con sẽ dám biểu lộ viễn kiến của mình, con dám đứng lên bảo vệ chân lý cao nhất mà con thấy được ngay bây giờ, tuy con vẫn biết là luôn luôn có một chân lý cao hơn nữa mà con sẽ thấy. Khi con buông bỏ được quyết định cũ, thì con cảm thấy một gánh nặng được trút khỏi người con. Con cảm thấy điều này mỗi lần con quyết định con sẽ dám biểu lộ trở lại ánh sáng của con xuyên qua một luân xa nào đó.

Bây giờ chúng ta đi từ luân xa tim xuống trung tâm của luân xa hồn, là luân xa liên quan tới sáng tạo, vui chơi và niềm vui của trẻ thơ. Con hãy nhìn hành tinh này và thấy những người có tâm hồn trẻ thơ đã thường bị sa nhân hà hiếp thô bạo và đập dí xuống đến độ họ không dám là trẻ em thơ ngây nữa. Thay vào đó, họ trở nên sợ sệt, lúc nào cũng chờ đợi sẽ có điều gì xấu xảy ra hay sợ sẽ bị trừng phạt vì lý do nào đó.

Phải chăng Giê-su có nói: “Trừ khi con trở lại như một trẻ thơ, con không thể nào đi vào vương quốc thiên đàng?” Trừ khi con dám để ánh sáng tuôn chảy qua trung tâm luân xa hồn của con thì làm sao con có thể thực sự tiến bộ trên con đường quả vị Ki-tô và dám biểu lộ chính mình? Một lần nữa con có thể hòa điệu vào Bản thể của Mẹ, xin mẹ giúp con thấy quyết định của mình. Nếu con nhận được một xung lực mạnh, con hãy thiền quán về nó, nghiền ngẫm nó. Con hãy dùng các dụng cụ cho tới khi con thấy được tại sao con quyết định đóng lại dòng chảy sáng tạo của con. Khi con quyết định thay đổi quyết định một cách có ý thức, thì một lần nữa, một gánh nặng khác được trút bỏ xuống.

Bây giờ chúng ta lên trở lại luân xa Đỉnh đầu, liên quan tới Tia thứ Hai của Minh triết Thượng đế. Nó cũng là luân xa giúp con kết nối với Hiện diện TA LÀ của con, với cõi tâm linh, với sự hiểu biết tâm linh. Một lần nữa, Mẹ yêu cầu con hòa điệu với luân xa đó và xin Mẹ giúp con thấy được quyết định nào đã làm nghẽn dòng chảy xuyên qua luân xa Đỉnh đầu của con. Phải chăng Giê-su có nói: “Đừng để ai lấy vương miện trên đỉnh đầu của con.” Lẽ dĩ nhiên, hầu như không thể nào hiện thân trên một hành tinh như trái đất mà không bị các sa nhân làm điều gì đó để tiêu trừ con hay tổn thương con khi con dám biểu lộ minh triết của con. Hay khi con dám nói lên trực giác là con biết điều gì đó là thật, dù là không có bằng chứng vật chất. Một khi con đã hòa điệu, một khi con muốn mở tâm và tim mình ra để đón nhận một xung lực từ Mẹ, thì con có thể thay đổi quyết định này một cách ý thức và do đó con lại cảm thấy một gánh nặng được nhấc khỏi con.

Bây giờ chúng ta đi tới luân xa cuối cùng là luân xa gốc, cũng được gọi là luân xa Mẹ, không phải vì nó liên quan tới phụ nữ hay người Mẹ, hay ngay cả tình dục. Nó thực sự là luân xa qua đó con biểu lộ nỗ lực sáng tạo của mình để sáng tạo hay biểu hiện điều gì đó trong bát cung vật lý (physical octave). Nó là luân xa cuối của một dây chuỗi khi con gán một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-vật và tìm cách biểu hiện nó trên cõi vật lý. Lẽ dĩ nhiên, đó là lý do tại sao sa nhân đã tìm cách, một cách rất hung hãn, làm tắt nghẽn luân xa này trong càng nhiều người càng tốt.

Con hãy xin Mẹ lần nữa giúp con thấy quyết định của con muốn biểu lộ hay biểu hiện điều gì đó và điều ấy bị bác bỏ, bị chê bai, bị chỉ trích, bị phán xét và cũng có thể là nó bị tiêu hủy một cách thô bạo ngay trước mắt con. Bằng cách hòa điệu với tim của Mẹ, bằng cách mở tâm và tim của con ra, con có thể nhận được một xung lực giúp con biết rõ ràng hơn và con có thể bắt đầu thay đổi quyết định đó.

13.4. Dùng bài tập

Giờ đây con yêu dấu, đối với hầu hết các con bài tập này không phải chỉ làm một lần và mọi luân xa đều được thanh tẩy. Đa số các con sẽ được lợi lạc khi làm đi lại nhiều lần. Lẽ dĩ nhiên, con có thể làm bài tập này chung với việc đọc các bài chú của thày để thanh tẩy luân xa, hay đọc một số bài nguyện và bài thỉnh khác nhau để thanh tẩy luân xa. Lẽ dĩ nhiên, con cũng có thể kết hợp bài tập này với Khóa học Tự Điều ngự trong đó con tiến lên qua bảy tia sáng và qua đó, con thanh tẩy luân xa tương ứng.

Do đó đây là một bài tập mà con có thể thu âm để dùng hay con có thể in ra để đọc và con đi qua các bước. Con cũng có thể đọc câu chú (mantra), bài chú hay bài thỉnh cho mỗi bước. Con có thể nghe nhạc, hay bất cứ điều gì con hứng thú muốn làm. Yếu tố chính yếu là con hòa điệu vào luân xa của con, con xin Mẹ giúp con thấy được quyết định của con và con mở tâm và tim càng nhiều càng tốt để nhận vào một xung lực từ Mẹ sẽ giúp con thấy rõ ràng hơn quyết định đã làm nghẽn một luân xa nào đó.

Đây là một bài tập có thể dùng chung với những bài tập khác mà Mẹ đã trao truyền cho các con, để chữa lành chấn thương nhập đời nguyên thủy và để chữa lành những khía cạnh khác của tâm lý của con.

13.5. Bắt đầu lấy quyết định trở lại 

Con thấy chăng, con yêu dấu, con sẽ tới điểm trên con đường tâm linh khi con cần lấy quyết định, con cần dám lấy một quyết định không phải là quyết định né tránh. Giờ đây, tất cả các con đã lấy những quyết định như thế (chúng ta có thể gọi chúng là quyết định Ki-tô), nếu không thì con đã không ở trên con đường tâm linh và con đã không đang ở đây. Tuy nhiên hầu hết các con vẫn còn những khuôn nếp đó, những tắt nghẽn trong luân xa của mình. Để tránh né nỗi đau mà con nghĩ dính liền với một quyết định, con lấy những quyết định khác – những quyết định né tránh – để né không phải lấy một quyết định thật. Con tìm cách né tránh những biểu hiện của mình sẽ bị người khác hay tà lực phán xét và chỉ trích.

Con yêu dấu, như người sứ giả và Đại thiên thần Michael đã nói trước đây, nếu con sẵn sàng muốn học hỏi từ một quyết định, thì nó không thể là một lỗi lầm. Tại sao vậy, con yêu dấu? Bởi vì mục đích cuộc sống trên trái đất là gì? Nó không phải là tuân theo một tiêu chuẩn toàn hảo nào đó do sa nhân quy định. Qua rất nhiều tôn giáo và triết lý tâm linh, sa nhân đã tìm cách bán cho con ý tưởng rằng cách duy nhất để lên thiên đàng là sống theo một tiêu chuẩn mà họ đã quy định trên trái đất. Đây là một sự gian dối hoàn toàn. Như đã nói, con không thể đi vào thiên đàng bằng cách sống theo bất cứ tiêu chuẩn nào của thế gian. Con phải vượt lên trên tất cả mọi tiêu chuẩn bằng cách lấy một quyết định Ki-tô từ bỏ ảo tưởng quy định mỗi tầng trong 144 tầng tâm thức, như thày Hilarion đã mô tả trong sách của thày. Con có thể quyết định là giờ đây con đã tìm thấy một giáo lý tâm linh, một con đường tu tâm linh, một nhóm tâm linh hay một vị thày tâm linh và con sẽ theo vị thày này, theo nhóm này. Con sẽ làm một số nghi thức, con sẽ học một số giáo lý, con sẽ học hỏi, con sẽ nỗ lực tu tập. Như thày có nói trước đây, con có thể được lợi lạc khi làm như thế, nhưng con vẫn có thể làm như thế trong khuôn khổ một quyết định né tránh. Ý tưởng cốt lõi của con đường tu vỏ ngoài đã len lỏi vào rất nhiều nơi trên trái đất, ngay cả trong các giáo lý tâm linh. Ngay cả một số những vị đạo sư hay những vị thày nhiều kinh nghiệm cũng chưa thấy rõ cơ chế này. Con người và ngay cả các đạo sư thường có khuynh hướng quy định một con đường tu vỏ ngoài và nói rằng nếu con đi theo con đường vỏ ngoài này, thì sẽ có một ngày con thăng thiên, đạt giác ngộ, đạt được một trạng thái tâm thức cao hay gì gì đó. Con yêu dấu, con sẽ tiến bộ khi đi theo nhiều đường tu như thế nhưng con sẽ không tiến bộ trên con đường quả vị Ki-tô cho tới khi nào con bắt đầu lấy những quyết định Ki-tô trong đó con không tìm cách né tránh nỗi đau hay né tránh lấy những quyết định mà con cho là nguy hiểm.

13.6. Gia nhập con đường quả vị Ki-tô

Quả thực là điều con cần làm để tìm ra con đường quả vị Ki-tô và đi trên con đường quả vị Ki-tô là con tìm ra cách, trong tâm con, tách rời tiến trình lấy quyết định ra khỏi nỗi sợ đau đớn. Bài thiền tập mà thày vừa mới trao truyền cho con là một dụng cụ để làm việc đó, nhưng con cũng có thể làm một sự chuyển hóa tổng quát trong tâm mình để nhìn nhận rằng mục đích thật của cuộc sống trên trái đất không phải là sống theo một tiêu chuẩn vỏ ngoài. Mục đích thực sự là con hiện thân và đi qua tiến trình mà các thày mô tả là tiến trình trầm mình và thức tỉnh. Trước tiên con trầm mình vào bát cung vật lý, đồng hóa mình với thân thể và với bát cung vật lý và sau đó con tự thức tỉnh.

Để con có thể thức tỉnh mình, con phải nhìn thấy được là không có nỗi đau nào, không có sự hổ thẹn nào, không có sự lên án nào đến từ phía các thày đối với bất cứ điều gì con đang làm, con đã làm, bất cứ điều gì con có thể làm trong thế giới vật chất. Bất cứ điều gì con làm trong cõi vật chất đều được làm với năng lượng của Mẹ. Bất cứ điều gì con làm trong cõi vật chất có thể được tẩy xóa đi, chắc chắn là như thế. Con không bao giờ có thể làm một điều gì trong cõi vật chất mà con không thể gỡ bỏ bằng cách lấy một quyết định sáng suốt hơn, tỉnh thức hơn. Con nhận ra rằng, con yêu dấu, dù con đã lấy một quyết định đưa con xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn và khiến con đồng hóa mình với cõi vật chất (hay với thân thể của con, với bốn thể phàm của con, với cỗ xe linh hồn của con, với tự ngã của con, với nỗi đau của con), thì đây cũng chỉ là một phần của tiến trình đắm chìm và thức tỉnh.

Do đó, mỗi quyết định mà con làm khiến con trầm mình sâu hơn vào thế giới vật chất đều có thể được chuyển hóa thành một quyết định thực sự xây dựng quả vị Ki-tô của con và như thế giúp con thức tỉnh mình. Nó còn có thể giúp con tới được điểm mà con có thể bắt đầu biểu hiện Sứ vụ Thiêng liêng của con, bắt đầu là cánh cửa mở cho Hiện Hiện diện TA LÀ của con, vì bây giờ con biết con không muốn biểu hiện điều gì. Bây giờ, con biết có cái gì đó cao hơn, con biết con có thể là hơn điều này. Một khi con đã đồng hóa mình với điều gì đó trong thế giới vật chất và sau đó con thức tỉnh mình thoát khỏi sự đồng hóa đó, thì con biết con sẽ không bao giờ bị mắc bẫy trong giới hạn đó nữa. Con đã trải qua nó một lần và con không cần trải qua nó một lần nữa. Con có cái biết này trong căn thể (causal body) của con, con có thể tìm lại cái biết đó và do đó con có thể tránh không làm như thế nữa.

13.7. Đi vào nỗi đau

Con cũng biết rằng, con yêu dấu, đã có một lúc con bị cuộc đời làm tổn thương trên trái đất này và nó khiến con đau đớn. Như các thày đã nói trước đây, lần đầu tiên chuyện này xảy ra, cú sốc lúc ấy là lớn nhất. Do đó, khi con nhìn lại quyết định cũ, nỗi đau không thể nào to lớn bằng lúc con cảm thấy nó lần đầu và lấy quyết định nguyên thủy. Nỗi đau sẽ không bao giờ đau nhiều bằng lần đầu ấy. Con có thể bị đau đớn khi con nhìn lại quyết định con đã lấy, mà trong tâm vỏ ngoài của con, con xem quyết định này là một sai lầm, nhưng nó chỉ là một nỗi đau tạm thời. Một khi con đi vào nỗi đau đó và gỡ bỏ quyết định, con sẽ thoát khỏi nỗi đau. Nếu con không đi vào nỗi đau và gỡ bỏ quyết định, con sẽ kéo lê nỗi đau này với con như con đã làm qua nhiều kiếp sống.

Con thấy chăng, một lần nữa, sa nhân muốn con rơi vào khuôn nếp đó và sau đó họ muốn giữ con bị mắc kẹt ở đó đời đời. Các chân sư thăng thiên muốn con bước ra khỏi sự đồng hóa mình với bất cứ điều gì trong cõi vật chất để con được tự do, không còn gánh nặng, không còn sợ hãi và một lần nữa con dám là dưới này những gì con là Trên kia. Làm sao con có thể là dưới này tất cả những gì con là Trên kia nếu con không dám lấy quyết định?

13.8. Có nhiều chọn lựa đúng

Con yêu dấu, đôi khi có một tâm thức trong các đệ tử chân sư thăng thiên muốn các thày hay một vị đạo sư bên ngoài nói cho con biết con phải làm gì. Con nghĩ rằng nếu có một thẩm quyền cao, một sinh thể tiến hóa cao, bảo con phải làm gì thì điều ấy không thể nào sai. Con quá sợ mình làm một lỗi lầm nên con muốn biết trước là con đang lấy một chọn lựa đúng trong bất cứ hoàn cảnh nào. Con thấy chăng, con yêu dấu, nghĩ rằng trong một tình huống đặc thù chỉ có một chọn lựa đúng duy nhất là một ảo tưởng. Có rất rất nhiều tình huống trong cuộc sống có nhiều chọn lựa đúng. Đây chỉ là vấn đề con muốn lấy chọn lựa nào mà thôi. Con có thể có mười người và đặt họ vào một tình huống rất giống nhau. Họ có thể lấy mười chọn lựa khác nhau nhưng mỗi chọn lựa đều đúng cho mỗi người cho nên cả mười chọn lựa đều đúng vì chúng đều đưa tới sự tăng triển.

Nếu con nhìn một cách trung thực hoàn cảnh mà thày phải đối mặt như một đại diện của Mẹ Thiêng liêng, thì con có thể nói là thày thường nhắc đi nhắc lại một chuyện, nói về cùng một đề tài, nói cùng một chuyện bằng nhiều cách khác nhau. Tại sao thày làm như vậy chứ? Một phần vì thày biết thày không thể giúp tất cả mọi người với một cách diễn tả nào đó, và thày quả thực mong muốn tất cả các con được tự do. Thày tìm cách trao truyền cho các con nhiều điều qua nhiều cách diễn tả khác nhau để nó thu hút nhiều người khác nhau. Con cũng cần trung thực và nhận ra rằng đối với nhiều người trong các con, lý do thày phải nhắc đi nhắc lại là vì con không thực sự chú ý lần đầu tiên thày nói, hay lần thứ nhì thày nói, hay lần thứ ba hay lần thứ tư hay lần thứ năm. Trong một số trường hợp, con chưa sẵn sàng, nhưng trong một số trường hợp con đã sẵn sàng, nhưng con chỉ chưa muốn mà thôi.

Con yêu dấu, con sẽ tới một điểm trên con đường tu khi con cần nhìn nhận là lúc con thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng của con, thì không phải tự ngã đã thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng của con. Đó là chính con, ở trong một trạng thái tâm thức rất tỉnh thức, đã thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng cùng với các vị thày tâm linh của con và Hiện diện TA LÀ của con. Lúc ấy con quyết định con muốn tăng triển như thế nào trong kiếp đầu thai sắp tới. Con quên mất điều này khi con đầu thai, nhưng ý nghĩa của Sứ vụ Thiêng liêng vẫn vận hành trong ba thể phàm cao của con. Có đôi lúc tâm vỏ ngoài của con không hòa điệu được với Sứ vụ. Do đó, sự thực là con có thể đã sẵn sàng lấy một quyết định nào đó (vì con đã làm xong việc thanh tẩy ba thể phàm cao của con), nhưng tâm vỏ ngoài của con chưa bắt kịp. Tâm vỏ ngoài của con chưa sẵn sàng, tâm vỏ ngoài của con chưa muốn thấy là có nhu cầu lấy quyết định đó.

13.9. Tuôn chảy với Dòng sông sự Sống

Nếu con cảm thấy đã nghe thấy điều này trước đây rồi, thì con hãy xem xét vì sao con đã nghe nó rồi nhưng con chưa thực sự nghe thấy nó? Tại sao con chưa hành động, tại sao con chưa có thể hay chưa muốn lấy quyết định với tâm ý thức của con để bước ra khỏi sự hạn chế liên quan tới việc lấy quyết định. Khi con làm thế, thì con tạo cho mình tự do để tuôn chảy với Dòng sông sự Sống, con cho phép mình lấy quyết định và giản dị xem kết quả là một kết quả sẽ giúp con điều chỉnh hướng đi khi con tuôn chảy theo Dòng sông sự Sống. 

Trôi theo Dòng sông sự Sống không đồng nghĩa với lấy quyết định nhảy vào dòng sông và sau đó dòng sông kéo con xuống hạ lưu. Lúc nào con cũng đang thay đổi hướng đi. Con lấy một quyết định, con thấy kết quả, con thay đổi hướng đi cho thích ứng để con tuôn chảy theo đúng hướng mà con muốn tới, và con tiếp tục làm như thế. Đó là lý do tại sao, con yêu dấu, một khi con đã chuyển hóa như thế, con thấy là không có quyết định nào sai. Không có quyết định nào có thể cản con tuôn chảy với Dòng sông sự Sống với điều kiện là con không cố gắng bơi ngược trở lại tới điểm trên dòng sông nơi con đã lấy quyết định trong quá khứ và nghĩ rằng con phải tháo gỡ điều gì ở nơi đó. Điều con phải tháo gỡ là những khuôn nếp năng lượng trong bốn thể phàm của con. Sau đó, con phải thay đổi quyết định và con không thể thay đổi quyết định trong quá khứ, con chỉ thay đổi được nó trong hiện tại. Để có thể thay đổi nó trong hiện tại, con phải nối kết lại với quyết định trong quá khứ. Điều này không có nghĩa là con trở về quá khứ, nhưng có nghĩa là con nhìn quyết định này với nhận biết cao mà con có bây giờ và con thay đổi nó, con lấy một quyết định mà con không thể làm được với sự nhận biết mà con có trong quá khứ.

Khi con làm điều này, con chỉ giản dị thay đổi hướng đi của con trong dòng sông mà không ngừng lại. Con tuôn chảy liên tục và sau khi con đã làm điều này một số lần, con nhận ra rằng không có điều gì có thể ngăn con trôi theo Dòng sông sự Sống, bất kể quyết định nào con đã lấy và bất kể lỗi lầm có vẻ to lớn dưới nhãn quan người khác hay của sa nhân. Con cho phép mình càng ngày càng giống một trẻ thơ dám biểu hiện chính mình, dám nhìn cuộc đời không như một gánh nặng đè lên mình, không giống như đi bộ trên một bãi mìn là nơi bước trật một bước có thể gây ra hậu quả khủng khiếp. Cuộc đời là một trò chơi và con có thể tiếp cận cuộc đời như một trẻ thơ đang vui chơi. Bây giờ Mẹ yêu cầu con một lần nữa hình dung con đang ngồi trong lòng Mẹ. Mẹ đang ôm con trong vòng tay. Mẹ đang nhìn con, nhìn sâu vào mắt con và Mẹ tỏa rạng tình thương vô điều kiện của Mẹ Thiêng liêng cho cá nhân con. Mẹ yêu cầu con ngẫm nghĩ xem con có sẵn lòng muốn nhận tình thương này, chấp nhận là con xứng đáng nhận nó? Sau đó, con có sẵn sàng cho phép niềm vui của trẻ thơ dâng lên tràn ngập trong trái tim con chăng, con có sẵn sàng biểu lộ niềm vui đó chăng để Mẹ có thể đặt con xuống. Thay vì con đứng đó, lo sợ không biết bước kế tiếp đi đâu, con hân hoan chạy bay ra ngoài cánh đồng tươi đẹp, nghe chim hót, nhìn hoa nở, chơi banh, vui chơi trong bất kỳ hoàn cảnh nào con đối mặt trong đời, nhìn mỗi quyết định như một thử nghiệm sẽ chỉ có thể giúp con lấy quyết định tốt hơn trong tương lai.

Thày đã nói những điều thày muốn nói ở điểm này. Có thể thày sẽ trở lại đề tài này trong tương lai vì thày thực sự biết đây là một trong những điểm khó lãnh hội nhất trên con đường tâm linh. Nếu các con, các con yêu dấu, muốn tạo tác dụng tối đa qua hội nghị này và chuyển hóa tâm thức tập thể của nước Nga, thì thày yêu cầu con ngẫm nghĩ đề tài này trong đời sống cá nhân của con và dám cho phép mình lấy quyết định và vui chơi với cuộc đời giống như một em bé ngây thơ biết rằng em không thể bao giờ mất đi tình thương của Mẹ.

Con có tình thương của thày khắp nơi con đi. Thày sẽ không bao giờ quay lưng lại con, dù con quay lưng lại thày. Bất cứ lúc nào con cũng có thể quay lại và ôm thày. Thày sẽ hỗ trợ con vì đây là quyết định Ki-tô của thày.

18 | Liệu pháp tâm linh để khắc phục nỗi giận

Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 6 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Novosibirsk, Nga.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Thày tới đây để trao truyền cho các con một bài giảng sẽ bổ túc bài giảng của Sanat Kumara với một số khía cạnh. Nhiều người tâm linh khắp thế giới, nhiều tín đồ tôn giáo khắp thế giới, nhiều học trò chân sư thăng thiên khắp thế giới đã tạo ra một loại cơ cấu trong tâm lý kiềm giữ họ trên đường tu.

18.1. Không tránh được chuyện phản ứng với trái đất

Các thày đã nói nhiều lần là khi con xuống đầu thai trên một hành tinh giống như trái đất, không tránh được chuyện con sẽ bị lôi cuốn vào một khuôn nếp phản ứng. Con yêu dấu, cũng không tránh được chuyện con sẽ có những cảm xúc khi con gặp một số hoàn cảnh mà con không né tránh được trên trái đất, như bạo lực, chiến tranh và nhiều hình thái khác của đấu tranh và hà hiếp.

Giản dị là con hầu như không thể tránh nổi giận hay oán trách những gì con trải nghiệm trên hành tinh này. Con có thể có nhận biết rất vi tế, rất trực nhận, mà con thường không hình thành ra lời, một nhận biết cuộc sống phải như thế nào. Điều này dựa trên ý niệm của con về cuộc sống trên một hành tinh tự nhiên. Trên một hành tinh tự nhiên, nổi giận và oán trách là những cảm xúc không tự nhiên. Trên một hành tinh không tự nhiên như trái đất, nói một cách khá thẳng thắn thì nổi giận và oán trách là “tự nhiên.” Làm sao con có thể hiện thân trên một hành tinh như thế này mà không cảm thấy phần nào nổi giận hay oán trách những chuyện đang xảy ra ở đây?

Tuy nhiên, dựa trên ý niệm vi tế của một số trong các con đã tới đây với sứ vụ giải cứu (ý niệm là cuộc sống phải như thế nào trên một hành tinh tự nhiên), con thường có ý niệm là con không được nổi giận hay oán trách. Các sa nhân đã khôn khéo củng cố ý niệm này trong nhiều phong trào tôn giáo và tâm linh. Nhiều người tâm linh, kể cả nhiều đệ tử chân sư thăng thiên, có ý niệm là một người tâm linh, một đệ tử chân sư thăng thiên không bao giờ được nổi giận hay oán trách. Con yêu dấu, quyết định chấp nhận với tâm lý trí của mình ý tưởng là người đệ tử chân sư thăng thiên không được nổi giận sẽ không giải quyết được nỗi giận đã có trong thể tình cảm của con và đã tồn đọng ở đó trong nhiều kiếp sống.

Do đó thày tới đây để trao cho con một dụng cụ và một số giáo lý giúp con giải quyết vấn đề này. Trước tiên, con cần nhận ra con tới đây, con yêu dấu, để trầm mình vào tâm thức của trái đất này. Nếu chính con không trầm mình thì làm sao con làm gương cho những người đã sống sẵn trên hành tinh này, làm sao con có thể kéo họ lên khỏi tâm thức tập thể? Con thấy chăng, con yêu dấu, là những dòng sống đã ở đây lâu hơn con nhiều coi nóng giận và oán trách là điều quá tự nhiên và không thể tránh đến độ họ không thấy được trạng thái nào khác? Để con có thể phụng sự như một tấm gương, con cần phải đi vào một khuôn nếp phản ứng, con cần phải cảm thấy nóng giận và oán trách và sau đó con cần vượt lên trên chúng. Lúc ấy, con phụng sự như một tấm gương. Con không thể giúp những người này nếu con không trải nghiệm những gì họ trải nghiệm.

18.2. Kéo tâm thức tập thể lên cao

Giờ đây, con yêu dấu, các thày đã nói nhiều, nhiều lần về chuyện kéo tâm thức tập thể lên cao hơn. Làm sao con làm được điều này? Ấy, con chỉ làm được nếu con là một phần của tâm thức tập thể. Điều này hoàn toàn hợp lý phải không? Trừ khi con đi vào và trầm mình trong tâm thức tập thể, phản ứng như mọi người trên trái đất phản ứng, con không tạo được mối dây thắt chặt mình với tâm thức tập thể để có thể kéo nó lên cao một khi con bắt đầu giai đoạn tỉnh thức và bắt đầu nâng mình lên khỏi tầng tập thể.

Nếu con chưa bao giờ nối kết với tâm thức tập thể, nếu con chưa bao giờ là một phần của nó, con sẽ chỉ là người khách lạ trên trái đất. Có thể là con đã tới đây, có thể là con tránh không đi vào khuôn nếp phản ứng, có thể con mãi mãi giữ mình thanh khiết, và có thể là con nâng tâm thức của con lên tới tầng thăng thiên, nhưng làm sao cuộc sống của con thành một tấm gương được, làm sao cuộc sống của con có thể nâng tâm thức tập thể lên được?

Con thấy chăng, đây chính là điều họ đã làm đối với Giê-su và một phần lớn đối với thày, họ đã mô tả hai thày là những người rất đặc biệt ngay từ khi sinh ra, đến độ hai thày không bao giờ thật sự là một phần của tâm thức tập thể. Như thế, họ đã tìm cách bác bỏ việc hai thày là tấm gương, nhưng họ còn tìm cách lan truyền ảo tưởng là hai thày không thể nào kéo tâm thức tập thể lên cao vì hai thày chưa bao giờ là một phần của nó. Ấy, hai thày thực sự một phần của tâm thức tập thể, con yêu dấu. Hai thày đã đi vào nhị nguyên, hai thày đã phản ứng, hai thày đã ở trong một trạng thái tâm thức thấp trong nhiều kiếp sống. Sau đó, hai thày tỉnh thức chính mình và hai thày nâng mình lên các tầng cao hơn và đó là lý do tại sao hai thày đã có thể kéo tâm thức tập thể lên cao.

18.3. Dòng chảy năng lượng trong bốn thể phàm của con

Bây giờ, có thể nói điều bí mật mà thày muốn trao cho con ở đây là một số các con (đặc biệt là khi con đạt tới các tầng cao hơn và con hòa điệu được nhiều hơn, có nhiều trải nghiệm trực giác hơn) có một ý niệm (và có thể là con chưa bao giờ hình thành nó ra lời nhưng nhiều người trong các con vẫn có ý niệm đó) là trên một hành tinh tự nhiên có dòng chảy tự nhiên của năng lượng xuyên qua bốn thể phàm của con. Nói cách khác, năng lượng từ Hiện diện TA LÀ của con tuôn vào thể bản sắc, rồi vào thể lý trí, rồi vào thể tình cảm và sau đó đi tới thể vật lý.

Con yêu dấu, trên một hành tinh tự nhiên con không bao giờ trải nghiệm dòng chảy ngược lại, con không bao giờ trải nghiệm có điều gì đó ảnh hưởng con ở tầng vật lý từ đó tạo ra một đáp ứng hay phản ứng nơi thể tình cảm, rồi phản ứng này ảnh hưởng tư tưởng của con và ngay cả ý niệm bản sắc của con. Nhiều người trong các con có ý niệm là con phải có dòng chảy từ trên xuống dưới và điều này có nghĩa là con phải làm chủ bốn thể phàm của mình. Thể bản sắc phải làm chủ thể lý trí, thể lý trí phải làm chủ thể tình cảm và thể tình cảm phải làm chủ hành động của con.

Lẽ dĩ nhiên, khi con tới trái đất, sa nhân đã rất thiện nghệ trong chuyện bắt con phải chịu chấn thương nguyên thủy đó, cú sốc nguyên thủy đó, khốc liệt đến độ, gây sốc đến độ con không sao tránh khỏi chuyện có phản ứng cảm xúc. Phản ứng cảm xúc mạnh đến độ nó đi lên thể lý trí, ảnh hưởng những niềm tin của con về cuộc sống trên hành tinh này. Thậm chí nó đi vào thể bản sắc của con và ảnh hưởng tầm nhìn của con về quan hệ giữa con với hành tinh này, điều gì con có thể làm và không thể làm trên hành tinh này, điều gì con được phép làm và không được phép làm trên hành tinh này. Điều con trải nghiệm sau chấn thương nguyên thủy là một dòng chảy ngược chiều qua bốn thể phàm của con. Tầng vật lý bắt đầu ảnh hưởng cảm xúc của con, cảm xúc ảnh hưởng suy nghĩ của con, suy nghĩ ảnh hưởng ý niệm bản sắc của con – thay vì theo hướng ngược lại.

18.4. Đè nén nỗi giận

Khi con tìm thấy con đường tâm linh, con yêu dấu, con thường tới điểm mà (dựa trên những giáo lý vỏ ngoài hay trực giác của con hay cả hai thứ gom lại) con có cảm nhận là con phải làm chủ bốn thể phàm của con. Do đó, con phải có thể quyết định: “Một đệ tử chân sư thăng thiên lý tưởng là một người không bao giờ nổi giận và do đó tôi không bao giờ được nổi giận.” Sau đó, khi con thấy thể tình cảm của con phản ứng không đúng ý con, con không biết phải làm gì. Rất nhiều tín đồ tôn giáo, hay người tâm linh và đệ tử chân sư thăng thiên, đã tạo ra một lập trình trong thể lý trí được thiết kế để đè nén những cảm xúc mà họ dán nhãn là “không muốn có.”

Bây giờ thì con có, như chúng ta đã đề cập tới trước đây, một lập trình phản ứng nào đó trong thể tình cảm khiến con phản ứng với sự giận dữ trong một số tình huống. Nhưng vì con quá sức muốn là một đệ tử chân sư thăng thiên tốt, con không dám nhìn nhận điều đang xảy ra. Ngay lập tức, con tìm cách khởi động lập trình trong thể lý trí, ngay cả đôi khi một lập trình trong thể bản sắc, để đè nén cảm xúc nóng giận. Điều này có nghĩa là có một số người làm vậy giỏi đến độ họ còn không nhận ra được một cách ý thức là họ cảm thấy nóng giận khi nó xảy ra.

Lẽ dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là nỗi giận không hiện hữu trong thể tình cảm. Có nhiều người (và con có thể tìm thấy những người đó trong tất cả các phong trào tôn giáo, tất cả các phong trào tâm linh và trong tất cả các phong trào chân sư thăng thiên) trên bề mặt trông có vẻ hoàn toàn tự chủ và rất hài hòa. Họ thường nói với giọng điềm đạm, chậm rãi, có thể là một cách hơi kẻ cả như họ đang nói với trẻ con. Con có thể cảm thấy được (nếu con hòa điệu với họ) là bên dưới họ có sự căng thẳng. Trong trường hợp một số những người này, nếu con thấy được hào quang của họ, con sẽ thấy giống như một núi lửa đang phun ra trong thể tình cảm của họ và chất macma nóng bỏng là năng lượng giận dữ của họ lúc nào cũng chực tuôn tràn ra khỏi bờ của miệng núi lửa.

Một cách nào đó, họ kiềm giữ được cơn giận trong hầu hết tình huống, nhưng trong một số hoàn cảnh họ không kiềm giữ được và cơn giận có thể trào ra và họ có thể biểu lộ cơn giận đó với những người mà họ xem là dưới họ theo thứ bậc mà họ đã thiết lập. Hoặc là họ có thể tới điểm họ cảm thấy quá giận vị đạo sư, vì vị đạo sư bỏ họ đi (như đã xảy ra trong một tổ chức trước mà con biết) nên họ công khai biểu lộ cơn giận.

Bây giờ thày muốn con nhận ra (vì con đang trở thành người đệ tử chân sư thăng thiên trưởng thành hơn) là con không khắc phục được nỗi giận bằng cách đè nén nó. Con không khắc phục được bất cứ điều gì bằng cách đè nén nó. Con cần nhận ra có một thời điểm (một lần nữa một giai đoạn trên đường tu) khi đè nén nỗi giận là điều xây dựng vì nó ngăn cản con không liên tục rơi vào các khuôn nếp phản ứng cứ càng ngày càng tạo thêm năng lượng giận dữ, hay càng ngày càng củng cố thêm khuôn nếp cho phép mình phản ứng một cách giận dữ.

Trong một thời gian, đè nén cơn giận với một lập trình trong thể lý trí của con là điều cần thiết và xây dựng. Nhưng cũng sẽ tới một điểm mà nó không còn xây dựng nữa. Nếu con không thay đổi, con sẽ đi vào chỗ bế tắc vì con không thể giải thoát mình khỏi năng lượng tình cảm. Con đang kéo lê nó theo con. Ngày nào con còn giận dữ, thì con không thể đi vào tâm trạng mà các thày đã đề cập: chấp nhận con ở đây, bình an với chuyện con ở đây, cảm thấy thoải mái là con ở đây.

18.5. Một bài tập để vượt lên trên nỗi giận

Con cần tới điểm nhận ra con đã đầu thai trên một hành tinh cực kỳ khó khăn. Nó rất không tự nhiên, nhưng chính vì nó quá sức không tự nhiên, nên điều “tự nhiên” là con cảm thấy một nỗi giận và oán trách nào đó về chuyện con ở đây, chuyện con phải trải nghiệm những gì con đã trải nghiệm và không từ bỏ được nơi này khi con đã cảm thấy quá chán ngán. Như Sanat Kumara đã nói, con phải chịu quy luật ở đây và con phải bước trên con đường tu ở đây.

Thày cần con làm bài tập nhỏ này nếu con muốn vượt qua trở ngại này. Thày cần con nhận ra là con cần khám phá xem con có còn chất chứa nỗi giận hay oán trách nào trong thể tình cảm của con không. Để biết được điều này, thày đề nghị con làm bài tập sau đây.

Con đi tới chỗ nào con biết không ai nghe được con. Nếu không phải là trong nhà của con thì con cứ đi nơi khác: vào trong thiên nhiên, hay lái xe đi tới chỗ nào đó nếu con có xe. Con hãy tìm một chỗ mà không ai nghe được con, dù con hét to tới đâu chăng nữa. Sau đó, thày muốn con hòa điệu vào tâm mình và tưởng tượng con đang nhìn hành tinh này từ ngoài không gian. Sau đó, thày muốn con cho phép tâm mình đi vào một trong những biểu hiện xốn xang nhất mà con thấy được trên hành tinh này. Điều gì làm cho con xốn xang nhất, làm cho con thật sự cảm thấy nó không được có mặt ở đây? Sau đó, thày muốn con nhận ra là vì con có cảm xúc mạnh mẽ về vấn đề này, nên rất có thể con đã trải nghiệm nó trong nhiều kiếp sống và con không thể tránh cảm thấy giận dữ.

Bây giờ thày muốn con tưởng tượng con đang nói chuyện thẳng với sa nhân hay những người hiện thân đã thị hiện vấn đề này. Sau đó thày muốn con cảm thấy được tự do nói bất cứ điều gì con muốn nói với họ và nói với họ bất cứ cảm xúc nào mà con có: giận dữ, oán trách, sợ hãi – bất cứ cảm xúc nào hiện lên trong con khi con nghĩ tới vấn đề này. Thày không quan tâm là con hét to bao nhiêu, thày không quan tâm con cần biểu lộ bao nhiêu ý tưởng và tình cảm. Thày cho con tự do để biểu lộ chúng vì thày muốn con hòa điệu vào cái gì đang ẩn náu trong thể tình cảm của con. Thày không nhất thiết bảo con làm điều này trong suốt mấy giờ đồng hồ. Đây không phải là liệu pháp gào thét ban sơ (primal scream therapy), nhưng mục đích là để con chạm vào điều mà con chưa thấy ra hay chưa thấy rõ trong thể tình cảm của con.

Một khi con đã nhìn nhận nỗi giận này, thì con cũng cần nhìn nhận là con đã tiến lên một tầng nào đó trên con đường tâm linh. Do đó, con có thể chuyển đổi tâm thức và thấy đây là một phản ứng hoàn toàn tự nhiên, con yêu dấu. Không có gì sai trái với nó, không có gì không tâm linh về nó. Không ai trong chúng ta có thể hiện thân trên trái đất mà không phản ứng một cách giận dữ, thày cũng thế – không phải ở trong kiếp cuối cùng của thày như là Phật, nhưng chắc chắn thày có nổi giận trong các kiếp trước đó. Con hãy nhìn Giê-su biểu lộ sự giận dữ đối với những người đổi tiền.

Con nhận ra là con đã tiến lên một tầng cao hơn trên con đường tu. Do đó, con không cần lên án mình vì con nổi giận hay vì bất cứ cảm xúc nào khác. Con chỉ cần nhận ra con có cảm xúc đó và bây giờ đã tới lúc con vượt lên trên nó.

Con có thể dùng những dụng cụ mà các thày đã trao cho các con, các bài chú để cầu thỉnh ánh sáng, con có thể dùng các bài thỉnh các thày đã trao cho các con. Trước tiên hết, thày muốn con đọc các bài chú bảo vệ mình, đọc bài thỉnh nào con cảm thấy muốn đọc, và khi con về nhà thì con hãy tìm một nơi con có thể ngồi yên lặng và con hãy dành thời gian yên tĩnh cho mình. Sau đó, một lần nữa con hãy tiếp xúc với nỗi giận của con và làm một điều mà nhiều người trong các con chưa từng làm trước đây.

Con thấy chăng, nhiều người tâm linh dựng lên một bộ mặt họ phải như thế nào ở bên ngoài. Do đó, họ không thấy được những gì ẩn náu dưới cái biết bề mặt. Một số người còn nghĩ rằng các chân sư thăng thiên không thấy nó, nhưng lẽ dĩ nhiên, đây là một niềm tin khá ngây ngô. Con cần tới điểm nhận ra rằng các thày đã thấy những gì ẩn náu trong tiềm thức của con. Con không cần hổ thẹn khi chính con nhìn thấy nó vì con nghĩ rằng nếu con thấy nó, thì bỗng nhiên các thày thấy nó và sau đó các thày sẽ lên án con.

Đối với các thày, bí mật đã lộ ra rồi. Con không thể giấu các thày bất cứ điều gì, con yêu dấu. Như Saint Germain đã nói về xã hội giám sát, con hãy tới điểm mà con giản dị chấp nhận: “Tôi không có nhu cầu che giấu bất cứ điều gì với các chân sư thăng thiên và do đó tôi không có nhu cầu che giấu bất cứ điều gì với chính mình. Vì tôi biết các chân sư sẽ không lên án tôi, nên tôi không cần lên án chính mình. Cho nên bây giờ tôi có thể bước một bước mà hầu hết mọi người sợ không dám làm, đó là tôi nối kết với nỗi giận, và thay vì không muốn nhìn nó, trốn chạy xa khỏi nó, che lấp nó đi, thì tôi có thể nhìn nhận nó có mặt và tôi có thể đi thẳng vào trong nó.”

18.6. Đối mặt với nỗi giận của con

Con từng nghe câu nói là cách duy nhất để khắc phục nỗi sợ là đối mặt với nỗi sợ. Con không thể làm điều này ở các tầng thấp trên đường tu vì con có thể chìm đắm trong cơn giận, con có thể bị choáng ngợp bởi nó vì con có thể còn đồng hóa mình quá nhiều với nó. Các con nào ở tầng cao hơn, sẵn sàng đón nhận lời dạy này, thì các con có thể làm được.

Con có thể bước vào cơn giận và trải nghiệm đứng giữa vũng nước xoáy của cơn giận. Sau đó, con có thể nối kết một cách ý thức với điều mà các thày gọi là nhân tính cơ bản của con. Nó thật sự là sự liên tục của bản thể con, là phần của bản thể của con vượt lên trên mọi thứ trên trái đất và không thể bị quy định bởi bất cứ điều gì trên trái đất. Nhân tính cơ bản này đã giúp cho một số người trong các trại tập trung duy trì phần nào ý niệm nhân bản của họ giúp họ tồn tại về mặt tâm lý và ngay cả có một cuộc sống tích cực sau đó. Con có thể nhận ra là bên trên nỗi giận là nhân tính cơ bản của con. Nó không bị thay đổi bởi nỗi giận và do đó con có thể nhìn vào cơn giận và nhận ra: “Đây không phải là tôi. Nó còn không phải là nỗi giận của tôi, nó là phản ứng của tự ngã của tôi.” Một lần nữa, phản ứng của con là chuyện tự nhiên, nhưng bây giờ con thấy là con đã tiến lên một ý niệm bản sắc cao hơn trong đó con không cần phản ứng như vậy nữa. Con thật sự có thể “buông bỏ” nó.

18.7. Thiết lập dòng chảy năng lượng tự nhiên

Con yêu dấu, thày đã nói là trên hành tinh trái đất, dòng chảy năng lượng có thể đi ngược chiều qua bốn thể phàm. Sa nhân có thể ép con vào những tình huống vật chất tạo phản ứng tình cảm đi ngược lên tầng bản sắc. Những phản ứng này đã không ảnh hưởng cái Ta Biết của con. Khi con nối kết với nhân tính cơ bản, với nhận biết thuần khiết, với ý niệm bản sắc như cái chấm, thì con có thể giải hóa nó. Một khi con giải hóa nó, thì sự xâm nhập của sa nhân vào bốn thể phàm của con bị tan biến.

Họ không còn có thể ép con phản ứng ở tầng vật lý từ đó đi ngược lên ba thể cao. Con vẫn có thể gặp những cảnh huống hay vẫn có thể phải đối đầu với một số điều kiện ảnh hưởng người khác, nhưng con có thể né tránh dòng chảy năng lượng đi ngược lên (khi con chứng kiến chuyện xảy ra trên trái đất hay trải nghiệm nó), dòng chảy này đi lên thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Thay vào đó, con có thể tái lập dòng chảy tự nhiên qua đó con làm chủ thể bản sắc, con làm chủ thể lý trí, con làm chủ thể tình cảm.

Bất kể điều gì xảy ra ở tầng vật lý, con có thể quyết định một cách ý thức sẽ phản ứng ra sao. Đây là quả vị Phật, đây cũng là những tầng cao của quả vị Ki-tô. Ở các tầng thấp của quả vị Ki-tô, con chưa làm được chuyện này. Khi con lên cao hơn, con cần tới điểm con sẵn sàng nhìn nhận những cảm xúc con có và con sẵn sàng xem xét với tâm trung hòa bất cứ cảm xúc nào trong thể tình cảm. Sau đó con cần khắc phục chúng và bỏ chúng lại đằng sau vì chỉ lúc đó con mới tránh không bị dòng năng lượng chảy ngược. Con có thể tái lập lại dòng chảy năng lượng tự nhiên cho phép con chọn một cách ý thức phản ứng của mình trước bất cứ điều kiện hay hoàn cảnh vật lý nào. 

Điều này có nghĩa là con có thể một cách ý thức chọn phản ứng với tình thương, ngay cả trong những hoàn cảnh mà hầu hết mọi người khác phản ứng với sợ hãi. Đây là cách con hoàn thành mục tiêu cao nhất của con khi con xuống đây, đây là cách con làm gương, đây là cách con kéo tâm thức tập thể lên. Dù con đã kéo mình lên khỏi tâm thức tập thể, con vẫn còn một cảm nhận nào đó, một ký ức nào đó, một sự kết nối nào đó với nó. Đây không phải là loại kết nối áp đảo con mà là loại kết nối cho phép con kéo tâm thức tập thể lên. Có thể nói, con là sợi thớ trong tấm thảm và khi con kéo mình lên, con kéo toàn thể tấm thảm lên theo.

Con yêu dấu, đây là tầm nhìn cao của việc áp dụng giáo lý của Sanat Kumara và của các thày khác để con tới được điểm con biết tại sao con ở đây và con biết con đang hoàn thành lý do vì sao con ở đây. Con bình an với chuyện con ở đây, con chấp nhận con đang đầu thai trên hành tinh này ở thời điểm này. Do đó, con cảm thấy thoải mái với chính mình nhưng hơn thế nữa, con cảm điều mà Phật cảm về Phật. Cảm nhận này vượt lên trên ngôn từ, vượt lên trên an bình, vượt lên trên sự tốt lành, vượt lên trên tình thương. Đây là một cảm nhận không cần mô tả thành lời, nhưng con có thể có cảm nhận này. Khi con có nó, con sẽ hiểu tại sao nó vượt lên trên ngôn từ.

Con yêu dấu, thày cũng gửi lòng biết ơn tới rất đông các con đã tới dự hội nghị này và sẵn sàng nâng cao tâm thức mình. Do đó, thày như là một vị Phật mà thày là, được hân hạnh và hân hoan niêm tất cả các con, từng cá nhân các con một, và thày niêm hội nghị này trong trái tim và sự an bình của Phật mà thày là. TA LÀ Gautama.

29 | An bình trên con đường tâm linh

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama ngày 4 tháng 6, 2017, qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Nhưng điều này có nghĩa là gì? Thế nào là một chân sư thăng thiên? Thế nào là Phật? Có biết bao sự hiểu lầm được lan truyền trong tâm thức tập thể đến độ, như Giê-su vừa nói lên thật hùng hồn, các thày liên tục phải đối mặt với tình thế khó xử là làm thế nào đâm xuyên qua phin lọc nhận thức của mọi người và trao cho con một số ý tưởng, một sự thôi thúc nào đó giúp con bước lên mức kế tiếp.

29.1. Vì sao các tôn giáo hạ thấp trải nghiệm sống

Các thày còn đối mặt với một thử thách khác nữa, một thử thách dài hạn hơn. Như con thấy khi con nhìn lịch sử, các thày đã có thể, như chính thày từng làm 2500 năm về trước, trao truyền một lời dạy có khả năng lan rộng, thu hút nhiều người và tác động đáng kể đến cuộc sống cá nhân của nhiều người lẫn xã hội. Sau một thời gian, điều không thể tránh được – hoặc có vẻ như thế – là phong trào này chuyển mình thành một tôn giáo có giáo điều hẳn hoi, thế là bỗng nhiên sự tăng trưởng đạt được ở khởi đầu bị chậm lại, thậm chí còn có thể ngừng hẳn. Sự thể có thể biến thành tiêu cực khi nguyên một tôn giáo tạo ra một vòng xoắn ốc hướng hạ, với kết quả là rốt cuộc nó kéo mọi người đi xuống, đi xuống mãi những tầng mức ngày càng thấp hơn.

Bây giờ con yêu dấu, nếu chúng ta áp dụng phương pháp mà các thày đã trao cho các con trong hội nghị này để lượng xem mình đang cảm thấy thế nào về chính mình, chúng ta sẽ có thể có một cái nhìn khác hơn về tôn giáo. Lẽ tự nhiên khi các thày bảo: “Con cảm thấy thế nào về chính mình?” thì các thày không chỉ muốn nói là con cảm thấy ra sao trong thể cảm xúc của mình. Các thày muốn nói con nhìn mình như thế nào, nhìn đời mình, nhìn thế giới, nhìn bất kỳ vị thượng đế nào mà con thấy, nói chung là con trải nghiệm cuộc sống như thế nào. Trải nghiệm sống của con là gì, như các thày đã có nói? Nếu con áp dụng sự lượng định này thì con nói: “Lý tưởng thì người ta nên cảm thấy hài lòng về bản thân và cuộc sống của mình, người ta nên có một trải nghiệm sống tích cực.”

Bây giờ nếu con yêu cầu tín đồ các tôn giáo lớn trên địa cầu hãy xem xét thật trung thực câu hỏi đó, con sẽ thấy tuyệt đại đa số tín đồ của tất cả các tôn giáo lớn trên địa cầu thật ra không cảm thấy hài lòng về chính họ. Họ không đang có một trải nghiệm sống tích cực. Và nếu sau đó con xem xét tôn giáo của họ tác động nhiều hay ít trên trải nghiệm sống của họ, con sẽ thấy là hầu hết tín đồ các tôn giáo lớn đang bị chính tôn giáo mình ảnh hưởng tiêu cực đến trải nghiệm sống của mình.

Nếu con có thể mở rộng nghiên cứu này để nhìn xem sự thể này có như vậy hay không cách đây 50 năm, 100 năm, 500 năm về trước, con sẽ thấy là tất cả mọi tôn giáo lớn trên trái đất đã có một sự suy giảm trên thực tế. Ngày nay, tín đồ các tôn giáo này đang có một trải nghiệm sống kém hơn, tiêu cực hơn các tín đồ của cùng tôn giáo đó cách đây 200 hay 500 năm. Nếu con có thể chứng minh điều này qua thống kê khoa học thì câu hỏi được đặt ra là tại sao như vậy? Tại sao tác dụng của tôn giáo lại dẫn đến một trải nghiệm sống thấp hơn cho các tín đồ? Tại sao lại có suy giảm?

Tất nhiên lời giải thích sẽ gồm có nhiều mặt, nhưng chúng ta có thể nói, như Saint Germain và các chân sư khác cũng đã nói, là trong 2000 năm qua hoặc hơn nữa, lịch sử cho thấy là tâm thức tập thể đã nâng lên cao hơn. Con có thể nói là cho mỗi thời đại đều có một mức nhận biết tập thể nào đó. Điều này có nghĩa là chỉ một số ít người sẽ có được một trải nghiệm sống tích cực hơn những gì được định nghĩa bởi nhận biết tập thể. Một người trung bình vào thời đó sẽ có một trải nghiệm sống ở mức tương đương với tâm thức tập thể.

29.2. Trải nghiệm sống và thời đại của con

Vậy thì tâm thức tập thể 500 năm về trước thấp hơn bây giờ, nhưng không nhất thiết điều này có nghĩa là con người thời đó có một trải nghiệm sống kém hơn một số người ngày nay, mà có nghĩa là tiềm năng để có một trải nghiệm sống tích cực có thể đã thấp hơn. Nhưng dẫu vậy, trải nghiệm sống là một cái gì rất phức tạp. Thật ra chúng ta có thể nói là nếu con sống 500 năm về trước ở châu Âu chẳng hạn, con có thể nhìn vào đó và so sánh với các chuẩn mực ngày nay, thì đa số đều có một mức sống vật chất thấp hơn rất nhiều. Họ có ít tự do hơn, họ gặp nhiều hạn chế khác mà ngày nay không có. Cho nên con có thể nghĩ là không có cách nào họ có thể mãn nguyện hơn về cuộc sống của họ. Nhưng con thấy đó, thực tế là ở bất kỳ thời đại nào, nếu con song hành với tâm thức tập thể lúc đó, và nếu con có một thế giới quan khiến mình cảm thấy là mọi chuyện đúng như mình có thể chờ đợi và không thể tốt hơn được, thì kỳ thực con có thể có một trải nghiệm sống khá tích cực và tương đối thoải mái bởi vì con không biết gì khác hơn.

Người sống 500 năm về trước không biết gì về mức sống vật chất mà con có ngày hôm nay. Điều thày muốn chỉ ra là 500 năm về trước, tâm thức tập thể ở một mức nào đó, và đã có nhiều tín đồ Phật giáo, Cơ đốc giáo, Hồi giáo sử dụng tôn giáo của mình để tạo dựng một thế giới quan cho mình một cảm giác an bình tương đối nào đó trong tình trạng thế giới và tình trạng đời sống của họ bấy giờ. Vì vậy họ đã có một trải nghiệm sống cũng tích cực như một người bình thường có thể có vào thời điểm đó. Họ song hành với thời đại của họ. Ngày nay con có một mức tâm thức tập thể cao hơn, nghĩa là một người trung bình có tiềm năng có được một trải nghiệm sống cao hơn, tích cực hơn, an bình hơn với con người mà họ là, trong thời đại họ đang sống.

Tuy nhiên, các thày đã chỉ ra điều gì, và chắc chắn chính con cũng có thể nhìn ra điều gì trong xã hội? Tỷ lệ mắc bệnh tâm thần và trầm cảm càng ngày càng gia tăng. Càng ngày càng có nhiều người – mặc dù họ sống ở những quốc gia cực kỳ văn minh giáu có với tự do và nhân quyền tuyệt vời – đã trở nên bất mãn với vị thế của họ trong cuộc sống. Điều này dẫn đến kết luận giản dị là ngày nay, một người trung bình không đang song hành với mức tâm thức của tập thể. Một người trung bình đang không có một trải nghiệm sống tích cực như những gì bình thường họ phải có dựa trên mức tâm thức tập thể.  

Vậy con có thể nhìn xem lý do tại sao như thế. Con sẽ thấy là trong mỗi trường hợp, cho mỗi con người bị tụt hậu so với trải nghiệm sống mà họ có tiềm năng đạt được – đại khái một mức trung bình – thì tôn giáo là một yếu tố chủ yếu đã kéo họ xuống thấp hơn trung bình. Có thể con sẽ bảo là ở đây tại Âu châu, nhiều người không có cả tín ngưỡng tôn giáo, nhưng thày sẽ nói: “Hiển nhiên là họ có tín ngưỡng. Họ chỉ không theo một trong những tôn giáo truyền thống đó thôi.” Con không thể sống mà không có “tín ngưỡng tôn giáo.” Con phải có một thế giới quan nào đó cho con cảm tưởng thế giới này vận hành ra sao, con là ai, con là loại sinh thể gì, và con ăn khớp thế nào trong bối cảnh rộng lớn đó. Con không thể sống mà không có cái đó – ít ra nếu con không đang ở trong viện tâm thần, mặc dù có lẽ chúng ta có thể liệt lại một số viện đại học lớn là viện tâm thần, cùng với một số “think tank” chính trị, một số tập đoàn doanh nghiệp lớn, nhưng chuyện này chúng ta không cần bàn đến bây giờ.

29.3. Trải nghiệm sống và thế giới quan của con

Vấn đề ở đây là một người trung bình thời nay đang không có một trải nghiệm sống tích cực như họ có thể có, và lý do là vì các tín ngưỡng của họ đang kéo họ xuống. Tín ngưỡng tôn giáo của họ – hay tín ngưỡng vô thần hay duy vật của họ, vì đó vẫn là tín ngưỡng tôn giáo – thật ra đã lạc hậu, đã tụt hậu so với bước tiến của thời đại. Đã có một sự nâng cao nhận biết tập thể, có nghĩa là hầu hết mọi người đúng lý đã phải thăng vượt cái thế giới quan dựa trên đạo Phật truyền thống, đạo Cơ đốc truyền thống hay chủ nghĩa duy vật khoa học. Nói cách khác, rất nhiều người hơn lẽ ra đã phải chấp nhận một thế giới quan phổ quát hơn hẳn, thần bí hơn hẳn, mà chính các con đây cho là đương nhiên vì từ lâu các con đã tu tập theo giáo lý tâm linh hay giáo lý của chân sư thăng thiên, đến độ các con đã thể nhập thế giới quan này vào bản thể mình từ rất lâu. Thực tế là thế giới quan của hầu hết mọi người đang tụt hậu so với mức nhận biết tập thể, và đây là tại sao họ không đang có trải nghiệm sống tích cực mà lẽ ra họ phải có.

Con yêu dấu, đây không phải là chuyện khiến cho mọi người chấp nhận giáo lý của chân sư thăng thiên, mà là chuyện giúp họ chấp nhận điều mà Saint Germain đã giải thích cho các con tối qua. Đó là những ý tưởng phổ quát về tiềm năng nâng cao tâm thức, có nghĩa là giờ đây con có một chí hướng trong đời. Con hãy nhìn xem các nước giàu có ở châu Âu, nhìn sự trù phú vật chất, nhìn các quyền tự do và những cơ hội mà mọi người đều có. Xong con hãy nhìn sang những vùng khác trên thế giới, thì làm sao con có thể đi đến kết luận nào khác hơn là hầu hết mọi người ở châu Âu đang hành xử như những đứa trẻ được nuông chiều quá độ, không bao giờ thấy đủ, không thế nào cảm thấy hạnh phúc trong khi đang có tất cả những gì họ có thể mong muốn?

À con có thể đi đến một kết luận khác nữa, cụ thể vấn đề ở đây là sự kiện những người này, với tất sự giàu có, tất cả quyền tự do, tất cả những cơ hội mà họ có, họ vẫn không thể sử dụng được vì họ không có chí hướng trong đời. Họ không có ý niệm là cuộc sống của mình có thể đi theo một hướng tốt đẹp hơn, để họ cảm thấy ngày càng an lạc hơn về chính mình.

Con thấy đó, con yêu dấu, điều thày muốn chỉ ra qua ví dụ của thày về con người 500 năm trước cảm thấy thế nào về bản thân, là họ dễ tìm hơn một thế giới quan giúp họ an bình với thời đại của họ, giúp họ cảm thấy là họ sống trong một thế giới không đến nỗi nào, và có lẽ thế giới này không thể nào tốt hơn được. Có lẽ sau kiếp này họ sẽ có một cuộc sống khá hơn trên thiên đàng vì họ đã là những con chiên ngoan đạo hay bất kể gì khác. Con có thể nhìn ngược về quá khứ và bảo rằng đó là một thế giới quan khá thô sơ, và thày không bất đồng với con. Nhưng con thấy không, thế giới quan đó đi song hành với thời đại của họ, song hành với mức tâm thức của tập thể, cho nên người ta không cần phần tìm kiếm một thế giới quan cao siêu hơn để cảm thấy an bình và hưởng một trải nghiệm sống tốt đẹp.

Ngày nay tâm thức tập thể cao hơn vậy rất nhiều, đến độ nó đòi hỏi con người phải đạt được một thế giới quan tinh xảo hơn hầu có thể cảm thấy an bình với thời đại của mình và nâng cao trải nghiệm sống của mình. Đó là tại sao quá nhiều người không an bình cho dù mọi nhu cầu vật chất của họ được thỏa mãn thừa thãi. Vì họ đã vượt quá mức tập trung vào các nhu cầu vật chất, nên họ phải tập trung vào các nhu cầu tự hiện thực hóa (self-actualization) là nâng cao tâm thức. Nhưng vì họ không đang làm chuyện này, nên họ không thể cảm thấy mãn nguyện. Và tại sao họ không thể làm chuyện này? Bởi vì tín ngưỡng tôn giáo của họ đang kềm giữ họ trong cái hộp tư duy đã trở nên lỗi thời từ mấy thập kỷ qua. Cho dù đó là đạo Thiên Chúa, đạo Phật, đạo Hồi hay đạo chủ nghĩa duy vật, tất cả đều đang ngăn cản con người nâng cao thế giới quan của mình và nhờ vậy nâng cao trải nghiệm sống của mình. Lẽ tự nhiên, các thày mong muốn nhìn thấy mọi người nâng cao trải nghiệm sống của mình, cảm thấy an lạc về bản thân mình, cảm thấy hài lòng về thế giới, và nhận ra là mình đang sống trong một vũ trụ thân thiện.

29.4. Điều kiện vật chất tốt hơn, điều kiện tinh thần tệ hơn

Con yêu dấu, chẳng trớ trêu hay sao khi tất cả những nước giàu có, đặc biệt là Hoa Kỳ, càng ngày càng có nhiều người tin vào các loại thuyết âm mưu (conspiracy theories) hay các lời tiên tri tiêu cực cho họ cảm tưởng là tình trạng thế giới chưa bao giờ tồi tệ đến thế này và một thảm họa khủng khiếp sắp sửa xảy đến? Thế nhưng đó là những người đang sống trong một môi trường với nhiều tự do cá nhân, nhiều của cải cá nhân hơn bất ký thế hệ nào đi trước. Làm thế nào họ có điều kiện vật chất tốt hơn nhưng điều kiện tinh thần của họ lại tồi tệ hơn?

Có một sự trớ trêu mà nhiều người phải có thể nhìn thấy, phải có thể nhìn thấy với một chút thúc đẩy, một chút lôi kéo trên tâm thức tập thể. Theo nghĩa là, như Mẹ Mary vừa nói, chỉ cần một số khá ít học trò của chân sư thăng thiên để tạo tác dụng lớn lao đến xã hội trong một số trường hợp. Tác động con có thể có là tạo ra một sự xoay chuyển rất tinh tế, mà Saint Germain đã có nói đến, qua đó con người bắt đầu bớt chú tâm vào các vấn đề mà chú tâm nhiều hơn vào các khả năng. Điều này sẽ lần hồi kéo con người của thời đại hôm nay ra khỏi vòng xoắn ốc tiêu cực, để họ nhìn vào sự kiện họ chính là những người cần bắt đầu xem xét tâm thức của mình, học hỏi cách vận hành của tâm hồn (psyche), học hỏi tiềm năng của tâm thức, rồi áp dụng để nâng cao mức tâm thức và nhờ vậy cũng nâng cao trải nghiệm sống của mình.

Tất nhiên, một người sẽ cần gì để làm vậy? À, sẽ tới một điểm người đó phải lấy một quyết định ý thức là mình sẵn lòng xoay chuyển từ sự tập trung vào tiêu cực sang tập trung vào tích cực, từ sự chú tâm vào các vấn đề sang chú tâm vào các khả năng. Đây là một quyết định mà con phải lấy, và chừng nào con chưa lấy quyết định ý thức này, con sẽ không thực sự neo trụ vào một vòng xoắn ốc tích cực, con không thực sự neo trụ vào con đường quả vị Ki-tô.

Một lần nữa, con yêu dấu, có người vừa hỏi sứ giả này về ý nghĩa và giá trị của 14 chặng đường thập tự giá mà Giáo hội Công giáo đã định nghĩa, qua đó nỗi thương khó của Giê-su được trải bày ra cho đến điểm Giê-su bị đóng đinh. Con thấy không, cách đây 2000 năm, đau khổ là một khía cạnh cần thiết của con đường quả vị Ki-tô. Ngày nay, tâm thức tập thể đã được nâng cao đến độ thật không cần phải khổ đau để có thể bước chân trên con đường quả vị Ki-tô. Một số người có thể vẫn cần đến cách đó, nhưng đối với những ai đã sẵn lòng xoay chuyển tâm mình để tập trung vào các khả năng thì việc này không cần thiết nữa.

29.5. Những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô và quả vị Phật

Con yếu dấu, là học trò của chân sư thăng thiên, tất nhiên con có thể thực hiện một cuộc xoay chuyển chủ yếu bằng cách làm điều Giê-su đã giải thích qua việc chuyển đổi cách vận hành thường lệ của mình (modus operandi). Con xoay chuyển bằng cách tự hỏi: “Tôi đang sống trong một vũ trụ thân thiện hay thù địch? Tôi đang có thày tâm linh thân thiện hay thù địch? Tôi đang sống trong một cơ thể vật lý thân thiện hay thù địch?” Một số các con sẽ được lợi lạc nhận ra một điều đơn giản: “Đâu là mục đích của quả vị Ki-tô? Đâu là mục đích của quả vị Phật – tức là bước cao hơn quả vị Ki-tô một chút?” Chắc chắn con có thể thấy được mục đích quả vị Phật là để đạt được tâm an bình. Thật ra đây cũng là mục đích của quả vị Ki-tô, nhưng chỉ đạt được ở những tầng cao hơn.

Không phải là các thày muốn tỏ ra tuyến tính đến như vậy, nhưng nếu con nhìn 144 tầng tâm thức, con có thể nói là con có một số yếu tố của con đường quả vị Ki-tô từ tầng 48 trở lên. Con sẽ xoay chuyển một cách chủ yếu khi con thực sự neo trụ vào con đường quả vị Ki-tô sau tầng 96, là khi con quyết định phụng sự một cái gì lớn hơn chính mình. Sau đó con sẽ tiếp tục vươn lên nữa đến nhiều tầng khác nhau của quả vị Ki-tô cho đến khi con lên đến khoảng tầng 136 – không hoàn toàn đường thẳng như vậy, nhưng đâu đó chung quanh tầng này. Rồi đến các tầng cao hơn có thể được xem là con đường quả vị Phật. Thật không nhất thiết phải tuyến tính như vậy khi nói về quả vị Ki-tô hay quả vị Phật, vì cả hai không có gì xung khắc hay loại trừ lẫn nhau. Con có thể bước trên con đường quả vị Phật từ tầng 96 trở đi và có được một số yếu tố nào đó. Và con có thể có một số yếu tố của quả vị Ki-tô với con cho đến tầng 144.

Dù sao đi nữa, sẽ tới một điểm con bắt đầu chuyển tiếp và con tập trung vào tâm thức Phật nhiều hơn vào tâm thức Ki-tô, vào các khai ngộ của Phật hơn là khai ngộ của Ki-tô. Tất nhiên, đây là tại sao thày đã đưa ra những bài truyền đọc này thay vì để cho Giê-su và con đường quả vị Ki-tô là con đường duy nhất được các thày mô tả. Sẽ tới một điểm con có thể được lợi lạc khi tự hỏi: “Đâu là mục đích của đường tu? Đó là tâm an bình. Thế nào là quả vị Phật? Là tâm an bình. Vậy thì phải cần gì để đạt đến quả vị Phật?” Phải cần con vượt tất cả mọi dính mắc của mình.

Khi đó con có thể bắt đầu xem xét những gì níu kéo mình xa khỏi tâm an bình và con tháo gỡ những dính mắc này đi. Các thày đã trao giáo lý cho con về điểm này rồi và thày không muốn bàn sâu thêm ở đây. Đó là điều con cần lưu ý khi con là học trò của chân sư thăng thiên, khi con đã bước chân trên đường tu được một thời gian, thì mục tiêu tự nhiên mà con thấy là đạt được tâm an bình. Và con cũng có thể nói, làm thế nào rốt cuộc tôi có thể cảm thấy bằng lòng về chính mình và về thế giới nếu tôi không có tâm an bình?

29.6. Tâm an bình là gì?

Có tâm an bình nghĩa là gì? Nghĩa là hòa thuận với chính mình, ở một nơi thôi. Nghĩa là chỉ có một tâm trong đầu mình hay trong trường năng lượng của mình. Nếu có những phân rẽ trong tâm đang lôi kéo con về những hướng khác nhau, nếu con có những phàm linh nội tại đang giao chiến với nhau, thì con không thể có tâm an bình. Nói cho cùng, con sẽ không cảm thấy bằng lòng với chính con nếu con không an bình với chính con, không an bình với thế giới, với cơ thể vật lý của con, với các thày tâm linh của con.

Lẽ tự nhiên, con yêu dấu, các thày đều muốn thấy con tiến bộ trên đường tu. Nhiều người trong các con đã đi theo mô thức là con tìm thấy đường tu tâm linh, tìm thấy giáo lý của các chân sư thăng thiên, con trở nên vô cùng háo hức, vô cùng quyết tâm đạt được tiến bộ, thực hành giáo lý, tu học giáo lý, tìm hiểu giáo lý, đọc chú đọc thỉnh, giải quyết tâm lý của mình. Con đã trở nên vô cùng quyết chí. Các thày hoàn toàn tán thưởng các nỗ lực này của con. Đôi khi con có thể hơi mất cân bằng, và sẽ hữu ích hơn nếu con có thể quay về cân bằng. Nhưng các thày tán thưởng con đã sẵn lòng đem đường tu vào thực hành.

Tuy nhiên như các thày đã nói, ngay cả khái niệm đường tu cũng có thể trở thành một trở ngại vì nó ngụ ý là con vẫn chưa đến. Sẽ tới một điểm trên đường tu khi điều sáng giá cho con là con công nhận mình đã có tiến bộ và do đó mình phải gần hơn với mức đến. Thật ra có lẽ con đã tới điểm mà điều duy nhất ngăn cản con đến là con không thể chấp nhận một cách ý thức là con đã đến rồi, bởi vì con quá chú tâm vào việc đi bước kế tiếp trên đường tu.

Một số các con đã hoãn lại quả vị Ki-tô của mình, hoãn lại quả vị Phật của mình, vì con không sẵn lòng lùi lại để nhìn: “Liệu tôi có tâm an bình hay không, liệu tôi có an bình với việc mình là học trò của chân sư thăng thiên đang bước trên đường tu tâm linh? Liệu tôi có an bình với mức chứng đạt của mình trên đường tu? Liệu tôi có an bình với sự kiện mình đang hiện thân vật lý, sinh sống trong thế giới nơi mình đang sống? Nếu tôi không an bình thì cái gì đang kéo tôi ra khỏi sự an bình?” Trong nhiều trường hợp, tất nhiên là có thể có một số vấn đề tâm lý, nhưng cũng có những trường hợp khi điều duy nhất thực sự ngăn cản con an bình là con lấy điều đó làm mục tiêu mới của con. Con thực hiện những xoay chuyển tâm thức sẽ cho phép con nhìn nhận là quả thực con đã đạt đến một mức trên đường tu nơi con có tiềm năng an bình, và con chỉ cần xoay tâm thức để đạt an bình.

Điều này không có nghĩa, con yêu dấu, là con nghĩ giờ đây mình đã đến một tầng mức tối hậu nào đó và con đã hội đủ tư cách thăng thiên, và do đó con đã giác ngộ và con không cần phải thay đổi gì nữa, con không cần tăng trưởng thêm nữa. Mà điều này có nghĩa là thay vì nỗ lực một cách quá háo hức, luôn luôn cảm thấy mục tiêu cứ ở phía trước mình, thì bây giờ con an bình là mình đang bước trên đường tu, an bình là mình đang ở đây trên đường tu nhưng không ngừng tiến lên những tầng cao hơn. Đây chỉ là một xoay chuyển nhỏ trong tâm thức để con an bình với việc đi trên đường tu, mặc dù con vẫn chưa đến nơi mục tiêu tối hậu vì con chưa thăng thiên.

29.7. Không có mức tâm thức tối hậu

Con yêu dấu, rõ ràng là con cần một mục tiêu để tranh thủ hầu có thể tiến bộ. Những ai không có mục tiêu để hướng đến sẽ tiến bộ khó khăn hơn nhiều. Nhưng thày có thể nói với con là có những người trên trái đất, trong nhiều trường hợp đã tự xưng mình là đạo sư tâm linh hay đã là đệ tử tâm linh suốt nhiều năm trời, giờ đây mắc vào tâm trạng cảm thấy là mình đã đạt đến một mức tâm thức tối thượng nào đó. Họ ở trong tâm thức vũ trụ, họ đã chứng được tâm thức Ki-tô, họ đã giác ngộ, họ là chân sư thăng thiên chưa thăng thiên hay bất cứ gì khác.

Ngay khi con nghĩ là con đã đạt được một trạng thái tối thượng trong khi vẫn còn hiện thân vật lý, thì con đã ngừng tiến tới. Con không cởi mở với khả năng là vẫn còn điều gì trong tâm lý mà mình cần phải xem xét và thăng vượt, hay vẫn còn những tầng tâm thức cao hơn hay những mức phụng sự cao hơn. Quả là có một số phong trào tâm linh với một đạo sư được xem là bậc giác ngộ, và đạo sự này thì không đang tăng trưởng, còn trong số các đệ tử thì nhiều người cũng không đang tăng trưởng.

Ở đây có điểm tương đồng với các tôn giáo truyền thống, tuy không có một đạo sư tự xưng là giác ngộ, nhưng có một giáo hoàng chẳng hạn tự nhận mình là Đại diện của Ki-tô. Vị ấy không đang tăng trưởng cũng y như các tín đồ, và đây là lý do vì sao họ lại tụt hậu càng ngày càng xa, vì sao họ càng ngày càng bất toại nguyện. Nếu con nhìn một cách trung thực, tại sao lại có quá nhiều người như vậy rời bỏ tôn giáo truyền thống? Đó là vì mặc dù họ không nhận biết ý thức, họ có cảm giác là tôn giáo thật sự đang hạn chế trải nghiệm sống của họ, ngăn cản họ có được một trải nghiệm sống tích cực hơn. Trong các tôn giáo truyền thống, cả trong nhiều phong trào Thời Mới và những phong trào nhỏ hơn, con cũng thấy rất, rất nhiều người không đang tăng trưởng. Họ cảm thấy một sự căng thẳng càng ngày càng gia tăng vì họ không đang tăng trưởng mà lại không chịu nhìn xem lý do tại sao mình không tăng trưởng.

Họ không chịu nhìn nhận là có sự giới hạn trong giáo lý mà họ đang theo, hay ít ra trong cách họ áp dụng giáo lý. Cho nên nỗi căng thẳng cứ lớn thêm và lớn mãi, với kết quả là họ cảm thấy ngày càng bất mãn với bản thân. Họ không đang theo kịp tiềm năng thực sự của thời đại nơi họ sinh sống – cụ thể là mọi người sinh sống trong một vùng tương đối giàu có của địa cầu và nhờ vậy không phải lo lắng đến các điều kiện vật chất, đều có tiềm năng cảm thấy bằng lòng về chính mình, cảm thấy an bình về con người mình là, ở ngay đây trong thời gian lẫn không gian.

29.8. Đường tu không cần phải khó khăn

Như thày vừa nói, trong mỗi thời đại, những ai song hành với tầng mức tâm thức của tập thể, ngay cả khi họ là người trung bình, cũng có khả năng cảm thấy an bình. Con có thể nhìn vào chính mình như một học trò của chân sư thăng thiên và tự hỏi, nếu con không cảm thấy bằng lòng về bản thân, về việc mình đang đầu thai và đứng đâu trong cuộc sống, nếu con không an bình thì liệu có điều gì trong tôn giáo của con, hay ít ra trong cái nhìn của con về tôn giáo đó, trong cách vận hành thường lệ của con, trong cách con tiếp cận các chân sư thăng thiên và các vị thày, đang hạn chế cảm giác bằng lòng này về mình, hạn chế trải nghiệm sống của mình? Và nếu con làm theo những gì Giê-su vừa hướng dẫn, con có khả năng rất, rất nhanh chóng nhận diện cái đó là gì, con thăng vượt cái đó và nâng cao trải nghiệm của mình trên đường tu lên một tầm mức hoàn toàn mới.

Tại sao con lại cho phép mình nghĩ rằng các chân sư thăng thiên muốn đường tu của con gian nan, căng thẳng, đầy bực dọc khắc khoải? Tại sao con lại nghĩ đến chuyện các thày muốn con phải chịu đau khổ trên đường tâm linh? Lý do chỉ có thể là con đang bám víu một hình ảnh lỗi thời về Thượng đế và các vị thày tâm linh, như Giê-su đã giải thích. Con yêu dấu, con có thấy được là con chỉ cần chuyển nhẹ cái nhìn của mình đi một chút để đạt đến mức an bình về con người mình là? Con an bình với mức chứng đạt hiện thời của con trên đường tu, và con không tự dằn vặt vì mình không đang ở một mức cao hơn.

Con an bình với hoàn cảnh vỏ ngoài của con, với việc mình là một người tâm linh trong một xã hội phi tâm linh, phải sống trong thời đại con đang sống. Con an bình với sự thể này vì con tập trung vào những cơ hội tăng trưởng cá nhân lẫn giúp đỡ người khác. Điều này có nghĩa là trong phần còn lại của kiếp này, con có thể vui hưởng cuộc sống, vui hưởng những bước mình đi trên đường tu tâm linh. Thày cam đoan với con là khi con đến được điểm đó ở những tầng cao của quả vị Ki-tô và quả vị Phật, bước tiến của con kỳ thực sẽ nhanh hơn.

Tất nhiên các thày cũng biết, như Giê-su đã nói, các thày không thể nào nâng con lên quá phin lọc nhận thức của con. Thày biết là mỗi con đang nghe lời dạy này, hay sẽ nghe và sẽ đọc sau đó, mỗi người trong các con đều có phin lọc nhận thức riêng của mình. Thày có thể thâm nhập vào đó đôi chút, thày có thể thúc con lên cao hơn một chút. Nhưng thày không thể thúc con vượt lên trên nơi con sẵn lòng đi đến. Thày hoàn toàn chấp nhận điều này. Thày hoàn toàn tôn trọng quyền của con được đứng ở nơi con đang đứng. Thày hoàn toàn tôn trọng quyền của con tiếp tục vật lộn trên con đường tâm linh nếu đó là trải nghiệm con mong muốn. Thày hy vọng là con cũng có thể tôn trọng sự kiện là thày – như một vị thày tâm linh, như một chân sư thăng thiên đang có một cỗ xe sẵn lòng nói lên lời hằng sống – cũng có quyền trao cho con một viễn quan về một điều gì vượt khỏi giai đoạn hiện thời của con. Thật không cần thiết con phải bước chân trên con Đường Thương khó, phải đau đớn, phải vật lộn, phải luôn luôn cảm thấy mình tụt hậu và không an bình.

Trên thực tế, con có khả năng vừa là một học trò tâm linh, vừa an bình với việc mình đang hiện thân vật lý trên một hành tinh khó khăn như trái đất. Điều này khả thi. Và điều này cũng thú vị hơn nhiều. Con cảm thấy hài lòng hơn về chính mình, và các thày đã cho con những dụng cụ để con có được cảm giác này nếu con sẵn lòng. Khả năng này, thày đã đặt trước măt con – các thày đã đặt nó trước mặt con – và các thày chỉ hy vọng con có thể bước lên và cảm thấy an lạc về con người mình là ngay bây giờ. Đây là điều thày mong muốn cho con. Lẽ tự nhiên, ngày mai con sẽ là hơn như vậy, và một năm hay mười năm nữa, thày ước ao là con sẽ tiếp tục ngày càng an lạc hơn về chính mình, bởi vì như Giê-su đã nói: “Các thày không bao giờ có mong muốn khiến học trỏ của mình cảm thấy bất mãn về bản thân, không chỉ trong cảm xúc mà cả trong trải nghiệm.”

Nếu con có thể, con hãy xoay chuyển phương thức vận hành thường lệ của mình hầu có được một trải nghiệm trực tiếp hơn về một chân sư thăng thiên. Khi đó, con có thể nhanh chóng nhìn ra là thật sự, con cũng có một phương thức vận hành định đoạt cách quan hệ của con với Hiện diện TA LÀ, với phần cao hơn của chính bản thể con. Và nếu con xem xét phương thức này, con cũng sẽ có thể xoay chuyển khi con nhận ra: “Liệu tôi có một HIện diện TA LÀ thân thiện hay một Hiện diện TA LÀ thù địch? Quả thật là tôi có một Hiện diện TA LÀ thân thiện đang muốn hỗ trợ sự tăng triển của tôi.” Đó là lúc con làm hòa vói Hiện diện TA LÀ của con, để cuối cùng con cảm thấy an lạc về bản thân và có được trải nghiệm sống cao nhất có thể, ngay cả khi con vẫn đầu thai trên hành tinh đầy thử thách này.

Đó là hy vọng của thày, viễn quan của thày, và cũng là món quà của thày hôm nay. Thày niêm con và thày niêm sự hội tụ tuyệt vời của những con tim trong dịp này, và thày vô cùng biết ơn.

Lối hành xử tâm linh của con

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 4 tháng 6 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiêng Giê-su Ki-tô, và thày muốn bắt đầu bằng một lời thú nhận. Các thày, những chân sư thăng thiên có phần nào giống như những người bán xe cũ dùng một kỹ thuật bán hàng gọi là “dụ và chuyển”. Cách họ làm là trưng một tấm bảng lớn trong bãi đậu xe quảng cáo một kiểu xe đang bán rất rẻ, và sau đó, khi khách hàng tới hỏi thì họ nói: “Thật không may là chúng tôi đã bán chiếc xe cuối rồi, nhưng chúng tôi có một xe kiểu khác mà chúng tôi có thể bán cho quý vị với giá tốt.” Các thày có đôi phần phải làm như vậy, và thày muốn giải thích vì sao lại như vậy.

11.1. Vì sao ngày nay quá ít tín đồ Ki-tô giáo nghe lời Giê-su giảng

Bây giờ thì con có thể đặt một câu hỏi giản dị. Ở đây có một nhóm người không những tin thày là Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô đang nói qua trung gian một người sứ giả, nhưng các con còn trải nghiệm trong tim mình bằng chứng sống của sự việc đó. Vì sao lại không có hàng ngàn hay hàng triệu người tự coi là tín đồ Cơ đốc giáo chịu nghe Giáo lý Hằng sống của thày? Lý do là vì họ đã tạo nên nhiều hình ảnh, chờ đợi, điều kiện trong tâm khiến họ phải vượt lên trên các điều này để có thể chấp nhận là: 1) thày vẫn đang hiện hữu trên một cõi cao; 2) thày sẵn sàng nói chuyện với nhân loại; và 3) thày đang nói chuyện với nhân loại. Tuy nhiên, họ không chịu buông bỏ các điều kiện đó, và điều này có nghĩa là chúng tạo nên một phin lọc. Nếu thày muốn nói chuyện với họ, thì thày phải tuân theo các điều kiện này thì họ mới chấp nhận điều thày nói, và ngay cả là thày đang nói điều gì đó.

Lẽ tự nhiên, thày hoàn toàn không thể tuân theo các điều kiện của người Công giáo, Cơ đốc giáo cực truyền thống hay Lutheran mà vẫn nói được điều gì mới. Họ quá chú tâm vào quá khứ, vào điều mà họ tin là đã được nói trong quá khứ, vào những gì giáo hội của họ đã diễn giải suốt nhiều thế kỷ. Có quá nhiều lớp vỏ diễn giải, hay phải nói là bóp méo, những lời giảng và giáo lý nguyên thủy của thày nên đa số tín đồ Cơ đốc giáo đã bị mắc kẹt trong đó, và họ cho rằng nếu thày không làm theo những điều kiện mà giáo hội của họ đã quy định, thì thày không thể là Giê-su thật. Nếu thày phải tuân theo tất cả các điều kiện này, thì thày sẽ nói gì? Không một lời nào cả, con yêu dấu, vì họ không muốn và không cần thày nói bất cứ điều gì. Họ thỏa mãn với những diễn giải mà họ có. Con thấy chăng, đây là tình trạng khó xử căn bản mà các thày đối mặt trên trái đất.

Làm sao các thày, là chân sư thăng thiên, có thể giúp những người chưa thăng thiên? Nếu trình độ tâm thức hiện nay của con đủ để con vào thiên đàng, vào cõi tâm linh, thì các thày không cần làm gì cả. Nếu trình độ tâm thức hiện nay của con đã đủ để con vào thiêng đàng, thì tại sao con lại chưa ở trong thiêng đàng?

Sự kiện đơn giản là trình độ tâm thức hiện nay của con chưa đủ. Nếu các thày có thể giúp con thì các thày phải cho con một điều gì vượt quá hộp tư duy hiện tại của con, phin lọc hiện tại của con. Nếu con dùng phin lọc hiện tại của mình để bác bỏ bất cứ điều gì vượt quá phin lọc, thì các thày bị kẹt cứng. Các thày phải tuân thủ Luật Tự quyết. Các thày không thể ép buộc con.

Điều này thật sự có nghĩa là khi các thày tìm cách giúp nhân loại – và lẽ dĩ nhiên các thày tìm cách giúp tất cả mọi người bằng cách này hay cách khác – thì các thày cần nhìn vào một nhóm người và xem xét trình độ tâm thức của họ. Các thày cần xem xét hình ảnh mà họ có về thế gian, quan điểm của họ về thế gian. Các thày cần xem xét những chờ mong của họ và các thày không tìm cách trao cho họ chân lý cao nhất hay tối hậu. Các thày chỉ giản dị xem bước kế tiếp của họ là gì. Bước kế tiếp trong tiến trình tiến hóa của họ là gì, và các thày có thể làm gì để giúp họ nhảy vọt lên tầng kế tiếp?

Rất có thể là có 143 tầng tâm thức trên tầng tâm thức hiện tại của họ. Điều này không giúp ích gì cho họ vì họ không thể nhảy vọt từ tầng thứ nhất lên tầng thứ 144 – họ phải nhảy từ tầng thứ nhất lên tầng thứ hai, hay là từ tầng 48 lên tầng 49. Các thày phải để ý chuyện này, và đây là lý do vì sao thày so sánh với chiến thuật dụ và chuyển.

Các con hiểu rằng để bất cứ ai có thể làm điều gì mới, điều gì khác, để bất cứ ai có thể chấp nhận một giáo lý nào đó – về phương diện tâm linh, thần bí hay bất cứ gì khác – thì họ cần một động lực thúc đẩy. Động lực đó tùy thuộc trình độ tâm thức hiên tại của họ, cách họ nhìn thế giới, những gì họ chờ mong lúc đó. Điều gì thúc đẩy con người? Họ muốn được điều gì mà họ đang không hiện có? Các thày có thể dùng điều này để cho họ một ý tưởng, một giáo lý, có thể giúp họ đi bước kế tiếp chăng? Đây là điều mà các thày phải làm với tất cả mọi người, con yêu dấu.

Như Đức Khrisna có nói hôm qua, có những người chỉ sẵn sàng sùng kính, đi theo con đường sùng kính, do đó thày Krishna không tìm cách dạy họ một giáo lý mà họ không thể hiểu. Thày chỉ giản dị phản ánh lại sự sùng kính mà họ hướng tới thày, và trên đường dài điều này sẽ giúp họ tiến lên tầng kế tiếp. Sau đó, trong một kiếp tương lai nào đó, họ sẽ có thể hiểu một giáo lý cao hơn, nhưng các thày không tìm cách cho mỗi người hơn những gì mà các thày lượng định họ có thể tiếp nhận.

11.2. Đối phó với nghi ngờ trên con đường quả vị Ki-tô

Lý do vì sao thày nói với các con những chuyện này là vì con là đệ tử chân sư thăng thiên, và chúng sẽ giúp con đi trên con đường của quả vị Ki-tô. Khi con đã đi trên con đường tu một thời gian, thì con đã tiến triển, con đã nâng tâm thức mình lên trên trình độ mà con có khi con tìm ra giáo lý và bắt dầu áp dụng nó. Con sẽ tới điểm con sẽ được lợi lạc nếu con bước lùi lại, nhìn vào chính mình, nhìn vào con đường tu của mình, và nói: “Điều gì đã thật sự thúc đẩy tôi đi vào và áp dụng giáo lý của các chân sư thăng thiên? Tôi đã mong muốn điều gì, tôi đã mong chờ điều gì, tôi chờ đợi điều gì khi tôi bắt đầu đi vào con đường tu?”

Nếu con làm chuyện này, thì tất cả các con sẽ khám phá là mình có một thúc đẩy nào đó, có một điều nào đó mà mình muốn đạt được khi đi vào con đường tâm linh. Khi con tìm ra giáo lý lần đầu, thì có lẽ động lực thúc đẩy con không phải là thăng thiên hay biểu hiện quả vị Ki-tô. Con có lẽ có một động lực nào khác – có thể là tìm hiểu biết, có thể là tìm chữa lành, có thể là tìm quyền năng đặc biệt, có thể là tìm sự sung túc, hay điều nào khác. Con người có đủ loại động lực khác nhau, và thày chắc chắn không chỉ trích, hạ thấp hay ngay cả lượng giá những động lực đó. Con phải bắt đầu ở điểm con ở lúc đó, và dùng động lực mà con có lúc đó để học và áp dụng giáo lý. Sau khi con đã làm như vậy một thời gian, thì con có thể bước lui lại, nhìn vào chính mình và nói: “Động lực nguyên thủy của tôi là gì, tôi chờ đợi chuyện gì sẽ xảy ra?” Sau đó, con có thể nói: “Dựa trên hiểu biết cao hơn mà tôi có ngày nay, hiểu biết cao hơn về con đường tâm linh, dựa trên sự kiện là tôi ngày nay đã lên một tầng tâm thức cao hơn (và lẽ dĩ nhiên con cần nhìn nhận là con đã lên một tầng tâm thức cao hơn), thì bây giờ tôi nghĩ gì về động lực đã thúc đẩy tôi? Nó có phải là động lực mà tôi có bây giờ, hay là tôi nay đã phát triển một động lực cao hơn vì bây giờ tôi thấy là con đường tu có nhiều sắc thái hơn những gì tôi có thể thấy khi tôi bắt đầu? Có một mục đích khác, một mục đích cao hơn mà tôi bây giờ có thể thấy, mà lúc đó tôi không thể thấy.”

Lý do vì sao chuyện này trở nên quan trọng là vì nếu con không xem xét động lực của mình thì đâu đó trong bốn thể phàm của con vẫn còn một phàm linh nội tại, một khuôn đúc, một động lượng mang động lực nguyên thủy, chờ mong nguyên thủy của con. Sau một thời gian, điều có thể xảy ra cho một số đệ tử là họ bắt đầu nhận ra là động lực nguyên thủy của họ không phải là động lực cao nhất. Chính thực là động lực đó không thực tiễn vì nó không dựa trên tính chất thực của con đường tâm linh. Trong một phần nào đó của bản thể người đệ tử, họ nhận ra là động lực và chờ mong nguyên thủy là một giấc mơ không thể nào thành tựu được. Vì họ chưa xem xét phàm linh đó (phàm linh đang giữ chặt sự chờ mong đó, chờ để nó được thực hiện) nên họ chưa giải quyết được nó và buông bỏ nó.

Sẽ có một phàm linh bắt đầu cảm thấy chán nản, thất vọng và bất toại nguyện vì nó bắt đầu nghi ngờ là chờ mong nguyên thủy có thể sẽ không bao giờ thành tựu. Nó có thể khởi lên đủ loại suy nghĩ và ngờ vực, và lẽ dĩ nhiên các tà lực có thể nhân đó phóng chiếu nghi ngờ vào tâm con: “Con đường tâm linh có dẫn tới thành công chăng? Điều này có thực sự đúng không? Con có thể thành công trên con đường tâm linh không, hay chỉ có người khác thành công thôi? Hay chỉ có một số rất nhỏ thành công thôi? Phải chăng là những người tu thành công rất đặc biệt và điều này không áp dụng cho tôi?” Tất cả những ý tưởng đó có thể khởi lên.

Tất cả các con có lẽ đều đã có một hình thức nào đó của những nghi ngờ này phóng chiếu vào tâm mình. Điều con có thể làm là xem xét động lực nguyên thủy, chờ mong nguyên thủy của mình. Sau đó, con có thể thấy: “Động lực đó, chờ mong đó có thiết thực hay chăng, dựa trên những điều mà bây giờ tôi thấy, bây giờ tôi hiểu, dựa trên những gì tôi đã trải nghiệm, dựa trên sự kiện tôi bây giờ đã thấy một mục đích mới, và do đó tôi thực sự đã có một chờ mong mới cao hơn?” Sau đó, con có thể nhìn vào phàm linh nguyên thủy và nhận ra là nó vẫn còn đó. Khi con xem xét động lực của riêng con, thì con có thể thấy là nó hoặc không thiết thực hoặc có lẽ ấu trĩ hay thiếu sót. Con có thể tới điểm giải quyết vấn đề khi con nhận ra: “Nhưng tôi không còn nhìn con đường tâm linh như vậy nữa. Tại sao tôi lại chờ đợi kết quả đó trên con đường tu khi tôi bây giờ biết rất nhiều hơn về con đường tu?” Sau đó, con có thể cho phép mình đi vào phàm linh và xua đuổi nó một cách có ý thức. Con có thể nói: “Bớ Satan, hãy đứng ra đằng sau ta.” hay giản dị hơn: “Tôi không còn cần bạn trong cuộc đời tôi nữa.” Lẽ dĩ nhiên con có thể đọc chú đọc thỉnh tới bất cứ vị chân sư nào để xin việc này, khi con nhận ra nó: Astrea, Đại thiên thần Michael, hay chính thày, hay bất cứ vị chân sư nào khác để tiêu trừ thực thể đằng sau nó. Con có thể kêu gọi các thày giúp con thấy phàm linh, thấy chờ mong mà con có lúc trước, và thấy các điều đó cho biết gì về cách con nhìn con đường tâm linh lúc đó.

11.3. Giảng dạy cho nhiều trình độ tâm thức khác nhau

Tại sao việc này lại quan trọng? Nó quan trọng cho chính con, vì lẽ đương nhiên, khi con có một phàm linh nội tại đang giữ chặt một động lực không còn ứng dụng cho con nữa, thì tâm con có sự chia rẽ và nó sẽ kéo con lại. Điều quan trọng khác là đa số các con, trước khi con đầu thai ở kiếp này, đã đạt tới một tầng của con đường tu nơi con không còn hoàn toàn lo giải quyết các vấn đề cá nhân của mình nữa, mà có khả năng và ý muốn đảm đương một số vấn đề của tập thể.

Nhiều người trong các con đã chọn đầu thai vào một môi trường để mang vào một chờ đợi về Thượng đế, tôn giáo, và tâm linh là một khuôn nếp trong tâm thức tập thể. Lẽ dĩ nhiên, có một phàm linh hay quái vật đằng sau khuôn nếp đó, nhưng con đã chọn mang nó vào để, khi con nâng mình lên khỏi nó và giải quyết tâm thức, niềm tin, chờ đợi, thì con sẽ giúp nâng tâm thức tập thể lên. Lẽ đương nhiên, chỉ khi nào con nâng được tâm thức của mình lên khỏi khuôn nếp, thì con mới nâng được tâm thức tập thể lên.

Con có thể tiến thêm một bước nữa và nhận ra vì sao thày đã ví các chân sư thăng thiên với những người bán xe cũ. Khi các thày trao truyền một giáo lý, thì các thày nhắm vào một nhóm người nào đó. Các thày xem xét tâm thức của họ đang ở tầng nào: “Họ sẵn sàng nhận giáo lý nào, họ chờ đợi những gì, động lực nào thúc đẩy họ?” Các thày biết là muốn thu hút những người đó vào giáo lý, thì các thày phải cho họ cái gì khế hợp với động lực mà họ có ngay lúc này ở tầng tâm thức hiện tại của họ. Các thày cũng biết đây không phải là hiểu biết tối hậu về con đường tâm linh và con đường dẫn tới thăng thiên.

Đó là lý do vì sao các thày biết là các thày cần dẫn đệ tử vào và dần dần trao cho họ giáo lý cao hơn để họ có thể thích nghi và gia tốc, xoay chuyển tâm thức và dần dần nâng động lực lên. Lúc đó, họ nhận ra rằng điều đã dẫn họ vào giáo lý là điều họ có thể tiếp nhận lúc đó, nhưng bây giờ thì họ đã sẵn sàng nhận một cái gì cao hơn nhiều nữa, vì bây giờ họ hiểu biết nhiều hơn nhiều về con đường tâm linh. Khi con giải tỏa chờ mong ban đầu, con không cảm thấy thất vọng, con không cảm thấy bị lừa gạt. Con thực sự nhận ra nhu cầu dùng một phương pháp như vậy trên một hành tinh như trái đất, và do đó con chỉ giản dị nói: “Các chân sư đang muốn trao truyền điều gì cho tôi lúc này? Tôi sẵn sàng đón nhận điều gì lúc này?”

11.4. Lối hành xử tâm lý của con

Con có thể tiến thêm bước nữa và nhận ra một điều khác. Trong hệ thống đối phó nạn phạm pháp tại nhiều quốc gia, tỷ dụ như tại Hoa Kỳ, cảnh sát tìm cách phân loại những kẻ phạm pháp dựa trên điều mà họ gọi là “lối hành xử” (modus operandi) của họ. Lý do là họ đã khám phá là phạm nhân là những con người hành xử theo thói quen, và khi họ đã phạm một tội ác, thì họ có khuynh hướng gây tội theo cùng một kiểu. Khi cảnh sát nghe tới một tội ác đã diễn ra theo một lối hành xử nào đó, thì họ thường biết phạm nhân nào có xác suất phạm tội đó. Họ có thể tìm xem người đó ở đâu vào lúc đó, và họ có thể bắt được can phạm dựa trên điều tra đó. Bây giờ, lẽ dĩ nhiên các con không là phạm nhân, con yêu dấu, nhưng tất cả mọi người đều có một cái mà ta có thể gọi là lối hành xử tâm lý.

Lẽ đương nhiên, các thày đã đề cập đến chuyện này khi các thày giảng về tự ngã, về các phàm linh nội tại, nhưng thày sẽ chỉ giản dị giảng dưới một góc độ khác. Điều mà thày muốn con làm là (không nhất thiết là làm ngay bây giờ và ở đây, nhưng một khi con về nhà và thấm nhập những điều con học được từ hội nghị này) là bước lui lại và xem xét: “Tôi liên hệ như thế nào với vũ trụ vật chất, với cõi vật chất? Lối hành xử của tôi ra sao khi tôi liên hệ với cõi vật chất? Tôi chờ đợi những gì? Tôi nghĩ chuyện gì có thể xảy ra và không thể xảy ra? Tôi nghĩ chuyện gì phải xảy ra và không được xảy ra?” Nếu con sẵn sàng làm bài tập này, và nếu con muốn thì cũng thỉnh thoảng xin các thày giúp, thì con có thể thấy là con có một lối hành xử nào đó khi con liên hệ với thế giới vật lý. Khi con gặp một số hoàn cảnh trong thế giới vật lý, thì dường như con bị kích hoạt để đi vào lối hành xử đó, khuôn nếp phản ứng đó.

Vị sứ giả này có cho biết là ông ít khi nổi cáu, nhưng ông lại nổi cáu mỗi khi ông làm chiếu khán vào nước Nga hay khi ông bị phạt vì đậu xe trái phép. Điều này cho thấy ông có một số chờ đợi chuyện gì phải xảy ra cho ông trong vũ trụ vật lý. Khi một chuyện tương tự xảy ra, thì thay vì nhìn vào hoàn cảnh giống như ông bình thường nhìn vào đa số các hoàn cảnh, thay vì giữ tâm không dính mắc, thì ông mặc nhiên đi vào một phản ứng xúc cảm đặc trưng cho rằng chuyện này không được xảy ra, chuyện này quả thật không đúng, và ông đáng lý phải được quyền đậu xe ngoài một cửa tiệm trong vòng 10 phút mà không bị phạt. Con yêu dấu, sự chờ đợi này có thể rất phải chăng nhưng thực tế là nó thật sự giới hạn mối liên hệ của con với cõi mẹ.

Con lấy một số điều kiện trong xã hội, các điều kiện này có thể do con người tạo ra hay do sa nhân gây nên, và con phóng chiếu (tạo ra) một chờ đợi dựa trên những điều kiện đó. Con phóng chiếu lên cõi mẹ là cõi mẹ là như vậy, và kết quả này lúc nào cũng xảy ra. Phóng chiếu này có hậu quả gì? Nó ngăn trở con làm theo lời dạy của Saint Germain vì con không chấp nhận là một cái gì cao hơn có thể xảy ra. Con thực sự trở nên cái mà các thày đã nói tới: một tiên đoán tự trở thành hiện thực. Điều con chờ đợi nơi cõi mẹ là điều con gửi tới tấm gương hoàn vũ, và như các thày đã nói nhiều lần, tấm gương làm được gì khác ngoài việc phản ánh lại con điều con gửi tới nó? Con thấy là nếu con muốn tránh những hoàn cảnh như vậy, thì con phải xem xét lối hành xử của mình. Con liên hệ với cõi vật chất như thế nào? Sau đó, con cần khám phá con chờ đợi chuyện gì phải xảy ra và chuyện gì không được xảy ra. Sau đó, con cần tự hỏi con có muốn mang theo những chờ mong này với con hay không, khi con biết rằng chúng sẽ trở nên những tiên đoán tự trở thành hiện thực.

Điểm cốt yếu là: Con đang sống trong một vũ trụ thân thiện hay một vũ trụ thù địch? Con đang sống trong một vũ trụ đang tìm cách hại con hay con đang sống trong một vũ trụ trong đó ít nhất có một số lực đang hết lòng hỗ trợ con, hỗ trợ sự tăng trưởng của con, hỗ trợ hạnh phúc của con, và giúp con cảm thấy thoải mái với chính mình? Nếu con nghe bài vị sứ giả này phát biểu rằng ông cảm thấy cuộc sống tuyệt vời và có một chờ đợi tích cực về tương lai, thì con thấy là ông thường tin rằng ông sống trong một vũ trụ thân thiện. Nhưng khi ông xin chiếu khán vào nước Nga, thì ông không nghĩ nhân viên lo chiếu khán của nước Nga thân thiện với ông hay hỗ trợ ông, và đó là lý do vì sao ông thể hiện sự trục trặc mà ông gặp phải. Thày không nói là nước Nga có thủ tục cấp chiếu khán hợp lý. Nó thật sự quá phức tạp và chỉ có tác dụng gây tổn thương cho chính nước Nga, nhưng đây không phải là vấn đề. Vấn đề là vị sứ giả này đã có phản ứng như vậy vì ông, ở một tầng nào đó của bản thể của ông, tin rằng nước Nga không phải là một nước thân thiện. Điều này phần nào liên hệ đến một biến cố bi thảm mà ông gặp trong một kiếp trước, nhưng tuy vậy nó cho thấy là con có những lối hành xử về những gì mình chờ đợi. Bây giờ, liên quan đến chuyện bị phạt vì đậu xe trái phép, thì ông không chờ đợi là cơ quan công quyền hay thư lại thân thiện với ông hay có mặt để hỗ trợ ông. Ông chờ đợi là liên hệ với cơ quan thư lại không thoải mái và các cơ quan này hay gây khó dễ cho người dân một cách không cần thiết. Con yêu dấu, con có thể nói điều này đúng. Nhưng câu hỏi mà ta phải đặt cho vị sứ gỉả này là: “Ông có muốn mang theo chờ đợi này suốt đời hay không, hay ông muốn bỏ chúng lại đằng sau?” Câu hỏi mà con nên đặt ra cho mình là: “Tôi có lối hành xử nào? Tôi chờ đợi gì nơi vũ trụ vật lý? Nó có thân thiện chăng? Nó có đang hỗ trợ tôi chăng, hay có gì đang tìm cách hại tôi?”

11.5. Ảnh hưởng của tà lực

Lẽ đương nhiên thày hiểu là khi thày nói như vậy thì có thể gây hoang mang cho các con, vì các thày đã giảng về tà lực, và chúng đang tìm cách hại con, con yêu dấu. Nhưng đây không phải là điều thày muốn nói; thày muốn nói là con phải biết phân biệt. Con nhận ra là có tà lực, con nhận ra là có những người không có thiện ý, nhưng điều thày muốn nói là cách con nhìn cõi mẹ, vũ trụ vật lý nói chung. Điều thày muốn nói là: con đừng lấy sự kiện có sa nhân trên hành tinh này, con đừng lấy tất cả những khuấy động mà họ đã tạo ra, con đừng phóng chiếu những việc này lên cõi mẹ và nói: “Cõi mẹ là như vậy đó.” Con đừng nói là cõi mẹ đối xử với con như sa nhân đối xử với con. Các thày đã nói trước đây: Các con đừng nhìn các thày như các con nhìn sa nhân. Các con đừng nghĩ các thày nhìn các con như sa nhân nhìn các con. Các con đừng nghĩ các thày suy nghĩ giống như sa nhân. Con hãy làm giống như vậy với cõi mẹ. Con đừng đặt lên cõi mẹ những chờ đợi mà con có dựa trên những gì sa nhân đã làm.

Lẽ dĩ nhiên sa nhân vẫn còn ở đây, lẽ dĩ nhiên có nhiều chuyện không phải đang xảy ra trên trái đất, và các thày muốn các con đọc chú đọc thỉnh về các vấn đề này. Thày ở đây chỉ nói đến liên hệ cá nhân của con với cõi mẹ, với vũ trụ vật lý. Con đang sống trong một vũ trụ thân thiện hay con nghĩ trái đất tăm tối quá và vũ trụ, cõi vật lý, là kẻ thù địch của con? Thày có thể bảo đảm với con là dù hành tinh này có tăm tối đến đâu thì cõi mẹ vẫn sẵn sàng hỗ trợ con và hỗ trợ sự tăng triển của con. Cõi mẹ chỉ có thể phản ánh lại con những gì con phóng chiếu ra ngoài. Nếu con muốn nhận được phản hồi khác, thì con phải thay đổi điều con phóng chiếu ra. Không có cách nào khác.

11.6. Cách con liên hệ với các chân sư

Bây giờ thì con có thể tiến thêm bước nữa và xem xét lối hành xử của con khi con liên hệ với các chân sư thăng thiên. Con có thể trở về lần đầu tiên khi con nghe đến giáo lý chân sư thăng thiên, và xem điều gì đã thúc đẩy con tìm hiểu giáo lý đó. Động lực này nói gì về cách con nhìn các thày, cách con thấy tiềm năng của việc liên hệ với các thày hay không liên hệ với các thày? Sau đó, con có thể khám phá là con có một số chờ đợi, một số quan niệm về các thày. Nhiều người trong các con sẽ khám phá là quan niệm của con về các thày dựa trên cách một số tôn giáo mô tả Thượng đế. Nhiều người trong các con có quan niệm về các chân sư thăng thiên dựa trên cách tín đồ Cơ đốc đã thần tượng hóa thày và đặt thày lên một bệ cao, quá tầm với của con, như là người con duy nhất của Thượng đế. Lẽ dĩ nhiên, với đa số các con đây không phải là sự chờ đợi của riêng con. Đây là một điều mà con đã tình nguyện mang vào để giúp nâng tâm thức tập thể lên, nhưng để có thể nâng tâm thức tập thể lên, thì con phải giải thoát tâm mình khỏi quan niệm đó. Con có thể vẫn còn một số chờ đợi, một số phàm linh nội tại, mà con chưa nhận ra và loại bỏ.

Điều này lại liên quan đến chiến thuật dụ và chuyển. Các thày biết con người chờ đợi những gì; các thày biết họ có thể nhìn các thày như thế nào. Khi các thày trao truyền một giáo lý chân sư thăng thiên, thì các thày phải thích nghi nó với những động lực và chờ đợi của con người, và do đó các thày tự bày tỏ mình một cách nào đó. Một số trong các con biết là trong thế kỷ vừa qua các thày đã bảo trợ một số tổ chức và trao truyền một số giáo lý, vậy nếu các con trở về tìm hiểu các giáo lý đó, thì các con sẽ thấy là lúc ban đầu các thày đã bày tỏ mình một cách nào đó. Cách các thày bày tỏ mình đã theo một tiến trình qua các phong trào và giáo lý. Điều mà các thày trao truyền ngày nay là một trình độ hiểu biết cao hơn, vì các thày muốn cho các con thấy là khoảng cách giữa các con và các thày nhỏ hơn điều mọi người thường nghĩ.

Trong một số tổ chức trong quá khứ, các đệ tử đã đặt các chân sư thăng thiên lên một bệ cao hơn họ rất nhiều. Lẽ đương nhiên, các thày hiểu nhu cầu của con người, các thày hiểu những chờ đợi của họ. Các thày hiểu là nhiều người muốn tiến tới gần cõi tâm linh nhưng không gần quá. Vì lẽ gì mà 1.3 tỷ tín đồ Cơ đốc không muốn nghe Giáo lý Hằng sống của thày mà chỉ muốn nghe đức Giáo hoàng? Ấy, đó là vì họ không thực sự muốn lại gần sinh thể tâm linh hằng sống mà thày là. Họ không muốn giáp mặt Bản thể của thày vì như vậy họ sẽ phải thay đổi. Các thày cũng biết là nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã tới một tầng tâm thức khiến họ sẵn sàng đón nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên. Họ muốn học giáo lý của các thày, họ muốn trải nghiệm các bài truyền đọc, nhưng họ không muốn các thày tới gần họ quá.

Dường như là các đệ tử đó muốn giữ một khoảng cách và họ nói: “Con muốn ngồi ở cuối lớp và học các thày từ xa xa.” Điều họ thực sự nói là: “Con muốn giữ một khoảng cách vì con không muốn thày tới và nhìn vào con. Con không muốn thày thấy con như con đang là ngay bây giờ. Thày hãy để con ngồi trong bóng tối để con có thể giả vờ là thày không thấy được con.” Đây là tất cả những gì họ sẵn sàng làm, và thày đang khôi hài, nhưng thày thật sự không hề muốn chê bai họ. Thày hiểu nhu cầu của họ; thày tôn trọng nhu cầu của họ. Thày cũng đang trao truyền một giáo lý cho những đệ tử đã sẵn sàng tiến lên cao hơn, đây là những người sẵn sàng nhìn vào lối hành xử của mình đối với các chân sư thăng thiên, cách họ liên hệ với các thày, điều họ chờ đợi và không chờ đợi, điều họ chờ đợi sẽ xảy ra và không xảy ra.

Nếu con xem xét chuyện này, thì con sẽ nhận ra là con thực sự đã có một hiểu biết cao hơn về con đường của quả vị Ki-tô. Do đó, động lực nguyên thủy của con, cách con nhìn các chân sư thăng thiên lúc ban đầu, nay là một gánh nặng mà con đang kéo lê theo mình. Nó không còn thích ứng với trình độ hiểu biết hiện tại của con. Nếu con thấy nó thì con có thể loại bỏ nó, và con không còn sự chia rẽ trong bản thể mình khi có điều gì kéo con về phía các thày và điều gì khác kéo con ra khỏi các thày. Sau đó, con tiến lên một bước nữa và liên hệ với các thày một cách mật thiết hơn.

Vị sứ giả này mô tả là ông đã theo học giáo lý chân sư thăng thiên và thực hành miên mật trong hơn 15 năm, và một ngày kia ông bỗng nhiên tới điểm nhìn hình ảnh các thày và nói: “Con muốn nhiều hơn nữa. Con muốn liên hệ mật thiết hơn với các thày. Con muốn tương tác trực tiếp với các thày.” Các con đều có tiềm năng lấy một quyết định tương tự. Thày không muốn con lấy quyết định đó với tâm vỏ ngoài, nhưng thày muốn con, với tâm vỏ ngoài, xem xét mình đang ở đâu trên con đường tu. Con sẵn sàng làm điều gì? Con có sẵn sàng tiến lên một tầng cao hơn chăng? Con có sẵng sàng tới gần hơn một chút và nói: “Giê-su, thày có thể thỉnh thoảng nhìn con. Thày có thể tới nói con một số điều, nhưng thày đừng nói nhiều quá, quá mức mà con có thể chịu đựng.” Thày bảo đảm với con là các thày sẽ đáp ứng nguyện vọng này, vì thật ra các thày làm gì khi các thày có đệ tử, có một liên hệ thày-trò với một đệ tử? Con đường tâm linh, con đường của quả vị Ki-tô là gì? Nó hoàn toàn là tiến trình đi vào hợp nhất.

11.7. Con Đường Hợp nhất

Rốt cuộc thì con đường tu là cái Ta Biết đi vào hợp nhất với Hiện diện TA LÀ. Như một bước chuyển tiếp, các thày cống hiến một con đường trên đó khi con có một giáo lý vỏ ngoài con có thể hiểu các thày dễ dàng hơn là con hiểu Hiện diện TA LÀ. Con đường thực sự của các chân sư thăng thiên là con nhập một với các thày, hay ít ra là với vị thày gần tim con nhất. Con thấy là khi con lần đầu tìm ra giáo lý, thì con có thể vẫn còn mang theo khuynh hướng thờ kính của Cơ đốc giáo muốn đặt vị thày lên một bệ cao. Do đó, con có thể đã nghĩ là để liên hệ được với một vị thày cao xa đó thì con phải tới được một trình độ toàn hảo nào đó. Con cảm thấy là con chưa đạt tới trình độ đó, và đó là lý do vì sao con chỉ muốn ngồi ở cuối lớp để vị thày không thể nhìn thấy con và con có thể lẩn trốn vì con sẽ cảm thấy điều gì đó – nhục nhã, tội lỗi, hổ thẹn, hay bất cứ cảm giác nào khác – khi vị thày thấy các bất toàn của mình. Lẽ đương nhiên các thày cho phép con làm như vậy, nhưng nhiều người trong các con đã tới điểm có thể xoay chuyển tâm thức. Con nhận ra là con không bị đau đớn khi các thày nhìn vào con và chỉ cho con thấy vài điều. Các thày luôn luôn chỉ làm vậy với mục đích giúp con tăng triển và được tự do hơn. Nếu con tự do hơn thì chuyện gì xảy ta? Con cảm thấy thoải mái hơn với chính mình.

Khi con còn ngồi ngoài xa xa và muốn giấu giếm điều gì với các thày, thì con cũng giấu giếm cái đó với chính con.Nếu con giấu giếm điều gì đó với chính mình thì con không thể khắc phục nó. Điều mà con giấu giếm sẽ khiến con cảm thấy không vui với chính mình một cách nào đó. Chỉ khi nào con nhìn vào nó và khắc phục nó thì con mới sẽ thoải mái với chính mình. Đây là điều giản dị, là lô-gíc giản dị.Thày biết rằng 99.999999 phần trăm con người trên trái đất không nghĩ điều này giản dị, nhưng nó thực sự giản dị, ít ra là khi con đã tới tầng tâm thức hiện tại của con. Con có thể tới điểm con nhìn lối hành xử của mình và con thấy là con vẫn còn mong muốn giữ khoảng cách với các chân sư. Con có thể nói với nó: “Tôi không cần bạn nữa. Tại sao bạn vẫn còn lẩn quẩn ở đây. Tránh xa ra!”

Sau đó, con có thể xoay chuyển và bắt đầu hỏi mình một câu đơn giản: “Tôi muốn theo loại chân sư nào? Một chân sự thân thiện hay một chân sư thù địch?” Lúc đó, con nhận ra là hình ảnh mà sa nhân đã phóng chiếu lên tâm thức tập thể từ mấy ngàn năm nay là Thượng đế là một Thượng đế thù địch. Do đó, bất cứ ai trên cõi tâm linh và là đại diện Thượng đế chắc chắn phải là một sinh thể thù địch. Ngay cả trong một số tổ chức chân sư thăng thiên quá khứ, con có quan niệm là, tỷ dụ, thày El Morya hay Serapis Bey là người trọng kỷ luật nghiêm khắc. Họ giống như các thày giáo cổ lỗ chỉ tìm cớ để phát mông học trò. Thày El Morya không cầm trong tay một cây gậy để đánh đệ tử. Thày chưa bao giờ làm vậy, và sẽ không bao giờ làm vậy.

Con thấy chăng, hình ảnh trong tâm thức tập thể của một người thày giáo thù địch chỉ chực kỷ luật con (hay phơi bày những tật xấu của con hay khiến con cảm thấy tội lỗi vì có điều gì bất toàn) không phải là điều các thày thực sự là. Nó hoàn toàn xa vời sự thực các thày là. Khi con nhận ra hình ảnh này trong chính mình, thì con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi nó. Con có thể đứng lui lại và thấy nó, và sau đó con thực sự buông bỏ nó.

Con sẽ tới điểm – con có thể cần đọc một số bài thỉnh và cầu thỉnh sự chuyển hóa năng lượng, con có thể cần xin các thày trợ giúp để thấy nó – con chỉ giản dị buông bỏ nó. Con cảm thấy tức khắc nhẹ nhàng hơn và bỗng nhiên nhận ra là các thày không phải là thù địch. Các thày không chực bắt lỗi con. Các thày không chực phơi bày con. Các thày không chực hạ nhục con.

11.8. Vì sao con sợ các chân sư

Thày biết là một số người sẽ lấy bài giảng này và cảm thấy là thày đang phơi bày điều gì không phải trong tâm lý của họ. Một lần nữa, họ sẽ phóng chiếu hình ảnh là thày đang chực phơi bày điều gì đó trong con. Lẽ đương nhiên, có thể nói là thày đang làm chuyện đó, nhưng thày đang không phơi bày một chuyện để khiến con cảm thấy nhục nhã hay hổ thẹn. Thày chỉ muốn giải thoát con. Đây là lúc con có thể tiến lên một bước nữa, và khi con nhìn vào hình ảnh mà con có về các vị thày tâm linh và con chờ đợi họ sẽ làm gì và không làm gì, thì con có lẽ sẽ nhận ra khía cạnh tiêu cực của cái nhìn đó. Tỷ dụ, con có thể nghĩ là các thày sẽ phơi bày điều gì đó trong con, và con có thể xem xét con có nỗi sợ nào liên quan đến việc đó.

Nếu thày lôi một trong các con lên đây và nói là con có khuynh hướng nào đó trong tâm lý của con, thì con sẽ cảm thấy thế nào? Bây giờ, tất cả các con hãy lấy vài phút để thử làm bài tập này. Con hãy tưởng tượng mỗi người trong các con bị lôi lên đây đứng trước một nhóm người, và thày nói rất thẳng là con có khuynh hướng nào đó trong tâm lý của con. Con sợ điều gì? Con cảm thấy thế nào? Con có cảm thấy nhục nhã không? Con có cảm thấy hổ thẹn không? Cảm giác của con là gì? Ấy, con yếu dấu, cảm giác đó chính là điều đang kềm giữ con trên con đường tu. Đó chính là một phần của cái đang ngăn cản con tương tác với các thày. Điều thày muốn nói ở đây là: Con có thể bước lui lại và nói: “Tôi đang cảm thấy như vậy, hay đây là một phàm linh nội tại quy định lối hành xử của tôi, cách tôi liên hệ với các chân sư thăng thiên, cách tôi nhìn các chân sư, cách tôi nghĩ tôi có thể liên hệ với họ như thế nào? Đây là phàm linh cảm thấy như vậy, hay đây là tôi cảm thấy như vậy?” Con có thể nhận ra: “Nhưng đây không phải là tôi, đây là phàm linh!” Sau đó, khi con đuổi phàm linh đi và đọc bài thỉnh về việc này, thì con có thể chuyển đổi tâm mình.

Thí dụ, nếu con cảm thấy hổ thẹn nếu một chân sư thăng thiên phơi bày một bất toàn trong tâm lý của con, thì con có thể nói: “Tại sao tôi lại phải cảm thấy hổ thẹn? Tại sao tôi lại phải làm vậy? Đây là phàm linh cảm thấy như vậy, vậy tại sao tôi lại tiếp tục nhìn vị chân sư và hy vọng là vị ấy sẽ không tới và khiến tôi hổ thẹn? Tôi không cần cảm thấy hổ thẹn về việc này, hay nhục nhã, hay sợ hãi, hay bất cứ gì khác. Tại sao tôi lại cần cảm thấy như vậy?” Sau đó, con có thể dần dần chuyển đổi tâm thức tới điểm con nhận ra là các thày không chực làm con hổ thẹn. Các thày chỉ chực giải thoát con để con cảm thấy thoải mái với chính mình. Lẽ dĩ nhiên, con không cảm thấy thoải mái với chính mình khi con lúc nào cũng sợ bị hổ thẹn.

11.9. Con chờ đợi dược điều gì

Sau đó, con có thể tiến thêm bước nữa và xem xét là con có lẽ cũngchờ đợi được một số điều khi con trở thành một đệ tử của chân sư thăng thiên. Rất, rất nhiều đệ tử chờ đợi là sẽ được các chân sư thăng thiên bằng một cách nào đó vinh danh, công nhận hay tuyên dương. Trớ trêu thay, có trường hợp đệ tử của một tổ chức chân sư thăng thiên về trước đặt các chân sư lên trên một bệ rất cao và lại có một mối liên hệ với các thày dựa trên sợ hãi. Cùng lúc, rất rất nhiều đệ tử có mong muốn không cưỡng được muốn đựơc các thày vinh danh và công nhận trước công chúng.

Đây là một trạng thái tâm lý rất phức tạp trong đó con vừa sợ hãi vừa hy vọng được vinh danh. Có hợp lý chăng khi con vừa sợ một người vừa muốn được người đó vinh danh? Xác suất người đó vinh danh con so với xác suất người đó làm chuyện con sợ nhất và chê bai con như thế nào? Mối liên hệ giữa người đệ tử đó và các thày trở nên rất, rất giả tạo và các thày hầu như không thể tới được họ vì các thày không thể lại gần họ một cách trực tiếp. Các thày không thể cho họ một trải nghiệm, các thày không thể cho họ hướng dẫn nội tâm vì họ bị mắc kẹt trong thế kéo-đẩy đó. Lẽ dĩ nhiên, nếu con vào nhiều giáo đoàn Cơ đốc hấy đó là cách họ nhìn Thượng đế, đó là cách họ nhìn thày. Đó là lý do có nhiều tín đồ Công giáo nghĩ rằng họ liên hệ với Mẹ Mary thoải mái hơn là với thày vì Mẹ Mary không có vẻ đe dọa như thày. Con cũng thấy điều này nơi nhiều tôn giáo khác.

Một lần nữa, nếu con là đệ tử chân sư thăng thiên và con nhận ra khuôn nếp này nơi con, thì tại sao con lại có nó? Nó có phải của con chăng? Rất có thể là con đã tiếp nhận nó từ tâm thức tập thể. Con hãy xem xét nó, làm việc trên nó, tiến tới điểm con vừa không sợ giáp mặt trực tiếp một chân sư thăng thiên, vừa không hy vọng được giáp mặt trực tiếp để được thêm hãnh diện và để tự ngã cảm thấy đặc biệt. Khi con tới điểm có thể liên hệ với các thày mà không chờ đợi phía này hay phía kia, không chờ đợi dựa trên sợ hãi hay dựa trên hãnh diện, thì con có thể trung hòa. Con có thể mở lòng ra. Không có chờ đợi nào ngăn trở con. Khi con chỉ mở lòng ra, thì con sẽ trải nghiệm Hiện diện của các thày trực tiếp hơn rất nhiều bất cứ gì con trải nghiệm trước đó, và lẽ dĩ nhiên, đây là điều các thày mong muốn nơi con.

11.10. Làm sao Thánh linh có thể tuôn chảy xuyên qua con

Bây giờ là dịp lễ Hạ trần (Pentecost) và các con đều biết câu chuyện là, sau khi thày rời bỏ cõi vật lý, các tông đồ của thày đều rất hoang mang, không biết phải làm gì, không biết chuyện gì sẽ xảy ra sau đó. Lúc đó, họ hội họp và bỗng nhiên có sự chuyển đổi trong tâm thức họ, và họ tới tình trạng được mô tả là “hiệp ý ở cùng một nơi”. Họ thực sự tới điểm mà thày vửa mô tả, tức là thay vì có những chờ đợi dựa trên sợ hãi (là mọi chuyện kết thúc ở đây và không có gì sẽ xảy ra sau đó) và những chờ đợi dựa trên kiêu mạn (là họ sẽ được nâng lên và sẽ là những người lãnh đạo phong trào), thì đa số (không phải tất cả, nhưng đa số) tới điểm chỉ trung hòa, chỉ mở lòng ra. Chính điểm trung hòa đó, điểm không chờ đợi đó, đã là cửa mở cho cái được mô tả là Thánh linh tuôn xuống.

Bây giờ, một lần nữa con có thể hỏi: “Các thày đã làm gì với giáo lý mà các thày đã trao truyền qua vị sứ giả này?” Các thày đã tháo gỡ những hình ảnh mà con người có về các chân sư thăng thiên dựa trên các đợt truyền giáo trước. Các thày đã thực sự lấy mình xuống khỏi bệ cao. Các thày đã tìm cách giảm thiểu khoảng cách giữa các con và các thày. Lẽ dĩ nhiên, các thày đã không tìm cách làm điều này một cách vật lý. Các thày đã tìm cách giảm thiểu khoảng cách trong tâm các con, khoảng cách mà con nghĩ có đó, mà con phóng chiếu là có giữa các con và các thày. Lẽ dĩ nhiên các thày vượt quá không gian và thời gian, do đó thày lúc nào cũng ở bên con nếu con muốn thày, nếu con đặt chú tâm của con vào thày. Vấn đề không phải là con cần vượt qua một khoảng cách vật lý. Vấn đề cũng không phải là vì thày ở quá cao trên con trên phương diện khoảng cách hay ngay cả rung động, lẽ dĩ nhiên là thày cao hơn con, nhưng thày vẫn ở bên con. Vấn đề không phải là con cần vượt qua vực thẳm đó. Con chỉ cần giản dị loại bỏ tất cả những hình ảnh và chờ đợi trong tâm con.

Các thày có đệ tử chân sư thăng thiên đang đứng, nói một cách biểu tượng, với đôi mắt dán vào ống viễn kính khổng lồ vì họ nghĩ các thày ở rất, rất xa đâu đó trong không gian. Họ cần chiếc ống viễn kính khổng lồ để thấy được các thày, và chiếc ống viễn kính khổng lồ đó là sự hiểu biết cầu kỳ bằng trí năng mà họ có về giáo lý. Điều các thày đang làm là các thày đợi họ rời mắt khỏi ống viễn kính rồi nói: “Ồ, các thày đang ở đây!”. Thày đã ở đây suốt 2000 năm qua bên cạnh họ mà họ không thèm để ý tới vì họ đã tìm thày ở ngoài xa, xa kia. Lẽ dĩ nhiên, đây là điều các thày mong muốn nơi tất cả các con, là những người đã đi theo con đường của các thày từ rất lâu, là những người đã dấn thân đi vào con đường của quả vị Ki-tô.

11.11. Quả vị Ki-tô và phép lạ

Một lần nữa, chúng ta hãy hạ những chờ đợi xuống. Các con có nghe các câu chuyện là khi thày hiện thân thì thày đã làm nhiều phép lạ. Con có nhân loại trong 2000 năm đã tạo ra những phàm linh tập thể rất rất dũng mãnh và rất rất cầu kỳ là được sống vào thời Giê-su quả là một sự kỳ diệu đặc biệt. Nếu con trở ngược về thời đó và xem xét thực tại lúc đó, thì con sẽ thấy là đa số các tông đồ của thày lúc đó giống như những người đang dán mắt vào ống viễn kính. Tuy họ theo thày và tương tác với thày mỗi ngày, họ ít khi trực tiếp để ý tới thày vì họ nhìn thày với quá nhiều chờ đợi. Con thấy một thí dụ nơi câu chuyện liên quan đến Peter khi thày nói: “Bớ Satan, hãy đứng sau lưng ta.” Thày lúc đó muốn tạo một cú sốc để Peter ra khỏi các chờ đợi của ông và thực sự liên hệ với thày một cách trung hòa. Đa số những người mà thày gặp gỡ hồi đó còn không để ý sinh thể nào đang đứng bên cạnh họ. Họ không nhận ra là thày có một trạng thái tâm thức cao hơn.

Điều thày muốn nói là hình ảnh hoang tưởng mà tín đồ Cơ đốc giáo đã tạo ra là thời đó đặc biệt tuyệt vời như thế nào, ấy, chuyện ấy không bao giờ có thực. Có rất nhiều người không để ý, thí dụ là có cả những người đã thấy thày đi trên nước nhưng sau đó họ không tin điều họ đã chứng kiến. Như các thày đã nói, tâm thức tập thể thời đó dày đặc đến nỗi cần một diễn biến kỳ diệu để họ chú ý.

Một lần nữa, nếu con xem lại tình hình vào dịp lễ Hạ thân, thì nhiều tín đồ Ki-tô giáo đã tạo nên hình ảnh cầu kỳ là nhiều tông đồ đã nói với những ngôn ngữ lạ. Họ bỗng nhiên dùng những ngôn ngữ khác để người khác có thể hiểu họ. Ngay cả các đệ tử chân sư thăng thiên cũng nhìn biến cố này như một diễn biến kỳ diệu. Họ nghĩ, giống như những người theo phái Hạ thân (Pentecostal), là các tông đồ lúc đó dùng ngôn ngữ của thiên thần. Hay họ nghĩ, như một số tín đồ Cơ đốc khác, là có người bị Thánh linh làm té ngã và người họ bị lay động mạnh và họ phải được khiêng ra ngoài, hay những chuyện tương tự. Các đệ tử chân sư thăng thiên vẫn còn lối hành xử đó, phàm linh tập thể đó, khiến họ mơ ước thấy một diễn biến kỳ diệu.

Có người mơ ước thấy một diễn biến kỳ diệu xảy ra trong cuộc đời họ, họ mơ ước có một cuộc gặp gỡ kỳ diệu với các thày sẽ thay đổi mọi chuyện. Một số mơ ước có một diễn biến kỳ diệu sẽ khiến người khác nhìn họ là người đặc biệt. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên trong các thập niên qua đã mơ ước có một diễn biến kỳ diệu qua đó các thày xuất hiện trên trời hay chính các đệ tử nhận được Thánh linh và họ có thể khiến người khác té ngã hay họ có thể chữa lành người khác. Họ có thể làm tất cả những chuyện này để có bằng chứng vật lý là các chân sư thăng thiên có thật, và qua đó hàng triệu người sẽ cải đạo và tin vào chân sư thăng thiên. Lẽ dĩ nhiên, các đệ tử đó là những người đã đem lại việc đó và do đó họ sẽ được nâng lên và tuyên dương. Các đệ tử chân sư thăng thiên cũng mang theo tư duy đã được tín đồ Ki-tô giáo tạo ra suốt 2,000 năm qua khi họ mơ ước là họ đặc biệt và sẽ được nâng lên. Các con đã lấy tư duy này, chuyển nó sang các chân sư thăng thiên và phóng chiếu lên các thày. Các con nghĩ là nếu các con nhận được Thánh linh thì một diễn biến kỳ diệu sẽ xảy ra. Có thể là sẽ có một diễn biến trong đó mọi người bỗng nhiên nói ngôn ngữ lạ, và tất cả bỗng nhiên có khả năng nhận bài truyền đọc, hay bất cứ điều gì khác mà họ tưởng tượng. Một đàng thì thày không muốn đặt giới hạn vào chuyện có thể xảy ra. Thánh linh có thể biểu hiện nhiều cách, nhưng thày muốn các con có một nhận định thiết thực. Trong thời đại tân thời này, các thày không làm phép lạ vì nhân loại đã tiến lên một tầng tâm thức khiến các thày có thể khiến họ chú ý bằng cách khác. Các thày không muốn cải đạo tất cả mọi người và khiến họ công nhận các chân sư thăng thiên. Các thày sẽ không tạo ra một biểu hiện không thể chối cãi được vì Luật Tự quyết đã rõ ràng: con người phải có quyền chối bỏ với lý do khả tín. Con người phải có thể dễ dàng chối bỏ sự hiện hữu của các thày, do đó các thày sẽ không thể hiện một bằng chứng không thể chối cãi được.

11.12. Con có Thánh linh chăng?

Ngay cả chuyện Thánh linh sa xuống, các thày sẽ không tạo ra một diễn biến ngoạn mục, con yêu dấu. Các thày mong muốn là mỗi người trong các con đều trải nghiệm là mình có Thánh linh. Con có nhiều xác suất trải nghiệm điều này khi con nói chuyện với người khác về một đề tài mà con thật sự coi là quan trọng, một đề tài gần kề với tim mình. Con có thể nhận thấy là có lúc giọng nói của con thay đổi đôi chút, rung động của con thay đổi, và con nói với rất, rất nhiều chân thành. Con yêu dấu, con lúc đó cũng trong trạng thái tâm trung hòa. Con không đang tìm cách cải đạo người khác một cách hung hãn, con không mong muốn được công nhận để con không phải cảm thấy bị ruồng bỏ. Con chỉ giản dị nói từ một tầng cao của bản thể của mình, và đó là một biểu hiện của Thánh linh.

Bây giờ thì câu chuyện các tông đồ nói bằng ngôn ngữ lạ mà trước đó họ không biết, chính thực không có thật. Đây là điều mà con người chỉ có thể phóng chiếu lên diễn biến đó với tâm đường thẳng của họ. Sự thực sâu thẳm hơn là một số tông đồ được thấm đẫm bởi Thánh linh và do đó họ có thể diễn đạt ý tưởng Cơ đốc giáo là gì qua một cách khiến người có quá trình khác nhau có thể hiểu các khái niệm và ý tưởng. Đây là một trong những biểu hiện chính của Thánh linh mà thày muốn các con cố đạt được. Con có thể đi vào trạng thái tâm trung hòa và có khả năng nói chuyện với nhiều người có quá trình khác nhau. Thay vì cho họ một chân lý tuyệt đối, mà với tâm vỏ ngoài con nghĩ là họ cần biết, thì con cho họ đúng những gì họ cần để tiến bước kế tiếp trên con đường tu của họ. Con có thể không biết điều này với tâm vỏ ngoài của mình, con có thể không biết vì sao con lại nói điều đó với họ, con chỉ cảm thấy dòng chảy và con tuôn theo dòng chảy.

Đây là một biểu hiện Thánh linh lợi ích hơn một trình diễn ngoạn mục rất nhiều. Bây giờ thì con có thể nói: “Vậy thày đang không làm một trình diễn ngoạn mục hay sao?” Ấy, điều này cũng có phần đúng. Nhưng điều thày đang làm có ngọan mục như nhiều đệ tử chân sư thăng thiên chờ đợi, hay nhiều tín đồ Cơ đốc giáo chờ đợi chăng? Không, không đâu. Các thày đang cố cho các con một cái gì vượt quá trình độ tâm thức bình thường, nhưng không vượt quá xa đến độ nó củng cố nơi con ý niệm xa cách. Các thày biết là bất cứ điều gì các thày làm cũng sẽ củng cố ý niệm xa cách nơi một số người, nhưng con hãy để ý xem có bao nhiêu giáo lý mà các thày bao năm qua đã trao truyền qua vị sứ giả này đã được thiết kế đặc biệt để giảm thiểu sự xa cách mà các con phóng chiếu là có giữa các thày và các con.

11.13. Vị chân sư nào gần với con nhất?

Thày sẽ luôn luôn ở bên conconconconcon, mỗi người và tất cả các con. Thày luôn luôn ở bên con, và vị chân sư thăng thiên nào gần tim con nhất cũng vậy. Vị chân sư nào gần tim con nhất? Con yêu dấu, thày không có ganh tỵ, thày không mong muốn độc quyền. Sự việc có một vị chân sư khác gần tim con hơn không khiến thày cảm thấy bị tổn thương. Tại sao vậy? Vì thày và vị chân sư đó là một.

Con hãy tìm ra vị chân sư gần tim mình nhất. Con hãy bước lui khỏi cuộc sống bận rộn thường nhật của con. Con hãy bước lui khỏi những bận rộn của con trong việc tu tập, với việc học giáo lý, đọc cầu thỉnh. Con hãy dành thì giờ để ngồi xuống và xem xét: “Tôi đang liên hệ với các chân sư thăng thiên như thế nào? Đây là vị thày mà tôi cảm thấy gần nhất. Làm sao tôi có thể tìm ra một cách mới để liên hệ với vị chân sư đó để tôi có thể giảm thiểu khoảng cách, lại gần hơn, có một trải nghiệm trực tiếp hơn?” Con cũng có thể tự hỏi: “Tôi có sẵn sàng để có một trải nghiệm trực tiếp hơn với một chân sư thăng thiên chăng?” Nếu con chưa sẵn sàng, thì một lần nữa thày không chỉ trích, thày không phán xét, thày không lên án. Thày hoàn toàn hiểu là ai nấy đều cần có thời gian trước khi sẵn sàng. Con thấy chăng, con yêu dấu, con đang ở đây vì khi con trải nghiệm một bài truyền đọc, thì con có một ý niệm hiện thực là các chân sư thăng thiên có thật. Các thày có thể nói chuyện với con. Thày chỉ muốn con xoay chuyển tâm mình để nhận ra rằng vì các thày có thật và có thể nói chuyện xuyên qua một sứ giả, nên các thày cũng có thể tương tác trực tiếp với con, với riêng con, trong tâm và trái tim của con.

Nếu con đã sẵn sàng làm chuyện này, thì có lẽ đã đến lúc con mạnh dạn bước ra, thẳng thắn hơn và tìm một cách khác để liên hệ với các thày. Có lẽ con xem xét lối hành xử của mình, như thày đã nói ở đầu bài, khi con liện hệ với các thày. Con có thể tự hỏi: “Dựa trên những chờ đợi hiện tại của tôi, thì tôi nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra khi một chân sư thăng thiên tới gần tôi hơn?” Con sẽ thấy là nhiều khi có một phần tâm con, một phần tự ngã của con, thực sự sợ những thay đổi mà con sẽ phải đối mặt khi chuyện đó xảy ra, và đây có thể là một lãnh vực mà con có thể cần thì giờ để giải quyết vấn đề.

11.14. Con cần phải từ bỏ cái gì?

Đối với đa số các con, đây không phải là một điều mà con có thể giải quyết trong năm phút. Khi con tới một mức nào đó, thì điều lợi ích là con suy nghĩ và chiêm nghiệm về điều này: “Tôi nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra trong cuộc đời của tôi?” Sẽ có một phần bản thể của con sợ một số thay đổi vỏ ngoài sẽ phải xảy ra, một số chuyện mà con phải từ bỏ, và những điều tương tự. Nếu con nhìn những việc này một cách trung thực thì con dần dần sẽ bắt đầu thấy các nguyên nhân đằng sau, thấy những chờ đợi tiềm ẩn của con. Con có thể bắt đầu xem xét chúng. Con có thể bắt đầu bằng cách so sánh chúng với giáo lý của các thày. Con có thể bắt đầu suy ngẫm xem là con có mang chờ đợi đó từ tâm thức tập thể, hay đó là một phần của tự ngã của con. Con có thể dần dần tới điểm con thấy rõ con đang đứng ở đâu vào lúc này. Con có thể nhận ra rằng: Đúng là có một phần tự ngã đang sợ hãi và không muốn thay đổi vì có một phần nào đó trong cuộc đời của con mà con không muốn từ bỏ.

Bây giờ thày muốn cho con một thí dụ đơn giản. Có một vị đệ tử ở Hàn Quốc hỏi là vị ấy có thể là một đệ tử chân sư thăng thiên mà vẫn tham dự họp mặt ăn uống và uống rượu khi tụ họp chăng. Vị đó không chịu từ bỏ những chuyện này vì uống ượu khi hội họp là một phần quan trọng của gia đình và nền văn hóa của vị ấy. Đây chỉ là một thí dụ của một chờ đợi mà con có thể có. Nếu con muốn, thì con có thể xem xét nó. Con có thể nhìn vấn đề từ nhiều phía. Con cũng có thể tới điểm con nhận ra con không mất mát gì khi từ bỏ chuyện đó vì con thực sự đã sẵn sàng tiến lên một tầng khác.

Một số người trong các con đã tới điểm có quyết định tự phát từ bỏ uống rượu, nhưng đây chỉ là một thí dụ. Con đừng đặt hết tâm trí vào việc này vì có nhiều chuyện khác mà con có thể nghĩ con cần từ bỏ. Con yêu dấu, con lúc nào cũng có thể tìm ra một cách khác để nhìn vấn đề mà không bị bắt buộc phải từ bỏ một sinh hoạt vỏ ngoài.

Thày muốn cho con một thí dụ khác là trong các đợt truyền giáo trước, có nhiều đệ tử cảm thấy là sau khi họ đã theo học giáo lý chân sư thăng thiên, thì họ không thể liên hệ với những người không theo giáo lý. Nhiều người gặp khó khăn liên hệ với người phối ngẫu của họ, và rất nhiều vụ ly dị đã xảy ra vì lý do này. Các thày không bao giờ muốn thấy chuyện này xảy ra, nhưng đó là nền văn hóa của tổ chức đó. Lý do là vì họ có một cái nhìn trắng-đen hơn về con đường tu: con hoặc ở trong hoặc ở ngoài. Hoặc con hoàn toàn ở trong, và con phải theo tất cả các luật lệ của tổ chức, hoặc con ở ngoài. Nếu con có một người phối ngẫu không chịu ở trong, thì con không thể liên hệ với vị đó, và từ đó xung đột nảy sinh. Thực tế là nếu con xoay chuyển tâm thức, nếu con thay đổi cách nhìn trắng-đen về con đường tu và về các chân sư đầy lòng phán xét, thì con có thể dễ dàng, hoặc ít ra là với thời gian con có thể tìm một cách để liên hệ với người phối ngẫu đang không đi trên con đường tâm linh hay đang không theo học giáo lý chân sư thăng thiên.

11.15. Lối hành xử của con liên quan đến tình dục

Con có thấy chăng, vấn đề không chỉ giản dị là nghĩ hay nhận ra là có một phần tự ngã của mình đang nghĩ: Nếu tôi lại gần các chân sư hơn, thì liệu tôi có sẽ phải từ bỏ điều này hay điều nọ. Nhiều người trong các con có thể sợ phải từ bỏ tình dục, chẳng hạn. Thành thật mà nói thì đây có lẽ là nỗi sợ lớn nhất của các đệ tử trên con đường tâm linh.

Một cách nhìn khác là luôn luôn xem xét chính mình, xem xét lối hành xử của mình liên quan đến tình dục. Con hãy xem xét lối hành xử của con liên quan đến tình dục, và xem nó tương tác ra sao với lối hành xử của con liên quan đến con đường tâm linh. Con có thể thấy là con có hai phàm linh đang chống đối nhau. Sau đó, con hãy nhận ra là có một phàm linh đang phóng chiếu là khi con tiến cao hơn trên con đường tâm linh, thì con phải từ bỏ tình dục. Và có phàm linh kia thét lên rằng: “Không, bạn không thể làm vậy!” Sau đó, con có thể tới điểm nhận ra là chúng chỉ là phàm linh, chúng không phải là con – và con có thể thăng vượt chúng, con yêu dấu. Con có thể thăng vượt cả hai phàm linh đó, và nhận ra rằng khi con xoay chuyển tâm, thái độ của con về tâm linh và thái độ của con về tình dục và sự tương tác giữa hai thái độ đó, thì con có thể vẫn vui hưởng tình dục vừa theo đuổi con đường tâm linh.

11.16. Hãy chấp nhận ở đây trước khi con rời nơi này

Con có thể tới điểm con gần hội đủ điều kiện để thăng thiên nhưng con đã đi theo con đường tu khổ hạnh và rút lui khỏi sinh hoạt trần thế. Nếu con không hoàn toàn chấp nhận con đang ở trong thân thể vật lý, nếu con không vui hưởng những sinh hoạt mà con có thể có với thân thể vật lý, thì con không thể bỏ trái đất lại đàng sau, con thực sự không thể thăng thiên. Con có thể nói là thực sự có nhiều tà lực, tà thể hay ác quỷ đang tìm cách dùng động lực tình dục để dụ dỗ con người vào nhiều vòng xoáy hướng hạ để hút năng lượng của họ. Chắc hẳn là có một lúc ta phải áp dụng kỷ luật để không bị lôi kéo vào những vòng xoáy tiêu cực đó. Đó là lý do vì sao các phong trào tâm linh truyền thống đã nói rằng người tâm linh phải từ bỏ tình dục. Một số trong các con đã làm điều này trong các kiếp trước và đã có nhu cầu tuân theo kỷ luật này. Lúc nào con cũng có thể tiến lên một tầm nhìn khác và nói: “Tôi đang sống trong loại thân thể nào? Một thân thể thân thiện hay thù nghịch?”

Con sẽ thấy là rất rất nhiều người tâm linh thực sự nghĩ rằng thân thể vật lý là thù nghịch của sự tăng triển tâm linh của họ. Sau đó, con có thể làm việc trên đề tài này, xem xét nó, và con có thể tới điểm chấp nhận là con đang sống trong một vũ trụ thân thiện, con đang sống trong một thân thể thân thiện. Khi con đang ở trong thân thể này, thì có một số sinh hoạt con có thể làm với thân thể đó, và thực sự không tội lỗi hay phản-tâm linh khi con vui hưởng các sinh hoạt đó. Sinh hoạt này có thể là có tình dục, hay ăn một bữa cơm ngon, hay tương tác với người không theo một giáo lý tâm linh nhưng vẫn là người tốt. Họ thuộc vào gia đình của con và con vui hưởng ở gần họ. Đâu có lý nào chuyện này là phản-tâm linh khi con nhìn nó từ một góc độ trung hòa và không bị mắc kẹt trong lối suy nghĩ trắng-đen?

Con cũng có thể tiến thêm bước nữa và xem xét sức khỏe vật lý của mình, và có thể bắt đầu tự hỏi: “Tôi đang sống trong một thân thể thù nghịch hay thân thiện?” Nếu con đang bị một căn bệnh dằn vặt thì con vẫn có thể (nếu con muốn) làm việc trên thái độ mà con có đối với thân thể vật lý. Lối hành xử của con là gì? Con chờ đợi chuyện gì có thể xảy ra và không thể xảy ra? Con thực sự nghĩ gì về thân thể vật lý này, đặc biệt là liên quan đến sự tăng triển tâm linh của mình? Con có thể tới điểm chấp nhận là con đang sống trong một thân thể thân thiện có khả năng và mong muốn hỗ trợ sự tăng triển tâm linh của con. Một số trong các con sẽ thấy là điều này có thể đem lại sự chữa lành của một số căn bệnh mà trước đó con không thể khỏi được. Một số khác có thể không được chữa lành trên mặt vật lý nhưng có thể tìm ra cách để làm hòa với căn bệnh để nó không cản trở sự tăng triển tâm linh của mình.

11.17. Cách dùng bài truyền đọc này

Một lần nữa, đây lại là một trong những bài truyền đọc trong đó các thày đưa ra rất nhiều ý để các con suy ngẫm. Lẽ đương nhiên, các thày làm như vậy vì các con không hay tụ tập như một đám đông. Các thày cũng làm vậy vì nhiều người trong nhóm này đã tới một trình độ trên con đường của quả vị Ki-tô khiến con sẵn sàng đón nhận giáo lý này hay ít ra là một phần trong đó. Một lần nữa, con không cần về nhà và đọc lại bài truyền đọc và xem xét từng điểm mà thày trao truyền, và nghĩ rằng con phải học tập và áp dụng tất cả mọi điểm cùng một lúc. Con cần tìm ra một điều gì, một điều trong bài giảng hấp dẫn con ở tầng hiện tại của con. Sau đó, con dùng nó, con thể nhập với nó và con dùng nó để tiến lên một tầng cao hơn. Sau đó, con có thể đọc lại bài giảng và tìm xem có điều gì khác cho con chăng.

Bây giờ, thày khuyến khích học tập bài truyền đọc mà thày trao truyền ở Hàn Quốc về quả vị Ki-tô và bài truyền đọc của Phật Gautama ở Hàn Quốc (hai chương trước chương này) và thấy là hai bài đó tạo nên phần alpha trong khi bài này là phần omega, một cái nhìn thực tiễn và thiết thực hơn.

11.18. Giữ trung hòa để Tánh linh tuôn chảy

Điều thày muốn nói trước khi chấm dứt bài này là: Thánh linh thổi nơi nó muốn, như có nói trong Thánh kinh. Câu này thực ra không thể hiện cái nhìn cao nhất về đề tài này. Thánh linh không thổi nơi nó muốn; nó chỉ thổi, nó thổi không ngừng và nó tuôn chảy không ngừng. Lý do vì sao câu nói đó được trao truyền lúc đó là vì nhiều người thời đó không hiểu được tại sao có lúc một người nhận được dòng chảy của Thánh linh, có lúc là một người khác, và có lúc không ai nhận được. Họ không hiểu tại sao vì họ nhìn vấn đề với tâm vỏ ngoài.

Ngay cả các tông đồ của thày có khuynh hướng dùng tâm vỏ ngoài và tạo ra một cấp bậc trong nhóm tông đồ, một loại xếp hạng ai cao nhất, ai là người tinh tiến nhất. Điều không may là Peter thường nghĩ ông là người cao nhất, trong khi sự thực ông là người có tâm thức thấp nhất trong các tông đồ. Những lượng giá vỏ ngoài này quả thực đã ngăn chận dòng chảy của Thánh linh vì chìa khóa để nhận dòng chảy của Thánh linh là giữ tâm trung hòa, mà các con đều có thể trau dồi và đều đã có trải nghiệm trong một thoáng. Nó gần giống như khi con đứng yên và không có gì kéo con về bất cứ hướng nào. Con có thể gọi đây là trạng thái nhận biết thuần khiết, nhưng con trung hòa. Con đang tương tác với người khác, nhưng con không phán xét là người đó phải được nghe gì và phải chấp nhận cái gì. Con không mong muốn cải đạo người đó. Con còn không có cả mong muốn giúp người đó. Con không có chờ đợi cá biệt nào về điều gì phải được nói ra, chuyện gì phải xảy ra, và người kia phải phản ứng ra sao. Con chỉ trung hòa và đó là lúc con là cánh cửa mở. Đó là lúc Thánh linh có thể tuôn chảy xuyên qua con, con yêu dấu.

Khi con xem xét hiện tượng truyền đọc và số đông những người tiếp xúc với cõi trên (channeller), thì con thấy là những người không giữ tâm trung hòa chỉ hòa điệu được với các cõi thấp – cõi cảm xúc, cõi lý trí, phần thấp của cõi bản sắc. Những điều được trao truyền qua họ có thể có vài ý niệm chân chính, nhưng cũng có những ý niệm méo mó và không có rung động giải thoát con người. Một người sứ giả hay một người tiếp xúc với cõi trên càng trung hòa thì thông điệp có thể truyền qua họ càng thuần khiết. Khi con nghe hay đọc một bài truyền đọc, tâm con càng trung hòa thì các lóe sáng hiểu biết mà con nhận được càng sâu sắc.

Một sắc thái khác của Thánh linh là con không nhất thiết nói nhưng con cũng nhận một số lóe sáng hiểu biết rõ ràng bắt nguồn từ phần cao của tâm con hay từ các thày. Đây là một hình thức dòng chảy bên trong của Thánh linh và khi con nói ra thì đó là phần chảy bên ngoài của Thánh linh, nhưng cả hai khía cạnh đều thuộc vào con đường tu của con.

Như các thày đã nói, sẽ có một điểm khi quả vị Ki-tô mà không được thể hiện thì không phải là quả vị Ki-tô. Con phải tiến lên cao hơn và thay vì chỉ học hỏi và hội nhập giáo lý, thì con bắt đầu ban phát nó ra. Đó là lúc con trải nghiệm dòng chảy alpha và omega của Thánh linh, là khi con nhận được lóe sáng hiểu biết và con dùng chúng để giúp người khác. Con sẽ nhiều lần thấy rằng khi con nói chuyện với người khác, con bỗng nhiên có một số ý tưởng mà trước đó con không có. Con bỗng nhiên có một lóe sáng hiểu biết mà trước đó con không có. Đó là dòng chảy của Thánh linh. Nó không phải là một biểu diễn ngoạn mục. Nó không phải là một biến cố kỳ diệu. Nó chính thực là điều gì mà tất cả các con đều đã trải nghiệm. Thày chỉ giản dị nói rằng khi con nhận ra chúng một cách có ý thức, khi con theo những gợi ý mà thày giảng trong bài này, thì con có thể gia tăng những lúc con có trạng thái tâm trung hòa.

11.19. Con có cần phải có ý kiến không?

Một số các con có thể phải làm việc để đạt tâm trung hòa vì nó đòi hỏi con giải thoát mình khỏi một số chuyện bên ngoài đang tìm cách lối kéo con vào một khuôn nếp phản ứng. Có thể là một số các con cần đi qua một tiến trình trong đó con xem xét một điều rất đơn giản: “Trên cương vị một con người, tôi có cần có ý kiến không?” Đa số các con được dạy dỗ là con phải có ý kiến. Con phải có ý kiến về đảng phái chính trị này hay đảng phái kia, về vấn đề này hay vấn đề kia. Con có thể tới điểm con nhận ra là đại đa số ý kiến con người đến từ các phàm linh nội tại của họ, và các phàm linh này chịu ảnh hưởng của các phàm linh tập thể.

Con thấy có rất nhiều trường hợp hai người có ý kiến đối ngược về một vấn đề, nhưng đây chỉ giản dị là có hai phàm linh đang tranh luận qua hai người đó. Con có thể tới điểm con tự hỏi: “Đây có phải là cách tôi muốn tương tác với người khác chăng, bằng cách luôn luôn bày tỏ ý kiến của mình và tìm cách thay đổi ý kiến người kia? Có thể nào tôi tới điểm tương tác với người khác nhưng tâm tôi trung hòa và do đó tôi mở lòng ra để nói một điều không phải là ý định đã định trước, nhưng là một điều tới từ một nguồn cao hơn, có thể sẽ khai ngộ tôi và có thể khai ngộ người kia, nhưng không đến từ một ý định từ tâm có ý thức của tôi. Tôi chỉ để cho chuyện đó xảy ra?”

Đã có nhiều người qua các thời đại đã dùng nhiều nỗ lực, nhiều nghi thức để nhận được Thánh linh. Có những phù thủy đen đã tìm cách tạo ra một phương pháp, hoặc một dụng cụ có thể giúp họ nhận được một cách máy móc dòng chảy của Thánh linh. Họ chưa bao giờ nhận được dòng chảy của Thánh linh. Họ có thể nhận được dòng chảy của một số phàm linh tập thể có vẻ rất dũng mãnh, nhưng đó không phải là Thánh linh. Con không thể ép Thánh linh. Đó cũng là lý do vì sao có câu nói là Thánh linh tuôn chảy nơi nó muốn. Con yêu dấu, con không thể ép nó, nhưng con có thể nhận nó.

Mấu chốt là muốn nhận nó thì phải có khoảng trống. Nếu tâm con chứa đầy ý kiến thì có thể không còn chỗ để Thánh linh biểu hiện. Thày muốn giải thoát các con. Thày muốn cho phép con được tự do khỏi mọi ý kiến nhân gian. Con thực sự có thể cảm thấy là khi con buông bỏ những ý kiến đó, thì giống như con được giải thoát khỏi một máy chạy bộ cứ lôi cuốn con đi. Bỗng nhiên tâm con không cần phải cảm thấy là ý kiến này luôn luôn bị đe dọa và con cần phải đề phòng các mối đe dọa. Khi con đọc điều gì trên mạng Internet có thể đe dọa ý kiến đó thì con cảm thấy bất an. Hay khi con gặp người nào có ý kiến khác thì con phải đi vào một cuộc tranh luận và tìm cách khiến họ đổi ý. Bất thình lình con không cảm thấy bị mất năng lượng nữa và con cảm thấy thoải mái hơn với chính mình là đã buông bỏ ý kiến nhân gian đó.

Thày có thể bảo đảm là con có lẽ sẽ gặp một người quen con từ lâu nhìn con và nói: “Bạn sao kỳ vậy, tại sao không còn ý kiến gì nữa?” Con hãy xem họ cảm thấy thế nào về chính họ và con cảm thấy thế nào về chính mình, và nói: “Tôi muốn mình ở đâu, trong tâm người đó hay trong tâm mình?” Sau đó, con sẽ dễ dàng buông bỏ tất cả các ý kiến đang không khiến con thoải mái với chính mình, không khiến con thoải mái với thế gian. Chúng không giúp con cảm thấy con đang sống trong một vũ trụ thân thiện, chúng không giúp con cảm thấy con đang tương tác với các chân sư thân thiện, chúng không giúp con cảm thấy con đang sống trong một thân thể thân thiện.

Con hãy nghĩ xem: nếu mục đích của con là cảm thấy thoải mái hơn với chính mình, với các chân sư thăng thiên, với thế giới vật chất và với thân thể vật lý của mình, thì con hãy xem xét những gì đang lôi kéo sự chú ý của con và tự hỏi chúng có đang giúp con cảm thấy thoải mái hơn hay không. Nếu nó không khiến con cảm thấy thoải mái hơn, thì thày cho phép con buông bỏ nó. Thày bảo đảm là nếu một điều gì không giúp con cảm thấy thoải mái hơn với chính con, với thế giới nơi con sống và với các chân sư, thì điều đó không giúp con tăng triển tâm linh. Nó không giúp con tiến về hướng quả vị Ki-tô.

Con yêu dấu, nếu con nhận thấy là con đang nhấp nhỏm một chút trên ghế và cảm thấy khó ngồi yên, thì đó giản dị là vì chúng ta đã tới điểm thày đã trao truyền cho con tối đa mà con có thể nhận. Mặc dù thày mong thày có thể tiếp tục nói thêm một hay hai tiếng nữa, thày nhận ra sự kiện đơn giản là vũ trụ vật lý đặt ra một số giới hạn cho sự tương tác kiểu này giữa chúng ta. Vũ trụ vật lý không đặt giới hạn lên cách con và thày, hay một vị chân sư khác, có thể tương tác trực tiếp trong tâm của con. Các thày không muốn các đệ tử chân sư thăng thiên mãi mãi nghĩ rằng cách duy nhất mà họ tương tác với các chân sư thăng thiên là xuyên qua một vị sứ giả hay một giáo lý vỏ ngoài. Các thày muốn tất cả các con tới được điểm có tương tác trực tiếp với các thày trong trái tim mình và trong tâm mình,

Tới đây thì thày cảm ơn các con, thày cảm ơn các con từ đáy lòng đã hội họp nơi đây nhân ngày lễ Hạ thiên này. Thày bảo đảm với các con là những lời kêu gọi của Mẹ Mary là các hội nghị này quan trọng không vô ích, là điều Mẹ Mary có thể sẽ nói với các con sau khi các con đã giải quyết nhu cầu của thân thể vật lý.

Do đó, con yêu dấu, thày cảm ơn các con một lần nữa. Thày bảo đảm với con là thày tri ân và rất vui mừng có một nhóm đệ tử sẵn sàng để cho thày nói một cách tự do và cởi mở như thế này. Nếu thày đã làm được chuyện này trong 2000 năm vừa qua thì thế giới thật sự đã khác ngày nay.

Một thực tập để chữa lành dùng Tình thương Thiêng liêng

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Hiện diện Tình thương qua trung gian Kim Michaels, ngày 2 tháng 6 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ Hiện diện Tình thương. Các con để ý là khi các con nhận một bài truyền đọc từ một chân sư thăng thiên, thì các vị ấy thường tự giới thiệu mình là: TA LÀ Chân sư Thăng thiên tên. Thày đương nhiên là một Sinh thể trên cõi thăng thiên, nhưng thày chọn không nhận diện mình như một chân sư thăng thiên, vì thày không thăng thiên từ trái đất và ngay cả từ bầu cõi trong đó con đang hiện hữu. Thày thăng thiên từ một bầu cõi trước, và do đó thày giữ một chức vụ trong thứ bậc hoàn vũ cao hơn các vị chân sư thăng thiên đã thuyết giảng cho các con từ trước tới nay.

Thày nói điều này để các con biết vị trí của thày trong thứ bậc hoàn vũ. Điều này giúp con hiểu rằng, trong khuôn khổ điều mà các thày gọi là tiết lộ tuần tự, sẽ có lúc một đợt truyền giáo đặc trưng nào đó, qua đó các chân sư thăng thiên trao truyền ánh sáng xuống trái đất, đã đạt được môt trình độ. Khi đó, các đệ tử của đợt truyền giáo đó đã học hỏi và áp dụng giáo lý tới mức họ có thể tiếp nhận giáo lý từ một tầng của thứ bậc hoàn vũ cao hơn những gì đã được trao truyền trước kia trên trái đất.

Thày tới đây như một sự công nhận là đã có rất nhiều người tiếp thu được giáo lý được truyền dạy trong đợt truyền giáo này về nhị nguyên và bất nhị, về tư duy cuồng đại, về tự ngã, về tình thương, về tình thương vô điều kiện và tình thương có điều kiện. Thày tới đây như một sự công nhận là đã có đủ số người áp dụng những giáo lý này, đã chân thành nhìn vào chính họ, đã nhìn vào những điều kiện mà họ đang có, đã vật lộn với những điều mà tất cả các sinh thể thăng thiên đã trải qua: tức là vật lộn để nhận ra cái gì thật, cái gì không thật, cái gì là tự ngã, cái gì không là tự ngã. Các sinh thể đặt ra các câu hỏi này là điều tự nhiên, nhất là trên một hành tinh tăm tối như trái đất.

7.1. Phản-tình thương là gì?

Vì sao trái đất lại tăm tối như vậy? Ấy, phần lớn là vì trái đất đã bị ảnh hưởng nhiều bởi phản-tình thương. Các con yêu dấu, vậy phản-tình thương là gì? Ta có thể nói là ở đây chúng ta chạm phải giới hạn của trái đất, các giới hạn này do trái đất đã xuống một tầng tâm thức thấp đến độ ngay cả ngôn ngữ cũng đã mang điện từ của nhị nguyên, cũng đã bị thấm đẫm bởi nhị nguyên. Khi con nghe cụm từ “phản-tình thương”, thì con nghĩ nó phải là đối ngược của tình thương.

Lẽ dĩ nhiên, không thể có gì đối ngược với tình thương thật sự. Nó không có đối ngược. Các chân sư thăng thiên đã dạy các con là quan niệm tình thương có đối ngược là một ảo tưởng. Sa nhân đã tạo ra nó vì họ muốn quy định một đối ngược của tình thương và họ gọi đó là phản-tình thương, nhưng “tình thương” là tình thương, là tình thương thật sự. Lẽ dĩ nhiên, khi con quy định một đối ngược, thì con không quy định một đối ngược mà con quy định hai đối ngược. Cái mà đa số con người, đại đa số con người trên trái đất, gọi là tình thương, không phải là Tình thương Thiêng liêng. Nó là đối ngược của phản-tình thương, và cả hai đều do tâm thức nhị nguyên và sa nhân quy định.

Thày tới đây không phải chỉ để trao truyền một giáo lý, mà còn trao truyền một dụng cụ tâm linh và một cách thực tập qua đó thày cống hiến sự trợ giúp của thày cho những ai hướng dẫn thực tập, nghe bài truyền đọc, đọc bài truyền đọc và làm thực tập. Thày sẽ có mặt bên con bất cứ lúc nào con làm những việc này, vì lẽ tự nhiên thày không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Mục đích của bài thực tập là giúp con chuyển hóa tâm mình để con thoát khỏi một vấn đề lớn mà con người gặp phải trên trái đất. Đây là một vấn đề phức tạp, nhưng nó xoay quanh tình thương của Thượng đế Cha.

7.2. Hình ảnh cha của Thượng đế

Nhiều người trong các con đã lớn lên trong một nước Tây phương nơi Thượng đế luôn luôn được mô tả như một người nam, thường là một ông già, thường là một nam nhân đầy giận dữ và phán xét ngồi trên một ngai trên trời, sẵn sàng xử tội con phải vĩnh viễn chịu cực hình trong địa ngục nếu con không vâng lệnh ngài. Con có thể nào thương yêu một vị Thượng đế như vậy với tất cả trái tim, tâm và hồn của mình? Ấy, có người trong phong trào Cơ đốc giáo tuyên bố là con phải thương yêu được Thượng đế đó, và nếu con không thể thương yêu Thượng đế đó, thì ngài có thể đày con xuống địa ngục.

Những người đó không chịu nhìn nhận là hình ảnh Thượng đế mà họ đưa ra không phải là hình ảnh mà Giê-su đã dạy họ. Hình ảnh đó đến từ sa nhân. Họ đã tạo ra hình ảnh một Thượng đế trên trời đầy giận dữ và phán xét như một phương tiện để khiến con người dưới trần gian tuân lệnh họ. Con người sợ bị Thượng đế đầy giận dữ trừng phạt đến độ họ sẵn sàng khuất phục sa nhân đang đầu thai và ngay cả những sa nhân trên ba cõi cao. Đó là lý do vì sao con có một hình ảnh hoàn toàn sai lạc về Thượng đế.

Con yếu dấu, sự thực là gì? Trong bài thỉnh tuyệt vời mà các con vừa đọc [INV05 Bài thỉnh thương yêu chính mình], con có khái niệm Thượng đế Cha và Thượng đế Mẹ. Như các chân sư thăng thiên đã giảng cho các con,Thượng đế Cha là đấng Sáng tạo, là Sinh thể đã tạo ra thế giới hình tướng này. Do đó, vì ngài là đấng Sáng tạo, là sinh thể từ đó toàn thể thế giới hình tướng nảy sinh, ngài là sinh thể đã để một phần Bản thể của ngài vào toàn thể thế giới hình tướng, nên ngài là nguyên lý sinh động theo nghĩa đấng Sáng tạo là vị đã khởi đầu toàn thể thế giới hình tướng. Do đó, khi con áp dụng quan niệm hai cực nam/nữ, là điều mà con người có thể hiểu được trên trái đất, thì Thượng đế Sáng tạo là nguyên lý cha.

7.3. Một cái nhìn thiết thực về Thượng đế

Đấng Sáng tạo có thương yêu con chăng? Ấy, chuyện đầu tiên là con cần nhận ra là đấng Sáng tạo không phải là vị Thượng đế được mô tả trong giáo lý chính thức của Ki-tô giáo, Do thái giáo hay Hồi giáo. Vị ấy cũng thực sự không phải là vị Thượng đế được mô tả trong bất cứ tôn giáo nào khác, kể cả Brahma của Ấn giáo. Tất cả các tôn giáo đều mô tả Thượng đế như một thần linh xa cách. Thượng đế có xa cách không? Có một nơi nào trên cõi cao nhất là nơi Thượng đế ngồi trên một ngai màu trắng và từ trên cao nhìn xuống tạo vật của ngài? Không có đâu, con yêu dấu. Làm sao lại có được? Thày là Hiện diện Tình thương. Thày hiện hữu trong một bầu cõi không những cao hơn trái đất, mà còn cao hơn tất cả mọi sắc thái của vũ trụ vật chất hay bốn cõi của bầu cõi này, là nơi con đang sống. Thày có thể nói với con là dưới mắt thày có một khoảng cách rộng lớn giữa độ rung của trái đất và độ rung của nơi thày ở, hay đúng hơn là bầu cõi nơi thày ở. Từ nơi thày ở cho tới đấng Sáng tạo, thì khoảng cách còn lớn hơn thế nữa.

Thày không muốn cho con cảm giác là đấng Sáng tạo rất xa cách con, nhưng thày muốn cho con một lượng định thiết thực là trái đất có một tâm thức tập thể rất thấp so với độ rung của đấng Sáng tạo. Do đó, nếu ánh sáng của đấng Sáng tạo tập trung thẳng vào trái đất, thì không những là trái đất sẽ nổ tung bởi cường độ của ánh sáng, mà cả vật chất, tức là các nguyên tử và phân tử của mọi thứ trên trái đất, đều bị tiêu hủy vì độ rung của chúng được tức khắc nâng lên. Tất cả những khuôn đúc đã được đặt lên trên Ánh sáng Mẫu-Vật để tạo ra trái đất trong hình thức hiện tại sẽ bị phá tan ngay tức khắc và ánh sáng sẽ được trả tự do.

Như vậy thì con hiểu là đấng Sáng tạo không thể tự biểu hiện trên trái đất. Điều này có nghĩa là con nên lượng định một cách thiết thực là tuyệt đối không có hình ảnh nào mà con có thể tạo ra trên trái đất có thể mô tả đấng Sáng tạo một cách chính xác và thích nghi. Con yêu dấu, đó là lý do vì sao thày nói là không có một nơi nào có đấng Sáng tạo ngồi với một hình tướng có thể nhận diện được. Đấng Sáng tạo là nguồn gốc của mọi hình tướng, do đó hoặc ngài không có hình tướng hoặc ngài có mọi hình tướng. Con có thể thấy nỗi khó khăn khi con mang tâm đường thẳng của trái đất áp dụng vào đấng Sáng tạo.

Con cảm nhận là có cái gì cao hơn trái đất. Con người đã phóng chiếu là phải có một tiến trình tuần tự nào đó, và tiến trình này chấm dứt ở điểm cao nhất, giống như hình ảnh một kim tự tháp. Phải có một điểm, một điểm duy nhất ở trên cao nhất, là nơi đấng Sáng tạo ngồi và từ đó nhìn xuống mọi thứ bên dưới. Thực sự thì đây chỉ là những hình ảnh mà con có thể hiểu được với tư duy đường thẳng đang ngự trị trái đất. Chúng hoàn toàn không dính dáng đến đấng Sáng tạo. Điều thày muốn các con chiêm nghiệm, không những chỉ ngay lúc này mà một cách chung chung, là đấng Sáng tạo không có hình tướng, và tuyệt đối không có hình tướng nào trên trái đất có thể mô tả được đấng Sáng tạo. Không có hình ảnh nào mà con có thể tưởng tượng với tâm thức mà con có trên trái đất có thể mô tả đấng Sáng tạo.

7.4. Đấng Sáng tạo hơn bất cứ mọi hình tướng

Thày cũng muốn các con chiêm nghiệm điều có thể coi là một bí ẩn, là đấng Sáng tạo là nguồn gốc của mọi hình tướng. Khi đấng Sáng tạo tạo ra một hình tướng, thì ngài không trở thành hình tướng đó, nhưng hình tướng được tạo ra từ Bản thể của ngài. Đấng Sáng tạo ở trong hình tướng. Mỗi hình tướng bắt buộc phải có giới hạn vì nó được quy định, và tuy rằng đấng Sáng tạo có thể tạo ra một hình tướng được quy định, nhưng điều này không có nghĩa là Bản thể của đấng Sáng tạo bị giới hạn bởi hình tướng đó. Vì đấng Sáng tạo là tất cả những gì đang là và vì đấng Sáng tạo đã tạo ra mọi chuyện từ Bản thể của ngài, do đó đấng Sáng tạo là hình tướng nhưng cũng hơn hình tướng. Ngài không bị quy định bởi hình tướng, tuy rằng ngài đã quy định hình tướng.

Con yêu dấu, đây chính là nguyên tắc cốt yếu của sự sáng tạo. Con tạo ra một hình tướng. Bản thể của con ở trong hình tướng nhưng bản thể của con không bị gò bó vào hình tướng vì bản thể của con hơn thế. Con yêu dấu, đây cũng là nguyên tắc cốt yếu của sự đồng-sáng tạo khi con là một dòng sống cá biệt được tạo ra từ Bản thể của đấng Sáng tạo. Tuy con không do đấng Sáng tạo trực tiếp tạo ra, nhưng con thuộc một dòng xuất phát từ Tâm Một của đấng Sáng tạo. Đó là lý do vì sao các thày nói là các con đồng-sáng tạo trong bầu cõi đã được đấng Sáng tạo quy định. Tuy con đồng-sáng tạo, nhưng nguyên tắc cũng áp dụng vào sự đồng-sáng tạo của con.

7.5. Con đã sáng tạo cái gì

Con quy định một hình tướng. Để thị hiện nó, con phải phú cho nó một phần bản thể của con. Do dó, con – bản thể của con – ở trong hình tướng nhưng bản thể của con hơn hình tướng. Nó không phải là hình tướng. Nó không bị gò bó vào hình tướng. Con yêu dấu, hình tướng mà con đã tạo ra là gì vậy? Nó có phải là xác thân vật lý của con chăng? Không phải đâu, nó là bốn thể phàm của con; không phải là phần vật lý mà là tâm. Tâm trong cõi bản sắc, tâm trong cõi lý trí, tâm trong cõi cảm xúc, và tâm dính liền với thể vật lý. Đó là tạo vật của con.

Con đã tạo ra nó trong nhiều kiếp sống. Nhiều người trong các con đã ở những nơi khác trái đất, nhưng nhiều người trong các con đã ở trên trái đất trong nhiều kiếp. Con đã tạo ra bốn thể phàm, cỗ xe hồn (soul vehicle), cái ta giúp con sinh hoạt trên trái đất, liên hệ với trái đất. Nó cũng giúp con ở đây mà không bị phát điên, vì đây là một hành tinh có thể khiến các sinh thể bị phát điên.

Thày muốn cho con hình ảnh là con đã tạo cỗ xe phàm của con từ bản thể của con. Bản thể của con ở trong nó, nhưng bản thể của con không phải chỉ là nó. Bản thể của con hơn thế. Con yêu dấu, điều đã xảy ra là với thời gian, và đặc biệt vì hành tinh này tăm tối, con đã bị sa nhân lừa đảo và thao túng.

Thày muốn cho con hình ảnh là khi con xuống đầu thai lần đầu tiên trên trái đất, toàn bộ bản thể của con không đổ dồn vào bốn thể phàm của con. Điều thày nói ở đây không áp dụng cho các dòng sống đã được tạo ra từ sơ thủy để đầu thai trên trái đất. Thày đặc biệt nói tới những dòng sống đã tới trái đất sau khi trái đất rơi vào nhị nguyên. Những dòng sống ở trên trái đất lúc đó đã trở nên đồng hóa với bốn thể phàm của họ. Hầu hết các con đã tới đây với cái mà ta có thể gọi là một nhiệm vụ cứu nguy, trong đó con tình nguyện tới đây để nâng trái đất lên.

Khi con tới đây, con tạo ra từ bản thể của con một cỗ xe là bốn thể phàm của con. Ta có thể nói là bản thể của con lúc đó có một lượng tâm thức, lượng này tùy thuộc các kinh nghiệm mà con có. Điều mà thày nói ở đây không phải là một khái niệm tuyệt đối; nó phần nào là một khái niệm giả tạo. Thày nói ra điều này để giúp con hiểu là khi con xuống trái đất lần đầu, con yêu dấu, con chỉ đầu tư một phần nhỏ của lượng tâm thức của bản thể của con vào việc tạo ra bốn thể phàm. Con phải đầu tư một phần của bản thể của con vào việc tạo dựng cỗ xe hồn vì con không thể tạo ra bất cứ gì mà không tạo từ bản thể của mình, và do đó con cần đầu tư một phần bản thể của mình trong hình tướng mà con tạo ra.

Khi một phần tương đối nhỏ của bản thể của con được đầu tư vào bốn thể phàm, thì con có thể dễ dàng nhận ra là con không phải là bốn thể phàm của mình. Con hơn bốn thể phàm của mình, và do đó con không hoàn toàn tự đồng hóa mình với chúng. Con không hoàn toàn nhập vào việc trải nghiệm và coi trọng mọi chuyện xảy ra với bốn thể phàm, mọi chuyện xảy ra trên trái đất. Con ở trong thế gian, nhưng con không thuộc về thế gian. Con biết con ở đây và con biết là sa nhân không thể kiểm soát được con. Họ không thể tiêu diệt con. Con không thể bị tiêu diệt bởi bất cứ điều gì trên trái đất. Con biết sự kiện này.

7.6. Chấn thương nhập đời hoàn vũ

Khi con trải qua điều mà Mẹ Mary đã goi là chấn thương nhập đời hoàn vũ (cosmic birth trauma) thì con bị một cú sốc lớn, vì sa nhân đã hành hạ con một cách quá khắc nghiệt, và để đói phó với cú sốc đó, con đã phải tạo ra bốn thể phàm phức tạp hơn. Con đã phải tạo ra một số cấu trúc trong thể bản sắc của con. Con đã phải tạo ra một số cấu trúc trong thể lý trí và thể xúc cảm của con. Điều đó cũng đã ảnh hưởng cách con liên hệ với thân thể vật lý, và đã khiến con, trong các kiếp sống kế tiếp, thấy nhu cầu tạo ra một thân thể vật lý dày đặc hơn để có thể chịu đựng các năng lượng trên trái đất. Sau chấn thương nhập đời đó, con bắt đầu tạo ra một cỗ xe hồn phức tạp hơn để phản ứng lại những điều mà con phải trải qua trên trái đất.

Con yêu dấu, không ai chê trách con cả. Các thày hiểu đó là một phản ứng không thể tránh được trước những gì con phải trải qua. Điều thày muốn chỉ cho con thấy là để tạo ra cỗ xe hồn phức tạp đó, con đã phải đầu tư vào đó một phần lớn hơn của bản thể của mình. Khi con đầu tư càng nhiều bản thể của mình vào cỗ xe hồn, thì ý niệm bản sắc của con bị chú tâm vào đó nhiều hơn. Con càng ngày càng tự đồng hóa mình hơn với cỗ xe hồn, và do đó, so với trước kia, con không còn nhận ra, con không còn ý thức là con không phải là cỗ xe hồn, con hơn cỗ xe hồn, con là một sinh thể tâm linh đến từ một cõi cao hơn. Tức là con không bị mắc kẹt vào trái đất, con không bị mắc kẹt vào nhị nguyên, và con không bắt buộc phải phản ứng lại nhị nguyên. Con yêu dấu, con có thấy chăng là sa nhân đã cố ý và dần dần hành hạ con đến độ, để đối phó với tình trạng này, con đã phải tạo ra một cỗ xe hồn càng ngày càng phức tạp. 

Các thày đã cho con hình ảnh, hay đúng hơn các chân sư thăng thiên đã cho con hình ảnh, là có một lằn ranh phân chia vũ trụ vật chất và cõi tâm linh. Ở trên lằn ranh đó là Hiện diện TA LÀ của con, và ngay lằn ranh là một điểm chấm duy nhất. Có một dòng chảy năng lượng hình số tám từ phần phía trên, tức là Hiện diện TA LÀ, xuyên qua điểm chấm đó và xuống bốn thể phàm. Khi con nhân năng lượng lên bằng tình thương, thì dòng năng lượng chảy ngược trở lên và do đó, con nhận được nhiều hơn.

Điều mà các thày đã trao truyền là con có một cái Ta Biết. Ý nghĩa thực của giáo lý đó là để giúp con thấy được là, bất kể cỗ xe hồn mà con đã tạo ra có phức tạp đến đâu, thì con vẫn có khả năng bước ra ngoài nó và nối kết lại với Hiện diện TA LÀ của con. Cái Ta Biết là điểm nối kết mà con không bao giờ mất. Bây giờ, con có thể nói là với nhiều người trên trái đất, cái Ta Biết chỉ là một cái chấm nhỏ. Nó là một điểm nhận biết, môt điểm nối kết, nhưng đó là vì con đã tạo ra cỗ xe hồn rất phức tạp đã thu hút mọi sự chú ý của con, mọi ý niệm bản sắc của con, nên chẳng còn lại bao nhiêu sự chú ý để dành cho Hiện diện TA LÀ.

7.7. Hiểu rõ dòng chảy hình số tám

Bây giờ, con yêu dấu, con có thể nói là lúc đầu tiên khi con xuống trái đất và tạo ra bốn thể phàm (trước khi con bị sa nhân hành hạ), thì dòng chảy hình số tám giữa Hiện diện TA LÀ và bản thể thấp của con đã thấp hơn hiện nay. Có một phần của Hiện diện TA LÀ của con, một phần của cái ta cao của con, ở trong bát cung bản sắc. Nó gần con hơn nhiều, và do đó con có thể kết nối với nó dễ dàng hơn nhiều. Con dễ biết là con hơn bốn thể phàm của mình. Khi con tạo ra cỗ xe hồn phức tạp hơn và bắt đầu tự đồng hóa mình nhiều hơn với nó, thì con mất mối liên lạc có ý thức với Hiện diện TA LÀ. Đó là lý do vì sao ta có thể nói là Hiện diện TA LÀ đã phải rút lui trở lên để nó không bị ảnh hưởng bởi những gì xảy ra cho con trên trái đất. Đó là lý do vì sao trung tâm điểm của dòng chảy hình số tám ngày nay ở ngay lằn ranh giữa cõi tâm linh và bầu cõi nơi con đang chú tâm.

Điều thực sự có thể xảy ra là, khi con đi trên con đường tu, con mở ra lối để Hiện diện TA LÀ có thể bắt đầu đưa một phần của nó xuống các tầng cao của thể bản sắc của con, và ngay cả dần dần xuống sâu hơn nữa. Đó là cách để con trở thành một với Hiện diện TA LÀ của mình. Thày biết là các chân sư thăng thiên đã truyền cho các con một số hình ảnh trong quá khứ, nói rằng con trở thành một cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ và Hiện diện TA LÀ biểu lộ chính nó qua con. Khái niệm này có giá trị, nhưng nó vẫn là một khái niệm đường thẳng. Con cũng có thể nói là vì con là cánh cửa mở, nên Hiện diện TA LÀ có thể đưa một phần của nó xuống bốn thể phàm, càng lúc càng xuống sâu hơn cho tới khi nó phần nào điều khiển được cả xác thân vật lý.

Con yêu dấu, các cách mô tả tiến trình này không mâu thuẫn nhau. Đây chỉ là những cách khác nhau, một cách thì thích ứng hơn cho tư duy đường thẳng, trong khi cách thày trình bày có tính cách quả cầu hơn, ít đường thẳng hơn. Do đó, con cần chiêm nghiệm một chút nếu con vẫn còn dính vào lối nhìn mọi chuyện một cách đường thẳng.

Con yêu dấu, con thấy chăng là khi các thày tiết lộ một giáo lý, các thày cần thích nghi nó cho trình độ tâm thức và điều này có nghĩa là các thày phải tiết lộ giáo lý cho tư duy đường thẳng đang ngự trị trái đất. Khi các thày tiến triển việc tiết lộ tuần tự, thì các thày sẽ càng ngày càng dùng ít khái niệm đường thẳng, và nhiều khái niệm quả cầu hơn. Các giáo lý này hướng về những ai đã bắt đầu bước ra khỏi khuynh hướng tự đồng hóa với tư duy đường thẳng và nhận ra rằng họ không phải là tâm đường thẳng, và không phải mọi chuyện đều có thể được giải thích bằng một kiểu mà tâm đường thẳng có thể hiểu.

7.8. Hiện diện TA LÀ là gì?

Nó quả thực là môt bí ẩn. Quả thực là khái niệm Hiện diện TA LÀ là một thách đố. Hiện diện TA LÀ chính xác là gì? Nó liên hệ với con ra sao? Ta có thể đem hình ảnh của Thượng đế xa cách và chuyển nó sang Hiện diện TA LÀ, như nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã làm. Ta cũng có thể vượt qua hình ảnh này và nhận ra là ta không thể thật sự hiểu Hiện diện TA LÀ với tâm đường thẳng. Con yêu dấu, tại sao lại như vậy? Đó là vì tâm đường thẳng tạo ta hình tư tưởng và phóng chiếu các hình này lên hiện tượng mà con đang tìm hiểu. Khi con muốn hiểu Hiện diện TA LÀ thì tâm đường thẳng của con tạo ra một hình tư tưởng. Nó chỉ biết có cách đó mà thôi. Tâm vỏ ngoài của con, tâm đường thẳng của con, tạo ra một hình tư tưởng và sau đó phóng chiếu hình này lên Hiện diện TA LÀ và nói: “Hiện diện phải như thế này.”

Đây là cách con người và sa nhân hành xử với ý tưởng. Con tạo ra một ý tưởng và phóng chiếu nó lên thực tại. Sau đó, con tìm hiểu thực tại qua phin lọc của ý tưởng, như vậy thực sự có nghĩa là con muốn thực tại phải tuân theo viễn quan của con, phải chứng thực viễn quan của con. Con yêu dấu, các thày không trao truyền cho các con khái niệm Hiện diện TA LÀ để các con tìm hiểu nó từ bên ngoài và tìm cách hiểu nó bằng tâm đường thẳng. Các thày đã trao truyền khái niệm đó với mục đích giúp các con tới điểm có thể trực tiếp trải nghiệm Hiện diện TA LÀ và giải tỏa bí ẩn của tâm đường thẳng.

Cái Ta Biết cũng là một khái niệm mà các thày đã trao truyền. Nó cũng là một bí ẩn. Cái Ta biết chính xác là gì? Khi ta nói nó là nhận biết thuần khiết thì có nghĩa gì? Ấy, nói một cách giản dị, thì có nghĩa là nó không nhị nguyên. Nó không phải lúc nào cũng quan niệm có hai đối cực và do đó phải giải thích mọi chuyện với tư duy nhị nguyên. Nó có tiềm năng nối kết với Hiện diện TA LÀ, với các chân sư thăng thiên, với tâm không đường thẳng, với tâm không nhị nguyên. Nó có thể trực tiếp trải nghiệm điều này – và con có thể trực tiếp trải nghiệm thực tại không đường thẳng.

Các con đã nói đến điều gì khi đề cập đến giao tiếp từ trái tim? Nó không phải là giao tiếp đường thẳng. Nó không đường thẳng. Nó có tính chất quả cầu vì nó kết nối thay vì chia rẽ. Suy nghĩ đường thẳng chỉ có thể chia rẽ vì suy nghĩ đường thẳng muốn quy định một hình tướng bằng cách tách nó ra khỏi các hình tướng khác.

7.9. Suy nghĩ đường thẳng và đồng-sáng tạo

Vậy khác biệt giữa suy nghĩ đường thằng và đồng-sáng tạo là gì? Có phải chăng là thày đã nói ở trên là con đồng-sáng tạo bằng cách hình dung một hình tướng và phú cho nó một phần của bản thể của mình? Có khác biệt gì chăng? Ấy, có đó. Khác biệt có vi tế chăng? . Nó có dễ hiểu chăng? Không, nếu ta dùng tâm đường thẳng! Con không thể hiểu nó. Nhưng tuy con tạo ra một hình tướng hiện hữu trong không gian và thời gian và do đó bị giới hạn vào một cái gì có vẻ đường thẳng đối với con, nhưng hình tướng không được tạo ra bởi tâm đường thẳng. Con yêu dấu, con thấy chăng là con có một thể lý trí. Hầu hết các con cho rằng mình suy nghĩ với thể lý trí. Do đó, con sẽ nói là tâm đường thẳng của con là một phần tự nhiên của thể lý trí. Đó là giới hạn. Tâm đường thẳng không phải là một phần tự nhiên của thể lý trí. Tâm đường thẳng là một sản phẩm của việc sa ngã vào nhị nguyên. Tâm đường thẳng chỉ có thể thấy thời gian và không gian như hiện tượng đường thẳng. Đó là lý do vì sao con thấy thời gian vận chuyển từng phần một theo một hướng nhất định không đảo ngược được. Đó là lý do vì sao con thấy không gian, và con có thể đi từ một nơi này tới một nơi khác trong không gian. Bây giờ, tâm đường thẳng không tà ác. Chỉ duy có điều là tâm đường thẳng bị giới hạn vào lối suy nghĩ đường thẳng, và do đó, nó xếp mọi thứ tách biệt khỏi mọi thứ khác. Nó chỉ có thể quy định hình tướng bằng sự khác biệt.

Bây giờ, con hãy nghe kỹ điều thày nói ở đây. Tâm đường thẳng cần thấy sự khác biệt giữa một hình tam giác và một hình tròn để có thể tách hai hình đó ra và nhận diện chúng. Cho tới đây thì mọi chuyện vẫn tốt. Vốn dĩ không có vấn đề gì với tiến trình này. Khi con tạo ra một hình tướng, con cần tách hình tướng đó ra khỏi các hình tướng khác và phú cho nó một phần bản thể của mình. Con thấy chăng, khi con không ở trong nhị nguyên thì con biết là hình tướng đã được tạo ra từ bản thể của mình, và bản thể này là một phần của Bản thể rộng lớn hơn của Tâm Một của đấng Sáng tạo và của mọi sự sống. Do đó, hình tướng không tách biệt khỏi cội nguồn của nó. Đối với tâm đường thẳng, cội nguồn duy nhất, tâm một không có, và do đó, tâm đường thẳng thấy hình tướng khác biệt.

Con yêu dấu, khi con đồng-sáng tạo lần đầu, con không tạo ra từ tâm đường thẳng. Thể lý trí của con, trước khi con rơi vào nhị nguyên, không suy nghĩ theo lối đường thẳng, không có cái mà bây giờ con gọi là tâm đường thẳng. Tâm đường thẳng hiện ra sau khi con rơi vào nhị nguyên, và điều này có nghĩa là có nhiều hiện tượng trên trái đất đã bị ảnh hưởng bởi tâm đường thẳng. Thày không nói là chúng do tâm đường thẳng tạo ra, vì không phải như vậy. Tâm đường thẳng không thể sáng tạo, nhưng nó có thể là một phin lọc mà con dùng để hình dung một số hình tướng, sau đó con phú cho chúng một phần bản thể của mình và khiến chúng thị hiện trong cõi vật lý.

Nhân loại đã tạo ra một số hiện tượng bị ảnh hưởng bởi tâm đường thẳng. Lẽ dĩ nhiên, đây là điều, như các chân sư thăng thiên đã giảng cho các con, đã khiến vật chất dày đặc hơn – đã tạo ra rất nhiều biểu hiện bất hài hòa, bất quân bình đấu đá lẫn nhau, phá vỡ lẫn nhau – sinh ra bệnh tật và cái con người gọi là thiên tai. Tất cả những biểu hiện bất quân bình này đều bị ảnh hưởng bởi tâm đường thẳng, nhưng tại sao vậy? Vì sao có xung đột giữa một số hình tướng trên trái đất? Vì sao có xung đột giữa các nhóm người? Đó là vì tâm đường thẳng chỉ thấy được sự khác biệt, và sau đó nó quy định là một hình tướng tách biệt khỏi hình tướng khác. Cái tâm cao, tâm quả cầu, lẽ đương nhiên thấy sự khác biệt giữa các hình tướng. Trên cõi thăng thiên, các thày có thấy sự khác biệt giữa một hình tam giác và một hình tròn. Các thày cũng thấy là chúng không phải là hình tướng tách biệt bay lơ lửng trong không gian, vì chúng có cùng nguồn cội. Chúng được phú cho cùng một tâm thức, và đây là điều kết hợp mọi chuyện.

7.10. Đồng hóa mình với cỗ xe hồn

Khi con người bắt đầu tạo ra những cỗ xe hồn phức tạp hơn, thì họ đầu tư càng ngày càng nhiều bản thể của họ vào trong những cỗ xe hồn đó, và bỗng nhiên họ tự đồng hóa họ với cỗ xe hồn. Các cỗ xe hồn bị ảnh hưởng bởi tư duy đường thẳng vì sa nhân đã thành công trong việc khiến tư duy dường thẳng ngự trị trái đất. Con tạo ra cỗ xe hồn để đáp ứng lại tư duy đường thẳng của sa nhân, và đó là lý do vì sao khi cỗ xe hồn đã trở nên phức tạp (khi phần lớn lượng bản thể của con được đầu tư vào đó), con đã chuyển hóa và bắt đầu tự coi mình là một sinh thể đường thẳng.

Đó là lý do vì sao con người đã tự đồng hóa mình với những phân chia mà con thấy trên trái đất: hai giới tính, nam và nữ, các chủng tộc, các nhóm sắc tộc, các tôn giáo, các đảng phái chính trị, các quốc gia. Đó là lý do vì sao con người đã đầu tư quá nhiều vào các phân chia vỏ nên không thể giao tiếp ở tầng trái tim. Họ không thể hiểu nhau; họ không thể chấp nhận được nhau. Họ chỉ có thể thấy xung đột, và do đó không thể có sự hợp nhất thực sự.

Vậy, đâu là yếu tố duy nhất có thể bắc nhịp cầu, có thể vượt qua trạng thái đó? Đó là tình thương. Đó là tình thương theo nghĩa Thiêng liêng. Các thày đã gọi nó là tình thương vô điều kiện để phân biện nó với tình thương nhị nguyên của tâm nhị nguyên, tình thương nhị nguyên do sa nhân quy định. Họ đã quy định nó khi họ nói: “Đây là tình thương thật sự.” Và sau đó: “Đây là cái đối ngược của tình thương, đây là phản-tình thương.” Đây là tình thương, và đối ngược là gì? Là hận thù. Ấy, cả hai tình thương và hận thù do sa nhân quy định từ tâm thức nhị nguyên không dính dáng gì đến Tình thương Thiêng liêng.

Cái Ta Biết của con có thể trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng, bất kể cỗ xe hồn của con phức tạp thế nào, bất kể con đã đầu tư bao nhiêu phần bản thể của mình vào nó, bất kể con đã tự đồng hóa bao nhiêu với nó. Con có thể bước ra ngoài cỗ xe hồn, dù chỉ là trong một khoảnh khắc, và trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng. Khi con trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng, thì nó sẽ chuyển hóa con. Nó sẽ chuyển hóa cách con nhìn mọi chuyện, con yêu dấu.

7.11. Sự tương đồng giữa tất cả mọi người

Cách duy nhất giúp Châu Âu đạt được hợp nhất cao (là hợp nhất thực sự, chứ không phải hợp nhất ép buộc mà các con đang cố tạo ra), là càng ngày càng có nhiều người nối kết được với tình thương đó. Qua đó, họ nhận ra rằng: “Tuy chúng ta đã lớn lên trong những quốc gia khác nhau, chúng ta có những điểm tương đồng. Chúng ta cùng có một cái gì tương đồng.” Nhiều người gọi đó là “nhân tính” (humanity). Ấy, bất kể con người gọi nó là gì, điều quan trọng là họ nhận ra: “Chúng ta có điểm tương đồng, và cái tương đồng đó quan trọng hơn những phân chia vỏ ngoài.” Tại sao vậy? Vì khi con trải nghiệm cội nguồn bên trong mình, khi con đã chính mình kết nối với cội nguồn đó, và khi con gặp một người đã kết nối với cội nguồn của người đó, thì con sẽ cảm thấy có cái gì xảy ra giữa hai người khi các con hội tụ. Đột nhiên, có cái gì hơn nữa.

Có một câu ngạn ngữ cổ nói rằng khi con người gặp nhau, thì một bản nhạc êm ái trổi lên. Con nhận ra là khi con hiệp lại với nhau thì trong sự hiệp nhất đó có cái gì nhiều hơn so với khi các con đơn lẻ. Tác dụng là gì? Con cảm thấy thoải mái hơn và con cảm giác thoải mái hơn về chính mình. Đó là lý do vì sao con người muốn trải nghiệm nó. Như Mẹ Mary đã nói, càng lúc càng có nhiều người nhận ra giá trị của điều này, nhận ra nó một cách có ý thức. Họ muốn sự kết nối chân thực với cái gì cao hơn, bất kể họ thấy hay gọi cái đó là gì. Họ muốn nó, và quả thực đây là một sự biểu hiện tình thương: đây là tình thương biểu lộ. Nó vượt quá tầng của tâm thức, của ý niệm bản ngã mà con người đang có, và bỗng nhiên họ trải nghiệm cái gì hơn nữa. Đây là điều con trải nghiệm khi con mở lòng ra với Hiện diện của các chân sư thăng thiên và của các thành viên khác tại một hội nghị như thế này.

7.12. Trải nghiệm tình thương của Thượng đế

Khi con nối kết với tình thương đó, thì con vượt lên trên tâm đường thẳng, và do đó con không cần phải nhìn đấng Sáng tạo xuyên qua tâm đường thẳng. Con không cần nhìn tình thương xuyên qua tâm đường thẳng. Do đó, con có thể bắt đầu giải tỏa các bí ẩn mà thày đã nói ở trên. Đấng Sáng tạo có thương yêu con không? À, con yêu dấu, đấng Sáng tạo có thương yêu con với tình thương vô điều kiện và vô hạn, nhưng con thấy chăng, đấng Sáng tạo đã ban cho con quyền tự quyết và đấng Sáng tạo tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết của con. Do đó, đấng Sáng tạo sẽ không bao giờ áp đặt ý chí của ngài lên con. Con có thể trải nghiệm Bản thể của đấng Sáng tạo, tình thương yêu của đấng Sáng tạo, nhưng con phải mở lòng ra đón nhận nó.

Vị sứ giả này đã trải nghiệm điều này, như ông có mô tả, và đó là vì ông đã mở lòng ra đón nhận trải nghiệm. Sau đó, ông đã thấm nhập trải nghiệm đó và tới điểm vượt qua được cái nhìn đường thẳng về Thượng đế, cái nhìn đường thẳng về tình thương, và do đó chấp nhận được là điều ông trải nghiệm là tình thương yêu của đấng Sáng tạo. Qua đó, ông cũng hiểu và trải nghiệm là tình thương yêu của đấng Sáng tạo là tình thương yêu mình, nhưng từ tầm nhìn của con, con sẽ trải nghiệm nó như một tình thương không có cá nhân tính. Không phải là đấng Sáng tạo không chú ý tới từng cá nhân, nhưng đó là cách duy nhất mà con có thể trải nghiệm tình thương yêu của Thượng đế khi con còn ở trong môi trường dày đặc và trong bốn thể phàm trên trái đất.

Tuy rằng con có thể trải nghiệm Bản thể của đấng Sáng tạo và trải nghiệm là con nối kết với đấng Sáng tạo (con từ đấng Sáng tạo sinh ra và đấng Sáng tạo thương yêu con), nhưng vì những hạn chế của trái đất nên con sẽ trải nghiệm là tình thương của Thượng đế không có cá nhân tính. Đó là lý do vì sao, như có ghi trong bài Cầu thỉnh thương yêu chính mình, các thày đã cho con hình ảnh là Thượng đế Mẹ ban tình thương cho cá nhân con, tình thương nuôi dưỡng. Lẽ dĩ nhiên, Thượng đế Mẹ là gì? Ấy, ta có thể nói là tất cả là Mẹ, là phân cực của đấng Sáng tạo là nguyên lý Cha. Đối với con, tuy con là một sắc thái của tính Mẹ, nguồn của Tình thương Thiêng liêng cho con trước hết và chủ yếu nhất là các chân sư thăng thiên đang làm việc với trái đất. Các vị đó sẵn sàng ban cho con Tình thương Thiêng liêng, có nghĩa là một Ngọn lửa Mẹ là tình thương cá nhân cho con, một tình thương nuỗi dưỡng cho cá nhân con. Như thày có nói, vì những hạn chế của trái đất nên con không thể trải nghiệm tình thương của đấng Sáng tạo như cái gì dành cho cá nhân con, cho cá nhân con, nhưng con có thể trải nghiệm tình thương của một vị chân sư thăng thiên như một tình thương rất cá nhân, gửi cho chính con. Như một người đã phát biểu ngày hôm qua, con có thể tạo một mối liên hệ như vậy với một vị chân sư thăng thiên, và vị chân sư này sẽ trở nên như một người tâm lý trị liệu của riêng con. Con có thể nói chuyện với vị chân sư về mọi vấn đề và đặt đủ loại câu hỏi. Con sẽ có một câu trả lời, nhưng con phải nhớ rằng vị chân sư sẽ không trả lời câu hỏi đúng y như câu con hỏi, vì con thường đặt câu hỏi với tâm đường thẳng. Mục đích của vị chân sư là giải thoát con khỏi tâm đường thẳng và sự tự đồng hóa với bốn thể phàm. Đây là những loại trả lời mà con sẽ nhận được: những câu trả lời giải thoát con. Những câu đó không nhất thiết trả lời câu con hỏi một cách đường thẳng. Nhiều khi, khi vị chân sư thăng thiên trả lời câu hỏi một cách đường thẳng, thì câu trả lời chỉ củng cố tư duy đường thẳng và sự tự đồng hóa với bốn thể phàm của con.

7.13. Khái niệm tâm linh không theo đường thẳng

Có lẽ điều quan trọng là nhiều người trong các con nên hiểu là mục đích tìm hiểu giáo lý tâm linh không phải là để mình hiểu các khái niệm tâm linh với tâm đường thẳng. Rất, rất, rất nhiều đệ tử chân sư thăng thiên trong nhiều thập niên vừa qua đã bị mắc kẹt trong ý nghĩ cho rằng họ cần học giáo lý với tâm đường thẳng để họ có thể hiểu, phân loại và dán nhãn giáo lý. Họ lúc nào cũng có thể nhớ lại một câu trong các bài giảng và đọc ra cho các bạn nghe, và câu này dường như thích hợp với mọi hoàn cảnh. Đây chính thực là một ngõ cụt trên con đường tâm linh. Lối tu này không giúp con và thực sự lại có thể dẫn con vào đường tu giả, tức là khiến con nối kết với các thày giả trên cõi tư tưởng. Các thày giả này sẽ rất hoan hỷ cho con cảm giác con là một trong những đệ tử tâm linh xuất sắc nhất trên trái đất vì con có khả năng hiểu các khái niệm đó với tâm đường thẳng.

Mục đích thật của giáo lý chân sư thăng thiên không phải là để cho con hiểu biết, mà là để giúp con có một trải nghiệm trực tiếp: trải nghiệm trực tiếp Hiện diện TA LÀ, Hiện diện của một chân sư thăng thiên hay Hiện diện của đấng Sáng tạo, trải nghiệm thực tại không đường thẳng vượt lên trên trái đất. Trải nghiệm đó chính là tình thương. Đó là một trải nghiệm khiến con chuyển hóa. Con có thể thấy là khi một số người gặp gỡ và cảm thấy có tình thương với nhau, thì họ chuyển hóa và bỗng nhiên họ có thể giải quyết các vấn đề và xung đột bên ngoài mà trước kia họ không giải quyết được.

7.14. Một thực tập để chữa lành

Các con yêu dấu, thày biết là thày đã thử thách sức chịu đựng của các con, nhưng thày vẫn chưa xong bài giảng. Thày tin rằng các con sẽ có thể tiếp tục chú tâm khi thày trình bày một thực tập mà thày thực sự muốn trao truyền cho các con. Thày sẽ có mặt bên con mỗi khi con làm thực tập này. Con có thể được kết quả tốt hơn nếu, trước khi con bắt đầu thực tập, con đọc lại bài truyền đọc này vì những khái niệm mà thày trình bày trong đó, lẽ dĩ nhiên, không phải là chuyện tình cờ. Các khái niệm đó là bối cảnh để con thực tập thành công.

Con yêu dấu, thày muốn con suy ngẫm là mục đích của con là cảm thấy thoải mái với chính mình. Lẽ tự nhiên, con có thể nhìn vào trái đất và áp dụng một số mô thức mô tả hiện trạng của trái đất. Con có thể áp dụng một mô thức và nói rằng nguyên do của tất cả mọi vấn đề trên trái đất, tất cả mọi xung đột giữa con người, đều do con người không cảm thấy thoải mái với chính họ. Và để bù đắp lại cảm giác đó, thay vì sửa đổi chính họ và bản thể nội tại của họ, thì họ lại tìm cách thay đổi thế gian và thay đổi người khác. Khi con người khẩn thiết muốn được thoải mái với chính họ bằng cách kiểm soát môi trường, thì đó là đầu mối của tất cả mọi xung đột.

Con cũng thể nói là điều này cũng áp dụng cho sa nhân, vì khi họ sa ngã, họ không cảm thấy thoải mái với chính họ tuy một số trong họ có lòng kiêu hãnh tâm linh lạ thường. Nếu con thực sự nhìn vào một sa nhân, thì con thấy là họ không thoải mái với chính họ. Họ đã thành công trong việc chế ngự trái đất bằng cách khiến con người cảm thấy không thoải mái với chính mình. Nhìn từ góc độ nào đó thì đây là vấn đề duy nhất trên trái đất.

Mục đích của bài này là giúp con cảm thấy thoải mái với chính mình và mục đích của bài thực tập là giúp con trải nghiệm phần quả cầu của bản thể của con. Làm sao con thực sự cảm thấy thoải mái với chính mình? Không phải bằng cách hoàn thành một điều kiện nào đó trên trái đất, nhưng bằng cách nối kết với con người thật của mình, với cái ta cao của mình. Hiện diện TA LÀ của con không thể nào khiến con cảm thấy không thoải mái với chính mình. Con không thể nào cảm thấy không thoải mái với chính mình khi con trải nghiệm Hiện diện của một chân sư thăng thiên. Con không thể nào cảm thấy không thoải mái với chính mình khi con trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng. Con có thể sau đó có một phản ứng, và nó khuấy động điều gì đó trong tâm lý của con, và điều này được phơi bày ra khiến con cảm thấy không thoải mái với chính mình, nhưng đó không do sự trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng, vì khi con ở trong đó thì con cảm thấy thoải mái vì cái ta vỏ ngoài tan biến đi. Mục tiêu là con cảm thấy thoải mái hơn với chính mình, hơn những gì con đang cảm thấy hiện nay.

7.15. Một bài hình dung

Thày muốn con hình dung là con đang đi xuyên qua một khu rừng. Có nhiều cây rậm rạp hai bên nhưng con không để ý đến chúng. Có một con đường mòn trước mặt con. Con đi xuyên qua khu rừng. Con tới một khoảng trống trong khu rừng và ở đó có một cái tháp quan sát giống như con có thể thấy ở một số nơi, con có thể trèo lên đỉnh tháp đó và con sẽ ở cao hơn các ngọn cây và có thể nhìn phong cảnh khắp chung quanh. Con bây giờ đang đứng ở dưới chân tháp và tháp đó có nhiều tầng. Có những bậc thang dẫn tới một mặt phẳng. Từ mặt phẳng đó, có những bậc thang khác đi lên trên. Con hiện đang đứng trên mặt đất. Trước mặt con là những bậc thang đưa lên mặt phẳng thứ nhất. Con đừng nên quan tâm tới đỉnh tháp. Con chỉ nhìn lên mặt phẳng thứ nhất. Có một vị chân sư thăng thiên đang đứng trên mặt phẳng đó. Vị chân sư đó là ai tùy theo mỗi cá nhân con. Vị nào mà con cảm thấy gần gũi nhất với tim mình, thì vị ấy đang đứng trên mặt phẳng thứ nhất. Vị chân sư đang mở hai vòng tay chào đón con. Con biết là nếu con bước lên mặt phẳng đó, thì vị chân sư sẽ ôm con và con biết con sẽ cảm thấy thoải mái hơn với chính mình khi con được một vị chân sư thăng thiên ôm vào lòng.

Vì lý do nào đó, con không nâng bàn chân lên khỏi mặt đất được. Con cố gắng hết sức, nhưng hai bàn chân vẫn dính chặt vào mặt đất. Con nhận ra lý do là vì con đang mang trên mình một gánh nặng. Con đang mang trên mình một gánh nặng và nó đang ngăn cản con bước lên bậc thang. Thày không muốn con nhìn vào chi tiết của gánh nặng đó. Con có thể có một ý niệm nó là cái gì, hay con không có; nhưng con đừng tốn năng lượng tư tưởng cố tìm hiểu nó là cái gì. Con chỉ giản dị hòa điệu với sự kiện có một cái bị đeo trên vai đang khiến con bị nặng chĩu.

Con yêu dấu, bây giờ thì con nhìn lên vị chân sư và con phải lấy một quyết định: “Tôi có muốn bước lên cầu thang và ôm vị thày chăng? Vì nếu vậy thì tôi cần lấy cái bị trên vai tôi và giản dị để nó tuột khỏi vai tôi và rơi xuống mặt đất.”

Bây giờ thì con nhận ra là con quả thực có đủ uy lực để làm chuyện này. Con có thể đẩy cái bị ra, trùng vai xuống, đẩy quai bị và để nó tuột xuống cánh tay của con và nó rơi xuống mặt đất. Bây giờ thì con có thể bước lên cầu thang thứ nhất.

Nếu con muốn thì con có thể cảm thấy đã trút bỏ gánh nặng, và con nắm thành cầu thang và bước lên những bậc thang, và trên đầu cầu thang có vị chân sư ôm chầm lấy con. Con ôm vị thày và con cảm thấy tình thương của vị thày. Con cảm thấy tình thương đó bao phủ toàn thân con, và ngay lúc này, không có chuyện gì hệ trọng nữa.

Nếu con làm thực tập này ở một lúc khác, thì con có thể chọn ở lại tầng này. Không có gì sai trái với việc ở lại tầng thứ nhất này, và ôm vị thày bao lâu cũng được. Con có thể làm thực tập này nhiều lần và vẫn đi tới tầng thứ nhất và ôm vị thày này.

Để tiếp tục bài thực tập, thày bây giờ muốn con nhận ra là con đang ở trên mặt phẳng và có một cầu thang khác dẫn tới mặt phẳng thứ hai bên trên con. Khi con bước tới cầu thang này, thì con thấy có một vị chân sư thăng thiên khác, một lần nữa vị này là ai tùy theo mỗi người trong các con, đang mở rộng vòng tay chờ đón con. Một lần nữa, con cảm thấy bị dính vào mặt phẳng nơi con đang đứng vì con có một cái bị khác đang đè lên vai con.

Một lần nữa, con nhận ra là nếu con muốn, con có uy lực để nhẹ nhàng đẩy nó ra để nó tuột xuống cánh tay con, rơi xuống mặt đất, và con lại tự do đi lên cầu thang. Ở trên đó, có vị chân sư thăng thiên thứ hai ôm chầm lấy con. Một lần nữa, con cảm nhận tình thương của vị thày. Con cảm thấy thoải mái với chính mình. Con cảm thấy tình thương nuôi dưỡng của Mẹ tỏa ra từ vị thày và bao trùm toàn thân con. Dù con thấy vị thày là vị thày nam hay nữ, thì vẫn là tình thương nuôi dưỡng của Mẹ đang tỏa tới con. Con cảm thấy tình thương này dành cho cá nhân con.

Vị thày này biết con, thương yêu con, không phán xét hay chỉ trích con, thương yêu con đúng như con là ngay lúc này. Không có điều kiện nào, ngoại trừ con có ý muốn ôm chầm vị thày của con, và con muốn, ít nhất là trong một khoảng thời gian ngắn, trút bỏ gánh nặng mà con vẫn thường mang theo mình, để con có thể mở lòng ra cho vị thày ôm mình. Vì sao con lại cần mở lòng mình ra? Bởi vì nếu không, thì con không thể cảm thấy tình thương yêu của vị thày. Không phải là vị thày không tỏa ra tình thương, mà chỉ vì con không thể cảm được nó.

Một lúc sau thì con nhận ra có một cầu thang nữa, dẫn tới một mặt phẳng thứ ba và một vị chân sư khác. Một lần nữa. có một gánh nặng mà con có thể trút xuống. Thày không nói các gánh nặng này là gì vì chúng tùy mỗi cá nhân các con. Khi con làm thực tập này, gánh nặng cũng có thể chuyển đổi. Nó có thể khác đi. Con có thể có một viễn quan ngày càng rõ hơn, hay cũng có thể một viễn quan khác. Đó là lý do thày không cho con một viễn quan rõ rệt về nó. Nó chỉ giản dị là một gánh nặng mà con cảm thấy ngay lúc này, và nó ngăn cản con không bước lên được cầu thang thứ ba, và con để nó rơi xuống. Con bước lên cầu thang, và một lần nữa con ôm chầm vị thày ở đó.

Sau một thời gian trong vòng tay vị thày, thì con lại nhận thấy có một cầu thang thứ tư dẫn tới một mặt phẳng thứ tư và nơi đó có vị thày thứ tư đang đợi con. Một lần nữa, con nhận ra là con có một gánh nặng và con chỉ giản dị để nó rơi xuống, vì nay việc này đã dễ làm hơn. Con để cho nó rơi xuống. Con bước lên cầu thang và con ôm chầm vị thày. Đúng, nếu con muốn, con có thể xem các vị thày này tương ứng với các tia ánh sáng, nhưng con không cần phải đi theo đường thẳng như vậy. 

Một lần nữa, tùy con cảm thấy thế nào lúc thực tập (và cũng có thể là vị thày khác nhau mỗi lần thực tập), con bước lên cầu thang và con ôm chầm vị thày thứ tư và cảm thấy tình thương yêu của vị thày đó. Con bắt đầu nhận ra là mỗi vị thày có một đặc tính riêng của Tình thương Thiêng liêng. Mỗi vị thày cho con một cái gì khác, mỗi thứ này đúng những gì con cần để chữa lành một sắc thái nào đó của tâm lý của con. Trong một lúc, con cảm thấy hạnh phúc trong vòng tay ôm của vị thày; và khi con tự mình thực tập, thì con có thể ở mỗi tầng bao lâu con muốn.

Sẽ có một lúc con nhận ra là có một cầu thang khác dẫn lên tầng thứ năm. Một lần nữa, con có một gánh nặng. Con nhận ra nó. Con để nó rơi xuống. Con bước lên cầu thang và con ôm chầm vị thày. Một lần nữa, vị thày này cho con một tính chất hơi khác của Tình thương Thiêng liêng, một hình thức nuôi dưỡng hơi khác. Một lần nữa con cảm thấy thoải mái hơn, nhẹ nhàng hơn, được thương yêu nhiều hơn, được chăm lo nhiều hơn.

Sau một thời gian ở tầng thứ năm, thì lại có cầu thang thứ sáu, và con lại có một gánh nặng. Con để cho nó rơi xuống. Con bước lên cầu thang. Bây giờ thì con ở trên tầng thứ sáu, con ôm chầm vị thày đang cho con một tính chất độc đáo của tình thương nuôi dưỡng của Mẹ Thiêng liêng. Con cảm thấy được thương yêu nhiều hơn nữa, trọn vẹn hơn nữa, đang được ôm chặt hơn nữa trong cảm nhận là không những chỉ có một người chăm lo cho con, mà thực sự là cả vũ trụ đang chăm lo cho con, cho riêng cá nhân con.

Con bắt đầu cảm thấy là toàn thể vũ trụ, toàn thể cõi Mẹ muốn nuôi dưỡng con, cá nhân con, và cho con điều con thực sự cần để con đi con đường mà con đã vạch ra cho mình trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con cảm thấy sự nuôi dưỡng đó. 

Con cảm thấy Mẹ không phải là địch thủ của mình. Mẹ đích thực muốn cho con những gì con cần. Vũ trụ muốn cho con những gì con cần – không nhất thiết là những gì tự ngã hay cái ta vỏ ngoài của con nghĩ nó cần, tỷ dụ như một chiếc xe mới bóng nhoáng, hay điều này điều nọ – nhưng vũ trụ muốn cho con những gì con cần để tăng trưởng.

Sau một thời gian chấp nhận là con thực sự đang sống trong một vũ trụ thân thiện, con nhận ra là có một cầu thang thứ bảy. Con lại cảm thấy có một gánh nặng, và con lại để nó rơi xuống. Con bước lên cầu thang. Có một vị chân sư đang đợi con, nhưng vị thày không đứng ở ngay trên bực thềm cuối vì nay mặt phẳng rộng lớn hơn. Khi con lên tới tầng này, con bỗng nhiên nhận ra là con đã ở cao hơn các ngọn cây. Con ở trên tất cả những chuyện trên trái đất có vẻ khiến con quan tâm. Con gần như có cảm tưởng là con không còn ở trên trái đất. Con đang ở trong một cõi hoàn toàn khác.

Con nhìn xuống trái đất từ rất cao và con thấy trái đất bên dưới. Con thấy bốn thể phàm của mình. Con thấy cuộc đời của mình. Con thấy tất cả những người và những hoàn cảnh chung quanh con từ quãng xa. Con bỗng nhiên nhận ra: “Ồ, có đúng là những người và chuyện này không có tầm quan trọng gì cả nếu ta nhìn từ góc độ hoàn vũ? Có đúng chăng là mọi chuyện con đang trải qua và đang đè nặng lên vai con, và có vẻ rất quan trọng đối với con – có đúng chăng là chúng không quan trọng gì cả nếu nhìn từ góc độ cao này?”

Nếu con muốn, con có thể cho phép mình cảm thấy bỗng nhiên có vô số làn sóng năng lượng đang lớp lớp tràn lên con, và tâm thức của con được mở rộng và mở rộng và mở rộng ra thêm nữa. Con nhận ra là những gì xảy ra trên trái đất – những chuyện có vẻ rất quan trọng đối với con nhìn từ góc độ thường nhật của con – chẳng quan trọng gì cả khi nhìn từ góc độ hoàn vũ. Chúng không quan trọng một cách lạ thường. Không phải là chúng không có nghĩa lý gì, nhưng chúng không quan trọng khi so sánh với cái con là thực sự. Các điều kiện trên trái đất có quá ít ảnh hưởng trên Bản thể thực của con, trên con người mà con thực sự là. Chỉ vì con tự đồng hóa mình với hoàn cảnh nên chúng mới trở nên quan trọng và chúng mới có quyền lực trên con. Nhìn từ góc độ của Hiện diện TA LÀ thì chúng hoàn toàn không có quyền lực gì hết trên Hiện diện TA LÀ. Chúng hoàn toàn không quan trọng, chúng hoàn toàn không có khả năng quy định con.

Sau đó, con nhận ra là có một khoảng cách khủng khiếp giữa tầm nhìn từ Hiện diện TA LÀ và tầm nhìn của con khi con ở trong bốn thể phàm. Con nhận ra là Hiện diện TA LÀ cảm thấy rất thoải mái với chính nó và với con. Con cảm thấy rất thoải mái với chính mình khi con nhìn sự việc từ tầm nhìn của Hiện diện TA LÀ. Con muốn cảm giác đó. Con thực sự muốn giữ được ít nhất là một phần của cảm giác đó khi con trở về bốn thể phàm của mình, và con nghĩ: “Làm sao tôi làm được chuyện này? Làm sao tôi có thể bắc nhịp cầu qua khoảng cách? Làm sao tôi có thể có được một chút cảm giác mà Hiện diện TA LÀ có, khi tôi ở trong thân thể của tôi?”

7.16. Hãy mở lòng ra đón nhận

Lúc đó, con nhận ra là có một vị chân sư thăng thiên đang đứng trên mặt phẳng, giơ ngón tay và nói: “Thày có thể giúp con chăng? Con có cho phép thày giúp con giải tỏa bí ẩn này chăng?” Nếu con muốn, thì con có thể quay về phía vị thày và nói: “Xin thày giúp con thấy những gì trong tâm lý của con, trong thái độ của con, trong các niềm tin của con, trong bốn thể phàm của con, đang ngăn cản không cho con mang theo một phần nào những cảm nhận, tầm nhìn, của Hiện diện TA LÀ khi con trở về bốn thể phàm của con.” Tùy theo con mở lòng tới mức nào, vị thày sẽ cho con một xung lực. Có thể nó không phải là một hiểu biết trí năng, đường thẳng, dùng lý trí. Tùy con mở lòng tới mức nào, vị thày sẽ cho con một xung lực.

Bất cứ điều gì con nhận được từ vị thày, thì lúc ban đầu con khó hiểu thấu. Chắc chắn là tâm đuờng thẳng của con sẽ khó hiểu thấu vì vị thày đang tìm cách giúp con trải nghiệm tầm nhìn từ Hiện diện TA LÀ, và Hiện diện TA LÀ không nhìn cuộc đời với tâm đường thẳng. Vị thày không thể cho con hiểu biết hay khái niệm đường thẳng vì tâm đường thẳng, khi con trở về bốn thể phàm của mình, sẽ chỉ dùng nó để tạo ra một hình tư tưởng khác. Vị thày đang tìm cách trao cho con một cái gì mà con có thể hiểu và có thể mang theo mình. Thày muốn con mở lòng ra đón nhận bất cứ điều gì vị thày trao cho con, và gìn giữ nó, và mang nó theo con khi con đi trở xuống các bậc cầu thang.

Lúc ban đầu, con có thể chỉ muốn đi xuống các bậc thang mà không chú ý đến các vị thày, và trở về bốn thể phàm của mình. Khi con đã quen thuộc hơn với thực tập này, thì con có thể khám phá ra là con có thể ngừng ở mỗi tầng và mỗi vị thày sẽ cho con một cái gì sẽ giúp con.

Con đang đi xuống những bậc thang của tháp, và nay con đã xuống tới mặt đất. Bây giờ thì con đã trở về bốn thể phàm của mình. Con bước trở ra về phía khu rừng, và khi con bước xuyên qua khu rừng thì con dần dần trở về bốn thể phàm của mình, và bây giờ thì con đang ngồi trong chiếc ghế với tâm ý thức bình thường của mình.

7.17. Một tầm nhìn khác

Thày mong rằng con giữ được điều gì đó từ thực tập vừa rồi, và nó sẽ giúp con có được một tầm nhìn khác. Nó sẽ giúp con bắt đầu tiến trình giải quyết vướng mắc trong tâm lý để con dần dần tới điểm con có được tầm nhìn của Hiện diện TA LÀ khi con còn đang sống trong bốn thể phàm của mình. Qua đó, không có gì trên trái đất có uy quyền trên con nữa. Không có gì quy định được con. Con không hoàn toàn tự đồng hóa mình với bất cứ gì. Không có gì con thấy quan trọng đến độ con cảm thấy bị bó buộc phải phản ứng lại nó, và lúc nào cũng phải phản ứng cùng một kiểu.  

Con nhận ra con có thể chọn lựa phản ứng của mình. Con có thể chọn lựa không phản ứng. Con có thể tới điểm con đã vượt thăng những yếu tố trong tâm thức khiến con phản ứng lại một số người hay một số hoàn cảnh. Thày bảo đảm với con là một khi con đã thăng vượt một tầng tâm thức nào đó, con sẽ không còn thu hút những người hay hoàn cảnh khiến con phản ứng. Lúc đó, vì con không còn bị mắc kẹt trong những khuôn nếp phản ứng nên con sẽ dễ dàng hơn hòa điệu với Hiện diện TA LÀ, với các chân sư thăng thiên, và cảm thấy tình thương vượt lên trên trái đất, và do đó, thực sự khiến mọi chuyện trên trái đất trở nên không quan trọng bằng trải nghiệm và biểu lộ tình thương đó.

7.18. Tình thương Thiêng liêng là tầm nhìn tối hậu

Một khi con đã thoáng thấy Tình thương Thiêng liêng, thì không có gì trên trái đất có thể quan trọng khi so sánh với Tình thương Thiêng liêng. Không phải là có điều gì trên trái đất có thể so sánh với Tình thương Thiêng liêng, nhưng cảm giác mà con có khi con trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng vượt lên trên bất cứ điều gì con có thể trải nghiệm trên trái đất. Điều này sẽ lôi kéo con muốn trải nghiệm nó càng ngày càng nhiều hơn, và con càng trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng, thì con càng tách mình ra, không còn tự đồng hóa mình với bốn thể phàm nữa.

Điều này có nghĩa gì? Điều này có nghĩa là lúc đó con đã rút một phần bản thể của mình không đầu tư vào bốn thể phàm nữa, vì con đang làm tan đi cái ta mà con đã tạo ra khi con phản ứng lại thế gian, khiến một phần của bản thể của con bị mắc kẹt trong bốn thể phàm. Khi con rút một phần bản thể của mình ra khỏi bốn thể phàm, thì con bắt đầu có nhận biết rõ hơn rất nhiều về Hiện diện TA LÀ. Con bắt đầu có một mối liên hệ hoàn toàn khác với Hiện diện TA LÀ. Hiện diện TA LÀ không còn ở trên kia và con thì ở dưới này, nhưng chắc chắn là đôi khi con có cảm tưởng mình bay bổng lên và đôi khi con cảm thấy Hiện diện TA LÀ đi xuống nơi con ở. Bỗng nhiên những hàng rào chắn bắt đầu rơi xuống, và ngay cả khái niệm dòng chảy hình số tám không còn là dòng chảy từ cõi này xuống cõi khác nữa. Nó thực sự còn không phải là một dòng chảy nữa. Nó giản dị là một nhận biết, ý niệm là một. Dòng chảy chỉ hiện ra khi con là cánh cửa mở để năng lượng chảy tới người khác, và do đó, con là Tình thương Thiêng liêng đang hành động.

Con yêu dấu, thày biết chắc là con nhận ra là khi một sinh thể ở tầng của thày phát biểu, thì thày không có giới hạn không gian và thời gian. Thày không để ý đến những giới hạn của thân thể vật lý của các con và thày biết là bài giảng này đã rất dài. Thày biết ơn là các con đã sẵn sàng chịu đựng, là các con đã sẵn sàng là cánh cửa mở tỏa chiếu năng lượng và khái niệm từ Bản thể của thày, từ Hiện diện của thày, đến tâm thức đại chúng. Thực sự, điều này đang đặt nền móng cho một sự hợp nhất lớn hơn giữa con người và giữa các dân tộc.

Chắc chắn đây là một điều kiện để mang lại Thời Hoàng kim của Saint Germain. Chắc chắn là thời hoàng kim mà Saint Germain hình dung không thể bị áp đặt. Nó chỉ có thể được đem tới bằng tình thương. Nó chỉ có thể được đem tới khi con người chọn lựa nó vì nó khiến con người thoải mái hơn tình trạng hiện nay.

Quả thực là có bao nhiêu người cảm thấy thoải mái với tình trạng chính trị và kinh tế hiện hành? Mục đích thực sự là gì? Có phải chăng là thay đổi các điều kiện bên ngoài? Không đâu, mục đích là thay đổi cảm giác nội tâm để con người nhận ra là có những điều kiện, có những viễn quan có thể khiến họ cảm thấy thoải mái hơn. Điều này trở nên động cơ thúc đẩy – không phải là một động cơ thúc đẩy đường thẳng, vỏ ngoài, vị kỷ. Nó trở thành động cơ thúc đẩy để: “Tôi muốn cảm thấy thoải mái với chính mình và tôi muốn người khác cũng cảm thấy như vậy. Khi tất cả chúng tôi đều cảm thấy thoải mái với chính mình và chúng tôi hiệp lại, thì chúng tôi sẽ cảm thấy thoải mái hơn là khi chúng tôi riêng rẽ.” Đó chính là cách chân thực để thể hiện một thời đại hoàng kim.

Thày biết ơn và thày chấp nhận từng cá nhân các con, bất kể con là ai, bất kể con ở đâu, bất kể con nhìn mình như thế nào. Thày không thấy con như con thấy chính mình. Thày thấy toàn bộ bản thể của con và thày chấp nhận mỗi sắc thái của bản thể của con, mỗi sắc thái của con người con ngay lúc này và tiềm năng trở nên hơn nữa của con.

27 | Hiểu các giới hạn của hiểu biết

Chương này cũng được đăng tải dưới tựa đề “Giải tỏa bí ẩn của con đường quả vị Phật” trong sách “Chữa lành chấn thương tâm linh.” Là bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 6 tháng 5 năm 2017 nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Phật, tên ta là Gautama. Thày muốn nhân cơ hội này trình bày một số đề tài có vẻ không nói tới Hàn Quốc. Tuy không nói gì về Hàn Quốc, thày vẫn nói điều gì đó về Hàn Quốc cho những ai có thể hiểu được.

Nếu con tìm hiểu bài giảng tuyệt vời của Giê-su về Con đường Quả vị Ki-tô, con sẽ thấy, con yêu dấu, là có một số giai đoạn trên con đường này. Đặc biệt là khi con tới gần và vượt qua tầng 96, con sẽ phải đối mặt một số thách đố mà con phải giải quyết để có thể tiến lên cao hơn tới tầng 144. Chúng ta có thể xem những thách thức này giống như một số nghịch lý, một số bí ẩn, mà con phải giải quyết trước khi con có thể vươn lên một tầng cao hơn của đường tu. Có một số bí ẩn như thế, nhưng thày sẽ không đi vào tất cả mà chỉ bình luận một số.

27.1. Thấy mâu thuẫn hay nhìn vượt quá chúng

Bây giờ, con thấy chăng con yêu dấu, khi các thày là chân sư thăng thiên tiếp cận với nhân loại chưa thăng thiên để trao truyền một giáo lý, các thày đối mặt một khó khăn đặc thù mà ít người đang hiện thân hiểu được. Sự thực là khi con là một chân sư thăng thiên, con đã thăng vượt tâm đường thẳng, nhị nguyên và phân tích. Do đó, con có một sự nhận biết quả cầu hơn; con không nhìn mọi sự qua phin lọc của hai cực, của cực đoan, của phê phán giá trị và một thang điểm giá trị. Con không có cái tâm đường thẳng so sánh lời này với lời kia, và có thể tâm này thấy có mâu thuẫn khi hai câu có vẻ như không nói cùng một chuyện.

Lẽ dĩ nhiên các thày biết là trên thực tế, những ai chưa thăng thiên ở trong trạng thái tâm dễ nhìn thấy mâu thuẫn vì họ tìm cách giải thích mọi chuyện với tâm đường thẳng. Họ nghĩ phải hiểu lời này theo nghĩa đen, phải hiểu lời kia theo nghĩa đen; và khi con lấy nghĩa đen của hai lời nói thì chúng có vẻ mâu thuẫn. Giờ đây con yêu dấu, có nhiều học viên tâm linh đã bắt đầu học hỏi giáo lý tâm linh, hay cũng vậy học hỏi giáo lý của các tôn giáo, và họ thấy những gì họ nhận thức là mâu thuẫn. Nhiều người trong thế giới Tây phương đã dùng những điều có vẻ mâu thuẫn trong kinh sách tôn giáo để lý luận theo khoa học hay chủ nghĩa duy vật là mọi tôn giáo đều là chuyện giả dựng và không thật sự hợp lý.

Lẽ dĩ nhiên, đây là hậu quả cùng cực khi sử dụng tâm đường thẳng. Ngay cả nhiều người mộ đạo hay tâm linh cũng tìm thấy mâu thuẫn, thường là giữa hai giáo lý tâm linh khác nhau. Điều này khiến họ nghĩ là họ phải suy luận rằng một trong hai cái là đúng và cái kia là sai. Còn có cả những người bắt đầu thấy mâu thuẫn ở trong một giáo lý tâm linh và điều này khiến họ hoang mang, và thậm chí một số bỏ cả đường tu. Mục đích của thày ở đây là đưa ra một số nhận xét có thể giúp con vượt quá giai đoạn này, vì quả thực đây là một giai đoạn trên đường tu. Có thể nói là con đã vươn lên trên tâm đường thẳng nhưng con chưa đột phá một cách ý thức và chưa giải thoát tâm ý thức của mình khỏi lối suy nghĩ đường thẳng. Con chưa thấy được một cách ý thức những giới hạn của lối suy nghĩ đường thẳng và do đó con vẫn bị xáo trộn bởi những điều trông có vẻ mâu thuẫn kia.

Nhìn một cách rất tổng quát, con yêu dấu, thày có thể nói với con rằng, lẽ dĩ nhiên, có thể có một số trường hợp có một số lời dạy mâu thuẫn. Các thày, khi trao truyền giáo lý qua một sứ giả chưa thăng thiên, không thể bảo đảm là không có một số sai sót len lỏi vào và có thể có một ít mâu thuẫn chỗ này chỗ kia. Khi con tới một mức chín chắn hơn trên đường tu, con sẽ không để cho một sai sót hay một mâu thuẫn khiến con bác bỏ phần còn lại vẫn có giá trị của giáo lý. Tuy thế, trong đại đa số trường hợp, điều có vẻ là mâu thuẫn chỉ có vẻ mâu thuẫn vì nó được nhìn qua phin lọc của tâm đường thẳng. Khi con thấy một mâu thuẫn, phản ứng xây dựng hơn là con nói: “Tôi cần nâng tâm thức mình lên để tôi có thể có một cái nhìn cao hơn về vấn đề. Chắc phải có điều gì đó tôi chưa thấy, chưa hiểu. Khi tôi thấy nó rồi, nó sẽ giải quyết điều hiện giờ trông có vẻ mâu thuẫn.” Sau đó, con mở tâm ra đón nhận sự hướng dẫn trực tiếp và trực giác từ các chân sư thăng thiên, từ Hiện diện TA LÀ của con, từ cái Ta Ki-tô của con để giải tỏa bí ẩn. Hoặc con học hỏi thêm giáo lý vì con nhận ra rằng có thể có những phần giáo lý khác có thể giúp con giải tỏa bí ẩn.

27.2. Hiểu lầm về sự không dính mắc

Một ví dụ mà nhiều người coi là mâu thuẫn là sứ vụ của chính Phật. 2500 năm trước đây, thày giảng là mục tiêu giáo lý của thày là cho các con một con đường tu giúp các con vượt lên trên trạng thái tâm thức bình thường bằng cách đạt được sự hoàn toàn không dính mắc. Tuy thế, con yêu dấu, nếu cá nhân thày đã đạt được sự hoàn toàn không dính mắc, thì tại sao thày lại bỏ công đi giáo hóa?

Nói cách khác, nhiều người hiểu khái niệm không dính mắc có nghĩa là không quan tâm tới chuyện gì xảy ra trên trái đất. Hó lý luận rằng nếu Phật thật sự không dính mắc thì Phật không quan tâm đến chuyện xảy ra cho người khác, và nếu thế thì đâu cần bỏ công đi vào thế gian và giảng dạy một giáo lý có thể giúp họ thoát khổ? Tại sao Phật không chỉ giản dị không dính mắc và tiến lên các tầng cao hơn, và để con người khám phá những điều mà Phật đã khám phá và nhờ vậy tự giải thoát nếu có thể. Nếu họ không tự giải thoát được thì Phật cứ để họ tiếp tục đi theo bánh xe của luân hồi và đau khổ cho tới khi họ chán ngán và tự thức tỉnh.

Con thấy chăng, con yêu dấu, không dính mắc không đồng nghĩa với không quan tâm. Tuy nhiên nó không phải là sự quan tâm của người phàm. Nó không dựa trên sợ hãi. Nó không muốn ép buộc người khác hay áp lực thế gian phải thay đổi. Không dính mắc không có nghĩa là con chọn không làm gì hết. Nó có nghĩa là con có thể chọn làm gì đó để giúp người khác, hay con có thể chọn làm chuyện gì khác. Nếu con chọn giúp người khác thì con không hành động như người phàm phu muốn thấy một kết quả đặc thù. Thực ra, con không giảng dạy để đạt một mục tiêu đặc thù nào cả, con không tìm cách đạt một kết quả đặc thù từ sự giảng dạy của con. Con giảng dạy vì con muốn chia sẻ điều con đã khám phá, con muốn chia sẻ cái con là. Do đó, con không tìm cách ép buộc người khác; con cống hiến cho họ một trạng thái tâm thức khác với trạng thái tâm thức đang thịnh hành trên trái đất.

Một số người có thể coi sự phân biệt ở trên quá vi tế, hay có thể còn vô lý nữa. Thày công nhận điều này. Thày không thể giúp con giải tỏa những nghịch lý này nếu con chưa tới trình độ sẵn sàng làm điều mà thày vừa mô tả và nâng cao tâm thức của mình. Nếu con lúc nào cũng phóng chiếu là vấn đề “ở ngoài kia”, vấn đề ở trong giáo lý hay ở vị thày, thì con không thể giải tỏa các nghịch lý này. Lúc ấy con phải đi vào Trường đời Cay đắng và nhận đủ lượng cay đắng cho tới khi con sẵn sàng nói: “Có thể tôi mới là người phải thay đổi, có thể sự ngăn trở nằm ngay trong tâm thức của tôi thay vì là lỗi của vị thày, của giáo lý, của người khác hay của thế gian?”

27.3. Thấy được hạn chế của tâm đường thẳng

Một số các con biết câu truyện về cuộc đời của thày là sau khi thày đắc quả vị Phật, sau khi thày nhập Niết bàn và dự tính ra khỏi Niết bàn để đi giáo hóa, thì thày phải đối mặt với sự chống đối của toàn bộ lực của thế gian, nói rằng chuyện đi giáo hóa của thày thật vô ích. Trạng thái tâm thức mà thày đạt được quá khác, trong nền tảng, với trạng thái tâm thức của mọi người, nên họ không thể hiểu giáo lý của thày. Nói cách khác, sự giáo hóa của thày sẽ không đem lại thay đổi nào.

Câu trả lời của thày là: “Sẽ có một số người hiểu.” Trong 2500 năm qua, một số đã hiểu nhưng chỉ có một số ít. Tuy nhiên, chúng ta đang ở một thời điểm mà nhiều người hơn đã sẵn sàng hiểu và đây là lý do vì sao bây giờ thày xuất hiện như một chân sư thăng thiên, như một trong nhiều chân sư thăng thiên khác và cố gắng trao truyền cho các con một giáo lý thích ứng với thời hiện đại.

Một lần nữa, trước khi thày quyết định làm việc này, thày phải đối mặt với lực đó và nó không phải là một sinh thể có ý thức. Lý do giản dị là khi thày, như một chân sư thăng thiên, muốn xét xem thày làm được gì cho nhân loại chưa thăng thiên, thì thày cần hòa điệu với trình độ tâm thức của nhân loại. Lúc đó, thày phải đối diện với sự khác biệt giữa tâm thức đại chúng và tâm thức của chính thày, và có lúc thày cảm thấy như không thể nào bắc được nhịp cầu qua khoảng cách đó. Vì vậy thày phải đối phó với sự việc này, phải tìm một cách giải quyết trong tâm mình. Thày nhìn xem con người đang ở đâu trong tâm thức và thày tìm cách giúp họ vượt lên trên mức đó và hòa điệu với một khía cạnh nào đó của Hiện diện của thày, Bản thể của thày.

Bài truyền đọc này là một biểu hiện của việc làm này, các bài truyền đọc khác của thày và của tất cả các chân sư thăng thiên cũng vậy. Điều thày muốn làm ở đây là giúp con thấy được các hạn chế của tâm đường thẳng vì tâm đường thẳng, duy lý, phân tích, quả thực chiếm ưu thế trong thế giới ngày nay nhiều hơn 2500 năm trước đây.

27.4. Khi giác ngộ ngăn cản giác ngộ

Thày muốn cho con một ví dụ khác. Một khái niệm mà thày trao truyền cho thế gian thủơ đó là Bát chánh đạo có thể đưa con tới một trạng thái tâm thức cao mà thày gọi là giác ngộ. Thời đó, thày cố gắng giảng cho mọi người làm thế nào đạt được giác ngộ, và tránh đừng để khái niệm giác ngộ ngăn chận sự giác ngộ của mình. Rất ít người đã hiểu được điều này, và đặc biệt trong thời hiện đại này cũng rất ít người hiểu được, chính là vì ảnh hưởng của tâm đường thẳng.

Con thấy chăng, con yêu dấu, các thày đã trao truyền cho các con khái niệm con đường tâm linh. Các thày đã nói về 144 tầng tâm thức, nói là con có thể bắt đầu một cách ý thức con đường tu ở tầng 48, và con có thể phác họa hành trình của mình để tiến lên đến tầng 96. Con có thể đi theo một số bước hợp lý giúp con dần dần nâng cao tâm thức theo một tiến trình đường thẳng. Các thày cũng có nói là con có thể vượt quá tầng 96, và một lần nữa con đi qua một số bước cho tới khi con tới tầng 144. Cách này lẽ dĩ nhiên là một tiến trình đường thẳng, nhưng con đường tâm linh hay tiến trình đạt giác ngộ không nhất thiết phải mô tả theo cách đường thẳng. Ta có thể mô tả nó theo cách quả cầu. Điều giản dị là những gì các thày trao truyền trong thời đại này thích ứng với sự kiện là các con suy nghĩ theo lối đường thẳng. Lẽ dĩ nhiên các thày đã thích nghi giáo lý, thiết kế chúng theo một cách để giúp các con dần dần thoát khỏi sự mù lòa của tâm đường thẳng và vượt lên trên nó bằng cách cả gan đi theo trực giác, vì trực giác không theo đường thẳng.

Thày vẫn muốn đưa ra ở đây một số ý về khái niệm giác ngộ. Để có thể hiểu nó trọn vẹn, chúng ta cần bước lui về một chút. Thày cố trao truyền giáo lý này 2500 năm về trước, nhưng trao truyền nó vào thời ấy quả thực khó khăn hơn. Con có thể nói điều trớ trêu là nó khó khăn hơn vì con người thời đó không suy nghĩ theo đường thẳng giống như con người thời nay.

Con yêu dấu, không phải là thời trước tốt hơn, hay người thời trước cởi mở với giáo lý tâm linh hơn người thời nay. Thày cũng không muốn nói ở đây là sự phát triển của tâm đường thẳng đã là một thoái hóa. Nó chỉ là một thoái hóa khi nó được dùng một cách cùng cực. Sự phát triển của tâm đường thẳng trong dạng cao của nó quả thực được thiết kế bởi các chân sư thăng thiên. Nó là một bước tiến hợp lý tiếp theo sau lối suy nghĩ thần thoại, thần thông của con người trước thời hiện đại. Chính vì con có tâm đường thẳng hơn mà các thày mới có thể cho con một cách nhìn mới về giác ngộ và làm thế nào khái niệm của con về giác ngộ có thể ngăn chận sự giác ngộ của con.

27.5. Những hạn chế của sự hiểu biết

Các con có, trong tư duy hiện đại, khái niệm về sự hiểu biết (understanding) một điều gì. Con có ý niệm là có một mức hiểu biết thấp khi con chưa có đủ kiến thức và tầm nhìn thấu suốt (insight). Sau đó, con có thể đi theo một tiến trình thu thập càng ngày càng nhiều hiểu biết và tầm nhìn thấu suốt hơn, cho tới khi con thấy được điều mà trước đó con không thấy khi con chưa đủ kiến thức cao. Điều này đã giúp cho các thày dễ trình bày hơn một đường tu hợp lý, theo đó các thày có thể khiến hành giả trụ vào lòng mong muốn tiến triển của họ. Các thày có thể trao truyền cho họ một tiến trình rất tuần tự, đi từng bước để tăng triển kiến thức và sự hiểu biết của họ về khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Tuy thế con cũng có thể hiểu được ở đây, ngay cả với tâm đường thẳng, là hiểu biết có nhiều tầng mức. Điều này dễ nhìn thấy.

Một vài trăm năm trước đây, ngay cả các nhà khoa học cũng chỉ có một hiểu biết giản dị và sơ khai về vũ trụ vật chất so với ngày nay. Ngày hôm nay, họ có một hiểu biết tinh xảo hơn, chi tiết hơn, sâu sắc hơn. Ở đây có sự tiến bộ, nhưng con có thể chuyển đổi cách hiểu với tâm đường thẳng và thấy rằng tăng triển kiến thức không phải chỉ bằng một cách hay chỉ ở trong một hệ thống.

Con yêu dấu, chúng ta có để đưa ra ví dụ giản dị của khái niệm nguyên tử. Tất cả vật chất được tạo ra từ nguyên tử và ngay cả nguyên tử cũng được tạo ra từ những phần nhỏ hơn, gọi là hạt cơ bản. Thày vừa trình bày kiến thức này cho con bằng ngôn từ rất giản dị nhưng các nhà khoa học đã mất mấy thế kỷ để khai triển kiến thức này. Ngay đây, thày vừa trình bày kiến thức này cho con bằng một ngôn ngữ gọi là tiếng Anh, nhưng con cũng có thể trình bày kiến thức này bằng tiếng Hàn, tiếng Tàu hay tiếng Pháp hay bất kỳ ngôn ngữ nào khác. Đó là cùng kiến thức đó nhưng được phát biểu với những từ ngữ khác.

Con cũng có thể thấy với tâm đường thẳng là khoa học nói chung tìm cách mô tả sự vận hành của vũ trụ vật chất, nhưng không phải chỉ có một ngành khoa học. Thí dụ, con có ngành vật lý học và ngành hóa học. Khi con dùng cái nhìn của vật lý học về cách vận hành của vật chất, thì con mô tả cách vận hành này theo một cách. Khi con dùng cái nhìn của hóa học thì con lại mô tả một cách khác.

Không phải là hai cách nhìn loại trừ lẫn nhau hay không tương hợp. Chúng là những cách khác nhau để mô tả cùng một hiện tượng. Sau đó, con có thể nhìn rộng hơn và thấy điều mà con gọi là sự sống trên trái đất là nhiều hơn khía cạnh vật chất vật lý. Cũng có cái mà con gọi là sự sống sinh học được mô tả bởi khoa sinh vật học. Sinh vật học không tương phản với vật lý học hay hóa học. Nó có thể xem xét những hiện tượng hơi khác một chút nhưng điểm chính là nó mô tả sự sống một cách khác. Rồi con có thể tiến xa hơn nữa và thấy có nhiều khoa vật lý đã tìm cách diễn tả những khám phá của họ bằng ngôn ngữ toán học. Bây giờ thì con thấy có ngôn ngữ thường ngày mà con người sử dụng để giao tiếp trong đời sống hàng ngày của họ, và có ngôn ngữ toán học mà các nhà khoa học dùng để mô tả một số hiện tượng vượt quá những gì con người chạm trán trong đời sống bình thường.

Thực sự con không thể nói là ngôn ngữ toán học tương phản với ngôn ngữ hàng ngày. Đây là hai cách khác nhau để mô tả, trong nhiều trường hợp, cùng một hiện tượng. Lẽ dĩ nhiên, toán học có thể mô tả một số hiện tượng hay mô tả chúng chính xác hơn ngôn ngữ hàng ngày. Mặt khác, con yêu dấu, ngôn ngữ hàng ngày rất hữu ích cho nhiều ứng dụng thực tế. Một ví dụ ngớ ngẩn, con yêu dấu, là con hãy thử vào một tiệm McDonald’s và gọi mua một cái bánh thịt hambua (hamburger) bằng cách dùng một công thức toán và ai biết con sẽ nhận được món hàng gì. Con thấy ở đây là với tâm đường thẳng mà con người có ngày nay, con có thể thấy được là những ngành khác nhau của khoa học là những cách song song để mô tả cùng một hiện tượng.

Con cũng có cả khái niệm, đã được một số người khai triển dựa trên những khám phá của khoa học, là có những thực tại song song, những vũ trụ song song, những chiều kích song song có thể hiện hữu lồng trong nhau. Con bây giờ có ngành vật lý học tiến bộ nhất gọi là học thuyết dây (string theory), nói về những sợi dây li ti rung động hiện hữu trong 11 chiều kích. Con bắt đầu thấy là ngay cả tâm đường thẳng cũng có thể dùng để mở rộng sự hiểu biết của con người về các khái niệm tâm linh khi con nhận ra là một giáo lý tâm linh (không nhất thiết là một tôn giáo giáo điều nhưng là một giáo lý tâm linh toàn vũ hơn) chỉ giản dị là một ngôn ngữ. Nó không chỉ là một ngôn ngữ với ngôn từ mà là một ngôn ngữ với khái niệm. Khi khoa học mô tả một hiện tượng như một sợi dây rung động và khi một giáo lý tâm linh mô tả nó như một sinh thể cơ bản, thì đây không phải là hai lối mô tả tương phản nhau mà là những lối mô tả song song của cùng một hiện tượng. Có thể khoa học không chấp nhận điều này nhưng những ai cởi mở với giáo lý tâm linh có thể thấy là có nhiều cách mô tả cùng một hiện tượng. Một số cách khiến con chú tâm vào một số khía cạnh của hiện tượng và những cách khác khiến con chú tâm đến những khía cạnh khác.

27.6. Giác ngộ không phải là một khái niệm

Thày đã bắt dầu bài giảng dài dòng này bằng cách nói rằng thày sẽ giải thích vì sao việc trao truyền khái niệm về giác ngộ có thể ngăn chận sự giác ngộ của con. Bây giờ chúng ta cần dùng các nhận xét của thày để đi tới được điểm nhận ra rằng khi khoa vật lý học mô tả vật chất một cách và khoa hóa học mô tả cách khác và giáo lý tâm linh mô tả một cách thứ ba, thì cả ba lối giảng dạy này, con yêu dấu, có cùng chung một điểm là chúng cho con một khái niệm mà tâm con có thể dùng để tạo ra một hình ảnh nội tâm về hiện tượng. Con không thể nào thấy được hạt nguyên tử với mắt vật lý cho nên khi con đọc lời mô tả hạt nguyên tử của vật lý học, lời mô tả này không cho con một trải nghiệm trực tiếp về hạt nguyên tử. Nó giúp con tạo ra một hình tư tưởng về hạt nguyên tử. Bây giờ, hình tư tưởng này có thể hữu dụng vì nó cho con cảm giác là con hiểu hiện tượng. Nó cũng có thể hữu dụng về mặt thực tiễn vì nó có thể cho phép con làm một số việc trong đời sống hàng ngày.

Tại sao thế giới hiện đại đã tạo ra được một nếp sống vật lý thoải mái tiện nghi hơn khiến con người ngày nay làm được một số điều thường nhật mà con người một ngàn năm trước không thể mơ tưởng được? Đó là vì khi tâm đường thẳng phát triển và khi tư duy khoa học đem lại cho con người một sự hiểu biết nào đó về thế giới, thì con đã có thể giải quyết những vấn đề mà 500 năm hay 1000 năm trước con người không giải quyết được với sự hiểu biết của họ lúc đó. Điều này đã hữu dụng vì con người đã làm được một số chuyện trong thế giới thực tiễn và nhờ vậy họ đã tạo được một mức sống cao hơn cho đại đa số.

Đó chính là lý do vì sao Saint Germain đã bảo trợ rất nhiều công nghệ dựa trên kiến thức khoa học. Nó đã giúp con người tạo được một nếp sống thoải mái tiện nghi hơn để tâm họ được tự do theo đuổi phần tâm linh của đời sống, thay vì toàn bộ năng lực bị cuốn hút trong chuyện kiếm sống. Con yêu dấu, đây rõ ràng là một sứ tiến bộ, nhưng mọi chuyện trong vũ trụ vật chất đều có cái giá phải trả (ít ra là khi rất đông người còn bị mắc bẫy trong ý niệm tách biệt, trong tâm thức nhị nguyên). Như người ta thường nói, cái gì cũng có mặt trái. Mặt trái là con người quá dính mắc vào khái niệm khoa học nên không thấy được là khái niệm mô tả hiện tượng không phải là hiện tượng. Đây là một giới hạn rất quan trọng. Nhiều người trong thế giới hiện đại đã đánh mất ý niệm (mà ít nhất một ít người có thời trước) rằng tâm có những khả năng vượt quá khía cạnh đường thẳng và phân tích của tâm. Các thày đã giảng là tâm thức luôn luôn đi trước sự biểu hiện vật lý. Mỗi hiện tượng vật lý hiện hữu trong thế giới vật chất đều có một khuôn đúc tâm thức hiện hữu trong các cõi bản sắc, lý trí và tình cảm. Tâm vỏ ngoài của con, giác quan vật lý của con, phần của tâm dính chặt vào giác quan vật lý, chỉ kinh nghiệm được hiện tượng vật chất mà không trải nghiệm được tâm thức ở đằng sau.

Có những khía cạnh khác của tâm có tiềm năng trải nghiệm tâm thức ở đằng sau bất cứ hiện tượng vật lý nào. Khi con trải nghiệm tâm thức đó, con có được một trải nghiệm trực tiếp về toàn bộ hiện tượng. Nhưng con yêu dấu, điều này không có nghĩa là con không cần hiểu biết đường thẳng nữa. Để có thể sống trong đời sống thường nhật thực tiễn, con cần hiểu biết đường thẳng. Như một đệ tử tâm linh, con cần nhận ra là khi các thày, những chân sư thăng thiên, trao truyền một khái niệm về một hiện tượng tâm linh nào đó, thì tâm đường thẳng của con sẽ tức khắc tạo ra một hình tư tưởng trong nội tâm về hiện tượng đó.

Đây là điều mà Giê-su mô tả một cách khác trong bài truyền đọc của thày về quả vị Ki-tô khi thày nói là khi con ở tầng tâm thức 48, con hình thành một khái niệm về quả vị Ki-tô nhưng nó không thể nào là quả vị Ki-tô trọn vẹn. Do đó, con không thể nào vươn lên các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô nếu con không sẵn lòng vượt lên trên khái niệm hiện nay của con về quả vị Ki-tô và trải nghiệm một thực tế cao hơn. Thày Giê-su cũng nói là khi con đi quá tầng 96, con không còn quan tâm dùng tâm đường thẳng để hiểu nữa mà chú tâm hơn vào việc trải nghiệm. Tiến trình giác ngộ cũng đúng như vậy.

Khi thày trao truyền khái niệm giác ngộ, thày đã cố gắng diễn tả điều này và biết là có ít người hiểu được. Con thấy chăng, con yêu dấu, khái niệm giác ngộ chỉ là thế: nó chỉ là một khái niệm. Đối với tất cả những ai ở một trạng thái tâm thức thấp, thì nó chỉ có thể là một khái niệm. Họ hình thành một hình tư tưởng về giác ngộ, họ muốn thiết lập một số tiêu chuẩn vỏ ngoài. Họ muốn thiết lập một con đường tu máy móc nói rằng: “Nếu tôi đi theo những bước này và làm hết mọi chuyện y như mô tả, thì rốt cuộc tôi phải tự động được giác ngộ. Khi tôi giác ngộ, khi một người giác ngộ, người đó có đặc tính này và đặc tính kia. Người đó cư xử như thế này, không cư xử như thế kia, người đó nói như thế này, không nói như thế kia.” Tâm đường thẳng muốn làm như vậy.

Con yêu dấu, như vậy thì tâm đường thẳng không hữu dụng trên đường tu chăng? Lẽ dĩ nhiên là không đúng. Như Giê-su cũng đã mô tả, ở một điểm nào đó con cần đi theo một đường tu rất đường thẳng, rất hợp lý. Tâm đường thẳng có thể rất, rất hữu ích vì nó giúp con người nhận ra rằng cuộc sống có một khía cạnh tâm linh, và họ thấy một con đường tu đường thẳng có một số giai đoạn, một số sáng ngộ càng ngày càng cao hơn, giúp cho họ dần dần nâng cao tâm thức. Đường tu đường thẳng quả thực nâng cao tâm thức của con, nhưng một đường tu đường thẳng đi lên từng bước chỉ có thể đưa con tới một mức nào đó. Nó có thể dẫn con quá tầng 96 nhưng con yêu dấu, con hãy cẩn thận lắng nghe.

Các thày có nói là có 144 tầng tâm thức, do đó điều hợp lý là khi con tới tầng tâm thức 139, thì con cần bước thêm một bước để lên tầng 140. Sau đó con bước thêm bước nữa và con ở tầng 141 và cứ tiếp tục như vậy. Con thấy chăng, con yêu dấu, tính chất đường thẳng chặt chẽ mà con thấy ở giữa tầng 48 và 96 càng ngày càng bớt quan trọng khi con đi quá tầng 96.

Có thể nói là khái niệm về con đường tu bớt quan trọng đối với con. Con không còn chăm chú lượng định: “Tôi đang ở tầng nào đây? Tôi phải trải qua sáng ngộ nào để lên tầng kế tiếp, người ở tầng đó có những đặc tính gì?” Con giản dị không còn quan tâm con đang ở đâu bởi vì bây giờ, thay vì chú tâm vào từng bước đơn lẻ, con chú tâm vào tiến trình. Có thể nói là thay vì chú tâm vào những hình ảnh tĩnh của dòng sông, thì con chú tâm vào sự chuyển động của dòng sông, vào chính tiến trình.

Điều thày muốn nói là khi con còn mang trong tâm khái niệm về một đường tu sẽ dẫn con từng bước một tới niết bàn hay giác ngộ, thì con sẽ không bao giờ đạt mục đích này. Thoạt nghe có vẻ mâu thuẫn khi thày nói là để đạt giác ngộ, con phải đi theo một con đường tuần tự, nhưng khi con còn khái niệm của đường tu đó thì con không thể đạt giác ngộ. Con yêu dấu, lý do là vì giác ngộ không phải là một hiện tượng đường thẳng, nó không phải là một hiện tượng vật lý, thậm chí nó còn không phải là một trạng thái tâm thức. Không thể nói là khi con ở tầng 143 con chưa giác ngộ, nhưng tới tầng 144 thì con đã giác ngộ. Thật ra có một tầng thấp hơn ở một điểm nào đó trên tầng 96, thì con đạt một trạng thái có thể gọi là giác ngộ, vì lúc này con hiểu được là điều quan trọng duy nhất là con giải thoát tâm mình khỏi mọi khái niệm dựa trên các điều kiện của thế gian. Đó cũng là lúc con nhận ra rằng khái niệm về giác ngộ của con chỉ là thế: chỉ là một khái niệm, không phải là một trải nghiệm. Do đó, con có thể xoay chuyển tâm con, để thay vì cố gắng hoàn thành các tiêu chuẩn được định ra bởi khái niệm giác ngộ của con, thì con thoát khỏi hình ảnh, thoát khỏi khái niệm. Do đó, con trải nghiệm điều thày gọi là giác ngộ, là một cách nhìn khác khi tâm con không đồng hóa với chính khái niệm của nó về hiện tượng vật chất.

Có một số hiện tượng trong thế giới vật chất không chỉ do tâm con tạo ra. Như các thày có nói trước đây, mọi hiện tượng vật chất được tạo ra bởi một tâm, lúc khởi đầu bởi tâm của các Elohim. Từ khi nhân loại bắt đầu đầu thai trên hành tinh, thì nhân loại đã đồng-sáng tạo một số hiện tượng hiện hữu ngày nay. Khi con còn ở các tầng tâm thức thấp, con không trải nghiệm thế giới vật chất như nó là, con trải nghiệm nó qua các khái niệm của tâm, các khái niệm mà con đã tạo ra trong tâm mình. Tâm của con, tâm cá nhân của con không tạo ra các hiện tượng vật chất, nhưng nó đã tạo ra các hình tư tưởng của con, các khái niệm của con về các hiện tượng này – chúng là gì, chúng vận hành ra sao, con làm gì được với chúng, con không làm gì được với chúng.

Nói cách khác, tâm con quy định cách con nhìn thế giới vật chất có khả năng hạn chế tâm con như thế nào. Con hiểu chăng, con yêu dấu? Có một số hiện tượng vật chất, nhưng điều hạn chế con không phải là hiện tượng vật chất mà là các hình ảnh, các khái niệm trong tâm con. Con đường để đạt được điều mà các thày gọi là “tâm làm chủ vật chất” là giải thoát tâm con khỏi khái niệm, do tâm tạo ra, đã giới hạn sự trải nghiệm vật chất trực tiếp của con.

Trạng thái giác ngộ không phải là một trạng thái toàn hảo. Thậm chí nó còn không phải là trạng thái cuối cùng. Con có thể có trạng thái mà thày, như là Phật, đã gọi là giác ngộ mà vẫn chưa ở tầng 144, vẫn còn phải đi qua những tầng giác ngộ nữa trước khi thăng thiên. Có thể nói là tầng giác ngộ thấp nhất là khi con ngừng đồng hóa mình với những hình ảnh và khái niệm mà chính tâm con đã tạo ra. Con nhận ra rằng mọi thứ con có trong tâm con liên quan tới thế giới vật chất (và cũng vậy, đại đa số những thứ con có trong tâm con liên quan tới thế giới tâm linh) chỉ là những khái niệm do tâm tạo ra. Bằng cách không dính mắc vào các khái niệm này, không dính mắc vào các hình ảnh này, không đồng hóa mình với các hình ảnh này, con có thể giải thoát tâm con khỏi những hạn chế do các hình ảnh này định ra.

27.7. Tâm làm chủ vật chất

Nhiều người trong các con đã chấp nhận những hình ảnh rất vi tế là tâm con không thể thay đổi vật chất. Ngày nào con còn tin, còn đồng hóa mình, còn dính mắc vào các hình ảnh này, thì tâm con không thể nào thay đổi vật chất. Khi con giải thoát tâm con khỏi các hình ảnh này thì tâm con có thể bắt đầu thay đổi vật chất. Khi ấy, tâm con bắt đầu nhận ra là các hiện tượng vật lý là biểu hiện của các khuôn đúc của tâm thức ở ba tầng cao. Tâm con quả thực  khả năng ảnh hưởng các khuôn đúc tâm thức này.

Như vậy, tâm con không bị mắc kẹt trong hiện tượng và không bị mắc kẹt trong những hình ảnh của con về hiện tượng. Điều này khế hợp với điều thày nói lúc bắt đầu vì con có thể nhìn vào những sự mâu thuẫn hay có vẻ mâu thuẫn ngay trong những giáo lý mà các thày đã trao truyền trong hai ngày hội nghị này. Ví dụ, con có tất cả các bài truyền đọc của các chân sư chỉ cho con thấy một vấn đề cá biệt nào đó trong xã hội mà con cần đọc lên trong các bài thỉnh, để cầu thỉnh ánh sáng của các chân sư thăng thiên và như thế các chân sư có thể can thiệp và đem lại thay đổi trong xã hội. Mặt khác, con có bài truyền đọc của thày trong hội nghị vừa qua nói rằng con hãy chú tâm vào hiện tại và trân quý hiện tại, đừng lúc nào cũng quan tâm đến quá khứ lẫn vị lai. Con có thể nói: “Ủa, phải chăng là có một sự mâu thuẫn ở đây?” Con thấy chăng, con yêu dấu, muốn giải tỏa điều có vẻ nghịch lý này, thì con cần nhận ra sự khác biệt giữa cái nhìn dựa trên sợ hãi và nhị nguyên của con người và cái nhìn dựa trên tình thương và bất nhị của các chân sư thăng thiên.

Thật đúng, con yêu dấu, là các chân sư muốn thấy một sự thay đổi đường thẳng và tuần tự sẽ cải thiện điều kiện sống của con người trên trái đất. Tuy nhiên điều này không xung khắc với tâm thức của Phật. Thày rời niết bàn để giáo hóa con người vì thày cũng mong muốn thấy một sự cải thiện đường thẳng và tuần tự trong điều kiện sống trên trái đất. Điều khác biệt là các thày không dính mắc vào những thay đổi đặc thù ở một thời điểm đặc thù. Các thày, như đã nói trước đây, không chú tâm vào một thay đổi đặc thù vì mục đích toàn bộ của các thày là nâng cao tâm thức của những anh chị em chưa thăng thiên, để các con có thể bắt đầu ý thức hơn về tiến trình đồng-sáng tạo.

Con thấy chăng, con yêu dấu, thày không bảo con đừng quan tâm đến những gì xảy ra trong tương lai. Thày không bảo con lờ đi chuyện quá khứ. Con cần ý thức những gì đã xảy ra trong quá khứ để hiểu những cơ chế đã tạo ra một số vấn đề, và các vấn đề này đã tạo ra một số giới hạn trong xã hội. Con cần nhận ra tâm thức bên dưới để con có thể giải thoát mình khỏi nó và giúp người khác tự giải thoát khỏi nó.

Khi thày bảo các con hãy chú tâm hơn vào hiện tại, thì thày không nói là con phải ép buộc tâm con lờ quá khứ, lờ vị lai. Thày bảo các con khắc phục những vết thương mà con có trong quá khứ để khắc phục sự dính mắc của con vào quá khứ, để quá khứ không thể lôi kéo con vào những khuôn nếp phản ứng quả thực sẽ ngăn chận con (1) thưởng thức giây phút hiện tại, và (2) được tự do lấy một quyết định sẽ thay đổi hướng đi của đời mình trong tương lai.

Thày cũng bảo con giải tỏa tâm lý của mình để không bị vướng kẹt trong khuôn nếp lúc nào cũng tìm cách trốn chạy giây phút hiện tại, để đi vào một tương lai tưởng tượng nào đó nơi đó con nghĩ mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn. Nói cách khác, thày bảo con đừng cố gắng hướng tới tương lai mà trốn chạy việc giải quyết các vấn đề tâm lý của mình, đó chính là lý do vì sao rất nhiều người bị mắc kẹt trong những mơ tưởng về một tương lai tốt đẹp hơn. Thày bảo con hãy thực sự giải thoát mình khỏi sự trốn chạy vào mơ tưởng về một tương lai tốt đẹp hơn, và thay vào đó, con chú tâm vào việc giải tỏa tâm lý của mình để con có thể chú tâm vào hiện tại. Chỉ trong hiện tại con mới lấy được những quyết định ý thức thực sự giúp con, cho con quyền lực để đồng-sáng tạo một tương lai tốt hơn.

27.8. Đạt được tự do tâm trí khỏi quá khứ

Nếu con xem bài giảng cuối của thày, con thấy là thày đưa ra ví dụ là khi con mắc kẹt trong một khuôn nếp phản ứng, thì con có cảm tưởng là đời con chỉ có một hướng đi. Rất nhiều người bị mắc kẹt trong những khuôn nếp khiến họ cảm thấy bị hoàn cảnh bên ngoài giam chặt trong một cái hộp, và họ chỉ còn một chọn lựa duy nhất trong hoàn cảnh hiện tại của họ. Chọn lựa của họ sẽ có một hậu quả không thể tránh, và nó đem tới một hoàn cảnh khác một lần nữa lại cho họ cảm tưởng là chỉ có một chọn lựa thôi. Điều này tạo ra một hậu quả khác và đây là điều gọi là Biển Luân hồi, hay bánh xe trầm luân, bởi vì lúc nào con cũng có cảm tưởng mình chỉ làm được một điều. Con không có chọn lựa nào khác, con không có tự do chọn lựa. Bất kể con làm gì cũng đều tạo ra hậu quả là đời con càng thêm căng thẳng, thêm đau khổ, và cho con cảm tưởng con bị giam chặt hơn nữa trong hộp.

Đây là lý do vì sao, như một số các nữ chân sư đã nói, nhiều người trong văn hóa Á châu (do sự quy định rõ ràng về vai trò của người nam và người nữ) cảm thấy là khi đám cưới xong và niềm vui hưng phấn lúc đầu đã tàn, thì họ cảm thấy cuộc đời bị khóa lại như bánh xe lăn trên đường rày, và họ chỉ có một chọn lựa duy nhất là lăn trên đường rày này. Cảm giác này khiến họ căng thẳng và đau khổ nhưng họ không nhìn ra lối thoát.

Trong bài giảng cuối, thày không nói là con chú tâm vào hiện tại như một cách để chạy trốn, nhưng con cần giải quyết những khuôn nếp của quá khứ và thăng vượt lòng mong ngóng một tương lai tốt đẹp hơn, để con được tự do trong tâm lý và thấy rằng không bao giờ có hoàn cảnh nào mà con chỉ có một chọn lựa. Lúc nào con cũng có chọn lựa nhìn vào các khuôn nếp phản ứng của mình và thay đổi cách con phản ứng với hoàn cảnh. Một khi con thay đổi phản ứng của mình, khắc phục sự dính mắc, thì con sẽ có thể thấy được là ít nhất con có hai chọn lựa. Có thể là con không có chọn lựa vô hạn nhưng con có được thêm một chọn lựa khác ngoài chọn lựa mà trước kia con xem là duy nhất. Khi con chọn chọn lựa mới này, con vẫn tạo ra hậu quả nhưng nó sẽ không nghiêm trọng hay giới hạn con như trước đó.

Điều này có nghĩa là trong hoàn cảnh mới của con, con lại có thể xem xét phản ứng của mình. Khi con khắc phục một khuôn nếp phản ứng, con sẽ thấy mình có ba chọn lựa trong hoàn cảnh mới. Khi con chọn chọn lựa cao nhất trong số đó, con sẽ đưa mình vào một hoàn cảnh trong đó con có thêm chọn lựa với hậu quả bớt nghiêm trọng hơn. Đó là cách con dần dần đạt được tự do và lúc ấy, như thày đã nói trong bài giảng trước, con thấy mình đang đứng giữa một cánh đồng rộng mở và con có thể chọn đi về bất cứ hướng nào.

27.9. Mọi sự đều là dáng vẻ

Điều này, con yêu dấu, là mức tự do tâm trí mà con đạt được trên tầng 96. Đó vẫn chưa phải là giác ngộ, tuy rằng khi con đạt được mức tự do tâm trí này thì việc xoay chuyển lên trạng trái giác ngộ sẽ dễ hơn hẳn. Khi con đạt được tự do trong tâm thì điều gì tạo nên tự do đó? Đó là con ngưng tự đồng hóa với những hình tư tưởng mà chính tâm con đã tạo ra cho rằng thế giới như thế nào và thế giới hạn chế con ra sao.  giúp con dễ chuyển hóa để tới điểm nhận ra (như thày đã cố giải thích rất nhiều năm về trước) rằng mọi sự trong thế gian chỉ là hiện tượng. Đó là một dáng vẻ (appearance), đó không phải là một thực tại được khắc trên đá hay bằng hạt nguyên tử.

Mọi sự đều là sản phẩm của một khuôn đúc trong tâm thức. Đó là điều thày đã cố giải thích rất nhiều năm về trước nhưng cảm thấy khó giải thích vì con người lúc đó chưa có cả khái niệm về tâm thức hay về các thực tại song song, hay về các ngôn ngữ khác nhau mà thày đã giảng trong bài này. Khi con nhận ra mọi chuyện đều là hiện tượng, đều là một dáng vẻ có thể thay đổi được (khi con hòa điệu vào tâm thức đằng sau hiện tượng và làm việc để thay đổi các khuôn đúc trong cõi tình cảm, lý trí và bản sắc), thì con sẽ đạt được một cái nhìn hoàn toàn mới về cuộc sống. Con cũng có thể đạt được một cái nhìn hoàn toàn mới về những gì các thày đã giảng.

Con yêu dấu, các thày đã nói gì với con lần trước? Saint Germain đã nói gì về xu hướng xem cuộc đời rất hệ trọng trong văn hóa Á châu? Saint Germain có nói là con sẽ không tạo nên Thời đại Hoàng kim bằng cách làm việc cực nhọc hơn mà bằng cách vui đùa nhiều hơn. Đồng-sáng tạo là một hành động vui đùa, không phải là một hành động xem cuộc đời hệ trọng đến độ con muốn kiểm soát mọi khía cạnh của cuộc sống.

27.10. Xem giáo lý quá hệ trọng

Trong những tổ chức chân sư thăng thiên trước đây, các thày thấy học viên có khuynh hướng rõ ràng sử dụng giáo lý rồi bỗng chốc nhìn cuộc đời, nhìn con đường tâm linh và chính họ một cách rất hệ trọng. Họ bỗng nhận ra tiềm năng tạo dựng một thời đại tốt đẹp hơn hẳn trên thế giới. Trong một tổ chức trước đây (khi họ vẫn còn bị mắc kẹt trong suy nghĩ nhị nguyên), thì họ nghĩ rằng mục tiêu của một đệ tử chân sư thăng thiên là để ngăn ngừa một tai họa to lớn nào đó, tỷ dụ như chiến tranh nguyên tử. Họ rất chú tâm vào sự nghiêm trọng của tai họa này và chỉ có họ mới ngăn ngừa được tai họa. Vì vậy họ phải xem nhiệm vụ này cực kỳ hệ trọng đến độ phải đọc chú suốt ngày và phải cư xử đúng theo một bộ quy luật rất nghiêm ngặt.

Con yêu dấu, khuynh hướng này đi quá xa tới điểm họ mất cả niềm vui trong cuộc sống, và con có thể chắc chắn là trước khi theo học giáo lý của chân sư thăng thiên, họ đã từng hạnh phúc và yêu đời hơn rất nhiều. Nhiều người trong số họ có người thân thấy được tình trạng này và cố nói cho họ biết, nhưng họ vẫn không chịu nghe vì họ coi việc “cứu nguy thế giới cho Saint Germain” là chuyện cực kỳ hệ trọng.

Con yêu dấu, lẽ dĩ nhiên, các thày không muốn thấy các con lặp lại những khuôn nếp này và đó là lý do vì sao các thày cố cho các con một viễn quan cao hơn (có thể là con phải đọc giữa hai hàng chữ, nhưng thày đã cố nói khá thẳng thắn trong bài giảng này). Điều thày muốn con thấy là con có thể chuyển đổi tâm mình để nhận ra là lẽ đương nhiên, các thày muốn con đọc các bài thỉnh, các thày muốn con nâng cao tâm thức và các thày quả thực thấy con là chìa khóa để cải thiện đời sống trong xã hội. Con có thể thỉnh gọi để trao thẩm quyền cho các thày gỡ đi một số những lực tà ác cùng năng lực đen tối, sẽ giúp người khác thức tỉnh và đón nhận các ý tưởng mới này.

Các con quả thực quan trọng đối với các thày, nhưng con yêu dấu, chính vì các con quan trọng đối với các thày nên các thày không muốn các con bị gánh nặng hay bị căng thẳng về chuyện này. Các thày muốn các con chuyển đổi tâm mình để nhận ra đây không phải là một trách nhiệm hay một bổn phận mà các thày đặt lên vai con. Đây là một phần của Sứ vụ thiêng liêng mà con đã chọn trước khi đầu thai, và các thày không muốn con xem việc này nghiêm trọng đến độ chẳng còn chỗ nào cho niềm vui. Các thày muốn con xem đây là một hành động vui đùa. Chuyển đổi không khó lắm đâu dù là nó cần một tiến trình, một phần là vì con cần đối phó với tư duy tập thể trong phần thế giới nơi con sống, là nơi mà mọi người xem mọi sự đều cực kỳ hệ trọng.

Các thày muốn con nhận ra ở đây, con yêu dấu, là con có thể thực hiện sự chuyển đổi này bằng cách không dính mắc vào việc tạo nên kết quả đặc thù trong xã hội của con. Dĩ nhiên, các thày đã phác họa một số mục tiêu mà các thày muốn thấy được thay đổi tại Hàn quốc. Lẽ dĩ nhiên, các thày có muốn thế. Ai lại không muốn thấy những mục tiêu này, những tiến bộ này được thực hiện? Các thày không dính mắc vào việc muốn những tiến bộ này được thành hình theo một cách đặc thù nào đó, ở một thời điểm đặc thù nào đó, qua những người đặc thù nào đó. Các thày lúc nào cũng tôn trọng quyền tự quyết. Nói cách khác, các thày không muốn áp đặt điều này lên người dân Hàn quốc. Như các thày đã nói rất nhiều lần, các thày muốn giải thoát họ để họ có thể tự nhiên bừng tỉnh và nhận ra, ừ nhỉ tất nhiên đấy là bước kế tiếp và đấy là điều họ thực sự mong muốn.

Sự chuyển đổi mà các thày muốn con thực hiện trong tâm là nhận ra vai trò của con là thỉnh gọi để cho phép các thày nhập cuộc và làm công việc của các thày. Khi con thỉnh gọi xong, con không cần dính mắc vào những gì sẽ xảy ra trong xã hội, vào những gì người khác sẽ làm. Con để cho họ tự do bởi vì các thày để cho họ tự do. Các thày không tìm cách ép buộc ai hết. Các thày cũng giải thoát con và muốn con tự giải thoát mình, và nhận ra rằng công việc con làm không được trở thành một gánh nặng khiến con căng thẳng, ngăn chận con làm tròn những bổn phận hàng ngày trong đời sống, hay cản trở con vui hưởng cuộc sống hàng ngày của con.

Các thày yêu cầu con luôn luôn tìm sự vui hưởng trong phụng sự và đời sống hàng ngày. Đây thật sự là Bát chánh đạo mà thày cố giảng cho mọi người 2500 năm về trước, nhưng nhiều người đã không nắm được vì đối với họ, giác ngộ hay đường tu trở thành một bổn phận khác, một mục tiêu đeo đuổi khác. Nó trở thành một nguồn căng thẳng bởi vì họ cảm thấy họ không đủ khả năng làm tròn công việc, hoặc họ cảm thấy họ còn rất xa mục đích, hoặc họ cảm thấy họ phải cố gắng thêm rất nhiều, hoặc họ cảm thấy vì họ đã cố gắng rất nhiều rồi nên họ rõ ràng cao trội hơn người khác và họ trở nên kiêu mạn.

27.11. Cái bẫy ở mỗi giai đoạn của đường tu

Điều thày nói với con ở đây có thể được diễn tả một cách rất giản dị, đó là con đường tâm linh có những giai đoạn và các tà lực không muốn con tiến từ giai đoạn này lên giai đoạn tiếp theo. Ở mỗi giai đoạn, họ đã đặt ra cho con một cái bẫy. Họ muốn con rơi vào bẫy này và đứng yên ở tầng đó. Do đó, các thày giản dị cho con khái niệm là con đường tâm linh có thể xem như một trò chơi. Ở mỗi giai đoạn, con biết là tà lực có giăng một cái bẫy. Con chỉ cần tỉnh giác và để ý tìm cái bẫy bằng cách nhìn vào các phản ứng của mình, nhìn vào phản ứng của những người tâm linh khác và nói: “Ồ, bây giờ tôi thấy cái bẫy đây và tôi sẽ không đặt chân vào đó.”

Khi con nhận ra điều này, con nhận ra là con cũng chẳng cần xem tà lực là hệ trọng, bởi vì con có thể thấy được cái bẫy của họ, nhưng họ thì không thấy. Họ bị mắc kẹt trong trí tưởng tượng giới hạn của chính họ. Con không bị mắc kẹt trong trí tưởng tượng giới hạn, và khi con có giáo lý của các thày và áp dụng giáo lý, thì việc tránh bẫy không khó lắm. Cho nên con có thể tới một điểm khi đường tu không là một nguồn căng thẳng mà là một nguồn vui thú. Con đi trên đường tu một cách vui thú, và nếu con làm một lỗi thì có sao đâu, con yêu dấu? Con đã học hỏi từ lỗi lầm này, và sau đó con giản dị tiến tới từ điểm đó. Con nhận ra rằng quả thực, như các thày đã nói trước đây, con không thể làm một chọn lựa sẽ khiến con bị mắc kẹt đời đời. Bất cứ chọn lựa nào cũng có thể được tháo gỡ bằng cách có một chọn lựa sáng suốt hơn, một chọn lựa tỉnh thức hơn.

27.12. Giác ngộ không là một mục tiêu

Điều thày muốn nói để kết thúc là giác ngộ không phải là một giai đoạn trên con đường của 144 tầng tâm thức. Giác ngộ không phải là mục tiêu tối hậu của Bát chánh đạo. Giác ngộ không phải là một mục tiêu, nó không phải là một khái niệm, nó không phải là một hình tư tưởng. Nó là một trải nghiệm không bị mắc kẹt vào các hình tư tưởng. Cách duy nhất để đạt được giác ngộ là bước ra khỏi các hình tư tưởng và cho phép mình trải nghiệm. Con trải nghiệm giác ngộ ở đâu? Không phải trong quá khứ, không phải trong tương lai, mà chỉ ở trong hiện tại. Con có thể trải nghiệm giác ngộ trong bất cứ hiện tại nào có thể hiện ra cho con. Con hãy giữ trong tâm những khái niệm này cho tới khi có một giây phút hiện tại nó bỗng trở nên hiển nhiên với con, và con nói: “Bây giờ thì tôi đang ở đó!” Thậm chí con còn không nói: “Bây giờ thì tôi thấy nó” bởi vì con đang không thấy nó như một khái niệm cách xa con. Con trải nghiệm nó như thực tại mới của con.

Con yêu dấu, một lần nữa đây là một bài giảng dài có thể thách thức khả năng ngồi trên ghế cứng của thân thể con. Nó có thể thách thức khả năng của cảm thể con muốn né tránh không phản ứng lại một điều nào đó mà thày nói. Nó có thể thách thức khả năng của trí thể con bắt nó tiếp tục chú tâm vào những khái niệm phức tạp mà thày đưa ra. Nó có thể thách thức bản sắc thể của con khiến con tự hỏi: “Ấy, dựa trên những điều Phật nói, tôi là ai đây? Tôi là loại sinh thể nào đây?” Lẽ dĩ nhiên, con yêu dấu, đây là thách đố tối hậu bởi vì bất kỳ ý niệm bản sắc nào con có trong thế gian này chỉ là một hình tư tưởng. Nó không có thực tại tối hậu và con không thể đem nó theo con vào trạng thái thăng thiên. Con chưa cần buông bỏ ý niệm bản sắc của con bây giờ, mà con buông bỏ nó từng phần một. Con chỉ buông bỏ lần cuối cùng khía cạnh cuối cùng của bản sắc thế gian của con khi con sẵn sàng thăng thiên. Nếu không như thế, thì cái gì sẽ giữ con lại trong thân thể? Cái gì sẽ giữ con chú tâm vào việc phụng sự đời sống – bởi vì nói cho cùng, đó là một phần rất lớn của đường tu của con?

Con đừng tin, con yêu dấu, là đường tu chỉ có chuyện nâng cao mức tâm thức của mình và loại bỏ cái ta vỏ ngoài. Con đã chọn đi vào thế giới này vì con muốn có một số trải nghiệm và con muốn đồng-sáng tạo một thế giới tốt đẹp hơn. Con muốn đóng góp vào sự tiến triển đi lên của thế giới này.

Con yêu dấu, không đúng là việc con phụng sự đời sống, cách con biểu hiện đời sống, việc con vui hưởng đời sống, việc con trải nghiệm đời sống, đi ngược lại sự tiến triển tâm linh. Đó là lý do vì sao nhiều năm trước đây, thày nói giác ngộ cũng giống như tâm thức không giác ngộ. Khi con giải thoát mình khỏi khái niệm tạo nên tâm thức không giác ngộ và giải thoát mình khỏi khái niệm giác ngộ, thì lúc đó con nhận ra là thế gian không phải là kẻ thù của sự tiến triển tâm linh; nó là cỗ xe để con tiến triển tâm linh. Kỳ thực con đường quả vị Phật của con không bị ngăn trở khi con đi vào một trạng thái tâm thức thấp vì đây là một phần của trải nghiệm mà con cần có trong thế gian này. Nó cho con nền móng để biết những điều kiện nào con muốn thay đổi trong khi con tham gia vào tiến trình đồng-sáng tạo một thế giới tốt đẹp hơn.

Cho nên, con thấy là khi con đạt tới một giai đoạn nào đó, con không hối tiếc bất cứ gì con đã làm hay đã trải qua. Con không có cảm giác có sự phân chia giữa điều tâm linh và không tâm linh và ngay cả phản-tâm linh. Bỗng nhiên con bắt đầu nhận ra là không có hiện tượng nào trên thế gian có thể chống lại sự phát triển của con, chống lại đường tu của con. Ngay cả tà lực, dù chúng có hiện hữu tạm thời, khi con thấy chúng như chúng là, thì chúng không chống lại sự phát triển của con. Chúng không có quyền lực nào trên tâm con khi con giải thoát mình khỏi sự phân biệt giữa các “cặp đôi” – là cái tên mà thày dùng cách đây 2500 năm, nhưng ngày nay thì các thày gọi là hai cực nhị nguyên. Chúng không có thực tại, chúng không có quyền lực và do đó con có thể nhìn hiện tượng thế gian mà không thấy chúng qua phin lọc của những đối cực nhị nguyên này và những phán xét giá trị của chúng. Con thấy mỗi khía cạnh của cuộc sống, mỗi khía cạnh của thế gian, là phương tiện cho con phát triển, cho con biểu đạt chính mình, cho tiến trình và khả năng đồng-sáng tạo của con.

Con yêu dấu, có thể con đã từng nghe khái niệm rằng “đối với Phật, thời gian không có” và có thể con nhận ra là thày có thể tiếp tục nói như thế này vô hạn định, vì thày rất vui mừng khi trao truyền cho con những khái niệm này. Thày cũng nhận ra là con chưa tới điểm thấy được thời gian không có. Thày lưu ý điều này nên thày sẽ chấm dứt dòng tâm thức được biểu hiện qua ngôn từ ở đây, và một lần nữa thày bày tỏ sự biết ơn của thày và của các chân sư đối với lần họp mặt tuyệt vời giữa các thày ở Trên và các con ở dưới. TA LÀ Phật, tên ta là Gautama.

Giải tỏa bí ẩn của con đường quả vị Phật

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 6 tháng 5 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Phật, tên ta là Gautama. Thày muốn nhân cơ hội này trình bày một số đề tài có vẻ không nói tới Hàn Quốc. Tuy không nói gì về Hàn Quốc, thày vẫn nói điều gì đó về Hàn Quốc cho những ai có thể hiểu được.

Nếu con tìm hiểu bài giảng tuyệt vời của Giê-su về Con đường Quả vị Ki-tô, con sẽ thấy, con yêu dấu, là có một số giai đoạn trên con đường này. Đặc biệt là khi con tới gần và vượt qua tầng 96, con sẽ phải đối mặt một số thách đố mà con phải giải quyết để có thể tiến lên cao hơn tới tầng 144. Chúng ta có thể xem những thách thức này giống như một số nghịch lý, một số bí ẩn, mà con phải giải quyết trước khi con có thể vươn lên một tầng cao hơn của đường tu. Có một số bí ẩn như thế, nhưng thày sẽ không đi vào tất cả mà chỉ bình luận một số.

10.1. Thấy mâu thuẫn hay nhìn vượt quá chúng

Bây giờ, con thấy chăng con yêu dấu, khi các thày là chân sư thăng thiên tiếp cận với nhân loại chưa thăng thiên để trao truyền một giáo lý, các thày đối mặt một khó khăn đặc thù mà ít người đang hiện thân hiểu được. Sự thực là khi con là một chân sư thăng thiên, con đã thăng vượt tâm đường thẳng, nhị nguyên và phân tích. Do đó, con có một sự nhận biết quả cầu hơn; con không nhìn mọi sự qua phin lọc của hai cực, của cực đoan, của phê phán giá trị và một thang điểm giá trị. Con không có cái tâm đường thẳng so sánh lời này với lời kia, và có thể tâm này thấy có mâu thuẫn khi hai câu có vẻ như không nói cùng một chuyện.

Lẽ dĩ nhiên các thày biết là trên thực tế, những ai chưa thăng thiên ở trong trạng thái tâm dễ nhìn thấy mâu thuẫn vì họ tìm cách giải thích mọi chuyện với tâm đường thẳng. Họ nghĩ phải hiểu lời này theo nghĩa đen, phải hiểu lời kia theo nghĩa đen; và khi con lấy nghĩa đen của hai lời nói thì chúng có vẻ mâu thuẫn. Giờ đây con yêu dấu, có nhiều học viên tâm linh đã bắt đầu học hỏi giáo lý tâm linh, hay cũng vậy học hỏi giáo lý của các tôn giáo, và họ thấy những gì họ nhận thức là mâu thuẫn. Nhiều người trong thế giới Tây phương đã dùng những điều có vẻ mâu thuẫn trong kinh sách tôn giáo để lý luận theo khoa học hay chủ nghĩa duy vật là mọi tôn giáo đều là chuyện giả dựng và không thật sự hợp lý.

Lẽ dĩ nhiên, đây là hậu quả cùng cực khi sử dụng tâm đường thẳng. Ngay cả nhiều người mộ đạo hay tâm linh cũng tìm thấy mâu thuẫn, thường là giữa hai giáo lý tâm linh khác nhau. Điều này khiến họ nghĩ là họ phải suy luận rằng một trong hai cái là đúng và cái kia là sai. Còn có cả những người bắt đầu thấy mâu thuẫn ở trong một giáo lý tâm linh và điều này khiến họ hoang mang, và thậm chí một số bỏ cả đường tu. Mục đích của thày ở đây là đưa ra một số nhận xét có thể giúp con vượt quá giai đoạn này, vì quả thực đây là một giai đoạn trên đường tu. Có thể nói là con đã vươn lên trên tâm đường thẳng nhưng con chưa đột phá một cách ý thức và chưa giải thoát tâm ý thức của mình khỏi lối suy nghĩ đường thẳng. Con chưa thấy được một cách ý thức những giới hạn của lối suy nghĩ đường thẳng và do đó con vẫn bị xáo trộn bởi những điều trông có vẻ mâu thuẫn kia.

Nhìn một cách rất tổng quát, con yêu dấu, thày có thể nói với con rằng, lẽ dĩ nhiên, có thể có một số trường hợp có một số lời dạy mâu thuẫn. Các thày, khi trao truyền giáo lý qua một sứ giả chưa thăng thiên, không thể bảo đảm là không có một số sai sót len lỏi vào và có thể có một ít mâu thuẫn chỗ này chỗ kia. Khi con tới một mức chín chắn hơn trên đường tu, con sẽ không để cho một sai sót hay một mâu thuẫn khiến con bác bỏ phần còn lại vẫn có giá trị của giáo lý. Tuy thế, trong đại đa số trường hợp, điều có vẻ là mâu thuẫn chỉ có vẻ mâu thuẫn vì nó được nhìn qua phin lọc của tâm đường thẳng. Khi con thấy một mâu thuẫn, phản ứng xây dựng hơn là con nói: “Tôi cần nâng tâm thức mình lên để tôi có thể có một cái nhìn cao hơn về vấn đề. Chắc phải có điều gì đó tôi chưa thấy, chưa hiểu. Khi tôi thấy nó rồi, nó sẽ giải quyết điều hiện giờ trông có vẻ mâu thuẫn.” Sau đó, con mở tâm ra đón nhận sự hướng dẫn trực tiếp và trực giác từ các chân sư thăng thiên, từ Hiện diện TA LÀ của con, từ cái Ta Ki-tô của con để giải tỏa bí ẩn. Hoặc con học hỏi thêm giáo lý vì con nhận ra rằng có thể có những phần giáo lý khác có thể giúp con giải tỏa bí ẩn.

10.2. Hiểu lầm về sự không dính mắc

Một ví dụ mà nhiều người coi là mâu thuẫn là sứ vụ của chính Phật. 2500 năm trước đây, thày giảng là mục tiêu giáo lý của thày là cho các con một con đường tu giúp các con vượt lên trên trạng thái tâm thức bình thường bằng cách đạt được sự hoàn toàn không dính mắc. Tuy thế, con yêu dấu, nếu cá nhân thày đã đạt được sự hoàn toàn không dính mắc, thì tại sao thày lại bỏ công đi giáo hóa?

Nói cách khác, nhiều người hiểu khái niệm không dính mắc có nghĩa là không quan tâm tới chuyện gì xảy ra trên trái đất. Hó lý luận rằng nếu Phật thật sự không dính mắc thì Phật không quan tâm đến chuyện xảy ra cho người khác, và nếu thế thì đâu cần bỏ công đi vào thế gian và giảng dạy một giáo lý có thể giúp họ thoát khổ? Tại sao Phật không chỉ giản dị không dính mắc và tiến lên các tầng cao hơn, và để con người khám phá những điều mà Phật đã khám phá và nhờ vậy tự giải thoát nếu có thể. Nếu họ không tự giải thoát được thì Phật cứ để họ tiếp tục đi theo bánh xe của luân hồi và đau khổ cho tới khi họ chán ngán và tự thức tỉnh.

Con thấy chăng, con yêu dấu, không dính mắc không đồng nghĩa với không quan tâm. Tuy nhiên nó không phải là sự quan tâm của người phàm. Nó không dựa trên sợ hãi. Nó không muốn ép buộc người khác hay áp lực thế gian phải thay đổi. Không dính mắc không có nghĩa là con chọn không làm gì hết. Nó có nghĩa là con có thể chọn làm gì đó để giúp người khác, hay con có thể chọn làm chuyện gì khác. Nếu con chọn giúp người khác thì con không hành động như người phàm phu muốn thấy một kết quả đặc thù. Thực ra, con không giảng dạy để đạt một mục tiêu đặc thù nào cả, con không tìm cách đạt một kết quả đặc thù từ sự giảng dạy của con. Con giảng dạy vì con muốn chia sẻ điều con đã khám phá, con muốn chia sẻ cái con là. Do đó, con không tìm cách ép buộc người khác; con cống hiến cho họ một trạng thái tâm thức khác với trạng thái tâm thức đang thịnh hành trên trái đất.

Một số người có thể coi sự phân biệt ở trên quá vi tế, hay có thể còn vô lý nữa. Thày công nhận điều này. Thày không thể giúp con giải tỏa những nghịch lý này nếu con chưa tới trình độ sẵn sàng làm điều mà thày vừa mô tả và nâng cao tâm thức của mình. Nếu con lúc nào cũng phóng chiếu là vấn đề “ở ngoài kia”, vấn đề ở trong giáo lý hay ở vị thày, thì con không thể giải tỏa các nghịch lý này. Lúc ấy con phải đi vào Trường đời Cay đắng và nhận đủ lượng cay đắng cho tới khi con sẵn sàng nói: “Có thể tôi mới là người phải thay đổi, có thể sự ngăn trở nằm ngay trong tâm thức của tôi thay vì là lỗi của vị thày, của giáo lý, của người khác hay của thế gian?”

10.3. Thấy được hạn chế của tâm đường thẳng

Một số các con biết câu truyện về cuộc đời của thày là sau khi thày đắc quả vị Phật, sau khi thày nhập Niết bàn và dự tính ra khỏi Niết bàn để đi giáo hóa, thì thày phải đối mặt với sự chống đối của toàn bộ lực của thế gian, nói rằng chuyện đi giáo hóa của thày thật vô ích. Trạng thái tâm thức mà thày đạt được quá khác, trong nền tảng, với trạng thái tâm thức của mọi người, nên họ không thể hiểu giáo lý của thày. Nói cách khác, sự giáo hóa của thày sẽ không đem lại thay đổi nào.

Câu trả lời của thày là: “Sẽ có một số người hiểu.” Trong 2500 năm qua, một số đã hiểu nhưng chỉ có một số ít. Tuy nhiên, chúng ta đang ở một thời điểm mà nhiều người hơn đã sẵn sàng hiểu và đây là lý do vì sao bây giờ thày xuất hiện như một chân sư thăng thiên, như một trong nhiều chân sư thăng thiên khác và cố gắng trao truyền cho các con một giáo lý thích ứng với thời hiện đại.

Một lần nữa, trước khi thày quyết định làm việc này, thày phải đối mặt với lực đó và nó không phải là một sinh thể có ý thức. Lý do giản dị là khi thày, như một chân sư thăng thiên, muốn xét xem thày làm được gì cho nhân loại chưa thăng thiên, thì thày cần hòa điệu với trình độ tâm thức của nhân loại. Lúc đó, thày phải đối diện với sự khác biệt giữa tâm thức đại chúng và tâm thức của chính thày, và có lúc thày cảm thấy như không thể nào bắc được nhịp cầu qua khoảng cách đó. Vì vậy thày phải đối phó với sự việc này, phải tìm một cách giải quyết trong tâm mình. Thày nhìn xem con người đang ở đâu trong tâm thức và thày tìm cách giúp họ vượt lên trên mức đó và hòa điệu với một khía cạnh nào đó của Hiện diện của thày, Bản thể của thày.

Bài truyền đọc này là một biểu hiện của việc làm này, các bài truyền đọc khác của thày và của tất cả các chân sư thăng thiên cũng vậy. Điều thày muốn làm ở đây là giúp con thấy được các hạn chế của tâm đường thẳng vì tâm đường thẳng, duy lý, phân tích, quả thực chiếm ưu thế trong thế giới ngày nay nhiều hơn 2500 năm trước đây.

10.4. Khi giác ngộ ngăn cản giác ngộ

Thày muốn cho con một ví dụ khác. Một khái niệm mà thày trao truyền cho thế gian thủơ đó là Bát chánh đạo có thể đưa con tới một trạng thái tâm thức cao mà thày gọi là giác ngộ. Thời đó, thày cố gắng giảng cho mọi người làm thế nào đạt được giác ngộ, và tránh đừng để khái niệm giác ngộ ngăn chận sự giác ngộ của mình. Rất ít người đã hiểu được điều này, và đặc biệt trong thời hiện đại này cũng rất ít người hiểu được, chính là vì ảnh hưởng của tâm đường thẳng.

Con thấy chăng, con yêu dấu, các thày đã trao truyền cho các con khái niệm con đường tâm linh. Các thày đã nói về 144 tầng tâm thức, nói là con có thể bắt đầu một cách ý thức con đường tu ở tầng 48, và con có thể phác họa hành trình của mình để tiến lên đến tầng 96. Con có thể đi theo một số bước hợp lý giúp con dần dần nâng cao tâm thức theo một tiến trình đường thẳng. Các thày cũng có nói là con có thể vượt quá tầng 96, và một lần nữa con đi qua một số bước cho tới khi con tới tầng 144. Cách này lẽ dĩ nhiên là một tiến trình đường thẳng, nhưng con đường tâm linh hay tiến trình đạt giác ngộ không nhất thiết phải mô tả theo cách đường thẳng. Ta có thể mô tả nó theo cách quả cầu. Điều giản dị là những gì các thày trao truyền trong thời đại này thích ứng với sự kiện là các con suy nghĩ theo lối đường thẳng. Lẽ dĩ nhiên các thày đã thích nghi giáo lý, thiết kế chúng theo một cách để giúp các con dần dần thoát khỏi sự mù lòa của tâm đường thẳng và vượt lên trên nó bằng cách cả gan đi theo trực giác, vì trực giác không theo đường thẳng.

Thày vẫn muốn đưa ra ở đây một số ý về khái niệm giác ngộ. Để có thể hiểu nó trọn vẹn, chúng ta cần bước lui về một chút. Thày cố trao truyền giáo lý này 2500 năm về trước, nhưng trao truyền nó vào thời ấy quả thực khó khăn hơn. Con có thể nói điều trớ trêu là nó khó khăn hơn vì con người thời đó không suy nghĩ theo đường thẳng giống như con người thời nay.

Con yêu dấu, không phải là thời trước tốt hơn, hay người thời trước cởi mở với giáo lý tâm linh hơn người thời nay. Thày cũng không muốn nói ở đây là sự phát triển của tâm đường thẳng đã là một thoái hóa. Nó chỉ là một thoái hóa khi nó được dùng một cách cùng cực. Sự phát triển của tâm đường thẳng trong dạng cao của nó quả thực được thiết kế bởi các chân sư thăng thiên. Nó là một bước tiến hợp lý tiếp theo sau lối suy nghĩ thần thoại, thần thông của con người trước thời hiện đại. Chính vì con có tâm đường thẳng hơn mà các thày mới có thể cho con một cách nhìn mới về giác ngộ và làm thế nào khái niệm của con về giác ngộ có thể ngăn chận sự giác ngộ của con.

10.5. Những hạn chế của sự hiểu biết

Các con có, trong tư duy hiện đại, khái niệm về sự hiểu biết (understanding) một điều gì. Con có ý niệm là có một mức hiểu biết thấp khi con chưa có đủ kiến thức và tầm nhìn thấu suốt (insight). Sau đó, con có thể đi theo một tiến trình thu thập càng ngày càng nhiều hiểu biết và tầm nhìn thấu suốt hơn, cho tới khi con thấy được điều mà trước đó con không thấy khi con chưa đủ kiến thức cao. Điều này đã giúp cho các thày dễ trình bày hơn một đường tu hợp lý, theo đó các thày có thể khiến hành giả trụ vào lòng mong muốn tiến triển của họ. Các thày có thể trao truyền cho họ một tiến trình rất tuần tự, đi từng bước để tăng triển kiến thức và sự hiểu biết của họ về khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Tuy thế con cũng có thể hiểu được ở đây, ngay cả với tâm đường thẳng, là hiểu biết có nhiều tầng mức. Điều này dễ nhìn thấy.

Một vài trăm năm trước đây, ngay cả các nhà khoa học cũng chỉ có một hiểu biết giản dị và sơ khai về vũ trụ vật chất so với ngày nay. Ngày hôm nay, họ có một hiểu biết tinh xảo hơn, chi tiết hơn, sâu sắc hơn. Ở đây có sự tiến bộ, nhưng con có thể chuyển đổi cách hiểu với tâm đường thẳng và thấy rằng tăng triển kiến thức không phải chỉ bằng một cách hay chỉ ở trong một hệ thống.

Con yêu dấu, chúng ta có để đưa ra ví dụ giản dị của khái niệm nguyên tử. Tất cả vật chất được tạo ra từ nguyên tử và ngay cả nguyên tử cũng được tạo ra từ những phần nhỏ hơn, gọi là hạt cơ bản. Thày vừa trình bày kiến thức này cho con bằng ngôn từ rất giản dị nhưng các nhà khoa học đã mất mấy thế kỷ để khai triển kiến thức này. Ngay đây, thày vừa trình bày kiến thức này cho con bằng một ngôn ngữ gọi là tiếng Anh, nhưng con cũng có thể trình bày kiến thức này bằng tiếng Hàn, tiếng Tàu hay tiếng Pháp hay bất kỳ ngôn ngữ nào khác. Đó là cùng kiến thức đó nhưng được phát biểu với những từ ngữ khác.

Con cũng có thể thấy với tâm đường thẳng là khoa học nói chung tìm cách mô tả sự vận hành của vũ trụ vật chất, nhưng không phải chỉ có một ngành khoa học. Thí dụ, con có ngành vật lý học và ngành hóa học. Khi con dùng cái nhìn của vật lý học về cách vận hành của vật chất, thì con mô tả cách vận hành này theo một cách. Khi con dùng cái nhìn của hóa học thì con lại mô tả một cách khác.

Không phải là hai cách nhìn loại trừ lẫn nhau hay không tương hợp. Chúng là những cách khác nhau để mô tả cùng một hiện tượng. Sau đó, con có thể nhìn rộng hơn và thấy điều mà con gọi là sự sống trên trái đất là nhiều hơn khía cạnh vật chất vật lý. Cũng có cái mà con gọi là sự sống sinh học được mô tả bởi khoa sinh vật học. Sinh vật học không tương phản với vật lý học hay hóa học. Nó có thể xem xét những hiện tượng hơi khác một chút nhưng điểm chính là nó mô tả sự sống một cách khác. Rồi con có thể tiến xa hơn nữa và thấy có nhiều khoa vật lý đã tìm cách diễn tả những khám phá của họ bằng ngôn ngữ toán học. Bây giờ thì con thấy có ngôn ngữ thường ngày mà con người sử dụng để giao tiếp trong đời sống hàng ngày của họ, và có ngôn ngữ toán học mà các nhà khoa học dùng để mô tả một số hiện tượng vượt quá những gì con người chạm trán trong đời sống bình thường.

Thực sự con không thể nói là ngôn ngữ toán học tương phản với ngôn ngữ hàng ngày. Đây là hai cách khác nhau để mô tả, trong nhiều trường hợp, cùng một hiện tượng. Lẽ dĩ nhiên, toán học có thể mô tả một số hiện tượng hay mô tả chúng chính xác hơn ngôn ngữ hàng ngày. Mặt khác, con yêu dấu, ngôn ngữ hàng ngày rất hữu ích cho nhiều ứng dụng thực tế. Một ví dụ ngớ ngẩn, con yêu dấu, là con hãy thử vào một tiệm McDonald’s và gọi mua một cái bánh thịt hambua (hamburger) bằng cách dùng một công thức toán và ai biết con sẽ nhận được món hàng gì. Con thấy ở đây là với tâm đường thẳng mà con người có ngày nay, con có thể thấy được là những ngành khác nhau của khoa học là những cách song song để mô tả cùng một hiện tượng.

Con cũng có cả khái niệm, đã được một số người khai triển dựa trên những khám phá của khoa học, là có những thực tại song song, những vũ trụ song song, những chiều kích song song có thể hiện hữu lồng trong nhau. Con bây giờ có ngành vật lý học tiến bộ nhất gọi là học thuyết dây (string theory), nói về những sợi dây li ti rung động hiện hữu trong 11 chiều kích. Con bắt đầu thấy là ngay cả tâm đường thẳng cũng có thể dùng để mở rộng sự hiểu biết của con người về các khái niệm tâm linh khi con nhận ra là một giáo lý tâm linh (không nhất thiết là một tôn giáo giáo điều nhưng là một giáo lý tâm linh toàn vũ hơn) chỉ giản dị là một ngôn ngữ. Nó không chỉ là một ngôn ngữ với ngôn từ mà là một ngôn ngữ với khái niệm. Khi khoa học mô tả một hiện tượng như một sợi dây rung động và khi một giáo lý tâm linh mô tả nó như một sinh thể cơ bản, thì đây không phải là hai lối mô tả tương phản nhau mà là những lối mô tả song song của cùng một hiện tượng. Có thể khoa học không chấp nhận điều này nhưng những ai cởi mở với giáo lý tâm linh có thể thấy là có nhiều cách mô tả cùng một hiện tượng. Một số cách khiến con chú tâm vào một số khía cạnh của hiện tượng và những cách khác khiến con chú tâm đến những khía cạnh khác.

10.6. Giác ngộ không phải là một khái niệm

Thày đã bắt dầu bài giảng dài dòng này bằng cách nói rằng thày sẽ giải thích vì sao việc trao truyền khái niệm về giác ngộ có thể ngăn chận sự giác ngộ của con. Bây giờ chúng ta cần dùng các nhận xét của thày để đi tới được điểm nhận ra rằng khi khoa vật lý học mô tả vật chất một cách và khoa hóa học mô tả cách khác và giáo lý tâm linh mô tả một cách thứ ba, thì cả ba lối giảng dạy này, con yêu dấu, có cùng chung một điểm là chúng cho con một khái niệm mà tâm con có thể dùng để tạo ra một hình ảnh nội tâm về hiện tượng. Con không thể nào thấy được hạt nguyên tử với mắt vật lý cho nên khi con đọc lời mô tả hạt nguyên tử của vật lý học, lời mô tả này không cho con một trải nghiệm trực tiếp về hạt nguyên tử. Nó giúp con tạo ra một hình tư tưởng về hạt nguyên tử. Bây giờ, hình tư tưởng này có thể hữu dụng vì nó cho con cảm giác là con hiểu hiện tượng. Nó cũng có thể hữu dụng về mặt thực tiễn vì nó có thể cho phép con làm một số việc trong đời sống hàng ngày.

Tại sao thế giới hiện đại đã tạo ra được một nếp sống vật lý thoải mái tiện nghi hơn khiến con người ngày nay làm được một số điều thường nhật mà con người một ngàn năm trước không thể mơ tưởng được? Đó là vì khi tâm đường thẳng phát triển và khi tư duy khoa học đem lại cho con người một sự hiểu biết nào đó về thế giới, thì con đã có thể giải quyết những vấn đề mà 500 năm hay 1000 năm trước con người không giải quyết được với sự hiểu biết của họ lúc đó. Điều này đã hữu dụng vì con người đã làm được một số chuyện trong thế giới thực tiễn và nhờ vậy họ đã tạo được một mức sống cao hơn cho đại đa số.

Đó chính là lý do vì sao Saint Germain đã bảo trợ rất nhiều công nghệ dựa trên kiến thức khoa học. Nó đã giúp con người tạo được một nếp sống thoải mái tiện nghi hơn để tâm họ được tự do theo đuổi phần tâm linh của đời sống, thay vì toàn bộ năng lực bị cuốn hút trong chuyện kiếm sống. Con yêu dấu, đây rõ ràng là một sứ tiến bộ, nhưng mọi chuyện trong vũ trụ vật chất đều có cái giá phải trả (ít ra là khi rất đông người còn bị mắc bẫy trong ý niệm tách biệt, trong tâm thức nhị nguyên). Như người ta thường nói, cái gì cũng có mặt trái. Mặt trái là con người quá dính mắc vào khái niệm khoa học nên không thấy được là khái niệm mô tả hiện tượng không phải là hiện tượng. Đây là một giới hạn rất quan trọng. Nhiều người trong thế giới hiện đại đã đánh mất ý niệm (mà ít nhất một ít người có thời trước) rằng tâm có những khả năng vượt quá khía cạnh đường thẳng và phân tích của tâm. Các thày đã giảng là tâm thức luôn luôn đi trước sự biểu hiện vật lý. Mỗi hiện tượng vật lý hiện hữu trong thế giới vật chất đều có một khuôn đúc tâm thức hiện hữu trong các cõi bản sắc, lý trí và tình cảm. Tâm vỏ ngoài của con, giác quan vật lý của con, phần của tâm dính chặt vào giác quan vật lý, chỉ kinh nghiệm được hiện tượng vật chất mà không trải nghiệm được tâm thức ở đằng sau.

Có những khía cạnh khác của tâm có tiềm năng trải nghiệm tâm thức ở đằng sau bất cứ hiện tượng vật lý nào. Khi con trải nghiệm tâm thức đó, con có được một trải nghiệm trực tiếp về toàn bộ hiện tượng. Nhưng con yêu dấu, điều này không có nghĩa là con không cần hiểu biết đường thẳng nữa. Để có thể sống trong đời sống thường nhật thực tiễn, con cần hiểu biết đường thẳng. Như một đệ tử tâm linh, con cần nhận ra là khi các thày, những chân sư thăng thiên, trao truyền một khái niệm về một hiện tượng tâm linh nào đó, thì tâm đường thẳng của con sẽ tức khắc tạo ra một hình tư tưởng trong nội tâm về hiện tượng đó.

Đây là điều mà Giê-su mô tả một cách khác trong bài truyền đọc của thày về quả vị Ki-tô khi thày nói là khi con ở tầng tâm thức 48, con hình thành một khái niệm về quả vị Ki-tô nhưng nó không thể nào là quả vị Ki-tô trọn vẹn. Do đó, con không thể nào vươn lên các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô nếu con không sẵn lòng vượt lên trên khái niệm hiện nay của con về quả vị Ki-tô và trải nghiệm một thực tế cao hơn. Thày Giê-su cũng nói là khi con đi quá tầng 96, con không còn quan tâm dùng tâm đường thẳng để hiểu nữa mà chú tâm hơn vào việc trải nghiệm. Tiến trình giác ngộ cũng đúng như vậy.

Khi thày trao truyền khái niệm giác ngộ, thày đã cố gắng diễn tả điều này và biết là có ít người hiểu được. Con thấy chăng, con yêu dấu, khái niệm giác ngộ chỉ là thế: nó chỉ là một khái niệm. Đối với tất cả những ai ở một trạng thái tâm thức thấp, thì nó chỉ có thể là một khái niệm. Họ hình thành một hình tư tưởng về giác ngộ, họ muốn thiết lập một số tiêu chuẩn vỏ ngoài. Họ muốn thiết lập một con đường tu máy móc nói rằng: “Nếu tôi đi theo những bước này và làm hết mọi chuyện y như mô tả, thì rốt cuộc tôi phải tự động được giác ngộ. Khi tôi giác ngộ, khi một người giác ngộ, người đó có đặc tính này và đặc tính kia. Người đó cư xử như thế này, không cư xử như thế kia, người đó nói như thế này, không nói như thế kia.” Tâm đường thẳng muốn làm như vậy.

Con yêu dấu, như vậy thì tâm đường thẳng không hữu dụng trên đường tu chăng? Lẽ dĩ nhiên là không đúng. Như Giê-su cũng đã mô tả, ở một điểm nào đó con cần đi theo một đường tu rất đường thẳng, rất hợp lý. Tâm đường thẳng có thể rất, rất hữu ích vì nó giúp con người nhận ra rằng cuộc sống có một khía cạnh tâm linh, và họ thấy một con đường tu đường thẳng có một số giai đoạn, một số sáng ngộ càng ngày càng cao hơn, giúp cho họ dần dần nâng cao tâm thức. Đường tu đường thẳng quả thực nâng cao tâm thức của con, nhưng một đường tu đường thẳng đi lên từng bước chỉ có thể đưa con tới một mức nào đó. Nó có thể dẫn con quá tầng 96 nhưng con yêu dấu, con hãy cẩn thận lắng nghe.

Các thày có nói là có 144 tầng tâm thức, do đó điều hợp lý là khi con tới tầng tâm thức 139, thì con cần bước thêm một bước để lên tầng 140. Sau đó con bước thêm bước nữa và con ở tầng 141 và cứ tiếp tục như vậy. Con thấy chăng, con yêu dấu, tính chất đường thẳng chặt chẽ mà con thấy ở giữa tầng 48 và 96 càng ngày càng bớt quan trọng khi con đi quá tầng 96.

Có thể nói là khái niệm về con đường tu bớt quan trọng đối với con. Con không còn chăm chú lượng định: “Tôi đang ở tầng nào đây? Tôi phải trải qua sáng ngộ nào để lên tầng kế tiếp, người ở tầng đó có những đặc tính gì?” Con giản dị không còn quan tâm con đang ở đâu bởi vì bây giờ, thay vì chú tâm vào từng bước đơn lẻ, con chú tâm vào tiến trình. Có thể nói là thay vì chú tâm vào những hình ảnh tĩnh của dòng sông, thì con chú tâm vào sự chuyển động của dòng sông, vào chính tiến trình.

Điều thày muốn nói là khi con còn mang trong tâm khái niệm về một đường tu sẽ dẫn con từng bước một tới niết bàn hay giác ngộ, thì con sẽ không bao giờ đạt mục đích này. Thoạt nghe có vẻ mâu thuẫn khi thày nói là để đạt giác ngộ, con phải đi theo một con đường tuần tự, nhưng khi con còn khái niệm của đường tu đó thì con không thể đạt giác ngộ. Con yêu dấu, lý do là vì giác ngộ không phải là một hiện tượng đường thẳng, nó không phải là một hiện tượng vật lý, thậm chí nó còn không phải là một trạng thái tâm thức. Không thể nói là khi con ở tầng 143 con chưa giác ngộ, nhưng tới tầng 144 thì con đã giác ngộ. Thật ra có một tầng thấp hơn ở một điểm nào đó trên tầng 96, thì con đạt một trạng thái có thể gọi là giác ngộ, vì lúc này con hiểu được là điều quan trọng duy nhất là con giải thoát tâm mình khỏi mọi khái niệm dựa trên các điều kiện của thế gian. Đó cũng là lúc con nhận ra rằng khái niệm về giác ngộ của con chỉ là thế: chỉ là một khái niệm, không phải là một trải nghiệm. Do đó, con có thể xoay chuyển tâm con, để thay vì cố gắng hoàn thành các tiêu chuẩn được định ra bởi khái niệm giác ngộ của con, thì con thoát khỏi hình ảnh, thoát khỏi khái niệm. Do đó, con trải nghiệm điều thày gọi là giác ngộ, là một cách nhìn khác khi tâm con không đồng hóa với chính khái niệm của nó về hiện tượng vật chất.

Có một số hiện tượng trong thế giới vật chất không chỉ do tâm con tạo ra. Như các thày có nói trước đây, mọi hiện tượng vật chất được tạo ra bởi một tâm, lúc khởi đầu bởi tâm của các Elohim. Từ khi nhân loại bắt đầu đầu thai trên hành tinh, thì nhân loại đã đồng-sáng tạo một số hiện tượng hiện hữu ngày nay. Khi con còn ở các tầng tâm thức thấp, con không trải nghiệm thế giới vật chất như nó là, con trải nghiệm nó qua các khái niệm của tâm, các khái niệm mà con đã tạo ra trong tâm mình. Tâm của con, tâm cá nhân của con không tạo ra các hiện tượng vật chất, nhưng nó đã tạo ra các hình tư tưởng của con, các khái niệm của con về các hiện tượng này – chúng là gì, chúng vận hành ra sao, con làm gì được với chúng, con không làm gì được với chúng.

Nói cách khác, tâm con quy định cách con nhìn thế giới vật chất có khả năng hạn chế tâm con như thế nào. Con hiểu chăng, con yêu dấu? Có một số hiện tượng vật chất, nhưng điều hạn chế con không phải là hiện tượng vật chất mà là các hình ảnh, các khái niệm trong tâm con. Con đường để đạt được điều mà các thày gọi là “tâm làm chủ vật chất” là giải thoát tâm con khỏi khái niệm, do tâm tạo ra, đã giới hạn sự trải nghiệm vật chất trực tiếp của con.

Trạng thái giác ngộ không phải là một trạng thái toàn hảo. Thậm chí nó còn không phải là trạng thái cuối cùng. Con có thể có trạng thái mà thày, như là Phật, đã gọi là giác ngộ mà vẫn chưa ở tầng 144, vẫn còn phải đi qua những tầng giác ngộ nữa trước khi thăng thiên. Có thể nói là tầng giác ngộ thấp nhất là khi con ngừng đồng hóa mình với những hình ảnh và khái niệm mà chính tâm con đã tạo ra. Con nhận ra rằng mọi thứ con có trong tâm con liên quan tới thế giới vật chất (và cũng vậy, đại đa số những thứ con có trong tâm con liên quan tới thế giới tâm linh) chỉ là những khái niệm do tâm tạo ra. Bằng cách không dính mắc vào các khái niệm này, không dính mắc vào các hình ảnh này, không đồng hóa mình với các hình ảnh này, con có thể giải thoát tâm con khỏi những hạn chế do các hình ảnh này định ra.

10.7. Tâm làm chủ vật chất

Nhiều người trong các con đã chấp nhận những hình ảnh rất vi tế là tâm con không thể thay đổi vật chất. Ngày nào con còn tin, còn đồng hóa mình, còn dính mắc vào các hình ảnh này, thì tâm con không thể nào thay đổi vật chất. Khi con giải thoát tâm con khỏi các hình ảnh này thì tâm con có thể bắt đầu thay đổi vật chất. Khi ấy, tâm con bắt đầu nhận ra là các hiện tượng vật lý là biểu hiện của các khuôn đúc của tâm thức ở ba tầng cao. Tâm con quả thực khả năng ảnh hưởng các khuôn đúc tâm thức này.

Như vậy, tâm con không bị mắc kẹt trong hiện tượng và không bị mắc kẹt trong những hình ảnh của con về hiện tượng. Điều này khế hợp với điều thày nói lúc bắt đầu vì con có thể nhìn vào những sự mâu thuẫn hay có vẻ mâu thuẫn ngay trong những giáo lý mà các thày đã trao truyền trong hai ngày hội nghị này. Ví dụ, con có tất cả các bài truyền đọc của các chân sư chỉ cho con thấy một vấn đề cá biệt nào đó trong xã hội mà con cần đọc lên trong các bài thỉnh, để cầu thỉnh ánh sáng của các chân sư thăng thiên và như thế các chân sư có thể can thiệp và đem lại thay đổi trong xã hội. Mặt khác, con có bài truyền đọc của thày trong hội nghị vừa qua nói rằng con hãy chú tâm vào hiện tại và trân quý hiện tại, đừng lúc nào cũng quan tâm đến quá khứ lẫn vị lai. Con có thể nói: “Ủa, phải chăng là có một sự mâu thuẫn ở đây?” Con thấy chăng, con yêu dấu, muốn giải tỏa điều có vẻ nghịch lý này, thì con cần nhận ra sự khác biệt giữa cái nhìn dựa trên sợ hãi và nhị nguyên của con người và cái nhìn dựa trên tình thương và bất nhị của các chân sư thăng thiên.

Thật đúng, con yêu dấu, là các chân sư muốn thấy một sự thay đổi đường thẳng và tuần tự sẽ cải thiện điều kiện sống của con người trên trái đất. Tuy nhiên điều này không xung khắc với tâm thức của Phật. Thày rời niết bàn để giáo hóa con người vì thày cũng mong muốn thấy một sự cải thiện đường thẳng và tuần tự trong điều kiện sống trên trái đất. Điều khác biệt là các thày không dính mắc vào những thay đổi đặc thù ở một thời điểm đặc thù. Các thày, như đã nói trước đây, không chú tâm vào một thay đổi đặc thù vì mục đích toàn bộ của các thày là nâng cao tâm thức của những anh chị em chưa thăng thiên, để các con có thể bắt đầu ý thức hơn về tiến trình đồng-sáng tạo.

Con thấy chăng, con yêu dấu, thày không bảo con đừng quan tâm đến những gì xảy ra trong tương lai. Thày không bảo con lờ đi chuyện quá khứ. Con cần ý thức những gì đã xảy ra trong quá khứ để hiểu những cơ chế đã tạo ra một số vấn đề, và các vấn đề này đã tạo ra một số giới hạn trong xã hội. Con cần nhận ra tâm thức bên dưới để con có thể giải thoát mình khỏi nó và giúp người khác tự giải thoát khỏi nó.

Khi thày bảo các con hãy chú tâm hơn vào hiện tại, thì thày không nói là con phải ép buộc tâm con lờ quá khứ, lờ vị lai. Thày bảo các con khắc phục những vết thương mà con có trong quá khứ để khắc phục sự dính mắc của con vào quá khứ, để quá khứ không thể lôi kéo con vào những khuôn nếp phản ứng quả thực sẽ ngăn chận con (1) thưởng thức giây phút hiện tại, và (2) được tự do lấy một quyết định sẽ thay đổi hướng đi của đời mình trong tương lai.

Thày cũng bảo con giải tỏa tâm lý của mình để không bị vướng kẹt trong khuôn nếp lúc nào cũng tìm cách trốn chạy giây phút hiện tại, để đi vào một tương lai tưởng tượng nào đó nơi đó con nghĩ mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn. Nói cách khác, thày bảo con đừng cố gắng hướng tới tương lai mà trốn chạy việc giải quyết các vấn đề tâm lý của mình, đó chính là lý do vì sao rất nhiều người bị mắc kẹt trong những mơ tưởng về một tương lai tốt đẹp hơn. Thày bảo con hãy thực sự giải thoát mình khỏi sự trốn chạy vào mơ tưởng về một tương lai tốt đẹp hơn, và thay vào đó, con chú tâm vào việc giải tỏa tâm lý của mình để con có thể chú tâm vào hiện tại. Chỉ trong hiện tại con mới lấy được những quyết định ý thức thực sự giúp con, cho con quyền lực để đồng-sáng tạo một tương lai tốt hơn.

10.8. Đạt được tự do tâm trí khỏi quá khứ

Nếu con xem bài giảng cuối của thày, con thấy là thày đưa ra ví dụ là khi con mắc kẹt trong một khuôn nếp phản ứng, thì con có cảm tưởng là đời con chỉ có một hướng đi. Rất nhiều người bị mắc kẹt trong những khuôn nếp khiến họ cảm thấy bị hoàn cảnh bên ngoài giam chặt trong một cái hộp, và họ chỉ còn một chọn lựa duy nhất trong hoàn cảnh hiện tại của họ. Chọn lựa của họ sẽ có một hậu quả không thể tránh, và nó đem tới một hoàn cảnh khác một lần nữa lại cho họ cảm tưởng là chỉ có một chọn lựa thôi. Điều này tạo ra một hậu quả khác và đây là điều gọi là Biển Luân hồi, hay bánh xe trầm luân, bởi vì lúc nào con cũng có cảm tưởng mình chỉ làm được một điều. Con không có chọn lựa nào khác, con không có tự do chọn lựa. Bất kể con làm gì cũng đều tạo ra hậu quả là đời con càng thêm căng thẳng, thêm đau khổ, và cho con cảm tưởng con bị giam chặt hơn nữa trong hộp.

Đây là lý do vì sao, như một số các nữ chân sư đã nói, nhiều người trong văn hóa Á châu (do sự quy định rõ ràng về vai trò của người nam và người nữ) cảm thấy là khi đám cưới xong và niềm vui hưng phấn lúc đầu đã tàn, thì họ cảm thấy cuộc đời bị khóa lại như bánh xe lăn trên đường rày, và họ chỉ có một chọn lựa duy nhất là lăn trên đường rày này. Cảm giác này khiến họ căng thẳng và đau khổ nhưng họ không nhìn ra lối thoát.

Trong bài giảng cuối, thày không nói là con chú tâm vào hiện tại như một cách để chạy trốn, nhưng con cần giải quyết những khuôn nếp của quá khứ và thăng vượt lòng mong ngóng một tương lai tốt đẹp hơn, để con được tự do trong tâm lý và thấy rằng không bao giờ có hoàn cảnh nào mà con chỉ có một chọn lựa. Lúc nào con cũng có chọn lựa nhìn vào các khuôn nếp phản ứng của mình và thay đổi cách con phản ứng với hoàn cảnh. Một khi con thay đổi phản ứng của mình, khắc phục sự dính mắc, thì con sẽ có thể thấy được là ít nhất con có hai chọn lựa. Có thể là con không có chọn lựa vô hạn nhưng con có được thêm một chọn lựa khác ngoài chọn lựa mà trước kia con xem là duy nhất. Khi con chọn chọn lựa mới này, con vẫn tạo ra hậu quả nhưng nó sẽ không nghiêm trọng hay giới hạn con như trước đó.

Điều này có nghĩa là trong hoàn cảnh mới của con, con lại có thể xem xét phản ứng của mình. Khi con khắc phục một khuôn nếp phản ứng, con sẽ thấy mình có ba chọn lựa trong hoàn cảnh mới. Khi con chọn chọn lựa cao nhất trong số đó, con sẽ đưa mình vào một hoàn cảnh trong đó con có thêm chọn lựa với hậu quả bớt nghiêm trọng hơn. Đó là cách con dần dần đạt được tự do và lúc ấy, như thày đã nói trong bài giảng trước, con thấy mình đang đứng giữa một cánh đồng rộng mở và con có thể chọn đi về bất cứ hướng nào.

10.9. Mọi sự đều là dáng vẻ

Điều này, con yêu dấu, là mức tự do tâm trí mà con đạt được trên tầng 96. Đó vẫn chưa phải là giác ngộ, tuy rằng khi con đạt được mức tự do tâm trí này thì việc xoay chuyển lên trạng trái giác ngộ sẽ dễ hơn hẳn. Khi con đạt được tự do trong tâm thì điều gì tạo nên tự do đó? Đó là con ngưng tự đồng hóa với những hình tư tưởng mà chính tâm con đã tạo ra cho rằng thế giới như thế nào và thế giới hạn chế con ra sao. giúp con dễ chuyển hóa để tới điểm nhận ra (như thày đã cố giải thích rất nhiều năm về trước) rằng mọi sự trong thế gian chỉ là hiện tượng. Đó là một dáng vẻ (appearance), đó không phải là một thực tại được khắc trên đá hay bằng hạt nguyên tử.

Mọi sự đều là sản phẩm của một khuôn đúc trong tâm thức. Đó là điều thày đã cố giải thích rất nhiều năm về trước nhưng cảm thấy khó giải thích vì con người lúc đó chưa có cả khái niệm về tâm thức hay về các thực tại song song, hay về các ngôn ngữ khác nhau mà thày đã giảng trong bài này. Khi con nhận ra mọi chuyện đều là hiện tượng, đều là một dáng vẻ có thể thay đổi được (khi con hòa điệu vào tâm thức đằng sau hiện tượng và làm việc để thay đổi các khuôn đúc trong cõi tình cảm, lý trí và bản sắc), thì con sẽ đạt được một cái nhìn hoàn toàn mới về cuộc sống. Con cũng có thể đạt được một cái nhìn hoàn toàn mới về những gì các thày đã giảng.

Con yêu dấu, các thày đã nói gì với con lần trước? Saint Germain đã nói gì về xu hướng xem cuộc đời rất hệ trọng trong văn hóa Á châu? Saint Germain có nói là con sẽ không tạo nên Thời đại Hoàng kim bằng cách làm việc cực nhọc hơn mà bằng cách vui đùa nhiều hơn. Đồng-sáng tạo là một hành động vui đùa, không phải là một hành động xem cuộc đời hệ trọng đến độ con muốn kiểm soát mọi khía cạnh của cuộc sống.

10.10. Xem giáo lý quá hệ trọng

Trong những tổ chức chân sư thăng thiên trước đây, các thày thấy học viên có khuynh hướng rõ ràng sử dụng giáo lý rồi bỗng chốc nhìn cuộc đời, nhìn con đường tâm linh và chính họ một cách rất hệ trọng. Họ bỗng nhận ra tiềm năng tạo dựng một thời đại tốt đẹp hơn hẳn trên thế giới. Trong một tổ chức trước đây (khi họ vẫn còn bị mắc kẹt trong suy nghĩ nhị nguyên), thì họ nghĩ rằng mục tiêu của một đệ tử chân sư thăng thiên là để ngăn ngừa một tai họa to lớn nào đó, tỷ dụ như chiến tranh nguyên tử. Họ rất chú tâm vào sự nghiêm trọng của tai họa này và chỉ có họ mới ngăn ngừa được tai họa. Vì vậy họ phải xem nhiệm vụ này cực kỳ hệ trọng đến độ phải đọc chú suốt ngày và phải cư xử đúng theo một bộ quy luật rất nghiêm ngặt.

Con yêu dấu, khuynh hướng này đi quá xa tới điểm họ mất cả niềm vui trong cuộc sống, và con có thể chắc chắn là trước khi theo học giáo lý của chân sư thăng thiên, họ đã từng hạnh phúc và yêu đời hơn rất nhiều. Nhiều người trong số họ có người thân thấy được tình trạng này và cố nói cho họ biết, nhưng họ vẫn không chịu nghe vì họ coi việc “cứu nguy thế giới cho Saint Germain” là chuyện cực kỳ hệ trọng.

Con yêu dấu, lẽ dĩ nhiên, các thày không muốn thấy các con lặp lại những khuôn nếp này và đó là lý do vì sao các thày cố cho các con một viễn quan cao hơn (có thể là con phải đọc giữa hai hàng chữ, nhưng thày đã cố nói khá thẳng thắn trong bài giảng này). Điều thày muốn con thấy là con có thể chuyển đổi tâm mình để nhận ra là lẽ đương nhiên, các thày muốn con đọc các bài thỉnh, các thày muốn con nâng cao tâm thức và các thày quả thực thấy con là chìa khóa để cải thiện đời sống trong xã hội. Con có thể thỉnh gọi để trao thẩm quyền cho các thày gỡ đi một số những lực tà ác cùng năng lực đen tối, sẽ giúp người khác thức tỉnh và đón nhận các ý tưởng mới này.

Các con quả thực quan trọng đối với các thày, nhưng con yêu dấu, chính vì các con quan trọng đối với các thày nên các thày không muốn các con bị gánh nặng hay bị căng thẳng về chuyện này. Các thày muốn các con chuyển đổi tâm mình để nhận ra đây không phải là một trách nhiệm hay một bổn phận mà các thày đặt lên vai con. Đây là một phần của Sứ vụ thiêng liêng mà con đã chọn trước khi đầu thai, và các thày không muốn con xem việc này nghiêm trọng đến độ chẳng còn chỗ nào cho niềm vui. Các thày muốn con xem đây là một hành động vui đùa. Chuyển đổi không khó lắm đâu dù là nó cần một tiến trình, một phần là vì con cần đối phó với tư duy tập thể trong phần thế giới nơi con sống, là nơi mà mọi người xem mọi sự đều cực kỳ hệ trọng.

Các thày muốn con nhận ra ở đây, con yêu dấu, là con có thể thực hiện sự chuyển đổi này bằng cách không dính mắc vào việc tạo nên kết quả đặc thù trong xã hội của con. Dĩ nhiên, các thày đã phác họa một số mục tiêu mà các thày muốn thấy được thay đổi tại Hàn quốc. Lẽ dĩ nhiên, các thày có muốn thế. Ai lại không muốn thấy những mục tiêu này, những tiến bộ này được thực hiện? Các thày không dính mắc vào việc muốn những tiến bộ này được thành hình theo một cách đặc thù nào đó, ở một thời điểm đặc thù nào đó, qua những người đặc thù nào đó. Các thày lúc nào cũng tôn trọng quyền tự quyết. Nói cách khác, các thày không muốn áp đặt điều này lên người dân Hàn quốc. Như các thày đã nói rất nhiều lần, các thày muốn giải thoát họ để họ có thể tự nhiên bừng tỉnh và nhận ra, ừ nhỉ tất nhiên đấy là bước kế tiếp và đấy là điều họ thực sự mong muốn.

Sự chuyển đổi mà các thày muốn con thực hiện trong tâm là nhận ra vai trò của con là thỉnh gọi để cho phép các thày nhập cuộc và làm công việc của các thày. Khi con thỉnh gọi xong, con không cần dính mắc vào những gì sẽ xảy ra trong xã hội, vào những gì người khác sẽ làm. Con để cho họ tự do bởi vì các thày để cho họ tự do. Các thày không tìm cách ép buộc ai hết. Các thày cũng giải thoát con và muốn con tự giải thoát mình, và nhận ra rằng công việc con làm không được trở thành một gánh nặng khiến con căng thẳng, ngăn chận con làm tròn những bổn phận hàng ngày trong đời sống, hay cản trở con vui hưởng cuộc sống hàng ngày của con.

Các thày yêu cầu con luôn luôn tìm sự vui hưởng trong phụng sự và đời sống hàng ngày. Đây thật sự là Bát chánh đạo mà thày cố giảng cho mọi người 2500 năm về trước, nhưng nhiều người đã không nắm được vì đối với họ, giác ngộ hay đường tu trở thành một bổn phận khác, một mục tiêu đeo đuổi khác. Nó trở thành một nguồn căng thẳng bởi vì họ cảm thấy họ không đủ khả năng làm tròn công việc, hoặc họ cảm thấy họ còn rất xa mục đích, hoặc họ cảm thấy họ phải cố gắng thêm rất nhiều, hoặc họ cảm thấy vì họ đã cố gắng rất nhiều rồi nên họ rõ ràng cao trội hơn người khác và họ trở nên kiêu mạn.

10.11. Cái bẫy ở mỗi giai đoạn của đường tu

Điều thày nói với con ở đây có thể được diễn tả một cách rất giản dị, đó là con đường tâm linh có những giai đoạn và các tà lực không muốn con tiến từ giai đoạn này lên giai đoạn tiếp theo. Ở mỗi giai đoạn, họ đã đặt ra cho con một cái bẫy. Họ muốn con rơi vào bẫy này và đứng yên ở tầng đó. Do đó, các thày giản dị cho con khái niệm là con đường tâm linh có thể xem như một trò chơi. Ở mỗi giai đoạn, con biết là tà lực có giăng một cái bẫy. Con chỉ cần tỉnh giác và để ý tìm cái bẫy bằng cách nhìn vào các phản ứng của mình, nhìn vào phản ứng của những người tâm linh khác và nói: “Ồ, bây giờ tôi thấy cái bẫy đây và tôi sẽ không đặt chân vào đó.”

Khi con nhận ra điều này, con nhận ra là con cũng chẳng cần xem tà lực là hệ trọng, bởi vì con có thể thấy được cái bẫy của họ, nhưng họ thì không thấy. Họ bị mắc kẹt trong trí tưởng tượng giới hạn của chính họ. Con không bị mắc kẹt trong trí tưởng tượng giới hạn, và khi con có giáo lý của các thày và áp dụng giáo lý, thì việc tránh bẫy không khó lắm. Cho nên con có thể tới một điểm khi đường tu không là một nguồn căng thẳng mà là một nguồn vui thú. Con đi trên đường tu một cách vui thú, và nếu con làm một lỗi thì có sao đâu, con yêu dấu? Con đã học hỏi từ lỗi lầm này, và sau đó con giản dị tiến tới từ điểm đó. Con nhận ra rằng quả thực, như các thày đã nói trước đây, con không thể làm một chọn lựa sẽ khiến con bị mắc kẹt đời đời. Bất cứ chọn lựa nào cũng có thể được tháo gỡ bằng cách có một chọn lựa sáng suốt hơn, một chọn lựa tỉnh thức hơn.

10.12. Giác ngộ không là một mục tiêu

Điều thày muốn nói để kết thúc là giác ngộ không phải là một giai đoạn trên con đường của 144 tầng tâm thức. Giác ngộ không phải là mục tiêu tối hậu của Bát chánh đạo. Giác ngộ không phải là một mục tiêu, nó không phải là một khái niệm, nó không phải là một hình tư tưởng. Nó là một trải nghiệm không bị mắc kẹt vào các hình tư tưởng. Cách duy nhất để đạt được giác ngộ là bước ra khỏi các hình tư tưởng và cho phép mình trải nghiệm. Con trải nghiệm giác ngộ ở đâu? Không phải trong quá khứ, không phải trong tương lai, mà chỉ ở trong hiện tại. Con có thể trải nghiệm giác ngộ trong bất cứ hiện tại nào có thể hiện ra cho con. Con hãy giữ trong tâm những khái niệm này cho tới khi có một giây phút hiện tại nó bỗng trở nên hiển nhiên với con, và con nói: “Bây giờ thì tôi đang ở đó!” Thậm chí con còn không nói: “Bây giờ thì tôi thấy nó” bởi vì con đang không thấy nó như một khái niệm cách xa con. Con trải nghiệm nó như thực tại mới của con.

Con yêu dấu, một lần nữa đây là một bài giảng dài có thể thách thức khả năng ngồi trên ghế cứng của thân thể con. Nó có thể thách thức khả năng của cảm thể con muốn né tránh không phản ứng lại một điều nào đó mà thày nói. Nó có thể thách thức khả năng của trí thể con bắt nó tiếp tục chú tâm vào những khái niệm phức tạp mà thày đưa ra. Nó có thể thách thức bản sắc thể của con khiến con tự hỏi: “Ấy, dựa trên những điều Phật nói, tôi là ai đây? Tôi là loại sinh thể nào đây?” Lẽ dĩ nhiên, con yêu dấu, đây là thách đố tối hậu bởi vì bất kỳ ý niệm bản sắc nào con có trong thế gian này chỉ là một hình tư tưởng. Nó không có thực tại tối hậu và con không thể đem nó theo con vào trạng thái thăng thiên. Con chưa cần buông bỏ ý niệm bản sắc của con bây giờ, mà con buông bỏ nó từng phần một. Con chỉ buông bỏ lần cuối cùng khía cạnh cuối cùng của bản sắc thế gian của con khi con sẵn sàng thăng thiên. Nếu không như thế, thì cái gì sẽ giữ con lại trong thân thể? Cái gì sẽ giữ con chú tâm vào việc phụng sự đời sống – bởi vì nói cho cùng, đó là một phần rất lớn của đường tu của con?

Con đừng tin, con yêu dấu, là đường tu chỉ có chuyện nâng cao mức tâm thức của mình và loại bỏ cái ta vỏ ngoài. Con đã chọn đi vào thế giới này vì con muốn có một số trải nghiệm và con muốn đồng-sáng tạo một thế giới tốt đẹp hơn. Con muốn đóng góp vào sự tiến triển đi lên của thế giới này.

Con yêu dấu, không đúng là việc con phụng sự đời sống, cách con biểu hiện đời sống, việc con vui hưởng đời sống, việc con trải nghiệm đời sống, đi ngược lại sự tiến triển tâm linh. Đó là lý do vì sao nhiều năm trước đây, thày nói giác ngộ cũng giống như tâm thức không giác ngộ. Khi con giải thoát mình khỏi khái niệm tạo nên tâm thức không giác ngộ và giải thoát mình khỏi khái niệm giác ngộ, thì lúc đó con nhận ra là thế gian không phải là kẻ thù của sự tiến triển tâm linh; nó là cỗ xe để con tiến triển tâm linh. Kỳ thực con đường quả vị Phật của con không bị ngăn trở khi con đi vào một trạng thái tâm thức thấp vì đây là một phần của trải nghiệm mà con cần có trong thế gian này. Nó cho con nền móng để biết những điều kiện nào con muốn thay đổi trong khi con tham gia vào tiến trình đồng-sáng tạo một thế giới tốt đẹp hơn.

Cho nên, con thấy là khi con đạt tới một giai đoạn nào đó, con không hối tiếc bất cứ gì con đã làm hay đã trải qua. Con không có cảm giác có sự phân chia giữa điều tâm linh và không tâm linh và ngay cả phản-tâm linh. Bỗng nhiên con bắt đầu nhận ra là không có hiện tượng nào trên thế gian có thể chống lại sự phát triển của con, chống lại đường tu của con. Ngay cả tà lực, dù chúng có hiện hữu tạm thời, khi con thấy chúng như chúng là, thì chúng không chống lại sự phát triển của con. Chúng không có quyền lực nào trên tâm con khi con giải thoát mình khỏi sự phân biệt giữa các “cặp đôi” – là cái tên mà thày dùng cách đây 2500 năm, nhưng ngày nay thì các thày gọi là hai cực nhị nguyên. Chúng không có thực tại, chúng không có quyền lực và do đó con có thể nhìn hiện tượng thế gian mà không thấy chúng qua phin lọc của những đối cực nhị nguyên này và những phán xét giá trị của chúng. Con thấy mỗi khía cạnh của cuộc sống, mỗi khía cạnh của thế gian, là phương tiện cho con phát triển, cho con biểu đạt chính mình, cho tiến trình và khả năng đồng-sáng tạo của con.

Con yêu dấu, có thể con đã từng nghe khái niệm rằng “đối với Phật, thời gian không có” và có thể con nhận ra là thày có thể tiếp tục nói như thế này vô hạn định, vì thày rất vui mừng khi trao truyền cho con những khái niệm này. Thày cũng nhận ra là con chưa tới điểm thấy được thời gian không có. Thày lưu ý điều này nên thày sẽ chấm dứt dòng tâm thức được biểu hiện qua ngôn từ ở đây, và một lần nữa thày bày tỏ sự biết ơn của thày và của các chân sư đối với lần họp mặt tuyệt vời giữa các thày ở Trên và các con ở dưới. TA LÀ Phật, tên ta là Gautama.

Hiểu tại sao con không thể hiểu quả vị Ki-tô

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 5 tháng 5 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày đã không có ý định nói trong hội nghị này vì lần trước thày đã có dịp nói ý mình. Nhưng vì các con đã hỏi vị sứ giả nhiều câu hỏi về quả vị Ki-tô, nên thày quyết định là các con sẽ được lợi lạc nếu thày thuyết giảng về đề tài này.

9.1. Mối đe đọa lớn nhất cho tà lực

Các con yêu dấu, điều đầu tiên hết mà chúng ta cần nhìn nhận là quả vị Ki-tô cá nhân, tức là khi con mang vào mình tâm thức Ki-tô, là mối đe dọa lớn nhất cho tà lực và các thày giả trên hành tinh này. Do đó, họ đã làm tất cả mọi điều mà họ có thể nghĩ được để ngăn chặn con người biết về quả vị Ki-tô, thấy là đạt quả vị Ki-tô là một điều thiết thực mà họ có thể làm được, và hiểu tiến trình thành tựu quả vị Ki-tô và nó nghĩa là gì.

Tà lực đã làm mọi điều mà họ có thể nghĩ ra để tạo ra đủ loại mưu mô làm lạc hướng, dựng lên những mục đích tâm linh khác có thể dẫn tới một trạng thái nhận biết cao hơn nhưng không đe dọa họ nhiều bằng quả vị Ki-tô. Họ cũng đã làm mọi điều mà họ có thể nghĩ ra để định nghĩa quả vị Ki-tô theo cách khiến người hành giả muốn đạt được hay cố gắng đi tới một mục đích tối hậu và rồi bỗng nhiên nghĩ rằng họ đã đạt được mục đích và không cần tiến xa hơn nữa.

9.2. Không có trạng thái tối hậu

Con yêu dấu, điều quan trọng nhất mà con có thể nhận ra về quả vị Ki-tô là nó là một tiến trình liên tục. Con có thể đạt quả vị Ki-tô khi còn đang hiện thân, nhưng không có một trạng thái quả vị Ki-tô tối hậu mà con có thể đạt khi đang hiện thân. Chúng ta có thể nói không có một trạng thái quả vị Ki-tô tối hậu theo nghĩa là không có trạng thái tâm thức nào tối hậu, có thể ngoại trừ tâm thức của đấng Sáng tạo, nhưng ngay cả nó cũng thăng vượt chính nó khi nó sáng tạo. Con cần nhận ra ở đây là không có một trạng thái tối hậu.

Cuộc sống, sự nhận biết, sự tự nhận biết là một tiến trình liên tục. Khả năng tự thăng vượt lúc nào cũng có. Chưa từng có – chưa từng có – một trạng thái bất động trong thế gian. Chưa từng có một trạng thái bất động trong thế gian và sẽ không bao giờ có. Chưa bao giờ có cái khởi đầu và sẽ không bao giờ có cái chấm dứt. Có thể có một khởi đầu và chấm dứt của một chu kỳ, nhưng không có cái khởi đầu tối hậu mà trước đó không có gì cả. Có cái khởi đầu của thế giới hình tướng của chúng ta khi đấng Sáng tạo hiện hữu trong chính ngài nhưng đấy không phải là cái khởi đầu tối hậu, bởi vì chưa bao giờ đã có cái khởi đầu tối hậu. Sẽ không bao giờ có cái chấm dứt tối hậu.

9.3. Con không thể hiểu quả vị Ki-tô

Đây là điều mà tâm đường thẳng thấy rất khó lãnh hội và đó là lý do vì sao con cần hiểu là con không thể hiểu quả vị Ki-tô. Tuy nhiên, con có thể tới chỗ hiểu được là con không thể hiểu quả vị Ki-tô. Khi con hiểu là con không thể hiểu quả vị Ki-tô và tại sao con không thể hiểu quả vị Ki-tô, thì lúc ấy con có thể bắt đầu nắm được đôi chút thoáng biết quả vị Ki-tô là gì.

Con cần nhận ra ở đây là đa số con người trên trái đất đã bị lập trình để suy nghĩ qua tâm đường thẳng, tâm phân tích và duy lý. Tâm này không thể hiểu, nắm bắt và xử lý quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô vượt lên trên những gì tâm đường thẳng có thể xử lý. Đó là lý do vì sao con cũng cần hiểu là cách con nhìn quả vị Ki-tô ngay bây giờ không phải là cách tối hậu nhìn quả vị Ki-tô. Dù thày là một chân sư thăng thiên, thày vẫn không thể cho con một bài thuyết trình tối hậu về quả vị Ki-tô vì quả vị Ki-tô là một tiến trình nâng cao tâm thức dần dần.

Các thày đã cho các con kiến thức về 144 tầng tâm thức có thể có được trên trái đất. Như vậy chúng ta có thể nói quả vị Ki-tô là tiến trình qua đó con bắt đầu từ tầng 48 và dần dần nâng tâm thức lên tầng 144. Khi tới tầng 144 thì con đạt được mức cao nhất của quả vị Ki-tô mà có thể đạt được trên trái đất trong tình trạng hiện nay.

Điều này có nghĩa là, con yêu dấu, khi con bắt đầu ở tầng 48 thì con có thể có một hiểu biết nào đó về quả vị Ki-tô, nhưng đó không phải là hiểu biết trọn vẹn. Khi con tăng triển tới các tầng tâm thức cao hơn thì sự hiểu biết và trải nghiệm của con về quả vị Ki-tô sẽ thay đổi. Con sẽ không nắm biết được trọn vẹn quả vị Ki-tô cho tới khi con đạt tầng 144. Do đó, con thấy được là không thể đưa ra một định nghĩa về quả vị Ki-tô mà những người ở nhiều tầng tâm thức khác nhau từ 48 tới tầng 144 có thể hiểu được.

Tại sao thày nói là bắt đầu từ tầng 48? Bởi vì những người ở dưới tầng 48 không thể hiểu được quả vị Ki-tô. Lẽ dĩ nhiên họ có thể nghe tới khái niệm quả vị Ki-tô. Họ cũng có thể quyết định là họ muốn đạt quả vị Ki-tô, nhưng họ không thể hiểu quả vị Ki-tô thực sự nghĩa là gì. Do đó, họ có thể tạo một nhận thức lý trí, duy lý, đường thẳng về quả vị Ki-tô là gì. Họ còn có thể nghĩ rằng họ đang tiến triển trên đường tới mục đích đó nhưng không phải vậy đâu, con yêu dấu. Con có thể nâng cao tâm thức từ tầng thấp nhất lên tới tầng 48, và như vậy con đang tiến bộ theo nghĩa tâm linh nhưng con còn chưa bắt đầu tiến trình mang vào quả vị Ki-tô.

Lý do là vì con còn quá dính chặt vào tâm vỏ ngoài. Tâm này nghĩ rằng nó có thể hiểu mọi chuyện bằng cách tạo nên những nhãn hiệu, và sau đó thêm phán xét giá trị vào nhãn hiệu mà họ đã tạo ra dựa trên tư duy nhị nguyên. Rồi sau đó họ nghĩ họ có thể định nghĩa quả vị Ki-tô dựa trên một số tiêu chuẩn vỏ ngoài. Họ nghĩ họ có thể lập ra một danh sách và nói rằng: “Khi tôi hội đủ một tiêu chuẩn thì tôi sẽ đánh dấu là đã làm xong. Sau đó tôi sang tiêu chuẩn tới, và đánh dấu đã làm xong. Khi tôi đến cuối danh sách và đã đánh dấu hết mọi tiêu chuẩn, thì tôi đạt được quả vị Ki-tô.” Đó là lý do duy nhất những người ở dưới tầng tâm thức 48 có thể nhận định về quả vị Ki-tô.

Có nhiều thày giả trên thế giới chỉ cho con một con đường tu dẫn tới một mục đích nào đó. Họ có thể không gọi đó là quả vị Ki-tô, họ có thể gọi đó là nhận biết cao, tâm thức toàn vũ, giác ngộ hay bất cứ gì khác. Nhưng đấy là một con đường tu máy móc, con đường tu vỏ ngoài. Qua việc thực hành một số bài tập hay nghi lễ, hay học giáo lý, nhớ thuộc lòng, họ nghĩ rằng họ có thể hội đủ điều kiện để lên thiên đàng khi họ làm tròn một số tiêu chuẩn được quy định trên trái đất.

9.4. Bắt đầu quả vị Ki-tô

Giờ đây, con yêu dấu, khi con đi cao hơn tầng tâm thức 48, con có thể bắt đầu tiến trình quả vị Ki-tô. Có thể lúc đó con vẫn còn nhiều hiểu lầm về quả vị Ki-tô nhưng để có thể đi quá tầng 48, con đã có đức tính cốt yếu để bắt đầu tiến trình quả vị Ki-tô, đó là sự sẵn sàng lắng nghe trực giác của mình, ngay cả khi tâm duy lý, đường thẳng nói với con điều gì khác. Nói cách khác, chuyện xảy ra ở tầng 48 là con bắt đầu nghe theo trực giác của mình trong một số tình huống và do đó, con phớt lờ, bỏ qua một bên hay vô hiệu hóa tâm duy lý, đường thẳng, suy luận, lý trí và phân tích của mình.

Tất cả các con đang ở đây sẽ thấy – và tất cả các con đều ở trên tầng tâm thức 48 vì nếu không thì các con không ở đây – là con đã lấy quyết định đi vào con đường tâm linh. Bạn bè và gia đình con khó thông cảm con vì họ suy luận một cách duy lý, đường thẳng là con không nên làm điều con đang làm, con không nên tin hay chấp nhận những điều con đang chấp nhận. Có thể là con không thể cho họ một hiểu biết duy lý và đường thẳng mà họ có thể chấp nhận, vì sao con đang làm những chuyện con đang làm. Con giản dị biết đây là chuyện đúng cho con.

Như thế, đây là cốt yếu của quả vị Ki-tô giữa tầng 48 và 96. Con nâng tâm thức bằng cách dùng Bảy Tia Sáng như các thày đã mô tả trong khóa học tự điều ngự, là một con đường tuần tự do các Thượng sư hướng dẫn. Khi con tu như vậy thì con gia tăng trực giác, thực sự là sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của con và với các chân sư thăng thiên. Điều này có nghĩa là con càng ngày càng muốn lờ đi tâm duy lý của mình, cũng như những thúc đẩy, phóng chiếu đến từ bên ngoài, như từ người khác (như gia đình hay bạn bè), xã hội, tâm thức đại chúng, tà lực hay bất cứ gì khác.

Khi con lên cao hơn, sẽ có nhiều phóng chiếu hơn nhưng con càng ngày càng giỏi hơn trong việc không để chúng ảnh hưởng mình. Khi con tiến về hướng tầng 96, con gia tăng khả năng đọc sự rung động, đọc mức độ năng lượng của một người đang nói chuyện với con, của một ý tưởng đến với con hay ngay cả những phóng chiếu mà các lực thấp đang phóng tới con. Con tiến bộ hơn trong việc đọc mức độ rung động, và con giỏi hơn trong việc cảm nhận nó ở dưới một mức nào đó hay ở trên mức đó.

9.5. Học cách đọc rung động

Bây giờ, con yêu dấu, điều thày đang nói với con ở đây là khi con đi lên trên tầng tâm thức 48, thì con đã thiết lập được trong chính bản thể của mình, trong tim mình, một sự rung động nào đó mà con biết là cao hơn sự rung động dựa trên sợ hãi của thế gian. Đây là sự rung động cao nhất mà con có thể nhận ra với tầng mức tâm thức của con. Tỷ dụ như ở tầng 48, con có một mức rung động nền nào đó mà con có thể nhận ra. Do đó, con nhận ra được là có một số thứ rung động rõ ràng ở dưới mức này và một số thứ khác rung động trên mức này. Cũng có thể con thấy khó nhận ra các rung động quá cao trên mức này. Cũng có thể, con gặp khó khăn phân biệt giữa rung động nền của con và các rung động thấp hơn nó một chút, nhưng con có thể cảm nhận rõ ràng sự khác biệt giữa rung động nền của con và rung động rất thấp dưới nó.

Bây giờ khi con lên các tầng cao hơn hướng tới tầng 96, con có thể nhận ra những rung động cao hơn. Điều này có nghĩa là giờ đây con có thể nhận ra những rung động càng ngày càng cao hơn. Lẽ dĩ nhiên, con không quên rung động nền mà con có ở tầng 48 và do đó bây giờ con có thể nhận ra một dải rung động cao ngày một rộng hơn. Điều này cũng có nghĩa là con giỏi hơn trong việc phân biệt những rung động thấp hơn tầng 48 một chút, và do đó tà lực càng lúc càng khó lừa được con.

Con sẽ tới một điểm đạt tới tầng 96, khi ấy con đạt được khả năng đọc bất kỳ rung động nào mà sa nhân phóng tới con từ dưới tầng 48. Nói cách khác, con không thể bị lừa bởi một rung động ở dưới tầng 48, dù nó được ngụy trang tài tình đến đâu chăng nữa. Con có thể tự mình nhận ra rung động đó. Điều này không có nghĩa là con đã đạt được trọn vẹn quả vị Ki-tô. Thực sự thì đây là giai đoạn sơ bộ của quả vị Ki-tô, và tiến trình thực sự đạt quả vị Ki-tô cá nhân – trở thành Ki-tô Hằng sống (Living Christ) – bắt đầu trên tầng 96.

9.6. Khai ngộ tại tầng 96

Tuy nhiên ở tầng 96, con đối mặt với một khai ngộ quyết định, và con thấy thày trải qua khai ngộ này khi thày bắt đầu sứ mệnh của thày. Thánh kinh không mô tả rành rọt sự việc này nhưng con thấy hoàn cảnh bữa tiệc cưới ở Cana, khi mẹ của thày phải thúc đẩy thày biến nước thành rượu và như thế ra mặt khởi sự sứ mệnh công chúng của thày. Trong Thánh kinh cũng có một số ám chỉ khác, như lễ rửa tội do Giăng Báp-tít (John the Baptist), và một số ám chỉ vi tế khác.

Điều thày muốn nói ở đây là khi con tới tầng 96, con đối mặt với một quyết định hệ trọng. Con có thể tiếp tục theo đuổi sự tăng triển tâm linh để nâng mình và trạng thái tâm thức của mình lên cao hơn, hay con có thể chọn lựa là kể từ điểm này trở đi, con theo đuổi sự tăng triển tâm linh không phải để tự nâng mình lên mà để phụng sự và nâng toàn thể lên.

Sự khác biệt trông có vẻ vi tế. Nó có vẻ vi tế vì nó thực sự vi tế. Trên thực tế, hầu hết mọi người ở dưới tầng 96 sẽ không hiểu được sự vi tế này và những người dưới tầng 48 thì sẽ không hiểu được gì cả. Họ còn không thể thấy được tại sao phải có chọn lựa đó. Con yêu dấu, quả vị Ki-tô ở các tầng cao của tâm thức không chú trọng vào việc nâng cao tâm thức của mình, nâng cao cái ta của mình. Con hiểu chăng, con yêu dấu, là giữa tầng tâm thức 48 và 96, con nâng cao cá thể của mình, như con thấy nó lúc đó, vượt lên trên sức hút của tâm thức đại chúng?

Như tình trạng tâm thức đại chúng hiện nay trên trái đất, không cách chi con có thể biểu hiện một trạng thái tâm thức cao nếu con bị ảnh hưởng bởi tâm thức tập thể. Do đó ở tầng 48, con nhận ra là con có tiềm năng, với tư cách một cá nhân, nâng mình lên cao hơn tâm thức đại chúng. Ở tầng 48, con có một ý niệm bản ngã nào đó, một ý niệm bản sắc nào đó, một hiểu biết trí năng mình là ai, một hiểu biết tình cảm mình là ai và một hiểu biết vật lý có ý thức mình là ai. Như con thấy mình là ai ở tầng 48, đó là cái ta mà con bắt đầu nâng lên.

Giờ đây, lẽ dĩ nhiên, cái ta này thay đổi khi con tiến về hướng tầng 96, nhưng trên căn bản con vẫn còn xem mình là một cá thể đang đi trên con đường tâm linh và đang nâng cao tâm thức của mình. Đây là điều không tránh được, đây là điều cần thiết – và điều này không có gì sai trái – là con có một động cơ thúc đẩy con muốn nâng mình lên cao hơn, muốn con đạt được một tầng tâm thức cao hơn.

Tuy nhiên, điều này cũng tạo cơ hội để các thày giả ảnh hưởng con một cách vi tế. Họ đã làm điều này, ví dụ bằng cách mô tả quả vị Ki-tô, giác ngộ hay tâm thức toàn vũ như một trạng thái siêu nhiên giúp con đạt được quyền năng siêu nhiên, như biến nước thành rượu, đi trên nước hay làm người chết sống lại – hoặc bất kỳ điều gì khác. Họ khiến con nghĩ con sẽ trở thành một siêu nhân với quyền năng siêu nhiên. Có nhiều người mong muốn có quyền năng như thế và mong muốn bước ra ngoài chứng minh những quyền năng này với người khác. Họ có thể có thiện ý muốn thu hút người khác vào con đường tâm linh, nhưng đằng sau đó luôn luôn có thúc đẩy vị kỷ muốn nâng mình lên cao hơn người khác. Nói cách khác, khi con đi trên con đường tu từ tầng 48 lên 96, thì lúc nào con cũng còn một yếu tố vị kỷ.

Khai ngộ mà con đối mặt ở tầng 96 là: Con có sẵn sàng buông bỏ ham muốn tăng trưởng đến từ cái ta không? Con có sẵn sàng bước lên một động lực cao hơn và nhận ra rằng mục đích thật sự của sự thăng thiên là bây giờ con sẽ bắt đầu tháo dỡ cái ta mà con đã sử dụng như cỗ xe để tiến lên từ tầng 48 tới tầng 96?

Bây giờ con có thể so sánh điều này với hỏa tiễn không gian có hai tầng, con yêu dấu. Tầng đầu có động cơ với một bình nhiên liệu vĩ đại cần thiết để đưa hỏa tiễn vượt khỏi hấp lực của trái đất. Con cần có cái ta đó giữa tầng 48 và tầng 96. Thày không khiển trách ai hết. Việc này không có gì sai trái cả. Việc này cần thiết, nhưng như con thấy với trường hợp hỏa tiễn, một khi đã đi vào không gian, thì nó không cần động cơ khổng lồ và bình nhiên liệu đó nữa bởi vì chúng chỉ cần thiết để đưa tới giai đoạn thứ nhì. Do đó, hỏa tiễn phải tách ra và để chúng rơi xuống.

Sự khác biệt cốt yếu ở tầng 96 là sự khác biệt giữa những người hiểu được điều này và những người không hiểu. Có những người ở tầng 96 tiếp tục tìm cách nâng mình lên. Và có những người thấy được nhu cầu buông bỏ cái ta mà họ có ở tầng 96. Điều này không có nghĩa là họ có thể buông bỏ nó ngay tức khắc bởi vì con luôn luôn cần một sự liên tục nào đó để sinh hoạt trong cõi vật chất. Do đó, điều mà thày muốn nói là một khi con tới tầng 96 và hiểu được giai đoạn cao của quả vị Ki-tô là gì, thì con đi vào một tiến trình dẫn con từng bước một từ tầng 96 lên tầng 144. Tiến trình này không có mục đích nâng cao chính mình, cho mình một số khả năng đặc biệt nào đó, nâng mình lên cao hơn người khác. Nó thực sự là tiến trình tháo dỡ cái ta chia cách con khỏi người khác.

9.7. Cái nhìn cấp tiến về quả vị Ki-tô

Con thấy chăng, con yêu dấu, việc con cần một cái ta để kéo mình lên trên tâm thức đại chúng có vẻ là một sự mâu thuẫn. Vì sau đó, một khi đã làm xong điều này, thì con lại cần tháo dỡ cái ta đó và cố gắng hợp nhất với tất cả mọi người. Sự thực là khi con còn bị ảnh hưởng bởi tâm thức đại chúng, thì con không hợp nhất với người khác, con không hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con, con không hợp nhất với các chân sư thăng thiên. Con chỉ giản dị ở trong trạng thái máy móc trong đó các sa nhân tìm cách khiến cho mọi người đều giống nhau. Trạng thái đó, con yêu dấu, không phải là hợp nhất.

Trạng thái đó có thể gọi là giống nhau, nhưng nó không là hợp nhất. Con thấy chăng, hợp nhất theo nghĩa tâm linh là khi con nhận ra cá thể tâm linh thiêng liêng của con nhưng cá thể tâm linh này không kéo con tách biệt khỏi người khác. Các thày là chân sư thăng thiên nhìn nhận cá thể của mình. Thày nhìn nhận cá thể của mình khác với cá thể của thày MORE hay cá thể của thày Saint Germain, nhưng các thày không xung đột hay ganh đua với nhau. Các thày đạt được một mức hợp nhất mà con không thể nào hiểu được trong trạng thái chưa thăng thiên. Nhưng con có thể bắt đầu hiểu được khi con tiến gần tầng 144.

Có hai giai đoạn chính của quả vị Ki-tô và đó là lý do vì sao khi con ở dưới tầng 96, con có một cái nhìn nào đó về quả vị Ki-tô, một hiểu biết nào đó về quả vị Ki-tô. Một khi con lên trên tầng 96, con bắt đầu nhận là nó nhiều hơn thế nhiều. Nó thực sự là cái gì đó hoàn toàn khác với cái con nghĩ ở tầng tâm thức trước đó của con. Điểm cực kỳ – cực kỳ – quan trọng là khi con đang ở bất cứ tầng nào, thì con, một cách có ý thức, lấy thái độ là ở tầng hiện tại của con, con không thể hiểu trọn vẹn quả vị Ki-tô là gì. Do đó, con không nhìn một định nghĩa hay quan niệm đặc thù nào về quả vị Ki-tô và nói: “Đây là quả vị Ki-tô” và do đó con đóng tâm lại với cái nhìn cao hơn, hiểu biết cao hơn, trải nghiệm cao hơn.

Trong khi con ở dưới tầng 96, con sẽ vẫn còn nghĩ quả vị Ki-tô là cái gì con có thể hiểu được. Thày yêu cầu con ý thức là dù con có thể có một hiểu biết nào đó về quả vị Ki-tô, con sẽ tới một điểm mà hiểu biết này cần phải đào thải. Bây giờ, thay vì hiểu quả vị Ki-tô, con chú tâm vào việc trải nghiệm nó. Có sự khác biệt giữa hiểu và trải nghiệm theo nghĩa là khi con hiểu một điều gì, con nhìn nó từ bên ngoài. Con nói: “Quả vị Ki-tô ở trên kia và tôi hiểu nó là cái gì, và tôi đang hiểu làm sao tôi có thể lại gần nó.” Điều này ngụ ý là con chưa tới chỗ đó.

9.8. Trải nghiệm quả vị Ki-tô

Khi con đi tới tầng 96 và con lấy quyết định một cách ý thức là con xoay chuyển khỏi sự chú tâm vào chính mình, để chú tâm vào cái gì vượt quá cái ta, thì lúc ấy con bắt đầu trải nghiệm quả vị Ki-tô. Một lần nữa điều này không có nghĩa là con trải nghiệm trọn vẹn quả vị này, nhưng con trải nghiệm quả vị Ki-tô ở một giai đoạn nào đó. Đây là lúc, như sứ giả này đã mô tả, con cần tới điểm sẵn sàng chấp nhận một cách ý thức là con đã đạt được một mức nào đó của quả vị Ki-tô. Nếu con không chấp nhận điều này thì con thực sự không thể nào bắt đầu tiến trình trải nghiệm những biểu hiện ngày càng cao hơn của quả vị Ki-tô.

Con có thể nghĩ con là Ki-tô ở dưới tầng 96, và các thày luôn luôn thấy một số đệ tử nghĩ rằng họ có thể tuyên bố là họ đã đạt được quả vị Ki-tô trong khi họ vẫn còn dưới tầng 96 hay ở tầng 96. Con yêu dấu, họ tuyên bố như thế với tâm vỏ ngoài và đây không phải là điều thày đang nói ở đây. Thày nói tới một sự chuyển hóa vi tế không dựa trên tâm vỏ ngoài. Đây không phải là việc quyết định với tâm vỏ ngoài nhưng là nhận ra rằng con cũng không thể chối bỏ quả vị Ki-tô.

Con nhận ra rằng lúc nào trong tự ngã con người cũng có sự tương tác giữa cảm nhận tự ti và tự tôn. Con nhận ra rằng có một khuynh hướng, có một yếu tố trong tự ngã muốn thổi phồng tầm quan trọng của nó. Do đó, con nhận ra là những người bị ảnh hưởng bởi khía cạnh này của tự ngã sẽ tuyên bố họ là Ki-tô trước khi họ thực sự sẵn sàng cho quả vị đó, trước khi họ quyết định ngừng tập trung vào cái ta. Họ tìm cách dùng quả vị Ki-tô như một cách để nâng cái ta tách biệt lên một vị thế tối hậu nào đó.

Mặt khác con cũng thấy có những người bị kẹt trong khía cạnh tự ti của tự ngã và nghĩ rằng họ không được công nhận là họ đã đạt được một giai đoạn nào đó của đường tu. Họ phải khiêm cung, họ không được gây chú ý tới họ. Họ quá quan tâm cần tránh kiêu mạn đến độ rơi vào đối cực là rất khiêm cung và không tuyên bố mình đã đạt được bất cứ giai đoạn nào. Con thấy chăng, kiêu mạn có thể biểu hiện dưới cả hai dạng tự ti tự tôn.

9.9. Công nhận quả vị Ki-tô

Khi con nhận ra điều này, con nhận ra rằng con cần xem xét mình, xem xét tâm lý mình, xem xét cả hai khía cạnh của tự ngã, khía cạnh tự ti, khía cạnh tự tôn, để nhận thấy chúng đã ảnh hưởng cái ta của con ra sao. Và khi con đi qua tiến trình phơi bày động lực này của tự ngã, thì con sẽ tới một điểm con nhìn thấu suốt và con nhận ra con hơn nó. Đây không phải cái con là, nó không quy định con. Rồi con nhận ra là con thực sự muốn hoàn toàn vượt lên trên động lực của tự ngã vì con muốn là một với Hiện diện TA LÀ của con, con muốn là một với vị chân sư thăng thiên thân thiết nhất trong tim con. Con muốn điều này hơn bất kỳ vị thế nào con có thể có được trên trái đất.

Đó là lúc con tới được sự nhận biết nội tâm tự phát là con không thể nào tuyên bố mình có quả vị Ki-tô quá sớm, nhưng con cũng không thể chối bỏ nó, phớt lờ nó, quá tầng tâm thức thực sự của con. Lúc đó, con nhận ra rằng con cần công nhận là con đã tiến bộ trên con đường tâm linh, con đã đạt được một tầng tâm thức nào đó. Con đã đạt một tầng của quả vị Ki-tô ở trên tầng 96 bởi vì con nhận ra rằng con không còn chú tâm tới cái ta tách biệt. Con còn một số khía cạnh của cái ta này nhưng con không chú tâm tới chúng. Nó không quy định con, nó không quy định con đường tu của con.

Đó là lúc con công nhận con đã đạt được một tầng nào đó của quả vị Ki-tô, nhưng con cũng công nhận đó không phải là mức cao nhất của quả vị Ki-tô. Con nhận ra rằng giữa tầng 96 và 144, có một tiến trình không giống điều nhiều người nghĩ. Đây không phải là giai đoạn con đạt được khả năng siêu nhiên nào đó. Khả năng siêu nhiên không phải là một phần cốt yếu của quả vị Ki-tô. Có những người đã đạt quả vị Ki-tô, đã hội đủ tư cách để thăng thiên nhưng chưa bao giờ biểu lộ bất kỳ khả năng siêu nhiên nào, chưa bao giờ có ai nhận ra họ. Những người dưới tầng 48 còn không thể nào nhận ra người ở các tầng cao hơn, và hầu hết những người dưới tầng 96 cũng không thể nhận ra họ một cách dễ dàng.

Ở giai đoạn này, con không chú tâm vào thế gian theo nghĩa là con không chú tâm vào việc sống theo hình ảnh hay chờ đợi nào đó của thế gian. Con không tìm cách khiến thế gian nể phục. Con không đi tìm sự công nhận của thế gian. Con đã đạt được cái mà con có thể gọi là một ý niệm cao về sự tự túc tâm linh khi con không cần sự công nhận hay chứng thực của người khác hay của thế gian. Con không cần người khác chứng thực vì con có sự chứng thực từ bên trong qua trải nghiệm hợp nhất cao hơn so với trước kia. Con vẫn còn nhớ cảm nhận khi con chưa trải nghiệm mình là một với Hiện diện TA LÀ của con, hay với các chân sư thăng thiên, và cảm nhận hiện tại khi con có sự hợp nhất này. Do đó con không nhìn mức độ hợp nhất như một mục tiêu lý thuyết mà con nhìn từ phía xa. Con đang trải nghiệm sự hợp nhất này và con trải nghiệm rằng khi con tiếp tục xem xét mình và thấy thêm những hạn chế, thêm những tin tưởng hạn chế và con buông bỏ chúng, thì khi đó con đạt được một mức độ hợp nhất cao hơn.

9.10. Liên tục quan sát mình

Con nhận ra rằng con đường từ tầng 96 lên tới tầng 144 thực sự là con đường liên tục quan sát mình. Trong mọi hoàn cảnh, con quan sát phản ứng của mình. Mỗi khi con nhận thấy một phản ứng mà con biết rung động thấp hơn tầng rung động nền mà bây giờ con đã nhận ra, thì con xem xét nó với tâm cởi mở và chân thật. Con không tìm cách che giấu nó với chính mình, con không tìm cách biện minh cho nó. Con cũng chẳng lên án mình vì con đã vượt quá nhu cầu lên án mình theo bất cứ kiểu nào. Con không tìm lỗi của người khác, con không tìm lỗi của chính mình, con không phán xét với sự phán xét giá trị nhị nguyên. Con chỉ giản dị quan sát. Con quan sát là ở đây đang có cái gì hạn chế con và con nhìn xem nó là gì cho tới khi con khám phá ra cách nó vận hành. Sau đó con nhận ra con đã cho cái ta đó chết đi như thế nào và con vươn lên một tầng cao hơn.

Con thấy chăng, con yêu dấu, ở dưới tầng 96, con cố gắng đạt quả vị Ki-tô dựa trên một cái nhìn của cái ta vỏ ngoài. Nó dựa trên việc nâng mình lên khỏi sức hút của tâm thức đại chúng. Giờ đây khi con đi quá tầng 96 và trên thực tế, để có thể đi quá tầng 96, con cần đạt được khai ngộ mà thày đã mô tả khi thày nói là nếu con muốn cứu mạng sống của mình thì con sẽ mất nó, nhưng những ai sẵn lòng chịu mất mạng sống của mình để phụng sự thày thì họ sẽ tìm được nó. Câu này có nghĩa là giờ đây con bắt đầu buông bỏ một số khía cạnh của đời sống của mình, nghĩa là cái ta vỏ ngoài, cái ta đã đưa con tới tầng 96. Con cần để cho một số yếu tố của cái ta này chết đi vì con trải nghiệm (con cảm nhận, con thấy) là chuyện quan trọng hơn là con tiến một bước cao hơn trong tiến trình hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con, hay hợp nhất với vị chân sư thăng thiên nào thân thiết nhất trong tim con. Vị này có thể là thày; vị này có thể là một chân sư nào khác mà con muốn. Đây là một tiến trình hợp nhất và con chỉ đạt được hợp nhất với cái ta cao của con, với Hiện diện TA LÀ của con, bằng cách cho cái ta vỏ ngoài chết đi từng bước một, từng yếu tố một, từng phần nhỏ một.

9.11. Chết liên tục

Ta có thể nói đây là một tiến trình chết liên tục vì con đang chết đi khỏi thế gian. Con đang cho phép cái ta thế gian chết đi để khi ông hoàng của thế gian tìm đến, thì y sẽ thấy trong con càng ngày càng ít chuyện để nắm, cho tới khi cuối cùng thì y không tìm thấy bất cứ gì nữa. Con đã cho phép cái ta thế gian này chết đi, và nó không còn gì nữa hết. Ở điểm đó, chẳng còn gì giữ con hiện thân và đó là lý do vì sao con đi vào tiến trình thăng thiên. Điều quan trọng mà con cần ghi nhớ là vấn đề là cho cái ta vỏ ngoài chết đi.

Bây giờ con yêu dấu, thày gọi nó là một hình thức chết vì hầu hết mọi người xem cái chết như một giai đoạn cuối cùng khi cái gì đó biến mất, cái gì đó chết đi, cái gì đó không còn nữa. Đây đúng là điều xảy ra cho cái ta vỏ ngoài của con: nó chết đi. Có một cái ta nào đó, một yếu tố nào đó của nó, và như thày Hilarion đã giải thích trong sách của thày (Khai ngộ Thần bí về Viễn quan) có một ảo tưởng nào đó ở mỗi tầng tâm thức. Chúng ta cũng có thể nói là có một cái ta mà con cần cho chết đi tại tầng 96 để con có thể lên tầng 97. Sau đó có một cái ta ở tầng 97 mà con cho phép chết đi để có thể lên tầng 98 và tiếp tục như vậy. Điều này có tính chất chung cuộc.

Bây giờ, lẽ dĩ nhiên con cũng làm điều này giữa tầng 48 và tầng 96, nhưng con không ý thức về nó trong hầu hết trường hợp. Khi con đi quá tầng 96 và lấy quyết định đầu tiên cho cái ta chết đi, thì con càng ngày càng ý thức tiến trình đó. Con thấy là có cái gì đó thật sự chết đi. Nó không còn nữa, con buông bỏ nó hoàn toàn. Ở điểm này, con bắt đầu nhận ra là cái chết không phải là điều gì xảy ra tới con mà con không kiểm soát được. Cái chết thực sự là do con ý thức buông bỏ cái ta không còn giúp ích con nữa. Nó là một tiến trình mà con kiểm soát được, con yêu dấu. Con để cái ta đó chết đi một cách có ý thức và con thấy đây là hành động chung cuộc vì cái ta không còn nữa sau khi con buông bỏ nó.

9.12. Hình ảnh mỹ lệ về quả vị Ki-tô

Con thấy chăng con yêu dấu, có nhiều người nghe hay đọc bài giảng này và cảm thấy thất vọng vì bỗng nhiên những điều thày mô tả về quả vị Ki-tô nghe không mỹ lệ như họ đang mường tượng. Điều này chứng minh là con đã phần nào chấp nhận một trong những hình ảnh giả mà các thày giả đưa ra về ý nghĩa của các trạng thái tâm thức cao.  

Có một khía cạnh mà thày đặc biệt muốn con lưu ý. Một điều điển hình của các phong trào tâm linh (hoặc là các tôn giáo lớn hay các phong trào tâm linh nhỏ hơn xoay chung quanh một vị đạo sư) là họ thường tôn vinh người lãnh đạo phong trào như một người cao hơn những người khác. Ví dụ con có thể thấy một số tổ chức tâm linh hiện đại do một người nào đó khởi xướng và những người trong phong trào nghĩ rằng người này đã giác ngộ. Họ thường có một cái nhìn không được rõ ràng về thế nào là giác ngộ, nhưng họ nghĩ rõ ràng là người giác ngộ cao hơn những người khác.

Nếu giác ngộ có một ý nghĩa nào đó như một khái niệm, thì nó đồng nghĩa với quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô là gì? Nó là, khi con càng ngày càng tới gần tầng 144 hơn, con bắt đầu nhận ra là bên dưới mọi hiện tượng thế gian là cái một. Điều này có nghĩa là trước tiên con thấy con là một với Hiện diện TA LÀ của mình, và một với các chân sư thăng thiên ở trên con. Con thấy con là một phần của dòng năng lượng tuôn chảy không ngừng từ Tánh linh – phần trên của hình số tám. Sau đó, khi con càng tới gần điểm nối ở giữa hình số tám, thì con bắt đầu thấy con là một với tất cả những gì ở dưới, không phải là với sa nhân, với tâm thức nhị nguyên, nhưng là một với những nối dài có tự nhận biết của Thượng đế, những đứa con trai con gái của Thượng đế. Con thấy con là một với tất cả mọi người. Khi con tiến gần hơn tới trạng thái là một, thì mọi phê phán giá trị, mọi so sánh hoàn toàn phai mờ đi, con yêu dấu.

Nghĩa là, chúng ta cần nói là khi con tiến gần tầng tâm thức 144, thì lẽ dĩ nhiên con ở một tầng tâm thức cao hơn những người đang ở tầng 48 chẳng hạn. Lẽ tự nhiên, nhờ quyết chí nỗ lực con đã nâng mình lên, cao hơn tầng 48 rất nhiều. Điều này không có nghĩa là giờ đây con xem mình hay hơn hay quan trọng hơn người khác. Ngược lại, những phán xét giá trị của con phai mờ đi và chuyện so sánh mình với người chẳng còn ý nghĩa gì. Trên thực tế, ngay cả việc so sánh mình theo bất cứ thang giá trị nào cũng trở nên vô nghĩa. Con càng lúc càng không chú ý tới chuyện mình đang ở đâu trên thang tâm thức. Con chỉ giản dị chú tâm mình là chính bản thể mình, biểu lộ Sứ vụ Thiêng liêng của mình vì con bắt đầu thấy nó rõ hơn và con phụng sự người khác, phụng sự đại nghĩa nâng cao mọi sự sống của các chân sư thăng thiên. Đây là chú tâm của con.

Con hiểu chăng, con yêu dấu, một người càng giác ngộ thì càng không muốn người khác xem mình đã giác ngộ vì người khác sẽ xem người đã giác ngộ cao hơn họ. Con nhận ra là nếu người khác xem con cao hơn họ, họ không thể xem con là một tấm gương mà họ theo được. Họ thấy có một khoảng cách giữa con và họ và vì thế con không thể cho họ cảm hứng trọn vẹn để họ đi theo con đường mà con đã đi. Con thấy chăng, con yêu dấu, khi một người đặt mình cao hơn người khác một cách cơ bản, thì người đó không thể nào đã giác ngộ. Nếu người đó đã giác ngộ, thì người đó sẽ không muốn người khác đặt họ lên trên bệ cao. Thay vào đó, người giác ngộ sẽ làm tất cả đủ mọi điều để tránh mọi người thấy có khoảng cách. Người giác ngộ muốn mọi người thấy rằng tất cả đều có tiềm năng đi theo cùng con đường tu và đạt được những tầng tâm thức cao. Ở đây, tất cả mọi so sánh, tất cả mọi phê phán giá trị, phai mờ đi và kết quả là con đạt được bình an nội tâm càng ngày càng lớn hơn. Con không phải đáp ứng chờ đợi nào của thế gian. Con không phải cố gắng đạt được điều gì. Con không phải lên án mình vì điều gì mình đã làm. Con không phải phê phán hay đánh giá người khác.

Con thấy chăng, con yêu dấu, khi thày nói: “Ta đến đây để phán xử,” thì thày không muốn nói là thày đến để phê phán và đánh giá và chỉ trích người khác. Câu đó có nghĩa là thày đến để cho phép người khác phán xử chính họ qua cách họ đối xử với thày. Phán xử tối hậu là họ đã giết xác thân vật lý của thày qua đó họ tìm cách giết Ki-tô Hằng sống.

Ngày nay may thay, chúng ta sống trong một thời đại mà sa nhân thấy giết Ki-tô Hằng sống càng ngày càng khó khăn hơn, và do đó lẽ dĩ nhiên con không phải trải qua kinh nghiệm này – thày thành thật hy vọng điều đó cho con. Con hiểu ý ở đây là thày không đến để phê phán và chỉ trích và đánh giá bất cứ ai, như nhiều người nghĩ. Như các thày có nói trước đây, các thày là chân sư thăng thiên không ngồi ở trên này để theo dõi từng hành động, từng lời nói, từng ý nghĩ và cảm xúc của các con. Các thày không chỉ trích, lên án, đánh giá và phê phán con, con yêu dấu. Các thày chỉ tìm cách nâng con lên.

9.13. Nâng người khác thay vì chính mình

Đây là điều con làm khi con tiến càng ngày càng gần tầng 144. Con càng ngày càng bớt quan tâm đến việc tạo cảm tưởng là con cao hơn người khác. Con thực sự càng ngày càng quan tâm đến việc giúp người khác nâng cao tâm thức của họ. Con quan tâm chuyện nâng người khác lên hơn là nâng cao chính mình, và do đó con làm những gì con làm được để tránh chuyện người khác đặt con lên bệ cao.

Con yêu dấu, đây là những ý nghĩ của thày cho lần này. Lẽ dĩ nhiên đây không phải là giáo lý cuối cùng về quả vị Ki-tô, nhưng đây là những điều mà thày xét sẽ hữu ích cho các con, dựa trên những câu hỏi của các con và của nhiều người trên thế giới. Do đó, thày cảm ơn các con đã lắng nghe và đã là cánh cửa mở, vì một lần nữa, thày có thể dùng luân xa các con để lan tỏa một xung lực đi vào Hàn Quốc và thế giới – đi vào tâm thức đại chúng của thế giới – để tới những ai có tiềm năng đứng ra và nhìn nhận quả vị Ki-tô của mình và bắt đầu bước lên các giai đoạn cao hơn tầng 96.      

Các con yêu dấu, thày muốn nói lên lòng biết ơn sâu xa của thày đối với các con ở Hàn Quốc, đã học giáo lý của các thày, đã đọc các bài thỉnh và đã là công cụ hữu hiệu mang lại những thay đổi mà các con đã thấy trong mười tháng vừa qua kể từ lần hội nghị trước và lẽ dĩ nhiên ngay cả trước lần hội nghị đó. Các thày biết ơn các con và các con yêu dấu, các thày quả thực ghi nhận nỗ lực của các con. Lẽ dĩ nhiên, các thày không tìm cách khiến các con cảm thấy mình hơn người khác nhưng các con yêu dấu, các con hiểu là khi các con đã vượt qua động lực tự ti-tự tôn, thì chuyện nhìn nhận các con đã nỗ lực, và nỗ lực ấy tạo ra thành quả và các con đã đem lại sự thay đổi trong đất nước của các con qua những gì các con đang làm, là chuyện có giá trị. Do đó, lẽ dĩ nhiên, các con có thể tiếp tục đem lại thay đổi. Khi các con vươn lên các tầng tâm thức cao hơn, các con có thể đem lại nhiều thay đổi hơn nữa. Lẽ dĩ nhiên, khi các con đi lên về hướng tầng 96, thì các con càng ngày càng là cánh cửa mở cho xung lực và năng lượng của Hiện diện TA LÀ của các con và các chân sư thăng thiên. Chính dòng năng lượng tuôn chảy xuống này sẽ đem lại sự thay đổi tối hậu nâng trái đất vào thời đại hoàng kim.

Con có thể nói rằng khi con tiến càng ngày càng gần quả vị Ki-tô trọn vẹn ở tầng 144, thì con càng ngày càng là cánh cửa mở để lan tỏa tâm thức của thời đại hoàng kim vào thế giới. Trong nhiều trường hợp, điều này có nghĩa là có thể con càng ngày càng cần làm ít đi ở bên ngoài và đó là lý do vì sao con thấy một số người đã rút về hang động và ngồi đó để giữ quân bình tâm linh. Lẽ dĩ nhiên, trong thời đại này, điều rất quan trọng là hầu hết những người đang cố gắng đạt quả vị Ki-tô cần tích cực tham gia vào xã hội và như thế, các con trở thành những tấm gương. Như các thày đã nói nhiều lần, khuôn đúc có một người được xem là tấm gương là một hiện tượng của thời Song ngư và trong thời Bảo bình chúng ta cần nhiều người làm gương.

Đó là lý do vì sao một tổ chức của thời đại Bảo bình không tôn vinh một người lãnh đạo lên vị thế tối cao nhưng thấy rằng tất cả mọi người đều có tiềm năng làm gương và làm cánh cửa mở. Vì thế, con yêu dấu, thày biết ơn các con đã chịu làm cánh cửa mở để thày truyền xuống ánh sáng ngày hôm nay.

Con thỉnh cầu viễn kiến vượt quá vật chất (9 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Cyclopea và Virginia và Arcturus và Victoria, Đại thiên thần Raphael và Mẹ Mary và Zadkiel và Amethyst, Chân sư Hilarion và Saint Germain yêu dấu, hãy giúp con thấy khía cạnh năng lượng trong mọi hoàn cảnh và ngưng phê phán với tâm vỏ ngoài. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với thày Hilarion và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Con sẵn sàng giải thoát viễn quan mình khỏi ảo tưởng cơ bản rất tinh tế của sa nhân, cho rằng vật là vật, chúng khó thay đổi vì vật chất rắn đặc và không thay đổi được bằng tâm.

Cyclopea yêu dấu, thày phơi ra sự thực, 
Rằng phiền não nhị nguyên rồi sẽ được hàn gắn, 
Ánh sáng màu Lục bảo của thày như thần dược, 
Chữa lành cảm thể con cho bình an mỹ mãn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.2. Tà ma là một tấm màn năng lượng vì các lực bóng tối đã tạo ra ảo tưởng rằng vật chất rắn đặc và không thay đổi được, và vì vậy con khó nhìn xa hơn tấm màn của vật chất.

Cyclopea yêu dấu, con cùng thày tháo gỡ 
Những vòng xoáy tiêu cực đang phủ tâm mây mờ, 
Con biết mình cốt lõi là cái biết thuần sơ,
Là chìa khóa để thành cánh cửa luôn rộng mở.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.3. Có một sự tương ứng giữa sự dày đặc của vật chất và khả năng của các giác quan vật lý của con. Giác quan vật lý của con phải có khả năng cảm nhận vật chất ở mức rung động hiện nay của nó. Chúng được điều chỉnh dựa trên mức dày đặc của vật chất.

Cyclopea yêu dấu, thanh lọc mắt bên trong, 
Uy lực đó giúp con xuyên thủng đêm trong hồn,
Nay con nhìn cuộc sống với con mắt thuần đơn,
Vượt lên trên bệnh tật con sẽ bay cao hơn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.4. Mắt vật lý của con vẫn có khả năng phát hiện các rung động bên ngoài quang phổ vật lý. Trên phương diện vật lý, con có thể nhìn thấy những rung động này. Con không nhìn thấy chúng vì bộ óc và các thể cao của con lọc chúng ra như những thông tin vô ích.

Cyclopea yêu dấu, cuộc sống chỉ phản ánh 
Những hình tướng mà tâm cứ phóng ra địa cầu, 
Giữ tâm mình trong sáng là bí quyết chữa lành, 
Không còn một tâm ảnh để ngã trốn đằng sau.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.5. Phin lọc nhận thức của con có một chức năng chính đáng vì nó cho phép con chú tâm tới điều gì quan trọng nhất cho con. Con cần lọc bớt thông tin nếu không con mau chóng bị choáng ngợp.

Cyclopea yêu dấu, chúng con nhắm thật cao, 
Ngày càng xích lại gần với ngọn lửa hàn gắn,
Xuyên tấm màn nhị nguyên bây giờ con cất cánh, 
Và tắm trong Ánh sáng thâm sâu màu Lục bảo. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.6. Sa nhân cố ý khiến con bị choáng ngợp bởi quá nhiều thông tin và đồng thời tung ra vô số thông tin lố lăng khiến mọi người bắt đầu nghi ngờ hết mọi thứ khác thường.

Cyclopea yêu dấu, Lửa Lục bảo phanh phui 
Từng trò chơi quyền lực tinh vi của nhị đối, 
Kể cả âm mưu cũ là trò chơi gian dối, 
Cứ định nghĩa chân lý theo một cách mà thôi. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.7. Con cần có một số phin lọc để lọc bỏ bất cứ điều gì khiến con sao lãng việc hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Cyclopea yêu dấu, dòng chảy con cảm được,
Của Chân lý Hằng sống mà thày ban liên tục, 
Con nay đã giải thoát khỏi cái nhìn đối cực, 
Và khuôn đúc hành tinh lại trinh nguyên như trước. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.8. Có một số phin lọc nhận thức chính đáng. Nhưng cũng có một số không chính đáng vì con đã được dạy dỗ để chấp nhận một số phin lọc nhận thức không giúp con hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Cyclopea yêu dấu, sự thật con đã thấy, 
Rõ mục đích cao hơn tại sao con ở đây, 
Con biết chân lý vượt mọi hệ thống dưới này, 
Con bơi trong ánh sáng và tăng trưởng gấp mấy. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.9. Một trong những phin lọc chủ yếu ngăn trở Sứ vụ Thiêng liêng của con là phin lọc nhận thức khiến con nghĩ vật chất là vật chất, vật chất rắn đặc, vật chất không thay đổi được.

Cyclopea yêu dấu, con thấy thày hân hoan, 
Khi viễn kiến sáng tạo con đem ra thực hành, 
Để nhấc địa cầu lên khỏi lồng giam của rắn, 
Và thị hiện Hoàng kim của thày Saint Germain. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

Phần 2

2.1. Phin lọc này tai hại vì nó khiến con nhìn hoàn cảnh trên trái đất và nghĩ rằng khi một chuyện có một hậu quả vật lý, vật chất, thì hậu quả này không thể thay đổi được ngoại trừ qua hành động ở tầng cấp vật lý.

Arcturus yêu dấu, con nay xin thày phóng
Dòng Lửa Tím của thày cho sự sống tăng triển.
Những vòng tròn ánh sáng cứ không ngừng tỏa rộng,
Trong mỗi hạt nguyên tử cũng đồng nhịp sáng lên. 

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.2. Thực tế về hoàn cảnh trên trái đất là mọi thứ đều là năng lượng. Năng lượng rung động không ngừng. Năng lượng luôn luôn uyển chuyển và dù nó có hình tướng nào đối với giác quan và tâm vỏ ngoài của con, năng lượng lúc nào cũng thay đổi được.

Arcturus yêu dấu, Elohim Tự do,
Chúng con mở tim ra cho thực tại Tánh linh,
Khi cuộc đời nhân thế không còn gì gắn bó,
Con gọi sự sống mới trong Ngọn lửa Tái sinh. 

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.3. Sa nhân đã tạo ra phin lọc nhận thức khiến con người nghĩ vật chất không phải là năng lượng, mà là một chất tách biệt. Nó rắn đặc, khó thay đổi và chắc chắn tâm không có quyền năng thay đổi được nó.

Arcturus yêu dấu, ở với con mãi mãi,
Ngày mới con sẵn lòng chào đón khi sống lại,
Trái tim con lan rộng ra Vô biên dang trải,
Và bí quyết chiến thắng là ngọn lửa của thày. 

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.4. Con được dạy dỗ để có một phin lọc nhận thức tạo ra một lằn ranh giả tạo. Phin lọc nhận thức của con nói rằng năng lượng khác với các vật được tạo nên từ vật chất.

Arcturus yêu dấu, màu tím và ánh lửa
Ngập từng hạt nguyên tử và nâng nó lên cao,
Ánh sáng đổ đầy hết khoảng không gian ở giữa,
Và ngay cả vật chất cũng sáng rực làm sao. 

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.5. Con đã bị lập trình để nghĩ rằng một khi một hoàn cảnh có một hậu quả vật lý, con không thể thay đổi hậu quả này ở tầng cấp năng lượng, mà chỉ thay đổi được ở tầng cấp vật chất.

Arcturus yêu dấu, Hồng ân biến đổi cả,
Trao cho con uy lực đương đầu mọi thách đố,
Tai con luôn văng vẳng Bài hát của Tự do,
Và con biết Thượng đế yêu thương mình lắm đó. 

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.6. Con sẵn sàng phá vỡ ảo tưởng do sa nhân tạo ra rằng có một sự phân chia cơ bản giữa tâm và vật chất. Con muốn thấy năng lượng được hạ độ rung dần dần từ tầng rung động tâm linh xuống tầng bản sắc, tầng tư tưởng, tầng tình cảm và tới tầng vật lý.

Arcturus yêu dấu, con buông mọi sợ hãi,
Thày Hiện diện thật gần, tưởng chạm được bằng tay,
Khi ánh sáng màu tím ngập toàn cõi bên trong,
Con nhắm hướng thăng thiên, tự nguyện và nhanh chóng.

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.7. Con muốn thấy làm sao độ rung của một khối năng lượng được hạ xuống. Con muốn thấy cách một khuôn đúc tư tưởng được đặt lên trên khối năng lượng này và dần dần nó mang một hình tướng khi năng lượng hạ độ rung.

Arcturus yêu dấu, đem lại thời đại mới,
Trái đất và nhân loại lật qua trang đổi đời,
Ánh sáng thày chuyển hóa, cho con niềm chắc chắn,
Hoàng kim Saint Germain là thực tại hoàn toàn.

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.8. Con muốn thấy là có thể hướng một tia năng lượng có tần số cao vào một tảng đá và thay đổi nó. Hay đúng hơn, tia năng lượng giải thoát năng lượng bị giam trong khuôn đúc tảng đá khiến nó bắt đầu rung ở tần số cao hơn và do đó dần dần làm tan cái khuôn đúc tảng đá đã giam giữ năng lượng trong đó.

Arcturus yêu dấu, chọc thủng cái ảo ảnh
Là rắn có thể địch bao thiên thần dũng mãnh.
Không có tà lực nào ngăn được lửa hùng mạnh
Sẽ lập tức dẹp yên mọi hiềm khích đua tranh.

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

2.9. Con muốn thấy năng lượng được giải thoát, trở nên lỏng, và có thể tuôn chảy thành một chất khác hoặc trở về cõi tình cảm, tư tưởng, bản sắc và rốt cuộc cõi tâm linh.

Arcturus yêu dấu, vì yêu Saint Germain
Nên con cứ thỉnh hoài, một lần thêm một lần,
Ngọn lửa Tím của thày trên trái đất tràn lan,
Cho đôi mắt của thày cũng hạnh phúc ngập tràn.

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do địa cầu được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

Phần 3

3.1. Con muốn cảm nhận điều này ở tầng vật lý và trong tâm ý thức. Con muốn huấn luyện tâm con nhìn vật chất một cách khác. Con muốn huấn luyện lại tâm con để bắt đầu nhìn thấy tất cả đều là năng lượng.

Đại thiên thần Raphael, thày sáng rỡ làm sao, 
Thày nâng con lên khỏi tuồng sân khấu cuộc đời. 
Mẹ Mary và thày, viễn quan sao táo bạo, 
Muốn con đạt tiềm năng cao nhất có thể với. 

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.2. Con muốn biết trong tâm là đằng sau hình tướng rắn chắc mà con thấy là tảng đá, thật ra là năng lượng đang rung động. Bên trong nó, là năng lượng đang rung động; nó đang rung động, nó có thể thay đổi, nó là chất lỏng, nó có thể trở nên lỏng và tuôn chảy thành một hình tướng khác.

Đại thiên thần Raphael, trong quả cầu lục bảo, 
Niệm tinh khôi con giữ cho mãi mãi thanh cao, 
Mẹ Mary bao bọc chúng con trong Tim Thánh, 
Không bao giờ xa cách trong tình Mẹ chân thành.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.3. Con muốn thoát khỏi ảo tưởng là một căn bệnh vật lý với một triệu chứng vật lý chỉ có thể chữa được ở tầng cấp vật lý. Con muốn biết trong tâm rằng thân thể của con không phải là một chất vật lý, không phải là một vật. Nó là năng lượng rung động và do đó nó có thể thay đổi được.

Đại thiên thần Raphael, mọi đau ốm trị lành, 
Từng tế bào trong thân niêm lại trong ánh sáng, 
Chợt thấy niệm tinh khôi của đức Mẹ Mary, 
Con sống hiện thực mới là sức khỏe thần kỳ.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.4. Con hiểu rằng ở tầng này của đường tu, con chưa thể thay đổi sự vật mà chỉ dùng quyền năng của tâm. Con sẽ không nản chí. Con sẵn sàng thực tiễn theo một cách hành xử song song, vừa dùng biện pháp vật lý và vừa dùng dụng cụ tâm linh để thay đổi hoàn cảnh.

Đại thiên thần Raphael, ánh sáng vô cùng thực, 
Lộ ra cho con thấy Ki-tô trong thần thức, 
Mẹ Mary đang giúp để con thăng liên tục, 
Cùng thày con thăng lên trong ánh sáng bảo lục.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.5. Con nhìn nhận rằng ông hoàng của thế gian sẽ đến dụ dỗ con trong mọi hoàn cảnh. Hắn sẽ dụ con chấp nhận là hoàn cảnh này bây giờ là một hoàn cảnh vật lý; nó có một hậu quả vật lý chỉ có thể giải quyết ở tầng cấp vật chất.

Đại thiên thần Raphael, tiêu tan hết bệnh tật, 
Khi thày giúp con ngộ sự sống là Duy nhất, 
Con không còn chối bỏ tình yêu thày chân chất, 
Và niệm tinh khôi ấy, con phóng ra mọi vật.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.6. Con sẽ theo những biện pháp vật lý thực tiễn mà con có thể theo được, nhưng con sẽ không chấp nhận là hoàn cảnh bất di bất dịch, không thể thay đổi được ngoại trừ ở tầng cấp vật lý. Con giữ tâm con trụ vững chắc vào hình ảnh là hoàn cảnh này là sự tương tác giữa các trường năng lượng, giữa các sóng năng lượng.

Đại thiên thần Raphael, con hàn gắn địa cầu,
Cho trái đất hồi sinh khi con tỏa tinh khôi, 
Một ngày mới đã đến, một kỷ nguyên bắt đầu, 
Và ánh sắc lục bảo sáng như thể mặt trời.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.7. Dù hình tướng vật lý thế nào chăng nữa, dù nó có vẻ rắn đặc thế nào chăng nữa, đây vẫn là tương tác giữa các trường năng lượng. Con huấn luyện và giáo dục lại tâm của con để lúc nào con cũng nhìn quá hình tướng vật lý, nhìn quá tấm màn che của vật chất và đi tìm thành phần năng lượng bên trong.

Đại thiên thần Raphael, sa ngã là quá khứ,
Khi mọi người tìm thấy đường Ki-tô thoát tử, 
Nay ta giục ai nấy mau chữa lành đi chứ, 
Khi cả bốn thể phàm được niêm trong tình tự.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.8. Con quyết định là ở thời điểm này con sẽ không tìm cách tạo ra một thay đổi vật lý mà chỉ dùng quyền năng của tâm hay trực tiếp qua quyền năng của tâm. Con sẽ dùng bất cứ biện pháp vật lý thực tiễn nào cần dùng trong hoàn cảnh.

Đại thiên thần Raphael, thày đem ánh bình minh,
Khiến thế lực bóng tối phải vội vàng lẩn tránh, 
Chúng kết liễu cuộc đời, ta đòi lại hành tinh, 
Và trên môi ai nấy nở nụ hoa thanh bình.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.9. Con cũng trụ tâm của con vững chắc vào sự thực rằng đây là một tương tác năng lượng và mục đích chính của con là nâng cao năng lượng của hoàn cảnh càng cao càng tốt.

Đại thiên thần Raphael, ta giải phóng viễn kiến,
Khi ta thấy thực tại của Thượng đế thiêng liêng, 
Viễn tượng Saint Germain giờ đây đã thị hiện, 
Và trái đất niêm lại trong quả cầu trinh nguyên.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

Phần 4

4.1. Mục đích chính của con không phải là tạo ra một kết quả vật lý đặc thù. Mục đích của tâm con là trở thành cánh cửa mở cho dòng năng lượng tâm linh tuôn chảy vào hoàn cảnh và thay đổi hoàn cảnh theo bất cứ cách nào mà năng lượng sẽ làm.

Đại thiên thần Zadkiel, dòng chảy nhanh đến nỗi
Trong lửa tím của thày, con lập tức chuyển đổi,
Nhập vào tầng rung động của tự do phơi phới,
Con thoát khỏi kềm chế của cái ta kém cỏi.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.2. Con cố ý tách tâm con khỏi ham muốn tạo ra một thay đổi vật lý. Con vô hiệu hóa ham muốn tạo ra một thay đổi vật lý đặc thù. Con chú tâm vào thành phần năng lượng, khía cạnh năng lượng của hoàn cảnh.

Đại thiên thần Zadkiel, con khao khát từng ngày
Được cai quản ngọn lửa màu tím của thày đây,
Khi con dùng sức mạnh luyện kim để chuyển hóa,
Và gọi tên Thiên ngữ để giải vây tất cả. 

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.3. Con trụ tâm con vào mục đích nâng cao năng lượng. Con để ánh sáng mà con cầu thỉnh được tự do làm bất cứ điều gì nó muốn làm trong hoàn cảnh, mà con không trụ tâm mình vào một kết quả đặc thù.

Đại thiên thần Zadkiel, ngọn lửa tím quyền năng
Biến đổi cả thế giới trong lực chuyển vô song.
Trái đất khi thức dậy, bắt đầu quay nhanh chóng,
Với đoàn quân thiên thần, ta cùng nhau chiến thắng.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.4. Con làm cho tâm con lỏng ra và quyết định rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào, mục đích của con là tăng trưởng, thăng vượt và xuôi theo Dòng Sông sự Sống.

Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu vừa thoát khỏi
Biết bao nhiêu gánh nặng do tâm thức loài người,
Bao day dứt nội tâm giờ đây đã mở lối,  
Tự do ta ôm lấy mà tái tạo cuộc đời.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.5. Tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống có nghĩa vật chất không quan trọng. Con không tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống bằng cách đối phó liên tục với các điều kiện vật chất. Con tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống bằng cách làm việc liên tục với các điều kiện năng lượng.

Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu nâng tốc độ,
Quay nhanh hơn một bậc trong chiến thắng Ki-tô,
Vì chỉ trong Ki-tô, người tù mới giải phóng
Và địa cầu được tắm trong ánh sáng thong dong.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.6. Sẽ luôn luôn có những điều kiện vật chất mà con không thể thay đổi bằng quyền năng của con, bởi vì người khác có quyền tự quyết. Con có thể thay đổi thành phần năng lượng của hoàn cảnh và khi con làm thế, hai chuyện có thể xảy ra.

Đại thiên thần Zadkiel, bao thế lực đêm tối,
Bị Ánh sáng phân biện của Tự do cột trói,
Hành tinh đã sạch bóng bao tà lực ám muội,
Khi Lửa Tím của thày nhóm lên một đốm mới.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.7. Ngoại cảnh có thể trở nên lỏng đủ để thay đổi vật lý có thể xảy ra. Người khác có thể được giải thoát khỏi tấm màn năng lượng của họ và bắt đầu lấy những quyết định khác làm thay đổi hoàn cảnh.

Đại thiên thần Zadkiel, con yêu thày chân chất,
Cả với Saint Germain con sẽ luôn trung thực,
Hãy giúp con nhìn thấy sứ vụ Thiêng liêng nhất,
Để con tỏa ánh sáng trọn vẹn trên trái đất.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.8. Tâm của con sẽ trở nên lỏng hơn và con sẽ làm lỏng hoàn cảnh năng lượng bên trong con. Con sẽ thấy những điều mà hôm nay con không thể thấy. Con sẽ thấy là có một hướng phản ứng khác với hoàn cảnh.

Đại thiên thần Zadkiel, bóng tối đã lắng chìm,
Khi ngày mới ra đời trong Ánh sáng màu Tím,
Mọi biểu hiện sợ hãi giờ đây đã hoán chuyển,
Đây là lúc con biết Thời Hoàng kim đã đến.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

4.9. Con muốn có tầm nhìn khác về tất cả những hoàn cảnh có vẻ khó thay đổi. Con muốn nhận ra rằng chúng không quá nghiêm trọng, không quá tàn khốc, không quá khóa cứng trong một khuôn đúc.

Đại thiên thần Zadkiel, trong lửa tím thánh thiện,
Nhân loại với hành tinh không bao giờ như trước,
Thời Hoàng kim mà thày Saint Germain mơ ước
Thành sự thật tuyệt vời, con mừng vui chứng kiến.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

Phần 5

5.1. Con thấy rằng dù con không thay đổi được hoàn cảnh, chắc chắn là con có thể tiếp tục với cuộc đời mình, và tảng đá trong dòng sông nay đã đằng sau con và con đang xuôi theo Dòng Sông sự Sống.

Hilarion, trên bờ lục bảo,
Chúng con bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả 
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.2. Có thể vẫn còn lại một hoàn cảnh vật lý chưa thay đổi, nhưng con đã tiếp tục tiến lên. Xuôi theo Dòng Sông sự Sống là mục đích mới của con. Con quyết định một cách ý thức rằng đây là mục đích mới của con.

Hilarion, chìa khóa bí mật,
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.3. Con chuyển đổi tâm thức một cách ý thức là con sẽ bỏ qua bên mong muốn đạt được một số thay đổi vật lý đặc trưng và con sẽ chú tâm nâng cao năng lượng của hoàn cảnh. Con chú tâm là cánh cửa mở cho năng lượng trên cao tuôn chảy vào hoàn cảnh và con trả tự do cho hoàn cảnh, con trả tự do cho năng lượng.

Hilarion, tình yêu sự sống,
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.4. Con giải thoát con khỏi ám ảnh muốn đạt một kết quả vật lý đặc trưng. Con cho phép Thượng đế bước vào hoàn cảnh và làm bất cứ điều gì Tánh linh muốn làm phù hợp với viễn kiến của Ki-tô, viễn kiến có thể cao hơn những gì con có thể thấu hiểu ngay lúc này.

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng, 
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền,
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.5. Con sẽ bình an với bất cứ kết quả nào. Con biết là dù không có thay đổi vật lý, con đã nâng cao năng lượng và con sẵn sàng nhìn vào tâm mình và thấy nâng cao năng lượng đã giúp con nhìn hoàn cảnh khác như thế nào, con đối phó với hoàn cảnh khác như thế nào so với trước kia.

Hilarion, thương yêu đón chào,
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.6. Con mở tâm ra đón nhận một viễn quan mới về hoàn cảnh, về cách con điều ngự ngoại cảnh trong cuộc sống, điều ngự hoàn cảnh sống của con và các mối tương tác giữa con và người khác.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.7. Con muốn nhận ra điều gì cần thay đổi và điều gì không cần thay đổi trong một hoàn cảnh vì người khác có quyền tự quyết hay vì có điều kiện chính đáng khác. Con muốn thấy điều gì có thể thay đổi được và điều gì không thể thay đổi được. Con sẽ chấp nhận điều không thay đổi được và con làm điều tốt nhất trong tình huống.

Hilarion, thông sạch luân xa, 
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà,
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.8. Con mong muốn là người luyện đá hóa kim thực tiễn chứng tỏ được một lối sống thành công, bình an, hữu ích, tích cực trong hoàn cảnh rất phức tạp, rất rắc rối của trái đất này.

Hilarion, thày sẽ quân bình 
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.9. Con nhận ra là đằng sau đại đa số những xung đột trên trái đất này là con người giữ chặt một hình tư tưởng họ đã tạo ra trong quá khứ xa xôi nhưng lại cho phép nó ảnh hưởng hành động vật lý của họ trong hiện tại.

Hilarion, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế chúng con rải truyền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

Phần 6

6.1. Con sẵn sàng thay đổi khía cạnh năng lượng của hoàn cảnh để nâng cao năng lượng tới điểm mà con người có thể vượt qua sự dính mắc tình cảm-tư tưởng vào các hình ảnh cũ xưa này.

Ôi Saint Germain, nghệ thuật luyện kim, 
Giải phóng con ngay với ngọn lửa tím.
Ôi Saint Germain, con tăng liên tục,
Dòng chảy tự do không sao khuất phục. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.2. Con là cánh cửa mở để thay đổi năng lượng khiến mọi người có thể bắt đầu tự hỏi: “Tại sao chúng ta cứ lặp đi lặp lại những khuôn nếp cũ này? Có thật sự chúng ta thích kết quả này không? Chúng ta có thích tiếp tục xung đột như thế này không?”

Ôi Saint Germain, điều khiển tài tình
Hình dạng kỷ hà của ngọn lửa tím.
Ôi Saint Germain, ở thày con tìm
Thấy được công thức giải thoát chúng sinh. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.3. Con là cánh cửa mở giúp nâng cao năng lượng để mọi người có thể bắt đầu thay đổi chính họ thay vì tìm cách thay đổi người khác.

Ôi Saint Germain, Tự do bao la,
Chính là tình thương giải thoát tất cả.
Ôi Saint Germain, chúng con yêu quá
Lửa tím cứ giục con càng hơn xa. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.4. Con là cánh cửa mở cho một nhận thức mới là thay vì tìm cách thay đổi hoàn cảnh bằng phương pháp vật lý, chúng con chú tâm nâng cao tâm thức đại chúng để họ sẵn sàng đón nhận một hoàn cảnh mới.

Ôi Saint Germain, chúng con nối kết,
Từ bỏ nhị nguyên, thăng lên siêu việt.
Ôi Saint Germain, cái ta tinh khiết,
Khoa học lửa tím vững tay cầm trịch.

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.5. Trò lừa đảo của sa nhân là làm con quên bẵng con là sinh thể tâm linh. Chúng khiến con chủ yếu chú tâm vào các hoàn cảnh vật lý, vật chất.

Ôi Saint Germain, sự thật rõ ràng, 
Trong ánh sáng tím, chẳng gì băn khoăn.
Ôi Saint Germain, niêm kỹ hào quang,
Luân xa con được lửa thày hàn gắn. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.6. Nếu con vẫn còn mục đích thay đổi hoàn cảnh vật lý, thì con thật sự đang đi trên con đường tâm linh với tư duy do sa nhân áp đặt lên con.

Ôi Saint Germain, là thuật biến hóa,
Lửa tím giải phóng nguyên tử thăng hoa.
Ôi Saint Germain, biến chì thành vàng,
Biến cả viễn kiến mà chúng con mang. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.7. Con đường tâm linh mà các chân sư thăng thiên cống hiến, được cống hiến từ tâm thức chân sư thăng thiên – không phải từ tâm thức sa ngã.

Ôi Saint Germain, nghệ thuật vượt thăng,
Với thày con sẽ hợp nhất vĩnh hằng.
Ôi Saint Germain, thoát khỏi tâm hồn,
Ôi niềm vui sướng biết thày trong con.

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.8. Nếu con đang lê theo mình những yếu tố của tâm thức sa ngã, con có hy vọng thành công chăng trên con đường dẫn tới tâm thức thăng thiên? Con có hy vọng thành công chăng nếu con giải quyết một vấn đề với cùng trạng thái tâm thức đã gây ra vấn đề đó?

Ôi Saint Germain, tinh thần cao thượng,
Là chìa khoá cho hóa học tâm linh.
Ôi Saint Germain, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

6.9. Sa nhân muốn con nghĩ rằng vật chất là cái quan trọng nhất, thậm chí chỉ có vật chất hiện hũu. Các chân sư thăng thiên muốn con nhận ra không phải chỉ có vật chất hiện hữu và vật chất không quan trọng lắm. Điều quan trọng hơn nhiều là những gì xảy ra trong toàn thể bốn tầng cấp của vũ trụ vật chất, không chỉ riêng ở tầng cấp vật lý.

Ôi Saint Germain, thày đang Hiện diện, 
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tự do Thượng đế chúng con rải truyền. 

Ôi Saint Germain, Thời đại Rạng rỡ 
Gỡ bỏ tâm lý giam hãm ngục tù.
Nâng cả hành tinh đến tận tinh tú,
Khi con phóng chiếu Toàn cảnh Tự do. 

Phần 7

7.1. Nhiều người đã thành công trên con đường tâm linh và hội đủ điều kiện thăng thiên nhưng họ vẫn mang một số căn bệnh thân thể, khiếm tật hay ở trong một hoàn cảnh vật lý rất giới hạn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nay con biết,
Cả thế gian chỉ là cõi huyễn ảo,
Trong tim con cảm nhận rõ làm sao,
Không có gì ngoài Tánh linh là thật. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.2. Giê-su hội đủ điều kiện thăng thiên bằng cách kinh qua một hoàn cảnh vật lý giới hạn. Dù chuyện gì xảy ra ở tầng cấp vật lý, Giê-su đã dùng mỗi hoàn cảnh để thay đổi tâm thức của thày. Giê-su thay đổi thể tình cảm, thể tư tưởng, thể bản sắc của thày.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, giúp con nhìn, 
Con muốn sống trong viễn kiến quang minh,
Con đã thấy được Sứ vụ Thiêng liêng,
Hiểu kế sách độc đáo của chính mình. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.3. Một khi con chuyển đổi những thành phần của ba thể cao của con, con có thể sẵn sàng thăng thiên bất kể những hoàn cảnh con đối đầu ở tầng cấp thân thể vật lý của con. Những gì xảy ra với vật chất không quan trọng vì thăng thiên là một tiến trình tâm linh.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, cho con thấy, 
Những trò chơi uẩn khúc của ngã này,
Giúp con thoát lồng giam của tự ngã,
Để đem lại một thời mới thăng hoa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.4. Con hội đủ điều kiện thăng thiên ở các tầng tình cảm, tư tưởng và bản sắc, không phải ở tầng vật lý. Không có điều kiện toàn hảo nào ở tầng vật lý mà con cần hội đủ để thăng thiên.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nhập với thày, 
Viễn quan con là một, chẳng còn hai,
Thày xua tan tấm màn của nghiệp quả,
Nguyên vũ trụ hiện ra sao mới quá. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.5. Con sẵn sàng chuyển hóa tâm và buông bỏ mọi ham muốn thực hiện những thay đổi vĩ đại trong cuộc sống cá nhân hay chứng minh điều gì vĩ đại cho người khác. Con buông bỏ mọi ham muốn đạt được kết quả vật lý nào đó.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con không quản,   
Chén con ngập điện từ với ánh sáng,
Thày tiêu hủy hồn bóng của dĩ vãng,
Và cho con tầm nhìn rất bạo dạn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.6. Con chú tâm nâng cao năng lượng trong mọi hoàn cảnh con gặp. Con chú tâm nâng cao năng lượng của thân thể vật lý, và điều này đòi hỏi con cũng phải nâng cao năng lượng nơi ba thể cao hơn của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, tim chân thành, 
Con bắt tay làm phần vụ thần thánh.
Con thấy rồi, thày ơi, trong phút ngẫu,
Sứ vụ con sẽ dẫn tới nơi đâu. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.7. Chú tâm vào năng lượng sẽ rút ngắn thời gian tới điểm có thể tạo thay đổi vật lý. Giê-su không có ý định tạo thay đổi vật lý.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con ân huệ, 
Thấy vai trò mình trong công cuộc lớn,
Và cũng thấy ngọn lửa của cá thể,
Nét độc đáo của con do Thượng đế. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.8. Giê-su không chấp nhận là hoàn cảnh thường trực, nhưng thày cũng không đánh giá là nó sai và phải được thay đổi bằng mọi giá. Thày không đi vào hoàn cảnh với ý định tạo nên thay đổi vật lý.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, mắt đơn nhất, 
Thấy TA LÀ chính Mặt trời Thượng đế.
Khi thày ban chỉ đạo Thiêng liêng nhất,
Con cũng tỏa ánh sáng thật tràn trề. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.9. Giê-su đi vào hoàn cảnh với ý định nâng cao năng lượng của hoàn cảnh, nâng cao tâm thức của người kia để y có sự chuyển hóa tâm thức.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ôi hân hạnh, 
Được đóng góp cho Tánh linh cất cánh,
Nâng loài người ra khỏi đêm cùng quạnh,
Để tắm nắng trong tình yêu Linh thánh. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

Phần 8

8.1. Mục đích của Giê-su không phải là chữa lành thân thể nhưng thày muốn giải thoát con người khỏi trạng thái tâm thức mà họ đang có. Thày bước vào mỗi hoàn cảnh để truyền năng lượng cao vào hoàn cảnh để con người có cơ hội thay đổi tâm thức họ.

Surya, thày soi sáng vũ trụ, 
Tạo cân bằng khiến con sao vui thế, 
Con nhập vào quỹ đạo Sao Thượng đế, 
Thày với con trong kết hợp mọi bề. 

Surya, đuổi hết mọi cực đoan, 
Surya, đập vỡ mưu của Rắn,
Surya, cho con sự cân bằng,
Surya, tim con hát vang vang.

8.2. Con là một đệ tử tâm linh. Con có khả năng cảm nhận năng lượng tâm linh cao hơn. Con biết khi nào con là cánh cửa mở cho năng lượng hơn nữa.

Surya, sự sống hơn thế nhiều, 
Hơn chinh chiến, xung đột với đấu tranh. 
Trong cân bằng, con bình an nội thành, 
Khiến cuộc chiến ngoài kia phải kết liễu.

Surya, đuổi hết mọi cực đoan, 
Surya, đập vỡ mưu của Rắn,
Surya, cho con sự cân bằng,
Surya, tim con hát vang vang.

8.3. Con chuyển hóa tâm một cách ý thức rằng, trong mọi hoàn cảnh trong cuộc sống, con sẽ chú tâm vào bên trong. Con sẽ chú tâm là cánh cửa mở cho năng lượng tâm linh tuôn chảy vào hoàn cảnh.

Surya, ôi quang cảnh tuyệt vời, 
Từ Sirius, ánh sáng thày gửi tới, 
Trong nhất tâm, tên thày con thầm gọi, 
Xin làm đứa tập sự của thày thôi. 

Surya, đuổi hết mọi cực đoan, 
Surya, đập vỡ mưu của Rắn,
Surya, cho con sự cân bằng,
Surya, tim con hát vang vang.

8.4. Là cánh cửa mở có nghĩa là không có màn chắn trong tâm mong chờ cái phải xảy ra hay không được xảy ra, và phán xét hoàn cảnh dựa trên cái phải là hay không được là.

Surya, ánh sáng hãy tỏa ra, 
Trong bình quân, mọi chuyện được ổn thỏa,
Khi bợn nhơ năng lượng bị tiêu nát,
Thì buông bỏ đâu có gì mất mát.

Surya, đuổi hết mọi cực đoan, 
Surya, đập vỡ mưu của Rắn,
Surya, cho con sự cân bằng,
Surya, tim con hát vang vang.

8.5. Con càng tháo gỡ được màn chắn thì con càng mở rộng cửa và năng lượng tâm linh càng hữu hiệu hơn trong việc thay đổi hoàn cảnh. Đây là tiềm năng cao nhất của con ngay lúc này.

Surya, ánh sáng thày sống động, 
Để quân bình nội tâm, con nuôi dưỡng,
Thuật hóa kim đã bắt đầu xuôi hướng,
Và tim con hóa thành một thái dương.

Surya, đuổi hết mọi cực đoan, 
Surya, đập vỡ mưu của Rắn,
Surya, cho con sự cân bằng,
Surya, tim con hát vang vang.

8.6. Con chú tâm cho người khác cơ hội cảm nhận năng lượng cao hơn và nhờ vậy lấy được một chọn lựa khác.

Surya, hãy giúp con giác ngộ, 
Cho con thấy nhị nguyên là bể khổ,
Khi đối cực không thể nào cám dỗ,
Với Trung đạo, con chiến thắng đồng bộ.

Surya, đuổi hết mọi cực đoan, 
Surya, đập vỡ mưu của Rắn,
Surya, cho con sự cân bằng,
Surya, tim con hát vang vang.

8.7. Con chú tâm cho mình cơ hội cảm nhận một năng lượng cao hơn và chọn lựa mình sẽ độc lập với điều kiện vật lý, sẽ giữ tâm bình an, sẽ chú tâm xuôi theo Dòng Sống sự Sống bất kể điều kiện vật lý như thế nào.

Surya, bầu hoàn vũ lồng lộng, 
Với Cuzco, ánh sáng con tôn kính.
Từ quang cảnh hùng vĩ mà thày nhìn,
Con rốt cuộc mới hiểu ra sự sống.

Surya, đuổi hết mọi cực đoan, 
Surya, đập vỡ mưu của Rắn,
Surya, cho con sự cân bằng,
Surya, tim con hát vang vang.

8.8. Bất kể điều kiện vật lý như thế nào, con vẫn có thể là cánh cửa mở nếu con không để tâm dính mắc vào hoàn cảnh vật lý. Chỉ có sự không dính mắc mới có thể giúp con là cánh cửa mở, đưa con tới điểm con là cánh cửa mở.

Surya, chỉ cho con dự tính
Của Thượng đế, ôi hiền từ vô lượng,
Cảm thể con giông bão, thày an định,
Cho con chứng Thượng đế vô hình tướng.

Surya, đuổi hết mọi cực đoan, 
Surya, đập vỡ mưu của Rắn,
Surya, cho con sự cân bằng,
Surya, tim con hát vang vang.

8.9. Con sẵn sàng nhìn vào những dính mắc của mình trong mọi hoàn cảnh, những dính mắc vào một kết quả đặc thù. Con nhận ra rằng viễn quan của con về kết quả có thể không phải là viễn quan của Tánh linh trong hoàn cảnh đó.

Surya, con đến từ rất xa, 
Khi thày chỉ tinh tú kia là nhà,
Con thấy được ánh sáng ở nội tâm,
Bởi chính con là tinh tú mọi phần.

Surya, đuổi hết mọi cực đoan, 
Surya, đập vỡ mưu của Rắn,
Surya, cho con sự cân bằng,
Surya, tim con hát vang vang.

Phần 9

9.1. Con nhận ra là trong mọi hoàn cảnh sống, những điều kiện khiến hoàn cảnh biểu lộ rất phức tạp vì nó liên quan đến tâm của nhiều người.

Ôi Portia, nơi nhập thất của thày,
tình thương Mẹ, thày đón con dang tay.
Bao cuộc thi, con đà hoàn tất đủ,
khuôn nếp cũ, con từ nay buông rũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

9.2. Con nhận ra con không thể biết với tâm ý thức là một người có nên được chữa lành hay không. Mọi hoàn cảnh con gặp trong cuộc sống có nhiều lớp phức tạp gần như vô hạn, nhiều lớp hơn những gì con có thể hiểu với tâm ý thức.

Ôi Portia, Công lý là tên thày,
giương lên cao Lửa Danh dự Toàn vũ,
Con không còn tham dự trò chơi cũ,
cứ giữ y một cái ngã hoài hoài.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

9.3. Nếu con muốn biết bằng tâm ý thức mọi chuyện liên quan đến một hoàn cảnh, con sẽ bị choáng ngợp. Con không cần biết hết mọi chuyện bằng tâm ý thức.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
một với thày, con tăng trưởng mãi mãi.
Con chính là chén thánh ở nơi đây,
thày ban xuống dòng công lý hoàn vũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

9.4. Nếu con không thể biết được bằng tâm ý thức những dữ kiện liên quan tới một hoàn cảnh, tại sao con lại phải phán xét bằng tâm ý thức điều phải xảy ra hay không được xảy ra trong hoàn cảnh đó?

Ôi Portia, cho vũ trụ quân bằng,
tim con hát, niềm hy vọng vĩnh hằng.
Đôi cánh Mẹ bảo bọc con yên ắng,
con là một với tất cả chúng sanh.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

9.5. Sẽ xây dựng hơn nhiều nếu con cho phép mình là cánh cửa mở, cho phép năng lượng của Tánh linh tuôn chảy vào hoàn cảnh và làm những gì nó muốn làm, mà con không cần có ý kiến từ tâm ý thức về điều nó phải làm hay không được làm.

Ôi Portia, thày đem ánh sáng Mẹ,
khỏi đêm tối, giải thoát chúng con nhé.
Lửa Tình thương của thày sáng mãi mãi,
ôm con chặt, Saint Germain và thày.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

9.6. Con để Tánh linh tự do hành động theo viễn quan của nó, và con giải thoát mình khỏi mọi dính mắc vào hoàn cảnh hay kết quả.

Ôi Portia, thày điều ngự tài hoa,
con cảm nhận trong con sự biến hóa.
Ánh sáng thày là thực tại màu tím,
con tìm ra biến hóa đá luyện kim.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

9.7. Không dính mắc vào kết quả vật lý là dấu ấn của một đệ tử tâm linh ở tầng cấp của con.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
con tỉnh mộng, giấc mơ ảo phàm phu.
Gỡ khỏi mắt cái đà tự ngã cũ,
con được đứng cùng các thày vũ trụ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

9.8. Không dính mắc vào kết quả vật lý là chìa khóa đưa tới quả vị Phật. Đây là một mục đích con cố đạt được và thấy mình thực sự có tiềm năng đạt được.

Ôi Portia, thày đến từ cõi xa,
avatar toàn vũ, thày chính là.
Quyền năng thày vô biên, con trân quý,
ngôi sao thày dìu dắt hành tinh đi.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

9.9. Con mãi mãi nỗ lực giải thoát viễn quan của mình khỏi những tinh tế của tâm thức sa ngã và ảo tưởng khiến con thấy vật chất không thay đổi được, và tưởng vật chất tách biệt khỏi Tánh linh. Vật chất ở trong Tánh linh và Tánh linh có quyền năng thay đổi vật chất. Con ở trong Tánh linh và Tánh linh có quyền năng thay đổi vật chất xuyên qua con.

Ôi Portia, con tự tin an trú,
con nay là dụng cụ của toàn vũ.
Con xuống đây từ thiên hà gửi tới,
để nâng cao trái đất thăng lên trời.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu sự chữa lành chân chính, 10 phần

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Cyclopea và Virginia và Peace và Aloha, Đại thiên thần Raphael và Mẹ Mary và Uriel và Aurora, Chân sư Hilarion và Nada yêu dấu, hãy giúp con vượt qua khuynh hướng nhìn sự sống ở tầng cấp “vật”. Xin các thày giúp con nhận ra bên dưới mọi sự là những tương tác năng lượng. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với thày Hilarion và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Con muốn ngưng phóng chiếu với tâm mình, con muốn tiến tới giai đoạn mà thay vì thấy thế giới như con nghĩ nó là hay như con muốn nó là, con có thể thấy thế giới như nó là.

Cyclopea yêu dấu, thày phơi ra sự thực, 
Rằng phiền não nhị nguyên rồi sẽ được hàn gắn, 
Ánh sáng màu Lục bảo của thày như thần dược, 
Chữa lành cảm thể con cho bình an mỹ mãn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.2. Con muốn thấy thế giới khác những gì con được dạy dỗ để thấy và khác cách đại đa số con người thấy.

Cyclopea yêu dấu, con cùng thày tháo gỡ 
Những vòng xoáy tiêu cực đang phủ tâm mây mờ, 
Con biết mình cốt lõi là cái biết thuần sơ,
Là chìa khóa để thành cánh cửa luôn rộng mở.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.3. Vũ trụ cho phép con làm nhiều chuyện nhưng luôn luôn có một cái giá phải trả. Khi con phóng chiếu ra ngoài một viễn quan, con cũng bắt đầu tin vào viễn quan này và như thế nó hạn chế con.

Cyclopea yêu dấu, thanh lọc mắt bên trong, 
Uy lực đó giúp con xuyên thủng đêm trong hồn,
Nay con nhìn cuộc sống với con mắt thuần đơn,
Vượt lên trên bệnh tật con sẽ bay cao hơn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.4. Qua nhiều kiếp sống con đã phóng chiếu viễn quan là vật chất dày đặc, và do đó nó hạn chế những gì con làm được, và con tin viễn quan này.

Cyclopea yêu dấu, cuộc sống chỉ phản ánh 
Những hình tướng mà tâm cứ phóng ra địa cầu, 
Giữ tâm mình trong sáng là bí quyết chữa lành, 
Không còn một tâm ảnh để ngã trốn đằng sau.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.5. Con được dạy dỗ để tin rằng vật chất dày đặc, vật chất hạn chế khả năng sáng tạo của con và cách duy nhất để vượt qua những giới hạn này là dùng công nghệ dựa trên vũ lực để tác động lên vật chất và ép buộc nó phải tuân theo mình.

Cyclopea yêu dấu, chúng con nhắm thật cao, 
Ngày càng xích lại gần với ngọn lửa hàn gắn,
Xuyên tấm màn nhị nguyên bây giờ con cất cánh, 
Và tắm trong Ánh sáng thâm sâu màu Lục bảo. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.6. Sa nhân đã chấp nhận vật chất có một độ dày đặc nào đó. Họ làm việc chống lại bất cứ ai bắt đầu biểu hiện một mức nào của quả vị Ki-tô. Họ cố gắng bằng mọi cách đánh lừa con để con không dám chấp nhận quả vị Ki-tô nghĩa là gì và quả vị Ki-tô có thể cho con khả năng tâm làm chủ vật chất.

Cyclopea yêu dấu, Lửa Lục bảo phanh phui 
Từng trò chơi quyền lực tinh vi của nhị đối, 
Kể cả âm mưu cũ là trò chơi gian dối, 
Cứ định nghĩa chân lý theo một cách mà thôi. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.7. Con chữa lành bằng quyền năng của viễn kiến. Để chữa lành, con cần giải thoát viễn kiến của con khỏi những ảo tưởng của sa nhân.

Cyclopea yêu dấu, dòng chảy con cảm được,
Của Chân lý Hằng sống mà thày ban liên tục, 
Con nay đã giải thoát khỏi cái nhìn đối cực, 
Và khuôn đúc hành tinh lại trinh nguyên như trước. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.8. Vũ trụ cho phép con khiến vật chất dày đặc hơn nhưng mọi thứ đều có giá phải trả. Khi con làm cho vật chất dày đặc, con cũng làm dày đặc các thể mà con đang mang và các thể dày đặc này phải tuân theo một số định luật.

Cyclopea yêu dấu, sự thật con đã thấy, 
Rõ mục đích cao hơn tại sao con ở đây, 
Con biết chân lý vượt mọi hệ thống dưới này, 
Con bơi trong ánh sáng và tăng trưởng gấp mấy. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.9. Khi con bắt đầu tạo ra những định luật thiên nhiên phụ thuộc, thì Luật Tự quyết cho phép con làm như thế. Cái giá phải trả là tạo vật của con sáng tạo sẽ phải chịu ảnh hưởng của định luật thứ nhì của nhiệt động học.

Cyclopea yêu dấu, con thấy thày hân hoan, 
Khi viễn kiến sáng tạo con đem ra thực hành, 
Để nhấc địa cầu lên khỏi lồng giam của rắn, 
Và thị hiện Hoàng kim của thày Saint Germain. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

Phần 2

2.1. Nếu con tạo ra cái gì đứng bên ngoài định luật thiên nhiên cơ bản, thì bất cứ cái gì con tạo ra sẽ bắt đầu phân hủy. Có một lực sẵn có trong tạo vật của con sẽ phân hủy nó theo thời gian.

Ôi Elohim Peace, trong Ngọn lửa Kết hợp,
Nhị nguyên không còn chỗ để bày trò cuộc chơi, 
Con biết mọi hình tướng tuôn ra từ một cội,
Con lấy uy lực đó định ra hướng đi mới. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.2. Đây là lý do chính vì sao có bệnh tật trong thân thể con người. Vật chất dày đặc đến độ bất cứ cái gì được sáng tạo ở mức dày đặc này đều có những lực phân hủy sẵn có trong nó. Đây là lý do tại sao thân thể già nua, tại sao bệnh tật biểu hiện.

Ôi Elohim Peace, hồi chuông đã vang rền,
Khiến từng hạt nguyên tử ca hát và rung lên.
Con nay bỏ lại hết ý niệm ngã riêng biệt
Khi con vượt biển cả của luân hồi trùng điệp. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.3. Con buông bỏ ảo tưởng của sa nhân cho rằng con bất lực trước chuyện này. Con buông bỏ ảo tưởng rằng thân thể vật lý của con là một tạo vật hoàn toàn vật chất vận hành theo những định luật máy móc, vật chất.

Ôi Elohim Peace, thày hãy giúp con ngộ
Rằng Giê-su giáng thế để ban con Ngọn lửa,
Rải cho ai sẵn lòng rũ hết chuyện ganh đua,
Nhập sự sống bất tận mà theo chân Ki-tô. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.4. Con buông bỏ ảo tưởng rằng một khi một căn bệnh hiện ra, căn bệnh này phải có một nguyên nhân vật lý và do đó chỉ chữa được bằng trị liệu vật lý.

Ôi Elohim Peace, qua mắt thày con biết
Rằng chỉ trong cái Một con mới mong giải thoát,
Và cũng thấy được rằng chẳng vật gì tách biệt,
Khi cái ngã phàm phu, con buông bỏ đoạn tuyệt. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.5. Con buông bỏ ảo tưởng rằng nếu chưa tìm ra một trị liệu vật lý, thì con không thể trị căn bệnh này.

Ôi Elohim Peace, thày chỉ con lối đi, 
Ngừng đấu đá nhị nguyên, con thông sạch tâm trí,
Thày đâm xuyên ảo giác thời gian lẫn không gian,
Đem Hồng ân Bất tận tiêu hủy mọi phân ly. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.6. Điều thể hiện nơi thân thể vật lý là sự phóng chiếu những điều kiện trong ba thể cao của con. Một căn bệnh vật lý bắt đầu ở các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc và sau đó được phóng chiếu lên thân vật lý. Bất cứ pháp trị liệu nào cũng phải bắt đầu nơi ba thể cao.

Ôi Elohim Peace, tên thày sao đẹp quá,
Nỗi nhị nguyên tủi hổ trong con thày giải tỏa,
Trút gánh nặng sợ hãi, địa cầu được tự do,
Và chào đón thái bình hiển hiện khắp đây đó. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.7. Con từ bỏ ảo tưởng rằng có một trạng thái sức khỏe bình thường và bệnh tật là một tình trạng bất thường có một nguyên nhân vật lý và cách chữa là tiêu trừ nguyên nhân vật lý đó.

Ôi Elohim Peace, với Ki-tô bên cạnh,
Không thế lực nhị nguyên nào có thể lẩn tránh,
Chính qua sự rung động của Ngọn lửa Hoàng kim
Mà ảo ảnh sự chết được Ki-tô nhận chìm. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.8. Con buông bỏ ảo tưởng rằng nếu có gì đang phá hủy thân thể của con, con phải phá hủy cái đó. Con buông bỏ ảo tưởng rằng con phải chữa sự phá hủy với một hình thức phá hủy khác. Phá hủy không chữa được phá hủy. Con không thể chữa một vấn đề với cùng tư duy đã tạo ra vấn đề đó.

Ôi Elohim Peace, thày đem vào thế giới
Lửa Tái sinh Vũ trụ mà chẳng ai ngăn nổi,
Chúng con từ bỏ hẳn mọi ý niệm “cái tôi”,
Để Ánh sáng của thày trong chúng con chiếu rọi.

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

2.9. Con sẵn sàng ngưng phóng chiếu với tâm mình. Lớp phóng chiếu đầu tiên là sự phê phán điều này phải xảy ra và điều kia không được xảy ra.

Ôi Elohim Peace, hòa bình con cảm được,
Mọi ký ức chiến tranh thày đã khuây khỏa hết,
Bao thế lực xung khắc, địa cầu đã thăng vượt,
Và phục hồi hành tinh trở về với thanh khiết. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

Phần 3

3.1. Con buông bỏ khuynh hướng nhìn một căn bệnh và có tư duy phê phán rằng có điều gì không ổn, chuyện này không được xảy ra. Con sẵn sàng nhìn vượt quá tầng vật lý.

Đại thiên thần Raphael, thày sáng rỡ làm sao, 
Thày nâng con lên khỏi tuồng sân khấu cuộc đời. 
Mẹ Mary và thày, viễn quan sao táo bạo, 
Muốn con đạt tiềm năng cao nhất có thể với. 

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.2. Con sẵn sàng nhìn vào các thể cao của con và tự giải thoát khỏi những giới hạn của tầng vật lý và do đó khỏi quyền lực của sa nhân.

Đại thiên thần Raphael, trong quả cầu lục bảo, 
Niệm tinh khôi con giữ cho mãi mãi thanh cao, 
Mẹ Mary bao bọc chúng con trong Tim Thánh, 
Không bao giờ xa cách trong tình Mẹ chân thành.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.3. Con sẽ không là nô lệ của người khác trên trái đất vì con biết con là một sinh thể tâm linh và con có thể làm chủ phản ứng của mình. Con không cần sợ ai hết trên trái đất.

Đại thiên thần Raphael, mọi đau ốm trị lành, 
Từng tế bào trong thân niêm lại trong ánh sáng, 
Chợt thấy niệm tinh khôi của đức Mẹ Mary, 
Con sống hiện thực mới là sức khỏe thần kỳ.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.4. Con buông bỏ khuynh hướng cho rằng bệnh tật là sự trục trặc trong thân thể, rồi con muốn gỡ đi các triệu chứng mà không chịu nhìn vào và thay đổi tâm của con.

Đại thiên thần Raphael, ánh sáng vô cùng thực, 
Lộ ra cho con thấy Ki-tô trong thần thức, 
Mẹ Mary đang giúp để con thăng liên tục, 
Cùng thày con thăng lên trong ánh sáng bảo lục.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.5. Con buông bỏ mong muốn tiếp tục làm những gì con đang làm mà không thay đổi chính mình. Muốn thay đổi thế giới mà không chịu thay đổi chính mình là dấu ấn của sa nhân.

Đại thiên thần Raphael, tiêu tan hết bệnh tật, 
Khi thày giúp con ngộ sự sống là Duy nhất, 
Con không còn chối bỏ tình yêu thày chân chất, 
Và niệm tinh khôi ấy, con phóng ra mọi vật.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.6. Con sẵn sàng vượt qua mọi khuynh hướng vị kỷ xem mình là trung tâm, vượt qua ý niệm cơ bản xem mình là sinh thể tách biệt và có quyền lực như một sinh thể tách biệt.

Đại thiên thần Raphael, con hàn gắn địa cầu,
Cho trái đất hồi sinh khi con tỏa tinh khôi, 
Một ngày mới đã đến, một kỷ nguyên bắt đầu, 
Và ánh sắc lục bảo sáng như thể mặt trời.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.7. Con buông bỏ ảo tưởng khiến con chấp nhận sự vật chỉ là vật, không thay đổi được, không thể thay đổi được bằng tâm.

Đại thiên thần Raphael, sa ngã là quá khứ,
Khi mọi người tìm thấy đường Ki-tô thoát tử, 
Nay ta giục ai nấy mau chữa lành đi chứ, 
Khi cả bốn thể phàm được niêm trong tình tự.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.8. Khi con nhìn một vật, có một lập trình trong tâm con phân loại nó và dán nhãn cho nó một số đặc tính. Nó cũng dán nhãn con làm được gì và không làm được gì với vật này.

Đại thiên thần Raphael, thày đem ánh bình minh,
Khiến thế lực bóng tối phải vội vàng lẩn tránh, 
Chúng kết liễu cuộc đời, ta đòi lại hành tinh, 
Và trên môi ai nấy nở nụ hoa thanh bình.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.9. Có một tầng trong tâm của con nơi đó con dán nhãn mọi chuyện theo thứ loại. Con dán nhãn vật với một số đặc tính, ví dụ như vật khó thay đổi hay không cách chi thay đổi nó được với tâm.

Đại thiên thần Raphael, ta giải phóng viễn kiến,
Khi ta thấy thực tại của Thượng đế thiêng liêng, 
Viễn tượng Saint Germain giờ đây đã thị hiện, 
Và trái đất niêm lại trong quả cầu trinh nguyên.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

Phần 4

4.1. Con sẵn sàng dùng quyền năng của viễn quan của con để nhìn phía sau, hay vượt lên trên viễn quan của hầu hết mọi người khi họ nhìn thân thể.

Đại thiên thần Uriel, với uy lực dũng mãnh,
Các thiên thần hòa bình nuốt trọn hết chiến tranh. 
Bọn quỷ dữ hung hăng không thể nào địch nổi
Ánh sáng đang thiêu chúng, lửa rực lên sáng ngời.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.2. Thân thể con được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn như phân tử, tế bào, nguyên tử và hạt hạ nguyên tử.

Đại thiên thần Uriel, âm thanh vang cùng thấu,
Khi hàng triệu thiên thần góp giọng ca hợp tấu, 
Tiếng hát nâng cường độ chọc thủng qua đêm thâu,
Và mọi người bỗng thấy sự duy nhất nhiệm màu.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.3. Con sẵn sàng đi xuống một tầng sâu hơn để thấy là thân thể con được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn và chúng được gom lại thành một vật mà con nhìn thấy là một vật thuần nhất và không dễ thay đổi.

Đại thiên thần Uriel, từ trên Ngai Cao ngất,
Hàng triệu cái kèn đồng vang lên Âm Duy nhất, 
Tan hết mọi bất hòa trong ca khúc hài hòa,
Là âm của mọi âm, đời giải thoát mở ra.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.4. Thân thể con được cấu tạo bởi những hạt cơ bản, nhưng chúng vừa là sóng vừa là hạt. Tầng cấp của hạt cơ bản là lằn ranh nơi năng lượng từ ba tầng cao hơn đi vào quang phổ vật lý.

Đại thiên thần Uriel, mọi chiến tranh chấm dứt,
Khi thày đem thông điệp từ trái tim Duy nhất, 
Hòa bình trong tim người trổi lên thành hợp xướng
Cứ thế lớn thêm mãi trong vòng xoáy yêu thương.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.5. Khi con đi xuống các tầng càng ngày càng sâu hơn, con thấy rằng thân thể của con không thuần nhất vì nó được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn. Sự thuần nhất hoàn toàn tới từ tâm con. Nó là một hình tư tưởng do tâm con phóng chiếu ra.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình thày vô biên,
Giải vây hành tinh khỏi mọi sinh thể hiếu chiến, 
Chiến tranh là nhà tù mà con đã vượt ngục,
Ôm chầm lấy bình an của đoàn kết chân thực.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.6. Thân thể con không thuần nhất chút nào. Nó được cấu tạo bởi phân tử, phân tử được cấu tạo bởi nguyên tử, nguyên tử được cấu tạo bởi hạt cơ bản, chính thực là sóng năng lượng. Khi con đi vào các tầng nhìn sâu hơn, thân thể con càng lúc càng bớt vẻ rắn đặc.

Đại thiên thần Uriel, con thỉnh cầu thiết tha,
Thày lộ ra Duy nhất sẽ kết hợp tất cả, 
Giúp con thấy viễn ảnh của hòa bình không xa,
Khi tranh chấp xung đột, chúng con đã buông xả. 

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.7. Ở tầng cấp thân thể, chuyện tâm con tác động được lên thân thể gần như vô phương. Nhưng khi con tới tầng hạt cơ bản, thực sự là sóng năng lượng, thì chuyện dùng sóng năng lượng của tâm để thay đổi sóng năng lượng của thân thể hoàn toàn khả thi.

Đại thiên thần Uriel, sự sống thày phụng sự,
Giải vây con thoát khỏi đấu tranh và phân hóa,
Việc quên đi tự ngã đích thực là chìa khóa
Để sống cuộc đời mình cho thật sự thuận hòa.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.8. Tâm con không thể tác động lên thân thể được, nhưng đó chỉ vì “thân thể” là một khái niệm do tâm tạo ra, và tâm không vượt quá được khái niệm mà chính nó đã áp đặt lên thân thể.

Đại thiên thần Uriel, địa cầu nâng tâm thức,
Khỏi mây mù nhị nguyên chỉ đem đến tiêu diệt,
Lửa Hòa bình của thày, con thỉnh cầu tha thiết,
Ra lệnh cho tranh cãi nhỏ mọn phải dứt tuyệt.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

4.9. Con buông bỏ khái niệm “thân thể con” là một vật rắn đặc không thể thay đổi được. Con sẵn sàng chất vấn khái niệm này và nhìn nhận là tâm của con thật sự có thể tác động được những sóng năng lượng cấu tạo nên thân thể.

Đại thiên thần Uriel, hòa bình là chuyện thường
Khi địa cầu hưởng ứng một viễn kiến cao hơn,
Hòa bình ở bên trong, người mở tâm rộng lớn,
Thì Thời đại Hoàng kim sẽ là phần giải thưởng.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

Phần 5

5.1. Tâm con là một trường năng lượng. Thân thể của con được cấu tạo bởi phân tử, được cấu tạo bởi nguyên tử, được cấu tạo bởi hạt cơ bản mà thực chất là sóng năng lượng. Vì tâm của con là một trường năng lượng, do đó nó hoàn toàn có thể tác động lên các trường năng lượng cấu tạo ra các hạt cơ bản, cấu tạo ra các nguyên tử, cấu tạo ra các phân tử cấu tạo ra thân thể con.

Hilarion, trên bờ lục bảo,
Chúng con bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả 
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.2. Khi con dùng tâm đi vào một tầng sâu đủ, con có thể tác động lên thân bằng tâm. Con có thể chữa lành thân thể vật lý của con bằng tâm khi con nhận ra rằng thân thể được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn mà thực chất là sóng năng lượng.

Hilarion, chìa khóa bí mật,
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.3. Tâm của con là một sóng năng lượng. Thân thể của con là một sóng năng lượng. Con có thể đạt được khả năng tác động lên các sóng năng lượng cơ bản cấu tạo nên thân thể và từ đó thay đổi thân thể con ngay cả ở tầng cấp vật lý.

Hilarion, tình yêu sự sống,
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.4. Con không thể làm điều này nếu tâm con còn dính chặt vào khái niệm “vật”, vào hình ảnh mà con áp đặt lên thân thể vật lý. Con buông bỏ khuynh hướng nhìn thân thể là một vật, một đơn vị thuần nhất.

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng, 
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền,
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.5. Con buông bỏ khuynh hướng nghĩ rằng khi có điều gì trục trặc trong thân thể, con chỉ có thể chữa nó ở tầng cấp vật lý. Con nhận ra nguyên nhân không ở tầng vật lý vì thân thể là sự phóng chiếu từ ba thể cao. Khi con thay đổi những gì ở trong ba thể cao, con có thể thay đổi sự biểu hiện vật lý.

Hilarion, thương yêu đón chào,
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.6. Nếu con còn thấy thân thể là một vật, một đơn vị thuần nhất, con không thể chữa lành thân thể với quyền năng của tâm. Tâm không thể thay đổi khái niệm “vật” mà chính tâm đã áp đặt lên thân thể. Con thấu hiểu điều này quan trọng như thế nào.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.7. Chính tâm đã áp đặt hình ảnh “vật” lên thân thể. Con sẵn sàng chất vấn hình ảnh này, để thấy nó như nó là, thấy nó chỉ là một hình ảnh. Con sẵn sàng nhìn quá hình ảnh đó, và khi đó tâm thật sự có thể chữa lành thân thể.

Hilarion, thông sạch luân xa, 
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà,
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.8. Con giải thoát tâm con khỏi khuynh hướng nhìn mọi vật là vật. Do đó, con có thể bắt đầu chữa lành thân thể con bằng quyền năng của tâm.

Hilarion, thày sẽ quân bình 
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.9. Con cũng sẵn sàng nhận ra mang bệnh và ứng phó với bệnh có thể là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, hay có thân thể lành mạnh là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Hilarion, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế chúng con rải truyền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

Phần 6

6.1. Con muốn biết căn bệnh có phải là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con hay không. Nếu không, con muốn biết làm sao thăng vượt căn bệnh để tiếp tục với Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Chân sư Nada, cái đẹp quyền năng,
Nở ra như một đóa hoa tuyệt trần.
Chân sư Nada, ôi sao thâm trầm, 
Ý chí chinh phục được cả thời gian. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.2. Con muốn giữ niệm tinh khôi cho mình, có nghĩa là con giữ viễn kiến con sẽ tiếp tục tăng triển tâm thức và thăng vượt tâm thức cho tới khi con đạt được tầng mức quả vị Ki-tô cho phép con hoàn thành sứ vụ của con.

Chân sư Nada, thày là cội nguồn
Minh triết chảy ra như dòng nước cuốn.
Chân sư Nada, tâm thày cường tráng, 
Dâng lên theo cánh bài ca thường hằng. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.3. Niệm tinh khôi có hai khía cạnh. Nó là viễn kiến liên tục tăng triển và nó là viễn kiến con có một sứ vụ, một Sứ vụ Thiêng liêng, và con giữ viễn kiến con sẽ hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng.

Chân sư Nada, hương thơm tuyệt hảo,
Tình thương của thày từ cõi thiên thai.
Chân sư Nada, hiền dịu từ ái, 
Nương cánh tình yêu con vươn lên hoài. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.4. Mục đích sự sống là tăng triển, là thăng vượt. Con giữ niệm tinh khôi là con sẽ tiếp tục tăng triển, đạt các khai ngộ và đạt tầng tâm thức cao nhất có thể đạt được trong kiếp này.

Chân sư Nada, ánh sáng Mẹ đây,
Như diều phơi phới, tim con bay nhảy.
Chân sư Nada, trong mắt của thày,
Sự sống trinh bạch như hạt sương mai. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.5. Con giữ viễn kiến là con ở đây để làm điều gì đó trong kiếp này. Con giữ viễn kiến là con sẽ hoàn thành các phần hứng thú của Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Chân sư Nada, thày đem chân lý,
Như chim buổi sáng hát bản tình ca.
Chân sư Nada, bốn thể phàm ngã, 
Tình yêu của thày hàn gắn được cả. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.6. Khi con giữ niệm tinh khôi cho mình, rất có thể nó sẽ rất khác với những gì hầu hết mọi người mường tượng về cuộc sống bình thường của con người. Thậm chí nó có thể rất khác những gì con thấy về cuộc đời mình cho tới lúc này.

Chân sư Nada, yên tâm phục vụ,
Bao nhiêu tình cảm giải hóa sạch rồi.
Chân sư Nada, cuộc đời hứng thú, 
Và đám rối dương* sáng như mặt trời.
(*: solar plexus) 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.7. Khi con lớn lên trong xã hội hiện đại, có sự phóng chiếu lên con từ mọi hướng là cuộc sống của con phải thế này hay không được thế kia.

Chân sư Nada, tình yêu tự do,
Không còn điều kiện, không còn so đo.
Chân sư Nada, vươn lên buông bỏ
Sắc thái phàm phu tình yêu thấp nhỏ.

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.8. Con muốn sống cuộc đời mình, do đó con sẵn sàng xem xét những ý tưởng của con về những gì phải xảy ra cho con hay không được xảy ra cho con.

Chân sư Nada, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Nada, vươn lên rọi sáng, 
Vẻ đẹp thần thánh ôi sao huy hoàng.

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản
.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

6.9. Con từ bỏ ảo tưởng cho rằng giữ niệm tinh khôi cho mình có nghĩa là cuộc đời của con sẽ theo con đường bị ảnh hưởng từ bên ngoài cho rằng điều này phải xảy ra hay không được xảy ra cho con.

Chân sư Nada, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Hoà bình Thượng đế chúng con rải truyền. 

Chân sư Nada, hòa bình thênh thang,
Cho con được sống mãi trong thanh thản.

Hành tinh thức dậy an nhiên buổi sáng, 
Lúc Trời Hoàng kim cũng đang ló dạng.

Phần 7

7.1. Con buông bỏ ảo tưởng rằng giữ niệm tinh khôi có nghĩa là con lượng định mỗi hoàn cảnh dựa trên ý tưởng điều phải xảy ra và không được xảy ra và ngay lập tức phán xét rằng điều mà con nghĩ không được xảy ra là điều sai.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.2. Sứ vụ Thiêng liêng của con đòi hỏi con tăng triển về tâm thức. Để có thể thăng vượt một tầng tâm thức thì con phải nhìn thấy tâm thức này. Có những lúc con cần trải qua một số kinh nghiệm để con thấy được trạng thái tâm thức đó.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.3. Chẳng có lợi ích gì khi con đánh giá cuộc sống mình theo một tiêu chuẩn được áp đặt lên con, tiêu chuẩn quy định cái phải xảy ra, hay cái không được xảy ra. Con buông bỏ tiêu chuẩn này và con nói: “Không có cái phải là, không có cái không được là. Mọi chuyện xảy ra trong cuộc sống của con đã xảy ra vì vũ trụ đang tìm cách đánh thức con khỏi một ảo tưởng.”

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.4. Thay vì cưỡng lại điều đang xảy ra, thay vì tìm cách thay đổi những triệu chứng ở tầng vật lý, con sẽ tìm hiểu xem thông điệp dành cho con trong chuyện này là gì. Có điều gì trong này mà trước giờ con không thấy?

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.5. Con sẵn sàng xét xem có thể nào căn bệnh là một thông điệp cho con? Vũ trụ có đang tìm cách dạy con một điều gì? Căn bệnh có đang tìm cách chỉ cho con một ảo tưởng, một tâm thức nào đó, mà con phải thăng vượt? Phải chăng khi con thăng vượt nó con sẽ tiến gần hơn việc hoàn thành Sứ vụ của con?

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.6. Phải chăng con đã chọn mang một căn bệnh để chứng minh cho người khác thấy con có thể là một người hạnh phúc, toại nguyện và an bình dù là con bị bệnh hạn chế?

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.7. Phải chăng con đã chọn mang một căn bệnh để chứng minh con có thể vượt qua căn bệnh, con có thể chữa lành nó, con có thể vượt thăng nó?

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.8. Giữ niệm tinh khôi cho con là hiểu rằng Sứ vụ Thiêng liêng của con chú trọng vào việc thay đổi chính mình, thăng vượt các tầng tâm thức và bước lên càng nhiều bước càng tốt trong kiếp sống này.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.9. Cốt lõi của sự sống, cốt lõi của con đường tâm linh đối với con là thăng vượt tâm thức. Cốt lõi của sự chống đối của sa nhân là chống lại thăng vượt tâm thức. Con sẽ không sống cuộc đời mình dựa trên tư duy của sa nhân. Con muốn sống cuộc đời mình dựa trên tư duy của các chân sư thăng thiên là sự thăng vượt không ngừng.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 8

8.1. Con chuyển đổi tâm thức một cách ý thức. Con giải thoát mình khỏi những phán xét ở tầng cấp vật thể. Con muốn nhìn vào cuộc sống mình và thoát khỏi mọi phán xét về cái phải xảy ra hay không được xảy ra.

Maitreya, con là đứa rất hiền,
Thày khuyên bảo, con quý trọng biết mấy, 
Viễn quan thày, con thực tình muốn thấy, 
Với thày, con sẽ ở vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

8.2. Dù cuộc sống quá khứ con khó khăn tới đâu chăng nữa, con đã chọn những hoàn cảnh này vì một lý do. Nó là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Không có chuyện gì xảy ra mà đáng lẽ không được xảy ra. Mọi chuyện là cơ hội để con nhìn thấy điều gì bên trong con và để chứng minh cho người khác rằng con có thể lớn lên trong một hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn vươn lên được trên nó.

Maitreya, hãy giúp con trở về,
Học từ thày, con thật chỉ muốn thế. 
Khi Duy nhất chiếm trọn lòng khao khát, 
Con cảm được ngọn lửa tâm ngộ đạt. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

8.3. Có một cách khác nhìn cuộc đời của con, không nhìn nó ở cấp độ đơn thuần của sự việc xảy ra và không đánh giá nó dựa trên tâm thức phải là và không được là. Một hoàn cảnh cũng có nhiều thành phần khác nhau. Con lùi về một bước và con có một tầm nhìn đầy đủ sắc thái hơn và tinh vi hơn về hoàn cảnh.

Maitreya, bây giờ con xin hẹn,
Đối với thày, không bao giờ che giấu, 
Hãy phơi bày sự lừa lọc hư xấu 
Đã làm chết cái ta vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

8.4. Con sẽ tập trung vào việc thay đổi chính mình, và con sẽ tha thứ những người khác và cho phép họ là chính họ, cho phép họ biểu hiện tâm thức của họ. Con được tự do tiến tới những khía cạnh khác của Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Maitreya, vị Đạo sư chân phúc,
Tim sâu nhất, con trao cả cho thày, 
Con xin nguyện lắng nghe trọn tỉnh thức, 
Để bẻ gẫy bùa ngải của rắn đây. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

8.5. Con ngừng không đánh giá những tương tác giữa con và người khác dựa trên tâm thức cái phải là và cái không được là. Nhờ vậy, tâm con an bình với diễn tiến của sự tương tác. Con nhận ra rằng hành động của con là sản phẩm của trạng thái tâm thức của con, và hành động của người khác là sản phẩm của trạng thái tâm thức của họ.

Maitreya, giúp con thấy tà thuật,
Vì lời rắn mà sợi dây phải đứt, 
Nay trong con, nó chẳng nắm gì được, 
Con đã tìm tự do trong Duy nhất. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

8.6. Công việc của con không phải là thay đổi người khác. Con chỉ cho họ cơ hội thấy là có một cách hành động khác, một cách đáp ứng khác, một cách nhìn đời khác.

Maitreya, tự do nhờ sự thực,
Mà thoát khỏi sai lầm của nhị đối, 
Con rũ hết thành quả của kiến thức, 
Để chỉ biết chân tánh của thày thôi. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

8.7. Khi con đã cống hiến cơ hội đó, con đã làm xong việc của mình. Con thoát khỏi hoàn cảnh khi con ngừng phê phán người khác dựa trên cái họ phải làm hay cái họ không được làm.

Maitreya, con cúi đầu quy phục,
Ý định sạch và tim con chân thực, 
Cả tự ngã con cũng bỏ lại nốt,
Và trọn vẹn con với thày là một. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

8.8. Trong mối tương tác giữa con và người khác, con sẽ nhìn vào điểm: Con cần làm gì để tới được điểm mà con hoàn toàn tự do với người này? Trọng tâm không phải là thay đổi người kia vì tự do của con không tùy thuộc vào người kia. Nó tùy thuộc vào trạng thái tâm của con.

Maitreya, thiện tâm là chìa khóa,
Thày dạy con lòng tốt đủ mọi diện, 
Nay con là cánh cửa đã mở ra, 
Để phục hồi Nghệ thuật của Tâm thiện. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

8.9. Con sẽ tự do khi con tự do trong tâm của con. Người kia như thế nào hay người kia có thay đổi hay không, không quan trọng. Điều quan trọng là con thay đổi cách con nhìn người kia để người kia không còn ảnh hưởng được con nữa.

Maitreya, ôi bí ẩn ngọt ngào,
Con trầm mình trong thực tại của thày, 
Trường huyền bí giờ đây sẽ trở lại, 
Khiến lòng con đang bừng cháy làm sao. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

Phần 9

9.1. Cách giản dị nhất để sa nhân ngăn cản con làm những phần tích cực trong Sứ vụ Thiêng liêng của con là khiến con bị kẹt trong những xung đột với người khác làm con mất thì giờ, sự chú ý và năng lượng.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

9.2. Con vượt lên trên tầng cấp của vật và con nói: “Con có một Sứ vụ Thiêng liêng và một phần của Sứ vụ Thiêng liêng là con thăng vượt một tầng tâm thức nào đó, một tầng ảo tưởng nào đó. Có thể chăng là người khiến con bực mình quá sức đang làm chuyện đó vì y đang lợi dụng cái ảo tưởng mà con không thấy được trong con?”

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

9.3. Có thể chăng là người đang làm con bực mình quá sức thật ra là một Sứ giả Thiêng liêng? Y được gửi đến để chỉ cho con thấy điều mà cho tới nay con chưa thấy được và điều mà con cần vượt qua trong chính mình để có thể vươn lên tầng tâm thức cao hơn và bắt đầu thể hiện những khía cạnh tích cực của Sứ vụ Thiêng liêng của con – là cống hiến món quà của con?

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

9.4. Một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con là vượt qua những giới hạn của mình. Nhưng phần hào hứng của Sứ vụ Thiêng liêng là con có một món quà tích cực cho trái đất và con bắt đầu tặng món quà đó. Con sẽ không cho phép những tranh chấp nhỏ mọn với người khác ngăn cản con thực thi khía cạnh hào hứng của Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

9.5. Trong bất kỳ quan hệ nào, người kia khiến con bực mình vì con có một hình ảnh cho rằng người khác không được làm thế này. Tất cả những cái phải là và không được là trong tâm con sẽ ngăn cản con hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Nó cũng ngăn cản con đạt được một viễn kiến rõ ràng.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

9.6. Con muốn đạt một viễn kiến không nhị nguyên, không dựa trên phán xét với hai đối cực. Nó là viễn kiến trong sạch, viễn kiến rõ ràng nhìn mọi vật như nó là. Con nhìn mọi cảnh huống mà không phán xét.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

9.7. Con muốn neo mình vào Dòng Sông sự Sống và thấy cuộc sống của con là một dòng chảy liên tục. Con buông bỏ cái nhìn cuộc sống như một tiến trình ngừng-lại-và-đi-tiếp qua đó lúc nào cũng có một điều gì ngừng con lại, không cho phép con đến nơi con muốn đến.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

9.8. Mỗi hoàn cảnh con gặp giúp con tiến lên trong cuộc sống. Con nhận ra bất cứ điều gì xảy ra trong cuộc sống không phải là chướng ngại cho sự tiến bộ của con. Nó là thông điệp chỉ cho con thấy cách đi vòng quanh chướng ngại và tiếp tục tiến lên.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

9.9. Tâm giống như nước. Tâm con có khả năng nhận ra bất cứ chuyện gì xảy ra trong cuộc đời, tâm con vẫn có thể tiếp tục chảy. Khi con tha thứ, khi con buông bỏ, tâm con sẽ chảy tiếp, tâm con sẽ toàn vẹn và con sẽ tiếp tục tuôn chảy như không có gì đã xảy ra.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Phần 10

10.1. Con mở tâm ra với sự nhận biết có ý thức là con có thể làm cho tâm con lỏng như nước. Điều này làm được và con đặt mục đích này cho mình.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Con nhập đoàn hợp xướng của tình thương, 
Mở tâm ra, hát bài ca tán thưởng, 
Và cùng nhau nâng hành tinh gia tốc. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

10.2. Con sẵn lòng nhìn vào cuộc đời của mình và nhận ra: Có sự việc nào đã làm cho tâm con cứng đặc chung quanh một chấn thương, một nỗi đau, hay quan điểm chuyện này không được xảy ra? Tâm con có bị cứng đặc chung quanh quan điểm người khác phải thay đổi hay vũ trụ phải thay đổi, hay người khác không được thế này hay vũ trụ không được thế kia? Tâm con đã cứng đặc chung quanh điểm nào?

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Được khai ngộ – điều con muốn trước tiên, 
Shamballa – nhà con ở cõi thiên,
Cho thày, con chỉ xin làm cực điện.

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

10.3. Mỗi hoàn cảnh khiến tâm con cứng đặc ở một thời điểm trong quá khứ giữ con lại không sống theo Sứ vụ Thiêng liêng. Nó ngăn cản con xuôi theo Dòng Sông sự Sống. Con sẵn sàng nhìn vào các ảo tưởng của con và nhận ra chẳng có gì phải xảy ra hay không được xảy ra.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Thày vạch đường cho con cứ theo chân, 
Khai mở con bằng tình yêu vô tận, 
Làm cửa mở cho Bồ câu Thánh thần. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

10.4. Con sẽ không bị kẹt trong những cãi vã nhỏ mọn buộc sự chú ý của mình. Do đó, con làm cho tâm con lỏng như nước để con không bao giờ cho phép nó cứng đặc lại chung quanh bất cứ điểm nào trong quá khứ. Con giữ tâm con như một khối nước xuôi theo Dòng Sông sự Sống.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Gương của thày, cả một nguồn linh hứng. 
Không dính mắc, con ngập nỗi vui mừng  
Đóng góp cho địa cầu lại được sống. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

10.5. Con sẵn sàng đạt mục đích này trong một sự chuyển đổi tâm thức lớn và sau đó con dần dà quét dọn sạch sẽ bằng cách đọc các bài thỉnh để tiêu trừ những năng lượng bị trói trong các sự việc quá khứ.

Sanat Kumara, Lửa Hồng ngọc, 
Là bộ máy để địa cầu thanh lọc, 
Mọi tà thể tiêu hết khỏi hành tinh,
Từ bên trong hiển lộ Đốm Tánh linh. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

10.6. Tâm con lỏng. Tâm con như nước. Có một trở ngại đằng trước nhưng con tìm được cách đi vòng quanh nó và trở về xuôi theo Dòng Sông sự Sống mà không hề bị cản trở, bị chắn lối, bị ảnh hưởng bởi bất cứ điều gì.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Là bộ máy vũ trụ đang khuếch lớn, 
Đoàn người đến từ Kim tinh rung động,
Khiến tà lực không thể nào cưỡng chống. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

10.7. Con luôn luôn tuôn chảy và con tìm cách duy trì dòng chảy. Con chảy chung quanh bất cứ chướng ngại nào và học bài học từ chướng ngại đó. Con thể nhập bài học và con không cần nghĩ tới nó nữa. Con tiến tới bài học kế tiếp.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc đỏ, 
Con là máy khuếch trương của thày đó,
Con khôi phục tình yêu không gò bó, 
Luân xa này là cửa mở thật to. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

10.8. Khi con đã học trọn vẹn bài học, khi con đã hoàn toàn thăng vượt một trạng thái tâm thức nào đó, thì con không cần băn khoăn về nó nữa. Con không cần nghĩ về nó nữa. Con tiếp tục chảy và bây giờ con tìm bài học kế tiếp hay việc phụng sự kế tiếp.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc hồng, 
Là cái loa cho điệp khúc Kim tinh,
Khi tình yêu vang dội khắp cùng chốn,
Thâm nhập cả những tâm hồn vô minh. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ, 
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

10.9. Cuộc sống là một tiến trình trong đó con thoát khỏi mọi phê phán cái này phải xảy ra hay không được xảy ra. Chẳng có cái phải, chẳng có cái không được. Chỉ có niềm vui biết mình đang tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống. Con liên tục tiến tới điểm đi vào hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con trong nghi lễ thăng thiên huy hoàng.

Sanat Kumara, Lửa Ngọc đỏ, 
Nhờ thày đến, chúng sinh được thánh hóa, 
Nguyên hành tinh biến thành miền cao cả,
Do hồng ân toàn vũ mà thăng hoa. 

Sanat Kumara, Tia Ngọc đỏ, 
Đến địa cầu để mở lối cao hơn, 
Ngọn lửa thày giúp hành tinh sáng tỏ
Mặc bộ áo mới tinh cho ngày lớn. 

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Con thỉnh cầu tự do không phóng chiếu vào trong tâm (7 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Cyclopea và Virginia, Đại thiên thần Raphael và Mẹ Mary, và Chân sư Hilarion yêu dấu, hãy giúp con thấy và buông bỏ mọi hình ảnh trong con quy định thế nào là một học viên tâm linh, thế nào là Ki-tô Hằng Sống. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với thày Hilarion và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Sau khi đã theo con đường tâm linh một thời gian, con đã nhận một số ý tưởng và niềm tin vi tế và con đã dùng chúng để tạo ra một hình ảnh trong tâm quy định thế nào là một đệ tử tâm linh, và thế nào là đi theo con đường tâm linh.

Cyclopea yêu dấu, thày phơi ra sự thực, 
Rằng phiền não nhị nguyên rồi sẽ được hàn gắn, 
Ánh sáng màu Lục bảo của thày như thần dược, 
Chữa lành cảm thể con cho bình an mỹ mãn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.2. Con sẵn sàng xem xét hình ảnh của con và buông bỏ một số những ý tưởng đó. Con nhận ra rằng khóa học tự điều ngự đòi hỏi con buông bỏ tất cả mọi ý tưởng của con.

Cyclopea yêu dấu, con cùng thày tháo gỡ 
Những vòng xoáy tiêu cực đang phủ tâm mây mờ, 
Con biết mình cốt lõi là cái biết thuần sơ,
Là chìa khóa để thành cánh cửa luôn rộng mở.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.3. Con đường tự điều ngự là vượt qua cái ta vỏ ngoài, cái ta tách biệt. Để đạt được tự điều ngự, trọng tâm không phải là cưỡng ép cái ta vỏ ngoài hay cho nó những khả năng đặc biệt nào đó.

Cyclopea yêu dấu, thanh lọc mắt bên trong, 
Uy lực đó giúp con xuyên thủng đêm trong hồn,
Nay con nhìn cuộc sống với con mắt thuần đơn,
Vượt lên trên bệnh tật con sẽ bay cao hơn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.4. Mục đích của con đường tự điều ngự không phải là khiến cái ta vỏ ngoài được Thượng đế chấp nhận và cho phép nó vào nước trời. Đây là điều mà các sa nhân đã phóng chiếu ra qua các thày giả.

Cyclopea yêu dấu, cuộc sống chỉ phản ánh 
Những hình tướng mà tâm cứ phóng ra địa cầu, 
Giữ tâm mình trong sáng là bí quyết chữa lành, 
Không còn một tâm ảnh để ngã trốn đằng sau.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.5. Con không thể đạt được tự điều ngự bằng cách kiện toàn cái ta tách biệt – vì không thể kiện toàn nó được. Con sẽ đạt được tự điều ngự bằng cách sử dụng quyền năng sáng tạo của con mà không chịu ảnh hưởng của cái ta vỏ ngoài.

Cyclopea yêu dấu, chúng con nhắm thật cao, 
Ngày càng xích lại gần với ngọn lửa hàn gắn,
Xuyên tấm màn nhị nguyên bây giờ con cất cánh, 
Và tắm trong Ánh sáng thâm sâu màu Lục bảo. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.6. Mục đích của con đường tự điều ngự là con thoát khỏi cái ta vỏ ngoài để con không phải là “người đang làm” nhưng Hiện diện TA LÀ của con là người đang làm thông qua cái Ta Biết và bốn thể phàm của con.

Cyclopea yêu dấu, Lửa Lục bảo phanh phui 
Từng trò chơi quyền lực tinh vi của nhị đối, 
Kể cả âm mưu cũ là trò chơi gian dối, 
Cứ định nghĩa chân lý theo một cách mà thôi. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.7. Điều này không có nghĩa là con không ước muốn gì hết. Nó có nghĩa là ước muốn cá nhân của con đồng thuận với ước muốn trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, là những ước muốn mà chính con đã chọn lựa trước khi con đầu thai.

Cyclopea yêu dấu, dòng chảy con cảm được,
Của Chân lý Hằng sống mà thày ban liên tục, 
Con nay đã giải thoát khỏi cái nhìn đối cực, 
Và khuôn đúc hành tinh lại trinh nguyên như trước. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.8. Vì con đã đi trên con đường tâm linh cho tới điểm này, con đã nhận vào một số ý tưởng và con đã dùng chúng để hình thành trong tâm hình ảnh là con phải biểu hiện sự sáng tạo như thế nào nếu con là người đệ tử tâm linh.

Cyclopea yêu dấu, sự thật con đã thấy, 
Rõ mục đích cao hơn tại sao con ở đây, 
Con biết chân lý vượt mọi hệ thống dưới này, 
Con bơi trong ánh sáng và tăng trưởng gấp mấy. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.9. Ở mỗi giai đoạn của con đường tu, con có một số ảo tưởng. Không tránh được là khi con hình thành hình ảnh một người tâm linh phải như thế nào, hình ảnh đó sẽ kết nạp những ảo tưởng mà con còn có trong tâm, những ảo tưởng mà con chưa buông bỏ.

Cyclopea yêu dấu, con thấy thày hân hoan, 
Khi viễn kiến sáng tạo con đem ra thực hành, 
Để nhấc địa cầu lên khỏi lồng giam của rắn, 
Và thị hiện Hoàng kim của thày Saint Germain. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

Phần 2

2.1. Có một khía cạnh của viễn quan của con về đệ tử tâm linh đuợc dựa trên ý niệm con phải như thế nào đó.

Cyclopea yêu dấu, thày phơi ra sự thực, 
Rằng phiền não nhị nguyên rồi sẽ được hàn gắn, 
Ánh sáng màu Lục bảo của thày như thần dược, 
Chữa lành cảm thể con cho bình an mỹ mãn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.2. Hầu hết các tôn giáo trên trái đất đã quy định những quy tắc vỏ ngòai về cách cư xử khi là thành viên của tôn giáo đó. Ý tưởng đằng sau là nếu con sống theo một số quy luật trong cõi vật chất, con có thể hội đủ điều kiện để vào cõi tâm linh. Đây là lời gian dối.

Cyclopea yêu dấu, con cùng thày tháo gỡ 
Những vòng xoáy tiêu cực đang phủ tâm mây mờ, 
Con biết mình cốt lõi là cái biết thuần sơ,
Là chìa khóa để thành cánh cửa luôn rộng mở.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.3. Con sẽ không lên thiên đàng. Cái “ta” mà con hiện đang là không hội đủ điều kiện để thăng thiên. Khi con đi lên về hướng tầng 144 của tâm thức, cái “ta” mà con có hiện nay sẽ chết đi. Con sẽ tiếp tục cho phép từng cái “ta” một chết đi cho tới khi con đến tầng 144 và lúc đó con để cho tàn dư của cái ta tách biệt chết đi và con thăng thiên trong hợp nhất.

Cyclopea yêu dấu, thanh lọc mắt bên trong, 
Uy lực đó giúp con xuyên thủng đêm trong hồn,
Nay con nhìn cuộc sống với con mắt thuần đơn,
Vượt lên trên bệnh tật con sẽ bay cao hơn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.4. Con sẽ không vào thiên đàng nếu con nghĩ con phải đi tới chỗ nào khác chỗ con đang ở. Con phải dần dần vượt qua ảo tưởng cho rằng có khoảng cách giữa con và thiên đàng. Con không đi lên thiên đàng, đúng hơn là con chấp nhận con đang ở thiên đàng.

Cyclopea yêu dấu, cuộc sống chỉ phản ánh 
Những hình tướng mà tâm cứ phóng ra địa cầu, 
Giữ tâm mình trong sáng là bí quyết chữa lành, 
Không còn một tâm ảnh để ngã trốn đằng sau.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.5. Ngay cả trên con đường tâm linh, con có thể dùng một giáo lý tâm linh để củng cố cái ta tách biệt. Khi con làm thế, sẽ tới một lúc điều này sẽ ngưng sự tiến bộ của con lại.

Cyclopea yêu dấu, chúng con nhắm thật cao, 
Ngày càng xích lại gần với ngọn lửa hàn gắn,
Xuyên tấm màn nhị nguyên bây giờ con cất cánh, 
Và tắm trong Ánh sáng thâm sâu màu Lục bảo. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.6. Con sẵn sàng buông bỏ dần dần hình ảnh này cho tới khi con tới điểm không còn hình ảnh nào nữa quy định con phải như thế nào. Con đã vượt qua ý niệm một đệ tử tâm linh phải như thế nào đó.

Cyclopea yêu dấu, Lửa Lục bảo phanh phui 
Từng trò chơi quyền lực tinh vi của nhị đối, 
Kể cả âm mưu cũ là trò chơi gian dối, 
Cứ định nghĩa chân lý theo một cách mà thôi. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.7. Một giáo lý tâm linh trình bày ý tưởng đến với con từ bên ngoài. Mục đích của giáo lý là đưa con tới điểm con là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con.

Cyclopea yêu dấu, dòng chảy con cảm được,
Của Chân lý Hằng sống mà thày ban liên tục, 
Con nay đã giải thoát khỏi cái nhìn đối cực, 
Và khuôn đúc hành tinh lại trinh nguyên như trước. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.8. Khi con có ý tưởng một đệ tử tâm linh phải như thế nào, cơ chế vận hành đằng sau nó chính là bản chất của cái ta vỏ ngoài. Con đang tìm cách khiến chính con tuân theo một ý tưởng của cái ta vỏ ngoài.

Cyclopea yêu dấu, sự thật con đã thấy, 
Rõ mục đích cao hơn tại sao con ở đây, 
Con biết chân lý vượt mọi hệ thống dưới này, 
Con bơi trong ánh sáng và tăng trưởng gấp mấy. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

2.9. Cái ta mà con ép phải tuân phục một phần gồm cái ta vỏ ngoài, và nó vui vẻ tuân phục. Nhưng con cũng muốn ép cái Ta Biết, và cái Ta Biết không phải là cái ta vỏ ngoài, nó chưa bao giờ là và nó sẽ không bao giờ là cái ta vỏ ngoài.

Cyclopea yêu dấu, con thấy thày hân hoan, 
Khi viễn kiến sáng tạo con đem ra thực hành, 
Để nhấc địa cầu lên khỏi lồng giam của rắn, 
Và thị hiện Hoàng kim của thày Saint Germain. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

Phần 3

3.1. Cái Ta Biết không đi xuống thế gian với cái ta vỏ ngoài. Nó cần cái ta vỏ ngoài để biểu hiện trong thế giới này, nhưng con không cần cái ta vỏ ngoài để thăng thiên, để trở về cõi tâm linh. Con cần buông bỏ cái ta vỏ ngoài để trở về cõi tâm linh.

Đại thiên thần Raphael, thày sáng rỡ làm sao, 
Thày nâng con lên khỏi tuồng sân khấu cuộc đời. 
Mẹ Mary và thày, viễn quan sao táo bạo, 
Muốn con đạt tiềm năng cao nhất có thể với. 

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.2. Khi con cưỡng ép cái Ta Biết phải tuân theo một hình ảnh do cái ta vỏ ngoài dựng lên thì con không phải là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con.

Đại thiên thần Raphael, trong quả cầu lục bảo, 
Niệm tinh khôi con giữ cho mãi mãi thanh cao, 
Mẹ Mary bao bọc chúng con trong Tim Thánh, 
Không bao giờ xa cách trong tình Mẹ chân thành.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.3. Thủ đoạn đánh lừa của sa nhân là khiến con tin rằng con không thể là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ, biểu hiện ánh sáng tâm linh là sai, biểu lộ khả năng sáng tạo là sai bởi vì con phải luôn luôn tuân theo quy luật.

Đại thiên thần Raphael, mọi đau ốm trị lành, 
Từng tế bào trong thân niêm lại trong ánh sáng, 
Chợt thấy niệm tinh khôi của đức Mẹ Mary, 
Con sống hiện thực mới là sức khỏe thần kỳ.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.4. Thủ đoạn đánh lừa của sa nhân là khiến con tin rằng thay vì con sáng tạo và biểu lộ sự sáng tạo của Hiện diện TA LÀ, con phải bắt dòng sáng tạo chảy qua phin lọc của cái ta vỏ ngoài.

Đại thiên thần Raphael, ánh sáng vô cùng thực, 
Lộ ra cho con thấy Ki-tô trong thần thức, 
Mẹ Mary đang giúp để con thăng liên tục, 
Cùng thày con thăng lên trong ánh sáng bảo lục.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.5. Nếu con cho phép dòng sáng tạo chảy qua phin lọc này, sẽ có một số điều kiện trong cõi vật chất mà con không bao giờ vượt qua được, con sẽ không dám biểu lộ bất cứ điều gì thách thức hay thăng vượt những hạn chế này của cõi vật chất.

Đại thiên thần Raphael, tiêu tan hết bệnh tật, 
Khi thày giúp con ngộ sự sống là Duy nhất, 
Con không còn chối bỏ tình yêu thày chân chất, 
Và niệm tinh khôi ấy, con phóng ra mọi vật.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.6. Các định luật thiên nhiên hạng nhì được đặt ra để khiến con người tin rằng họ không có quyền năng quá một mức nào đó. Nếu con thấy con phải sống theo một hình ảnh đệ tử tâm linh nào đó, thì con không thể là cánh cửa hoàn toàn mở cho quyền năng sáng tạo của Hiện diện TA LÀ của con. 

Đại thiên thần Raphael, con hàn gắn địa cầu,
Cho trái đất hồi sinh khi con tỏa tinh khôi, 
Một ngày mới đã đến, một kỷ nguyên bắt đầu, 
Và ánh sắc lục bảo sáng như thể mặt trời.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.7. Con có Sứ vụ Thiêng liêng của con và con sẽ không cho phép hình ảnh của một đệ tử tâm linh tốt ngăn cản sự hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Đại thiên thần Raphael, sa ngã là quá khứ,
Khi mọi người tìm thấy đường Ki-tô thoát tử, 
Nay ta giục ai nấy mau chữa lành đi chứ, 
Khi cả bốn thể phàm được niêm trong tình tự.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.8. Con sẵn sàng bước đi bước kế tiếp ngay cả khi con không thấy rõ nó dẫn con đi đâu. Hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con quan trọng hơn là sống theo hình ảnh hiện nay của con về người đệ tử tâm linh tốt.

Đại thiên thần Raphael, thày đem ánh bình minh,
Khiến thế lực bóng tối phải vội vàng lẩn tránh, 
Chúng kết liễu cuộc đời, ta đòi lại hành tinh, 
Và trên môi ai nấy nở nụ hoa thanh bình.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.9. Con không thể hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con bằng cách ép buộc mình phải sống theo một hình ảnh được quy định trong thế giới này. Con muốn hoàn toàn cởi mở để Hiện diện TA LÀ biểu hiện điều nó muốn qua con.

Đại thiên thần Raphael, ta giải phóng viễn kiến,
Khi ta thấy thực tại của Thượng đế thiêng liêng, 
Viễn tượng Saint Germain giờ đây đã thị hiện, 
Và trái đất niêm lại trong quả cầu trinh nguyên.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

Phần 4

4.1. Mỗi khi con có cảm giác con phải như thế này, con phải làm điều này, con phải hành xử như thế này, thì điều đó tới từ cái ta tách biệt. Nó là lực hút, mở con ra với sa nhân.

Đại thiên thần Raphael, thày sáng rỡ làm sao, 
Thày nâng con lên khỏi tuồng sân khấu cuộc đời. 
Mẹ Mary và thày, viễn quan sao táo bạo, 
Muốn con đạt tiềm năng cao nhất có thể với. 

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.2. Các chân sư thăng thiên không tìm cách ép buộc con làm bất cứ điều gì, các thày không ảnh hưởng con bằng sợ hãi, nghi ngờ, hổ thẹn hay mặc cảm tội lỗi.

Đại thiên thần Raphael, trong quả cầu lục bảo, 
Niệm tinh khôi con giữ cho mãi mãi thanh cao, 
Mẹ Mary bao bọc chúng con trong Tim Thánh, 
Không bao giờ xa cách trong tình Mẹ chân thành.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.3. Văn hóa dựa trên sợ hãi của tổ chức khiến con nghi ngờ những nhắc nhở trực giác đến từ Hiện diện TA LÀ của con. Con buông bỏ tất cả hình ảnh dựa trên sợ hãi quy định thế nào là một đệ tử tâm linh.

Đại thiên thần Raphael, mọi đau ốm trị lành, 
Từng tế bào trong thân niêm lại trong ánh sáng, 
Chợt thấy niệm tinh khôi của đức Mẹ Mary, 
Con sống hiện thực mới là sức khỏe thần kỳ.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.4. Các sa nhân muốn chế ra một con đường máy móc đưa tới cứu rỗi để họ có thể vào cõi thăng thiên mà không phải buông bỏ mọi tàn dư của cái ta tách biệt, mọi tàn dư của tâm thức sa nhân. Họ muốn ăn gian hay xông vào thiên đàng.

Đại thiên thần Raphael, ánh sáng vô cùng thực, 
Lộ ra cho con thấy Ki-tô trong thần thức, 
Mẹ Mary đang giúp để con thăng liên tục, 
Cùng thày con thăng lên trong ánh sáng bảo lục.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.5. Con từ bỏ niềm tin vi tế cho rằng con cần theo một số bước máy móc để hội đủ điều kiện thăng thiên. Con chấp nhận con đường tu là một tiến trình sáng tạo vì nó đòi hỏi con nhận chân một ảo tưởng và quyết định buông bỏ nó.

Đại thiên thần Raphael, tiêu tan hết bệnh tật, 
Khi thày giúp con ngộ sự sống là Duy nhất, 
Con không còn chối bỏ tình yêu thày chân chất, 
Và niệm tinh khôi ấy, con phóng ra mọi vật.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.6. Khi con còn bất cứ ý định ép buộc người khác hay ép buộc thế giới, con không thể nào thăng thiên. Con cần phải hoàn toàn bất hung hãn, bất bạo động để có thể bước vào cõi tâm linh.

Đại thiên thần Raphael, con hàn gắn địa cầu,
Cho trái đất hồi sinh khi con tỏa tinh khôi, 
Một ngày mới đã đến, một kỷ nguyên bắt đầu, 
Và ánh sắc lục bảo sáng như thể mặt trời.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.7. Sa nhân tìm cầu điều không thể có. Con nhận ra trong ý thức và trực giác là con không còn muốn đi theo con đường giả này. Con không còn muốn sống hết cuộc đời mình dựa trên ý tưởng vỏ ngoài là con phải như thế nào. Con muốn con là người con là ở mỗi lúc.

Đại thiên thần Raphael, sa ngã là quá khứ,
Khi mọi người tìm thấy đường Ki-tô thoát tử, 
Nay ta giục ai nấy mau chữa lành đi chứ, 
Khi cả bốn thể phàm được niêm trong tình tự.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.8. Cái ta vỏ ngoài biết nó sẽ chết, nhưng nó muốn tạo ra cảm tưởng là nó có thể bất tử. Nó nghĩ để trở nên bất tử thì nó phải giữ nó bất biến với thời gian.

Đại thiên thần Raphael, thày đem ánh bình minh,
Khiến thế lực bóng tối phải vội vàng lẩn tránh, 
Chúng kết liễu cuộc đời, ta đòi lại hành tinh, 
Và trên môi ai nấy nở nụ hoa thanh bình.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

4.9. Mơ ước đằng sau sa nhân và các định luật thiên nhiên phụ thuộc là tạo ra một cái gì trường tồn, bất biến với thời gian.

Đại thiên thần Raphael, ta giải phóng viễn kiến,
Khi ta thấy thực tại của Thượng đế thiêng liêng, 
Viễn tượng Saint Germain giờ đây đã thị hiện, 
Và trái đất niêm lại trong quả cầu trinh nguyên.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

Phần 5

5.1. Khi con là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con, không có nghĩa con luôn luôn như cũ. Nó có nghĩa là con không bao giờ như cũ vì bất kỳ Hiện diện TA LA muốn biểu hiện điều gì xuyên qua con trước một hoàn cảnh nào đó, con cho phép điều đó xảy ra.

Hilarion, trên bờ lục bảo,
Chúng con bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả 
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.2. Con sẵn sàng vô hiệu hóa tâm vỏ ngoài của mình và đi vào nội tâm để con có thể hoàn toàn cởi mở với Hiện diện TA LÀ của con.

Hilarion, chìa khóa bí mật,
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.3. Con không thể biết với tâm vỏ ngoài tất cả những phức tạp bên trong một hoàn cảnh. Phân tích hoàn cảnh sẽ phức tạp đến độ con phải mất một thời gian rất dài thì tâm ý thức mới hiểu được bề sâu của hoàn cảnh.

Hilarion, tình yêu sự sống,
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.4. Khi con hiểu được với tâm vỏ ngoài con phải hành xử ra sao, hoàn cảnh đã thay đổi và lúc đó quá trễ để hành động. Là một sinh thể Ki-tô không có nghĩa là trong mỗi cảnh huống con đều có được lời giải thích từ tâm vỏ ngoài là con phải hành xử như thế nào, không có nghĩa là con biết mọi khía cạnh của một tình huống.

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng, 
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền,
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.5. Là một sinh thể Ki-tô có nghĩa là con luôn luôn hòa điệu với Hiện diện TA LÀ và con tuân phục xung lực đến từ Hiện diện TA LÀ trong mỗi cảnh huống.

Hilarion, thương yêu đón chào,
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.6. Con không tìm cách ép buộc con phải hành động y như con đã làm trong quá khứ trong cùng cảnh huống. Con không áp đặt bất cứ cái phải là nào lên trên một hoàn cảnh. Con không tìm cách hành động một cách bất biến. Con tìm cách hành động tự phát trong mọi tình huống.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.7. Con buông bỏ ý tưởng cho rằng con đường tâm linh có nghĩa là càng ngày càng biết và hiểu nhiều hơn với tâm vỏ ngoài, trí đường thẳng, trí năng.

Hilarion, thông sạch luân xa, 
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà,
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.8. Con buông bỏ ý tưởng cho rằng rốt cuộc con sẽ tới điểm mà con biết mọi thứ và con có thể giải thích mọi thứ. Do đó, trong mọi cảnh huống, con có thể biết điều gì đúng để làm.

Hilarion, thày sẽ quân bình 
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.9. Con từ bỏ khuynh hướng phân tích hành động của mình một cách chi tiết tỉ mỉ và “dằn vặt mình” vì kết quả không bao giờ tốt đủ.

Hilarion, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế chúng con rải truyền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

Phần 6

6.1. Khi con hành xử dựa trên ý tưởng con phải như thế nào đó, lẽ tất nhiên là con phải phán xét mình và kết quả của hành động. Và hành động không bao giờ đạt được yêu cầu của hình ảnh toàn hảo.

Hilarion, trên bờ lục bảo,
Chúng con bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả 
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.2. Con buông bỏ khuynh hướng rơi vào tiến trình phải đối phó với nỗi đau đã không làm đúng theo hình ảnh toàn hảo, phải giải thích điều này một cách nào đó, phải phân tích nó, phải coi nó như một cơ hội học hỏi và ép buộc mình phải học từ đó.

Hilarion, chìa khóa bí mật,
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.3. Khi con tiến tới quả vị Ki-tô tiến trình giải thích và phân tích này tan biến đi. Con không phân tích vì con biết con đã hòa điệu với Hiện diện. Đây là điều Hiện diện muốn làm trong hoàn cảnh đó và dù hậu quả là gì chăng nữa, đây là điều tốt nhất có thể xảy ra trong hoàn cảnh đó.

Hilarion, tình yêu sự sống,
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.4. Con chấp nhận là trong vị thế một sinh thể Ki-tô, không phải lúc nào con cũng làm được điều mang lại kết quả lý tưởng hay toàn hảo. Lý do là vì con sẽ không bao giờ đi ngược lại quyền tự quyết của người khác.

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng, 
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền,
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.5. Con có mặt ở đây để cho người khác cơ hội thăng vượt trình độ tâm thức của họ và vươn lên cao hơn, nhưng con không bao giờ tìm cách ép uổng chọn lựa của họ và do đó con không quan tâm nếu kết quả kém hơn lý tưởng.

Hilarion, thương yêu đón chào,
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.6. Con không quay vào bên trong, phân tích và dằn vặt mình về chuyện đó vì con biết một cảnh huống không đứng yên với thời gian. Cuộc sống là một tiến trình luôn chuyển động. Một sinh thể Ki-tô không có mục tiêu tạo ra một kết quả vỏ ngoài nào đó và duy trì nó với thời gian.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.7. Một sinh thể Ki-tô không đi tìm sự trường tồn, bất biến, liên tục. Một sinh thể Ki-tô luôn luôn tìm cách đẩy cho tiến trình sự sống tuôn chảy.

Hilarion, thông sạch luân xa, 
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà,
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.8. Con biết sự sống là một dòng sông luôn tuôn chảy. Điều quan trọng không phải là phân tích xem kết quả phải như vậy hay không nên như vậy. Điều quan trọng là nói: “Bây giờ kết quả là thế này, bước kế tiếp là gì đây? Làm sao chúng ta có thể đẩy tình cảnh tiến tới để chúng ta tiếp tục tiến lên với tiến trình sự sống?”

Hilarion, thày sẽ quân bình 
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

6.9. Sa nhân lúc nào cũng làm việc để đạt kết quả mà họ hình dung. Một sinh thể Ki-tô không đi tìm một kết quả cuối cùng, nhưng tìm cách tuôn chảy theo dòng sông, giúp mọi người thăng vượt hoàn cảnh hiện nay của họ, trạng thái tâm thức hiện nay của họ và tiếp tục tiến triển.

Hilarion, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế chúng con rải truyền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

Phần 7

7.1. Điều sa nhân đã làm với định luật thiên nhiên phụ thuộc là tìm cách ngưng không để Dòng Sông sự Sống tuôn chảy. Họ tìm cách tạo ra một tình trạng trong đó họ có thể duy trì một trạng thái nào đó lâu dài.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nay con biết,
Cả thế gian chỉ là cõi huyễn ảo,
Trong tim con cảm nhận rõ làm sao,
Không có gì ngoài Tánh linh là thật. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.2. Thăng vượt là điều các chân sư thăng thiên mong muốn, thăng vượt liên tục.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, giúp con nhìn, 
Con muốn sống trong viễn kiến quang minh,
Con đã thấy được Sứ vụ Thiêng liêng,
Hiểu kế sách độc đáo của chính mình. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.3. Con sẵn sàng nhìn vào hình ảnh con có về chính mình, xem hình ảnh đó nói gì về mục tiêu mà con muốn đạt được, và viễn kiến con đường tâm linh sẽ dẫn con tới đâu.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, cho con thấy, 
Những trò chơi uẩn khúc của ngã này,
Giúp con thoát lồng giam của tự ngã,
Để đem lại một thời mới thăng hoa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.4. Con sẵn sàng nhìn vào những hình ảnh cố định mà con có về mục đích tối hậu của con đường tâm linh, thế nào là một sinh thể Ki-tô, thế nào là một chân sư thăng thiên.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nhập với thày, 
Viễn quan con là một, chẳng còn hai,
Thày xua tan tấm màn của nghiệp quả,
Nguyên vũ trụ hiện ra sao mới quá. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.5. Tất cả những hình ảnh cố định như thế đều không phù hợp với thực tại vì đường tu là sự thăng vượt liên tục. Nó không bao giờ chấm dứt.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con không quản,   
Chén con ngập điện từ với ánh sáng,
Thày tiêu hủy hồn bóng của dĩ vãng,
Và cho con tầm nhìn rất bạo dạn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.6. Nếu con cố gắng đạt một mục tiêu cố định, con sẽ không bao giờ tới đó và điều này có nghĩa là con sẽ mãi mãi bất toại nguyện với chính mình. Con không muốn bất toại nguyện với chính mình và sự tiến triển của mình.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, tim chân thành, 
Con bắt tay làm phần vụ thần thánh.
Con thấy rồi, thày ơi, trong phút ngẫu,
Sứ vụ con sẽ dẫn tới nơi đâu. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.7. Con muốn cảm thấy và chấp nhận con đang ở đúng chỗ con cần ở vào lúc này. Con muốn cảm thấy hoàn toàn bình an biết rằng con đang ở đúng chỗ con cần ở. Con cũng sẽ tiến lên tầng kế tiếp và con sẽ hài lòng ở nơi đó.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con ân huệ, 
Thấy vai trò mình trong công cuộc lớn,
Và cũng thấy ngọn lửa của cá thể,
Nét độc đáo của con do Thượng đế. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.8. Con buông bỏ ý niệm con có một mục đích và con chưa tới đó, và do đó con cảm thấy trống vắng. Con sẵn sàng và mong muốn đối mặt và vượt qua nó.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, mắt đơn nhất, 
Thấy TA LÀ chính Mặt trời Thượng đế.
Khi thày ban chỉ đạo Thiêng liêng nhất,
Con cũng tỏa ánh sáng thật tràn trề. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.9. Thày Hilarion, con sẵn sàng để thày giúp con nhận ra hình ảnh con đang áp đặt lên mình ngay lúc này, quy định thế nào là một đệ tử tâm linh. Khi con thấy hình ảnh đó, con sẽ buông bỏ nó và là hơn nữa và cho phép con hơn hình ảnh đó.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ôi hân hạnh, 
Được đóng góp cho Tánh linh cất cánh,
Nâng loài người ra khỏi đêm cùng quạnh,
Để tắm nắng trong tình yêu Linh thánh. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

13 | Thỉnh cầu viễn quan thuần khiết

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Purity và Astrea, Cyclopea và Virginia, Đại thiên thần Gabriel và Hope và Raphael và Mẹ Mary, Serapis Bey và Hilarion yêu dấu, hãy giúp con thăng vượt mọi viễn quan đã bị biến dạng. Xin các thày giúp con nhận ra và buông bỏ mọi khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Serapis Bey và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra sa nhân đang hạn chế viễn quan của con như thế nào qua các ảo tưởng tạo thành một phin lọc trong các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con.

Astrea yêu dấu, tim của thày thực chân,
Vòng tròn và Gươm báu của thày xanh và trắng,
Chém phăng dây buộc trói của bi kịch vô minh,
Để hành tinh dâng mãi trên đôi cánh Thanh tịnh.

Astrea yêu dấu, trong Thanh tịnh Thượng đế,
Xin gia tốc năng lượng cho đời con tràn trề,
Nâng cao tâm của con vào hợp nhất chân thực
Với Chân sư yêu dấu của tình thương Vô cực.

1.2. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn thấy bất kỳ ý tưởng nào đã biến viễn quan của con thành một vòng tròn khép kín, một xoắn ốc tự tăng cường, khiến con hạn chế tầm nhìn của con.

Astrea yêu dấu, từ Tia sáng Thuần khiết,
Mọi sự sống hôm nay, thày giải thoát thấu triệt.
Khi thanh tịnh gia tốc thì con là tự do,
Khỏi luyến ái ô trọc, con thăng lên buông bỏ.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Và nâng cao trong con mọi chân lý đẹp thay. 

1.3. Serapis Bey, xin thày giúp con tự trải nghiệm như một sinh thể tâm linh, như sự nhận biết thuần khiết, để con biết mặc dù tầm nhìn của con bị thay đổi bởi ý tưởng trong bốn thể phàm, nhưng chính con thì không thay đổi, và con có thể thanh tẩy viễn quan bất cứ lúc nào.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc chúng con,
Thày ra tay giải cứu, con thành khẩn cầu mong,
Vượt quan điểm ô trọc, tất cả sẽ thênh thang,
Bỏ nghi ngờ sợ hãi, con nhất định vượt thăng.

Astrea yêu dấu, con sẵn sàng nhìn rõ
Vào mọi lời gian dối khiến con mất tự do.
Con đang vượt lên trên từng ô uế bợn nhơ,
Để Ánh sáng Thanh tịnh hoài hoài trong con tỏ.

1.4. Serapis Bey, xin thày giúp con vượt qua khai ngộ được tượng trưng bởi tâm thức nhị nguyên. Con thật biết mình không là một sinh thể tách biệt, và con không thể sáng tạo được gì qua quyền năng riêng của mình.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc sự sống,
Vượt lên trên nhị nguyên, hiềm khích và tấn công,
Xóa hết mọi ranh giới giữa Thượng đế và người,
Ý toàn hảo của Ngài, mau hoàn tất xinh tươi.

Astrea yêu dấu, con trìu mến thỉnh gọi,
Cho cái vách vô hình của ngăn cách đổ rơi,
Nay con đã buông bỏ mọi lọc lừa sa ngã,
Và mãi mãi khẳng định duy nhất của Tất Cả.

1.5. Serapis Bey, xin thày giúp con tái lập sợi dây ý thức với vị thày tâm linh của con. Hãy giúp con lấy lại ý niệm bản ngã như một sinh thể nối kết, một thành phần của cái gì lớn hơn chính con.

Cyclopea yêu dấu, thày phơi ra sự thực, 
Rằng phiền não nhị nguyên rồi sẽ được hàn gắn, 
Ánh sáng màu Lục bảo của thày như thần dược, 
Chữa lành cảm thể con cho bình an mỹ mãn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Viễn kiến sao trong sáng, con nhất mực giữ gìn. 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt
trong tim.

1.6. Serapis Bey, xin thày giúp con nhận ra con đã hạn chế tầm nhìn của mình như thế nào để tạo dựng thực tế mình là tách biệt. Con ý thức buông bỏ mong muốn trải nghiệm, như một con người, trạng thái đi vào bầu cõi chưa thăng thiên và bị lạc lối trong đó. Con muốn hoàn toàn thức tỉnh vào bản sắc thật của con.

Cyclopea yêu dấu, con cùng thày tháo gỡ 
Những vòng xoáy tiêu cực đang phủ tâm mây mờ, 
Con biết mình cốt lõi là cái biết thuần sơ,
Là chìa khóa để thành cánh cửa luôn rộng mở.

Cyclopea yêu dấu, thanh lọc mắt bên trong, 
Uy lực đó giúp con xuyên thủng đêm trong hồn,
Xuyên tấm màn nhị nguyên
, con giương cánh bay cao
Và tắm trong Ánh sáng thâm sâu màu Lục bảo.

1.7. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức lời dối bảo rằng con là sản phẩm của thế giới vật chất, rằng con bất toàn, và trong bản chất con là một sinh thể giới hạn.

Cyclopea yêu dấu, cuộc sống chỉ phản ánh 
Những hình tướng mà tâm cứ phóng ra địa cầu, 
Giữ tâm mình trong sáng là bí quyết chữa lành, 
Không còn một tâm ảnh để ngã trốn đằng sau. 

Cyclopea yêu dấu, chúng con nhắm thật cao, 
Ngày càng xích lại gần với ngọn lửa hàn gắn,
Nay con nhìn cuộc sống với con mắt thuần đơn,
Vượt lên trên bệnh tật
, con sẽ bay cao hơn.

1.8. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức lời dối quy định con người là một sinh thể giới hạn không thể vượt lên trên giới hạn, không thể đi theo con đường nâng cao ý niệm bản ngã và thanh tẩy viễn quan của mình một cách hệ thống.

Cyclopea yêu dấu, Lửa Lục bảo phanh phui 
Từng trò chơi quyền lực tinh vi của nhị đối, 
Kể cả âm mưu cũ là trò chơi gian dối, 
Cứ định nghĩa chân lý theo một cách mà thôi.

Cyclopea yêu dấu, dòng chảy con cảm được, 
Của Chân lý Hằng sống mà thày ban liên tục, 
Con biết chân lý vượt mọi hệ thống dưới này, 
Con bơi trong ánh sáng và tăng trưởng gấp mấy. 

1.9. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức lời dối bảo rằng con không thể làm gì để thay đổi một số điều kiện trên trái đất, rằng tự thân con bị chúng hạn chế.

Gia tốc tới Thanh tịnh, TA LÀ có thật,
Gia tốc tới Thanh tịnh, mọi sự sống chữa lành,
Gia tốc tới Thanh tịnh, TA LÀ hơn nữa,
Gia tốc tới Thanh tịnh, tất cả sẽ vút cao.

Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Elohim Astrea yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Gabriel và Hope yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Serapis Bey yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
TA LÀ yêu dấu.

Phần 2

2.1. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra bất kỳ vòng xoắn ốc nào hạn chế tầm nhìn của con, giữ con trong cái bẫy của Trường đời Cay đắng.

Đại thiên thần Gabriel, ánh sáng con kính mến,
Chẳng còn gì sợ hãi, trầm mình trong Hiện diện,
Làm đệ tử Ki-tô nay con đã thật quên
Tự ngã với tham vọng đáp trả miếng từng miếng.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.2. Serapis Bey, xin thày giúp con khởi sự tra vấn những tin tưởng rất vi tế mà con đã quen chấp nhận do con lớn lên trong điều kiện hạn chế của địa cầu, là những điều kiện mà người đời không nghĩ là có thể đặt lại vấn đề.

Đại thiên thần Gabriel, con không sợ ánh sáng,
Trong lửa trắng thanh tẩy, sao con thấy rộn ràng,
Tay con trong tay thày, mỗi thử thách trực diện
Là ân huệ không ngớt để con cứ theo lên.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.3. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra là con đã khởi sự xây dựng một vòng xoắn ốc hướng thượng rồi. Hãy giúp con vượt qua khúc rẽ khi vòng hướng thượng này trở nên tự lực.

Đại thiên thần Gabriel, lửa trắng thày thiêu cháy,
Bước ra khỏi đêm tối, con thăng lên cùng thày.
Chẳng còn một nơi chỗ cho tự ngã trốn chạy,
Con trụ vững trong thày, thăng thiên theo ốc xoáy.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.4. Serapis Bey, con nhận ra một cách ý thức là con cần mở rộng viễn quan, con muốn mở rộng viễn quan của con. Hãy giúp con tra vấn những thứ mà con xem là bình thường, ngay cả những thứ con không nghĩ tới chuyện tra vấn.

Đại thiên thần Gabriel, con nghe thấy tiếng kèn,
Báo hiệu ngày đản sanh của Ki-tô gần đến.
Trong bản thể nhẹ nhõm con đang được tái sinh,
Cùng Ki-tô con bước vào buổi sáng Phục sinh.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.5. Serapis Bey, con có sức mạnh, động cơ và ý muốn thoát khỏi một viễn kiến hạn chế. Con biết mình chỉ làm được vậy bằng cách ý thức tra vấn những gì hầu hết mọi người không tra vấn.

Đại thiên thần Raphael, thày sáng rỡ làm sao, 
Thày nâng con lên khỏi tuồng sân khấu cuộc đời. 
Mẹ Mary và thày, viễn quan sao táo bạo, 
Muốn con đạt tiềm năng cao nhất có thể với. 

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

2.6. Serapis Bey, xin thày giúp con giải thoát sự chú ý cho không trụ vào cơ thể vật lý, vì từ đó con nhìn thế gian xuyên qua nội dung của ba thể cao, và vì vậy con không thể tra vấn nội dung của ba thể này.

Đại thiên thần Raphael, trong quả cầu lục bảo, 
Niệm tinh khôi con giữ cho mãi mãi thanh cao, 
Mẹ Mary bao bọc, ôm con trong Tim Thánh, 
Không bao giờ xa cách trong tình Mẹ chân thành.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

2.7. Serapis Bey, xin thày giúp con chấp nhận là khi con giải phóng viễn quan của mình, con cũng tự giải phóng khỏi các định luật phụ thuộc của tự nhiên. Tuy vậy, con không thể phủ định quyền tự quyết của người khác, cho nên có những điều kiện con không thể thay đổi.

Đại thiên thần Raphael, mọi đau ốm trị lành, 
Từng tế bào trong thân niêm lại trong ánh sáng, 
Chợt thấy niệm tinh khôi của đức Mẹ Mary, 
Con sống hiện thực mới là sức khỏe thần kỳ.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

2.8. Serapis Bey, xin thày giúp con hoàn toàn chấp nhận là không có điều kiện nào trên địa cầu có thể ngăn con nâng cao tâm thức. Các điều kiện hiện thời không thể ngăn con tăng triển, mà chúng còn có thể hỗ trợ cho con tăng triển.

Đại thiên thần Raphael, ánh sáng vô cùng thực, 
Lộ ra cho con thấy Ki-tô trong thần thức, 
Mẹ Mary đang giúp để con thăng liên tục, 
Cùng thày con thăng lên trong ánh sáng bảo lục.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

2.9. Serapis Bey, xin thày giúp con thoát khỏi tư duy cuồng đại của sa nhân, là tư duy bảo rằng có điều gì thật sai trái trên địa cầu, có điều gì thiếu sót, không lý tưởng và cần phải thay đổi.

Con bay với thiên thần,
Để đạt được nhiều HƠN.
Thiên thần ôi rất thật,
Tình thương sẽ chữa hết.
Với thiên thần bình an,
Muôn ray rứt phải tàn.
Với thiên thần ánh sáng,
Ta bay bổng thênh thang.

Cánh thiên thần xào xạc trong ngọn gió,
Vui vui lắm khi vật chất hát to,
Vui với từng hạt nguyên tử vo vo
Cùng hòa tấu với cánh thiên thần nhỏ.

Phần 3

3.1. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức ý tưởng cho rằng các điều kiện hiện thời là phản tâm linh và chúng có thể ngăn con tăng triển tâm linh. Tự thăng vượt là khi con thăng vượt điều kiện con phải đối mặt ngay lúc này. Cho dù điều kiện có thấp kém biết mấy, con vẫn có thể thăng vượt nó.

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.2. Serapis Bey, xin thày giúp con nhận ra là con đã có một ý định dựa trên tình thương để xoay chuyển như vậy. Con không muốn sống trọn đời mà xem các điều kiện trên địa cầu là kẻ thù cho sự tăng triển tâm linh. Con muốn xoay chuyển để xem chúng là những cơ hội tăng triển.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.3. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức lời dối của sa nhân bảo rằng trong thế gian có những điều kiện tồi tệ đến độ con không thể dùng để tự thăng vượt. Con phải hoặc giao chiến với chúng, hoặc xa lánh chúng.

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao, 
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.4. Serapis Bey, con ý thức rằng tự thăng vượt là nhận ra điều kiện hiện thời của mình kém cỏi và mình có khả năng là nhiều hơn. Xong con chuyển ý niệm bản ngã, rời bỏ cái kém để là cái hơn. Tinh túy của tự thăng vượt là đi từ cái kém sang cái hơn.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.5. Serapis Bey, con ý thức là dù cái kém có thấp kém tới đâu, thật chẳng có gì quan trọng vì con luôn luôn có thể chuyển sang cái hơn. Điều kiện càng kém thì con càng dễ thấy sự tương phản giữa điều kiện và thực tại cao hơn mà con cảm nhận trong tim.

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.6. Serapis Bey, xin thày giúp con thực hiện những xoay chuyển khó khăn nhất trên đường tâm linh, là những xoay chuyển rất vi tế khi con chỉ thấy khác biệt nhỏ nhoi giữa viễn kiến xuyên qua tâm vỏ ngoài và viễn quan nội tâm ở trong con.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất.
Serapis Bey, xin thày phơi ra
Mọi nét trong con chưa đủ hài hòa.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.7. Serapis Bey, con ý thức là con đã có một chút viễn quan nội tâm. Con có một viễn quan trực giác cao hơn, đến từ Hiện diện TA LÀ của con và các chân sư thăng thiên.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.8. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức lời dối bảo rằng những gì con thấy trong viễn quan trực giác là một thực tại cao hơn chỉ hiện hữu nơi một cõi cao hơn. Giờ đây con thấy đó cũng là một thực tại hiện hữu trong thế giới vật chất.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.9. Serapis Bey, con nhận ra một cách ý thức là những gì con thấy qua kính vạn hoa của bốn thể phàm không phải là một thực tại mà là một nhận thức. Con đang thấy một hình ảnh do bốn thể phàm chế tạo.

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Phần 4

4.1. Serapis Bey, con ý thức là để tăng triển trên đường tâm linh, con không phải thay đổi các điều kiện vỏ ngoài. Con chỉ phải thay đổi viễn quan nội tâm. Con không phải thay đổi bất cứ gì bên ngoài chính mình; con chỉ phải thanh tẩy viễn quan của con.

Hilarion, trên bờ lục bảo, 
Con đã bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả 
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Serapis Bey, xin thày giúp con xoay chuyển tâm con, là con nhận ra không một điều kiện nào con phải đối mặt là một trở ngại cho tự thăng vượt. Đó chính là sự hỗ trợ cho con tự thăng vượt. Một điều kiện chỉ có vẻ là một trở ngại nếu con nhìn nó xuyên qua một ý niệm bản ngã nhất định.

Hilarion, chìa khóa bí mật, 
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Serapis Bey, con ý thức thấy được chính cái con tưởng là một trở ngại cho sự tăng triển tâm linh, thật ra là cơ hội lớn nhất để nhìn ra viễn kiến giới hạn của mình và thăng vượt nó.

Hilarion, tình yêu sự sống, 
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Serapis Bey, con ý thức nhìn ra Định luật Tự thăng vượt, qua đó con sẽ không thoát ra khỏi bất kỳ điều kiện nào trên địa cầu cho tới khi con hoàn toàn chấp nhận nó như nó hiện là. Con chấp nhận là nó không hạn chế được con như một sinh thể tâm linh.

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng, 
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền, 
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Serapis Bey, con thấy người khác đã tạo ra một số điều kiện ảnh hưởng đến con, nhưng họ làm vậy qua một ý niệm bản ngã giới hạn. Con chỉ bị ảnh hưởng vì trong bốn thể phàm của con có mang một yếu tố của ý niệm bản ngã giới hạn đó.

Hilarion, thương yêu đón chào, 
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Serapis Bey, xin thày giúp con xoay chuyển để con nhận ra là nếu con thăng vượt ý niệm bản ngã mà cho tới giờ con đã nhìn điều kiện, thì điều kiện này sẽ không còn xáo trộn con nữa.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Serapis Bey, con chấp nhận là con có khả năng là người tâm linh bất kể hoàn cảnh con phải đối mặt. Nhiều người đã chứng tỏ điều này suốt các thế kỷ, và con đang ở đây để chứng tỏ điều này trong thời đại hôm nay. Đây là lý do con đã tình nguyện đi vào hiện thân vào thời buổi này.

Hilarion, thông sạch luân xa, 
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà, 
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Serapis Bey, con đang xoay chuyển trong nhận biết ý thức của con. Con nhìn đời mình và hoàn cảnh vỏ ngoài của mình với tinh thần chấp nhận mới mẻ rằng đây là một cơ hội vĩ đại để con tự thăng vượt.

Hilarion, thày sẽ quân bình 
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Serapis Bey, con nắm lấy bàn tay của thày dang ra cho con, và chúng ta sẽ cùng nhau bước lên cao hơn trên con đường tự thăng vượt huy hoàng mà Đấng Sáng tạo của chúng ta đã cống hiến cho chúng ta.

Hilarion, thày đang Hiện diện, 
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế con xin rải truyền. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Con thỉnh cầu tự do khỏi phóng chiếu ra ngoài (7 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Cyclopea và Virginia và Purity và Astrea, Đại thiên thần Raphael và Mẹ Mary và Gabriel và Hope, Chân sư Hilarion và Serapis Bey yêu dấu, hãy giúp con thấy là con đã tìm cách ép người khác phải theo ý tưởng của con về con đường tâm linh. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với thày Hilarion và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Việc con thấy được là từ trước tới nay con đã nắm chặt một ảo tưởng là một điều tốt. Vì con được giải thoát để lên tầng cao hơn của đường tu.

Cyclopea yêu dấu, thày phơi ra sự thực, 
Rằng phiền não nhị nguyên rồi sẽ được hàn gắn, 
Ánh sáng màu Lục bảo của thày như thần dược, 
Chữa lành cảm thể con cho bình an mỹ mãn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.2. Con cần vươn lên tới tầng 144 trước khi con sẵn sàng thăng thiên. Ở mỗi tầng có một trạng thái tâm thức tương ứng với tầng đó. Gắn liền với trạng thái tâm thức đó là một ảo tưởng nào đó.

Cyclopea yêu dấu, con cùng thày tháo gỡ 
Những vòng xoáy tiêu cực đang phủ tâm mây mờ, 
Con biết mình cốt lõi là cái biết thuần sơ,
Là chìa khóa để thành cánh cửa luôn rộng mở.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.3. Ở trên tầng 48, các ảo tưởng không hung hãn mà cũng chẳng phá hoại, do đó không có lý do cảm thấy tiêu cực vì có chúng.

Cyclopea yêu dấu, thanh lọc mắt bên trong, 
Uy lực đó giúp con xuyên thủng đêm trong hồn,
Nay con nhìn cuộc sống với con mắt thuần đơn,
Vượt lên trên bệnh tật con sẽ bay cao hơn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.4. Ở tầng tâm thức hiện nay của con, việc con không nhìn ra ảo tưởng tương ứng với tầng tâm thức đó là điều không thể tránh được. Nếu con đã nhìn ra ảo tưởng đó, con đã thăng lên tầng kế tiếp rồi.

Cyclopea yêu dấu, cuộc sống chỉ phản ánh 
Những hình tướng mà tâm cứ phóng ra địa cầu, 
Giữ tâm mình trong sáng là bí quyết chữa lành, 
Không còn một tâm ảnh để ngã trốn đằng sau.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.5. Con đường tâm linh là một tiến trình qua đó, từng bước một, con nhận ra một số ảo tưởng, và do đó con buông bỏ và vượt qua chúng. Đây chính là cốt yếu của con đường tu.

Cyclopea yêu dấu, chúng con nhắm thật cao, 
Ngày càng xích lại gần với ngọn lửa hàn gắn,
Xuyên tấm màn nhị nguyên bây giờ con cất cánh, 
Và tắm trong Ánh sáng thâm sâu màu Lục bảo. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.6. Con không xem việc có ảo tưởng là tiêu cực. Con không ngần ngại nhận ra ảo tưởng. Con cởi mở; con sẵn sàng nhận ra ảo tưởng. Con tìm xem ảo tưởng kế tiếp là gì: “Ở bước này, ảo tưởng mà con cần vượt qua là gì?”

Cyclopea yêu dấu, Lửa Lục bảo phanh phui 
Từng trò chơi quyền lực tinh vi của nhị đối, 
Kể cả âm mưu cũ là trò chơi gian dối, 
Cứ định nghĩa chân lý theo một cách mà thôi. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.7. Con thấy rằng con có thể quan niệm đường tu như một trò chơi. Con không còn xem các bước sáng ngộ hệ trọng đến độ mỗi bước trở thành một gánh nặng lớn và một bi kịch vĩ đại đối với con.

Cyclopea yêu dấu, dòng chảy con cảm được,
Của Chân lý Hằng sống mà thày ban liên tục, 
Con nay đã giải thoát khỏi cái nhìn đối cực, 
Và khuôn đúc hành tinh lại trinh nguyên như trước. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.8. Có cái gì thật sự là chân lý chăng? Với hầu hết mọi người, trong khái niệm chân lý có khái niệm phản chân lý, khái niệm dối trá. Chân lý tương phản với dối trá, hai đối cực dính liền với nhau. Đây là nhị nguyên.

Cyclopea yêu dấu, sự thật con đã thấy, 
Rõ mục đích cao hơn tại sao con ở đây, 
Con biết chân lý vượt mọi hệ thống dưới này, 
Con bơi trong ánh sáng và tăng trưởng gấp mấy. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.9. Trên cõi tâm linh, có một chân lý không nhị nguyên. Chân lý này phải được trải nghiệm như một thực tại hằng sống, một ngọn lửa tâm linh. Chân lý này không có cái đối nghịch. Nó không tương phản với một cái đối nghịch. Nó không tương phản với phản chân lý hay dối trá.

Cyclopea yêu dấu, con thấy thày hân hoan, 
Khi viễn kiến sáng tạo con đem ra thực hành, 
Để nhấc địa cầu lên khỏi lồng giam của rắn, 
Và thị hiện Hoàng kim của thày Saint Germain. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

Phần 2

2.1. Có sự khác biệt giữa chân lý không nhị nguyên và chân lý nhị nguyên. Chân lý nhị nguyên có cái đối nghịch. Cái mà hầu hết mọi người xem là chân lý là một khái niệm nhị nguyên vì nó có cái đối nghịch.

Astrea yêu dấu, tim của thày thực chân,
Vòng tròn và Gươm báu của thày xanh và trắng,
Chém phăng dây buộc trói của bi kịch vô minh,
Để hành tinh dâng mãi trên đôi cánh Thanh tịnh.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.2. Con buông bỏ niềm tin cho rằng một tổ chức nào đó có được chân lý, giáo lý tâm linh cao nhất, và tất cả những giáo lý khác thấp hơn hay thậm chí còn là phản chân lý.

Astrea yêu dấu, trong Thanh tịnh Thượng đế,
Xin gia tốc năng lượng cho đời con tràn trề,
Chúng con vượt lên trên từng ô uế bợn nhơ,
Để Ánh sáng Thanh tịnh hoài hoài trong con tỏ.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.3. Ngay cả một giáo lý hoàn toàn do sa nhân tạo ra cũng có một số khái niệm mà đa số người tâm linh xem là thật. Nếu không như thế thì con người đã không bị giáo lý đó lừa gạt.

Astrea yêu dấu, từ Tia sáng Thuần khiết,
Mọi sự sống hôm nay, thày giải thoát thấu triệt.
Khi thanh tịnh gia tốc thì con là tự do,
Khỏi luyến ái ô trọc, con thăng lên buông bỏ.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.4. Sa nhân không tạo ra một giáo lý trong đó mọi thứ đều sai hay đều là dối trá. Họ tạo ra một giáo lý trong đó có nhiều điều mà chúng ta có thể gọi là thật, nhưng có một số khái niệm sai lầm trộn vào.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc chúng con,
Thày ra tay giải cứu, con thành khẩn cầu mong,
Vượt quan điểm ô trọc, tất cả sẽ thênh thang,
Bỏ nghi ngờ sợ hãi, con nhất định vượt thăng.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.5. Tuy các chân sư thăng thiên cho chúng ta một giáo lý thật, các thày không cho chúng ta “Chân lý”. Có sự khác biệt giữa chân lý và “Chân Lý” viết chữ hoa.

Astrea yêu dấu, con sẵn sàng nhìn rõ
Vào mọi lời gian dối khiến con mất tự do.
Nay con đã buông bỏ mọi lọc lừa sa ngã,
Và mãi mãi khẳng định duy nhất của Tất Cả.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.6. Con từ bỏ mọi khuynh hướng xem giáo lý của các chân sư thăng thiên giống như những người Cơ đốc cực chính thống xem Thánh kinh. Các chân sư không tìm cách cho chúng con “Chân lý” viết chữ hoa, nghĩa là một giáo lý tuyệt đối cao nhất không bao giờ khai triển thêm.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc sự sống,
Vượt lên trên nhị nguyên, hiềm khích và tấn công,
Xóa hết mọi ranh giới giữa Thượng đế và người,
Ý toàn hảo của Ngài, mau hoàn tất xinh tươi.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.7. Mục đích của các chân sư là gặp gỡ chúng con ở tầng tâm thức hiện nay của chúng con và trao cho chúng con điều giúp chúng con bước lên cao hơn.

Astrea yêu dấu, con trìu mến thỉnh gọi,
Cho cái vách vô hình của ngăn cách đổ rơi,
Nâng cao tâm chúng con vào hợp nhất chân thực
Với Chân sư yêu dấu của tình thương Vô cực.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.8. Với tầng tâm thức đại chúng hiện nay, những gì các chân sư thăng thiên có thể trao truyền bị hạn chế dù là các thày truyền qua một người sứ giả được các thày đỡ đầu.

Astrea yêu dấu, thày giúp con khám phá
Bí ẩn rằng chúng con vốn sáng tạo bằng tâm,
Nếu trong tâm ngu dốt đã sai lầm tạo ra,
Thì trong tâm minh triết con tạo lại dễ quá.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

2.9. Tất cả những gì các chân sư làm đều có một mục tiêu là giúp những người đang ở một tầng tâm thức nào đó thăng vượt tầng này và tiến lên cao hơn. Con sẵn sàng xem xét điều này với tâm ý thức của con.

Astrea yêu dấu, con vô cùng khao khát,
Học hỏi cách sử dụng ngọn lửa của thanh tịnh,
Để nâng từng hình tướng lỡ gieo trong lầm lạc,
Khác gì Saint Germain tạo lại cả hành tinh.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Rồi nâng cao địa cầu vào chân lý đẹp thay. 

Phần 3

3.1. Con sẵn sàng dùng lý trí phê bình xem xét thái độ của con đối với các giáo lý tâm linh cho tới thời điểm này. Con sẵn sàng điều chỉnh thái độ khi cần và con cảm thấy được giải thoát khỏi gánh nặng đã đè lên con từ ngày con bước chân trên con đường tu.

Đại thiên thần Raphael, thày sáng rỡ làm sao, 
Thày nâng con lên khỏi tuồng sân khấu cuộc đời. 
Mẹ Mary và thày, viễn quan sao táo bạo, 
Muốn con đạt tiềm năng cao nhất có thể với. 

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.2. Không thể nào đem một giáo lý tuyệt đối xuống cho một bầu cõi chưa thăng thiên. Không có một chân lý tuyệt đối không bao giờ thay đổi vì trên cõi thăng thiên cũng có sự thăng vượt liên tục.

Đại thiên thần Raphael, trong quả cầu lục bảo, 
Niệm tinh khôi con giữ cho mãi mãi thanh cao, 
Mẹ Mary bao bọc chúng con trong Tim Thánh, 
Không bao giờ xa cách trong tình Mẹ chân thành.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.3. Chân lý có tính thăng vượt và nó chuyển hóa khi tâm thức được nâng cao. Chuyện này cứ tiếp tục như thế cho tới khi con đạt Tâm thức đấng Sáng tạo.

Đại thiên thần Raphael, mọi đau ốm trị lành, 
Từng tế bào trong thân niêm lại trong ánh sáng, 
Chợt thấy niệm tinh khôi của đức Mẹ Mary, 
Con sống hiện thực mới là sức khỏe thần kỳ.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.4. Con từ bỏ mọi khuynh hướng muốn đi vào con đường tâm linh với ham muốn tìm thấy chân lý tuyệt đối hay nghĩ rằng một lúc nào đó các đám mây sẽ tẽ ra và con sẽ khải ngộ chân lý tuyệt đối.

Đại thiên thần Raphael, ánh sáng vô cùng thực, 
Lộ ra cho con thấy Ki-tô trong thần thức, 
Mẹ Mary đang giúp để con thăng liên tục, 
Cùng thày con thăng lên trong ánh sáng bảo lục.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.5. Một kinh nghiệm thần bí vượt lên trên ngôn từ. Nếu con cố gắng mô tả nó bằng ngôn từ, con giảm thiểu kinh nghiệm. Không thể nào truyền đạt chân lý tuyệt đối qua ngôn từ.

Đại thiên thần Raphael, tiêu tan hết bệnh tật, 
Khi thày giúp con ngộ sự sống là Duy nhất, 
Con không còn chối bỏ tình yêu thày chân chất, 
Và niệm tinh khôi ấy, con phóng ra mọi vật.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.6. Con mở tâm để tiếp nhận một kinh nghiệm thần bí, và con nhận ra là có một trải nghiệm cao hơn những gì được diễn tả bằng ngôn từ. Ngôn từ chỉ là phương tiện để đạt một cứu cánh, phương tiện để đưa tới kinh nghiệm.

Đại thiên thần Raphael, con hàn gắn địa cầu,
Cho trái đất hồi sinh khi con tỏa tinh khôi, 
Một ngày mới đã đến, một kỷ nguyên bắt đầu, 
Và ánh sắc lục bảo sáng như thể mặt trời.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.7. Ở mỗi tầng trong 144 tầng tâm thức, có một ảo tưởng liên quan tới tầng đó. Con có thể bước ra ngoài ảo tưởng đó để thấy cái gì cao hơn. Khi con làm thế, con cảm thấy điều con thấy rất thật.

Đại thiên thần Raphael, sa ngã là quá khứ,
Khi mọi người tìm thấy đường Ki-tô thoát tử, 
Nay ta giục ai nấy mau chữa lành đi chứ, 
Khi cả bốn thể phàm được niêm trong tình tự.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.8. Con cảm thấy kinh nghiệm thần bí rất thật vì con vươn lên trên tầng tâm thức hiện nay của con. Nó không chỉ cho con thấy thực tại tuyệt đối, cao nhất có thể đạt được. Con buông bỏ ảo tưởng là phải có một chân lý cao nhất nào đó. Con sẵn sàng nhìn quá ảo tưởng này.

Đại thiên thần Raphael, thày đem ánh bình minh,
Khiến thế lực bóng tối phải vội vàng lẩn tránh, 
Chúng kết liễu cuộc đời, ta đòi lại hành tinh, 
Và trên môi ai nấy nở nụ hoa thanh bình.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.9. Con buông bỏ những hạt giống cuối cùng của tâm thức cuồng tín. Trong tâm ý thức, con nhận ra và nhìn nhận rằng tuyệt đối không có đại nghĩa nào trên trái đất biện minh cho việc giết người khác.

Đại thiên thần Raphael, ta giải phóng viễn kiến,
Khi ta thấy thực tại của Thượng đế thiêng liêng, 
Viễn tượng Saint Germain giờ đây đã thị hiện, 
Và trái đất niêm lại trong quả cầu trinh nguyên.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

Phần 4

4.1. Chân lý không đáng để chúng ta bỏ mạng và giết người.

Đại thiên thần Gabriel, ánh sáng con kính mến,
Chẳng còn gì sợ hãi, trầm mình trong Hiện diện,
Làm đệ tử Ki-tô nay con đã thật quên
Tự ngã với tham vọng đáp trả miếng từng miếng.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.2. Chân lý là một khái niệm tùy thuộc vào trạng thái tâm thức hiện thời của con. Lúc nào con cũng có thể nâng tâm thức mình lên và thấu hiểu một biểu hiện chân lý cao hơn điều mà con có thể hiểu hiện nay.

Đại thiên thần Gabriel, con không sợ ánh sáng,
Trong lửa trắng thanh tẩy, sao con thấy rộn ràng,
Tay con trong tay thày, mỗi thử thách trực diện
Là ân huệ không ngớt để con cứ theo lên.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.3. Giết một mạng người là một hành động tuyệt đối vì nó vĩnh viễn chấm dứt cơ hội đặc trưng của kiếp sống đó.

Đại thiên thần Gabriel, lửa trắng thày thiêu cháy,
Bước ra khỏi đêm tối, con thăng lên cùng thày.
Chẳng còn một nơi chỗ cho tự ngã trốn chạy,
Con trụ vững trong thày, thăng thiên theo ốc xoáy.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.4. Chân lý không tuyệt đối, không vĩnh viễn. Bảo vệ một chân lý không vĩnh viễn không thể biện minh cho một hành động vĩnh viễn, tuyệt đối là việc giết người.

Đại thiên thần Gabriel, con nghe thấy tiếng kèn,
Báo hiệu ngày đản sanh của Ki-tô gần đến.
Trong bản thể nhẹ nhõm con đang được tái sinh,
Cùng Ki-tô con bước vào buổi sáng Phục sinh.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.5. Con buông bỏ niềm tin cho rằng có một đại nghĩa quan trọng đến độ việc giết người có thể chính đáng. Con buông bỏ ảo tưởng này một cách ý thức vì nó là cái gông trên cổ con, một lỗ hổng cho sa nhân xâm nhập và khuynh loát con.

Đại thiên thần Gabriel, địa cầu nay giải thoát,
Ôm chầm lấy thực tại của bất nhị quang minh.
Đây phán xử Ki-tô đập xuống lực tà ác,
Luôn phủ nhận mỗi người có đốm lửa tâm linh.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.6. Có một cơ chế tâm lý đằng sau tư duy cuồng tín. Đó là nghĩ rằng các biểu lộ hiển nhiên của cuồng tín định nghĩa cuồng tín. Những hình thức cư xử và những hệ thống tư tưởng khác không cực đoan bằng thì không coi là cuồng tín.

Đại thiên thần Gabriel, bao thiên sứ trắng ngần
Đang nâng cao địa cầu khỏi vùng đêm u ẩn,
Khi Lời của Thượng đế được ai nấy cùng ngân,
Thì những kẻ sa ngã bị trói bởi kiếm thần.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.7. Cuồng tín thật ra vi tế và bao quát hơn con nghĩ. Trong tự duy cuồng tín, con nhấn mạnh những điều chứng thực cái nhìn cơ bản của con về một hoàn cảnh và con phớt lờ hay bác bỏ những điều không chứng thực cái nhìn của con về hoàn cảnh.

Đại thiên thần Gabriel, nay chúng con gọi thày
Đem ánh sáng hỏa thiêu, khắp trung giới thanh tẩy.
Những tà thể, hồn bóng với ma quỷ trói lại,
Khi thày cùng chúng con ngân Lời Thánh quyền oai.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.8. Con người có khuynh hướng say mê ý tưởng. Con sẵn sàng nhìn ra con đang say mê ý tưởng nào và nó ảnh hưởng con đường tâm linh của con ra sao.

Đại thiên thần Gabriel, một ngày mới huy hoàng
Khi thiên thần rạng rỡ ở lại với nhân gian,
Ngọn lửa thày thanh tẩy bừng lên ánh lửa trắng,
Ý muốn con tinh sạch, tim con bay ngút ngàn.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

4.9. Sa nhân đã tạo ra ảo tưởng rằng vũ trụ vận hành theo những ý tưởng mà tâm nhị nguyên có thể hiểu được.

Đại thiên thần Gabriel, hành tinh quá trong lành,
Ai ai cũng yên ổn nhìn tương lai sáng lạng,
Bao bọc quanh địa cầu là một dải ánh sáng,
Khai mở thời hoàng kim của thày Saint Germain.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

Phần 5

5.1. Tìm cách áp lực người khác thấy điều con thấy quả thực vô ích. Con không bao giờ có thể ép người khác thấy điều con thấy vì người đó không bao giờ có thể nhìn một hoàn cảnh từ bên trong tâm của con. Người đó sẽ nhìn hoàn cảnh từ bên trong tâm của y.

Hilarion, trên bờ lục bảo,
Chúng con bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả 
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.2. Con sẵn sàng nhìn vào cuộc đời mình và xét xem con đã áp đặt ý tưởng của con lên người khác như thế nào.

Hilarion, chìa khóa bí mật,
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.3. Con sẵn sàng nhìn một cách trung thực vào cuộc đời mình và xét xem liệu con đã từng phóng chiếu năng lực tâm hồn vào người khác để họ chứng thực viễn kiến của con.

Hilarion, tình yêu sự sống,
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.4. Con sẵn sàng nhìn nhận là con đã làm như thế và không chê trách mình. Con chỉ giản dị ngưng không làm nữa từ nay trở đi.

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng, 
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền,
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.5. Cơ chế vận hành đằng sau việc phóng chiếu một viễn quan lên người khác là tâm thức say mê các ý tưởng và bắt đầu nghĩ rằng vũ trụ vận hành hay phải vận hành theo các ý tưởng của con.

Hilarion, thương yêu đón chào,
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.6. Con buông bỏ mọi khía cạnh của tư duy cuồng tín, nghĩ rằng nếu vũ trụ vận hành theo một ý tưởng nào đó, mọi chuyện sẽ là thiên đàng trên trái đất.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.7. Nếu con quan sát thấy thế giới không vận hành theo ý tưởng của con, thì con cần xét lại các ý tưởng của mình để chúng giải thích được cách thế giới thật sự vận hành thay vì cứ nắm chặt một lý tưởng cho rằng thế giới phải vận hành sao đó.

Hilarion, thông sạch luân xa, 
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà,
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.8. Tư duy cuồng tín khiến con người nói: “Lý do tại sao thế giới không vận hành đúng theo ý tưởng của tôi là vì con người không hành xử đúng theo ý tưởng của tôi. Do đó, công việc của tôi là làm cho họ hành xử đúng theo ý tưởng của tôi và sau đó chúng ta sẽ có thiên đàng trên trái đất.”

Hilarion, thày sẽ quân bình 
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.9. Con sẵn sàng nhận ra là con đã có khuynh hướng quan niệm đường tâm linh dựa trên khuôn nếp đó. Con từ bỏ ý tưởng cho rằng con đường tâm linh phải vận hành như thế nào rồi con tìm cách áp lực chính con và người khác tuân theo ý tưởng đó.

Hilarion, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế chúng con rải truyền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

Phần 6

6.1. Con sẵn sàng nhìn vào cuộc đời mình và nói: “Tôi đã tìm cách áp đặt ý tưởng của tôi về con đường tâm linh lên người khác như thế nào?”

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.2. Khi con thấy được, con nói: “Nó ngừng ở đây. Nó ngừng ở đây. Nó ngừng ngay bây giờ. Tôi thấy những gì tôi đang làm và tôi sẽ không làm nữa.”

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.3. Con chọn lựa một cách ý thức ngưng phóng chiếu viễn kiến về chân lý của con lên người khác và thế giới bên ngoài con.

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao, 
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.4. Để hiện thân trên trái đất, con phải tạo ra một cỗ xe tâm hồn. Khi làm vậy, con bắt đầu ở tầng 144 và con nhận lãnh từng ảo tưởng một cho tới khi con xuống tới tầng 48.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.5. Các ảo tưởng mà con nhận lãnh khiến con tin con thật sự là một con người trong một thân thể vật lý trên trái đất. Các ảo tưởng này cần thiết để cho con cảm nhận là con thật sự là một con người chìm đắm trong một vũ trụ bên ngoài.

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.6. Đi xuống hiện thân là một trải nghiệm không-thần bí khiến cho con cảm thấy rất thực con là một con người đang hiện thân trên trái đất. Đây là kinh nghiệm trầm mình.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất,
Serapis Bey, vạch trần cái ngã
Cứ muốn cướp đi đời sống hài hòa.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.7. Để tỉnh giác, con phải đảo ngược tiến trình và đi lên trở lại. Con buông bỏ một ảo tưởng, con đạt tầng tâm thức cao hơn, rồi con buông bỏ ảo tưởng kế tiếp, và tiếp tục như thế.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.8. Con còn nhiều ảo tưởng con cần buông bỏ trước khi con thăng thiên. Không có gì bất tự nhiên về chuyện này. Đây giản dị là cách cuộc sống vận hành trong một bầu cõi chưa thăng thiên.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

6.9. Đã tới lúc con ngừng phóng chiếu ra ngoài viễn kiến của con về chân lý; ngừng phóng chiếu nó lên người khác và ngừng phóng chiếu nó lên chính vật chất. Con có thái độ ý thức là con sẵn sàng nhìn vượt quá viễn kiến hiện nay của con về chân lý. Con sẵn sàng nhìn quá ý tưởng của con là thế giới phải vận hành ra sao.

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế chúng con rải truyền.

Serapis Bey, chúng con xin thày
Chỉ giúp cách nào nhìn thấu nhị nguyên,
Cái nhìn bên trong, thày đến thanh tẩy,
Con ngộ thế giới trong mắt diệu huyền.

Phần 7

7.1. Con sẵn sàng xem xét thế giới thực sự vận hành ra sao. Khi con thấy thế giới thực sự vận hành khác với ý tưởng của con về thế giới, con sẵn sàng nói: “Vậy thì tôi phải điều chỉnh ý tưởng của tôi. Chính ý tưởng của tôi bị thiếu sót.”

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nay con biết,
Cả thế gian chỉ là cõi huyễn ảo,
Trong tim con cảm nhận rõ làm sao,
Không có gì ngoài Tánh linh là thật. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.2. Con buông bỏ khuynh hướng nghĩ rằng vì con đã đi trên con đường tâm linh, vì con đã thực tập nhiều pháp tu, vì con đã nghiên cứu giáo lý tâm linh, nên con đã dần dần nâng cao viễn kiến của mình và bây giờ con có thể thấy chân lý tuyệt đối.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, giúp con nhìn, 
Con muốn sống trong viễn kiến quang minh,
Con đã thấy được Sứ vụ Thiêng liêng,
Hiểu kế sách độc đáo của chính mình. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.3. Vẫn có một chân lý cao hơn điều con đang thấy ngay bây giờ. Con chấp nhận một cách ý thức là con sẵn sàng thấy chân lý cao hơn đó. Con sẽ không bám víu vào chân lý hiện nay của con. Con sẽ không tìm cách chứng thực nó, con sẽ không tìm cách khiến nó được công nhận.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, cho con thấy, 
Những trò chơi uẩn khúc của ngã này,
Giúp con thoát lồng giam của tự ngã,
Để đem lại một thời mới thăng hoa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.4. Con quyết định một cách ý thức là con sẽ ngừng dùng các giáo lý tâm linh để biện minh cho viễn kiến hiện nay của con về chân lý. Con sẵn sàng nhìn chân lý cao hơn, và để thấy nó, con sẵn sàng nhìn xem thế giới không chứng thực viễn kiến hiện nay của con ở điểm nào. Chính viễn kiến của con cần thay đổi, chứ không phải thế giới và người khác cần thay đổi.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nhập với thày, 
Viễn quan con là một, chẳng còn hai,
Thày xua tan tấm màn của nghiệp quả,
Nguyên vũ trụ hiện ra sao mới quá. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.5. Tìm cách thay đổi thế giới và người khác chỉ là cái cớ để không thay đổi mình, không thay đổi viễn kiến của mình.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con không quản,   
Chén con ngập điện từ với ánh sáng,
Thày tiêu hủy hồn bóng của dĩ vãng,
Và cho con tầm nhìn rất bạo dạn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.6. Con sẵn sàng chạm trán thực tại này một cách ý thức. Con sẵn sàng nhận ra nó. Con sẵn sàng nhận ra có một khía cạnh trong tâm lý của con không cho phép con thăng vượt lòng khao khát thế giới chứng thực chân lý của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, tim chân thành, 
Con bắt tay làm phần vụ thần thánh.
Con thấy rồi, thày ơi, trong phút ngẫu,
Sứ vụ con sẽ dẫn tới nơi đâu. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.7. Sa nhân muốn con tin rằng có một viễn kiến cao nhất là thế giới phải như thế nào vì thế giới ngay lúc này đang không là như nó phải là. Nhưng thế giới ngay lúc này đang đúng y như điều nó phải là.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con ân huệ, 
Thấy vai trò mình trong công cuộc lớn,
Và cũng thấy ngọn lửa của cá thể,
Nét độc đáo của con do Thượng đế. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.8. Trái đất là một trường học. Một số người học bằng cách thấy điều kiện vật lý thể hiện trạng thái tâm thức của họ. Thế giới thể hiện tâm thức đại chúng. Trái đất đúng y như nó phải là. Con nhìn nhận là thế giới đúng y như nó phải là vì nó chỉ thể hiện tâm thức của con người.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, mắt đơn nhất, 
Thấy TA LÀ chính Mặt trời Thượng đế.
Khi thày ban chỉ đạo Thiêng liêng nhất,
Con cũng tỏa ánh sáng thật tràn trề. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

7.9. Con nói: “Công việc của con không phải là dùng áp lực để khiến thế giới và người khác tuân theo viễn kiến của con. Công việc của con là nâng cao tâm thức mình và đạt được tự điều ngự. Con không đạt được tự điều ngự bằng cách áp lực người khác hay thế giới. Con cũng không đạt được tự điều ngự bằng cách áp lực chính mình. Con đạt được tự điều ngự bằng cách buông bỏ ảo tưởng kế tiếp của con. Khi con liên tục buông bỏ ảo tưởng này tới ảo tưởng kia, con sẽ đạt được trạng thái tâm thức tự điều ngự. Trên thực tế, mỗi lần con tiến lên một bước, mỗi lần con vượt qua một ảo tưởng, con đạt được một mức tự điều ngự cao hơn vì ảo tưởng lấy đi sự tự điều ngự của con, chớ không phải con thiếu tự điều ngự.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ôi hân hạnh, 
Được đóng góp cho Tánh linh cất cánh,
Nâng loài người ra khỏi đêm cùng quạnh,
Để tắm nắng trong tình yêu Linh thánh. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu một viễn kiến cao hơn cho động lực của con (6 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Cyclopea và Virginia và Heros và Amora, Đại thiên thần Raphael và Mẹ Mary và Chamuel và Charity, Chân sư Hilarion và Paul người Venice yêu dấu, hãy giúp con nối kết lại với động lực dựa trên tình thương trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với thày Hilarion và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Có hai cách để buông bỏ điều gì đó trên trái đất: cách gian nan và cách dùng tình thương.

Cyclopea yêu dấu, thày phơi ra sự thực, 
Rằng phiền não nhị nguyên rồi sẽ được hàn gắn, 
Ánh sáng màu Lục bảo của thày như thần dược, 
Chữa lành cảm thể con cho bình an mỹ mãn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.2. Con kết nối lại với lòng yêu thương viễn kiến cao hơn và con thấy rằng viễn kiến cao hơn này hơn rất nhiều những gì con đã thấy cho tới nay.

Cyclopea yêu dấu, con cùng thày tháo gỡ 
Những vòng xoáy tiêu cực đang phủ tâm mây mờ, 
Con biết mình cốt lõi là cái biết thuần sơ,
Là chìa khóa để thành cánh cửa luôn rộng mở.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.3. Con muốn thấy viễn kiến này và buông bỏ viễn kiến cũ không khó khăn vì con biết con sẽ được nhiều hơn rất nhiều thay vào đó.

Cyclopea yêu dấu, thanh lọc mắt bên trong, 
Uy lực đó giúp con xuyên thủng đêm trong hồn,
Nay con nhìn cuộc sống với con mắt thuần đơn,
Vượt lên trên bệnh tật con sẽ bay cao hơn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.4. Con buông bỏ ham muốn là một người quan trọng đang làm điều gì đó để giải cứu trái đất hay nâng cao tâm thức nhân loại hay đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain.

Cyclopea yêu dấu, cuộc sống chỉ phản ánh 
Những hình tướng mà tâm cứ phóng ra địa cầu, 
Giữ tâm mình trong sáng là bí quyết chữa lành, 
Không còn một tâm ảnh để ngã trốn đằng sau.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.5. Con buông bỏ tất cả ham muốn của tự ngã muốn cảm thấy mình đặc biệt hơn so với người khác vì mình đang học giáo lý của các chân sư thăng thiên, hay học với một vị đạo sư nào đó hay học một giáo lý vỏ ngoài nào đó.

Cyclopea yêu dấu, chúng con nhắm thật cao, 
Ngày càng xích lại gần với ngọn lửa hàn gắn,
Xuyên tấm màn nhị nguyên bây giờ con cất cánh, 
Và tắm trong Ánh sáng thâm sâu màu Lục bảo. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.6. Con buông bỏ ham muốn của tự ngã muốn cảm thấy mình đã làm điều gì đặc biệt, làm điều gì có kết quả quyết định. Vì vậy con tâm linh hơn, con thuộc một hạng người đặc biệt và Thượng đế hay các chân sư thăng thiên phải đặc biệt chú ý tới con hay phải thưởng con một cách nào đó.

Cyclopea yêu dấu, Lửa Lục bảo phanh phui 
Từng trò chơi quyền lực tinh vi của nhị đối, 
Kể cả âm mưu cũ là trò chơi gian dối, 
Cứ định nghĩa chân lý theo một cách mà thôi. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.7. Con buông bỏ ham muốn là con đường tâm linh sẽ đưa con tới một mục tiêu khiến con có thể biểu hiện một hoàn cảnh bên ngoài nào đó, chẳng hạn như được thế giới công nhận, được các chân sư thăng thiên công nhận, hoặc cảm giác là con đã làm điều gì quyết định để đem lại một thời đại mới trên trái đất.

Cyclopea yêu dấu, dòng chảy con cảm được,
Của Chân lý Hằng sống mà thày ban liên tục, 
Con nay đã giải thoát khỏi cái nhìn đối cực, 
Và khuôn đúc hành tinh lại trinh nguyên như trước. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.8. Động cơ thúc đẩy con bắt đầu khóa học này dựa trên các ước muốn của con, dựa trên viễn kiến mà con có ở mức tâm thức của con. Con cần liên tục bước lên cao hơn. Con buông bỏ ham muốn mà con có khi con bắt đầu.

Cyclopea yêu dấu, sự thật con đã thấy, 
Rõ mục đích cao hơn tại sao con ở đây, 
Con biết chân lý vượt mọi hệ thống dưới này, 
Con bơi trong ánh sáng và tăng trưởng gấp mấy. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.9. Con buông bỏ ý tưởng là khi con tiến bước trong khóa học này, con phải xây dựng được khả năng tự điều ngự khiến tâm con làm chủ được vật chất và giúp con biểu hiện hoàn cảnh bên ngoài mà con mong muốn khi con bắt đầu học khóa này.

Cyclopea yêu dấu, con thấy thày hân hoan, 
Khi viễn kiến sáng tạo con đem ra thực hành, 
Để nhấc địa cầu lên khỏi lồng giam của rắn, 
Và thị hiện Hoàng kim của thày Saint Germain. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

Phần 2

2.1. Viễn kiến không phải là một khả năng thụ động; nó cũng có khía cạnh tích cực. Con sẵn sàng thấy những phóng chiếu, những xung lực mà con phóng ra từ bốn thể phàm của con.

Heros-Amora, trong tình thương màu hồng,
Con không cần biết đến ai nghĩ gì về con,
Trong hợp nhất với thày, con gọi một ngày mới,
Như trẻ thơ trong trắng, con đùa giỡn vui chơi.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

2.2. Những gì con phóng chiếu ra luôn luôn có hậu quả vì nó sẽ đi vào tấm gương vũ trụ. Nó có thể trở nên vô hiệu hay giảm thiểu do lực chống kháng của tâm thức tập thể nhưng nó vẫn có tác động trên con.

Heros-Amora, đời mới đã khởi sự,
Con cười vào mặt quỷ, là đứa luôn nghiêm nghị,
Với rắn bị kẹt cứng trong nhị đối của y,
Nhưng con thì thoát được nhờ Tình thương vô kỷ.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

2.3. Thế giới dựa trên nguyên tắc hành động và phản ứng. Nếu con nắm chặt một viễn kiến nào đó, thì con phóng chiếu từ tiềm thức một xung lực và chờ đợi một kết quả.

Heros-Amora, tỉnh ngộ con phát hiện
Rằng tình thương đích thực không hề có điều kiện, 
Con tắm trong Mặt trời màu Hồng Đỏ lộng lẫy,
Biết rằng Thượng đế muốn cuộc đời vui thơ ngây.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

2.4. Dù con có cảm thấy sự trả về hay không, nó vẫn ảnh hưởng tiềm thức của con. Nếu con không cảm thấy sự trả về, trong tiềm thức con nghĩ con không để đủ sức lực vào sự phóng chiếu, và do đó con gia tăng sức lực.

Heros-Amora, cuộc đời thật vui thay,
Tưởng chừng như thế giới là đồ chơi vĩ đại,
Tâm con phóng thế nào thì đời như thế nấy,
Vì tấm gương cuộc sống phản chiếu đúng như vậy.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

2.5. Điều này khiến con càng lúc càng dùng nhiều năng lượng hơn để phóng chiếu. Trong tâm ý thức, điều này cũng có thể khiến con có thúc đẩy gần như không cưỡng nổi phải làm nhiều hơn bất cứ điều gì con đang làm.

Heros-Amora, đốt hết mọi điều kiện,
Con biết con toàn quyền được lật sang trang mới,
Trầm mình trong dòng chảy của Tình yêu vô biên,
Con biết rằng Tánh linh đã từ Trên xuống đời.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

2.6. Con sẵn sàng xét xem con có bị ám ảnh phải làm một thủ tục tâm linh, và chờ đợi trong tiềm thức là con sẽ nhận trả về một kết quả bên ngoài mà con mong muốn.

Heros-Amora, rốt cuộc con cảm thấy
Mình đã vượt lên trên vùng dĩ vãng sa lầy.
Trong tình yêu chân thật con tự do phát triển,
Mãi mãi con là một với Dòng Từ vô biên.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

2.7. Con nhận ra nếu con có nhu cầu không cưỡng nổi phải làm một thủ tục tâm linh nào đó, điều đó sẽ ngăn chặn viễn kiến của con. Nó sẽ ngăn chặn khả năng trụ vững chắc vào viễn kiến trong Sứ vụ Thiêng liêng của con vì con nghĩ làm thủ tục đó quan trọng hơn mở tâm ra với viễn kiến.

Heros-Amora, điều kiện vốn trói buộc,
Chúng hình thành mạng lưới những lừa dối gian manh,
Nhưng thày giải cứu con nhờ sẵn thuốc giải độc,
Và đem con vượt khỏi mọi điều kiện khởi sanh.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

2.8. Cái Ta Biết có khả năng tập trung sự chú ý vào, hay xuyên qua bốn thể phàm. Nó cũng có khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm và như vậy mở ra với Hiện diện TA LÀ. Con không thể làm cả hai điều này cùng một lúc.

Heros-Amora, tình yêu không buộc trói,
Nó chỉ muốn vượt qua, giải thoát con ra khỏi,
Nó bay xa mãi mãi vì nó không biên giới,
Nâng cao muôn sự sống vào trời Hồng ngọc tươi.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

2.9. Khi cái Ta Biết đồng hóa với bốn thể phàm và chú tâm vào việc tự biểu hiện trong thế giới vật chất, con đang dùng lực co lại của Mẹ để tập trung năng lượng và sự chú ý vào bốn thể phàm.

Heros-Amora, tình yêu ngập cõi trần,
Đổ đầy tim ai nấy một niềm vui bất tận,
Vì không thể còn chỗ cho tuyệt vọng sợ hãi,
Khi tất cả tỉnh giấc: Tình yêu nổ bùng dậy!

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

Phần 3

3.1. Để có thể hướng ánh sáng ra ngoài, con cần hướng ánh sáng xuyên qua cái gì đó, con phải có một khuôn đúc tư tưởng, một khuôn đúc viễn kiến để con hướng ánh sáng xuyên qua.

Đại thiên thần Raphael, thày sáng rỡ làm sao, 
Thày nâng con lên khỏi tuồng sân khấu cuộc đời. 
Mẹ Mary và thày, viễn quan sao táo bạo, 
Muốn con đạt tiềm năng cao nhất có thể với. 

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.2. Để tạo ra khuôn đúc này, để tập trung năng lượng của con xuyên qua khuôn đúc này, chớ không phải là hướng ra mọi phía, con phải tạo ra một sự co lại, một sự tập trung nơi bốn thể phàm của con.

Đại thiên thần Raphael, trong quả cầu lục bảo, 
Niệm tinh khôi con giữ cho mãi mãi thanh cao, 
Mẹ Mary bao bọc chúng con trong Tim Thánh, 
Không bao giờ xa cách trong tình Mẹ chân thành.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.3. Khi con có loại tập trung này trong bốn thể thấp hơn của con, nó sẽ thu hút sự chú ý của cái Ta Biết. Con không thể nào bước ra ngoài bốn thể thấp hơn và nhận viễn kiến cao hơn, viễn kiến từ Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Đại thiên thần Raphael, mọi đau ốm trị lành, 
Từng tế bào trong thân niêm lại trong ánh sáng, 
Chợt thấy niệm tinh khôi của đức Mẹ Mary, 
Con sống hiện thực mới là sức khỏe thần kỳ.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.4. Con muốn thấy các khuôn đúc tiềm thức đang thu hút sự chú ý của con và con muốn thấy có bao nhiêu năng lượng chảy qua các khuôn đúc tiềm thức này.

Đại thiên thần Raphael, ánh sáng vô cùng thực, 
Lộ ra cho con thấy Ki-tô trong thần thức, 
Mẹ Mary đang giúp để con thăng liên tục, 
Cùng thày con thăng lên trong ánh sáng bảo lục.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.5. Con muốn biết con có thể dùng bao nhiêu năng lượng sáng tạo từ Hiện diện TA LÀ ở tầng tâm ý thức của con và có bao nhiêu năng lượng bị tiêu mòn trong các khuôn đúc tiềm thức của con.

Đại thiên thần Raphael, tiêu tan hết bệnh tật, 
Khi thày giúp con ngộ sự sống là Duy nhất, 
Con không còn chối bỏ tình yêu thày chân chất, 
Và niệm tinh khôi ấy, con phóng ra mọi vật.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.6. Con sẵn sàng nhìn một cách ý thức vào các mục tiêu của mình và quan niệm cơ bản của con về con đường tâm linh. Con sẵn sàng xét xem động cơ thúc đẩy con trên con đường tâm linh từ trước tới nay, và con hy vọng đạt được điều gì cho chính mình.

Đại thiên thần Raphael, con hàn gắn địa cầu,
Cho trái đất hồi sinh khi con tỏa tinh khôi, 
Một ngày mới đã đến, một kỷ nguyên bắt đầu, 
Và ánh sắc lục bảo sáng như thể mặt trời.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.7. Con sẵn sàng nhìn con hy vọng đạt được điều gì cho thế gian từ con đường tâm linh, và điều này cho thấy con hy vọng đạt được gì cho chính con.

Đại thiên thần Raphael, sa ngã là quá khứ,
Khi mọi người tìm thấy đường Ki-tô thoát tử, 
Nay ta giục ai nấy mau chữa lành đi chứ, 
Khi cả bốn thể phàm được niêm trong tình tự.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.8. Con sẵn sàng nhìn vào các mục tiêu bên ngoài của con và xem xét con cảm nhận gì nếu các mục tiêu này được thể hiện. Đây là động cơ cá nhân của con, nghĩa là điều con hy vọng đạt được cho chính mình.

Đại thiên thần Raphael, thày đem ánh bình minh,
Khiến thế lực bóng tối phải vội vàng lẩn tránh, 
Chúng kết liễu cuộc đời, ta đòi lại hành tinh, 
Và trên môi ai nấy nở nụ hoa thanh bình.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.9. Con sẵn sàng nhìn vào cách con đã dùng giáo lý tâm linh để củng cố khuôn đúc tiềm thức, là khuôn đúc của điều con hy vọng đạt được cho chính mình khi con đi trên con đường tâm linh.

Đại thiên thần Raphael, ta giải phóng viễn kiến,
Khi ta thấy thực tại của Thượng đế thiêng liêng, 
Viễn tượng Saint Germain giờ đây đã thị hiện, 
Và trái đất niêm lại trong quả cầu trinh nguyên.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

Phần 4

4.1. Dù con người làm điều mà họ nghĩ là tốt hay làm điều mà họ nghĩ là xấu, trong tiềm thức họ muốn nhận dòng trả về từ vũ trụ.

Đại thiên thần Chamuel, uy lực tia ngọc hồng,
Con biết con đang tắm trận mưa ban sự sống,
Bao ý chí sa đọa đốt sạch bởi tình thương,
Bỗng nhiên bao ham muốn như chìm nghỉm lắng xuống.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.2. Mục đích của thế giới vật chất là con thử nghiệm dùng các quyền năng sáng tạo của mình. Con gửi ra ngoài một điều gì, và nếu không có gì gửi trả về, làm sao con biết được mình đã gửi ra điều gì và hậu quả là gì?

Đại thiên thần Chamuel, ánh sáng dâng cuồn cuộn,
Tia hồng ngọc rực lửa đâm xuyên qua đêm trường,
Mọi thế lực bóng tối bị lửa thày thiêu nướng,
Thiêu sạch cả những ai không chịu bước cao hơn.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.3. Con sẵn sàng dùng óc suy xét để nhìn vào sự tu tập tâm linh của con, con quan niệm con đường tâm linh như thế nào, động lực nào thúc đẩy con đi trên đường tâm linh. Động lực gì đã thúc đẩy con nỗ lực như thế?

Đại thiên thần Chamuel, tình yêu thày bao la,
Cuộc sống nay ý nghĩa do tầm nhìn sáng tỏ,
Khi mục đích cuộc đời con nhận ra quá rõ,
Nhận cả đấng Duy nhất trong tình thương chan hòa.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.4. Con sẵn sàng xem xét liệu điều con tin chắc, với tâm ý thức, là động lực hoàn toàn vị tha thật ra là động lực vị kỷ chăng? Con muốn nhận ra con có dùng con đường tâm linh để được thế giới công nhận, hay có những mục tiêu tương tự.

Đại thiên thần Chamuel, đem bình an bất nhị,
Thậm chí cả cái chết mà cũng chẳng là chi,
Thật sự trong tình thương không thể có phân hủy,
Tình thương là thăng vượt vào ngày mới vô thỉ.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.5. Có một giai đoạn con cần thử nghiệm các khả năng sáng tạo của mình. Con tạo ra một khuôn đúc trong tâm, con hướng năng lượng sáng tạo xuyên qua đó và con đợi xem tấm gương vũ trụ gửi trả về điều gì. Con cứ tiếp tục sửa sang khuôn đúc cho tới khi con nhận được đúng những gì con muốn từ vũ trụ.

Đại thiên thần Chamuel, Lửa Thượng đế ban xuống,
Cho người người khao khát được nếm trọn yêu thương,
Mọi hoàn cảnh trong đời, con biết đều không thực,
Khi tình yêu Thượng đế được chứng trong tâm thức.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.6. Con buông bỏ ý tưởng rất tinh tế là con phải càng ngày càng giỏi hơn trong việc tạo khuôn đúc, con phải gày dựng càng ngày càng nhiều động lượng trong việc hướng ánh sáng xuyên qua các khuôn đúc, hầu đạt được điều ngự và có thể biểu hiện bất cứ hoàn cảnh vật chất nào mà con mong muốn.

Đại thiên thần Chamuel, hạt yêu thương thày gieo,
Trong trái tim của người không màng chuyện sở hữu,
Tình nào cố sở hữu sẽ sợ hãi ưu phiền,
Đâm vào tim nhức nhối là ngọn giáo nhị nguyên.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.7. Chỉ có sa nhân mới gày dựng được đủ động lượng để ép buộc vũ trụ vật chất tuân theo viễn kiến của họ.

Đại thiên thần Chamuel, con sẽ không kiểm soát,
Vì đó là quỷ dữ muốn hồn con giam chặt,
Bẻ gẫy vòng dây xích mà rắn đã cài đặt,
Con tìm lại Thượng đế trong tình yêu giải thoát.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.8. Con là một người tâm linh; con không đi con đường tả đạo của sa nhân. Con đang đi con đường của quả vị Ki-tô, và mục đích của con đường này không chỉ đơn giản là kiểm soát vũ trụ vật chất.

Đại thiên thần Chamuel, thày sao tài tình thật,
Giúp con nhận tình yêu của Thượng đế chân thực,
Con thừa biết tình yêu mà con hằng mong ước,
Không cần phải xứng đáng hay bỏ công tìm được.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

4.9. Đầu thai vào cõi vật chất là một tiến trình có hai giai đoạn. Giai đoạn đầu là giai đoạn trầm mình và sau đó con bước vào giai đoạn tỉnh giác.

Đại thiên thần Chamuel, để nhận được tình thương,
Con không cần toàn hảo hay giỏi giang phi thường,
Tình thương luôn chảy xiết, không bao giờ im đứng,
Chỉ đòi hỏi con chịu tiến bước lên không ngừng.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

Phần 5

5.1. Mục đích của giai đoạn tỉnh giác không phải là đạt được khả năng làm chủ hoàn toàn việc biểu hiện vật chất. Mục đích là con nhận ra con là một sinh thể tâm linh chứ không phải một sinh thể vật chất, và do đó mục tiêu của con không liên hệ đến vật chất.

Hilarion, trên bờ lục bảo,
Chúng con bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả 
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.2. Mục đích thật sự trong Sứ vụ Thiêng liêng của con không phải là biểu hiện một số hoàn cảnh vật chất trong kiếp sống này. Mục đích thật sự của con là chứng minh con đường tới quả vị Ki-tô, nơi đó con trở nên độc lập với hoàn cảnh vật chất.

Hilarion, chìa khóa bí mật,
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.3. Con buông bỏ niềm tin rằng nếu con đạt được trạng thái tâm thức tâm linh cao nhất, con sẽ có thể hoàn toàn kiểm soát vật chất và biểu hiện bất cứ hoàn cảnh vật chất nào con mong muốn.

Hilarion, tình yêu sự sống,
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.4. Con nhận ra rằng chú tâm vào chuyện biểu hiện hoàn cảnh vật chất sẽ củng cố khuôn đúc tiềm thức và đóng tâm con lại với viễn kiến trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Chìa khóa của viễn kiến không phải là tập trung mà là cởi mở.

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng, 
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền,
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.5. Con muốn mở tâm ra với Hiện diện TA LÀ của chính con và với viễn kiến của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Để làm được điều này, con sẵn sàng nhận ra những giới hạn của quan niệm của con về con đường tâm linh.

Hilarion, thương yêu đón chào,
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.6. Con sẵn sàng buông bỏ tất cả những gì đã dẫn con tới điểm này trên con đường tu vì con nhận ra là chúng không thể dẫn con đi xa hơn nữa.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.7. Con đã tới điểm cởi mở và con nói: “Bước kế tiếp của con là gì? Điều gì trước kia con chưa làm mà bây giờ con cần làm? Điều gì trước kia con chưa thấy mà bây giờ con cần thấy?”

Hilarion, thông sạch luân xa, 
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà,
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.8. Con sẵn sàng xem xét phương pháp tâm linh con đang thực tập và tự hỏi: “Nếu con ngừng nó ngay bây giờ, con sẽ phản ứng ra sao?” Phản ứng của con càng mạnh thì sự dính mắc của con vào phương pháp này càng nặng.

Hilarion, thày sẽ quân bình 
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.9. Dính mắc càng nặng, con càng bị ngăn chặn không thấy được viễn kiến mới. Nhưng con muốn viễn kiến cao nhiều hơn là muốn giữ chặt viễn kiến cũ.

Hilarion, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế chúng con rải truyền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

Phần 6

6.1. Con nhận ra con đã tới điểm con cần buông bỏ phương pháp tu tập của con, nghĩa là buông bỏ để tiến lên cao hơn về phía Hiện diện TA LÀ của con. Con nói với Hiện diện TA LÀ của con: “Con buông bỏ sự chú tâm bằng tâm vỏ ngoài vào điều con nghĩ con phải làm, và con sẵn sàng hoàn toàn cởi mở và lắng nghe Hiện diện TA LÀ. Xin Hiện diện TA LÀ chỉ cho con thấy con cần làm gì để lên cao hơn trên con đường tu.”

Ôi chân sư Paul, thày là giấc mơ,
Thày yêu cái đẹp hằng chảy tuôn ra.
Ôi chân sư Paul, tình mang trong dạ
Quyền năng đập vỡ nấm mồ tự ngã.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.2. Con đường tới quả vị Ki-tô sẽ đòi hỏi con làm điều này nhiều lần. Buông bỏ viễn kiến con có ngay bây giờ để nhận được một viễn kiến cao hơn.

Ôi chân sư Paul, là nguồn khuyên nhủ,
Tâm con bay vút lên đỉnh trời cao.
Ôi chân sư Paul, minh triết ấp ủ
Cái đẹp chảy xuống từ Trên nhập vào.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.3. Con ghi khắc trong tâm ý thức nguyên lý buông bỏ để hướng lên cao và buông bỏ điều con thấy với tâm vỏ ngoài, với tâm ý thức, điều con đang chú tâm vào. Con buông bỏ những khuôn đúc trong tiềm thức.

Ôi chân sư Paul, yêu là nghệ thuật,
Mở trái tim ra căn phòng mật thất.
Ôi chân sư Paul, ào ào chảy xuống,
Cho tim tràn ngập ánh sắc yêu thương.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.4. Con không muốn tiếp tục con đường tâm linh bằng cách gian nan qua nhiều lần trải nghiệm kinh nghiệm tỉnh giác chấn động. Thay vào đó, con trau dồi ý muốn đứng lùi lại và hỏi viễn kiến: “Giới hạn là gì, viễn kiến cao hơn là gì?”

Ôi chân sư Paul, gia tốc mài miệt,
Trụ vào từ bi, con thiền nhận biết.
Ôi chân sư Paul, ý định thuần khiết
Sẽ được bảo đảm thăng lên siêu việt.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.5. Con muốn biết một cách ý thức động lực thật sự khiến con muốn đi trên con đường tu, là động lực trong Sứ vụ Thiêng liêng của con cho kiếp sống này.

Ôi chân sư Paul, tình yêu hàn gắn,
Thày mở lộ ra ánh sáng nội tâm.
Ôi chân sư Paul, tình yêu an ủi,
Để con nguyên vẹn trong một niềm vui.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.6. Con xin thày Hilarion và Hiện diện TA LÀ của con, hãy chỉ cho con thấy động lực thật sự khiến con muốn đi trên con đường tu, con thật sự ước muốn hoàn tất điều gì trong kiếp sống này?

Ôi chân sư Paul, phụng sự Tất cả,
Giúp mọi chúng sinh thăng vượt sa ngã.
Ôi chân sư Paul, an bình ra khơi,
Mặc cho tự ngã tất phải tàn hơi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.7. Con xin thày Hilarion và Hiện diện TA LÀ chỉ cho con thấy giới hạn mà con phải giải quyết ngay lúc này, khuôn đúc trong tiềm thức mà con phải giải quyết ngay lúc này. Xin cho con thấy viễn kiến cao hơn giúp con vượt quá giới hạn này để con có thể buông bỏ nó mà không cảm thấy phải ép buộc mình, phải tiêu trừ nó hay phải lên án mình.

Ôi chân sư Paul, tình yêu giải phóng,
Thày yêu mãi mãi, cho con nhập dòng.
Ôi chân sư Paul, thày là vị Chủ
Giúp cho hành trình của con hứng thú.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.8. Con nhận ra bởi vì con đang ở khóa nhập thất của thày Hilarion, lẽ tất nhiên là con có một viễn kiến thấp. Không cần phải hổ thẹn khi thấy điều này và con sẵn sàng thấy nó vì, giống như thày Hilarion, con chú tâm vào việc đạt được viễn kiến cao hơn.

Ôi chân sư Paul, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư Paul, thày tô bầu trời,
Cái ta mừng rỡ trong màu vui tươi.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

6.9. Thấy được là con có viễn kiến giới hạn chính là dụng cụ giúp con vượt qua nó và tiến lên tiếp. Con không kháng cự việc này. Con có đủ tình thương để thấy sự giới hạn và con thương mình thoát ra khỏi nó. Con trụ vững chắc vào viễn kiến dựa trên tình thương trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Ôi chân sư Paul, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tình yêu Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư Paul, tình yêu chân thực,
Cho nên con mới thỉnh cầu thày đây,
Giải cứu chúng sinh trong niềm ưu ái,
Mà thày rải xuống từ Trên sáng rực.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu ý chí quy hàng (7 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Cyclopea và Virginia và Apollo và Lumina, Đại thiên thần Raphael và Mẹ Mary và Jophiel và Christine, Chân sư Hilarion và Đức Lanto yêu dấu, hãy giúp con thực sự thấy viễn kiến cũ của con và buông bỏ nó. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với thày Hilarion và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Nếu con phóng chiếu một viễn kiến từ tâm ý thức nhưng chưa nhìn vào tiềm thức, con có thể phóng chiếu một viễn kiến không rõ ràng, không thuần nhất, hay ngay cả những viễn kiến đối nghịch từ tâm ý thức và từ tiềm thức.

Cyclopea yêu dấu, thày phơi ra sự thực, 
Rằng phiền não nhị nguyên rồi sẽ được hàn gắn, 
Ánh sáng màu Lục bảo của thày như thần dược, 
Chữa lành cảm thể con cho bình an mỹ mãn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.2. Con sẵn sàng duyệt qua một cách có hệ thống các tầng lớp trong tiềm thức của con và bứng gốc tất cả những viễn kiến không đưa đến những gì con muốn biểu hiện.

Cyclopea yêu dấu, con cùng thày tháo gỡ 
Những vòng xoáy tiêu cực đang phủ tâm mây mờ, 
Con biết mình cốt lõi là cái biết thuần sơ,
Là chìa khóa để thành cánh cửa luôn rộng mở.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.3. Dù con đã trong lọc bốn thể phàm của con và ngưng phóng chiếu những viễn kiến đối nghịch, con vẫn không nhất thiết nhận lại đúng những gì con phóng chiếu ra.

Cyclopea yêu dấu, thanh lọc mắt bên trong, 
Uy lực đó giúp con xuyên thủng đêm trong hồn,
Nay con nhìn cuộc sống với con mắt thuần đơn,
Vượt lên trên bệnh tật con sẽ bay cao hơn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.4. Vũ trụ sẽ phản chiếu lại con đúng những gì con phóng chiếu ra, nhưng không nhất thiết là đúng theo những gì con nghĩ con đang phóng chiếu ra từ tâm ý thức.

Cyclopea yêu dấu, cuộc sống chỉ phản ánh 
Những hình tướng mà tâm cứ phóng ra địa cầu, 
Giữ tâm mình trong sáng là bí quyết chữa lành, 
Không còn một tâm ảnh để ngã trốn đằng sau.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.5. Hầu hết con người phóng chiếu là họ không muốn nhận trách nhiệm về cuộc đời của họ, và họ cũng không muốn ý thức rõ ràng mọi chuyện họ đang làm. Họ nhận lại từ tấm gương vũ trụ một hoàn cảnh trong đó họ cảm thấy bị hạn chế bởi nhiều hoàn cảnh bên ngoài đến độ họ có rất ít khả năng làm chủ cuộc đời của họ.

Cyclopea yêu dấu, chúng con nhắm thật cao, 
Ngày càng xích lại gần với ngọn lửa hàn gắn,
Xuyên tấm màn nhị nguyên bây giờ con cất cánh, 
Và tắm trong Ánh sáng thâm sâu màu Lục bảo. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.6. Là một người tâm linh, con đã tạo ra một Sứ vụ Thiêng liêng trước khi con xuống đầu thai. Sứ vụ Thiêng liêng này chủ yếu tập trung vào các mục đích tâm linh của con. Sứ vụ Thiêng liêng của con bao gồm khả năng biểu hiện quả vị Ki-tô.

Cyclopea yêu dấu, Lửa Lục bảo phanh phui 
Từng trò chơi quyền lực tinh vi của nhị đối, 
Kể cả âm mưu cũ là trò chơi gian dối, 
Cứ định nghĩa chân lý theo một cách mà thôi. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.7. Có thể là với tâm ý thức con ước muốn đạt được một hoàn cảnh bên ngoài nào đó, nhưng những ước muốn này đi ngược lại, hoặc ít nhất không giúp sự hoàn thành của Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Cyclopea yêu dấu, dòng chảy con cảm được,
Của Chân lý Hằng sống mà thày ban liên tục, 
Con nay đã giải thoát khỏi cái nhìn đối cực, 
Và khuôn đúc hành tinh lại trinh nguyên như trước. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.8. Nơi thể bản sắc con có cái biết về Sứ vụ Thiêng liêng của con, vì vậy nó sẽ ngăn chặn mục đích trong tâm ý thức của con. Chính con sẽ ngăn chặn con, không cho thể bản sắc gửi đủ sức mạnh cần thiết vào các mục đích trong tâm ý thức để chúng không được phóng chiếu với đầy đủ sức mạnh để có thể quay trở về và thể hiện thành hoàn cảnh.

Cyclopea yêu dấu, sự thật con đã thấy, 
Rõ mục đích cao hơn tại sao con ở đây, 
Con biết chân lý vượt mọi hệ thống dưới này, 
Con bơi trong ánh sáng và tăng trưởng gấp mấy. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.9. Vì con không phải là sa nhân, con không đủ động lực trong việc điều khiển năng lượng tâm lý. Sức mạnh mà con có thể dùng để phóng chiếu viễn kiến vào tấm gương vũ trụ có giới hạn.

Cyclopea yêu dấu, con thấy thày hân hoan, 
Khi viễn kiến sáng tạo con đem ra thực hành, 
Để nhấc địa cầu lên khỏi lồng giam của rắn, 
Và thị hiện Hoàng kim của thày Saint Germain. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

Phần 2

2.1. Có thể là con trực tiếp hạn chế sức mạnh mà con dùng để phóng chiếu. Con làm như thế ở tầng thể tư tưởng hay thể bản sắc vì con có cái biết là viễn kiến trong tâm ý thức của con không giúp sự hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Apollo yêu dấu, trong tia sáng thứ hai,
Thày mở mắt con ra để con nhìn ngày mới,
Vượt lên trên khuôn đúc tư duy gây thảm bại,
Con nhìn thấu xuyên qua lừa lọc của nhị đối.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.2. Khi con tìm cách biểu hiện điều gì, câu hỏi là: viễn kiến của con thuần nhất đến đâu và con dùng bao nhiêu sức mạnh để phóng chiếu nó vào tấm gương vũ trụ?

Apollo yêu dấu, trong ánh lửa con biết
Có dòng nước hằng chảy là dòng sông minh triết,
Kìa ý chí cao nhất nay con đã phát hiện,
Trầm mình trong dòng nước không bao giờ đứng yên.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.3. Tấm gương vũ trụ là bốn tầng của vũ trụ vật chất trong hệ thống năng lượng của trái đất. Hệ thống này là một trường phức tạp của các làn sóng điện từ.

Apollo yêu dấu, ánh sáng thày soi rõ
Tại sao chúng con lại hiện thân ở đây nhỉ,
Rõ cả những lọc lừa đã khiến mình sa ngã,
Thày giúp con tìm lại duy nhất với tất cả.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.4. Khi điều con phóng chiếu đi ra ngoài, các làn sóng năng lượng tạo thành nó sẽ bắt đầu tạo ra những mô thức giao thoa (interference patterns) với những làn sóng năng lượng đang có mặt trong toàn bộ đơn vị năng lượng nơi con đang sống. Đây chỉ giản dị là cơ học sóng.

Apollo yêu dấu, vạch trần từng dối trá,
Từng sợi dây tự ngã chúng con nay buông bỏ,
Và hiểu ra thật sự nhận thức là chìa khóa
Để vượt qua nhị đối cho nội tâm sáng tỏ.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.5. Số lượng năng lượng ô uế trong bốn thể phàm của trái đất có thể là một lý do khiến con phóng chiếu một viễn kiến mà không nhận lại kết quả mong muốn.

Apollo yêu dấu, con nghe lời thày gọi,
Ở Đại sảnh Minh triết tiếng gọi dìu con tới,
Đây bầu cõi vũ trụ chúng con phải nâng cao,
Và cùng nhau hình thành mũi đầu của ngọn giáo.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.6. Con là một người tâm linh theo giáo lý của các chân sư thăng thiên vì con có cái biết trực giác là cuộc sống có cái hơn nữa và con có một Sứ vụ Thiêng liêng.

Apollo yêu dấu, trí tuệ thày sáng rỡ,
Trong hợp nhất với thày, rắn độc con chẳng sợ,
Cái đà trong con mắt, con nay thấy lồ lộ,
Thoát khỏi vùng nhị đối, con tìm được tự do.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.7. Con không chỉ chú tâm vào điều kiện vật chất mà thôi. Con có thể mong muốn một số điều kiện vật chất nhưng chúng không hoàn toàn quy định cuộc sống của con.

Apollo yêu dấu, thày giúp con nhìn rõ,
Bằng chính mắt của thày, con mới thực tự do,
Khi mắt thày soi rọi, con tình nguyện đứng đó,
Rồi bước khỏi mê cung với uy lực thày cho.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.8. Con có cái biết trực giác về cuộc sống trên một hành tinh có một tâm thức đại chúng cao hơn trái đất. Trên một hành tinh không dày đặc bằng trái đất, biểu hiện viễn kiến dễ dàng hơn nhiều.

Apollo yêu dấu, chúng con nâng viễn kiến
Và dõi nhìn trái đất bước vào tân kỷ nguyên,
Không gì ngăn cản được hiểu biết mà thày truyền
Phơi bày ra sự thật: Chẳng gì đứng tách riêng.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

2.9. Con chọn lựa không nản chí tuy con có cảm giác là con đã bỏ ra đủ cố gắng và đáng lẽ phải gặt hái thành quả vật lý của những cố gắng này. Con chấp nhận là con đường tu có hiệu quả, nhưng nó cần nhiều thời gian hơn trên một hành tinh dày đặc như trái đất.

Apollo yêu dấu, chúng con đang chung sức,
Để nâng cao địa cầu trong niềm vui nối kết,
Khi thày đem tỏ lộ Ngọn lửa của Minh triết,
Người người thấy tận mắt cái gì là chân thực.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

Phần 3

3.1. Một trong những mục đích của trái đất là phục vụ như chặng nửa đường cho những dòng sống chưa sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm trọn vẹn về đời họ.

Đại thiên thần Raphael, thày sáng rỡ làm sao, 
Thày nâng con lên khỏi tuồng sân khấu cuộc đời. 
Mẹ Mary và thày, viễn quan sao táo bạo, 
Muốn con đạt tiềm năng cao nhất có thể với. 

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.2. Bản chất của giáo lý chân sư thăng thiên là con nhận lãnh trách nhiệm về chính con, về trạng thái tâm thức của con. Nhiều người chưa sẵn sàng làm điều này và đó là lý do vì sao rất khó biểu hiện một viễn quan đúng như những gì con phóng chiếu ra.

Đại thiên thần Raphael, trong quả cầu lục bảo, 
Niệm tinh khôi con giữ cho mãi mãi thanh cao, 
Mẹ Mary bao bọc chúng con trong Tim Thánh, 
Không bao giờ xa cách trong tình Mẹ chân thành.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.3. Con tình nguyện xuống đây để chứng minh cho mọi người thấy là có thể sống một cách khác cách họ đang sống. Con tới đây để chứng minh là có một cách cao hơn, có một cách sống cao hơn, một cách sống tâm linh hơn. Đây là lý do vì sao con ở đây.

Đại thiên thần Raphael, mọi đau ốm trị lành, 
Từng tế bào trong thân niêm lại trong ánh sáng, 
Chợt thấy niệm tinh khôi của đức Mẹ Mary, 
Con sống hiện thực mới là sức khỏe thần kỳ.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.4. Con không ở đây để biểu hiện một hoàn cảnh bên ngoài nào đó, một nếp sống thoải mái, một căn nhà đẹp, người phối ngẫu toàn hảo, rất nhiều tiền, và cái này cái kia. Đấy không phải là lý do vì sao con ở đây. Con ở đây để tiến bước trên con đường của quả vị Ki-tô và chứng minh nó.

Đại thiên thần Raphael, ánh sáng vô cùng thực, 
Lộ ra cho con thấy Ki-tô trong thần thức, 
Mẹ Mary đang giúp để con thăng liên tục, 
Cùng thày con thăng lên trong ánh sáng bảo lục.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.5. Có thể là con đã không biểu hiện bất cứ điều gì đáng quý so với mục đích của người thường. Tuy thế, điều này có tệ chăng, nếu nó phù hợp với Sứ vụ Thiêng liêng của con?

Đại thiên thần Raphael, tiêu tan hết bệnh tật, 
Khi thày giúp con ngộ sự sống là Duy nhất, 
Con không còn chối bỏ tình yêu thày chân chất, 
Và niệm tinh khôi ấy, con phóng ra mọi vật.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.6. Nếu một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con là biểu hiện quả vị Ki-tô, thì Sứ vụ Thiêng liêng của con không có những mục tiêu duy vật mà người bình thường trong nền văn hóa của con có. Con nhìn lại cuộc đời của con như nó đã hình thành từ trước tới nay, và con làm hòa với sự kiện nó đã là như thế ấy.

Đại thiên thần Raphael, con hàn gắn địa cầu,
Cho trái đất hồi sinh khi con tỏa tinh khôi, 
Một ngày mới đã đến, một kỷ nguyên bắt đầu, 
Và ánh sắc lục bảo sáng như thể mặt trời.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.7. Khi con đạt được hiểu biết thực sự, con nhận ra điều mà tâm ý thức con mong muốn không phải là điều con thực sự mong muốn trong kiếp sống này. Điều con thực sự muốn là hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con, không phải là những mục tiêu phiến diện do nền văn hóa của con quy định.

Đại thiên thần Raphael, sa ngã là quá khứ,
Khi mọi người tìm thấy đường Ki-tô thoát tử, 
Nay ta giục ai nấy mau chữa lành đi chứ, 
Khi cả bốn thể phàm được niêm trong tình tự.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.8. Con đã theo con đường mà con có thể theo được, dựa trên con người của con, trình độ tâm thức của con khi con đầu thai và nền văn hóa của con.

Đại thiên thần Raphael, thày đem ánh bình minh,
Khiến thế lực bóng tối phải vội vàng lẩn tránh, 
Chúng kết liễu cuộc đời, ta đòi lại hành tinh, 
Và trên môi ai nấy nở nụ hoa thanh bình.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.9. Con có một Sứ vụ Thiêng liêng và nó đòi hỏi con chứng minh con đường tới quả vị Ki-tô. Con đường tới quả vị Ki-tô rất khác cuộc sống của người bình thường. Do đó, con làm hòa với cuộc đời của con.

Đại thiên thần Raphael, ta giải phóng viễn kiến,
Khi ta thấy thực tại của Thượng đế thiêng liêng, 
Viễn tượng Saint Germain giờ đây đã thị hiện, 
Và trái đất niêm lại trong quả cầu trinh nguyên.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

Phần 4

4.1. Cuộc đời của con là như thế đó. Con đã làm những điều con đã làm vì con có lý do. Có thể lý do là con phải trải qua kinh nghiệm đó để nhận ra rằng con thực sự không muốn điều mà trước kia con ước muốn. Con thực sự không muốn những mục tiêu vật chất đó, những điều kiện vật chất đó. Con muốn cái gì hơn nữa. Con muốn cái gì cao hơn.

Đại thiên thần Jophiel, trong ánh sáng minh triết,
Mọi lừa dối gian xảo đã phơi bày trước mặt.
Thường thường trong tâm người, chúng tinh vi luồn lách,
Nhưng con có thày rồi, là vị thày thượng sách.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.2. Con buông bỏ cảm giác rằng con đang chưa làm đủ, con đang đeo đuổi một hũ vàng ở cuối cầu vồng. Con buông bỏ đeo đuổi một mục đích nào đó và lúc nào cũng cảm thấy là con sẽ không bao giờ biểu hiện được nó.

Đại thiên thần Jophiel, con đón mừng minh triết,
Tấm màn của nhị nguyên, thày lấy gươm chặt đứt,
Khi được thày chỉ lối, con biết đâu là thực,
Con hóa giải tức khắc bùa mê với ngờ vực.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.3. Con buông bỏ khuynh hướng dùng con đường tâm linh để khuếch đại tiến trình này. Con buông bỏ cảm giác là bất cứ con làm điều gì cũng chưa đủ, cũng chưa tốt đủ vì con chưa biểu hiện được trạng thái tâm thức cao hơn này.

Đại thiên thần Jophiel, thực tại của thày đó,
Là liều thuốc thần diệu giải độc chất nhị nguyên,
Dối trá không thể còn khi có thày Hiện diện,
Với thày đứng bên cạnh, tà kiến con cắt liền.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.4. Cuộc đời của con cho tới điểm này đúng như nó phải là, dựa trên trạng thái tâm thức và hoàn cảnh bên ngoài của con. Con đã làm đúng y điều con phải làm. Điều còn lại là con ý thức học bài học mà con cần học khi con làm những gì con đã làm.

Đại thiên thần Jophiel, tâm Thượng đế trong con,
Con nhận trí tuệ thày, ánh sáng rạng đầu non,
Con gặp được Duy nhất khi tách biệt tiêu mòn,
Và tâm này toàn vẹn, là chiến thắng của con.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.5. Con thực sự đã phải lớn lên trong một hoàn cảnh nào đó, cùng với những người thuộc về một nền văn hóa nào đó, trong một gia đình nào đó, một dân tộc nào đó. Con phải lớn lên ở đó và phải trải qua một giai đoạn thích nghi với hoàn cảnh đó. Con phải trầm mình trong đó.

Đại thiên thần Jophiel, chỉ cho con đường tiến,
Dẫn chúng con vượt khỏi tranh chấp của nhị nguyên,
Chúng con muốn phân biện đâu là giả, là chân,
Và tháo gỡ tất cả bao nút nhợ của rắn.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.6. Con phải đeo đuổi một số mục tiêu, nhưng con không phải đeo đuổi chúng suốt đời. Con đã làm vậy để chứng minh con giống mọi người khác trong nền văn hóa đó. Nhưng nay con có thể vượt lên trên hoàn cảnh đó và chứng minh con có thể hơn một người như thế, và con có thể sống một cách khác.

Đại thiên thần Jophiel, ngay đây thày Hiện diện,
Vì vậy tâm chúng con được hoàn toàn minh mẫn,
Nhập nguồn suối trí tuệ chúng con bước vào tắm,
Và đủ sức cưỡng lại quỷ dữ đang nổi giận.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.7. Cho tới điểm này, con đã sống cuộc đời dựa trên một viễn quan nào đó. Bây giờ con có cơ hội thay đổi cuộc sống và có một viễn quan cao hơn, đó chính là viễn quan mà con đã thiết lập trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Đại thiên thần Jophiel, công việc thày là chính,
Để nâng cao nhân loại nếu người ta chịu thỉnh,
Vậy nhân danh mọi người đang mang bệnh mù quáng,
Chúng con yêu cầu thày hãy giúp họ khôn ngoan.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.8. Một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con đã ấn định là con hội nhập một hoàn cảnh nào đó. Tăng triển là tiến trình hội nhập trước và sau đó tỉnh ngộ. Ngay lúc này con đang ở điểm tỉnh ngộ.

Đại thiên thần Jophiel, thày Hiện diện con mừng,
Vì tấm màn đang được Ánh sáng thày chọc thủng,
Những con rắn không thể tung ra lời gạt gẫm,
Khi mọi người đã nhận Lửa Minh triết trong tâm.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

4.9. Có một viễn quan cao hơn là viễn quan con đã sống theo cho tới ngày hôm nay. Nó là viễn quan trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, và viễn quan này rất khác với viễn quan mà con có cho tới điểm này.

Đại thiên thần Jophiel, con không đi đâu khác,
Khi chân lý tối thượng con vẫn mong chứng đạt,
Thày vui lòng chia sẻ toàn bản thể của thày,
Cho con được viễn kiến càng rộng lớn hơn thay.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

Phần 5

5.1. Con không thể phóng chiếu vào tấm gương vũ trụ bất cứ điều gì cao hơn viễn kiến hiện nay của con. Để có thể đón nhận một viễn kiến cao hơn cái con đang có hiện nay, con phải sẵn sàng từ bỏ viễn kiến con có từ trước tới nay.

Hilarion, trên bờ lục bảo, 
Chúng con bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả 
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.2. Con nhận ra là con đã có một viễn kiến hạn hẹp. Con muốn đón nhận một viễn kiến cao hơn, và điều này có nghĩa là con sẵn sàng buông bỏ viễn kiến cũ và cho phép cuộc đời của mình đi theo một hướng hoàn toàn mới.

Hilarion, chìa khóa bí mật,
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.3. Con muốn thấy điều con cần thấy nơi con để có thể biểu hiện quả vị Ki-tô.

Hilarion, tình yêu sự sống,
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.4. Con muốn thấy con hành động ra sao ở thế giới bên ngoài khi con hiện thị và biểu lộ quả vị Ki-tô.

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng, 
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền, 
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.5. Con sẵn sàng xem xét các viễn kiến, mục tiêu và ước muốn mà con đã có và những gì con đã phóng chiếu ra với tâm ý thức của con. Trong suốt cuộc đời, con đã có một số mục tiêu, nhưng bây giờ con sẵn sàng so sánh các mục tiêu này với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con sẵn sàng suy xét xem con có cần vứt bỏ một số mục tiêu này không.

Hilarion, thương yêu đón chào, 
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.6. Trong một số trường hợp, biểu lộ quả vị Ki-tô có nghĩa là con sẽ không hoàn toàn kiểm soát được hoàn cảnh vật lý của con. Chứng minh con đường tới quả vị Ki-tô có thể có nghĩa là con sẽ trải qua một số hoàn cảnh vật lý và vật chất mà con không kiểm soát hoàn toàn được.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.7. Ở giai đoạn hiện nay của sự tiến hóa vũ trụ của trái đất, vẫn còn quá nhiều người bị giam trong một trạng thái tâm thức thấp nên mục tiêu chủ yếu của con đường tới quả vị Ki-tô không là chứng minh sự điều ngự ngoại cảnh. Nó là chứng minh con có thể là chính mình, bất kỳ hoàn cảnh bên ngoài ra sao chăng nữa.

Hilarion, thông sạch luân xa, 
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà, 
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.8. Con không cho phép hoàn cảnh bất thuận lợi bên ngoài lấy đi sự bình an của con. Con đeo đuổi viễn kiến của Sứ vụ Thiêng liêng của con, dù con không được hoàn cảnh bên ngoài lý tưởng.

Hilarion, thày sẽ quân bình 
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.9. Con chứng minh cho mọi người là thay vì đợi phải có điều kiện vật chất lý tưởng trước khi biểu hiện tâm bình an, thì con biểu hiện ngay bây giờ, con bắt đầu ngay bây giờ.

Hilarion, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế chúng con rải truyền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

Phần 6

6.1. Đổ năng lượng và chú tâm vào việc biểu hiện điều kiện vật chất quả là vô lý. Con đang chú tâm đạt quả vị Ki-tô và sau đó chứng minh nó. Vì con có viễn kiến về nơi con muốn đến, con bình an với hoàn cảnh bên ngoài của con như nó hiện đang là.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.2. Con sẽ không biểu hiện một hoàn cảnh khác khi con chưa bình an với hoàn cảnh hiện nay của con. Lý do thông thường nhất khiến một người trì hoãn quả vị Ki-tô là bị dính mắc vào chuyện biểu hiện một hoàn cảnh bên ngoài nào đó, nói rằng: “Tôi không thể biểu hiện quả vị Ki-tô cho tới khi tôi có được những hoàn cảnh bên ngoài này.”

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.3. Không hoàn cảnh bên ngoài nào có thể đem lại quả vị Ki-tô và không hoàn cảnh bên ngoài nào có thể ngăn chận nó. Quả vị Ki-tô là một trạng thái nội tâm, nó sẽ bắt đầu biểu hiện khi con quyết định bây giờ là lúc biểu hiện.

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.4. Bất kỳ hoàn cảnh của con khó khăn tới đâu, bất kỳ con có một số điều kiện hay không có, con sẽ chú tâm biểu hiện quả vị Ki-tô ngay bây giờ.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.5. Con nhìn vào hoàn cảnh bên ngoài đã thu hút sự chú ý của con và con nói: “Nhưng chúng không thể ngăn chặn quả vị Ki-tô của con, vậy tại sao con phải lo lắng?”

Chân sư Lanto, chúng con viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.6. Hoàn cảnh bên ngoài không quan trọng khi con bước trên con đường tới quả vị Ki-tô. Hoàn cảnh bên ngoài không phải là chướng ngại, nó là cơ hội để con chứng minh là con không thể và sẽ không bị quy định bởi hoàn cảnh vật chất.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.7. Tâm thức Satan là tâm thức đòi hỏi Tánh linh phải thuận theo điều kiện hiện hành của vật chất. Mục đích của Ki-tô là giải thoát con người khỏi điều kiện hiện hành trong vật chất. Làm sao con giải thoát họ khỏi điều kiện hiện hành trong vật chất bằng cách thuận theo chúng?

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.8. Con chỉ giải thoát họ được bằng cách chứng minh rằng bất kỳ điều kiện hiện hành như thế nào, chúng không quy định được con như một sinh thể tâm linh. Con hơn những điều kiện đó.

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, chúng con cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

6.9. Điều kiện hiện thời của vật chất là sản phẩm của một viễn kiến hạn hẹp. Viễn kiến hạn hẹp của hầu hết mọi người trên trái đất này đã được phóng chiếu vào tấm gương vũ trụ từ rất lâu rồi và đã tạo ra điều kiện hiện thời của vật chất.

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế chúng con rải truyền.

Chân sư Lanto, Nguồn suối Trí tuệ,
Không thể đếm hết phúc lành ơn đức,
Thày là ánh sáng soi tỏ trần thế,
Minh triết Hoàng kim ôi sao sáng rực.

Phần 7

7.1. Làm sao con, là một đại diện của Ki-tô Hằng Sống, có thể giúp giải thoát con người nếu con không sống theo một viễn kiến cao hơn? Làm sao con có thể mở tâm một cách ý thức với viễn kiến này nếu con không nhận ra là con cần buông bỏ viễn kiến cũ, và con cần thấy nó hạn hẹp.

Ôi Mẹ Mary, Mẹ của con nhé,
Không tình yêu nào lớn hơn tình mẹ,
Hợp nhất với Mẹ trong tâm, tim này,
Con thấy chỗ đứng giữa các thày đây.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

7.2. Con cần cho cái ta dựa trên viễn kiến này chết đi và nói: “Nó có là gì với ta đâu? Con sẽ đi theo ngài,” và sau đó con đi theo Ki-tô Hằng Sống cho tới khi thấy được viễn kiến cao hơn đó.

Cõi trời con xuống nơi trái đất này,
Từ xa con đến hiện thân nơi đây.
Thẩm quyền thiêng liêng, nay con ra lịnh,
Mẹ ơi dũng mãnh, giải phóng hành tinh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

7.3. Con sẽ không bám víu viễn kiến cũ. Con sẵn sàng nhìn nó lại một lần nữa. Con là cái Ta Biết. Con là cái biết thuần khiết và do đó con bước ra ngoài phin lọc nhận thức của viễn kiến hiện thời của con.

Nhân danh Thượng đế, con kêu gọi Mẹ,
Ngọn Lửa của Mẹ sáng bừng mạnh mẽ,
Đốt tan năng lượng của mọi sợ hãi,
Hài hòa thiêng liêng, hồi phục mãi hoài.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

7.4. Con tháo ra cặp kính màu. Con nhìn cuộc đời của con mà không có viễn kiến cũ, không có phin lọc nhận thức, không bị pha màu và bây giờ con thấy được điều mà cho tới nay con không thấy.

Tên Mẹ thiêng liêng, ôi đẹp làm sao,
Tâm thức tập thể, Mẹ nâng lên cao.
Không còn sợ hãi, hổ thẹn nghi ngờ,
Ngọn lửa của Mẹ thiêu đốt sạch trơ.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

7.5. Con sẵn sàng xem xét một cách ý thức xem con có đang dùng giáo lý chân sư thăng thiên để chứng thực một viễn kiến hạn hẹp chăng. Con sẵn sàng buông bỏ bất cứ viễn kiến hạn hẹp nào dựa trên một diễn giải lệch lạc của giáo lý .

Bóng tối trái đất, mẹ lọc cho thanh,
Ánh sáng của Mẹ dấy lên dũng mãnh.
Tà lực tăm tối không sao cản được
vòng xoáy lên cao, hành tinh tiến bước.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

7.6. Làm sao con có thể bước lên một tầng tâm thức cao hơn nếu con không buông bỏ viễn kiến con đã tạo ra ở tầng hiện thời của con? Đây chính là nguyên lý của quả vị Ki-tô.

Mọi tinh linh sống, mẹ ban ân thánh,
Tảy đi muôn vàn ô uế người sanh.
Tinh linh giải thoát ở trong thiên nhiên
thể hiện hài hòa ý lệnh Thiêng liêng.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

7.7. Để vươn lên tầng tâm thức kế tiếp, con không thể đem theo cái ta hiện thời của con. Con không thể thuyên chuyển nó, con không thể kiện toàn nó, con không thể phát triển nó. Con sẵn sàng cho nó chết đi một cách ý thức và sau đó hình thành một cái ta khác ở tầng tâm thức kế tiếp.

Gióng to lập trường, con vùng đứng dậy,
Con truyền lệnh xuống, chiến tranh ngừng ngay.
Chiến tranh hết rồi, thôi hằn trái đất,
Thời đại hoàng kim, sinh ra rất thật.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

7.8. Con luôn luôn cần buông bỏ cái cũ để tái sinh trong cái ta mới, viễn kiến mới, sẽ nâng con lên cao hơn. Nếu con dính mắc điều gì, ngần ngại không muốn buông bỏ điều gì, thì đó là tàn dư của tự ngã vì chỉ có tự ngã mới nắm chặt.

Ôi Trái đất Mẹ, tự do thật sự,
Thảm họa xa xưa, bóng mờ quá khứ.
Ánh sáng của Mẹ, ôi sao sáng tỏa,
Vật chất dày đặc, giờ trong nhẹ quá.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

7.9. Con chào đón tăng trưởng một cách ý thức và nhận ra rằng tăng trưởng có nghĩa là buông bỏ cái cũ. Sẽ luôn luôn có cảm giác muốn giữ lại điều gì đó, nhưng đây chỉ là tự ngã, nó không có tầm quan trọng lớn. Con chỉ nhìn nó mà không cần đi sâu vào nó và nói: “Ôi, tôi biết nó là gì, nhưng tôi vẫn buông bỏ nó, tôi vẫn buông bỏ cái ta cũ này, cái viễn kiến cũ này, hãy đi đi.”

Trong Ánh sáng Mẹ, trái đất thanh tịnh,
Sung túc giờ đây là chuyện thường tình.
Vòng xoáy lên cao mãi hoài tỏa sáng,
Viễn quan Thượng đế hiện hình sáng lạn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày sáng tạo
bài ca gia tốc xối xả tuôn trào.
Nhìn đây trái đất, được nâng lên cao,
Vật chất lóng lánh như nghìn vì sao.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thỉnh cầu một viễn kiến cao hơn (6 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Cyclopea và Virginia và Hercules và Amazonia, Đại thiên thần Raphael và Mẹ Mary và Michael và Faith, Chân sư Hilarion và More yêu dấu, hãy giúp con biết viễn kiến vận hành ra sao. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với thày Hilarion và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Chính khả năng nhìn giúp con phóng chiếu lên tấm gương vũ trụ. Tấm gương vũ trụ có thể làm được gì ngoại trừ phản chiếu lại cho con điều mà con phóng chiếu lên nó?

Cyclopea yêu dấu, thày phơi ra sự thực, 
Rằng phiền não nhị nguyên rồi sẽ được hàn gắn, 
Ánh sáng màu Lục bảo của thày như thần dược, 
Chữa lành cảm thể con cho bình an mỹ mãn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.2. Nếu con muốn nhận được một sự phản chiếu khác từ tấm gương vũ trụ, thì con phải bắt đầu nhìn nhận rằng tầm nhìn không thụ động. Con phóng chiếu ra ngoài với tầm nhìn của con.

Cyclopea yêu dấu, con cùng thày tháo gỡ 
Những vòng xoáy tiêu cực đang phủ tâm mây mờ, 
Con biết mình cốt lõi là cái biết thuần sơ,
Là chìa khóa để thành cánh cửa luôn rộng mở.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.3. Con không chỉ giản dị hiểu điều này trên mặt lý thuyết và trí năng. Con có một trải nghiệm toàn diện chuyển đổi tâm thức khiến con nhận ra trong cả bốn thể phàm của con là tầm nhìn không phải là một khả năng thụ động. Lúc nào con cũng đang phóng chiếu ra ngoài và điều gì con phóng chiếu ảnh hưởng điều con thấy.

Cyclopea yêu dấu, thanh lọc mắt bên trong, 
Uy lực đó giúp con xuyên thủng đêm trong hồn,
Nay con nhìn cuộc sống với con mắt thuần đơn,
Vượt lên trên bệnh tật con sẽ bay cao hơn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.4. Những gì con phóng chiếu ảnh hưởng đến những gì con tưởng đến với con từ bên ngoài. Điều con thấy không phải là điều đến với con từ bên ngoài; điều con thấy là cái gì đã được sản xuất trong tâm của con.

Cyclopea yêu dấu, cuộc sống chỉ phản ánh 
Những hình tướng mà tâm cứ phóng ra địa cầu, 
Giữ tâm mình trong sáng là bí quyết chữa lành, 
Không còn một tâm ảnh để ngã trốn đằng sau.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.5. Con sáng tỏ tầm nhìn của mình để nhận ra những điều mà con đang phóng chiếu ra ngoài. Con làm chủ những gì con phóng chiếu ra, do đó con làm chủ những gì được gửi trả về con từ tấm gương vũ trụ. Tấm gương chỉ phản chiếu lại điều con phóng chiếu ra.

Cyclopea yêu dấu, chúng con nhắm thật cao, 
Ngày càng xích lại gần với ngọn lửa hàn gắn,
Xuyên tấm màn nhị nguyên bây giờ con cất cánh, 
Và tắm trong Ánh sáng thâm sâu màu Lục bảo. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.6. Một trong những ảo tưởng vi tế nhất trên con đường tâm linh đến thẳng từ tâm thức sa ngã. Giê-su đề cập đến ảo tưởng này khi thày nói: “Vương quốc thiên đàng chịu sự bạo lực, và người hung hãn muốn chiếm nó bằng vũ lực.”

Cyclopea yêu dấu, Lửa Lục bảo phanh phui 
Từng trò chơi quyền lực tinh vi của nhị đối, 
Kể cả âm mưu cũ là trò chơi gian dối, 
Cứ định nghĩa chân lý theo một cách mà thôi. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.7. Con không thể chiếm thiên đàng bằng vũ lực vì con không thể vượt quá bốn tầng của bầu cõi chưa thăng thiên khi con còn đang hiện thân ở một trong bốn tầng này. Con không thể nào ảnh hưởng tới cõi tâm linh.

Cyclopea yêu dấu, dòng chảy con cảm được,
Của Chân lý Hằng sống mà thày ban liên tục, 
Con nay đã giải thoát khỏi cái nhìn đối cực, 
Và khuôn đúc hành tinh lại trinh nguyên như trước. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.8. Con buông bỏ ý tưởng là mục đích của khóa học tự điều ngự này, hay con đường tâm linh nói chung, là đạt được một số khả năng phi thường. Mục đích con đường tâm linh không phải để đạt một khả năng máy móc.

Cyclopea yêu dấu, sự thật con đã thấy, 
Rõ mục đích cao hơn tại sao con ở đây, 
Con biết chân lý vượt mọi hệ thống dưới này, 
Con bơi trong ánh sáng và tăng trưởng gấp mấy. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

1.9. Con từ bỏ ý nghĩ cho rằng con chỉ cần theo vài bước giản dị, học một số công thức, đọc một số lời khẳng định, là con có thể xoay đổi đời mình một cách nhanh chóng và ép buộc vũ trụ phải cho con điều con mong muốn.

Cyclopea yêu dấu, con thấy thày hân hoan, 
Khi viễn kiến sáng tạo con đem ra thực hành, 
Để nhấc địa cầu lên khỏi lồng giam của rắn, 
Và thị hiện Hoàng kim của thày Saint Germain. 

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt ở tim,
Niệm tinh khôi, trái đất nhất mực sẽ giữ gìn. 

Phần 2

2.1. Khi thiếu một viễn kiến thuần nhất, con người sẽ tử vong. Con sẵn sàng nhìn vào tiềm thức của con để tiến tới một viễn kiến thuần nhất dựa trên Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Hercules Xanh ngắt, ý chí thày duy nhất,
Trong con còn khoảng trống, thày đổ đầy Lửa Xanh,
Ngọn hải đăng sáng rực, tỏa rạng trên trái đất,
Phục hồi lại sự sống cho tất cả hành tinh.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.2. Không có cách nào gian lận cách vận hành của vũ trụ được. Con không thể tạo ra một công thức máy móc sẽ cho con đúng hoàn cảnh con muốn. Tất cả những hứa hẹn giả đang hiện hành đều là giả.

Hercules Xanh ngắt, thày trí tuệ cao xa,
Tạo cảm giác trong con hiểu biết nơi tất cả.
Nay tâm con rất mới bỗng nhận được khung nền,
Để vượt qua giới hạn của đau đớn nhị nguyên.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.3. Con từ bỏ mọi ham muốn tạo ra một lập trình với tâm ý thức của con. Con muốn giải quyết những lập trình nơi các tầng kia của tâm con.

Hercules Xanh ngắt, với tất cả tình thương,
Con dâng lên Thượng đế, hằng hà lời tán thưởng,
Bây giờ con thấy rõ khi cảm được lửa sáng,
Cái ta cũng thăng vượt như đá hóa thành vàng.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.4. Con lấy quyết định ý thức là con muốn tự điều ngự thay vì muốn hoàn cảnh vật lý, vật chất hay kinh nghiệm nào đó trên trái đất.

Hercules Xanh ngắt, chữa lành muôn sự sống,
Bao bọc quanh tất cả, Xanh ngọn lửa Niêm phong.
Con biết ơn quá đỗi được tự tay góp phần
Trong tác phẩm của Ngài đẹp tinh xảo vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.5. Mục đích của khóa tu tự điều ngự này không phải là cho con quyền năng biểu hiện đúng những hoàn cảnh vật lý mà con muốn. Chuyện quan trọng không phải là biểu hiện hoàn cảnh vật lý nào đó; chuyện quan trọng là điều ngự cái ta.

Hercules Xanh ngắt, ngôi Đền của Ánh sáng,
Được tỏ lộ cho con lúc dõi nhìn vào trong,
Khi uy lực của thày giục con bước mạnh dạn,
Băng qua bao rặng núi, xuyên qua mọi tấm màn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.6. Sa nhận đưa ra lập luận dối trá rằng khi con có một số hoàn cảnh vật chất nào đó, thì lúc đó con sẽ hạnh phúc, lúc đó con sẽ được bình an trong tâm.

Hercules Xanh ngắt, con dâng hiến cuộc đời
Giúp cho cả hành tinh vượt tranh chấp loài người,
Khi lọc lừa nhị đối bị ánh sáng chọc thủng,
Trả lại cho trọn vẹn cái nhìn ở thâm cung.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.7. Trong nhị nguyên, con thấy mình là sinh thể tách biệt. Con thấy có sự phân chia giữa điều ở trong tâm mình và ở bên ngoài. Con kinh nghiệm rằng hoàn cảnh bên ngoài tâm ảnh hưởng trạng thái tâm của con.

Hercules Xanh ngắt, chúng con sẽ cởi xiềng,
Mọi sự sống thoát khỏi vi tế nhất nhị nguyên,
Hoàng tử của trần thế không còn gì để nắm,
Khi con đã cùng thày vượt lên trên hoàn toàn.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.8. Trong nhị nguyên, con rơi vào bẫy của ảo tưởng cho rằng cách duy nhất để làm chủ trạng thái tâm của mình là làm chủ ngoại cảnh. Một khi con có được ngoại cảnh như ý muốn, thì trạng thái tâm sẽ tự động theo sau.

Hercules Xanh ngắt, với thày con hợp nhất,
Để con mở tim ra cho thực tại của thày,
Ngọn lửa xanh như điện mở mắt cho con thấy
Rằng sống trong chân thực: khát vọng của con đây.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.9. Đây là ý muốn dùng bạo lực để đạt được bình an nội tâm bằng cách ép buộc ngoại cảnh phải tuân theo tầm nhìn của mình. Tầm nhìn đó đưa ra các hoàn cảnh lý tưởng mà mình cho rằng sẽ đem lại sự bình an nội tâm một cách máy móc.

Hercules Xanh ngắt, nơi nơi thày đổ tràn
Quyền năng vô bờ bến với Hồng ân vô hạn,
Chìa khóa của sáng tạo, chính thày là hiện thân,
Biểu lộ qua ý chí vượt thăng đến Vô tận.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

Phần 3

3.1. Con không phải là một sinh thể máy móc và do đó, bất kỳ ngoại cảnh như thế nào chăng nữa, con không nhất thiết được bình an. Ngoại cảnh không thể nào tạo ra bình an nội tâm vì bình an nội tâm và hạnh phúc là một điều kiện nội tâm.

Đại thiên thần Raphael, thày sáng rỡ làm sao, 
Thày nâng con lên khỏi tuồng sân khấu cuộc đời. 
Mẹ Mary và thày, viễn quan sao táo bạo, 
Muốn con đạt tiềm năng cao nhất có thể với. 

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.2. Tự điều ngự không có nghĩa là điều khiển ngoại cảnh, những điều kiện bên ngoài cái ta, mà là điều khiển hoàn cảnh nội tâm, những điều kiện bên trong cái ta.

Đại thiên thần Raphael, trong quả cầu lục bảo, 
Niệm tinh khôi con giữ cho mãi mãi thanh cao, 
Mẹ Mary bao bọc chúng con trong Tim Thánh, 
Không bao giờ xa cách trong tình Mẹ chân thành.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.3. Con đã nghe các thày giảng điều này, nhưng nay con thực sự thể nhập nó. Con khóa chặt tâm mình vào nó. Con nhận ra nó trong cả bốn tầng tâm của con. Cái Ta Biết của con đã bước ra khỏi động lượng cũ xưa muốn tìm cách kiểm soát thế giới bên ngoài.

Đại thiên thần Raphael, mọi đau ốm trị lành, 
Từng tế bào trong thân niêm lại trong ánh sáng, 
Chợt thấy niệm tinh khôi của đức Mẹ Mary, 
Con sống hiện thực mới là sức khỏe thần kỳ.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.4. Đường tu không máy móc. Con không thể chế ra một công thức tạo ra một số ngoại cảnh nào đó và sau đó sẽ tự động đạt được bình an nội tâm.

Đại thiên thần Raphael, ánh sáng vô cùng thực, 
Lộ ra cho con thấy Ki-tô trong thần thức, 
Mẹ Mary đang giúp để con thăng liên tục, 
Cùng thày con thăng lên trong ánh sáng bảo lục.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.5. Con sẵn sàng làm sáng tỏ viễn kiến của con về con đường tâm linh và về khóa học này. Con sẽ thăng vượt các viễn kiến thấp và thuận theo mục đích của khóa học.

Đại thiên thần Raphael, tiêu tan hết bệnh tật, 
Khi thày giúp con ngộ sự sống là Duy nhất, 
Con không còn chối bỏ tình yêu thày chân chất, 
Và niệm tinh khôi ấy, con phóng ra mọi vật.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.6. Con sống trong một thế giới không có đồ vật rắn đặc vì tất cả đều được cấu tạo bởi sóng năng lượng rung động. Con không nhìn thấy một đồ vật, con nhìn thấy một trường năng lượng.

Đại thiên thần Raphael, con hàn gắn địa cầu,
Cho trái đất hồi sinh khi con tỏa tinh khôi, 
Một ngày mới đã đến, một kỷ nguyên bắt đầu, 
Và ánh sắc lục bảo sáng như thể mặt trời.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.7. Nhãn quan có khía cạnh vật lý và phi vật lý.

Đại thiên thần Raphael, sa ngã là quá khứ,
Khi mọi người tìm thấy đường Ki-tô thoát tử, 
Nay ta giục ai nấy mau chữa lành đi chứ, 
Khi cả bốn thể phàm được niêm trong tình tự.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.8. Có nhiều tia ánh sáng đi vào đôi mắt vật lý của con hơn là con thấy. Tâm của con lọc đi nhiều tia sáng được coi là không liên quan hay thừa thãi.

Đại thiên thần Raphael, thày đem ánh bình minh,
Khiến thế lực bóng tối phải vội vàng lẩn tránh, 
Chúng kết liễu cuộc đời, ta đòi lại hành tinh, 
Và trên môi ai nấy, nở nụ hoa thanh bình.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

3.9. Con không thấy bằng hai mắt mà con thấy bằng bộ óc. Tuy thế, khía cạnh vật lý của nhãn quan, xảy ra trong não bộ, chỉ là khía cạnh thô thiển nhất của nhãn quan.

Đại thiên thần Raphael, ta giải phóng viễn kiến,
Khi ta thấy thực tại của Thượng đế thiêng liêng, 
Viễn tượng Saint Germain giờ đây đã thị hiện, 
Và trái đất niêm lại trong quả cầu trinh nguyên.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

Phần 4

4.1. Có một khía cạnh của nhãn quan liên quan tới thể cảm xúc của con, có một khía cạnh khác liên quan tới thể tư tưởng và một khía cạnh liên quan tới thể bản sắc. Con không thấy bằng mắt, con không thấy bằng não bộ, con thấy bằng cả bốn thể phàm.

Đại thiên thần Michael, trong ngọn lửa xanh ngắt,
Không còn bao đêm tối mà chỉ thày có mặt.
Trong hợp nhất với thày, con đã ngập ánh sáng,
Cảnh rực rỡ nhiệm màu hiện ra ngay trước mắt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.2. Ở mỗi tầng có sự bóp méo vì sự tương tác giữa các làn sóng năng lượng. Điều mà con thấy trong ý thức là kết quả của một kích thích bên ngoài tạo nên những mô thức giao thoa với bốn thể phàm của con.

Đại thiên thần Michael, thày cho con che chở,
Sau tấm khiên màu xanh con được sống muôn thuở.
Niêm con khỏi hồn bóng đang lang thang đêm tối,
Con ở trong cõi thày, rực sáng màu xanh tươi.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.3 Thể tình cảm, thể tư tưởng và thể bản sắc của con sẽ bóp méo tầm nhìn của con. Con muốn dần dần nhận rõ hơn là con có một phin lọc, và con có khả năng bỏ phin lọc ra và đạt được tầm nhìn thanh khiết hơn.

Đại thiên thần Michael, thày đem bao uy lực,
Mà hàng triệu thiên thần sẽ ca ngợi công đức.
Thiêu đốt muôn loài quỷ của nghi ngờ sợ hãi,
Con biết thày Có Mặt ở bên con hoài hoài. 

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.4. Các sa nhân tìm cách làm chủ thế giới bên ngoài mà không làm chủ thế giới bên trong. Họ đã phần nào làm chủ được bốn thể phàm của họ và những điều mà họ phóng chiếu ra.

Đại thiên thần Michael, ý Thượng đế thày yêu,
Từ Trên thày đem xuống ánh sáng của thiên triều.
Thượng đế chỉ muốn thấy mọi sự sống chuyển vọt,
Vươn cao trên bản ngã là quyền linh chót vót.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.5. Đây không phải là tự điều ngự; đây là điều ngự bốn thể phàm, nhưng không phải là điều ngự cái ta vì cái ta nhiều hơn là bốn thể phàm.

Đại thiên thần Michael, là bạn thân con đó,
Bao cạm bẫy thế gian, thày dang tay phù hộ.
Ác quỷ không thể sánh được quyền năng ánh sáng,
Nên linh hồn tất cả được bay bổng thênh thang.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.6. Tự điều ngự là ý định thanh khiết. Con buông bỏ mọi ham muốn uốn cong người khác theo ý chí của con bằng cách ép họ phải từ bỏ ý chí của họ.

Đại thiên thần Michael, như bày trẻ đùa chơi,
Chúng con dìu trái đất thức dậy trong ngày mới,
Nâng địa cầu ra khỏi lề lối đã ăn sâu,
Cho câu chuyện hành tinh được kể lại từ đầu.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.7. Con từ bỏ mọi ham muốn ép buộc vũ trụ phải cho con một số điều kiện dù con không có những điều kiện tương ứng bên trong mình.

Đại thiên thần Michael, Thượng đế tỏ quyền năng,
Mà chúng con biết thày không ai thể chiến thắng,
Thày không còn tách biệt nên vượt qua chắc chắn,
Mọi mưu mô hung tợn và thâm độc của rắn.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.8. Vũ trụ là một tấm gương. Nếu con muốn một số điều kiện, con phải tạo ra viễn kiến của những điều kiện này trong tâm con và sau đó con phóng chiếu viễn kiến này lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Đại thiên thần Michael, thày đến nâng địa cầu,
Để khắp nơi khắp chốn được tái sinh cùng thấu,
Để tâm của tập thể cùng đi lên một lượt,
Cho chúng con vui mừng mà ngợi ca không ngớt.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

4.9. Vấn đề là con tạo dựng viễn kiến của con qua tâm nhị nguyên, tâm tách biệt hay qua tâm Ki-tô, tâm không phân chia.

Đại thiên thần Michael, trái đất nay đổi mới,
Lửa xanh dương bao phủ giống như hạt sương rơi,
Hành tinh nay lóng lánh giữa không gian rộng lớn,
Để chúng con hứng lấy những hồng ân vô tận.

Đại thiên thần Michael, Hiểu biết thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

Phần 5

5.1. Con buông bỏ những tàn dư động lực phóng chiếu qua tâm tách biệt. Con buông bỏ mọi ham muốn, mọi nhu cầu của tâm tách biệt. Con buông bỏ ý tưởng cho rằng một phần của con đường tự điều ngự là thực hiện những ham muốn này và có khả năng biểu hiện các ngoại cảnh đó.

Hilarion, trên bờ lục bảo, 
Chúng con bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả 
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.2. Con buông bỏ ham muốn tâm điều ngự vật chất, vì con thực sự muốn tâm điều ngự tâm. Nhưng thực ra thì không có tâm điều ngự tâm, vì con muốn đi tới điểm mà con không có hai tâm. Con chỉ có một tâm mà thôi.

Hilarion, chìa khóa bí mật,
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.3. Nhị nguyên dựa trên sự phân chia cơ bản giữa ta và thế giới. Khóa học tự điều ngự là khóa học chiến thắng nhị nguyên, chiến thắng tách biệt, đi tới Tâm Ki-tô, nơi con thấy cái Duy Nhất của mọi sự sống.

Hilarion, tình yêu sự sống, 
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.4. Điều mà sa nhân gọi là điều ngự là khi họ tạo ra một phàm linh nội tại mạnh mẽ đến độ nó có thể nhất thời khống chế được những phàm linh nội tại khác. Tự điều ngự là khi con dần dần làm tan đi các phàm linh nội tại, làm tan đi sự phân rẽ nội tại.

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng, 
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền, 
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.5. Con mong muốn thăng vượt các phân rẽ nội tại và càng ngày càng đến gần điểm mà viễn kiến của con dựa trên Duy nhất.

Hilarion, thương yêu đón chào, 
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.6. Giê-su và Phật có khả năng điều ngự, nhưng các thày không chú tâm vào việc thể hiện điều kiện vật lý. Các thày chú tâm vào việc thể hiện Sứ vụ Thiêng liêng của các thày.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.7. Con muốn có trải nghiệm cao vượt lên trên cái ta! Viễn kiến của con không trụ vào cái ta tách biệt, con không chú tâm vào những gì con mong muốn cho cái ta tách biệt. Con chú tâm vào toàn thể, con chiến thắng sự phân rẽ giữa ta và người.

Hilarion, thông sạch luân xa, 
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà, 
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.8. Thành tựu sáng tạo tối hậu cho cái ta của con là làm điều gì nâng cao tổng thể, thay vì tập trung tất cả năng lượng, chú tâm và viễn kiến của con vào việc nâng cao cái ta tách biệt.

Hilarion, thày sẽ quân bình 
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong. 

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

5.9. Sa nhân nâng cái ta tách biệt của họ lên trên mọi người khác. Qua viễn kiến Ki-tô con thấy con có thể hành động để nâng cái ta tách biệt của mình lên mà không đè các ta tách biệt khác xuống. Con nâng cái ta của mình lên theo một cách mà toàn thể cũng được nâng cao luôn.

Hilarion, thày đang Hiện diện, 
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế chúng con rải truyền.

Hilarion, ánh sáng xanh nhất, 
Con nhìn thấu qua tấm màn vật chất,
Cái nhìn nội tâm không mang tỳ vết,
Địa cầu dang cánh bay lên trước mặt.

Phần 6

6.1. Khi con tới điểm mà năng lượng, sự chú ý và thời giờ của con tập trung vào việc nâng cao Tất cả, thì lúc đó con bắt đầu đạt được tự điều ngự.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.2. Con đang tiến tới điểm mà những gì con sở hữu không sở hữu con. Đối với con, chúng chỉ là phương tiện để đạt một cứu cánh, chúng không phải là cứu cánh.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.3. Con không tập trung vào việc tạo ra một số điều kiện vật chất để tạo ra trạng thái bình an nội tâm. Tâm con tập trung vào việc đạt được bình an nội tâm qua uy lực của chính cái tâm.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.4. Khi con điều ngự được cách tạo bình an nội tâm bất kỳ ngoại cảnh như thế nào, thì con đâu cần các ngoại cảnh này nữa?

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.5. Con không cố gắng có của cải vật chất hầu đạt được một kinh nghiệm nội tâm. Con tập trung vào kinh nghiệm nội tâm và hoàn cảnh bên ngoài sẽ chỉ là hoàn cảnh bên ngoài. Chúng ăn khớp với nhau và con tận dụng chúng, bất kỳ chúng là gì.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.6. Con sẽ không bao giờ, không bao giờ đạt tới điểm mà điều kiện bên ngoài sẽ lý tưởng để biểu hiện một trạng thái tâm thức cao hơn. Tâm thức đi trước sự biểu hiện vật lý.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.7. Con buông bỏ tất cả những ý tưởng tinh tế cho rằng để có thể thực sự đi trên con đường tâm linh và biểu hiện một trạng thái tâm thức cao hơn, một số điều kiện vật chất phải được hoàn thành.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.8. Con có thể đợi điều kiện lý tưởng mãi mãi. Con sẽ không biểu hiện được quả vị Ki-tô nếu con không quyết định tập trung sự chú ý vào bên trong, bất kỳ hoàn cảnh bên ngoài ra sao. Con sẽ tìm cái đà trong chính mắt con, con sẽ nhìn chính mình, con sẽ chú tâm vào việc đạt tự điều ngự thay vì điều ngự hoàn cảnh bên ngoài hay đợi cho các hoàn cảnh bên ngoài đó hiện ra như phép lạ.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

6.9. Tâm thức đi trước biểu hiện vật lý vì biểu hiện vật lý là phản ánh của tấm gương vũ trụ gửi lại con điều gì con phóng chiếu vào nó. Con không chú tâm vào tấm gương, con chú tâm vào những hình ảnh trong tâm mà con phóng chiếu ra ngoài.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Nhìn quá bức màn của vật chất, 15 đoạn

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 19/1/2017.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Thầy rất vui mừng khi thấy học viên đến tầng này của khóa nhập thất vì họ đã sẵn sàng đón nhận khai ngộ cuối cùng mà thày cống hiến trong khóa tự điều ngự này. Đây dĩ nhiên là sáng ngộ do năng lượng của Tia thứ Năm phối hợp với năng lượng của tự do.

Vậy khai ngộ mà con sẽ gặp ở tầng này là gì? Đó là con cần giải thoát tâm, giải thoát viễn kiến của mình khỏi ảo tưởng cơ bản rất tinh tế của sa nhân. Ảo tưởng này có nhiều tầng lớp. Thày có nói về điều này trong các bài giảng trước, đặc biệt là trong bài trước khi thày nói về việc giải thoát tâm mình khỏi ảo tưởng cho rằng vật là vật, chúng khó thay đổi vì vật chất rắn đặc và không thay đổi được bằng tâm.

16.1. Nhìn quá tấm màn vật chất

Con cần phải khởi sự làm điều gì? Khi con tới dự khóa nhập thất của thày trong các thể thanh thoát hơn của con, dĩ nhiên là thày dạy con cách nhìn quá tấm màn của vật chất. Có thể nói là tà ma là một tấm màn năng lượng vì các lực bóng tối, các sa nhân đã tạo ra ảo tưởng rằng vật chất rắn đặc và không thay đổi được. Con yêu dấu, điều này là một ảo tưởng hay chúng ta cần tìm hiểu thêm? Nó một ảo tưởng do sa nhân tạo ra, nhưng ta cũng nên tìm hiểu thêm vì có một sự tương ứng giữa sự dày đặc của vật chất và khả năng của các giác quan vật lý của con.

Điều rõ ràng là khi con còn sống trên một hành tinh có độ dày đặc như trái đất, con cần biết cách cảm nhận vật chất. Con cần phải đi lại trong vật chất và do đó giác quan vật lý của con phải có khả năng cảm nhận vật chất ở mức rung động hiện nay của nó. Nếu con xem đôi mắt chẳng hạn, con sẽ thấy là đã có lúc trái đất có một mức rung động cao hơn ngày nay. Mắt của những người sống trên trái đất lúc đó giản dị là không có khả năng thấy được những rung động dày đặc có mặt trên trái đất ngày hôm nay. Nếu con lấy những người thời đó và đem họ tới trái đất thời nay, họ sẽ không có khả năng nhìn thấy những gì con dễ dàng thấy là vật chất vì con mắt của họ không được điều chỉnh để tiếp nhận những rung động thấp đó.

Chuyện đã xảy ra là vì vật chất đã trở nên dày đặc hơn, vì cơ thể con đã trở nên dày đặc hơn, cặp mắt của con đã nới rộng phạm vi hoạt động và thấy được các rung động thấp hơn trước. Thực ra thì điều này tự nó không tạo ra tấm màn năng lượng, rào cản nhãn quan. Mắt vật lý của con vẫn có khả năng nhận ra các rung động cao hơn bên ngoài quang phổ vật lý. Một số trong các con thấy được hào quang chung quanh người khác. Mọi người đều biết là hào quang có thật và có một số người đã, theo như câu ngạn ngữ, “mở con mắt thứ ba” và có thể thấy hào quang và các luân xa. Hoặc họ có thể thấy được cõi trung giới (astral plane) hay các cõi cao hơn, và ngay cả chân sư thăng thiên.

16.2. Vì sao con không thấy được hào quang người khác

Con biết rằng điều này có thể làm được. Câu hỏi là: tại sao con không thấy được các rung động bên ngoài cõi vật chất? Có rất, rất nhiều người tin rằng lý do là vì con mắt vật lý không thấy được các rung động này; trên phương diện vật lý con không có khả năng để thấy được. Thày nói là điều này không đúng, và đây là sáng ngộ mà con sắp trải qua.

Thày có thể chỉ cho con thấy ở tầng ê-the là điều này không đúng. Thày có thể đơn giản chỉ cho con thấy phạm vi khả năng của con mắt vật lý. Thày có thể chỉ cho con thấy màn võng mạc (retina) trong con ngươi hoàn toàn có khả năng tiếp nhận tia ánh sáng của các rung động do hào quang người khác phát ra. Trên phương diện vật lý, con có khả năng thấy được hào quang.

Vậy tại sao con không thấy được hào quang một cách ý thức? Đó là vì con có một số phin lọc trong não bộ của con, trong vùng vỏ não thị giác, và ngay cả trong các thể cảm xúc, tư tưởng và bản sắc. Có phin lọc nhận thức tự nó không có gì sai trái, vì nếu con nhận hết tin tức mà mắt con có khả năng phát hiện thì tâm ý thức của con có thể bị choáng ngợp. Các phin lọc nhận thức có một chức năng chính đáng vì chúng giúp con chú tâm vào những điều quan trọng nhất cho con. Con sống trong thời đại Internet và tin học và nếu con lên trên mạng Internet và đọc hết những thông tin sẵn có thì con mau chóng bị choáng ngợp và tâm bị phân tán đến độ con không thể chú tâm vào điều gì. Con biết là con cần lọc lựa tin thông tin, nếu không con sẽ mau chóng bị choáng ngợp.

Đương nhiên là sa nhân biết điều này rất rõ. Nếu con nhìn lại lịch sử, con thấy là châu Âu trong khoảng thời gian dài non một ngàn năm đã ở trong giai đoạn được gọi là Thời kỳ Tăm tối. Lý do là vì Giáo hội Công giáo đã ngăn chặn mọi thông tin mà họ không ưng thuận. Họ đốt sách, họ cấm sách, họ ngăn không cho sách lưu hành và do đó chỉ có một số thông tin giới hạn tới tay quần chúng. Đó là một cách mà sa nhân dùng để hạn chế tự do của con. Nếu con có quá ít thông tin, con không thể làm được một số lựa chọn.

Khi thời kỳ hiện đại tới gần và càng ngày càng có nhiều công nghệ để phân phối thông tin, thì sa nhân nhận ra là họ không thể giữ chặt thông tin nữa. Ít nhất là có nhiều thông tin mà họ không thể kềm giữ. Do đó, họ thay đổi chiến thuật và tìm cách khiến con bị choáng ngợp bởi quá nhiều thông tin, đồng thời tung ra vô số thông tin lố lăng khiến mọi người bắt đầu nghi ngờ hết mọi thứ khác thường.

16.3. Phin lọc nhận thức chính đáng

Đó là cái Alpha và Omega của sa nhân, chiến lược đẩy và kéo của họ, hoặc ít quá hoặc nhiều quá. Bất cứ ai sống trên một hành tinh như trái đất cần một số phin lọc để loại đi những gì không xây dựng. Thày muốn nói gì khi thày nói “xây dựng”? Đương nhiên là thày muốn nói là con cần lọc bỏ đi bất cứ điều gì khiến con sao lãng việc hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con có thể thấy là khi con biết con có một Sứ vụ Thiêng liêng, khi con cảm nhận Sứ vụ Thiêng liêng của con là gì, thì con nhận ra là con cần một phin lọc nhận thức để loại bỏ những thông tin chỉ khiến con sao lãng và không chú tâm vào các khía cạnh cốt yếu của Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Điều thày muốn nói là: Con có một số phin lọc loại bỏ một số thông tin đến giác quan của con. Có một phin lọc loại bỏ ấn tượng thị giác đến từ hào quang hay trường năng lượng của người khác. Lý do là vì một số người có thể bị choáng ngợp khi thấy thông tin này. Có những người đã mở con mắt thứ ba, và bỗng nhiên họ thấy được các phàm linh và ác quỷ trong trung giới và bị chấn động mạnh mẽ. Con cần phải được huấn luyện trong một thời gian để dần dần làm quen với những cảnh này.

Tuy nhiên, con cũng cần nhận ra là vì con có thể tới điểm con thấy được hào quang người khác, không có nghĩa là điều này có trong Sứ vụ Thiêng liêng của tất cả mọi người tâm linh. Thày có thể nói với con là đại đa số những người tâm linh không có trong Sứ vụ Thiêng liêng của họ khả năng thấy được hào quang, vì khả năng này không cần thiết cho việc hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của họ.

Điều thày muốn nói qua lời giảng dông dài này là con cần nhận ra là có một số phin lọc nhận thức chính đáng. Nhưng cũng có một số không chính đáng vì con đã được dạy dỗ để chấp nhận một số phin lọc nhận thức không giúp con hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con. Một trong những phin lọc chủ yếu ngăn trở Sứ vụ Thiêng liêng của con là phin lọc nhận thức khiến con nghĩ vật chất là vật chất, vật chất rắn đặc, vật chất không thay đổi được.

16.4. Phin lọc nhận thức không chính đáng

Lý do vì sao phin lọc này rất tai hại vì nó khiến con nhìn hoàn cảnh trên trái đất và nghĩ rằng khi một chuyện có một hậu quả vật lý, vật chất, thì hậu quả này không thể thay đổi được ngoại trừ qua một hành động ở tầng cấp vật lý. Điều mà thày đã giảng trong các bài trước là thực tế về đời sống trên trái đất, về hoàn cảnh trên trái đất, là mọi thứ đều là năng lượng. Năng lượng rung động không ngừng. Năng lượng luôn luôn uyển chuyển và dù nó có hình tướng nào đối với giác quan và tâm vỏ ngoài của con, năng lượng lúc nào cũng thay đổi được.

Chuyện xảy ra là sa nhân đã tạo ra (và đã lừa đa số nhân loại cùng tạo ra) phin lọc nhận thức khiến con người nghĩ vật chất không phải là năng lượng, mà là một chất tách biệt. Nó rắn đặc, khó thay đổi và chắc chắn tâm không có quyền năng thay đổi được nó.

Con được dạy dỗ để có một phin lọc nhận thức tạo ra một lằn ranh giả tạo. Con biết và con cảm thấy có năng lượng chung quanh mình vì con thấy ánh sáng mặt trời và cảm thấy nhiệt độ. Con biết những cái này là làn sóng năng lượng, là rung động. Nhưng phin lọc nhận thức của con nói rằng năng lượng khác với các vật được tạo nên từ vật chất. Đó là lý do vì sao con đã bị lập trình để nghĩ rằng một khi một hoàn cảnh có một hậu quả vật lý, con không thể thay đổi hậu quả này ở tầng cấp năng lượng, mà chỉ thay đổi được ở tầng cấp vật chất.

Một thí dụ là bệnh tật. Các nhà y giới thực sự đã nhận ra là 90% các chứng bệnh là bệnh tâm thể, tức là chúng có một nguyên do tâm lý. Thực ra thì 100% các chứng bệnh là bệnh tâm thể vì chúng đều có một thành phần tâm lý. Con hãy thử nghĩ là giới y học đã nhận ra điều này nhưng chưa có một cuộc cách mạng khiến khoa học gia nghiên cứu tâm thức và ảnh hưởng của nó trên vật chất. Như thày có nói, các nhà vật lý lượng tử đã từ non thế kỷ nay nhận ra là có một mối tương quan mật thiết giữa tâm và các hạt cơ bản.

16.5. Thấy vật chất là năng lượng

Tuy vậy, các khoa học gia Tây phương vẫn chưa dồn năng lực và chú tâm vào việc nghiên cứu tâm thức và mối tương quan với vật chất. Họ vẫn giữa chặt ảo tưởng, do sa nhân tạo ra, cho rằng có một sự phân chia cơ bản giữa tâm và vật chất. Đây là ảo tưởng mà con cần phá vỡ ở đây. Thày có thể làm điều này rất dễ dàng ở tầng ê-the bằng cách đơn giản cho con thấy năng lượng được hạ độ rung dần dần từ tầng rung động tâm linh xuống tầng bản sắc, tầng tư tưởng, tầng tình cảm và tới tầng vật lý.

Thày có thể, bằng một số dụng cụ mà thày có ở khóa nhập thất, chỉ cho con thấy trực tiếp trên một màn ảnh làm sao độ rung của một khối năng lượng được hạ xuống. Thày có thể chỉ cho con thấy cách một khuôn đúc tư tưởng được đặt lên trên khối năng lượng này và dần dần nó mang một hình tướng khi năng lượng hạ độ rung.

Thày lấy một tảng đá làm thí dụ, và thày có thể chỉ cho con thấy làm sao tảng đá được tạo ra từ năng lượng. Do đó, ngay cả khi tảng đá xuống tới tầng vật lý, nó vẫn là năng lượng. Thày có thể cho con thấy làm sao ta có thể hướng một tia, một dòng năng lượng có tần số cao vào tảng đá và thay đổi nó. Hay đúng hơn, tia năng lượng giải thoát năng lượng bị giam trong khuôn đúc tảng đá làm cho nó bắt đầu rung ở tần số cao hơn và do đó dần dần làm tan cái khuôn đúc tảng đá đã giam giữ năng lượng trong đó. Năng lượng được giải thoát, trở nên lỏng, và có thể tuôn chảy để trở nên một chất khác hoặc trở về cõi tình cảm, tư tưởng, bản sắc và rốt cuộc cõi tâm linh.

Con có thể trực tiếp thấy các điều này ở khóa nhập thất của thày, và điều thày muốn con suy ngẫm ở tầng vật lý, với tâm ý thức, là con cũng có thể cảm nhận điều này với tâm ý thức. Có thể con không thấy được điều đó với con mắt vật lý, nhưng con có thể bắt đầu huấn luyện tâm con nhìn vật chất một cách khác. Con không cần cố gắng thấy bằng mắt vật lý rung động năng lượng đằng sau vật chất. Nhưng con cần nỗ lực, cần tập trung nỗ lực trong một thời gian, để huấn luyện tâm con thấy tất cả là năng lượng. Con cần biết trong tâm là đằng sau hình tướng rắn chắc mà con thấy là tảng đá, thật ra là năng lượng đang rung động. Bên trong nó, là năng lượng đang rung động; nó đang rung động, nó có thể thay đổi, nó là chất lỏng, nó có thể trở nên lỏng và tuôn chảy thành một hình tướng khác.

16.6. Một cách nhìn mới về thân thể

Con yêu dấu, con thấy chăng là trò lừa dối của sa nhân có nhiều hệ quả, nhưng để minh họa chúng ta hãy nhìn vào thân thể vật lý. Chắc con biết là nhiều chứng bệnh một phần là bệnh tâm thể vì chúng có nguyên nhân trong tâm. Như một người tâm linh, con hiểu được điều này. Tuy nhiên, một khi con đi khám bác sĩ và bác sĩ chẩn một triệu chứng vật lý, con dễ dàng chấp nhận lời phán xét của vị bác sĩ rằng một căn bệnh vật lý với một triệu chứng vật lý chỉ có thể chữa được ở tầng cấp vật lý. Một lần nữa, thày không nói là con không nên đi khám bác sĩ, là con không nên nghe lời khuyên của bác sĩ. Điều thày muốn nói là con vẫn có thể đi khám và nghe lời bác sĩ nhưng vẫn giữ trong tâm hình ảnh là thân thể con không phải là một chất vật lý, không phải là một vật. Nó là năng lượng rung động và do đó nó có thể thay đổi được. Cùng lượt với việc chữa trị bằng cách vật lý, con vẫn có thể thỉnh cầu năng lượng vào tình huống.

Con hiểu là ở tầng này của con đường tới tầng tâm thức 144, thày không muốn con (và thày không chờ đợi là con) có thể thay đổi sự vật chỉ băng quyền năng của tâm. Đó là lý do thày không muốn tới điểm mà con nói: “Được rồi, thày Hilarion có nói tôi là vật chất chỉ là năng lượng và do đó tâm có thể thay đổi nó. Bây giờ tôi đang phải đối phó với hoàn cảnh vật lý này nhưng tôi sẽ không làm gì ở tầng cấp vật lý, tôi sẽ chỉ ngồi xuống và tập trung tư tưởng để thay đổi nó bằng quyền năng của tâm.” Thày không muốn con làm vậy.

Lý do chính thày không muốn con làm vậy, vì các thày đã từng thấy nhiều học viên có trạng thái tâm tương tự và không thể hiện được những thay đổi vật lý mà họ muốn thể hiện. Sau đó, họ nản chí và chìm sâu xuống tầng thấp hơn khi họ bắt đầu.

Có những quyển sách và khóa học trên thế gian cho rằng họ có thể dạy học viên cách thể hiện sự vật, vật đó có thể là vàng hay tiền hay bất cứ gì họ muốn thể hiện. Họ nói là con có thể thể hiện một cái gì đó từ hư vô, từ không khí. Đây không phải là điều các thày dạy con trong khóa học này vì các thày không muốn con nản chí. Thày không nói là việc đó không thể làm được. Điều thày muốn nói là thày không chờ đợi con làm được điều này ở tầng tâm thức hiện nay của con. Do đó thày không muốn con đặt mục tiêu làm được điều này. Thày không muốn con đi vào con đường dẫn tới thất vọng. Điều thày muốn nói ở đây là, ở giai đoạn này của con đường tu, con nên thực tiễn theo một cách hành xử song song, vừa dùng biện pháp vật lý và vừa dùng dụng cụ tâm linh để thay đổi hoàn cảnh.

16.7. Làm cách nào thay đổi hoàn cảnh vật lý

Bất kỳ hoàn cảnh nào con phải đối phó trong cuộc đời, con đều dùng biện pháp vật lý để thay đổi hoàn cảnh đó. Cùng lúc, con theo một tiến trình trong tâm, trước hết nhận ra là ông hoàng của thế gian sẽ đến dụ dỗ con trong mọi hoàn cảnh. Hắn sẽ đến và dụ con chấp nhận là hoàn cảnh này bây giờ là một hoàn cảnh vật lý; nó có một hậu quả vật lý chỉ có thể giải quyết ở tầng cấp vật chất. Con theo những biện pháp vật lý thực tiễn mà con có thể theo được, nhưng con không chấp nhận là hoàn cảnh bất di bất dịch, không thể thay đổi được ngoại trừ ở tầng cấp vật lý. Con giữ tâm con trụ vững chắc vào hình ảnh là hoàn cảnh này là sự tương tác giữa các trường năng lượng, giữa các sóng năng lượng.

Dù hình tướng vật lý thế nào chăng nữa, dù nó có vẻ rắn đặc thế nào chăng nữa, đây vẫn là tương tác giữa các trường năng lượng. Điều thày muốn con làm là con nỗ lực (và nỗ lực kéo dài suốt khóa học này và ngay cả quá tầng tâm thức 96) huấn luyện và giáo dục lại tâm của con để lúc nào con cũng nhìn quá hình tướng vật lý, nhìn quá tấm màn che của vật chất, như có ghi trong bài chú mới của thày, và đi tìm thành phần năng lượng bên trong.

Sau đó, thày muốn con làm một việc thứ nhì với tâm ý thức. Thày muốn con quyết định là ở thời điểm này con sẽ không tìm cách tạo ra một thay đổi vật lý mà chỉ dùng quyền năng của tâm hay trực tiếp qua quyền năng của tâm. Như thày có nói, con dùng bất cứ biện pháp vật lý thực tiễn nào cần dùng trong hoàn cảnh, dù là trong việc chữa lành hay trong cách đối xử với người khác. Con cũng trụ tâm của con vững chắc vào sự thực rằng đây là một tương tác năng lượng và mục đích chính của con là nâng cao năng lượng của hoàn cảnh càng cao càng tốt. Mục đích chính của con không phải là tạo ra một kết quả vật lý đặc thù. Mục đích của tâm con là trở thành cánh cửa mở cho dòng năng lượng tâm linh tuôn chảy vào hoàn cảnh và thay đổi hoàn cảnh theo bất cứ cách nào mà năng lượng sẽ làm.

Nói cách khác, thày muốn con chơi một trò ảo thuật với chính mình bằng cách cố ý tách tâm mình khỏi ham muốn tạo ra một thay đổi vật lý. Con vô hiệu hóa ham muốn tạo ra một thay đổi vật lý đặc thù. Con chú tâm vào thành phần năng lượng, khía cạnh năng lượng của hoàn cảnh, và con trụ tâm con vào mục đích nâng cao năng lượng. Sau đó, con để ánh sáng mà con cầu thỉnh được tự do làm bất cứ điều gì nó muốn làm trong hoàn cảnh, mà con không trụ tâm mình vào một kết quả đặc thù.

16.8. Những gì con có thể và không thể thay đổi

Thày có nói trong bài giảng trước là con cần làm cho tâm con lỏng ra và quyết định rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào, mục đích của con là tăng trưởng, thăng vượt và xuôi theo Dòng Sông sự Sống. Làm sao con làm điều này? Tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống có nghĩa gì? Vật chất không phải là điều quan trọng. Con không tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống bằng cách đối phó liên tục với các điều kiện vật chất. Con tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống bằng cách làm việc liên tục với các điều kiện năng lượng.

Khi con hiện thân ở một hành tinh dày đặc như trái đất, thì sẽ luôn luôn có những điều kiện vật lý mà con không thể thay đổi bằng quyền năng của mình. Thày có nói trước đây: bởi vì người khác có quyền tự quyết. Ngay cả Giê-su cũng không thay đổi được một số chuyện mà tâm thức đại chúng đã quyết định; Giê-su không có quyền làm chuyện này. Sẽ luôn luôn có điều kiện vật chất mà con không thể thay đổi. Điều con có thể thay đổi là thành phần năng lượng của hoàn cảnh và khi con làm thế, hai chuyện có thể xảy ra. Thứ nhất là ngoại cảnh có thể trở nên lỏng đủ để thay đổi vật lý có thể xảy ra. Có thể tất cả những gì con mong muốn sẽ không xảy ra, nhưng một số thay đổi có thể xảy ra. Chuyện nữa có thể xảy ra là người khác có thể được giải thoát khỏi tấm màn năng lượng của họ, khỏi gánh nặng năng lượng của họ, và bắt đầu lấy những quyết định khác làm thay đổi hoàn cảnh.

Đây là những chuyện xảy ra bên ngoài con khi con tập trung vào việc nâng cao năng lượng. Khi con chú tâm là cánh cửa mở để nâng cao năng lượng và đọc bài thỉnh, tạo hình ảnh trong tâm, và để cho năng lượng chảy vào hoàn cảnh, con có thể khiến hoàn cảnh bên ngoài lỏng ra phần nào. Điều này có thể đem tới một số thay đổi nơi ngoại cảnh, nhưng khi con làm vậy con cũng khiến tâm con lỏng ra. Con sẽ làm lỏng hoàn cảnh năng lượng bên trong con. Khi con làm vậy, con sẽ thấy được những điều mà hôm nay con không thể thấy. Con sẽ thấy là có một hướng phản ứng khác với hoàn cảnh. Con bỗng nhiên có một tầm nhìn khác, bỗng nhiên hoàn cảnh trước kia trông quá nghiêm trọng, quá tàn khốc, quá khó thay đổi nay trở nên không còn nghiêm trọng, không còn tàn khốc, không còn khóa cứng trong một khuôn đúc.

Bỗng nhiên con bắt đầu thấy là dù con không thay đổi được hoàn cảnh, chắc chắn là con có thể tiếp tục cuộc đời mình, và bỗng nhiên tảng đá trong dòng sông dã ở đằng sau con và con đang xuôi theo Dòng Sông sự Sống. Có thể vẫn còn lại một hoàn cảnh vật lý chưa thay đổi, nhưng con đã tiếp tục tiến lên. Con đang xuôi theo Dòng Sông sự Sống. Thày muốn con biết một cách ý thức đây là mục đích mới của con.

Thày cần con lấy quyết định một cách ý thức đây là mục đích mới của con. Thày biết là trong các con có những người đang đối mặt một số điều kiện đặc trưng, như một bệnh trong cơ thể, một hoàn cảnh với người khác, hay điều kiện tài chính, hay việc làm, hay các vấn đề khác. Thày biết là các hoàn cảnh này có vẻ rất khó thay đổi. Điều hoàn toàn tự nhiên là khi con tham dự khóa học này, con có hy vọng là một ngày kia sẽ có một chuyển đổi và con có thể thay đổi các điều kiện đó.

16.9. Không có kết quả vật lý đặc trưng

Mặt khác, cũng có thể là con sẽ tới điểm con có thể thay đổi các hoàn cảnh đó. Một số học viên đã thay đổi hoàn cảnh trong khi tham dự khóa học này. Điều thày muốn nói là ở điểm này, thày muốn con chuyển đổi tâm thức một cách ý thức và nói: “Đồng ý, con sẽ bỏ qua bên mong muốn đạt được một số thay đổi vật lý đặc trưng và tham gia thí nghiệm này, như thày Hilarion đã giảng, qua đó con chú tâm nâng cao năng lượng của hoàn cảnh. Con sẽ chỉ chú tâm vào điểm này. Con chú tâm là cánh cửa mở cho năng lượng trên cao tuôn chảy vào hoàn cảnh và con trả tự do cho hoàn cảnh, con trả tự do cho năng lượng.

Con yêu dấu, sau đây là điểm quan trọng: “Con giải thoát con khỏi ám ảnh muốn đạt một kết quả vật lý đặc trưng. Con cho phép Thượng đế bước vào hoàn cảnh và làm bất cứ điều gì Tánh linh muốn làm phù hợp với viễn kiến của Ki-tô, viễn kiến có thể cao hơn những gì con có thể thấu hiểu ngay lúc này. Do đó, con sẽ bình an với bất cứ kết quả nào. Con biết là dù không có thay đổi vật lý, con đã nâng cao năng lượng và con sẵn sàng nhìn vào tâm mình và thấy nâng cao năng lượng đã giúp con nhìn hoàn cảnh khác như thế nào, con đối phó với hoàn cảnh khác như thế nào so với trước kia.”

Con yêu dấu, nếu con chịu làm như thày nói và mở tâm ra, thì con sẽ nhận được một viễn quan mới về hoàn cảnh. Con yêu dấu, con có thấy chăng: có những người nghiên cứu thuật kết đọng (precipitation), thuật thể hiện, thuật chuyển hóa vật chất. Nhiều người trong số này có ước muốn mà ta có thể gọi là thiếu chín chắn, muốn thể hiện sự vật từ hư không để có thể làm người khác chóa mắt và để họ cảm thấy họ có khả năng điều ngự vật chất. Đây không phải là mục đích của khóa học này. Mục đích của các thày là giúp con tới điểm con có thể điều ngự ngoại cảnh trong cuộc sống, điều ngự hoàn cảnh sống của con và các mối tương tác giữa con và người khác.

Nói cách khác, mục đích của các thày không phải là dẫn con tới điểm con thể hiện được một sự vật đơn giản, tỷ dụ như một thỏi vàng. Điều đó lợi ích gì cho con nếu con chưa thực sự thay đổi tâm thức? Mục đích của các thày là dẫn con tới điểm con thấy được điều gì cần thay đổi và điều gì không cần thay đổi trong một hoàn cảnh vì người khác có quyền tự quyết hay vì có điều kiện chính đáng khác. Con thấy điều gì có thể thay đổi được và điều gì không thể thay đổi được, và con chấp nhận điều không thay đổi được và con làm điều tốt nhất trong tình huống.

Dĩ nhiên con có thể thay đổi những gì có thể thay đổi được, nhưng điều các thày mong muốn là dẫn con tới điểm con thay đổi được ngoại cảnh của con thay vì thể hiện một sự vật đơn giản. Thày bảo đảm với con ngày cả khi con thể hiện được một vật đơn giản, không có nghĩa là con đã thay đổi được ngoại cảnh của mình.

16.10. Mơ ước thiếu chín chắn

Các thày muốn các con biết thuật biến hóa huyền bí (alchemy) liên quan đến cách sống trên trái đất, chứ không phải để biểu diễn những biến hóa giống như trò ảo thuật. Con yêu dấu, học viên có nhiều mơ ước khi bắt đầu khóa học này. Nhiều người, nhiều đệ tử tâm linh, nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã bị quyến rũ bởi thuật biến hóa huyền bí, và các huyền thoại về thày Saint Germain như khả năng điều chỉnh các tỳ vết của kim cương, hay khả năng đột nhiên xuất hiện từ hư không, hay các chuyện khác. Con yêu dấu, thày Saint Germain là một chân sư thăng thiên đã được đặc miễn để xuất hiện đưới hình tướng thân thể vật lý (thày không nói là thày Saint Germain có một thân thể vật lý) và do đó thày đã biểu diễn những kỳ công này trong một số hoàn cảnh đặc biệt nhằm chuyển đổi tâm của một số người có tâm rất khép kín.

Điều này không có nghĩa là trong thời đại này các thày muốn đệ tử có khả năng làm những kỳ công như vậy để làm chóa mắt người khác. Có những đệ tử nghĩ rằng nếu họ biểu diễn được những kỳ công như vậy, thì chắc chắn sẽ thu hút hàng triệu đệ tử tới giáo lý chân sư thăng thiên, sẽ thuyết phục mọi người là giáo lý này chân chính và sẽ là tôn giáo mới của thời đại sắp tới. Điều này hoàn toàn không phải là mục tiêu của các thày. Mục tiêu của các thày là dạy con thành người luyện đá hóa kim thực tiễn, có khả năng chứng minh cho mọi người thấy một cách sống thành công, bình an, hữu ích, tích cực trong hoàn cảnh rất phức tạp, rất rắc rối của trái đất này.

16.11. Chuyển hóa xung đột

Thày có nói là tâm con có định kiến là vật chất rắn đặc và khó thay đổi. Bây giờ con hãy đi xa thêm một bước nữa. Con hãy đứng lui lại và không nhìn vào vật chất, tỷ dụ như tảng đá mà thay đã dùng làm thí dụ. Con hãy nhìn vào sự kiện toàn hành tinh được cấu tạo bằng vật chất. Con có bảy tỷ người mang xác thân vật chất đã xây dựng nên xã hội và văn minh tân tiến.

Sau đó, con hãy nhìn vào cách họ đã tương tác với nhau, tỷ dụ có nhóm người đã giữ chặt hình ảnh là một nhóm người khác đã bạo hành họ trong quá khứ. Mặc dù thời gian đã trôi qua và hậu quả vật lý của những việc xảy ra nhiều năm trước đây đã biến mất, nhưng những người này vẫn giữ trong tâm họ khuôn đúc đó. Họ mang nó theo trong tâm họ và cho phép lòng oán giận về việc quá khứ đó ảnh hưởng cách họ cư xử trong hiện tại đối với nhóm người kia.

Con hãy nhìn sự kiện có những nhóm người mang theo lòng oán giận từ nhiều thế kỷ nay. Con yêu dấu, điều này ảnh hưởng ra sao cách cư xử vật lý của họ? Con có nhận ra là đằng sau đại đa số những xung đột trên trái đất này là con người giữ chặt một hình tư tưởng họ đã tạo ra trong quá khứ xa xôi nhưng lại cho phép nó ảnh hưởng hành động vật lý của họ trong hiện tại?

Con hãy tưởng tượng con có khả năng thay đổi khía cạnh năng lượng của hoàn cảnh để năng lượng được nâng lên tới điểm con người vượt qua sự dính mắc tình cảm-tư tưởng vào những hình ảnh cũ xưa này? Con hãy tưởng tượng, thay vì nghĩ người Ả Rập luôn luôn có thái độ tiêu cực về người Do Thái và ngược lại, bỗng nhiên năng lượng thay đổi và con người có thể bắt đầu tự hỏi: “Tại sao chúng ta cứ lặp đi lặp lại những khuôn nếp cũ này? Chúng ta có thật sự thích kết quả này không? Chúng ta có thích tiếp tục xung đột như thế này không? Chúng ta đã được dạy dỗ để nghĩ rằng chúng ta không làm gì để thay đổi tình hình được vì những người kia có lỗi và do đó họ là những người cần thay đổi. Và họ cần phải bị trừng phạt trước khi họ được phép thay đổi. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta nhận ra là chúng ta có thể làm gì đó để thay đổi tình hình, chúng ta không cần thay đổi những người kia, chúng ta chỉ giản dị thay đổi chính mình và sống tiếp cuộc đời mình?”

“Chúng ta thật sự không quan tâm về những người kia và việc họ có thay đổi hay không, chúng ta chỉ quan tâm về chính mình và chúng ta muốn tiến lên với cuộc đời mình. Chúng ta muốn đi ra khỏi xung đột này vì chúng ta nhận ra chúng ta bị nó ảnh hưởng, và những người kia cũng vậy. Chúng ta bị nó đè nặng lên vai, và tại sao chúng ta lại truyền lại cho con cái chúng ta những gì mà cha mẹ chúng ta đã để lại cho chúng ta? Tại sao chúng ta không chất vấn cả tiến trình này và bắt đầu thay đổi cách cư xử của mình dù những người kia chưa thay đổi cư xử của họ?”

16.12. Cách duy nhất để thay đổi hoàn cảnh

Con có thấy chăng đây là cách duy nhất để thay đổi một hoàn cảnh? Con yêu dấu, con hãy nhìn tình hình ở Trung đông. Con hãy nhìn vào những gì xảy ra tại Syria trong những năm vừa qua. Con có thực sự nghĩ là có ai có thể làm điều gì để tạo một thay đổi vật lý có thể dẫn tới hòa bình? Con có nghĩ là nếu cộng đồng thế giới (dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc hay nhóm nào) họp nhau lại và nói: “Bây giờ chúng ta sẽ tập họp một đạo quân lớn đủ để vào Syria và tái lập hòa bình ở đó.” Con có nghĩ là điều này sẽ có kết quả gì chăng? Con có nghĩ là sẽ có hòa bình chăng?

Chắc con cũng thấy là hành động này có lẽ sẽ chỉ tạo thêm xung đột. Con có thấy chăng là tại Syria, nhiều năm trước đây đã có những nhóm chống đối đã bắt đầu giai đoạn nổi loạn chống chính quyền? Một số nước Tây phương muốn hạ bệ chính phủ vì họ nghĩ Tổng thống Assad là một nhà độc tài. Họ quyết định ủng hộ một số những nhóm ở Syria mà họ cho là “ôn hòa”. Họ huấn luyện các nhóm này và cho họ tiền bạc và vũ khí, và sau đó các nhóm ôn hòa này bắt đầu một cuộc chiến bạo động chống lại Tổng thống Assad. Con yêu dấu, con hãy tự hỏi: “Làm sao một người ôn hòa lại có thể sẵn sàng giết người khác?”. Thày biết là con có thể nói là những nhóm như ISIS hay IS cuồng tín hơn những nhóm “ôn hòa”, nhưng làm sao một người sẵn sàng dùng bạo lực lại có thể gọi là ôn hòa?

Con có thấy chăng là có tư duy con người (không những chỉ ở Trung đông, mà cũng ở các nước Tây phương) bị khóa kín và do đó chỉ tạo thêm càng ngày càng nhiều xung đột? Con có thấy chăng là các nước Tây phương có thể đi vào Syria, không với viễn kiến hạ bệ Tổng thống Assad, nhưng với viễn kiến sau đây: “Chúng tôi muốn nâng tâm thức người dân Syria lên để họ có thể tự họ cải thiện tình hình”. Con hãy tưởng tượng xem hậu quả sẽ là gì. Thày đồng ý là ban đầu kết quả có thể rất giới hạn, nhưng trên đường dài thày bảo đảm với con là thái độ này sẽ có một kết quả tích cực hơn là tình trạng rối beng hiện nay.

Làm sao con có thể coi là dân chủ và tự do đã chiến thắng khi con có một quốc gia trong đó đa số nhà cửa bị tàn phá bị bom đạn? Làm sao đây có thể là một chiến thắng của bất cứ điều gì? Làm sao đây có thể là tiến bộ?

Con có thấy chăng là nếu chúng ta nhìn vượt lên trên các chính quyền và tưởng tượng là có đủ số người tâm linh trên thế giới quyết định chú tâm nâng cao khía cạnh năng lượng của tình hình tại Syria, thì kết quả sẽ ra sao chăng? Thày bảo đảm với con là việc này có một kết quả tích cực hơn rất nhiều so với tình hình hiện nay. Con có thấy chăng là đằng sau tình hình Syria là tư duy mà thày đã nói tới, là tư duy ma vương, tư duy sa ngã? “Đây là tình hình ở Syria; nó có một số thành phần vật lý mà chúng ta coi là không đúng. Do đó, chúng ta là các nước dân chủ tự do cảm thấy cần phải làm cái gì. Chúng ta có thể làm gì? Chúng ta chỉ có thể dùng biện pháp vật lý để thay đổi hậu quả vật lý, do đó chúng ta phải viện trợ vũ khí cho những nhóm nổi loạn để họ có thể dùng bạo lực vật lý để loại trừ nhà độc tài.” Con yêu dấu, như các thày có nói nhiều lần, người lãnh đạo một nước là biểu hiện của tâm thức tập thể của nước đó. Tình hình tại Syria hiện nay cho con thấy điều gì? Tâm thức tập thể ở Syria giản dị không cao đủ để loại trừ ông Assad. Tình hình vật lý sẽ không thay đổi nếu tâm thức tập thể chưa thay đổi. Con hãy tưởng tượng nếu mọi người chú tâm vào việc nâng cao tâm thức tập thể của người dân Syria và cho nó thì giờ cần thiết tới khi họ sẵn sàng có một chính quyền khác hơn những gì họ đã có. Thày bảo đảm với con là nếu tiến trình này được phép diễn ra thì bây giờ đã có sự thay đổi mà nước Syria không bị đội bom trở về thời kỳ đồ đá.

16.13. Giải thoát khỏi điều kiện vật chất

Thày biết là điều này, thoạt trông không dính dáng đến một khóa học tự điều ngự, nhưng thày dùng nó như một thí dụ để cho con thấy là nếu con thay đổi tâm thức và chú tâm vào việc chuyển đổi năng lượng của một hoàn cảnh, thay vì thay đổi các khía cạnh vật lý, thì cuộc đời và con đường tâm linh của con sẽ có ý nghĩa hoàn toàn mới. Đây là tầng thứ bảy của khóa nhập thất của thày. Con đang đối mặt với năng lượng của Tia thứ Bảy của Tự do. Thày cống hiến gì cho con? Thày đang cống hiến con cơ hội giải thoát tâm khỏi sự ám ảnh vào điều kiện vật chất, vật lý.

Con có nhận ra trò lừa đảo của sa nhân là làm con quên bẵng con là sinh thể tâm linh? Làm sao chúng đã khiến con quên điều này? Bằng cách khiến con chủ yếu chú tâm vào các hoàn cảnh vật lý, vật chất. Con yêu dấu, con có thấy chăng là nếu con đi trên con đường tâm linh, con học khóa tự điều ngự, nhưng vẫn còn mục tiêu thay đổi điều kiện vật lý (tức là con điều ngự điều kiện vật chất) thì con thật sự đang đi trên con đường tâm linh với tư duy do sa nhân áp đặt lên con. Con đường tâm linh mà các chân sư thăng thiên cống hiến, được cống hiến từ tâm thức chân sư thăng thiên – không phải từ tâm thức sa ngã.

Nếu con đang lê theo mình những yếu tố của tâm thức sa ngã, con nghĩ con sẽ thành công chăng trên con đường dẫn tới tâm thức thăng thiên và được dựa trên tâm thức thăng thiên? Con sẽ thành công đến mức nào? Con có sẽ thành công chăng nếu con giải quyết một vấn đề với cùng trạng thái tâm thức đã gây ra vấn đề đó? Như thày đã nói trong các bài giảng trước, sa nhân muốn con nghĩ rằng vật chất là cái quan trọng nhất, thậm chí chỉ có vật chất hiện hữu.

Các chân sư thăng thiên muốn con nhận ra là không phải chỉ có vật chất hiện hữu và vật chất không quan trọng lắm. Điều quan trọng hơn nhiều là những gì xảy ra trong toàn thể bốn tầng cấp của vũ trụ vật chất, không chỉ riêng ở tầng cấp vật lý. Con yêu dấu, có rất, rất nhiều người trong lịch sử hành tinh này, ngay cả khi nó trở thành dày đặc như ngày hôm nay, đã thành công trên con đường tâm linh và hội đủ điều kiện thăng thiên nhưng họ vẫn mang một số căn bệnh thân thể, khiếm tật hay ở trong một hoàn cảnh vật lý rất giới hạn.

Một lần nữa con nhìn thí dụ cuộc đời Giê-su, như thày đã giảng. Con có thể nhìn dưới góc độ duy vật và nói rằng Giê-su đã thất bại vì thày bị giết. Thày còn không tránh được bị giết. Giê-su hội đủ điều kiện thăng thiên bằng cách kinh qua hoàn cảnh vật lý đó, và lý do là dù chuyện gì xảy ra ở tầng cấp vật lý, Giê-su đã dùng mỗi hoàn cảnh để thay đổi tâm thức của thày. Giê-su thay đổi thể tình cảm, thể tư tưởng, thể bản sắc của thày. Một khi con chuyển đổi những thành phần của ba thể cao, con có thể sẵn sàng thăng thiên bất kể những hoàn cảnh con đối đầu ở tầng cấp thân thể vật lý của con. Điều đó không quan trọng.

Những gì xảy ra với vật chất không quan trọng vì thăng thiên là một tiến trình tâm linh. Con hội đủ điều kiện thăng thiên ở các tầng tình cảm, tư tưởng và bản sắc, không phải ở tầng vật lý. Dĩ nhiên, con không thể giết người và hội đủ điều kiện thăng thiên. Con cần thay đổi một số chuyện ở tầng vật lý, nhưng không có điều kiện toàn hảo nào ở tầng vật lý mà con phải hội đủ để thăng thiên.

Điều này được chứng minh rất rõ bởi Giê-su, cho những ai có tai để nghe và mắt để thấy, và thày biết đây là trường hợp của con khi con tới tầng này của khóa học. Thày biết là con nghe và thấy rõ trong các thể thanh thoát hơn của con khi con dự khóa nhập thất của thày. Do đó, thày biết con cũng sẽ làm được ở tầng ý thức khi con chuyển hóa tâm, như thày muốn con làm.

16.14. Vượt qua ham muốn thấp

Con hãy bỏ qua bên mọi ham muốn thực hiện những thay đổi vĩ đại trong cuộc sống cá nhân hay chứng minh điều gì vĩ đại cho người khác. Con hãy bỏ qua bên mọi ham muốn đạt được kết quả vật lý nào đó. Con hãy chú tâm nâng cao năng lượng trong mọi hoàn cảnh con gặp. Con hãy chú tâm nâng cao năng lượng của thân thể vật lý, và điều này, dĩ nhiên, đòi hỏi con cũng phải nâng cao năng lượng nơi ba thể cao hơn của con. Con hãy giản dị chú tâm làm việc này.

Thày không nói là con sẽ không bao giờ tới được điểm có thể tạo thay đổi vật lý. Điều thày muốn nói là chú tâm vào năng lượng sẽ rút ngắn thời gian tới điểm có thể tạo thay đổi vật lý. Điều thày muốn nói là chính Giê-su cũng không có ý định tạo thay đổi vật lý. Có nhiều đệ tử không hiểu điều này, nên thày sẽ giải thích thêm.

Con hãy nhìn trường hợp Giê-su gặp một người có cánh tay bị teo lại. Như thày đã nói trong bài giảng trước, Giê-su không có tư duy tức khắc đánh giá tình trạng này sai, tình trạng này đáng lẽ không được xảy ra. Khi nhìn cánh tay bị teo, Giê-su cũng không có tư duy cho rằng: “Ồ, đây là một hậu quả vật lý chỉ có thể thay đổi ở tầng vật lý, và vì không ai biết cách thay đổi ở tầng vật lý, nên điều này không thể làm được.”

Giê-su không chấp nhận tình trạng cánh tay teo này là thường trực, nhưng thày cũng không đánh giá tình trạng này sai và phải chữa lành cánh tay bằng mọi giá. Thày không bước vào hoàn cảnh với ý định chữa lành cánh tay bị teo. Giê-su bước vào hoàn cảnh với ý định nâng cao năng lượng của hoàn cảnh, nâng cao tâm thức của người kia để y chuyển hóa tâm thức. Mục đích của Giê-su không phải là chữa lành cánh tay nhưng thày muốn giải thoát người kia khỏi trạng thái tâm thức mà y có khi gặp Giê-su. Giê-su không có viễn kiến định sẵn là tâm thức người kia sẽ thay đổi ra sao, vì thày biết điều này tùy thuộc quyền tự quyết. Thày bước vào hoàn cảnh để truyền năng lượng cao vào đó và cho người kia có một cơ hội thay đổi tâm thức mà y không có trước đó.

Trong trường hợp này, người có cánh tay bị teo sẵn sàng chuyển đổi tâm thức và y cảm được luồng năng lượng cao đến từ Giê-su. Y sẵn sàng chuyển đổi tâm đến mức cánh tay của y có thể được chữa lành ở tầng vật lý. Điều này chính yếu là do y sẵn sàng mở tâm ra. Nó ngoài tầm kiểm soát của Giê-su, và chỉ tùy thuộc quyền tự quyết của người kia. Do đó, Giê-su chỉ có thể là cánh cửa mở để năng lượng cao tuôn chảy vào hòan cảnh, thày không có chủ đích đặc trưng nào. Thày không muốn chứng tỏ điều gì cả, thày không muốn làm một phép lạ khiến thày nổi danh. Thày chỉ giản dị là cánh cửa mở, không hơn không kém. Khi cánh tay của người kia được chữa lành, thực sự là Giê-su đã ngạc nhiên, không phải vì thày nghĩ chuyện này không thể xảy ra, nhưng thày ngạc nhiên là y đã chấp nhận và làm được sự chuyển đổi tâm thức đã khiến sự chữa lành xảy ra.

Giê-su đã hành xử tương tự với nhiều người khác nhưng họ không kinh nghiệm được chữa lành thân thể vì họ không chấp nhận hay không làm được sự chuyển đổi tâm thức dù họ đều cảm được luồng năng lượng cao đến từ Giê-su. Thời nay có người đến gặp những người có khả năng chữa lành bằng đức tin và đã trải nghiệm chữa lành vật lý, nhưng sau một thời gian, căn bệnh tái xuất hiện. Lý do là vì khi họ cảm thấy trường năng lượng cao thì họ chuyển đổi tâm thức và chấp nhận là chữa lành có thể làm được. Nhưng khi họ trở về đời sống bình thường, họ dần dần lún sâu trở lại vào trình độ tâm thức bình thường của họ. Họ không thường trực chuyển đổi tâm thức và do đó căn bệnh tái xuất hiện, hay đúng hơn tâm họ tái tạo căn bệnh vì họ chưa thay đổi những hình ảnh trên ba thể cao hơn mà họ phóng chiếu vào năng lượng vật lý.

16.15. Là cánh của mở cho năng lượng cao hơn

Con là một đệ tử tâm linh. Con có khả năng cảm nhận năng lượng tâm linh cao hơn. Con đã cảm thấy năng lượng trong các bài truyền đọc của các thày. Con đã cảm thấy năng lượng khi con đọc bài chú bài thỉnh và cảm thấy năng lượng tuôn chảy qua con. Con biết khi nào con là cánh cửa mở cho năng lượng hơn nữa. Đây là điều thày muốn con làm: con hãy chuyển đổi tâm một cách tương tự trong mọi hoàn cảnh trong cuộc sống. Con sẽ chú tâm vào bên trong; con hãy chú tâm là cánh cửa mở cho năng lượng tâm linh tuôn chảy vào hoàn cảnh.

Con yêu dấu, là cánh cửa mở nghĩa là gì? Cửa mở. Làm sao mở cánh cửa? Là cánh cửa mở có nghĩa là không có màn chắn trước cửa, là màn chắn trong tâm mong chờ cái phải xảy ra hay không được xảy ra, và phán xét hoàn cảnh dựa trên cái phải là hay không được là.

Con càng tháo gỡ được màn chắn thì con càng mở rộng cửa và năng lượng tâm linh càng hữu hiệu hơn trong việc thay đổi hoàn cảnh. Đây là tiềm năng cao nhất của con ngay lúc này. Thày không nói đây là tiềm năng cao nhất của con trong suốt phần còn lại của kiếp sống này. Nhưng đây là tiềm năng cao nhất của con ngay lúc này. Con hãy chú tâm vào việc này và đừng bận tâm muốn thay đổi vật lý, con hãy đừng dính mắc vào thay đổi vật lý. Con hãy tìm cách thay đổi năng lượng. Con hãy cho người khác cơ hội cảm nhận năng lượng cao hơn và nhờ vậy lấy được một chọn lựa khác. Con hãy cho mình cơ hội cảm nhận một năng lượng cao hơn và chọn lựa mình sẽ độc lập với điều kiện vật lý, sẽ giữ tâm bình an, sẽ chú tâm xuôi theo Dòng Sống sự Sống bất kể điều kiện vật lý như thế nào.

Con yêu dấu, từ nhiều thế kỷ và thiên kỷ, có rất nhiều người tâm linh đã nhận ra họ có khả năng hướng năng lượng tâm linh vào một hoàn cảnh. Rất nhiều lần họ đã nghĩ rằng nếu một thay đổi vật lý xảy ra thì họ có thể là cánh cửa mở. Con thấy chăng là Giê-su đã chứng minh là bất kể điều kiện vật lý như thế nào, con vẫn có thể là cánh cửa mở nếu con không để tâm bị dính mắc vào hoàn cảnh vật lý. Chỉ có sự không dính mắc mới có thể giúp con là cánh cửa mở, đưa con tới điểm con là cánh cửa mở. Do đó, con cần sẵn sàng nhìn vào những dính mắc của mình trong mọi hoàn cảnh, những dính mắc vào một kết quả đặc thù nào. Có thể là viễn quan của con về kết quả không phải là viễn quan của Tánh linh trong hoàn cảnh đó? Con đang tự nói với mình: “Nhưng người này đang bị bệnh, không lẽ Tánh linh không muốn người này được chữa lành?” Như thày có nói trong bài giảng trước, có khi bệnh là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của người đó. Ngoài ra, bệnh cũng có thể do nghiệp tạo ra và do đó Tánh linh không có viễn quan là bệnh đó phải được chữa lành ngay bây giờ. Hoặc cũng có thể là Tánh linh không thấy bệnh này nên được chữa nếu người đó chưa chuyển đổi tâm thức.

Con có thấy chăng là trong rất, rất nhiều hoàn cảnh sống, đúng ra là trong mọi hoàn cảnh sống, những điều kiện khiến hoàn cảnh biểu lộ rất phức tạp vì nó liên quan đến tâm của nhiều người. Mỗi người là một sinh thể rất phức tạp đã có nhiều tiền kiếp trong quá khứ. Người đó đã tạo ra một số khuôn nếp trong bốn thể phàm từ rất lâu trong quá khứ, và người đó chỉ tiến triển khi thay đổi được những khuôn nếp đó.

Như thày đã nói, mọi chuyện đúng y như nó phải là vì điều kiện trong cuộc sống của một người biểu hiện trạng thái tâm thức của người đó. Chính vì người đó không chịu lắng nghe hướng dẫn của nội tâm, nên cần thấy một chứng minh bên ngoài của trạng thái tâm thức của mình để có cơ hội chất vấn và thay đổi trạng thái tâm thức đó. Nếu con bước vào hoàn cảnh như một học viên tâm linh và khởi lòng từ bi muốn chữa lành người đó và gỡ đi điều kiện vật lý, thì hành động của con có sẽ giúp người đó tăng trưởng hay không? Người đó sẽ chỉ đơn giản nói: “Ồ, bây giờ tôi đã được giải thoát khỏi giới hạn, từ nay tôi sẽ sống hạnh phúc và không cần xem xét trạng thái tâm thức của mình.”

Nhiều người đã cư xử như vậy sau khi được chữa lành. Chính Giê-su đã chữa lành một số người và họ đã phản ứng như vậy. Điều con cần nhận ra là mọi hoàn cảnh con gặp trong cuộc sống có nhiều lớp phức tạp gần như vô hạn, nhiều lớp hơn những gì con có thể hiểu với tâm ý thức. Đó là lý do vì sao thày nói là có phin lọc nhận thức hữu ích vì nó giúp con không bị choáng ngợp bởi số lượng thông tin. Chúng ta hãy lấy thí dụ con nhìn vào một hoàn cảnh và lượng định: Người này có nên được chữa lành hay không? Nếu con muốn biết bằng tâm ý thức mọi chuyện liên quan đến một hoàn cảnh, con sẽ bị choáng ngợp và sẽ cần bỏ ra rất nhiều thì giờ và năng lượng nếu con muốn hiểu thấu. Tại sao con lại cần biết mọi chuyện một cách ý thức? Con không cần biết mọi chuyện một cách ý thức.

Con cũng có thể thấy là nếu con không thể biết được bằng tâm ý thức những dữ kiện liên quan tới một hoàn cảnh, tại sao con lại phải phán xét bằng tâm ý thức điều phải xảy ra hay không được xảy ra trong hoàn cảnh đó? Có đúng chăng là sẽ xây dựng hơn nhiều nếu con cho phép mình là cánh cửa mở, cho phép năng lượng của Tánh linh tuôn chảy vào hoàn cảnh và làm những gì nó muốn làm, mà con không cần có ý kiến từ tâm ý thức về điều nó phải làm và không được làm. Con hãy để Tánh linh tự do hành động theo viễn quan của nó, và con giải thoát mình khỏi mọi dính mắc vào hoàn cảnh hay kết quả.

Không dính mắc vào kết quả vật lý là dấu ấn của một để tử tâm linh đã tới tầng cuối của Tia thứ Năm. Đó cũng là chìa khóa đưa tới quả vị Phật, thày đoán đây là một mục đích mà con cố đạt được và thấy mình thực sự có tiềm năng đạt được. Có lẽ không phải ngày mai, nhưng chắc chắn một ngày trong tương lai.

Con yêu dấu, thày cảm thấy hân hoan và được đặc ân hướng dẫn con ở khóa nhập thất của thày và thấy con vượt qua bảy tầng của khóa nhập thất. Thày rất hân hoan nói với con: “Con đã làm rất tốt!” Thày rất hân hoan đưa con tới thày Nada yêu dấu để thày hướng dẫn con qua bảy tầng của Tia của An bình. Chắc chắn là điều thế giới cần nhất hiện nay là bình an. Vậy con hãy bình an và biết rằng con là Thựơng đế, Thượng đế sẽ thành.

Hilarion TA LÀ, và trong niền hân hoan to lớn, thày tiễn con đi tiếp con đường của mình.

Là một người chữa lành chân chính

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 18/1/2017.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Khi con tới tầng thứ sáu của khóa nhập thất của thày, con đối mặt với một sự sáng ngộ sẽ diễn ra liên tục trong tâm ý thức của con. Điều này không ngăn cản con tiếp tục tiến lên trong khóa học, nhưng có nghĩa là con phải làm việc với sáng ngộ con đối mặt ở đây trong một thời gian. Sáng ngộ này đưa con vượt quá cái lập trình vi tế và rất bền bỉ mà con tiếp xúc, rất có thể trong nhiều kiếp, trong nhiều trường hợp trong suốt thời gian con đã hiện thân trên trái đất.

Bây giờ con thấy chăng, con yêu dấu: Thày đã làm gì trong các bài giảng này? Thày đã nói với con rằng con cần thấy là con dùng uy lực của viễn kiến để phóng chiếu một hình ảnh ra bên ngoài. Con có một hình ảnh thế giới phải như thế nào, hay thế giới như thế nào, và con phóng chiếu hình ảnh này ra ngoài tâm con. Trong bài giảng trước, thày dẫn con tới điểm con nhận ra con cũng có một hình ảnh về con phải như thế nào như một người tâm linh, hay như một con người, và con phóng chiếu viễn kiến này lên chính con.

14.1. Thấy thế giới như nó là

Khi con bắt đầu loại bỏ những viễn kiến mà con phóng chiếu, khi con ngừng phóng chiếu với tâm của mình, con có thể tiến tới giai đoạn mà, thay vì thấy thế giới như con nghĩ nó là hay như con muốn nó là, con có thể thấy thế giới như nó là. Trong nhiều thế kỷ, các triết gia đã biết ảnh hưởng của tri giác trên cái thấy của con người. Đáng tiếc thay, các triết gia Tây phương đã không chịu nhìn vào chính tâm con người và vì vậy họ không khám phá ra chân lý tương đối giản dị mà các thày đã trao truyền cho các con về bốn tầng của tâm. Nếu một người triết gia muốn hiểu những gì con người có thể và không thể thấy, đáng lý y nên nghĩ rằng y nên xem xét chính tiềm thức của mình trước khi bắt đầu đưa ra kết luận vĩ đại về cách vận hành của vũ trụ.

Tuy nhiên thày không có ý định giảng một bài triết học ở đây, nhưng thày chỉ muốn giúp con nhận ra là có một cách để thấy thế giới khác với cách mà con được dạy dỗ để thấy và khác với cách mà đại đa số con người thấy thế giới. Các thày đã nói tới các định luật thiên nhiên phụ thuộc và cách sa nhân chế ra một cái gì vận hành máy móc để họ có thể kiểm soát nó mà không phải thay đổi tư duy tách biệt căn bản. Do đó, tách biệt là bản chất của tư duy sa ngã.

Điều con cần nhận ra ở đây là vũ trụ cho phép con làm nhiều chuyện nhưng luôn luôn có một cái giá phải trả. Sa nhân đã thay đổi được cách vũ trụ vận hành trong cõi năng lượng của hành tinh trái đất vì họ đã khiến cho vật chất dày đặc hơn. Vật chất càng dày đặc, thì nó càng vận hành theo những định luật không phải là vĩnh cửu và bất biến, nhưng kéo dài một thời gian dài. Các định luật thiên nhiên mà các nhà khoa học quan sát hiện nay đã vận hành trên hành tinh này trong một thời gian rất dài so với một kiếp con người. Tuy nhiên chúng không phải lúc nào cũng vận hành như thế trên trái đất này.

14.2. Tránh định luật thiên nhiên

Con cần nhận ra là khi sa nhân đã thành công trong việc kéo đa số nhân loại vào tâm thức nhị nguyên, tâm thức tập thể bắt đầu tạo ra những định luật thiên nhiên phụ thuộc này, là hậu quả của vật chất trở nên dày đặc hơn. Con cũng cần nhận ra là chính sa nhân cũng đã phải chịu ảnh hưởng của những định luật này.

Bây giờ, họ nghĩ rằng họ đã tìm ra cách tránh các định luật này và làm được những chuyện như quy tụ về một cá nhân quyền lực lớn lao và của cải đồ sộ. Như thày đã nói, điều này có thể duy trì trong một thời gian ngắn. Nhưng sa nhân không nhận ra là chính họ cũng chịu ảnh hưởng của tư duy cơ bản đã tạo ra những định luật thiên nhiên phụ thuộc, vì họ không thể nhìn quá tư duy này. Dù rằng họ đã có thể tác động lên vật chất một cách nào đó, họ không thể đi quá một giới hạn. Họ không thể làm những điều mà con thấy Giê su đã làm như đi bộ trên nước, chữa lành bàn tay bị teo hay những chuyện tương tự khác. Những điều này vượt quá khả năng của họ với tầng cấp viễn kiến mà họ có.

Con có thể tạo ra một tình trạng giống như trên trái đất là nơi vật chất dày đặc hơn tình trạng tự nhiên, nhưng làm sao con tạo ra tình trạng này? Con tạo ra bằng cách phóng chiếu một viễn kiến hạn chế lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Con phóng chiếu viễn kiến đó như thế nào? Con chỉ làm được khi con có viễn kiến đó trong tâm. Con giữ được viễn kiến đó bao lâu trong tâm khi con đầu thai nhiều kiếp, nếu con không tự đồng hóa với nó và nghĩ rằng nó là viễn kiến thật duy nhất? Con không thể thấy quá viễn kiến đó vì không có gì bên ngoài nó. Đây là điều đã xảy ra cho sa nhân trên trái đất; đây là điều đã xảy ra cho đại đa số nhân loại.

Qua nhiều kiếp sống con đã phóng chiếu viễn quan là vật chất dày đặc (và do đó nó hạn chế những gì con làm được), và con tin viễn quan này. Đại đa số con người tin rằng vật chất dày đặc, vật chất thật sự hạn chế khả năng sáng tạo của họ và cách duy nhất để vượt qua những giới hạn này là dùng công nghệ dựa trên vũ lực để tác động lên vật chất và ép buộc nó phải tuân theo mình.

14.3. Sa nhân kiểm soát vật chất như thế nào?

Con yêu dấu, chúng ta hãy nhìn vào ví dụ của một người đã thu thập được tài sản đồ sộ. Y đã thành lập một công ty mướn cả ngàn người và bán một sản phẩm nào đó. Làm cách nào y quy tụ được tiền của về cho y? Một phần là y dùng quyền năng của tâm của y, quyền năng kiểm soát người khác. Con thấy chăng, sa nhân nói chung đã không phát triển quyền năng kiểm soát vật chất trực tiếp. Họ đã phát triển quyền năng kiểm soát người khác và khiến người khác làm việc cho họ. Trong những bài giảng trước, thày gọi đó là tự điều ngự giả, và đây là điều sa nhân đã đạt được.

Người nhà giàu đó đã có thể khiến người khác chịu làm việc cho y với một đồng lương thấp hơn rất nhiều giá trị sản phẩm của sức lao động của họ. Y có thể gặt hái phần lớn thành quả lao động của mọi người và do đó, tập trung của cải vào tay mình thay vì chia sẻ cho nhân viên của mình. Con thấy chăng, của cải đó được tạo ra từ sức làm việc, sức làm việc vật lý của người nhân viên. Rất, rất nhiều người đã làm công việc vật lý đó để tạo ra và tập trung của cải về tay một người.

Giải pháp khác để trải nghiệm có của cải đồ sộ là y chú tâm học cách mở rộng khả năng của tâm để tạo ra của cải một cách trực tiếp bằng cách đem năng lượng của cõi tâm linh xuống quang phổ vật chất. Con hiểu là có hai cách để tạo ra của cải? Cách đầu, như thày đã mô tả, là con chấp nhận những điều kiện của vũ trụ vật chất và con khiến người khác làm việc cho con và con lấy của cải mà họ sản xuất ra. Cách khác để tạo ra của cải, mà không làm việc với vật chất và không tạo thêm từ vật chất, là con làm việc với khả năng của tâm có thể là cánh cửa mở cho ánh sáng tâm linh được tải xuống xuyên qua bốn tầng cho tới khi nó được biểu hiện ở tầng vật chất.

Con thật sự có thể thị hiện của cải thông qua quyền năng thuần túy của tâm, nhưng đây không phải là cách sa nhân đã làm. Họ bị kẹt vào lòng ham muốn có quyền lực trên người khác, ngay cả trên vũ trụ, hay thậm chí là có quyền lực trên Thượng đế. Họ đã chấp nhận là vật chất có một độ dày đặc nào đó. Đó là lý do vì sao họ sẽ làm mọi chuyện để bảo đảm là không ai thách thức điều này. Đó là lý do vì sao họ làm việc chống lại bất cứ ai bắt đầu biểu hiện một mức nào đó của quả vị Ki-tô. Họ cố gắng bằng mọi cách đánh lừa con để con không dám chấp nhận quả vị Ki-tô nghĩa là gì và quả vị Ki-tô có thể cho con khả năng tâm làm chủ vật chất.

14.4. Làm sao để là người chữa lành chân chính?

Bây giờ, con yêu dấu, một khía cạnh của Tia thứ Năm là chữa lành. Thày biết là một số các con đang đợi thày đề cập tới chữa lành, nhưng có lẽ là con không nhận ra là thày đã nói về chữa lành trong suốt các bài giảng vừa qua, dù thày không dùng hai chữ đó. Con yêu dấu, con chữa lành bằng cách nào? Ấy, con chữa lành qua uy lực của viễn kiến.

Nếu con không giải thoát viễn kiến của con khỏi ảo tưởng của sa nhân, con không thể chữa lành. Chuyện rất giản dị như vậy. Thày đã nói gì? Vũ trụ cho phép con làm một số điều, tỷ dụ như khiến vật chất dày đặc hơn, nhưng mọi thứ đều có giá phải trả. Khi con làm cho vật chất dày đặc, con cũng làm dày đặc các thể mà con đang mang và các thể dày đặc này sẽ phải tuân theo một số định luật. Điều con không nhận ra là khi con bắt đầu tạo ra những định luật thiên nhiên phụ thuộc, thì Luật Tự quyết cho phép con làm như thế. Cái giá con phải trả là tạo vật của con phải chịu ảnh hưởng của cái mà các thày thường gọi là định luật thứ hai của nhiệt động học. Định luật này quy định là khi con tạo ra cái gì đứng bên ngoài định luật thiên nhiên cơ bản, thì bất cứ cái gì con tạo ra sẽ bắt đầu phân hủy. Ngay khi con vừa tạo ra cái gì, thì có một lực sẵn có trong tạo vật của con sẽ phân hủy nó theo thời gian. Đây là một cơ chế an toàn để con không thể tạo ra một hoàn cảnh sẽ giam con mãi mãi trong tạo vật của mình.

Hy vọng là khi con có một kinh nghiệm nào đó, sau một thời gian con sẽ chán ngán và từ bên trong con dâng lên lòng mong muốn cái gì hơn nữa và vì vậy con sẵn sàng mở rộng tâm mình. Nếu con người không tới điểm đó, thì cái mà các thày gọi là định luật thứ hai của nhiệt động học (hay cơn thịnh nộ của Shiva) sẽ bắt đầu phân hủy điều con sáng tạo. Đây là lý do chính vì sao có bệnh tật trong thân thể con người. Vật chất dày đặc đến độ bất cứ cái gì được sáng tạo ở mức dày đặc này đều có những lực phân hủy sẵn có trong nó. Đây là lý do tại sao thân thể già nua, tại sao bệnh tật biểu hiện.

Bây giờ, con yêu dấu, sa nhân muốn con tin rằng con hoàn toàn bất lực trước chuyện này. Họ muốn con tin rằng vật chất là vật chất và vật chất có một độ dày đặc nào đó. Vật chất vận hành theo các định luật thiên nhiên phụ thuộc và con không thể vượt quá các định luật này. Đó là lý do tại sao họ muốn con tin rằng thân thể vật lý của con là một tạo vật hoàn toàn vật chất. Nó vận hành theo một số định luật máy móc, vật chất. Thân thể con là một cơ chế sinh học, nó là một nhà máy hóa học hay điều gì khác mà họ muốn con tin.

Họ muốn con tin rằng một khi một căn bệnh hiện ra, căn bệnh này phải có một nguyên nhân vật lý và do đó, một trị liệu vật lý phải được nghĩ ra và áp dụng, tuy trị liệu này có thể chưa được tìm ra. Nếu một trị liệu vật lý chưa được tìm ra, thì con không thể trị căn bệnh này được, và chỉ có thể hy vọng là trong tương lai, các khoa học gia duy vật sẽ tìm ra nguyên nhân và cách chữa.

Bây giờ, như thày đã giải thích nhiều lần, con có bốn thể phàm. Điều thể hiện nơi thân thể vật lý là sự phóng chiếu những điều kiện trong ba thể cao của con. Một căn bệnh vật lý bắt đầu ở các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc và sau đó được phóng chiếu lên thân vật lý. Lẽ tất nhiên, pháp trị liệu cũng phải bắt đầu nơi ba thể cao này.

Điều thày muốn con nhận ra ở đây là sa nhân cũng có lý khi họ nói con không thể thay đổi một số điều kiện trong vật chất. Thày sẽ phải giải thích điều này một cách gián tiếp vì nó là một điểm vi tế.

14.5. Tại sao một số người không thể chữa lành bằng tâm

Con yêu dấu, các thày có thể nói rằng, nếu cái Ta Biết hoàn toàn tập chú vào tầng vật chất (lúc ấy con hoàn toàn tin con là một con người, con bị hạn chế bởi khả năng của thân thể và của công nghệ đã được sáng chế ra), thì con không thể thay đổi vật chất, con không thể vượt quá các định luật thiên nhiên phụ thuộc. Như vậy, các thày nói rằng nếu con sinh hoạt ở tầng vật lý, thì sa nhân nói đúng: Con bị mắc kẹt trong vũ trụ vật chất và con phải tuân theo những định luật của nó.

Do đó, con không thể chữa lành một căn bệnh vật lý bằng uy lực của tâm. Con chỉ có thể tìm những phương tiện vật lý để tiêu diệt căn bệnh hay thay đổi tiến trình của nó. Con có nhận ra chăng, đây là một cách nhìn rất thô thiển về chữa lành? Cách nhìn cơ bản có vẻ ăn sâu trong tư duy của giới thẩm quyền y học trong thế giới hiện đại là có một tình trạng sức khỏe bình thường. Thỉnh thoảng, một căn bệnh nào đó biểu hiện và nó bất thường. Đây là một tình trạng bất thường. Nó được gây ra bởi một cái gì đó bất thường, chẳng hạn như một vi khuẩn. Sau đó, chúng ta cần tìm ra vi khuẩn này và tìm cách tiêu diệt nó. Nếu làm được như vậy, chúng ta có thể chữa khỏi bệnh.

Cái gì đó đang phá hủy thân thể con, và để chữa bệnh, con cần phá hủy nó. Con có thấy chăng là con đang tìm cách chữa sự phá hủy với một hình thức phá hủy khác và trên đường dài làm như vậy chỉ có thể đem lại thêm vấn đề? Tàn phá không chữa được tàn phá. Con không thể chữa một vấn đề với cùng tư duy đã tạo ra vấn đề đó.

Điều này kết nối với điều thày đã giảng, là con cần ngưng phóng chiếu với tâm mình. Con cần ngưng phóng chiếu điều gì? Lớp phóng chiếu đầu tiên là một loại phê phán, là có điều phải xảy ra và điều không được xảy ra, có điều đúng và sai. Khi con nhìn vào một căn bệnh, con tức khắc đi vào tư duy phê phán căn bệnh là sự trục trặc trong thân thể, nó đáng lẽ không được xảy ra.

Bây giờ, tư duy của giới thẩm quyền y học trên thế giới hiện đại là gì? Con yêu dấu, tư duy đó là khi có điều gì trục trặc với thân thể, thì chúng ta phải tìm ra nguyên nhân và tiêu diệt nguyên nhân đó ở tầng vật lý, tầng máy móc. Sâu bên dưới tư duy đó là gì? Đó là họ không muốn nhìn vào tâm, nhìn vào tâm thức, nhìn quá tầng vật lý.

Con đi tìm nguyên nhân nơi tầng vật lý mà thôi, nhưng như thày đã nói, tầng vật lý chỉ là cái ngọn nhỏ của tảng băng. Tầng vật lý chỉ là sự phóng chiếu từ ba tầng cao hơn. Sa nhân không chịu nhìn vào các thể cao của chính họ và họ không muốn bất cứ ai dưới họ làm điều này. Họ biết rằng nếu con người bắt đầu nhìn vào ba thể cao hơn của họ, thì họ có thể giải thoát khỏi những những giới hạn của tầng vật lý và do đó cũng thoát khỏi quyền lực của sa nhân. Con sẽ không là nô lệ của người khác trên trái đất khi con biết con là một sinh thể tâm linh và con có thể làm chủ phản ứng của mình. Con không cần sợ ai hết trên trái đất.

Tư duy thật đằng sau phương cách trị liệu hiện đại là gì? Con yêu dấu, đó là con nhìn bệnh tật như điều gì trục trặc trong thân thể. Rồi con muốn gỡ đi các triệu chứng mà không chịu nhìn vào và thay đổi tâm con người. Con muốn tiếp tục làm những gì con đang làm mà không thay đổi chính mình. Con muốn thay đổi thế giới mà không chịu thay đổi chính mình. Đây là dấu ấn của sa nhân.

Thày có nói là một số sa nhân đã chịu nhìn vào một số khía cạnh của tâm họ và đạt được một loại “điều ngự” nào đó (thày tạm dùng chữ điều ngự này) trên tâm của họ. Họ không sẵn sàng đi thật sâu và nhìn vào ý định của họ, ý niệm tách biệt của họ, ham muốn giành quyền lực về cho mình và hại cho người khác. Họ không sẵn sàng vượt quá khuynh hướng vị kỷ xem mình là trung tâm, vượt quá ý niệm cơ bản xem mình là sinh thể tách biệt và có quyền lực như một sinh thể tách biệt. Những điều này, họ không sẵn sàng đối mặt.

Đây là tư duy đã thâm nhập xuống phương pháp chữa lành trong thế giới hiện đại. Con không kêu gọi người bệnh xem xét trạng thái tâm của họ khi họ đi gặp bác sĩ. Người bác sĩ đi tìm một nguyên nhân vật lý và tìm cách giải quyết nguyên nhân vật lý này. Có bao giờ người bác sĩ ngồi lại với bệnh nhân và nói: “Có thể là quý vị nên xem xét lối sống của mình, có thể là quý vị nên xem xét trạng thái tâm của mình, có thể là quý vị nên gặp một tâm lý gia, có thể là quý vị nên làm điều này, nên làm điều kia?”

Con thấy chăng, nếu con bị mắc kẹt trong tư duy này, nếu đây là quan niệm của con về thân vật lý và cách chữa lành, thì con không đạt được quyền năng chữa lành bằng tâm. Chuyện này không thể làm được.

14.6. Chúng ta nhìn sự vật như thế nào

Bây giờ thày muốn giảng điều này một cách khác một chút vì chúng ta cần đi sâu hơn nữa về cách con nhìn vật chất. Thày có nói là lớp phê phán đầu tiên là con phê phán có điều đúng và có điều sai. Có sức khỏe tốt là đúng, có bệnh tật là sai. Có một tầng sâu hơn nữa là khi tâm con chấp nhận sự vật chỉ là vật, không thay đổi được, không thể thay đổi được bằng tâm.

Thày muốn con hình dung là trước mặt con có một cái bàn và trên đó có một hòn đá. Con có thể cầm hòn đá, con có thể cảm thấy nó cứng. Hòn đá tròn nhưng cứng. Con không thể bóp nát hòn đá, con không thể nặn nó bằng tay. Con không thể thay đổi nó bằng những phương tiện bình thường. Lẽ dĩ nhiên, con có thể chế ra một cái máy nghiền hòn đá hay đánh nhẵn nó. Tuy nhiên, với sức mạnh của bàn tay, con chẳng làm được mấy với hòn đá. Với quyền năng của tâm, con còn làm được ít hơn nữa, đó là điều con đã được dạy dỗ.

Điều thày muốn con nhận ra là khi con nhìn một vật giản dị như hòn đá, có một lập trình trong tâm con (và thực ra lập trình này bắt đầu ở vỏ não thị giác), lập trình này ngay lập tức phân loại và dán nhãn đây là một hòn đá. Bây giờ con đã phóng chiếu lên cái vật đó là nó là hòn đá và tâm của con cho hòn đá đó một số đặc tính. Những đặc tính đó không phải chỉ là những đặc tính riêng của hòn đá, mà cũng có thêm ý niệm con làm được gìkhông làm được gì với hòn đá.

Con có nhận ra chăng là có một tầng trong tâm của con dán nhãn mọi chuyện theo thứ loại? Con dán nhãn mọi thứ là vật. Con yêu dấu, khi con nhìn vào hòn đá, con có nhận ra chăng là chữ “hòn đá” chỉ là một chữ đã được chọn (hay có thể đã được chọn một cách vô thức) và chữ này được liên kết với vật mà con gọi là hòn đá? Con cũng đã có thể gọi nó là trái táo. Nếu từ thời xa xưa, con người đã dùng chữ “táo” để chỉ hòn đá, thì ngày hôm nay con sẽ gọi hòn đá là “táo”. Điều này không có nghĩa là con sẽ nghĩ rằng hòn đá là cái gì mềm có thể ăn được. Điều thày cố giúp con thấy là “hòn đá” chỉ là một chữ mà thôi. Khi con nhận ra “hòn đá” chỉ là một chữ, thì con có thể nói: “Nhưng có gì khác về hòn đá không, ngoài những đặc tính mà tâm chúng con đã chọn và liên kết với hòn đá?”

Con thấy là tâm con người nghĩ ra chữ hòn đá và liên kết chữ này với một vật. Con người cũng có thể chọn một chữ khác. Họ cũng nghĩ ra những đặc tính của hòn đá. Nó cứng, nó khó thay đổi, con không thể nặn nó với hai bàn tay – tất cả những thứ đó. Đây chỉ là những đặc tính do tâm quy định – do tâm quy định. Đây chỉ là một cách nhìn hòn đá.

14.7. Nhìn vượt quá vật

Có thể một cách khác nhìn hòn đá chăng? Con có thể dùng quyền năng của viễn quan để nhìn phía sau, nhìn vượt lên trên viễn quan của hầu hết mọi người khi họ nhìn hòn đá chăng? Con hãy để cho thày dẫn con đi một hành trình dựa trên những bài khoa học ở nhà trường. Hòn đá phải chăng chỉ là hòn đá? Con biết vì con được học ở nhà trường là hòn đá được cấu tạo bởi những phân tử là những đơn vị nhỏ không thấy được bằng mắt vật lý. Có môt cách nhìn khác về hòn đá, không phải ở tầng cấp một vật. Con có thể nhìn hòn đá như là một tập hợp của nhiều phân tử, giản dị như thế.

Con biết là con có thể lấy nhiều hòn đá nhỏ và dùng keo dán chúng lại vào nhau để làm thành một quả banh. Bây giờ con có một quả banh, to như một hòn đá to, nhưng nó được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn nhiều. Con cũng có thể lấy cát, hạt cát, và nặn chúng lại thành một quả banh, nhưng con có thể thấy được đây không phải là một hòn đá lớn và rắn chắc. Nó được cấu tạo bởi những mảnh nhỏ mà con có thể tách ra được. Con có thể cho nó một hình dạng khác nếu con có thể thay đổi vị trí của những mảnh nhỏ đó.

Điều thày muốn giúp con nhận ra ở đây là con có thể vượt quá cái thấy hòn đá là một vật rắn đặc. Con có thể đi vào một tầng cấp sâu hơn để thấy được hòn đá được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn được gom lại thành một hình dạng mà con gọi là hòn đá – và con nhìn hòn đá này như một vật thuần nhất không dễ thay đổi.

Bây giờ, lẽ dĩ nhiên con biết được theo khoa học là phân tử được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn, gọi là nguyên tử. Có thể con được học ở nhà trường hay không được học ở nhà trường (nhưng biết được sau này nhờ đọc sách), là nguyên tử được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn nữa, gọi là hạt cơ bản. Nếu con có học chút xíu khoa vật lý lượng tử, con sẽ thấy là bản chất các hạt cơ bản này có hai mặt, ít nhất theo cái nhìn hiện nay của các nhà khoa học. Một hạt căn bản đôi khi sẽ cư xử như một hạt truyền thống (là một vật rắn đặc), và đôi khi nó cư xử như một sóng, một sóng năng lượng rung động. Con nhận ra rằng ngay cả khi con chỉ lấy những gì khoa học hiện nay công nhận, con có một cách nhìn hòn đá khác đi? Con có thể bắt đầu ở tầng cấp sự vật, là hòn đá. Ở tầng cấp này, con thấy nó là một đơn vị thuần nhất. Nếu con đi vào các tầng cấp càng lúc càng sâu hơn, con thấy nó không còn thuần nhất nữa vì nó được tạo ra từ những đơn vị nhỏ hơn. Tại sao ở tầng cấp sự vật con lại thấy nó là một đơn vị thuần nhất? Sự thuần nhất từ đâu tới? Nó hoàn toàn tới từ tâm con. Nó là một hình tư tưởng do tâm con phóng chiếu ra.

Hòn đá không thuần nhất chút nào. Nó được cấu tạo bởi phân tử, phân tử được cấu tạo bởi nguyên tử, nguyên tử được cấu tạo bởi hạt cơ bản, chính thực là sóng năng lượng. Không những hòn đá không thuần nhất, nhưng khi con đi vào các tầng nhìn sâu hơn, con cũng thấy là hòn đá càng lúc càng bớt vẻ rắn đặc. “Hòn đá” là một đơn vị rắn đặc vì tâm của con thấy nó là rắn đặc. Khi con tới tầng cấp phân tử, con nhận ra nó được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn có thể di chuyển vị trí so với nhau, hay một số có thể bị tháo gỡ đi.

Con thấy chăng, ở tầng cấp hòn đá, chuyện tác động lên hòn đá hay thay đổi nó có vẻ như vô phương hay ít nhất là cực kỳ khó khăn? Nếu tâm của con có thể đi vào tầng phân tử và bắt đầu tác động lên chúng, thì tâm của con có thể tác động lên những đơn vị nhỏ này dễ hơn là lên hòn đá. Nếu con có thể đi vào tầng nguyên tử còn nhỏ hơn nữa thì chuyện gì sẽ xảy ra? Con tác động lên chúng còn dễ hơn nữa nếu con biết cách. Bây giờ nếu con có thể đi vào tầng hạt cơ bản mà thực chất là sóng năng lượng thì sẽ ra sao?

14.8. Tâm có thể tác động lên sóng năng lượng

Con yêu dấu, thày đồng ý là tâm con không thể tác động lên hòn đá, nhưng tại sao tâm không thể tác động lên hòn đá? Bởi vì hòn đá là một khái niệm do tâm tạo ra, và tâm con không vượt quá được khái niệm mà chính nó đã áp đặt lên hòn đá. Khi con còn tin vào khái niệm này, khi con chưa chất vấn nó, khi con còn tin khái niệm này không tránh được, không thay đổi được, thì tâm con không thể tác động lên hòn đá.

Con yêu dấu, tâm con là gì? Phải chăng nó là một trường năng lượng? Hòn đá là gì? Nó được cấu tạo bởi phân tử, được cấu tạo bởi nguyên tử, được cấu tạo bởi hạt cơ bản mà thực chất là sóng năng lượng. Nếu tâm của con là một trường năng lượng, thì tại sao nó lại không thể tác động được các trường năng lượng cấu tạo ra các hạt cơ bản, cấu tạo ra các nguyên tử, cấu tạo ra các phân tử cấu tạo ra hòn đá?

Nếu con có thể dùng tâm để đi vào một tầng sâu đủ, thì đâu có lý do gì con không tác động được lên hòn đá? Hay đâu có lý do gì con không chữa lành được thân thể với tâm khi con nhận ra thân thể cũng được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn? Trong thân thể có những bộ phận nhưng mọi thứ trong thân thể được cấu tạo bởi phân tử. Mọi thứ được cấu tạo bởi nguyên tử. Mọi thứ được cấu tạo bởi hạt cơ bản mà thực chất là sóng năng lượng.

Tâm của con là một sóng năng lượng. Thân thể của con là một sóng năng lượng. Tại sao tâm của con lại không thể đạt được khả năng tác động lên các sóng năng lượng cơ bản cấu tạo nên thân thể con và từ đó thay đổi thân thể con ở tầng cấp vật lý? Con thấy chăng, con không thể làm điều này nếu tâm con còn dính chặt vào khái niệm “vật”, vào hình ảnh mà con đã áp đặt lên thân thể vật lý. Con nhìn thân thể là một vật, một đơn vị thuần nhất. Con có thể nhận ra là nó có những thành phần như bộ phận, tế bào và các thứ khác, nhưng hầu hết mọi người vẫn coi thân thể là một đơn vị thuần nhất.

Lúc đó, khi có chuyện trục trặc với thân thể, con yêu dấu, họ tức khắc chấp nhận là có điều gì trục trặc với thân thể. Nếu có điều gì trục trặc với thân thể ở tầng cấp vật lý, thì tâm họ cũng chấp nhận là chỉ có thể chữa được ở tầng cấp vật lý. Nếu nguyên nhân không ở tầng vật lý vì thân thể là sự phóng chiếu từ ba thể cao hơn, thì tại sao con lại không thể thay đổi những gì ở trong ba thể cao để thay đổi sự biểu hiện vật lý?

Con yếu dấu đây chỉ là lý luận giản dị. Nó không giản dị chút nào khi tâm con bị dính chặt muốn thấy mọi thứ là “vật”. Ngày nào con còn thấy thân thể là một vật, một đơn vị thuần nhất, con không thể chữa lành thân thể với quyền năng của tâm. Tâm không thể thay đổi khái niệm “vật” mà chính tâm đã áp đặt lên thân thể. Con hiểu ra điều này chăng? Con hiểu ra nó quan trọng như thế nào chăng?

Chính tâm đã áp đặt hình ảnh “vật” lên thân thể. Ngày nào tâm chưa chất vấn hình ảnh này, chưa thấy nó như nó là, chưa thấy nó chỉ là một hình ảnh và chưa nhìn quá hình ảnh đó, thì tâm không thể chữa lành thân thể. Nếu con giải thoát tâm con khỏi khuynh hướng nhìn mọi vật là vật, con có thể bắt đầu chữa lành thân thể con bằng quyền năng của tâm. Con yêu dấu, lẽ dĩ nhiên đây là điều thày mong muốn cho con.

14.9. Niệm tinh khôi

Rõ ràng là con có một Sứ vụ Thiêng liêng. Có những điều con cần làm. Rõ ràng là trong một số trường hợp, mang bệnh và ứng phó với bệnh là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Trong trường hợp khác, có một thân thể khỏe mạnh là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Lẽ tất nhiên, thày muốn con tới được điểm mà con biết được bệnh tật là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con, hay con biết cách thăng vượt căn bệnh để tiếp tục với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Để tới điểm này, con cần nhận ra một số điều.

Bây giờ có một khái niệm mà các thày đã dùng từ ít lâu nay, và khái niệm này khởi thủy do Mẹ Mary đưa ra. Đó là khái niệm giữ niệm tinh khôi. Lẽ dĩ nhiên, đây là một cách chơi chữ với quan điểm “thụ thai tinh khôi” cho rằng Giê-su được thụ thai tinh khôi không cần có yếu tố con người xen vào. Nói cách khác, không có người nam nào cho tinh dịch để trái trứng thụ thai – thụ thai là do Thánh Linh thực hiện. Lẽ đương nhiên, như các thày đã giải thích, chuyện không xảy ra như vậy.

Ý thày muốn nói là Mẹ Mary đã khai triển ý tưởng là Mẹ có thể giữ một niệm tinh khôi. Mẹ giải thích là chính mẹ đã giữ niệm tinh khôi về Giê-su từ lúc thày sinh ra và cho tới khi thày lớn lên. Con yêu dấu, bây giờ con hãy nhìn kỹ hơn vào hoàn cảnh này.

Đây là một người phụ nữ sanh một con trai. Bây giờ, bất kể đứa con được thụ thai như thế nào, bất kể viễn kiến của bà về người con ra sao, phải chăng là bà sẽ có tình cảm bình thường của người mẹ đối với con trai dựa trên văn hóa của bà? Con hãy nhìn chuyện gì xảy ra cho người con trai này là Giê-su. Cậu bé lớn lên thành một thanh niên khỏe mạnh và có khả năng nhưng ở tuổi thanh xuân, Giê-su bị giới chức trách bắt giam, tra tấn, đóng đinh trên thập tự và chết. Có thể nào một người mẹ bình thường có viễn kiến như vậy về con trai mình chăng?

Khi con xem xét sự việc này, con nhận ra là nếu Mẹ Mary giữ niệm tinh khôi về Giê-su, điều này không có nghĩa là từ lúc Giê-su sinh ra, bà có viễn kiến một ngày kia Giê-su sẽ bị bắt, bị tra tấn và hành quyết. Vậy thì bà giữ niệm tinh khôi cho Giê-su nghĩa là gì? Bà nhận ra rằng Giê-su không phải là một đứa con trai bình thường, Giê-su sẽ không có một cuộc sống bình thường, nhưng niệm tinh khôi của bà là gì? Trước tiên, bà giữ khái niệm Giê-su sẽ tiếp tục tăng triển tâm thức và thăng vượt tâm thức cho tới khi Giê-su đạt được tầng mức quả vị Ki-tô cho phép thày hoàn thành sứ vụ của thày. Niệm tinh khôi có hai khía cạnh. Nó là viễn kiến tăng triển liên tục và nó là viễn kiến mỗi người có một sứ vụ, một Sứ vụ Thiêng liêng, và giữ viễn kiến là người đó sẽ hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng.

Lẽ dĩ nhiên con có thể làm điều này cho chính mình. Nếu con giữ niệm tinh khôi cho chính mình, con giữ cả hai khía cạnh Alpha và Omega này. Trước tiên, con nhận ra ý nghĩa sự sống là tăng triển, là thăng vượt. Con giữ niệm tinh khôi là con sẽ tiếp tục tăng triển, đạt các khai ngộ và đạt tầng tâm thức cao nhất có thể đạt được trong kiếp này. Sau đó con giữ viễn kiến là con ở đây để làm điều gì đó trong kiếp này. Con giữ viễn kiến là con sẽ hoàn thành các điều trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Bây giờ, đây là lúc con cần đứng lùi lại và nhận ra khi con giữ niệm tinh khôi cho mình, như thày đã giải thích, rất có thể nó sẽ rất khác với những gì hầu hết mọi người mường tượng về cuộc sống bình thường của một người. Thậm chí nó có thể rất khác những gì con thấy về cuộc đời mình cho tới lúc này.

14.10. Không có điều gì không được xảy ra

Con yêu dấu con nhận ra chăng là khi con lớn lên trong xã hội hiện đại, có sự phóng chiếu lên con từ mọi hướng là cuộc sống của con phải thế này hay không được thế kia? Sự phóng chiếu có thể đến từ cha mẹ, anh chị em, bạn bè, thày cô, mỗi người mà con gặp, chính xã hội, sa nhân và tà lực và các thứ khác. Suốt cuộc đời con, có rất nhiều sự phóng chiếu hướng về con nói rằng cuộc sống phải thế này và không được thế kia. Ở điểm này, thày muốn nói: “Nếu con thật sự muốn sống cuộc đời mình, con phải xem xét chuyện phóng chiếu này và nói: “Con có bao nhiêu ý tưởng về điều phải xảy ra và không được xảy ra cho con?”

Rồi con cần tự hỏi mình: “Phải chăng trước giờ tôi đã nghĩ rằng giữ niệm tinh khôi cho mình có nghĩa là cuộc sống của tôi theo con đường bị ảnh hưởng từ bên ngoài cho rằng điều này phải xảy ra hay không được xảy ra cho tôi? Phải chăng tôi đã nghĩ rằng giữ niệm tinh khôi là tôi lượng định mỗi hoàn cảnh dựa theo ý tưởng điều phải xảy ra và điều không được xảy ra và ngay lập tức phán xét rằng điều mà tôi nghĩ không được xảy ra là điều sai? Phải chăng đây là cái nhìn của tôi về giữ niệm tinh khôi? Phải chăng đây là cách tôi đang nhìn cuộc đời mình?

Con thấy chăng đây là những gì con được dạy dỗ. Những phóng chiếu này dựa trên tầng cấp vật hay sự việc, tức là có một số sự việc phải xảy ra và một số sự việc không được xảy ra trong một cuộc sống bình thường,. Con phải làm một số việc và con không được làm một số việc. Đây là tầng cấp vật, hay sự việc. Sứ vụ Thiêng liêng của con đòi hỏi con tăng triển về tâm thức. Để có thể thăng vượt một tầng tâm thức thì con phải nhìn thấy tâm thức này.

Điều con nhận ra ở đây là đối với một người đang hiện thân, nhận ra điều hạn chế mình rất khó, rất tinh tế. Có những lúc con đọc một cuốn sách tâm linh và con thấy được: “Ồ, cái này hạn chế tâm của tôi và tôi cần buông bỏ nó.” Tất cả chúng ta, những người đã từng đầu thai, đều nhận ra rằng chúng ta không thể học hết mọi thứ bằng cách đó. Có những trường hợp cách học duy nhất là trải nghiệm một hoàn cảnh bên ngoài. Chúng ta giản dị là như thế vì chúng ta đang sống trong một môi trường dày đặc như trái đất. Đôi lúc chúng ta tỉnh giác qua giáo lý dùng ngôn từ nhưng có lúc khác, chúng ta tỉnh giác qua kinh nghiệm trực tiếp của giác quan, thân thể và tâm. Con yêu dấu, con thấy chăng, con cần một số kinh nghiệm trong cuộc sống.

Bây giờ con làm được gì đây? Con có thể nhìn vào cuộc sống mình và nói: “Có lợi ích gì chăng khi tôi lượng định cuộc sống mình theo một tiêu chuẩn được áp đặt lên tôi, tiêu chuẩn quy định cái phải xảy ra, hay cái không được xảy ra? Tôi có thể nào lùi lại một bước, nhìn cuộc sống mình và nói: ‘Không có cái phải là, không có cái không được là. Mọi chuyện xảy ra trong cuộc sống của tôi đã xảy ra vì vũ trụ đang tìm cách đánh thức tôi khỏi một ảo tưởng.’”

14.11. Thông điệp là gì?

Bây giờ, thay vì cưỡng lại điều đang xảy ra, thay vì tìm cách thay đổi những triệu chứng ở tầng vật lý, con có thể bắt đầu nghĩ: “Thông điệp ở đây là gì? Có điều gì trong này mà trước giờ con không thấy?” Chúng ta hãy nói về bệnh tật trở lại. Khi lớn lên, con được dạy dỗ để nghĩ rằng sức khỏe bình thường là tự nhiên và khi có bệnh là trục trặc. Do đó, con phải coi đây là một sự trục trặc và phải đi gặp bác sĩ, xem bác sĩ có tìm ra nguyên nhân vật lý không và tiêu hủy nguyên nhân vật lý này.

Con yêu dấu, thày không nói là con không nên đi bác sĩ để cứu mạng mình. Điều thày nói là: Điều gì ngăn trở con lùi lại một bước và đáp ứng một cách khác, và nói: “Có thể nào căn bệnh là một thông điệp cho con? Vũ trụ có đang tìm cách dạy con một điều gì? Căn bệnh có đang tìm cách chỉ cho con một ảo tưởng nào đó, một tâm thức nào đó mà con phải thăng vượt? Phải chăng khi con thăng vượt nó, con sẽ tiến gần hơn việc hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình?” Như thày đã nói ở trước, trong một số trường hợp, con đã chọn mang một căn bệnh vì con muốn chứng minh cho người khác thấy con có thể là một người hạnh phúc, toại nguyện và an bình dù là con bị bệnh hạn chế. Một số các con đã chọn mang một căn bệnh để chứng minh con có thể vượt qua căn bệnh, con có thể chữa lành nó, con có thể vượt thăng nó?

Con thấy chăng, nếu con đã chọn mang một căn bệnh vì con muốn chứng minh điều gì cho người khác, hay vì con muốn vượt qua nó hay vì nó là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con vì con tìm cách giúp mình thấy một tâm thức nào đó, thì chống lại căn bệnh đâu có nghĩa lý gì? Tại sao con cho phép tâm mình dính chặt vào tầng cấp của vật khiến con nghĩ thân thể này là một vật và bây giờ cái vật này xảy ra cho thân thể con và con cần tiêu diệt cái vật này? Tại sao con không vượt quá điều này và nhìn nó một cách khác? Có điều gì ngăn cản con làm như thế? Lẽ dĩ nhiên đâu có gì ngăn cản con ngoại trừ tâm thức sa ngã nói với con là con không bao giờ nên nhìn vào chính bản thân mình.

14.12. Thăng vượt tâm thức

Con hiểu ra giữ niệm tinh khôi cho mình thật sự nghĩa là gì chăng? Sa nhân không muốn thay đổi chính họ. Con là người tâm linh đã định ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình chung với các chân sư thăng thiên, điều con muốn làm lẽ dĩ nhiên là thay đổi chính mình. Sứ vụ Thiêng liêng của con xoay quanh việc con thay đổi chính mình, thăng vượt các tầng tâm thức và bước lên càng nhiều bước càng tốt trên 144 tầng cấp trong kiếp sống này. Đây là điều trọng yếu trong Sứ vụ Thiêng liêng của con: tăng triển tâm thức.

Cốt lõi của sự sống, cốt lõi của con đường tâm linh đối với con là thăng vượt tâm thức. Cốt lõi của sự chống đối của sa nhân là chống lại thăng vượt tâm thức. Khi con nhận ra điều này, con có thể nói: “Tại sao con phải sống cuộc đời mình dựa trên tư duy của sa nhân? Con muốn sống cuộc đời mình dựa trên tư duy của các chân sư thăng thiên là thăng vượt không ngừng.” Con có thể chuyển đổi tâm thức, nhiều người đã đến tầng cấp này mà chưa chuyển đổi tâm thức một cách có ý thức. Do đó, họ vẫn còn bị kẹt chỉ thấy mọi sự ở tầng cấp của vật, chỉ thấy ở tầng cấp khái niệm, và phán xét mọi chuyện dựa trên cái phải xảy ra hay không được xảy ra.

14.13. Làm hòa với cuộc đời của con

Con yêu dấu, trong bài giảng này và ở tầng này của khóa nhập thất của thày, thày thật sự mong muốn thấy con thoát khỏi những phán xét ở tầng cấp của vật (chúng chỉ là những khái niệm mà tâm con và tâm tập thể đã gán lên mọi chuyện xảy ra trong vũ trụ). Thày thật sự muốn con có khả năng nhìn vào cuộc sống mình và thoát khỏi mọi phán xét về cái phải xảy ra hay không được xảy ra.

Thày biết rằng nhiều người trong chúng con đã lớn lên trong những điều kiện rất khó khăn. Con đã lớn lên trong những hoàn cảnh gia đình rất khó khăn. Đây là trường hợp của rất rất nhiều người trên con đường tâm linh. Con đã chọn những hoàn cảnh này vì một lý do. Nó là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Có chuyện gì đã xảy ra mà đáng lẽ không được xảy ra chăng? Có phải chăng đây là cơ hội để con nhìn thấy điều gì bên trong con và để chứng minh cho người khác thấy con đã lớn lên trong một hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn vượt lên trên được? Con có thể tới một điểm con nhìn vào cuộc đời mình và nói: “Có cách nào khác nhìn vào cuộc đời mình ngoài cách nhìn ở tầng cấp sự thể và phán xét mọi sự dựa theo tâm thức cái phải là và không được là?” Thày đã nói với con là con có thể nhìn hòn đá và thấy nó có nhiều thành phần khác nhau. Phải chăng con cũng có thể nhìn một hoàn cảnh trong đời và thấy nó có nhiều thành phần khác nhau? Thay vì nhìn cuộc đời ở tầng cấp sự thể mà thôi, dựa trên phán xét cái phải là và cái không nên là, con có thể lùi lại một bước và nhìn hoàn cảnh với nhiều sắc thái vi tế hơn, phức tạp hơn. Biết đâu tuổi thơ khó khăn của con là cách nhanh nhất để con cân bằng nghiệp từ kiếp trước mà con có với cha mẹ và các anh chị em? Biết đâu nếu con học xong bài học và làm chủ phản ứng của mình trước hoàn cảnh, con đã cân bằng được nghiệp đó và bây giờ con được tự do đi tiếp cuộc đời, không những thoát khỏi những người này mà con cũng thoát khỏi tâm thức mà họ biểu trưng? Biết đâu con chọn lựa ở trong một hoàn cảnh rất khó khăn vì con cần học bài học là con không thể thay đổi người khác, con chỉ thay đổi được mình thôi? Do đó, khi con tập trung vào việc thay đổi mình, và con tha thứ những người khác và cho phép họ là chính họ và cho phép họ biểu hiện tâm thức của họ, thì con được tự do tiến tới những khía cạnh khác của Sứ vụ Thiêng liêng của con.

14.14. Làm hòa với người khác

Con yêu dấu, con thấy chăng, khi con đang hiện thân, con lớn lên bên cạnh nhiều người và họ có ảnh hưởng lớn trên đời con. Một điều thiết yếu trong khóa tự điều ngự là con tới được điểm hiểu ra rằng nếu con ngừng đánh giá những tương tác giữa con và người khác dựa trên tâm thức cái phải là và cái không được là, tâm con sẽ bình an với diễn tiến của sự tương tác. Con sẽ tới điểm nhận ra nếu hành động của con là sản phẩm của trạng thái tâm thức của con, thì hành động của họ là sản phẩm của trạng thái tâm thức của họ. Con cũng hiểu ra là họ có toàn quyền tự quyết. Công việc của con không phải là thay đổi người khác. Có thể một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con là cho họ cơ hội thấy có một cách hành động khác, một cách đáp ứng khác, một cách nhìn đời khác.

Con thấy chăng, con yêu dấu, công việc của con là cho người đó một cơ hội bằng cách chứng minh có một cách đáp ứng khác. Công việc của con không phải là ép buộc người đó phải chọn lựa chấp nhận bài học. Đây là lý do con không nhìn hoàn cảnh với ý tưởng cho rằng họ phải học bài học đó và họ phải học điều mà con nghĩ họ phải học. Không có cái phải là và cái không được là. Công việc của con là cho họ cơ hội chọn lựa, không phải là chọn giùm cho họ.

Khi con đã cống hiến cơ hội đó, con đã làm xong việc của mình. Có nghĩa là bây giờ con đã thoát khỏi hoàn cảnh đó, nhưng con không thể thoát khỏi hoàn cảnh nếu con còn phán xét dựa trên cái họ phải làm hay cái họ không được làm. Khi ấy con lại buộc con vào họ và tạo một nghiệp mới cho mình. Có nghĩa là con có thể phải trở lại đầu thai với họ trong một kiếp sống khác cho tới ngày con rốt cuộc được tự do và cho họ được tự do là chính họ. Con được tự do là gì con là mà không cần biết họ chọn lựa ra sao.

Con nhận ra là, nếu con nhìn vào tất cả các mối tương tác và dính dáng giữa con và người khác, con có thể áp dụng phương pháp trên chăng? Con nhìn vào điểm: Con cần làm gì để tới được điểm mà trong tâm con, con hoàn toàn tự do khỏi người này? Trọng tâm không phải là thay đổi người kia vì tự do của con không tùy thuộc vào hành động và trạng thái tâm người kia. Nó tùy thuộc vào trạng thái tâm của con.

Con sẽ tự do khi con tự do trong tâm của con. Thày đã nói với con điều này trong suốt các bài giảng trước và đặc biệt trong bài giảng này. Con nhìn vào quan hệ của con với người khác như một sự thể vì con nhìn vào nó với viễn kiến nhìn mọi thứ là vật thể hay sự thể. Con thường nhìn người khác và nghĩ: Ồ y là như thế và như thế và không ai có thể làm gì để thay đổi được. Sau đó con nghĩ quan hệ của con với người đó không thay đổi được cho tới khi người đó thay đổi, nhưng vì y sẽ không thay đổi, con không thấy cách chi quan hệ có thể thay đổi được. Làm như thế là con tước đi uy lực của mình.

Khi con lấy lại uy lực của mình, con nhận ra rằng không cần biết người kia như thế nào hay người kia có sẽ thay đổi hay không, điều quan trọng là con thay đổi cách con nhìn người kia để người kia không ảnh hưởng được con. Giê-su nói: “Ông hoàng thế gian tới và chẳng tìm thấy gì trong ta để ảnh hưởng được.” Con có thể xem là bất cứ con gặp ai, người đó có thể là một công cụ của ông hoàng thế gian. Ông đang giản dị tìm mọi cách để khiến con phải phản ứng một cách tiêu cực, dựa trên sợ hãi để ma quỷ ảnh hưởng được con.

14.15. Bị kẹt vào xung đột giữa người và người

Con yêu dấu, cách giản dị nhất để ngăn cản con làm những phần tích cực trong Sứ vụ Thiêng liêng của con là gì? Đó là khiến con bị kẹt vào những xung đột với người khác làm con mất hết thì giờ, sự chú ý và năng lượng. Con không thể nào đi quá một tầng nào đó của con đường tâm linh nếu con còn bị kẹt trong những quan hệ cá nhân làm tiêu hao rất nhiều sức của con.

Con cần tới một điểm vượt lên trên tầng cấp của vật và con nói: “Con có một Sứ vụ Thiêng liêng và một phần của Sứ vụ Thiêng liêng là con thăng vượt một tầng tâm thức nào đó, một tầng ảo tưởng nào đó. Có thể chăng là người khiến con bực mình quá sức đang làm chuyện đó vì y đang lợi dụng cái ảo tưởng mà con không thấy được trong con?” Có thể chăng là người đang làm con bực mình quá sức thật ra là một Sứ giả Thiêng liêng? Y được gửi đến để chỉ cho con thấy điều mà cho tới nay con chưa thấy được và điều mà con cần vượt qua trong chính mình để có thể vươn lên tầng tâm thức cao hơn và bắt đầu thể hiện những khía cạnh tích cực của Sứ vụ Thiêng liêng của con – là cống hiến món quà của con?

Một phần Sứ vụ Thiêng liêng của con là vượt qua những giới hạn của mình nhưng thường đây không phải là phần hào hứng của Sứ vụ Thiêng liêng. Phần hào hứng của Sứ vụ Thiêng liêng là con có một món quà tích cực cho trái đất và con bắt đầu tặng món quà đó. Tại sao con lại cho phép những tranh chấp nhỏ mọn với người khác ngăn cản con thực thi khía cạnh hào hứng của Sứ vụ Thiêng liêng của con, khi con chỉ cần chuyển đổi viễn quan của mình và nói: “ Bài học ở đây là gì? Con cần học điều gì trong mối quan hệ của con với người này? Nó chỉ cho con thấy những dính mắc nào vào những chuyện phải là và không được là?”

Nếu con phân tích bất kỳ quan hệ thiếu hài hòa nào, con sẽ nhận ra là người kia khiến con bực mình vì con có một hình ảnh cho rằng người khác không được làm thế, không được cư xử như thế, không được nói những câu như thế với nhau. Nếu con nhìn vào bề sau, con sẽ thấy rằng tất cả những cái phải là và không được là trong tâm con sẽ ngăn cản con hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Nó cũng ngăn cản con đạt được viễn kiến mà thầy muốn dẫn con tới.

14.16. Đạt được viễn kiến bất nhị

Thày đang hướng dẫn con tới một viễn kiến không nhị nguyên, không dựa trên sự phán xét với hai đối cực. Nó là viễn kiến trong sạch, viễn kiến rõ ràng nhìn mọi vật như là nó là. Con có thể tới điểm mà con nhìn mọi cảnh huống mà không phán xét. Con yêu dấu, đó là lúc con có thể neo mình vào cái mà các thày gọi là Dòng Sông sự Sống và thấy cuộc sống của con là một dòng chảy liên tục.

Con xét xem đa số nhìn hoàn cảnh sống như thế nào. Họ nghĩ; “Tôi có quan hệ với người này đang làm tôi bực mình quá và chuyện này ngăn cản tôi tăng triển. Chuyện này ngăn cản tôi làm những gì tôi muốn làm trong đời mình.” Con thấy là đa số nhìn cuộc đời như một tiến trình ngừng-lại-và-đi-tiếp. Họ muốn đi tới chỗ nào đó trong cuộc sống nhưng luôn luôn có một điều gì ngừng họ lại, không cho phép họ đến nơi đó.

Khi con chuyển đổi viễn kiến của mình, con có thể thoát khỏi viễn kiến ngừng-lại-và-đi-tiếp và con bắt đầu thấy là mỗi hoàn cảnh con gặp chỉ là cách giúp con tiến lên với cuộc sống. Khi con nhìn một dòng sông chảy, có thể có vách đá hai bên dòng sông và tảng đá trong lòng dòng sông. Khi nước đụng vào đá, nó có ngừng chảy không? Nước có ngừng lại và nói: “Tảng đá này không được ở đây, ai đó phải dời nó đi để tôi chảy tiếp?” Không đâu, nước chỉ việc chảy chung quanh tảng đá. Đúng là dòng nước bị tảng đá làm đổi hướng nhưng nó không bị ngưng lại. Dòng nước chỉ việc chảy quá tảng đá và chẳng bao lâu sau nước lại tuôn chảy như chưa từng có tảng đá nào. Đây là cách con phải nhìn các hoàn cảnh trong cuộc sống của con. Thày xin lỗi thày dùng chữ “phải”, nhưng đây là cách con nhìn cuộc sống mình khi con đạt được viễn kiến cao mà thày đề cập.

Con có thể tới điểm mà con nhận ra bất cứ điều gì xảy ra trong cuộc đời không phải là chướng ngại cho sự tiến bộ của con. Nó chỉ là thông điệp chỉ cho con thấy cách đi vòng quanh chướng ngại và tiếp tục tiến lên. Khi con làm như vậy, con đã tiến bộ.

14.17. Cho phép tâm giống như nước

Lúc đó con nhận ra một điều mà sa nhân không muốn con biết, là tâm giống như nước. Nước là một chất kỳ diệu, con yêu dấu. Con có thể lấy cái búa to nhất mà con có thể nâng lên được, và con đập nó vào dòng sông. Con làm nước bắn tung tóe nhưng chuyện gì xảy ra sau vài giây? Dòng nước lại chảy tiếp giống như chưa hề có điều gì ảnh hưởng nó. Tâm con cũng có khả năng đó. Con nhận ra bất cứ chuyện gì xảy ra trong cuộc đời của mình, dù nó làm nước bắn tung tóe, tâm con vẫn có thể tiếp tục chảy. Khi con tha thứ, khi con buông bỏ, tâm con sẽ chảy tiếp, nước sẽ nhập lại với nhau, tâm con sẽ toàn vẹn và con sẽ tiếp tục tuôn chảy như không có gì đã xảy ra.

Khi tới điểm này của khóa nhập thất của thày, thày muốn con nhận ra một cách ý thức là con có thể làm cho tâm con lỏng như nước. Thày không nói rằng con có thể làm cho tâm con hoàn toàn lỏng như nước ở điểm này. Thày muốn con nhận ra là điều này làm được và con cần đặt mục đích này cho mình. Con làm cho tâm mình lỏng như nước, và muốn đạt được điều này, con cần sẵn lòng nhìn vào cuộc sống mình và nhận ra: Có sự việc nào đã làm cho tâm con cứng đặc chung quanh một chấn thương, một nỗi đau, hay một cái nhìn cho rằng chuyện này không được xảy ra? Tâm con có bị cứng đặc chung quanh quan điểm người khác phải thay đổi hay vũ trụ phải thay đổi, hay người khác không được thế này hay vũ trụ không được thế kia? Tâm con đã cứng đặc chung quanh điểm nào?

Và con nhận ra rằng mỗi hoàn cảnh khiến tâm con cứng đặc ở một thời điểm trong quá khứ, trong hành trình trên hành tinh này, đã buộc chân con lại không sống theo Sứ vụ Thiêng liêng. Nó ngăn cản con xuôi theo Dòng Sông sự Sống. Đây là lúc con có sự thúc đẩy mới muốn nhìn vào các ảo tưởng mà con đã chấp nhận. Đây là điểm mà con nhận ra thực là chẳng có gì phải xảy ra hay không được xảy ra.

Bây giờ con nhận ra rằng thực chẳng có cái gì phải xảy ra hay không được xảy ra bất cứ đâu trong vũ trụ, nhưng thái độ này đặc biệt quan trọng trên một hành tinh dày đặc như trái đất. Con đang sống trên một hành tinh rất khó khăn nơi có sa nhân đầu thai, và có sa nhân trong cả ba cõi cao hơn. Họ đã khiến con người tranh chấp với nhau, vì vậy con có những nhóm người liên tục xung đột với nhau. Lớn lên trong một môi trường như vậy rất là khó. Đầu thai nhiều kiếp trên hành tinh này cực kỳ khó. Điều thày muốn chỉ cho con thấy ở đây là cách duy nhất để sống trên một hành tinh như trái đất, để không để bị kẹt trong những cãi vã nhỏ mọn buộc sự chú ý của mình, cách duy nhất là con làm cho tâm mình lỏng như nước để con không bao giờ cho phép nó cứng đặc lại chung quanh bất cứ điểm nào trong quá khứ. Con giữ tâm con như một khối nước xuôi theo Dòng Sông sự Sống.

14.8. Duy trì dòng chảy

Mục đích này không dễ đạt, con yêu dấu. Thày không nói là con phải đạt nó ngay bây giờ hay trong năm phút. Con yêu dấu, con có thể đạt mục đích này, và con không cần mất cả quãng đời còn lại để đạt nó. Thật ra, con có thể đạt mục đích này trong một sự chuyển đổi tâm thức lớn và sau đó con dần dà quét dọn sạch sẽ bằng cách đọc các bài thỉnh để tiêu trừ những năng lượng bị trói trong các sự việc quá khứ. Cũng có thể, con cần xem xét một số hoàn cảnh cá biệt, một số người và nhận ra: “Con cần học bài học gì ở đây để con có thể tha thứ người này, để con buông bỏ ý niệm về cái phải là hay không nên là.”

Có thể con cần quét dọn rất nhiều, nhưng con có thể chuyển hóa tâm rất nhanh và nhận ra rằng tâm con lỏng. Tâm con như nước. Có một trở ngại đằng trước. Có cách nào để con đi vòng quanh nó và trở về xuôi theo Dòng Sông sự Sống mà không hề bị cản trở, bị chắn lối, bị ảnh hưởng bởi bất cứ điều gì?

Con tới một điểm, con yêu dấu, mà con không còn thấp thỏm chờ cuộc khủng hoảng kế tiếp, sự cản trở kế tiếp, hay chướng ngại kế tiếp. Con không dính mắc vào bất cứ hoàn cảnh cá biệt nào, tranh đấu chống người khác hay chống lại cả vũ trụ. Con luôn luôn tuôn chảy và con chỉ quan tâm tìm cách duy trì dòng chảy. Có đây một chướng ngại nhưng con cũng chẳng nhìn vào chướng ngại này và con không hề gợn lên ý tưởng nó phải hay không được ở chỗ đó. Con nhìn vào điều sau: “Làm sao con chảy chung quanh chướng ngại được? Bên kia chướng ngại là gì?” Và sau đó con đã qua được bên kia và con lại tuôn chảy, và giống như là chướng ngại chưa bao giờ có đó. Có thể con học được bài học từ chướng ngại đó nhưng bây giờ con thể nhập bài học và con không cần nghĩ tới nó nữa. Con tiến tới bài học kế tiếp.

Con hiểu chăng, con yêu dấu? Con có thể nhìn vào một hoàn cảnh và nhiều người tâm linh làm điều này và nói: “Bài học cho con là gì? Con cần học điều gì?” Con hiểu rằng khi con đã học trọn vẹn bài học, khi con đã hoàn toàn thăng vượt một trạng thái tâm thức nào đó, một tầng tâm thức nào đó thì con không cần băn khoăn về nó nữa. Con không cần nghĩ về nó nữa. Con tiếp tục chảy và bây giờ con tìm bài học kế tiếp hay việc phụng sự kế tiếp.

Cuộc sống có thể thành một tiến trình trong đó con thoát khỏi mọi phê phán cái này phải xảy ra hay không được xảy ra. Chẳng có cái phải, chẳng có cái không được. Chỉ có niềm vui biết mình đang tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống. Con liên tục tiến tới điểm đi vào hợp nhất với nguồn cội tâm linh của con – với Hiện diện TA LÀ của con – trong nghi lễ thăng thiên huy hoàng.

TA LÀ Hilarion, thày hài lòng con có mặt với thày ở tầng này của khóa nhập thất của thày. Thày mong giảng cho con bài học cuối cùng mà thày phải truyền cho con.

Làm sao ngưng phóng chiếu vào tâm mình

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 16/1/2017.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Con sẽ gặp gỡ gì ở tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày? Như thày đã nói, con gặp gỡ nhu cầu nhìn vào những gì con phóng chiếu vào chính mình.

Chúng ta hãy bắy đầu với sự kiện là đa số những học viên trong khóa học này đã đi trên con đường tâm linh một thời gian rồi. Có lẽ con đã học nhiều giáo lý tâm linh, có thể đã gia nhập nhiều tổ chức và tu tập với nhiều đạo sư. Có lẽ con đã đọc nhiều quyển sách được các người tâm linh ưa thích. Kết quả của tiến trình này là gì? Kết quả là con đã nhận một số ý tưởng, một số niềm tin vi tế và con đã dùng chúng để tạo ra một hình ảnh trong tâm quy định thế nào là một đệ tử tâm linh, thế nào là đi theo con đường tâm linh. Nhiều người đã theo giáo lý chân sư thăng thiên từ mấy chục năm và họ đã tạo ra một hình ảnh thế nào là một đệ tử chân sư thăng thiên tốt.

12.1. Hình ảnh của con về một đệ tử tâm linh tốt

Một lần nữa, thày đã nói gì nhiều lần? Điều này không có gì sai trái vì con không thể làm gì khác ở một tầng nào đó của con đường tu. Vấn đề không phải là điều con đã làm là sai. Thày không ở đây để nói với con là điều đó sai. Điều thày muốn nói ở đây là bây giờ là lúc nhìn vào sự việc này và nhận ra là cần buông bỏ một số những ý tưởng đó. Khi con hoàn tất khóa tự điều ngự này, thày có thể bảo đảm với con là con sẽ phải buông bỏ tất cả mọi ý tưởng của con.

Vì sao thày lại có thể nói như vậy? Con có thể đã theo một giáo lý chân sư thăng thiên nói về những gì cần làm để đi con đường tâm linh. Vậy phải chăng điều tự nhiên là con dùng giáo lý này để xây dựng một hình ảnh thế nào là một đệ tử tâm linh? Đúng vậy, con yêu dấu, đó điều tự nhiên, nhưng con có bắt đầu thấy chăng là con đường tự điều ngự là vượt qua cái ta vỏ ngoài, cái ta tách biệt? Con có nhận ra chăng là để đạt được tự điều ngự, trọng tâm không phải là cưỡng ép cái ta vỏ ngoài hay cho nó những khả năng đặc biệt nào đó.

Mục đích của con đường tự điều ngự không phải là khiến cái ta vỏ ngoài được Thượng đế chấp nhận và cho phép nó vào nước trời. Đây là điều mà các sa nhân mong muốn và họ đã phóng chiếu ra ngoài qua các thày giả đang đầu thai ỡ cõi trần hay ở các cõi cao. Con sẽ không đạt được tự điều ngự bằng cách kiện toàn cái ta vỏ ngoài, cái ta tách biệt – vì không thể kiện toàn nó được.

Con sẽ đạt được tự điều ngự bằng cách sử dụng quyền năng sáng tạo của con mà không chịu ảnh hưởng của cái ta vỏ ngoài. Con thoát khỏi cái ta vỏ ngoài để con không phải là “người đang làm” nhưng Hiện diện TA LÀ của con là người đang làm thông qua cái Ta Biết và bốn thể phàm của con. Đây là một điểm vi tế vì đi lên tầng 96 không có nghĩa là con không có ước muốn gì hết. Nó nghĩa là ước muốn cá nhân của con thuận với những ước muốn trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, những ước muốn mà chính con đã chọn lựa trước khi con đầu thai. Chúng cũng thuận với cá tính của Hiện diện TA LÀ của con, cá tính mà con đã góp phần xây dựng qua những kiếp trước của con.

12.2. Sư sáng tạo và cái ta tách biệt

Điều con cần nhận ra là vì con đã đi trên con đường tâm linh cho tới điểm này, con đã nhận vào một số ý tưởng và con đã dùng chúng để hình thành trong tâm hình ảnh một đệ tử tâm linh phải như thế nào. Trong đó có ý tưởng là con phải biểu hiện sự sáng tạo như thế nào khi con là một đệ tử tâm linh. Lý do con phải xem xét điều này rất giản dị. Ở mỗi giai đoạn của con đường tu, ở mỗi tầng trên con đường tu, con có (như thày đã nói) một số ảo tưởng. Không tránh được là khi con hình thành hình ảnh một người tâm linh phải như thế nào, hình ảnh đó sẽ kết nạp những ảo tưởng mà con còn có trong tâm, những ảo tưởng mà con chưa buông bỏ.

Một lần nữa, điều này không có gì sai trái, đó giản dị chỉ là cách con đường tu vận hành trên một hành tinh dày đặc như trái đất. Thày có nói với con là khi con nâng tâm thức về hướng tầng 144, ở mỗi tầng tâm thức con có một ảo tưởng mà con cần vượt qua. Có nghĩa là khi con tới tầng 96 và hoàn tất khóa học tự điều ngự, con vẫn chưa vượt qua tất cả mọi ảo tưởng. Nhưng ta có thể hy vọng là trong điều kiện lý tưởng, con đã tới điểm vượt qua được những ảo tưởng khiến con biểu hiện sự sáng tạo qua cái ta tách biệt.

Con có thể đang nghĩ điều này không quan trọng lắm ở tầng hiện nay của con, nhưng con sẽ càng ngày càng thấy rõ tầm quan trọng của nó khi con tiến xa hơn trong lớp học này. Những Thượng sư ở trên thày sẽ giải thích điều này và giúp con càng ngày càng giải thoát khỏi các hình ảnh vi tế mà con có. Thày không chờ đợi là, ở tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày, con buông bỏ được hết các hình ảnh mà con có về thế nào là một đệ tử tâm linh. Có một khía cạnh của hình ảnh này mà thày muốn con nhận ra một cách ý thức ở tầng này. Sự thực là con cần phải nhận ra nó để đạt được khái ngộ ở tầng này và đi lên được tầng tới.

12.3. Con phải như thế nào?

Bây giờ thày muốn con làm điều này với tâm ý thức khi con đang đọc hay nghe bài giảng này. Dĩ nhiên là thày đã giúp con trải qua điều này ở khóa nhập thất, nhưng thày đang tìm cách giúp con mang xuống tâm ý thức. Thày muốn con giữ tâm yên tĩnh, thư giãn tâm và hướng về bên trong, chú tâm vào luân xa tim. Sau đó, thày muốn con, trong lúc con đọc hay nghe bài giảng này, con không có một định kiến nào hết, nhưng thày muốn con nhận ra phản ứng đầu tiên khi thày nói câu tới. Phản ứng đầu tiên của con khi thày nói: “Như một đệ tử tâm linh tốt, con phải là….” Điều gì hiện ra trong tâm con? Có hai khía cạnh ở đây. Con có thể có một ý tưởng thực tiễn con phải như thế nào, nhưng điều thày thực sự muốn con nhận ra là khi thày nói: “Như một đệ tử tâm linh tốt, con phải là….” có một cái gì đó kéo con. Nói cách khác, có một khía cạnh của viễn quan của con về đệ tử tâm linh được dựa trên ý niệm con phải như thế nào đó.

Điều này không ngạc nhiên nếu con nhìn vào lịch sử của trái đất. Con hãy nhìn vào các tôn giáo trên trái đất và thấy bao nhiêu tôn giáo đã quy định những quy tắc vỏ ngòai về cách cư xử khi là thành viên của tôn giáo đó. Con có thể thấy là một số tôn giáo đã đem quan niệm này tới cực điểm và quy định hầu như mọi khía cạnh đời sống người theo đạo. Ý tưởng này xuất phát từ sa nhân và nó rất giản dị. Nó cho rằng nếu con sống theo một số quy luật trong cõi vật chất, con có thể hội đủ điều kiện để vào cõi tâm linh.

Con yêu dấu, một lần nữa lại có một điểm vi tế. Thày không nói là có một số quy luật sống là điều hoàn toàn sai. Con có thể thấy là Giê-su, chẳng hạn, trong bài Thuyết giảng trên Đỉnh núi và một số bài giảng khác, đã đưa ra một số quy luật về cách con người phải cư xử, phải đối xử với nhau. Chắc con cũng biết là các quy luật này chủ yếu nhắm vào những người ở dưới tầng tâm thức 48?

Khi con ở dưới tầng tâm thức 48, con rất tập trung vào cái ta tách biệt và con sẵn sàng dùng vũ lực để bảo vệ cái ta tách biệt và thỏa mãn những ham muốn của nó. Con sẵn sàng dùng vũ lực, tuy cường độ vũ lực mà mỗi người dùng có thể khác nhau. Dĩ nhiên, khi con dùng vũ lực thì con tạo nghiệp. Do đó, đối với những ở người ở trạng thái tâm thức này, điều cần thiết là quy định một số luật lệ để, nếu họ tuân theo các luật lệ này thì họ sẽ ít tạo nghiệp cho họ. Con cũng biết là sa nhân sẽ tìm cách hủ hóa bất cứ điều gì được công bố trên hành tinh này? Điều mà sa nhân đã làm là họ nói các quy luật vỏ ngoài không chỉ áp dụng cho người ở dưới tầng tâm thức 48, nhưng áp dụng cho mọi người và mọi người phải tuân theo chúng. Sau đó, sa nhân đã đưa ra ý tưởng là khi làm theo các quy luật vỏ ngoài đó (thường có nghĩa là tuân theo giới thượng lưu quyền lực gồm các sa nhân đang đầu thai, tỷ dụ như các thày tu giả hay một lãnh tụ thế quyền) thì con được bảo đảm sẽ đủ điều kiện vào thiên đàng. Lời gian dối chính là ở đó.

12.4. Con sẽ không lên thiên đàng

Lời gian đối này có nhiều tầng. Con yêu dấu, con sẽ không lên thiên đàng. Con hãy suy nghĩ câu nói này. Con sẽ không lên thiên đàng. Có hai lý do vì sao. Lý do thứ nhất là cái “ta” mà con hiện đang là không hội đủ điều kiện để thăng thiên. Khi con đi lên về hướng tầng 144 của tâm thức, thì cái “ta” mà con có hiện nay sẽ chết đi. Cái “ta” kế tiếp mà con mang vào cũng sẽ chết đi. Con sẽ tiếp tục cho phép từng cái “ta” một chết đi cho tới khi con đến tầng 144, và lúc đó con để cho tàn dư của cái ta tách biệt chết đi và con thăng thiên trong hợp nhất. Lý do thứ hai là con sẽ không bao giờ vào thiên đàng nếu con nghĩ con cần đi đến chỗ nào khác chỗ con đang ở.

Khi con đi về hướng tầng 144, không phải là con càng ngày càng đi gần tới thiên đàng. Đúng hơn là con dần dần vượt qua ảo tưởng cho rằng có khoảng cách giữa con và thiên đàng. Con tới điểm, ở tầng 144, con không đi lên thiên đàng mà đúng hơn là con chấp nhận con đang ở thiên đàng. Con có thấy chăng là sẽ có một điểm – mà điểm này là ngay bây giờ – con cần nhận ra điều này để có thể đạt được tự điều ngự?

Con cần nhận ra là ngay cả trên con đường tâm linh, con có thể dùng một giáo lý tâm linh để củng cố cái ta tách biệt. Khi con làm thế, sẽ tới một lúc điều này sẽ ngưng sự tiến bộ của con. Thày có nói trong bài giảng trước là thày có nhiều thí dụ những người đã theo giáo lý chân sư thăng thiên từ nhiều chục năm nhưng họ đã ngưng tiến triển, và đó là lý do. Họ không nhận ra nhu cầu nhìn vào hình ảnh mà họ đã áp đặt lên chính họ là một đệ tử chân sư thăng thiên phải như thế nào – một đệ tử chân sư thăng thiên tốt phải như thế nào.

Không nhất thiết là tất cả khía cạnh của hình ảnh này đều sai. Con cần nhận ra là con cần buông bỏ dần dần hình ảnh này cho tới khi con tới điểm không còn hình ảnh nào nữa quy định con phải như thế nào. Con đã vượt qua ý niệm một đệ tử tâm linh phải như thế nào đó.

Con yêu dấu, con có thấy chăng là dù con đang học một giáo lý tâm linh, giáo lý đó vẫn trình bày ý tưởng đến với con từ bên ngoài? Mục đích của giáo lý (nếu đó là một giáo lý tâm linh chân thật phát xuất từ chân sư thăng thiên) là đưa con tới điểm con là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con. Có thể là để khiến con tới được chỗ đó, con cần có trong một thời gian hình ảnh một đệ tử tâm linh phải như thế nào, và con cố sống theo hình ảnh đó. Con có thấy chăng là khi con làm vậy, con vẫn đang củng cố một khía cạnh nào đó của cái ta vỏ ngoài, và cái ta đó ngăn chặn con là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ?

12.5. Tuân theo một ý tưởng trong tâm

Thày muốn con bước lui lại và xem xét con đang làm gì trên mặt tâm lý khi con có ý tưởng một đệ tử tâm linh phải như thế nào. Cách vận hành này chính là bản chất của cái ta vỏ ngoài. Nó là (như thày đã giảng trong bài trước) nỗ lực khiến vũ trụ tuân theo một ý tưởng trong tâm, tâm vỏ ngoài, cái ta tách biệt. Thay vì tìm cách khiến vũ trụ tuân theo, con đang tìm cách khiến chính con tuân theo.

Con đang muốn bắt cái ta nào phải tuân phục? Một phần đó là cái ta vỏ ngoài. Dĩ nhiên là cái ta vỏ ngoài chấp nhận hình ảnh thế nào là một đệ tử tâm linh toàn hảo. Cái ta vỏ ngoài thường rất sốt sắng sống theo hình ảnh đó vì nó tin rằng khi đó, nó sẽ được các chân sư thăng thiên chấp nhận và cho phép nó vào cõi thăng thiên.

Nhưng cái ta khác mà con cũng muốn ép phải tuân theo hình ảnh đó là cái Ta Biết, mà các thày đã nhiều lần nói gì? Cái Ta Biết là nhận biết thuần khiết. Cái Ta Biết không phải là cái ta vỏ ngoài, nó chưa bao giờ là và nó sẽ không bao giờ là cái ta vỏ ngoài. Cái Ta Biết không xuống thế gian với cái ta vỏ ngoài. Nó cần cái ta vỏ ngoài để biểu hiện trong thế giới này, nhưng con không cần cái ta vỏ ngoài để thăng thiên, để trở về cõi tâm linh. Thực ra con cần buông bỏ cái ta vỏ ngoài để trở về cõi tâm linh.

Con có thấy chăng là cái ta vỏ ngoài chỉ có thể là một chướng ngại cho sự tiến bộ tâm linh của con? Trong điều kiện lý tưởng, cái Ta Biết là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con, không hơn không kém. Do đó, khi con cưỡng ép cái Ta Biết phải tuân theo một hình ảnh do cái ta vỏ ngoài dựng lên thì con không phải là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con.

Con yêu dấu, thủ đoạn đánh lừa của sa nhân là khiến con tin rằng con không thể là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con. Con không được phép là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ, là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ là sai, biểu hiện ánh sáng tâm linh là sai, biểu lộ khả năng sáng tạo là sai bởi vì con phải luôn luôn tuân theo quy luật. Thủ đoạn đánh lừa của sa nhân là khiến con tin rằng thay vì con sáng tạo và biểu lộ sự sáng tạo của Hiện diện TA LÀ, con phải bắt dòng sáng tạo chảy qua phin lọc của cái ta vỏ ngoài. Cái phin lọc này, dĩ nhiên, được tạo ra trên căn bản các điều kiện trong cõi vật chất. Nếu con cho phép dòng sáng tạo chảy qua phin lọc này, sẽ có một số điều kiện trong cõi vật chất mà con không bao giờ vượt qua được. Con sẽ không bao giờ dám biểu lộ bất cứ điều gì thách thức hay thăng vượt những hạn chế này của cõi vật chất.

12.6. Vượt quá những gì con người cho là khả thi

Con nghĩ vì sao Giê-su, hai ngàn năm trước đây, phải biểu diễn một số phép lạ? Những việc này được chính thức gọi là phép lạ, nhưng chúng không phải là phép lạ. Giê-su chỉ giản dị cho phép Hiện diện TA LÀ của thày hành động qua thày; thày là cánh cửa mở. Hiện điện TA LÀ có thể làm bất cứ điều gì nó muốn trong thế giới vật chất, nói cách khác nó có thể đi quá điều mà thày Serapis Bey đã gọi là định luật thiên nhiên phụ thuộc. Định luật thiên nhiên phụ thuộc không giới hạn được Hiện diện TA LÀ, và đây là điều Giê-su muốn chứng minh khi thày biểu diễn những việc được gọi là phép lạ.

Thày làm những việc phá tan những gì con người cho là khả thi. Bây giờ thì chúng ta sống vào một thời đại khác và do đó không cần làm những loại phép lạ đó nữa. Bây giờ là lúc giúp con người thấy được quyền năng nội tại của họ, và điều này có ý nghĩa khác hẳn trong thời đại này. Điều thày muốn nói là sa nhân đã quy định các định luật thiên nhiên phụ thuộc và họ đã làm vậy vì hai lý do. Một phần là để cho họ một số quyền lực khi họ đạt được điều mà thày gọi là “điều ngự bên ngoài” khi họ chế ngự được định luật thiên nhiên phụ thuộc. Họ cũng đặt ra những định luật này vì chúng giới hạn tất cả các người khác và do đó cho phép sa nhân khống chế được người khác.

Khi con nhìn kỹ hơn, con sẽ thấy là chưa bao giờ có môt sa nhân đã chứng minh quyền năng lớn trong thế giới vật chất mà không bóc lột người khác. Thày có nói về các nhà tỷ phú đã có khả năng biểu hiện đúng những điều kiện bên ngoài mà họ muốn. Họ cũng làm vậy vì họ khiến người khác làm đa số công việc hộ họ, hoặc bằng cách ép buộc hoặc bằng cách mua dịch vụ. Họ không biểu hiện những điều kiện này do quyền năng của họ nhưng bằng cách điều khiển người khác. Các định luật thiên nhiên phụ thuộc được đặt ra một phần để khiến con người tin rằng họ không có quyền năng quá một mức nào đó. Con có thấy chăng là nếu con thấy con phải sống theo một hình ảnh đệ tử tâm linh nào đó, thì con không thể là cánh cửa hoàn toàn mở cho quyền năng sáng tạo của Hiện diện TA LÀ của con?

Con yêu dấu, vị sứ giả này đã theo một giáo lý chân sư thăng thiên trong nhiều năm. Đó là một giáo lý chân chính. Lúc đó nhóm đó là một tổ chức sinh động và ông đã được hưởng nhiều lợi lạc. Nếu ông hoàn toàn chấp nhận hình ảnh đệ tử chân sư thăng thiên do tổ chức đó đề ra, thì ông đã không bao giờ dám trở thành một sứ giả của chân sư thăng thiên. Ông sẽ tiếp tục là một đệ tử, và nếu vậy ông đã không làm đúng theo những gì trong Sứ vụ Thiêng liêng của ông. Con có Sứ vụ Thiêng liêng của con, và điều duy nhất mà thày muốn là con sẽ không cho phép hình ảnh của một đệ tử tâm linh tốt ngăn cản sự hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con.

12.7. Sứ vụ Thiêng liêng của con quan trọng như thế nào?

Khi con tới điểm này, dĩ nhiên là con cần quyết định một cách ý thức điều gì quan trọng nhất cho con. Thày biết là hiện nay có lẽ con không thấy rõ Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con có thể thấy rõ điều con nghĩ là một đệ tử tâm linh tốt. Dĩ nhiên, chọn một viễn kiến rõ dễ hơn là chọn một viễn kiến không rõ. Tuy nhiên, bản chất của con đường tâm linh là con sẵn sàng bước đi bước kế tiếp ngay cả khi con không thấy rõ nó dẫn con đi đâu. Thày muốn hỏi con xem xét điều gì quan trọng nhất cho con: Hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con (mà con và các chân sư thăng thiên đã thiết lập trước khi con đầu thai), hay là tiếp tục sống theo hình ảnh hiện nay của con về người đệ tử tâm linh tốt? Con yêu dấu, con thấy chăng, con không thể làm cả hai việc.

Con có thể nghĩ là nếu con có một viễn kiến chính đáng về người đệ tử tâm linh tốt, thì nếu con sống theo hình ảnh đó, thì một ngày nào đó con sẽ, như một phép lạ, hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình, nhưng điều này không đúng. Con không thể hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con nếu con giữ chặt hình ảnh hiện nay về cách cư xử của con. Con không thể hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con bằng cách ép buộc mình phải sống theo một hình ảnh được quy định trong thế giới này. Con cần tới điểm con hoàn toàn cởi mở để Hiện diện TA LÀ biểu hiện điều nó muốn qua con.

Con yêu dấu, con hãy để thày trở ngược lại điều thày đã nói ở trên, là đằng sau phản ứng nghĩ rằng, như một đệ tử tâm linh, con phải cư xử cách nào đó, là một cơ chế khiến con cảm thấy con cần phải sống theo một hình ảnh nào đó. Điều thày muốn con thấy ở đây là mỗi khi con có cảm giác con phải như thế này, con phải làm điều này, con phải hành xử như thế này, thì điều đó tới từ cái ta tách biệt, cái ta vỏ ngoài, tự ngã, kẻ đứng trên ngưỡng cửa. Nó là lực hút, mở con ra với sa nhân.

Thày biết rõ là có nhiều đệ tử chân sư thăng thiên cho rằng các thày, chân sư thăng thiên, muốn áp đặt điều gì lên con, đòi hỏi con làm điều gì, hầu như đe dọa con phải tuân theo giáo lý của các thày. Thày đã nói gì trong suốt các bài giảng trước về phin lọc nhận thức? Con yêu dấu, các thày là chân sư thăng thiên, các thày là như các thày là. Các thày biết là khi một đệ tử tìm ra giáo lý của các thày, người đệ tử đó có một phin lọc nhận thức và do đó không thể thấy các thày như các thày là. Do đó, các thày cho phép đệ tử dần dần rũ bỏ phin lọc nhận thức để bắt dầu thấy các thày như các thày là.

Ở điểm này của khóa nhập thất của thày, con cần nhận ra là các thày không ép buộc con làm bất cứ điều gì. Ý tưởng các thày muốn ép buộc con là một ý tưởng đến từ sa nhân. Nó được đưa ra bởi nhiều tôn giáo và triết lý và ý tưởng thuộc nhiều phong trào tâm linh và Thời đại Mới.

12.8. Vượt qua một nền văn hóa dựa trên sợ hãi

Các thày đã thấy trong nhiều tổ chức chân sư thăng thiên trước đây là nhiều người đã đến với hình ảnh dựa trên sợ hãi về thày tâm linh. Trong một số tổ chức, họ đã tạo ra một nền văn hóa dựa trên sợ hãi, đưa ra quan niệm là các thày rất trọng kỷ luật, rất đòi hỏi, ảnh hưởng con bằng sợ hãi, nghi ngờ, hổ thẹn hay mặc cảm tội lỗi. Có những tổ chức được các thày bảo trợ và đã đem lại nhiều bài truyền đọc chân chính, nhưng tuy nhiên đệ tử trong các tổ chức này đã xây dựng một nền văn hóa dựa trên sợ hãi và mặc cảm tội lỗi. Con có biết hậu quả tai hại nhất của văn hóa này là gì chăng? Nó khiến những người chịu ảnh hưởng văn hóa đó nghi ngờ những nhắc nhở trực giác đến từ Hiện diện TA LÀ của họ. Họ tìm cách tuân theo văn hóa vỏ ngoài thay vì theo trực giác của họ.

Khi con khiến một người khác nghi ngờ trực giác của họ, thì đó cũng là cách nhanh nhất để con tạo nghiệp. Một lần nữa, thày không muốn gây sợ hãi khi thày nói vậy. Điều thày muốn trình bày là con có thể có một sứ giả chân chính đem lại những bài truyền đọc chân chính và đã tạo ra một tổ chức được các thày bảo trợ, nhưng những người trong tổ chức đó vẫn xây dựng được một nền văn hóa dựa trên sợ hãi. Một lần nữa, điều này không sai trái một cách vĩ đại vì việc mỗi người tới với phin lọc nhận thức của họ là một điều dễ hiểu. Lý do là sa nhân đã phóng chiếu ý tưởng này lên tâm thức đại chúng suốt một quá trình lịch sử dài. Dĩ nhiên là có một lý do vì sao các thày chỉ có thể bảo trợ trong một thời gian một tổ chức có văn hóa dựa trên sợ hãi và không chịu buông bỏ nó. Đó là lý do vì sao ở điểm này thày tìm cách giúp con nhận ra là đã đến lúc con buông bỏ hình ảnh dựa trên sợ hãi về cách con phải cư xử như một đệ tử tâm linh.

12.9. Tiếp nối so với sáng tạo

Con yêu dấu, điều thày nói ở trên dẫn ta tới một điểm, một đề tài rất vi tế. Ý tưởng đằng sau quan niệm định luật thiên nhiên phụ thuộc là chúng đem lại sự tiếp nối, vì chúng không thay đổi theo thời gian. Mơ ước của sa nhân là tạo ra một vũ trụ máy móc. Con có hiểu chăng điều họ thực sự muốn làm, dù ngay cả đa số họ cũng không ý thức điều này? Điều họ muốn làm là chế ra một con đường máy móc đưa tới cứu rỗi để họ có thể vào cõi thăng thiên mà không phải buông bỏ mọi tàn dư của cái ta tách biệt, mọi tàn dư của tâm thức sa nhân. Họ muốn ăn gian hay xông vào thiên đàng.

Dĩ nhiên là điều này không thể làm được. Tuy nhiên, để Luật Tự quyết có thể tự trải bày, các thày đã cho phép một số nhỏ hành tinh có độ dày đặc vật chất khiến gây ra cảm tưởng là có một số định luật thiên nhiên phụ thuộc không thay đổi theo thời gian. Các thày đã cho phép điều này vì như vậy không những sa nhân mà các sinh thể khác cũng được cơ hội sống hết ước muốn kiểm soát cho tới khi họ tới điểm nhận ra đây là một sự phù phiếm, hoặc họ giản dị chán ngán.

Có nhiều đệ tử tâm linh đã dùng một giáo lý tâm linh chân chính để củng cố niềm tin vi tế cho rằng con cần theo một số bước máy móc để hội đủ điều kiện thăng thiên (hoặc đạt được giác ngộ hoặc bất cứ mục tiêu nào khác). Con có thể nói là tất cả giáo lý mà các thày đã trao truyền có thể bị dùng cho mục tiêu này. Các thày đã cho con khái niệm 144 tầng tâm thức. Các thày đã cho con một khóa học có cấu trúc về tự điều ngự dẫn con đi từng bước một. Con có thể dùng các điểm này để củng cố tư duy máy móc khiến con nghĩ rằng con chỉ cần thực hành một số bước. Nhưng có phải chăng là các thày đã nói nhiều lần (nếu con thực sự chú ý nghe) là khóa học này không phải là một khóa học máy móc?

Dĩ nhiên là con có thể theo khóa học này một cách máy móc. Con có thể bắt đầu bằng quyển sách thứ nhất, đọc bài truyền đọc của bước thứ nhất, đi từ tầng tâm thức 48 lên tầng 49. Con có thể đọc bài thỉnh của bước đó mỗi ngày trong 9 hay 33 ngày hay bao nhiêu ngày mà con chọn. Nhưng điều này không có nghĩa là con sẽ tự động đi từ một tầng lên tầng kế tiếp.

Các thày lúc nào cũng nói là khóa học là một khóa học sáng tạo. Nó đòi hỏi con phải nhận ra một hiểu biết mới và nó đòi hỏi con phải lấy quyết định. Điều tối thiểu là con phải chấp nhận hiểu biết mới và qua đó buông bỏ ảo tưởng đã bị hiểu biết đó thay thế. Đây không phải là một tiến trình máy móc.

12.10. Mơ ước của sa nhân

Con đường vươn lên qua 144 tầng tâm thức đòi hỏi con dần dần buông bỏ những khía cạnh của cái ta tách biệt. Điều sa nhân mong muốn là được vào thiên đàng mà không cần buông bỏ cái ta tách biệt. Con yêu dấu, điều họ mơ ước là nếu họ gian lận vào được thiên đàng, thì họ đột nhiên có được tất cả quyền năng và do đó có thể biểu hiện quyền năng đó qua cái ta tách biệt và hoàn toàn làm chủ thế giới.

Dĩ nhiên là điều này không thể nào xảy ra vì khi con còn bất cứ ý định ép buộc người khác hay ép buộc thế giới, thì con không thể thăng thiên, con yêu dấu. Con cần phải hoàn toàn bất hung hãn, bất bạo động để có thể bước vào cõi tâm linh. Sa nhân tìm cầu điều không thể có, và ở tầng này con cần nhận ra là điều này không thể xảy ra.

Con cần tới điểm (con cần làm bất cứ điều gì con làm được với tâm ý thức để tới điểm này) con thực sự thấy điều này một cách ý thức và cảm thấy trong con có sự buông bỏ. Hiểu bằng trí năng và quyết định buông bỏ ảo tưởng bằng tâm đường thẳng và lý trí, không đủ. Con cần làm việc, nghiên cứu bài giảng này, nghiên cứu các bài giảng trước của thày, đọc bài thỉnh, nhìn mọi khía cạnh, xin thày trợ giúp, để con cảm thấy đây không phải là một quyết định vỏ ngoài. Đây không phải là một quyết định của tâm vỏ ngoài; nó tự phát từ bên trong tâm con. Có một quyết định, nhưng không phải một quyết định của ý chí, nó là một quyết định tự phát. Nó không phải là một quyết định dựa trên sợ hãi; nó là một quyết định dựa trên tình thương. Con thấy là con không còn muốn đi theo con đường giả này, con không còn muốn sống hết cuộc đời mình dựa trên ý tưởng vỏ ngoài là con phải như thế nào. Con muốn con là người con là ở mỗi lúc.

12.11. Sự sống còn của cái ta vỏ ngoài

Con yêu dấu, con thấy chăng là cái ta vỏ ngoài khẩn thiết muốn sống còn. Nó biết nó sẽ chết, nhưng nó muốn tạo ra cảm tưởng là nó có thể bất tử. Nó nghĩ để trở nên bất tử thì nó phải giữ nó bất biến với thời gian. Con có thấy chăng đây là mơ ước của sa nhân và mơ ước đằng sau các định luật thiên nhiên phụ thuộc? Họ muốn chế ra cái gì trường tồn, cái gì bất biến với thời gian. Con yêu dấu, là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ có nghĩa gì? Có nghĩa chăng là con luôn luôn như cũ? Không phải vậy đâu, điều này có nghĩa là con không bao giờ như cũ, vì bất kỳ Hiện diện TA LÀ muốn biểu hiện điều gì xuyên qua con trên trái đất, thì con cho phép điều đó xảy ra. Khi Giê-su đi trên trái đất 2,000 năm trước đây, thày không đi và suy nghĩ với tâm vỏ ngoài: “Ta là Ki-tô Hằng sống, ta phải xử sự đúng theo tiêu chuẩn này khi làm bất cứ điều gì.” Khi thày gặp một hoàn cảnh nào, thày không suy nghĩ với tâm vỏ ngoài: “Ta phải hành xử như thế nào trong hoàn cảnh này?” và sau đó ép buộc mình phải hành xử như vậy.

Không đâu, thày ở trong hoàn cảnh. Tâm vỏ ngoài của thày bị vô hiệu hóa, bất cứ tàn dư nào của tâm vỏ ngoài mà thày có bị vô hiệu hóa. Điều thày làm trước hoàn cảnh bên ngoài đó là thày đi vào nội tâm và một cách giản dị, trở nên hoàn toàn trung dung, hoàn toàn cởi mở. Lúc đó, Hiện diện sẽ hành động xuyên qua thày một cách tự do. Con có thể thấy là Giê-su (nếu con có thể đi cùng với thày) có thể gặp một người bị tật nguyền, chẳng hạn như có một cánh tay bị teo lại, và Giê-su chữa lành cho người đó. Hai tuần sau, thày lại gặp một người khác có tay bị teo lại, mà nếu con áp dụng tâm thức sa ngã thì con sẽ nói: “Giê-su sẽ chữa lành người này như thày vừa làm với người kia.”

12.12. Mỗi hoàn cảnh đều phức tạp

Điều con không thể thấy với tâm vỏ ngoài là tất cả sự phức tạp của một hoàn cảnh nào đó. Hiện diện TA LÀ của Giê-su biết hoàn cảnh nghiệp quả phức tạp của người đầu với cánh tay bị teo. Do đó, nó có thể thấy việc chữa lành cánh tay đó sẽ giúp hành tinh và người đó tiến triển. Cũng như vậy, Hiện diện TA LÀ có thể thấy là trong trường hợp người thứ nhì, chữa lành cánh tay không phải là điều hữu dụng.

Nếu con nhìn vào những hoàn cảnh này và phân tích mọi khía cạnh, con có thể lượng định, phân tích, giống như những gì khoa học gia có thể làm, để giải thích vì sao người đầu được chữa lành và người sau thì không. Con yêu dấu, vấn đề là lời giải thích này rất phức tạp và sẽ mất rất nhiều thì giờ để tìm ra nó. Con có thấy điều thày muốn nói ở đây là gì chăng?

Con sống trong đời và con gặp nhiều hoàn cảnh khác nhau. Giả thử con gặp một hoàn cảnh và con muốn dùng tâm vỏ ngoài để biết rõ con phải hành xử ra sao và vì sao lại làm vậy. Giả thử con được một lời giải thích viết thành một quyển sách dày 1500 trang, do đó con cần nhiều ngày để đọc xong quyển sách đó. Dĩ nhiên là khi con đọc xong quyển sách và hiểu bằng tâm vỏ ngoài là con phải hành xử ra sao, thì hoàn cảnh đã thay đổi và lúc đó đã quá trễ để hành động.

Nếu con muốn nhìn một cách cùng cực hơn, giả thử con đang đi trong rừng rậm và con nghe thấy tiếng động xào xạc dưới bụi cây. Con muốn hiểu tình hình với tâm vỏ ngoài và con cần năm phút để hiểu tình hình. Lúc đó, con sư tử đã vồ lấy con và ăn thịt con.

Con có thể thấy cách hành xử trên không đúng theo tinh thần của một sinh thể Ki-tô. Là một sinh thể Ki-tô không có nghĩa là con có một lời giải thích bằng tâm vỏ ngoài phải hành xử như thế nào trong mọi hoàn cảnh. Không có nghĩa là con biết hết mọi chuyện, mọi khía cạnh của một hoàn cảnh. Là một sinh thể Ki-tô có nghĩa là con luôn luôn hòa điệu với Hiện diện TA LÀ và con tuân phục xung lực đến từ Hiện diện TA LÀ trong mỗi cảnh huống.

Con không tìm cách ép buộc con phải hành động y như những gì con đã làm trong quá khứ trong cùng cảnh huống. Con không áp đặt bất cứ cái phải là nào lên trên một hoàn cảnh. Con không tìm cách hành động một cách bất biến. Con tìm cách hành động tự phát trong mọi tình huống. Đó là ý nghĩa của quả vị Ki-tô.

12.13. Tự phát mà không phân tích

Có một số học viên đã xây dựng ý tưởng rằng con đường tâm linh có nghĩa là càng ngày càng biết và hiểu nhiều hơn với tâm vỏ ngoài, trí đường thẳng, trí năng. Họ nghĩ rằng rốt cuộc họ sẽ tới điểm mà họ biết mọi thứ và có thể giải thích mọi thứ. Do đó, trong mọi cảnh huống, họ có thể biết điều gì đúng để làm.

Sau đó, con cũng có cùng những học viên đó, sau khi họ hành động trong hoàn cảnh nào đó, họ phân tích hành động của mình một cách chi tiết tỉ mỉ và hay “dằn vặt mình” vì kết quả không bao giờ tốt đủ. Con yêu dấu, con thấy chăng là khi con hành xử dựa trên ý tưởng con phải làm như thế nào đó, điều gì sẽ tất nhiên xảy ra? Sau khi con đã hành động và đối mặt với kết quả của việc mình làm, con sẽ phải phán xét mình và kết quả của việc mình làm.

Hành động của con có đạt được yêu cầu của hình ảnh toàn hảo mà con phải noi theo? Có bao nhiều lần hành động của con đạt được yêu cầu của hình ảnh toàn hảo? Con bước vào tiến trình phải đối phó với nỗi đau đã không làm đúng theo hình ảnh toàn hảo, phải giải thích điều này một cách nào đó, phải phân tích nó, phải coi nó như một cơ hội học hỏi và ép buộc mình phải học từ đó.

Chắc con cũng hiểu là khi con tiến tới quả vị Ki-tô, cách vận hành này sẽ tan biến đi? Con không phân tích vì con biết con đã hòa điệu với Hiện diện. Đây là điều Hiện diện muốn làm trong hoàn cảnh đó và dù hậu quả là gì chăng nữa, đây là điều tốt nhất có thể xảy ra trong hoàn cảnh đó. Điều này không có nghĩa là con, như một sinh thể Ki-tô, lúc nào cũng làm được điều mang lại kết quả lý tưởng hay toàn hảo. Nếu con nhìn vào đời của Giê-su, con sẽ thấy là có lúc thày đã không đạt được kết quả tối hảo trong một cảnh huống. lý do là vì những người khác liên hệ đến cảnh huống đó đã không phản ứng một cách cao nhất. Giê-su đã làm điều thày có thể làm bằng cách hòa điều với Hiện diện TA LÀ của thày. Thày cho những người khác cơ hội thăng vượt trình độ tâm thức của họ và vươn lên cao hơn, nhưng họ chọn không lấy cơ hội đó và do đó kết quả kém hơn lý tưởng. Tuy nhiên, Giê-su không quay vào bên trong, phân tích và dằn vặt mình về chuyện đó vì thày biết một cảnh huống không đứng yên với thời gian. Cuộc sống là một tiến trình luôn chuyển động. Một sinh thể Ki-tô không có mục tiêu tạo ra một kết quả vỏ ngoài nào đó và duy trì nó với thời gian.

12.14. Quả vị Ki-tô và sự trường tồn

Một sinh thể Ki-tô không đi tìm sự trường tồn, bất biến, liên tục. Một sinh thể Ki-tô luôn luôn tìm cách đẩy cho tiến trình sự sống tuôn chảy. Vị ấy biết sự sống là một dòng sông luôn tuôn chảy. Khi con có một tình cảnh, bất kể kết quả là gì, dòng sông sẽ vẫn tuôn chảy. Điều quan trọng không phải là phân tích xem kết quả có phải như vậy hay không nên như vậy. Điều quan trọng là nói: “Bây giờ kết quả là thế này, bước kế tiếp là gì đây? Làm sao chúng ta có thể đẩy tình cảnh tiến tới để chúng ta tiếp tục tiến lên với tiến trình sự sống?”

Sa nhân lúc nào cũng làm việc để đạt kết quả mà họ hình dung. Một sinh thể Ki-tô không đi tìm một kết quả cuối cùng, có thể ngoại trừ sự thăng thiên của một hành tinh hay sự thăng thiên của mọi người trên hành tinh. Đúng thực là một sinh thể Ki-tô nhìn cuộc sống như tuôn chảy theo dòng sông, giúp mọi người thăng vượt hoàn cảnh hiện nay của họ, trạng thái tâm thức hiện nay của họ và tiếp tục tiến triển.

Con có thấy chăng là điều sa nhân đã làm với định luật thiên nhiên phụ thuộc là tìm cách ngưng không để Dòng Sông sự Sống tuôn chảy? Họ đã tìm cách tạo ra một tình trạng trong đó họ có thể duy trì một trạng thái nào đó lâu dài. Thí dụ, con thấy là họ đã mơ ước tạo ra một nền văn minh, như Đế quốc La mã, hay Liên bang Sô viết, hay thể chế tư bản, và có thể duy trì một trạng thái mãi mãi. Con yêu dấu, đó lúc nào cũng là một trạng thái trong đó sa nhân đóng vai trò lãnh đạo và tất cả mọi người làm nô lệ. Họ nắm quyền kiểm soát, họ có địa vị quyền lực và đặc quyền. Bất biến là điều sa nhân mong muốn.

Thăng vượt là điều các chân sư thăng thiên mong muốn. Thăng vượt liên tục là điều các thày mong muốn. Con yêu dấu, con thấy chăng là ở điểm này của con đường tu của con, thày muốn con xem xét: Hình ảnh con có về chính mình nói gì về mục tiêu mà con muốn đạt được? Con có viễn kiến con đường tâm linh sẽ dẫn con tới đâu? Con đang làm việc để đạt được mục tiêu tối hậu nào?

Con có chăng một hình ảnh cố định trong tâm về mục tiêu mà con muốn đạt được khi con hoàn tất khóa học tự điều ngự này và đạt được tầng tâm thức 96? Con có chăng một hình ảnh cố định thế nào là một sinh thể Ki-tô? Con có chăng một hình ảnh cố định thế nào là một chân sư thăng thiên? Nếu thế thì thày muốn con xem xét một cách ý thức là những hình ảnh đó không phù hợp với thực tại vì đường tu là sự thăng vượt liên tục. Con yêu dấu, nó không bao giờ chấm dứt.

12.15. Bất toại nguyện với chính mình

Nếu con đang cố gắng đạt một mục tiêu cố định, thày có thể bảo đảm với con là con sẽ không bao giờ tới đó và điều này có nghĩa là con sẽ mãi mãi bất toại nguyện với chính mình. Thày không muốn con bất toại nguyện với chính mình và sự tiến triển của mình. Thày muốn con cảm thấy và chấp nhận là con đang ở đúng chỗ con cần ở vào lúc này. Thày muốn con cảm thấy hoàn toàn bình an biết rằng con đang ở đúng chỗ con cần ở. Con cũng sẽ tiến lên tầng kế tiếp và con sẽ hài lòng ở nơi đó. Vì sao con phải suốt đời bất toại nguyện với chính mình?

Con yêu dấu, con có thấy chăng là nhiều đệ tử tâm linh hài lòng hơn, an bình hơn với cuộc đời mình trước khi tìm ra con đường tâm linh? Từ khi con tìm ra con đường tu, con có một mục tiêu mà con cảm thấy phải cố gắng đạt được. Con biết là con chưa tới đó và do đó con cảm thấy có khoảng cách, có sự trống vắng. Thày biết là lúc này con chưa sẵn sàng vượt qua sự trống vắng đó. Thày biết là con đã sẵn sàng để có một ý tưởng gieo vào trong tâm là sẽ có một lúc con sẽ sẵn sàng đối mặt nó và vượt qua nó. Điều này không cần thiết, nhưng nó là sản phẩm không thể tránh của ý tưởng rằng con phải là cái gì đó.

Con yêu dấu, con có thấy chăng hình ảnh mà con đang áp đặt lên chính mình ngay lúc này, quy định thế nào là một đệ tử tâm linh? Con có thấy nó chăng? Nếu con không thấy, con hãy xin thày giúp, và thày sẽ giúp con trong lúc con tiếp tục học bài này. Khi con thấy nó, con có thể nào buông bỏ nó và cho phép mình hơn là hình ảnh đó?

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Bây giờ thày hơn là khi thày bắt đầu bài truyền đọc này. Con có hơn là khi con bắt đầu đọc hay nghe nó chăng?

Làm sao ngưng phóng chiếu ra ngoài

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 15/1/2017.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Con gặp gì khi con tới tầng thứ tư của khóa nhập thất của thày? Con gặp nhu cầu đối phó với một ảo tưởng vi tế khác, một ảo tưởng rất khó vượt qua, một khai ngộ khó khăn khác. Thày có nói là con có thể đã theo con đường tâm linh trong nhiều năm, ngay cả học giáo lý chân sư thăng thiên trong nhiều năm, nhưng vẫn còn một số ảo tưởng về điểm cốt yếu của con đường tâm linh.

Con yêu dấu, con có thể có hai cách nhìn. Dĩ nhiên con biết câu chuyện cũ về ly nước nửa đầy hay nửa vơi. Cũng giống vậy, một số đệ tử tâm linh, khi nhận ra là họ đã có một ảo tưởng hay đã làm việc gì không được cao cả nhất, có khuynh hướng nhìn khía cạnh tiêu cực và thấy là họ đã làm gì sai. Có nhiều cảm xúc liên hệ, như sợ hãi, hổ thẹn, hay tội lỗi.

Một số đệ tử khác nhìn sự việc một cách tích cực hơn và nhận ra mình đã nắm chặt một ảo tưởng là một điều tốt. Vì như vậy họ được giải thoát để lên tầng cao hơn của đường tu. Thái độ này, dĩ nhiên, là điều thày muốn con đạt được khi con tới tầng này của khóa nhập thất của thày.

10.1. Một ảo tưởng ở mỗi bước trong số 144 bước

Nếu con lùi lại và nhìn vào con đường tâm linh, thì con thấy là các thày có nói là con cần đi qua 144 tầng trước khi con sẵn sàng thăng thiên. Các thày cũng có nói là ở mỗi tầng có một trạng thái tâm thức tương ứng với tầng đó. Gắn liền với trạng thái tâm thức ở mỗi tầng là một ảo tưởng nào đó. Ảo tưởng này không nhất thiết là một ảo tưởng tiêu cực.

Khi con ở dưới tầng tâm thức 48, con nắm chặt ảo tưởng cho rằng con là một sinh thể tách biệt và con sẽ không bị hậu quả nếu con cư xử xấu với người khác hoặc con có quyền cư xử xấu với người khác. Khi con lên trên tầng 48, con có một loại ảo tưởng khác nhằm giữ con ở một trình độ nào đó. Những ảo tưởng này không nhất thiết hung hãn hay phá hoại, do đó không có lý do cảm thấy tiêu cực vì có chúng.

Con có thể nói là ở tầng tâm thức hiện nay của con, việc con không nhìn ra ảo tưởng tương ứng với tầng tâm thức đó là điều không thể tránh được. Nếu con đã nhìn ra ảo tưởng đó, con đã thăng lên tầng kế tiếp rồi. Con có thể nhìn con đường tâm linh như một tiến trình qua đó, từng bước một, con nhận ra ảo tưởng nào đó, và do đó buông bỏ và vượt qua nó.

Có thể nói con đường tu là như thế, và do đó con có thể tới điểm mà con không xem chuyện này là tiêu cực. Con không ngần ngại nhận ra ảo tưởng. Con cởi mở; con sẵn sàng nhận ra ảo tưởng. Trên thực tế, con tìm xem ảo tưởng kế tiếp là gì: “Ở bước này, ảo tưởng mà con cần vượt qua là gì?” Rồi khi con bắt đầu thấy nó, con vui mừng là bây giờ con thấy được nó và chuyện tu gần giống như một trò chơi thể thao.

Con có những trò chơi vi tính trong đó con đi trong đường hầm và có một số quái vật nhảy ra và con phải bắn giết chúng. Con có thể nhìn con đường tu một cách tương tự: con đi trên đường tu và ở mỗi tầng có một ảo tưởng nhảy ra trước mặt con, đó là cơ hội để con thấy nó, nhìn kỹ nó, thấy bản chất thật của nó, và sau đó buông bỏ nó và vượt qua nó.

10.2. Khiến con đường tu dễ dãi hơn cho con

Nếu con có thái độ này, thì phần còn lại của khóa học này và của con đường tu cho tới khi con sẵn sàng thăng thiên sẽ dễ dàng hơn cho con rất nhiều. Con không phải gánh chịu phản ứng không tránh được của tự ngã (hay là kẻ đứng trên ngưỡng cửa) muốn con dính mắc vào ảo tưởng ở mỗi tầng.

Con yêu dấu, con hãy tưởng tượng con duyệt qua những ảo tưởng từ tầng hiện nay của con đến tầng thứ 144 và ở mỗi bước con phải đánh nhau với tự ngã và kẻ đứng trên ngưỡng cửa. Tại sao con lại phải làm vậy khi con có thể khiến mọi chuyện dễ dãi cho con hơn bằng cách đứng lui lại và lấy thái độ coi đường tu cốt yếu là để thấy và vượt qua từng ảo tưởng một? Giống như chơi một trò chơi vi tính tương đối vô hại trong đó con tuần tự tiến lên qua một số tầng, thì trên con đường tu con có thể có cảm giác tương tự giống như khi con trong môi trường ảo của trò chơi vi tính. Thày không nói là những gì con người làm trên trái đất không có hậu quả hệ trọng hơn một trò chơi vi tính. Nhưng con có thể tránh đi vào phản ứng tiêu cực. Thày hy vọng là con tới điểm con không còn xem các bước sáng ngộ trên con đường tu hệ trọng đến độ mỗi bước trở thành một gánh nặng lớn và một bi kịch vĩ đại đối với con.

10.3. Chân lý là gì?

Ở tầng này của khóa nhập thất của thày, con phải đối phó với ảo tưởng nào? Có nhiều đệ tử chân sư thăng thiên (trong đó có người đã học giáo lý của các thày từ nhiều chục năm) đã có niềm tin – và đây là điều dễ hiểu – là giáo lý các thày dạy cho con chân lý; chân lý cao nhất. Dĩ nhiên là con cũng biết là một khía cạnh của Tia thứ Năm là Chân lý. Như Pontius Pilate có hỏi Giê-su: “Chân lý là gì?”. Đây chính là một câu hỏi mà nhiều học viên đã không xem xét, và con cần xem xét câu hỏi này ở tầng này của khóa nhập thất của thày.

Chân lý là gì? Chúng ta hãy tạm thời đứng lui lại và hỏi một câu khác: “Có cái gì thật sự là chân lý chăng?” Với hầu hết mọi người, trong khái niệm chân lý cũng có khái niệm phản chân lý, khái niệm dối trá. Chân lý tương phản với dối trá, và đây là cái gì? Hai đối cực dính liền với nhau, con yêu dấu, đây chính là nhị nguyên, phải không con?

Dĩ nhiên là thày biết là tâm nhị nguyên có thể lấy bất cứ trạng thái nào và tạo ra một hoàn cảnh mới trong đó có hai đối cực. Các thày có thể nói là một chân lý không nhị nguyên. Nó có mặt ở đây. Trong cõi thăng thiên, các thày biết chân lý. Thày ở trên Tia thứ Năm và thày biết chân lý rất rõ vì thày mỗi lúc trải nghiệm chân lý như một thực tại hằng sống, một ngọn lửa tâm linh. Chân lý mà thày trải nghiệm trên cõi thăng thiên không có cái đối nghịch. Nó không tương phản với một cái đối nghịch. Nó không tương phản với phản chân lý hay dối trá.

Điều con cần nhận ra ở tầng này của khóa nhập thất của thày là có sự khác biệt giữa chân lý không nhị nguyên và chân lý nhị nguyên. Chân lý nhị nguyên có cái đối nghịch, do đó con nhận ra cái mà đại đa số con người trên trái đất xem là chân lý quả thực là một khái niệm nhị nguyên vì nó có cái đối nghịch. Tỷ dụ, con sẽ thấy là những người theo đa số các tôn giáo hay đạo sư Thời đại Mới, cho rằng tổ chức của họ có chân lý, giáo lý tâm linh cao nhất, và tất cả những giáo lý khác thấp hơn hay thậm chí còn là phản chân lý.

10.4. Khác biệt giữa sự thật và “Chân lý”

Con yêu dấu, ở tầng này của khóa nhập thất của thày, không có gì có thể gọi là chân lý. Con có thể nghĩ là nếu con nhìn vào tất cả các tôn giáo và triết lý tâm linh, con có thể xếp chúng trên một thang điểm và nói là có cái có một mức độ chân lý thấp và có cái có mức độ chân lý cao. Thày sẽ không phủ nhận là điều này không thể làm được vì dĩ nhiên là có một số triết lý do sa nhân trực tiếp tạo ra và do đó bao gồm nhiều hơn những ảo tưởng vi tế của họ.

Con cần nhận ra là ngay cả một giáo lý hoàn toàn do sa nhân tạo ra cũng có một số khái niệm mà đa số người tâm linh xem là thật. Nếu không như thế thì con người đã không bị giáo lý đó lừa gạt. Sa nhân không tạo ra một giáo lý trong đó mọi thứ đều sai hay đều là dối trá. Họ tạo ra một giáo lý trong đó có nhiều điều mà chúng ta có thể gọi là thật, nhưng có một số khái niệm sai lầm trộn vào. Con người chấp nhận giáo lý đó vì những điều mà họ nhận ra là thật, nhưng sau đó họ cũng chấp nhận những khái niệm sai lầm, và điều này dẫn họ theo con đường giả.

Con yêu dấu, con có thấy chăng là trong đoạn vừa rồi (nếu con chú ý) chính thày là chân sư thăng thiên, cũng gặp khó khăn dùng từ “sự thật” hay “chân lý” mà không đi vào một lượng định nhị nguyên tương phản nó với phản sự thật. Chúng ta hãy tạm để vấn đề này qua một bên. Điều mà thày muốn chúng ta chú tâm vào là nếu chúng ta lấy tất cả các tôn giáo và triết lý tâm linh và tạo ra một thang điểm xếp hạng chúng theo mức độ sự thật, thì các đệ tử chân sư thăng thiên sẽ có khuynh hướng nói rằng giáo lý chân sư thăng thiên được công bố như bài truyền đọc qua một sứ giả được bảo trợ, có mức độ sự thật cao nhất. Điều này vừa đúng vừa không đúng.

Dĩ nhiên, đúng là giáo lý các thày được trao truyền với mục đích duy nhất là giải thoát các con. Giáo lý không có những điểm sai cố ý nhằm đánh lừa con, như giáo lý của sa nhân. Nhưng con cần nhận ra rằng tuy các thày cho con một giáo lý thật, các thày không cho (và không tìm cách cho con) “Chân lý”. Chúng ta hãy phân biệt ở đây sự khác biệt tinh tế giữa chân lý“Chân lý”.

Chân lý, hay sự thật, là một khái niệm nói chung. Một điều nào đó có thể chất chứa nhiều hay ít sự thật. Nhưng trong tâm thức đại chúng có một khái niệm về cái gì gọi là “Chân lý”. Đây là ý niệm có một giáo lý cao nhất, một sự thật tuyệt đối. Tỷ dụ, con thấy là nhiều người tín đồ Cơ đốc coi Thánh kinh là Lời của Thượng đế, tuyệt đối và không thể sai. Đối với họ, Thánh kinh là “Chân lý”, là thiên khải tuyệt đối cao nhất có thể trao truyền trên hành tinh này.

10.5. Các chân sư không trao truyền “Chân lý”

Con yêu dấu, các chân sư thăng thiên không bao giờ mong muốn đệ tử coi giáo lý của các thày, dù được trao truyền qua một sứ giả được bảo trợ, giống cách người Cơ đốc cực chính thống coi Thánh kinh của họ. Nếu con làm vậy, con đã hụt mục đích chính trong giáo lý các thày. Các thày không tìm cách cho con “Chân lý”, một giáo lý tuyệt đối cao nhất và do đó toàn hảo, sẽ không thay đổi theo thời gian, và không bao giờ cần khai triển hay nới rộng. Đây không phải là mục đích của các thày. Mục đích của các thày là gì?

Mục đích của các thày là gặp gỡ con ở tầng tâm thức nơi con có thể thấu hiểu giáo lý của các thày (tất cả mọi khía cạnh của giáo lý) và sau đó trao cho con điều giúp con bước lên cao hơn. Các thày không tìm cách trao truyền một giáo lý tuyệt đối, không thể sai và không bao giờ thay đổi. Các thày lúc nào cũng tìm cách giúp con tiến lên như một cá nhân để con có thể tới tầng 144 và hội đủ điều kiện thăng thiên. Các thày cũng muốn nâng tâm thức đại chúng, và con cần nhận ra một sự kiện giản dị. Với tầng tâm thức đại chúng hiện nay, những gì các chân sư thăng thiên có thể trao truyền bị hạn chế dù là các thày truyền qua một người sứ giả được các thày đỡ đầu.

Các thày không có tự do nói bất cứ điều gì vì nếu điều các thày nói quá cao so với tâm thức đại chúng thì rất ít người hiểu được. Trong thời đại này các thày không muốn chỉ đi đến một số ít người. Các thày cũng không muốn đi đến tất cả mọi người, nhưng các thày đang tìm cách đi đến nhiều người hơn trước kia. Nếu con nhìn vào các tổ chức mà các thày đã bảo trợ trong thế kỷ vừa qua, con sẽ thấy là lúc ban đầu các thày trao truyền một giáo lý rất khó tiếp nhận, dùng ngôn từ cổ điển, và do đó chỉ thu hút một số nhỏ. Sau đó, các thày dã dần dần trao truyền giáo lý dễ hiểu hơn và do đó thu hút được nhiều người hơn. Điều này dĩ nhiên các thày sẽ tiếp tục làm vì tâm thức đại chúng đang được nâng lên.

Vì tâm thức đại chúng được nâng lên, các thày có thể làm hai chuyện. Điều thứ nhất là các thày có thể trao truyền một giáo lý cao hơn những gì các thày đã làm trước kia, nhưng điều thứ hai là các thày cũng có thể tác động khía cạnh Omega bằng cách đem tới một giáo lý có thể thu hút một cử tọa rộng lớn hơn. Dĩ nhiên là các thày sẽ làm cả hai chuyện đó khi tâm thức đại chúng được nâng lên trong vòng mấy thập niên và thế kỷ tới khi chúng ta càng ngày càng đi sâu vào Thời Hoàng kim.

10.6. Hãy cân nhắc chuyện tham gia vào các tổ chức

Điều con cần nhận ra ở tầng này của khóa nhập thất của thày là mục tiêu của các thày không phải là trao truyền “Chân lý”. Tất cả những gì các thày làm chỉ có một mục đích, đó là giúp những người đang ở một tầng tâm thức nào đó thăng vượt tầng này và tiến lên cao hơn. Con cần xem xét điều này với tâm ý thức của con.

Khi con tới khóa nhập thất của thày trong ba thể cao của con, con không thể tiến lên tầng kế tiếp nếu con không hiểu ra điều này. Điều rất quan trọng là sự nhận biết này (mà con có thể có rất dễ dàng ở tầng ê-the) thấm xuống tâm ý thức của con. Điều quan trọng khác là con sẵn sàng, trong tâm ý thức, dùng lý trí phê bình để xem xét thái độ của con đối với các giáo lý tâm linh cho tới thời điểm này.

Thày biết đây là một việc khó khăn, có thể đau lòng, đối với một số người. Con cần nhìn vào chính mình và thái độ đối với con đường tu, dù có thể đau lòng, và làm những điều chỉnh cần thiết. Khi con làm xong những điều chỉnh này, thày bảo đảm với con là con sẽ cảm thấy giải thoát ˗ giải thoát khỏi gánh nặng đã đè lên con từ ngày con bước chân trên con đường tu. Con sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn, và con sẽ sẵn sàng đón nhận một quan niệm hoàn toàn mới về con đường tâm linh.

10.7. Vì sao không có chân lý tuyệt đối

Con yêu dấu, chúng ta hãy xem xét trở lại khái niệm “Chân lý”. Thày có nói là các thày không thể đem xuống một giáo lý tuyệt đối vì con người không thể tiếp nhận nó ở tầng tâm thức hiện nay của họ và ở tầng tâm thức đại chúng hiện nay. Đó chỉ là một phần lý do vì sao các thày không đem xuống một giáo lý tuyệt đối. Phần kia của lý do là các thày nhận ra là không thể đem một giáo lý tuyệt đối xuống một bầu cõi chưa thăng thiên.

Trái đất dĩ nhiên không phải là hành tinh có tâm thức cao nhất trong vũ trụ vật chất. Có hành tinh có tâm thức cao hơn trái đất rất nhiều. Ở các hành tinh đó, các thày có thể đem xuống một giáo lý cao hơn rất nhiều những gì các thày có thể đem xuống trái đất. Tuy nhiên, nếu bầu cõi chưa thăng thiên, đó vẫn không phải là một chân lý tuyệt đối không bao giờ thay đổi. Con có thể nói là không có một chân lý tuyệt đối không bao giờ thay đổi vì trên cõi thăng thiên cũng có sự tiến bộ liên tục, tăng trưởng liên tục, thăng vượt liên tục. Khi toàn thể vũ trụ tự nâng lên, tự thăng vượt thì chân lý tiếp tục lên cao hơn. Chân lý cũng có tính thăng vượt, và nó chuyển đổi khi tâm thức được nâng lên. Chuyện này cứ tiếp tục như thế cho tới khi con đạt Tâm thức đấng Sáng tạo. Điều con cần làm ở tầng tâm ý thức là nhìn vào điều này và nhận ra là nếu con đi vào con đường tâm linh với ham muốn tìm ra chân lý tuyệt đối, thì con phải buông bỏ ham muốn đó vì nó là một cái gông quanh cổ sẽ trì kéo con lại. Ở trình độ hiện nay của con, con không nên đặt mục tiêu thấy được các đám mây sẽ tẽ ra và con sẽ khải ngộ chân lý tuyệt đối. Các đám mây rất có thể sẽ tẽ ra và con có kinh nghiệm nội tại về cõi tâm linh. Như các thày đã nói nhiều lần, cái Ta Biết thực sự có khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm và kinh nghiệm Hiện diện TA LÀ, các tầng tâm thức cao hơn, ngay cả cõi tâm linh. Con cũng có thể kinh nghiệm chính đấng Sáng tạo như một trạng thái Sinh thể thuần khiết. Điều con nhận ra, khi con có những trải nghiệm thần bí như vậy, là chúng không thể diễn tả bằng lời. Nếu con tìm cách mô tả chúng bằng lời, con giảm thiểu sự trải nghiệm.

10.8. Chân lý không thể diễn tả bằng lời

Các thày trước đây có đưa thí dụ khi con gặp một người chưa bao giờ nếm trái táo, rất khó để mô tả cho người đó hương vị trái táo vì đó là một trải nghiệm toàn bộ. Điều thày muốn nói là không thể trình bày “Chân lý” bằng ngôn từ.

Con không thể diễn tả một sự thật tuyệt đối bằng lời nói. Thày đã nói về các hành tinh có trình độ tâm thức đại chúng cao hơn, nhưng điều đó có nghĩa cư dân các hành tinh không giao tiếp với nhau bằng ngôn từ, hay ít nhất là chỉ bằng ngôn từ. Điều này có nghĩa là các thày có thể đem xuống đó một giáo lý tòan diện hơn bao gồm một số khía cạnh không diễn tả bằng ngôn từ, và điều này giúp các thày cho cư dân nơi đó một trải nghiệm đày đủ hơn về sự thật.

Con hiểu rằng điều các thày muốn đạt được là dẫn con tới chỗ con có kinh nghiệm thần bí. Con nhận ra có một trải nghiệm cao hơn những gì được diễn tả bằng ngôn từ. Các thày muốn con có trải nghiệm này và đó là mục tiêu của các thày khi con tới khóa nhập thất. Các thày cũng hy vọng là các quyển sách này cùng với giáo lý và các bài thỉnh sẽ giúp con mở tâm (bốn tầng của tâm) ra để con có những trải nghiệm này. Ngôn từ chỉ là phương tiện để đạt một cứu cánh, phương tiện để đưa tới trải nghiệm.

10.9. Phải hành xử ra sao với kinh nghiệm thần bí

Bây giờ, dĩ nhiên, chúng ta gặp một ảo tưởng vi tế khác mà con cần nhìn thấy. Thày có nói về những người Cơ đốc giáo cực chính thống coi Thánh kinh là Lời Thượng đế. Khi con đi vào tâm của những người này, con thấy là có một số người thực sự tin chắc như vậy vì họ đã có một trải nghiệm mà con có thể gọi là trải nghiệm thần bí. Họ đã trải nghiệm tâm thức họ lên một tầng cao hơn bình thường và họ thốt nhiên “thấy”là Thánh kinh là Lời Thượng đế và Giê-su là con đường duy nhất dẫn tới cứu rỗi. Họ trải nghiệm điều này như một kinh nghiệm nội tâm toàn bộ tạo nơi họ một cảm giác choáng ngợp mà họ cảm thấy hoàn toàn thật.

Con yêu dấu, làm sao lại có thể có (khi con biết là Thánh kinh không phải là Lời nguyên văn của Thương đế) một trải nghiệm Thánh kinh là Lời Thượng đế và cảm thấy trải nghiệm này hoàn toàn thực? Ấy, điều này có thể xảy ra vì lý do giản dị là con ở một tầng tâm thức nào đó trong số 144 tầng tâm thức. Như thày đã nói, ở mỗi tầng tâm thức có một ảo tưởng liên quan tới tầng đó. Con có thể bước ra ngoài ảo tưởng đó và thấy cái gì cao hơn, và khi con làm thế, con cảm thấy điều mình thấy rất thật. Trong quá trình lịch sử, hàng triệu người đã có trải nghiệm thần bí. Con yêu dấu, các trải nghiệm này đa phần là chân thật. Những người có trải nghiệm này cảm thấy chúng rất thật. Nhưng sự thực là họ cảm thấy chúng rất thật vì chúng vượt quá tầng tâm thức hiện tại của người trải nghiệm. Chúng không chỉ cho họ thực tại tuyệt đối, cao nhất có thể đạt được.

10.10. Ảo tưởng của sự thực tuyệt đối trong lịch sử

Vấn đề là con người không thể thấy điều này ở các tầng tâm thức thấp. Thày Serapis Bey không giảng đề tài này như thày giảng cho con, vì con chưa sẵn sàng khi con tham dự khóa nhập thất của thày Serapis Bey. Khi con tới tầng thứ tư của khóa nhập thất của thày thì con sẵn sàng thấy với tâm ý thức của con. Đó là lý do vì sao thày giảng điều này. Con yêu dấu, con thấy chăng là ngay lúc này, con đang có một ảo tưởng, và ảo tưởng này có thể là con nghĩ phải có một chân lý cao nhất. Con bây giờ đã sẵn sàng để nhìn quá ảo tưởng này.

Bây giờ chúng ta hãy nhìn lịch sử thế giới để xem xét ảo tưởng này đã tạo ra những gì. Ngay lúc này, trong lúc thày đang truyền đọc bài giảng này, ở Trung đông có một phong trào gọi là ISIS hay IS. Họ là những người Hồi giáo cực đoan cảm thấy giết người không theo đạo Hồi là điều hoàn toàn chính đáng, và giết luôn cả những người Hồi giáo mà họ nghĩ đang không đi theo con đường chân thật duy nhất. Đa số con người, dĩ nhiên, có thể thấy đây là hình thức cuồng tín. Nhiều người ở Tây phương tự nghĩ: Tại sao lại có người tin như vậy, tại sao họ lại có thể cư xử như vậy? Con nên hiểu là đa số những người cư xử như vậy đã có một trải nghiệm nội tâm mà họ cảm thấy rất thật. Với họ, kinh nghiệm nội tâm này chứng thực niềm tin là truyền bá đạo Hồi là điều cần thiết, ngay cả dùng bạo lực cũng được, và Thượng đế sẽ thưởng họ khi họ làm vậy. Con hãy nhìn suốt chiều dài lịch sử thế giới và thấy đã có bao nhiêu lần con người đã gây chiến tranh với tư duy cuồng tín, tin rằng có một đại nghĩa quan trọng đến độ giết người khác trở nên chính đáng. Con yêu dấu, điều này đã lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong lịch sử. Thày biết là con đã vượt lên trên tầng tâm thức cho rằng giết người để xiển dương một đại nghĩa nào đó là điều chính đáng. Điều thày muốn con làm là con đi bước cuối cùng trong việc buông bỏ hạt giống cuối cùng của tâm thức cuồng tín đó. Đó là khi con, với tâm ý thức, nhận ra và nhìn nhận là không có một đại nghĩa nào trên trái đất biện minh cho việc giết người khác.

Con yêu dấu, chân lý không đáng để chúng ta bỏ mạng và giết người. Lý do rất giản dị. Chân lý là một khái niệm tùy thuộc vào trạng thái tâm thức hiện thời của con. Khi con còn ở trên trái đất, và đúng thực là ngay cả ở cõi thăng thiên, lúc nào con cũng có thể nâng tâm thức mình lên và thấu hiểu một biểu hiện chân lý cao hơn điều mà con có thể hiểu hiện nay.

Giết một mạng người (cũng như là hại mạng mình khi mình tham dự chiến tranh với tư duy cuồng tín và bị giết) là một hành động tuyệt đối vì nó vĩnh viễn chấm dứt cơ hội đặc trưng của kiếp sống đó. Đúng là linh hồn không chết và sẽ đầu thai trở lại, nhưng nó không thể nào đầu thai trở lại trong cùng hoàn cảnh bên ngoài. Do đó, cơ hội đặc trưng của kiếp sống đó bị chấm dứt vĩnh viễn khi người đó bị giết. Trong khi đó, chân lý không tuyệt đối, không vĩnh viễn. Vậy con có thể thấy: làm sao việc bảo vệ một chân lý không vĩnh viễn có thể biện minh cho một hành động tuyệt đối, vĩnh viễn là việc giết người?

10.11. Vượt qua tư duy cuồng tín

Có đệ tử chân sư thăng thiên vẫn giữ trong mấy chục năm niềm tin là cứu cánh biện minh cho phương tiện. Đúng là họ thấy trong thời Đức Quốc Xã hay thời Cộng sản là những chủ nghĩa đó không biện minh cho việc giết chóc. Nhưng họ vẫn nghĩ là có thể có một chính nghĩa quan trọng đến độ việc giết người có thể chính đáng. Con yêu dấu, điều này giản dị không đúng. Con cần thấy điều này bằng tâm ý thức, buông bỏ ảo tưởng một cách ý thức vì nó là cái gông trên cổ con. Nó là một lỗ hổng cho sa nhân xâm nhập và khuynh loát con một cách vi tế. Con không thể tiến xa hơn tầng này của con đường tu nếu con không buông bỏ một cách có ý thức niềm tin này.

Tư duy cuồng tín đã biểu lộ một cách hiển nhiên trên hành tinh này. Dĩ nhiên là những phong trào cuồng tín hiển nhiên, như Đức quốc xã hay Cộng sản, đã do sa nhân khởi xướng. Như các thày đã tìm cách giảng cho con, có nhiều trình độ sa nhân. Một số sa nhân thô thiển hơn và một số khác tinh vi hơn. Chắc con cũng nhớ, dĩ nhiên, là Thánh kinh nói rắn là ác thú xảo quyệt nhất. Con thấy là các hình thức cuồng tín hiển nhiên, như ISIS, Đức quốc xã hay Cộng sản, luôn luôn do sa nhân thô thiển khởi xướng. Con có thể nhìn vào Hitler và con thấy là tuy rằng y có khả năng thu hút quần chúng nhưng y không thực sự là một nhà tư tưởng lớn. Đây cũng là trường hợp của, tỷ dụ, Lê Nin và Marx và một số người khác đã khởi xướng các phong trào cuồng tín. Họ không phải là nhà tư tưởng lớn vì họ đã rơi vào tư duy cuồng tín khiến họ bị mù lòa.

Con yêu dấu, nếu con đứng lui lại và nhìn những biểu lộ hiển nhiên của tư duy cuồng tín, thì con thấy có một cơ chế tâm lý đằng sau chúng. Sa nhân đã khôn khéo sử dụng cơ chế tâm lý này. Khi con có một biểu lộ hiển nhiên của tư duy cuồng tín, tỷ dụ như chủ nghĩa Quốc xã, thì sa nhân nói đó là định nghĩa của tư duy cuồng tín. Những hình thức cư xử hay hệ thống tư tưởng khác không cực đoan bằng chủ nghĩa quốc xã thì không coi là cuồng tín. Điều thày muốn làm được ở đây là mở rộng sự nhận biết có ý thức của con là tư duy cuồng tín vi tế và bao quát hơn con nghĩ.

10.12. Say mê ý tưởng

Thế nào là tư duy cuồng tín? Hình thức thông thường nhất, phổ quát nhất của cuồng tín là tình yêu say đắm. Khi con yêu say đắm một người khác thì chuyện gì xảy ra? Con có một cái nhìn lệch lạc về sự việc. Con có một cái nhìn lệch lạc về người kia. Con chỉ nhìn thấy những gì chứng thực niềm tin rằng người đó là người bạn đời lý tưởng, và con từ chối thấy những chuyện gì khác. Đây chính là điểm cốt yếu của cơ chế tâm lý khi con yêu say đắm. Con nhấn mạnh những điều chứng thực cái nhìn cơ bản của con về hoàn cảnh và con phớt lờ hay chối bỏ những điều không chứng thực cái nhìn của con về hoàn cảnh. Đây cũng là cơ chế tâm lý đằng sau tư duy cuồng tín.

Bây giờ, chúng ta phải đi thêm bước nữa và nhận ra rằng con người có khuynh hướng say mê ý tưởng. Con cần cẩn thận suy ngẫm điều này với tâm ý thức của con. Khi con tuần tự trải nghiệm các sáng ngộ ở khóa nhập thất của thày, đa số học viên dễ dàng hiểu điều này ở thể bản sắc của họ. Nhưng có nhiều người gặp khó khăn để hiểu biết này thấm xuống tâm ý thức, vì chính họ đang say mê một ý tưởng. Thông thường, những người đọc quyển sách này đã theo con đường tâm linh vì họ say mê một số ý tưởng.

Thày đã nói gì khi bắt đầu những bài giảng này? Ở mỗi tầng của con đường tu, có những ảo tưởng cần thiết. Đó chính là điều quy định tầng đó. Một lần nữa, thái độ của con cho tới điểm này không có gì sai trái. Thày không muốn khiến con cảm thấy là những gì con làm cho tới nay hoàn toàn sai và do đó con cần cảm thấy mình dở. Ngược lại, thày chỉ giản dị muốn giúp con thấy là để tiến lên cao hơn nữa, con cần buông bỏ thêm một ảo tưởng nữa. Con cần buông bỏ nó một cách có ý thức để có thể tiến lên tầng kế tiếp. Đây là điều cần xảy ra ở mỗi tầng của con đường tu.

Ở đây, vấn đề thực là sa nhân đã nhét được ý tưởng này vào tâm thức đại chúng. Họ đã làm điều này rất, rất lâu trước đây khi họ tới hành tinh này. Họ đã làm vậy trên những hành tinh khác trước khi họ tới hành tinh này, ngay cả trong các bầu cõi trước. Do đó, họ tin rất chắc là quan niệm của họ đúng. Nhưng con, dĩ nhiên, là một đệ tử tâm linh. Con đang đi trên con đường tự điều ngự, và nếu con muốn điều ngự cái ta thì con phải vượt qua ảo tưởng này.

10.13. Ảo tưởng nguy hại nhất về ý tưởng

Ảo tưởng này là gì? Con yêu dấu, ảo tưởng này là vũ trụ vận hành theo những ý tưởng mà tâm nhị nguyên có thể hiểu được. Sa nhân đã đi vào nhị nguyên. Họ không biết là họ đã đi vào nhị nguyên. Con hãy cẩn thận lắng nghe điều thày sắp nói.

Thày có nói là có những sa nhân rất tinh vi, rất tinh tế. Nếu con, như một đệ tử chân sư thăng thiên, gặp một trong những sa nhân đó và bắt đầu tranh luận với họ, con sẽ thấy, như chính Giê-su đã nhìn nhận, là con khó tranh luận hơn họ. Khi con theo lối suy luận dùng tâm đường thẳng, phân tích, nhị nguyên của họ, con không thể tranh luận hơn họ. Họ có động lực làm việc này từ rất lâu nên con không thể tranh luận hơn họ. Con không thể làm cho họ thấy là sự suy luận của họ bị giới hạn. Họ sẽ luôn luôn tìm được một cách để phản bác bất cứ lập luận nào của con. Nếu con tìm cách tranh luận hơn họ, con chỉ càng ngày càng chìm sâu vào tư duy đó.

Thày nói điều này để giúp con nhận ra là tranh luận không đạt được mục đích gì. Tranh luận về điều này không lợi ích gì, và lý do là mỗi sinh thể tự nhận biết có quan niệm riêng của mình về thế giới. Một sa nhân nhìn thế giới từ một góc độ nào đó. Họ nhìn thế giới qua một phin lọc nhận thức nào đó, như chính thày và các thày khác đã giảng nhiều lần.

Con con thể đưa ra một lập luận cho sa nhân đó, và đối với con lập luận của con hoàn toàn tin được. Con có thể thấy lập luận của sa nhân hiển nhiên là sai, mâu thuẫn và không có giá trị bằng lập luận của con. Lý do vì sao điều này hiển nhiên với con là vì con nhìn vào lập luận với phin lọc của tâm thức của con, nhưng sa nhân không nhìn vào lập luận với phin lọc của tâm thức của con, họ nhìn với phin lọc của tâm thức của họ. Do đó, họ không thấy những gì con thấy.

Tìm cách áp lực người khác thấy điều con thấy quả thực vô ích. Con không bao giờ có thể ép người khác thấy điều con thấy vì người đó không bao giờ có thể nhìn một hoàn cảnh từ bên trong tâm của con. Người đó sẽ nhìn hoàn cảnh từ bên trong tâm của y. Vì sao con cần hiểu điều này một cách ý thức? Vì con cần nhìn vào đời mình, và nhận ra là có những lúc con có thể đã tìm cách áp đặt ý tưởng của mình lên người khác.

10.14. Áp đặt ý tưởng lên người khác

Con chắc cũng biết là thời xưa có khái niệm gọi là “mắt tà ma”. Người ta tin rằng có người có khả năng nhìn người khác và phóng ra một bùa ngải khiến người khác bị tai họa. Có thời mà những người bị coi là đã đặt mắt tà ma lên người khác bị ném đá chết hay bị đốt chết. Ở nhiều nơi trên thế giới người ta vẫn tin chuyện này, và ngày nay vẫn còn những nơi có người bị giết chết hay bị tảy chay vì dân chúng cho rằng họ đặt con mắt tà ma lên người khác.

Có một phần sự thật đằng sau những câu chuyên này. Thày không nói là những người cổ sơ hoàn toàn có lý, hay hành hạ người khác vì lý do này là điều chính đáng. Điều thày muốn nói là tất cả mọi người đều có khả năng, như thày đã giảng, dùng viễn quan của mình như một lực chủ động bằng cách phóng chiếu viễn quan của mình lên người khác. Họ có thể làm việc này với một năng lượng linh hồn cao đến độ có thể ảnh hưởng thể bản sắc, tư tưởng và cảm xúc của người khác, và như vậy ảnh hưởng người đó ở tầng vật lý.

Dĩ nhiên đây là điều con cần ngưng không làm nữa ở điểm này của con đường tu. Con cần nhìn một cách trung thực vào cuộc đời mình và xét xem liệu con đã có làm điều này chưa. Sau đó, con cần nhìn nhận con đã làm như thế mà không chê trách mình. Một lần nữa, con có thể làm gì khác chăng? Con có thể làm gì khác chăng ở những tầng tâm thức thấp trên trái đất này? Những gì con đã làm không quan trọng. Vấn đề chính là: Con sẽ làm gì kể từ nay trở đi? Đây là điều thày muốn biết. Ở khóa nhập thất của thày, thày không mang con vào một căn phòng và bắt con phải đối mặt với tất cả những gì con đã làm sai trong quá khứ. Thày có thể cho con vài nhận xét về những gì con đã làm để con thấy nhu cầu thăng vượt chúng và để con thấy cơ chế vận hành đằng sau các hành động này.

Cơ chế vận hành đằng sau việc phóng chiếu một viễn quan lên người khác là gì? Đó chính là tâm thức, do sa nhân đề xướng, say mê ý tưởng và bắt đầu nghĩ vũ trụ vận hành theo ý tưởng của mình. Hay đúng hơn, vấn đề là con bắt đầu nghĩ vũ trụ phải vận hành theo ý tưởng của mình. Đây chính là nguyên nhân của tư duy cuồng tín. Con người say mê một ý tưởng, nghĩ rằng nếu vũ trụ vận hành theo ý tưởng này thì mọi chuyện sẽ hài hòa, sẽ có thiên đàng trên trái đất. Sau đó, họ nhìn chuyện đang xảy ra trên thế giới và thấy là thế giới đang không vận hành theo ý tưởng của họ.

Con yêu dấu, ở điểm này điều lý tưởng nên xảy ra là người đó phải nói: “Chờ chút, nếu tôi có thể quan sát là thế giới không vận hành theo ý tưởng của tôi, thì phải chăng tôi cần xét lại ý tưởng của mình để chúng giải thích được cách thế giới thực sự vận hành, thay vì cứ nắm chặt một lý tưởng cho rằng thế giới phải vận hành sao đó?

Nhưng thay vào đó, con người đã làm gì? Họ đi vào tư duy cuồng tín và nói: “Lý do vì sao thế giới không vận hành đúng theo ý tương của tôi là vì con người không hành xử đúng theo ý tưởng của tôi. Do đó, công việc của tôi là khiến họ hành xử đúng theo ý tưởng của tôi và sau đó chúng ta sẽ có thiên đàng trên trái đất.”

Đó chính là bản chất của tư duy cuồng tín. Nó không khác nhiều lắm trạng thái mà con người trải nghiệm khi họ yêu say đắm. Nó không khác nhiều lắm. Con cần tới điểm nhận ra con đã có khuynh hướng quan niệm đường tâm linh dựa trên khuôn nếp đó. Con đã có ý tưởng cho rằng con đường tâm linh phải vận hành như thế nào rồi con tìm cách áp lực chính con phải tuân theo ý tưởng đó. Con có thể cũng đã tìm cách áp lực người khác phải tuân theo ý tưởng đó.

10.15. Nó ngừng ở đây

Thày muốn con làm hai chuyện một cách ý thức. Thày muốn con, sau khi con đọc bài thỉnh liên quan đến bài giảng này, bỏ ra chút thì giờ nhìn lại đời mình và nói: “Tôi đã tìm cách áp đặt ý tưởng của tôi về con đường tâm linh lên người khác như thế nào?” Dĩ nhiên con có thể xin thày giúp con nhìn thấy điều này với tâm ý thức. Thày bảo đảm với con là ở khóa nhập thất của thày con thấy rõ điều này với các thể cao của con. Ở khóa nhập thất của thày, con thấy được điều này mà không cảm thấy đau đớn, không kháng cự, không miễn cưỡng.

Thày đang ngồi với con và thày đang dẫn con tới điểm con ở trong trạng thái tâm sẵn sàng thấy điều đó. Sau đó, chúng ta nhìn vào nó và con thấy nó. Khi con thấy nó, con không cảm thấy mình tội lỗi, con không lên án mình. Con giản dị nói: “Nó ngừng ở đây. Nó ngừng ở đây. Nó ngừng ngay bây giờ. Tôi thấy những gì tôi đang làm và tôi sẽ không làm nữa.”

Đây là một sự chuyển đổi, và khi con chuyển đổi ở tầng tâm ý thức, thì con đạt được khai ngộ ở tầng này của khóa nhập thất của thày. Khai ngộ ở tầng này thực sự là ngưng phóng chiếu viễn kiến của con về chân lý lên người khác hay thế giới bên ngoài con. Đó là khai ngộ mà con cần vượt qua. Thầy cần con xem xét điều này một cách có ý thức vì con không thể tiếp tục khóa học tự điều ngự này nếu con chưa ngưng phóng chiếu viễn kiến của con ra ngoài tâm con.

10.16. Mục đích của con đường tu

Con yêu dấu, con có thấy chăng mục đích của con đường tu? Chúng ta đã nói về giai đoạn trầm mình và giai đoạn tỉnh giác. Con làm gì khi trầm mình vào vật chất? Thày có nói là con bắt đầu ở tầng tâm thức 48 để có thể hiện thân trên trái đất. Con làm gì khi con bắt đầu hiện thân trên trái đất?

Con ở trên cõi ê-the, cõi bản sắc. Hiện diện TA LÀ của con đã tạo ra cái Ta Biết từ bản thân nó. Nó gửi con xuống tới một điểm con có thể hiện thân trong một bầu cõi chưa thăng thiên, trên một hành tinh có độ dày đặc của trái đất lúc đó.

Con phải làm gì để có thể nhập vào một thân thể vật lý? Cái Ta Biết không thể trực tiếp nhập vào thân thể vật lý. Nó cần phải tạo ra một cỗ xe, là bốn thể phàm, là linh hồn. Con tạo ra cỗ xe này như thế nào? Để bắt đầu, con vào tầng 144. Sau đó, con nhận lãnh ảo tưởng của tầng đó. Sau đó, con xuống tầng 143, nhận lãnh ảo tưởng của tầng đó, sau đó xuống tầng 142, vân vân. Con tiếp tục nhận lãnh từng ảo tưởng một cho tới khi con xuống tới tầng 48.

Các ảo tưởng mà con nhận lãnh là gì? Các ảo tưởng này khiến con có thể tin được là con đang thật sự là một con người trong một thân thể vật lý trên trái đất. Con thấy chăng, các ảo tưởng này cần thiết để cho con cảm nhận con thật sự là một con người.

Thày có nói ở trên về sự kiện con có thể có một trải nghiệm thần bí khi con thấy một điều gì vượt lên trên tầng tâm thức hiện nay của con, và trải nghiệm đó cảm thấy rất thật. Khi con đi xuống hiện thân, con giản dị đảo ngược tiến trình này. Con có một trải nghiện phản-thần bí khiến con cảm thấy rất thật là mình là một con người hiện thân trên trái đất. Đây là giai đoạn trầm mình; đây là kinh nghiệm trầm mình. Mục đích là con trầm mình vào cuộc đời mà trái đất cống hiến. Con có những loại trải nghiệm có thể có trên hành tinh này cho tới khi con chán ngán chúng và bắt đầu mong ước một cái gì hơn nữa.

Con bắt đầu ở tầng tâm thức 48 và con có chọn lựa đi lên trên tầng 48 hay đi xuống dưới tầng 48. Khi con đi xuống dưới tầng 48, con làm gì? Con nhận vào thêm ảo tưởng. Như thày có giảng, ảo tưởng mà con nhận vào là dùng vũ lực là điều chấp nhận được và chính đáng. Tìm cách áp lực người khác, tìm cách áp lực vũ trụ vật lý phải tuân theo ý tưởng của mình, là điều chấp nhận được.

Con cần gì để tỉnh giác? Con cần đảo ngược tiến trình, và bây giờ, từng ảo tưởng một, con bắt đầu đi lên trở lại. Con buông bỏ một ảo tưởng, con đạt tầng tâm thức cao hơn, rồi con buông bỏ ảo tưởng kế tiếp và tiếp tục như thế.

Con đang theo khóa học tự điều ngự này. Con đang không ở tầng tâm thức cao nhất. Con chưa sẵn sàng thăng thiên. Do đó, con còn nhiều ảo tưởng con cần buông bỏ trước khi con thăng thiên. Không có gì bất tự nhiên về chuyện này. Đây giản dị là cách cuộc sống vận hành trong một bầu cõi chưa thăng thiên.

Con cần nhận ra điều này với tâm ý thức và thấy rằng đã tới lúc con ngừng phóng chiếu ra ngoài viễn kiến của con về chân lý; ngừng phóng chiếu nó lên người khác và ngừng phóng chiếu nó lên chính vật chất. Con cần có thái độ ý thức là con sẵn sàng nhìn vượt quá viễn kiến hiện nay của con về chân lý. Con sẵn sàng nhìn quá ý tưởng của con là thế giới phải vận hành ra sao. Con sẵn sàng xem xét thế giới thực sự vận hành ra sao. Khi con thấy thế giới thực sự vận hành khác với ý tưởng của con về thế giới, con sẵn sàng nói: “Vậy thì tôi phải điều chỉnh ý tưởng của tôi. Chính ý tưởng của tôi bị thiếu sót.”

10.17. Tìm cách ép thế giới tuân theo ý tưởng

Dĩ nhiên là lúc này là lại gặp một điểm tế nhị khác. Nhiều người khó vượt qua được điểm tế nhị này. Họ càng đi trên đường tu lâu năm thì họ càng khó vượt qua ảo tưởng này. Dĩ nhiên là con nghĩ vì con đã đi trên con đường tâm linh, vì con đã thực tập nhiều pháp tu, vì con đã nghiên cứu giáo lý tâm linh (ngay cả giáo lý chân sư thăng thiên), nên con đã dần dần nâng cao viễn kiến của mình, gia tăng hiểu biết của mình về chân lý. Do đó, con nghĩ là điều con thấy bây giờ là một chân lý cao hơn điều con thấy 10 hay 20 năm về trước. Điều này đúng – dĩ nhiên là đúng. Nhưng con yêu dấu, nó không phải là chân lý tối hậu.

Vẫn có một chân lý cao hơn điều con đang thấy ngay bây giờ. Con cần chấp nhận một cách ý thức là con sẵn sàng thấy chân lý cao hơn đó. Con sẽ không bám víu vào chân lý hiện nay của con. Con sẽ không tìm cách chứng thực nó, con sẽ không tìm cách khiến nó được công nhận.

Con cần quyết định một cách ý thức là con sẽ ngừng dùng giáo lý của chân sư thăng thiên (hay giáo lý tâm linh khác) để biện minh cho viễn kiến hiện nay của con về chân lý. Con cần sẵn sàng nhìn chân lý cao hơn. Để thấy được nó, con cần sẵn sàng nhìn xem thế giới không chứng thực viễn kiến hiện nay của con ở điểm nào. Sau đó, con cần nhận ra rằng chính viễn kiến của con cần thay đổi, chứ không phải thế giới và người khác cần thay đổi. Tìm cách thay đổi thế giới và người khác chỉ là cái cớ để không thay đổi mình, không thay đổi viễn kiến của mình. Chuyện giản dị vậy đó, con yêu dấu!

Sẽ tới một lúc – là lúc đó là ngay bây giờ – con cần phải chạm trán thực tại này một cách ý thức. Con cần nhìn ra nó. Con cần nhận ra có một khía cạnh trong tâm lý của con (có thể gọi là tự ngã, kẻ đứng trên ngưỡng cửa, hay phàm linh nột tại) không cho phép con thăng vượt lòng khao khát thế giới chứng thực chân lý của con.

Sa nhân không muốn con làm điều này. Họ không muốn con chiến thắng được điểm đó. Họ đang hò hét về hướng con ngay lúc này, dùng tất cả ảnh hưởng mà họ có để khiến con chối bỏ điều thày nói, và bám víu vào một ý tưởng như: “Dĩ nhiên là có một viễn kiến cao nhất là thế giới phải như thế nào, vì hiển nhiên là thế giới hiện nay không đang là như nó phải là”. Con yêu dấu, con có thấy chăng là thế giới ngay lúc này đang đúng y như điều nó phải là.

10.18. Vì sao thế giới đang là như nó phải là

Thày không muốn nói là một số điều kiện đang có mặt trên trái đất đều chính đáng, đúng và thật dựa trên một tầm nhìn cao hơn, không nhị nguyên. Dĩ nhiên là có nhiều điều kiện nhị nguyên, nhưng con có hiểu chăng điều các thày đã giảng trong giáo lý và các khóa học này?

Trái đất là một trường học. Có hai cách học. Hoặc con lắng nghe lời chỉ dẫn cao của các chân sư thăng thiên hay con đi vào Trường đời Cay đắng. Khi con ở trong Trường đời Cay đắng, con không thể học bằng cách nghe lời dạy của các chân sư thăng thiên hay bất cứ vị thày tâm linh nào khác. Con phải học bằng cách thấy các điều kiện vật lý thể hiện trạng thái tâm thức của mình cho tới khi con bị quá nhiều cay đắng đến độ con chịu nói: “Ồ, có phải chăng là tâm thức của tôi cần thay đổi nếu tôi muốn ngưng trải nghiệm các sự cay đắng này?”

Con có hiểu chăng điều thày đang muốn giảng? Thế giới, và tất cả mọi chuyện đang xảy ra trong thế giới, là sự thể hiện của tâm thức đại chúng. Thế giới đúng y như nó phải là. Thế giới phải thể hiện những bất quân bình trong tâm thức đại chúng, và dĩ nhiên, đó là vì tấm gương vũ trụ phản chiếu lại điều mà tập thể con người đang phóng chiếu vào nó.

Như một đệ tử tâm linh, con cần nhận ra là thế giới ngay lúc này đang đúng y như nó phải là vì nó thể hiện tâm thức của quần chúng. Do đó, con nhìn những việc đang xảy ra trong thế giới và con nói: “Công việc của con không phải là dùng áp lực để khiến thế giới và người khác tuân theo viễn kiến của con. Công việc của con là nâng cao tâm thức mình và đạt được tự điều ngự. Con không đạt được tự điều ngự bằng cách áp lực người khác hay thế giới. Con cũng không đạt được tự điều ngự bằng cách áp lực chính mình. Con đạt được tự điều ngự bằng cách buông bỏ ảo tưởng kế tiếp của con. Khi con liên tục buông bỏ ảo tưởng này tới ảo tưởng kia, con sẽ đạt được trạng thái tâm thức tự điều ngự. Đúng thực là mỗi lần con tiến lên một bước, mỗi lần con vượt qua một ảo tưởng, con đạt được một mức tự điều ngự cao hơn vì chính ảo tưởng lấy đi sự tự điều ngự của con, chớ không phải con thiếu tự điều ngự.

10.19. Vì sao con đường tu không máy móc

Một lần nữa, như thày đã từng nói, có người nghĩ rằng con đường tâm linh là một tiến trình máy móc đạt được một số khả năng. Họ nghĩ tự điều ngự cũng là một khả năng mà ta đạt được. Giống như một nhà lực sĩ cứ luyện tập một số động tác và qua đó tập cho cơ bắp càng ngày càng rắn chắc và có thể hoàn thành động tác giỏi hơn người khác. Đây không phải là con đường tâm linh.

Điều quan trọng không phải là dùng áp lực và áp lực chính mình để có khả năng điều ngự. Đây là điều thày gọi là con đường giả mà sa nhân đeo đuổi. Con đường của con là con đường tự điều ngự bằng cách buông bỏ, vứt bỏ ảo tưởng.

Vì sao, ở điểm này, con cần buông bỏ ảo tưởng khiến con phóng chiếu viễn kiến của mình ra ngoài? Con yêu dấu, đó là vì trước khi con phóng chiếu điều gì ra ngoài tâm mình, con phải phóng chiếu điều đó vào trong tâm mình, lên chính mình. Con chỉ có thể phóng chiếu lên người khác những gì con đã phóng chiếu lên chính mình trước.

Khai ngộ kế tiếp ở khóa nhập thất của thày là con bắt đầu thấy những điều con phóng chiếu lên chính mình, và những cố gắng mà con đã làm để ép mình tuân theo viễn kiến thế nào là một đệ tử tâm linh tốt của mình. Thày biết là con đã có quá đủ những gì con có thể hấp thụ với tâm ý thức trong một bài giảng này.

Thày cho con thời giờ để tiêu hóa bài giảng này trước khi chúng ta học bài tới, đối với nhiều người sẽ khó hơn bài này về nhu cầu ngưng phóng chiếu ra ngoài. Phóng chiếu vào trong vi tế hơn nhiều và khó thấy hơn nhiều. Do đó, khai ngộ này rất cần thiết. Thày tin rằng khi con có ý muốn và khi con đã theo khóa học này cho tới điểm này, thì con cũng có thểsẽ đạt khai ngộ này.

Hilarion TA LÀ

Đi từ một viễn kiến thấp đến một viễn kiến cao hơn

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 12/1/2017.

TA LÀ chân sư thăng thiên Hilarion. Ở tầng thứ ba của khóa nhập thất của thày, con đối mặt với khai ngộ của Tia thứ Năm phối hợp với Tia thứ Ba của Tình thương. Khi con tới khóa nhập thất của thày và tham dự các lớp học ở tầng này, thày tìm cách giúp con kết nối lại với tình thương nguyên thủy đã khiến con đầu thai ở kiếp này. Các vị thượng sư khác, dĩ nhiên, đã giúp con làm cùng việc. Thày đặc biệt tìm cách giúp con thấy là có một viễn kiến thuộc Sứ vụ Thiêng liêng của con, và con yêu viễn kiến này hơn là mọi viễn kiến mà con đã có trên con đường tâm linh.

8.1. Cách gian nan hay cách dùng tình thương

Con yêu dấu, con thấy chăng là có hai cách để buông bỏ điều gì đó trên trái đất: cách gian nan và cách dùng tình thương. Cách gian nan là khi con tới điểm nhận ra là con bị đau khổ vì có một ảo tưởng, con có ảo tưởng đó trong tâm, và nó giản dị không phù hợp với điều mà nhiều người cho là thực tại. Dĩ nhiên, thực tại là một khái niệm mơ hồ vì điều mà nhiều người gọi là thực tại chỉ là một biểu hiện tạm thời có mặt vì trái đất đã chìm quá sâu so với tầng nguyên thủy của nó.

Tuy nhiên, nhiều người đã có kinh nghiệm tỉnh ngộ hay va đầu vào tường hay đột nhiên nhận ra là điều họ tin là thật không thật chút nào. Đây là cách gian nan để buông bỏ điều gì đó. Các thày chân sư thăng thiên không chống chuyện học viên buông bỏ một cách gian nan vì buông bỏ điều gì và tiến bước tốt hơn là nắm giữ một ảo tưởng. Nhưng các thày không muốn con buông bỏ một cách gian nan; các thày muốn con buông bỏ bằng cách kết nối trở lại với tình thương trong con người con để con có thể buông bỏ trong vị thế thương yêu vì con biết có cái gì hơn nữa. Khi con buông bỏ một cách gian nan thì con có cảm tưởng là con đã mất đi một cái gì đó. Con cảm thấy trống vắng, con cảm thấy thế gian sụp đổ. Con cảm thấy trong con có khoảng trống không và con không biết điều gì sẽ lấp đầy nó.

Điều thày hy vọng giúp con đạt được ở tầng này của khóa nhập thất của thày là kết nối với lòng thương yêu viễn kiến cao hơn và con thấy rằng viễn kiến cao hơn này hơn rất nhiều những gì con đã thấy cho tới nay. Do đó, con muốn thấy viễn kiến này và buông bỏ viễn kiến cũ không khó khăn vì con biết con sẽ được nhiều hơn rất nhiều thay vào đó. Điều này rất dễ thực hiện ở tầng ê-the trong thể bản sắc ở khóa nhập thất của thày. Dĩ nhiên là mang nó xuống tâm ý thức của con là điều khó khăn hơn, và đây là mục đích của thày khi thày có bài giảng này để con có thể đọc và nghiên cứu. Các thày, dĩ nhiên, không mong muốn giúp con đạt được một tâm thức cao hơn trong thể bản sắc ở các khóa nhập thất, nhưng điều này không truyền sang các tầng tư tưởng, xúc cảm và vật lý, nơi tâm ý thức của con. Con có thể làm gì để kết nối ở tầng tâm ý thức với những gì con trải nghiệm ở khóa nhập thất của thày? Con có thể dùng bài giảng trước của thày trong đó thày nói là con có một viễn kiến cao hơn trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, và đi xa thêm nữa. Con cũng có thể nhận ra một điều khác mà thày cũng đã nói, đó là để hiểu được một viễn kiến cao hơn, con cần sẵn sàng buông bỏ viễn kiến hiện thời của con. Ở đây chúng ta gặp một vấn đề đặc biệt.

8.2. Ước muốn cảm thấy mình quan trọng

Có người đã bắt đầu con đường tâm linh, hay ngay cả khóa học tự điều ngự này, với một viễn kiến, một mục tiêu, một ham muốn đặc thù nào đó. Tỷ dụ, họ ham muốn là một người quan trọng đang làm điều gì quan trọng để giải cứu trái đất hay nâng cao tâm thức nhân loại hay đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain. Đây là một viễn kiến tích cực. Tự nó không có gì sai trái, nhưng pha trộn vào đó là ham muốn của tự ngã muốn cảm thấy mình đặc biệt hơn so với người khác vì mình đang học giáo lý của các chân sư thăng thiên, hay học với một vị đạo sư nào đó hay học một giáo lý vỏ ngoài nào đó.

Con đang làm nhiều chuyện, như đọc bài chú bài thỉnh, giải quyết các vấn đề trong tâm lý, làm chuyện này chuyện kia. Trong đó có một phần là ham muốn của tự ngã muốn cảm thấy mình đã làm điều gì đặc biệt, làm điều gì có kết quả quyết định. Vì vậy con tâm linh hơn, con thuộc một hạng người đặc biệt. Và đây là điểm vi tế: con nghĩ là Thượng đế hay các chân sư thăng thiên phải đặc biệt chú ý tới con hay phải thưởng con một cách nào đó.

Con rất có thể tạo ham muốn là con đường tâm linh sẽ đưa con tới một mục tiêu khiến con có thể biểu hiện một hoàn cảnh bên ngoài nào đó. Thày có nói là có người có mục tiêu biểu hiện một nhà đẹp, một người phối ngẫu toàn hảo và rất nhiều tiền. Nhiều người tâm linh có mục tiêu được thế giới công nhận, được các chân sư thăng thiên công nhận, hoặc cảm giác là họ đã làm điều gì quyết định để đem lại một thời đại mới trên trái đất.

Con có thể nói: “Ham muốn như vậy có gì sai trái chăng?” Con yêu dấu, đây là điểm vi tế. Con hiểu rằng các chân sư thăng thiên có mục đích tiếp cận con người ở bất kỳ tầng tâm thức nào họ đang có. Nếu một người ở tầng tâm thức thấp nhất được phép có trên trái đất có thể hòa điệu với các thày, thì các thày sẵn sàng làm việc với người đó. Các thày sẽ tiếp cận người đó ở tầng tâm thức của họ và tìm cách giúp người đó lên tầng cao kế tiếp. Đây là phương pháp mà các thày dùng để giúp con người trên trái đất. Dĩ nhiên là trong thực tế có một rào cản khiến nhiều người ở dưới tầng tâm thức 48 không thể kết nối với các thày và do đó các thày không thể làm việc trực tiếp với họ. Một khi một người có thể hòa điệu với các thày bằng cách nào đó, dù chỉ chợt thoáng, thì các thày sẵn sàng làm việc với người đó, và do đó các thày dĩ nhiên phải tiếp cận người đó ở tầng tâm thức của họ.

8.3. Buông bỏ viễn kiến thấp

Khi học viên bắt đầu khóa học tự điều ngự này, đa phần bắt đầu ở tầng thứ 48. Một số bắt đầu ở dưới tầng 48, và do đó các thày biết là chuyện tự nhiên, không tránh được và hoàn toàn thỏa đáng là con cần một động lực để bắt đầu con đường tâm linh, bắt đầu khóa học này. Dĩ nhiên là động lực của con dựa trên các ước muốn của con, dựa trên viễn kiến mà con có ở tầng tâm thức đó. Một lần nữa, không có gì sai trái với điều này. Con không thể tiếp nhận một viễn kiến cao hơn tầng tâm thức của con. Điều tự nhiên là cách con nhìn cuộc đời và những ước muốn, tham vọng và mục tiêu của con dựa trên và bị ảnh hưởng bởi viễn kiến con có ở tầng đó.

Các thày cũng muốn giúp con thấy là con cần liên tục bước lên cao hơn. Nhiều học viên tới tầng này của khóa nhập thất của thày và họ đã theo khóa tự điều ngự cho tới điểm này, nhưng họ chưa buông bỏ ham muốn mà họ có khi bắt đầu. Họ vẫn giữ trong tâm ý tưởng là khi họ tiến bước trong khóa học này, họ phải xây dựng được khả năng tự điều ngự khiến tâm họ làm chủ được vật chất và giúp họ biểu hiện hoàn cảnh bên ngoài mà họ mong muốn khi họ bắt đầu học khóa này.

Con yêu dấu, thày không nghĩ là con có thể hoàn tất khóa học này mà vẫn giữ cùng viễn kiến và ước muốn khi con bắt đầu khóa học. Thày bảo đảm với con là nếu điều này xảy ra, thì con đã không tốt nghiệp khóa học. Chuyện xảy ra là khi con tới tầng 96 của khóa học (thày nhấn mạnh là thày nói tầng 96 của khóa học chứ không phải tầng tâm thức thứ 96), con sẽ dùng tất cả động lực mà con thu thập trên con đường tu để thể hiện hoàn cảnh bên ngoài mà con ao ước. Lúc đó, thay vì đưa con về hướng tầng 144 và quả vị Ki-tô, nó sẽ bắt đầu kéo con xuống thấp hơn. Con sẽ bắt đầu dùng vũ lực để thể hiện viễn kiến đó và do đó con sẽ bắt đầu đi về các tầng tâm thức thấp hơn.

Con yêu dấu, con thấy chăng là yêu cầu tuyệt đối để đạt những khai ngộ của khóa học này là con sẵn sàng buông bỏ viễn kiến cũ và tiếp nhận viễn kiến cao hơn, ước muốn cao hơn, mục tiêu cao hơn. Đây là chỗ, ở tầng này của khóa nhập thất của thày, con cần nhìn vào cách con sử dụng viễn kiến.

8.4. Làm sao con sử dụng hay lạm dụng viễn kiến một cách tích cực

Thày có nói là viễn kiến không phải là một khả năng thụ động; nó cũng có khía cạnh tích cực. Đúng là với đa số con người trên trái đất, viễn kiến chủ yếu thụ động vì họ chỉ nhận vào. Họ không phóng chiếu ra bao nhiêu vì họ không chịu nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời họ. Họ còn không chịu nhìn nhận là họ có quyền năng trong tâm họ để thay đổi hoàn cảnh bên ngoài. Họ chấp nhận rằng họ không làm gì được để cải đổi hoàn cảnh sống của họ, và do đó họ không dùng khía cạnh tích cực nhất của viễn kiến của họ là phóng chiếu ra ngoài.

Dĩ nhiên là họ sử dụng viễn kiến một cách tích cực khi viễn kiến của họ ảnh hưởng những cảm giác khi nhận tín hiệu bên ngoài. Thày có giảng vì sao phin lọc trong ba thể cao (và ngay cả ở tầng não bộ vật lý) bóp méo tri giác của con, bóp méo những gì con thấy. Chuyện xảy ra là các phin lọc này sẽ loại đi tất cả những gì thách đố viễn kiến của con về đời sống. Nếu viễn kiến này cho rằng con không thể làm gì để cải đổi hoàn cảnh sống, thì phin lọc sẽ loại đi những gì đi quá niềm tin này. Do đó, con sẽ thấy là thế giới hạn chế khả năng thay đổi của con.

Khi con là một người tâm linh và chấp nhận là con có thể thay đổi hoàn cảnh sống của con bằng cách thay đổi tâm thức của mình, thì con bắt đầu sử dụng uy lực của viễn kiến một cách tích cực hơn. Ở khóa nhập thất của thày, thày có một dụng cụ có thể gọi là dụng cụ công nghệ có thể cho con thấy những gì con không thấy được bằng tâm ý thức. Thày có thể chỉ cho con thấy những phóng chiếu, những xung lực mà con gửi đi từ bốn thể phàm. Thày làm điều này một cách tuần tự, vì đa số học viên bị chấn động khi họ thấy số lượng những thứ mà họ liên tục phóng chiếu ra, do đó thày phải đi rất từ từ. Thày muốn giúp con thấy là những gì con phóng chiếu luôn luôn có hậu quả vì, như thày có nói, nó sẽ đi vào tấm gương vũ trụ. Trong tấm gương vũ trụ, nó có thể trở nên vô hiệu hay giảm thiểu do lực chống kháng của tâm thức tập thể nhưng nó vẫn có tác động trên con.

Con yêu dấu, con thấy chăng là khi con phóng chiếu ra điều gì, con biết trong tiềm thức là thế giới dựa trên nguyên tắc hành động và phản ứng. Nếu con nắm chặt một viễn kiến nào đó (tỷ dụ ước muốn được nhìn nhận bởi thế gian), thì con phóng chiếu từ tiềm thức một xung lực và chờ đợi một kết quả nào đó. Dù con có cảm thấy có sự trả về hay không, nó vẫn ảnh hưởng tiềm thức của con. Nếu con không cảm thấy sự trả về, trong tiềm thức con nghĩ con không để đủ sức lực vào sự phóng chiếu, và do đó con gia tăng sức lực. Điều này khiến con càng lúc càng dùng nhiều năng lượng để phóng chiếu. Trong tâm ý thức, điều này cũng có thể khiến con có một thúc đẩy gần như không cưỡng nổi phải làm nhiều hơn bất cứ điều gì con đang làm.

Con thấy nhiều người tâm linh tìm ra một giáo lý dạy một số thủ tục và giờ đây họ gần như bị ám ảnh phải làm các thủ tục đó. Thủ tục này có thể là thiền, yoga, đọc bài chú, đọc bài thỉnh. Họ làm càng ngày càng nhiều vì trong tiềm thức họ chờ đợi sẽ nhận trả về một kết quả bên ngoài mà họ mong muốn. Khi họ không thấy kết quả này, họ nghĩ: “Ồ, tôi phải làm nhiều hơn nữa”.

Mặt khác, khi học viên cảm thấy có sự trả về, thì nhiều người nghĩ: “Nhưng tôi phải làm nhiều hơn, vì tôi nhận về chưa đủ.” Học viên có thể trải qua giai đoạn thực hành thủ tục càng ngày càng nhiều. Có lẽ đa số các con, khi nhìn lại đời mình, sẽ nhìn nhận là đã trải qua hay đang trong giai đoạn gần như bị ám ảnh phải làm một thủ tục vỏ ngoài. Thày không nói điều này để chỉ trích hay lên án con. Khi thày chưa thăng thiên, chính thày đã trải qua giai đoạn đó trong nhiều kiếp sống, khi thày rất, rất cố gắng thực hành một thủ tục nào đó.

Một lần nữa, điều này không có gì sai trái, nhưng đó là một giai đoạn trên con đường tu của con, và nay đã đến lúc con bước lùi lại và xem xét vấn đề. Đã đến lúc con nhận ra là nếu con có nhu cầu không cưỡng nổi phải làm một thủ tục tâm linh nào đó, điều đó sẽ ngăn chặn viễn kiến của con. Nó sẽ ngăn chặn khả năng trụ vững chắc vào viễn kiến trong Sứ vụ Thiêng liêng của con vì con nghĩ (trong bốn thể phàm) làm thủ tục đó quan trọng hơn mở tâm ra với viễn kiến.

8.5. Hai chức năng cơ bản của tâm

Con có thấy chăng nguyên lý mà thày đang muốn con nhận ra? Tâm con người là một dụng cụ rất tinh vi, rất tế nhị nhưng nếu con quy nó lại những chức năng cơ bản nhất, thì nó có hai chức năng cơ bản. Điều này minh họa điều mà Mẹ Mary đã gọi là lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ.

Đây là một điểm vi tế không dễ hiểu, và thày đã thấy nhiều học viên gặp khó khăn hiểu thấu. Thày vừa nói là một khía cạnh của tâm là phóng chiếu, và vì nguyên lý Cha là lan ra, con có thể nghĩ là khi con phóng chiếu ra, con sử dụng khía cạnh Cha của tâm. Điều này không đúng. Con yêu dấu, con thấy chăng là nguyên lý Cha là lực lan ra, và trong trường hợp này có nghĩa là Hiện diện TA LÀ. Hiện diện TA LÀ giống như mặt trời luôn luôn tỏa ánh sáng. Nó cũng là cánh cửa mở để các chân sư thăng thiên tỏa năng lượng, ánh sáng và viễn kiến xuống con. Nguyên lý Mẹ của tâm là bốn thể phàm, và dĩ nhiên, cũng là cái Ta Biết. Bây giờ, các thày đã giảng gì về cái Ta Biết? Nó là nhận biết thuần khiết. Các thày cũng có nói là cái Ta Biết có khả năng tập trung sự chú ý vào, hay xuyên qua bốn thể phàm, và cũng có khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm và như vậy mở ra với Hiện diện TA LÀ. Con không thể làm cả hai điều này cùng một lúc.

Đây là điều mà nhiều học viên không thấu hiểu. Họ không có kinh nghiệm “ngộ” ở tâm ý thức khi họ thấy điều này. Con biết là con không thể cho ra và nhận vào cùng một lúc, con không thể hướng sự chú ý vào hai chỗ cùng một lúc. Chuyện xảy ra là, khi cái Ta Biết đồng hóa với bốn thể phàm và chú tâm vào việc tự biểu hiện trong thế giới vật chất, con đang dùng lực co lại của Mẹ để tập trung năng lượng và sự chú ý vào bốn thể phàm.

Quả thực là khi con có viễn kiến về một mục tiêu nào đó, con hướng ánh sáng ra ngoài. Có thể nói là con dùng nguyên lý Cha để hướng ánh sáng ra ngoài. Điều thày muốn giảng là để có thể hướng ánh sáng ra ngoài, con cần hướng ánh sáng xuyên qua cái gì đó, con cần một khuôn đúc tư tưởng, một khuôn đúc viễn kiến để con hướng ánh sáng xuyên qua. Để tạo ra khuôn đúc này, để tập trung năng lượng của con xuyên qua khuôn đúc này (chớ không phải hướng ra mọi phía), con phải tạo ra một sự co lại, một sự tập trung nơi bốn thể phàm của con.

8.6. Con phóng chiếu ra bao nhiêu năng lượng

Phần lớn tiến trình này xảy ra nơi tiềm thức. Điều thày muốn nói là khi con tập trung như vậy vào bốn thể phàm, nó sẽ thu hút sự chú ý của cái Ta Biết. Do đó, con không thể bước ra ngoài bốn thể phàm và nhận viễn kiến cao hơn, viễn kiến từ Sứ vụ Thiêng liêng, từ Hiện diện TA LÀ của con. Con yêu dấu, con không thể làm cả hai việc cùng một lúc; chuyện này không thể làm được. Hoặc con chú tâm vào một mục tiêu, hoặc con mở tâm ra đón nhận một viễn kiến mới từ bên trên. Điều mà thày giúp học viên thấy qua dụng cụ mà thày có ở khóa nhập thất là các khuôn đúc trong tiềm thức đang thu hút sự chú ý của họ.

Học viên thường ngạc nhiên vì họ không biết một cách ý thức là họ có các khuôn đúc này. Họ không ngờ là có bao nhiêu năng lượng chảy qua các khuôn đúc tiềm thức này. Họ ngạc nhiên vì thày có thể minh diễn cho họ, thày có thể chỉ trên một màn ảnh có bao nhiêu năng lượng đến từ Hiện diện TA LÀ, bao nhiêu năng lượng đi vào thể bản sắc, và ở tầng thấp nhất có bao nhiêu năng lượng đi ra từ hào quang của họ ở tầng ý thức. Thày có thể chỉ cho họ thấy là có một khối năng lượng đi vào và có một khối năng lượng đi ra (mà họ có thể điều khiển một cách ý thức). Đa số học sinh rất chấn động khi thấy khác biệt giữa năng lượng đi vào và năng lượng mà họ có thể sử dụng một cách ý thức.

Tỷ dụ, nếu con thấy có một số lượng năng lượng chảy vào từ Hiện diện TA LÀ thì lý tưởng đây là năng lượng sáng tạo mà con có thể sử dụng ở tầng ý thức để biểu hiện một mục tiêu nào đó. Nếu con thấy là con chỉ có 10 phần trăm có thể dùng ở tầng ý thức, thì tự nhiên là con tự hỏi 90 phần trăm kia, hay bất cứ tỷ lệ nào thích ứng với tình trạng riêng của con, đi đâu. Thày có thể chỉ cho con thấy ở đâu con có sự tập trung, có khuôn đúc trong một trong ba thể cao đang hút năng lượng của con. Năng lượng này chảy vào khuôn đúc, nhưng vì con không biết đến nó một cách ý thức và do đó con không điều khiển nó được trong ý thức. Lý do thày nêu lên điểm này là để con nhận ra cách nhanh nhất con có thể tiến bộ ở tầng này của khóa nhập thất của thày, là con sẵn sàng nhìn một cách ý thức vào các mục tiêu, cách con tiếp cận, cách tiếp cận cơ bản của con về con đường tâm linh.

8.7. Xem xét động cơ thúc đẩy con

Động cơ nào thúc đẩy con đi con đường tâm linh từ trước tới nay? Nếu thày hỏi con câu đó, con nghĩ đến điều gì trước tiên? Động lực cơ bản nào thúc đẩy con đi con đường tâm linh? Con hy vọng đạt được gì cho chính mình? Con hy vọng đạt được gì cho thế gian và điều này cho thấy con hy vọng đạt được gì cho chính con?

Có nhiều học viên sẽ trả lời tức khắc: “Con muốn nâng cao tâm thức, con muốn giải thoát con người, con muốn giúp đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain, con muốn giúp các chân sư thăng thiên.” Khi con trung thực hơn và nhìn kỹ hơn, thì con nhận ra là quả thực đây là những mục tiêu vỏ ngoài, và nếu các mục tiêu này được thể hiện, thì con sẽ có cảm nhận biết mình đã đóng góp vào việc thể hiện mục tiêu đó. Đây là động cơ cá nhân của con, nghĩa là điều con hy vọng đạt được cho chính mình.

Con tìm trải nghiệm gì khi con đi trên con đường tâm linh? Đối với nhiều học viên, tìm ra câu trả lời rất khó khăn. Thày biết là ở tầng tâm ý thức, con rất khó tìm ra câu trả lời vì con đã nhiều năm đi trên con đường tâm linh, học giáo lý, thực hành một số thủ tục. Như thày có nói, đa số học viên tới điểm này, là một điểm khá cao trên con đường tâm linh, đã bỏ ra nhiều thì giờ và nhiều nỗ lực thực hành một số thủ tục. Điều đáng tiếc là hậu quả của sự nỗ lực này là khuôn đúc tiềm thức (là khuôn đúc của điều con muốn đạt được khi con đi trên con đường tâm linh) càng ngày càng được củng cố. Con đã đổ năng lượng vào đó; có lúc con đã củng cố viễn kiến của nó.

8.8. Cửa sổ kính màu của tiềm thức

Con hãy để thày minh họa một cách thô thiển điều xảy ra trong tiềm thức. Nó thô thiển vì không có minh họa nào liên quan đến điều vật lý lại có thể bao hàm đầy đủ điều xảy ra nơi trường năng lượng, nhưng nó vẫn giúp nhiều học viên. Con hãy tưởng tượng trường năng lượng của con là một không gian khép kín và để thể hiện bất cứ điều gì, bất cứ hoàn cảnh nào trong thế giới vật chất, con cần phải gửi ra ánh sáng và năng lượng, con phải hướng và phóng chiếu ánh sáng và năng lượng ra khỏi trường năng lượng của con. Dĩ nhiên là con không muốn hướng ánh sáng một cách ngẫu nhiên, con muốn ánh sáng có một hình dạng nào đó, và do đó con không chỉ phóng chiếu ánh sáng mà con phóng chiếu một khuôn đúc.

Chúng ta hãy tưởng tượng trường năng lượng của con giống như một thánh đường cổ có cửa sổ kính màu. Các cửa sổ này gồm nhiều mảnh kiếng màu được sắp xếp theo một mô thức tinh xảo. Con đã tạo trong trường năng lượng của con những cửa sổ tròn như thế, chúng có một khuôn đúc và màu sắc, một hình dạng và màu sắc, và chúng uốn nắn ánh sáng mà con phóng chiếu ra. Bây giờ thì con dùng những khuôn đúc đó để phóng chiếu ra thế giới. Khi thày chỉ cho con thấy là có khuôn đúc trong tiềm thức hút nhiều năng lượng của con, thì khi con xem xét kỹ hơn thì con thấy nó giống như các cửa sổ trong thánh đường, một cửa sổ tròn với nhiều mảnh kính màu sắp xếp tinh xảo. Khi con nhìn kỹ thì con nhận ra là khi con đi trên con đường tâm linh cho tới lúc này, đã nhiều lần giáo lý và các thủ tục tâm linh đã củng cố khuôn đúc đó. Con đã làm cho cửa sổ chắc chắn hơn, con đã khiến cho lớp kính dày hơn, các sợi dây chì giữ các mảnh kính đã trở nên rắn chắc hơn, màu sắc nồng hơn, dày đặc hơn. Kết quả là con càng khó buông bỏ khuôn đúc này hơn.

Con yêu dấu, một khuynh hướng tự nhiên (mà chúng ta ai ai đều có) là khi ta bỏ nhiều nỗ lực làm điều gì, thì ta cảm thấy phải có một kết quả trở lại từ vũ trụ. Chúng ta càng phóng chiếu ra nhiều, thì chúng ta càng mong muốn nhận trở lại cái gì tương xứng với cái mà chúng ta phóng chiếu ra. Điều lạ lùng là những người làm điều được cho là “xấu” thực sự muốn bị trừng phạt vì những gì họ đã làm.

Dù con người làm điều mà họ nghĩ là tốt hay làm điều mà họ nghĩ là xấu, trong tiềm thức họ muốn nhận dòng trả về từ vũ trụ. Tại sao vậy? Vì mục đích của thế giới vật chất là con thử nghiệm dùng các quyền năng sáng tạo của mình. Con gửi ra ngoài một điều gì, và nếu không có gì gửi trả về, làm sao con biết được mình đã gửi ra điều gì và hậu quả là gì?

8.9. Khám phá những động lực vị kỷ

Điều mà thày muốn chỉ rõ ở đây là khi con tới điểm này của khóa nhập thất của thày, con cần dùng óc suy xét để nhìn vào sự tu tập tâm linh của con, con quan niệm con đường tâm linh như thế nào, và động lực nào thúc đẩy con đi trên đường tâm linh. Nhiều học viên ở tầng này của khóa nhập thất của thày đã bị chấn động khi họ nhìn vào những điểm này. Họ chấn động khi thấy rằng điều họ tin chắc (với tâm ý thức) là động lực hoàn toàn vị tha thật ra là một động lực rất vị kỷ. Họ chỉ giản dị dùng con đường tâm linh để được thế giới công nhận. Ít ra là họ hy vọng được thế giới công nhận.

Thày biết là con sẽ chấn động nếu con nhận ra điều này với tâm ý thức của con. Thày cũng biết rằng nếu con không nhận ra điều này, con không thể tiến bước trong việc nâng cao tâm thức. Con không thể vượt qua chướng ngại lớn nhất trên đường tâm linh. Một lần nữa, điều này rất vi tế và thoạt trông có vẻ là mâu thuẫn.

Thày vừa nói là mục đích cuộc đời, mục đích của việc đầu thai, là để thí nghiệm với khả năng sáng tạo. Con tạo ra một khuôn đúc trong tâm, con hướng năng lượng sáng tạo và ánh sáng xuyên qua đó và con đợi xem tấm gương vũ trụ gửi trả về điều gì. Dựa trên những gì được trả lại, con điều chỉnh khuôn đúc trong tâm và lại hướng năng lượng xuyên qua nó. Con tiếp tục làm như vậy và tiếp tục sửa sang khuôn đúc cho tới khi con nhận được đúng những gì con muốn từ vũ trụ – ít ra là con nghĩ như vậy.

Con yêu dấu, con thấy chăng là mọi chuyện đều có giai đoạn. Có một điểm con làm những điều thày vừa mô tả là điều hoàn toàn chuẩn, hoàn toàn đúng, hoàn toàn xây dựng. Trong giai đoạn đó, điều tự nhiên và không thể tránh là con có ý tưởng rất vi tế là con phải trở nên càng ngày càng giỏi trong việc tạo ra khuôn đúc. Con nghĩ con phải gày dựng càng ngày càng nhiều động lượng trong việc hướng ánh sáng xuyên qua các khuôn đúc, hầu đạt được điều ngự và có thể biểu hiện bất cứ hoàn cảnh vật chất nào mà con mong muốn. Con có ý tưởng này là điều tự nhiên, nhưng như thày có nói ở trên, chỉ có sa nhân mới gày dựng được đủ động lượng để ép buộc vũ trụ vật chất tuân theo viễn kiến của chúng (tuy họ cũng chỉ thành công tạm thời).

Con là một người tâm linh; con không đi con đường tả đạo của sa nhân và đoàn chưởng giáo giả. Con đang đi con đường của quả vị Ki-tô, con đường của chân sư thăng thiên. Mục đích của con đường này là đưa con tới điểm con nhận ra là ước muốn kiểm soát vũ trụ vật chất không phải là mục tiêu thực của con.

Như các thày có giảng, mục đích của việc đầu thai vào cõi vật chất là con có hai giai đoạn. Giai đoạn đầu là giai đoạn trầm mình, trong đó con hoàn toàn trầm mình vào đời sống của hành tinh nơi con đầu thai. Con trầm mình trong cuộc sống; con tìm cách hiểu cuộc sống, hiểu cuộc sống vận hành ra sao. Con tìm cách mở rộng sự nhận biết của mình, và con cũng tìm cách mở rộng khả năng biểu hiện hoàn cảnh bên ngoài. Sau đó, con bắt đầu giai đoạn tỉnh giác, và những ai theo học khóa học này đã từ lâu bắt đầu giai đoạn tỉnh giác.

Mục đích của giai đoạn tỉnh giác không phải là đạt được khả năng làm chủ hoàn toàn việc biểu hiện vật chất để con có thể biểu hiện bất cứ hoàn cảnh vật chất nào mà con mong muốn. Mục đích của giai đoạn tỉnh giác là con nhận ra con là một sinh thể tâm linh chứ không phải một sinh thể vật chất. Do đó, như thày có nói trong bài giảng trước, mục tiêu của con không liên hệ đến vật chất. Mục đích thật sự trong Sứ vụ Thiêng liêng của con không phải là biểu hiện một số hoàn cảnh vật chất trong kiếp sống này. Mục đích thật sự của con là chứng minh con đường tới quả vị Ki-tô, nơi đó con trở nên độc lập với hoàn cảnh vật chất.

8.10. Một thách đố lớn trên con đường tâm linh

Con có thấy chăng là con có thể đi con đường tâm linh trong nhiều năm nhưng vẫn còn trong tiềm thức khuôn đúc cho rằng nếu con đạt được trạng thái tâm thức tâm linh cao nhất (bất kể con định nghĩa trạng thái này là gì), con sẽ có thể hoàn toàn kiểm soát vật chất và biểu hiện bất cứ hoàn cảnh vật chất nào con mong muốn. Con yêu dấu, có nhiều học viên đã bị quyến rũ hay ta có thể nói là bị ám ảnh bởi quan niệm biến hóa thần bí (alchemy) hay biểu hiện. Họ đã bỏ ra nhiều công sức để tới điểm có thể biểu hiện, tỷ dụ, vàng hay ngọc thạch anh, hay bất cứ vật gì họ muốn. Có người đã tìm cách bẻ cong thìa sắt hay biểu diễn những kỳ công tương tự. Tất cả những việc này chỉ củng cố khuôn đúc tiềm thức. Khuôn đúc này càng mạnh thì nó lại càng thu hút sự chú ý của cái Ta Biết. Sự thu hút này càng mạnh thì cái Ta Biết lại càng bị ngăn chặn không bước ra ngoài bốn thể phàm và mở cửa hoàn toàn đón nhận viễn kiến của Sứ vụ Thiêng liêng.

Con yêu dấu, con có bắt đầu thấy thày muốn dẫn con tới đâu chăng? Thày muốn dẫn con tới điểm nhận ra là chìa khóa của viễn kiến không phải là tập trung mà là cởi mở. Dĩ nhiên là câu nói này cần được giảng rõ. Con sống trong một thế giới có một trạng thái tâm thức đại chúng rất hỗn độn, có nghĩa là bốn thể phàm của hành tinh trái đất (trong đó bốn thể phàm của con hiện hữu) rất hỗn độn. Quả đúng là nếu con mở tâm đón nhận tất cả những ý tưởng và viễn kiến đang hiện hành thì sự chú tâm của con sẽ bị kéo về mọi hướng và con sẽ không hoàn thành được điều gì. Do đó, con có thể nói một cách đúng đắn là muốn hoàn thành một việc nào đó, con cần chú tâm, con cần tập trung. Con cần ngăn chặn tất cả những điều tới từ cõi vật chất. Có học viên đã nói với thày: “Nhưng thày Hilarion, làm sao con đã tiến triển tới mức này của con đường tâm linh nếu con không chú tâm vào nó?” Điều này hoàn toàn đúng. Con cần phải chú tâm vào nó, nhưng bất cứ điều gì trên trái đất cũng cần quân bằng.

Khi con làm điều gì thái quá, con tạo một bất quân bằng và sẽ có lúc sự bất quân bằng đó sẽ gây trở ngại trên con đường tu của con. Đây là điều thày muốn nói con. Con đã tới điểm thày không nói con mở tâm đón nhận những viễn kiến khác đang hiện hành trong bốn thể phàm của vũ trụ vật chất chung quanh trái đất. Thày muốn con mở tâm ra đón nhận Hiện diện TA LÀ của con và viễn kiến trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Để làm việc này, con cần nhìn vào khuôn đúc tiềm thức mà con đã tạo ra, khuôn đúc đã thúc đẩy con, đã kéo con đi trên con đường tâm linh cho tới điểm này. Con cần nhận ra những giới hạn của nó. Con cần bắt đầu nhìn nhận một cách ý thức những giới hạn đó, và sau đó con phải tới điểm quy hàng, như Mẹ Mary mô tả. Con nhận ra là những gì con đã làm đã dẫn con tới điểm này, nhưng chúng không thể dẫn con đi xa hơn nữa. Do đó, con đã tới điểm cởi mở và con nói: “Bước kế tiếp của con là gì? Điều gì trước kia con chưa làm mà bây giờ con cần làm? Điều gì trước kia con chưa thấy mà bây giờ con cần thấy?” Con càng cởi mở thì viễn kiến con nhận được sẽ càng sáng tỏ hơn.

8.11. Thẩm định phương pháp tu của con

Con yêu dấu, có học viên gặp rất nhiều khó khăn mới để hiểu điều này. Có khi thày phải nói họ ngưng phương pháp tu mà họ đã theo đuổi cho tới nay. Thày không nói là điều này nhất định áp dụng cho con. Thày biết là có học viên đã thực tập cầu thỉnh ánh sáng tâm linh từ mấy chục năm nay. Điều thày muốn con làm là xem xét phương pháp tâm linh con đang thực tập và tự hỏi: “Nếu con ngừng nó ngay bây giờ, con sẽ phản ứng ra sao?”

Ý tưởng nào, cảm xúc nào dâng lên trong con khi con suy ngẫm việc ngưng phương pháp tu tập, tạm nghỉ một thời gian? Con có cảm thấy sợ hãi, con có cảm thấy hốt hoảng? Phải chăng có đủ loại tư tưởng nổi lên, biện minh là con không nên làm thế, vì sao con cần tiếp tục điều con đang làm? Ý tưởng càng mãnh liệt, phản ứng càng mãnh liệt, thì dính mắc của con vào phương pháp tu đó càng nặng. Dính mắc càng nặng, con càng bị ngăn chặn không thấy được viễn kiến mới. Con yêu dấu, không thể có cách nào khác hơn.

Con thấy chăng, sẽ có một điểm trên con đường tu khi con phải nhận ra một sự kiện giản dị. Thày gọi nó là giản dị, nhưng dĩ nhiên, rất khó để hiểu nó thấu đáo, và con cần hiểu thấu nó qua nhiều giai đoạn. Điều này được biểu trưng qua câu nói của Giê-su: “Tự ta, ta không làm được điều gì cả.” Thày cũng nhận xét thêm: “Cha ta ở trong ta là người làm việc”. Sẽ có một điểm trên con đường tâm linh nơi con không thể đi xa hơn với tâm vỏ ngoài.

Khi con bắt đầu con đường tâm linh, trong giai đoạn đầu con cần nâng mình lên khỏi từ lực hút (magnetic force)của tâm thức đại chúng, tâm thức tập thể. Điều này cần chú tâm, quyết tâm. Nó đòi hỏi điều mà con đã làm cho tới nay, tức là tập trung vào việc thực hành một phương pháp mà không nhìn trái nhìn phải. Con không suy ngẫm xem con có cần thực hành phương pháp đó hay không vì con đã quyết định làm vậy. Con cần tiếp tục làm để gây dựng động lượng. Nhưng sẽ tới một điểm con đã nâng mình ra khỏi từ lực hút của tâm thức tập thể, và lúc đó con không cần làm như trước nữa. Con cần làm một cái gì khác hơn ở tầng cao hơn. Nếu tâm vỏ ngoài của con không sẵn sàng chấp nhận điều này, sự tiến triển của con sẽ bị ngăn trở. Có nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã đọc chú từ quá lâu đến độ tiến bộ tâm linh của họ bị ngăn trở. Không có nghĩa là họ cần ngưng hoàn toàn, nhưng họ cần thay đổi cách họ thực tập. Họ không thể nhận viễn kiến đó nếu họ không chịu xem xét có nên từ bỏ phương pháp cũ hay không. Con yêu dấu, con có thấy chăng là trong giai đoạn con nâng mình ra khỏi sức hút của tâm thức tập thể, có đủ loại tà lực (và lực của những người khác và của chính tâm thức tập thể) lôi kéo con để con bỏ phương pháp tu, để con bỏ ý tưởng có thể nâng mình lên trên tâm thức tập thể. Họ nói con phải giống như mọi người khác.

Sau đó, sẽ tới một điểm, là nơi con đã tới bây giờ, con cần buông bỏ phương pháp tu của con, nghĩa là buông bỏ để tiến lên cao hơn về phía Hiện diện TA LÀ của con. Con cần sẵn sàng nói với Hiện diện TA LÀ của con: “Con buông bỏ sự chú tâm bằng tâm vỏ ngoài vào điều con nghĩ con phải làm, con sẵn sàng hoàn toàn cởi mở và lắng nghe TA LÀ. Xin TA LÀ chỉ cho con thấy con cần làm gì để lên cao hơn trên con đường tu.” Đây là buông bỏ để lên cao hơn, và con yêu dấu, con đường tới quả vị Ki-tô sẽ đòi hỏi con làm điều này nhiều lần. Buông bỏ viễn kiến con có ngay bây giờ để nhận được một viễn kiến cao hơn.

8.12. Nguyên lý buông bỏ để hướng về trên

Mỗi bước con tiến tới, con đã buông bỏ một cái gì. Điều thày muốn con làm lúc này là ghi khắc trong tâm ý thức nguyên lý buông bỏ để hướng lên cao, buông bỏ điều con thấy với tâm vỏ ngoài, với tâm ý thức, điều con đang chú tâm vào. Con cần buông bỏ những khuôn đúc trong tiềm thức. Ta có thể nói là xin được viễn kiến cao có hai khía cạnh. Con cần xin Hiện diện TA LÀ hay một chân sư thăng thiên (mà con cảm thấy con đang làm việc với) chỉ cho con thấy khuôn đúc trong tiềm thức mà con đang cần giải quyết ngay bây giờ vì nó đang ngăn chặn không cho con tiến bước kế tiếp trên con đường tu. Con đang tập trung năng lượng vào phàm linh nào, tự ngã nào, khuôn đúc nào?

Con cần sẵn sàng nhìn nó và thấy những giới hạn của nó. Sau đó, con cần hỏi khuôn đúc cao hơn là gì, viễn kiến cao hơn là gì? Lúc đó con có thể có hành động Alpha và Omega. Con cần gì để làm được việc này? Con cần tình thương. Thày có nói là có cách gian nan và cách của tình thương. Thày không muốn con tiếp tục đi trên con đường tâm linh bằng cách gian nan qua nhiều lần tỉnh giác chấn động.

Con có thể đi từ tầng tâm thức 48 đến tầng tâm thức 96, và ở mỗi tầng con trải nghiệm một kinh nghiệm chấn động như vậy. Cách đi này khả thi, và có người đã làm như vậy, nhưng đi cách nhẹ nhàng có phải hay hơn chăng? Muốn vậy, con cần trau dồi ý muốn luôn luôn (không cần phải ở mọi lúc nhưng đều đặn mỗi khi con cảm thấy cần thiết) đứng lùi lại và xin có viễn kiến: “Giới hạn là gì, viễn kiến cao hơn là gì?”

Để làm điều này, con cần biết một cách ý thức động lực thật sự thúc đẩy con đi trên con đường tâm linh. Thày có nói là con có một động lực đã thúc đẩy con cho tới lúc này. Khi con thiết lập Sứ vụ Thiêng liêng của con cho kiếp sống này, con có một động lực cao hơn và con cần phải trụ trong đó nếu con sẵn sàng làm điều mà thày đã giảng: mở tâm ra đón nhận nó. Thày dĩ nhiên sẽ giúp con, Hiện diện TA LÀ của con sẽ giúp con, các chân sư khác sẽ giúp con – con chỉ cần hỏi.

Khi con đọc bài thỉnh đi đôi với bài giảng này, khi con đọc xong, con hãy ngừng giây lát, trụ vào tim càng vững càng tốt, và hỏi. Đầu tiên, con hãy xin cho con thấy động lực thật khiến con đi trên con đường tu, con thật sự ước mong hoàn tất điều gì trong kiếp sống này. Sau đó, xin cho con thấy giới hạn mà con cần giải quyết ngay lúc này, khuôn đúc trong tiềm thức mà con cần giải quyết ngay lúc này. Sau đó, xin cho con thấy viễn kiến cao hơn sẽ nâng con lên quá giới hạn đó để con có thể giản dị buông bỏ nó mà không cảm thấy phải ép buộc mình, hay phải tiêu trừ nó, hay phải lên án mình.

8.13. Con sẽ có một viễn kiến giới hạn

Con yếu dấu, con có thấy chăng là thày Serapis Bey đã có nỗ lực tuyệt vời giúp con thấy được những gì con cần thấy và chỉ việc tiếp tục tiến bước đi. Thày biết tiến trình này có nhiều giai đoạn, và đó là lý do thày cũng giúp con tới điểm nhận ra là việc có một viễn kiến giới hạn không đáng hổ thẹn.

Thày là chân sư của viễn kiến. Mục tiêu của thày là cho con một viễn kiến cao hơn viễn kiến con hiện có. Nếu con đã có viễn kiến cao nhất, thì thày đâu còn việc gì để làm? Thày biết con có viễn kiến giới hạn khi con tới khóa nhập thất của thày, vì nếu không con đã không tới. Tình thương thúc đẩy thày giúp con đạt được một viễn kiến cao hơn. Thày không chú tâm vào sự kiện con có một viễn kiến giới hạn. Thày không tìm cách chỉ viễn kiến đó ra, phân tích nó và mổ xẻ với dao giải phẫu. Thày tìm cách giúp con thấu hiểu viễn kiến cao hơn và sau đó buông bỏ, một cách không cố gắng và với đầy tình thương, viễn kiến giới hạn và đón nhận viễn kiến cao hơn.

Thày chú tâm vào viễn kiến cao hơn chứ không chú tâm vào viễn kiến thấp. Tuy nhiên có trường hợp con cần thấy một số khía cạnh của viễn kiến thấp, thấy vì sao nó giới hạn mình trước khi con có thể buông bỏ nó. Không có gì phải hổ thẹn. Thày không chỉ trích con đâu. Thày chỉ luôn luôn chú tâm vào viễn kiến cao hơn. Khi con chú tâm vào viễn kiến cao hơn, tại sao con lại quan tâm về viễn kiến thấp, về việc mình có viễn kiến thấp? Chính việc con thấy mình có viễn kiến thấp đã là nền móng để chấp nhận viễn kiến cao hơn. Thấy mình có một viễn kiến giới hạn là dụng cụ để vượt qua nó và tiến lên tiếp. Vì sao cần kháng cự điều này? Vì sao cần chỉ trích mình? Vì sao cảm thấy không vui?

Con yêu dấu, tình thương không phải là cái màu hồng mà người ta gán lên nó. Con có thể nói là một khía cạnh của tình thương là thấy một giới hạn và thương mình thoát ra khỏi nó. Điều lý tưởng là con nhận ra điều này một cách có ý thức ở tầng thứ ba của khóa nhập thất của thày. Sau đó, con trụ vững chắc vào viễn kiến dựa trên tình thương của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Có thể là con chưa thấy điều này một cách rõ ràng lúc này, nhưng con sẽ thấy là để đi trên con đường riêng tới quả vị Ki-tô (mà con có tiềm năng hoàn thành trong kiếp sống này), con cần đi rất xa quá viễn kiến của con đường tâm linh mà con đang hiện có.

Con cần phải vươn lên rất cao hơn những gì con đã làm cho tới nay, và con sẵn sàng làm điều này. Con đang háo hức chờ mong bước lên những bậc thang cao hơn đó. Thày đang háo hức chờ mong dẫn con bước lên những bậc thang cao hơn đó, và do đó thày bây giờ niêm con trong tình thương, trong viễn kiến đầy tình thương, mà thày LÀ. Hilarion TA LÀ.

Đạt kết quả qua nỗ lực tâm linh

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 11/1/2017.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Ở tầng thứ nhì của khóa nhập thất của thày, con đối mặt với Tia thứ Năm phối hợp với Tia thứ Hai của Minh triết. Thánh kinh có câu: “Minh triết là điều chính, và với tất cả những gì con có, hãy đi tìm hiểu biết”. Vậy chúng ta hãy tìm cách đạt được hiểu biết về viễn kiến.

Để bắt đầu thày muốn hỏi con xem xét phản ứng của mình khi con đọc hay nghe bài giảng đầu của thày. Đặc biệt là thày muốn con nhớ lại phản ứng của con khi thày nói vũ trụ là một tấm gương và nó sẽ phản chiếu lại con đúng những gì con phóng chiếu ra. Con có chăng một phản ứng tựa như: “Nhưng tôi đã thử phóng chiếu ra một viễn kiến và tôi đã không nhận được đúng những gì tôi phóng chiếu ra”.

6.1. Vì sao con không đạt được kết quả

Ở tầng thứ nhì của khóa nhập thất của thày, điều rất quan trọng là con hiểu thật đúng vũ trụ vận hành ra sao và viễn kiến vận hành ra sao. Điều này đặc biệt quan trọng cho những ai đã đi trên con đường tâm linh một thời gian dài. Thày có nhiều học viên đến tầng này của khóa nhập thất và nói với thày khi có dịp thảo luận thân mật: “Thày Hilarion, con đã đi trên con đường tâm linh từ 30 hay 40 năm nay. Con đã đọc không biết bao nhiêu bài chú. Con đã cầu thỉnh ngọn Lửa Tím. Con đã học giáo lý của các chân sư thăng thiên. Con đã làm việc với tâm lý gia. Con đã làm việc để giải quyết tâm lý của con. Con đã làm bản đồ tìm kho tàng. Con đã làm viễn kiến. Con đã đọc các lời khẳng định tích cực. Nhưng con vẫn không có được những hoản cảnh bên ngoài mà con mong muốn.”

Có nhiều người chưa đi trên con đường tâm linh lâu như vậy nhưng họ đã đến với thày và đã theo học một số phương pháp phiến diện thịnh hành trong xã hội (tỷ dụ như Thái độ Tâm lý Tích cực, khẳng định tích cực, bản đồ tìm kho tàng, vân vân), nhưng họ nghĩ họ có thể mau chóng phóng chiếu một viễn kiến và thể hiện viễn kiến đó. Nhưng họ đã thất vọng, tới tìm thày và nói với thày: “Phương pháp này có thực sự hiệu quả hay không? Và nếu nó có hiệu quả, thì tại sao con không đạt được những kết quả mà con mong muốn?”

Đây là điểm chúng ta cần xem xét một cách sâu sắc cuộc sống vận hành ra sao. Trong bài giảng đầu thày đã nêu lên một vài điều kiện khi thày nói là nếu con phóng chiếu một viễn kiến với tâm ý thức nhưng không chú ý tới tiềm thức, thì con có thể phóng chiếu một viễn kiến không rõ ràng, không thuần nhất, và ngay cả những viễn kiến đối nghịch từ tâm ý thức và tiềm thức.

Đây dĩ nhiên là một lý do vì sao con không nhận được từ vũ trụ những gì con mong muốn. Con không có cách nào giải quyết vấn đề này ngoài cách duyệt qua một cách có hệ thống các tầng lớp trong tiềm thức của con và bứng gốc tất cả những viễn kiến không đưa đến những gì con muốn biểu hiện. Đây dĩ nhiên là điều con làm khi con theo học bảy tầng của khóa tự điều ngự này và sử dụng các bài giảng khác của các thày và các dụng cụ tâm linh, đặc biệt là dụng cụ để chữa lành chấn thương nhập đời vũ trụ của con và một số chấn thương sâu đậm mà con đã gánh chịu trong những kiếp trước.

Tuy nhiên, dù con đã tới điểm trong lọc bốn thể phàm đủ để ngưng phóng chiếu những viễn kiến đối nghịch, con sẽ thấy là con vẫn không nhất thiết nhận lại đúng những gì con phóng chiếu ra. Lúc đó, con có thể nói với thày, như một số học viên đã nói: “Nhưng thày Hilarion, thày nói là vũ trụ hoạt động hầu như máy móc vì tấm gương vũ trụ phản chiếu lại đúng những gì con phóng chiếu ra.” Ấy, như mọi chuyện khác, lúc nào cũng có một hiểu biết sâu sắc hơn.

Vũ trụ sẽ phản chiếu lại con đúng những gì con phóng chiếu ra, nhưng không nhất thiết là đúng theo những gì con nghĩ con đang phóng chiếu ra từ tâm ý thức. Để bắt đầu, chúng ta hãy xem xét đại đa số những nguời đang đầu thai trên trái đất. Hầu hết những người này không ý thức lắm về sức mạnh của viễn kiến và họ cũng không ý thức lắm về viễn kiến của họ về cuộc đời vận hành ra sao. Họ thường không chịu nhận lãnh trách nhiệm về đời họ. Họ không chịu nhìn nhận là hoàn cảnh bên ngoài có liên hệ với trạng thái tâm thức của họ.

Họ phóng chiếu ra điều gì? Họ vẫn có một viễn kiến (dù họ không có ý thức điều này) và họ phóng chiếu viễn kiến này lên tấm gương vũ trụ. Viễn kiến này mơ hồ, không rõ ràng, và điều mà họ thực sự phóng chiếu là họ không muốn nhận lãnh trách nhiệm về đời họ, và họ không muốn có ý thức rõ ràng về mọi chuyện họ đang làm. Họ nhận lại từ tấm gương vũ trụ điều gì? Họ nhận lại đúng những gì họ phóng chiếu ra: một hoàn cảnh trong đó họ cảm thấy bị hạn chế bởi nhiều hoàn cảnh bên ngoài đến độ họ có rất ít khả năng làm chủ cuộc đời của họ. Điều này giúp họ trốn tránh tinh thần trách nhiệm, trốn tránh ý niệm họ lúc nào cũng phải lượng định một cách ý thức trạng thái tâm thức của họ. Như vậy là họ nhận lại từ tấm gương vũ trụ đúng những gì họ phóng chiếu ra.

Trong số những người đó, dĩ nhiên là nhiều người mong muốn trong tâm ý thức một hoàn cảnh khác, tỷ dụ như một cuộc sống thoải mái, và họ không nhận được viễn kiến đó, viễn kiến ý thức đó. Nhưng con thấy không, họ quả thật (theo tầm nhìn này) nhận đúng những gì họ phóng chiếu ra. Dĩ nhiên là điều này cũng có thể áp dụng cho con, là một người tâm linh.

6.2. Viễn kiến và Sứ vụ Thiêng liêng của con

Với một người tâm linh, ta cần xem xét một số yếu tố khác. Yếu tố quan trọng nhất là một người tâm linh (sẵn sàng đón nhận giáo lý của chân sư thăng thiên trong kiếp sống này) chắc chắn đã tạo ra một Sứ vụ Thiêng liêng trước khi xuống đầu thai. Phải chăng là thày đang nói là không phải ai cũng có một Sứ vụ Thiêng liêng. Đúng, đó chính là điều thày nói. Đa số những người sống một cuộc sống không ý thức và đã làm vậy trong nhiều kiếp giản dị là không ở tầng tâm thức khiến họ có thể và muốn làm việc trực tiếp với các chân sư thăng thiên giữa hai kiếp đầu thai để tạo ra một Sứ vụ Thiêng liêng cho kiếp sống tới. Những người tâm linh (và dĩ nhiên trong số này thày bao gồm nhiều người đang không theo giáo lý của chân sư thăng thiên) chắc chắn đã tạo ra một Sứ vụ Thiêng liêng trước khi đầu thai. Sứ vụ Thiêng liêng này chủ yếu tập trung vào các mục đích tâm linh của con. Nếu con đã theo học bốn tầng đầu của khóa tự điều ngự này, thì Sứ vụ Thiêng liêng của con chắc chắn bao gồm khả năng biểu hiện quả vị Ki-tô. Mục đích của khóa tự điều ngự, dĩ nhiên, là để dẫn con tới tầng tâm thức 96 là nơi con có thể chọn lựa đi tiếp và thực sự tu tập để thể hiện và biểu lộ quả vị Ki-tô, và điều này có trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Đây là lúc con cần nhận ra là rất có thể con có với tâm ý thức ước muốn đạt được một hoàn cảnh bên ngoài nào đó (thường do nền văn hóa nơi con khôn lớn tạo ra), nhưng những ước muốn này đi ngược lại Sứ vụ Thiêng liêng của con. Ít nhất là chúng không giúp con hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con. Nhưng trong thể bản sắc của con, con có một sự nhận biết nào đó về Sứ vụ Thiêng liêng của con (dù con chưa biết với tâm ý thức), và sự nhận biết này sẽ phá hoại những mục đích ý thức của con. Chính con thực sự sẽ ngăn chặn con, không cho thể bản sắc gửi đủ sức mạnh cần thiết vào các mục đích trong tâm ý thức, để chúng không được phóng chiếu với đầy đủ sức mạnh để có thể quay trở về và thể hiện thành hoàn cảnh.

Thày sẽ tạm để sang bên chưa trả lời vì sao như vậy, vì thày muốn chú tâm vào chuyện tâm ý thức của con có một viễn kiến, một mục đích, một ước muốn. Con tạo viễn kiến này trong tâm con, bằng kỹ thuật bản đồ tìm kho tàng hay bằng cách khác. Con giữ trong tâm hình ảnh một hoàn cảnh vật chất mà con muốn thể hiện và con đặt sự chú ý có ý thức của con vào hình ảnh này và con dùng năng lượng linh hồn (cảm xúc, tư tưởng và bản sắc) để phóng chiếu viễn kiến này vào vũ trụ, vào tấm gương vũ trụ.

6.3. Vì sao một viễn kiến không thể biểu hiện

Thày đã xem xét vấn đề viễn kiến có trọn vẹn hay không. Nó có thuần nhất không? Có điều gì đối nghịch nó trong thể cảm xúc hay thể tư tưởng của con không? Đó là một vấn đề có thể ngăn chặn sự biểu hiện của nó. Viễn kiến có rời rạc chăng?

Giả thử con có một viễn kiến khá tập trung và con phóng chiếu nó ra. Điều mà ta cần xem xét tiếp theo là: con đặt vào sự phóng chiếu này bao nhiêu sức mạnh? Điều này tùy thuộc nhiều yếu tố. Thày có nói trong bài giảng trước là có nhiều sa nhân đã tạo dựng được một động lực lớn trong việc biểu hiện một số hoàn cảnh vật chất. Họ đã tạo dựng được một động lực lớn trong việc dùng vũ lực để biểu hiện những gì họ mong muốn. Họ có quyền năng tâm hồn (psychic power) rất lớn mà họ đã tạo dựng qua rất nhiều kiếp và do đó họ có thể hướng quyền lực lớn lao này vào viễn kiến của họ trong kiếp này.

Nếu con là một người tâm linh có thể chấp nhận khóa học này, thì xác suất con là sa nhân rất thấp. Thày không nói là không thể có sa nhân nào theo học được khóa này tới điểm này, nhưng xác suất rất thấp. Điều này có nghĩa là con không có động lực mạnh trong việc hướng năng lượng tâm hồn. Ngay bây giờ, sức mạnh con dùng để phóng chiếu viễn kiến vào tấm gương vũ trụ bị giới hạn.

Thêm vào đó, có thể là chính con đang trực tiếp hạn chế sức mạnh mà con dùng để phóng chiếu. Con làm như thế ở tầng thể tư tưởng hay thể bản sắc vì, như thày có nói, con có cái biết là viễn kiến trong tâm ý thức của con không giúp sự hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con. Do đó, thí dụ ở tầng bản sắc, con từ chối không gửi đủ sức mạnh mà con có ở tầng này, và do đó con chỉ có sức mạnh mà con có ở tầng ý thức, vật lý. Sức mạnh mà con dùng để phóng chiếu viễn kiến sẽ giới hạn. Bây giờ, chúng ta đã thiết lập là khi con tìm cách biểu hiện điều gì, câu hỏi là: viễn kiến của con thuần nhất đến đâu và con dùng bao nhiêu sức mạnh để phóng chiếu nó vào tấm gương vũ trụ?

Điều kế tiếp mà ta cần xem xét là chuyện gì xảy ra khi viễn kiến được phóng chiếu ra khỏi tâm con. Nó đã rời tâm con và đang đi tới cái mà các thày gọi là tấm gương vũ trụ. Khi các thày đưa ra một giáo lý, dĩ nhiên là có một khó khăn là các thày một mặt cần giản dị hóa để mọi người có thể hiểu dễ dàng, nhưng mặt khác, khi giản dị hóa thì các thày có thể khiến mọi người lầm tưởng là thực tại giản dị như vậy.

Con có thể có ý tưởng là tấm gương vũ trụ giống một tấm gương bình thường, và khi con đứng trước nó thì tia ánh sáng toát ra từ cơ thể con đập vào tấm gương và phản chiếu lại vào mắt con. Trong trường hợp tấm gương vũ trụ, dĩ nhiên là tình trạng phức tạp hơn, vì tấm gương vũ trụ là gì? Tấm gương vũ trụ là bốn tầng của vũ trụ vật chất trong hệ thống năng lượng của trái đất. Trái đất nằm ở trung tâm hệ thống này, nhưng nó không phải là hành tinh duy nhất hay đơn vị duy nhất trong hệ thống đó.

Dĩ nhiên là con cũng có bốn tầng: bản sắc, tư tưởng, cảm xúc và vật chất. Điều mà con cần nhận ra, như thày đã giảng trong bài trước, là mọi thứ là làn sóng điện từ. Khi con phóng chiếu ra một viễn kiến thì con phóng chiếu cái gì? Một làn sóng điện từ hay ít ra là một số làn sóng phức tạp! Để viễn kiến hay sự phóng chiếu này trở lại con như một hoàn cảnh vật lý, nó phải đi xuyên qua bốn tầng bản sắc, tư tưởng, xúc cảm, vật chất của hệ thống năng lượng của trái đất. Đương nhiên là câu hỏi trở nên: Cái gì ở trong bốn tầng đó? Bốn tầng đó là trường năng lượng, và trong các trường năng lượng đó có nhiều làn sóng. Khi sự phóng chiếu của con đi qua các trường năng lượng đó, không thể tránh là các làn sóng năng lượng của sự phóng chiếu sẽ tạo ra mô thức giao thoa (interference patterns) với các làn sóng năng lượng có mặt trong toàn thể đơn vị năng lượng nơi con sống. Đây chỉ giản dị là cơ học sóng.

Con cũng biết là có rất nhiều hỗn loạn, rất nhiều năng lượng ô uế trong bốn thể phàm của trái đất – và vật chất rất dày đặc – nên con có thể thấy đây là một lý do vì sao con phóng chiếu ra một viễn kiến và không (hay ít ra là chưa) nhận lại kết quả mong muốn. Điều này có thể khiến con nghi ngờ là con đường mà các thày mô tả không thực sự khả thi. Con có thể gặt hái kết quả của những nỗ lực của con chăng?

6.4. Một hiểu biết tinh vi hơn về viễn kiến

Điều con cần nhận ra ở điểm này là con cần hiểu biết một cách tinh vi hơn. Khi thày nói “hiểu biết”, thày không muốn nói đến cách vận hành máy móc nhưng là mục đích của hệ thống năng lượng của trái đất. Ở đây chúng ta gặp một vấn đề gây khó khăn cho nhiều người tâm linh. Tại sao con là một người tâm linh theo giáo lý của các chân sư thăng thiên? Đó là vì, tuy con không có trí nhớ ý thức về Sứ vụ Thiêng liêng của con, con có cái biết trực giác nội tại là có cái hơn cuộc sống vật chất mà con thấy những người chung quanh con đeo đuổi.

Con không chỉ chú tâm vào điều kiện vật chất mà thôi. Con có thể mong muốn một số điều kiện vật chất nhưng chúng không hoàn toàn quy định cuộc sống của con, vì nếu không thì con đã không theo con đường tâm linh. Cái biết trực giác nội tại của rất, rất nhiều người là cái biết cuộc sống như thế nào khi con ở trên một hành tinh có một tâm thức đại chúng cao hơn trái đất. Rất ít người theo giáo lý chân sư thăng thiên đã bắt đầu cuộc hành trình trong cõi vật chất trên trái đất. Đa số các con tới từ hành tinh khác nơi con đã đầu thai và đạt được một tầng tâm thức nào đó trước khi con tình nguyện đầu thai trên trái đất. Điều này có nghĩa con có, không phải một ký ức ý thức, nhưng một ký ức tiềm thức về đời sống trên các hành tinh đó, và đời sống đó thực sự thoải mái hơn đời sống trên trái đất. Con thấy chăng, trên một hành tinh ít vật chất dày đặc hơn và tâm thức đại chúng ít dày đặc hơn trái đất, biểu hiện viễn kiến của con dễ dàng hơn nhiều. Con không gặp sự đối kháng của tâm thức đại chúng. Sự phóng chiếu của con gặp ít giao thoa hơn trước khi trở lại con như hoàn cảnh vật lý.

Đây là điều khiến một số người nản chí vì con có cảm giác là đã bỏ ra đủ cố gắng và đáng lẽ phải gặt hái thành quả vật lý của những cố gắng này. Nhưng con không thấy những kết quả này biểu hiện, và do đó con nản chí và bắt đầu nghi ngờ là con đường tâm linh có thực sự hiệu quả chăng. Dĩ nhiên, đó là lúc con dễ bị ảnh hưởng bởi các phóng chiếu của sa nhân lúc nào cũng tìm cách đẩy con ra khỏi con đường tâm linh. Họ cũng tìm cách cản con bước vào con đường tâm linh ngay từ đầu, nhưng một khi con đã bắt đầu, thì họ tìm cách làm con vấp ngã khiến con rời con đường tâm linh.

Đây là điểm con cần nhận ra là trái đất rất khác một số hành tinh khác nơi con đã đầu thai. Trái đất là một hành tinh rất tăm tối; trái đất là một hành tinh rất dày đặc. Một trong những mục đích của trái đất là phục vụ như chặng nửa đường cho những dòng sống chưa sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm trọn vẹn về đời họ.

Con có thể nhìn vào trái đất và thấy có rất ít người chịu nghe giáo lý của chân sư thăng thiên. Điều này giúp con nhận ra là nhiều người chưa sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời của họ. Cốt lõi của giáo lý của chân sư thăng thiên là gì? Đó là con lấy trách nhiệm về cuộc đời mình, về trạng thái tâm thức của mình. Nhiều người chưa sẵn sàng làm điều này và đó là lý do vì sao rất khó biểu hiện một viễn quan đúng như những gì con phóng chiếu ra.

Vậy con có thể tự hỏi: “Nhưng tại sao tôi đã tình nguyện xuống hành tinh này?” Câu trả lời rất đơn giản. Con xuống đây để chứng minh cho mọi người thấy là có thể sống một cách khác cách họ đang sống. Con tới đây để chứng minh là có một cách cao hơn, có một cách sống cao hơn, một cách sống tâm linh hơn. Đây là lý do vì sao con ở đây.

Một khi học viên đã thực sự nhận ra điều này trong các tầng nội tâm của họ, thì thày thấy một sự chuyển đổi nơi những người trước đó nghi ngờ con đường tâm linh. Tựa như là có một bóng đèn bật sáng trong tâm họ. Thày hy vọng là sẽ giúp con trải nghiệm với tâm ý thức điều mà con đã trải nghiệm ở thể bản sắc. Giống như một người thốt nhiên nhận ra: “Ồ, tôi không ở đây để biểu hiện một hoàn cảnh bên ngoài nào đó, một nếp sống thoải mái, một căn nhà đẹp, người phối ngẫu toàn hảo, rất nhiều tiền, và cái này cái kia. Đấy không phải là lý do vì sao tôi ở đây. Tôi ở đây để tiến bước trên con đường của quả vị Ki-tô và chứng minh nó.

6.5. Làm hòa với cuộc sống của mình

Một lần nữa, con có thể nhìn vào cuộc đời của Giê-su. Thày không biểu hiện người bạn đời toàn hảo, gia đình toàn hảo, căn nhà toàn hảo, rất nhiều tiền, địa vị trong xã hội, tất cả những điều mà mọi người ao ước. Nếu con nhìn vào Giê-su và cuộc đời của thày với thước đo của những gì đa số con người sở hữu ngày hôm nay, thì con có thể nói là thày đã thất bại hòan toàn khi so sánh với mục đích và viễn kiến của những người đó. Tất cả những gì thày làm là đi khắp nơi và nói những lời mà đa số không hiểu, và rốt cuộc bị giết mà không đạt được thành tựu nào trong khoảng thời gian đó. Có thể là một số người sau đó đã lấy một số điều thày giảng và tạo nên một cái gì đó, nhưng nếu nhìn cuộc đời của Giê-su khi thày tại thế thì ta có thể cho rằng thày đã thất bại hòan toàn. Thày không biểu hiện bất cứ mục tiêu nào mà các người thời đó ước muốn và người bình thường thời nay ước muốn.

Con có thể nhìn vào cuộc đời của mình và nói: “Vậy tôi có biểu hiện được điều gì đáng quý so với mục tiêu của con người bình thường?” Nếu câu trả lời là: “Không”, thì con có thể nói tiếp: “Điều này có tệ chăng? Những điều được coi là đáng quý kia có thể không phù hợp với Sứ vụ Thiêng liêng của tôi. Nếu một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của tôi là biểu hiện quả vị Ki-tô, thì Sứ vụ Thiêng liêng của tôi có lẽ không có những mục tiêu duy vật mà người bình thường trong nền văn hóa của tôi có. Vậy có thể nào tôi tới điểm nhìn lại cuộc đời của tôi như nó đã hình thành từ trước tới nay, và tôi làm hòa với sự kiện nó đã là như thế ấy.”

Con yêu dấu, con thấy chăng là khi con đạt được hiểu biết thực sự, thì con nhận ra là điều con có không phải là điều tâm ý thức con mong muốn. Khi con đạt được hiểu biết này, con nhận ra là điều mà tâm ý thức con mong muốn không phải là điều con thực sự mong muốn trong kiếp sống này. Điều con thực sự muốn là hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con, không phải là những mục tiêu phiến diện do nền văn hóa của con quy định. Khi nhận ra điều này, con có thể nhìn vào cuộc đời mình và nói: “Tôi đã theo con đường mà tôi có thể theo được, dựa trên con người của tôi, trình độ tâm thức của tôi khi tôi đầu thai và nền văn hóa của tôi.”

Con không cần nhìn lại chính mình và nghĩ là mình đã có sơ suất, đã có làm gì sai. Khi con nhận ra là con có một Sứ vụ Thiêng liêng và nó đòi hỏi con chứng minh con đường tới quả vị Ki-tô (và con đường tới quả vị Ki-tô rất khác cuộc sống của người bình thường), thì con bắt đầu làm hòa với cuộc đời của mình. Con thấy chăng, các thày là chân sư thăng thiên không giống các thày giáo muốn con nhìn vào mọi khía cạnh của đời mình, phân tích mọi chuyện con đã làm, tìm ra những gì con làm sai, và những gì con đáng lý phải làm tốt hơn.

Ở tầng này của khóa nhập thất của thày, mục đích của thày là giúp con hoàn toàn làm hòa với cuộc đời con cho tới điểm này. Thày muốn giúp con tới điểm con có thể nhìn vào đời mình và nói: “Cuộc đời của tôi là như thế đó. Tôi đã làm những điều tôi đã làm vì tôi có lý do. Có thể lý do là tôi phải trải qua kinh nghiệm đó để nhận ra rằng tôi thực sự không muốn điều mà trước kia tôi ước muốn. Tôi thực sự không muốn những mục tiêu vật chất đó, những điều kiện vật chất đó. Tôi muốn cái gì hơn nữa. Tôi muốn cái gì cao hơn.”

6.6. Biến con đường tâm linh thành một cuộc đua

Con yêu dấu, con thấy chăng là có một thời trong cuộc đời con khi con cảm thấy lúc nào mình cũng đang đi chậm ở phía sau. Con lúc nào cũng đang đeo đuổi một hũ vàng ở cuối cầu vồng. Con lúc nào cũng đang đeo đuổi một mục đích nào đó và cảm thấy mình sẽ không bao giờ biểu hiện được nó. Rất, rất nhiều học viên đã dùng con đường tâm linh (và ngay cả giáo lý của chân sư thăng thiên) để khuếch đại tiến trình này.

Khi con tìm ra con đường tâm linh, con nhận ra là con có một số mục tiêu tâm linh. Con muốn có một trạng thái tâm thức cao hơn, và con nỗ lực để đạt được điều đó. Con cảm thấy con chưa tới đích, và bất cứ con làm điều gì cũng chưa đủ, cũng chưa tốt đủ vì con chưa biểu hiện được trạng thái tâm thức cao hơn mà con mường tượng.

Điều thày mong muốn là giúp con tới điểm con nhận ra cuộc đời con (cho tới lúc này) đúng như nó phải là, dựa trên trạng thái tâm thức và hoàn cảnh bên ngoài của con. Con đã làm đúng y điều con phải làm. Điều còn lại là con ý thức học bài học mà con cần học khi con làm những gì con đã làm.

Điều quan trọng không phải là đổ lỗi cho mình. Điều quan trọng không phải là tìm ra con đã làm gì sai. Điều quan trọng là con tới điểm nhận ra: “Con thực sự cần phải lớn lên trong một hoàn cảnh nào đó, cùng với những người thuộc một nền văn hóa nào đó, trong một gia đình nào đó, một dân tộc nào đó. Con phải lớn lên ở đó và phải trải qua một giai đoạn thích nghi với hoàn cảnh đó. Con phải trầm mình trong đó, con phải đeo đuổi một số mục tiêu, nhưng con không cần phải đeo đuổi chúng suốt đời. Con đã làm vậy để chứng minh con giống mọi người khác trong nền văn hóa đó, từ một góc nhìn vỏ ngoài. Nhưng nay con có cơ hội vượt lên trên hoàn cảnh đó và chứng minh con có thể hơn một người như thế, con có thể sống một cách khác.

Con yêu dấu, con thấy chăng là thày đang hướng dẫn con nhận ra là con đã sống cuộc đời cho tới điểm này dựa trên một viễn quan nào đó. Bây giờ con tới điểm tham dự khóa nhập thất của thày ở cõi ê-the và con đang đọc và nghiên cứu bài giảng này với tâm ý thức. Con có cơ hội thay đổi cuộc sống mình và có một viễn quan cao hơn, đó chính là viễn quan mà con đã thiết lập trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Thày hy vọng con thấy thày muốn nói gì. Cho tới nay, con đã sống dựa trên một viễn quan nào đó. Viễn quan đó không có gì sai, nhưng nó hạn hẹp, một phần vì trạng thái tâm thức của con, tâm lý của con, và phần kia vì nền văn hóa nơi con sống. Điều này hoàn toàn phải lý. Một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con đã ấn định là con hội nhập một nền văn hóa nào đó, một hoàn cảnh nào đó. Như các thày đã nói, cuộc sống, sự tăng triển, là tiến trình hội nhập trước và sau đó tỉnh ngộ. Ngay lúc này con đang ở điểm tỉnh ngộ, khi con nhận ra có một viễn quan cao hơn là viễn quan con đã sống theo cho tới ngày hôm nay. Nó là viễn quan trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, và viễn quan này rất khác viễn quan mà con có cho tới điểm này.

Lý do vì sao con rất cần hiểu điều này rất giản dị, nhưng cũng rất thâm sâu, rất quyết định, rất căn bản. Con yêu dấu, con thấy chăng là con không thể phóng chiếu vào tấm gương vũ trụ bất cứ điều gì cao hơn viễn kiến hiện nay của con. Để có thể đón nhận một viễn kiến cao hơn cái con đang có hiện nay, con phải sẵn sàng từ bỏ viễn kiến con có từ trước tới nay. Con phải sẵn sàng nhận ra: “Tôi nhận ra là tôi đã có một viễn kiến hạn hẹp. Tôi muốn đón nhận một viễn kiến cao hơn, và điều này có nghĩa là tôi sẵn sàng buông bỏ viễn kiến cũ.”

Khi học viên nhận ra điều này ở tầng bản sắc, ở khóa nhập thất của thày, thái độ của họ chuyển đổi. Thày hy vọng rằng khi con theo học khóa học này, con cũng có một chuyển đổi tương tự ở tầng tâm ý thức và nhận ra là cuộc đời mình có thể đi theo một hướng hoàn toàn mới.

Thày biết là nhiều người trong các con đã đi theo con đường tâm linh từ rất lâu rồi. Thày biết là nhiều người đã học giáo lý chân sư thăng thiên từ lâu rồi, và con có thể nhìn lại quãng thời gian này và nói: “Nhưng tôi đã trải qua nhiều chuyển đổi trong khoảng thời gian 20 hay 30 năm trên con đường tâm linh. Tôi đã thay đổi rất nhiều so với trước kia.” Điều này đúng, và con đã thay đổi nhiều, và như vậy con sẽ dễ chấp nhận là có một viễn kiến cao hơn cả viễn kiến con hiện có. Con có thật sự chờ đợi tham dự khóa học của Tia thứ Năm của Viễn kiến, do Thượng sư Tia thứ Năm hướng dẫn, mà không mở rộng viễn kiến của mình? Dĩ nhiên là dù con đã trải qua nhiều chuyển đổi lớn lao và đã nâng cao viễn kiến rất nhiều, con vẫn còn thành tựu được hơn nữa. Có một viễn kiến cao hơn mà con chưa nhận ra.

6.7. Khía cạnh Alpha và Omega của viễn kiến cao hơn

Dĩ nhiên, thày cảm thấy vui mừng được đặc biệt giúp con nhận ra viễn kiến đó, và viễn kiến có hai khía cạnh Alpha và Omega. Con cần thấy gì nơi con để có thể biểu hiện quả vị Ki-tô? Con sẽ hành động ra sao ở thế giới bên ngoài khi con hiện thị và biểu lộ quả vị Ki-tô?

Bây giờ chúng ta có thể trở về xem xét Sứ vụ Thiêng liêng và viễn kiến của con. Thày có nói là trong nhiều trường hợp, con đã ngăn chặn trong tiềm thức việc biểu hiện một viễn kiến mà con phóng chiếu ra với tâm ý thức. Bây giờ con có thể bắt đầu xem xét các viễn kiến, mục tiêu và ước muốn mà con đã có và những gì con đã phóng chiếu ra với tâm ý thức của con. Con có thể bắt đầu tự hỏi: “Trong suốt cuộc đời, con đã có một số mục tiêu, nhưng bây giờ con sẵn sàng so sánh các mục tiêu này với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con sẵn sàng suy xét xem con có cần vứt bỏ một số mục tiêu này không.”

Con yêu dấu, con thấy chăng là chúng ta đang tới một điểm tế nhị. Thày đã đối chiếu cuộc đời của một số sa nhân đã điều khiển được hoàn cảnh vật chất của họ, và cuộc đời của Giê-su. Khi con nhìn vào đời của Giê-su, con có thể nói là thày không kiểm soát được bao nhiêu hoàn cảnh vật chất của thày. Rốt cuộc thì thày đã bị giới quan chức bắt giữ, kết án tử hình và bị hành quyết một cách rất khó chịu. Những việc này có chứng tỏ là thày kiểm soát được hoàn cảnh vật chất chăng? Các sa nhân có chấp nhận để chuyện này xảy ra với họ chăng?

Khi con bắt đầu mở tâm đón nhận viễn kiến cao hơn về hậu quả cho chính con khi con bước trên con đường của quả vị Ki-tô và biểu hiện quả vị Ki-tô, con thấy là trong một số trường hợp con sẽ không hoàn toàn kiểm soát được hoàn cảnh vật lý của con. Thày không nói là con cần bị bắt giữ, hành hạ, tra tấn và giết như Giê-su. Chúng ta không cần xem xét những chuyện này ngày nay, vì hoàn cảnh đã thay đổi, ít ra là trong đa số quốc gia.

Thày không phủ nhận là hiện nay có những người trong một số quốc gia, đã có trong Sứ vụ Thiêng liêng của họ, là họ sẽ cho phép mình bị hành hạ, tra tấn và giết để khiến một số sa nhân bị đem ra xét xử. Trong những quốc gia mà quyển sách này được phổ biến, con hy vọng là trường hợp này không xảy ra. Tuy nhiên, ngay cả trong những vùng an bình hơn trên thế giới, rất có thể là chứng minh con đường tới quả vị Ki-tô sẽ cần con trải nghiệm một số hoàn cảnh vật lý và vật chất mà con không hoàn toàn kiểm soát được.

6.8. Sự tiến hóa toàn vũ của trái đất

Con yêu dấu, vì sao lại như vậy? Để hiểu được điều này, con cần phải hiểu trái đất đang ở đâu trong tiến trình tiến hóa tòan vũ. Trái đất đang đi theo một tiến trình tự nhiên hướng về thời Hoàng Kim của Saint Germain, nhưng trái đất chưa đi vào tâm thức của thời hoàng kim. Sẽ có một điểm khi trái đất đi sâu vào thời Hoàng kim và lúc đó một khía cạnh tự nhiên của việc biểu lộ quả vị Ki-tô là thể hiện một số hoàn cảnh vật chất cao hơn.

Nhưng ở giai đoạn hiện nay, vẫn còn rất nhiều người bị kẹt trong một trạng thái tâm thức thấp, và mục đích chủ yếu của con đường tới quả vị Ki-tô không phải là chứng minh khả năng điều ngự ngoại cảnh qua đó con có thể biểu hiện đúng hoàn cảnh vật lý mà con mong muốn. Mà là chứng minh khả năng điều ngự nội tâm qua đó con chứng minh rằng, bất kỳ hoàn cảnh bên ngoài ra sao chăng nữa, con vẫn là chính mình. Con không cho phép hoàn cảnh bất thuận lợi bên ngoài lấy đi sự bình an của con. Con đeo đuổi viễn kiến của Sứ vụ Thiêng liêng của con, dù con không được hoàn cảnh bên ngoài lý tưởng.

Qua đó con chứng minh cho mọi người là thay vì đợi phải có điều kiện vật chất lý tưởng trước khi biểu hiện tâm bình an, một cuộc đời vui tươi hay sự đeo đuổi mục tiêu cao, thì con biểu hiện những điều đó ngay bây giờ, con bắt đầu ngay bây giờ. Con cần phải chứng minh cho mọi người điều ngược lại lời gian dối của sa nhân mà nhiều người đã tin theo. Như thày có nói trong bài giảng đầu, một trong những điều gian dối này là con cần chờ điều kiện lý tưởng trước khi đi con đường tâm linh, trước khi con biểu hiện quả vị Ki-tô. Điều tự nhiên là trong giai đoạn hiện nay, một phần của việc chứng minh con đường tới quả vị Ki-tô là chứng minh rằng con có thể biểu hiện quả vị Ki tô dù con chưa có điều kiện lý tưởng.

Khi con nhận ra điều này, con thốt nhiên thấy rằng: “Ồ, đổ năng lượng và chú tâm vào việc biểu hiện điều kiện vật chất quả là vô lý. Tôi cần bắt đầu ngay bây giờ việc chú tâm đạt quả vị Ki-tô và sau đó chứng minh nó.” Thày không muốn nói là con phải nhảy vào làm ngay. Con đang tự nhiên ở tầng này của khóa tự điều ngự, và các thày có mục đích dẫn con đạt một trình độ cao hơn trình độ hiện nay của con rất nhiều. Thày muốn nói rằng khi con có viễn kiến về nơi con muốn đến, con có thể làm hòa với hoàn cảnh bên ngoài của con như nó hiện đang là.

6.9. Chướng ngại lớn nhất trên đường tới quả vị Ki-tô

Con hiểu là có một nguyên lý đằng sau việc này, một nguyên lý rất quan trọng. Các thày có nói là con sẽ không thực sự biểu hiện một hoàn cảnh khác khi con chưa bình an với hoàn cảnh hiện nay của con. Nguyên lý này đặc biệt áp dụng cho những người tâm linh khi họ tới điểm một phần Sứ vụ Thiêng liêng của họ là quả vị Ki-tô. Lý do thông thường nhất khiến một người trì hoãn quả vị Ki-tô là trong tâm ý thức, họ bị dính mắc vào chuyện biểu hiện một hoàn cảnh bên ngoài nào đó, họ quá chú tâm vào hoàn cảnh đó và trong tiềm thức, họ nói rằng: “Tôi không thể biểu hiện quả vị Ki-tô cho tới khi tôi có được những hoàn cảnh bên ngoài này.”

Cách duy nhất để thoát ra khỏi thế tiến thoái lưỡng nan này là con nhận ra là không hoàn cảnh bên ngoài nào có thể đem lại quả vị Ki-tô và không hoàn cảnh bên ngoài nào có thể ngăn chặn nó. Quả vị Ki-tô là một trạng thái nội tâm, và nó sẽ bắt đầu biểu hiện khi con quyết định bây giờ là lúc biểu hiện. Con cần tới điểm con nhìn hoàn cảnh của mình và nói: “Bất kỳ hoàn cảnh của tôi khó khăn tới đâu, bất kỳ tôi có một số điều kiện hay không có, tôi sẽ chú tâm biểu hiện quả vị Ki-tô ngay bây giờ.Đó là lúc con đã làm hòa với hoàn cảnh hiện nay của con.

Nhiều người trong số các con đã kinh nghiệm rằng khi con tới điểm này, đột nhiên hoàn cảnh bên ngoài thay đổi. Nhiều người trong số các con có khả năng trải qua kinh nghiệm này: con tới điểm con nhìn vào một hoàn cảnh bên ngoài đã thu hút sự chú ý của con, và đột nhiên con làm hòa với nó và nói: “Nhưng chuyện này không thể ngăn chặn quả vị Ki-tô của tôi, vậy tại sao tôi lại phải lo lắng?” Đó là lúc con kinh nghiệm là hoàn cảnh bên ngoài đột nhiên thay đổi. Điều mà lúc trước tưởng như khóa chặt và ngoài khả năng thay đổi của con, đột nhiên trở nên uyển chuyển và hoàn cảnh bắt đầu chuyển đổi.

Nguyên lý đằng sau việc này là: Hoàn cảnh bên ngoài không quan trọng khi con bước trên con đường tới quả vị Ki-tô. Hoàn cảnh bên ngoài không phải là một chướng ngại, nó là một cơ hội để con chứng minh là con không thể và sẽ không bị quy định bởi hoàn cảnh vật chất. Quả vị Ki-tô là gì? Phản Ki-tô là gì?

Con hãy nhớ lại câu chuyện Giê-su nói với Phê-rô (Peter): “Hãy đứng sau ta, Satan. Con đang không ưu tiên việc của Thượng đế mà ưu tiên việc của con người.” Tâm thức Satan là tâm thức đòi hỏi Tánh linh phải thuận theo điều kiện hiện thời của vật chất. Đó là điều Phê-rô phóng chiếu lên Giê-su, lúc đó Phê-rô muốn Giê-su (là người đại diện tâm thức Ki-tô) phải thuận theo những gì Phê-rô chờ đợi phải xảy ra cho Giê-su.

Thời bấy giờ, lúc Giê-su bắt đầu được biết tới ở Israel, có nhiều người muốn Giê-su trở nên một vị vua-chiến sĩ giải thoát nước Israel khỏi tay người La mã. Khi Giê-su không muốn đóng vai trò này, họ giận dữ và chối bỏ thày. Họ cũng phóng chiếu lên Ki-tô là Ki-tô phải thuận theo điều kiện trong vật chất, nhưng mục tiêu của Ki-tô là gì? Đó là giải thoát con người khỏi các điều kiện hiện hành trong vật chất. Làm sao con giải thoát con người khỏi các điều kiện hiện hành bằng cách thuận theo chúng? Con chỉ giải thoát họ được bằng cách chứng minh rằng bất kỳ điều kiện hiện hành như thế nào, chúng không quy định được con như một sinh thể tâm linh; con hơn những điều kiện đó. Đó là cách con chứng minh quả vị Ki-tô.

6.10. Tầm quan trọng của việc buông bỏ viễn kiến cũ

Nếu con còn cảm thấy là điều kiện vật chất hiện thời đang giới hạn việc biểu lộ quả vị Ki-tô của con, thì con không thể biểu lộ quả vị Ki-tô, con không thể thực thi Sứ vụ Thiêng liêng của con. Do đó, con cần tới điểm nhận ra là điều kiện hiện thời của vật chất là sản phẫm của một viễn kiến hạn hẹp. Viễn kiến hạn hẹp của hầu hết mọi người trên trái đất này đã được phóng chiếu vào tấm gương vũ trụ từ rất lâu rồi và đã tạo ra điều kiện hiện thời của vật chất, kể cả độ dày đặc của vật chất, sự hỗn loạn, chiến tranh, đấu tranh và xung đột mà con thấy trên hành tinh. Làm sao con, là một đại diện của Ki-tô Hằng Sống, có thể giúp giải thoát con người nếu con không sống theo một viễn kiến cao hơn? Làm sao con có thể mở tâm một cách ý thức với viễn kiến này nếu con không nhận ra là con cần buông bỏ viễn kiến cũ, và con cần thấy nó hạn hẹp. Con cần cho cái ta dựa trên viễn kiến này chết đi và nói: “Nó có là gì với ta đâu? Con sẽ đi theo ngài,” và sau đó con đi theo Ki-tô Hằng Sống cho tới khi thấy được viễn kiến cao hơn đó.

Đó là cách duy nhất con chứng minh quả vị Ki-tô, và đó là lý do vì sao con cần tới điểm con không bám víu viễn kiến cũ. Con có thể đã có viễn kiến đó từ rất lâu rồi, nhưng con cần nhìn nó lại một lần nữa. Con cần nhận ra con là cái Ta Biết. Con là cái biết thuần khiết và do đó con có thể bước ra ngoài phin lọc nhận thức của viễn kiến hiện thời của con. Con có thể tháo ra cặp kính màu, con nhìn cuộc đời của con mà không có viễn kiến cũ, không có phin lọc nhận thức, không bị pha màu và bây giờ con thấy được điều mà cho tới nay con không thấy.

Đây là điểm thày đôi khi gặp khó khăn nhất để giúp các học viên đã theo chân sư thăng thiên từ rất lâu. Con yêu dấu, con có thể nghĩ là những người tới khóa nhập thất của thày đều đã đọc quyển sách này, nhưng điều này không đúng. Con là người đang đọc quyển sách này, con đang cưỡi một ngọn sóng gồm nhiều người (trong đó có người chưa bao giờ nghe nói tới giáo lý chân sư thăng thiên) đang hòa điệu và gia nhập một phong trào cấp tiến gồm hàng triệu người sẵn sàng đi bước kế tiếp.

Có những người không đọc quyển sách này (trong đó có người không nhìn nhận vị sứ giả này là sứ giả chân chính) nhưng họ đã theo giáo lý chân sư thăng thiên từ nhiều chục năm. Họ đã sử dụng giáo lý để tạo ra một viễn kiến đặc trưng của con đường tâm linh, của cuộc đời họ, của hành tinh và của điều chân sư thăng thiên mong muốn. Trong nhiều trường hợp, viễn kiến này giới hạn Sứ vụ Thiêng liêng và việc biểu lộ quả vị Ki-tô của họ, và thày có khi gặp rất, rất nhiều khó khăn khi thày giúp những người đó buông bỏ viễn kiến hạn hẹp của họ. Họ nghĩ rằng viễn kiến đó là viễn kiến chân chính duy nhất vì nó dựa trên giáo lý của chân sư thăng thiên. Họ không chịu nhìn nhận là họ đã dùng giáo lý của chân sư thăng thiên để chứng thực một viễn kiến hạn hẹp. Các thày không chứng thực nó, nhưng chính họ đã làm điều này.

Nhận ra điều này có thể là một điều rất đau đớn; nó đặc biệt đau đớn khi nhận ra với tâm ý thức. Thày phải nói với con rằng có nhiều người đã theo giáo lý chân sư thăng thiên từ nhiều chục năm nhưng họ đã bỏ rơi quả vị Ki-tô vì họ đã lạm dụng, đã diễn giải sai giáo lý. Điều này đã khiến họ tập trung tâm họ vào một viễn kiến không có trong Sứ vụ Thiêng liêng của họ và không giúp họ đạt được quả vị Ki-tô cá nhân của họ.

Thày có thể làm gì cho những học viên này? Trong một số trường hợp, thày không làm gì được ngoài việc chờ đợi và hy vọng họ sẽ chán ngán viễn kiến này và mở tâm đón nhận cái gì cao hơn với tâm ý thức của họ. Vì sao buông bỏ viễn kiến cũ lại quan trọng như vậy? Con yêu dấu, làm sao con có thể bước lên một tầng tâm thức cao hơn nếu con không buông bỏ viễn kiến con đã tạo ra ở tầng hiện thời của con? Đây chính là nguyên lý của quả vị Ki-tô.

6.11. Buông bỏ cái ta cũ

Các thày đã nói về phàm linh, các thày đã nói về cái ta. Ngay lúc này, con đang ở một tầng tâm thức nào đó. Con đã tạo ra một cái ta cho con cảm giác tiếp nối ở tầng đó. Điều này không có gì sai trái cả. Con không thể làm điều gì khác, nhưng nếu con muốn vươn lên tầng tâm thức kế tiếp, con không thể đem theo cái ta đó. Con không thể thuyên chuyển theo, con không thể kiện toàn nó, con không thể phát triển nó. Con cần cho nó chết đi, và sau đó, dĩ nhiên, con hình thành một cái ta khác ở tầng tâm thức kế tiếp.

Đa số con người không biết là khi họ chuyển dời từ một tầng tâm thức lên tầng kế tiếp, cái ta cũ chết đi và một cái ta mới sinh ra. Điều này xảy ra ngoài cái biết có ý thức, nó xảy ra dần dần, trơn tru nên đa số không nhận ra là có một cái ta đã chết đi. Con có thể tới điểm con có ý thức về chuyện này, hoặc ít nhất con có ý thức là để tiến cao hơn trên con đường tâm linh, con cần buông bỏ một cái gì đó, một viễn kiến cũ, một cái ta cũ. Con càng làm điều này một cách ý thức thì con càng tiến nhanh, vì con tránh không bị kẹt ở một tầng nào đó.

Khi con lên mỗi tầng của con đường tâm linh thì đó là một chiến thắng quyết định, một bước nhảy vọt. Nó không phải là một tiến triển tuần tự; nó là bước nhảy rõ rệt, quyết định của tâm thức. Nó là một chiến thắng, nhưng sa nhân luôn luôn tìm cách khiến chiến thắng cuối của con là chiến thắng cuối cùng vì con trở nên dính mắc vào một điều gì ở tầng đó và không vươn lên trên được nữa. Những đệ tử chân sư thăng thiên mà thày đề cập tới đã có tiến bộ và đã đạt được một tầng tâm thức cao hơn khi họ chưa biết giáo lý chân sư thăng thiên. Nhưng nếu họ ngừng ở chỗ đó thì họ đã không tận dụng được giáo lý chân sư thăng thiên vì mục tiêu của các thày là hướng dẫn con đạt được thăng thiên. Do đó con cần tiếp tục vươn lên qua suốt 144 tầng tâm thức cho tới khi con tới tầng cao nhất, và lúc đó con có thể nhảy bước nhảy vọt cuối cùng lên trạng thái thăng thiên.

Con luôn luôn, luôn luôn cần buông bỏ cái cũ để được tái sinh trong cái ta mới, viễn kiến mới sẽ nâng con lên cao hơn. Con yêu dấu, tiến trình này không đẹp đẽ sao? Tại sao lại nhìn nó như một đe dọa? Tại sao lại nhìn nó như mình phải mất mát cái gì? Nếu con thấy là mình dính mắc vào điều gì, ngần ngại không chịu buông bỏ điều gì, thì đó chính là tự ngã, là tàn dư của tự ngã, vì chỉ có tự ngã mới muốn nắm chặt. Con yêu dấu, thày bảo đảm với con, là khi con tới tầng này của khóa tự điều ngự, con đã tới điểm con chào đón tăng triển, con muốn tăng triển, con ao ước tăng triển.

Tại sao không chào đón tăng trưởng một cách ý thức và nhận ra rằng tăng trưởng có nghĩa là buông bỏ cái cũ? Sẽ luôn luôn có cảm giác muốn giữ lại điều gì đó, nhưng khi con biết có ý thức là đây chỉ là tự ngã (nó không có tầm quan trọng lớn, nó chỉ có mặt), con chỉ nhìn nó mà không cần đi sâu vào nó và nói: “Ôi, tôi biết nó là gì, nhưng tôi vẫn buông bỏ nó. Tôi vẫn buông bỏ cái ta cũ này, cái viễn kiến cũ này, hãy đi đi.”

Đó là lúc con khiến con đường tu trở nên dễ dàng vì mỗi bước trở nên một niềm vui lớn hơn, thay vì là một cuộc chiến đấu liên miên với tự ngã (với “kẻ đứng trên ngưỡng cửa”, như các thày đã gọi nó) lúc nào cũng muốn giữ con ở tầng cũ và không muốn buông con ra. Thật đúng là tự ngã hay kẻ đứng trên ngưỡng cửa không muốn buông con ra, nhưng điều này không có nghĩa là con không thể buông ra. Khi con buông nó ra, thì nó biến mất, và con tiếp tục tiến bước.

Viễn kiến vừa chủ động vừa thụ động

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 10/1/2017.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion, Thượng sư của Tia thứ Năm. Mục đích của quyển sách này là cho con kích thích bên ngoài, lời nhắc nhủ bên ngoài, giúp con nắm vững và hội nhập các bài học mà con đã học ở cõi ê-the khi con tham dự khóa nhập thất của thày ở tầng thứ năm của khóa tự điều ngự. Trong bài giảng đầu này, chúng ta sẽ bắt đầu bằng cách xem xét một khía cạnh của Tia thứ Năm thường được gọi là viễn kiến.

Trong các kinh sách cổ có câu nói: “Nếu không có viễn kiến thì con người sẽ tử vong”. Đây là một câu có giá trị đáng ngờ vì có ai mà không có viễn kiến? Ai ai cũng có một viễn kiến, dù họ có nhận biết điều này hay không, dù họ có được coi là người nhìn xa thấy rộng hay không. Con người ai ai cũng có một viễn kiến. Vấn đề là con người không biết mình có một viễn kiến và không biết là họ làm gì với nó. Thực ra thì con người không tử vong nếu không có viễn kiến, nhưng ta cần xem xét là con người có loại viễn kiến nào.

4.1 Viễn kiến không thụ động

Con là người quen thuộc với giáo lý của các thày biết ít nhiều về nhị nguyên và bất nhị. Do đó, chắc con thấy rõ là câu trên phải là: “Nếu có viễn kiến nhị nguyên thì con người sẽ tử vong”. Nếu con người không có viễn kiến Ki-tô, là viễn kiến dựa trên duy nhất, thì lúc đó họ sẽ tử vong. Vì sao lại như vậy? Đó là vì chính khả năng nhìn giúp con phóng chiếu lên tấm gương vũ trụ. Như các thày đã nói nhiều lần: “Tấm gương vũ trụ có thể làm được gì ngoại trừ phản chiếu lại cho con điều mà con phóng chiếu lên nó?” Điều này dẫn tới khai ngộ cốt yếu mà con sẽ gặp ở tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày.

Đại đa số con người trên hành tinh này đã lớn lên với một cái nhìn sai lạc về viễn kiến. Họ cho rằng viễn kiến thụ động. Nếu con nhớ lại điều con học ở nhà trường thì con được dạy là hai mắt là dụng cụ nhận tín hiệu. Chúng nhận ánh sáng đến từ môi trường chung quanh, và từ đó con nhìn ra những gì trước mặt mình. Con yêu dấu, điều này hoàn toàn sai sự thực. Con không thấy những gì trước mặt con.

Các thày đã cố giảng điều này nhiều lần, nhưng ở tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày, con đơn giản không thể tiến lên bước kế tiếp nếu con không thực sự hiểu điều này. Hiểu nó trên mặt lý thuyếttrí năng không đủ. Con cần thấu hiểu nó như một trải nghiệm toàn diện chuyển đổi tâm thức của con và khiến con nhận ra trong cả bốn thể phàm của mình là tầm nhìn không phải là một khả năng thụ động. Nó chính thực là một khả năng chủ động, qua nó con liên tục phóng chiếu ra ngoài, và điều gì con phóng chiếu ảnh hưởng rất nhiều điều con thấy.

Quả thực là điều con phóng chiếu ra ngoài ảnh hưởng những gì con tưởng đến với con từ bên ngoài. Điều con thấy không phải là điều đến với con từ bên ngoài; điều con thấy (và các khoa học gia vật lý lượng tử đã bắt đầu nhận ra điều này) là cái gì đã được sản xuất trong tâm của con. Con không có cách chi tiến lên tới tầng tâm thức 96 nếu con không thấu hiểu và hội nhập thực trạng này. Ta có thể nói là công việc chính của con trong phần còn lại của khóa học tự điều ngự này là làm sạch, làm sáng tỏ viễn kiến của con để con nhận ra những điều mà con phóng chiếu ra ngoài. Con làm chủ những gì con phóng chiếu ra, do đó con làm chủ những gì được gửi trả về con từ tấm gương vũ trụ. Tấm gương chỉ phản chiếu lại điều con phóng chiếu ra.

4.2. Một ảo tưởng vi tế trên đường tu

Đây chính thực là một trở ngại lớn cho nhiều học viên đến khóa nhập thất của thày. Rất có thể là con đã tiến triển trên con đường tu tới điểm này, con đã trải qua các khai ngộ dưới sự hướng dẫn của bốn vị Thượng sư đầu, nhưng con vẫn chưa buông bỏ được một trong những ảo tưởng vi tế nhất trên đường tâm linh. Ảo tưởng này đến thẳng từ tâm thức sa ngã. Giê-su đề cập đến ảo tưởng này khi thày nói: “Vương quốc thiên đàng chịu sự bạo lực, và người hung hãn muốn chiếm nó bằng vũ lực.”

Các sa nhân đã từ rất lâu tìm cách chiếm thiên đàng bằng vũ lực. Con không thể chiếm thiên đàng bằng vũ lực, và do đó lời của Giê-su đã không được ghi chép đúng đắn, vì dĩ nhiên là thày biết đâu là sự thực. Con không thể chiếm thiên đàng bằng vũ lực vì con không thể vượt quá bốn tầng của bầu cõi chưa thăng thiên khi con còn đang hiện thân ở một trong bốn tầng này. Con không thể nào ảnh hưởng tới cõi tâm linh.

Điều con có thể làm được là dùng lực để ép dòng chảy của năng lượng đi về một hướng giúp con có một số quyền năng, một số khả năng cao hơn những gì được coi là bình thường trên hành tinh này. Như các thày đã nói trước đây, dùng lực để đạt được một số khả năng là điều hoàn toàn có thể làm được. Như thày Serapis Bey đã giảng, có một số thày giả đã tự tạo cho mình một số khả năng làm chóa mắt đệ tử. Con yêu dấu, nếu thày là người đi tìm một vị thày tâm linh, thì thày sẽ không chọn người có một số khả năng nào đó, nhưng thày sẽ chọn vị nào có viễn kiến tinh khiết nhất. Thày muốn nói gì khi thày nói “viễn kiến tinh khiết”? Điều này sẽ trở nên sáng tỏ khi con đọc qua từng phần của quyển sách này.

Ở đây thì thày muốn nêu ra ý niệm là có học viên đến tầng đầu của khóa nhập thất của thày mà vẫn chưa buông bỏ được ý tưởng là mục đích của khóa học tự điều ngự này, hay của con đường tâm linh nói chung, là đạt được một số khả năng, một số khả năng phi thường. Điều tàn hại hơn nữa là nhiều người vẫn chưa hiểu, chưa thực sự nhận ra là mục đích con đường tâm linh không phải để đạt một khả năng máy móc. Thày biết rõ điều này vi tế, nhưng thày muốn con suy ngẫm sự khác biệt vi tế này.

Thày có nói là vũ trụ là một tấm gương toàn vũ. Nó chỉ có thể phản chiếu lại con những gì con phóng chiếu ra. Nghe giống như vũ trụ vận hành một cách máy móc. Quả thực là ta có thể nói là vũ trụ cũng vận hành máy móc như một tấm gương, vì những gì con phóng chiếu tới Ánh sáng Mẫu-Vật, thì Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ khoác lên hình tướng của hình ảnh mà con phóng chiếu một cách khá máy móc. Ánh sáng Mẫu-Vật không sáng tạo khi gửi lại con những gì con phóng chiếu ra. Ánh sáng Mẫu-Vật gửi lại con y như những gì con phóng chiếu ra. Điều vi tế là không có cách gì để gian lận tiến trình này – con có hiểu điều này chăng?

4.3 Không thể gian lận cách vận hành của vũ trụ

Có rất nhiều đạo sư và thày giáo trong các lãnh vực Thời đại Mới, Thái độ Tư tưởng Tích cực, giúp mình thêm ý chí (hay bất kỳ tên gọi nào khác) tìm cách khiến con tin rằng nếu con theo vài bước giản dị, học một số công thức, đọc một số lời khẳng định, thì con có thể xoay đổi đời mình một cách nhanh chóng. Chỉ cần áp dùng vài phương cách giản dị là con có thể thu hút một người bạn đời tuyệt vời nhất, có được tất cả tiền bạc mà con mong muốn và bất kỳ điều gì khác mà con ao ước. Điều này không thể xảy ra – có đúng vậy chăng, con yêu dấu? Không có cách chi gian lận cách vận hành của vũ trụ.

Con có thể dùng tâm ý thức và gia nhập một khóa học được cống hiến và tập trung tâm ý thức của mình vào một viễn kiến tích cực của đời sống. Con có thể vẽ ra một họa đồ tìm kho tàng, viết ra thật rõ những gì con muốn, làm theo các bước thực hành và tập trung viễn kiến của mình vào một mục đích nào đó. Con có thể đem hết năng lượng mà con có và phóng chiếu viễn kiến đó lên tấm gương vũ trụ, nhưng nếu con chỉ làm điều này với tâm ý thức của con thì kết quả sẽ chỉ giới hạn. Vì con vẫn phóng chiếu một viễn kiến khác – và có thể là một viễn kiến đối ngược – với tiềm thức của con, tức là ba tầng tâm xúc cảm, tư tưởng và bản sắc. Như các thày đã giảng, thay vì con giải quyết các lập trình hay phàm linh nội tại ở ba tầng cao của tâm, thì con tạo ra một lập trình mới, một phàm linh mới, và lúc đó vấn đề là phàm linh nào mạnh hơn. Cho dù có một phàm linh mạnh hơn, nhưng các phàm linh kia vẫn còn đó và vẫn tiếp tục phóng chiếu ra ngoài.

Ta có thể trở lại câu nói trong kinh sách cổ: “Nếu không có viễn kiến thì con người sẽ tử vong”. Ta nay có thể nói: “Nếu không có viễn kiến thuần nhất thì con người sẽ tử vong”. Con phóng chiếu ra điều gì nếu con không có một viễn kiến đồng nhất? Con gửi đi “tín hiệu lộn xộn”, theo lối nói bình dân, và khi đó thì tấm gương vũ trụ sẽ phản chiếu lại con điều gì? Dĩ nhiên là tấm gương vũ trụ sẽ phản chiếu lại một hoàn cảnh bên ngoài phản ánh điều này. Đó là vì sao thày nói không có cách nào gian lận cách vận hành của vũ trụ, không có cách máy móc nào. Con không thể tạo ra một công thức máy móc cho con hoàn cảnh mà con mong muốn. Như thày có nói, con có thể tạo ra một số công thức cho con một số khả năng tạm thời. Tỷ dụ, con có thể, như một số người đã làm, thu hút về mình tài sản đồ sộ trong kiếp sống này.

Nhưng điều đó không có nghĩa là họ đã tránh được Luật Nhân Quả. Do đó, trong một kiếp sống tới, họ sẽ phải trải nghiệm đối cực kia của viễn kiến bất quân bình mà họ đã phóng chiếu ra. Điều thày muốn nói ở đây là: ở tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày, học viên cần nhận ra rằng tất cả những hứa hẹn giả đang hiện hành là giả. Và con cũng cần hiểu rõ tại sao chúng là giả. Các hứa hẹn đó giả vì chúng khiến con tạo ra một lập trình mới với tâm ý thức của con nhưng chúng không giải quyết những lập trình khác nơi các tầng khác của tâm. Chúng giả vì con phải chọn lựa con muốn gì trong cuộc đời. Con muốn tự điều ngự hay con muốn hoàn cảnh vật lý, vật chất hay kinh nghiệm nào đó trên trái đất?

4.4. Điều ngự thế giới hay điều ngự cái ta

Con yêu dấu, thày vừa nói gì đó? Thày vừa nói là vũ trụ là tấm gương, nó phản chiếu lại con y hệt những gì con phóng chiếu vào nó. Con có thể nhìn một số người và thấy là họ có động lực cao (hay ta cũng có thể nói là khả năng điều ngự cao) giúp họ có được đúng hoàn cảnh vật lý mà họ mong muốn. Con có thể nhìn vào những người đã tạo ra hay thu hút được tài sản to lớn. Họ sống trong một dinh thự đẹp dẽ, họ có người phối ngẫu xinh đẹp, họ có những hoàn cảnh bên ngoài tuyệt hảo và mọi chuyện nằm dưới tầm kiểm soát của họ y như ý họ muốn. Con có thể thấy điều này và nói: “Tôi cũng muốn sống một cuộc đời mà không phải lo thiếu tiền bạc, có được một căn nhà xinh đẹp và có mọi chuyện dưới tầm kiểm soát của mình.” Con có thể nhìn các người đó và nói: “Tôi cũng muốn được như vậy. Đây chắc hẳn là tự điều ngự nếu tôi thể hiện được những hoàn cảnh đó.”

Con yêu dấu, nếu đó là thái độ của con, nếu đó là điều con ao ước, thì không có gì sai trái với việc đó cả. Như các thày đã nói, trái đất là một bộ máy tạo kinh nghiệm nơi con có thể có một số trải nghiệm cho tới khi con chán ngán chúng và sẵn sàng tiến lên bước khác. Như con chắc đã bắt đầu nhận ra, mục đích của khóa tu tự điều ngự này không phải là cho con quyền năng biểu hiện đúng những hoàn cảnh vật lý mà con muốn. Chuyện quan trọng không phải là biểu hiện hoàn cảnh vật lý nào đó; chuyện quan trọng là tự điều ngự. Điều khác biệt là gì? Điều khác biệt rất giản dị.

Sa nhân đưa ra lập luận dối trá rằng khi con có một số hoàn cảnh vật chất nào đó, thì lúc đó con sẽ hạnh phúc, lúc đó con sẽ được bình an trong tâm. Họ đưa ra lập luận dối trá này vì họ tin điều đó là thật. Họ không thể tránh tin điều đó vì họ ở trong tâm thức nhị nguyên. Trong nhị nguyên, con thấy mình là sinh thể tách biệt có nghĩa là con thấy có sự phân chia giữa điều ở bên trong tâm mình và ở bên ngoài. Con (luôn luôn) kinh nghiệm rằng hoàn cảnh bên ngoài tâm ảnh hưởng trạng thái tâm của con.

Do đó, con rơi vào bẫy của ảo tưởng cho rằng cách duy nhất để làm chủ trạng thái tâm của mình là làm chủ ngoại cảnh. Một khi con có được ngoại cảnh như ý muốn, thì trạng thái tâm sẽ tự động theo sau, sẽ theo sau một cách máy móc. Đây là điều Giê-su ám chỉ khi thày nói về ý muốn dùng bạo lực để cưỡng chiếm thiên đàng. Khi thày nói thiên đàng, dĩ nhiên là thày muốn nói tới tâm Ki-tô, trong đó con hoàn toàn bình an. Đây là ý muốn dùng bạo lực để đạt được bình an nội tâm bằng cách ép buộc ngoại cảnh phải tuân theo tầm nhìn của họ. Tầm nhìn đó đưa ra các hoàn cảnh lý tưởng mà họ cho rằng sẽ đem lại sự bình an nội tâm một cách máy móc.

Dĩ nhiên các thày đã nói nhiều lần là con không phải là một sinh thể máy móc. Do đó, bất kỳ ngoại cảnh như thế nào chăng nữa, con không nhất thiết được bình an. Ngoại cảnh không thể nào tạo ra bình an nội tâm vì bình an nội tâm và hạnh phúc là một điều kiện nội tâm. Đó là lý do con đang theo học một khóa tu mà các thày gọi là khóa tự điều ngự. Tự điều ngự không có nghĩa là điều khiển ngoại cảnh, những điều kiện bên ngoài cái ta, mà là điều khiển hoàn cảnh nội tâm, những hoàn cảnh bên trong cái ta. Con có thể nghĩ là con đã nghe các thày nói điều này rồi – và quả thực các thày có giảng điều này rồi. Nhưng con có thực sự thể nhập nó chưa? Con có khóa chặt tâm mình vào điều đó chưa? Con có nhận ra trong cả bốn tầng tâm của con chưa? Cái Ta Biết của con đã bước ra khỏi động lượng cũ xưa muốn tìm cách kiểm soát thế giới bên ngoài chưa? Con đã bước ra khỏi ham muốn cũ xưa muốn có một số hoàn cảnh nơi thế giới bên ngoài chưa?

4.5. Không có công thức máy móc

Đó là lý do vì sao thày nói đường tu không máy móc. Con không thể chế ra một công thức tạo ra một số ngoại cảnh nào đó và sau đó sẽ tự động đạt được bình an nội tâm. Như thày có nói, con có thể chế ra một công thức tạo ra một số ngoại cảnh nào đó. Đó là điều có thể làm được. Đây không phải là điều dễ làm cho đa số con người trên hành tinh này, nhưng con đã thấy một số người dùng tâm của họ phóng chiếu ra một viễn kiến, và qua đó thu thập được nhiều tài sản, quyền lực hay những thứ khác.

Nhưng điều mà con có thể thấy, nếu con dùng viễn quan Ki-tô, là hầu hết những người đó là sa nhân đã qua một thời gian rất, rất dài xây dựng được động lực kiểm soát thế giới vật chất. Điều họ làm được giống như sự chuyển động của một quả lắc. Khi quả lắc di chuyển qua một phía thì họ dần dần có càng ngày càng nhiều kiểm soát trên ngoại cảnh. Khi quả lắc tới điểm xa nhất mà động lực có thể đảy nó tới, thì họ có vẻ đạt được quyền lực và tài sản to lớn trên trái đất. Nhưng họ tất nhiên sẽ tới điểm bất quân bình cao nhất mà họ có thể tạo ra trong vũ trụ, và quả lắc sẽ bắt đầu di chuyển về hướng kia. Họ sẽ càng ngày càng có ít kiểm soát trên ngoại cảnh, và họ có thể sẽ có nhiều kiếp sống trong đó họ hầu như không kiểm soát được điều gì trong cuộc sống của họ. Con sẽ thấy là những người uy quyền ngày hôm nay sẽ không phải là người uy quyền trong tương lai, và họ cũng không là người uy quyền trong quá khứ (ít nhất là trong quá khứ xa).

Nếu con muốn có một kinh nghiệm nào đó, nếu con ao ước có được cái có vẻ là sự điều ngự vật chất, thì thày không lên án con, thày không chỉ trích con. Thày nhìn nhận là cách duy nhất để con vượt qua mong ước đó là con tìm cách thể hiện nó cho tới khi con chán ngán kinh nghiệm đó. Thày sẽ chỉ giản dị nói với con: “Thày không phải là vị thày mà con cần ở điểm này trên con đường tu của con. Các vị Thượng sư khác cũng vậy. Khóa học tự điều ngự này không phải là điều con cần ở điểm này. Con cần đi tìm một vị thày khác có thể cho con điều con mong ước.” Quả thực là có học viên đã tới điểm này, sau khi đã học xong bốn tia sáng trước, và nay phải đối mặt với thực tại này và thốt nhiên nhận ra là con đường tu này không phải điều họ muốn ở điểm này trên tiến trình tiến hóa toàn vũ của họ – và họ quyết định bỏ đi.

Sau đó, dĩ nhiên là họ sẽ được tiếp đón niềm nở trở lại khi họ sẵn sàng trở lại. Họ sẽ phải đi xuống và bắt đầu trở lại với Chân sư MORE, nhưng tuy thế các thày không lên án ai, không bao giờ đuổi ai đi. Con thấy chăng, thày cần phải khiến học viên đối diện chính mình ở điểm này, ở tầng đầu của khóa nhập thất của thày, để giúp họ soi rõ viễn kiến của họ về con đường tâm linh là gì, viễn kiến của họ về khóa học này là gì.

Lúc đó họ có một chọn lựa: họ có sẽ thăng vượt viễn kiến của họ và thuận theo mục đích của khóa học, hay họ đi nơi khác và theo đuổi viễn kiến mà họ nghĩ cần thể hiện trong đời sống của mình? Khi học viên vượt qua được thử thách này và quyết định: “Có”, họ có muốn tự điều ngự, họ có muốn theo học khóa tu này, họ có muốn theo học với thày, thì chúng ta có thể tiếp tục. Lúc đó chúng ta tiến tới thử thách cam go khác mà con phải đối mặt ở tầng thứ nhất này của khóa nhập thất của thày. Đây là điều mà thày đã bắt đầu mô tả, khi thày nói là con cần nhận ra viễn kiến không thụ động, mà là một khả năng rất chủ động.

4.6. Làm sao tâm khiến viễn kiến bị lệch lạc

Bây giờ thày muốn con nhớ lại một số điều con học ở nhà trường. Con học rằng trong thế giới có một số đồ vật, như bàn, ghế, đường xá, xe cộ, cây cối, núi, sông, đại dương, trái đất vân vân. Khi con nhìn vào các đồ vật đó, ánh sáng chiếu vào chúng và dội về mắt con. Ánh sáng phản chiếu đó dội vào màng võng mạc trong mắt con, và qua đó con thấy đồ vật đó. Bây giờ, ta phải xem xét mô hình này để đi quá những gì con học ở nhà trường.

Trước tiên, ta cần chất vấn rằng có thực sự những đồ vật trong thế giới hay không, ít ra là những đồ vật theo nghĩa con đã được dạy dỗ. Thày không nói là cả thế giới vật chất không hiện hữu hay được tạo nên bởi viễn kiến của con. Quả thực là đồ vật trong thế giới bên ngoài.

Ta có thể chất vấn là các đồ vật đó rắn chắc hay là cái gì khác. Khi con học giáo lý của các thày, hay ngay cả khi con học đôi chút về vật lý lượng tử, thì con thấy là ngay cả các khoa học gia cũng đã bắt đầu đặt nghi vấn là có những đồ vật thực sự rắn đặc hay không. Họ biết rằng, khi ta nghĩ sâu về vấn đề, là mọi thứ trong vũ trụ được cấu tạo bởi sóng năng lượng rung động. Con không nhất thiết thấy một đồ vật, con thấy một trường năng lượng. Đây là một điều quan trọng cần ghi nhớ, và thày sẽ trở lại điểm này trong các bài giảng tới.

Câu hỏi mà thày muốn con suy ngẫm ở đây là: “Những tia sáng dội vào mắt con thực sự từ đâu tới?” Chúng bay bay chơi vơi trong không gian, hay chúng phát xuất từ mặt trời hay từ một nguồn ánh sáng nhân tạo? Con dĩ nhiên biết là trong bóng tối con không thấy được gì hết. Phải chăng là đồ vật không có đó khi tối đen? Không phải đâu, dĩ nhiên là chúng có đó. Trường năng lượng có đó, vậy thì các tia ánh sáng đập vào mắt con sau khi đã dội vào đồ vật từ đâu tới? Ở đây, ta cần nhận ra là có khía cạnh vật lý và phi vật lý của nhãn quan, ít nhất là theo định nghĩa mà con hiện có về từ “vật lý”.

Nếu con là người tâm linh, thì con thể nào cũng có nghe đến quan niệm “nhãn quan thứ hai” hay “khai mở con mắt thứ ba” giúp con người thấy được trường năng lượng bao quanh con người hay đồ vật. Điều con cần nhận ra là lúc nào cũng có sóng ánh sáng tiết ra từ bất cứ đồ vật nào. Một đồ vật là một trường năng lượng và nó liên tục tỏa ra tia điện từ, ngay cả ban đêm. Chuyện dĩ nhiên xảy ra là khi mặt trời ló dạng hay khi con bật lên ngọn đèn điện là lúc đó có những tia điện từ và con mắt có thể nhận được, và do đó con thấy được đồ vật.

Con yêu dấu, ta hoàn toàn có khả năng thấy ban đêm mà không cần đeo những cặp kính dị hợm khiến mọi vật hiện ra với màu xanh. Việc thấy được trong bóng tối rõ như con thấy được ban ngày với con mắt vật lý là điều hoàn toàn có thể làm được. Tại sao con không thấy được hào quang, tại sao không thấy được ban đêm? Đó là vì con không thấy được những gì con mắt thấy. Điều mà thày đang nói là có nhiều tia ánh sáng đi vào đôi mắt vật lý của con hơn là con thấy. Vì sao đa số con người không thấy được hào quang bao quanh mỗi người? Không phải là vì con mắt của họ không nhận được những tia ánh sáng từ hào quang của người khác; mà là vì tâm của họ lọc đi những tia sáng được coi là không liên quan hay thừa thãi.

4.7. Bốn tầng của nhãn quan

Chúng ta hãy xem xét chuyện gì xảy ra khi một tia ánh sáng đập vào con mắt vật lý. Như các con đã được dạy trong nhà trường, tia sáng đập vào màng võng mạc (retina) và màng võng mạc gửi một tín hiệu đến vùng vỏ não thị giác (visual cortex) trong não bộ. Bài học nhà trường của con có lẽ chấm dứt nơi đây, nhưng con cần nhận ra đây là một tiến trình rất phức tạp và tinh vi. Con biết là trong một máy ảnh kỹ thuật số có một bộ cảm biến (sensor), và khi ánh sáng đập vào bộ phận này, nó biến tia ánh sáng thành một tín hiệu mà một máy điện toán có thể đọc được. Con cũng biết là máy điện toán được thiết kế dựa trên một hệ thống nhị phân gồm tín hiệu bật hay tắt. Nói cách khác, máy điện toán không biết các sắc thái vi tế, các chuyển màu tế nhị; nó chỉ biết bật hay tắt, số không hay số một, chỉ có hai trạng thái mà thôi. Màng võng mạc trong con mắt cũng hoạt động tương tự nhưng nó có hơn hai trạng thái; nó không nhị phân.

Đúng thực là màng võng mạc có thể xử lý bảy mức độ hay bảy chuyển màu vi tế. Điều này có nghĩa là khi màng võng mạc gửi tín hiệu về vùng vỏ não thị giác, nó không gửi tín hiệu bật tắt, mà gửi bảy sắc thái màu, bảy ghi mã tín hiệu. Khi màng võng mạc chuyển tia ánh sáng (hay ấn tượng của tia ánh sáng) thành tín hiệu mà não bộ có thể xử lý, thì nó gửi những tín hiệu này theo mạng lưới dây thần kinh về vùng vỏ não thị giác. Chuyện xảy ra trong vùng vỏ não thị giác lại là một quá trình phức tạp và tinh vi hơn nữa. Không có một đối chiếu một với một giữa những gì vùng vỏ não thị giác nhận được từ màng võng mạc và những gì con thấy. Thật sự là cũng không có một đối chiếu một với một giữa tia ánh sáng đập vào màng võng mạc và tín hiệu mà màng võng mạc chuyển về não bộ.

Điều con cần nhận ra là sự thực đơn giản là con không thấy bằng hai mắt mà con thấy bằng bộ óc. Bây giờ con cần phải tiến xa hơn và nhận ra rằng khía cạnh vật lý của nhãn quan (xảy ra trong não bộ) chỉ là khía cạnh thô thiển nhất của nhãn quan. Nó là nền tảng của nhãn quan, nhưng chỉ là một phần rất nhỏ của những gì nhãn quan thực sự bao gồm. Có một khía cạnh của nhãn quan liên hệ đến thể cảm xúc, có một khía cạnh khác liên quan đến thể tư tưởng và một khía cạnh khác liên quan đến thể bản sắc. Con không thấy bằng mắt, con không thấy bằng não bộ, con thấy bằng cả bốn thể phàm.

Thể cảm xúc của con là gì? Như con có thể tưởng tượng, nó là một trường năng lượng. Bây giờ thì con có thể nhớ lại một điều khác mà con có thể đã học hay không học ở nhà trường, nhưng các thày cũng đã giảng điều này, và nó rất giản dị. Ánh sáng điện từ hay sóng điện từ là làn sóng. Khi các làn sóng tương tác, tùy theo đặc tính rung động của chúng, chúng có thể giao thoa (interference) với nhau hay đi xuyên qua nhau. Khi hai làn sóng giao thoa, thì đặc tính của hai làn sóng quyết định mô thức giao thoa và do đó kết quả của sự tương tác.

4.8. Nhãn quan xảy ra như thế nào ở tầng vật lý

Điều thày muốn nói là như sau: con có một tia điện từ đập vào mắt. Nó đập vào màng võng mạc, mà bản chất thực cũng là một trường năng lượng. Một mô thức giao thoa được tạo ra với bảy sắc thái màu. Kết quả của mô thức giao thoa đó là một tín hiệu được gửi tới não bộ, tới vùng vỏ não thị giác. Khi tín hiệu này tới vùng vỏ não thị giác, cũng là một trường năng lượng, thì một mô thức giao thoa mới được tạo ra, và những gì vùng vỏ não thị giác xử lý là kết quả của mô thức giao thoa đó. Rất có thể (và điều này thực sự xảy ra với đại đa số con người) là vùng vỏ não thị giác cũng ảnh hưởng điều mà con thấy. Có một sự diễn giải được đặt lên những gì con thấy ở tầng vật lý. Thày cho con một thí dụ giản dị. Chắc hẳn là con cũng đã thấy những ảo thị đơn giản. Ảo thị đơn giản nhất gồm hai đường thẳng, một đường có hai mũi tên chĩa ra ngoài, và đường kia có hai mũi tên chĩa vào trong. Khi con nhìn hai đường thẳng đó, con có cảm tưởng là một đường dài hơn đường kia, nhưng khi con lấy thước đo thì hai đường có chiều dài hoàn toàn như nhau. Chuyện xảy ra là hướng của hai mũi tên đã đánh lừa con mắt của con và gây cho con cảm tưởng là một đường dài hơn đường kia.

Đây là điều mà vùng vỏ não thị giác áp đặt lên nhãn quan của con. Có một số lập trình trong vùng vỏ não thị giác liên quan đến cõi vật lý, thế giới vật chất, cách con nhìn đồ vật – thấy nó là gì. Những điều này đương nhiên là phức tạp hơn đường thẳng; chúng liên quan đến hình dạng, khả năng giúp con nhận diện một hình dạng. Thí dụ, nếu con trở về thời người cổ xưa sống trong rừng và có thể bị ác thú tấn công, thì vùng vỏ não thị giác của họ rất, rất nhanh nhận ra hình dạng nào là một mối đe dọa. Lúc đó, não bộ có thể gửi tín hiệu tới cơ bắp để tháo chạy trước khi tâm ý thức có thì giờ phản ứng lại hoàn cảnh đang xảy ra.

Con thấy là ở đây có khía cạnh thực tại thực tiễn. Có những hoàn cảnh trong đời khi con cần phản ứng nhanh đến độ con không thể lấy một quyết định ý thức, con cần phải phản ứng bằng tiềm thức. Các con đều làm chuyện này khi con lái xe, hay đi xe đạp. Phản ứng xảy ra ở tầng vật lý thuần túy.

Không có gì sai trái với sự kiện này. Tuy nhiên, con cũng cần nhận ra là vì trái đất có một quá trình rất dài chìm đắm trong tâm thức nhị nguyên, nên tất cả mọi người đều có một số điều, mà con có thể gọi là bản năng, lập trình trong não bộ của họ. Trên con đường tâm linh, con sẽ tới một điểm, khi con đã đi quá tầng 96, khi con cần phải tháo gỡ các lập trình này.

Thày giảng phần này để cho con nhận ra sự kiện là ngay ở tầng vật lý, tầng của não bộ, đã có những yếu tố khiến nhãn quan của con bị bóp méo. Có một sự diễn giải được áp đặt lên những gì con thấy. Diễn giải đơn giản nhất là: “Hoàn cảnh trước mặt có là một mối nguy hiểm hay không?” Nhưng có rất nhiều diễn giải vi tế khác.

4.9. Nhãn quan ở các tầng cao hơn

Khi tín hiệu đã đi qua vùng vỏ não thị giác, thì mô thức giao thoa tạo ra ở đó được gửi tới thể cảm xúc. Thể cảm xúc của con cũng là một trường năng lượng, do đó ở đó lại có thêm một tương tác, một mô thức giao thoa. Điều mà con thấy ở tầng cảm xúc sẽ bị ảnh hưởng bởi những gì sẵn có trong thể cảm xúc của con. Tức là những lập trình ở trong đó, những dạng năng lượng ở trong đó. Nếu con có nhiều sợ hãi trong thể cảm xúc của con, con sẽ có khuynh hướng diễn giải nhiều hoàn cảnh như đe dọa tuy chúng không nhất thiết là đe dọa. Đó là lý do vì sao con thấy hai người đối diện cùng hoàn cảnh nhưng phản ứng khác nhau, vì một người có nhiều sợ hãi trong thể cảm xúc hơn người kia.

Cũng như vậy, sau khi đã tương tác ở thể cảm xúc, xung lực tới thể tư tưởng. Ở đó, nó lại tạo nên một mô thức giao thoa, và sau đó nó tới thể bản sắc. Bây giờ, con – là cái Ta Biết – con thấy gì? Con thấy xung lực ở điểm nào? Điều này tùy thuộc con, cái Ta Biết, đang chú tâm vào phần nào của bốn thể phàm. Có những người chú tâm vào cõi vật lý, vào xác thân vật lý. Đó thường là những người đã trải qua những hoàn cảnh nguy hiểm cho xác thân họ. Họ có thể là quân sĩ trong chiến tranh, họ có thể là người bất lương lúc nào cũng cảm thấy bị đe dọa, hay họ là người thổ dân sống trong rừng rậm. Những người này hoàn toàn chú tâm vào cõi vật lý đến độ họ không thấy (ít nhất là một cách ý thức) những gì xảy ra ở các tầng cao hơn. Ta có thể nói là chuỗi nhãn quan của họ ngưng ở tầng vật lý.

Sau đó, lại có những người chú tâm vào cõi xúc cảm, và đương nhiên là họ thấy mô thức giao thoa được tạo ra khi xung lực tới thể cảm xúc. Họ không thấy điều xảy ra khi nó đi lên các tầng cao hơn, ít ra là một cách ý thức, vì họ không suy nghĩ một cách có ý thức. Sau đó, đương nhiên là lại có những người chú tâm vào cõi tư tưởng, và có người chú tâm vào cõi bản sắc. Tất cả các học viên tới khóa nhập thất của thày đều chú tâm vào tầng tư tưởng cao hay tầng bản sắc. Con không thể đi trên con đường tâm linh tới điểm này và không vượt qua tầng vật lý và cảm xúc. Con không thể hoàn toàn chú tâm vào cảm xúc, chẳng hạn, và đạt được các khai ngộ của thày Serapis Bey.

Điều mà con cần nhận ra, và đây là điều thày muốn con suy ngẫm trong bài giảng này, là thể tư tưởng và thể bản sắc của con sẽ bóp méo tầm nhìn của con. Thày biết là điều này có thể khiến con lo sợ hay khó hiểu. Nếu con đang đeo một cặp kính màu vàng và không biết mình đang đeo một cặp kính màu vàng, thì làm sao con có thể nhìn mà không qua cặp kính nào? Dĩ nhiên, đây là công việc của thày, là vị thày hướng dẫn con qua bảy tầng của khóa nhập thất này, để giúp con dần dần nhận rõ hơn là con có một phin lọc, và con có khả năng bỏ phin lọc ra và đạt được tầm nhìn thanh khiết hơn, rõ ràng hơn.

Thày không muốn con hoảng sợ, cảm thấy chán nản hay cảm thấy đây là một công việc không thể làm được. Dĩ nhiên là nó làm được, và thày sẽ khiến nó càng ngày càng dễ làm khi chúng ta tiến thêm trong khóa học này. Điều mà thày muốn con quyết định một cách ý thức là con có muốn theo khóa học này hay con muốn có trải nghiệm khác ở điểm này của đời con. Nếu con muốn trải nghiệm khác thì con cần tìm ra một vị thày có thể cho con kinh nghiêm bên ngoài mà con mong muốn hay một mức độ điều khiển thế giới vật chất nào đó.

4.10. Tự chủ đúng và sai

Con biết rằng khóa học này là khóa học tự-điều ngự. Điều mà sa nhân muốn đạt được là làm chủ thế giới bên ngoài mà không làm chủ thế giới bên trong. Câu nói này thoạt trông có vẻ mâu thuẫn, vì có các thày giả tuyên bố là họ đã đạt được tự chủ, họ làm chủ hoàn toàn hành động và trạng thái tâm của họ. Điều đó có đôi chút thực chất, vì con có thể đạt được một mức làm chủ nào đó trên bốn thể phàm của mình. Đó chính là điều mà các thày giả mà thày đề cập tới đã đạt được. Họ đã đạt được khả năng làm chủ phần nào bốn thể thấp của họ và làm chủ hoàn cảnh bên ngoài của họ.

Con không thể gian lận vũ trụ; nó phản chiếu lại con những gì con phóng chiếu ra. Nếu con muốn có điều kiện nào đó biểu hiện thì con phải kiểm soát được những gì con phóng chiếu ra. Dĩ nhiên có thể có (như con đã từng thấy trong quá khứ) một người biến toàn thể dân chúng thành nô lệ của mình, và do đó họ làm việc để người đó được cung điện nguy nga, một đạo quân hùng mạnh và quyền uy rộng lớn. Điều này cũng cần khả năng điều ngự tâm vì con cần khả năng uốn cong ý chí người khác theo ý chí của mình.

Nhưng đây không phải là tự điều ngự. Đây là điều ngự bốn thể phàm, nhưng không phải là điều ngự cái ta vì cái ta nhiều hơn là bốn thể phàm. Vậy tự điều ngự là gì? Đó là ý định thanh khiết. Thày Serapis nói về ý định thanh khiết khi con tới điểm không còn hung hãn nữa. Khi con không còn tìm cách uốn cong người khác theo ý chí của con bằng cách ép họ phải từ bỏ ý chí của họ, thì lúc đó con có tự điều ngự.

Đó là lúc con không còn muốn ép buộc vũ trụ cho con một số điều kiện dù con không có những điều kiện tương ứng bên trong mình. Con yêu dấu, con có thấy điều thày muốn nói chăng? Vũ trụ là một tấm gương. Nếu con muốn một số điều kiện (mà con cần trong thế giới bên ngoài), con cần phải tạo ra viễn kiến về các điều kiện đó bên trong tâm con, và sau đó con phóng chiếu viễn kiến đó ra Ánh sáng Mẫu-Vật, tấm gương toàn vũ.

Vấn đề là con tạo dựng viễn kiến này qua tâm nhị nguyên, tâm tách biệt hay qua tâm Ki-tô. Thày phải nói con là khi con tới tầng này của khóa nhập thất của thày, con sẽ vẫn còn tàn dư của động lực phóng chiếu qua tâm tách biệt. Điều này có nghĩa là con còn một ít ham muốn, một ít nhu cầu của tâm tách biệt mà con nghĩ (có thể một cách không ý thức) là con cần thỏa mãn. Con cho rằng một phần của con đường tự điều ngự là con thực hiện những ham muốn này và có khả năng biểu hiện các ngoại cảnh đó.

Điều này có thể là tâm điều ngự vật chất, nhưng không phải là tâm điều ngự tâm. Nhưng thực ra thì không có tâm điều ngự tâm, vì điều thày dạy trong khóa tự điều ngự này là dẫn con tới điểm con không có hai tâm. Con chỉ có một tâm mà thôi.

Con có thấy chăng là nhị nguyên dựa trên sự phân chia cơ bản giữa ta và thế giới, giữa ta và người? Khóa học tự điều ngự là khóa học chiến thắng nhị nguyên, chiến thắng tách biệt, đi tới cái mà các thày gọi là Tâm Ki-tô, nơi con thấy cái Duy Nhất của mọi sự sống. Con có thấy điểm khác biệt chăng?

Sa nhân nói rằng: “Ta muốn một số điều kiện biểu hiện nơi thế giới bên ngoài. Ta biết là vũ trụ vận hành như một tấm gương, do đó ta phải tạo trong bốn thể phàm một khuôn đúc của những điều kiện mà ta muốn biểu hiện trong thế giới vật lý, và sau đó ta phải phóng chiếu, với toàn thể sức lực mà ta có, khuôn đúc này lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Một thời gian sau đó thì Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ khoác lên hình tướng đó.” Con có thấy điều họ muốn làm chăng? Như thày có nói trước đây, họ muốn tạo một lập trình mới, một phàm linh mới, và phàm linh này làm gì? Nó tạo ra chia rẽ trong tâm họ.

Điều mà sa nhân gọi là điều ngự là khi họ tạo ra một phàm linh nội tại mạnh mẽ đến độ nó có thể nhất thời khống chế được những phàm linh nội tại khác. Do đó như thày có nói, khi quả lắc đi qua một phía thì họ có thể biểu hiện những điều kiện đó. Nhưng rồi sẽ tới lúc họ giản dị không còn đủ sức mạnh để tiếp tục, và lúc đó phàm linh dũng mãnh mà họ tạo ra sẽ hết hơi. Các phàm linh khác bắt đầu nổi lên lại và tạo ra sự phân rẽ trong tâm, và quả lắc bắt đầu xoay lại phía kia. Lúc đó họ sẽ trải nghiệm nhiều kiếp sống đầy hỗn mang, xáo trộn và địa vị thấp trong thế giới bên ngoài.

Tự điều ngự là khi con dần dần làm tan đi các phàm linh nội tại, làm tan đi sự phân rẽ nội tại. Con thăng vượt các phân rẽ nội tại và càng ngày càng đến gần điểm mà viễn kiến của con dựa trên Duy nhất.

4.11. So sánh Giê-su và các tỷ phú

Ở đây, con nên nhìn một cách ý thức về cuộc đời và sứ mạng của Giê-su, hay của đức Phật. Con hãy so sánh Giê-su hay đức Phật với những người đương thời giàu có và đầy quyền lực nhất, như các nhà tỷ phú, có được tất cả những gì họ mong muốn, có thể kiểm soát mọi khía cạnh cuộc đời bên ngoài của họ. Con có nghĩ chăng là một người giàu có và nhiều quyền lực, người giàu nhất trên thế giới, có khả năng tự điều ngự cao hơn Giê-su hay đức Phật chăng? Người đó – có thể – có nhiều hơn khả năng thể hiện điều kiện vật lý. Nhưng có thực chăng là họ có khả năng đó hơn Giê-su hay đức Phật, vì chắc hẳn Giê-su và đức Phật có khả năng thể hiện bất kỳ điều kiện bên ngoài mà các thày muốn cho chính mình.

Con cần tự đặt câu hỏi: “Vì sao hai vị thày tâm linh đó, có khả năng tự điều ngự, lại sống cuộc đời rất bình dị, và trên mặt vật chất rất nghèo? Họ không có của cải gì, không sở hữu gì. Giê-su không có tu viện, không có cơ sở cố định, mà đi giảng đạo khắp nơi. Tại sao thày không thể hiện những điều kiện mà thày mong muốn? Thày đã không làm vậy, vì trong những kiếp trước thày đã thể hiện nhiều điều kiện bên ngoài và thày đã tới điểm chán ngán kinh nghiệm này và mong muốn một kinh nghiệm cao hơn.

Kinh nghiệm cao hơn này là gì? Đó là con bắt đầu nhìn quá cái ta của mình! Viễn kiến của con không trụ ở cái ta tách biệt, con không chú tâm vào những gì con muốn cho cái ta tách biệt. Con càng ngày càng chú tâm nhiều hơn đến tổng thể, con chiến thắng sự phân rẽ giữa ta và người. Con hoặc thấy cái ta là tất cả hoặc cái ta là một phần của tổng thể. Thành tựu sáng tạo tối hậu cho cái ta là làm điều gì nâng cao tổng thể thay vì tập trung tất cả năng lượng, chú tâm và viễn kiến vào việc nâng cao cái ta tách biệt.

Con có thấy chăng là con sẽ tới điểm bắt đầu nhận ra rằng điều sa nhân muốn là nâng cái ta tách biệt của họ lên trên những người khác? Khi con nhận ra là trong vũ trụ có sự quân bình, có tương tác hành động và phản ứng, có luật Nhân Quả, thì con nhận ra rằng nếu một người nâng mình rất cao so với người khác, thì điều này chỉ có thể thực hiện bằng cách tạo một bất quân bình trong đó người khác bị đè xuống. Sự bất quân bình này không thể tiếp diễn mãi mãi. Đó là lý do vì sao thày nói rằng người nâng mình lên trong một kiếp, sẽ phải bị hạ xuống trong những kiếp tới. Không thể có cách nào khác hơn.

Con nhận rằng trong tâm thức nhị nguyên, con luôn luôn tìm cách đi tới một cực điểm. Khi con làm vậy, con tạo một sự bất quân bình, và sẽ đến một lúc quả lắc đi ngược trở lại để tạo ra một trạng thái quân bằng nào đó. Khi con đạt được viễn kiến Ki-tô, con sẽ thấy là con có thể hành động để nâng một cái ta tách biệt của mình lên mà không đè các ta tách biệt khác xuống không đè những phần khác của vũ trụ xuống. Con thực sự có thể nâng cái ta của mình lên theo một cách mà toàn thể cũng được nâng cao luôn. Đó là viễn kiến Ki-tô. Khi con tới điểm mà năng lượng, sự chú ý và thời giờ của con tập trung vào việc nâng cao Tất cả, thì lúc đó con bắt đầu đạt được tự điều ngự.

4.12. Chuyển đổi tâm mình trước khi thay đổi thế giới

Điều này không có nghĩa con ngưng không là một con người; nó không có nghĩa là con không có một cuộc sống tích cực trong xã hội. Nó không có nghĩa là con không thể có một căn nhà của mình, không thể có một gia đình, không thể có vật sở hữu. Các thày không nói là mọi người trong thế giới hiện đại phải sống như Giê-su. Như các thày đã nói, trong thời đại hiện nay điều quan trọng hơn là con có cuộc sống tích cực trong xã hội.

Con có thể tới điểm mà những gì con sở hữu không sở hữu con, vì đối với con chúng chỉ là phương tiện để đạt được một cứu cánh, chúng không phải là cứu cánh. Con không tập trung vào việc tạo ra một số điều kiện vật chất để tạo ra trạng thái bình an nội tâm. Tâm con tập trung vào việc đạt được bình an nội tâm qua uy lực của chính cái tâm. Khi con điều ngự được cách tạo bình an nội tâm bất kỳ ngoại cảnh như thế nào, thì con đâu cần các ngoại cảnh này nữa? Điều này không có nghĩa là con không thể có chúng, nhưng con có hiểu ý thày giảng chăng? Con không cố gắng có của cải vật chất hầu đạt được một kinh nghiệm nội tâm. Con tập trung vào kinh nghiệm nội tâm và hoàn cảnh bên ngoài sẽ chỉ là hoàn cảnh bên ngoài. Chúng ăn khớp với nhau và con tận dụng chúng, bất kỳ chúng là gì.

Có rất nhiều học viên đến tầng này của khóa nhập thất của thày và họ đã nghe nói đến tầng tâm thức cao hơn, giác ngộ, quả vị Ki-tô, hay bất kỳ tên nào khác. Họ vẫn nghĩ là nếu một số điều kiện bên ngoài không được hội đủ, thì họ không thể thực sự trải nghiệm các trạng thái tâm thức cao đó.

Con yêu dấu, con có thấy chăng là nếu con có thái độ đó, thì con sẽ không bao giờ, không bao giờ đạt tới điểm điều kiện bên ngoài lý tưởng đến độ con có thể nói: “Bây giờ thì tôi có thể biểu hiện một trạng thái tâm thức cao hơn”. Lý do rất giản dị; các thày đã nói nhiều lần: “Tâm thức đi trước biểu hiện vật lý”. Nếu con nghĩ là biểu hiện vật lý phải đi trước – và sau đó tâm thức sẽ theo sau – thì con sẽ không bao giờ đạt trạng thái tâm thức cao hơn. Nếu con đợi điều kiện lý tưởng để con thể hiện trạng thái tâm thức cao hơn, thì điều đó sẽ không bao giờ xảy ra.

Trước khi thày chấm dứt bài giảng, điều mà thày muốn con suy ngẫm (thày biết là thày đã khiến con suy ngẫm nhiều điều rồi, nhưng thày muốn cho con một điều nữa) là: con hãy xét xem con có trong tâm ý tưởng rất tinh tế cho rằng để có thể thực sự đi trên con đường tâm linh, để có thể biểu hiện một trạng thái tâm thức cao hơn, để có thể thật sự chú tâm vào việc tu tâm linh, một số điều kiện bên ngoài, một số điều kiện vật chất phải được hoàn thành. Nếu con có ý tưởng đó, con hãy suy ngẫm chúng là gì và suy ngẫm câu thày nói: Con có thể chờ đợi điều kiện lý tưởng bên ngoài mãi mãi. Con sẽ không biểu hiện được quả vị Ki-tô nếu con không quyết định tập trung sự chú ý vào bên trong. Con sẽ tìm cái đà trong chính mắt con, con sẽ nhìn chính mình, con sẽ chú tâm vào việc đạt tự điều ngự thay vì điều ngự hoàn cảnh bên ngoài hay đợi cho các hoàn cảnh bên ngoài đó hiện ra như phép lạ.

Có người cho rằng con đường tự điều ngự là dùng vũ lực biểu hiện một số điều kiện bên ngoài. Có người cho rằng nó là thụ động chờ đợi một hồng ân Thiêng liêng nào đó biểu hiện các điều kiện đó. Cả hai điều đó sẽ không xảy ra. Thực ra, giữa hai điều đó, điều tốt hơn là tìm cách ép buộc ngoại cảnh và nhận ra rằng ngoại cảnh không cho con bình an nội tâm. Lúc đó con có thể tiến bước nhanh hơn là những người cứ mãi mãi chờ đợi hồng ân Thiêng liêng cho họ điều kiện để họ có thể biểu hiện bình an.

Tâm thức đi trước biểu hiện vật lý. Vì sao? Vì biểu hiện vật lý là phản ánh của tấm gương vũ trụ gửi lại con điều gì con phóng chiếu vào nó. Con hãy đừng chú tâm vào tấm gương, và hãy chú tâm vào những hình ảnh trong tâm mà con phóng chiếu ra ngoài. Con hãy chú tâm vào cuộn phim trong máy chiếu phim, chứ đừng chú tâm vào màn ảnh.

TA LÀ Hilarion, và thày sẽ hoan hỷ giảng cho con bài kế tiếp ở khóa nhập thất của thày.

47 | Phật bất động và Phật hằng động

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 4/7/2016 nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama và thật là một đặc ân cho thày – và đã từng là đặc ân nhiều lần rồi – được niêm đại hội này của chân sư thăng thiên tại Hàn quốc. Thày muốn các con biết là từ cõi thăng thiên, các thày xem hội nghị này là một thành công mỹ mãn. Các con đã thể hiện một quyết tâm đáng kinh ngạc để chung sức với nhau, hòa điệu bản thể với nhau cũng như với các thày. Vì vậy, các thày đã có thể nhân lên các bài chú cùng bài thỉnh, và các con cũng đã có thể nhân lên các bài truyền đọc qua luân xa của mình, khiến cho các bài giảng thâm nhập vào tâm thức tập thể với uy lực thật dõng mãnh. Điều này, các thày vô cùng biết ơn và khen ngợi các con.

Các thày đã ban cho các con rất, rất nhiều lời dạy mà thày tin tưởng các con sẽ tiếp nhận, suy ngẫm, thảo luận, và ngay cả các con cũng có thể viết lách và trao đổi với nhau. Bằng cách đó, các con có thể dùng những lời dạy vỏ ngoài này để đạt một hiểu biết nội tâm sâu sắc hơn về một số điểm tuy không được nói ra thành lời nhưng vẫn được diễn tả ở những tầng mức cao hơn. Điều con cần hiểu là khi các thày đưa ra một bài truyền đọc, những gì được nói lên trong cõi vật lý chỉ là một phần của toàn bộ công việc trao truyền. Hiển nhiên không chỉ có ánh sáng được chuyên chở qua lời nói, mà bài truyền đọc còn mang theo một bộ phận ở tầng mức xúc cảm, lý trí cũng như bản sắc. Nếu con sẵn lòng sử dụng lời nói trong cõi vật lý làm nền tảng, con có thể học cách hòa điệu với các thành phần cảm xúc, lý trí và bản sắc không dễ chuyển đạt qua ngôn từ. Con vẫn có thể có được một cảm nhận trực giác, một trải nghiệm trực quan về toàn bộ những điều mà các thày mong muốn trao truyền qua bài truyền đọc.

Tất nhiên, các thày còn rất nhiều điều muốn nói về – và nói cho – đất nước Hàn quốc cũng như các nước khác tại châu Á. Cho nên các thày mong mỏi sẽ còn những cơ hội khác để trình bày thêm trong tương lai. Nhưng ngay bây giờ, thày muốn các con cảm thấy là hội nghị này tự thân nó đã đầy đủ. Như các thày có nói, mỗi hội nghị đều mang một tiềm năng thấp và một tiềm năng cao, và với hội nghị này thì các con đã vượt cao hơn cả tiềm năng cao. Điều thày muốn làm ở đây là một điều có lẽ đã chưa xảy ra trong hội nghị này vì rất nhiều người trong số các con chưa quen thuộc với giáo lý và đây cũng là lần đầu tiên các con tham dự một hội nghị của chân sư thăng thiên.

47.1. Bị kẹt trong quá khứ hay trong tương lai

Thày mong muốn đem đến cho con một sự thưởng thức về giây phút hiện tại, thưởng thức hiện tại vĩnh cửu. Như các thày đã có đề cập, nhiều người trên trái đất đã lớn lên và được dạy dỗ để không sống trong giây phút hiện tại, mà ngược lại họ bị vướng mắc trong quá khứ hay bị kéo hút về phía tương lai. Một số người từng bị mắc kẹt ở một điểm quá khứ nào đó, có thể vì họ đã sống qua một sự kiện đau buồn đến độ vết thương tình cảm khiến họ không làm sao thoát ra khỏi cơn đau, thoát ra khỏi vết thương, và họ cứ mãi sống đi sống lại giây phút đó. Hoặc cũng có thể vì họ được sống qua một sự kiện vui sướng trong đời đến độ họ cảm thấy không còn gì có thể vượt trội được trong tương lai.

Nếu con đến thăm Công viên Olympic ở đây và đọc tên các lực sĩ đã giành được huy chương tại Thế vận hội 1988, con sẽ thấy rất nhiều lực sĩ đã cảm nhận việc giành được huy chương, lập kỷ lục mới, đứng trên bục chiến thắng và nhận huy chương của mình là đỉnh cao trong đời mình. Nhiều người đã cảm thấy thật sự chẳng có gì có thể so sánh được với niềm vui đó, và vì vậy phần còn lại cùa đời họ đã thua kém giây phút vinh quang đó. Và họ không ngừng luyến tiếc giây phút đó.

Tất nhiên cũng có nhiều người khác không gắn bó với quá khứ mà lại hướng về tương lai. Một số nhìn về tương lai với nỗi sợ một điều gì có thể xảy ra, cho dù là một tai họa trong đời sống cá nhân, như một chứng bệnh hay một vấn đề nào khác, hoặc một thảm họa toàn cầu như đại chiến hay thiên tai. Và tất nhiên còn có những người chờ đợi ngày tận thế, như các thày đã có bàn đến trước đây.

Ngoài ra cũng có nhiều người bất mãn với thời điểm hiện tại, với cuộc sống và hoàn cảnh hiện thời của họ, và họ nhìn về tương lai với niềm hy vọng một ngày kia cuộc sống sẽ dễ chịu hơn. Nhiều người hy vọng là nếu họ cứ tiếp tục làm những gì người ta bảo họ làm, nếu họ cứ làm y như xã hội và cha mẹ họ đã sắp đặt cho họ, thì sẽ tới ngày họ nhận được phần thưởng mà họ mong mỏi sẽ nhận được.

Như các thày đã nói, các con là những người đồng-sáng tạo, cho nên nếu con cứ thụ động ngồi chờ như vậy thì đó không phải là cách tiếp cận xây dựng nhất. Nếu con ngồi chờ người khác, chờ xã hội hay chờ một công ty nào đó một ngày kia sẽ đến thay đổi đời con, thì rất có thể con sẽ thất vọng. Nếu con ngồi chờ một sinh thể Linh thiêng nào đó xuất hiện trong đời mình và ban cho con mọi thứ con muốn, thì bào đảm con sẽ bị thất vọng.

47.2. Thưởng thức giây phút hiện tại

Hiển nhiên thày mong muốn con hiểu được rằng một trong những lời dạy cốt yếu của Phật, những lời dạy tâm truyền đích thực của Phật, chính là khả năng sống trong giây phút hiện tại. Thật ra tất cả các con đều có khả năng này, khả năng sống trong khoảnh khắc, nhưng một số sẽ gặp khó khăn khi đem vào thực hành. Nếu con đã trải qua một biến cố gây chấn thương sâu đậm trong đời mình và con cần trị liệu tâm lý, thì việc con khó lòng sống được khoảnh khắc hiện tại là một điều dễ thông cảm. Trong trường hợp này, các thày khuyến khích con nên tìm sự giúp đỡ qua một số hình thức trị liệu khác nhau. Tất nhiên các thày cũng khuyến khích con sử dụng các giáo lý và dụng cụ tâm linh của các thày để chữa lành tâm lý. Nếu con đã sống qua một đỉnh cao cuộc đời trong quá khứ và con luyến tiếc thời điểm đó, cách trị liệu thật sự duy nhất là con cần lấy quyết định ý thức là mình sẽ không còn ngoảnh nhìn lại quá khứ, mà thay vào đó con sẽ mở tâm ra để nhận món quà mà con có thể nhận được ngay trong giây phút hiện tại.

Nếu con nhìn về tương lai với lòng sợ hãi một tai hoạ nào đó, thì một lần nữa thày khuyến khích con sử dụng những dụng cụ thích hợp để giải quyết chấn thương này, vì rõ ràng một chấn thương đã khiến con nhìn tương lai với lòng sợ hãi. Nếu con nhin về tương lai với hy vọng đoạt được một loại phần thưởng nào đó, thày khuyến khích con nhận ra mình là một người đồng-sáng tạo. Nếu con muốn một tương lai tốt đẹp hơn, con sẽ cần tự mình đồng-sáng tạo ra tương lai đó thay vì thụ động ngồi chờ một cái gì bên ngoài thị hiện nó giùm con.

Con cần hiểu là để đồng-sáng tạo một tương lai tốt đẹp hơn, con cần khởi sự bằng cách biết thưởng thức giây phút hiện tại, thưởng thức hoàn cảnh con đang gặp, như Saint Germain vừa trình bày với rất nhiều minh triết. Đây là một lời dạy then chốt của Phật – hãy có mặt trong hiện tại. Lời dạy này rõ ràng nhất trong Phật giáo Thiền tông có trọng điểm là trải nghiệm hiện tại. Thày không đang bảo con phải trở thành một thiền gia Phật giáo, nhưng thày muốn nói là việc quán chiếu để làm thế nào sống trong hiện tại, ít ra trải nghiệm được hiện tại ở một số thời điểm, là một việc chính đáng.

47.3. Một khung tham chiếu

Bây giờ thày muốn dẫn con làm một bài thực tập nho nhỏ. Mục đích của thày là giúp con có được một trải nghiệm về hiện tại. Con yêu dấu, con vừa tham gia hội nghị chân sư thăng thiên này. Suốt bốn ngày liền, một số các con đã ở đây. Con đã tham dự những bài đọc chú, bài thỉnh, bài nguyện. Con đã lắng nghe những bài truyền đọc. Con đã tương tác với nhau. Đối với nhiều người trong số các con, đây đã là một tiến trình hướng đến một mục tiêu. Luôn luôn có thêm bài thỉnh để đọc, bài giảng để nghe. Nhưng bây giờ con đã tới bài truyền đọc chót và con đã đọc bài thỉnh chót. Không còn gì khác để con hướng tới trước mặt, và do đó thày khuyến khích con nhìn ra là món quà quý giá nhất mà con có thể đem về từ hội nghị này là một trải nghiệm: Con trải nghiệm mình hoàn toàn hiện diện trong hiện tại, mình thưởng thức giây phút hiện tại.

Con yêu dấu, thày khuyến khích con tự nhủ trong tâm mình: “NGỪNG LẠI! Tôi sẽ ngừng các khuôn nếp suy nghĩ quen thuộc của tôi.” Thày khuyến khích con hãy lui lại và nhìn vào chính mình, và nhận thấy trong tâm con luôn luôn có một khuôn nếp đang phóng chiếu ý tưởng hay cảm xúc lên màn hình sự nhận biết ý thức của con. Những ý tưởng và cảm xúc này đang lôi kéo nhận biết của con vào một phản ứng nào đó, một chuỗi những ý nghĩ và tình cảm, có khi giống như một cuộn phim đang trình chiếu tự động. Chú ý của con bị cuốn theo đó mà con không thực sự hay biết chuyện gì đang xảy ra.

Bây giờ thày yêu cầu con nhận diện những gì đang xảy ra trong tâm con và nhận biết một cách ý thức rằng, đơn giản, nó giống như một cuộn phim đang trình chiếu trên một màn hình trong rạp xi-nê hay trên máy truyền hình của con. Thày khuyến khích con nhận ra là con không cần bắt cuộn phim đó ngừng lại.

Có rất nhiều Phật tử cho rằng trong khi thiền định, con phải cố ngừng mọi ý tưởng, nhưng điều này rất khó thực hiện ngay cả đối với những thiền gia vô cùng thành thạo. Điều thày nói con làm là tự nhủ: “NGỪNG LẠI! Tôi sẽ không còn đồng hóa với cuốn phim những ý tưởng và cảm xúc của tôi nữa. Tôi sẽ để yên cho nó chạy, nhưng tôi sẽ đứng lui lại và tôi sẽ bước vào một nhận biết mới nơi tôi không phải là ý tưởng lẫn cảm xúc. Tôi không phải là tâm. Tôi không phải là cuốn phim đang quay trong tâm. Tôi là một sinh thể vô hình tướng. Tôi không cần bất cứ gì từ quá khứ để là con người trọn vẹn mà tôi là. Tôi không chờ đợi bất cứ gì ở tương lai để là con người trọn vẹn mà tôi là. Tôi trọn vẹn ngay bây giờ! Tôi trọn vẹn trong giây phút này đây! Tôi viên mãn!”

Khi đó, con có thể cảm nhận sâu thẳm bên trong có sự im lặng, là im lặng của Phật, là cái ta Phật của con. Hơn vậy, con cũng có thể cảm thấy như các vị Phật đang thiền tọa trong an tịnh tuyệt đối. Con không cần hình dung mình là bất cứ hình tướng nào. Thực sự con có thể, nếu điều này thích hợp hơn với con, xem mình là một sinh thể vô hình tướng, cảm thấy mình là một sinh thể vô hình tướng, và trải nghiệm mình là một sinh thể vô hình tướng.

Bây giờ thày khuyến khích con nhận ra là mình đang ngồi đây trong căn phòng này ngay lúc này. Con không một mình. Ở đây có nhiều người khác. Trong số đó có nhiều người con không quen biết. Có lẽ con đã không nói chuyện với họ trong suốt bốn ngày qua. Có lẽ con đã chưa nhìn vào mắt họ. Có lẽ con chưa thực sự tán thưởng những người đó, nhưng thày khuyến khích con hãy mở mắt ra bây giờ và nhìn chung quanh. Hãy cả gan nhìn vào mặt nhau, nhìn vào mắt nhau và chào đón nhau. Hãy cả gan nhìn vào mắt sứ giả này, đó chính thực là mắt của thày đang nhìn con xuyên qua mắt ông.

Con yêu dấu, chúng ta hãy nhận mặt nhau vì chúng ta đã đến với nhau trong một sự hợp nhất thật đặc biệt, hiếm thấy trên địa cầu này, là sự hợp nhất theo chiều ngang của các con ở dưới với các chân sư ở Trên. Đây là một giây phút đặc biệt. Đây là một giây phút hiếm có. Không mấy người đã được sống qua giây phút thế này trong cả đời mình, con yêu dấu. Ấy thế mà các con đang ở đây. Các con đang trải nghiệm giây phút này ngay bây giờ. Khi các con nhận ra là mình đang ở đây trong hợp nhất với nhau, các con đã thực hiện một công việc phụng sự tâm linh thật quý báu, vô giá. Các con đang ở đây hợp nhất với một chân sư thăng thiên, một sinh thể tâm linh. Khi con nhận ra điều này, làm sao con có thể đòi hỏi gì hơn từ giây phút hiện tại? Khi con nhận ra điều này, làm sao con có thể không có mặt trọn vẹn trong khoảnh khắc bây giờ?

Các con hãy trọn vẹn và cảm nhận là không có gì của quá khứ mà mình cần đến, không có gì của hiện tại mà mình cần đến, không có gì của thế gian mà mình cần đến, bởi vì chúng ta viên mãn trong sự duy nhất của chúng ta ngay bây giờ. Khi con kinh nghiệm sự viên mãn này, giờ đây con đã có một khung tham chiếu mới mà con có thể mang theo mình để mà sử dụng. Khi con có một chút thì giờ trong đời sống bận rộn của con – hay khi con quyết định dành ra thì giờ trong cuộc sống bận rộn – con có thể sử dụng bất kỳ phương thức nào mà con thích, kể cả nghe lại hay đọc lại bài truyền đọc này, đọc bài thỉnh, nghe nhạc, hay làm bất cứ gì hiệu quả nhất đối với con. Nhưng con hãy dành nỗ lực ra để hòa điệu với Hiện diện của thày là chân sư thăng thiên Phật Gautama. Xong dựa trên kinh nghiệm giây phút này đây, con có thể chiêm nghiệm lại cùng cảm nhận viên mãn đó. Khi con làm vậy, có lẽ nhiều lần, con có thể đạt tới điểm bắt đầu cảm thấy là mình có khả năng duy trì liên tục sự thưởng thức giây phút hiện tại.

47.4. Không có phán xét trong tâm trẻ thơ

Thày cũng hiểu là lúc đầu sẽ có sự tương phản giữa trạng thái nhận biết bình thường của con và những khi con hoàn toàn hiện diện trong khoảnh khắc hiện tại. Có những lúc con hoàn toàn hiện diện, nhưng cũng sẽ có nhiều lúc trong đời sống bình thường đòi hỏi sự chú ý của con, lôi kéo chú ý của con vào các khuôn nếp kia. Khi con càng ngày càng chiêm nghiệm nhiều hơn những giây phút hiện diện trọn vẹn, sinh động trọn vẹn, thưởng thức trọn vẹn đó, có thể con sẽ bắt đầu cảm thấy sự tương phản ngày càng bớt đi.

Điều này không có nghĩa là con cứ ngồi đó suốt ngày, hoàn toàn tỉnh thức trong thế toạ thiền, bởi vì chắc chắn trong cuộc sống sẽ có rất nhiều lúc đòi hỏi con phải chú ý hoàn toàn. Nhưng con có thể đạt tới điểm, mỗi khi con nghĩ về chuyện này, con hòa điệu vào bên trong, và con có thể hiện diện trọn vẹn trong giây phút hiện tại ngay cả khi con đang làm một số hoạt động không đòi hỏi sự chú ý toàn diện.

Thày không đang bảo con, như một số Phật tử Thiền tông muốn con tin như vậy, là con luôn luôn có thể sống trọn vẹn trong giây phút hiện tại ngay giữa công việc bận rộn. Cuộc sống có rất nhiều đòi hỏi và thật chẳng có gì sai trái nếu có những lúc mình phải tập trung vào công việc mình đang làm và do đó mình không còn chú ý nào sót lại để mà tự hình dung, hay để cảm thấy mình là đức Phật viên mãn, hoàn toàn không dính mắc với tình huống và đang thưởng thức tình huống này từ ngoài.

Điều thày muốn nói là con có thể có một tâm thái nơi đời con là một tiến trình thưởng thức liên tục. Con thưởng thức cuộc đời nói chung, và bất cứ lúc nào con muốn, con cũng có thể hòa điệu vào bên trong và thưởng thức trọn vẹn giây phút hiện tại khi con dư ra một chút khả năng nhận biết. Tất nhiên, đây là một phần của tâm trẻ thơ, của sơ tâm đó con.

Điều thày có thể góp thêm với những gì Saint Germain vừa trình bày là tâm trẻ thơ không phán xét. Nó không phán xét giá trị. Nó không phân tích. Nó không so sánh. Cốt yếu là khi con bị kẹt trong quá khứ hay trong tương lai, con không ngừng phân tích, không ngừng so sánh hiện tại với quá khứ hay tương lai. Quá khứ có tốt hơn hay tệ hơn hiện tại? Tương lai sẽ tốt hơn hay tệ hơn hiện tại? Luôn luôn có một câu chuyện diễn ra trong tâm, nó phân tích và nó so sánh. Khi cái ở đây lại nằm ở đó thì con không đang hiện diện trong giây phút này được, mà sự chú ý của con bị cuốn hút và tập trung vào việc phân tích. Con có khả năng – và con cần làm chuyện này một cách ý thức – trau dồi một trạng thái tâm không phán xét, không phân tích. Đây là một tiến trình tinh tế sẽ cần thời gian, nhưng bằng cách sử dụng các bài thỉnh và giáo lý của các thày, đó là một mục tiêu khả dĩ.

Con có thể đạt tới điểm là con không còn nhu cầu xét đoán những gì xảy ra trong cuộc sống. Con không có nhu cầu phải luôn luôn bày tỏ quan điểm về chuyện này hay chuyện nọ, về người này làm gì hay người nọ nói gì, về các chính trị gia đang làm gì hay không làm gì, về đội thể thao địa phương làm gì hay không làm gì. Tất cả những thứ khiến cho hầu hết mọi người bận tâm giờ đây có thể mất hẳn tầm quan trọng, đến độ con không còn nhu cầu nuôi béo cái phần trong tâm cứ muốn phán xét, hạ thấp cái này hay nâng cao cái kia. Nó luôn luôn dùng thang điểm nhị nguyên để so sánh phải với trái, tốt với xấu, trên với dưới, cái này với cái nọ. Giờ đây một cách cố tình và ý thức, con quyết định bước vào một tiến trình gạt bỏ tất cả những thứ đó sang một bên.

Con có thể đặc biệt thỉnh cầu sự tiêu hủy các năng lượng trong cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc đang kéo tâm con lặp đi lặp lại cùng những khuôn nếp đã khiến biết bao người bị rối bời trong cảm thể đến độ họ luôn luôn cần phải bất bình về một ai đó. Họ cần có một con dê tế thần để trút hết nỗi tức giận vào đó, bởi vì họ không chịu nhìn nhận là thật ra họ đang tức giận chính họ. Bằng cách làm việc trên bản thân mình, con có thể đạt tới điểm không cần phán đoán mọi thứ nữa. Con không còn nhu cầu đánh giá mọi chuyện và con không cần có quan điểm về mọi chuyện.

47.5. Quan sát thay vì phán đoán

Vậy thì con sẽ làm gì đây, con sẽ hỏi? Cuộc đời như vậy có đáng sống hay chăng? Có nghĩa chăng là con biến thành một người không còn suy nghĩ? Không đâu con yêu dấu, không có nghĩa là con không tham gia vào cuộc sống. Có một trạng thái của tâm vượt khỏi sự phán xét dựa trên một thang điểm nhị nguyên, và đó là tâm thái khi con chỉ đơn giản quan sát. Không là đánh giá và phán xét nhị nguyên tương đối, mà là quan sát. Con có thể bắt đầu với sự quan sát bản thân dựa trên một chuẩn mực vô cùng đơn giản – nếu con muốn dùng từ “chuẩn mực”.

Sứ giả này nhiều năm trước đây đã hòa điệu vào Hiện diện của thày và nhận được ý tưởng rằng mục đích cuộc sống là quả vị Phật. Ông đã nhận ra là để đạt được quả vị Phật, ông sẽ cần khắc phục các dính mắc của mình. Ông có một khải tượng – mà ông nhận được từ thày – là ông nhìn thấy thời điểm thày kinh qua cuộc khai ngộ chót trước khi nhập Niết bàn. Ngồi dưới cây Bồ đề, thày phải giáp mặt với lũ quỷ Mara. Ông ngộ ra là lũ quỷ Mara đã tìm cách xâm nhập vào tâm thày để cố tìm một khuôn nếp nào đó, một dính mắc nào đó mà chúng có thể dùng để lôi kéo chú ý của thày, để khiến thày rơi vào một khuôn nếp phản ứng với những gì chúng đang làm trước mắt thày.

Ông nhận ra là chúng đang cố nhìn vào dòng sống của thày, nhìn vào tất cả mọi kiếp hiện thân của thày, nhìn vào các dính mắc mà thày đã từng có, xong chúng dùng các dính mắc này để giao tiếp với thày. Chỉ vì thày không còn dính mắc nào nữa cho nên thày mới có thể giữ tâm mình hoàn toàn tự do, không bị lôi kéo vào bất cứ gì mà quỷ Mara đưa ra. Điều này, tất nhiên, có điểm tương đồng với lời dạy của Giê-su khi Giê-su nói: “Ông hoàng của thế gian đến nhưng không nắm được gì nơi ta.”

Mặc dù chắc chắn sẽ có một khai ngộ chót mà con phải bước qua trước khi con nhập được Niết bàn hoặc trạng thái thăng thiên, con có thể xem cuộc sống như là phiên bản liên tục của khai ngộ nói trên. Con luôn luôn đối mặt với ông hoàng của thế gian, với lũ quỷ Mara, và chúng chỉ có một muc tiêu thôi, là xâm nhập vào bản thể con, phát hiện ra một dính mắc nào đó rồi dùng cái đó để lôi kéo con vào một khuôn nếp phản ứng, và trong một thời gian, khuôn nếp này sẽ làm tiêu hao lượng chú ý có ý thức của con. Đối với một số người, chuyện này không chỉ kéo dài “trong một thời gian” mà trọn một kiếp sống hay nhiều kiếp sống, nghĩa là sự chú ý của họ hoàn toàn bị hao kiệt bởi một khuôn nếp nào đó, chẳng hạn đánh bại những kẻ họ xem là thù địch, hay ham muốn một trải nghiệm nào đó, hay thực hiện một mục tiêu nào đó. Cho dù khuôn nếp này là gì thì rất, rất nhiều người bị cái đó làm hao kiệt chú ý trong nhiều kiếp sống. Con không trong số những người đó bởi vì nếu không, con đã không ở đây. Chú ý của con không hoàn toàn bị cuốn hút vào cuộc đời vật chất bởi vì nếu không, con đã không mở tâm ra cho con đường tâm linh.

Vì vậy con hãy nhìn nhận điều này, và con có thể nhìn ra là mục đích của đường tu tâm linh là lần hồi phát hiện và khắc phục các dính mắc của mình, hầu càng ngày con càng có ít vật liệu cho quỷ Mara nắm lấy, cho ông hoàng của thế gian nắm lấy để lôi kéo con vào khuôn nếp phản ứng với thế gian. Thước đo cho bước tiến của con trên đường tu là có bao nhiêu lần tâm con bị lôi kéo vào các khuôn nếp đó, chúng mãnh liệt đến chừng nào, và chúng khuấy động con đến chừng nào. Con càng cảm thấy chúng phai nhạt đi thì con càng bắt đầu trải nghiệm được an bình. Như Saint Germain có nói, con càng an bình bao nhiêu thì con càng có thể vui đùa với cuộc đời bấy nhiêu. Khi con đạt một lượng an bình nào đó, con sẽ bắt đầu hết vướng bận, con bắt đầu nhìn cuộc đời một cách khác hơn là đánh giá, phán xét, phân tích. Con cũng bắt đầu nhìn người khác, và nếu có ai đó kể con nghe chuyện đời họ, con không cần có quan điểm về cách họ phải sống ra sao.

47.6. Không có quan điểm về người khác

Gần như mỗi lúc con có quan điểm về cách sống của người khác, đó là vì con cảm thấy mình bị đe doạ bởi một điều gì họ làm. Con có quan điểm là họ phải ngừng làm những chuyện khiến con cảm thấy bị đe dọa, hay những chuyện ép con vào một khuôn nếp phản ứng.

Rất, rất nhiều người có thái độ là khi họ phản ứng lại người khác, đó là do lỗi của người kia. Người kia là nguyên nhân khiến họ phản ứng. Nhưng họ đã không sẵn lòng nhìn vào thực tế là không ai có thể khiến họ phản ứng trừ khi họ đã mang sẵn dính mắc đó trong họ. Khi con bước trên đường tu tâm linh, đường tu quả vị Phật, hiển nhiên là con nhìn nhận chính con phải khắc phục dính mắc của mình. Và khi con làm vậy, không ai có thể lôi con vào khuôn nếp phản ứng này được nữa.

Đó là khi con có thể bắt đầu nhìn vào người khác, và thay vì có một quan điểm được quy định bởi các vết thương và dính mắc của mình, giờ đây con chỉ giản dị quan sát. Con có thể quan sát: “Liệu người bạn của tôi có an bình hay chăng?” Nếu bạn con không an bình, con có thể dùng trực giác hòa nhập xem điều gì đã lấy mất an bình của bạn. Xong con có thể nhận được linh hứng để nói ra một điều gì đó thật đơn giản mà không cố bảo bạn phải làm gì. Con chỉ giản dị nói ra bằng lời lẽ của mình những gì con nhận xét đang lấy mất sự an bình của bạn. Có lẽ bạn con có thể tìm được một cách nhìn khác về cuộc đời mà không bị cuốn mãi vào các khuôn nếp đó.

Nếu bạn con mở tâm ra đón nhận, con có thể kể cho bạn nghe về kinh nghiệm của con khi chính con khắc phục dính mắc của mình. Trong một số trường hợp, bạn con sẽ không sẵn sàng tiếp nhận và thậm chí còn có thể đáp trả một cách tiêu cực hay gạt bỏ nhận xét của con, nhưng con vẫn có thể không dính mắc vào đó. Con không cần cảm thấy mình bị chối bỏ. Làm sao con có thể bị chối bỏ khi con không hề có ý định thay đổi người bạn của con?

47.7. Đa số tương tác giữa con người đi theo cùng khuôn nếp

Con yêu dấu, hầu hết mọi tương tác mà con chứng kiến ở mức cá nhân giữa con người với nhau đều có thể được xếp vào cùng một khuôn nếp. Con hãy quan sát một người mang một dính mắc nội tâm khiến họ không ngừng ở trong một khuôn nếp phản ứng nào đó. Khuôn nếp phản ứng này được kích hoạt, được khơi dậy hay được tăng cường bởi người khác. Khi họ không nhận ra nhu cầu tự thay đổi qua việc khắc phục khuôn nếp, họ sẽ tìm cách thay đổi người khác hầu tránh không cho người khác khơi dậy khuôn nếp bên trong họ. Con thấy 98% sự tương tác giữa con người trên thế giới đều thuộc loại này, tức là người ta tìm cách thay đổi người khác hầu không phải thay đổi chính mình. Khi con bắt đầu nhìn ra sự thể này và khi con bắt đầu giải thoát khỏi nó, con sẽ cảm thấy sao mình tự do đến vậy, an bình đến vậy – một niềm vui không thể nào nén được!

Con yêu dấu, nếu lúc nãy khi thày dẫn con làm bài tập ở trên, con đã thực sự trải nghiệm được sự viên mãn của giây phút hiện tại, thì con cũng đã trải nghiệm được sự an bình mà con sẽ bắt đầu cảm nhận một cách liên tục khi con khắc phục các dính mắc đó. Rồi con sẽ nhìn nhận một cách ý thức: “Tôi không cần phải liên tục phán xét người khác hay phán xét cuộc đời, và thật ra tôi cũng không cần liên tục tự phán xét chính tôi. À, tôi có thể ngừng phán xét chính mình. Tôi không cần tự phán xét.” Xong con có thể giải thoát khỏi mưu đồ tinh vi của ác quỷ hay bọn quỷ Mara, là khiến con không ngừng tự phán xét mình dựa trên ý tưởng là mình thiếu sót, mình bất toàn, hay mình đã phạm lỗi trong quá khứ và giờ đây mình cần bỏ ra một thời gian bất tận để mà bù lại. Thay vào đó, con có thể đơn giản bước vào một tâm thái – như sứ giả đã mô tả hôm trước – nơi con an bình là con người mà con là ngay bây giờ.

Con dư biết là con chưa đi muốt con đường tâm linh vì nếu không thì con đã thăng thiên rồi. Con hiện đang đầu thai nhưng con không cần tự trách mình là con vẫn còn một chặng đường trước khi có thể thăng thiên, và con vẫn còn một số vấn đề tâm lý chưa giải quyết. Con có thể chỉ đơn giản quan sát chính mình. Con quan sát cách phản ứng của con. Khi con thấy con phản ứng, con không cần tự phán xét nghiêm khắc hay cảm thấy buồn bực, hay cảm thấy mình đã phạm lỗi, hay mình là một người xấu, hay mình không là một đệ tử tốt. Con chỉ đơn giản quan sát khuôn nếp đó xong con nói: “Tại sao tôi lại phản ứng cách như vậy, đâu là cái khuôn nếp, đâu là cái tin tưởng?” Một khi con thấy rõ hơn, có lẽ bằng cách đọc bài thỉnh vị chân sư mà con ưa thích nhất trợ giúp con nhìn, thì khi đó con có thể nhìn ra khuôn nếp đó. Rồi con có thể nói: “Liệu tôi có muốn sống phần đời còn lại của mình mà cứ lặp lại khuôn nếp này mãi không?” Nếu con cảm thấy: “Không, tôi không muốn vậy nữa” thì con hãy nhìn vào quyết định và con thay đổi quyết định đó đi một cách ý thức. Như vậy con đã tiến lên một bước về hướng tự do, nhưng con vẫn luôn ở trong trạng thái không tự phán xét.

Con không cần phán xét: “Liệu tôi có là một để tử tốt, liệu tôi đã đạt tới một trình độ cao trên đường tu hay chưa?” Con chỉ cần đợi lần sau con nhìn thấy một khuôn nếp thì con quan sát mà không xét đoán: “Đâu là tác dụng của khuôn nếp này, nó đang ảnh hưởng cách hành xử của tôi cùng cách tôi cảm nhận chính mình và đời mình như thế nào? Tôi có muốn cảm nhận như vậy hay không? Tôi có muốn hành xử như vậy hay không?” Xong con hãy đi theo tiến trình đó và một lần nữa con lại tự giải thoát khỏi nó. Cứ thế con bước lên cao hơn và con tự do hơn. Rồi khi con lần lần gia tốc tiến trình này, con có thể đạt tới điểm cảm thấy sự an bình liên tục khi con xuôi chảy từ một tình huống sang tình huống kế tiếp. Như các thày đã có nói về các Phật tử Tây tạng, con trụ vững nơi thực tại cuộc sống là một dòng chảy không ngừng.

47.8. Con là một sinh thể vượt thời gian

Con không cần lượng định tình huống xem nó tôt hay xấu, liệu nó có thành công hay con đã lầm lỗi. Con nhìn nhận là bất cứ gì xảy ra trong cõi vật chất chỉ là một biểu hiện tạm thời. Con nhận ra là mặc dù có một số hậu quả vật lý mà con không thể tháo gỡ – con không thể thay đổi chúng, con không thể gỡ mình ra khỏi chúng vì chúng đã xảy ra trong quá khứ – thì hậu quả vật lý thật sự không ảnh hưởng gì đến trải nghiệm sống của con, vì trải nghiệm sống của con diễn ra bên trong con. Nó diễn ra trong tâm con. Vì thế con có khả năng nhận ra là cho dù hoàn cảnh vật lý mình trải nghiệm là gì, đó vẫn là một cơ hội để con nhìn ra khuôn nếp phản ứng trong con, để con giải thoát khỏi khuôn nếp đó rồi tiến một bước gần hơn quả vị Phật.

Những gì xảy ra trong kiếp này thật sự không có tác động nào vĩnh viễn, liên tục và bất tận trên đời con. Và khi con lần lần thoát khỏi tính phán xét, lần lần thoát khỏi sự đồng hóa với cơ thể cùng hoàn cảnh vật lý của mình, con nhận ra con là một sinh thể vượt thời gian, một sinh thể liên tục, một sinh thể không ngừng hiện diện. Trước kiếp đầu thai này, con đã từng sống qua rất nhiều kiếp khác và con sẽ còn hiện hữu rất dài lâu sau kiếp này. Vậy thì những gì xảy ra trong cõi vật lý có gì quan trọng đâu khi chúng không ảnh hưởng gì đến cuộc sống của con sau kiếp này?

Con yêu dấu, nếu con có thể nhìn lại những gì đã xảy ra cho con một ngàn kiếp trước đây, con sẽ thấy là rất có thể con đã trải qua một biến cố vật lý khủng khiếp, chẳng hạn như bỏ mạng trong chiến tranh. Nhưng chuyện đó xảy ra một ngàn kiếp trước rồi. Ngày hôm nay liệu nó còn thực sự quan trọng hay không? Nó không quan trọng hơn thời con còn bé, con đánh mất một đồ chơi yêu quý rồi không làm sao tìm lại được. Ngày hôm nay, chuyện mất đồ chơi vào tuổi thơ ấu có thực sự quan trọng gì không?

Con nhận ra là các biến cố vật lý tự thân không có ý nghĩa gì hết. Chúng chỉ có thể tác động con qua cách con phản ứng lại trong tâm con. Con yêu dấu, mặc dù con không thể thay đổi hậu quả vật lý, nhưng bất cứ lúc nào con cũng có khả năng thay đổi khuôn nếp phản ứng trong tâm. Đây là chìa khóa cốt yếu để con bước tới quả vị Phật, cụ thể là con nhận ra là con luôn luôn có khả năng thay đổi những gì xảy ra trong tâm mình. Mà chính những gì xảy ra trong tâm con mới định đoạt trải nghiệm của con trong giây phút hiện tại, trải nghiệm sống của con. Chính cái đó cũng định đoạt tương lai, hướng đi của con trong tương lai.

47.9. Khuôn nếp phản ứng định đoạt tương lai của con

Con thử nhìn xem những người vừa trải qua một sự cố không như ý. Họ đều phản ứng cùng một cách: thất vọng, buồn bực, giận dữ, tiêu cực. Họ chui vào một khuôn nếp phản ứng. Con yêu dấu, bây giờ con thử suy ngẫm điều này: Bất kỳ một sự cố nào xảy ra cho con trong cõi vật lý là một điểm độc nhất. Con đang ngồi đây ngay bây giờ, và hoàn cảnh của con ngay bây giờ là một điểm độc nhất. Trước mặt con là một mặt phẳng rộng mênh mông, một bề mặt rộng lớn như quảng trường vĩ đại kia trong Công viên Olympic. Con ngồi ở một điểm và trước mặt con là toàn bộ quảng trường mở rộng. Trên lý thuyết, con có thể bước đi về bất cứ hướng nào con muốn trong quảng trường đó.

Cho dù con đã trải qua biến cố nào trong đời, con vẫn có rất nhiều con đường mở ra trước mặt về phía tương lai. Nhưng khi con có một khuôn nếp phản ứng trong tâm, khuôn nếp này sẽ ngăn cản không cho con thấy rất nhiều những con đường mở ra như vậy. Nó sẽ tập trung chú ý của con vào đúng một con đường, thường là con đường tiêu cực nhất. Con sẽ nghĩ đó là cách duy nhất con có thể phản ứng, là con đường duy nhất đưa con vào tương lai.

Thày nói với con, khi con bước trên con đường quả vị Phật và khắc phục dính mắc của mình, con sẽ tới một điểm khi con có thể trải nghiệm một sự cố, và từ một góc độ nào đó, đây không phải là một sự cố lý tưởng. Có thể đây không là điều con mong muốn, nhưng cho dù sự cố đó là gì, con vẫn thấy được nhiều con đường mở ra trước mặt mà con có thể đi theo vào tương lai. Vì con đã vượt qua được khuôn nếp phản ứng, cho nên con có tự do chọn lựa trong số các con đường này, và đó chính là lúc con có thể xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Con ngộ ra đời con là một dòng chảy không ngừng, không phải là một tiến trình nơi con có thể dừng lại và bị kẹt ở một điểm nào đó cho dù biến cố có khủng khiếp, đau thương biết mấy. Dòng chảy không ngừng lại. Có thể con đã quyết định đi theo một hướng nào đó khiến con tưởng dòng chảy đã ngừng lại hay con đang bơi ngược Dòng sông sự Sống và đang gặp phải sự chống đối kịch liệt, nhưng dòng chảy không hề ngừng lại.

Một khi con khắc phục khuôn nếp phản ứng, con sẽ thấy là chỉ cần một chút thay đổi trong cách nhìn cuộc sống, cách tiếp cận cuộc sống, thái độ đối với cuộc sống, thì con có thể thay đổi hướng đi đời con. Và như vậy trong tương lai, con sẽ tới một điểm đến hoàn toàn khác với con đường con đã đi khi con còn mang khuôn nếp tiêu cực. Con yêu dấu, có quan trọng gi chăng những gì đã xảy ra trong đời sống vật lý của con? Có thật quan trọng gì chăng con đường mà con đã lấy miễn là con đến được điểm thăng thiên ở cuối kiếp này? Hoặc ít ra con đến được điểm cao nhất mà con có khả năng với tới hầu con mở ra một kiếp hiện thân tốt đẹp hơn khi con tái đầu thai?

Có thật quan trọng hay chăng những gì xảy ra cho con khi bất cứ gì xảy ra cũng đều có thể được dùng để thiết lập một hướng đi tốt đẹp hơn cho tương lai? Một khi con nhìn nhận điều này, con có thể tránh bị các khuôn nếp phản ứng đó lôi kéo. Con sẽ bắt đầu quan sát các khuôn nếp. Con sẽ bắt đầu giải thể các dính mắc, và với mỗi dính mắc mà con giải thể, con sẽ tiến một bước gần hơn với quả vị Phật. Hiển nhiên đây là điều mà thày mong muốn nhìn thấy nơi con. Đó cũng là điều mà thày đã cố giảng dạy và chứng tỏ cho các đệ tử của thày 2500 năm về trước. Thuở đó quá ít người đã có thể nắm bắt được, nhưng dù sao thì một số người đã dùng được giáo lý của Phật để nắm bắt lấy, và thày hy vọng nhiều người hơn nữa sẽ dùng được giáo lý của các chân sư thăng thiên trong thời đại hôm nay để trụ vững trong tinh túy của con đường quả vị Phật.

47.10. Phật bất động và Phật hằng động

Con yêu dấu, thày mong muốn trao cho con một số suy nghĩ dựa trên những gì thày đã nói hôm trước, cụ thể là Phật, thày đây, là một sinh thể hằng thay đổi. Từ khi đầu thai lần chót cách đây 2500 năm, thày đã tự thăng vượt rất nhiều lần. Tất nhiên, thày thừa biết là câu nói này có vẻ khiêu khích đối với những ai có cái nhìn truyền thống về Phật. Nhưng lời này cố tình khiêu khích, vì thày không muốn tâm con bị đông đặc trong một hình ảnh bất động về Phật.

Đương nhiên từ một góc nhìn thế phàm, đúng là Phật có một yếu tố dường như không thay đổi. Điều con cần hiều – hầu giải quyết một điểm có vẻ nghịch lý – là có một trạng thái tâm thức của con người mà thày từng gọi là “Biển Luân hồi” nơi biến động và rối loạn xảy ra thường xuyên. Tất nhiên, chính các dính mắc của con đã cuốn con vào các khuôn nếp phản ứng trước những chuyển biến trong cuộc sống vật lý của con, và cái đó tạo ra sự rối loạn khiến đời con trở thành một tiến trình hoàn toàn hỗn độn.   

Để bắt đầu vạch ra một hướng đi mới cho đời con, một lộ trình có hệ thống để tiến về quả vị Phật, con cần khắc phục phần nào tình trạng hỗn loạn này để tìm thấy một chút an bình, một chút im lặng, một vài giây phút nơi con có thể bước lui lại và quan sát cuộc sống. Đó là khi con được ích lợi khi con tập trung vào Phật như là Phật bất động, Phật an bình, Phật tĩnh lặng, là Phật đem lại cho con một nơi trú ẩn khỏi những náo động của Biển Luân hồi. Đây là một hình ảnh chính đáng nếu con sử dụng trong mục đích đó.

Một khi con bước lên cao hơn trên đường tu và con đã bắt đầu thiết lập một sự an bình nội tâm nào đó, thì con cần nhìn nhận là mặc dù không một thế lực nào của thế gian có thể khiến cho Phật lay động, nhưng điều này không có nghĩa là Phật đứng yên một chỗ. Nó không có nghĩa là Phật không bao giờ thay đổi. Tĩnh lặng, an bình, bất động không có nghĩa là không hằng sống. Đó là tại sao các chân sư thăng thiên ngày nay đã đưa ra lời dạy về Dòng sông sự Sống, một lời dạy – mà theo một cách nào đó, hay ít ra được diễn tả với ngôn từ hiện đại hơn – vượt trên các giáo lý mà thày đã giảng dạy 2500 năm về trước.

Con cần nhìn nhận là ở những mức cao hơn của đường tu, ngay cả quả vị Phật cũng không đứng yên một chỗ. Con sẽ thấy là một số người ở phương Đông, cả trong truyền thống Phật giáo lẫn Ấn giáo, mô tả cuộc sống như một chiếc bánh xe. Một cách nào đó, linh hồn con hiện ra từ Niết bàn và con bước vào hiện thân, con tạo nghiệp và nghiệp này khiến con cứ phải trở lại đầu thai. Rồi con tìm ra một con đường giải thoát khỏi nghiệp để con không còn phải trở lại đầu thai. Một số người và một số vị thày dạy rằng một khi con giải thoát khỏi bánh xe luân hồi, con biến mất để trở về trong Niết bàn. Con biến mất trong tư cách là một sinh thế cá biệt. Con yêu dấu, nếu thật là như vậy thì đâu là mục đích để con hiện ra từ một trạng thái hư vô, kinh qua tất cả những biến động đó trên trái đất để rồi lại trở về trạng thái hư vô? Ích lợi ở đâu? Chẳng có ich lợi gì hết, và đó là lý do tại sao quá nhiều người cảm thấy vô vọng, như thể sự sống không có ý nghĩa gì cả, vì sau tất cả những phấn đấu đó thì họ chỉ đơn giản biến mất.

47.11. Không có trạng thái vô ngã

Tất nhiên, các thày là chân sư thăng thiên giảng dạy sự thật rằng con là một sinh thể hằng sống, không ngừng hiện diện, không ngừng đi tới. Sau khi con thoát khỏi bánh xe luân hồi, con có thể thăng thiên và tiếp tục con đường tiến hóa có ý thức dẫn đến những tầng tâm thức cao hơn nữa. Sau khi con đã làm yên những biến động trong tâm, điều quan trọng, điều cốt yếu là con bắt đầu trụ vững nơi bản chất hằng sống của con, và như vậy con cũng trụ vững nơi Bản thể của Phật. Làm thế nào con có thể cảm thấy mình đang nỗ lực tiến về quả vị Phật nếu con nghĩ đó là một trạng thái cố định, không thay đổi? Hay một trạng thái vô ngã, một trạng thái không có cái ta, như một số giáo lý dạy như vậy? Nhưng con yêu dấu, không có trạng thái nào mà không có cái ta. Đúng là có một trạng thái không có ngã phàm phu, không có ngã tách biệt, nhưng không có trạng thái vô ngã. Nghĩa là luôn luôn có cái Ta mà Thượng đế đã sinh tạo, là cá thể thiêng liêng của con luôn luôn hiện diện và tự thăng vượt.

Đây không phải là chuyện khắc phục ngã phàm phu rồi biến mất vào hư vô, mà là khắc phục ngã phàm phu rồi nối kết lại với cái Ta chân thực của con. Bí quyết ở đây, con yêu dấu, là hiểu rằng đối với ngã phàm phu, việc khắc phục ngã phàm phu sẽ có cảm giác như một trạng thái vô ngã, một trạng thái hư vô, không có gì. Ngã phàm phu không thể nào hình dung nổi một trạng thái ý thức mà không có hai đối cực nhị nguyên của ngã phàm phu. Đối với nó, đối với sa nhân, cái đó có vẻ như là hư vô, nhưng đó không phải là hư vô. Đó không phải là vô ngã, mà đó là cái Ta Một. Đó là cái Ta Phật.

Hình ảnh mà thày muốn để lại cho các con, một lần nữa, là hình ảnh một dòng sông. Khi con nhìn một dòng sông khởi nguồn từ cao trên núi, con thấy trong giai đọan đầu, sông chảy xuống sườn dốc rất cao, nước chảy rất nhanh và cuồng loạn. Điều này tượng trưng cho giai đọan mà hầu hết mọi người đều kinh qua khi họ kẹt cứng trong các khuôn nếp phản ứng, kẹt cứng trong các dính mắc đến độ họ vướng vào Biển Luân hồi với những xoáy nước, với sóng dữ và bão táp ngổn ngang hỗn loạn. Tất cả mọi thứ trong đời họ đều rối lên như thể họ bị ném tới tấp ra tứ phía bởi một định mệnh tàn nhẫn. Họ hoàn toàn không kiểm soát được đời họ và họ không thể ngừng chiếc tàu lượn cứ phóng tới.

Thế rồi khi con bước vào đường tu và khám phá sự an bình nội tâm đích thực của Phật, con giống như những đoạn cuối của dòng sông khi sông dịu dàng uốn mình giữa phong cảnh yên ắng. Con bắt đầu trải nghiệm là mặc dù trong sông vẫn có chuyển động, có cái gì liên tục với nó. Nhưng con vẫn cảm thấy sự an bình vì náo động không còn nữa.

Khi con đạt đến điểm này, con sẽ có một cái nhìn khác về Phật. Khi con cảm thấy bình an bên trong chính mình, cho dù con vẫn biết là con còn đang đầu thai và con vẫn chảy với Dòng sông sự Sống, nhưng con ngộ ra là sự an bình có thể đạt được trong chuyển động. Khi đó, con có thể ngộ ra là cái có vẻ là bất động, là sự an bình tĩnh tại của Phật, thật ra không đứng yên chút nào.

Con yêu dấu, con hãy hình dung dòng sông. Con đang đứng ở một điểm nào đó trên dòng sông cho nên con có xu hướng nhìn sông từ điểm đó. Bây giờ con hãy bước ra khỏi sông, ngắm nhìn nó từ xa, từ lúc nó khởi nguồn trên núi cao vùng Đông Hàn quốc rồi chảy xuyên qua thành phố Seoul này. Xong con hãy nhận ra là dòng sông này có thể được ngắm trong sự trọn vẹn của nó. Nó được cấu tạo bằng từng phân tử nước cá biệt, nhưng con có thể xoay nhãn quan và nhìn ra toàn bộ dòng sông là một khối nước nối kết liên tục. Cái đó, con yêu dấu, chính là Phật, là toàn bộ dòng sông, là cái một của sông đang tuôn chảy. Một số thành phần của nó náo động, một số thành phần của nó yên lặng, nhưng cả dòng sông thì là một tổng thể. Cái đó, con yêu dấu, chính là Phật. Đó là im lặng trong chuyển động. Đó là Dòng sông sự Sống, và TA LÀ dòng sông đó, và con cũng LÀ dòng sông đó.  

Có thể con sẽ nói: “Nhưng con đang ở trong dòng sông.” Phài, con đang ở trong đó, nhưng điều này không ngăn cản con nối kết với tổng thể và nhận ra rằng toàn bộ dòng sông là Phật tánh. Do đó, con có thể hòa nhập vào cái toàn thể đó, và mặc dù con đang đứng ở một điểm trên sông, con vẫn có thể thoáng trải nghiệm được toàn thể của nó. Điều này cho con một cái nhìn hoàn toàn đổi khác về cuộc sống. Đó là chìa khóa tối hậu để con khắc phục những dính mắc cuối cùng mà con còn mang trong con ngay cả ở những giai đoạn cao hơn của đường tu. Những dính mắc này cần được vượt qua trước khi dòng sông đời con có thể chảy vào đại dương tối hậu, là đại dương an bình vượt khỏi Biển Luân hồi, hoặc như thày đã từng gọi, là Bờ Bên kia.

Như vậy, con yêu dấu, thày chúc con sự an bình trong chuyển động và thày niêm con trong hòa bình mà TA LÀ. Thày niêm đại hội này, một đột phá thực sự để bước lên trạng thái tâm thức cao hơn cho mỗi cá nhân các con cũng như cho trạng thái tâm thức tập thể tại Nam Hàn, Bắc Hàn cũng như vùng châu Á rộng lớn. Con được niêm trong sự an bình không ngừng tuôn chảy, không ngừng sống động của Phật.

17 | Thỉnh cầu tự do sáng tạo

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Purity và Astrea và Arcturus và Victoria, Đại thiên thần Gabriel và Hope và Zadkiel và Amethyst, Serapis Bey và Saint Germain yêu dấu, hãy giúp con thăng vượt mọi cơ chế trong tâm con đang ngăn chặn dòng sáng tạo từ Hiện diện TA LÀ của con. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ mọi khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Serapis Bey và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra con đang giới hạn tự do của con như thế nào, cùng những gì con gây ra cho mình trong chính tâm mình. Hãy giúp con khắc phục ảo tưởng con phải dùng năng lượng của Tia thứ Bảy để đánh bại những gì đi ngược lại tự do của con.

Astrea yêu dấu, tim của thày thực chân,
Vòng tròn và Gươm báu của thày xanh và trắng,
Chém phăng dây buộc trói của bi kịch vô minh,
Để hành tinh dâng mãi trên đôi cánh Thanh tịnh.

Astrea yêu dấu, trong Thanh tịnh Thượng đế,
Xin gia tốc năng lượng cho đời con tràn trề,
Nâng cao tâm của con vào hợp nhất chân thực
Với Chân sư yêu dấu của tình thương Vô cực.

1.2. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra tính không thực của các ý tưởng và niềm tin trong tâm con, xong con chỉ bước đi khỏi chúng. Hãy giúp con nhận ra con đang xem chính con và đời con quá hệ trọng ở điểm nào.

Astrea yêu dấu, từ Tia sáng Thuần khiết,
Mọi sự sống hôm nay, thày giải thoát thấu triệt.
Khi thanh tịnh gia tốc thì con là tự do,
Khỏi luyến ái ô trọc, con thăng lên buông bỏ.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Và nâng cao trong con mọi chân lý đẹp thay. 

1.3. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra những mâu thuẫn và xung đột nội tâm làm tiêu hao năng lượng và chú ý của con. Hãy giúp con nhìn xem con có dùng giáo lý của các thày để dựng lên một tấn tuồng giao chiến với tà lực, hay với những đệ tử khác mà con gặp trong tổ chức tâm linh.   

Astrea yêu dấu, xin gia tốc chúng con,
Thày ra tay giải cứu, con thành khẩn cầu mong,
Vượt quan điểm ô trọc, tất cả sẽ thênh thang,
Bỏ nghi ngờ sợ hãi, con nhất định vượt thăng.

Astrea yêu dấu, con sẵn sàng nhìn rõ
Vào mọi lời gian dối khiến con mất tự do.
Con đang vượt lên trên từng ô uế bợn nhơ,
Để Ánh sáng Thanh tịnh hoài hoài trong con tỏ.

1.4. Serapis Bey, xin thày giúp con thăng vượt mánh lới của tự ngã, mánh lới của sa nhân, là khiến con nghĩ có một vấn đề chính đáng con cần giải quyết, cho nên con không thể tự do cho tới khi vấn đề này được giải quyết.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc sự sống,
Vượt lên trên nhị nguyên, hiềm khích và tấn công,
Xóa hết mọi ranh giới giữa Thượng đế và người,
Ý toàn hảo của Ngài, mau hoàn tất xinh tươi.

Astrea yêu dấu, con trìu mến thỉnh gọi,
Cho cái vách vô hình của ngăn cách đổ rơi,
Nay con đã buông bỏ mọi lọc lừa sa ngã,
Và mãi mãi khẳng định duy nhất của Tất Cả.

1.5. Serapis Bey, con thấy được là con sẽ không bao giờ tự do chừng nào con còn nghĩ tự do của mình tùy thuộc vào những chọn lựa tự quyết của người khác. Tự do của con chỉ tùy thuộc vào chọn lựa tự quyết của chính con, và con có quyền năng tự giải phóng khỏi các tin tưởng và cơ chế nội tại khiến con nghĩ con phải phản ứng lại người khác, hay phải làm gì đó trong thế gian.

Arcturus yêu dấu, con nay xin thày phóng
Dòng Lửa Tím của thày cho sự sống tăng triển.
Những vòng tròn ánh sáng cứ không ngừng tỏa rộng,
Trong mỗi hạt nguyên tử cũng đồng nhịp sáng lên. 

Arcturus yêu dấu, Elohim Tự do,
Con đang mở tim ra thực tại của thày đó,
Trái tim con lan rộng ra Vô biên dang trải,
Và bí quyết chiến thắng là ngọn lửa của thày.

1.6. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra ngay cả chuyện đánh nhau với tự ngã cũng có thể trở thành một tấn tuồng, và con không thể khắc phục tự ngã bằng cách sử dụng tự ngã. Con sẽ không khắc phục tự ngã qua một tấn tuồng do tự ngã tạo ra.

Arcturus yêu dấu, ở với con mãi mãi,
Ngày mới con sẵn lòng chào đón khi sống lại,
Khi cuộc đời nhân thế không thể buộc được mình,
Con gọi sự sống mới trong Ngọn lửa Tái sinh.

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do của con được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

1.7. Serapis Bey, con thấy được bản chất của sáng tạo là thăng vượt mọi ranh giới. Không có ranh giới nào có thể hạn chế sáng tạo của con, ngoại trừ những ranh giới tạo ra trong tâm con khiến con không dám biểu lộ nó ra.

Arcturus yêu dấu, màu tím và ánh lửa
Ngập từng hạt nguyên tử và nâng nó lên cao,
Ánh sáng đổ đầy hết khoảng không gian ở giữa,
Và ngay cả vật chất cũng sáng rực làm sao. 

Arcturus yêu dấu, Hồng ân biến đổi cả,
Trao cho con uy lực đương đầu mọi thách đố,
Khi ánh sáng màu tím ngập toàn cõi bên trong,
Con nhắm hướng thăng thiên, tự nguyện và nhanh chóng.

1.8. Serapis Bey, xin thày giúp con thăng vượt lời dối của sa nhân bảo rằng có một chuẩn mực làm thước đo cho mọi thứ. Con thấy được là sự xét đoán nhị nguyên không dính dáng gì đến sáng tạo. Đó là phản đề của sáng tạo.

Arcturus yêu dấu, đem lại thời đại mới,
Trái đất và nhân loại lật qua trang đổi đời,
Ánh sáng thày chuyển hóa, cho con niềm chắc chắn,
Hoàng kim Saint Germain là thực tại hoàn toàn.

Arcturus yêu dấu, con buông mọi sợ hãi,
Thày Hiện diện thật gần, tưởng chạm được bằng tay,
Tai con luôn văng vẳng Bài hát của Tự do,
Và con biết Thượng đế yêu thương mình lắm đó. 

1.9. Serapis Bey, xin thày giúp con bỏ lại cuộc chạy đuổi để cố trở thành toàn hảo, cố thỏa mãn tiêu chuẩn, khi con nghĩ là nếu con đủ tốt thì con sẽ được chấp thuận.

Gia tốc tới Thanh tịnh, TA LÀ có thật,
Gia tốc tới Thanh tịnh, mọi sự sống chữa lành,
Gia tốc tới Thanh tịnh, TA LÀ hơn nữa,
Gia tốc tới Thanh tịnh, tất cả sẽ vút cao.

Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Elohim Astrea yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Gabriel và Hope yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Serapis Bey yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
TA LÀ yêu dấu.

Phần 2

2.1. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn xem tâm con có cơ chế nào muốn so sánh sự biểu đạt của con với một tiêu chuẩn vỏ ngoài trước khi con dám biểu đạt. Nếu vậy thì con đã đóng chặt sáng tạo của con.

Đại thiên thần Gabriel, ánh sáng con kính mến,
Chẳng còn gì sợ hãi, trầm mình trong Hiện diện,
Làm đệ tử Ki-tô nay con đã thật quên
Tự ngã với tham vọng đáp trả miếng từng miếng.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.2. Serapis Bey, xin thày giúp con khắc phục ảo tưởng vi tế cho rằng mọi chuyện phải được phân tích và đánh giá bởi tâm phân tích. Hãy giúp con thăng vượt tiêu chuẩn mà xã hội và các hệ thống giáo dục của thế gian áp đặt lên con.

Đại thiên thần Gabriel, con không sợ ánh sáng,
Trong lửa trắng thanh tẩy, sao con thấy rộn ràng,
Tay con trong tay thày, mỗi thử thách trực diện
Là ân huệ không ngớt để con cứ theo lên.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.3. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra là con không thể đạt tới điểm thăng thiên hay hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con bằng cách quy phục các tiêu chuẩn của xã hội, gia đình hay nơi làm việc. Con cần cả gan làm điều gì đó khác biệt.

Đại thiên thần Gabriel, lửa trắng thày thiêu cháy,
Bước ra khỏi đêm tối, con thăng lên cùng thày.
Chẳng còn một nơi chỗ cho tự ngã trốn chạy,
Con trụ vững trong thày, thăng thiên theo ốc xoáy.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.4. Serapis Bey, xin thày giúp con vượt qua xu hướng nhìn đời mình với một thái độ phán xét, lo lắng về những lỗi lầm con đã vấp phải. Hãy giúp con nhìn đời con và thấy mọi việc con đã làm đều là thử nghiệm, và trong thử nghiệm thì không có lỗi lầm.

Đại thiên thần Gabriel, con nghe thấy tiếng kèn,
Báo hiệu ngày đản sanh của Ki-tô gần đến.
Trong bản thể nhẹ nhõm con đang được tái sinh,
Cùng Ki-tô con bước vào buổi sáng Phục sinh.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.5. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra là có nhiều trường hợp khi ý định ý thức của con không được thực hiện, nhưng không có nghĩa là một lỗi lầm. Hãy giúp con bước lui lại và nhận ra Hiện diện TA LÀ của con không nhìn sự kiện đó theo cách con nhìn.

Đại thiên thần Zadkiel, dòng chảy nhanh đến nỗi
Trong lửa tím của thày, con lập tức chuyển đổi,
Nhập vào tầng rung động của tự do phơi phới,
Con thoát khỏi kềm chế của cái ta kém cỏi.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

2.6. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra là trong nhiều trường hợp, ý định ý thức của con không phù hợp với Sứ vụ Thiêng liêng hay tiềm năng phát triển cao nhất của con. Do đó, mục đích của việc làm không phải để thực hiện mục tiêu ý thức, mà để nhận ra là con không muốn làm việc đó nữa.

Đại thiên thần Zadkiel, con khao khát từng ngày
Được cai quản ngọn lửa màu tím của thày đây,
Khi con dùng sức mạnh luyện kim để chuyển hóa,
Và gọi tên Thiên ngữ để giải vây tất cả.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

2.7. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra là trong nhiều trường hợp khi con bị thất vọng hay lầm lỗi, vấn đề thực sự là con cần nhận biết con muốn gì trong đời.

Đại thiên thần Zadkiel, ngọn lửa tím quyền năng
Biến đổi cả thế giới trong lực chuyển vô song.
Trái đất khi thức dậy, bắt đầu quay nhanh chóng,
Với đoàn quân thiên thần, ta cùng nhau chiến thắng.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

2.8. Serapis Bey, xin thày giúp con khắc phục mong muốn bước vào tách biệt và nhị nguyên. Hãy giúp con tự do biểu hiện sự sáng tạo của con bằng cách gỡ bỏ những cơ chế và tin tưởng về những việc con nghĩ mình phải làm trong cuộc sống.

Đại thiên thần Zadkiel, trong lửa tím thánh thiện,
Nhân loại với hành tinh không bao giờ như trước,
Thời Hoàng kim mà thày Saint Germain mơ ước
Thành sự thật tuyệt vời, con mừng vui chứng kiến.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

2.9. Serapis Bey, xin thày giúp con khắc phục sự điều kiện hóa đã khiến con đặt trọng tâm vào việc tránh né các hậu quả ngặt nghèo và khó chịu của hành động của mình.

Con bay với thiên thần,
Để đạt được nhiều HƠN.
Thiên thần ôi rất thật,
Tình thương sẽ chữa hết.
Với thiên thần bình an,
Muôn ray rứt phải tàn.
Với thiên thần ánh sáng,
Ta bay bổng thênh thang.

Cánh thiên thần xào xạc trong ngọn gió,
Vui vui lắm khi vật chất hát to,
Vui với từng hạt nguyên tử vo vo
Cùng hòa tấu với cánh thiên thần nhỏ.

Phần 3

3.1. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra là nếu trọng tâm của con là tránh phạm lỗi thì con không đang thực sự sáng tạo. Sáng tạo không phải là liên hệ với thế giới vật chất cùng các điều kiện hiện hữu. Sáng tạo là khi con liên hệ với Hiện diện TA LÀ của con, và cho phép cá thể và sáng tạo của con được biểu đạt trong thế giới vật chất.   

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.2. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra sáng tạo không phải là chuyện tìm cách tránh né hậu quả tiêu cực, mà là sáng tạo để con thăng vượt hay thay đổi những điều kiện đang tạo ra hậu quả tiêu cực.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.3. Serapis Bey, xin thày giúp con trở thành thiên tài trong đời sống hàng ngày bằng cách là người sáng tạo, học cách sử dụng khả năng sáng tạo tâm linh, thần thánh mà con có sẵn, để tạo đời sống cùng trải nghiệm đời sống mà con mong muốn trong kiếp này, hầu trợ giúp sự tăng triển của con.

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao, 
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.4. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra là việc hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng cho kiếp này đòi hỏi con làm một số việc mà người đời trong môi trường của con có thể xem là phi lý, vô trách nhiệm hay kỳ lạ.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.5. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra là nếu con nối kết trực giác với Hiện diện TA LÀ rồi sau đó bước vào tâm phân tích, thì con đã tắt đi luồng sáng tạo. Hiện diện TA LÀ của con phải lui về, tôn trọng quyền tự quyết của con và không biểu đạt qua con.

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.6. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra là cách duy nhất để biết được Hiện diện sắp làm gì xuyên qua con là trải nghiệm khi sự việc đang diễn ra. Con không thể biết trước được. Con cần để cho Hiện diện biểu lộ những gì nó muốn biểu lộ.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất.
Serapis Bey, xin thày phơi ra
Mọi nét trong con chưa đủ hài hòa.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.7. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra quy luật rằng con không thể vừa nối kết với Hiện diện, vừa đánh giá xem Hiện diện phải biểu lộ ra sao. Con không thể nối kết với Hiện diện qua tâm phân tích.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.8. Serapis Bey, xin thày giúp con khắc phục nỗi sợ khả năng sáng tạo của mình, cùng niềm tin cho rằng cách duy nhất để tránh hậu quả tệ hại là kiểm soát mọi chuyện. Hãy giúp con khắc phục nỗi sợ mình là người tự phát, sợ những gì không thể tiên đoán trước.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.9. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn thấy tâm thức Ki-tô là khi con nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, và Hiện diện có thể biểu đạt xuyên qua con. Tự con không thể làm nổi việc gì, mà Hiện diện TA LÀ ở trong con làm mọi việc.

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Phần 4

4.1. Serapis Bey, xin thày giúp con đem những gì con học được tại khóa nhập thất xuống các thể bản sắc, lý trí, cảm xúc, và cuối cùng xuống thể vật lý.

Ôi Saint Germain, nghệ thuật luyện kim, 
Giải phóng con ngay với ngọn lửa tím.
Ôi Saint Germain, con tăng liên tục,
Dòng chảy tự do không sao khuất phục. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Serapis Bey, xin thày giúp con nhận ra khi nào những gì đến với con là từ tâm tiềm thức của con. Hãy giúp con nhìn thấy những điều trong tâm tiềm thức đang ngăn chặn không cho con hòa điệu với Hiện diện TA LÀ của con.

Ôi Saint Germain, điều khiển tài tình
Hình dạng kỷ hà của ngọn lửa tím.
Ôi Saint Germain, ở thày con tìm
Thấy được công thức giải thoát chính mình. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Serapis Bey, xin thày giúp con có can đảm đi theo sự chỉ đạo nội tâm, và thực hiện những thay đổi trong hoàn cảnh vỏ ngoài sẽ đẩy mạnh phát triển tâm linh và Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Ôi Saint Germain, Tự do bao la,
Chính là tình thương giải thoát tất cả.
Ôi Saint Germain, sao con yêu quá
Lửa tím cứ giục con càng hơn xa. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Serapis Bey, xin thày giúp con phát triển khả năng phân biện khi những gì đến với con trong nội tâm không từ Hiện diện TA LÀ hay các chân sư thăng thiên, mà từ một khía cạnh nào đó của tự ngã.

Ôi Saint Germain, chúng con nối kết,
Từ bỏ nhị nguyên, thăng lên siêu việt.
Ôi Saint Germain, cái ta tinh khiết,
Khoa học lửa tím vững tay cầm trịch.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Serapis Bey, xin thày giúp con đạt tới điểm con nhìn thấy một cách ý thức đó không phải là một chỉ đạo cao hơn đến từ một nguồn cao hơn. Hãy giúp con nhận ra điều này trong ý thức, để con phơi bày một khía cạnh của tự ngã, rồi gia tăng mức hòa điệu với Hiện diện TA LÀ, và nhận được chỉ đạo đích thực từ trên.

Ôi Saint Germain, sự thật rõ ràng, 
Trong ánh sáng tím, chẳng gì băn khoăn.
Ôi Saint Germain, niêm kỹ hào quang,
Luân xa con được lửa thày hàn gắn. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Serapis Bey, xin thày giúp con phát triển khả năng phân biện những hướng dẫn nội tâm đến từ các sinh thể trong cõi trí hay cõi bản sắc, hay từ chính thể bản sắc hay thể lý trí của con. Hãy giúp con nhìn thấy mục đích là để con nhận ra đó không phải là cao nhất, mà có cái cao hơn.

Ôi Saint Germain, là thuật biến hóa,
Lửa tím giải phóng nguyên tử thăng hoa.
Ôi Saint Germain, biến chì thành vàng,
Biến cả viễn kiến mà chính con mang.  

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra là có khi đường tu có vẻ phức tạp, vì khi con nhìn từ bên trong tâm con, thật khó nhìn thấy những cơ chế con đã tạo dựng. Con đã tạo ra những cơ chế đó để cho mình ảo tưởng mình là một sinh thể tách biệt.

Ôi Saint Germain, nghệ thuật vượt thăng,
Với thày con sẽ hợp nhất vĩnh hằng.
Ôi Saint Germain, thoát khỏi tâm hồn,
Ôi niềm vui sướng biết thày trong con.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra con không phải là một sinh thể tách biệt – đây hoàn toàn là một ảo tưởng. Hãy giúp con biết rõ là khi con tiến lên từng bước một, con làm cho tấm màn ngày càng mỏng hơn, và sẽ có những lúc khi mây mù hé mở, con bắt được một tia sáng từ mặt trời là Hiện diện TA LÀ của con.

Ôi Saint Germain, tinh thần cao thượng,
Là chìa khoá cho hóa học tâm linh.
Ôi Saint Germain, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Serapis Bey, xin thày giúp con hòa điệu trong ý thức với Hiện diện mà thày là. Con muốn trải nghiệm Hiện diện của thày trong tâm vỏ ngoài của con, để nó neo chặt bước tăng triển mà con đã thực hiện ở tầng ê-the, đem vào cuộc sống vật lý và tâm vỏ ngoài.

Ôi Saint Germain, thày đang Hiện diện, 
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tự do Thượng đế con xin rải truyền. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

15 | Thỉnh cầu an bình trong phụng sự

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Purity và Astrea, và Peace và Aloha, Đại thiên thần Gabriel và Hope, và Uriel và Aurora, Serapis Bey và Nada yêu dấu, hãy giúp con thăng vượt mọi mong muốn phụng sự sẽ tước mất sự an bình của con. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ mọi khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Serapis Bey và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra động lực khiến con đến địa cầu, cũng như mong muốn phụng sự để giúp nâng cao địa cầu.

Astrea yêu dấu, tim của thày thực chân,
Vòng tròn và Gươm báu của thày xanh và trắng,
Chém phăng dây buộc trói của bi kịch vô minh,
Để hành tinh dâng mãi trên đôi cánh Thanh tịnh.

Astrea yêu dấu, trong Thanh tịnh Thượng đế,
Xin gia tốc năng lượng cho đời con tràn trề,
Nâng cao tâm của con vào hợp nhất chân thực
Với Chân sư yêu dấu của tình thương Vô cực.

1.2. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra làm thế nào mong muốn phụng sự địa cầu có thể lấy đi sự an bình của con.

Astrea yêu dấu, từ Tia sáng Thuần khiết,
Mọi sự sống hôm nay, thày giải thoát thấu triệt.
Khi thanh tịnh gia tốc thì con là tự do,
Khỏi luyến ái ô trọc, con thăng lên buông bỏ.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Và nâng cao trong con mọi chân lý đẹp thay. 

1.3. Serapis Bey, xin thày giúp con xem xét liệu con có dùng một giáo lý tâm linh để củng cố cho tư duy cuồng đại và mong muốn nhìn thấy những thay đổi đặc thù trên trái đất.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc chúng con,
Thày ra tay giải cứu, con thành khẩn cầu mong,
Vượt quan điểm ô trọc, tất cả sẽ thênh thang,
Bỏ nghi ngờ sợ hãi, con nhất định vượt thăng.

Astrea yêu dấu, con sẵn sàng nhìn rõ
Vào mọi lời gian dối khiến con mất tự do.
Con đang vượt lên trên từng ô uế bợn nhơ,
Để Ánh sáng Thanh tịnh hoài hoài trong con tỏ.

1.4. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra là con không ở đây để cưỡng ép người khác, mà để nâng cao tầm nhìn nội tâm, hiểu biết cùng viễn quan của mọi người hầu họ có thể tự nguyện thực hiện một số thay đổi.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc sự sống,
Vượt lên trên nhị nguyên, hiềm khích và tấn công,
Xóa hết mọi ranh giới giữa Thượng đế và người,
Ý toàn hảo của Ngài, mau hoàn tất xinh tươi.

Astrea yêu dấu, con trìu mến thỉnh gọi,
Cho cái vách vô hình của ngăn cách đổ rơi,
Nay con đã buông bỏ mọi lọc lừa sa ngã,
Và mãi mãi khẳng định duy nhất của Tất Cả.

1.5. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn xem liệu sa nhân đã ép buộc con phải phản ứng lại chúng và chống lại chúng.

Ôi Elohim Peace, trong Ngọn lửa Kết hợp,
Nhị nguyên không còn chỗ để bày trò cuộc chơi, 
Con biết mọi hình tướng tuôn ra từ một cội,
Con lấy uy lực đó định ra hướng đi mới. 

Ôi Elohim Peace, hồi chuông đã vang rền,
Khiến từng hạt nguyên tử ca hát và rung lên.
Con nay thấy được rằng chẳng vật gì tách biệt,
Khi cái ngã phàm phu, con buông bỏ đoạn tuyệt. 

1.6. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra và vươn lên trên bất kỳ vòng xoáy tự tăng cường nào – khi con phản ứng lại những người con gặp trong gia đình, nơi sở làm hay ở nơi khác – hầu con có thể thoát khỏi mọi nhóm người mà con mang nghiệp.

Ôi Elohim Peace, thày hãy giúp con ngộ
Rằng Giê-su giáng thế để ban con Ngọn lửa,
Rải cho ai sẵn lòng rũ hết chuyện ganh đua,
Nhập sự sống bất tận mà theo chân Ki-tô.

Ôi Elohim Peace, qua mắt thày con biết
Rằng chỉ trong cái Một con mới mong giải thoát,
Con nay bỏ lại hết ý niệm ngã riêng biệt
Khi con vượt biển cả của luân hồi trùng điệp. 

1.7. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn thấy và thăng vượt những vòng xoáy phản ứng vi tế hơn, như ý niệm rằng sa nhân đã cưỡng ép người đời vào vòng xoáy hướng hạ, cho nên con cũng rất chính đáng khi con cưỡng ép người đời phải ra khỏi vòng xoáy vì lợi ích của họ.

Ôi Elohim Peace, thày chỉ con lối đi, 
Ngừng đấu đá nhị nguyên, con thông sạch tâm trí, 
Thày đâm xuyên ảo giác thời gian lẫn không gian,
Đem Hồng ân Bất tận tiêu hủy mọi phân ly. 

Ôi Elohim Peace, tên thày sao đẹp quá,
Nỗi nhị nguyên tủi hổ trong con thày giải tỏa,
Chính qua sự rung động của Ngọn lửa Hoàng kim
Mà ảo ảnh sự chết được Ki-tô nhận chìm.

1.8. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn thấy và thăng vượt cảm nhận vi tế là con ở đây để phụng sự địa cầu, và thước đo để đánh giá sự thành công trong phụng sự là thấy được những thay đổi vỏ ngoài cụ thể.

Ôi Elohim Peace, thày đem vào thế giới  
Lửa Tái sinh Vũ trụ mà chẳng ai ngăn nổi, 
Con nay từ bỏ hẳn mọi ý niệm “cái tôi”,
Để Ánh sáng của thày trong con được chiếu rọi. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.9. Serapis Bey, con nay thấy được là chừng nào con còn nghĩ việc phụng sự trên hành tinh này phụ thuộc vào việc chế tạo một số thay đổi vỏ ngoài cụ thể gắn liền với những chọn lựa tự quyết của người khác, thì con không thể đạt được an bình nội tâm.

Gia tốc tới Thanh tịnh, TA LÀ có thật,
Gia tốc tới Thanh tịnh, mọi sự sống chữa lành,
Gia tốc tới Thanh tịnh, TA LÀ hơn nữa,
Gia tốc tới Thanh tịnh, tất cả sẽ vút cao.

Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Elohim Astrea yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Gabriel và Hope yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Serapis Bey yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
TA LÀ yêu dấu.

Phần 2

2.1. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn thấy và thăng vượt mọi mâu thuẫn giữa động lực nguyên thủy đã khiến con đến trái đất – thuần khiết và dựa trên tình thương – với động lực và quan điểm mà con hiện có trong tâm ý thức và ba thể cao của con.

Đại thiên thần Gabriel, ánh sáng con kính mến,
Chẳng còn gì sợ hãi, trầm mình trong Hiện diện,
Làm đệ tử Ki-tô nay con đã thật quên
Tự ngã với tham vọng đáp trả miếng từng miếng.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.2. Serapis Bey, con thấy được là con không thể an bình với việc mình hiện thân trên địa cầu nếu con còn nghĩ con ở đây để đem lại những thay đổi cụ thể lệ thuộc vào sự chọn lựa tự quyết của người khác. Con thấy là việc con phụng sự đời sống không tùy thuộc bất cứ gì ở ngoài con.

Đại thiên thần Gabriel, con không sợ ánh sáng,
Trong lửa trắng thanh tẩy, sao con thấy rộn ràng,
Tay con trong tay thày, mỗi thử thách trực diện
Là ân huệ không ngớt để con cứ theo lên.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.3. Serapis Bey, con thấy được là con phụng sự bằng cách bước chân trên con đường tự điều ngự, và trở thành cánh cửa mở cho ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của con và đoàn chưởng giáo thăng thiên ở trên con.

Đại thiên thần Gabriel, lửa trắng thày thiêu cháy,
Bước ra khỏi đêm tối, con thăng lên cùng thày.
Chẳng còn một nơi chỗ cho tự ngã trốn chạy,
Con trụ vững trong thày, thăng thiên theo ốc xoáy.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.4. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra và thăng vượt rất nhiều lớp lừa dối của sa nhân, nhằm cản trở con thực hiện đúng một điều mà con đã đến đây để thực hiện – là làm cánh cửa mở cho ánh sáng.

Đại thiên thần Gabriel, con nghe thấy tiếng kèn,
Báo hiệu ngày đản sanh của Ki-tô gần đến.
Trong bản thể nhẹ nhõm con đang được tái sinh,
Cùng Ki-tô con bước vào buổi sáng Phục sinh.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.5. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn thấy là con có quyền biểu hiện ánh sáng của mình do con đã hiện thân trong cõi vật lý. Quyền tự quyết của con đã trở thành một phần trong phương trình của địa cầu.

Đại thiên thần Uriel, với uy lực dũng mãnh,
Các thiên thần hòa bình nuốt trọn hết chiến tranh. 
Bọn quỷ dữ hung hăng không thể nào địch nổi
Ánh sáng đang thiêu chúng, lửa rực lên sáng ngời.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,  
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

2.6. Serapis Bey, nay con thấy được là con có quyền hiện thân. Con có quyền là con người mà con là, và làm cánh cửa mở cho ánh sáng từ đoàn chưởng giáo bên trên con. Đây là quyền mà Thượng đế đã ban cho con.

Đại thiên thần Uriel, âm thanh vang cùng thấu,
Khi hàng triệu thiên thần góp giọng ca hợp tấu, 
Tiếng hát nâng cường độ chọc thủng qua đêm thâu,
Và mọi người bỗng thấy sự duy nhất nhiệm màu.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,  
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

2.7. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn thấy và thăng vượt lời dối bảo rằng con không thể biểu hiện ánh sáng cho tới khi hội đủ một số điều kiện. Con thấy là không một điều kiện bên ngoài nào có thể ngăn con tự thăng vượt và biểu hiện ngày càng nhiều ánh sáng hơn.

Đại thiên thần Uriel, từ trên Ngai Cao ngất,
Hàng triệu cái kèn đồng vang lên Âm Duy nhất, 
Tan hết mọi bất hòa trong ca khúc hài hòa,
Là âm của mọi âm, đời giải thoát mở ra.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,  
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

2.8. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra và thăng vượt chủ nghĩa toàn hảo do sa nhân phát minh để khiến con tin rằng việc biểu hiện ánh sáng của con phải thỏa mãn một tiêu chuẩn không thể thỏa mãn.

Đại thiên thần Uriel, mọi chiến tranh chấm dứt,
Khi thày đem thông điệp từ trái tim Duy nhất, 
Hòa bình trong tim người trổi lên thành hợp xướng
Cứ thế lớn thêm mãi trong vòng xoáy yêu thương.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,  
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

2.9. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn thấy và thăng vượt các phóng chiếu của sa nhân bảo rằng ánh sáng của con có vấn đề và chính con cũng có vấn đề. Hãy giúp con thoát khỏi mọi mong muốn tu tập để đạt được một trạng thái toàn hảo.

Con bay với thiên thần,
Để đạt được nhiều HƠN.
Thiên thần ôi rất thật,
Tình thương sẽ chữa hết.
Với thiên thần bình an,
Muôn ray rứt phải tàn.
Với thiên thần ánh sáng,
Ta bay bổng thênh thang.

Cánh thiên thần xào xạc trong ngọn gió,
Vui vui lắm khi vật chất hát to,
Vui với từng hạt nguyên tử vo vo
Cùng hòa tấu với cánh thiên thần nhỏ.

Phần 3

3.1. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra và thăng vượt xu hướng sử dụng giáo lý và kỹ thuật tâm linh để hoàn thiện ngã vỏ ngoài, hầu nó thỏa mãn tiêu chuẩn của sa nhân.

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.2. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra là con sẽ không bao giờ trở thành toàn hảo bởi vì không hề có trạng thái toàn hảo. Sa nhân sẽ không bao giờ chấp nhận ánh sáng cho dù ánh sáng được biểu hiện cách nào.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.3. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra và thăng vượt lời dối bảo rằng ánh sáng của con cần được chấp nhận để làm công việc của nó. Con chỉ cần biểu hiện ánh sáng của con, xong để yên cho ánh sáng làm công việc của nó. Sự thành công của việc con phụng sự không tùy thuộc vào phản ứng của người khác.

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao, 
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.4. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra là chừng nào con còn nghĩ việc phụng sự của con tùy thuộc vào phản ứng người khác, thì con sẽ không thể bình an. Nếu con không bình an, con sẽ không thể là cánh cửa mở cho Ánh sáng.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.5. Serapis Bey, xin thày giúp con tách rời ý tưởng phụng sự ra khỏi mong muốn tạo kết quả cụ thể hay được người khác nhìn nhận, công nhận và xác nhận.

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.6. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra và thăng vượt sự thiếu hụt giá trị bản thân do con đã bị sa nhân gạt bỏ. Hãy giúp con khắc phục xu hướng bù đắp cho thiếu hụt đó bằng cách tranh thủ sự công nhận của sa nhân hoặc bất kỳ ai khác trong thế gian.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất.
Serapis Bey, xin thày phơi ra
Mọi nét trong con chưa đủ hài hòa.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.7. Serapis Bey, con thấy là con sẽ không bao giờ toàn hảo dưới mắt sa nhân. Con sẽ ngừng không đuổi theo củ cà-rốt này nữa. Con sẽ ngừng không là con lừa cho sa nhân, và thay vào đó, con sẽ là cánh cửa mở cho ánh sáng của chân sư thăng thiên.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.8. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra và thăng vượt mọi động lực xuất phát từ tự ngã đã khiến mình bước chân trên đường tu tâm linh. Hãy giúp con nhìn ra tự ngã muốn được gì từ việc con bước chân trên đường tu.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.9. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra và thăng vượt bất kỳ vòng xoáy tự tăng cường nào khiến con và những người tâm linh khác củng cố cảm nhận là mình tốt đẹp hơn người do mình đi theo một đạo sư hay một giáo lý đặc biệt. Cảm nhận này xuất phát từ tự ngã.

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Phần 4

4.1. Serapis Bey, con sẵn lòng thăng vượt những khuôn nếp tước đi sự an bình nội tâm của con. Con nhìn nhận một cách ý thức là con muốn an bình nội tâm, và con muốn thành công khi phụng sự trên hành tinh này. Con muốn phụng sự trong an bình, và con muốn sự an bình đến từ cái biết mình phụng sự thành công.

Chân sư Nada, cái đẹp quyền năng,
Nở ra như một đóa hoa tuyệt trần.
Chân sư Nada, ôi sao thâm trầm, 
Ý chí chinh phục được cả thời gian. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Serapis Bey, con không cưỡng lại việc thày phơi bày khuôn nếp trong tâm đang ngăn cản con có được những gì con muốn. Xin thày giúp con nhìn ra cơ chế đó và để cho nó ra đi một cách ý thức.

Chân sư Nada, thày ban cho con,
Minh triết chảy ra như dòng nước cuốn.
Chân sư Nada, tâm thày cường tráng, 
Dâng lên theo cánh bài ca thường hằng. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Serapis Bey, xin thày giúp con thực sự chấp nhận và nhìn nhận là con đặc biệt. Con độc đáo, nhưng sự độc đáo của con không neo trụ trong bốn thể phàm mà nơi Hiện diện TA LÀ và căn thể của con.

Chân sư Nada, hương thơm tuyệt hảo,
Tình thương của thày từ cõi thiên thai.
Chân sư Nada, hiền dịu từ ái, 
Nương cánh tình yêu con vươn lên hoài. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra và thăng vượt xu hướng xây đắp một ngã vỏ ngoài đặc biệt so với người khác. Hãy giúp con tìm lại giá trị bản thân bằng cách nối kết lại với sự kiện con đặc biệt do cá thể mà Thượng đế đã ban cho con, chứ không do cá tính mà con đã xây dựng qua việc phản ứng lại các điều kiện mà sa nhân tạo ra.

Chân sư Nada, ánh sáng Mẹ đây,
Như diều phơi phới, tim con bay nhảy.
Chân sư Nada, trong mắt của thày,
Sự sống trinh bạch như hạt sương mai. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Serapis Bey, nay con thấy được là con không cần tranh thủ sự công nhận của sa nhân hay của người khác, vì con đã có sự công nhận của Đấng Sáng tạo ra con và của các chân sư thăng thiên.

Chân sư Nada, thày đem chân lý,
Như chim buổi sáng hát bản tình ca.
Chân sư Nada, bốn thể phàm ngã, 
Tình yêu của thày hàn gắn được cả. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Serapis Bey, xin thày giúp con xoay chuyển trong tâm ý thức để con cảm được sự công nhận và chứng thực của thày. Hãy giúp con trải nghiệm tình thương của thày cho con, liên tục xối xuống như mưa rơi từ Trời.

Chân sư Nada, yên tâm phục vụ,
Bao nhiêu tình cảm giải hóa sạch rồi.
Chân sư Nada, cuộc đời hứng thú, 
Và đám rối dương* sáng như mặt trời.
(*: solar plexus) 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Serapis Bey, con nhìn ra là thày không đang hạn chế ánh sáng chảy xuống con. Con mới là kẻ không nhận ra ánh sáng vì con mang một số giới hạn trong tâm, khiến con nghĩ mình không xứng đáng với ánh sáng, hay mình không có khả năng nhận được ánh sáng.

Chân sư Nada, tình yêu tự do,
Không còn điều kiện, không còn so đo.
Chân sư Nada, vươn lên buông bỏ
Sắc thái phàm phu tình yêu thấp nhỏ.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Serapis Bey, xin thày giúp con nhận biết ở mức thể bản sắc là con độc đáo một cách không thể so sánh. Hãy giúp con đem nhận biết này xuống trí thể và cảm thể, rồi xuống đến tâm ý thức của con.

Chân sư Nada, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Nada, vươn lên rọi sáng, 
Vẻ đẹp thần thánh ôi sao huy hoàng. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Serapis Bey, xin thày giúp con xoay chuyển và trải nghiệm tình thương của thày. Con mở ra để trải nghiệm tình thương của thày một cách ý thức. Hãy giúp con xoay chuyển ngay bây giờ hầu con sống phần đời còn lại trong an bình, biết rằng con đang làm công việc phụng sự cao đẹp nhất mà con có thể bằng cách con là chính mình, con là cánh cửa mở cho ánh sáng mà con là.

Chân sư Nada, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Hoà bình Thượng đế con xin rải truyền. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

11 | Thỉnh cầu ý định tự lực

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Purity và Astrea, Đại thiên thần Gabriel và Hope và Serapis Bey yêu dấu, hãy giúp con thăng vượt mọi ý định thấp kém và phát hiện ý định nội tâm đã khiến con đi vào hiện thân. Xin các thày giúp con nhận ra và buông bỏ mọi khuôn nếp đang ngăn cản con nhập một với Serapis Bey và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Serapis Bey, con đang biểu hiện động lực tự lực mà con vốn có để bước trên đường tu. Con buông bỏ một cách ý thức mọi động lực nhằm lánh xa, tránh né, thoát ra hay vươn lên khỏi các thế lực bóng tối.

Astrea yêu dấu, tim của thày thực chân,
Vòng tròn và Gươm báu của thày xanh và trắng,
Chém phăng dây buộc trói của bi kịch vô minh,
Để hành tinh dâng mãi trên đôi cánh Thanh tịnh.

Astrea yêu dấu, trong Thanh tịnh Thượng đế,
Xin gia tốc năng lượng cho đời con tràn trề,
Nâng cao tâm của con vào hợp nhất chân thực
Với Chân sư yêu dấu của tình thương Vô cực.

1.2. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi động lực tu tập liên quan đến – và do đó được quy định bởi – sa nhân và hàng ngũ giả hiệu.

Astrea yêu dấu, từ Tia sáng Thuần khiết,
Mọi sự sống hôm nay, thày giải thoát thấu triệt.
Khi thanh tịnh gia tốc thì con là tự do,
Khỏi luyến ái ô trọc, con thăng lên buông bỏ.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Và nâng cao trong con mọi chân lý đẹp thay. 

1.3. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi sợ hãi đối với hàng ngũ giả hiệu. Con buông bỏ mọi sợ hãi là thày sẽ chối từ con nếu có những yếu tố tâm thức sa ngã được phơi bày trong con. Con sẵn lòng tận dụng sự giúp đỡ mà thày cống hiến cho con.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc chúng con,
Thày ra tay giải cứu, con thành khẩn cầu mong,
Vượt quan điểm ô trọc, tất cả sẽ thênh thang,
Bỏ nghi ngờ sợ hãi, con nhất định vượt thăng.

Astrea yêu dấu, con sẵn sàng nhìn rõ
Vào mọi lời gian dối khiến con mất tự do.
Con đang vượt lên trên từng ô uế bợn nhơ,
Để Ánh sáng Thanh tịnh hoài hoài trong con tỏ.

1.4. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi ảo tưởng là con đã sạch tâm thức sa ngã. Xin thày giúp con thăng vượt mọi yếu tố mà sa nhân hay tà lực đã cài đặt trong con.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc sự sống,
Vượt lên trên nhị nguyên, hiềm khích và tấn công,
Xóa hết mọi ranh giới giữa Thượng đế và người,
Ý toàn hảo của Ngài, mau hoàn tất xinh tươi.

Astrea yêu dấu, con trìu mến thỉnh gọi,
Cho cái vách vô hình của ngăn cách đổ rơi,
Nay con đã buông bỏ mọi lọc lừa sa ngã,
Và mãi mãi khẳng định duy nhất của Tất Cả.

1.5. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra bất kỳ ý định hay động lực nào phát xuất từ một phản ứng đối với tà lực. Hãy giúp con nhìn thấy bất cứ gì con đang cố tránh né, trốn chạy hay vượt lên trên.

Astrea yêu dấu, tim của thày thực chân,
Vòng tròn và Gươm báu của thày xanh và trắng,
Chém phăng dây buộc trói của bi kịch vô minh,
Để hành tinh dâng mãi trên đôi cánh Thanh tịnh.

Astrea yêu dấu, trong Thanh tịnh Thượng đế,
Xin gia tốc năng lượng cho đời con tràn trề,
Nâng cao tâm của con vào hợp nhất chân thực
Với Chân sư yêu dấu của tình thương Vô cực.

1.6. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra những gì con thực sự yêu thích. Hãy giúp con nhìn xa hơn tất cả những gì con muốn làm, cảm thấy phải làm hay nên làm, để thay đổi địa cầu. Hãy giúp con nhìn ra các ý định liên quan đến điều gì đem lại nhiều niềm vui nhất trong con.

Astrea yêu dấu, từ Tia sáng Thuần khiết,
Mọi sự sống hôm nay, thày giải thoát thấu triệt.
Khi thanh tịnh gia tốc thì con là tự do,
Khỏi luyến ái ô trọc, con thăng lên buông bỏ.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Và nâng cao trong con mọi chân lý đẹp thay. 

1.7. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra những gì con muốn chia sẻ – ánh sáng của con, Hiện diện TA LÀ, ngọn lửa Thượng đế, khuôn đúc cá biệt độc đáo của con. Hãy giúp con thấy được cách biểu hiện cá thể của con một cách sáng tạo.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc chúng con,
Thày ra tay giải cứu, con thành khẩn cầu mong,
Vượt quan điểm ô trọc, tất cả sẽ thênh thang,
Bỏ nghi ngờ sợ hãi, con nhất định vượt thăng.

Astrea yêu dấu, con sẵn sàng nhìn rõ
Vào mọi lời gian dối khiến con mất tự do.
Con đang vượt lên trên từng ô uế bợn nhơ,
Để Ánh sáng Thanh tịnh hoài hoài trong con tỏ.

1.8. Serapis Bey, xin thày giúp con thấy được khả năng sáng tạo cá nhân của con trong dạng thuần khiết, là sự biểu hiện con người mà con là, cá thể Thiêng liêng của con. Hãy giúp con cảm được niềm vui trọn vẹn khi ánh sáng Thượng đế chảy xuyên qua lăng kính của cá thể mà ngài đã cho con.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc sự sống,
Vượt lên trên nhị nguyên, hiềm khích và tấn công,
Xóa hết mọi ranh giới giữa Thượng đế và người,
Ý toàn hảo của Ngài, mau hoàn tất xinh tươi.

Astrea yêu dấu, con trìu mến thỉnh gọi,
Cho cái vách vô hình của ngăn cách đổ rơi,
Nay con đã buông bỏ mọi lọc lừa sa ngã,
Và mãi mãi khẳng định duy nhất của Tất Cả.

1.9. Serapis Bey, con thấy là niềm vui trọn vẹn đó không liên quan tới bất cứ gì bên ngoài con. Đó cũng là một ý định mà con có thể biểu hiện, bất kể hoàn cảnh vỏ ngoài hay các giới hạn mà con phải đối mặt.

Gia tốc tới Thanh tịnh, TA LÀ có thật,
Gia tốc tới Thanh tịnh, mọi sự sống chữa lành,
Gia tốc tới Thanh tịnh, TA LÀ hơn nữa,
Gia tốc tới Thanh tịnh, tất cả sẽ vút cao.

Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Elohim Astrea yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Gabriel và Hope yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Serapis Bey yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
TA LÀ yêu dấu.

Phần 2

2.1. Serapis Bey, con nhìn ra là bất kể các giới hạn con phải đương đầu trong hoàn cảnh vỏ ngoài, không có gì trong các giới hạn này có thể ngăn con làm cánh cửa mở cho ánh sáng và cá thể của Hiện diện TA LÀ.

Đại thiên thần Gabriel, ánh sáng con kính mến,
Chẳng còn gì sợ hãi, trầm mình trong Hiện diện,
Làm đệ tử Ki-tô nay con đã thật quên
Tự ngã với tham vọng đáp trả miếng từng miếng.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.2. Serapis Bey, con khẳng định một cách ý thức là động lực để con bước chân trên đường tu chỉ liên quan đến mong muốn ý thức, viễn quan ý thức, muốn biểu đạt con người thật của mình trong thế giới vật chất.

Đại thiên thần Gabriel, con không sợ ánh sáng,
Trong lửa trắng thanh tẩy, sao con thấy rộn ràng,
Tay con trong tay thày, mỗi thử thách trực diện
Là ân huệ không ngớt để con cứ theo lên.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.3. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn rút khỏi đời sống bình thường, cách ly trong một môi trường thật thoải mái nơi con không phải đương đầu với rất nhiều khía cạnh của tự ngã.

Đại thiên thần Gabriel, lửa trắng thày thiêu cháy,
Bước ra khỏi đêm tối, con thăng lên cùng thày.
Chẳng còn một nơi chỗ cho tự ngã trốn chạy,
Con trụ vững trong thày, thăng thiên theo ốc xoáy.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.4. Serapis Bey, xin thày giúp con tìm được cách làm người tâm linh và thể hiện bản chất tâm linh của mình trong đời sống hàng ngày. Con sẵn lòng chứng tỏ làm thế nào sống tâm linh trong một xã hội phản tâm linh.

Đại thiên thần Gabriel, con nghe thấy tiếng kèn,
Báo hiệu ngày đản sanh của Ki-tô gần đến.
Trong bản thể nhẹ nhõm con đang được tái sinh,
Cùng Ki-tô con bước vào buổi sáng Phục sinh.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.5. Serapis Bey, xin thày giúp con xoay chuyển tâm thức để con nhìn ra cách biểu hiện bản chất tâm linh và sáng tạo của mình, bất kể hoàn cảnh vỏ ngoài con phải đương đầu.

Đại thiên thần Gabriel, ánh sáng con kính mến,
Chẳng còn gì sợ hãi, trầm mình trong Hiện diện,
Làm đệ tử Ki-tô nay con đã thật quên
Tự ngã với tham vọng đáp trả miếng từng miếng.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.6. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn chiều lòng thày, đi theo thày hay chống đối thày. Con muốn khắc phục bất kỳ chướng ngại nào ngăn con làm cánh cửa mở cho sự biểu hiện sáng tạo của ánh sáng và của cá thể neo trụ nơi Hiện diện TA LÀ của con.

Đại thiên thần Gabriel, con không sợ ánh sáng,
Trong lửa trắng thanh tẩy, sao con thấy rộn ràng,
Tay con trong tay thày, mỗi thử thách trực diện
Là ân huệ không ngớt để con cứ theo lên.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.7. Serapis Bey, con sẵn lòng cung cấp động lực hoàn toàn từ bên trong chính con. Con sẵn lòng tương tác với thày không như giữa thày với trò, mà một cách bình đẳng.

Đại thiên thần Gabriel, lửa trắng thày thiêu cháy,
Bước ra khỏi đêm tối, con thăng lên cùng thày.
Chẳng còn một nơi chỗ cho tự ngã trốn chạy,
Con trụ vững trong thày, thăng thiên theo ốc xoáy.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.8. Serapis Bey, con nhận ra là để làm cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ, có một số điều con cần nhìn ra trong tâm thức mình. Và để nhìn ra, thường khi con cần trải nghiệm một số tình huống trong thế giới vật chất.

Đại thiên thần Gabriel, con nghe thấy tiếng kèn,
Báo hiệu ngày đản sanh của Ki-tô gần đến.
Trong bản thể nhẹ nhõm con đang được tái sinh,
Cùng Ki-tô con bước vào buổi sáng Phục sinh.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.9. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức lời dối của sa nhân bảo rằng trong thế gian có một số thứ không tâm linh, không trong sạch và sẽ không giúp con tăng triển tâm linh. Con buông bỏ ảo tưởng là con cần xét đoán mọi thứ dựa theo chuẩn mực do sa nhân quy định.

Con bay với thiên thần,
Để đạt được nhiều HƠN.
Thiên thần ôi rất thật,
Tình thương sẽ chữa hết.
Với thiên thần bình an,
Muôn ray rứt phải tàn.
Với thiên thần ánh sáng,
Ta bay bổng thênh thang.

Cánh thiên thần xào xạc trong ngọn gió,
Vui vui lắm khi vật chất hát to,
Vui với từng hạt nguyên tử vo vo
Cùng hòa tấu với cánh thiên thần nhỏ.

Phần 3

3.1. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức xu hướng dùng năng lực và chú ý để đánh giá mọi công việc mình làm, mọi chuyện mình gặp trong thế giới vật chất. Hãy giúp con nhìn đời một cách trung hòa, không đánh giá cái gì là tâm linh, cái gì không.

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.2. Serapis Bey, xin thày cho con thấy các tiêu chuẩn của con nhằm đánh giá thế nào là tâm linh hay không tâm linh. Con nhìn ra là bất kể hoàn cảnh con phải đối mặt ngay bây giờ, con vẫn có thể là người tâm linh, vẫn biểu hiện được sự sáng tạo và cá thể mà Thượng đế ban cho con.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.3. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức giấc mơ là khi nào một số điều kiện vỏ ngoài được hội đủ, thì khi đó con mới có thể thực sự tâm linh. Con buông bỏ lời dối là có những hoạt động không tâm linh mà con phải tránh, và những hoạt động tâm linh mà con phải tìm.

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao, 
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.4. Serapis Bey, con thấy được là bước tiến của con tùy thuộc vào việc con nhìn ra một số điều kiện, khuôn nếp và khuôn đúc trong bốn thể phàm đang hạn chế con biểu hiện khả năng sáng tạo. Để nhìn thấy chúng, con cần có một số trải nghiệm trong thế giới vật chất.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.5. Serapis Bey, con thấy một cách ý thức rằng những điều kiện con phải đối mặt ngay lúc này không phải là kẻ thù của sự phát triển tâm linh. Chúng chỉ biểu hiện một trạng thái tâm thức. Chúng cho con cơ hội nhìn ra điều gì đó về chính con, dựa trên cách con phản ứng với chúng.

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.6. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức xu hướng bác bỏ những điều kiện mà con cho là không tâm linh. Thay vào đó, con xét xem chúng có ý dạy con điều gì về chính con. Con xét xem phản ứng của con nói lên điều gì về cách con tự nhìn mình trong quan hệ với thế giới vật chất.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất.
Serapis Bey, xin thày phơi ra
Mọi nét trong con chưa đủ hài hòa.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.7. Serapis Bey, xin thày giúp con thấy và thăng vượt khía cạnh Omega của ý niệm bản sắc, là bản sắc con đã xây dựng suốt bao kiếp đầu thai trên địa cầu, định đoạt cách con tự nhìn mình trong quan hệ với thế giới vật chất.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.8. Serapis Bey, con thấy được lý do một điều kiện hiện ra trong đời con là vì có điều gì con cần học hỏi từ đó. Thay vì chạy trốn điều kiện và như vậy cũng chạy trốn bài học, con ôm lấy bài học.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.9. Serapis Bey, con thấy được là để khắc phục một giới hạn trong tâm lý, con phải đi qua một số bước và một số trải nghiệm có vẻ ô trược hay phản tâm linh. Con thấy là con đã trải qua một số tình huống khiến mình vô cùng xấu hổ.

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Phần 4

4.1. Serapis Bey, xin thày giúp con xoay chuyển và khắc phục những cảm xúc đó. Hãy giúp con chấp nhận là con đã phải trải nghiệm những điều kiện đó hầu khắc phục một điều gì trong bản thân con. Hãy giúp con học được bài học từ những trải nghiệm đáng xấu hổ nhất và thăng vượt lòng xấu hổ.

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi ý nghĩ là con phải có địa vị và đặc quyền trong xã hội, và con không phải nếm mùi một số điều kiện mà những người gọi là tầm thường phải trải qua. Hãy giúp con nhìn ra bất kỳ yếu tố kiêu ngạo nào của sa nhân để con bỏ nó lại đằng sau.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra những trải nghiệm trong đời khi con cần thể hiện sức mạnh ý chí có ý thức, và con quyết định là con đã chán ngấy loại trải nghiệm đó rồi.

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao, 
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Serapis Bey, xin thày giúp con thấy được tin tưởng đã thu hút những điều kiện đó về con, khiến con cảm thấy như mình phải đáp lại một cách nào đó. Hãy giúp con thấy được lời dối của sa nhân bảo rằng bởi vì con là người tu tâm linh sẵn sàng tự cải sửa, con phải cong lưng ra chiều lòng mọi người.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Serapis Bey, hãy giúp con nhìn ra khi nào con cần quyết định là con không muốn một số chuyện vì chúng không thuận với mong muốn cao hơn về những gì con muốn biểu đạt trên địa cầu. Con không muốn xử lý một số người, con không muốn tự thay đổi để chiều lòng họ.

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Serapis Bey, con quyết định ý thức là con không muốn một số người trong đời mình. Con thay thế niềm tin là con phải tự thay đổi để chiều lòng họ, bằng nhận thức là con có quyền là con người của con, có quyền biểu hiện cá thể mà Thượng đế đã cho con dù họ có nghĩ gì đi nữa.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất.
Serapis Bey, xin thày phơi ra
Mọi nét trong con chưa đủ hài hòa.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn vào đời mình, nhìn cách con lượng định thế nào là tâm linh hay không tâm linh, và nhận ra là khi mục đích thực sự là tăng triển, thì chẳng có gì trên địa cầu là ô trược hay không tâm linh. Nếu con cần một trải nghiệm để nhìn ra điều gì về bản thân, thì trải nghiệm này không phản tâm linh.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Serapis Bey, xin thày giúp con lượng định đời con và thăng vượt xu hướng cho phép một số hoạt động lôi cuốn sự chú ý, khiến con không tập trung vào sự tăng triển tâm linh. Hãy giúp con chấp nhận là việc hoạt động với ý định tinh khiết không ảnh hưởng gì đến sự tăng triển tâm linh của con.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Serapis Bey, con sẵn lòng nhìn thấy bất cứ khía cạnh nào trong tâm thức và trong đời con đang ngăn con vượt qua tầng khai ngộ thứ tư tại khóa nhập thất của thày. Con thật sự sẵn sàng khắc phục các giới hạn đó và bước lên tầng kế tiếp.

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

9 | Thỉnh cầu ý định dựa trên tình thương

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Purity và Astrea, Heros và Amora, Đại thiên thần Gabriel và Hope, Chamuel và Charity, Chân sư Serapis Bey và Paul người Venice yêu dấu, hãy giúp con thăng vượt mọi ý định dựa trên sợ hãi, và khám phá cùng phát huy các ý định dựa trên tình thương của con. Xin các thày giúp con nhìn thấy và buông bỏ mọi khuôn nếp đang ngăn cản con nhập một với Serapis Bey và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Serapis Bey, con sẵn lòng gặp gỡ tình thương của thày. Con buông bỏ một cách ý thức hình ảnh thày là một vị thày kỷ luật nghiêm khắc.

Astrea yêu dấu, tim của thày thực chân,
Vòng tròn và Gươm báu của thày xanh và trắng,
Chém phăng dây buộc trói của bi kịch vô minh,
Để hành tinh dâng mãi trên đôi cánh Thanh tịnh.

Astrea yêu dấu, trong Thanh tịnh Thượng đế,
Xin gia tốc năng lượng cho đời con tràn trề,
Nâng cao tâm của con vào hợp nhất chân thực
Với Chân sư yêu dấu của tình thương Vô cực.

1.2. Serapis Bey, con biết thày là một vị thày thương yêu, vì để trở thành một chân sư thăng thiên, một người phải vươn đến mức tâm thức làm cánh cửa mở cho dòng tình thương chảy xuống từ cõi thăng thiên.

Astrea yêu dấu, từ Tia sáng Thuần khiết,
Mọi sự sống hôm nay, thày giải thoát thấu triệt.
Khi thanh tịnh gia tốc thì con là tự do,
Khỏi luyến ái ô trọc, con thăng lên buông bỏ.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Và nâng cao trong con mọi chân lý đẹp thay. 

1.3. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn che giấu bất cứ gì khỏi thày. Con quyết định một cách ý thức là con không sợ thày, con không sợ thày chỉ ra cho con những điều con cần thăng vượt.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc chúng con,
Thày ra tay giải cứu, con thành khẩn cầu mong,
Vượt quan điểm ô trọc, tất cả sẽ thênh thang,
Bỏ nghi ngờ sợ hãi, con nhất định vượt thăng.

Astrea yêu dấu, con sẵn sàng nhìn rõ
Vào mọi lời gian dối khiến con mất tự do.
Con đang vượt lên trên từng ô uế bợn nhơ,
Để Ánh sáng Thanh tịnh hoài hoài trong con tỏ.

1.4. Serapis Bey, con biết một cách ý thức là dù thày có thấy điều kiện gì trong tâm thức con, thày vẫn thương yêu con. Thày sẽ vẫn giúp con khắc phục và vượt khỏi điều kiện đó hoàn toàn.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc sự sống,
Vượt lên trên nhị nguyên, hiềm khích và tấn công,
Xóa hết mọi ranh giới giữa Thượng đế và người,
Ý toàn hảo của Ngài, mau hoàn tất xinh tươi.

Astrea yêu dấu, con trìu mến thỉnh gọi,
Cho cái vách vô hình của ngăn cách đổ rơi,
Nay con đã buông bỏ mọi lọc lừa sa ngã,
Và mãi mãi khẳng định duy nhất của Tất Cả.

1.5. Serapis Bey, con sẵn lòng buông bỏ mọi ý định dựa trên sợ hãi và vươn tới mức con chỉ còn lại những ý định dựa trên tình thương. Con sẵn lòng nhìn vào các ý định dựa trên sợ hãi mà con đang có.

Heros-Amora, trong tình thương màu hồng,
Con không cần biết đến ai nghĩ gì về con,
Trong hợp nhất với thày, con gọi một ngày mới,
Như trẻ thơ trong trắng, con đùa giỡn vui chơi. 

Heros-Amora, đời mới đã khởi sự,
Con cười vào mặt quỷ, là đứa luôn nghiêm nghị,  
Con tắm trong Mặt trời màu Hồng Đỏ lộng lẫy,
Biết rằng Thượng đế muốn cuộc đời vui thơ ngây.  

1.6. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức nỗi sợ là thày sẽ lên án con nếu thày thấy những ý định như vậy nơi con. Con không muốn che giấu bất cứ gì khỏi thày hay khỏi chính con.

Heros-Amora, cuộc đời thật vui thay,
Tưởng chừng như thế giới là đồ chơi vĩ đại,  
Tâm con phóng thế nào thì đời như thế nấy,
Vì tấm gương cuộc sống phản chiếu đúng như vậy.  

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng. 

1.7. Serapis Bey, con thấy được một cách ý thức là chỉ có sợ hãi mới dựng lên một bức tường để che giấu cái gì đằng sau. Con sẵn lòng xem xét bất cứ gì ẩn giấu khỏi tâm ý thức của con.

Heros-Amora, đốt hết mọi điều kiện,
Con biết TA LÀ quyền được lật sang trang mới,  
Trầm mình trong dòng chảy của Tình yêu vô biên,
Con biết rằng Tánh linh đã từ Trên xuống đời.

Heros-Amora, tỉnh ngộ con phát hiện
Rằng tình thương đích thực không hề có điều kiện.
Tuy rắn bị kẹt cứng trong nhị đối của y,
Nhưng con thì thoát được nhờ Tình thương vô kỷ. 

1.8. Serapis Bey, con thấy được một cách ý thức là con không có gì phải sợ khi xem xét điều gì trong tâm lý mình. Con sẽ khắc phục nỗi sợ bằng cách nhìn vào điều đó, và thấy nó không thể ngăn con tiến bước trên đường tu.

Heros-Amora, rốt cuộc con cảm thấy
Mình đã vượt lên trên vùng dĩ vãng sa lầy.  
Trong tình yêu chân thật con tự do phát triển,
Mãi mãi con là một với Dòng Từ vô biên.  

Heros-Amora, điều kiện vốn trói buộc,
Chúng hình thành mạng lưới những gian manh lừa dối.
Tình thương bay xa mãi vì nó không biên giới,
Nâng cao muôn sự sống vào trời Hồng ngọc tươi.

1.9. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức nỗi sợ là nếu con xem xét điều gì trong tâm thức và tìm thấy một số khía cạnh của tâm thức sa ngã, thì thày sẽ chối từ con, và con không thể tiến xa hơn trên đường tu.

Gia tốc tới Thanh tịnh, TA LÀ có thật,
Gia tốc tới Thanh tịnh, mọi sự sống chữa lành,
Gia tốc tới Thanh tịnh, TA LÀ hơn nữa,
Gia tốc tới Thanh tịnh, tất cả sẽ vút cao.

Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Elohim Astrea yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Gabriel và Hope yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Serapis Bey yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
TA LÀ yêu dấu.

Phần 2

2.1. Serapis Bey, con thấy được một cách ý thức là trong tư cách Thượng sư Tia thứ Tư của Tinh khiết, vai trò của thày là giúp con áp dụng Tia thứ Tư để tiêu trừ bợn nhơ của con. Nếu con không có bợn nhơ thì tại sao con lại cần thày giúp?

Đại thiên thần Gabriel, ánh sáng con kính mến,
Chẳng còn gì sợ hãi, trầm mình trong Hiện diện,
Làm đệ tử Ki-tô nay con đã thật quên
Tự ngã với tham vọng đáp trả miếng từng miếng.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.2. Serapis Bey, con thấy được một cách ý thức là toàn bộ công việc của thày như một Thượng sư nhằm giúp con khắc phục bợn nhơ. Thày không phán xét con khi con có những bợn nhơ mà thày đang ở đây để giúp con khắc phục.

Đại thiên thần Gabriel, con không sợ ánh sáng,
Trong lửa trắng thanh tẩy, sao con thấy rộn ràng,
Tay con trong tay thày, mỗi thử thách trực diện
Là ân huệ không ngớt để con cứ theo lên.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.3. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn có một vị thày mà con có thể che giấu bợn nhơ của con. Con buông bỏ mọi mong muốn đi theo hàng ngũ thày giả. Họ mang lòng sợ hãi bên trong họ.

Đại thiên thần Gabriel, lửa trắng thày thiêu cháy,
Bước ra khỏi đêm tối, con thăng lên cùng thày.
Chẳng còn một nơi chỗ cho tự ngã trốn chạy,
Con trụ vững trong thày, thăng thiên theo ốc xoáy.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.4. Serapis Bey, con thấy được một cách ý thức là một sinh thể càng có vẻ có nhiều quyền lực và khả năng kiểm soát thì sẽ càng mang nhiều sợ hãi trong lòng. Người ta cần kiểm soát để có thể sống với nỗi sợ của mình.

Đại thiên thần Gabriel, con nghe thấy tiếng kèn,
Báo hiệu ngày đản sanh của Ki-tô gần đến.
Trong bản thể nhẹ nhõm con đang được tái sinh,
Cùng Ki-tô con bước vào buổi sáng Phục sinh.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.5. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức nỗi sợ bất cứ ai trong thế giới vật lý hay trong ba cõi cao hơn. Con buông bỏ mọi dính mắc với loại thày dựa trên sợ hãi.

Đại thiên thần Chamuel, uy lực tia ngọc hồng,
Con biết con đang tắm trận mưa ban sự sống,
Bao ý chí sa đọa đốt sạch bởi tình thương,
Bỗng nhiên bao ham muốn như chìm nghỉm lắng xuống.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.6. Serapis Bey, con sẵn lòng để thày chỉ cho con thấy ý định nào của con dựa trên sợ hãi. Xin thày chỉ con cách thức sa nhân dùng sợ hãi để kiểm soát con.

Đại thiên thần Chamuel, ánh sáng dâng cuồn cuộn,
Tia hồng ngọc rực lửa đâm xuyên qua đêm trường,
Mọi thế lực bóng tối bị lửa thày thiêu nướng,
Thiêu sạch cả những ai không chịu bước cao hơn.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.7. Serapis Bey, con thấy được một cách ý thức là sa nhân đã khiến cho nhân loại đồng-sáng tạo các điều kiện trong vũ trụ vật chất. Chúng dùng những điều kiện này để gieo lòng sợ hãi trong quần chúng, khiến hầu hết mọi người bỏ cả đời ra để thi hành các ý định xuất phát từ sợ hãi.

Đại thiên thần Chamuel, tình yêu thày bao la,
Cuộc sống nay ý nghĩa do tầm nhìn sáng tỏ,
Khi mục đích cuộc đời con nhận ra quá rõ,
Nhận cả đấng Duy nhất trong tình thương chan hòa.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.8. Serapis Bey, con quyết định một cách ý thức là con không còn muốn bị điều khiển bởi ý định dựa trên sợ hãi nữa. Con sẵn lòng nhận trách nhiệm về bản thân và trạng thái tâm con.

Đại thiên thần Chamuel, đem bình an bất nhị,
Thậm chí cả cái chết mà cũng chẳng là chi,
Thật sự trong tình thương không thể có phân hủy,
Tình thương là thăng vượt vào ngày mới vô thỉ.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.9. Serapis Bey, con quyết định một cách ý thức là con sẵn sàng xem xét ý định của mình. Xin thày chỉ cho con bao nhiêu điều con đã và đang làm trong đời mình, hoặc để tự bảo vệ khỏi một số điều kiện và bù đắp cho chúng, hoặc làm dịu bớt nỗi sợ đối với chúng để con sống chung được với chúng.

Con bay với thiên thần,
Để đạt được nhiều HƠN.
Thiên thần ôi rất thật,
Tình thương sẽ chữa hết.
Với thiên thần bình an,
Muôn ray rứt phải tàn.
Với thiên thần ánh sáng,
Ta bay bổng thênh thang.

Cánh thiên thần xào xạc trong ngọn gió,
Vui vui lắm khi vật chất hát to,
Vui với từng hạt nguyên tử vo vo
Cùng hòa tấu với cánh thiên thần nhỏ.

Phần 3

3.1. Serapis Bey, xin thày giúp con nhìn ra những ý định nào dựa trên sợ hãi đã và đang khiến con hành sự trong đời mình. Hãy giúp con nhìn thấy những ý định mà con đang có hay muốn có nếu con không có sợ hãi.

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.2. Serapis Bey, con nhận ra một cách ý thức là con không khắc phục được sợ hãi bằng cách loại bỏ các điều kiện bên ngoài, mà bằng cách làm việc trực tiếp với nỗi sợ bên trong con. Sợ hãi không do điều kiện bên ngoài gây ra, mà do điều kiện bên trong. Đây là hậu quả không thể tránh khỏi khi bước vào nhị nguyên.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.3. Serapis Bey, con thấy được một cách ý thức là bất chấp toàn bộ tư duy cuồng đại dựa trên sợ hãi mà sa nhân quảng bá, việc bước vào nhị nguyên không có gì nghiêm trọng hơn một trận đấu quần vợt.

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao, 
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.4. Serapis Bey, con nhìn thấy một cách ý thức nhị nguyên là một trò chơi. Con nói trong ý thức: “Tôi đã quá đủ trải nghiệm này rồi. Nó đã dạy tôi về con người mà tôi là và con người tôi không là. Và giờ đây tôi sẵn sàng bỏ trò chơi này lại đằng sau.”

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.5. Serapis Bey, con thấy được một cách ý thức là trên địa cầu không có gì xảy ra có tầm quan trọng như sa nhân quả quyết. Con buông bỏ vô số ý định vi tế do sa nhân tạo ra dựa trên cuộc chiến cuồng đại giữa thiện và ác.

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.6. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn giao chiến với sa nhân. Con buông bỏ ý muốn đạt khả năng đánh bại sa nhân và các thế lực bóng tối đang gây ra đủ loại tàn ác trên trái đất.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất.
Serapis Bey, xin thày phơi ra
Mọi nét trong con chưa đủ hài hòa.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.7. Serapis Bey, con thấy được một cách ý thức là con không cần đánh bại các thế lực bóng tối, mà con cần đem lại ánh sáng. Con buông bỏ mọi ý muốn đánh bại bóng tối, hay tự bảo vệ mình qua những phương tiện vật chất.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.8. Serapis Bey, con nhìn ra một cách ý thức sáng ngộ cốt yếu: Việc khắc phục sợ hãi không thể xảy đến với một động cơ dựa trên sợ hãi. Xin thày giúp con phát triển một ý định dựa trên tình thương và xem xét sợ hãi của mình với tâm ý thức.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.9. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn trở nên toàn hảo đến độ Thượng đế phải nhận con vào vương quốc, cho dù con chưa thực sự thay đổi trạng thái tâm thức và ý niệm cái ta của con.

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Phần 4

4.1. Serapis Bey, con thấy được một cách ý thức là ý định dựa trên sợ hãi của con không hoàn toàn giải thích được tại sao con bước trên đường tâm linh. Đằng sau mọi sợ hãi, rõ ràng con có những ý định dựa trên tình thương, và đây là điểm trụ để con nâng mình ra khỏi sợ hãi.

Ôi chân sư Paul, thày là giấc mơ,
Thày yêu cái đẹp hằng chảy tuôn ra.
Ôi chân sư Paul, tình mang trong dạ
Quyền năng đập vỡ nấm mồ tự ngã.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Serapis Bey, con sẵn lòng hòa điệu với thày trong tâm ý thức. Xin thày giúp con nhận ra một cách ý thức nỗi sợ nào con đang tích cực làm việc. Con sẽ xem xét nó, bước vào trong nó – với thày nắm tay con – để con thấy được tính không thực đằng sau nó.

Ôi chân sư Paul, là nguồn khuyên nhủ,
Tâm con bay vút lên đỉnh trời cao.
Ôi chân sư Paul, minh triết ấp ủ
Cái đẹp chảy xuống từ Trên nhập vào.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Serapis Bey, con thấy được một cách ý thức là trên địa cầu có những điều kiện hiện thực một cách tạm thời. Thày không yêu cầu con nhìn thấy tính không thực của các điều kiện, mà nhìn thấy tính không thực của nỗi sợ của con đối với chúng.

Ôi chân sư Paul, yêu là nghệ thuật,
Mở trái tim ra căn phòng mật thất.
Ôi chân sư Paul, ào ào chảy xuống,
Cho tim tràn ngập ánh sắc yêu thương.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Serapis Bey, con thấy được một cách ý thức là sự phát triển tâm linh của con không tùy thuộc vào việc con thay đổi bất cứ điều kiện nào bên ngoài con. Nó chỉ tùy thuộc một điều duy nhất, là con nhận ra là không có điều kiện nào trong vũ trụ vật chất có thể quy định con như một sinh thể tâm linh.

Ôi chân sư Paul, gia tốc mài miệt,
Trụ vào từ bi, con thiền nhận biết.
Ôi chân sư Paul, ý định thuần khiết
Sẽ được bảo đảm thăng lên siêu việt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Serapis Bey, con sẵn lòng khắc phục nỗi sợ các điều kiện vật lý, hầu con không phải trải nghiệm chúng. Con muốn khắc phục nỗi sợ ngay bây giờ, để con sống phần đời còn lại mà không sợ bất kỳ điều kiện nào trong thế giới vật chất.

Ôi chân sư Paul, tình yêu hàn gắn,
Thày mở lộ ra ánh sáng nội tâm.
Ôi chân sư Paul, tình yêu an ủi,
Để con nguyên vẹn trong một niềm vui.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Serapis Bey, con không chỉ buông bỏ một cách ý thức nỗi sợ các định luật phụ thuộc của tự nhiên, mà cả mong muốn điều khiển các định luật này. Con buông bỏ mọi ý muốn quyết định những gì Tánh linh phải làm hay không được làm xuyên qua con.

Ôi chân sư Paul, phụng sự Tất cả,
Giúp mọi chúng sinh thăng vượt sa ngã.
Ôi chân sư Paul, an bình ra khơi,
Mặc cho tự ngã tất phải tàn hơi.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Serapis Bey, xin thày giúp con giải phóng sự sáng tạo trong con, hầu con thực sự sáng tạo khi con thấy và biểu hiện một viễn quan cao hơn, thay vì con cố bù đắp cho các điều kiện mà con chứng kiến trên địa cầu.

Ôi chân sư Paul, tình yêu giải phóng,
Thày yêu mãi mãi, cho con nhập dòng.
Ôi chân sư Paul, thày là vị Chủ
Giúp cho hành trình của con hứng thú.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức phản ứng của con trước các điều kiện bất toàn hiện tại, và con buông bỏ mong muốn thay đổi chúng. Con thấy sự sáng tạo đích thực là đem lại một cái gì mới mẻ đến độ nó thay thế các điều kiện hiện tại.

Ôi chân sư Paul, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư Paul, thày tô bầu trời,
Cái ta mừng rỡ trong màu vui tươi.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn dùng sa nhân làm đối thủ trong trò chơi nhị nguyên. Con thấy được mục đích thực sự của con – ý định dựa trên tình thương của con – là chứng tỏ có một chọn lựa khác hơn trạng thái tâm thức nhị nguyên.

Ôi chân sư Paul, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tình yêu Thượng đế con xin rải truyền

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

7 | Thỉnh cầu những ý định minh triết

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Purity và Astrea, Apollo và Lumina, Đại thiên thần Gabriel và Hope, Jophiel và Christine, Chân sư Serapis Bey và đức Lanto yêu dấu, hãy giúp con thăng vượt mọi ý định giả hiệu khi tìm kiếm minh triết. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ mọi khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Serapis Bey và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn thành công trong việc thu hoạch kiến thức vỏ ngoài và hiểu biết trí thức.

Astrea yêu dấu, tim của thày thực chân,
Vòng tròn và Gươm báu của thày xanh và trắng,
Chém phăng dây buộc trói của bi kịch vô minh,
Để hành tinh dâng mãi trên đôi cánh Thanh tịnh.

Astrea yêu dấu, trong Thanh tịnh Thượng đế,
Xin gia tốc năng lượng cho đời con tràn trề,
Nâng cao tâm của con vào hợp nhất chân thực
Với Chân sư yêu dấu của tình thương Vô cực.

1.2. Serapis Bey, con đi tìm minh triết bên trong, con đi tìm sự hướng dẫn từ Trên và minh triết của Mẹ, minh triết nữ tính.

Astrea yêu dấu, từ Tia sáng Thuần khiết,
Mọi sự sống hôm nay, thày giải thoát thấu triệt.
Khi thanh tịnh gia tốc thì con là tự do,
Khỏi luyến ái ô trọc, con thăng lên buông bỏ.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Và nâng cao trong con mọi chân lý đẹp thay. 

1.3. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn đạt tự điều ngự qua kiến thức đến với con từ ngoài.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc chúng con,
Thày ra tay giải cứu, con thành khẩn cầu mong,
Vượt quan điểm ô trọc, tất cả sẽ thênh thang,
Bỏ nghi ngờ sợ hãi, con nhất định vượt thăng.

Astrea yêu dấu, con sẵn sàng nhìn rõ
Vào mọi lời gian dối khiến con mất tự do.
Con đang vượt lên trên từng ô uế bợn nhơ,
Để Ánh sáng Thanh tịnh hoài hoài trong con tỏ.

1.4. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức niềm tin cho rằng hiểu biết đáng tin cậy chỉ có thể đến từ một nhà chuyên môn, một khuôn mặt thẩm quyền nào đó, cho dù là thẩm quyền tôn giáo, chính trị hay khoa học.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc sự sống,
Vượt lên trên nhị nguyên, hiềm khích và tấn công,
Xóa hết mọi ranh giới giữa Thượng đế và người,
Ý toàn hảo của Ngài, mau hoàn tất xinh tươi.

Astrea yêu dấu, con trìu mến thỉnh gọi,
Cho cái vách vô hình của ngăn cách đổ rơi,
Nay con đã buông bỏ mọi lọc lừa sa ngã,
Và mãi mãi khẳng định duy nhất của Tất Cả.

1.5. Serapis Bey, con mong muốn quả vị Ki-tô một cách ý thức, tức là trạng thái biết rõ từ bên trong hiểu biết nào là chính đáng và hiểu biết nào không chính đáng.

Apollo yêu dấu, trong tia sáng thứ hai,
Thày mở mắt con ra để con nhìn ngày mới,
Vượt lên trên khuôn đúc tư duy gây thảm bại,
Con nhìn thấu xuyên qua lừa lọc của nhị đối.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

1.6. Serapis Bey, con nỗ lực một cách ý thức để trở nên tự lực và độc lập. Con sẽ không để bất kỳ khuôn mặt thẩm quyền nào bảo con điều gì đi ngược lại cái con biết từ trong.

Apollo yêu dấu, trong ánh lửa con biết
Có dòng nước hằng chảy là dòng sông minh triết.
Kìa ý chí cao nhất nay con đã phát hiện,
Trầm mình trong dòng nước không bao giờ đứng yên.

Apollo yêu dấu, ánh sáng thày soi rõ
Tại sao chúng con lại hiện thân ở đây nhỉ,
Đây bầu cõi vũ trụ chúng con phải nâng cao,
Và cùng nhau hình thành mũi đầu của ngọn giáo.

1.7. Serapis Bey, con cố đạt một cách ý thức khả năng nhận hiểu biết từ một nguồn cao hơn, tức là Hiện diện TA LÀ của con và các chân sư thăng thiên, và khả năng hòa điệu với vũ trụ vật chất cùng minh triết của Mẹ.

Apollo yêu dấu, vạch trần từng dối trá,
Từng sợi dây tự ngã, giờ đây con buông bỏ,
Và hiểu ra thật sự nhận thức là chìa khóa
Để vượt qua nhị đối cho nội tâm sáng tỏ.

Apollo yêu dấu, con nghe lời thày gọi,
Ở Đại sảnh Minh triết tiếng gọi dìu con tới
.
Phơi bày những lọc lừa đã khiến mình sa ngã,
Thày giúp con tìm lại duy nhất với tất cả.

1.8. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi ám ảnh, mọi đam mê đối với kiến thức khoa học trí thức vỏ ngoài. Xin thày chỉ cho con thấy các lý thuyết có cài sẵn những cái móc năng lượng.

Apollo yêu dấu, trí tuệ thày sáng rỡ,
Trong hợp nhất với thày, rắn độc con chẳng sợ,
Cái đà trong con mắt, con nay thấy lồ lộ,
Thoát khỏi vùng nhị đối, con tìm được tự do.

Apollo yêu dấu, chúng con nâng viễn kiến
Và dõi nhìn trái đất bước vào tân kỷ nguyên.
Khi mắt thày soi rọi, con tình nguyện đứng đó,
Rồi bước khỏi mê cung với uy lực thày cho.

1.9. Serapis Bey, xin thày phơi bày những niềm tin mà con có dựa trên ý tưởng hay lý thuyết do sa nhân tạo dựng, những ý tưởng có cài sẵn tín hiệu năng lượng sẽ xâm nhập vào tâm tiềm thức và hoạt động như vi-rút máy tính.

Gia tốc tới Thanh tịnh, TA LÀ có thật,
Gia tốc tới Thanh tịnh, mọi sự sống chữa lành,
Gia tốc tới Thanh tịnh, TA LÀ hơn nữa,
Gia tốc tới Thanh tịnh, tất cả sẽ vút cao.

Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Elohim Astrea yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Gabriel và Hope yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Serapis Bey yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
TA LÀ yêu dấu.

Phần 2

2.1. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức niềm tin xem mình không là gì hơn một con thú tiến hóa. Con thấy cái nhìn này đối nghịch trực tiếp với sự phát triển quả vị Ki-tô của con.

Đại thiên thần Gabriel, ánh sáng con kính mến,
Chẳng còn gì sợ hãi, trầm mình trong Hiện diện,
Làm đệ tử Ki-tô nay con đã thật quên
Tự ngã với tham vọng đáp trả miếng từng miếng.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.2. Serapis Bey, con nhìn nhận một cách ý thức rằng quả vị Ki-tô là sự xoay chuyển ý niệm bản sắc, hầu con xem mình là một nối dài của đoàn chưởng giáo thăng thiên ở trên con, một nối dài của Hiện diện TA LÀ của con.

Đại thiên thần Gabriel, con không sợ ánh sáng,
Trong lửa trắng thanh tẩy, sao con thấy rộn ràng,
Tay con trong tay thày, mỗi thử thách trực diện
Là ân huệ không ngớt để con cứ theo lên.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.3. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức niềm tin là khoa học duy vật có thể cho con mọi hiểu biết con cần. Con mong muốn minh triết hằng sống, là hiểu biết dựa trên việc ngộ ra cách vận hành thực sự của thế gian.

Đại thiên thần Gabriel, lửa trắng thày thiêu cháy,
Bước ra khỏi đêm tối, con thăng lên cùng thày.
Chẳng còn một nơi chỗ cho tự ngã trốn chạy,
Con trụ vững trong thày, thăng thiên theo ốc xoáy.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.4. Serapis Bey, con sẵn lòng làm việc với thày để thanh tẩy những tin tưởng, những vi-rút, đã được gài vào cảm thể, trí thể và bản sắc thể của con, nhằm bóp méo động lực của con khi tìm minh triết.

Đại thiên thần Gabriel, con nghe thấy tiếng kèn,
Báo hiệu ngày đản sanh của Ki-tô gần đến.
Trong bản thể nhẹ nhõm con đang được tái sinh,
Cùng Ki-tô con bước vào buổi sáng Phục sinh.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.5. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn tìm cầu một kiến thức, minh triết hay công thức bí mật nào đó sẽ cho con quyền kiểm soát máy móc trên vật chất, trên hoàn cảnh của con hay trên người khác.

Đại thiên thần Jophiel, trong ánh sáng minh triết,
Mọi lừa dối gian xảo đã phơi bày trước mặt.
Thường thường trong tâm người, chúng tinh vi luồn lách,
Nhưng con có thày rồi, là vị thày thượng sách.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.6. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn đi theo sa nhân và thu hoạch kiến thức cùng công thức của chúng nhằm điều khiển vật chất.

Đại thiên thần Jophiel, con đón mừng minh triết,
Tấm màn của nhị nguyên, thày lấy gươm chặt đứt,
Khi được thày chỉ lối, con biết đâu là thực,
Con hóa giải tức khắc bùa mê với ngờ vực.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.7. Serapis Bey, con quyết định một cách ý thức là con muốn đi theo con đường của các chân sư thăng thiên, không phải con đường của hàng ngũ tà đạo.

Đại thiên thần Jophiel, thực tại của thày đó,
Là liều thuốc thần diệu giải độc chất nhị nguyên,
Dối trá không thể còn khi có thày Hiện diện,
Với thày đứng bên cạnh, tà kiến con cắt liền.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.8. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn khuynh loát các định luật phụ thuộc của tự nhiên, do tâm thức tập thể của nhân loại định ra dưới sự hướng dẫn của sa nhân.

Đại thiên thần Jophiel, tâm Thượng đế trong con,
Con nhận trí tuệ thày, ánh sáng rạng đầu non,
Con gặp được Duy nhất khi tách biệt tiêu mòn,
Và tâm này toàn vẹn, là chiến thắng của con.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.9. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn học hỏi “minh triết”, những công thức hay phép thuật đen sẽ cho con phần nào quyền năng điều khiển vật chất một cách máy móc.

Con bay với thiên thần,
Để đạt được nhiều HƠN.
Thiên thần ôi rất thật,
Tình thương sẽ chữa hết.
Với thiên thần bình an,
Muôn ray rứt phải tàn.
Với thiên thần ánh sáng,
Ta bay bổng thênh thang.

Cánh thiên thần xào xạc trong ngọn gió,
Vui vui lắm khi vật chất hát to,
Vui với từng hạt nguyên tử vo vo
Cùng hòa tấu với cánh thiên thần nhỏ.

Phần 3

3.1. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn làm học trò tập sự cho một phù thủy, để y dạy con kiến thức, “minh triết”, hay một số công thức và bùa chú nhằm cho con quyền điều khiển vật chất.

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.2. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn tìm cầu một cách nhanh hơn, một con đường tắt, để phát triển khả năng điều ngự vật chất mà không bước chân trên con đường tự điều ngự.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.3. Serapis Bey, con sẵn lòng bước trên con đường tự điều ngự, nơi con gia tốc tâm con vượt lên trên các định luật phụ thuộc của tự nhiên, tới mức con có thể bắt đầu sử dụng các định luật cơ bản do các Elohim thiết lập.

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao, 
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.4. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn học hỏi phép thuật trắng và những công thức mà họ bảo là vô hại.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.5. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn tìm cầu sự hiểu biết để thay đổi người khác hay điều kiện bên ngoài, thay vì thay đổi chính con.

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.6. Serapis Bey, con đi tìm một cách ý thức sự hiểu biết có mục đích thay đổi chính mình. Con đi tìm sự tự hiểu biết mà con cần để vượt qua các khai ngộ ở khóa nhập thất của thày và trên ba tia sáng cao hơn.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất.
Serapis Bey, xin thày phơi ra
Mọi nét trong con chưa đủ hài hòa.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.7. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn đi tìm sự tự hiểu biết vỏ ngoài, là làm thế nào tạo ra một con đường tắt hầu kiểm soát chính mình.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.8. Serapis Bey, con xin thày giúp con thanh tẩy tâm con cho không còn mọi hình thức hiểu biết bất toàn về chính mình.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.9. Serapis Bey, con đi tìm sự hiểu biết sẽ giúp con nhìn thấy bợn nhơ trong bản ngã, hầu con buông bỏ bợn nhơ một cách ý thức, và thay thế chúng bằng một quyết định cao hơn, một dạng cao hơn của minh triết và sáng ngộ.

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Phần 4

4.1. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn phân tích bản thân, mong muốn trí thức hóa hay lập ra một danh sách thật dài những tin tưởng của mình. Con hòa điệu với một nguồn minh triết cao hơn.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Serapis Bey, con chấp nhận một cách ý thức rằng thày là nguồn minh triết cao hơn của con. Con cố gắng cho tâm con không còn gì ngoại trừ Hiện diện của thày.

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Serapis Bey, xin thày phơi bày kiến thức và minh triết vỏ ngoài đang khiến tâm con bị kéo ra khỏi hòa điệu với Hiện diện của thày.

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Serapis Bey, xin thày giúp con tẩy sạch tâm con khỏi mọi minh triết thế gian, mọi ý tưởng sai lầm, mọi ý định không trong sạch khi tìm minh triết.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi ý định đạt được bất kỳ dạng hiểu biết nào mà con xem là hữu dụng hay quý giá. Con buông bỏ ý tưởng cho rằng minh triết phải hữu dụng.

Chân sư Lanto, con nay viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi ý định đạt hiểu biết hữu dụng hay quý giá, mọi ý định đạt được hiểu biết có thể đặt lên một cái thang nhiều hơn hay ít hơn.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Serapis Bey, ý định duy nhất của con là hòa điệu với Hiện diện của thày và trải nghiệm Hiện diện của thày – không có bất cứ gì khác. Xin thày giúp con thanh lọc cảm thể, trí thể và bản sắc thể của con, và vươn lên một độ tinh khiết trong ý định cho phép con hoà điệu với Hiện diện của thày.

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn đi tìm minh triết để sử dụng cho một điều gì đó trong thế gian. Con tìm minh triết vì con ngộ ra là sự tự điều ngự đích thực có nghĩa là đi vào hợp nhất với đoàn chưởng giáo tâm linh mà con là một thành phần.

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, con đang cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Serapis Bey, ý định ý thức của con là hòa điệu với Hiện diện của vị chân sư ở ngay trên con trong hàng ngũ tâm linh, từ đó con nhận được năng lượng sẽ vận động nỗ lực sáng tạo của con. Con muốn hòa điệu với thày.   

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

5 | Thỉnh cầu uy lực của ý định

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Purity và Astrea, Hercules và Amazonia, Đại thiên thần Gabriel và Hope, Michael và Faith, Chân sư Serapis Bey và MORE yêu dấu, hãy giúp con thăng vượt mọi ham muốn và ý định ô trược muốn sử dụng quyền lực. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ mọi khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Serapis Bey và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn điều ngự thế giới hay người khác, mọi mong muốn ảnh hưởng người khác bằng cách buộc họ phải chiều theo ý muốn của con.

Astrea yêu dấu, tim của thày thực chân,
Vòng tròn và Gươm báu của thày xanh và trắng,
Chém phăng dây buộc trói của bi kịch vô minh,
Để hành tinh dâng mãi trên đôi cánh Thanh tịnh.

Astrea yêu dấu, trong Thanh tịnh Thượng đế,
Xin gia tốc năng lượng cho đời con tràn trề,
Nâng cao tâm của con vào hợp nhất chân thực
Với Chân sư yêu dấu của tình thương Vô cực.

1.2. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn có quyền năng thị hiện, khả năng thị hiện bất cứ gì mình muốn “từ hư không”, như của cải hay vàng bạc.

Astrea yêu dấu, từ Tia sáng Thuần khiết,
Mọi sự sống hôm nay, thày giải thoát thấu triệt.
Khi thanh tịnh gia tốc thì con là tự do,
Khỏi luyến ái ô trọc, con thăng lên buông bỏ.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
Và nâng cao trong con mọi chân lý đẹp thay. 

1.3. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn trình diễn trò thủ thuật để gây ấn tượng với người khác, hay làm giàu cho bản thân.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc chúng con,
Thày ra tay giải cứu, con thành khẩn cầu mong,
Vượt quan điểm ô trọc, tất cả sẽ thênh thang,
Bỏ nghi ngờ sợ hãi, con nhất định vượt thăng.

Astrea yêu dấu, con sẵn sàng nhìn rõ
Vào mọi lời gian dối khiến con mất tự do.
Con đang vượt lên trên từng ô uế bợn nhơ,
Để Ánh sáng Thanh tịnh hoài hoài trong con tỏ.

1.4. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn học ma thuật, qua đó con có thể điều khiển vật chất hay thế giới bên ngoài từ một góc độ vị kỷ.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc sự sống,
Vượt lên trên nhị nguyên, hiềm khích và tấn công,
Xóa hết mọi ranh giới giữa Thượng đế và người,
Ý toàn hảo của Ngài, mau hoàn tất xinh tươi.

Astrea yêu dấu, con trìu mến thỉnh gọi,
Cho cái vách vô hình của ngăn cách đổ rơi,
Nay con đã buông bỏ mọi lọc lừa sa ngã,
Và mãi mãi khẳng định duy nhất của Tất Cả.

1.5. Serapis Bey, con mong muốn một cách ý thức phát triển khả năng của tâm điều ngự vật chất, trong sự đồng bộ hoàn toàn với việc điều ngự cái ta. Con sẵn sàng theo học khóa điều ngự cái ta.

Hercules Xanh ngắt, nơi nơi thày đổ tràn
Quyền năng vô bờ bến với Hồng ân vô hạn,
Chìa khóa của sáng tạo, chính thày là hiện thân,
Biểu lộ qua ý chí vượt thăng đến Vô tận.

Hercules Xanh ngắt, con hợp nhất với thày,
Để con mở tim ra thực tại của thày đây,
Bây giờ con thấy rõ khi cảm được lửa sáng,
Cái ta cũng thăng vượt như đá hóa thành vàng.

1.6. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn phát triển khả năng tự điều ngự theo con đường máy móc, qua đó con học một số bước vỏ ngoài rồi tự động đạt khả năng điều ngự đã hứa hẹn.  

Hercules Xanh ngắt, với tất cả tình thương,
Con dâng lên Thượng đế hằng hà lời tán thưởng,
Con biết ơn quá đỗi được tự tay góp phần
Trong tác phẩm của Ngài đẹp tinh xảo vô tận.

Hercules Xanh ngắt, chữa lành muôn sự sống,
Bao bọc quanh tất cả, Xanh ngọn lửa Niêm phong.
Ngọn lửa xanh như điện mở mắt cho con thấy
Rằng sống trong chân thực: khát vọng của con đây.

1.7. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn đi tìm một con đường khai ngộ sẽ cho con những quyền năng đặc biệt, như thần thông hay thị hiện đồ vật.

Hercules Xanh ngắt, con dâng hiến cuộc đời
Giúp cho cả hành tinh vượt tranh chấp loài người.
Bao lọc lừa nhị đối bị ánh sáng chọc thủng,
Trả lại cho trọn vẹn cái nhìn ở thâm cung.

Hercules Xanh ngắt, ý chí thày duy nhất,
Trong con còn khoảng trống, thày đổ đầy Lửa Xanh,
Khi uy lực của thày giục con bước mạnh dạn,
Băng qua bao rặng núi, xuyên qua mọi tấm màn.

1.8. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn đi theo những trường học, tổ chức hay đạo sư tuyên bố là họ có thể dẫn con đi một con đường máy móc nơi con tự động nhận được tước vị.

Hercules Xanh ngắt, ngôi Đền của Ánh sáng,
Được tỏ lộ cho con lúc dõi nhìn vào trong.
Ngọn hải đăng sáng rực, trên trái đất tỏa rạng,
Cho tất cả hành tinh phục hồi lại sự sống.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.9. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn đi theo con đường khai ngộ máy móc do hàng ngũ giả hiệu dựng lên. Con buông bỏ giấc mơ cho rằng bằng cách thỏa mãn một số đòi hỏi vỏ ngoài, con có thể tự động có được tước vị hay một số khả năng.

Gia tốc tới Thanh tịnh, TA LÀ có thật,
Gia tốc tới Thanh tịnh, mọi sự sống chữa lành,
Gia tốc tới Thanh tịnh, TA LÀ hơn nữa,
Gia tốc tới Thanh tịnh, tất cả sẽ vút cao.

Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Elohim Astrea yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Gabriel và Hope yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
Serapis Bey yêu dấu.
Gia tốc tới Thanh tịnh! (3 lần)
TA LÀ yêu dấu.

Phần 2

2.1. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn đạt khả năng điều ngự vật chất mà không thanh tẩy cái ta và không tự điều ngự.

Đại thiên thần Gabriel, ánh sáng con kính mến,
Chẳng còn gì sợ hãi, trầm mình trong Hiện diện,
Làm đệ tử Ki-tô nay con đã thật quên
Tự ngã với tham vọng đáp trả miếng từng miếng.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.2. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức giấc mơ của sa nhân. Con sẵn sàng thanh tẩy cái ta để đạt đến tự điều ngự đích thực.

Đại thiên thần Gabriel, con không sợ ánh sáng,
Trong lửa trắng thanh tẩy, sao con thấy rộn ràng,
Tay con trong tay thày, mỗi thử thách trực diện
Là ân huệ không ngớt để con cứ theo lên.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.3. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn đạt được tự điều ngự qua việc kiểm soát cái ta.

Đại thiên thần Gabriel, lửa trắng thày thiêu cháy,
Bước ra khỏi đêm tối, con thăng lên cùng thày.
Chẳng còn một nơi chỗ cho tự ngã trốn chạy,
Con trụ vững trong thày, thăng thiên theo ốc xoáy.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.4. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức hình ảnh của thày là một vị thày kỷ luật nghiêm khắc. Con buông bỏ ảo tưởng là nếu con tuân theo quy tắc và chịu được kỷ luật của thày, thì con sẽ có thể kiểm soát cái ta.

Đại thiên thần Gabriel, con nghe thấy tiếng kèn,
Báo hiệu ngày đản sanh của Ki-tô gần đến.
Trong bản thể nhẹ nhõm con đang được tái sinh,
Cùng Ki-tô con bước vào buổi sáng Phục sinh.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.5. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn kiểm soát cái ta qua việc ép buộc thân xác và tâm vỏ ngoài phải gượng sống theo một bộ quy luật và chuẩn mực vỏ ngoài.

Đại thiên thần Michael, trong ngọn lửa xanh ngắt,
Không còn bao đêm tối mà chỉ thày có mặt.
Trong hợp nhất với thày, con đã ngập ánh sáng,
Cảnh rực rỡ nhiệm màu hiện ra ngay trước mắt.

Đại thiên thần Michael, đức Tin thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

2.6. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn giấu giếm bất cứ gì khỏi thày, kể cả những ý định trong tiềm thức. Con sẵn lòng để thày chỉ ra những bợn nhơ đang che khuất tâm tiềm thức của con.

Đại thiên thần Michael, thày cho con che chở,
Sau tấm khiên màu xanh con được sống muôn thuở.
Niêm con khỏi hồn bóng đang lang thang đêm tối,
Con ở trong cõi thày, rực sáng màu xanh tươi.

Đại thiên thần Michael, đức Tin thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

2.7. Serapis Bey, con sẵn sàng quy thuận các khai ngộ của thày. Con để cho thày xem xét mỗi tầng trong tâm con. Con sẵn lòng xem xét bất cứ gì thày muốn chỉ ra cho con thấy về chính con.

Đại thiên thần Michael, thày đem bao uy lực,
Mà hàng triệu thiên thần sẽ ca ngợi công đức.
Thiêu đốt muôn loài quỷ của nghi ngờ sợ hãi,
Con biết thày Có Mặt ở bên con hoài hoài. 

Đại thiên thần Michael, đức Tin thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

2.8. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn tuyên bố là con muốn đi theo khai ngộ của Tia thứ Tư dưới thày Serapis Bey, nhưng đồng thời con lại có điều gì muốn giấu giếm khỏi thày.

Đại thiên thần Michael, ý Thượng đế thày yêu,
Từ Trên thày đem xuống ánh sáng của thiên triều.
Thượng đế chỉ muốn thấy mọi sự sống chuyển vọt,
Vươn cao trên bản ngã là quyền linh chót vót.

Đại thiên thần Michael, đức Tin thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

2.9. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn của tâm thức sa ngã nhằm vứt bỏ một điều gì mà không nhìn thấy bợn nhơ.

Con bay với thiên thần,
Để đạt được nhiều HƠN.
Thiên thần ôi rất thật,
Tình thương sẽ chữa hết.
Với thiên thần bình an,
Muôn ray rứt phải tàn.
Với thiên thần ánh sáng,
Ta bay bổng thênh thang.

Cánh thiên thần xào xạc trong ngọn gió,
Vui vui lắm khi vật chất hát to,
Vui với từng hạt nguyên tử vo vo
Cùng hòa tấu với cánh thiên thần nhỏ.

Phần 3

3.1. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn tránh né đối mặt với Thượng đế hay vị thày tâm linh từ cõi thăng thiên. Con sẵn lòng thanh tẩy tâm thức cho không còn điều gì có từ lực kéo con xuống cõi vật chất.

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.2. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn dùng vũ lực xông lên thiên đường bằng cách giấu giếm gì đó khỏi các chân sư thăng thiên.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.3. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn ăn gian trên đường khai ngộ bằng cách giấu giếm ý định thực của mình khỏi mắt thày.

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao, 
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.4. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn sở hữu và đem theo một thứ gì lên trạng thái thăng thiên.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.5. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn vượt qua khai ngộ trong nhập thất của thày mà lại giấu giếm điều gì đó khỏi chính con.

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.6. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn kiểm soát cái ta qua việc kềm chế những yếu tố của cái ta không thể nào chấp nhận theo một chuẩn vỏ ngoài.

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất.
Serapis Bey, xin thày phơi ra
Mọi nét trong con chưa đủ hài hòa.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.7. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn học hết khóa của thày mà vẫn mang theo bợn nhơ của mình. Con sẵn lòng để thày chỉ ra các tin tưởng đằng sau bợn nhơ của con.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.8. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn dùng quyền lực để kiểm soát, mọi mong muốn đạt quyền năng để kiểm soát hoàn cảnh của mình.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.9. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn chế tạo một trạng thái của tâm, mọi mong muốn thay đổi hoàn cảnh nội tâm của con bằng cách kiểm soát hoàn cảnh vỏ ngoài.

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Phần 4

4.1. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn nắm quyền lực vật lý mà không có ý định thuần khiết. Con sẵn lòng để thày giúp con thanh lọc ý định của con bằng cách phơi bày mọi động lực ẩn giấu và ô trược.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn đạt quyền năng đặc biệt, ngay cả Thiên khiếu của Thánh linh, để biểu dương và chứng minh một điều gì đó hầu cải đạo hàng triệu người. 

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn chế ngự hay kiểm soát người khác và vật chất, để tạo cho mình một cảm giác nào đó. Ý định của con là điều ngự cái ta, không phải bằng cách kiểm soát cái ta mà điều ngự cái ta.  

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Serapis Bey, con sẵn lòng tự điều ngự bằng cách xem xét tất cả mọi bợn nhơ trong tâm thức mình và, một cách ý thức, để cho chúng ra đi và quyết định lấy một ý định cao hơn.

Ôi chân sư MORE, con sẽ chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Nay con là một với thày luôn luôn.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn không thẳng hàng với ý định của chân sư thăng thiên. Con sẵn lòng hòa điệu với ý định của thày.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Serapis Bey, con sẵn lòng dùng sức mạnh của ý chí có ý thức để vượt xa hơn ý định dùng quyền lực của tự ngã. Con đang gia tốc để vươn lên ý định mà thày biểu lộ cho con.     

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn chứng tỏ một khả năng điều ngự nào đó bằng cách trở nên giàu có, quyền lực hay đẹp đẽ hơn người. Con đi theo một viễn quan cao hơn, không nhị nguyên.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày con luôn hằng có.
Ôi chân sư MORE, con lại được sống,
Trong dòng của thày niềm vui thường hằng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Serapis Bey, con buông bỏ một cách ý thức mọi mong muốn trải nghiệm khả năng kiểm soát người khác hay kiểm soát vật chất mà không xem xét chính mình. Con buông bỏ mong muốn viện cớ người khác hay hoàn cảnh vỏ ngoài để không xem xét chính mình.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Con là cánh cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Serapis Bey, con thấy được mục đích cuộc khai ngộ mà thày cống hiến tại khóa nhập thất của thày, và con sẵn lòng dấn thân vào con đường của thày. Con đã sẵn sàng cho những gì thày cống hiến, và con sẵn lòng để thày giúp con mở mắt.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

16 | Giải phóng sự sáng tạo nội tại của con

Bài giảng của chân sư thăng thiên Serapis Bey qua trung gian Kim Michaels, ngày 8/1/2016.

Thày là chân sư thăng thiên Serapis Bey. Bây giờ chúng ta đã đến tầng thứ bảy nơi con gặp sự phối hợp của Tia thứ Tư với Tia thứ Bảy của Tự do. Theo một nghĩa nào đó, Tia thứ Bảy của Tự do vừa dễ vừa khó nhất – dễ, theo nghĩa nó không đòi hỏi gì nơi con. Nhưng nó cũng khó, theo nghĩa là nó đòi hỏi con ngừng đặt ra những đòi hỏi trên chính con.

Khi đệ tử lần đầu tiên tiếp xúc với các chân sư thăng thiên, họ thường mang ý tưởng là các thày hạn chế tự do của họ, theo nghĩa là các thày đặt đòi hỏi lên họ. Sau đó, họ có thể nảy sinh ý tưởng là sa nhân hay các tà lực hạn chế tự do của họ. Kỳ thực, chỉ có một chuyện hạn chế tự do của con thôi, đó là những gì con tự gây cho con trong chính tâm con. Chính trong tâm mà con bị giam hãm, và tâm là nơi con cần biểu hiện tự do của mình.

Tuy nhiên, tự do vừa là một cái gì con biểu hiện, vừa là một cái gì con không thể biểu hiện, theo nghĩa mà thày đã cố giúp con nhìn ra, tức là vấn đề trên hành tinh địa cầu là sa nhân đã xui khiến con người sử dụng vũ lực. Do đó, con không thể khắc phục vũ lực bằng thêm vũ lực.

Chắc chắn Tia thứ Bảy là một tia sáng mang một năng lượng đặc thù. Con có thể, và tất nhiên, con nên thỉnh cầu năng lượng của Tia thứ Bảy. Nhưng con không nên tự đặt mình vào một tâm thái nghĩ rằng con phải sử dụng năng lượng của Tia thứ Bảy để đánh bại những gì đi ngược lại tự do của con. Tất nhiên con sẽ cần thỉnh cầu năng lượng của Tia thứ Bảy để biến hóa những tha hóa của Tia thứ Bảy. Điều giới hạn tự do của con là, ở một mức độ nào đó, năng lượng của mỗi tia trong số bảy tia đã bị tha hóa qua lòng sợ hãi. Con cần tiêu hủy những năng lượng này bằng cách thỉnh cầu năng lượng của từng tia một.

Tuy nhiên, điều thực sự giới hạn tự do của con tất nhiên là năng lượng, là những tin tưởng và những ý tưởng trong tâm con. Những cái này thì con không thể đánh bại qua Tia thứ Bảy. Con chỉ có thể nhìn ra tính không thực của chúng, và con chỉ việc bước xa khỏi chúng.

16.1. Những tấn tuồng tiêu hao cuộc sống con người

Khi con nhìn vào hành tinh địa cầu, con sẽ thấy tuyệt đại đa số con người bị cuốn hút – bị bao trùm hoàn toàn, bị tiêu hao hoàn toàn – bởi những tấn tuồng đủ loại. Con thấy quá nhiều nhóm người đã giao tranh với nhau suốt bao nhiêu thế hệ, có lẽ hàng ngàn năm rồi. Họ hoàn toàn tin chắc vở tuồng mà họ đang sống có thực chất nào đó, rằng họ đang tranh đấu cho đại nghĩa của Thượng đế, rằng những kẻ mà họ chiến đấu đang chống lại sự nghiệp của ngài. Con có thể thấy điều này ở vùng Trung đông giữa người đạo Do thái, đạo Cơ đốc và đạo Hồi. Con cũng có thể thấy điều này ở rất nhiều nơi khác trên thế giới. Rõ ràng là khi con bị cuốn hút vào một tấn tuồng như vậy, con rất coi trọng bản thân mình và con cũng coi chính nghĩa của con là vô cùng hệ trọng. Nếu con coi mọi khía cạnh của cuộc sống, mọi chi tiết nhỏ nhặt của cuộc sống, hệ trọng đến như vậy thì con không thể tự do. Con say đắm với chính bản thân con, nếu có thể nói như thế. Con thử suy ngẫm xem câu thành ngữ quen thuộc về những kẻ mê mệt với chính mình. Họ có quá nhiều mâu thuẫn và xung đột nội tâm đến độ toàn bộ năng lượng và chú ý của họ bị tiêu hao. Đấy, điều thày muốn chỉ ra cho con là một chuyện xảy ra rất thường khi con tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên, là con dùng giáo lý này để cố thắng lợi trong một số cuộc đấu tranh mà con thấy xảy ra trên thế giới.

Trong nhiều trường hợp, tự ngã của đệ tử khiến họ tạo thêm một tấn tuồng, là khi con sử dụng đường tu tâm linh – thường khi cả các tà lực hay thậm chí những người con gặp trên đường tu – để tạo ra một tấn tuồng mới. Chính con, tất nhiên, không xem đó là một tấn tuồng. Nhưng tất cả những ai trên thế giới bị tiêu hao trong tấn tuồng đều không xem đó là một tấn tuồng; họ xem đó là thực tại. Và cũng vậy, con xem cuộc chiến của mình là thực tại khi con giao tranh với tà lực, hay khi con có bất đồng nào đó với những đệ tử khác mà con gặp trên đường tu, có thể là trong một tổ chức tâm linh.

Mánh lới của tự ngã, mánh lới của sa nhân, là khiến con nghĩ có một vấn đề chính đáng mà con cần giải quyết, cho nên con không thể tự do cho tới khi vấn đề được giải quyết. Tất nhiên, vấn đề đòi hỏi một số thay đổi phải xảy ra trên thế giới. Trong đa số trường hợp, điều này có nghĩa là người khác phải thay đổi để con có thể giải quyết vấn đề và được tự do.

Như thày đã có nói, con sẽ không bao giờ tự do được nếu con nghĩ tự do của con tùy thuộc vào những chọn lựa tự quyết của người khác. Tuy nhiên, con có thể tự do bằng cách nhận ra là tự do của con chỉ tùy thuộc vào những chọn lựa tự quyết của chính mình. Và ngay bây giờ, con có quyền năng để tự giải phóng khỏi mọi tin tưởng cùng cơ chế nội tại khiến con cho rằng con phải phản ứng lại người khác, con phải làm gì đó trong thế gian. Con không bao giờ có thể tự do nếu con coi đường tu là hệ trọng đến thế, nếu con hoàn toàn say đắm với đường tu cá nhân của mình, say đắm đánh nhau như con đang đánh nhau. Ngay cả đánh nhau với tự ngã cũng có thể trở thành một tấn tuồng, và tất nhiên, con không thể khắc phục tự ngã bằng cách sử dụng tự ngã. Con sẽ không khắc phục được tự ngã qua một tấn tuồng do tự ngã bày ra, và đây là nguy cơ khi trao truyền bất kỳ loại giáo lý tâm linh nào.

16.2. Giấc mơ một trạng thái tối hậu

Như thày đã tạo linh hứng cho sứ giả này ngộ ra gần đây, trên thế giới có những người tuyên bố là mình giác ngộ. Nếu con bảo là con giác ngộ thì theo một nghĩa nào đó, con bảo là con đã đạt được một trạng thái tối hậu nào đó, ít ra trong tâm trí hầu hết mọi người. Con có thể lôi kéo một số tín đồ không sẵn lòng nhận trách nhiệm về bản thân họ và do đó họ tìm kiếm một đạo sư với một trạng thái tâm thức tuyệt đối nào đó. Và đạo sư với đệ tử có thể tạo ra một vòng xoáy ốc tự nó cứ tăng thêm sức mạnh.

Vấn đề là nếu con nghĩ con đã đạt tới một trạng thái tối hậu trên trái đất thì con sẽ không thể tiến xa hơn, có nghĩa là con sẽ phủ nhận khía cạnh của tự ngã mà con vẫn còn mang theo. Thày cũng biết, một số người sẽ nói là nếu con đã giác ngộ thì con không còn tự ngã. Điều này cũng đúng, tuy nhiên khi đó thì con không còn hiện thân trên trái đất nữa, bởi vì con không thể tiếp tục hiện thân nếu con còn sót lại một khía cạnh nào đó của tự ngã. Khía cạnh này có thể vô cùng yếu ớt và có thể con đã đạt một mức tâm thức rất cao. Nhưng nếu con nghĩ là không còn gì vượt khỏi trạng thái tâm thức của mình, thì con chỉ nghĩ vậy được bằng cách phủ nhận yếu tố của tự ngã vẫn còn sót lại. Và như thế con không thể buông bỏ tự ngã đó và được tự do thăng thiên.

16.3. Sáng tạo là thuốc giải độc cho sự kiểm soát

Thăng thiên là một tiến trình đòi hỏi con hoàn toàn tự do. Tiến trình tự điều ngự cũng là một tiến trình đòi hỏi con đạt tới một mức độ tự do rất cao – không theo cùng một cách như khi con thăng thiên, mà theo cách là con tự do biểu đạt khả năng sáng tạo của mình. Tự do có nghĩa là gì, sáng tạo có nghĩa là gì? Có nghĩa là con hiểu ra những gì sa nhân đã làm để đóng chặt sự sáng tạo và khiến con hạn chế sáng tạo của mình.

Con cũng hiểu chứ, con yêu dấu, là sa nhân đang cố kiểm soát mọi chuyện trên địa cầu? Làm thế nào chúng kiểm soát được chứ? Chúng phải đóng chặt khả năng sáng tạo, vì bản chất của sáng tạo là gì? Sáng tạo không thể đoán trước được, nó tự phát. Nó nảy ra một cái gì mới, có thể mới đến độ không một ai có thể tưởng tượng nổi.

Sa nhân cực kỳ sợ hãi sự sáng tạo của con. Chúng cũng biết là trong thế gian không có gì có thể hạn chế được sáng tạo. Toàn bộ bản chất của sáng tạo là nó thăng vượt mọi ranh giới. Không có ranh giới nào có thể thực sự giới hạn sáng tạo của con, ngoại trừ những ranh giới tạo ra trong chính tâm con khiến con không dám biểu lộ nó ra.

Cách thức chủ yếu mà sa nhân sử dụng để làm thui chột sáng tạo của con người là dựng lên ý tưởng bảo rằng có một chuẩn mực làm thước đo cho mọi thứ. Chuẩn mực chỉ có hai đối cực. Hoặc là tốt đẹp, hoàn chỉnh, chấp nhận được, hoặc là sai lầm, tồi tệ, không thể chấp nhận được. Sự đánh giá này, sự xét đoán này, không dính dáng gì đến sáng tạo. Chúng ta có thể nói, đó chính là phản đề của sáng tạo.

Khi ban đầu con đến hành tinh này, con đến đây để biểu hiện ánh sáng của con, khả năng sáng tạo và cá thể của con. Sa nhân đã cố hết sức khiến con cảm thấy mình bị chối bỏ, rằng ánh sáng của con có gì đó không ổn. Sáng tạo của con không đủ tốt, và chính con không đủ tốt.

Điều này đã khiến biết bao người nhảy vào cuộc chạy đuổi mà thày đã có đề cập, là đuổi theo sự toàn hảo và cố gắng thỏa mãn chuẩn mực cho rằng nếu mình đủ tốt thì mình sẽ được chấp thuận. Con hiểu chứ, con yêu dấu, là nếu trong tâm con có một cơ chế tìm cách so sánh cách biểu đạt của con với một tiêu chuẩn vỏ ngoài trước khi con dám biểu đạt, thì ngay đó, con đã đóng chặt sáng tạo của con rồi.

Sáng tạo là ngẫu hứng! Con đã quá quen đánh giá mọi chuyện với tâm đường thẳng, tâm phân tích. Sa nhân đã dấy lên nơi hầu hết mọi người ý tưởng vô cùng tinh vi rằng tất cả mọi thứ phải được phân tích. Tất cả phải được lượng định bằng bộ óc phân tích, là bộ óc so sánh tất cả mọi thứ với một tiêu chuẩn. Hầu hết mọi người không ý thức được tiêu chuẩn mà mình đang sử dụng. Có khi họ ý thức có một tiêu chuẩn do xã hội áp đặt. Chắc chắn các hệ thống giáo dục trên thế giới đều nhắm tới việc khiến con chấp nhận là có một tiêu chuẩn, và sự sáng tạo của con cần được đối chiếu với tiêu chuẩn đó. Ngay cả các cơ sở giáo dục nhằm dạy dỗ một số hình thức biểu diễn sáng tạo, cho dù là nghệ thuật hay một bộ môn nào khác, vẫn củng cố cho ý tưởng rằng sáng tạo phải được so sánh với một tiêu chuẩn.

16.4. Sáng tạo không màng tiêu chuẩn

Sáng tạo là vượt ra ngoài tiêu chuẩn. Làm thế nào tất cả mọi sự trên địa cầu tiến hóa, phát triển lên một mức cao hơn? Chỉ bằng cách vượt ra ngoài, vượt lên trên mức hiện hành. Con chẳng thấy là có một tiến trình sáng tạo đã nằm sẵn trong tự nhiên? Đây là cái thày gọi là những định luật cơ bản của tự nhiên bảo đảm sự phát triển không ngừng, thăng vượt không ngừng. Sa nhân đã dựng lên các định luật phụ thuộc của tự nhiên trong nỗ lực làm thui chột sự thăng vượt này. Chúng muốn ngăn chặn sự phát triển, ngừng kim đồng hồ, giữ nguyên mọi sự ở một mức mà từ đó không thể vượt lên cao hơn. Chúng muốn làm vậy vì chúng muốn kiểm soát, bởi vì chúng không thể kiểm soát mà không tiên liệu, và con không thể tiên liệu điều gì nếu điều đó cứ đi lên theo một xoắn ốc hướng thượng thay vì chạy lòng vòng một chỗ. Sa nhân biết là chúng không thể chặn đứng được chuyển động – ít ra chúng hiểu được chuyện này – cho nên chúng cố khiến cho chuyển động phải chạy lòng vòng thay vì vươn lên theo một vòng xoáy hướng thượng.

Có chuyển động và có những chu kỳ. Nếu cứ quay lòng vòng thì ít ra chúng có thể tiên liệu. Chúng biết chuyện gì sắp sửa xảy đến giống như khi con nhìn sự tuần hoàn của mùa màng, khi nào là mùa gieo và khi nào là mùa gặt, bởi vì nó luôn luôn như vậy cho dù con không thể tiên đoán chính xác từng giây từng phút.

Do tiến trình sáng tạo cố hữu đó mà sa nhân đã chưa bao giờ thành công. Trong quá khứ, chúng đã tạo dựng những nền văn minh bị khóa chặt trong một khuôn nếp nhất định suốt một thời gian rất dài . Chúng cũng đã tạo ra một số nền văn minh bị khóa chặt trong khuôn nếp đến độ phải đi vào một vòng xoáy hướng hạ, và do đó phải suy tàn hay thậm chí sụp đổ.

Đây là điều thày đã nói tới, là sức mạnh nằm tiềm ẩn trong đấng Mẹ, mà đôi khi các thày gọi là định luật thứ hai của nhiệt động học. Một hệ thống khép kín bắt buộc phải tự hủy diệt để tiến trình đi lên được phục hồi. Tại sao một hệ thống lại được phép trở thành khép kín chứ? Là do quyền tự quyết, là bởi vì con được phép trải nghiệm tạm thời việc tạo dựng một xã hội bất biến mà con nghĩ sẽ không bao giờ biến mất, sẽ sống mãi mãi, hay ít ra sẽ kéo dài hàng ngàn năm như nhiều kẻ đã từng mơ ước.

Sa nhân muốn tạo dựng một xã hội nơi không một ai dám biểu hiện sáng tạo, sự sáng tạo đích thực. Thay vào đó, chúng nghĩ sáng tạo có nghĩa là hoạt động trong những khuôn khổ mà nhà lãnh đạo của xã hội đó – tức sa nhân – đã quy định. Hiển nhiên, điều các Thượng sư muốn dẫn con đi qua là một tiến trình nơi con giải phóng ý định của mình, trí tưởng tượng của mình, khả năng sáng tạo của mình – qua đó con cả gan biểu đạt – là sự sáng tạo đích thực đến từ Hiện diện TA LÀ của con chứ không phải loại sáng tạo do thế gian quy định.

16.5. Hiện diện TA LÀ nhìn cuộc sống như thế nào

Hiện diện TA LÀ của con nhìn cuộc sống khác hẳn cách nhìn của tâm vỏ ngoài. Thày nói điều này không phải để chê trách con, vì khi con đang đầu thai thì con không làm gì khác được. Nhưng con vẫn có thể bắt đầu hé nhìn thấy được, và chắc chắn bắt đầu hiểu ra được là Hiện diện TA LÀ có cái nhìn khác hơn. Do đó, Hiện diện TA LÀ có một mục đích khác.

Hiện diện TA LÀ muốn con – khi con là một đệ tử tâm linh và con chủ tâm bước đi trên con đường hướng thượng, con đường tâm linh – nó muốn con thăng vượt bản thân hầu con đạt tới điểm thăng thiên càng nhanh càng tốt. Nó cũng muốn con hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con trong kiếp sống này. Điều này sẽ đòi hỏi những gì? Nó sẽ không đòi hỏi con quy phục các tiêu chuẩn trong xã hội, trong gia đình hay nơi làm việc của con. Nó sẽ đòi hỏi con cả gan làm điều gì đó khác biệt.

Con hãy nhìn xem bao nhiêu đệ tử tâm linh đã sống một cuộc đời không thuần lý, không thực tế hay vượt ra ngoài những gì mà cha mẹ hoặc xã hội đã muốn họ sống theo. Con nhìn xem bao nhiêu lần họ đã thay đổi việc làm, bao nhiêu lần họ đã nghỉ việc để tham dự một khóa nhập thất, đã thay đổi người phối ngẫu, đã làm chuyện này hay chuyện nọ. Có thể chính con cũng đã từng làm những chuyện tưởng chừng như thiếu hợp lý nhưng lại là điều thúc bách con. Con nhận thấy là con có quá nhiều trải nghiệm phải nhét vào một kiếp sống và do đó con không thể làm mãi cùng một công việc, hay nhất thiết phải có cùng một người bạn đời cho nguyên một kiếp. Con có nhu cầu di chuyển khắp nơi chốn và nhìn đời từ nhiều góc độ khác nhau, hầu giải quyết trong tâm con những vấn đề đang ngăn trở bước đường thăng thiên hay tăng triển của con.

Thật không cần thiết nhìn lại đời mình với một thái độ phán xét, lo lắng về những lỗi lầm mình đã vấp phải. Con yêu dấu, nếu con mong muốn nhìn lại đời mình và đánh giá xem mình đã phạm những lầm lỗi nào, thì dĩ nhiên, đó là quyền của con. Nhưng khi đó, thày phải nói: “Thày là Serapis, Thượng sư của Tia thứ Tư, không thể giúp con làm việc đó.” Có nhiều đệ tử đến nhập thất của thày với mong muốn đó. Họ muốn thày ngồi xuống kiểm điểm đời họ cùng với họ, bảo cho họ biết là họ đã lầm lỗi chỗ nào, đã làm sái chỗ nào và đáng lẽ đã phải làm gì cho tốt hơn. Thày phải nói với họ là thày không thể giúp họ trong chuyện này. Một số nổi giận, một số thất vọng, một số bỏ đi. Điều thày nói với con là như sau: “Thày không thể giúp con xác định là con đã lầm lỗi chỗ nào. Điều thày có thể làm là giúp con nhìn vào đời mình và nhận ra mọi sự mình làm đều là một thử nghiệm.”

Trong thử nghiệm không có chuyện lầm lỗi, con yêu dấu. Con có thể có một mục tiêu khi con thử nghiệm và con có thể nói: “Mục tiêu của tôi đã không thành hình.” Chẳng hạn, khi Thomas Edison muốn phát minh bóng đèn, ông đã thử nghiệm rất nhiều vật liệu mà không thành công. Đó phải chăng là lầm lỗi? Liệu ông đã tự trách mình là ông đã sử dụng một vật liệu “lầm lỗi” hay không? Không, ông chỉ tiếp tục thử nghiệm cho tới khi ông tìm ra vật liệu thích hợp, và đây chính là cách mà thày có thể giúp con nhìn đời con.

Thày cũng có thể giúp con đi xa hơn nữa và nhìn ra trong nhiều trường hợp là con đã làm một việc gì đó trong đời với một ý định có ý thức là nó phải diễn ra như thế nào. Rồi khi ý định ý thức không hoàn thành, con thất vọng hay đau đớn, hay con bắt đầu tự trách thân là mình đã làm bậy, đã mắc phải lỗi lầm khủng khiếp. Điều thày có thể giúp con là lui lại một bước và nhìn ra Hiện diện TA LÀ của con không nhìn vào sự kiện đó theo cách con nhìn.

16.6. Một mục đích cao hơn các ý định có ý thức

Con thấy đó, con yêu dấu, điều không thể tránh được trên một hành tinh như địa cầu là con hình thành một số ý định có ý thức không phù hợp với Sứ vụ Thiêng liêng hay tiềm năng phát triển cao nhất của con. Điều này không có nghĩa là chuyện đó sai lầm, mà có nghĩa là mục đích làm chuyện đó thật sự không nhằm thực hiện mục tiêu mà con có trong ý thức.

Từ nhãn quan của Hiện diện TA LÀ, mục đích để làm một chuyện gì đó là để con cứ làm thêm mãi cho tới khi con thấy đủ và con nhận ra: “Tôi không muốn làm chuyện này thêm nữa.” Và con bắt đầu nghĩ: “Liệu vấn đề có phải là ý định của tôi, chứ không phải là chuyện đạt hay không đạt kết quả vỏ ngoài?” Điều thày có thể giúp con nhìn thấy là trong nhiều trường hợp khi con bị thất vọng trong đời hay làm điều gì con cho là lầm lỗi, vấn đề thực sự là con cần bước lui lại và nói: “Nhưng vì lý do gì tôi đã nỗ lực làm chuyện đó? Tại sao tôi lại có mục tiêu đó? Tại sao tôi nghĩ đó là cách sống duy nhất? Tại sao tôi nghĩ tôi phải nhập vào cuộc chơi mà xã hội đã lập trình để tôi phải chơi?”

Có những người chỉ có thể học hỏi qua Trường đời Cay đắng. Có một số chuyện mà tất cả chúng ta chỉ có thể học được bằng cách – nếu có thể nói như vậy – dấn thân vào Trường đời Cay đắng. Cũng không sai khi nói rằng chúng ta có một vị thày tâm linh và chúng ta ở trong một môi trường bảo bọc nơi mình luôn luôn tiếp xúc với một vị thày tâm linh có thể giúp mình lượng định mọi thứ. Nhưng trong tiến trình cũng có yếu tố là chúng ta đơn giản cần xông ra ngoài và tự mình trải nghiệm. Chúng ta cần – thẳng thắn mà nói – đập đầu vào tường đá thật nhiều lần cho tới khi mình hiểu ra là việc đập đầu vào tường sẽ không phá vỡ được bức tường. Và do đó chúng ta cần tái lượng định những việc mình làm cũng như tại sao mình làm. Đây chỉ là một phần của tiến trình tăng trưởng trong thế giới vật chất, đặc biệt là, tất nhiên, trong điều kiện hiện hành với các định luật phụ thuộc của tự nhiên.

16.7. Tại sao các sinh thể tách biệt không thể tự do

Con yêu dấu, thày đã đề cập đến các định luật phụ thuộc của tự nhiên mà không xác định rõ là gì. Vậy hãy để thày cho con một chút ấn tượng về cách chúng vận hành. Nếu con ở trong một môi trường thuần khiết nơi các định luật phụ thuộc của tự nhiên không hiện hành, con sẽ thấy là trong một môi trường như vậy (mà các thày gọi là Vườn Eden hoặc Trường Bí giáo của Maitreya) con được tự do biểu đạt sự sáng tạo của con. Không có nghĩa là con sẽ luôn luôn tạo ra một kết quả y hệt như con dự định hay thực sự mong muốn trong một thời gian.

Điều xảy ra trong một môi trường thuần khiết là bất cứ gì con tạo dựng đều có thể được tháo gỡ tức khắc. Lý do điều này có thể xảy ra là vì con nhận được sự phản hồi tức khắc của bất cứ gì con tạo ra, con có sự biểu hiện tức thì của những gì con sáng tạo. Nếu con gửi ra một ý định mà ngày nay con sẽ gọi là một ý định hung dữ với người khác, nó sẽ trở ngược lại con ngay lập tức. Trong một môi trường như vậy, con không thể có một số loại trải nghiệm vì sự phản hồi sẽ tức thì và con lập tức cảm thấy đau đớn. Con không thể đi vào tách biệt trong một môi trường như vậy và cư xử như một sinh thể độc lập có thể làm bất cứ gì mình muốn mà không đếm xỉa gì tới hậu quả cho tổng thể.

Trong một môi trường thuần khiết, con có thể làm bất cứ gì mình muốn nhưng con cũng sẽ tức khắc trải nghiệm nó ảnh hưởng như thế nào trên tổng thể vì nó phản hồi trở về con. Cách duy nhất để tránh né hiện tượng này là một môi trường trong đó có yếu tố trì hoãn, là khi con không nhận được phản hồi tức thì của những gì con gửi ra, có nghĩa là con có thể, trong một thời gian, mang ảo tưởng trong tâm rằng mình là một sinh thể tách biệt có thể trốn tránh một số hậu quả.

Toàn bộ cái nhìn của sa nhân về cuộc sống là mong muốn trải nghiệm việc trốn tránh hậu quả. Chúng có thể tách ra khỏi Thượng đế, chúng có thể tạo thế giới riêng biệt của chúng, chúng có thể ấn định luật lệ. Tất cả chúng ta đều có nhu cầu trải nghiệm điều này ít nhiều, chúng ta đều cần trải nghiệm sự tách biệt này trong một thời gian.

Con cũng hiểu là khi con bước vào tách biệt, con không tự do; con không thể tự do. Theo định nghĩa, không thể nào có chuyện vừa là một sinh thể tách biệt mà lại vừa tự do, bởi vì tách biệt chỉ có thể xảy ra bằng cách quy định một số hạn chế và lằn ranh, và những cái này thì sẽ giới hạn con.

Mới đầu, có thể con sẽ không kinh nghiệm thấy như vậy. Con còn có thể nghĩ là bằng cách nổi loạn chống lại Thượng đế, như sa nhân quả quyết, con sẽ đạt được tự do. Con sẽ thấy là trên hành tinh này có một số lời dạy bảo rằng khi con tuân thủ ý muốn của Thượng đế, con sẽ mặc vào bộ áo tù bó tay bó chân, và chỉ khi nào con chống lại ngài thì con mới giành được tự do. Đây chính là lời dạy của một số giáo lý và tư tưởng đạo Sa-tăng.

Đó là cảm giác lúc ban đầu bởi vì yếu tố trì hoãn khiến con không tức khắc nhận được phản hồi của những gì con gửi ra. Nhưng yếu tố trì hoãn không thể kéo dài mãi mãi, và sẽ tới thời điểm con bắt đầu cảm thấy mất tự do.

Con hãy cho thày hỏi câu này, con yêu dấu, như một bài tập về lôgic và trí thức. Một đằng sa nhân sẽ bảo là con chỉ tự do khi con nổi loạn chống lại Thượng đế. Đằng khác, chúng lại định nghĩa Thượng đế là kẻ thù đang hạn chế con. Tại sao chúng lại cần định nghĩa Thượng đế như vậy chứ? Tại sao chúng không chỉ việc bước xa khỏi ngài và nói: “Thượng đế không can hệ gì đến chúng ta, chúng ta cứ việc làm bất cứ gì mình muốn.” Đó là vì khi con bước vào nhị nguyên, con không thể làm bất cứ gì con muốn. Con phải có một đối thủ. Sa nhân đã biến Thượng đế thành đối thủ của chúng, hoặc chúng biến nhau thành đối thủ, hoặc những sinh thể khác, những con người khác thành đối thủ. Con phải có cái gì đó để mà chống đối, vì nếu không thì con không thể giữ vững ảo tưởng mình là một sinh thể tách biệt. Sự kiện con có cái gì đó để chống đối sẽ tước mất tự do của con. Không thể nào khác được. Để tìm lại tự do và biểu hiện sáng tạo của mình, con cần gỡ bỏ các cơ chế, các tin tưởng này về những gì con nghĩ con phải làm trong cuộc sống.

16.8. Định nghĩa các định luật phụ thuộc của tự nhiên

Trở về với các định luật phụ thuộc của tự nhiên, Luật Tự quyết cho phép con bước vào không gian tách biệt đó và định ra một số quy luật trong đó. Điều sa nhân đã làm là định ra một số quy luật khiến cho vật chất trở nên dày đặc hơn. Vật chất trong vũ trụ nơi con sinh sống dày đặc hơn ở nguyên thủy. Thày không bảo là khắp nơi trong vũ trụ vật chất đều dày đặc hơn, nhưng chắc chắn trên hành tinh địa cầu, vật chất dày đặc hơn hành tinh nguyên thủy do các Elohim sinh tạo.

Điều này mang một số hệ quả, trước tiên là nó che giấu sự hiện hữu của một cõi tâm linh – con không thể nhìn thấy với giác quan vật lý và tâm vỏ ngoài của con. Nó cũng che lấp ý tưởng là mọi sự việc đều quay trở ngược về con. Con tưởng là con có thể dựng lên một bức tường nào đó bằng vật chất sẽ bảo vệ con khỏi sự phản hồi, mà các thày gọi là nghiệp quả. Sa nhân đã cố làm chuyện này, và con có thể trì hoãn nhưng con không thể trì hoãn mãi mãi.

Sẽ tới một thời điểm khi nghiệp quả quay trở ngược về con và con không làm sao khác được. Khi dựng lên các định luật phụ thuộc và khiến cho mọi vật dày đặc hơn, con cũng khiến cho mọi chuyện đều khó thay đổi hơn. Khi rõ ràng mọi chuyện không diễn ra như con nghĩ và con không thể mãi mãi trốn tránh nghiệp quả, thì việc gỡ mình ra khỏi tình trạng này trở nên vô cùng khó khăn.

Kết quả là điều này tạo ra một môi trường học hỏi cực kỳ khắc nghiệt so với môi trường ban đầu nơi Vườn Eden với Maitreya. Trong môi trường thuần khiết nguyên thủy, con có thể sáng tạo một điều gì đó mà con không đặc biệt ưa thích và sẽ không mấy dễ chịu khi nó quay trở ngược về con, nhưng con có khả năng gỡ bỏ, hoàn nguyên nó tức khắc. Trong môi trường hiện tại, yếu tố trì hoãn khiến cho những gì con gửi đi không tức khắc quay trở về, nhưng khi nó quay trở về với con thì việc hoàn nguyên sẽ khó khăn bội phần.

Do vật chất dày đặc hơn, con cũng gặp tình trạng là vật chất cực kỳ thiếu khoan nhượng. Con có thể tạo ra những hệ quả sẽ ập đến tức khắc và ảnh hưởng con một thời gian rất đài. Như con cũng biết, khi con bước ra khỏi một toà nhà thật cao, con sẽ bị rơi xuống mà không làm gì khác được. Có rất nhiều chọn lựa trong đời sống mà con có thể gây ra hậu quả vô cùng khó chịu ngay lập tức, hay con phải chịu một hệ quả sẽ kéo dài suốt phần đời còn lại từ một chọn lựa duy nhất. Sự thể này không hiện hữu trong môi trường học hỏi nguyên thủy. 

Con có thấy là thế giới nơi con lớn lên đã khiến con bị điều kiện hóa để nghĩ rằng quan tâm chủ yếu của con trong đời là phải tránh né những hậu quả ngặt nghèo và khó chịu của hành động của mình? Con thấy chăng là nếu trọng tâm của con là tránh phạm lỗi lầm, tránh làm điều sai trái, tránh tạo ra một hậu quả thật khó chịu, thì có phải con đang không thực sự sáng tạo? Sáng tạo không là một phản ứng đối với hay chống lại các điều kiện trên địa cầu. Sáng tạo không phải là liên hệ với thế giới vật chất cùng các điều kiện hiện hữu. Mà sáng tạo là khi con liên hệ với Hiện diện TA LÀ của con và cho phép cá thể cùng sự sáng tạo của Hiện diện được biểu đạt xuyên qua con trong thế giới vật chất.

Con thấy đây không phải là chuyện tìm cách tránh né vĩnh viễn những hậu quả tiêu cực, mà là trở nên sáng tạo để hoặc con thăng vượt, hoặc con thay đổi những điều kiện đang tạo ra các hậu quả tiêu cực đó. Đây chính là cách thế giới tiến bộ.

16.9. Một định nghĩa mới về thiên tài

Có những người đã hòa điệu được với dòng chảy sáng tạo này. Con có thể thấy một số người được gọi là thiên tài vì họ đã nảy ra một sáng kiến mà không ai nghĩ tới. Nhiều người chỉ có khả năng làm được điều này đúng một lần trong đời mình hay một vài lần. Họ chỉ có thể làm được trong một lãnh vực nhất định, nhưng nhiều khi họ không thể chuyển được điều này vào đời sống riêng của họ. Con sẽ thấy rất nhiều người được gọi là thiên tài đó, như Einstein chẳng hạn, cũng là người lập dị với những thành công hạn chế – nếu có thể nói như vậy – trong cuộc sống riêng tư. Có một sự phân cách giữa lãnh vực nghiên cứu mà họ đã chọn với cuộc sống hàng ngày của họ.

À con yêu dấu, các thày thà nhìn thấy các con là thiên tài trong đời sống hàng ngày, cho dù các thày cũng mong được thấy con là thiên tài trong một lãnh vực nơi con mang tiềm năng biểu đạt những điều mới lạ. Mục đích của khóa tu tự điều ngự là để con trở thành thiên tài trong đời sống hàng ngày bằng cách là người sáng tạo, là người học cách sử dụng khả năng sáng tạo tâm linh, thần thánh mà con vốn có sẵn, để tạo ra đời sống cùng những trải nghiệm đời sống mà con mong muốn trong kiếp này, hầu trợ giúp sự tăng triển của con.

Có thể mục tiêu của con không phải là thăng thiên trong kiếp này, nhưng chắc chắn trong Sứ vụ Thiêng liêng của con có ghi việc thực hiện tiến bộ đáng kể về hướng thăng thiên. Nhiều người trong số các con có đặt vào Sứ vụ Thiêng liêng mục tiêu hội đủ tư cách để thăng thiên ở cuối kiếp này. Đôi khi mục tiêu này đòi hỏi con làm một số việc mà dưới nhãn quan của người đời trong môi trường của con có vẻ là rất phi lý, vô trách nhiệm và kỳ lạ.

16.10. Tự ngã là vùng đệm giữa con và thế gian

Đó chính là sự sáng tạo, theo nghĩa là nó thăng vượt những ranh giới mà con mang trong tâm thức, những giới hạn đang kềm hãm con lại. Sáng tạo là gì đối với con? À, thày không thể nói được, con yêu dấu. Thày không thể nói được vì con không thể biết được sáng tạo là gì với tâm vỏ ngoài.

Con có hiểu thày đang nói gì chăng? Sa nhân đã làm gì? Chúng đã tạo ra một cơ chế trong tâm con đứng giữa con và thế giới. Tự ngã là gì chứ, con yêu dấu? Đó là một phản ứng đối với việc thế giới chối bỏ con. Cho nên con đã cố tạo ra một cơ chế để bảo vệ con khỏi thế giới vật chất cùng những điều kiện ở đây. Đó là một vùng đệm giữa con và thế giới. Một phần của nó là con đánh giá mọi việc trước khi con hành động. Con lo ngại những hậu quả tiềm ẩn.

“Liệu chuyện này sẽ khiến tôi chết liền tức khắc? Liệu nó sẽ biến tôi thành một kẻ tàn tật phải ngồi xe lăn trọn đời?” Rồi đến những lượng định vi tế hơn như “Liệu người ta sẽ nghĩ gì về tôi, nói gì về tôi? Tiêu chuẩn của xã hội là tôi phải cư xử hay không được cư xử thế nào?” Con đã quen đánh giá mọi chuyện trước khi con biểu lộ ra, nhưng đó không phải là sáng tạo. Sáng tạo là khi con nối kết – cái Ta Biết nối kết – bằng trực giác với Hiện diện TA LÀ của con. Con không lượng định bằng tâm vỏ ngoài xem Hiện diện sẽ làm gì xuyên qua con để ngăn chặn con, nếu Hiện diện muốn làm điều gì mà con không đồng ý hoặc sẽ khiến con xấu hổ.

16.11. Để cho Hiện diện làm việc xuyên qua con

Qua tâm vỏ ngoài, con sẽ không biết được Hiện diện muốn làm gì. Con hiểu điểm này chứ? Ngay lúc con nối kết trực giác với Hiện diện TA LÀ rồi bước vào tâm phân tích, ngay lúc đó con đã tắt đi luồng sáng tạo. Hiện diện TA LÀ phải lui về, tôn trọng quyền tự quyết của con, và đơn giản nó sẽ không biểu đạt qua con.

Khi con lượng định với tâm vỏ ngoài, con tắt đi luồng sáng tạo từ Hiện diện. Cách duy nhất để biết được Hiện diện sắp làm gì xuyên qua con là trải nghiệm sự việc khi nó đang diễn ra. Con không thể biết trước rồi sau đó – nếu con chấp thuận – để cho Hiện diện biểu đạt. Con cần để cho Hiện diện biểu đạt những gì nó muốn biểu đạt và con trải nghiệm nó khi nó đang biểu đạt.

Nếu con không sẵn sàng làm như vậy, nếu con không sẵn sàng ngẫu hứng, thì con không thực sự sáng tạo. Không thể nào khác được. Con không thể né tránh chuyện này. Vì thế chúng ta có thể gọi đó là một quy luật. Con không thể vừa nối kết với Hiện diện, vừa lượng định xem Hiện diện phải biểu đạt ra sao. Con không thể nối kết với Hiện diện qua tâm phân tích.

Con có thể, tất nhiên, nhận ra là Hiện diện của con sẽ không làm gì để khiến con mất mạng chẳng hạn, và nó sẽ không muốn biểu lộ xuyên qua con một điều gì sẽ khóa con chặt hơn nữa vào một trạng thái giới hạn. Hiện diện muốn giải thoát con khỏi mọi giới hạn.

Quá nhiều người sợ hãi sự sáng tạo của mình vì họ cũng vậy đã dần dần tin rằng cách duy nhất để tránh khỏi hậu quả tệ hại là kiểm soát mọi chuyện. Họ nghĩ tự ngã có lý khi nó muốn kiểm soát và biến mọi thứ thành những chuyện có thể tiên liệu trước. Con đâm ra sợ hãi những gì tự phát, không thể đoán trước.

Tại sao Giê-su lại bảo rằng trừ khi con trở thành một trẻ nhỏ, con không thể bước vào Nước Trời? Đó là vì Nước Trời là một trạng thái tâm thức, là tâm thức Ki-tô. Tâm thức Ki-tô là khi con nối kết với Hiện diện TA LÀ của con và Hiện diện có thể tự biểu đạt xuyên qua con. Như Giê-su cũng nói, “Ta không thể tự mình làm nổi việc gì, mà là Cha – có nghĩa là Hiện diện TA LÀ – ở trong ta.” Đây chính là quả vị Ki-tô.

16.12. Sự sáng tạo phải được biểu lộ

Quả vị Ki-tô có thể ở trên tầng 96 một chút, nhưng tự điều ngự có nghĩa là con mở khóa sáng tạo của mình và cho phép nó tuôn chảy xuyên qua con. Điều này, con cần bắt đầu thực hiện trước khi con có thể chuyển từ khóa nhập thất của thày sang khóa nhập thất của Hilarion ở Tia thứ Năm. Thày đã nói là Tia thứ Tư là một loại tiêu điểm giữa ba tia sáng đầu và ba tia sáng chót. Ba tia sáng chót là nơi con cần khởi sự biểu đạt sáng tạo của con.

Không chỉ là chuyện học hỏi ngày càng nhiều hơn khi con kinh qua khóa tu này. Trong ba tia đầu, con đã đi qua đại loại một tiến triển bình thường, và thày đang ở đây để dẫn con đến điểm sẵn sàng bước vào ba tia chót. Ở đó sẽ không là chuyện học hỏi mà là chuyện biểu đạt. Không phải là chuyện ngồi trong tháp ngà học tập một điều gì đó về bản thân mình, mà là thực sự biểu hiện sự sáng tạo của bảy tia sáng và sử dụng sáng tạo này để thay đổi đời mình cũng như kinh nghiệm sống của mình. Làm thế nào con sẽ mở khóa khả năng sáng tạo? Ở mức cõi ê-the tại khóa nhập thất của thày, cả hai thày đều đang dạy con như thày dạy con bây giờ. Các thày gợi ý cho con, thách thức cách nhìn của con về thế giới, nhưng các thày cũng dẫn con qua một số bài tập nhằm giúp con mở khóa khả năng sáng tạo đó và cả gan bày tỏ một cách tự nhiên, tự phát. Tất nhiên, con có thể tự giúp mình rất nhiều bằng cách cũng làm vậy ở mức ý thức.

Cuộc sống của con sẽ không thay đổi cho tới khi con đem những gì con học được tại khóa nhập thất xuyên qua các thể bản sắc, lý trí, cảm xúc và cuối cùng xuống đến thể vật lý. Thày khuyến khích con hãy tham gia vào những loại sinh hoạt tự phát, không gò bó. Thày để cho con chọn lựa vì có rất nhiều loại hoạt động như vậy – có thể là hội họa, nhảy múa, âm nhạc, hay bất cứ gì con thích.

16.13. Một chương trình mở khóa sáng tạo

Tuy nhiên, điều thày muốn gợi ý là con hãy lên khuôn một chương trình hàng ngày để học tập bài giảng này cũng như đọc bài thỉnh kèm theo. Con hãy dành ra một chút thời gian sau đó để ngồi yên lặng. Con hãy có một quyển sổ ghi và một cây bút, sau đó con dành ra một thời gian để hòa điệu với Hiện diện TA LÀ của con. Khi thày nói hòa điệu, thày không muốn nói là con làm vậy với tâm phân tích. Thày không muốn nói là con ngồi đó và tạo ra một nghi thức trong tâm, và con nghĩ ngợi về cách hòa điệu với Hiện diện của con. Điều thày yêu cầu con làm là, càng nhiều càng tốt, để cho tâm yên tĩnh, im lặng, rồi con hòa điệu. Sau đó, con hãy viết xuống bất cứ gì khởi lên trong con mà không đánh giá gì hết.

Có thể những gì đến với con là điều gì đó được biểu lộ từ tâm tiềm thức. Có thể có một số điều mà con cần nhìn thấy trong tâm tiềm thức và do đó nó khởi lên cho con chú ý. Có thể có những điều đang ngăn chặn không cho con hòa điệu với Hiện diện TA LÀ. Khi con đọc những dòng đó, con có thể lượng định. Con có thể sử dụng những điều khởi lên khi con đọc bài thỉnh cho chương này hoặc con đọc những bài thỉnh, bài chú khác nếu thích hợp. Chẳng hạn, nếu con cảm thấy một nỗi sợ nào đó, con có thể kêu gọi Đại thiên thần Michael. Nếu con có ràng buộc với một điều gì đen tối, một điều gì khó chịu, con có thể kêu gọi Elohim Astrea để thày cắt đứt dây buộc và cởi trói cho con. Cho mỗi vị chân sư, cho mỗi vấn đề mà con có thể gặp, đều có những bài thỉnh, bài chú thích hợp (Xem chansuthangthien.org).

Cũng có thể có một điều gì đó đến với con mà con chưa hề dám nghĩ tới. Có thể có một điều gì về cách thay đổi hoàn cảnh vỏ ngoài của mình mà con không dám nghĩ tới trong tâm ý thức. Vậy con cần ngồi xuống và lượng định. Liệu con sẽ thực hiện thay đổi này hay không? Thày không đang nói là con nhất thiết phải thực hiện mọi sự thay đổi khởi lên trong con. Rất có thể là con cần nhìn thấy một điều gì đó hầu con có thể quyết định một cách ý thức là mình thay đổi hay không.

Một lần nữa, con cần nhớ là con đã làm một số chuyện với mục đích nhìn ra là mình không muốn làm những chuyện đó nữa. Một điều tương tự cũng có thể xảy ra đối với những điều đến với con từ bên trong. Có nhiều học trò tâm linh nghĩ rằng bất cứ gì đến từ bên trong đều phải đến từ Hiện diện TA LÀ hay từ chân sư thăng thiên, nhưng không phải luôn luôn như vậy. Nó có thể đến từ một khía cạnh của tự ngã, có thể nó đã khởi lên là vì con cần tới điểm nhìn thấy một cách ý thức rằng đó không phải là một chỉ đạo cao hơn, đến từ một nguồn cao hơn. Do đó, bằng cách ý thức nhận ra điều này, con có thể phơi bày một khía cạnh của tự ngã, rồi con có thể gia tăng mức hòa điệu với Hiện diện TA LÀ và nhận được sự hướng dẫn đích thực từ trên. Thày vừa nói là nếu con nghĩ là con đã giác ngộ, sẽ có một số khía cạnh của tự ngã mà con phải phủ nhận, cho nên con sẽ kẹt lại ở đó. Cũng có một số học trò tâm linh bị kẹt lại vì họ tưởng mình đã nhận được sự hướng dẫn từ một nguồn thiêng liêng hay một linh hứng cao hơn nào đó, nhưng nguồn này không cao hơn theo nghĩa nó đến từ Hiện diện TA LÀ. Có thể nó đến từ một số sinh thể trong cõi trí hay cõi bản sắc. Có thể nó đến từ chính thể bản sắc hay thể lý trí của con, nhưng nó không đến từ Hiện diện và các chân sư. Cũng đôi khi có những học trò nhận được sự chỉ đạo dai dẳng mà họ cho là chính đáng, và mục đích là khiến con đạt tới điểm con nhận ra đó cũng không phải là cao nhất, mà có cái cao hơn.

16.14. Tại sao đường tu có vẻ phức tạp

Đúng vậy, con yêu dấu, chuyện này rắc rối, chuyện này phức tạp. Con có biết tại sao nó lại có vẻ phức tạp như thế? Thày đã nói gì ở đầu bài? Tự do là sự tự do khỏi các cơ chế trong chính tâm con. Đó là nơi con giành được tự do: trong chính tâm con. Con chẳng hiểu hay sao là khi con nhìn từ bên trong tâm mình, thật là khó nhìn thấy những cơ chế mà mình đã tạo dựng? Tại sao vậy? Bởi vì con đã tạo ra những cơ chế đó để cho mình ảo tưởng mình là một sinh thể tách biệt.

Nếu con thấy được là con thật sự không là một sinh thể tách biệt – rằng đó chỉ là một ảo tưởng – thì nó sẽ không còn cho con cảm nhận đó là thực tại nữa. Hẳn con đã ngồi trong một rạp hát ngắm cảnh trí trên sân khấu, rồi có thể con đã có dịp bước ra đằng sau cảnh trí và nhận ra đó là một ấn tượng chỉ có tác dụng khi con ngồi nhìn từ dưới rạp hát. Khi con bước ra đằng sau, con thấy ngay tất cả đều là giả. Đó, trong tâm con cũng xảy ra giống như vậy. Khi con ngồi trong rạp và nhìn lên sân khấu, tất cả đều có vẻ hiện thực. Nếu con ra sau sân khấu thì hiển nhiên tất cả đều là giả. Khi con ngồi trong tâm con, mọi chuyện có vẻ thật rắc rối, thật khó thấy, thật phức tạp. Và con nghĩ: “Ồ, làm thế nào tôi sẽ thoát ra được đây? Làm thế nào tôi sẽ nhìn xuyên thấu được đây?”

Con yêu dấu, thày hoàn toàn hiểu được cảm giác này vì chính thày cũng đã cảm thấy như vậy trước khi thăng thiên, và thày có thể nhớ lại chuyện đó như thế nào trước khi mình thăng thiên. Nhưng thày cũng biết là khi con tiến lên từng bước một, con sẽ làm cho tấm màn ngày càng mỏng hơn, và sẽ có những lúc khi mây mù hé mở ra và con bắt được một tia sáng từ mặt trời là Hiện diện TA LÀ của con.

16.15. Kết luận

Thày đã dẫn con đi qua bảy bước trong cuốn sách này. Nếu con đi theo một cách chuyên cần, con sẽ tiến bước, và một ngày con sẽ sẵn sàng bước theo các khai ngộ dưới bào huynh yêu dấu của thày là Hilarion. Và Hilarion sẽ dạy con cách thực hành câu ngạn ngữ cổ xưa: “Thày thuốc, hãy chữa lành chính mình!”

Thật là một niềm vui lớn được dẫn dắt con nơi khóa nhập thất của thày, được trao cho con những bài truyền đọc có khả năng kích thích tâm vỏ ngoài của con. Thày biết ơn đã có cơ hội đem nội dung những bài giảng này vào cõi vật lý nơi mọi người có thể đọc được và do đó có cơ hội quyết định: “Liệu tôi sẽ chỉ đọc qua mà thôi, hay là tôi sẽ làm những bài thực tập? Liệu tôi sẽ làm một cách máy móc hay tôi sẽ bắt đầu làm một cách sáng tạo? Liệu tôi sẽ làm như một bài tập vỏ ngoài hay tôi sẽ thực sự hòa điệu với Hiện diện của Serapis Bey?”

Theo một nghĩa nào đó, toàn bộ mục đích của bảy tầng khai ngộ này là để giúp con hòa điệu trong ý thức với Hiện diện mà TA LÀ. Nếu con có thể trải nghiệm Hiện diện của thày trong tâm vỏ ngoài của con, nó sẽ neo chặt bước tăng triển mà con đã kinh qua ở tầng ê-the vào cuộc sống vật lý và tâm vỏ ngoài của con, ở một mức mà con không thể tưởng tượng nổi khi con chưa trải nghiệm Hiện diện của thày.

Do đó, thày hy vọng là sẽ đến một điểm mây mù sẽ hé mở ra và con sẽ nhìn thấy thày như TA LÀ. Vì thày là chân sư thăng thiên Serapis Bey, Thượng sư của Tia sáng thứ Tư và:

TA LÀ tự do trong sự… thuần… khiết.

14 | Tìm được an bình trong phụng sự

Bài giảng của chân sư thăng thiên Serapis Bey qua trung gian Kim Michaels, ngày 7/1/2016.

TA LÀ chân sư thăng thiên Serapis Bey. Giờ đây chúng ta đã đến tầng thứ sáu trong khóa nhập thất của thày, là tầng con đối diện với sự phối hợp giữa Tia thứ Tư của Thuần khiết với Tia thứ Sáu, thường được gọi là tia sáng của phụng sự và tia sáng của an bình.

Phụng sự và an bình có liên hệ như thế nào? Các thày có nói là con đã đi xuống địa cầu với một mục đích cao hơn, một mục đích vượt hẳn những gì hầu hết mọi người có thể thấy được qua tâm ý thức. Con đã đi xuống đây vì con thấy đây là một hành tinh kém cỏi với nhiều bóng tối và nhiều điều kiện cần thay đổi. Con đã đến vì con nghĩ rằng bằng cách hiện thân ở đây, đem lại ánh sáng và biểu đạt sự sáng tạo cá nhân của mình, con có thể tạo sự khác biệt và quả thực giúp nâng địa cầu lên một mức cao hơn, để địa cầu rũ bỏ một số biểu hiện đen tối mà con đang chứng kiến, chẳng hạn như chiến tranh và đủ loại hình thức vô nhân khác của con người đối với con người.

Có thể nói một phần lớn động lực của con, ý định của con để tới địa cầu là đóng góp một mức phụng sự sẽ giúp nâng địa cầu lên cao hơn. Vì vậy, ngay trong ý định sâu thẳm nhất của con đã gắn sẵn mong muốn cải thiện trái đất, đưa trái đất đi lên.

14.1. Khi phụng sự lấy mất sự an bình của con

Điều thày muốn cho con thấy bây giờ là mong muốn phụng sự địa cầu có thể lấy đi cảm giác an bình của con như thế nào. Tiếc thay, đây là một vấn đề mà con có thể làm cho trầm trọng hơn khi con khám phá con đường tâm linh và bước theo một giáo lý tâm linh. Trên thế giới có nhiều loại giáo lý tâm linh bị ảnh hưởng bởi những ý tưởng tinh vi của sa nhân, đặc biệt là tư duy cuồng đại. Những giáo lý này trực tiếp cho tín đồ cảm nhận là họ có mặt ở đây để thay đổi một số điều kiện cụ thể trên trái đất. Ngay cả giáo lý của chân sư thăng thiên mà các thày trao truyền cũng có thể làm gia tăng tư duy cuồng đại và mong muốn nhìn thấy những thay đổi đặc thù trên trái đất. Hiển nhiên các thày thường hay kêu gọi các con thỉnh cầu một số thay đổi cụ thể. Chẳng hạn trong sách của Mẹ Mary về chiến tranh có cung cấp một số dụng cụ để con thỉnh gọi và giúp tiêu trừ tệ nạn chiến tranh khỏi địa cầu (Help the Ascended Masters Stop War – Giúp chân sư thăng thiên chấm dứt chiến tranh). Vậy thì làm thế nào con cân bằng được mong muốn thay đổi cụ thể với sự an bình nội tâm của mình?

Rõ ràng là các thày muốn thấy thay đổi cụ thể trên trái đất. Rõ ràng là các thày muốn thấy chiến tranh bị loại trừ khỏi hành tinh. Các thày muốn thấy địa cầu gia tốc lên một trạng thái cao hơn nơi chiến tranh và những dòng sống hiện thân tâm thức chiến tranh bị rũ sạch, vì chúng không thể ở lại trong độ rung gia tốc của hành tinh và tâm thức tập thể.

Tuy vậy như thày có nói, các thày muốn thấy điều đó xảy ra trong bối cảnh của Luật Tự quyết. Các thày muốn thấy một số lớn loài người trên hành tinh sử dụng quyền tự quyết của mình để nâng cao tâm thức, vượt lên khỏi tâm thức của chiến tranh chẳng hạn. Làm thế nào họ sẽ làm được vậy? Họ sẽ không thể làm được vậy qua sự ép buộc.

Con yêu dấu, con chẳng thấy hay sao là các thày đâu có yêu cầu con thỉnh gọi một điều gì sẽ ép buộc người khác? Các thày yêu cầu con đọc những bài thỉnh sẽ nâng cao tầm nhìn nội tâm, hiểu biết cùng viễn quan của mọi người để họ có thể tự nguyện thực hiện những thay đổi đó.

Đến giờ con chẳng thấy hay sao là một trong những khác biệt cơ bản giữa chân sư thăng thiên và hàng ngũ giả hiệu là các thày hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết, trong khi hàng ngũ giả hiệu thì chẳng có chút tôn trọng nào hết?

14.2. Sa nhân buộc con người phải phản ứng

Các sa nhân đã làm gì ngay từ khi chúng đến địa cầu? Chúng đã bắt buộc mọi người phải phản ứng lại chúng và chống lại chúng. Con chẳng thấy hay sao đây là một trong những cơ chế đằng sau chiến tranh và đủ mọi loại bạo lực khác? Con sống trong một cơ thể vật lý, con phải sống ở đâu đó để có thể tồn tại, chu cấp cho bản thân cũng như cho gia đình con. Con sống trên một mảnh đất, cho nên nếu có một nhóm người tập hợp một đội quân tiến vào mảnh đất đó để cưỡng đoạt và có thể giết hại chính con lẫn gia đình con, thì con bắt buộc phải phản ứng lại một cách nào đó.

Đây chính là cách sa nhân đã ép uổng con người phải rơi vào những vòng xoắn ốc phản ứng tự nó ngày càng mạnh mẽ hơn. Con thấy như ở vùng Trung đông, con người ở đó đã từ hàng ngàn năm qua bị kẹt cứng trong một vòng xoắn ốc tương tự. Sa nhân gần như chẳng phải làm gì để giữ cho tình trạng này kéo dài mãi mãi khi đã có con người tự ý làm như vậy. Họ không thể tự kéo mình ra khỏi vòng xoáy, và hiển nhiên con thấy rõ những vòng xoáy này đối nghịch với hòa bình. Không thể có hòa bình giữa con người khi ai nấy vẫn mắc kẹt trong vòng xoáy như vậy. Không thể có hòa bình trong tâm con người khi ai nấy bị mắc kẹt trong vòng xoáy như vậy. Những vòng xoáy cướp đi hòa bình như thế không chỉ gây ra chiến tranh giữa quốc gia hay bộ tộc, mà có cả những vòng xoáy trong gia đình hay nơi sở làm khiến người ta, một lần nữa, bị kẹt vào những phản ứng đối với nhau và chống lại nhau. Có một số người, dù là qua hôn nhân hoặc trong cùng một gia đình với anh chị em hay cha mẹ, đã kẹt vào vòng xoáy với cùng những dòng sống đó suốt bao nhiêu kiếp sống. Và cứ thế họ lại tái đầu thai trong cùng những nhóm gia đình vì họ không thể phá vỡ và thoát khỏi những vòng xoáy mà họ đã duy trì với các dòng sống trong nhóm.

Con, tất nhiên, là một học trò tâm linh, một học trò của chân sư thăng thiên. Con đã tự kéo mình ra khỏi những vòng xoáy phản ứng dễ thấy nhất, vì nếu không thì con đã không vươn lên được khỏi tầng tâm thức 48. Điều thày cố giúp con nhìn ra ở đây là còn có những vòng xoáy khác vi tế hơn.

Một trong những vòng xoáy này là sự cảm nhận cho rằng, bởi vì sa nhân đã cưỡng ép người ta vào vòng xoáy hướng hạ, thì con là người tâm linh cũng rất chính đáng khi con cưỡng ép người khác, vì lợi ích của họ, phải bước ra khỏi vòng xoáy hướng hạ đó. Đây chính là cốt lõi của tư duy cuồng đại khi con nghĩ có một trận chiến hoành tráng giữa thiện và ác, và con đang đứng về phe thiện. Vì cái ác quá hung tợn cho nên con bắt buộc phải sử dụng vũ lực để đánh bại cái ác, hay để giải phóng mọi người khỏi nanh vuốt của cái ác.

Đây là cách biện minh đằng sau đủ loại hành vi dựa trên vũ lực do những người theo tôn giáo, những người tâm linh hay nhiều loại người thiện chí khác, khi họ nghĩ là họ đang phục vụ cho một chính nghĩa tốt đẹp nhưng họ lại dùng vũ lực. Ở mức của con nơi tầng thứ sáu của khóa nhập thất của thày trong Tia thứ Tư, con đã thoát ra khỏi những vòng xoáy đó, nhưng liệu con đã hoàn toàn thoát khỏi cái tư duy tinh tế ở đằng sau?

14.3. Phụng sự và thành công

Ngay cả khi con không phản ứng trực tiếp lại người khác hay tìm cách ép buộc họ, con vẫn có thể bị tác động bởi ý thức tinh tế là con đang ở đây để cống hiến một việc ích lợi cho địa cầu, và thước đo để đánh giá xem con phụng sự có thành công hay không là thấy được những thay đổi vỏ ngoài cụ thể. Con yêu dấu, khi nào con còn nghĩ việc phụng sự của con trên hành tinh này phụ thuộc vào việc chế tạo một số thay đổi vỏ ngoài cụ thể gắn liền với những chọn lựa tự quyết của người khác, thì con sẽ không bao giờ đạt được an bình nội tâm.

Có thể con sẽ nói, như nhiều đệ tử cũng nói khi thảo luận về đề tài này ở cõi ê-the: “Nhưng Serapis, có phải thày đang bảo là chúng con không ở đây để phụng sự và đem lại thay đổi cụ thể? Chúng con chẳng ở đây để giúp loại trừ cái ác khỏi địa cầu hay sao?” Trả lời cho câu hỏi đó là “Có và không”, bởi vì nó tùy thuộc vào cách con nhìn vấn đề.

Các thày đã từng dùng hình ảnh một nhóm người bị kẹt trong một hang động tối tăm. Vì họ trong bóng tối cho nên họ không thể thấy mình đang ở đâu hay đang làm gì, và do đó có một số chọn lựa mà họ không thể chọn một cách ý thức. Nếu ánh sáng trong động được gia tăng lần hồi, họ sẽ từ từ thấy rõ hơn. Và khi tầm nhìn của họ rõ ràng hơn, họ sẽ – từ bên trong – bắt đầu chọn lựa một cách ý thức hơn, hiểu biết hơn. Như thày MORE đã từng nói, nếu người ta biết tốt hơn thì người ta cũng sẽ làm tốt hơn – và điều này đúng cho mọi người, trừ sa nhân. Thậm chí điều này cũng đúng cho cả sa nhân, nhưng chúng sẽ không bao giờ đạt tới điểm biết tốt hơn đó cho đến khi chúng xoay chuyển tâm thức và nuốt trọn niềm kiêu hãnh, một điều vô cùng khó khăn đối với chúng.

Đối với tất cả những dòng sống khác, nếu họ thật sự thấy được một chọn lựa tốt hơn những chọn lựa trước, thì trong đa số trường hợp, họ sẽ lấy chọn lựa này. Như trong câu chuyện ngụ ngôn quen thuộc, nếu con nghĩ mình đang cầm một sợi dây thừng và ánh sáng lần lần tỏa rạng, và con thấy đó là một con rắn, thì con sẽ tự động buông rắn ra.

Công việc của con không phải là chế tạo một số thay đổi cụ thể bằng cách sử dụng vũ lực trên người khác. Chẳng hạn, làm thế nào con có thể ép buộc người khác yêu chuộng hòa bình? Chính vũ lực đã lấy đi hòa bình của họ và khiến họ giao chiến lẫn nhau. Làm thế nào dùng thêm vũ lực có thể loại bỏ vũ lực đã có mặt ở đó và đã tàn phá địa cầu? Không thể nào được!

Sa nhân đã tạo ra đủ loại ý tưởng vi tế bảo rằng không những chuyện đó có thể làm được mà đó còn là cách duy nhất. Cứu cánh biện minh cho phương tiện. Nhưng điều này chưa bao giờ và sẽ không bao giờ là phương thức của các chân sư thăng thiên. Các thày làm việc với quyền tự quyết, trong khuôn khổ Luật Tự quyết. Hễ gia tăng ánh sáng thì người ta sẽ chọn lựa tốt hơn. Nếu họ không chọn lựa tốt hơn thì con hãy bước lui lại, để yên cho họ chui vào vòng xoáy hướng hạ cho tới khi họ chán chê trải nghiệm đó và kêu gào mong được hơn vậy. Khi những cú giáng của trường đời đủ cay đắng, họ sẽ không tránh khỏi cầu mong như thế.

Con yêu dấu, con có thấy được sự mâu thuẫn giữa động lực nguyên thủy của con đã khiến con đến trái đất – thuần khiết và dựa trên tình thương – với động lực và quan điểm mà con hiện có trong tâm ý thức và ba thể phàm kia của con? Con có thấy điều thày đang chỉ ra cho con, là khi nào còn có mâu thuẫn giữa hai cái đó thì con sẽ không thể tìm thấy an bình nội tâm trên hành tinh này?

Con không thể an bình với việc con hiện thân trên địa cầu nếu con còn nghĩ con ở đây là để chế tạo những thay đổi cụ thể lệ thuộc vào sự chọn lựa tự quyết của người khác. Con phải đạt tới điểm con nhận ra là việc con phụng sự đời sống không tùy thuộc vào bất kỳ điều kiện nào hay bất kỳ người nào ngoài chính con.

Tại khóa nhập thất khi thày trò ngồi họp nhóm thảo luận về đề tài này, các đệ tử thường phản ứng và nói: “Nhưng làm thế nào chúng con phụng sự đây? Chúng con không thấy được làm thế nào chúng con có thể phụng sự.” Các thày đã nói gì về mục đích của đường tu tự điều ngự chứ? Đó là để trở thành cánh cửa mở cho ánh sáng đến từ Hiện diện TA LÀ và đoàn chưởng giáo chân sư thăng thiên ở trên con.

14.4. Sa nhân sợ ánh sáng của con

Sa nhân cực kỳ muốn con tin là con không được phép biểu hiện ánh sáng đó ở đây trên địa cầu, con không thể biểu hiện ánh sáng đó, và con không thể biểu hiện ánh sáng cho tới khi một số điều kiện được hội đủ trong hoàn cảnh vỏ ngoài của con. Chúng có rất nhiều tầng lớp lừa dối nhằm cản trở con thực hiện đúng một điều mà con đã đến đây để thực hiện – đó là làm cánh cửa mở cho ánh sáng.

Ở mức thấp nhất, chúng không muốn con biết ngay cả sự kiện con có chọn lựa đó. Cao hơn, chúng muốn con nghĩ là nếu con biểu hiện ánh sáng, thì điều này vi phạm quyền tự quyết của người khác, đặc biệt là của chúng. Nếu người đời muốn sống trong bóng tối thì người đời phải được phép làm vậy và con không có quyền đến đây mà tỏ lộ ánh sáng của con.

Con yêu dấu, con có thấy là con quyền đó chính vì con đã hiện thân trong cõi vật lý? Quyền tự quyết của con đã trở thành một phần của phương trình địa cầu. Thày có nói trong một bài giảng trước là quyền tự quyết cá nhân của con không thể phủ định quyền tự quyết của bảy tỷ người kia trên hành tinh. Điều này đúng, nhưng ngược lại cũng đúng. Quyền tự quyết của bảy tỷ người trên hành tinh không thể phủ định quyền tự quyết cá nhân của con.

Con có quyền hiện thân. Con có quyền là con người mà con là và làm cánh cửa mở cho ánh sáng từ đoàn chưởng giáo bên trên con. Đây là quyền mà Thượng đế đã ban cho con. Sa nhân có quyền phủ nhận ánh sáng trong bản thân chúng và phủ nhận ánh sáng trong con. Nhưng chúng không có quyền đòi hỏi con phải tắt ánh sáng con đi. Đúng hơn, chúng có quyền đòi hỏi nhưng con không có bổn phận phải làm theo đòi hỏi của chúng.

Ở một tầng lớp lừa dối cao hơn nữa, chúng muốn con nghĩ là con không thể biểu hiện ánh sáng của mình cho tới khi một số điều kiện nào đó hội đủ – như người khác cần phải sẵn sàng tiếp nhận, hay con phải có đủ một số hoàn cảnh vỏ ngoài, có đủ tài chánh, có một nơi để ở, có một môi trường yên tĩnh, điều kiện này hay điều kiện nọ.

Trong các bài giảng trước, thày đã cố dẫn con qua một tiến trình nơi con nhìn ra là không có một điều kiện bên ngoài nào có thể ngăn cản con tự thăng vượt và do đó biểu hiện ngày càng nhiều ánh sáng hơn. Sa nhân cũng muốn con nghĩ là con không thể biểu hiện ánh sáng của mình do một số điều kiện nội tâm.

14.5. Chủ nghĩa toàn hảo là một phát minh của sa nhân

Các thày có đề cập đến sự kiện khi con đến địa cầu lúc ban đầu, con đã trải nghiệm một chấn thương nhập đời khi sa nhân – một cách hung bạo – đã gạt bỏ con, gạt bỏ cá thể và ánh sáng của con. Chúng đã khiến con cảm nhận theo nhiều cách là con không được biểu hiện ánh sáng đó, rằng con bị chối bỏ, rằng con không tốt đủ và phải toàn hảo thì mới biểu hiện được ánh sáng.

Chủ nghĩa toàn hảo là một phát minh của sa nhân. Chúng đã lấy tâm đường thẳng và làm một chuyện với tâm đường thẳng mà con phải vô cùng thận trọng khi dùng tâm đường thẳng. Con thấy đó, tâm đường thẳng gọi là đường thẳng vì nó luôn luôn vận hành theo đường cấp số. Một ví dụ điển hình là những con số mà con đếm từ 1, 2, 3, 4, vân vân. Luôn luôn có một tiến trình cấp số, luôn luôn có một cái thang nhiều bực, và tâm đường thẳng muốn nhét, muốn sắp xếp mọi thứ trên một cái thang như vậy. Có những khi con có thể đưa tâm đường thẳng tới cùng cực hầu làm lộ ra hạn chế của nó. Điều sa nhân đã làm là đưa tâm đường thẳng tới cùng cực và bảo rằng Thượng đế phải là sinh thể cao nhất có thể tưởng tượng được, có nghĩa là Thượng đế ở trong một trạng thái mà chúng gọi là sự toàn hảo, một trạng thái không có gì thay đổi.

Tất nhiên, tâm đường thẳng luôn luôn nhìn vào sự thay đổi. Luôn luôn có một tiến trình cấp số, không chỉ trong số lượng mà cả trong thời gian. Thời gian là con đẻ của tâm đường thẳng khi nó luôn luôn tiến hành từ thời điểm này đến thời điểm sau. Con đưa tiến trình cấp số này tới sự cùng cực tối hậu của nó và con nói: “À, chắc chắn phải có cái không bao giờ thay đổi, và khi một cái gì thay đổi từ ít sang nhiều, thì điều này chứng tỏ cái ít là bất toàn. Do đó, phải tới một điểm khi người ta đạt trạng thái tối hậu của cái nhiều nơi mọi thứ đều toàn hảo.”

Điều này, tất nhiên, là một lời dối. Thượng đế không toàn hảo theo nghĩa Thượng đế không thay đổi, bởi vì Đấng Sáng tạo không ngừng tăng triển. Đó chính là lý do tại sao Đấng Sáng tạo đã tạo ra con, tạo ra thày và tất cả chúng ta. Không hề có một trạng thái không thay đổi nào trong bất kỳ thế giới nào có hình tướng. Nếu con muốn cái không thay đổi, con sẽ cần vượt khỏi mọi thế giới hình tướng, và điều này thì sa nhân không thể hiểu nổi. Vì vậy chúng đã tạo dựng ý tưởng toàn hảo để mà thay thế.

Khi con đến đây và biểu hiện ánh sáng của con, và khi chúng cảm thấy bị đe dọa, chúng nói: “Ở đây trên trái đất, chúng tôi đã quy định một tiêu chuẩn cho cách bạn phải cư xử. Cách bạn biểu hiện ánh sáng không hội đủ tiêu chuẩn của chúng tôi, cho nên bạn không được biểu hiện ánh sáng của bạn ở đây.” Tất nhiên, chúng không nói ánh sáng của con có vấn đề gì mà chính con mới là vấn đề. Chính con đã không hội đủ một tiêu chuẩn nào đó. Điều này đã khiến cho nhiều người tâm linh và người sùng đạo tự đặt mình trên một đường tu tập mà họ nghĩ sẽ dẫn họ tới trạng thái toàn hảo nói trên. Nhiều người tâm linh đã sử dụng giáo lý tâm linh cùng kỹ thuật tâm linh để nỗ lực trở thành toàn hảo – để biến ngã vỏ ngoài của mình thành toàn hảo hầu thỏa mãn tiêu chuẩn của thế gian. Thế là ý tưởng đã được nhét vào tâm con rằng khi nào con trở thành “toàn hảo”, thì chúng sẽ chấp nhận ánh sáng của con.

Có hai lời gian dối ở đây – thật ra có nhiều hơn – nhưng hai lời gian dối chủ yếu là thứ nhất, con sẽ không bao giờ toàn hảo được vì không hề có trạng thái toàn hảo. Và thứ hai, sa nhân sẽ không bao giờ chấp nhận ánh sáng cho dù ánh sáng được biểu hiện cách nào. Và thêm vào đó, tất nhiên, còn có lời gian dối rằng ánh sáng của con cần được chấp nhận để nó có thể thực hiện công việc của nó.

14.6. Ánh sáng luôn luôn làm công việc của nó

Con yêu dấu, con có thấy điều thày vừa nói về nguyên nhân của thay đổi? Đó là khi ánh sáng gia tăng khiến người ta thấy được nhiều hơn. Một lần nữa, con thử hình dung một hang động tối tăm. Đây có thể là một cái động với trần cao, và trên sàn có nhiều buồng riêng biệt khác nhau, gần giống như quang cảnh văn phòng ngăn ra thành nhiều buồng vuông nhỏ để người ta ngồi trong đó làm việc trước máy tính. Con biết là trong một văn phòng như vậy, nếu con gia tăng ánh sáng bằng cách đặt một chiếc đèn trong một buồng thì mọi người không thể thấy được chiếc đèn đó, nhưng độ ánh sáng trong nguyên văn phòng vẫn gia tăng và ai nấy nhìn thấy được nhiều hơn trước.

Điều thày muốn nói ở đây là như sau: Để việc phụng sự của con thành công, người ta không cần thấy được là con đang biểu hiện ánh sáng, họ không cần chấp nhận bản thân con hay ánh sáng của con, họ không cần nhìn nhận và công nhận chuyện đó. Con chỉ cần biểu hiện ánh sáng của con và để yên cho ánh sáng làm công việc của nó.

Thày đang tìm cách dẫn con đến mức nhận ra trong tâm ý thức một điều mà thày cố trao cho con trong khóa nhập thất này, đó là sự thành công của việc phụng sự không tùy thuộc vào phản ứng của người khác. Chừng nào con còn nghĩ là nó tùy thuộc vào phản ứng của người khác, con sẽ không thể bình an. Và sau đây mới là thế kẹt tiến thoái lưỡng nan.

Nếu con không bình an với việc mình hiện thân trên địa cầu, con sẽ không thể là cánh cửa mở cho Ánh sáng trong khi con hiện thân trên địa cầu. Chuyện này không thể!

Con phải bình an để phụng sự. Và để bình an, con phải tách rời ý tưởng phụng sự khỏi mong muốn tạo ra những kết quả cụ thể hay được người khác nhìn nhận, công nhận và chứng nhận. Điều này dẫn thày đến một đề tài khá tinh tế.

14.7. Cuộc tìm kiếm vô vọng một lòng tự tin dựa trên sợ hãi

Con cũng biết, nếu con để ý các điều kiện trên địa cầu, là trong những thập kỷ gần đây đã có nhiều nhóm người được công chúng biết đến và công nhận nhiều hơn. Con biết đến nhiều nhóm thiểu số trước kia vẫn từng bị xã hội phần nào ruồng bỏ. Giờ đây họ đã đứng dậy và đòi hỏi quyền lợi của mình, họ đã nhận được nhiều sự chú ý đến độ họ được công nhận và đón nhận rộng rãi hơn trước.

Nếu con nhìn vào tâm lý những người như vậy, con cũng biết là khi con cảm thấy mình là một nhóm thiểu số, một thiểu số bị chà đạp và ruồng bỏ, con có thể mang một lòng tự tin yếu kém, một cảm nhận thấp về giá trị của mình. Khi ban đầu con đến hành tinh này, con đã đến với một cảm nhận lành mạnh, dựa trên tình thương, về giá trị của mình. Rồi khi con bị sa nhân gạt bỏ tàn nhẫn, con đã đánh mất niềm tự trọng đó, ít ra là một phần. Lần hồi con cảm thấy mình là người bị ruồng bỏ, một người không được chấp nhận và không thể được chấp nhận.

Con bị đặt vào một tình trạng tiến thoái lưỡng nan, một trong những ốc xoáy hướng hạ tự tăng cường mà sa nhân tạo ra rất thiện nghệ. Khi con đánh mất lòng tự tin và tự trọng, con cảm thấy như mình thiếu sót. Con bước vào một tâm trạng dựa trên sợ hãi. Bản chất của tâm trạng dựa trên sợ hãi là con cảm thấy thiếu hụt, cho nên con nẩy sinh một mong muốn bù đắp, lấp đầy sự thiếu hụt. Nhưng không có cách gì để lấp đầy sự thiếu hụt của một tâm trạng sợ hãi. Đó là một cái lỗ đen không bao giờ có thể lấp đầy.

Cảm giác thiếu hụt cũng cho con lòng khao khát muốn tìm lại cảm nhận trước kia về giá trị bản thân. Tiếc thay, giờ đây con cũng đã tin vào lời dối của sa nhân bảo rằng con phải thực hiện chuyện đó bằng cách tranh thủ sự công nhận và chấp nhận trong thế gian – hay đúng hơn, sự công nhận và chấp nhận của chúng. Con có thấy chuyện bất khả thi ở đây chăng? Chính sa nhân đã phá hoại phẩm giá của con khi chúng gạt bỏ con, thì bây giờ con lại bị mắc kẹt trong vòng xoáy phải tìm cầu sự chấp nhận của chúng. Chính chúng đã tạo ra sự thiếu hụt phẩm giá trong con. Có bao nhiêu xác suất chúng sẽ có thể lấp đầy sự thiếu hụt này?

Như con vẫn biết, chúng sẽ chỉ tiếp tục nuôi lớn vòng xoáy đó bằng cách dời cột mốc ngày càng xa hơn để con không bao giờ chạm tới được. Đó chính là toàn bộ mục đích của ý tưởng toàn hảo. Ai có thể định nghĩa được toàn hảo chứ? Phải, ngay bây giờ con có thể định nghĩa toàn hảo một cách nào đó, nhưng một khi con đạt đến mức đó, con sẽ nhận thấy lòng tự trọng của con vẫn chưa phục hồi. Kết luận là gì? Là với tâm đường thẳng, con luôn luôn có thể định nghĩa một mức cao hơn. Con có thể đếm nhiều tới đâu? Nguyên chuỗi số đó có ngừng lại ở một số nào chăng? Đúng vậy, các nhà khoa học cũng không biết nữa.

Đến bao giờ con mới có thể toàn hảo dưới mắt sa nhân? Không bao giờ, con yêu dấu. Bao lâu nữa con sẽ muốn đuổi bắt cái củ cà-rốt này, được treo lủng lẳng trước mũi con lừa đang kéo chiếc xe với sa nhân ngồi cười hả hê trên xe? Con hãy ngừng làm con lừa kéo xe cho sa nhân, và thay vào đó, con hãy là cánh cửa mở cho ánh sáng của các chân sư thăng thiên!

14.8. Bước trên đường tu với động lực xuất phát từ tự ngã

Đâu là sự xoay chuyển mà con cần làm? Đó là nhìn nhận là khi con tìm thấy con đường tâm linh, con không tức khắc loại bỏ được tự ngã. Sẽ có một giai đoạn trên đường tu khi một phần động lực của con, một phần ý định của con để bước trên đường tu là do tự ngã cung cấp. Tự ngã muốn một cái gì đó.

Lý tưởng nhất cho tự ngã là nó muốn chặn đứng không cho con đặt chân trên con đường tự điều ngự. Khi nó không thành công – vì thật sự nó không thể ngăn cản con khi con đang đọc quyển sách này – thì nó sẽ muốn có được cái gì đó từ việc con bước trên đường tu. Khi con nhìn rất nhiều người tâm linh, nhìn nhiều phong trào và đạo sư tâm linh một cách trung thực, con sẽ thấy một xu hướng rõ rệt.

Như thày đã nói, đa số người tâm linh ngày nay đều đã đến địa cầu với một mục đích tích cực muốn đem lại ánh sáng của mình, đem lại sự thay đổi. Khi họ bị chối bỏ một cách tàn bạo, họ đánh mất cảm nhận về giá trị bản thân và dần dần cảm thấy mình bị ruồng bỏ. Khi họ tìm ra một phong trào tâm linh, họ cảm thấy đây là cơ may để tìm lại lòng tự trọng của mình.

Nhiều người tâm linh – ngày nay là thành viên của các phong trào tâm linh, kể cả các phong trào của chân sư thăng thiên – đã cảm thấy như mình bị ruồng bỏ khi mình lớn lên trong một xã hội thường phản tâm linh. Rồi khi con khám phá một vị đạo sư hay một giáo lý tâm linh, bỗng nhiên tự ngã của con được dịp sử dụng sự kiện này để tạo dựng cảm nhận là cho dù con khác mọi người khác, điều này không có nghĩa là con thấp kém hơn họ. Thật ra, sự kiện con khác họ có nghĩa là con cao hơn họ vì con có nhận thức tâm linh cao hơn. Đó là lý do con đã nhận diện được giáo lý này trong khi hầu hết người khác đều không nhận ra.

Thày không đang bảo là con không có mức nhận biết cao hơn đa số mọi người trên địa cầu. Nhưng con chẳng thấy hay sao, thật không xây dựng chút nào nếu con cho phép tự ngã lôi kéo con vào chuyện dùng giáo lý tâm linh để củng cố cho khát vọng của nó muốn trở thành đặc biệt, tốt đẹp hơn người? Như các thày có nhắc nhở nhiều lần, tự ngã là một khả năng tương đối, có nghĩa là nó so sánh mọi thứ với những thứ khác. Tất nhiên, nó chỉ có thể so sánh với những gì nó có thể nhìn thấy, và tự ngã chỉ nhìn thấy được những gì nằm trong nhị nguyên. Nhị nguyên dựa trên xét đoán giá trị: cái này tốt hơn, cái kia tồi hơn. Tự ngã sẽ luôn luôn tìm cách chèn vào niềm tin rằng những người đặc biệt tốt đẹp hơn mọi người khác trên địa cầu – họ đặc biệt vì họ là thành viên của tổ chức tâm linh đặc biệt này hay nhận diện được giáo lý của vị đạo sư giác ngộ đặc biệt nọ.

Con yêu dấu, một lần nữa, thày không chê trách con gì hết. Thật con không thể lớn lên trên hành tinh địa cầu như hiện nay mà không bị ảnh hưởng bởi khuôn nếp này. Gần như không có đệ tử nào đến dự khóa nhập thất của thày mà không có khuôn nếp này trong ba thể cao của mình và thường khi trong cả tâm ý thức nữa. Thày không ở đây để khiển trách con, thày không ở đây để khiến con xấu hổ. Thày ở đây để giúp con thăng vượt chính cái khuôn nếp đang lấy mất sự bình an của con.

Nhưng con nhìn nhận một cách ý thức, phải không con, rằng con muốn an bình và con muốn thành công trong nỗ lực phụng sự trên hành tinh này? Con muốn phụng sự trong an bình, và con muốn sự an bình đến từ cái biết là mình phụng sự thành công. Một khi con nhìn nhận đây là điều con muốn, thì con không cần cưỡng lại việc thày phơi bày ra khuôn nếp trong tâm đang ngăn cản con có được điều con muốn. Mong muốn sử dụng giáo lý tâm linh để tự đặt mình cao hơn người khác sẽ lấy mất sự an bình nội tâm của con.

Thày cũng biết đối với một số người, điều này đã cho họ một cảm giác an bình bề mặt. Nếu con nhìn số đông phong trào tâm linh trên trái đất, con sẽ thấy rất nhiều đi theo khuôn nếp như vậy. Họ có một giáo lý tâm linh, họ có một vị đạo sư tâm linh, dù là còn sinh hoạt hay đã rời cõi vật lý. Họ xem vị đó như thần tượng và biến vị đó thành một người có vẻ vô cùng đặc biệt. Đạo sư càng đặc biệt bao nhiêu thì chính họ cũng trở nên đặc biệt bấy nhiêu do họ đi theo vị ấy. Vì dù sao, tuyệt đại đa số con người trên hành tinh đã không nhận ra đạo sư đó, y như con người đã không nhận ra Giê-su hay đức Phật khi hai thày còn ở trong thế gian. Sự kiện con nhận diện được đạo sư phải có nghĩa là chính con cũng rất đặc biệt. Và những người đặc biệt như con càng hiếm hoi thì con sẽ càng đặc biệt hơn nữa so với những ai không nhận ra đạo sư của con.

Có những người cứ ngồi đó mà tạo ra một vòng xoáy tự tăng cường, qua đó họ chứng thực lẫn nhau là mình quá đặc biệt. Thậm chí họ có thể đạt tới một cảm giác an bình bề nổi do mình quá đặc biệt, mình hành xử đúng y như mình phải hành xử bằng cách tự cô lập trong tháp ngà này. Đấy, nếu con đã bị hoàn toàn mắc kẹt trong một vòng xoáy như thế thì con đã không đang đọc bài giảng này. Sự kiện con đang đọc có nghĩa là con đã bắt đầu thoát khỏi nó. Để con thoát ra khỏi hoàn toàn, việc còn lại là con hãy nhìn ra cơ chế đó một cách ý thức, và một cách ý thức để cho nó ra đi.

14.9. Con đặc biệt và độc đáo

Con yêu dấu, bây giờ thày nói chuyện riêng với mỗi con đây. Con đặc biệt, con độc đáo. Nhưng sự độc đáo của con không neo trụ nơi bốn thể phàm của con. Sự độc đáo của con được neo trụ nơi Hiện diện TA LÀ và căn thể của con, và nơi cái Ta Biết là phần nối dài của Hiện diện.

Điều con đã cố làm ở dưới này trên trái đất là xây đắp một cái ngã vỏ ngoài đặc biệt so với người khác. Chuyện này sẽ không bao giờ lấp đầy khát vọng tìm lại giá trị bản thân con. Con sẽ không bao giờ cảm thấy bình an chừng nào con còn tự so sánh với bất cứ gì trong cõi phàm, trong bầu cõi chưa thăng thiên. Cách duy nhất để con tìm lại cảm nhận giá trị bản thân – để con cảm thấy an bình với con người mà con là, an bình với cách mình biểu hiện con người mà mình là trên địa cầu – là nối kết lại với sự kiện cái đặc biệt của con nằm ở cá thể mà Thượng đế đã ban cho con, chứ không ở cá tính mà con đã xây đựng qua việc phản ứng lại các điều kiện do sa nhân tạo ra.

Tại sao con lại cần tranh thủ sự công nhận của sa nhân hay của người khác khi con đã có sự công nhận của Đấng Sáng tạo ra con cũng như của các chân sư thăng thiên? Có thể con sẽ nói như nhiều đệ tử khác ở nhập thất của thày: “Nhưng đó là vì con có thể cảm được trong tâm ý thức sự công nhận của người khác, nhưng con không thể cảm được sự công nhận từ các thày và từ Thượng đế.” Điều này cũng đúng, nhưng chỉ đúng vì con chưa làm cuộc xoay chuyển trong tâm ý thức để cho phép con cảm được sự công nhận của các thày. Sự công nhận và chứng thực của các thày về con, tình thương của các thày cho con, không bao giờ ngừng xối xuống như mưa rơi từ trời.

Làm thế nào con trở thành một chân sư thăng thiên? Bằng cách trở thành cánh cửa mở cho tình thương chảy xuyên qua con từ một mức cao hơn nữa xuống mức thấp hơn. THÀY LÀ Thượng sư của Tia thứ Tư. Thày không chế tạo ra ánh sáng của Tia thứ Tư, mà thày nối kết với nguồn cội của ánh sáng đó ngược trở lên cho tới Đấng Sáng tạo. Thày ở trong dòng chảy đó, thày là cánh cửa mở cho dòng chảy đó. Thày có thể hướng dòng chảy, nhưng niềm vui của thày là để nó chảy xuyên qua thày. Thày liên tục để ánh sáng chảy xuyên qua thày hầu trải nghiệm niềm vui tột cùng.

Tại sao thày lại muốn hạn chế niềm vui của thày bằng cách kềm giữ ánh sáng khỏi con? Thày không là kẻ đang hạn chế ánh sáng chảy xuống con. Chính con mới là kẻ không nhận ra ánh sáng vì con mang một số giới hạn trong tâm khiến con nghĩ con không xứng đáng với ánh sáng hay con không có khả năng nhận được ánh sáng. Đó mới chính là điều thày muốn giúp con thay đổi ở tầng thứ sáu trong khóa nhập thất của thày.

Mục đích của thày là giúp con biết được ở mức thể bản sắc là con độc đáo. Con không độc đáo so với người khác, vì nơi cõi thăng thiên mọi so sánh đều vô nghĩa, đều không hiện thực. Con độc đáo một cách không thể so sánh. Mối quan tâm liệu con tốt hơn hay tệ hơn bất cứ ai khác hoàn toàn lỗi thời và vô nghĩa. Khi con biết được điều này trong thể bản sắc, con sẽ có thể lần hồi đem nó xuống trí thể và cảm thể, rồi xuống đến tâm ý thức của con. Nếu con muốn, con có thể xoay chuyển và ngay cả trải nghiệm được tình thương của thày trong thoáng một giây.

Sau khi con đọc xong bài thỉnh kèm theo chương này, có lẽ con hãy ngồi im lặng một lúc, con chỉ hòa điệu với Hiện diện của thày và mở tâm ra để nhận lấy tình thương của thày. Nếu con có thể trải nghiệm điều này một cách ý thức, nó có thể đem lại một sự xoay chuyển. Con sẽ có khả năng chấp nhận là mình độc đáo, là mình đặc biệt. Con xứng đáng ngay trong cách Thượng đế đã tạo ra con. Con không cần phải độc đáo, đặc biệt hay xứng đáng so với bất cứ gì trên địa cầu, bất cứ tiêu chuẩn nào trên địa cầu. Con không cần tốt đẹp hơn người khác và do đó con không cần hạ thấp người khác.

Con chẳng thấy hay sao, con yêu dấu, là trong những cộng đồng mà thày đang nói tới (họ ngồi đó và xác nhận lẫn nhau là mình quá đặc biệt), thật ra họ có một thái độ cực kỳ phán xét. Bất cứ ai không hội đủ những điều kiện được quy định trong cộng đồng của họ sẽ tự động bị đánh giá và ruồng bỏ. Con không thể thuộc vào cộng đồng đó trừ khi con sẵn sàng xác chứng mọi thành viên khác là đặc biệt. Nếu con chất vấn, con sẽ bị khai trừ hay tống ra ngoài. Đó là một thái độ dựa trên sợ hãi, và thày mong muốn thấy con tìm được một niềm tự trọng dựa trên tình thương, và niềm tự trọng này đã nằm sẵn ở đó rồi. Không phải là chuyện phát triển, trau dồi hay thu hoạch, mà là chuyện mở tâm con ra để trải nghiệm và chấp nhận nó. Con chấp nhận đó chính là con người mà con là. Và con có giá trị.

Làm thế nào con có thể an bình trên địa cầu nếu con không biết là mình có giá trị, và giá trị này đến từ một nguồn vượt trên tất cả mọi thứ trên địa cầu? Thày không muốn con sống phần đời còn lại trong một trạng thái thiếu an bình, rồi ngay trước khi con bước qua tấm màn của cuộc sống, con có một giây phút minh mẫn và ngộ ra là mình chỉ cần làm một cuộc xoay chuyển đơn giản thì mình đã có thể sống trọn đời trong an bình. Thày không mong muốn con làm cuộc xoay chuyển đó vào giờ phút cuối đời.

Thày mong muốn con xoay chuyển ngay bây giờ hầu con sống phần đời còn lại trong an bình, biết rõ rằng con đang làm công việc phụng sự cao đẹp nhất mà con có thể bằng cách là chính mình, là cánh cửa mở cho ánh sáng mà con là.

THÀY LÀ một cánh cửa mở cho Ánh sáng mà THÀY LÀ. Con có cảm được ánh sáng của thày không? Đó là cùng ánh sáng đang ngụ trong con.

Serapis Bey TA LÀ.

12 | Nhìn ra cơ hội tự thăng vượt 

Bài giảng của chân sư thăng thiên Serapis Bey qua trung gian Kim Michaels, ngày 6/1/2016.

Thày là chân sư thăng thiên Serapis Bey. Giờ đây chúng ta đã vượt qua một khúc ngoặt quan trọng trong đường hướng quyển sách này cũng như khóa tu mà con đang theo học với thày là Thượng sư của Tia sáng thứ Tư. Như thày đã nói trong bài giảng trước, con đã đạt tới điểm chấp nhận thày nhiều hơn trong tư cách một vị hỗ trợ cho con. Con đang dùng động lực nội tâm riêng của con để bước chân trên đường tu. Thày không cần đưa ra điều gì để con phản ứng lại, dù thuận hay chống. Các thày cần đi theo động lực của con, và thày chỉ đơn giản tạo điều kiện cho con tự mình khám phá những gì sẽ nâng con lên cao hơn trên đường tu.

Bây giờ chúng ta đã đến tầng mức nơi con đối mặt với sự phối hợp giữa Tia thứ Tư của Thuần khiết với Tia thứ Năm, thường được gọi là tia của viễn quan hay tia chữa lành. Lẽ tự nhiên, hai cách gọi này có liên hệ với nhau. Tại sao con cần được chữa lành? Vì con không toàn vẹn. Tại sao con không toàn vẹn? Phải, vì con có một viễn quan méo mó hay hạn chế, con không có một viễn quan toàn vẹn. Hiển nhiên, việc làm sạch viễn quan là chìa khóa để chữa lành vì đó là chìa khóa để tăng triển. Tia thứ Năm, tất nhiên, cũng là tia của sự thị hiện, sự biến hóa thành vật chất, khi con sử dụng viễn quan của mình để tạo ra thay đổi trong thế giới vật chất.

Khi con đến được mức này và con mong muốn làm sạch viễn quan, thày sẽ dẫn con đi qua một loạt những bước cụ thể trong các thể thanh cao hơn của con. Điều thày sẽ làm trong bài giảng này là đưa con qua một loạt những bước trong tâm ý thức để giúp con hòa điệu vào bên trong, và con cũng vượt qua khai ngộ của khóa nhập thất của thày. Như vậy con có thể vượt qua khai ngộ một cách ý thức và neo chặt bài học trong tâm ý thức cũng như trong ba thể cao hơn của mình.

12.1. Sa nhân bóp méo viễn quan như thế nào

Điều đầu tiên thày muốn trình bày cho con là khái niệm về cách sa nhân đã và đang sử dụng viễn kiến. Dĩ nhiên con thấy là trong thế giới có một số ý tưởng nhắm vào việc giới hạn viễn quan của con người, bóp méo hay hướng viễn quan đó theo một đường rày nhất định, vào một ngõ cụt như chúng ta có thể gọi như vậy. Thày đã có giảng là có những ý tưởng được gài sẵn một cái móc năng lượng bên trong, nhưng thường khi những ý tưởng này hình thành một phin lọc. Nếu con muốn một minh họa, con có thể hình dung trước mắt con một dụng cụ giống như cái kính vạn hoa.

Con biết là kính vạn hoa có nhiều mảnh kính bên trong với những hạt thủy tinh. Ánh sáng rọi vào sẽ khoác màu sắc của thủy tinh, và khi hạt thủy tinh thay đổi vị trí, nhiều mẫu hình khác nhau được hình thành. Những ý tưởng do sa nhân tạo ra cũng tương tự như những mảnh kính trong kính vạn hoa bóp méo cái nhìn của con. 

Con cũng biết là bình thường con không thể nhìn xuyên qua kính vạn hoa, con không thể nhìn thấy bất cứ gì ở đầu bên kia. Điều thày mong muốn con nhận ra ở đây là ba thể cao hơn của con – bản sắc thể, trí thể, cảm thể – hình thành một loại kính vạn hoa.

Kính vạn hoa khác biệt thế nào so với ống nhòm? Nếu kính vạn hoa hoàn toàn không còn mẫu hình nào do kính màu tạo ra, thì con sẽ thấy rõ thế giới vật chất ra sao. Nhưng vì con có một số mẫu hình đủ màu trong ba thể cao, tầm nhìn của con bị hạn chế và bóp méo – nó bị nhuộm màu bởi những ý tưởng mà con cầm giữ. Sa nhân vô cùng năng nổ và hung hãn khi chúng đề xướng các ý tưởng này; chúng không ngừng tìm đủ mọi cách để khiến mọi người tin vào đó. Điều thày muốn lưu ý con ở đây là công việc của sa nhân dễ dàng hơn con tưởng rất nhiều.

Nếu sa nhân có thể đưa con đi quá một cái gò nào đó thì chúng sẽ không phải lo lắng gì về con nữa. Khi đó, tâm con sẽ biến thành một vòng tròn khép kín, một xoắn ốc gây giới hạn cứ tự nó lớn thêm mãi, một vòng xoáy hướng hạ. Sa nhân sẽ không cần giới hạn viễn kiến của con nữa, vì một khi chúng đã đẩy con quá cái gò này thì chính con sẽ tự hạn chế viễn kiến của con.

12.2. Mục đích việc mở rộng ý niệm cái ta 

Chuyện đó xảy ra như thế nào? Để thày giải thích cho con một khía cạnh trong cách vận hành của vũ trụ vật chất. Con hiểu con là một đốm lửa tánh linh, một sinh thể tâm linh. Các thày có giảng là cái đi xuống vào trong cơ thể vật lý của con, như một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ, là cái Ta Biết. Các thày cũng có nói đó là sự nhận biết thuần khiết, nghĩa là tự thân nó không chứa đựng bất kỳ giới hạn cố hữu, sẵn có nào. Con có thể khoác lấy bất cứ vai trò nào con muốn trong vũ trụ vật chất, nhưng con cũng có thể thoát ra khỏi vai trò này vì cái Ta Biết không bị vai trò biến đổi. Điều này được minh họa qua hình ảnh kính vạn hoa-ống nhòm mà thày vừa cho con. Cái Ta Biết không bị những tấm kính màu trong kính vạn hoa biến đổi. Cái nhìn của nó thay đổi nhưng cái Ta Biết thì tự nó không thay đổi. Do đó con có thể gỡ mấy tấm kính đó ra và khiến cho cái nhìn của con được rõ ràng, tinh khiết bất cứ lúc nào con muốn.

Mục đích của vũ trụ vật chất là việc Tánh linh – mà con có thể gọi là Thượng đế hay Đấng Sáng tạo nếu con thích, hay con cũng có thể gọi là một sinh thể thăng thiên nơi cõi thăng thiên – nhìn vào bầu cõi chưa thăng thiên này và gửi xuống đó một phần nối dài của mình. Mục đích là để cho phần nối dài này khởi sự với một ý niệm bản ngã – một ý niệm cái ta – vô cùng hạn hẹp, vô cùng cục bộ. Rồi qua tương tác với thế giới vật chất, phần nối dài này sẽ mở rộng ý niệm bản ngã của nó cho đến khi nó đạt tới điểm có thể thăng lên khỏi bầu cõi chưa thăng thiên và trở thành một chân sư thăng thiên.

Rồi từ đó con có thể tiếp tục vươn lên những mức tâm thức càng ngày càng cao hơn, xuyên qua các bầu cõi thăng thiên trước đây để lên tới tận tâm thức của Đấng Sáng tạo. Khi con đạt đến tâm thức Đấng Sáng tạo, bấy giờ con sẽ có cùng nhận biết như Đấng Sáng tạo của con, ở cùng mức nhận biết và sáng tạo. Vì con đã không được sinh tạo ở mức này mà đã kinh qua toàn bộ quá trình tăng trưởng tuần tự đó, con đem theo một kinh nghiệm lớn hơn hẳn, một nhận biết lớn hơn hẳn về cách biểu đạt khả năng sáng tạo của mình. Có nghĩa là con được trang bị đầy đủ hơn rất nhiều để tạo dựng thế giới riêng của con so với khi con chưa kinh qua tiến trình này.

Nếu con đã được sinh tạo như một tờ giấy trắng, thì con đã phải thử nghiệm khả năng sáng tạo của mình và có thể con đã từng lầm lỗi. Điều minh triết ở đây là vì con đã khởi sự với khả năng sáng tạo hạn hẹp hơn hẳn so với Đấng Sáng tạo, cho nên các lỗi lầm của con cũng giới hạn và dễ khắc phục hơn. Khi thày nói “lỗi lầm”, tất nhiên thày đang dùng một từ mà con quen thuộc. Nhìn từ tâm thức thăng thiên, các thày không xem đó là lỗi lầm mà chỉ là những thử nghiệm đã không biểu đạt được trọn vẹn sinh thể mà con là. Điều này tất nhiên cũng áp dụng cho con trong thế giới vật chất. Đó là tại sao các thày không lên án con, và ý niệm xấu hổ và kết tội là do sa nhân đẻ ra.

12.3. Cơ sở cho một tầm nhìn giới hạn

Khi con lần đầu tiên đi xuống như một sinh thể tân lập trong một bầu cõi chưa thăng thiên, con có một ý niệm bản ngã vô cùng địa phương cục bộ. Ở điểm này, như câu thành ngữ quen thuộc, con chỉ có một đường đi thôi: “Con đường duy nhất là đi lên.” Khi con thu hoạch thêm kinh nghiệm trong bầu cõi chưa thăng thiên, con lần lần mở rộng ý niệm bản ngã của mình. Như thày Maitreya có giải thích trong sách, sẽ tới một điểm con không còn cần đi theo vị thày đang trợ giúp con mở rộng ý niệm bản ngã. Sẽ tới điểm con cần trở nên tự lực, nghĩa là con cần tự mình thử nghiệm thay vì chỉ làm những gì vị thày bảo con làm.

Hiển nhiên, chính ở điểm này con phải đối mặt với cuộc khai ngộ được tượng trưng bởi tâm thức nhị nguyên. Đây là khai ngộ nơi thay vì con xem mình là phần nối dài của đoàn chưởng giáo bên trên con như thày đã có trình bày trong những bài giảng trước, giờ đây con xem mình là một sinh thể cá nhân, riêng rẽ, tách biệt. Con nghĩ con đang tạo dựng quyền năng riêng của mình, trải nghiệm riêng của mình. Ai ai cũng phải đối phó với trạng thái tâm thức này ở một mức độ nào đó.

Điều này không có nghĩa là con phải bước vào đó rồi ở lại và bị lạc lối trong đó. Nhưng tất nhiên có thể một số người sẽ chọn làm như vậy. Điều này tự nó không có gì sai trái, vì đó chỉ là thêm một trải nghiệm mà thôi. Điều có thể xảy ra ở điểm này là con hình thành một ý muốn bước vào một trạng thái quên mất mình là ai, để mà từ đó lại tăng triển trở lại và nhận biết cao hơn mình là ai. Một lần nữa, chuyện này không sai trái mà chỉ là thêm một trải nghiệm mà con có thể có trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Đây là điểm nơi con có thể đánh mất mối liên lạc ý thức với vị thày tâm linh của con, và như vậy con cũng đánh mất sự nhận biết ý thức, ý niệm bản sắc rằng mình là một sinh thể nối kết, một thành phần của một cái gì lớn hơn bản thân mình.

Làm thế nào con có trải nghiệm đó? Như thày đã nói, con khởi đầu với một ý niệm nhận biết, một ý niệm bản ngã rất hạn hẹp, cục bộ. Con nhận biết con là thành phần của một cái gì lớn hơn, con nối kết với cái gì đó. Con khởi sự sáng tạo trong một bầu cõi bảo bọc nơi con thường xuyên tiếp xúc với một vị thày tâm linh, có nghĩa là trong giai đoạn khởi đầu của sự tăng trưởng khả năng tự nhận biết, con mở rộng ý niệm bản ngã của con. Do đó con đạt được một ý niệm bản ngã lớn hơn là khi con bắt đầu. Con cũng có một ý niệm bản ngã lớn hơn những gì có thể được nhét vào trải nghiệm của một sinh thể tách biệt.

Làm thế nào cái Ta Biết có thể bước vào cái mà hầu hết con người trên địa cầu cảm nhận là ý niệm bản ngã bình thường để trải nghiệm nó từ bên trong – và đồng thời lại hoàn toàn tin chắc cái đó là thực? Làm thế nào con có được cảm giác thực tại đó, rằng con là một sinh thể tách biệt sinh sống trong một thế giới tách biệt nơi không có kết nối trực tiếp nào với Thượng đế, hay có lẽ không có cả Thượng đế? Làm thế nào cái đó trở nên hiện thực đối với con?

À, cái đó chỉ có thể trở thành hiện thực khi tầm nhìn của con bị giới hạn. Như thày nói, con khởi đầu với một chiếc ống nhòm, xong con đút vào trong đó một số mảnh kính đủ màu sẽ giới hạn và bóp méo cái nhìn của con. Một lần nữa, không có gì sai trái với chuyện này. Thật ra đây không phải là một sự sa ngã, mà chỉ đơn giản là một trong nhiều cách khả dĩ mở rộng khả năng tự nhận biết của mình.

Điều con làm như một người đồng-sáng tạo là con cố tình tự đặt mình vào một trạng thái giới hạn hầu tăng triển từ đó. Con muốn nếm mùi trải nghiệm đi vào một bầu cõi không thăng thiên, mặc vào thể xác và tâm trí của một con người trên địa cầu và, lúc đầu, bị hoàn toàn chìm đắm trong trạng thái này. Một lần nữa, khi con làm vậy thì theo một nghĩa nào đó, con ở trong cùng tình trạng như khi con được sinh tạo lần đầu: Con đường duy nhất là đi lên. Làm người trên địa cầu là một trạng thái tâm thức hạn hẹp đến độ thật sự con chỉ có thể đi lên trong cái ta – hay ít ra trong trạng thái nguyên thủy.

Ý định mà con có lúc ban đầu là con sẽ đi vào bản sắc của một con người, và con sẽ lần hồi khuếch trương nó ra cho tới khi con sẵn sàng thăng lên khỏi bầu cõi chưa thăng thiên. Điều thày muốn nói là trong thiết kế nguyên thủy, trong ý định ban đầu của con, con sẽ tuần tự tăng triển khả năng tự nhận biết. Con sẽ liên tục đi lên cao hơn trong tự nhận biết. Con cất bước với một tầm nhìn giới hạn nhưng con sẽ lần hồi làm sạch tầm nhìn cho tới khi con lại tự thấy mình là một phần của đoàn chưởng giáo tâm linh ở trên con.

Điều các sa nhân đã thêm vào kịch bản nói trên và cũng là điều chúng đã thêm vào tình trạng trên địa cầu sau khi chúng được phép đầu thai ở đây, là con có thể bị mắc kẹt vào vai trò, con mắc kẹt trong tầm nhìn hạn hẹp đó. Thay vì vươn lên một viễn quan ngày càng tinh khiết hơn một cách liên tục và tuần tự, hoặc là con kẹt lại ở một tầng nào đó, hoặc là thậm chí con bắt đầu rơi xuống một tầm nhìn ngày càng hạn hẹp hơn nữa.

12.4. Các điều kiện hiện thời giới hạn tầm nhìn như thế nào

Khi trái đất được các Elohim sinh tạo thuở ban đầu, có rất nhiều điều kiện mà con hiện chứng kiến ở đây không thể xảy ra. Đó là vì những người đầu thai trên địa cầu vào thời đó có một tầm viễn quan cao hơn, một ý niệm bản ngã cao hơn bây giờ.

Thuở đó không thể xảy ra chuyện con người có thể rơi xuống một ý niệm bản ngã khiến họ sẵn lòng giết người, gây chiến và sát hại hàng triệu người. Hiển nhiên đây là điều con chứng kiến ngày nay, cho thấy là sa nhân đã có khả năng tạo ra vòng xoắn ốc hướng hạ nói trên. Điều chúng làm là phối hợp hai loại tin tưởng khác nhau.

Trước hết là ý tưởng – một ý tưởng rất tinh tế và không được tỏ lộ công khai trong hầu hết các hệ thống tin tưởng trên địa cầu – rằng con là một sản phẩm của thế giới vật chất, hay con bất toàn theo nhiều cách. Do đó trong bản chất, con là một sinh thể giới hạn. Con sẽ nhận thấy là khi con quyết định đi xuống bầu cõi chưa thăng thiên này lúc ban đầu, mặc dù con khoác vào một tầm nhìn vô cùng hạn hẹp về bản thân, con vẫn biết là mình không bị giới hạn trong ý niệm bản ngã đó. Con vẫn biết con có tiềm năng mở rộng nó ra. Nhưng điều con chứng kiến ngày nay trên trái đất là biết bao người tin vào ý tưởng vi tế của sa nhân là con người bị quy định bởi giới hạn này hay giới hạn nọ. Họ không thể vượt lên cao hơn, họ không đang bước chân trên một con đường sẽ nâng cao ý niệm bản ngã và thanh lọc viễn quan của họ một cách hệ thống. Hoặc họ là một kẻ tội lỗi phải trông chờ một vị cứu thế từ ngoài đến giải cứu, hoặc họ là một con thú đã tiến hóa. Quá nhiều người tin mình tự thân là giới hạn.

Lớp lừa dối thứ nhì của sa nhân là có những điều kiện trên địa cầu mà con không có cách chi thay đổi, và tự thân con bị chúng giới hạn. Điều này có nghĩa là giờ đây con người bị đặt vào một tình trạng thật lạ lùng về mặt viễn quan. Trước tiên, con tin là con không có khả năng, hay không xứng đáng nâng cao viễn quan một cách ý thức. Xong thêm vào đó, con cho rằng các điều kiện hiện hành trên địa cầu không do con tạo ra, cho nên con không có cách chi thay đổi được.

Con không thể nhìn xa hơn các điều kiện hiện tại. Con không thể nhìn thấy một số điều kiện cao hơn có thể là một khả năng thực tế. Viễn kiến của con trở thành một vòng xoắn ốc hướng hạ tự nó trở nên hiện thực, tự nó nuôi dưỡng cho lớn mãi. Con không thể nâng cao viễn kiến về thế gian và về chính con. Và điều này phải có nghĩa – theo lực của Mẹ, tức lực co lại – là con tự hạn chế mình nhiều hơn nữa. Một khi con đi quá cái gò đó, con sẽ không còn mẫn cảm, không còn cởi mở đối với sự hướng dẫn trực tiếp của các chân sư thăng thiên nữa. Con trở thành mẫn cảm với Trường đời Cay đắng, và bây giờ chỉ còn vấn đề là các điều kiện của con sẽ cần bị hạn chế tới mức nào, viễn kiến của con cần bị giới hạn tới mức nào, đau khổ của con cần nhức nhối tới mức nào, trước khi con quyết định là chuyện này thật không ổn và do đó con cần phải thay đổi cách tiếp cận của mình.

Là một học trò tâm linh, tất nhiên con không hoàn toàn bị kẹt trong vòng xoắn ốc hướng hạ đó, vì nếu con bị kẹt như vậy thì con đã không thể theo học khóa tu này – con đã ở mức thấp hơn hẳn tầng tâm thức 48 và con đã không có hy vọng nâng mình lên cao hơn. Một lần nữa, thày hoàn toàn không chê trách con về viễn quan giới hạn hiện thời của con. Như thày có nói, vai trò của thày là giúp con, và thày không đòi hỏi con đứng ở mức cao kia – nơi con không cần thày giúp – trước khi thày trao cho con sự trợ giúp là tình thương và niềm vui của thày.

12.5. Những ý tưởng vi tế hạn chế viễn quan

Điều thày đang chỉ ra cho con là con vẫn cần phải làm sạch viễn quan cho không còn những ý tưởng rất, rất vi tế mà con đã quen chấp nhận. Điều thày hy vọng con đang bắt đầu hiểu ra, dựa trên những gì thày đã giảng cho tới giờ, là một số những ý tưởng này vô cùng tinh tế. Có biết bao điều kiện trên địa cầu mà tuyệt đại đa số loài người không hề nghĩ đến chuyện đặt lại vấn đề. Con có thấy hầu hết mọi người bị giới hạn khủng khiếp tới chừng nào không?

Con đã bắt đầu chất vấn ý tưởng mình là một kẻ tội lỗi hoặc một con thú tiến hóa. Con đã nhận ra là mình không phải là hai thứ đó mà là một sinh thể tâm linh. Con có tiềm năng nâng cao tâm thức, nâng cao ý niệm bản ngã của mình. Liệu con có bắt đầu cảm nhận là chỉ vì con đã lớn lên trong một thế giới hạn chế như địa cầu mà con đã dần dà chấp nhận rất nhiều điều kiện và giới hạn mà con cho là không thể chất vấn? Bây giờ con đang ở mức mà bước kế tiếp tự nhiên của con là bắt đầu chất vấn một số những chuyện đó.

Ở điểm này, thày cần con bước lên một bước và nhận ra là con đã khởi sự xây dựng một ốc xoáy hướng thượng rồi. Thày có nói là hầu hết mọi người bị mắc kẹt trong một ốc xoáy hướng hạ giới hạn tầm nhìn, tự nó cứ lớn mãi. Sự kiện con đã bước vào con đường tâm linh và theo học khóa tu này có nghĩa là con đang xây dựng một ốc xoáy hướng thượng. Cho tới giờ, có thể con chưa vượt qua khúc rẽ khi vòng xoáy hướng thượng này trở nên hoàn toàn tự lực.

Thày không bảo là ở mức này con cần đạt tới điểm không cần một vị thày nữa. Hiển nhiên chúng ta đang ở ngay giữa khóa tu tự điều ngự này, và ở trên thày còn có ba vị Thượng sư nữa sẽ dẫn con tiến về phía tầng tâm thức 96. Điều thày muốn nói là có thể sẽ tới điểm con nhận ra trong ý thức là con cần mở rộng viễn quan, con muốn mở rộng viễn quan của mình, và điều này có nghĩa là con cần tra vấn những chuyện con xem là bình thường, đương nhiên. Con cần tra vấn ngay cả những thứ con không nghĩ tới chuyện tra vấn và hầu hết mọi người cũng không nghĩ tới để mà tra vấn. Sẽ dễ hơn cho con rất nhiều nếu con thừa nhận một cách ý thức đây là điều con thật sự muốn làm ở điểm này.

Như thày có nói, kể từ điểm này ở khóa nhập thất của thày, thày sẽ là một vị hỗ trợ. Thày không ép con, thày không đối chất con hay tạo bất kỳ áp lực nào trên con. Thày hỗ trợ, và con phải cung cấp sức mạnh đi tới, cung cấp động cơ và ý muốn. Sẽ thật hữu ích nếu trong tâm ý thức con xoay chuyển nhận thức để thấy rằng mình thật sự muốn giải thoát khỏi một viễn quan giới hạn, và con chỉ làm được điều này nếu con tra vấn một cách ý thức những gì hầu hết mọi người không tra vấn.

12.6. Quyền tự quyết giới hạn thế nào những gì con có thể thay đổi

Ở điểm này, thày cần con nhận ra một điều về cách vận hành của quyền tự quyết. Con đang sống trên một hành tinh với hơn bảy tỷ người khác. Mỗi người đều có một cái Ta Biết với quyền tự quyết. Qua một quá trình rất dài và phức tạp, mỗi sinh thể đang hiện thân trên địa cầu đã đạt đến ý niệm bản ngã hiện thời của họ, viễn quan hiện thời của họ. Nếu con nhìn trở ngược lịch sử, con sẽ thấy còn nhiều dòng sống hơn nữa đã đầu thai trên địa cầu suốt thời gian đó. Suốt một thời gian rất dài, như Maitreya đã giải thích, loài người đã đồng-sáng tạo ra các điều kiện hiện thời trên trái đất, và trong phần lớn thời gian đó, con người đã bị sa nhân ảnh hưởng.

Như thày đã giải thích, điều này đã dẫn đến một số định luật phụ thuộc của tự nhiên được tạo dựng. Từ mức bản sắc mà đa số loài người đang có, từ trạng thái tâm thức dựa trên sợ hãi mà họ đang có, họ không có cách chi vượt qua hay tránh né các định luật phụ thuộc này. Quả thật là đúng như vậy. Từ mức tâm thức như vậy, quả thực là không có cách chi tránh né được, vì một lý do rất giản dị.

Thày đã nói là con không thể khắc phục lòng sợ hãi nếu động lực của con dựa trên sợ hãi. Cũng vậy, con không thể khắc phục sự thiếu viễn quan bằng viễn quan hiện thời của con – một viễn quan dựa trên những điều kiện hiện hành mà con chứng kiến trong thế giới vật chất. Nguyên sự thể này hình thành một vòng tròn khép kín.

Hẳn con từng nghe câu thành ngữ quen thuộc là con không thể tự nhấc mình lên bằng cách kéo dây giày của mình. Liệu con đã suy nghĩ về ý nghĩa câu này một cách ý thức hay chưa? Con thử tưởng tượng con đang đi một đôi giày bốt có dây buộc một bên. Con đứng trên mặt đất, đưa tay xuống nắm lấy dây giày và cố hết sức kéo nó lên. Chắc chắn con nhận thấy là để tạo lực nhấc mình lên khỏi mặt đất, thân con phải tạo ra một lực mạnh tương đương đẩy xuống đất. Đây chính là cơ học của vũ trụ vật chất: tác dụng và phản tác dụng. Cho mỗi tác dụng sẽ có một phản tác dụng mạnh tương đương trong hướng ngược lại. Khi con mang viễn kiến xem mình là một con người và các định luật phụ thuộc của tự nhiên là không thể khắc phục, tất nhiên con không thể vượt qua các định luật phụ thuộc đó. Tại sao con không thể vượt qua? Bởi vì trong tâm con không thể nhìn thấy chuyện vượt qua là khả dĩ. Và tại sao con không thấy được chứ? Bởi vì con đang nhìn qua cái kính vạn hoa của ba thể phàm cao hơn – và tâm ý thức của con thì nằm ở dưới đáy chiếc kính đó.

Các thày có nói là cái Ta Biết có khả năng bước vào bất kỳ vai trò nào nó muốn khoác vào, rồi trải nghiệm từ bên trong và kinh nghiệm vai trò này là hoàn toàn hiện thực. Đối với hầu hết mọi người, cái Ta Biết đặt tâm điểm nơi cơ thể vật lý. Khi con nhìn thế gian, con nhìn qua nội dung của ba thể cao nhưng con không biết là con đang nhìn qua chúng.

Cũng giống như con đeo cặp kính màu mà không hay biết là mình đang đeo kính màu. Từ nhãn quan đó, con không thể tra vấn nội dung của ba thể cao của con, con không thể chất vấn những gì con thấy và nhận ra là nó đã bị biến dạng. Đó là tại sao con không thể thay đổi bất cứ gì. Con không thể thay đổi những điều kiện mà con cho là đã được các định luật phụ thuộc của tự nhiên tạo ra và con không có quyền hành gì trên chúng.

Và đây là điểm khá tế nhị mà con cần phải suy ngẫm thật kỹ lưỡng với tâm ý thức. Trên địa cầu có bảy tỷ người đang đầu thai. Hầu hết mọi người, tuyệt đại đa số mọi người, có một viễn quan rất giới hạn, một ý niệm bản ngã rất giới hạn. Họ chấp nhận các định luật phụ thuộc của tự nhiên là không thể vượt qua. Họ chấp nhận các điều kiện hiện hữu là phần lớn không thể thay đổi. Đây là trải nghiệm mà họ đang muốn có ngay bây giờ. Hầu hết đều chưa sẵn sàng đi xa hơn trải nghiệm này, họ vẫn chưa chán chê trải nghiệm này.

Là một sinh thể tâm linh, con có quyền tự quyết cá nhân, nhưng con không thể phủ định quyền tự quyết của bảy tỷ người. Trên trái đất có những điều kiện mà cá nhân con không thể thay đổi. Ngay cả nếu con có quyền năng làm chuyện đó thì nó cũng vi phạm quyền tự quyết của bảy tỷ người kia. Vậy làm thế nào con có thể bước chân trên đường tu tâm linh? Có thể chứ, như thày đã nói rồi, nếu con nhận ra là không có điều kiện nào trên địa cầu có thể ngăn con nâng cao tâm thức của con. Điều thày mong muốn con làm bây giờ là bước lên một bước và nhận ra là không những các điều kiện hiện thời không thể ngăn con tăng triển, mà chúng còn có thể hỗ trợ cho con tăng triển.

12.7. Các hạn chế giúp con tăng triển như thế nào

Con có thấy chăng, con yêu dấu, là ngay cả khi con là một đệ tử tâm linh – hay có lẽ, đặc biệt khi con là một đệ tử tâm linh – con đã trở nên mẫn cảm đối với cái các thày gọi là tư duy cuồng đại của sa nhân? Nếu con nhìn loài người khắp thế giới, con sẽ thấy rất nhiều người sống trong một trạng thái tâm thức chấp nhận mọi điều kiện trên địa cầu y như vậy. Họ không nghĩ các điều kiện này có gì sai trái, thiếu sót. Họ không nghĩ là đang có một cuộc chiến hoành tráng giữa Thượng đế và ác quỷ, và các điều kiện hiện hành là do ác quỷ gây ra. Họ chỉ vui lòng sống cuộc đời của họ trong thế giới vật chất.

Thày không bảo đó là tâm thức con nên cố đạt được, mà thày muốn chỉ cho con thấy là họ không hề có ý niệm có chuyện gì sai trái, cần thay đổi. Nhưng hiển nhiên con cũng thấy có nhiều người sùng đạo, hay ngay cả những người không theo tôn giáo nào và đặc biệt nhiều người tâm linh, mang tư duy là có điều gì thật sai trái trên địa cầu, có điều gì thiếu sót, không lý tưởng và cần phải thay đổi.

Một lần nữa, các điều kiện hiện thời không lý tưởng. Đó không phải là những điều kiện do các Elohim thiết lập. Chúng gây ra rất nhiều đau khổ và tất nhiên, mục đích của các chân sư thăng thiên là thay đổi chúng đi. Tuy nhiên, mục đích của các thày là thay đổi chúng trong khuôn khổ Luật Tự quyết, và vì vậy các thày tìm cách giúp đỡ và tạo cảm hứng cho loài người nâng cao viễn kiến. Không phải các thày ra tay thay đổi mà là nhân loại qua viễn kiến cao hơn của mình. Điều con cần làm để vươn lên mức cao hơn, để vượt qua mức khai ngộ thứ năm tại khóa nhập thất của thày, là bắt đầu tra vấn toàn bộ tư duy cuồng đại. Tất nhiên, phần nào con đã làm công việc này rồi, nhưng thày đặc biệt cần con chất vấn ý tưởng cho rằng các điều kiện hiện thời là phản tâm linh và chúng có thể ngăn cản sự tăng triển tâm linh của con.

Sa nhân có nhiều tầng lớp khác nhau trong chiến lược giữ chặt nhân loại trong vòng tròn khép kín, trong ốc xoáy hướng hạ tự tăng cường nói trên. Một tầng, dĩ nhiên, là giữ cho con người tập trung vào thế gian và các thú vui vật chất. Đây là những người mà thày vừa nói là họ vui sướng trong thế giới vật chất, vui lòng chấp nhận các điều kiện hiện tại (hay có lẽ họ không vui sướng nhưng vẫn chấp nhận các điều kiện hiện tại), và họ bị mắc kẹt ở mức này. Họ nghĩ là không có gì làm được để mà thay đổi.

Xong có một tầng lớp cao hơn là những người đã bắt đầu nhận ra có gì không ổn, không đầy đủ. Sa nhân cũng đã thành công đánh bẫy những người này vào ý tưởng có một cuộc chiến cuồng đại giữa Thượng đế và ác quỷ, và họ không chắc bên nào sẽ thắng.

Như các thày đã giải thích trước đây, không hề có một cuộc chiến cuồng đại nào giữa Thượng đế và ác quỷ, bởi vì Thượng đế, Đấng Sáng tạo, hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi bất cứ gì xảy ra trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Đó là tại sao mới có một bầu cõi chưa thăng thiên, tương tự như một bãi chơi cát nơi tất cả mọi thứ đều có thể được dựng lên rồi dễ dàng được xóa bỏ và không có gì là vĩnh viễn. Sa nhân không thể tạo ra cái gì vĩnh viễn có khả năng chống lại Thượng đế. Chúng muốn con tin là chúng đã làm được vậy, và vì thế chúng muốn con bị kẹt vào hoặc cuộc giao tranh với chúng, hoặc cảm giác lo sợ hay tuyệt vọng không biết thế giới sẽ được cứu vãn hay không.

12.8. Con luôn luôn có khả năng thăng vượt

Đó chính là điều thày cần con bước ra khỏi, hầu con nhận ra là cho dù điều kiện hiện thời có là gì, thì sa nhân và những điều kiện mà chúng tạo ra không thể ngăn con tự thăng vượt. Tự thăng vượt nghĩa là gì? Trong tinh túy, đó là con thăng vượt điều kiện mà con đang đối mặt ngay lúc này. Cho dù điều kiện này có thấp kém đến đâu, con vẫn có khả năng thăng vượt. Đây là lời dối trá mà sa nhân đã quảng bá dưới nhiều phiên bản khác nhau, cụ thể chúng bảo là có những điều kiện thấp kém đến độ con không thể sử dụng để tự thăng vượt.

Con có thấy điều thày vừa nói ở trên? Khi ban đầu con bước xuống tâm thức xem mình là một sinh thể tách biệt, con vốn mang sẵn nhận biết là mình có khả năng thăng vượt ý niệm bản ngã hiện hữu để vươn lên cao hơn. Hầu hết mọi người trên địa cầu đều dần dà tin vào lời dối của sa nhân rằng điều này không thể làm được. Nhưng con tất nhiên, con cảm nhận là mình có thể, vì nếu không thì con đã không cất bước trên đường tu.

Nhưng con vẫn còn nơi ba thể cao rất nhiều tin tưởng vi tế là có những điều kiện không tâm linh và chúng không hỗ trợ sự tăng triển tâm linh của con. Đây là một vấn đề viễn quan. Khi con nhìn thế giới qua các tin tưởng gây giới hạn trong ba thể cao, tầm nhìn tổng thể của con về thế giới khiến con tưởng là có rất nhiều điều kiện không tâm linh sẽ ngăn chặn bước tiến tâm linh của con. Nếu con nhìn lại đời mình, nhìn vào các tin tưởng hiện tại của mình, nếu con nhìn vào một số giáo lý tâm linh mà con đã tìm hiểu và thực hành, con sẽ thấy ý tưởng đó hình thành một bối cảnh vô cùng vi tế cho mọi tin tưởng và cách nhìn đời của hầu hết mọi người. Nó rất, rất vi tế. Ở mức thấp nhất, nó bảo con là trên địa cầu có những điều kiện không thể thay đổi mà con không thể thăng vượt. Ở mức cao hơn một chút khi con ý thức được đường tu tâm linh, con sẽ vẫn cảm nhận là một số điều kiện xảy ra không thể hỗ trợ cho sự tăng triển tâm linh của con. Và do đó con bị kẹt trong ý tưởng là hoặc con phải thay đổi các điều kiện này, hoặc con phải tránh né, trốn chạy khỏi chúng.

Điều thày muốn chỉ ra cho con thật giản dị: Khi con nhìn vào đời mình ngay bây giờ, thày chắc chắn sẽ có một số điều kiện mà con nghĩ con không thể thay đổi. Có thể con không thay đổi được là vì viễn quan của con quá giới hạn. Cũng có thể con không thay đổi được, như thày vừa giải thích, là vì muốn thay đổi thì con sẽ phải vi phạm quyền tự quyết của bảy tỷ người kia, hoặc quyền tự quyết của một số người trong gia đình hay trong xã hội. Con là thành phần của một đơn vị tập thể và những thành viên của đơn vị tập thể này có một viễn quan nào đó. Con không nhất thiết có khả năng thay đổi những điều kiện này.

12.9. Lời dối vi tế rằng con không thể thăng vượt

Điều con có thể làm được là thay đổi cách con nhìn những điều kiện đó để con xoay chuyển. Thay vì coi chúng là những chướng ngại cản trở sự tự thăng vượt, con xem chúng là những cơ hội, là những hỗ trợ cho tự thăng vượt. Thay vì nhìn vào một điều kiện, sợ hãi nó, cảm thấy ân hận và đau khổ vì nó, nghĩ rằng: “Ồ, tôi phải thay đổi nó, tôi phải lánh xa nó để trở thành người tâm linh,” thì giờ đây con có thể nhìn vào điều kiện và nói: “À, thật là một cơ hội quá tốt để tôi tự vượt thăng.” Đây là một sự xoay chuyển vĩ đại trong khả năng tự nhận biết. Nhiều người đã bước chân trên đường tu hàng 30, 40 năm mà không làm được xoay chuyển này. Thày nói với con là con đang ở mức trong khóa tu tự điều ngự này nơi con có khả năng xoay chuyển như thế, và thày đang ở đây để giúp con. Thày sẽ làm tất cả trong khả năng thày khi con tham dự khóa nhập thất của thày trong các thể thanh cao. Điều chính con có thể làm là quán chiếu những ý tưởng vừa kể trong tâm ý thức của con.

Con cũng có thể biểu đạt – hay đúng hơn, nhận biết – sự kiện con đã có một ý định dựa trên tình thương để thực hiện cuộc xoay chuyển này. Thày đã nói là thày không muốn con sống phần đời còn lại trong nỗi sợ chết và chỉ khắc phục được trên giường hấp hối. Thày không muốn con sống phần đời còn lại mà vẫn xem các điều kiện trên địa cầu là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh của mình, trong khi thật ra con có thể xoay chuyển để xem chúng là cơ hội.

Con yêu dấu, con chẳng thấy là lời dối của sa nhân vô cùng giản dị hay sao? Trước tiên là niềm tin rằng các điều kiện hiện hữu trên địa cầu không đạt tiêu chuẩn và phải tốt đẹp hơn. Sau đó là niềm tin con là người tâm linh cho nên con đang phấn đấu để trở thành tốt hơn, con phấn đấu để bước vào một thế giới tốt đẹp hơn nơi các điều kiện sẽ cao hơn bây giờ. Con biết là để bước vào thế giới cao hơn này, con phải tự thăng vượt. Lời gian dối mà sa nhân phổ biến là bảo rằng trong thế gian có những điều kiện tồi tệ đến độ con không thể sử dụng để tự thăng vượt. Con phải hoặc giao chiến với chúng và thay đổi chúng, hoặc con phải xa lánh chúng.

Con chẳng thấy chúng đang cố bảo gì hay sao? Tự thăng vượt nghĩa là gì chứ? Đó là khi con nhận ra điều kiện hiện hữu là kém hơn, ít hơn. Con nhận ra khả năng mình có thể là hơn vậy, xong con chuyển đổi ý niệm bản ngã của con, rời bỏ cái kém để là cái hơn. Con chẳng thấy tinh túy của sự tự thăng vượt là đi từ cái kém sang cái hơn hay sao? Dù cái kém có thấp kém tới đâu, thật chẳng có gì quan trọng vì con luôn luôn có thể chuyển sang cái hơn. Sa nhân cố khiến con tin là có một số điều kiện kém đến độ con không thể chuyển từ cái kém sang cái hơn.

Con chẳng nhìn ra sự lừa dối ở đây hay sao? Cho dù điều kiện có thấp kém tới đâu, con cũng luôn luôn có khả năng đi từ cái kém lên cái hơn. Thật ra, nếu nó càng thấp kém thì việc đi lên sẽ càng dễ hơn, vì sự tương phản sẽ càng rõ nét hơn giữa điều kiện mà con nhìn thấy với tâm vỏ ngoài so với thực tại – thực tại cao hơn – mà con cảm nhận trong tim.

12.10. Con dư biết lời dối là một lời dối

Con chẳng thấy những xoay chuyển khó khăn nhất trên đường tâm linh là những xoay chuyển vô cùng vi tế hay sao? Đó là khi con chỉ thấy được một sự khác biệt nhỏ nhoi giữa viễn kiến mà con có trong tâm ý thức – qua kính vạn hoa của ba thể cao của tâm phàm – và viễn quan cao, viễn quan trực giác của con. Con chẳng thấy điều thúc đẩy con bước đi trên đường tâm linh là vì con có một viễn quan nội tâm hay sao? Hẳn con đã có một viễn quan trực giác cao hơn đến từ Hiện diện TA LÀ của con cũng như từ các chân sư thăng thiên.

Đây là điều cho con cảm nhận là có cái gì hơn nữa. Đồng thời, tất nhiên là trong cuộc sống hàng ngày con vẫn nhìn qua kính vạn hoa của bốn thể phàm và con vẫn nhìn thấy một viễn kiến thấp hơn hẳn. Cho tới giờ, con đã cho rằng cái con thấy trong viễn quan trực giác là một thực tại cao hơn hiện hữu nơi một cõi cao hơn. Điều này không sai, nhưng cho tới giờ con cũng cho rằng cái con thấy qua kính vạn hoa của bốn thể phàm cũng là một thực tại hiện hữu trong thế giới vật chất.

Sự xoay chuyển mà thày yêu cầu con thực hiện là nhận ra những gì con thấy qua kính vạn hoa của bốn thể phàm không phải là thực tại; đó chỉ là một nhận thức. Các chân sư khác cũng đã đề cập đến điều tương tự. Phật Gautama đã nói về nhận thức, Maitreya đã nói về nhận thức trong sách của thày, và Mẹ Mary cũng nói về nhận thức trong “Khóa học về sự dồi dào”.

Không phải là không có một thực tại vỏ ngoài dưới hình dạng một số điều kiện trong thế giới vật chất. Chúng có mặt ở đó, chúng đã được loài người đồng-sáng tạo, nhưng con không đang thấy những điều kiện đó. Con đang thấy một hình ảnh, và hình ảnh này là do bốn thể phàm của con chế tạo.

Để tăng triển trên đường tâm linh và nâng cao ý niệm bản ngã, con không phải thay đổi các điều kiện vỏ ngoài, mà con chỉ phải thay đổi viễn quan nội tâm. Con không phải thay đổi bất cứ gì bên ngoài chính con, mà con chỉ phải thanh tẩy viễn quan của con. Khi con thanh tẩy viễn quan, thanh tẩy nội dung của bốn thể phàm, con sẽ bắt đầu nhìn thấy các điều kiện trong thế giới vật chất y như thày nhìn thấy. Thày không nhìn chúng như là mối đe dọa hay chướng ngại trên con đường tự điều ngự.

Thày đã có nói về một Trường đời Cay đắng, và vấn đề là những cú giáng của trường đời phải cay đắng tới chừng nào thì người ta mới bắt đầu thức tỉnh rồi mong muốn hơn nữa. Con chẳng thấy là theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói là các sa nhân đang làm ơn cho các thày khi chúng kéo con xuống ngày càng thấp hơn hay sao? Vì khi các điều kiện trở nên càng dày đặc và sơ khai, thì sự tương phản sẽ càng lớn hơn giữa những gì con thấy được qua tâm phàm và những gì con nhận biết ở bên trong. Chỉ là vấn đề thời gian khi khoảng cách trở nên to lớn đến độ con người nhận ra là phải có một cách tiếp cận cuộc sống khác hơn.

Thày biết đây không phải là một tình trạng lý tưởng. Thày không đang tìm cách bào chữa cho sa nhân hay bảo rằng chúng chỉ đang làm những chuyện chúng đáng lý phải làm. Thày không biện minh cho sự tàn ác con chứng kiến trên trái đất. Thày chỉ đang chỉ ra cho con thấy là ở mức khai ngộ hiện thời của con, việc xoay chuyển tâm con là chuyện khả thi, khi con nhận ra không có một điều kiện nào mà con đối mặt là một trở ngại cho việc tự thăng vượt. Đó chính là một hỗ trợ cho con tự thăng vượt.

12.11. Định luật Tự thăng vượt

Con hãy thử lấy một điều kiện con phải đối diện trong đời ngay lúc này mà con cho – hay đã từng cho – là phản tâm linh, một kẻ thù cho sự phát triển tâm linh của con. Điều thày muốn chỉ ra cho con là con có thể xoay chuyển và nhận ra điều kiện này chỉ có vẻ là một chướng ngại cho con nếu con nhìn nó xuyên qua một ý niệm cái ta nhất định. Cái ta này được tạo thành từ các điều kiện trong bốn thể phàm của con. Nếu con nghĩ cái gì đó là phản tâm linh, thì điều này cho thấy con có một ý niệm cái ta giới hạn dựa trên một viễn quan không thuần khiết.

Chính điều con đang nghĩ là một chướng ngại cho sự phát triển tâm linh thật ra là cơ hội lớn nhất để con nhìn ra viễn quan giới hạn của mình và khởi sự làm gì đó để thay đổi. Có một định luật hiện hành trên địa cầu, và có thể nói định luật này quy định điều kiện cho tự thăng vượt. Định luật này nói rằng con sẽ không thoát ra khỏi bất kỳ điều kiện nào trên địa cầu cho tới khi con hoàn toàn chấp nhận nó như nó hiện là, và con chấp nhận là nó không hạn chế được con như một sinh thể tâm linh.

Vậy con có thấy tư duy cuồng đại đã làm gì cho rất nhiều người tâm linh? Ngay cả giáo lý của chân sư thăng thiên cũng đã, ở một mức độ nào đó, củng cố cho xu hướng này khi họ lần đầu tiên tiếp xúc với giáo lý của các thày. Họ nghĩ là họ cần phải cưỡng chống lại một số điều kiện và không được chấp nhận chúng. Điều thày muốn nói là như sau: Một khi con thực sự hiểu được những gì thày vừa nói với con, con sẽ hiểu là các điều kiện hiện thời là do những người sử dụng quyền tự quyết của họ tạo ra. Thượng đế đã ban cho họ quyền làm như vậy.

Có những người khác đã tạo ra một số điều kiện đang ảnh hưởng đến con, nhưng họ đã tạo ra chúng qua một ý niệm bản ngã giới hạn. Tại sao chúng lại ảnh hưởng đến con? Bởi vì trong bốn thể phàm của con, con mang ít nhất một số yếu tố của ý niệm bản ngã giới hạn đó. Nếu không thì con đã không bị chúng ảnh hưởng gì hết, con đã không phản ứng lại chúng, con đã không cưỡng chống lại chúng, con đã không bị phiền hà hay bị hạn chế, hay cảm thấy chúng có thể kềm hãm sự phát triển tâm linh của mình. Thậm chí con không có cả ý muốn thay đổi chúng. Các điều kiện đó hoàn toàn không quan trọng, không liên quan gì tới con.

Con chẳng nhận ra là trên địa cầu có rất nhiều điều kiện mà con không quan tâm hay sao? Có thể con đã lớn lên trong một môi trường nơi nước uống sạch là chuyện tự nhiên, nhưng một tỷ lệ đáng kể dân số trên thế giới không thể lấy nước sạch từ vòi nước, thậm chí nhiều người còn không có cả vòi nước. Vì lý do gì con nên quan tâm đến vấn đề này khi con đã lớn lên trong một xã hội không có vấn đề đó?

Điều thày muốn nói là những điều kiện mà con quan tâm, trên thực tế không giới hạn con nhiều hơn so với những điều kiện mà con xem là không can hệ. Điều quan trọng là con xoay chuyển, qua đó con nhận ra là nếu con thăng vượt ý niệm bản ngã mà cho tới giờ con đã sử dụng để nhìn vào điều kiện, thì điều kiện đó sẽ không còn xáo trộn con nữa.

12.12. Thay đổi tâm có thể thay đổi ngoại cảnh

Điều này không có nghĩa là điều kiện sẽ được thay đổi, bởi vì nó vẫn được cầm giữ trong tâm thức tập thể của những người khác, mà điều này có nghĩa là điều kiện sẽ không còn giới hạn con nữa. Trong nhiều trường hợp, một khi con đạt tới điểm thăng vượt được một điều kiện nào đó bằng cách chấp nhận là nó có mặt nhưng không ảnh hưởng được con, thì có thể con sẽ nhận thấy chính hoàn cảnh vỏ ngoài của con thay đổi, và con sẽ thoát xa khỏi điều kiện đó.

Như thày đã nói, sứ giả này đã quyết định là ông muốn thăng vượt ý niệm bản ngã đã hấp dẫn một số người về phía ông, và ông đã không còn hấp dẫn những loại người đó nữa. Nhiều người đã có cùng trải nghiệm như vậy. Một điều tương tự cũng xảy ra cho các điều kiện vật lý ngoại cảnh. Thay đổi có thể xảy đến trong đời con một cách thật lạ lùng một khi con khắc phục được ý niệm bản ngã đã khiến con cho rằng con không thể là người tâm linh nếu một số điều kiện có mặt.

Con có khả năng là người tâm linh bất kể những điều kiện con phải đối mặt. Rất nhiều người đã chứng tỏ điều này suốt các thế kỷ và suốt các thời đại. Con đang ở đây để chứng tỏ điều này trong thời đại hôm nay. Đây chính là lý do tại sao con đã tình nguyện đi vào hiện thân vào thời buổi này. Thày không nói với con điều gì mà con chưa biết trong nội tâm. Thày chỉ nhắc nhở con hầu con có thể xoay chuyển trong nhận biết ý thức, và khởi sự nhìn đời mình cũng như hoàn cảnh vỏ ngoài của mình với tinh thần chấp nhận mới mẻ rằng đây chính là một cơ hội vĩ đại để con tự thăng vượt.

Serapis Bey TA LÀ, và mỗi giây trong mỗi phút trong mỗi giờ mỗi ngày, thày đang tự thăng vượt. Thày ở đây là đề giúp con làm tương tự. Con hãy nắm lấy tay thày đang dang ra cho con và chúng ta sẽ cùng nhau bước lên cao hơn trên con đường tự thăng vượt huy hoàng mà Đấng Sáng tạo của chúng ta đã cống hiến cho chúng ta.

10 | Phát triển ý định tự lực

Bài giảng của chân sư thăng thiên Serapis Bey qua trung gian Kim Michaels, ngày 5/1/2016.

TA LÀ chân sư thăng thiên Serapis Bey. Mục đích của thày trong bài giảng này là cho con một số gợi ý có ý thức sẽ giúp con vượt qua các khai ngộ ở tầng thứ tư của khóa nhập thất của thày. Và tất nhiên, đây là tầng mà con nhận được một liều tinh khiết gấp đôi.

Để bắt đầu, thày mong muốn con nhận ra là bây giờ con đã đạt tới điểm trên đường tu tâm linh – con đường tự điều ngự – nơi con cần biểu hiện động lực tự lực mà con đã vốn có, đã mang sẵn, để bước trên đường tu. Các Thượng sư biết rõ là các thày phải khởi sự thật dịu dàng với mọi người. Ở ba tầng đầu, các thày cho con một số giáo lý, một số kỹ thuật mà con có khả năng đáp ứng. Khi làm vậy, như thày đã trình bày trong bài giảng trước, các thày nhìn nhận là đối với hầu hết mọi người, cuộc sống từ quá lâu đã là một trận đấu quần vợt nơi con quen có ai đó đánh banh lại cho con, và do đó con luôn luôn có điều gì đó để phản ứng lại. Các thày cần con đạt tới điểm mà động lực để bước chân trên đường tu không còn là một sự phản ứng đối với, hay đối lại, bất cứ gì trong thế giới vật chất.

Các thày hiểu rất rõ đây có thể là một khai ngộ khó khăn vì nhiều người trong các con – cho dù con nhận biết ý thức hay bằng trực giác – cũng biết từ lâu là có một lực chống lại bước tiến tâm linh của con. Con có thể gọi đó là thế lực bóng tối, là thế lực của cái ác, là sa nhân hay bất cứ tên gọi nào khác. Sau khi con đã biết chuyện này một thời gian, lẽ tự nhiên con nảy ra ý tưởng là động lực tu tập của con phần nào là để lánh xa, để thoát ra, để tránh né hay để vươn lên khỏi các thế lực bóng tối đó. Con hiểu điều thày đang nói, phải không con? Thật là dễ rơi vào một cơ chế nơi động lực để bước trên đường tu liên quan đến – và do đó phần nào bị quy định bởi – sa nhân. Thày đã nói về hàng ngũ chưởng giáo giả hiệu, và chúng đã rất thiện nghệ cài đặt nhiều ý tưởng nhằm bóp méo cách nhìn của con về đường tu đến độ nó kềm hãm tiến bộ của con, hay thậm chí đưa con vào một ngõ cụt sẽ tốn nhiều kiếp để thoát ra.            

10.1. Ý định tự lực, tự đủ

Điều thày cần con làm ở mức này ở khóa nhập thất là nhìn vào các ý định của con một cách trung thực. Các thày đã nói trước đây là ngay cả nỗi sợ hàng ngũ giả hiệu cũng mở tâm con ra cho hàng ngũ giả hiệu – có lẽ không phải theo nghĩa là chúng sẽ xâm nhập trực tiếp vào tâm con và ảnh hưởng con qua cách đó, nhưng chúng có thể ảnh hưởng con gián tiếp bằng cách khiến con trốn chạy những gì con sợ, hay con không sẵn lòng nhìn vào điều gì con sợ. Sự kiện này khiến nhiều đệ tử tâm linh mang trong tâm thức một số yếu tố mà mình không muốn xem xét. Chẳng hạn, nếu con rất lo sợ đi theo hàng ngũ giả hiệu, có thể con sẽ không sẵn lòng nhìn vào một số ý tưởng mà chúng đã cài đặt vào tâm tiềm thức của con trong kiếp này hay những kiếp trước.

Con sẽ cảm thấy thật xấu hổ, thật tủi nhục, thật khiếp sợ nếu con phải nhìn nhận là mình đã mang một số yếu tố tâm thức sa ngã trong tâm tiềm thức của mình. Thậm chí con có thể sợ là thày, Serapis Bey, sẽ chối từ con nếu có ai phát hiện con có những yếu tố đó, và điều này đương nhiên sẽ không giúp con được lợi lạc từ sự giúp đỡ mà thày cống hiến cho con.

Như thày có nói, con không thể giấu gì với thày. Gần như không có ai đến khóa nhập thất của thày trên đường tự điều ngự mà không có những yếu tố tâm thức sa ngã, hay những tin tưởng do sa nhân và hàng ngũ giả hiệu tạo ra trong tiềm thức mình. Làm sao con có thể sống sót một vài kiếp trên hành tinh này mà không bị tác động bởi từng nấy ảo tưởng và dối trá khắp mọi nơi? Đối với thày, không có gì bất thường, không có gì tiêu cực, không có gì mà thày cần xét đoán xem con có những yếu tố đó hay không. Thày không ở đây để phán xét con, bắt lỗi con hay làm con xấu hổ. Thày ở đây để giúp con thăng vượt tất cả những gì đang giới hạn con trên đường tu. Một điều sẽ giới hạn con là nếu con có những yếu tố do sa nhân hay tà lực cài đặt. Cho dù con không bị cài đặt trực tiếp, vẫn có thể là con mang lòng sợ hãi – mà một cách nào đó, đây cũng là một cài đặt – và khi con tránh không nhìn một điều gì thì, tất nhiên, nó sẽ kềm chân con trên đường tu. Không thể nào khác được.

Thày cần con tới mức nhận ra là động lực thật sự của con khi bước trên đường tu không dính dáng gì đến tà lực hay hàng ngũ giả hiệu. Động lực thật sự của con phải đến từ bên trong, nó liên hệ trong ngắn hạn với Sứ vụ Thiêng liêng của con cho kiếp này, và trong dài hạn với mục đích nguyên thủy của con khi con đến địa cầu. Thày đề nghị con suy ngẫm điểm này thật kỹ lưỡng trong tâm ý thức. Một lần nữa, có thể sẽ ích lợi nếu con lập ra một danh sách những ý định và động lực mà con thấy xuất phát từ một loại phản ứng nào đó đối với tà lực. Có điều gì con đang cố tránh né, trốn chạy hay vượt lên trên hay không?

Thày cần con suy ngẫm một cách ý thức điều gì con thực sự yêu thương về tâm linh và cuộc sống. Nhiều khi các thày thấy đệ tử đến khóa nhập thất của thày với quá nhiều giới hạn đã được lập trình trong tâm, đến độ họ không dám nghĩ tới cả những gì mình thực sự mong muốn. Thày yêu cầu con làm một bài tập là con hãy lấy một tờ giấy, con đọc bài thỉnh kèm với bài giảng này, sau đó con ghi xuống bất cứ gì đến với con liên quan đến những điều con thực sự muốn làm trong đời. Thày cần con ý thức sự kiện là con cần bỏ sang bên mọi hạn chế con đang có. Thày yêu cầu con, lúc đầu, hãy xem việc này như một bài tập lý thuyết, nghĩa là – trên lý thuyết – nếu con không có tất cả những hạn chế mà con phải đối mặt trong hoàn cảnh hiện thời hay trong tâm lý của con, thì con thật muốn làm gì?

Thày không yêu cầu con suy đoán xem thày muốn con làm gì, hay các chân sư thăng thiên khác muốn con làm gì, hay Thượng đế muốn con làm gì. Thày không yêu cầu con suy đoán xem các sa nhân không muốn con làm gì. Thày cũng không yêu cầu con nghĩ xem người khác muốn hay không muốn con làm gì. Mà thày yêu cầu con suy nghĩ xem – nếu con không có bất kỳ giới hạn nào – chính con muốn thực sự làm gì trong đời?

10.2. Những loại ý định khác nhau

Con sẽ nhận thấy câu trả lời cho câu hỏi trên có thể thuộc hai loại. Có thể có những việc liên quan đến những mong muốn và ước mơ chưa thỏa nguyện, một cái gì đó mà con chưa bao giờ làm được nhưng lại luôn luôn muốn thực hiện. Không có gì sai trái với chuyện này. Đó có thể là những trải nghiệm mà con muốn có.

Thày yêu cầu con nhìn xa hơn thế và xem xét một loại khác nữa, là những chuyện con muốn làm không vì mục đích cá nhân mà phi cá nhân. Con có thể xem đó là một việc phụng sự đời sống, hay mong muốn thay đổi một sự thể, đem lại một cải thiện tích cực nào đó trên hành tinh này. Như các thày đã nói nhiều lần, đa số các con là người tâm linh đã tình nguyện đến hành tinh này để đem lại sự thay đổi tích cực qua chính ánh sáng của mình, qua những sáng ngộ, động lượng và kinh nghiệm của mình. Trong số những việc con muốn làm trong đời, sẽ có một tỷ lệ nào đó liên quan đến mục đích phi cá nhân này, là mong muốn thay đổi gì đó trên địa cầu.

Bây giờ thày cần con xem xét các ý định này kỹ lưỡng hơn. Có lẽ con có thể đọc bài thỉnh thêm một lần hay đọc bài chú của thày thêm mấy lần nữa. Có lẽ con có thể ngồi yên trong im lặng, nhắm mắt lại và quán chiếu điều này. Điều thày mong muốn con làm là nhìn xa hơn tất cả những thứ mà con muốn làm, mà con cảm thấy con bó buộc phải làm, hay con cảm thấy con nên làm hầu thay đổi địa cầu. Thày cần con nhìn thấy là ngoài những hoạt động này, sẽ có một số động lực, một số ý định không liên quan gì đến ý muốn làm gì ở ngoài con, mà thay vào đó, liên quan đến những gì đem lại cho con nhiều niềm vui nhất trong bản thể con.

Có thể lúc đầu con không thể thấy rõ. Có thể con sẽ thấy khó diễn tả bằng lời. Điều thày cố giúp con khám phá ở đây là động lực nguyên thủy khiến con đến địa cầu có một khía cạnh Alpha và một khía cạnh Omega. Khía cạnh Omega là con muốn đem lại một số thay đổi vì con thấy trên trái đất có những điều kiện cần bỏ lại đằng sau. Khía cạnh Alpha là con muốn chia sẻ ánh sáng của con, Hiện diện TA LÀ của con, ngọn lửa Thượng đế của con, khuôn đúc cá biệt độc đáo của con. Con muốn biểu hiện cá thể của mình một cách sáng tạo. Thày có nói là đường tu tâm linh không phải là một chiếc áo tù bó tay bó chân. Nó vẫn cho con đủ không gian cho sự sáng tạo cá nhân. Sáng tạo cá nhân này, trong dạng thuần khiết của nó, không nhằm chế tạo một số thay đổi nhất định để phản ứng lại những điều kiện hiện hữu trên trái đất. Trong dạng thuần khiết, sáng tạo liên quan đến việc biểu hiện con người mà con là, cá thể thiêng liêng của con. Sự biểu hiện thuần khiết của sáng tạo không phải là chuyện tạo ra những kết quả vỏ ngoài, thay đổi vỏ ngoài, đặc biệt những thay đổi tùy thuộc vào sự chọn lựa của các sinh thể khác có quyền tự quyết, dù họ đang đầu thai vật lý hay là sinh thể sa ngã ở các cõi khác.

Trong cốt lõi, khả năng sáng tạo có liên quan đến việc biểu hiện con người mà con là, và con biểu hiện như vậy vì niềm vui trọn vẹn được cảm thấy ánh sáng mà Thượng đế cho con chảy xuyên qua lăng kính của cá thể mà ngài đã cho con. Thày hiểu là ngay lúc này có thể con chưa hòa điệu được trong ý thức, nhưng qua sự quán chiếu và thỉnh gọi, lần hồi con sẽ bắt đầu nhận ra điều đó. Thật quan trọng là con cảm được cái đã cho con niềm vui trọn vẹn đó không liên quan đến bất cứ gì bên ngoài con, vì đây là ý định thuần khiết nhất mà con có để có mặt trên địa cầu. Đây cũng là một ý định con có thể bày tỏ cho dù hoàn cảnh vỏ ngoài là gì, hay các giới hạn mà con phải đối mặt là gì.

10.3. Động lực cao nhất của con

Thày vừa cho con làm bài tập: “Nếu con không có giới hạn nào, con sẽ biểu hiện điều gì?” Bây giờ thày yêu cầu con đưa bài tập này lên một mức cao hơn, là con nhận ra rằng bất kể các giới hạn con đang đối mặt trong hoàn cảnh vỏ ngoài của mình, không có gì trong các giới hạn này có thể ngăn con làm cánh cửa mở cho ánh sáng và cá thể của Hiện diện TA LÀ tuôn chảy xuyên qua con. Điều này con có thể thực hiện trong bất cứ hoàn cảnh nào, và đây là điều thày cần con quán chiếu. Đây là cách duy nhất để con phát triển một động lực hoàn toàn phát xuất từ bên trong, và vì vậy không thể bị tác động, bị tiêu diệt hay bị kềm hãm bởi bất cứ gì bên ngoài con.

Trên con đường tự điều ngự, phải tới một điểm khi động lực khiến con bước chân trên đường tu chỉ còn liên quan đến mong muốn ý thức của con, viễn quan ý thức của con, muốn biểu đạt con người thật của con trong thế giới vật chất. Đây là động cơ cao nhất để bước chân trên đường tu, và đây là điều con cần để vượt qua các khai ngộ dưới các Thượng sư của Tia sáng thứ Năm, thứ Sáu và thứ Bảy. Đó là tại sao thày là người chuẩn bị con cho các tia sáng đó vì con đang đứng ở ngay lỗ kim, ở ngay điểm eo.

Khi con bắt đầu cảm nhận được bản thể nội tâm của con cùng những gì đem lại cho con niềm vui, con cũng có thể bắt đầu nhìn đến hoàn cảnh bên ngoài. Thày có biết bao đệ tử đến với thày, và khi thày trò ngồi ở nơi nhập thất nhìn vào hoàn cảnh vỏ ngoài của họ, họ thường hỏi: “Nhưng Serapis, thày chẳng thấy là con đang phải đối mặt với những hạn chế này trong hoàn cảnh vỏ ngoài của con sao? Làm thế nào con có thể thực sự tâm linh, làm thế nào con có thể biểu đạt khả năng sáng tạo khi con phải đương đầu với tất cả những tình huống này mỗi ngày trong đời con? Làm sao con có thể bỏ việc làm, bỏ con cái, bỏ gia đình để làm một việc hoàn toàn sáng tạo hay tâm linh?”

Các Thượng sư không đang yêu cầu con làm chuyện đó. Có một động lực giả hiệu mà sa nhân và hàng ngũ giả trá đã tạo ra suốt nhiều thế kỷ. Trong các thế kỷ trước, động lực này thường được thể hiện, chẳng hạn trong văn hóa Cơ đốc, qua toàn bộ nề́p sống tu hành ẩn dật. Có một tin tưởng là nếu con là một người thực sự mộ đạo thì con sẽ dành trọn đời mình cho Thượng đế bằng cách đi tu trong một tu viện.

Con sẽ rút hẳn khỏi đời sống một người bình thường vì cách sống này bị xem là đi ngược lại lòng sùng bái tâm linh và thờ phượng Thượng đế chân chính. Người ta cho rằng Thượng đế rất coi trọng những ai rút khỏi cuộc đời tầm thường để sống cách ly trong một môi trường thật thoải mái nơi họ không phải đương đầu với rất nhiều khía cạnh của tự ngã, và do đó họ cũng không tiến bộ tâm linh – hay không tiến bộ bao nhiêu.

Các chân sư thăng thiên không xem việc đó là lý tưởng. Đã có một thời khi việc rút lui khỏi đời sống để tích tụ động lượng tu tập là một việc ích lợi cho một số người, nhưng điều này không có nghĩa là tất cả những ai sống trong tu viện đều đã tinh tiến. Như các thày đã nói nhiều lần, trong thế giới ngày nay, trong Thời đại Bảo bình, việc có quá nhiều người rút khỏi xã hội thật không còn cần thiết hay ngay cả xây dựng. Điều quan trọng hơn gấp bội là con là người tâm linh và con tìm được cách thể hiện tính chất tâm linh của con trong đời sống hàng ngày. Điều quan trọng là con không cách ly mà con chứng tỏ làm thế nào con có thể sống tâm linh ngay trong một xã hội phản tâm linh.

Điều quan trọng cho sự tăng triển của con là con không tự cô lập trong những cộng đồng tâm linh nơi tất cả thành viên đều có thể xác chứng cho nhau. Họ có thể sống vô cùng thoải mái nhưng tự ngã của họ sẽ không bị quấy rầy tới mức họ bắt buộc phải nhìn thấy nó. Quá nhiều cộng đồng tâm linh hoạt động theo kiểu này. Nếu mọi người đều tin chắc mình là người tâm linh và ai ai cũng đều xác chứng tự ngã của nhau, thì họ sẽ không giúp nhau nhìn ra tự ngã và do đó sẽ không khắc phục được nó.

10.4. Nhìn Serapis không như vị thày mà vị hỗ trợ

Thày cần con nhận ra là đối với tuyệt đại số người tâm linh trong thời đại này, điều cần thiết, điều xây dựng và phù hợp với Sứ vụ Thiêng liêng của con là con tìm được cách biểu hiện tính chất tâm linh và khả năng sáng tạo của mình bất kể hoàn cảnh vỏ ngoài là gì. Để thành công, con cần xoay chuyển tâm thức của con.

Chuyển đổi đầu tiên mà con cần thực hiện là con không nhìn thày như một vị thày truyền thống. Cho tới giờ, thày cùng ba vị Thượng sư mà con gặp đã hành xử phần nào như những vị thày mà con có thể tìm thấy trên địa cầu. Các thày đã nắm phần chủ động trong khóa nhập thất. Các thày đã trình bày một số bài giảng, bài tập, đưa ra một số thử thách cho con và con đã đáp ứng. Tất nhiên, có thể con đã có một động lực để gia nhập khóa tu và bước chân trên con đường tự điều ngự. Một khi con ở trong nhập thất các thày, nhiều khi động lực hàng đầu trong tâm ý thức của con dồn vào các thày, dồn vào việc tuân thủ khai ngộ, vượt khai ngộ, tránh làm cho các thày thất vọng hay bất kỳ cảm nhận nào khác. Thày cần con xoay chuyển động cơ của con khi tham dự khóa nhập thất và tương tác với thày không dựa trên mong muốn chiều lòng thày, đi theo thày, hay cũng có thể chống  đối thày. Thày cần con xoay chuyển và nhận ra con ở trong khóa này là vì con muốn khắc phục bất kỳ chướng ngại nào đang ngăn con làm cánh cửa mở cho sự biểu hiện sáng tạo của ánh sáng, cũng như của cá thể mà con thật là, được neo trụ nơi Hiện diện TA LÀ của con.

Thày cần con xoay chuyển sang một động lực tham gia khóa này dựa trên tình thương. Thày có thể cảm nhận khá dễ dàng khi đệ tử có một phản ứng với thày. Hoặc họ mong muốn chiều lòng thày, hoặc họ có một điểm tắc nghẽn nào đó trong tâm thức khiến họ miễn cưỡng làm theo chỉ dẫn của thày. Đây là điều con cần khắc phục ở tầng thứ tư của khóa nhập thất này. Thày cần con đạt tới điểm, cho dù trong quá khứ con đã nhìn thày và các chân sư khác như thế nào, thì giờ đây con có khả năng liên hệ với thày một cách hoàn toàn cởi mở và trung hòa. Thày không phải là người kỷ luật con, thày không nhìn con từ cao, thày không phơi trần hay hạ nhục con. Thày không là người đặt đòi hỏi lên con.

Thày ở đây để tạo điều kiện cho con phát triển nhưng thày không là động lực. Chính con cần tự cung cấp động lực này hoàn toàn từ bên trong con. Thật ra ở tầng thứ tư, có một thời điểm khi thày quy tụ các đệ tử đã sẵn sàng vào một căn phòng. Trước khi mọi người bước vào phòng, thày nói với họ mục đích là để họ nhận được động cơ chủ chốt khiến họ bước chân trên đường tu từ điểm này trở đi. Tất nhiên, thày nói cách nào đó để họ tin là chính thày sẽ trao cho họ động cơ đó. Và khi mọi người bước vào phòng và ngồi xuống, thày sẽ chỉ ngồi đó, đưa mắt nhìn từ người này sang người kia. Đối với các đệ tử sẵn lòng nhìn vào mắt thày thì thày cũng nhìn vào mắt họ, nhưng thày không nói gì cả.

Phải mất một lúc thì các đệ tử mới bắt đầu nhìn thày với một dấu hỏi to tướng trong mắt họ. Rồi phải mất thêm nhiều thời gian hơn trước khi một số bắt đầu hỏi: “Serapis, đến bao giờ thày mới tiết lộ cho chúng con động cơ của chúng con?” Thày vẫn cứ ngồi như vậy, nhìn họ và mỉm cười, và rồi thường thường sẽ có một hai người trong nhóm nhìn mọi người và nói: “Có lẽ thày đang muốn nói là chúng ta cần tìm bên trong chính mình hay chăng?” Thế là, thông thường, ánh sáng bỗng bật lên trong mắt hầu hết mọi đệ tử.

Có thể có một số không sẵn lòng làm như vậy. Trong một số trường hợp, có đệ tử đã phải rời khóa tu, quay ngược lại và theo học những khai ngộ khác. Trong đa số trường hợp, các đệ tử trở nên rất háo hức, họ nhắm mắt lại và đi vào bên trong. Điều thày có thể giúp đệ tử ở điểm này là, đương nhiên, vì họ đang ở trong hào quang của thày, thày có thể che chắn họ khỏi mọi động lực ô uế bình thường sẽ tới lôi kéo tâm họ. Trong Hiện diện của thày, họ có nhiều cơ hội hơn để khám phá điều thày vừa đề cập, tức là những gì đem lại cho họ niềm vui lớn nhất.

10.5. Là người ngang hàng với Serapis

Sau khi các đệ tử khám phá ít nhất một số động lực nội tâm của mình thì một sự chuyển đổi xảy ra. Bỗng nhiên trong thái độ và quan hệ của họ với thày, không còn ý muốn chiều lòng thày, hay sự miễn cưỡng hay những yếu tố giả tạo nào khác. Giờ đây cả trò lẫn thày bắt đầu tương tác với nhau một cách hoàn toàn khác. Đệ tử không còn chờ thày làm việc gì và nắm chủ động, mà thay vào đó, chính họ nắm lấy vai trò chủ động, và họ đến hỏi thày: “Serapis, con muốn thấy điều này, con muốn hiểu điều kia, con muốn phát triển khả năng nọ, vậy thày nghĩ sao?” Đột nhhiên mọi người không còn hành xử như thày với trò, mà hành xử bình đẳng.

Thày không đứng trên đệ tử, thày không đứng trên các con. Thày chỉ có nhiều kinh nghiệm hơn và có lẽ nhiều viễn quan hơn. Thay vì là vị thày cao cả dũng mãnh đứng đầu lớp học và nhìn xuống học sinh, giờ đây thày là kẻ mà thày luôn luôn muốn là: một vị hỗ trợ. Ở điểm này, mọi người kinh qua một số bài tập khác nhau, nhưng thày nói điều này cho con vì điều quan trọng cho sự tăng triển của con ở mức này là con cũng kinh qua một số bài tập đó trong tâm ý thức của con.

Điều thày cần con nhận ra ở mức này là sự tăng trưởng của con có hai yếu tố, Alpha và Omega. Yếu tố Alpha tất nhiên là con đạt tới điểm con biểu hiện sự sáng tạo của con từ bên trong, từ Hiện diện TA LÀ của con. Yếu tố Omega là hầu đạt tới điểm đó, con cần nhìn ra một số chuyện trong chính tâm thức con. Và để nhìn ra, thường khi con sẽ cần trải nghiệm một số hoàn cảnh trong thế giới vật chất.

10.6. Tin rằng có những chuyện không tâm linh

Điều này có nghĩa là con có thể thực hiện thêm một cuộc xoay chuyển rất quan trọng trong thái độ của con đối với thế giới vật chất, đối với cõi của Mẹ, trong cách con nhìn thế giới. Có một cái móc vô cùng tinh vi mà hàng ngũ giả hiệu đã tạo ra suốt một thời gian rất dài là ý tưởng rằng trên thế giới có một số thứ không tâm linh, không tinh khiết, một số thứ sẽ không giúp con tăng triển tâm linh.

Các thày đã từng nói là tất cả những gì sa nhân cần làm để làm rối tung mọi thứ trên trái đất là tạo ra ý tưởng rằng:
– Có một chuẩn mực.
– Tất cả mọi thứ đều phải được phán xét theo chuẩn mực.

Sa nhân đã tạo ra chuẩn mực bảo rằng những thứ này là tâm linh và những thứ kia không tâm linh. Sau đó chúng phóng chiếu ý tưởng là nếu con là người tâm linh hay người mộ đạo, con cần phải đánh giá mọi thứ trên trái đất theo chuẩn mực này. Thế là con có rất nhiều người tâm linh bỏ ra biết bao năng lực và chú ý để đánh giá mọi công việc mình làm, mọi chuyện mình gặp trong thế giới vật chất. Họ không làm vậy một cách trung hòa mà họ dựa trên sự phán xét giá trị xem cái gì là tâm linh, cái gì không. Và tất nhiên niềm tin nền tảng, hay giả thuyết nền tảng của họ là bất cứ gì mang nhãn hiệu không tâm linh sẽ cản bước tăng trưởng của họ. Đây chính là điều mà hàng ngũ giả hiệu muốn con tin.

Con hiểu là con không còn ở dưới tầng tâm thức 48 nữa, phải không con? Bởi vì nếu không, con đã không ở tầng thứ tư của khóa nhập thất của thày. Có những người ở dưới tầng 48 cần lượng định là có những thứ không tâm linh. Chắc chắn là họ không thể tăng triển tâm linh được nếu họ cứ tiếp tục giết người, ăn cắp hay tham gia những dạng hoạt động tội phạm khác. Có những người cần đến một chuẩn mực bảo rằng: “Chuyện này là không tâm linh, nó sẽ ngăn chặn không cho tôi lên thiên đàng, hay ngăn chặn tôi tiến bước trên đường tâm linh.” Nhưng thày không đang nói đến những người đó.

Thày đang nói về con, là người đã đạt đến tầng thứ tư của Tia thứ Tư trên con đường tự điều ngự. Thày cần con, ngay bây giờ, nhìn lại một lần nữa các chuẩn mực của con về cái gì là tâm linh hay không tâm linh. Mục đích của thày là đưa con tới điểm nhận ra là cho dù hoàn cảnh con phải đối diện ngay bây giờ là gì, con vẫn có thể là người tâm linh, và con vẫn có thể biểu hiện sự sáng tạo và cá thể mà Thượng đế đã ban cho con.

Thày cần con thăng vượt một cái móc tinh vi khác của hàng ngũ giả hiệu, bảo rằng khi nào một số điều kiện vỏ ngoài được hội đủ, thì khi đó con mới có thể thực sự tâm linh. Đây là ảo tưởng mà con cần khắc phục, và con khắc phục bằng cách nhận ra là sự đánh giá, xét đoán một điều kiện hay một hoạt động là tâm linh hay không tâm linh, không phải là cách nhìn cao nhất về sự vật.

Con sẽ không tiến xa hơn điểm này nếu con nghĩ là có một số hoạt động không tâm linh mà con phải tránh né, và có những hoạt động khác tâm linh mà con phải tìm cầu.  Điều thày cần con nhận ra là, ngay bây giờ, bước tiến của con trên đường tu tùy thuộc vào việc con nhìn ra một số điều kiện, một số khuôn nếp, một số khuôn đúc trong bốn thể phàm của con đang hạn chế con biểu hiện sự sáng tạo cũng như quyền năng sáng tạo của con.

Để nhìn thấy chúng, con cần có một số trải nghiệm trong thế giới vật chất. Những điều kiện mà con đối mặt ngay lúc này không phải là kẻ thù của sự phát triển tâm linh của con. Con không cần phải nhìn chúng theo cách đánh giá sơ sài, cách đánh giá trắng đen, cách đánh giá nhị nguyên là chúng có tâm linh hay phản tâm linh. Con cần xem xét chúng và nhận ra các điều kiện đó chỉ là sự biểu hiện của một trạng thái tâm thức nào đó. Chúng cho con một cơ hội để con nhìn thấy một điều gì đó về chính con dựa trên cách con phản ứng lại các điều kiện đó.

Con có thể đang đối mặt với một hoàn cảnh, mà từ một sự đánh giá trắng đen bề ngoài, con sẽ cho là có những điều không được tâm linh, không được trong sạch. Cho đến giờ, có thể con đã cố tránh né chúng, bác bỏ chúng, chối từ chúng, chạy trốn khỏi chúng. Điều thày cần con làm là xoay chuyển và nói: “Những điều kiện này thật ra đang có ý dạy tôi điều gì? Tôi đang phản ứng lại chúng như thế nào? Phản ứng của tôi nói lên điều gì về những tin tưởng, những cảm nhận của tôi, về cách tôi nhìn chính mình trong quan hệ với thế giới vật chất?”

10.7. Khía cạnh Alpha và Omega của bản sắc

Những gì con mang trong thể bản sắc có một khía cạnh Alpha và một khía cạnh Omega. Khía cạnh Alpha nằm trong phần cao của thể bản sắc, là cái nhìn từ ngay bên dưới cá thể trong Hiện diện TA LÀ của con. Nhiều người không thể nhìn thấy nó một cách ý thức vì nó bị che khuất bởi khía cạnh Omega của bản sắc. Cái Omega này là ý niệm bản sắc mà con đã xây đắp suốt nhiều kiếp đầu thai trên địa cầu.

Ý niệm bản sắc này là cách con nhìn bản thân con trong quan hệ với thế giới vật chất, với cõi Mẹ. Đây là bản sắc mà con cần phát hiện, phơi bày, tra vấn, nhìn thấy là nó không thực, và dần dần thăng vượt nó. Đây là bản sắc khiến con tin rằng bởi vì con ở trong một cơ thể vật lý, bởi vì con ở trong hoàn cảnh này kia nọ, con không thể bày tỏ cá thể đích thực và sự sáng tạo đích thực của con. Chắc chắn là con có một số khuôn nếp trong cảm thể, một số tin tưởng trong trí thể, cũng chặn nghẽn sự sáng tạo của con. Chúng ở một mức thấp hơn ý niệm bản sắc bảo con có thể làm gì và không thể làm gì, điều gì con được phép hay không được phép làm trong thế gian này. Thày cần con suy ngẫm điều này với tâm ý thức, để qua đó con có thể tận dụng những bài học mà con nhận được ban đêm ở khóa nhập thất của thày.

Người ta nói rằng dưới mắt người trong sạch thì mọi chuyện đều trong sạch, và hẳn câu nói này chứa đựng nhiều sự thật. Nhưng thày sẽ đi một bước xa hơn và nói rằng đối với một người có tâm thức trong sạch, ngay cả sự lượng định trong sạch hay không trong sạch cũng tan biến mất. Con không nhìn vào đời mình, vào các điều kiện, rồi bảo: “Ồ, cái này ô uế, tôi muốn tránh.” Thay vào đó, con nói: “Nhất định phải có lý do khiến điều kiện này biểu hiện trong đời tôi, nhất định phải có điều gì tôi cần học hỏi từ đó.”

Điều này không có nghĩa là con ôm lấy điều kiện đó, mà con ôm lấy bài học. Thay vì chạy trốn khỏi điều kiện và như vậy cũng chạy trốn khỏi bài học, con ôm lấy bài học, con đón nhận bài học. Có nhiều người tâm linh, hầu khắc phục một giới hạn trong tâm lý mình, cần phải đi một số bước, cần kinh qua một số trải nghiệm có vẻ phản tâm linh hay ô trược từ góc nhìn trắng đen. Nhiều người trong số các con sẽ có thể nhìn vào đời mình và nhận thấy là con đã trải qua một số tình huống hoặc ô trược, không tâm linh và đau đớn, hoặc khiến cho bây giờ con phải vô cùng xấu hổ.

10.8. Nguyên nhân của cảm nhận nhục nhã 

Con đã cảm thấy nhục nhã bởi những điều kiện đó nhưng nếu con sẵn lòng xoay chuyển như thày vừa nói, con có thể khắc phục những cảm giác đó và hiểu ra là con đã phải kinh qua chúng hầu khắc phục một điều gì đó bên trong con. Có thể có một bài học mà con đã phải học liên quan đến một tin tưởng về những gì con có thể hay không thể làm trong thế gian này. Cũng có thể con cần bị nhục để khắc phục một niềm tự hào.

Nhiều người tâm linh được hưởng động lượng đáng kể khi họ thành công trong thế giới vật chất. Chẳng hạn có nhiều người trong một tiền kiếp đã được ưu đãi, đã thuộc một tầng lớp ưu tú ưu đãi. Con đã giàu có, đã sinh ra trong một gia đình danh giá quyền lực, hay con đã từng giữ chức vụ và điạ vị trong xã hội khiến con không phải nếm mùi một số điều kiện mà những người gọi là tầm thường phải trải qua.

Do đó, có thể con đã cảm thấy thật nhục nhã phải trải qua các điều kiện đó, nhưng tại sao con lại cảm thấy như vậy? Là vì con đã tạo dựng một niềm tự hào cho rằng mình phần nào tốt hơn mọi người do vị thế ưu đãi của mình. Thày không đang bảo là đa số người tâm linh đều là sa nhân, nhưng sự thật là nhiều người trưởng thành về mặt tâm linh đã đầu thai trong những gia đình có sa nhân trong đó, và lý do là để cho người tâm linh có thể học hỏi cũng như để cho sa nhân có cơ hội chứng kiến một cách tiếp cận khác về cuộc đời. Thật là quá dễ khoác vào niềm tin vi tế của sa nhân cho rằng bởi vì con có địa vị ưu đãi trong xã hội, thì con cũng tốt hơn người khác, và do đó có những chuyện xấu xa mà con không phải tiếp xúc.

Nếu con tiếp xúc với những điều kiện đó, con sẽ cảm thấy nhục nhã. Và nếu đó là trường hợp của con, thày yêu cầu con xét xem liệu toàn bộ mục đích là để con có cơ hội khắc phục niềm tự kiêu của mình và bỏ nó lại đằng sau? Có một lý do khác cũng có thể xảy ra khi con trải nghiệm một số điều kiện nhục nhã hay gây hạn chế. Có thể là con phải nhìn ra một khuôn nếp trong tâm lý của con, có thể con phải vượt qua lòng tự kiêu, hay cũng có thể là con muốn đạt tới điểm biểu hiện được sức mạnh ý chí mà con đã không biểu hiện trong những kiếp trước.

10.9. Biểu hiện một sức mạnh ý chí cao hơn

Khi thày nói là con phải có một số trải nghiệm cho đến khi con chán ứ, thì câu này có những khía cạnh khác nhau. Có những trải nghiệm liên quan đến cơ thể đem lại cho con cảm giác thích thú. Hầu hết mọi người sẽ thấy là suốt mấy kiếp sống, họ đã phải nếm những trải nghiệm này tới một mức nào đó trước khi họ bắt đầu chán ngấy, không còn dính mắc những loại ham muốn thể xác như vậy nữa. Có một trình độ cao hơn, là có một số điều kiện mà con trải nghiệm với mục đích đạt tới mức con lấy quyết định ý thức: “Thế này là đủ rồi, tôi không muốn trải nghiệm chuyện này thêm nữa.”

Chính sứ giả này đã có trải nghiệm trong những năm gần đây là ông nhận ra ông đã tin sai lầm là vai trò của ông nhằm giúp đỡ tất cả những ai tuyên bố có quan tâm đến đường tu tâm linh, thậm chí cả những người đã từng là sa nhân, hay đã có một cái nhìn vô cùng tiêu cực về cuộc sống cũng như về chính họ. Rồi ông nhận ra lý do ông đã thu hút những loại người như vậy là vì ông cần biểu hiện sức mạnh ý chí để nói rằng: “Thôi đủ rồi, tôi không muốn những loại người này trong đời tôi nữa.” Có thể con cũng đối mặt với một khai ngộ tương tự dưới một ngụy trang và y phục bên ngoài khác hơn. Điều quan trọng là con suy ngẫm xem trong đời mình có chăng những điều kiện mà con thu hút hết lần này tới lần khác, chỉ vì một nguyên do duy nhất là con chưa lấy quyết định chắc chắn là con không muốn dính dáng đến điều kiện đó nữa.    

Dĩ nhiên, điều có thể cần thiết là sau đó con nhìn vào bản thân và nói: “Đâu là tin tưởng đang thu hút điều kiện này về tôi, khiến tôi cảm thấy như mình bị bắt buộc, như mình phải làm, hay phải phản hồi?” Trong trường hợp sứ giả này, ông đã nhận ra là ông tưởng ông phải có khả năng giúp đỡ mọi người. Theo một nghĩa nào đó, đây cũng là một hình thức kiêu ngạo, bởi vì không ai trong chúng ta có thể giúp đỡ mọi người. Không một vị thày tâm linh nào – từ xưa tới giờ và trong tương lai – có thể giúp đỡ mọi người đang đầu thai. Cho dù con là ai đi nữa, sẽ có một số người mà con không thể chạm được. Sứ giả này tưởng là nếu có ai ông không thể giúp được, đó là vì nơi ông có gì đó không ổn. Ông không đủ giỏi, không đủ hiểu biết, không đủ phát triển một số khả năng. Ông liên tục nghĩ rằng chính ông phải tự thay đổi để đáp ứng người khác.

10.10. Thay đổi bản thân để đáp ứng người khác

Đây lại là thêm một cái móc vi tế của sa nhân mà chúng cài đặt vào tâm trí hầu hết mọi người dưới nhiều ngụy trang khác nhau. Chúng khiến con nghĩ là bởi vì con đi trên đường tâm linh và con sẵn lòng cải sửa bản thân, đây là thêm một điều kiện mà con cần tự thay đổi để thích nghi với nó. Con cần phải cong lưng ra để chiều lòng thêm những loại người như vậy, con phải có khả năng giúp đỡ họ hay thực hiện một việc gì đó trong thế giới vật chất.

Trong nhiều trường hợp, khai ngộ ở đây là con phải đạt tới điểm có thể nói: “Nhưng tôi không muốn làm chuyện này. Chuyện này không thuận với mong muốn cao hơn về những gì tôi muốn biểu đạt trên địa cầu. Tôi không muốn xử lý những loại người này. Tôi không muốn thay đổi bản thân để chiều lòng những người không sẵn lòng tu tập, không sẵn lòng xem xét chính mình. Họ tìm cách thay đổi tôi để tránh không phải thay đổi chính họ, và tôi không chấp nhận nữa. Tôi không sẵn lòng tự thay đổi để đáp ứng những người không sẵn lòng tự thay đổi. Tôi sẽ tự thay đổi, và tôi tự thay đổi ngay bây giờ bằng cách quyết định một cách ý thức là tôi không muốn những người này trong đời tôi. Tôi thay thế tin tưởng rằng tôi phải tự thay đổi để đáp ứng họ bằng nhận biết là tôi có quyền là con người mà tôi là, có quyền biểu hiện cá thể mà Thượng đế đã ban cho tôi cho dù họ có nghĩ gì đi nữa.”

Sự thật muôn đời là đệ tử tâm linh có thể chia đại khái làm hai loại. Có những đệ tử rất tự tin, họ thường có một niềm tự hào và một cảm nhận rằng mình biết giỏi hơn thày là thày phải dạy mình như thế nào. Những đệ tử như thế rất khó cho vị thày tâm linh giúp đỡ.

Xong có loại đệ tử kia thì vô cùng khiêm tốn, cởi mở đón nhận sự hướng dẫn của thày, cởi mở với nhu cầu thay đổi bản thân. Họ rất “khả huấn” nhưng chỉ tới một mức mà thôi, vì sẽ tới một điểm khi họ không thể tiến bộ được bằng cách đi theo thày. Họ phải bắt đầu tự lấy quyết định, họ phải quyết định là họ muốn gì và không muốn gì trong đời mình.

10.11. Tất cả mọi thứ đều tâm linh

Có thể sẽ rất ích lợi nếu con nhìn vào đời con, nhìn cách con lượng định điều gì là tâm linh hay không tâm linh, và nhận ra là khi mục đích thực sự là tăng triển thì chẳng có gì trên địa cầu mà ô trược hay không tâm linh. Nếu con cần một trải nghiệm nào đó để nhìn ra điều gì đó về bản thân thì trải nghiệm này không phản tâm linh.

Thày cũng cần con nhìn vào chuẩn mực đó về tâm linh và nhận ra là hàng ngũ giả hiệu đã dùng nó để khiến nhiều người chú tâm vào việc tránh né một cái gì. Hãy lấy một ví dụ điển hình: tình dục. Biết bao người tâm linh có đủ loại tin tưởng rằng tình dục không tâm linh, rằng một số dạng tình dục không tâm linh, hay một số sinh hoạt tình dục không tâm linh.

Các con đã có nền văn hóa tu viện cổ xưa, qua đó người tu hành phải hoàn toàn tránh quan hệ tình dục, như ngay cả Giáo hội Công giáo cũng cấm đoán linh mục kết hôn. Thày không quan tâm việc con có quan hệ tình dục hay không, mà điều thày quan tâm là liệu con có để cho quan hệ tình dục chiếm quá nhiều chú ý mà con có thể sử dụng để tăng trưởng tâm linh. Con có thấy thày muốn nói gì không?  

Nếu con nghĩ tình dục là chuyện ô uế và con tự buộc mình phải tránh quan hệ tình dục, con đang tạo ra một sự căng thẳng trong tâm sẽ khiến con sao lãng việc tăng trưởng tâm linh. Nếu con nghĩ tình dục là ô uế hay một số dạng tình dục là ô uế, và con không ngừng đánh giá tình dục trong khi vẫn có quan hệ, thì một lần nữa sự chú ý của con lại bị vướng bận.

Điều thày cần con ngộ ra là cho dù đó là tình dục hay một hoạt động thể xác nào khác, tự thân hoạt động này không có gì ô uế. Điều con cần làm là đạt tới điểm con đơn giản lấy một quyết định. Thày không có vấn đề gì khi đệ tử nói: “Con mong muốn trải nghiệm tình dục” rồi sau đó con trải nghiệm một cách có trách nhiệm mà không làm tổn hại đến bản thân hay người khác. Như vậy con không để cho nó chiếm giữ sự chú ý của con.

Đó chỉ là một việc con làm nhưng nó không lôi cuốn sự chú tâm của con. Nó không khiến con ở trong tình trạng xáo trộn tình cảm liên tục, không ngừng tranh luận với chính mình là chuyện này có chấp nhận được không. Nó không khiến con tự hỏi: “Ồ, không biết mình có là người tâm linh hay không khi mình lại làm chuyện này, hay là mình không nên làm?” Thày cần con đạt tới điểm không còn căng thẳng nào nữa liên quan đến các hoạt động thể xác mà con tham gia. Con cứ việc tham gia, con thưởng thức và con vui hưởng kinh nghiệm, và sau đó con lại tập trung phần lớn chú ý của mình vào những công việc khác.

Thày vừa cho con một bài giảng thật dài, đó là vì tầng thứ tư ở khóa nhập thất của thày lại là một tầng nữa mà con thật sự không thể tiến bước cho tới khi con có sự đột phá. Thày biết là các thày khuyên con học từng bài hay đọc từng bài thỉnh mỗi ngày một lần và liên tục trong chín ngày. Điều có thể vô cùng xây dựng là con đọc bài thỉnh cho tầng thứ tư này nhiều hơn chín ngày, đọc đi đọc lại bài giảng này, suy ngẫm những gì thày đã nói, lập ra các danh sách hay ít nhất quán chiếu những điều kiện và những gợi ý thày vừa trao cho con.

Thày muốn con không đặt ra giới hạn trong thời gian con sẽ học tập bài này. Con hãy tiếp tục cho đến khi con có thể cảm thấy một cách trung thực: “Bây giờ tôi đã sẵn sàng bước tiếp.” Thày không nói cho con biết con cần làm bao lâu. Có thể là chỉ một ngày, có thể là chín, có thể là nhiều hơn. Thày chỉ yêu cầu con hòa điệu với thời điểm con cảm thấy trong nội tâm là con đã sẵn sàng.  Thày không yêu cầu con quyết định với tâm vỏ ngoài. Thật ra, thày yêu cầu con ý thức là tâm vỏ ngoài của con có thể muốn con hoàn tất bài học nhanh chóng do niềm kiêu ngạo, hay là nó có thể muốn kéo dài bài học ra do kiêu ngạo giả dối, khiêm tốn giả hiệu. Con hãy tập tành bài này cho tới khi con biết rõ từ bên trong: “Giờ đây tôi đã sẵn sàng,” xong con hãy bước tới tầng khai ngộ thứ năm.

Serapis Bey TA LÀ.   

8 | Từ ý định dựa trên sợ hãi sang ý định dựa trên tình thương

Bài giảng của chân sư thăng thiên Serapis Bey qua trung gian Kim Michaels, ngày 4/1/2016.

TA LÀ chân sư thăng thiên Serapis Bey. Con có thể chờ đợi những gì khi con đến tầng thứ ba tại khóa nhập thất của thày, là tầng nơi con gặp sự phối hợp của Tia thứ Tư của Tinh khiết với Tia thứ Ba của Tình thương? Dĩ nhiên, con có thể chờ đợi gặp được tình thương của thày.

Điều này phần nào đặt ra một vấn đề cho một số đệ tử của chân sư thăng thiên đã nhìn Tia thứ Tư từ một nhãn quan nào đó, và cũng nhìn thày như một vị thày kỷ luật nghiêm khắc. Như thày đã có nói, thày không nghiêm khắc và thày cũng không kỷ luật bất cứ ai. Ở tầng thứ ba, học trò nào mà chưa buông bỏ hình ảnh này về thày, cần làm điều này trước khi con có thể thực sự bắt đầu các khai ngộ ở tầng này. Tất nhiên thày sẽ giúp con làm điều đó, một phần bằng cách nói chuyện với con, phần khác chứng tỏ là thày cũng là một vị thày của tình thương giống như mọi Thượng sư khác.

8.1. Tại sao con không cần sợ các chân sư

Như các thày đã nói nhiều lần, con không thể trở thành một chân sư thăng thiên khi con còn bất kỳ loại sợ hãi nào trong bản thể mình. Con trở thành một chân sư thăng thiên bằng cách vươn lên tới mức tâm thức nơi con là cánh cửa mở cho dòng tình thương chảy xuống từ cõi thăng thiên. Không thể có sợ hãi trong tâm một chân sư thăng thiên.

Hiển nhiên có nhiều người trên địa cầu sợ gặp một chân sư thăng thiên hay một thiên thần. Con có thể thấy trong Kinh thánh có nhiều đoạn khi thiên thần hiện ra trước một người, thiên thần sẽ nói “Đừng sợ”, vì người đó mang lòng sợ hãi đối với mọi chuyện dị thường. Nhiều học trò của chân sư có thể mang lòng sợ hãi là họ không thể giấu giếm bất cứ gì khỏi mắt thày. Như thày đã nói, khi con ở khóa nhập thất của thày, tất nhiên là con không thể giấu gì với thày. Nhưng một lần nữa, nếu con ở khóa tu của thày với ý định cất bước trên đường khai ngộ mà thày cống hiến, tại sao con lại muốn che giấu bất cứ gì khỏi thày?

Điều thày muốn chứng tỏ cho con là cho dù thày có thấy gì trong tâm thức của con, thày vẫn thương yêu con, vẫn giúp con khắc phục và vượt khỏi điều kiện đó hoàn toàn. Như thày có giảng, mức thứ tư là cái lỗ kim, và Tia thứ Tư tượng trưng cho điểm trong khóa tự điều ngự mà con không thể bước xa hơn cho đến khi con thanh tẩy ý định của mình. Khi nói “thanh tẩy ý định của mình”, dĩ nhiên các thày muốn nói đến một vài điều. Nhu cầu thanh tẩy nền tảng là con cần thanh tẩy ý định của mình cho không còn ý định nào xuất phát từ lòng sợ hãi, và vươn tới mức con chỉ còn lại những ý định xuất phát từ tình thương.

Để làm được điều này, tất nhiên con phải sẵn lòng xem xét những ý định dựa trên sợ hãi mà con đang có. Nếu con sợ là thày sẽ lên án con nếu thày nhìn thấy ý định loại đó nơi con, thì hiển nhiên con không thể xem xét chúng. Con sẽ tìm cách che giấu chúng khỏi chính con, tưởng rằng nếu con có thể che giấu khỏi chính mình thì con cũng sẽ che giấu được với thày. Hiển nhiên là không phải vậy. Con có thể giấu một số chuyện với chính con, nhưng con không thể giấu được với thày, vì lý do giản dị là thày không có lòng sợ hãi nơi thày, và do đó không có gì mà một điều gì đó có thể lẩn trốn đằng sau.

8.2. Lòng sợ hãi che giấu như thế nào

Con thấy chăng là chỉ có sợ hãi mới dựng lên một bức tường để con giấu cái gì đó đằng sau? Làm thế nào sợ hãi lại tạo ra một bức tường che giấu? Thật ra sợ hãi không hình thành một bức tường, sợ hãi không có chất gì có khả năng che chắn. Nhưng sợ hãi khiến con không sẵn lòng nhìn vào một điều gì đó. Và tất nhiên khi con không sẵn lòng nhìn vào thì điều đó sẽ nằm ẩn giấu khỏi tâm ý thức của con, có phải không? Không có một chất nào có thể che chắn được mắt con nếu con thực sự sẵn lòng nhìn vào.

Đây cũng là tại sao con không có gì phải sợ khi con nhìn vào một điều gì đó trong tâm lý mình. Con sẽ khắc phục nỗi sợ bằng cách nhìn vào nó. Thật ra cách duy nhất để khắc phục sợ hãi là nhìn vào nó, là nhìn xa hơn cái con sợ để thấy nó không đến nỗi tồi tệ như con tưởng, và nó không thể ngăn con tiến bước trên đường tu.

Điều các sa nhân đã làm là trao cho con nỗi sợ là nếu con xem xét một số điều trong tâm thức và tìm thấy một số khía cạnh của tâm thức sa ngã trong tiềm thức mình, thì chân sư sẽ chối từ con và con không thể tiến xa hơn trên đường tu. Không có gì xa hơn sự thật. Nào các thày có bao giờ bảo con phải thanh lọc mọi ô uế khỏi tâm thức mình trước khi con có thể trở thành học trò của chân sư thăng thiên đâu?

Con thử nghĩ đi. Thày là Thượng sư của Tia sáng thứ Tư của Tinh khiết. Vai trò của thày là gì? Là giúp học trò áp dụng Tia thứ Tư tiêu trừ bợn nhơ của mình. Nếu con không có bợn nhơ thì tại sao con lại cần thày giúp? Toàn bộ công việc của thày trong vai trò Thượng sư chỉ nhắm tới việc giúp mọi người khắc phục bợn nhơ của họ. Làm sao thày có thể được việc nếu thày cứ liên tục phán xét và kích bác học trò về tội họ mang những bợn nhơ mà thày đang cố giúp họ khắc phục? Thật chẳng nghĩa lý gì khi con suy nghĩ một chút, nhưng đương nhiên sa nhân sẽ tìm cách ngăn con suy nghĩ để con trốn đằng sau nỗi sợ hay con giấu bợn nhơ đằng sau nỗi sợ.

Thật ra con có thể che giấu bợn nhơ của con khỏi các thày giả trong hàng ngũ giả hiệu. Lý do là thày giả cũng có sợ hãi nơi họ. Cho nên những gì con không nhìn thấy, thì trong một số trường hợp, họ cũng không nhìn thấy nếu họ đã không sẵn lòng xem xét nơi bản thân họ. Thày hy vọng con sẽ nhận ra là tất cả mọi sa nhân và mọi thày giả đều có lòng sợ hãi trong sinh thể họ.

Một sinh thể càng có vẻ có nhiều quyền lực và khả năng kiểm soát thì sẽ càng mang nhiều sợ hãi trong sinh thể của y. Tại sao con lại cần kiểm soát chứ? Để con có thể sống với nỗi sợ hãi của con! Nỗi sợ càng lớn thì con càng cần phải kiểm soát để sống được với nó. Con cần suy ngẫm điều này với tâm ý thức. Con cần quan sát thế giới và nhìn xem các nhà lãnh đạo suốt lịch sử và ngay cả bây giờ, đã cai trị người dân với bàn tay sắt đá như thế nào – nếu có thể nói như vậy – và đã cố tình gieo rắc sợ hãi như thế nào trong lòng những ai theo họ. Họ làm vậy vì chính họ sợ hãi.

Con yêu dấu, con đang đi trên đường tu tự điều ngự, con không thể cho phép mình sợ hãi một ai trong thế giới vật lý hay ngay cả trong ba tầng cõi kia. Nếu con tha thiết đi theo chân sư thăng thiên, con không thể cho phép mình cũng đi theo một người thày dựa trên sợ hãi. Như thày đã từng nói, thật không có gì sai trái nếu con quyết định hay nhận ra là mình muốn có trải nghiệm đi theo một người thày dựa trên sợ hãi mà con có thể che giấu một số khía cạnh của tiềm thức mình. Nếu con cần trải nghiệm đó, thày sẽ tôn trọng quyền tự quyết của con, nhưng tất nhiên khi đó thày sẽ không thể giúp con, và cũng không ích gì con ở lại trong khóa nhập thất của thày. Nhưng thày sẽ không lên án con, thày sẽ không giận con. Thày sẽ đơn giản sẵn sàng đón con trở lại khi nào con chán ngấy trải nghiệm đó và mong muốn một vị thày dựa trên tình thương. Chân sư thăng thiên là những vị thày hoàn toàn dựa trên tình thương. Các thày không có nhu cầu kiểm soát con vì các thày không sợ hãi con hay bất cứ gì khác.

8.3. Phát hiện những ý định dựa trên sợ hãi

Con hãy suy nghĩ thật kỹ về điều này, vì công việc mà thày cần con làm một cách ý thức – song song với việc ban đêm trong các thể thanh cao, con bước theo các khai ngộ ở tầng thứ ba tại nhập thất của thày – chính là con nhìn vào đời mình, nhìn thế giới, và xét xem những ý định nào của con xuất phát từ sợ hãi. Nếu con nhìn thế giới ngày nay, con sẽ thấy tuyệt đại đa số mọi người đều có toàn bộ ý định của họ dựa trên sợ hãi.

Các sa nhân thật thiện nghệ trong việc sử dụng lòng sợ hãi nơi bản thân chúng để kiểm soát người khác. Có thể nói đó chính là một định nghĩa về sa nhân. Thày có nói là nhiều sa nhân đã sa ngã trong một bầu cõi trước, và theo một nghĩa nào đó, kinh nghiệm này đã dạy cho chúng cách sử dụng lòng sợ hãi, sử dụng chính những nỗi sợ của chúng để kiểm soát người khác mà không phải khắc phục những nỗi sợ này. Chúng vẫn mang sợ hãi nhưng chúng đã học được cách sử dụng sợ hãi để điều khiển người khác. Tất nhiên là chúng đang làm điều mà thày đã có giảng, là sử dụng một khả năng tự điều ngự nào đó để tự chủ. Bề ngoài chúng có vẻ làm chủ được bản thân, nhưng đây không phải là tự điều ngự đích thực.

Sa nhân giỏi làm cho con cảm nhận là con đang sống trong một thế giới mà con phải sợ hãi. Nỗi sợ này khoác vô số những hình dạng khác nhau. Và tất nhiên, có thể nói là cơ sở của nỗi sợ này là những điều kiện mà con chứng kiến trong cõi vật chất trên địa cầu. Như thày có nói trong bài giảng trước, sa nhân đã định ra một số định luật phụ thuộc của tự nhiên, vì đây là một bầu cõi chưa thăng thiên. Cho nên chúng đã định ra một số định luật, một số điều kiện mà dưới mắt hầu hết mọi người sẽ gây ra một nỗi khó khăn, một thử thách, một chướng ngại, một đối nghịch, một đe dọa. Thày không bảo là, chẳng hạn, bệnh tật không phải là một thực tế, dù là tạm thời, trên hành tinh này. Thày cũng không bảo là nguy cơ chiến tranh xung đột không có thật hay không hiện hữu.

Điều thày muốn nói là các sa nhân đã thành công trong việc khiến cho nhân loại đồng-sáng tạo những điều kiện mà con chứng kiến trong vũ trụ vật chất. Rồi sa nhân đã sử dụng những điều kiện này để gieo rắc lòng sợ hãi trong quần chúng, khiến hầu hết mọi người bỏ ra cả đời mình để thi hành các ý định xuất phát từ sợ hãi. Đa số bỏ ra toàn bộ sức lực của mình để tìm cách bù đắp phần nào những nỗi sợ này, tìm cách khuây khỏa những nỗi sợ này để họ có thể sống chung với chúng. Như câu thành ngữ quen thụôc, tất nhiên đây không phải là cách sống đời mình, ít ra dưới nhãn quan của một chân sư thăng thiên.

Tuy nhiên, đây là một cách sống cho những ai đã không nhận lãnh trách nhiệm về bản thân cũng như về trạng thái tâm mình. Họ đã sẵn có một cái cớ ngay trong các điều kiện của vũ trụ vật chất để cảm thấy là mình không cần nhìn vào những nỗi sợ của mình. Họ không cần nhận lãnh trách nhiệm, họ không cần chấp nhận là họ có quyền năng vươn lên cao hơn, không những nỗi sợ mà cả những điều kiện mà họ sợ. Nếu con không muốn nhận trách nhiệm về bản thân, con cần một lý cớ để làm vậy. Và sa nhân đã cung cấp gần như vô số lý cớ như vậy qua lòng sợ hãi các điều kiện trong thế giới vật chất.

Khi con kinh qua các khai ngộ ở tầng thứ ba của khóa nhập thất của thày, và trong khi con đọc bài thỉnh mỗi ngày, thày cần con nhìn một cách ý thức vào các ý định của mình. Thày cần con xem xét đã có bao nhiêu chuyện con đã làm và đang làm trong đời mình, nhằm hoặc bảo vệ bản thân khỏi một số điều kiện mà con sợ rồi bù đắp cho chúng, hoặc làm dịu bớt lòng sợ hãi đối với chúng hầu con có thể sống chung với chúng.

Thày cần con, nếu có thể, lập ra một danh sách. Đây có thể là một danh sách trong đầu hay một danh sách viết trên giấy – thày để con tùy ý. Con cần lập ra một loại danh sách ghi lại những ý định dựa trên sợ hãi mà con đã từng hành sự trong đời con cũng như con đang hành sự ngày hôm nay. Xong thày cần con lập một danh sách khác là những ý định mà con đang có hay muốn có nếu con không có sợ hãi.

8.4. Nguyên nhân gây sợ hãi là các điều kiện nội tâm

Con hiểu là con không thể đạt được tự điều ngự nếu toàn bộ đời con bị nuốt trọn trong nỗ lực nhằm bảo vệ bản thân khỏi các điều kiện trong vũ trụ vật chất hay bù đắp cho chúng. Con không thể tự điều ngự nếu toàn bộ đời con nhằm bù đắp hoặc làm dịu bớt những nỗi sợ mà con có. Tự điều ngự chỉ có thể đạt được bằng cách thăng vượt những nỗi sợ mà con có.

À con yêu dấu, thày biết là ở mức này, rất nhiều đệ tử của thày phải đối mặt với một vấn đề cụ thể do sa nhân tạo ra ở một mức độ nào đó, hay ít ra do chúng quy định. Nhiều đệ tử đến với thày khi họp nhóm tại nhập thất của thày ở tầng thứ ba, và họ nói: “Nhưng Serapis Bey, chúng con vẫn còn đang hiện thân trong cõi vật lý. Chúng con hiểu là thày như một chân sư thăng thiên không sợ các điều kiện trên địa cầu như chiến tranh, bệnh tật hay nghèo đói. Chúng con hiểu chuyện này, nhưng liệu thày chẳng thấy là chúng con vẫn đang đầu thai và chúng con có nguy cơ trải qua những điều kiện đó hay sao? Chúng con tưởng là khi mình đạt được tự điều ngự, mình cũng sẽ đạt được tâm làm chủ vật chất hầu né tránh những điều kiện đó ở cõi vật lý, nhưng bây giờ chúng con hiểu ra – và thày cũng đang bảo vậy – là chúng con chưa có được khả năng tự điều ngự này, và rất có thể chúng con sẽ không có ngay cả khi hoàn tất khóa tu. Vậy làm sao chúng con có thể khắc phục sợ hãi khi không thể thay đổi điều kiện vật lý?”

Con yêu dấu, thày hiểu hoàn toàn tại sao con phải đối mặt với chuyện dường như khó xử này. Chính thày cũng từng đối mặt với nó khi còn hiện thân, y như mọi chân sư thăng thiên khác. Thế nhưng thày đã thăng thiên khỏi địa cầu và các chân sư khác cũng vậy. Làm thế nào thày đã thăng thiên? Vì thày nhận ra chìa khóa để khắc phục sợ hãi không phải là loại bỏ các điều kiện bên ngoài mà là làm việc trực tiếp trên nỗi sợ bên trong.

Sợ hãi không do điều kiện bên ngoài gây ra. Sợ hãi là do một điều kiện bên trong, một quyết định nào đó trong tâm con. Khi con bước vào tâm thức nhị nguyên, con cũng bước vào cõi của sợ hãi. Sợ hãi là người bạn đồng hành không thể tránh khỏi của tâm thức nhị nguyên và tách biệt. Tại sao như thế? Bởi vì bản chất của nhị nguyên chính là sự kiện con có một cái gì đó phản ứng với con mà sau đó con phản ứng lại.

8.5. Cuộc đời như một trận quần vợt

Như thày đã chỉ cho sứ giả này thấy, cuộc sống trong thế giới vật lý có thể ví như một trận đấu quần vợt. Nếu con đứng trên sân quần vợt với một chiếc vợt và một bộ banh, con có thể đánh banh sang bên kia sân, nhưng con có thể đánh như vậy được bao nhiêu lần nếu trái banh không trở lại? Con có thể học được gì về môn quần vợt nếu không có đấu thủ nào bên kia sân đánh banh lại cho con? Tất nhiên con có thể chọn không bước vào sân quần vợt, nhưng thật không có gì sai trái nếu con bước vào sân và bảo: “Tôi mong muốn trải nghiệm trò chơi quần vợt, thậm chí trở thành một cao thủ đạt tới mức điêu luyện, một mức điều ngự nào đó.” Chuyện bước vào nhị nguyên cũng không có gì nghiêm trọng hơn một trận đấu quần vợt, bất chấp toàn bộ tư duy cuồng đại dựa trên sợ hãi mà sa nhân quảng bá.

Từ một nhãn quan không sợ hãi, nhị nguyên chỉ là một trò chơi. Nó mang lại cho con một trải nghiệm nào đó, và con có thể đạt được một mức độ thành thạo nào đó khi con chơi trò này. Nhưng tất nhiên từ nhãn quan không sợ hãi đó, mục đích chơi trò nhị nguyên không nhằm đạt đến điêu luyện trong trò nhị nguyên, mà đạt đến điểm khi nó cho con một khả năng điều ngự cái ta để con có thể nói: “Thôi, tôi đã quá đủ trải nghiệm này rồi. Nó đã dạy tôi nhiều hơn về con người mà tôi là hay không là, và giờ đây tôi sẵn sàng bỏ trò chơi lại đằng sau.”

Con cần bắt đầu suy ngẫm một cách ý thức về những ý tưởng vừa rồi, bởi vì chắc chắn một trong những nỗi sợ vi tế nhất do sa nhân thúc đẩy là cái mà các thày gọi là tư duy cuồng đại. Tư duy này bảo rằng cuộc đấu tranh giữa hai thế lực của ánh sáng và bóng tối là một công cuộc trọng đại hàng đầu, và những gì con làm khi con chơi trò này – hay đúng hơn, khi con tham gia vào thực tế giả tưởng này – hệ trọng không thể tưởng tượng nổi.

Con cần đạt tới điểm nhận ra là không có gì xảy ra trên trái đất có tầm quan trọng như sa nhân quả quyết. Nếu con không nhận ra điều này, con sẽ không thể buông bỏ rất nhiều ý định vi tế đã được sa nhân tạo dựng dựa trên cuộc chiến cuồng đại giữa thiện và ác. Thày đã nói điểm này rồi và thày nói lại một lần nữa. Mục đích của các chân sư thăng thiên không phải là để đệ tử giao chiến với sa nhân. Mục đích của việc tự điều ngự không phải là để con có khả năng đánh bại sa nhân, đánh bại các thế lực của bóng tối đang gây ra đủ loại tệ nạn tàn ác trên trái đất. Khi nào con còn nghĩ đó là mục đích của mình, khi nào con còn có ý định đạt được loại quyền năng đó để đánh bại thế lực bóng tối, thì ý định của con vẫn dựa trên sợ hãi.

Con không cần đánh bại các thế lực bóng tối mà con cần đem lại ánh sáng. Con không thể là cánh cửa mở cho ánh sáng khi con còn có lòng sợ hãi trong con và chưa sẵn sàng nhìn vào những điều kiện trong chính tâm con. Làm thế nào để cuối cùng con khắc phục được nỗi sợ những điều kiện trên trái đất? Con sẽ không khắc phục được nỗi sợ bằng cách thay đổi các điều kiện, bằng các tiêu diệt, xóa bỏ chúng hay bằng cách bảo vệ bản thân mình khỏi chúng. Bất kỳ sự bảo vệ nào mà con tìm kiếm trên địa cầu, bất cứ sự bảo vệ vật chất nào, cũng sẽ trở thành nhà tù giam con lại. (Ở đây thày đang nói đến bảo vệ vật lý, vì bảo vệ tâm linh thì khác).

Những nhà quyền quý thời Trung cổ ngồi trong lâu đài kiên cố đã bị giam cầm trong lâu đài của họ. Những ai mặc áo giáp tuy được bảo vệ nhưng cũng bị giam trong cái hộp sắt, và thày có thể cam đoan với con đó không phải là một cảm giác dễ chịu. Con không khắc phục sợ hãi bằng cách loại bỏ điều kiện con sợ. Con chỉ khắc phục sợ hãi bằng cách đi vào nỗi sợ, nhìn ra là nó không có thực thể, nhìn ra quyết định mà con đã lấy khiến con tin nó có thực thể, và con tháo gỡ điều kiện đó đi.

8.6. Ý định dựa trên sợ hãi không thể khắc phục sợ hãi

Con yêu dấu, tới đây là sự ngộ ra một điều cốt yếu: Khắc phục sợ hãi không thể xảy đến qua một ý định dựa trên sợ hãi. Nếu ý định của con dựa trên sợ hãi, con không thể khắc phục sợ hãi. Cho nên một lần nữa, con lại phải đối mặt với một tình thế có vẻ khó xử, một tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Nhưng tất nhiên, nó chỉ khó xử vì con nhìn nó từ một tâm trạng sợ hãi.

Đó là tại sao các khai ngộ mà con đối mặt ở tầng thứ ba tại nhập thất của thày nhằm giúp con phát huy một ý định dựa trên tình thương. Con có thể tự giúp mình bằng cách suy ngẫm điều này trong tâm ý thức. Ở tầng này, các thày làm rất nhiều việc nhằm giúp con khắc phục lòng sợ hãi nơi bản sắc thể, trí thể và cảm thể của con. Con chỉ có thể hoàn tất công việc bằng cách con cũng nhìn vào nỗi sợ với tâm ý thức của mình.

Con cần nhận ra điều thày vừa nói, rằng mục đích là khắc phục sợ hãi, nhưng con không thể khắc phục nếu ý định của con dựa trên sợ hãi. Con phải nẩy nở một ý định có ý thức dựa trên tình thương. Con làm điều này bằng cách suy ngẫm xem lý do nào đã thực sự dẫn con đến khóa nhập thất của thày, đã thực sự dẫn con vào con đường tâm linh và khóa tu này. Khi con lập danh sách những ý định xuất phát từ sợ hãi, con có thể thấy có một số ý định đã đưa con đến đường tu tâm linh. Hầu hết đệ tử đều có một số ý định dựa trên sợ hãi khiến họ bước trên đường tu. Họ tìm cách thoát khỏi một cái gì đó. Con tìm cách bù đắp những lỗi lầm mà chính mình đã phạm vào trong quá khứ hoặc những thiếu sót và bất toàn mà mình nhận thức nơi mình. Con tìm cách trở nên toàn hảo đến độ Thượng đế sẽ phải nhận con vào vương quốc cho dù con chưa thực sự chuyển đổi trạng thái tâm thức của con, ý niệm cái ta của con.

Khi con lập danh sách những ý định đó và thấy được là chúng dựa trên sợ hãi, một điều gì sẽ bật sáng trong con. Con sẽ nhận ra là mặc dù những ý định đó có ảnh hưởng đường tu của con, nhưng chúng không hoàn toàn giải thích được tại sao con lại đang bước trên đường tâm linh và tại sao con lại tới được điểm này khi con học cuốn sách này. Con không thể nào bước qua các khai ngộ của ba tia sáng đầu và đến được khai ngộ của Tia thứ Tư nếu ý định của con hoàn toàn xuất phát từ sợ hãi. Thật là không thể.

Đúng ra lòng sợ hãi đã phải khiến con bác bỏ khóa tu này từ lâu rồi, hay đã khiến con nói: “Tôi sẽ nghỉ chân chút xíu để mà tiếp tục sau đó” – cái “sau đó” không bao giờ tới. Khi con suy ngẫm điều này, con sẽ khám phá là có một cái gì con thương yêu về đường tu tâm linh, về các chân sư thăng thiên, về cõi thăng thiên, về ý tưởng tự thăng vượt, về ý tưởng bước đi trên đường đạo. Có cái gì đó mà con yêu thương và cái đó trở thành điểm trụ để con khắc phục những nỗi sợ của mình.

8.7. Tình thương là điểm trụ của con

Hẳn con đã nghe câu nói này của vị cha đẻ của khoa hình học, nhà hiền triết Hy lạp cổ Archimedes: “Hãy cho ta một điểm trụ và một đòn bẩy thì ta sẽ chuyển dời cả vũ trụ.” Cũng vậy, trong một cõi chưa thăng thiên vẫn bị lòng sợ hãi chi phối, chỉ có một điểm trụ mà thôi, đó là tình thương. Khi con có tình thương, con sẽ dời chuyển được vũ trụ. Đồng ý, thày cũng biết là ở mức hiện tại của con, có thể con chưa có đủ tình thương ở một cường độ và hàm lượng để mà chuyển dời vũ trụ. Thày không yêu cầu con chuyển dời vũ trụ mà chỉ yêu cầu con chuyển dời nỗi sợ kế tiếp mà con sắp sửa đối mặt ngay bây giờ. Sau đó tất nhiên, thày sẽ yêu cầu con chuyển dời nỗi sợ tiếp theo, nhưng thày sẽ chỉ yêu cầu con chuyển dời những gì con có khả năng làm được ở mức hiện thời của con thôi.

Đây là việc thày làm khi con gia nhập khóa tu của thày trong các thể thanh cao của con. Nếu con hòa điệu được với điều đó trong tâm ý thức, hầu hết các con sẽ có khả năng nhận ra trong ý thức nỗi sợ nào con đang tích cực làm việc. Xong con có thể xem xét nó, con có thể bước vào trong nó – với thày nắm tay con nếu con muốn – và con có thể thấy được tính không thực ở đằng sau nó.

Một lần nữa con hãy lưu ý, trên địa cầu có những điều kiện có thể hiện thực theo nghĩa tạm thời. Thày không yêu cầu con nhìn thấy tính không thực của điều kiện đó, mà nhìn thấy tính không thực của nỗi sợ của con đối với điều kiện. Thày biết rất rõ trên địa cầu có nhiều điều kiện có vẻ vô cùng hăm dọa. Có thể con gặp cảnh chiến chinh và phải bỏ mạng. Có thể con bị mắc chứng bệnh ngặt nghèo và qua đời. Cơ thể con sẽ càng ngày càng già đi và cuối cùng nó sẽ tắt thở. Hiển nhiên con không thể thay đổi những điều kiện này, nhưng điều thày yêu cầu con làm là nhận ra con không cần thay đổi chúng.

Sự thăng thiên và phát triển tâm linh của con không tùy thuộc vào việc con thay đổi bất cứ điều kiện nào bên ngoài con. Nó chỉ tuỳ thuộc vào một điều duy nhất, đó là con nhận ra không có một điều kiện nào trong vũ trụ vật chất có khả năng định đoạt con là gì như một sinh thể tâm linh.

Đây là một trong những tác động tinh vi nhất của sa nhân. Biết bao người trên trái đất tin rằng chính các điều kiện vật chất mới quy định họ, quy định họ là loại sinh thể gì, họ có thể làm gì và đặc biệt họ không được làm gì. Cho nên khi con bị bệnh tật, phải bỏ mạng trên chiến trường hay chết già, con tưởng cái đó quy định được con, cái đó ngăn cản con tiến bộ trên đường tâm linh.

8.8. Khắc phục nỗi sợ chết

Nhiều người đã sống cả đời lo sợ một điều kiện nào đó, chẳng hạn sợ chết. Thế rồi trên giường hấp hối, họ bỗng ngộ ra là chết không có gì đáng sợ, bởi vì chết không phải là hết, và họ sẽ tiếp tục sống. Thày nghĩ con cũng nhận ra là con sẽ tiếp tục sống mãi sau cái chết và con đã chết nhiều lần rồi trong bao nhiêu kiếp trước. Liệu con có hoàn toàn nhận ra trong tâm ý thức là cái chết không thể ngăn cản sự phát triển tâm linh hay thăng thiên của con?

Nếu con tin là Giê-su đã thăng thiên và cũng đã chết trên thập tự giá, thì con thấy đó, ngay đó, cái chết, cái chết vật lý, không ngăn cản con thăng thiên. Do đó mà con biết cái chết cũng không ngăn con học hỏi một số bài học và tăng trưởng. Cho dù con phải đối đầu với điều kiện nào trên địa cầu này đi nữa, cho dù nó có khủng khiếp tới đâu và khiến con khổ não và đau đớn tới đâu, nó vẫn không thể quy định được con, không thể ngăn cản được con tăng trưởng hay thăng thiên.

Nhiều người đã phải đối mặt với một điều kiện nào đó hầu khắc phục nỗi sợ của mình đối với điều kiện. Mục đích của thày với khóa học này và mục đích của các Thượng sư hiển nhiên là để giúp con đạt tới điểm con có thể khắc phục lòng sợ hãi các điều kiện vật lý mà không phải đối mặt và trải nghiệm những điều kiện đó. Các thày không muốn con sống những ngày còn lại của kiếp này trong nỗi sợ chết và chỉ khắc phục được nỗi sợ chết trên giường hấp hối. Các thày muốn con khắc phục nó ngay bây giờ để con có thể sống phần đời còn lại mà không sợ chết, không sợ bệnh tật, không sợ chiến tranh hay bất kỳ điều kiện nào khác mà con có thể sợ.

8.9. Lật bỏ các định luật tự nhiên

Đó là điều thày cố đạt được ở tầng thứ ba tại khóa nhập thất của thày. Tại sao lại quan trọng đến thế? Bởi vì như thày đã có giải thích, mục đích của khóa tự điều ngự này là để giúp con điều ngự các định luật cơ bản của tự nhiên do các Elohim quy định. Những định luật này có khả năng lật bỏ các định luật phụ thuộc của tự nhiên do sa nhân ấn định.

Con đã thấy Giê-su thực hiện những việc được gọi là phép lạ, nhưng đó không phải là phép lạ. Giê-su hiện thân trong một xã hội và ở một thời điểm khi mọi người bị giam trong lòng sợ hãi đến độ tâm trí lẫn thân xác họ bị lệ thuộc vào các định luật phụ thuộc của tự nhiên. Đối với họ, các định luật này là những chướng ngại tưởng chừng không sao vượt qua nổi. Giê-su chứng tỏ là khi con đạt được tâm thức Ki-tô, con có thể bắt đầu sử dụng các định luật cơ bản của tự nhiên để lật bỏ, gạt sang một bên, vô hiệu hóa các định luật phụ thuộc.

Mục đích của các thày là giúp con điều ngự các định luật cơ bản và thực sự khắc phục không những lòng sợ hãi các định luật phụ thuộc, mà ngay cả mong muốn điều khiển các định luật này. Như thày có nói, con có thể đạt được một khả năng điều khiển nào đó đối với các định luật phụ thuộc, và đó là chuyện các thày giả sẽ dạy con. Thày không dạy chuyện đó, và các Thượng sư khác cũng vậy.

Điều này cũng có nghĩa là con không sử dụng bừa bãi các định luật cơ bản của tự nhiên để lật bỏ các định luật phụ thuộc. Con sẽ thấy là Giê-su đã không chữa lành cho mọi người bệnh tật mà thày gặp. Thày đã không phục sinh cho mọi người thiệt mạng chung quanh thày. Thày đã không biến mọi bình nước thành bình rượu. Thày đã không đi bộ trên mặt nước mỗi ngày. Thày chỉ làm những việc đó để cho con thấy những gì có thể được thực hiện khi con xoay tâm mình từ một tâm trạng dựa trên sợ hãi sang một trạng thái tâm dựa trên tình thương. Qua đó, con đạt được khả năng thăng vượt, và con không còn bị ràng buộc bởi các định luật phụ thuộc của tự nhiên, mà thay vào đó con trở thành một cánh cửa mở để các định luật cơ bản của tự nhiên vận hành xuyên qua con.

8.10. Trở nên trung hòa

Chính con cũng vậy. Các thày không thể giúp con hoàn tất khóa tu này nếu con hình thành ý định muốn điều ngự các định luật cơ bản để khoa trương với người khác hay để chứng tỏ bất cứ điều gì với ai. Con hiểu là khi Giê-su thực hiện tất cả những cái gọi là phép lạ đó, thày đã không quyết định bằng tâm vỏ ngoài: “Tôi sẽ chữa lành người này.” Giê-su hoàn toàn trung hòa.

Giê-su là cánh cửa mở để đoàn chưởng giáo ở trên thày có thể hành động xuyên qua thày và quyết định xem người đó có nên được chữa lành hay không. Dĩ nhiên Giê-su đã nói: “Kẻ nào tin ta cũng sẽ làm được những việc ta làm.” Các thày có ý định đưa con tới điểm con có thể làm được những việc mà Giê-su đã làm, nhưng điều này không có nghĩa là Tánh linh sẽ làm cùng những việc xuyên qua con y như Tánh linh đã làm xuyên qua Giê-su. Đó là quyết định của Tánh linh, dựa trên một lượng định riêng biệt đối với mỗi hoàn cảnh thực tế.

Do đó, con không thể trở thành một cánh cửa mở nếu con có một ý định nào đó về những gì Tánh linh phải làm hay không được làm. Thày biết rõ ở mức này con chưa thể hoàn toàn khắc phục được ý định này. Nhưng thày muốn con có sự nhận biết để con ghi lại đâu đó trong tâm con. Có thể sẽ đến một thời điểm trên đường tu khi đây chính là cái ý định mà con cần phải khắc phục hầu tiến bước xa hơn.

Một lần nữa, các thày không có mục đích chế tạo ra một kết quả vỏ ngoài cụ thể nào trên địa cầu. Đúng vậy, Saint Germain có một kế hoạch thị hiện một thời hoàng kim trên trái đất, nhưng đó không phải là một kế hoạch được vạch ra trong từng chi tiết. Có rất nhiều khoảng trống để cho Tánh linh hoạt động cũng như cho quyền tự quyết trải bày. Chỉ có một ý định chung chung, và đó chính là cách vận hành của ý định dựa trên tình thương. Ý định dựa trên tình thương không phải là một cái áo bó tay bó chân. Thày có nói là con cần tự đặt mình cho thẳng hàng với đoàn chưởng giáo bên trên con, nhưng điều này không có nghĩa là con đánh mất quyền tự quyết và khả năng sáng tạo cá nhân của mình.

Khi con đứng thẳng hàng với Tánh linh, có những điều mà con sẽ không bao giờ nghĩ tới là con sẽ làm hay mong muốn làm. Trong khuôn khổ tổng quát của Sứ vụ Thiêng liêng của con và nhu cầu trước mắt, con vẫn có khoảng không gian để sử dụng khả năng sáng tạo và tự lấy quyết định. Đây là cách hiểu mà con cần phải đạt được, bởi vì nếu con sợ là con sẽ phải từ bỏ quyền tự do, quyền tự quyết cũng như sự sáng tạo của mình khi con bước trên đường tu và hoàn tất khóa này, thì đó sẽ lại là một ý định dựa trên sợ hãi sẽ kìm hãm bước chân con.

Đây không phải là vấn đề con mất đi ý chí tự do của mình, mà thật ra ý chí của con sẽ tìm được tự do vì con không còn ý định nào dựa trên sợ hãi do sa nhân lập trình nơi tiềm thức, qua đó chúng có thể điều khiển con, điều khiển những chọn lựa của con, thậm chí cả những chọn lựa mà con có thể thấy được.

8.11. Sáng tạo không bù đắp cho thiếu sót

Làm thế nào sa nhân kiểm soát được con người? Bằng cách giới hạn những chọn lựa mà con người có thể thấy được, bằng cách khiến con nghĩ là có những chuyện không thể làm hay không được phép làm, hoặc con nghĩ là con không thể hay không được phép thị hiện và biểu đạt tâm Ki-tô của con, hoặc con nghĩ là con không muốn chuyện gì đó vì nó sẽ giam con lại trong một chiếc áo tù bó tay bó chân.

“Ý định… ý định… ý định.” Ý định dựa trên tình thương sẽ giải thoát con khỏi mọi sợ hãi. Nó cũng sẽ giải thoát sự sáng tạo trong con để con có thể thực sự sáng tạo khi con nhìn ra và biểu hiện một viễn quan cao hơn, thay vì cố bù đắp cho những điều kiện, thiếu thốn và thiếu sót con chứng kiến trên địa cầu. Thày đồng ý với con là trên địa cầu có rất nhiều điều không lý tưởng, và lý tưởng nhất thì cần phải thay đổi. Có thể con đã tới đây để đem lại một số thay đổi cho địa cầu, nhưng sự thay đổi mà con tới đây để cống hiến không phải là một phản ứng trước các điều kiện bất toàn hiện hữu. Sự thay đổi đích thực, sáng tạo đích thực, là đem lại một cái gì mới mẻ đến độ nó thay thế hẳn những điều kiện hiện thời.

Thày có đề cập tới trận đấu quần vợt nơi con có một đối thủ đánh banh lại cho con. À, đó chính là một chức năng của sa nhân. Chúng hình thành một loại đối thủ cho tất cả những ai không đến nỗi hung hãn như chúng. Tất nhiên, chính con cũng hình thành một đối thủ cho chúng để tạo cho chúng một cơ hội chán ngán cuộc chơi.

Chúng sẽ là đối thủ của con cho tới khi con còn chơi trong trận đấu và bị kẹt lại trong nhị nguyên, cho tới khi con còn nghĩ là trong vai trò một đệ tử tâm linh, ý định của mình phải nhằm cải sửa, thay đổi, loại trừ những hạn chế hiện thời trên trái đất và diệt bỏ cái ác khỏi trái đất. Đó không phải là mục đích thật của con. Ý định chân chính của con dựa trên tình thương là chứng tỏ có một chọn lựa khác ngoài trạng thái tâm thức nhị nguyên.

Tại sao nền công nghệ hiện đại không thể giải quyết được mọi vấn đề? Tại sao cách tiếp cận ngành y khoa hiện thời không thể chữa lành được mọi bệnh tật? Đó là vì nó dựa trên sợ hãi, nó nhằm mục đích thay đổi các điều kiện khởi lên từ nhị nguyên thay vì đem lại một cách tiếp cận mới sẽ nhìn vào vấn đề từ một tâm thái yêu tình thương, và nhờ vậy cống hiến một giải pháp không nhằm bù đắp cho các giới hạn mà thăng vượt chúng hoàn toàn.

Thày đã cho con rất nhiều điều để suy ngẫm trong bài giảng này, nhưng thày không cho con nhiều hơn khả năng giải quyết của con ở tầng khai ngộ này. Nếu con đang học “cấp tốc” theo chương trình chín ngày cho mỗi bài học, có thể con sẽ muốn đào sâu hơn một chút về khai ngộ tình thương ở tầng này. Có thể con sẽ muốn dành thêm chút thì giờ xem xét ý định của mình, vì nó sẽ giúp con dễ vượt qua hơn cuộc khai ngộ ở tầng thứ tư khi con sẽ nhận được một liều tinh khiết gấp đôi. Con sẽ rất khó lòng xử lý một liều tinh khiết gấp đôi nếu con không có một ý định hoàn toàn dựa trên tình thương.

Serapis Bey TA LÀ.

6 | Ý định thuần khiết khi tìm Minh triết

Bài giảng của chân sư thăng thiên Serapis Bey qua trung gian Kim Michaels, ngày 3/1/2016.

TA LÀ chân sư thăng thiên Serapis Bey. Mục đích bài giảng này là để cho con một số gợi ý vào nhận biết vỏ ngoài của con sẽ giúp con hòa điệu và vượt qua các khai ngộ ở tầng thứ hai tại khóa nhập thất của thày ở Luxor. Tất nhiên đây là tầng của Tia sáng thứ Hai, tia của minh triết. Chúng ta hẳn đã kinh qua những sáng ngộ và khai ngộ quan trọng dưới chân sư Lanto, nhưng thày muốn đưa con đi xa hơn một chút bằng cách nối liền minh triết với ý định của con – sự thuần khiết trong ý định của con khi con tìm minh triết.

Thày muốn con nhìn xem thế gian nhìn minh triết như thế nào. Đã có một thời, nhiều thế kỷ và ngay cả hàng thiên niên kỷ về trước, người ta nhìn minh triết khác với ngày nay. Khi lớn lên trong thế giới hiện đại, con khó lòng tưởng tượng được con người thời cổ đại nhìn minh triết như thế nào. Thày không bảo là cách tiếp cận minh triết của họ nhất thiết cao hơn những gì ngày nay có thể đạt được, mà thày muốn nói là chắc chắn cách hiểu minh triết của họ tinh tế, và theo một nghĩa nào đó, cũng sâu sắc hơn những gì có thể tìm thấy nơi hầu hết các cơ sở giáo dục trong thế giới hiện đại.

6.1. Kiến thức phàm phu có giới hạn

Thuở đó, con người nhận ra là kiến thức phàm phu có giới hạn. Hiển nhiên, chuyện này dễ hơn cho họ vì kiến thức con người thời đó giới hạn hơn ngày nay. Con đã lớn lên trong một thế giới chứng kiến sự bùng nổ của thông tin. Chưa bao giờ có nhiều kiến thức đến như vậy được cống hiến cho mọi người trên địa cầu. Thật ra khi thày bảo “chưa bao giờ”, thày muốn nói là chưa bao giờ trong lịch sử được ghi lại, bởi vì chắc chắn trong những thời đại trước đã có những nền văn minh cống hiến nhiều kiến thức hơn bây giờ nữa. Trong cái con gọi là lịch sử, con sống trong một xã hội với nhiều trí tuệ, nhiều kiến thức đến độ con không thể hiểu hết được. Không một ai có khả năng biết hết được.

Vào thuở khi kiến thức ít hơn, người ta nhận ra là cách duy nhất để thực sự thành công trong đời không phải là qua kiến thức vỏ ngoài mà qua minh triết bên trong. Đó là một dạng minh triết cao hơn, một hình thức mà ngày nay con sẽ gọi là trực giác, nhưng thời đó người ta gọi bằng những tên khác bây giờ. Họ xem đó là sự hướng dẫn từ Trên. Một số nền văn hóa xem đó là những vị thày tâm linh, những vị hướng dẫn từ tánh linh, và một số khác coi đó là phần cao hơn của chính bản thể mình. Họ nhận ra sự hiện hữu của một dạng hiểu biết hay trí tuệ cao hơn những gì tâm trí phàm phu có khả năng chế tạo.

Cũng có những nền văn hóa khác và những thời kỳ khác với một sự hiểu biết mà chúng ta có thể gọi là minh triết của Mẹ, minh triết nữ tính. Đây là kiến thức về cách vận hành của thế gian, cách vận hành của vũ trụ. Có nhiều người đã đạt được một hiểu biết trực giác về cách vận hành của thế giới lớn hơn cả các nhà khoa học thời nay. Thày không bảo đó là một dạng minh triết nhất thiết cao trội hơn, mặc dù trong một số trường hợp, đã có những người trực nhận được cách vận hành của thế giới vượt khỏi ngay cả tầm hiểu biết của những nhà khoa học tài ba nhất thời nay. Chẳng hạn, có những người có hiểu biết trực giác cao hơn về cơ thể con người, và họ có thể thực hiện một số kỹ thuật chữa bệnh vượt xa khả năng của các bác sĩ tài giỏi nhất hiện nay. Điều họ không làm được thời đó là giải thích cách trị liệu của họ vận hành như thế nào và tại sao nó lại hiệu quả, và tất nhiên, đây là một sự khác biệt và một lãnh vực mà ngày nay con người đã có tiến bộ. Ý của thày ở đây không phải là bảo rằng sự bùng nổ tri thức vĩ đại do khoa học đem lại trong vài thế kỷ vừa qua là thô sơ hay sai lầm.

6.2. Tự điều ngự và hiểu biết từ bên trong

Nhưng mục đích của thày là giúp con, trong vai trò một học trò của chân sư thăng thiên đang bước vào đường tu tự điều ngự, thấy được là con sẽ không đạt được tự điều ngự qua kiến thức đến với con từ ngoài. Nếu con nhìn vào xã hội ngày nay và cách nhìn của xã hội về minh triết hay kiến thức, con sẽ nhận thấy một xu hướng rõ rệt cho rằng sự hiểu biết đáng tin cậy chỉ có thể đến từ một nhà chuyên môn, một khuôn mặt thẩm quyền nào đó.

Hiện vẫn còn một số xã hội trông vào các chức sắc có thẩm quyền tôn giáo bảo họ đâu là cách duy nhất phải tin về một số khía cạnh của cuộc sống. Người ta tin là những chức sắc tôn giáo này có được thẩm quyền đó dựa trên hiểu biết kinh điển, hay trong một số trường hợp, một tiết lộ nào đó từ cõi Thiêng liêng. Và có những lãnh vực khác trong xã hội nơi người ta trông vào các nhà khoa học để cung cấp kiến thức đáng tin cậy.

Một lần nữa, khoa học đã có những tiến bộ rất lớn để giải thích nhiều điều về cách vận hành của vũ trụ vật lý. Tuy nhiên, là một học trò tâm linh, con cần nhận ra là cách tiếp cận của khoa học hiện đại vô cùng giới hạn. Nó giới hạn chính vì ngay từ những bước đầu, khoa học đã trở thành công cụ cho một số sa nhân âm mưu sử dụng. Trước tiên, chúng đã sử dụng để cố giành quyền lực trong xã hội mà một số sa nhân khác đã chiếm hữu qua tôn giáo. Và do đó, cuộc chiến giữa khoa học và tôn giáo một phần lớn đã là sự tranh giành giữa hai nhóm sa nhân.

Sau khi chúng đoạt được một phần quyền lực khỏi tay tôn giáo, giờ đây các sa nhân này đã bắt đầu dùng khoa học làm phương thức kiểm soát con người. Con có thể nghĩ sa nhân có nhiều lý do để muốn kiểm soát con người, và đúng vậy, có nhiều tầng cấp sa nhân với nhiều loại động lực khác nhau muốn kiểm soát con người. Nhưng đằng sau những lý do này là một mong muốn bao trùm tất cả – nhắm vào mọi người đang đầu thai trên trái đất – là đảm bảo con không thể biểu hiện quả vị Ki-tô cá nhân của con.

Quả vị Ki-tô cá nhân, tất nhiên, là trạng thái khi con biết rõ từ bên trong hiểu biết nào là chính đáng và hiểu biết nào không chính đáng. Con tự đủ, con độc lập; không một khuôn mặt thẩm quyền nào, không có một chuyên gia nào có thể bảo con điều gì đi ngược lại những gì con biết từ bên trong. Quả vị Ki-tô là sự phối hợp giữa khả năng tiếp nhận hiểu biết từ một nguồn cao hơn – cụ thể là Hiện diện TA LÀ của con và các chân sư thăng thiên – và khả năng hòa điệu với vũ trụ vật chất cùng minh triết của Mẹ.

6.3. Nỗi đam mê kiến thức trí thức

Khi con đến với tầng khai ngộ thứ hai tại nhập thất của thày, thày cần bỏ ra rất nhiều công sức để giúp đệ tử khắc phục nỗi ám ảnh, niềm đam mê mà con có đối với kiến thức khoa học, trí thức vỏ ngoài. Thày có nhiều cách làm điều này, nhưng chủ yếu thày đưa đệ tử vào một căn phòng được xây đặc biệt cho mục đích đó. Đây là một căn phòng thày đã xây dựng với sự giúp đỡ của thày Lanto. Trong căn phòng này, như Lanto đã có mô tả trong khóa học của mình, các thày có thể làm hiển lộ năng lượng của minh triết, năng lượng của hiểu biết. Các thày có thể cho thấy các hình dạng kỷ hà đằng sau những gì con gọi là kiến thức vỏ ngoài, nghĩa là kiến thức có thể biểu đạt bằng ngôn từ.

Cho nên các thày có thể cho thấy năng lượng ở đằng sau kiến thức thế phàm. Thậm chí các thày còn có thể cho con thấy một số ý tưởng, một số loại kiến thức, không trung lập như thế nào. Con hẳn cũng biết “chén thánh” của chủ nghĩa khoa học duy vật, từ khoảng hai thế kỷ nay, là tính khách quan. Tâm của nhà khoa học được xem như không có ảnh hưởng gì trên các quan sát – người ta tin rằng những kết luận đạt được qua quan sát như vậy sẽ không bị tâm của nhà khoa học ảnh hưởng.

Và do đó người ta cũng tin rằng kiến thức khoa học hoàn toàn trung lập. Nó chỉ có mục đích cung cấp sự thật cho con, nó hoàn toàn không có chủ đích gì khác hoặc tác dụng nào khác. Tuy nhiên, các thày có thể cho con thấy ở mức độ năng lượng là có một số lý thuyết trên thế giới, thậm chí một số thuyết mà gần như mọi người đều tin vào, có mang những cái móc năng lượng được gài sẵn bên trong.

Thày biết chuyện này hơi khó hình dung, nhưng sẽ không khó lắm nếu con so sánh với thế giới điện toán. Con hẳn biết rõ là một chương trình máy tính có mã nhất định. Mã được viết trong ngôn ngữ mà máy tính này sử dụng. Chương trình máy tính có thể chứa đựng một số thông tin mà nó có thể cung cấp cho con, nhưng thông tin này được mã hóa. Con cũng biết là người ta có thể chèn vào giữa mã hoặc bên trong mã, những mã ẩn gọi là vi-rút. Đây là những cái mã đi vào trong máy tính để thực hiện một số công việc không liên quan gì đến chương trình vỏ ngoài mà chúng bám vào. Thế là con có tình trạng màn ảnh của máy tính hiển thị một chuyện, nhưng đồng thời con vi-rút ẩn nấp đang làm một chuyện khác mà con không hề hay biết. Đó, một điều tương tự cũng xảy ra với những ý tưởng và lý thuyết mà sa nhân đã tạo ra. Đều là những kiến thức vỏ ngoài mà chúng bảo là có mục tiêu, có lý thuyết, có ý định nhằm giải thích thực tại vận hành như thế nào. Nhưng ẩn giấu trong đó là một số ý tưởng đã được mã hóa, ngay cả một số tín hiệu năng lượng, mà tâm ý thức không thấy được nhưng lại xâm nhập vào tiềm thức và hoạt động như một con vi-rút điện toán.

Tất cả các con được nuôi dạy trong thế giới hiện đại, đã bị lập trình với một số ý tưởng bề ngoài tuyên bố cho con kiến thức – một kiến thức trung lập, khách quan, chính đáng – nhưng kỳ thực lại đang lập trình tâm con theo những cách vận hành đi ngược lại sự phát triển tâm linh cùng việc biểu hiện quả vị Ki-tô của con. Có nhiều ví dụ về sự thể này. Ở đây thày không có ý định thuyết giảng dài dòng vì đây là công việc mà nhiều chân sư thăng thiên sẽ thực hiện một lúc khác. Nhưng thày có thể cho con thấy một ví dụ về những điều con sẽ học hỏi tại nhập thất của thày.

6.4. Vấn đề với thuyết tiến hóa

Một trong những ý tưởng phổ biến nhất trên thế giới hiện nay, tất nhiên, là ý tưởng về sự tiến hóa. Khoa học duy vật trình bày thuyết tiến hóa hiện thời, do Charles Darwin khởi đầu, như là một cái nhìn khách quan về sự sống đã khởi nguồn từ đâu và làm thế nào đạt đến trình độ hiện tại. Hiển nhiên, đây là một thuyết hoàn toàn duy vật. Nó đã là một trong những vũ khí chủ yếu được sử dụng để tấn công tôn giáo, và nó đã khiến cho nhiều người bỏ rơi mọi niềm tin vào tôn giáo và tâm linh, để chấp nhận con người là một sinh thể hoàn toàn vật chất.

Tất nhiên, đó không phải là một ý tưởng mà con có thể dùng để đạt đến quả vị Ki-tô. Con không thể tin mình không là gì hơn một con thú đã tiến hóa mà đồng thời lại cất bước trên đường tu tâm linh hầu đạt được một trạng thái của tâm vượt xa tất cả những gì mà con người hay bất kỳ thú vật tiến hóa nào sẽ có thể đạt được. Thuyết tiến hóa trong dạng hiện thời quảng bá một cái nhìn về bản thân con đối nghịch trực tiếp với sự phát triển Ki-tô của con. Các thày có thể cho con thấy trên màn ảnh làm thế nào những tin tưởng mà thuyết tiến hóa đã chèn vào trong trí thể của con đang thực sự ngăn con tiếp xúc với thể bản sắc của mình.

Con cũng hiểu, con yêu dấu, là để phát triển quả vị Ki-tô, con cần làm việc với toàn bộ bốn thể phàm của con. Con phải thanh tẩy cơ thể vật lý cho không còn một số độc chất và từ bỏ một số thói quen. Con không thể đạt được quả vị Ki-tô nếu con hút thuốc, dùng bất kỳ loại ma túy tiêu khiển nào hay uống rượu. Con không thể làm được vì cơ thể vật lý sẽ chặn đứng không để con tiếp xúc với ba thể kia cao hơn.

Đồng thời con cũng phải làm việc trên cảm thể để thanh tẩy một số năng lượng cảm xúc. Con không thể phát triển quả vị Ki-tô nếu con sợ hãi quá đáng bất cứ gì trong thế gian, nếu con tưởng mình đang sống trong một vũ trụ chỉ muốn hại mình, hay thậm chí nếu con sợ hãi lớp thượng tôn quyền lực, sợ hãi những thuyết âm mưu bí mật đang tìm cách hãm hại mình. Con không thể phát triển quả vị Ki-tô nếu con tràn ngập giận dữ hay oán hận đối với người khác và chỉ mong muốn trả thù, vì khi đó, cảm thể sẽ chặn đứng sự tiếp xúc ý thức của con với trí thể.

Cũng vậy, có những tin tưởng trong trí thể sẽ chặn đứng không cho con liên lạc với thể bản sắc của con. Và nếu con không thể thay đổi bản sắc mình một cách ý thức thì làm thế nào con sẽ phát triển được quả vị Ki-tô đây? Quả vị Ki-tô chính là sự xoay chuyển ý niệm bản sắc của mình, hầu con xem mình là một đứa con của Thượng đế, là sự nối dài của đoàn chưởng giáo thăng thiên ở trên con, và là sự nối dài của Hiện diện TA LÀ của con.

Giê-su đã nói gì? “Tự ta không làm được gì, mà là Cha ta ở trong ta làm mọi việc.” Cho nên nếu con không thể thanh lọc thể bản sắc của con cho không còn ý niệm mình là một con người thế phàm, thì làm sao con có thể để cho Cha trong con làm việc xuyên qua con? Không thể nào được.

6.5. Những ý tưởng ngăn chặn quả vị Ki-tô

Hầu hết mọi người đã bị lập trình một số ý tưởng trực tiếp đối chọi lại sự phát triển tâm linh của mình. Tất nhiên, thày cần thách đố một số những ý tưởng đó, nhưng ở mức khai ngộ trong khoá học của thày, thày không có vai trò thách đố mọi ý tưởng. Tuy nhiên, điều thày sẽ làm là thách đố động cơ của con khi con tìm minh triết. Và dĩ nhiên, khi thày bảo là một số ý tưởng đã bị cài sẵn một con vi-rút trong đó, chúng ta có thể nói là tất cả mọi hiểu biết đến từ nền khoa học duy vật đã chứa sẵn vi-rút, vì khoa học duy vật tự phô diễn là nó nắm độc quyền về sự thật, độc quyền về kiến thức đáng tin cậy.

Chỉ những gì đã được khoa học duy vật minh chứng hay đo đạc mới được xem là hiểu biết chính đáng. Điều này, hiển nhiên là con không thể tin, không thể chấp nhận nếu con muốn xây dựng một động lực thuần khiết trong việc tìm minh triết. Vậy chủ nghĩa duy vật lập trình con làm gì? Nó lập trình con đi tìm một kiến thức cụ thể nào đó – không những một kiến thức duy vật, mà ngay trong bản chất, một kiến thức không thể vượt quá một mức nào đó. Đó không phải là minh triết hằng sống. Qua từ “minh triết hằng sống”, thày muốn nói đến sự hiểu biết dựa trên việc ngộ ra cách vận hành đích thực của thế gian.

Kiến thức duy vật bảo rằng vũ trụ vật chất là một đơn vị trọn vẹn, tự đủ. Hoàn toàn không có gì ngoài vũ trụ vật chất. Do đó, không có một nguồn năng lượng nào gửi năng lượng vào vũ trụ vật chất. Điều này, dĩ nhiên, ngược hẳn với thực tại về cách vận hành của vũ trụ. Vũ trụ được nâng giữ một cách liên tục, và cũng tăng trưởng một cách liên tục, vì có một dòng năng lượng tuôn ra từ cõi thăng thiên chảy xuống bốn tầng cõi của vũ trụ vật chất. Nếu dòng chảy này ngừng lại ngày hôm nay, vũ trụ vật chất mà con quen thuộc sẽ bắt đầu tan rã nhanh chóng.

Là một học trò tâm linh, con tuyệt đối cần phải vượt qua tin tưởng đó. Có thể con sẽ nói: “Nhưng Serapis Bey, làm sao con đã hoàn tất được cuốn đầu trong bộ sách này nếu con không tin là có những chân sư thăng thiên cư ngụ nơi một cõi giới khác và các thày có khả năng gửi năng lượng cho chúng con?” Đúng vậy, con yêu dấu, dĩ nhiên là con tin điều đó với tâm vỏ ngoài của con. Khi con đến với tầng khai ngộ thứ nhì ở nhập thất của thày, đã đến lúc thày cho con thấy là cho dù con có tin gì đi nữa trong tâm vỏ ngoài, vẫn còn một số tin tưởng, một số vi-rút, được gài sẵn trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể của con. Chính những tin tưởng này sẽ ngăn chặn, hay bóp méo, động lực của con khi tìm kiếm minh triết.

6.6. Giấc mơ có hiểu biết bí mật

Biết bao đệ tử gia nhập khóa học về tự điều ngự của các thày với động lực tìm kiếm minh triết không trong sạch và không xây dựng. Thày đã đề cập đến những kẻ tìm cách áp đảo người khác. Có rất, rất nhiều đệ tử, như Lanto có nói đến, tìm cầu hiểu biết để tranh đua với người khác và chứng tỏ mình cao trội hơn. Đó không phải là quan tâm lớn nhất của thày vì những ai đã thành tựu khai ngộ dưới Lanto đã vượt qua được chướng ngại này. Mối quan tâm của thày là có nhiều đệ tử vẫn tin rằng mình có thể tìm thấy một hiểu biết bí mật, một minh triết bí mật, một công thức bí mật nào đó sẽ cho mình khả năng kiểm soát vật chất, kiểm soát hoàn cảnh hay ngay cả kiểm soát người khác một cách máy móc.

Con yêu dấu, trên thế giới có những người cởi mở với cái nhìn tâm linh về cuộc sống nhưng lại tìm cầu những câu thần chú, bùa chú để khiến cho người ta phải lòng mình. Thật sự, làm sao có ai lại tin được là chuyện phù phép để bắt ép người khác yêu mình có thể là tình yêu chân thật – đây không phải là chuyện thày muốn bàn ở đây, nhưng con có thấy ý thày không? Có rất, rất nhiều người vẫn tin rằng mục đích đi trên đường tu tâm linh là để lần lần nhận được một số kiến thức hay công thức bí mật nào đó sẽ cho mình một quyền kiểm soát tự động, máy móc. Thật không phải là vậy.

Đồng ý, con yêu dấu, có một số kiến thức, một số công thức mà các sa nhân đã phát triển suốt một thời gian rất dài. Việc đạt được những kiến thức và công thức này là chuyện khả dĩ, và việc dùng tâm để phần nào điều khiển được vật chất cũng là chuyện khả dĩ. Nhưng đó không phải là con đường của chân sư thăng thiên; đó là con đường của hàng ngũ tà đạo.

6.7. Địa cầu khác như thế nào so với nguyên bản

Có lẽ con đã bắt đầu nhận ra là trong sách này, thày sẽ đề cập đến sự tương phản giữa các chân sư thăng thiên và hàng ngũ tà đạo, bởi vì chính trên Tia sáng thứ Tư mà con cần tự gia tốc để thoát hẳn khỏi tầm tay của hàng ngũ giả hiệu. Thày xin con hãy chăm chú lắng nghe và đọc đi đọc lại những đoạn này cho tới khi tâm ý thức của con bắt đầu nắm được điều thày muốn nói.

Con đang sống trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Một bầu cõi chưa thăng thiên không vận hành giống như cõi thăng thiên. Như con cũng biết nếu con đã tìm hiểu rộng rãi giáo lý của các thày, một bầu cõi chưa thăng thiên là một cõi giới nơi các sinh thể có thể sử dụng quyền tự quyết của mình với một mức độ tùy ý rộng lớn. Cư dân trên một hành tinh như trái đất đã được phép phát triển và biểu hiện nhiều loại điều kiện khác xa, rất xa, so với những gì hiện hữu nơi cõi thăng thiên. Thày chắc chắn con thấy được là chiến tranh không phải là một điều kiện được tìm thấy ở cõi thăng thiên. Chiến tranh là gì nếu không phải là một ví dụ cùng cực cho thấy có những sinh thể sẵn sàng làm tới cùng để đoạt quyền lực và quyền kiểm soát trên con người? Nếu con đọc cuốn sách của Mẹ Mary về chiến tranh (Help the Ascended Masters Stop War – Hãy giúp các chân sư thăng thiên ngăn chặn chiến tranh), con sẽ thấy rõ sa nhân sẵn lòng làm những chuyện khủng khiếp tới mức nào.

Điều thày muốn chỉ ra cho con ở đây là những điều kiện có mặt trên trái đất hiện đang ở một tầm mức rất thấp so với cõi thăng thiên. Điều này có nghĩa là có một số định luật tự nhiên, mà chúng ta có thể gọi là “phụ thuộc,” đang hiện hành trên địa cầu.

Chắc chắn con có các định luật tự nhiên “gốc”, hay cơ bản, đang hiệu lực dựa theo viễn quan của các Elohim. Con hiểu là khi các Elohim tạo ra trái đất, hay nói rộng hơn toàn bộ vũ trụ vật chất, các thày đã ấn định ra một số quy luật tự nhiên để – nếu có thể nói như vậy – gắn kết vũ trụ lại, gắn kết vật chất lại, hầu cho phép các cấu trúc vật chất được tồn tại, như các hành tinh hay thể xác vật lý của con. Đây là những định luật tự nhiên mà thày gọi là cơ bản.

Vì cư dân trên trái đất có quyền tự quyết, cho nên họ có khả năng tạo dựng một số điều kiện – không trực tiếp đối nghịch với các định luật cơ bản của tự nhiên – mà tồn tại trong một vùng xám, nếu có thể gọi như vậy. Những điều kiện này được phép hiện hữu trong một trạng thái bất toàn bởi vì địa cầu là một dụng cụ giáo dục cho những ai không chịu lắng nghe sự hiểu biết trực tiếp từ chân sư thăng thiên. Trên địa cầu, họ có thể thị hiện một số điều kiện là cách biểu đạt của chính tâm thức họ. Và mục đích, dĩ nhiên, là để tạo cơ hội cho họ trải nghiệm cho đến khi họ chán ngán và mong mỏi một cái gì cao hơn.

Điều này khiến cho các cư dân nguyên thủy của địa cầu tạo dựng một số điều kiện gây giới hạn trên trái đất, làm xuất hiện một vòng xoáy ốc hướng hạ khi họ không tự thăng vượt chính họ. Và như các thày đã có giải thích, đây là nguyên do khiến cho những đấng trông coi tiến trình tiến hóa của địa cầu cho phép một số sinh thể sa ngã đầu thai ở đây. Một số sa nhân này đã từng sa ngã ở một bầu cõi trước rồi, và do đó chúng đã có một thời gian rất dài để phát triển một khả năng điều khiển vật chất nào đó. Khi chúng đến địa cầu, chúng đã đem theo khả năng này và củng cố thêm vòng xoáy hướng hạ mà cư dân nguyên thủy đã tạo ra. Có thể nói, chúng đã bành trướng hay gia tốc cho vòng xoáy này đi xuống thêm.

6.8. Các định luật phụ thuộc của tự nhiên

Sự thể trên đã khiến cho tất cả mọi người sống trên trái đất chung sức tạo ra một số điều kiện nhất định. Chẳng hạn, vật chất ngày nay dày đặc hơn khi địa cầu mới được các Elohim sinh tạo. Điều này cũng có nghĩa là cơ thể vật lý của các con ngày nay dày đặc hơn cơ thể nguyên thủy của các cư dân đầu tiên trên hành tinh. Loài Homo sapiens – loài Người Tinh khôn – không phải là sự sáng tạo thuần túy của các Elohim, nhưng là một phiên bản sửa đổi của cơ thể thuần khiết nguyên thủy do các Elohim. Cơ thể các con dày đặc hơn, và đó là tại sao các con có thể mắc một số chứng bệnh.

Vật chất dày đặc hơn cho nên các con phải làm lụng mệt nhọc hơn để thị hiện những thứ con cần cho cơ thể sống còn. Cơ thể dày đặc hơn cũng cần nhận được nhiều chất dinh dưỡng dày đặc hơn chỉ có được từ một dạng dày đặc hơn của vật chất. Vật chất càng dày đặc thì càng phải làm lụng nhiều hơn để biến đổi vật chất. Đó là tại sao biết bao người đã đánh mất khả năng biến đổi vật chất bằng tâm trí, cho nên họ phải biến đổi vật chất qua thể xác vật lý, vì thể xác của họ có cùng độ dày đặc như vật chất.

Hiện nay trên hành tinh địa cầu có một số định luật phụ thuộc của tự nhiên không phải là định luật nguyên thủy do các Elohim ấn định. Những định luật này là do tâm thức tập thể của nhân loại định ra – dĩ nhiên là dưới sự hướng dẫn giấu giếm của sa nhân. Có những định luật phụ thuộc của tự nhiên mà con có thể dùng để tạo ra một loại minh triết hay một công thức nào đó, hay một hình thức mà các thày gọi là tà thuật sẽ cho con một khả năng điều khiển nào đó trên vật chất một cách gần như máy móc. Thày nói “gần như máy móc” vì nó không hoàn toàn máy móc. Thật sự là không có một cách máy móc nào để kiểm soát vật chất ngoại trừ qua những phương tiện vật lý.

Mục đích của nền công nghệ hiện đại, nền công nghệ vật chất, là cho con khả năng máy móc để kiểm soát vật chất, kiểm soát thiên nhiên. Điều này chỉ có thể làm được ở mức độ vật lý, nhưng ở mức độ của tâm thì không thể làm được một cách hoàn toàn máy móc. Con không thể nghĩ ra một công thức mà tâm con có thể sử dụng, hay con có thể đọc lên như một câu bùa chú, một lời nguyền, hay một thành ngữ phù phép, hoàn toàn máy móc. Nhưng con có thể tạo ra một số công thức cho phép một số người điều khiển được vật chất phần nào, nhưng vẫn không hoàn toàn máy móc. Nó vẫn đòi hỏi một dòng năng lượng từ cõi tâm linh.

6.9. Tại sao sa nhân không kiểm soát được hoàn toàn

Điều này có nghĩa là sa nhân không thể kiểm soát một cách hoàn toàn máy móc qua các định luật phụ thuộc của tự nhiên, qua những công thức của chúng nhằm sử dụng các định luật này. Tại sao chúng không thể? Bởi vì một sa nhân đã sa ngã trong một bầu cõi trước, hay đã sa ngã xuống thấp hơn một mức tâm thức nào đó, không thể tiếp cận dòng chảy năng lượng chảy xuống từ cõi tâm linh. Vậy chúng phải làm gì đây? Chúng phải đoạt năng lượng đó bằng cách đánh cắp từ người khác, là những người vẫn còn dòng năng lượng chảy xuyên qua họ.

Vì thế mà con thấy cái khuôn mẫu rất xưa khi một phù thủy nhận học trò tập sự. Tưởng chừng như phù thuỷ đang dạy cho học trò mọi thủ thuật của mình, nhưng song song y cũng đang đánh cắp năng lượng của học trò để thực hiện phù phép. Một số sa nhân có thể dùng nhiều người để đánh cắp năng lượng và thực hiện những ngón ngoạn mục. Có rất nhiều cách để sa nhân làm vậy, rất nhiều thủ thuật mà chúng đã khai thác. Ý ở đây là như sau: con có thể, như một đệ tử tâm linh, tìm được một kiến thức, một “minh triết” nào đó – trong dấu ngoặc kép – một công thức hay lời bùa chú nào đó có thể cho con một khả năng nào đó để điều khiển vật chất.

Và trên thế giới ngày nay có những người tự xưng là đạo sư hay thày tâm linh cũng tuyên bố là họ có thể cho con quyền năng điều khiển vật chất như vậy. Một số còn tuyên bố là họ có thể làm nhanh hơn cả chân sư thăng thiên – họ có một con đường tắt. À, con sẽ rất sốc khi biết là họ nói không sai. Quả thật là họ có một con đường tắt! Có những chuyện con có thể làm để phát triển một khả năng điều ngự nào đó trên vật chất mà không cần bước chân trên con đường tự điều ngự.

6.10. Các chân sư thăng thiên không dạy phép

Như thày đã nói trong bài giảng trước, nếu đó là trải nghiệm con muốn có thì con cứ việc. Con có tự do rời khỏi khóa nhập thất của thày bất cứ lúc nào, nhưng con cần biết chắc chắn tuyệt đối là thày, Serapis Bey, sẽ không cho con trải nghiệm đó. Thày sẽ không cho con đường tắt. Thày sẽ không cho con một công thức bí mật.

Điều thày sẽ làm là giúp con bước đi trên con đường tự điều ngự nơi con gia tốc tâm mình vượt lên trên các định luật phụ thuộc của tự nhiên, tới mức con có thể khởi sự sử dụng các định luật cơ bản do các Elohim thiết lập. Đây là mục đích của khóa tự điều ngự này, chứ không phải là con đường tắt qua phép thuật đen mà sa nhân đã khai thác.

Nói về phép thuật đen, trên thế giới hiển nhiên còn có một khái niệm tự xưng là “phép thuật trắng”. Họ cũng bảo là họ có đường tắt, cũng có những công thức hay minh triết nào đó có thể cho con quyền điều khiển vật chất, nhưng họ quả quyết là cách của họ hoàn toàn vô hại.

Con yêu dấu – một lần nữa: Nếu đây là trải nghiệm con muốn có, con sẽ cần rời khỏi khóa nhập thất của thày để mà có được. Các chân sư thăng thiên không dính dáng gì đến phép đen hay phép trắng, hay bất kỳ hình thức phép thuật nào. Saint Germain đã có nói tới “phép của con mắt”, nhưng hẳn là thày nói đùa, bởi vì thực sự chẳng có phép nào hết.

Các thày không dạy con một loại phép thần thông làm việc một cách huyền bí, hay cho con một quyền năng kiểm soát máy móc. Các thày dạy con tự điều ngự. Thày đã nói gì trong bài giảng đầu chứ? Rằng con không thể vượt qua tầng khai ngộ thứ nhất ở khóa nhập thất của thày nếu trọng tâm của con là thay đổi người khác hay những điều kiện bên ngoài thay vì thay đổi chính con.

Ở tầng khai ngộ thứ hai, trọng tâm của con cần đặt vào việc tìm kiếm sự hiểu biết với mục đích thay đổi chính mình, chứ không với mục đích thay đổi người khác hay ngoại cảnh. Hiểu biết mà con cần tìm kiếm để vượt qua các khai ngộ ở nhập thất của thày cũng như khai ngộ trên ba tia sáng cao hơn, đó là biết chính mình.

6.11. Tại sao con cần tự hiểu biết

Đây không phải là sự tự hiểu biết vỏ ngoài nơi, một lần nữa, con tạo ra một loại đường tắt hay con đạt được tự chủ, mà là việc thanh tẩy tâm con cho không còn mọi hình thức hiểu biết bất toàn về chính mình. Đâu là hiểu biết, đâu là minh triết mà con cần tìm kiếm ở mức này? Không phải là hiểu biết về cách thức làm gì đó bên ngoài cái ta. Cũng không phải là hiểu biết về cách thức làm gì đó bên trong cái ta. Mà đó là hiểu biết cho phép con nhìn thấy các bợn nhơ trong cái ta hầu con có thể buông bỏ chúng một cách ý thức, để cho chúng ra đi, thay thế chúng với một quyết định cao hơn, một dạng cao hơn của minh triết và sáng ngộ. Đây không phải là vấn đề tự phân tích bản thân, không là vấn đề trí thức hóa hay lập ra một danh sách thật dài những tin tưởng của mình, mà là vấn đề hòa điệu với một nguồn minh triết cao hơn.

Nói cho cùng thì nguồn cội đó là Hiện diện TA LÀ của con, nhưng vì con đang ở khóa nhập thất của thày cho nên ở mức khai ngộ này, thày chính là nguồn cội đó. Thày không có ý trao cho con khôn ngoan vỏ ngoài. Thày không có những lớp học ở tầng thứ hai này nơi thày đứng trên bục cao trước tấm bảng đen và giảng dạy hiểu biết này cho con. Thày chỉ dạy bằng một cách thôi: thày ngồi.

Một số các con sẽ khó hình dung Serapis Bey đang ngồi đó, nhưng hiển nhiển thày có khả năng làm điều này. Thày ngồi trước mặt các đệ tử, hay đúng hơn, thày ngồi ở một vị trí và các đệ tử ngồi thành vòng tròn xung quanh thày. Sau đó thày cho đệ tử làm bài thực tập, là tìm cách để tâm mình không còn bất cứ gì ngoại trừ Hiện diện của thày. Như câu trong bài chú của thày: “Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.”

Tất nhiên lúc đầu, các đệ tử không thể làm được. Tâm họ luôn luôn bị kéo hút về chỗ này chỗ nọ, thường khi là do những hiểu biết, do “minh triết” mà họ đã hấp thụ. Họ bắt đầu suy nghĩ, chạy xéo qua chuyện khác. Nhưng lần lần một khi các đệ tử làm việc với thày cùng các vị hướng dẫn khác ở nhập thất của thày, họ bắt đầu tẩy sạch tâm mình khỏi tất cả “minh triết” thế gian đó, những ý tưởng sai lầm đó, những ý định không tinh khiết đó khi tìm minh triết.

6.12. Đi tìm minh triết không hữu dụng

Sau đó họ đối mặt với một mức khai ngộ thứ nhì, bởi vì điều gì sẽ cần thiết để hòa điệu với Hiện diện của thày chứ? Điều cần thiết là con không có ý định đạt được bất kỳ dạng hiểu biết nào mà con xem là hữu dụng hay quý giá. Nếu con suy ngẫm về điểm này, con sẽ thấy là hầu hết mọi người đều cho rằng minh triết phải hữu dụng. Minh triết phải là cái gì đó mà con có thể dùng để thực hiện một cái gì, hay ít ra để biết một điều gì đó mà trước đây con không biết. Đây không phải là điều thày yêu cầu con làm. Thày yêu cầu con hòa điệu với Hiện diện của thày mà không có ý định thu hoạch một hiểu biết hữu dụng hay quý giá nào, không có ý định đạt được một hiểu biết mà con có thể đặt lên một cái thang nhiều hơn hay ít hơn.

Ý định của con phải là hòa điệu với Hiện diện của thày và trải nghiệm Hiện diện của thày – không có bất cứ gì khác. Có thể con sẽ nói: “Nhưng chúng con đang ở một khóa nhập thất trên cõi ê-the.” Con đang tự do khỏi mọi hạn chế của xác thân vật lý, nhưng con không tự do khỏi những ràng buộc của cảm thể, trí thể và bản sắc thể của con. Cho đến khi con đạt được một độ tinh khiết nào đó trong ý định nơi ba thể này, thì con sẽ không thể thực sự hoà điệu.

Làm cách nào các thày có thể xác định đệ tử nào trong nhóm hòa điệu được với Hiện diện của thày? Thật là đơn giản. Mọi người đi vào một căn phòng được che chắn khỏi mọi ảnh hưởng từ ngoài, cho nên không có gì từ bên ngoài làm xáo trộn các đệ tử. Thày ngồi, các đệ tử ngồi vòng quanh. Thày yêu cầu họ nhắm mắt theo nghĩa cõi ê-the, tức là họ tập trung vào nội tâm, xong họ hòa điệu với Hiện diện của thày, rất gần với họ. Sau một lúc, sẽ có ai đó mở ra một cánh cửa – vẫn trong cõi ê-the – và gọi nhẹ các đệ tử đi ra ngoài. Những ai đã không hòa điệu với Hiện diện của thày sẽ đứng dậy bước ra. Còn những đệ tử nào đã hòa điệu với Hiện diện của thày sẽ không nghe thấy cả tiếng gọi họ đi ra.

Ban đầu, tất cả các đệ tử sẽ nghe thấy tiếng gọi và bước ra. Với thời gian, một số sẽ nghe thấy tiếng gọi nhưng vẫn không đứng dậy vì họ muốn ở lại hòa điệu với Hiện diện của thày. Sau nhiều thời gian hơn nữa, một số sẽ không nghe thấy cả tiếng gọi, và giờ đây các thày biết là họ đã đạt đến mức không còn tìm kiếm minh triết để sử dụng cho một điều gì đó trong thế gian. Họ chỉ tìm minh triết vì một mục đích mà thôi, đó là vì họ đã ngộ ra là sự tự điều ngự đích thực có nghĩa là đi vào hợp nhất với đoàn chưởng giáo tâm linh mà họ là một thành phần. Bước đầu tiên để con là một người đồng-sáng tạo và sử dụng khả năng điều ngự vật chất là hòa điệu với Hiện diện của vị chân sư ở ngay trên con trong hàng ngũ tâm linh. Chính từ đó mà năng lượng vận động nỗ lực sáng tạo của con chảy xuống.

Đây là dạng minh triết gia tốc mà con cần hòa nhập vào ở tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày. Con có thể làm điều này ngay cả trong khi thức. Con có thể làm điều này bằng cách quán chiếu tất cả động lực khác nhau đã kéo con ra khỏi sự hòa nhập đơn thuần. Con có thể làm điều này bằng cách đọc bài chú của thày hay bài thỉnh kèm theo bài học này, xong dành ra chút thời gian để ngồi yên lặng không có mục đích nào khác hơn là hòa điệu với Hiện diện của thày. Có thể con sẽ không thành công trải nghiệm Hiện diện của thày xuyên qua xác thân vật lý dày đặc, nhưng con đừng nản chí, vì nỗ lực của con tự nó đã đáng công rồi.

Cho dù con không nhận thức Hiện diện của thày một cách ý thức, ý định và nỗ lực của con sẽ có tác dụng giúp con vượt qua cuộc khai ngộ ở tầng ê-the, ở mức nhập thất của thày. Bên ngoài luôn đi đôi với bên trong, cho nên thày khuyến khích con hãy đọc bài thỉnh kèm theo bài giảng này, rồi sau đó con hãy dành thời gian để hòa điệu với Hiện diện của thày. Con hãy làm như vậy sau mỗi bài thỉnh mà con đọc cho tới hết quyển sách này, và có thể con sẽ ngạc nhiên khi thấy kết quả.

TA LÀ Serapis Bey. Hiện diện của thày ở đây dành riêng cho con, nếu con chỉ hòa điệu với nó mà không có một ý định nào khác hơn là trải nghiệm Hiện diện mà THÀY LÀ.

4 | Thuần khiết và Uy lực của Ý định

Bài giảng của chân sư thăng thiên Serapis Bey qua trung gian Kim Michaels, ngày 2/1/2016.

TA LÀ chân sư thăng thiên Serapis Bey. Thày là Thượng sư của Tia sáng thứ Tư. Như con biết, tia này thường được gọi là tia của thuần khiết, nhưng thày cũng gọi là tia của gia tốc. Tất nhiên, đó là sự phối hợp của cả hai, bởi vì làm sao con có thể tinh lọc điều gì cho thuần khiết mà không gia tốc?

Điều thày muốn chỉ ra trong bài giảng này là nội dung của khóa học cũng như mục đích ở tầng khai ngộ thứ nhất tại khóa nhập thất của thày. Các thày đã đặt tên cho khóa học này là: Một Khóa học về Tự Điều ngự. Con hãy suy ngẫm chữ “tự điều ngự”. Con đang điều ngự cái Ta, chứ con không điều ngự thế gian hay điều ngự người khác. Con đang điều ngự cái Ta. Qua sự điều ngự cái Ta, quả là con có khả năng ảnh hưởng môi trường của con, cuộc sống chung quanh con và hoàn cảnh cá nhân của con, nhưng con sẽ không thể ảnh hưởng người khác, theo nghĩa là ép buộc người khác phải chiều theo ý muốn của con.

4.1. Tâm làm chủ vật chất có mục đích gì

Các thày cũng có nói rằng mục đích của khóa học này là để nâng tâm thức của con từ tầng tâm thức 48 lên tầng 96. Các thày có nói là khi con đến gần hơn với tầng 96, con sẽ điều ngự được khả năng của tâm làm chủ vật chất. Thày muốn giảng thêm về điểm này vì nó thường bị đủ loại học trò tâm linh hiểu lầm, kể cả học trò của chân sư thăng thiên. 

Con có thể tìm thấy khắp thế giới những cuốn sách chỉ dạy quyền năng thị hiện (precipitation), thị hiện bất cứ gì mình muốn, thường là của cải hay vàng bạc chẳng hạn. Khóa học của các thày không nhắm đến việc giúp con thị hiện của cải hay bất cứ vật gì khác con muốn, theo nghĩa là làm cho nó lộ diện ra “từ hư không”, nếu có thể nói như vậy.

Sự điều ngự của tâm trên vật chất mà các thày muốn trao cho con không phải là chuyện trình diễn một trò ảo thuật để gây ấn tượng với người khác hay làm giàu cho bản thân mình. Các thày không có ý muốn dạy con một loại ma thuật hầu con có thể điều khiển vật chất hay điều khiển thế giới bên ngoài trong khi mình vẫn còn nhiều tự ngã đến độ mình làm chuyện này từ một góc độ vị kỷ.

Tất nhiên khả năng của tâm điều ngự vật chất là một điều mà các thày mong muốn thấy con phát triển, nhưng nó phải được phát triển hoàn toàn đồng bộ với sự điều ngự cái ta. Các thày đã chứng kiến quá nhiều lần trên thế giới những người mong muốn đạt được một khả năng điều ngự nào đó trên vật chất, chẳng hạn qua việc thị hiện đồ vật, nhưng lại không sẵn lòng theo học khóa điều ngự cái ta. Điều này, tất nhiên, các thày là chân sư thăng thiên không dạy cho đệ tử chân chính của mình.

4.2. Tự điều ngự không phải là một kỹ năng máy móc

Thày muốn chỉ ra cho con một điều mà rất nhiều học trò của chân sư thăng thiên không hiểu. Tự điều ngự không phải là một công việc mà con có thể học cùng một cách như con học lái xe ô tô, ví dụ. Rất nhiều kỹ năng cần thiết để thành công trong thế gian đều có tính cách phần nào máy móc. Gần như bất cứ ai sẵn sàng bỏ sức ra tập tành kỹ năng đó đều có thể trở nên thành thạo tới một mức nào đó. Một số có thể sẽ không bao giờ biết lái xe quá trình độ xoàng xĩnh, nhưng rất nhiều người sẽ có khả năng học lái xe tới một trình độ khá cao, thậm chí chuyên nghiệp, nếu họ bỏ ra đủ thời gian và công sức.

Suốt các thời đại đã có rất, rất nhiều học trò tâm linh cũng có cách tiếp cận như vậy với tự điều ngự. Họ nghĩ đó là một con đường máy móc mà họ có thể đi theo. Nếu họ thực hiện tất cả mọi bước được ấn định thì họ sẽ tự động đạt được khả năng tự điều ngự đã hứa hẹn. Con sẽ thấy là có nhiều tổ chức hay ngay cả nhiều vị thày tuyên bố là họ có thể dẫn con qua một khóa học khai ngộ, một con đường khai ngộ sẽ cho con một số khả năng đặc biệt.

Đây không phải là cách dạy của chân sư thăng thiên. Các thày không quan tâm đến chuyện con đạt được một số khả năng cụ thể nào đó, cho dù là khả năng thần thông hay thị hiện đồ vật. Đó hoàn toàn không là quan tâm của các thày. Quan tâm của các thày là nâng cao tâm thức của con, và điều này con đạt được qua tự điều ngự. Hoặc con cũng có thể nói, khả năng điều ngự bản thân được thực hiện qua việc nâng cao tâm thức – tùy con thích nói thế nào cũng được.

Nâng cao tâm thức không phải là một con đường máy móc. Đi ngược lại dòng lịch sử xa thăm thẳm, luôn luôn đã từng có những trường học, tổ chức hay đạo sư tuyên bố là họ có thể dẫn đệ tử đi theo một con đường máy móc. Chẳng hạn con cũng biết tổ chức Freemasons (Hội Tam điểm) có 33 mức khai ngộ, và khi con đi qua mỗi bước khai ngộ, con được ban cho một tước vị. Nhiều trường đạo và đạo sư khác cũng vận hành giống như thế. Nếu con đi qua các khai ngộ vỏ ngoài và không bị rớt thê thảm thì con sẽ tự động nhận được tước vị.

Hiển nhiên con cũng thấy một cách thức tương tự nơi các cơ sở giáo dục trên thế giới. Nếu con học tập, nghiên cứu một bộ môn đủ lâu và nếu con thỏa mãn mọi đòi hỏi vỏ ngoài, thì con sẽ được cấp một mảnh bằng. Con nhận được một bằng tốt nghiệp xem con là một chuyên gia trong bộ môn đó. Nếu chẳng hạn con có bằng tâm lý học thì liệu bằng này có chứng nhận là con trực nhận được môn tâm lý học, kể cả tâm lý của con và cách tâm lý vận hành trong bản thân con? Như nhiều người đã chứng tỏ, bằng cấp không có nghĩa như vậy, và con đường khai ngộ của chân sư thăng thiên cũng tương tự như thế.

4.3. Con đường giả hiệu của sa nhân

Khi con bước trên con đường dẫn đến tự điều ngự, luôn luôn có nguy cơ khi các thày đưa ra một bộ sách mô tả những khai ngộ mà con đi qua nơi bảy khóa nhập thất của các Thượng sư. Bất cứ ai cũng có thể mua sách, học các bài giảng trong đó, rồi đọc các bài thỉnh, và như thế họ có thể bước đi những bước vỏ ngoài.

Tất nhiên là các thày có lý do khi khởi sự với Tia thứ Nhất rồi lần lượt xây đắp thêm từ đó. Các thày là Thượng sự phối hợp nỗ lực của mình để sự hoạch định cũng được phối hợp. Rõ ràng điều này chỉ hợp lý cho một học trò khởi sự với Tia thứ Nhất, đi qua Tia thứ Hai, rồi Tia thứ Ba và giờ đây đến với Tia thứ Tư mà thày là đại diện. Khi con có một cuốn sách chứa đựng giáo lý và khai ngộ, rất có thể một ai đó sẽ mua cuốn sách này mà chưa đi qua ba cuốn trước. Khi trọn bộ sách được hoàn tất, rất có thể một ai đó sẽ mua toàn bộ, đi từ cuốn thứ nhất cho tới cuốn thứ bảy, đọc tất cả bài học, thực hành tất cả bài thỉnh, rồi sẽ tưởng là mình đã học xong toàn bộ khóa học. Con đường khai ngộ chân chính không vận hành theo cách đó.

Quả thật các sa nhân, mà đôi khi các thày cũng gọi là hàng ngũ chưởng giáo giả hiệu, đã cố gắng tạo ra một con đường khai ngộ máy móc. Giấc mơ của chúng là nếu con đi qua một số bước vỏ ngoài và thỏa mãn một số đòi hỏi vỏ ngoài, thì con sẽ tự động đạt được một danh hiệu hoặc ngay cả một số quyền năng.

Ít nhất đối với một số người, họ có thể đạt được một khả năng điều ngự nào đó trên vật chất mà chưa thanh lọc cái ta của mình, và như vậy họ chưa đạt được sự tự điều ngự. Hiển nhiên đây chính là giấc mơ của sa nhân. Chúng không muốn thanh lọc cái ta, chúng không muốn tự điều ngự. Thật sự, chúng không muốn tự điều ngự mà chỉ muốn điều ngự khả năng kiểm soát người khác hay thậm chí điều ngự vật chất vật lý.

4.4. Tự điều ngự không phải là kiểm soát cái ta

Con yêu dấu, con thấy đó, có những người nghĩ rằng tự điều ngự có nghĩa là khả năng kiểm soát cái ta. Có cả những học trò của chân sư thăng thiên đã theo học giáo lý của chân sư hàng chục năm trời mà vẫn tin là thày, Serapis Bey, là một vị thày nghiêm ngặt xem kỷ luật là trên hết. Họ nghĩ là thày ban bố một loạt những quy tắc kỷ luật để họ phải theo. Nếu họ tuân theo quy tắc và chịu được kỷ luật của thày thì họ nghĩ là họ sẽ có khả năng kiểm soát cái ta. Nhiều, rất nhiều học trò đã tìm cách kiểm soát cái ta.

Tại sao thày lại nói chuyện này ngay bài học đầu tiên? Đó là vì tất nhiên, bài học đầu tiên là sự phối hợp của Tia thứ Nhất của Uy lực với Tia thứ Tư của Thuần khiết. Kiểm soát là gì? Đó là dạng tha hóa cơ bản của Tia thứ Nhất, như vị đồng môn yêu dấu của thày, chân sư MORE, đã giải thích trong sách của mình. Trong khóa học này, các thày không nhắm vào việc giúp con kiểm soát cái ta bằng cách ép buộc thân xác cùng tâm vỏ ngoài của con phải gượng sống theo một số quy luật và chuẩn mực vỏ ngoài. Hãy để thày nói điều này thật rõ ràng cho con, nói rõ ràng hết mức dựa trên trạng thái tâm thức của những người có xác suất đọc cuốn sách này.

4.5. Con không thể giấu bất cứ gì khỏi Serapis

Trong bài chú cho thày, có câu: “Serapis Bey, biết bao uy lực đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.” Phải, mắt của thày thanh tẩy vì mắt thày cũng nhìn xuyên thấu. Mắt thày nhìn xuyên thấu mọi bợn nhơ cùng những lớp hỏa mù mà bợn nhơ này gây ra. Bợn nhơ làm gì chứ? Khi nước có bợn nhơ, thường nước sẽ bị đục và con không nhìn xuyên qua được.

Cho nên những ai còn bị mắc kẹt trong trạng thái tâm thức thấp hơn thường có nhiều bợn nhơ trong tâm đến độ họ không thể thấy rõ ý định của mình. Khi thày nói “họ”, thày muốn nói đến con người nói chung. Nhiều học trò đến đây với ý định có vẻ trong lành nơi tâm ý thức nhưng lại không mấy trong lành nơi tâm tiềm thức. Vấn đề là họ không thấy rõ những ý định này chính vì bợn nhơ che khuất tâm tiềm thức.

Mắt thày thanh tẩy vì mắt thày nhìn xuyên thấu tất cả những lớp màn hỏa mù đó. Con có thể nói: “Nhưng vậy thì thày có đang vi phạm quyền riêng tư của người khác hay không?” Con yêu dấu, thày không đi khắp mọi nơi nhìn chăm chăm vào mỗi người với cặp mắt soi rọi. Khi con đọc quyển sách này, con đã có trong tâm ý thức một ý định quy thuận những khai ngộ của thày là Thượng sư của Tia thứ Tư. Làm sao con có thể quy thuận khai ngộ của thày nếu con không sẵn lòng để thày nhìn vào con?

Thày không cố ép buộc con dù bằng cách nào. Thày chỉ đang cố giúp con nhìn ra là thật không nghĩa lý gì nếu con mang ý định trong tâm muốn đi theo khai ngộ của Tia thứ Tư dưới Serapis Bey mà lại đồng thời muốn giấu giếm điều gì đó khỏi mắt thày.

Con thấy đó, con yêu dấu, thày không phải là loại thày nghiêm khắc mà nhiều người tưởng tượng dựa theo kinh nghiệm thế gian của họ. Thày không phải là ông trung sĩ trong quân trường, thích thú moi móc tất cả lỗi lầm của con, và nếu được dịp, ông ta sẽ không thương tiếc lôi nó ra cho mọi người trông thấy. Thày không ở đây để mắng nhiếc con. Thày không ở đây để khiến con xấu hổ. Thày không ở đây để hạ thấp con dù như thế nào. Thày không là vị thày kỷ luật khắc nghiệt mà nhiều người tưởng. Thày là chân sư Tia thứ Tư của Thuần khiết. Thày không thể đem lại thuần khiết nếu thày không nhìn thấy bợn nhơ. Điều này không thể làm được, con yêu dấu. Tại sao biết bao người lại nghĩ có thể làm được? Bởi vì họ đã bị tâm thức sa ngã ảnh hưởng.

Một trong những yếu tố cơ bản của tâm thức sa ngã, tất nhiên, là các sa nhân không muốn đứng trước mặt Thượng đế. Chúng không muốn đối diện với vị thày tâm linh từ cõi thăng thiên. Để vào được cõi thăng thiên thật không khó; con chỉ cần thanh lọc tâm thức mình cho không còn điều gì có từ lực kéo con xuống cõi vật chất, là cõi chưa thăng thiên. Sa nhân không sẵn sàng làm chuyện này, thậm chí nhiều sa nhân còn không hiểu là chúng cần làm chuyện này. Chúng vẫn cho rằng chúng có thể dùng vũ lực xông lên thiên đường bằng cách giấu giếm điều gì đó khỏi các chân sư thăng thiên.

Có nhiều học viên đến khóa nhập thất của thày mà vẫn nghĩ mình có thể vượt qua cả bảy tầng khai ngộ ở khóa tu này trong khi giấu giếm ý định thật sự của mình khỏi mắt thày. Con yêu dấu, chuyện này không nghĩa lý gì hết. Con không thấy được sao? Không có chuyện gian lận trên con đường khai ngộ dưới các chân sư thăng thiên. Các thày đã có nói là Tia thứ Tư hình thành cái eo, cái điểm nối kết, trong dòng chảy hình số 8 giữa các khai ngộ của ba tia đầu và khai ngộ của ba tia sau. Cũng có thể nói đó là “lỗ kim”. Hẳn con cũng biết trong Kinh thánh có câu nói rằng một con lạc đà chui qua lỗ kim sẽ dễ hơn một ông nhà giàu bước lên thiên đàng. Thế nào là ông nhà giàu? Đó là một người cho rằng mình sở hữu một vật gì đó trong thế gian và muốn đem nó theo qua lỗ kim. Những ai đến đây và cho rằng mình sở hữu một điều gì đó – và muốn đem nó theo lên trạng thái thăng thiên, mang nó theo vào khóa nhập thất của thày, và cũng mang nó xuyên qua khóa của thày lên các tia sáng cao hơn – thì họ giống như ông nhà giàu kia.

Đâu là mục đích của thanh lọc? Chẳng phải đó là buông bỏ những thứ giữ chân con lại hay không? Làm sao con có thể buông được điều gì nếu con không nhìn vào nó? Không có chuyện từ bỏ một cách vô thức, không có chuyện buông ra một cách vô thức; chuyện này chỉ có thể ý thức mà thôi. Thật không nghĩa lý gì nếu con nghĩ mình có thể vượt qua các khai ngộ ở khóa nhập thất của thày mà vẫn giấu thày điều gì đó. Con yêu dấu, sẽ càng không nghĩa lý gì nếu con nghĩ mình có thể vượt qua khai ngộ ở khóa nhập thất của thày mà vẫn giấu gì đó khỏi chính con.

4.6. Tự điều ngự và giấu giếm khỏi chính mình

Khóa học này là khóa học về tự điều ngự, điều ngự chính mình. Làm sao con có thể điều ngự cái ta nếu có những khía cạnh của cái ta – những khu vực trong cái ta – mà con không sẵn sàng nhìn vào? Không thể nào được. Nhiều người cho rằng tự điều ngự có nghĩa là mình kiểm soát cái ta bằng cách kềm chế những yếu tố của cái ta không thể nào chấp nhận theo một chuẩn vỏ ngoài. Đây không phải là cách học tại khóa tu của thày. Ở đây không có chuẩn vỏ ngoài. Thày không là vị thày nghiêm ngặt ép buộc con theo một chuẩn vỏ ngoài và ra lệnh con phải gượng sống theo đó. Thày không dùng kỷ luật để áp đặt một chuẩn vỏ ngoài lên con khi con đến đây. Vậy có nghĩa chăng là con không phải theo chuẩn mực nào? Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là một cái chuẩn, nhưng chuẩn này là do chính con quy định! Nó được quy định bởi những bợn nhơ mà con mang theo khi con bước qua cổng trường.

Con thấy đó, con yêu dấu, có một cánh cổng mở lối cho con vào nhập thất của thày. Bất cứ lúc nào con cũng có thể quyết định là con đã chán các khai ngộ ở khóa này và con có thể rời khóa này qua cùng cánh cổng mà con đã bước vào. Mục đích khi con vượt qua cả bảy khai ngộ là để con tới được cánh cổng ở bên kia, là cánh cổng dẫn đến mức khai ngộ kế tiếp của vị Thượng sư kế tiếp.

Con thấy không, con yêu dấu, không cách chi con sẽ lên được khóa học đó mà vẫn mang theo những bợn nhơ mà con đem vào khóa của thày. Con không thể bước khỏi khóa của thày qua cánh cổng cao hơn kia mà vẫn đem theo hành trang con đã mang qua cổng vào. Các bợn nhơ phải được biến hóa, năng lượng phải được chuyển hóa.

Đằng sau năng lượng là một tin tưởng mà con có về bản thân con và về thế giới. Tin tưởng này đã được nhập vào, được chấp nhận vào trong tâm con, qua một quyết định mà con đã lấy. Trừ khi con phơi bày quyết định này ra, nhìn thấy những giới hạn đằng sau nó, và thay thế nó trong ý thức với một quyết định cao hơn, thì con sẽ không sạch được bợn nhơ. Nếu con không sạch bợn nhơ, làm sao con có thể vươn lên mức khai ngộ kế tiếp? Có một cửa vào, có một cửa ra, nhưng ở giữa cũng có những cánh cửa khác. Cho mỗi bước đi lên, có một cánh cửa mà con phải đi qua. Con không thể đi qua cánh cửa thứ nhì nếu con còn mang bợn nhơ mà đáng lý con đã phải bỏ lại ở tầng khai ngộ thứ nhất.

Không có chuyện ăn gian ở đây, con yêu dấu. Không có chuyện giấu giếm bất cứ gì. Con có thể gia nhập khóa nhập thất của thày ở tầng thứ nhất mà vẫn còn giấu gì đó khỏi chính con – điều này con được phép. Nhưng con sẽ không đi quá được tầng đầu tiên nếu con vẫn còn giấu gì đó khỏi chính con. Điều này không thể xảy ra, con yêu dấu. Thày biết là tự ngã của con sẽ nghĩ ra đủ loại lý do tại sao điều này có thể làm được, nhưng nó không thể xảy ra. Thày là Thượng sư và thày đã chứng kiến hàng triệu học trò đến nhập thất, trong số đó có nhiều người đã bỏ đi vì họ không chịu nhìn vào những gì họ cần nhìn hầu vươn lên mức khai ngộ kế tiếp. Thày không lên án, nhưng thày không thể giúp con nếu con không sẵn lòng nhìn vào chính mình.

4.7. Xung đột nhóm

Hẳn con đã nghe nói hoặc đã đọc là khi các học viên lần đầu tiên đến nhập thất của thày, họ được xếp vào cùng nhóm với những dòng sống có cá tính đối chọi với họ, hoặc có đặc điểm đối chọi về chiêm tinh học, nghiệp quả hay gì nữa. Người ta nói là con sẽ không tiến lên cao hơn được cho tới khi con nhận ra sự hài hòa là quan trọng hơn tất cả những mâu thuẫn đó. Nhưng thật ra chúng ta có thể nhìn khai ngộ này theo nhiều cách khác.

Khi đầu tiên học viên được xếp chung vào nhóm với nhiều cơ hội đụng độ nhất, cuộc khai ngộ thật sự là làm thế nào đạt tới điểm con vượt qua chướng ngại chủ yếu trên đường tâm linh. Thày cũng biết con có thể nói là mỗi tầng tâm thức đều có một chướng ngại chủ yếu. Có một chướng ngại rất lớn từ tầng tâm thức 48 lên 49. Nhưng trên đường tâm linh – con đường tự điều ngự – chướng ngại chủ yếu là đạt tới điểm con không còn tìm cách thay đổi người khác hay thay đổi thế giới vật chất nữa.

Ở ba tầng khai ngộ đầu tiên, có nhiều học viên muốn khai ngộ là vì họ có một ý định ẩn giấu, hay có lẽ một ý định không mấy ẩn giấu, là đạt được quyền năng kiểm soát người khác và môi trường của mình. Họ muốn làm chủ hoàn cảnh của mình để họ có đúng những điều kiện mà họ cho là cần thiết hầu đạt những gì họ muốn – có thể là sự hài hòa bên trong, có thể là tâm an bình, có thể là một số điều kiện và trải nghiệm vỏ ngoài.

Con sẽ ngạc nhiên về số học viên đến nhập thất của thày mà vẫn còn mong muốn dùng quyền lực để kiểm soát, mong muốn đạt quyền năng để điều khiển hoàn cảnh của mình. Khi họ tìm cách kiểm soát người khác hay môi trường của họ thì thật ra họ đang cố làm gì? Họ đang cố chế tạo một trạng thái trong tâm. Mọi chuyện xảy ra trong cõi vật chất được trải nghiệm qua tâm. Chính tâm con, nội dung của tâm con, cấu trúc, khuôn đúc trong tâm con, sẽ định đoạt cách con trải nghiệm một hoàn cảnh vỏ ngoài nào đó. Như các thày đã giải thích nhiều lần, hai người có thể có cùng hoàn cảnh vỏ ngoài mà lại có trải nghiệm nội tâm rất khác nhau. Các học viên này đang cố thay đổi hoàn cảnh nội tâm của họ bằng cách kiểm soát hoàn cảnh vỏ ngoài.

Trước hết, điều này không thể làm được quá một mức nào đó. Ở một mức nào đó thì có thể làm được, như một số người trên thế giới đã chứng tỏ. Như con có thể thấy, một số kẻ vô cùng giàu có và quyền lực đã đạt được một mức độ kiểm soát nào đó trên môi trường sống của họ. Trong số đó, nhiều người là sa nhân cao cấp đã đạt được khả năng kiểm soát này nhờ họ đã luyện tập trong một thời gian rất, rất dài, thường kéo dài suốt quá trình sa ngã của họ qua mấy bầu cõi.

Chắc chắn những kẻ như thế, qua luyện tập và kinh nghiệm suốt thời gian dài đó, có thể đoạt được một khả năng điều ngự nào đó trên cõi vật chất, một khả năng kiểm soát nào đó trên người khác. Liệu đây có thật là điều con đang cố đạt được như một học trò của chân sư thăng thiên? Nếu con chưa đạt được khả năng này thì liệu con có nghĩ là con sẽ đạt được trong phần còn lại của kiếp này hay không? Nếu con không đạt được trong kiếp này, con sẽ phải tái đầu thai hàng thiên niên kỷ nữa cho tới khi con đạt được sự điều ngự đó – hay nói đúng hơn, khả năng kiểm soát vật chất đó. Có thật con muốn như vậy không?

4.8. Thanh lọc ý định của con

Con thấy đó, con yêu dấu, tầng khai ngộ thứ nhất ở nhập thất của thày là sự phối hợp giữa uy lực và thuần khiết, nhưng con cần điều gì để có thể sử dụng uy lực? Con cần một ý định, con cần một động lực. Tầng đầu tiên ở khóa nhập thất của thày là để giúp con thanh lọc ý định, động lực của con.

Tại sao thày lại xếp mọi người vào nhóm nơi họ có nhiều xác suất đụng độ nhất? Bởi vì đó là một trong những cách hiệu quả nhất để làm hiển lộ những ý định ẩn giấu, những động lực ẩn giấu. Con thấy rất nhiều lần các học viên cố gắng kiểm soát lẫn nhau. Điều thường xảy ra trong một nhóm là có hai người nổi bật là người mạnh nhất, là người có mong muốn mạnh mẽ nhất để làm chủ tình hình. Hai học viên này, như thành ngữ quen thuộc, sẽ “khóa sừng” với nhau và tìm cách chế ngự lẫn nhau cũng như cả nhóm. Con nhìn kìa, chắc hẳn hai vị này chưa sẵn sàng lắm để bước lên mức kế tiếp trong khóa của thày, phải không con? Họ có thể nghĩ là họ rất sẵn sàng rồi vì họ quyền uy quá đỗi, nhưng đó là họ nghĩ vậy thôi, chứ quyền lực có ích gì khi con không có ý định?

Con có thấy chăng là trên thế giới, các sa nhân đã làm hết sức để có quyền lực vật lý mà không cần ý định thuần khiết? Adolph Hitler có quyền lực vật lý để bắt bớ sáu triệu người, nhốt họ vào trại tập trung rồi giết hại số lớn. Joseph Stalin có quyền lực vật lý để bắt bớ nhiều triệu người hơn nữa, nhốt họ vào trại tập trung rồi hành quyết họ. Chủ tịch Mao vĩ đại có quyền lực còn lớn hơn cả Stalin. Cả ba đều có quyền lực vật lý nhưng liệu ý định của họ có thuần khiết hay không? Chắc chắn là không, vì họ lấy đi mạng sống – thày tin con sẽ đồng ý như vậy.

Quyền lực vật lý không liên quan gì đến ý định thuần khiết. Những ai có ý định thuần khiết sẽ vô cùng miễn cưỡng sử dụng hay biểu dương quyền lực vật lý. Các thày có rất đông học trò đến nhập thất của thày sau khi đã học hỏi và thực hành giáo lý của chân sư thăng thiên suốt một thời gian. Họ thường có giấc mơ là một ngày họ sẽ đạt được một loại quyền năng đặc biệt, một loại quyền năng của Tánh linh, thậm chí cả Thiên khiếu của Thánh linh mà nhiều nhóm có bàn đến. Nhiều khi các học viên này mong muốn như vậy vì họ nghĩ, trong tâm ý thức, là nếu họ đạt được những khả năng đó, họ sẽ có thể phô bày và chứng minh cho mọi người thấy là đường tu tâm linh có hiệu quả. Họ cho là họ có thể cải đạo hàng triệu người theo học giáo lý của chân sư thăng thiên.

Tại sao các chân sư không chỉ xuất hiện trên trời, hay xuất hiện giữa quần chúng và chứng minh là mình có thật? Con yêu dấu, đó là vì các thày tôn trọng Luật Tự quyết, và các thày tôn trọng những sự khai ngộ mà địa cầu này được hoạch định để cống hiến. Có ích gì mà lôi kéo hàng triệu người đi theo giáo lý của chân sư khi họ chưa ở mức có được ý định thuần khiết để học những điều các thày giảng dạy? Các thày không chủ trương hấp dẫn số đông. Tại sao các thày lại muốn làm chuyện đó? Các thày không ham có hàng tỷ tín đồ chưa sẵn sàng cất bước trên con đường khai ngộ mà các thày cống hiến. Cho nên các thày không ham có đệ tử đặt trọng tâm phát triển những khả năng đặc biệt với một ý định ô trược không thẳng hàng với ý định của các thày. Con không thấy hay sao? Tầng khai ngộ thứ nhất tại nhập thất của thày trên con đường tự điều ngự hoàn toàn nhằm mục đích giúp con thanh lọc ý định của con. Trước hết, con phải ở trong một nhóm nhiều người và con phải đạt tới mức chứng tỏ là con không có ý định thay đổi người khác để mình cảm thấy đặc biệt thế nào đó. Con không có ý định chế ngự hay kiểm soát người khác; con không có ý định chế ngự hay kiểm soát vật chất để tạo cho mình một cảm giác nào đó. Ý định của con là điều ngự cái ta, không phải bằng cách kiểm soát cái ta mà điều ngự cái ta.

4.9. Các yếu tố của sự tự điều ngự

Thế nào là tự điều ngự? À, yếu tố đầu tiên của tự điều ngự là thanh lọc chính mình, thanh lọc bốn thể phàm cho không còn tất cả những bợn nhơ mà con đã góp nhặt trong nhiều kiếp sống trên địa cầu hay hành tinh khác. Chính những bợn nhơ này kéo con vào một số khuôn nếp. Đó có thể là khuôn nếp hành xử, khuôn nếp cảm xúc, khuôn nếp suy nghĩ hay một số khuôn nếp bản sắc. Con liên tục bị kéo vào những khuôn nếp này và tất nhiên đây không phải là tự điều ngự.

Bước đầu tiên của con là làm sạch tâm con cho không còn những khuôn nếp đó nữa. Không phải là chuyện kiểm soát và kềm chế khuôn nếp, hay thay thế chúng với những khuôn nếp mạnh mẽ hơn. Đó không phải là tự điều ngự. Đó có thể là tự chủ, nhưng không là điều các thày muốn nhìn thấy nơi đệ tử của mình. Đó là điều mà các thày sa ngã, hàng ngũ chưởng giáo giả hiệu, muốn tìm nơi học trò của họ, nhưng các thày thì muốn tìm khả năng tự điều ngự. Con đạt được tự điều ngự bằng cách xem xét tất cả mọi bợn nhơ trong tâm thức mình và, một cách ý thức, con để cho chúng ra đi và quyết định lấy một ý định cao hơn.

Ở một số tầng tâm thức cao trước khi con thăng thiên, con có thể đạt được một khả năng điều ngự nào đó trên vật chất, như Giê-su đã chứng tỏ. Có thể là con cũng sẽ đạt tới trình độ điều ngự này. Có thể con sẽ biểu lộ khả năng này, nhưng cũng có thể con sẽ không biểu lộ chút nào, như nhiều người đã làm (hay không làm) suốt chiều dài lịch sử. Nhiều người đã đạt được một khả năng điều ngự nào đó trên vật chất mà không bao giờ biểu lộ cho người khác vì họ hiểu đây không phải là ý định cao nhất.

Mục đích của khóa học này – đưa con từ tầng tâm thức 48 lên 96 – không phải để khiến con trình diễn một số thủ thuật gây ấn tượng, mà để con đạt đến tự điều ngự, có nghĩa trước hết là con thanh tẩy tâm con cho không còn những thứ kéo con vào các khuôn nếp thấp kém. Cũng có nghĩa là con thanh tẩy các động lực của mình, ý định của mình, hầu con tự đặt mình cho thẳng hàng với ý định của các chân sư thăng thiên.

Con thấy đó, con yêu dấu, bước đi trên đường tu tâm linh không có nghĩa là con mặc vào một chiếc áo tù bó tay bó chân. Thày không đang bảo là khi con tiến gần hơn đến tầng tâm thức 144, con bị bó tay không thể làm gì được vì con luôn luôn phải tuân theo ý định của đoàn chưởng giáo ở trên con. Mà thày bảo là khi con tiến gần hơn đến tầng 144, càng ngày con sẽ càng đồng điệu hơn, thẳng hàng hơn với đoàn chưởng giáo ở trên con. 

4.10. Thanh tẩy và quyền tự quyết

Phải, không có nghĩa là con không có quyền tự quyết, mà con sẽ sử dụng quyền tự quyết của mình một cách khác hoàn toàn những gì con có thể mường tượng ở mức tâm thức hiện thời của con, đến độ thày không có cách chi mô tả cho con qua ngôn từ. Ở mức hiện thời của con, thật chẳng ích gì mà cố mô tả những gì con sẽ đạt được ở những mức cao hơn quá xa, vì các thày không muốn đặt ra cho con một lý tưởng bất khả thi. Điều thày cố trao cho con ở đây là ý niệm rằng trên đường tự điều ngự, sẽ có một giai đoạn con cần buông mọi ý định thấp kém, và trên thực tế, con làm vậy bằng cách hòa điệu với ý định của vị Thượng sư mà con đang làm việc – chẳng hạn như chính thày trên Tia thứ Tư, hay Hilarion trên Tia thứ Năm, vân vân.

Khi con tham gia một khóa nhập thất, con thanh tẩy ý định của con bằng cách hòa điệu với ý định của Thượng sư trông coi khóa đó, và con tự đưa mình vào đồng bộ với ý định đó. Có nghĩa là con sẽ buông bỏ những ý định xuất phát từ tự ngã, và dĩ nhiên, tự ngã sẽ cảm nhận điều này như một hạn chế. Nó sẽ cố khiến con tin là quyền tự quyết của con đang bị hạn chế, giống như mình phải mặc vào một bộ áo tù bó tay bó chân vậy. Kỳ thực là con đang cởi áo tù ra, là áo tù của tự ngã mà con đang mặc, nhưng thày đồng ý  là trong một thời gian con sẽ khó lòng thấy được điều này. Cho nên thày cảnh báo trước là đến một thời điểm, sẽ có một sự khai ngộ ở tầng thứ nhất tại khóa nhập thất của thày khi con phải sử dụng sức mạnh ý chí có ý thức để vượt xa hơn ý định dùng quyền lực của tự ngã.

Tự ngã sẽ nghĩ ra đủ loại lý do tại sao con nên sử dụng quyền năng, chẳng hạn để tạo ấn tượng đối với người khác, thu hút hoc trò cho chân sư thăng thiên, hay làm một số công việc tốt lành nào khác trong thế gian. Con cần dùng sức mạnh ý chí có ý thức của mình để tự gia tốc vượt lên trên nó, không tìm cách áp chế nó, mà nhìn vào ý định và so sánh với ý định mà thày sẽ biểu lộ cho con.

Khi con kinh qua khai ngộ thứ nhất tại nhập thất của thày, con sẽ chiêm nghiệm được ở mức nội tâm ý định của thày, ý định của những vị đang làm việc trên Tia thứ Tư. Con sẽ chiêm nghiệm được sự khác biệt, sự tương phản. Như thày đã nói, các thày không có ý định kiểm soát con người hay xâm phạm quyền tự quyết, hay ép buộc ai đó phải khai ngộ khi họ chưa sẵn sàng. Con cũng phải đạt đến mức đó bằng cách buông bỏ mọi ham muốn lãng mạng rằng mình sẽ hoàn thành những chuyện tuyệt vời trong thế gian hay kiểm soát môi trường của mình.

4.11. Điều ngự vật chất đích thực 

Đúng là khi con tiến gần đến tầng 96, con sẽ đạt được một khả năng điều ngự nào đó của tâm trên vật chất, nhưng đó không phải là những chuyện lãng mạn như bỗng dưng con làm thị hiện một vật nào đó từ hư không. Kỳ thực, con sẽ chứng tỏ một cách sống cao hơn, nghĩa là con sống trong thế giới vật chất nhưng đời con là sự biểu hiện cái ta cao hơn, biểu hiện Hiện diện TA LÀ của con. Con không sống cuộc đời theo tiêu chuẩn của thế gian, và chắc chắn không theo tiêu chuẩn của sa nhân. Con sống theo một viễn quan cao hơn, một ý định cao hơn khác hẳn hầu hết mọi người trên thế giới. Không còn vấn đề chứng tỏ một khả năng điều ngự nào đó bằng cách trở nên giàu có, quyền lực hay đẹp đẽ hơn người, mà là chứng tỏ con đang đi theo một viễn quan cao hơn, một viễn quan không nhị nguyên, không nhằm nâng bản thân mình lên cao trội hơn người hay thậm chí hạ người khác xuống thấp. Con đang cố nâng cao Tất Cả, nhưng trước tiên, con đang cố tự thanh tẩy và tự điều ngự.

Đây là loại điều ngự mà các thày muốn trao cho con trong khóa học này. Nếu con thèm khát một loại điều ngự nào khác, hay nếu cho tới giờ con vẫn nghĩ là khóa học này sẽ cho con loại điều ngự khác đó, thì ở tầng khai ngộ thứ nhất tại nhập thất của thày, đây là lúc để con xét lại. Nếu con không thể từ bỏ những ham muốn đó, đây là thời điểm rất tốt để con rời khóa học này, rời con đường này, và đi tìm một loại đạo sư sẽ hứa hẹn cho con khả năng điều ngự vỏ ngoài đó qua sự kiểm soát. Thày tôn trọng quyền tự quyết của con. Thày không đang cố giữ con lại khóa nhập thất của thày nếu con chưa sẵn sàng nhận những khai ngộ mà thày cống hiến. Đối với rất nhiều học viên đến khóa của thày – thường với ý định mà họ cho là tốt đẹp nhất nhưng thật sự không phải là cao nhất – điều này có thể sẽ gây sốc cho họ ở tầng đầu tiên này. Cũng giống như một giai đoạn sàng lọc vậy. Các thày “tách vỏ trấu khỏi hạt lúa” như người ta thường nói. Không theo nghĩa là chính các thày làm việc đó mà các thày cho phép mỗi học viên nhìn thấy rõ hơn ý định của mình.

Cũng không phải là thày lên án bất cứ ai có ý định muốn trải nghiệm một điều ngự nào đó qua sự kiểm soát. Như các thày có nói, tất cả mọi chuyện xảy ra trên trái đất chỉ có thể xảy ra vì có những người đang đầu thai muốn một loại trải nghiệm nào đó. Nếu con mong muốn trải nghiệm khả năng kiểm soát người khác hay kiểm soát vật chất – mà không xem xét chính mình – thì giản dị thày không thể giúp con. Thày không lên án con, nhưng thày khuyên con nên đi nơi khác tìm kiếm trải nghiệm đó rồi trở lại đây một khi con đã sẵn sàng nhận những gì thày cống hiến.

4.12. Một số người muốn một con đường khác

Thày không nghiêm khắc theo định nghĩa của thế gian. Nhưng mặt khác, con không thể đánh lừa thày, con không thể ăn gian với thày, con không thể giấu giếm bất cứ gì khỏi thày. Nếu ý định của con không thẳng hàng với mục đích của khóa học này về tự điều ngự, con sẽ không thể bước qua cánh cổng dẫn từ tầng khai ngộ thứ nhất lên tầng khai ngộ thứ hai tại nhập thất của thày. Con tùy ý ở lại tầng thứ nhất bao lâu cũng được. Con có thể ở lại trong nhóm có nhiều người khác cũng gặp cùng vấn đề như con là không buông bỏ ý định của mình.

Con có thể ở lại đó gần như bao lâu cũng được, hoặc con có thể bước ra qua cùng cánh cửa mà con đã bước vào. Đây là chọn lựa của con. Thày không nghiêm ngặt độc tài. Chính con đang áp dụng kỷ luật bằng cách phóng chiếu một hình ảnh lên thày. Nhiều học viên bỏ ra đi thường ra đi bằng cách phóng chiếu một hình ảnh lên thày, bảo là thày đã không đáp ứng được mong đợi của họ, hay đã không làm chuyện này chuyện nọ.  

Điều này chỉ chứng tỏ là họ vẫn chưa chán chê chuyện dùng người khác hay hoàn cảnh vỏ ngoài làm lý cớ để khỏi phải xem đến bản thân. Nếu họ cần dùng thày để viện cớ thì thày chỉ có thể cho phép họ làm. Nếu họ ở trong tâm trạng phóng chiếu một hình ảnh lên thày để viện cớ, thường thường không có gì thày có thể nói để giúp họ nhìn ra họ đang làm gì. Hiển nhiên như một vị thày chân chính, nếu thày không thể giúp học viên, thày sẽ không cưỡng ép người đó. Điều thày sẽ làm trong một số trường hợp là gia tăng ánh sáng thuần khiết đến độ những ai không buông bỏ ý định ô trược của mình sẽ không thể chịu nổi ở lại đó.

Các thày sắp xếp các học viên thành nhiều nhóm. Trong một số trường hợp hiếm hoi, có nhóm sẽ ngồi lì ở đó. Trong đa số trường hợp, các nhóm sẽ từ từ đạt tới điểm ai nấy đều chán ngán chuyện tranh cãi và giao chiến. Họ bắt đầu tự hỏi và họ hỏi lẫn nhau: “Hàng ngàn năm rồi chúng ta đã thấy người ta tranh cãi và giao chiến khắp thế giới mà vẫn chẳng đi đến đâu, không lẽ chúng ta cũng làm y như vậy trong khóa nhập thất này sao? Đó có thật là lý do chúng ta ở đây? Không phải là chúng ta đến đây để lắng nghe Serapis Bey trình bày hay sao? Tại sao chúng ta lại ngồi đây tranh cãi vậy?” Khi họ tới được điểm đó, họ đã sẵn sàng tương tác trực tiếp hơn với thày hầu thày có thể giúp họ vượt qua khai ngộ của tầng thứ nhất và bước sang tầng thứ hai.

Trong một số trường hợp hiếm hoi, có nhóm sẽ không tới được điểm này. Họ sẽ cứ đứng yên một chỗ. Vì họ đang ở trong khóa tu của thày cho nên thày có quyền gia tăng ánh sáng, gia tăng cường độ. Thày không thể làm điều này ngoài thế gian nói chung, nhưng thày có thể làm với những ai đã tự nguyện nhập khóa tu của thày. Thày gia tăng ánh sáng, có nghĩa là giờ đây các học viên không thể phớt lờ những bợn nhơ trong tâm thức họ. Hoặc họ sẽ phải nhìn vào bợn nhơ và cải sửa, hoặc họ phải nỗ lực nhiều hơn để phủ nhận và dùng lý lẽ để xua đuổi chúng đi.

Nếu học viên cứ tiếp tục làm vậy, sẽ đến lúc thày gia tăng ánh sáng đến độ họ không thể ở lại nhập thất được lâu hơn và phải tìm cớ rút lui. Cũng có những người tới mức nhìn ra là họ muốn bỏ đi vì họ muốn có một loại trải nghiệm khác. Tất nhiên, điều này cũng tốt thôi. Đối với những học viên đó, thày có thể nói lời chia tay và cả hai đều đồng thuận với nhau, nghĩa là cả hai đều nhận ra điều tốt nhất cho học viên.

Còn đối với những học viên không chịu nhìn nhận là họ bỏ đi do chọn lựa của mình mà lại viện cớ này nọ phóng chiếu lên thày, thì thày không thể có màn chia tay ngắn ngủi đó với họ. Họ thường bỏ đi trong cơn giận dữ, thường không thèm nhìn lại, và đôi khi còn nguyền rủa thày khi họ bước ra khỏi cửa. Những học viên đó, thày không thể giúp họ được cho tới khi Trường đời Cay đắng giáng cho họ nhiều vố cay đắng đến độ họ lại sẵn sàng gõ cửa nhập thất của thày một lần nữa. Và hiển nhiên thày sẽ nhận họ trở lại, nhưng thày cũng sẽ toàn quyền nói với họ ngay lập tức: “Giờ đây con đã học được bài học mà lần trước đến đây, con đã không chịu học hay sao?”

Và như vậy, thày sẽ kết thúc bài giảng tương đối ảm đạm này và xin nói với tất cả các học trò đang nghĩ đến chuyện gia nhập khóa nhập thất của thày: “Liệu con đã xem xét những gì chờ đón con khi con bước qua ngưỡng cửa này hay chưa? Liệu con đã xem xét mục đích cuộc khai ngộ mà con nói con đã sẵn sàng dấn thân vào? Liệu con đã sẵn sàng cho những gì thày cống hiến? Nếu vậy thì thày chào đón con với cánh tay rộng mở, một con tim rộng mở, và một cặp mắt cũng rất rộng mở. Nếu con sẵn sàng mở to mắt mình ra, thày là vị Thượng sư sẽ giúp con làm chuyện đó.”

Serapis Bey TA LÀ.

Chấn thương nhập đời nguyên thủy

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels, ngày 23 tháng 5 năm 2015. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

Quả thực TA LÀ Chân sư Thăng thiên More và trong quá khứ ta được biết tới dưới các tên M, Morya, El Morya, Bapu hay một số tên khác. Một cái tên chứa đựng những gì? Thày hơn bất cứ danh hiệu nào. Thày là hơn chân sư MORE. Thày hơn tất cả những gì trước đây. Hình ảnh nào trong bát cung vật lý trên một hành tinh như trái đất có thể nắm giữ được một chân sư thăng thiên? Không một hình ảnh nào cả! Con yêu dấu, không một điều gì có thể nắm giữ được thày bao giờ. Bất cứ hình ảnh nào được phóng chiếu lên thày từ sa nhân hay học viên của chân sư thăng thiên – không nhất thiết là hai nhóm này không trùng khớp – thày sẽ hơn hình ảnh đó.

Con sẽ không bao giờ với được tới thày nếu con nắm chặt một hình ảnh từ quá khứ. Quá khứ là gì? Một giây trước đây là quá khứ, con yêu dấu. Con suy nghĩ nhanh nhất mà con làm được, thì đó đã là quá khứ. Con có nhận ra chăng là tâm con người có một khoảng cách trong đó nó thể phân biệt được thời gian? Khoảng cách đó rất gần với một giây, nhưng thực ra con có thể phân biệt thời gian trong khoảng cách ngắn hơn thế.

Đó là quá khứ. Khi khoảng cách đó đã trôi qua, tất cả mọi thứ trước đó là quá khứ. Bây giờ con có thể nói: “Khoảng cách này quá ngắn khiến tâm ý thức của tôi không thể bắt kịp. Tôi không thể nghĩ một cách có ý thức: ‘Ồ, điều này là quá khứ. Bây giờ tôi đang ở trong hiện tại.’” Không đâu, con không làm được điều này, nhưng tại sao con cần phân biệt giữa quá khứ và hiện tại và tương lai? Tại sao cần có cái gì khác ngoài cái hiện tại?”

3.1. Tại sao con cần thời gian?

Tại sao con cần phân chia thời gian thành quá khứ, hiện tại và tương lai? Hãy tuôn chảy với hiện tại vĩnh hằng. Lúc ấy con là hơn tất cả cái gì con là trước đó, dù rằng không có cái trước đó, không có cái sau đó, chỉ có cái ngay bây giờ. Đây là niềm vui thực khi con tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống.

Những biểu hiện của phản-tình thương muốn chia chẻ mọi thứ, xếp mọi thứ vào thể loại tách biệt. Rồi chúng muốn nói là chuyện xảy ra trong quá khứ sẽ ảnh hưởng hiện tại và quyết định tương lai.

Con nghĩ về khái niệm nghiệp quả của người Ấn độ cho rằng mọi chuyện xảy ra trong cuộc sống của con được định trước bởi nghiệp quả từ các kiếp trước. Con yêu dấu, nếu quả thực như vậy thì toàn thể mục đích cuộc sống là gì đây? Phải chăng mục đích cuộc sống là mở rộng tâm thức của mình? Làm sao mở rộng tâm thức? Bằng cách chọn lựa. Nếu mọi chuyện trong hiện tại của con đều bị quá khứ quy định thì còn chỗ nào cho con chọn lựa nữa đây?

Con có thể nói: “Nhưng nghiệp quả của tôi do những chọn lựa trong quá khứ của tôi tạo ra.” Phải, đúng đấy, nhưng nếu những chọn lựa quá khứ của con có thể tước đi khả năng chọn lựa trong hiện tại của con thì làm sao con học hỏi được? Vậy mục đích cuộc sống ở đâu? Con có nghĩ chăng là một Thượng đế đầy tình thương có thể nào sáng tạo một vũ trụ trong đó con có thể lấy một chọn lựa và chọn lựa này sẽ tước đi khả năng phá bỏ chọn lựa cũ bằng một chọn lựa mới? Thượng đế nào lại làm như vậy? Chắc chắn không phải Thượng đế mà thày biết.

Có thể đó là thượng đế mà sa nhân đã chế ra mà nhiều người trên trái đất thờ phượng vì họ nghĩ vị thượng đế này cần thờ phượng. Con yêu dấu, vị thượng đế giả do sa nhân chế ra cần được con người thờ phượng bởi vì thượng đế đó không thật và do đó không thể nào nhận được năng lượng từ cõi tâm linh mà thày cảm nhận lúc nào cũng đang tuôn chảy qua thày. Thượng đế đó cần năng lượng của con người và đó là lý do tại sao vị ấy cần được thờ phượng. Làm sao một Thượng đế vô hình tướng lại có thể cần bất cứ gì từ con người trên trái đất? Đúng thật là Thượng đế vô hình tướng cần một điều: ngài cần cho ra từ chính ngài và ngài cần có những ai sẵn sàng nhận. Đó là cách để khép kín vòng chảy hình số tám. Đó là điều Thượng đế thật muốn. Thượng đế muốn tuôn chảy, muốn là hơn nữa qua con khi con trở nên hơn nữa.

3.2. Làm thế nào Thượng đế trở nên hơn nữa

Đấng Sáng tạo vũ trụ đã đạt được tâm thức của các đấng Sáng tạo. Ngài không thể trở nên hơn nữa bằng cách Sáng tạo nhiều hơn. Ngài trở nên hơn nữa bằng cách tạo ra những nối dài của chính ngài và gửi các nối dài này xuống một bầu cõi chưa thăng thiên. Khi các phần nối dài này tăng triển tâm thức, thì đấng Sáng tạo trở nên hơn nữa qua họ. Tại sao đấng Sáng tạo lại sáng tạo một vũ trụ trong đó con không thể trở nên hơn nữa, con bị giới hạn trong việc trở nên hơn nữa, con bị giới hạn trong việc thăng vượt? Không một Thượng đế nào làm điều này – ngoại trừ thượng đế giả không có thật.

Thày không còn chú ý tới các thượng đế giả này. Tại sao con lại cần chú ý tới họ? Tại sao con nghĩ con cần chú ý tới họ?

Con yêu dấu, con hãy nhìn lại chính mình và hãy chân thành với chính mình. Hầu như mỗi người chúng con đều mang một hình ảnh giả về thượng đế, không những trong kiếp này mà ngay cả trong các kiếp trước. Thày không trách cứ con về chuyện này. Khi con đã sống nhiều kiếp trên hành tinh này, con không tránh khỏi bị nhồi sọ, lập trình với hình ảnh giả của thượng đế này.

Thày không đang cố gắng tìm lỗi nơi con. Thày cũng không yêu cầu con tìm lỗi nơi mình. Thày chỉ muốn con nhìn nhận: “Ồ, đúng rồi, tôi có khuynh hướng nhìn Thượng đế như vậy và lẽ dĩ nhiên đây không phải là Thượng đế chân chính.” Rồi con quyết định buông bỏ hình ảnh giả này. Con sẵn sàng thoát khỏi các hình ảnh này.

3.3. Con thật sự từ đâu đến

Con yêu dấu, sa nhân làm cách nào để đánh bẫy con trong cái ta tách biệt, trong tâm thức nhị nguyên? Con có nhận ra chăng là đa số các con đã có lúc ở trên cõi ê-the và nhìn xuống trái đất? Đa số các con là những người tâm linh không được sinh tạo để đầu thai lần đầu trên trái đất. Các con đã đầu thai trên những hành tinh khác trước đó.

Các con đã tới điểm có chọn lựa tự do không cần phải trở lại hành tinh cũ của mình nữa. Con có thể đầu thai trên một hành tinh khác. Con nhìn vào trái đất và thấy ở đó có nhu cầu vì con thấy các cư dân nguyên thủy ở đó đều bị mắc bẫy trong một tấm màn, trong một vòng xoắn ốc đi xuống. Con thấy được là cách thực tế duy nhất để đem lại thay đổi là có người không bị mắc bẫy trong xoáy ốc xuống đầu thai. Người đó có tầng mức tâm thức cao hơn và do đó có thể nâng các cư dân lên cao hơn. Con nhìn trái đất ở giai đoạn đó và con quyết định con muốn xuống đầu thai nơi đó.

Đối với một số người trên trái đất, đây là lần đầu họ đầu thai trên hành tinh này. Ngay cả một số người tâm linh đã là linh hồn trưởng thành, đây là lần đầu thai đầu tiên của họ trên hành tinh này. Nhiều linh hồn đã đầu thai lần đầu tiên trên trái đất vào thời điểm này vì họ muốn giúp vào việc chuyển tiếp từ thời đại Song ngư sang thời đại Bảo bình, và họ muốn giúp Saint Germain biểu hiện Thời đại Hoàng Kim. Nhiều người trong các con đã giúp Saint Germain biểu hiện Thời đại Hoàng Kim trên các hành tinh khác trước khi đến trái đất, cho nên các con muốn góp phần vào công việc này. Cũng có một số đông các con đã ở trên trái đất này nhiều kiếp.

Tuy nhiên, đã có một lúc khi con đi xuống đầu thai lần đầu trên hành tinh này. Thày có thể bảo đảm với con rằng – và thày cần bảo đảm với con vì con đã dồn nén ký ức này – ở trên bát cung ê-the và nhìn xuống trái đất là một chuyện. Đúng vậy, lẽ dĩ nhiên con có thể thấy là có vấn đề trên trái đất. Con có thể thấy nhiều hoàn cảnh đáng lý không được như thế. Đó chính là lý do vì sao con muốn xuống đây và trợ giúp. Ở trên bát cung ê-the không cách chi con có thể biết được là kiếp đầu thai trên trái đất dày đặc như thế nào. Con không thể nào biết được.

3.4. Cú sốc khi đầu thai

Lúc mà con đầu thai trong xác thân vật lý lần đầu tiên và lúc con ý thức chuyện gì xảy ra trên hành tinh này, thì con bị một cú sốc. Không người nào mà không bị cú sốc nặng nề khi đầu thai lần đầu tiên ở đây (sau khi trái đất đã bắt đầu đi vào vòng xoáy hướng hạ). Có thể con nghe có người nói chuyện về cú sốc khi sanh ra trong kiếp này. Đa số mọi người đã dồn nén ký ức này, nhưng con có thể trở về điểm đó và trải nghiệm lại nó và qua đó vượt qua chấn thương nhập đời này. Ở đây thày nói đến chấn thương đầu thai lần đầu.

Các sa nhân, ít nhất là một số trong các sa nhân, biết chuyện gì đang xảy ra. Một số trong họ có khả năng theo dõi biết được khi một dòng sống mới đầu thai lần đầu trên trái đất. Các sa nhân này ở trên cõi bản sắc nhưng họ có hàng ngũ dưới họ, hàng ngũ giả dưới họ, ở các cõi lý trí, tình cảm và vật lý. Họ có khả năng hòa điệu với dòng sống của con và biết được là con là loại dòng sống như thế nào. Sau đó họ có thể ra lệnh cho bộ hạ của họ, từ các cõi cao xuống tới cõi vật lý, dàn xếp để cho con phải chịu đựng một hoàn cảnh khe khắt nhất, kinh khủng nhất, ghê tởm nhất mà con có thể tưởng tượng được. Họ biết chính xác hoàn cảnh nào đối với con kinh khủng nhất và họ sẽ dùng bộ hạ của họ để bắt con phải chịu hoàn cảnh vật lý mà con xem là kinh khủng nhất có thể xảy ra cho mình.

Nhiều người đã phải đối đầu với chiến tranh, tra tấn hay những hình thức bạo hành khác. Đây là biểu hiện của phản-tình thương, là một sự hủ hóa của tia sáng thứ nhất của uy lực. Các sa nhân trong cả bốn bát cung đã lạm dùng quyền lực xâm phạm con đến độ con cảm thấy điều này kinh khủng tuyệt đối và làm con bị chấn động tuyệt đối. Con cảm thấy chuyện này không được xảy ra cho bất cứ ai. Giản dị là nó không được xảy ra.

Khi con phản ứng như thế là lúc con đi vào tâm thái bị sốc. Khi con còn ở trên bát cung ê-the, con có thể thấy có những chuyện xảy ra trên hành tinh, nhưng con không sống trong đó và con biết là con không bị ảnh hưởng bởi những gì xảy ra trong bát cung vật lý. Khi con xuống đầu thai, thì gần như không tránh được là con đã quên đi mình là một sinh thể tâm linh không thể nào bị ảnh hưởng bởi chuyện gì xảy ra trong bát cung vật lý. Khi con ở trong xác thân vật lý, con trải nghiệm cái đau, cái chấn thương, cái khổ đau của thân vật lý. Con không giữ được sự nhận biết là: “Ồ, tôi là một sinh thể tâm linh, và không có điều gì xảy ra cho thân thể vật lý quy định được tôi.” Có một điểm khi xác thân bị tra tấn tới mức đó, bị đau đớn tới mức đó thì gần như không ai có thể không dính mắc vào cái đau này.

3.5. Vết thương của cơn đau tối đa

Có một điểm khi các sa nhân xâm phạm con bị chấn thương đến độ họ buộc con phải trải nghiệm cơn đau tối đa. Con lúc ấy không thể không dính mắc. Có một trạng thái đau đớn tối đa mà tất cả chúng ta đều đã trải nghiệm khi đầu thai lần đầu trên hành tinh này. Nó trở thành một vết thương trong bản thể của con, một vết thương trong hồn con, trong bốn thể phàm của con. Ở thời điểm đó, cơn đau này làm con choáng ngợp và nó quả thực đã choáng ngợp con, khi con ở tầng tâm thức của con lúc đó.

Thày không trách cứ con chút nào. Thày cũng đã phản ứng y như vậy khi đầu thai lần đầu. Mọi người đã từng đầu thai ở đây đều đã làm như vậy. Mục đích của thày ở đây là giúp con nhìn nhận chấn thương nhập đời vũ trụ này và giải thoát mình ra khỏi nó. Một số các con cảm nhận được nó như thế nào. Một số các con có thể xem xét được: “Điều gì làm tôi bị xáo trộn nhất trên trái đất? Hoàn cảnh nào tôi thật sự muốn trừ tiệt? Chuyện gì tôi thật sự cảm thấy không được xảy ra?”

Có thể là con không trải qua hoàn cảnh này trong kiếp này nhưng con đã thấy người khác bị như thế và con nói: “Chuyện này quả thật không được xảy ra.” Cảm tưởng này dính liền với điều đã xảy ra cho con trong lần đầu thai đầu của con. Nếu con quán chiếu nó, con sẽ thấy rõ hơn nó là gì bên trong con.

Lẽ dĩ nhiên quán chiếu thôi không đủ. Con cần nhận ra là có một số lượng năng lượng đã bị tha hóa qua vết thương đó. Con cần kêu gọi các thày, thỉnh cầu ánh sáng để tiêu trừ nó để con tới được điểm mà con có thể bắt đầu nhìn vào nó. Thày nói thật với con: chỉ có một cách để con giải thoát mình khỏi chấn thương này. Đó là con làm điều mà tự ngã của con, các sa nhân hay hầu hết con người đều không muốn con làm – đó là con đi thẳng vào chấn thương đó và trải nghiệm nó trở lại.

3.6. Nhu cầu trải nghiệm lại chấn thương

Không cách chi giúp con giải thoát mình khỏi bất kỳ kinh nghiệm nào mà con đã trải qua trên trái đất bằng cách trốn chạy kinh nghiệm này và nỗi đau mà nó đã gây ra. Con không thể thoát khỏi bất cứ điều gì bằng cách trốn chạy nó. Con chỉ thoát được khi con đi thẳng vào nó, trải nghiệm nó, và vì tâm thức của con đã được nâng lên, nó không còn quy định con nữa. Con không còn tự đồng hóa mình với nó. Con không còn bị nó giam hãm. Các sa nhân muốn con tin, tự ngã muốn con tin rằng nếu con đi vào nỗi đau nguyên thủy đó, con sẽ chết. Con sẽ bị choáng ngợp trở lại. Nó sẽ quá sức chịu đụng của con. Nhưng con thấy chăng, con đã tiến hơn so với lần đầu tiên khi con xuống hành tinh này. Hầu hết các con đã tiến rất xa trong tâm thức và do đó chuyện này giống như một người trưởng thành trở về nhìn một chấn thương thời trẻ thơ hay chấn thương nhập đời.

Con có thể đối phó với nó bây giờ vì con nhận ra rằng con không trải nghiệm nó như lúc nó xảy ra lần đầu. Con không bị choáng ngợp. Con không hoàn toàn nhập vào nỗi đau. Con có thể tách mình ra khỏi nỗi đau. Khi con đi vào chấn thương đó, thì con trải nghiệm rằng: “Tôi vẫn còn ở đây. Tôi vẫn còn sống. Tôi đâu có chết. Tôi không bị tiêu hủy. Tôi không bị nỗi đau nuốt chửng. Tôi chỉ đang đứng ở đây, đang nhìn dòng năng lượng xoắn tít này, và tôi đang nhìn những niềm tin, và tôi đang nhìn tất cả những sinh linh trong cõi trung giới, và tôi nhận ra rằng đây không phải là tôi. Đây chỉ là một cái gì mà một phần của tôi, cái ta vỏ ngoài của tôi, đã trải nghiệm. Nhưng tôi hơn kinh nghiệm này, và do đó tôi có thể nhìn nó và nói: “Ngươi không còn sở hữu ta nữa. Ngươi không quy định ta nữa. Đây không phải cái ta là. Bớ Satan, ngươi hãy lui ra đằng sau ta, vì ta thấy được ngươi không thật, ta thấy và ta trải nghiệm cái thật của chính ta và cái thật của các chân sư thăng thiên.”

3.7. Các chân sư sẽ hỗ trợ các con

Các thày không nói rằng con phải làm việc này một mình. Chân sư nào mà con cảm thấy thân thiết nhất trong tim con, chân sư đó sẽ hỗ trợ con làm việc này. Các thày sẽ hỗ trợ con rất xa trên con đường này. Nhưng sẽ tới một điểm mà các thày không thể giúp con thêm nữa, lúc ấy con phải bước bước đó một mình, cái bước cuối cùng khi con đối đầu với ác quỷ trong chính mình, theo câu ngạn ngữ bình dân, và thấy chúng không thật.

Con hiểu là thày đang cho con ở đây chìa khóa về cách sa nhân đã giăng bẫy con người. Họ lạm dùng quyền lực mà họ có trong bát cung vật lý để con bị chấn thương. Đây là cái không thực mà con nghĩ là thực, ý tưởng cho rằng những điều đã xảy ra cho con trong quá khứ đang quy định kinh nghiệm sống hiện tại của con và đang quy định chuyện gì sẽ xảy ra cho con trong tương lai. Ảo tưởng này chính là điều thày muốn phá tan trong con.

Họ thực sự muốn nói với con là những gì con dùng ý chí làm trong quá khứ đã ngăn cản những gì con có thể dùng ý chí làm trong hiện tại và miên viễn về sau. Đây là biểu hiện của phản-tình thương. Thày nhất quyết muốn thấy con thoát khỏi điều đó, nếu con muốn, nhưng con phải có ý muốn. Thày không muốn hộ con được.

Một khi con đã muốn, thày có thể củng cố chọn lựa của con. Thày có thể giúp con, nhưng thày không thể thúc đẩy con chọn lựa như thế. Đây là chọn lựa của con, nhưng con cần có hiểu biết. Đây là điều thày có thể giúp con, thày có thể cho con hiểu biết tuyệt đối là không có chọn lựa nào mà không thể đảo ngược lại được bằng một chọn lựa cao hơn. Đây là một quy luật vĩnh hằng. Đó là lý do vì sao một hành tinh có thể bị rơi vào một tình trạng thấp kém như con thấy với trái đất hiện nay bởi vì quyền tự quyết không có giới hạn. Nhưng quy luật này cũng áp dụng cho cả hai chiều.

3.8. Ta có thể tháo gỡ điều ta đã sáng tạo

Con có thể sáng tạo bất cứ khổ đau nào mà con muốn, ngay cả khổ đau mà con không muốn một cách ý thức. Con cũng có thể tháo gỡ bất cứ khổ đau nào mà con đã sáng tạo. Con có thể giải thoát con khỏi nó.

Thày đã thoát khỏi mọi khổ đau trên trái đất. Thày đã thoát khỏi chấn thương nhập đời của thày đã đi theo thày cho tới kiếp đầu thai cuối cùng của thày. Con đừng lầm lẫn, chấn thương nhập đời sẽ là điều cuối cùng con khắc phục trước khi con tự do để thăng thiên vì nó là điều đầu tiên đã giam bẫy con trong trạng thái tâm thức thấp. Thách đố, cái bẫy họ giăng, là khi con bị chấn thương nhập đời, chấn thương đầu tiên, thì lẽ dĩ nhiên con trải nghiệm là có một lực bên ngoài áp đặt kinh nghiệm này lên con. Quả thực, đây chínhmột lực bên ngoài trong bát cung vật lý đã áp đặt nó lên con, đích danh lực đó là sa nhân và tay sai của họ.

Điều mà sa nhân phóng chiếu lên con là con có mặt ở đây để khắc phục, để tống khứ những lực đã bắt con phải chịu chấn thương đó để người khác không bị chấn thương như thế. Họ phóng chiếu lên con là con phải tham gia vào một cuộc đấu tranh nào đó, một cuộc chiến chống lại các lực bên ngoài này. Họ muốn con tin rằng một khi các lực này bị loại trừ ra khỏi trái đất, con sẽ thoát khỏi chấn thương của mình.

Con thấy chăng, con đâu có mời các lực này đến trái đất. Họ được mời tới bởi những chọn lựa khác, bởi những sinh thể khác đã chọn lựa. Con không thể tháo gỡ chọn lựa của những sinh thể đó. Vậy con có thể làm gì? Con có thể tháo gỡ chọn lựa của chính mình. Con có thể nhận ra: “Tôi có mặt ở đây để mang lại thay đổi tích cực cho hành tinh này. Nhưng tôi không mang lại thay đổi tích cực bằng cách đánh nhau với sa nhân và tà lực. Tôi mang lại thay đổi tích cực bằng cách vượt thăng trạng thái tâm thức của họ. Làm sao tôi làm được điều này? Bằng cách thăng vượt trong tôi tâm thức đã khiến tôi phản ứng lại họ và phản ứng này tạo cho tôi chấn thương nguyên thủy đó.”

Đây là phụng sự cao nhất của con trên trái đất. Khi con giải thoát mình khỏi trạng thái tâm thức đó, thì con sẽ kéo tập thể lên và kéo tất cả mọi người khác đang đầu thai lên. Đây là điều con tới đây để làm. Khi con phản ứng như thế thì con có làm sai không, con có làm điều xấu không? Không đâu, con mang trạng thái tâm thức này với con, nhưng con không phải mang nó theo con mãi mãi. Con không mang nó với con để có động lực đánh nhau với sa nhân. Con mang nó vào để chứng minh là bất cứ điều gì con mang vào – một điều kiện trong thế gian này – con có thể thăng vượt nó. Con có thể thăng vượt nó bằng sức mạnh ý chí của mình, ý chí muốn tự do, ý chí muốn hơn nữa.

3.9. Muốn cho các con hơn nữa

Thày là Chân sư Thăng thiên MORE. Thày chỉ muốn một điều cho con là con hơn nữa. Khi con có ý chí muốn hơn nữa, con đang mời thày vào đời của con để giúp con và hỗ trợ con tối đa. Thày không muốn áp đặt con bất cứ cách nào. Thày chỉ muốn con biết là thày có mặt ở đây để giúp con khi con quyết định: “Tôi muốn HƠN NỮA.”

Như Mẹ Mary đã nói – và đó là một trong những lời dạy sâu sắc nhất mà con nghe được từ xưa tới nay – là khi con không muốn hơn nữa, con đang nói trong tiềm thức: “Chân sư MORE, thày hãy để con yên một mình. Con chưa kinh nghiệm đủ trạng thái kém hơn. Con chưa sẵn sàng muốn hơn nữa.” Lúc mà con quyết định con sẵn sàng hơn nữa, thì đó là lúc thày thật sự có thể giúp con bằng một cách mà con hiện nay không thể nào mơ tưởng được.

Thày không đặt giới hạn cho những gì có thể xảy ra hay mức mà con có thể trở nên hơn nữa. Sẽ không bao giờ có một điểm khi thày muốn kềm giữ không cho con trở nên hơn nữa. Thày không sợ con vượt qua thày, giống như nhiều cha mẹ và thày cô trên trái đất đã sợ. Không điều gì khiến thày vui thích hơn là thấy con trở nên hơn nữa.

Thày cũng không so sánh. Con không thể nào trở nên hơn thày bởi vì con chỉ có thể trở nên hơn chính mình, hơn cái con là. Đây là cách chúng ta tiến triển và nhận ra mình là sinh thể vô biên. Đây không phải là chuyện so sánh. Trong cõi thăng thiên mọi so sánh và phê phán giá trị đều tan biến. Thày không hơn Saint Germain. Thày là MORE và Germain là Germain, nhưng người này không hơn người kia. Thày trở nên hơn MORE và Germain trở nên hơn Germain, và đó là chuyện phải lý. Ở đây không có sự đe dọa. Con trở nên hơn là con.

Thày mong muốn con cũng được như thế. Con đã bị lập trình quá sâu đậm trên trái đất khiến con nghĩ con là kém hơn, con nhất thiết phải kém hơn, con phải kém hơn, con chỉ có thể kém hơn, con không được phép là hơn nữa. Thày nói với con: “Con là hơn nữa! Con được phép là hơn nữa.” Vì sao thày nói được như thế? Bởi vì thày là Thượng sư của Tia thứ Nhất. Thày là sinh thể quyết định Tia thứ Nhất có thể biểu hiện như thế nào trên trái đất, và thày cho phép con hơn nữa. Thày là sinh thể duy nhất được cho phép con như thế vì đấy là chức vụ của thày trong đại đoàn chưởng giáo, và thày cho phép con là hơn tất cả những gì con là từ trước tới giờ.

Với câu trên, con yêu dấu, thày cám ơn con đã chú ý, đã thương yêu thày, một tình thương sâu đậm và thày cảm được là rất nhiều đệ tử chân sư thăng thiên dành cho thày. Dù các con gọi thày bằng danh hiệu nào, thày cũng sẽ đáp ứng. Thày cũng muốn cho con biết là thày hơn tất cả các danh hiệu, như con cũng hơn tên của con. Bởi chưng, có gì nắm giữ được Tánh Linh? Chắc chắn là chẳng có điều gì trên một hành tinh như trái đất này.

Quả thực, thày là Tánh Linh, và con cũng vậy. Trong cái biết này chúng ta là một. Thật sự, chúng ta hơn là một vì ngay cả cái một cũng là một khái niệm có thể bị gán một đối trọng. Cái mà chúng ta thực là không có đối trọng. Nó chỉ là.

17 | Con thỉnh cầu tự do thương yêu (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Heros và Amora và Arcturus và Victoria, Đại thiên thần Chamuel và Charity và Zadkiel và Amethyst, Chân sư Paul người Venice và Saint Germain yêu dấu, hãy giúp chúng con cho và nhận tình thương một cách tự do. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với thày Paul người Venice và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Chúng con có tình dục cân bằng

1.1. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con vượt qua ảo tưởng về tình yêu tự do và tự do tình dục.

Heros-Amora, trong tình thương màu hồng,
Con không cần biết đến ai nghĩ gì về con,
Trong hợp nhất với thày, con gọi một ngày mới,
Như trẻ thơ trong trắng, con đùa giỡn vui chơi.

Heros-Amora, đời mới đã khởi sự,
Con cười vào mặt quỷ, là đứa luôn nghiêm nghị,
Con tắm trong Mặt trời màu Hồng Đỏ lộng lẫy,
Biết rằng Thượng đế muốn cuộc đời vui thơ ngây.

1.2. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con vượt qua những khuôn mẫu cũ giữa hai giới và không biến phụ nữ thành đối tượng tình dục thay vì là người bạn đời lâu dài.

Heros-Amora, cuộc đời thật vui thay,
Tưởng chừng như thế giới là đồ chơi vĩ đại,
Tâm con phóng thế nào thì đời như thế nấy,
Vì tấm gương cuộc sống phản chiếu đúng như vậy.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

1.3. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con tìm thấy sự cân bằng để con có thể biểu lộ tình dục của mình mà không đốt cháy luân xa.

Heros-Amora, đốt hết mọi điều kiện,
Con biết TA LÀ quyền được lật sang trang mới,
Trầm mình trong dòng chảy của Tình yêu vô biên,
Con biết rằng Tánh linh đã từ Trên xuống đời.

Heros-Amora, tỉnh ngộ con phát hiện
Rằng tình thương đích thực không hề có điều kiện,
Tuy rắn bị kẹt cứng trong nhị đối của y,
Nhưng con thì thoát được nhờ Tình thương vô kỷ.

1.4. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con tìm được quân bằng trong tình dục để con không bị cạn kiệt năng lực nhưng có năng lực và sự toàn vẹn để hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Heros-Amora, rốt cuộc con cảm thấy
Mình đã vượt lên trên vùng dĩ vãng sa lầy.
Trong tình yêu chân thật con tự do phát triển,
Mãi mãi con là một với Dòng Từ vô biên.

Heros-Amora, điều kiện vốn trói buộc,
Chúng hình thành mạng lưới những gian manh lừa dối,
Tình thương bay xa mãi vì nó không biên giới,
Nâng cao muôn sự sống vào trời Hồng ngọc tươi.

1.5. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con thảo luận thoải mái về tình dục và thăng vượt khía cạnh đặc thù của tâm thức sa ngã muốn chúng con dồn nén đòi hỏi tình dục và năng lực tình dục.

Arcturus yêu dấu, con nay xin thày phóng
Dòng Lửa Tím của thày cho sự sống tăng triển.
Những vòng tròn ánh sáng cứ không ngừng tỏa rộng,
Trong mỗi hạt nguyên tử cũng đồng nhịp sáng lên. 

Arcturus yêu dấu, Elohim Tự do,
Con đang mở tim ra thực tại của thày đó,
Trái tim con lan rộng ra Vô biên dang trải,
Và bí quyết chiến thắng là ngọn lửa của thày.

1.6. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con vượt qua ảo tưởng cho rằng tình dục là nguyên nhân của sa ngã.

Arcturus yêu dấu, ở với con mãi mãi,
Ngày mới con sẵn lòng chào đón khi sống lại,
Khi cuộc đời nhân thế không thể buộc được mình,
Con gọi sự sống mới trong Ngọn lửa Tái sinh.

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do của con được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

1.7. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con vượt qua cả hai hủ hóa của tâm thức sa ngã là dồn nén tình dục và tự do tình dục.

Arcturus yêu dấu, màu tím và ánh lửa
Ngập từng hạt nguyên tử và nâng nó lên cao,
Ánh sáng đổ đầy hết khoảng không gian ở giữa,
Và ngay cả vật chất cũng sáng rực làm sao. 

Arcturus yêu dấu, Hồng ân biến đổi cả,
Trao cho con uy lực đương đầu mọi thách đố,
Khi ánh sáng màu tím ngập toàn cõi bên trong,
Con nhắm hướng thăng thiên, tự nguyện và nhanh chóng.

1.8. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con hiểu rằng tình dục không đồng nghĩa với tình yêu và một người nam và nữ có thể biểu lộ tình yêu mà không cần có tình dục.

Arcturus yêu dấu, đem lại thời đại mới,
Trái đất và nhân loại lật qua trang đổi đời,
Ánh sáng thày chuyển hóa, cho con niềm chắc chắn,
Hoàng kim Saint Germain là thực tại hoàn toàn.

Arcturus yêu dấu, con buông mọi sợ hãi,
Thày Hiện diện thật gần, tưởng chạm được bằng tay,
Tai con luôn văng vẳng Bài hát của Tự do,
Và con biết Thượng đế yêu thương mình lắm đó. 

1.9. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con học cách biểu lộ tình yêu một cách tự do. Xin thày giúp chúng con nhận ra không thể nào biểu lộ tình yêu tự do nếu con không xem xét và vượt qua những hủ hóa tình yêu liên quan đến tình dục.

Gia tốc tới Hợp nhất, Ta Là có thật.
Gia tốc tới Hợp nhất, mọi sự sống được lành.
Gia tốc tới Hợp nhất, Ta Là HƠN NỮA.
Gia tốc tới Hợp nhất, tất cả sẽ vút cao.

Gia tốc tới Hợp nhất! (3X)
Heros và Amora yêu dấu.
Gia tốc tới Hợp nhất! (3X)
Chamuel và Charity yêu dấu.
Gia tốc tới Hợp nhất! (3X)
Paul người Venice yêu dấu.
Gia tốc tới Hợp nhất! (3X)
TA LÀ yêu dấu.

2. Chúng con có thể tách rời tình thương khỏi tình dục

2.1. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con học cách biểu lộ tình thương với người khác mà không khuấy động bất cứ năng lượng tình dục nào hay sự thu hút nào giữa con và người khác.

Đại thiên thần Chamuel, uy lực tia ngọc hồng,
Con biết con đang tắm trận mưa ban sự sống,
Bao ý chí sa đọa đốt sạch bởi tình thương,
Bỗng nhiên bao ham muốn như chìm nghỉm lắng xuống.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.2. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con nhận ra con thường có thu hút tình dục với một người khác vì con có nghiệp quả với người đó.

Đại thiên thần Chamuel, ánh sáng dâng cuồn cuộn,
Tia hồng ngọc rực lửa đâm xuyên qua đêm trường,
Mọi thế lực bóng tối bị lửa thày thiêu nướng,
Thiêu sạch cả những ai không chịu bước cao hơn.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.3. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con nhận ra cách con có thể cân bằng nghiệp quả với người khác mà không cần phải có một quan hệ tình dục hay vật lý với người đó hay không cần phải phá vỡ mối quan hệ hiện có của con.

Đại thiên thần Chamuel, tình yêu thày bao la,
Cuộc sống nay ý nghĩa do tầm nhìn sáng tỏ,
Khi mục đích cuộc đời con nhận ra quá rõ,
Nhận cả đấng Duy nhất trong tình thương chan hòa.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.4. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con hòa điệu với khuôn đúc quan hệ của thời hoàng kim để con có cả ổn định và tăng triển trong mối quan hệ của con.

Đại thiên thần Chamuel, đem bình an bất nhị,
Thậm chí cả cái chết mà cũng chẳng là chi,
Thật sự trong tình thương không thể có phân hủy,
Tình thương là thăng vượt vào ngày mới vô thỉ.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.5. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con tách tình thương ra khỏi tình dục để con có quan hệ thương yêu với người khác và không cần phải có quan hệ tình dục với tất cả những rắc rối của nó.

Đại thiên thần Zadkiel, dòng chảy nhanh đến nỗi
Trong lửa tím của thày, con lập tức chuyển đổi,
Nhập vào tầng rung động của tự do phơi phới,
Con thoát khỏi kềm chế của cái ta kém cỏi.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

2.6. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con học cách cân bằng nghiệp quả với người khác mà không cần có quan hệ tình dục, nhờ vậy tăng triển được nhanh hơn.

Đại thiên thần Zadkiel, con khao khát từng ngày
Được cai quản ngọn lửa màu tím của thày đây,
Khi con dùng sức mạnh luyện kim để chuyển hóa,
Và gọi tên Thiên ngữ để giải vây tất cả.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

2.7. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con biểu lộ tình thương chân thật với người khác, vì đây là cách nhanh nhất để cân bằng nghiệp quả, mà không cần ôm vào những rắc rối của một quan hệ tình dục.

Đại thiên thần Zadkiel, ngọn lửa tím quyền năng
Biến đổi cả thế giới trong lực chuyển vô song.
Trái đất khi thức dậy, bắt đầu quay nhanh chóng,
Với đoàn quân thiên thần, ta cùng nhau chiến thắng.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

2.8. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con giải quyết những dồn nén tình dục của con trong kiếp này và các kiếp trước mà không cạn kiệt năng lượng hoặc mất chú tâm vào Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Đại thiên thần Zadkiel, trong lửa tím thánh thiện,
Nhân loại với hành tinh không bao giờ như trước,
Thời Hoàng kim mà thày Saint Germain mơ ước
Thành sự thật tuyệt vời, con mừng vui chứng kiến.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

2.9. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con có cái nhìn tự nhiên về tình dục và tình yêu. Xin thày giúp chúng con tách rời tình yêu khỏi tình dục. Xin thày giúp chúng con xây dựng một cái nhìn tự nhiên về tình yêu dẫn tới một cái nhìn tự nhiên về tình dục.

Con bay với thiên thần,
Để đạt được nhiều HƠN.
Thiên thần ôi rất thật,
Tình thương sẽ chữa hết.
Với thiên thần bình an,
Muôn ray rứt phải tàn.
Với thiên thần ánh sáng,
Ta bay bổng thênh thang.

Cánh thiên thần xào xạc trong ngọn gió,
Vui vui lắm khi vật chất hát to,
Vui với từng hạt nguyên tử vo vo
Cùng hòa tấu với cánh thiên thần nhỏ.

3. Chúng con tự do biểu lộ tình thương

3.1. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con tự do biểu lộ tình thương với người khác dưới bất kỳ hình thức nào thích hợp dựa trên bản chất vật lý của mối quan hệ.

Ôi chân sư Paul, thày là giấc mơ,
Thày yêu cái đẹp hằng chảy tuôn ra.
Ôi chân sư Paul, tình mang trong dạ
Quyền năng đập vỡ nấm mồ tự ngã.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.2. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con biết sự khác biệt giữa điều thích hợp và không thích hợp, không dựa trên tiêu chuẩn cũ của sự dồn nén tình dục nhưng theo cái nhìn cao của điều gì giúp tăng triển.

Ôi chân sư Paul, là nguồn khuyên nhủ,
Tâm con bay vút lên đỉnh trời cao.
Ôi chân sư Paul, minh triết ấp ủ
Cái đẹp chảy xuống từ Trên nhập vào.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.3. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con vượt qua mọi giới hạn trong việc tiếp nhận tình thương giữa chúng con và từ người khác.

Ôi chân sư Paul, yêu là nghệ thuật,
Mở trái tim ra căn phòng mật thất.
Ôi chân sư Paul, ào ào chảy xuống,
Cho tim tràn ngập ánh sắc yêu thương.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.4. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con hiểu rằng sự tương tác giữa Alpha và Omega trong dòng chảy tự do của tình thương sinh ra sự sống mới, hình tướng mới, biểu hiện mới và biểu hiện hữu hạn mới của Tánh linh Vô hạn.

Ôi chân sư Paul, gia tốc mài miệt,
Trụ vào từ bi, con thiền nhận biết.
Ôi chân sư Paul, ý định thuần khiết
Sẽ được bảo đảm thăng lên siêu việt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.5. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con hiểu rằng tình thương chỉ có thể biểu hiện khi được tuôn chảy. Không ai sở hữu tình thương, không ai sản xuất tình thương, ta chỉ có thể để cho nó tuôn chảy xuyên qua ta.

Ôi chân sư Paul, tình yêu hàn gắn,
Thày mở lộ ra ánh sáng nội tâm.
Ôi chân sư Paul, tình yêu an ủi,
Để con nguyên vẹn trong một niềm vui.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.6. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con hiểu rằng con càng là cánh cửa mở cho tình thương, càng cho phép nó được biểu lộ tự do hơn xuyên qua con, thì càng có thêm tình thương được đem vào thế giới này xuyên qua các luân xa và cỗ xe tâm hồn của con.

Ôi chân sư Paul, phụng sự Tất cả,
Giúp mọi chúng sinh thăng vượt sa ngã.
Ôi chân sư Paul, an bình ra khơi,
Mặc cho tự ngã tất phải tàn hơi.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.7. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con hiểu rằng cánh cửa mở cho tình thương là cái Ta Biết. Cái Ta Biết càng ý thức nó là nhận biết thuần khiết, thì càng có nhiều tình thương tuôn chảy qua các luân xa và cỗ xe tâm hồn.

Ôi chân sư Paul, tình yêu giải phóng,
Thày yêu mãi mãi, cho con nhập dòng.
Ôi chân sư Paul, thày là vị Chủ
Giúp cho hành trình của con hứng thú.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.8. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con nhận ra dù chuyện vui thú tình dục không có gì sai trái, con cần biểu hiện động lực tình dục mà không làm cạn kiệt năng lượng và cản trở sự tăng triển của con.

Ôi chân sư Paul, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư Paul, thày tô bầu trời,
Cái ta mừng rỡ trong màu vui tươi.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.9. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con vui hưởng tình dục như một vui thú cao đến từ cảm giác gần gũi, thậm chí là hợp nhất, giữa hai con người.

Ôi chân sư Paul, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tình yêu Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4. Chúng con ý thức chọn lựa tự do

4.1. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con nhận ra tạo được sự gần gũi, hợp nhất với một người khác có thể là một bước trong tiến trình tái lập sự nhận biết mình kết nối với cái gì lớn hơn trong nhận biết thuần khiết.

Ôi Saint Germain, nghệ thuật luyện kim, 
Giải phóng con ngay với ngọn lửa tím.
Ôi Saint Germain, con tăng liên tục,
Dòng chảy tự do không sao khuất phục. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con đạt được mức hợp nhất cao nhất, thông qua sự thuần khiết của nhận biết, khi ranh giới giữa hai người tan ra và chúng con hình thành hai cực cao và sáng tạo.

Ôi Saint Germain, điều khiển tài tình
Hình dạng kỷ hà của ngọn lửa tím.
Ôi Saint Germain, ở thày con tìm
Thấy được công thức giải thoát chính mình. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Thày Paul người Venice, xin thày giải thoát chúng con khỏi những quan niệm lệch lạc tìm cách dùng tình dục và tình thương để ngăn chặn hay làm trệch hướng sự phát triển tâm linh của con.

Ôi Saint Germain, Tự do bao la,
Chính là tình thương giải thoát tất cả.
Ôi Saint Germain, sao con yêu quá
Lửa tím cứ giục con càng hơn xa. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con hiểu rằng hiểu biết là chìa khóa đưa tới tự do. Con chỉ có tự do khi nhận ra ảo tưởng đã sinh ra một sinh hoạt nào đó và tự do chọn lựa thăng vượt nó.

Ôi Saint Germain, chúng con nối kết,
Từ bỏ nhị nguyên, thăng lên siêu việt.
Ôi Saint Germain, cái ta tinh khiết,
Khoa học lửa tím vững tay cầm trịch.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con đạt được tự do dựa trên hiểu biết liên quan đến tình dục để con có thể tự do biểu hiện tình thương mà không để Sứ vụ Thiêng liêng của con bị trệch hướng vì những hấp dẫn tình dục.

Ôi Saint Germain, sự thật rõ ràng, 
Trong ánh sáng tím, chẳng gì băn khoăn.
Ôi Saint Germain, niêm kỹ hào quang,
Luân xa con được lửa thày hàn gắn. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con đạt được tự do dựa trên hiểu biết liên quan đến tình thương để con có thể cho phép nó tuôn chảy tự do xuyên qua con.

Ôi Saint Germain, là thuật biến hóa,
Lửa tím giải phóng nguyên tử thăng hoa.
Ôi Saint Germain, biến chì thành vàng,
Biến cả viễn kiến mà chính con mang.  

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con tự do trải nghiệm cảm giác vô biên, sự vô biên của tình thương tuôn chảy tự do xuyên qua mọi tầng cấp của vũ trụ.

Ôi Saint Germain, nghệ thuật vượt thăng,
Với thày con sẽ hợp nhất vĩnh hằng.
Ôi Saint Germain, thoát khỏi tâm hồn,
Ôi niềm vui sướng biết thày trong con.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con đem xuống nhận biết ý thức tất cả những gì con học được tại khóa nhập thất ở cõi ê-the của thày để con đem ra áp dụng trong mọi quan hệ của con.

Ôi Saint Germain, tinh thần cao thượng,
Là chìa khoá cho hóa học tâm linh.
Ôi Saint Germain, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con có tình thương hoàn toàn tự do, tuôn chảy với tình thương, vừa đón nhận vừa biểu hiện tình thương vô biên, không ràng buộc, không thể so sánh và vô điều kiện của Tia thứ Ba.

Ôi Saint Germain, thày đang Hiện diện, 
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tự do Thượng đế con xin rải truyền. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

15 | Con thỉnh cầu Phụng sự dựa trên Tình thương (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Heros và Amora và Peace và Aloha, Đại thiên thần Chamuel và Charity và Uriel và Aurora, Chân sư Paul người Venice và Nada yêu dấu, hãy giúp chúng con phụng sự sự sống trong trạng thái bình an nội tâm. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với thày Paul người Venice và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Chúng con vươn lên trên tình thương thụ động

1.1. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con vượt qua ảo tưởng tình thương là bình an theo nghĩa bình an là thụ động. Xin thày giúp con đạt được bình an với tình thương bằng cách sẵn lòng biểu hiện tình thương qua mọi khía cạnh của nó.

Heros-Amora, trong tình thương màu hồng,
Con không cần biết đến ai nghĩ gì về con,
Trong hợp nhất với thày, con gọi một ngày mới,
Như trẻ thơ trong trắng, con đùa giỡn vui chơi.

Heros-Amora, đời mới đã khởi sự,
Con cười vào mặt quỷ, là đứa luôn nghiêm nghị,
Con tắm trong Mặt trời màu Hồng Đỏ lộng lẫy,
Biết rằng Thượng đế muốn cuộc đời vui thơ ngây.

1.2. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con nhận ra cốt lõi của tình thương là giúp người kia thăng vượt và trở nên hơn nữa.

Heros-Amora, cuộc đời thật vui thay,
Tưởng chừng như thế giới là đồ chơi vĩ đại,
Tâm con phóng thế nào thì đời như thế nấy,
Vì tấm gương cuộc sống phản chiếu đúng như vậy.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

1.3. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con là cánh cửa mở cho sự biểu hiện trực tiếp hơn của tình thương khi con hay người khác cần nó.

Heros-Amora, đốt hết mọi điều kiện,
Con biết TA LÀ quyền được lật sang trang mới,
Trầm mình trong dòng chảy của Tình yêu vô biên,
Con biết rằng Tánh linh đã từ Trên xuống đời.

Heros-Amora, tỉnh ngộ con phát hiện
Rằng tình thương đích thực không hề có điều kiện,
Tuy rắn bị kẹt cứng trong nhị đối của y,
Nhưng con thì thoát được nhờ Tình thương vô kỷ.

1.4. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con mở tâm ra với sự biểu hiện uy lực dựa trên tình thương giúp chúng con tỉnh giác buông bỏ các khuôn nếp tự phá hoại.

Heros-Amora, rốt cuộc con cảm thấy
Mình đã vượt lên trên vùng dĩ vãng sa lầy.
Trong tình yêu chân thật con tự do phát triển,
Mãi mãi con là một với Dòng Từ vô biên.

Heros-Amora, điều kiện vốn trói buộc,
Chúng hình thành mạng lưới những gian manh lừa dối,
Tình thương bay xa mãi vì nó không biên giới,
Nâng cao muôn sự sống vào trời Hồng ngọc tươi.

1.5. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con phân biện giữa một biểu hiện uy lực đúng đắn và sự lạm dụng uy lực. Xin thày giúp chúng con học hỏi những khía cạnh khác nhau của tình thương, từ màu hồng sang màu ngọc đỏ.

Ôi Elohim Peace, trong Ngọn lửa Kết hợp,
Nhị nguyên không còn chỗ để bày trò cuộc chơi, 
Con biết mọi hình tướng tuôn ra từ một cội,
Con lấy uy lực đó định ra hướng đi mới. 

Ôi Elohim Peace, hồi chuông đã vang rền,
Khiến từng hạt nguyên tử ca hát và rung lên.
Con nay thấy được rằng chẳng vật gì tách biệt,
Khi cái ngã phàm phu, con buông bỏ đoạn tuyệt. 

1.6. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con đạt được giao tiếp tự do bằng cách đạt được các khai ngộ của Tia thứ Sáu và chấp nhận là tình thương không phải lúc nào cũng bình an.

Ôi Elohim Peace, thày hãy giúp con ngộ
Rằng Giê-su giáng thế để ban con Ngọn lửa,
Rải cho ai sẵn lòng rũ hết chuyện ganh đua,
Nhập sự sống bất tận mà theo chân Ki-tô.

Ôi Elohim Peace, qua mắt thày con biết
Rằng chỉ trong cái Một con mới mong giải thoát,
Con nay bỏ lại hết ý niệm ngã riêng biệt
Khi con vượt biển cả của luân hồi trùng điệp. 

1.7. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con chấp nhận là con có quyền đối xử một cách cường độ với người bạn đời. Xin thày giúp chúng con thấy cường độ là một thành phần hữu ích trong mối quan hệ của chúng con, và rũ bỏ những khuôn nếp lạm dụng quyền lực dựa trên sợ hãi thay vì hành động cường độ dựa trên tình thương.

Ôi Elohim Peace, thày chỉ con lối đi, 
Ngừng đấu đá nhị nguyên, con thông sạch tâm trí, 
Thày đâm xuyên ảo giác thời gian lẫn không gian,
Đem Hồng ân Bất tận tiêu hủy mọi phân ly. 

Ôi Elohim Peace, tên thày sao đẹp quá,
Nỗi nhị nguyên tủi hổ trong con thày giải tỏa,
Chính qua sự rung động của Ngọn lửa Hoàng kim
Mà ảo ảnh sự chết được Ki-tô nhận chìm.

1.8. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con cho nhau tự do phát biểu để chúng con có thể giúp nhau giải tỏa các tâm lý chưa được giải quyết của mình mà không tạo ra một vòng xoắn phản ứng.

Ôi Elohim Peace, thày đem vào thế giới
Lửa Tái sinh Vũ trụ mà chẳng ai ngăn nổi, 
Con nay từ bỏ hẳn mọi ý niệm “cái tôi”,
Để Ánh sáng của thày trong con được chiếu rọi. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,

Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.9. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con vượt lên trên khuôn nếp trong đó một người lên cơn bực bội và người kia khép tâm lại và rút vào vỏ ốc của mình.

Gia tốc tới Hợp nhất, Ta Là có thật.
Gia tốc tới Hợp nhất, mọi sự sống được lành.
Gia tốc tới Hợp nhất, Ta Là HƠN NỮA.
Gia tốc tới Hợp nhất, tất cả sẽ vút cao.

Gia tốc tới Hợp nhất! (3X)
Heros và Amora yêu dấu.
Gia tốc tới Hợp nhất! (3X)
Chamuel và Charity yêu dấu.
Gia tốc tới Hợp nhất! (3X)
Paul người Venice yêu dấu.
Gia tốc tới Hợp nhất! (3X)
TA LÀ yêu dấu.

2. Chúng con tự do biểu hiện mình

2.1. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con cho phép một trong hai người biểu lộ bất cứ cảm xúc nào có trong tiềm thức với mục đích phơi bày nó ra.

Đại thiên thần Chamuel, uy lực tia ngọc hồng,
Con biết con đang tắm trận mưa ban sự sống,
Bao ý chí sa đọa đốt sạch bởi tình thương,
Bỗng nhiên bao ham muốn như chìm nghỉm lắng xuống.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.2. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con chuyển hóa các cảm xúc trong tiềm thức, khám phá khuôn nếp và ảo tưởng đằng sau chúng để có thể vượt thăng chúng.

Đại thiên thần Chamuel, ánh sáng dâng cuồn cuộn,
Tia hồng ngọc rực lửa đâm xuyên qua đêm trường,
Mọi thế lực bóng tối bị lửa thày thiêu nướng,
Thiêu sạch cả những ai không chịu bước cao hơn.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.3. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con vượt qua khuôn nếp cảm thấy rằng lúc nào cũng phải dịu dàng.

Đại thiên thần Chamuel, tình yêu thày bao la,
Cuộc sống nay ý nghĩa do tầm nhìn sáng tỏ,
Khi mục đích cuộc đời con nhận ra quá rõ,
Nhận cả đấng Duy nhất trong tình thương chan hòa.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.4. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con thiết lập được mối quan hệ bình an thực sự bằng cách vượt qua mọi yếu tố không-bình-an và phản-bình-an.

Đại thiên thần Chamuel, đem bình an bất nhị,
Thậm chí cả cái chết mà cũng chẳng là chi,
Thật sự trong tình thương không thể có phân hủy,
Tình thương là thăng vượt vào ngày mới vô thỉ.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.5. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con vượt qua mong muốn lúc nào cũng bình an để con dám thừa nhận mình là ai, và những vết thương và vấn đề mà con có.

Đại thiên thần Uriel, với uy lực dũng mãnh,
Các thiên thần hòa bình nuốt trọn hết chiến tranh. 
Bọn quỷ dữ hung hăng không thể nào địch nổi
Ánh sáng đang thiêu chúng, lửa rực lên sáng ngời.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

2.6. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con sẵn sàng ứng phó với các vấn đề khó khăn để chúng con có thể phát triển một quan hệ chân thật và trọng tăng triển hơn, giúp chúng con hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Đại thiên thần Uriel, âm thanh vang cùng thấu,
Khi hàng triệu thiên thần góp giọng ca hợp tấu, 
Tiếng hát nâng cường độ chọc thủng qua đêm thâu,
Và mọi người bỗng thấy sự duy nhất nhiệm màu.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

2.7. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con cho nhau tự do để biểu hiện những khía cạnh cường độ của tình thương. Xin thày giúp chúng con nhận ra cường độ là chìa khóa của phụng sự chân thật.

Đại thiên thần Uriel, từ trên Ngai Cao ngất,
Hàng triệu cái kèn đồng vang lên Âm Duy nhất, 
Tan hết mọi bất hòa trong ca khúc hài hòa,
Là âm của mọi âm, đời giải thoát mở ra.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

2.8. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con học cách không bị ảnh hưởng bởi sự lên án của tâm thức sa ngã. Xin thày giúp chúng con ngừng không lên án nhau qua tâm thức này.

Đại thiên thần Uriel, mọi chiến tranh chấm dứt,
Khi thày đem thông điệp từ trái tim Duy nhất, 
Hòa bình trong tim người trổi lên thành hợp xướng
Cứ thế lớn thêm mãi trong vòng xoáy yêu thương.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

2.9. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con ứng phó với hoàn cảnh bị lên án là không thương yêu vì con dám biểu hiện mình một cách tự do hơn.

Con bay với thiên thần,
Để đạt được nhiều HƠN.
Thiên thần ôi rất thật,
Tình thương sẽ chữa hết.
Với thiên thần bình an,
Muôn ray rứt phải tàn.
Với thiên thần ánh sáng,
Ta bay bổng thênh thang.

Cánh thiên thần xào xạc trong ngọn gió,
Vui vui lắm khi vật chất hát to,
Vui với từng hạt nguyên tử vo vo
Cùng hòa tấu với cánh thiên thần nhỏ.

3. Chúng con phụng sự nhau

3.1. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con học cách phụng sự nhau bằng cách giúp nhau phụng sự theo Sứ vụ Thiêng liêng của mỗi người.

Ôi chân sư Paul, thày là giấc mơ,
Thày yêu cái đẹp hằng chảy tuôn ra.
Ôi chân sư Paul, tình mang trong dạ
Quyền năng đập vỡ nấm mồ tự ngã.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.2. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con nhận ra là chúng con rơi vào khuôn nếp phản ứng khi bị tâm thức sa ngã lên án. Xin thày giúp chúng con nhận ra phàm linh nội tại đằng sau phản ứng này.

Ôi chân sư Paul, là nguồn khuyên nhủ,
Tâm con bay vút lên đỉnh trời cao.
Ôi chân sư Paul, minh triết ấp ủ
Cái đẹp chảy xuống từ Trên nhập vào.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.3. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con phụng sự nhau để chúng con có thể mang đến những ý mới trong lãnh vực của mình mà không bị hủy hoại bởi sự chống đối của những người đang kẹt trong tâm thức sa ngã.

Ôi chân sư Paul, yêu là nghệ thuật,
Mở trái tim ra căn phòng mật thất.
Ôi chân sư Paul, ào ào chảy xuống,
Cho tim tràn ngập ánh sắc yêu thương.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.4. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết, quyền tự quyết của chúng con cũng như quyền tự quyết của người khác.

Ôi chân sư Paul, gia tốc mài miệt,
Trụ vào từ bi, con thiền nhận biết.
Ôi chân sư Paul, ý định thuần khiết
Sẽ được bảo đảm thăng lên siêu việt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.5. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con nhận ra rằng tình thương không muốn tạo ra kết quả vật lý trên hành tinh này. Tình thương chỉ muốn trình bày cho người khác một lựa chọn tự thăng vượt.

Ôi chân sư Paul, tình yêu hàn gắn,
Thày mở lộ ra ánh sáng nội tâm.
Ôi chân sư Paul, tình yêu an ủi,
Để con nguyên vẹn trong một niềm vui.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.6. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con nhận ra con phụng sự bằng cách trình bày cho người khác một sự lựa chọn đích thực. Sự thành công của đóng góp của con không tùy thuộc vào sự lựa chọn của người khác.

Ôi chân sư Paul, phụng sự Tất cả,
Giúp mọi chúng sinh thăng vượt sa ngã.
Ôi chân sư Paul, an bình ra khơi,
Mặc cho tự ngã tất phải tàn hơi.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.7. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con chấp nhận rằng con có quyền áp lực người khác lựa chọn, nhưng con không được dính mắc vào chuyện họ lựa chọn điều gì.

Ôi chân sư Paul, tình yêu giải phóng,
Thày yêu mãi mãi, cho con nhập dòng.
Ôi chân sư Paul, thày là vị Chủ
Giúp cho hành trình của con hứng thú.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.8. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con chấp nhận là mỗi người có quyền sống ở mức tâm thức hiện tại của họ và biểu lộ cái nhìn của mình. Người bạn đời được quyền đáp ứng dựa trên trình độ tâm thức của người đó.

Ôi chân sư Paul, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư Paul, thày tô bầu trời,
Cái ta mừng rỡ trong màu vui tươi.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.9. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con chấp nhận là con không có quyền phản ứng tiêu cực khi người bạn đời thực thi quyền tự quyết của vị ấy, vì con không thể đòi hỏi người khác phải lựa chọn như thế nào.

Ôi chân sư Paul, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tình yêu Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4. Chúng con là cánh cửa mở cho tình thương

4.1. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con vượt qua tư duy cuồng đại khiến con tin rằng một số thay đổi bên ngoài nhất định phải xảy ra vào một thời điểm nào đó.

Chân sư Nada, cái đẹp quyền năng,
Nở ra như một đóa hoa tuyệt trần.
Chân sư Nada, ôi sao thâm trầm, 
Ý chí chinh phục được cả thời gian. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con thăng vượt sự phụng sự dựa trên sợ hãi khiến con càng ngày càng bực bội cho tới khi kiệt sức.

Chân sư Nada, thày ban cho con,
Minh triết chảy ra như dòng nước cuốn.
Chân sư Nada, tâm thày cường tráng, 
Dâng lên theo cánh bài ca thường hằng. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con có cái nhìn đường dài, kiên nhẫn hơn và đạt thành quả trong một thời gian dài.

Chân sư Nada, hương thơm tuyệt hảo,
Tình thương của thày từ cõi thiên thai.
Chân sư Nada, hiền dịu từ ái, 
Nương cánh tình yêu con vươn lên hoài. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con nhận ra bất kỳ chuyện gì đã xảy ra trong quan hệ của chúng con trong quá khứ, cơ hội tăng triển không bao giờ bị mất.

Chân sư Nada, ánh sáng Mẹ đây,
Như diều phơi phới, tim con bay nhảy.
Chân sư Nada, trong mắt của thày, 
Sự sống trinh bạch như hạt sương mai. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con vượt qua tư duy “bây giờ hay không bao giờ” tạo xung đột. Xin thày giúp chúng con là những sứ giả chân chính của hòa bình.

Chân sư Nada, thày đem chân lý,
Như chim buổi sáng hát bản tình ca.
Chân sư Nada, bốn thể phàm ngã, 
Tình yêu của thày hàn gắn được cả. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con nhận ra hai người không thể phụng sự nhau nếu mỗi người đều có một quan niệm người kia phải thay đổi như thế nào và cả hai đều có tư duy tất-cả-hay-không-có-gì-cả, bây-giờ-hay-không-bao-giờ.

Chân sư Nada, yên tâm phục vụ,
Bao nhiêu tình cảm giải hóa sạch rồi.
Chân sư Nada, cuộc đời hứng thú, 
Và đám rối dương* sáng như mặt trời.
(*: solar plexus) 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con nhận ra phụng sự người khác là cho người đó cơ hội tăng triển, không phải là tạo ra một kết quả bên ngoài. Xin thày giúp chúng con kiên nhẫn với chính mình và với người khác.

Chân sư Nada, tình yêu tự do,
Không còn điều kiện, không còn so đo.
Chân sư Nada, vươn lên buông bỏ
Sắc thái phàm phu tình yêu thấp nhỏ.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con nhận ra không ai bao giờ đạt được bình an mà không đi qua cánh cửa kiên nhẫn, đôi khi đòi hỏi chịu đựng đau khổ lâu dài.

Chân sư Nada, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Nada, vươn lên rọi sáng, 
Vẻ đẹp thần thánh ôi sao huy hoàng. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con nhận ra chúng con không thể đạt được bình an nếu còn dính mắc với kết quả bên ngoài. Xin thày giúp chúng con chấp nhận con không phải là người tạo tác, Dòng Sông sự Sống là người tạo tác. Con cung cấp chén thánh và để cho tình thương làm việc của nó, và con được bình an bất kỳ kết quả vật lý là gì.

Chân sư Nada, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Hoà bình Thượng đế con xin rải truyền. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

13 | Con thỉnh cầu Sự thật để có Tự do Phát biểu (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Heros và Amora và Cyclopea và Virginia, Đại thiên thần Chamuel và Charity và Raphael và Mẹ Mary, Chân sư Paul người Venice và Hilarion yêu dấu, hãy giúp chúng con thiết lập sự phát biểu tự do không có căng thẳng hay tắt nghẽn. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ các khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với thày Paul người Venice và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Chúng con tôn trọng cảm nhận cá biệt

1.1. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con vượt qua sự hủ hóa tình thương khiến con nghĩ rằng chân lý chỉ thể hiện bằng một cách và thương yêu ai có nghĩa là làm cho người đó thấy được chân lý của mình.

Heros-Amora, trong tình thương màu hồng,
Con không cần biết đến ai nghĩ gì về con,
Trong hợp nhất với thày, con gọi một ngày mới,
Như trẻ thơ trong trắng, con đùa giỡn vui chơi.

Heros-Amora, đời mới đã khởi sự,
Con cười vào mặt quỷ, là đứa luôn nghiêm nghị,
Con tắm trong Mặt trời màu Hồng Đỏ lộng lẫy,
Biết rằng Thượng đế muốn cuộc đời vui thơ ngây.

1.2. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con hiểu rằng không ai trong chúng con có thể thấy được chân lý tuyệt đối và vô điều kiện xuyên qua cỗ xe tâm hồn của mình. Con chỉ thấy được một phiên bản riêng của chân lý.

Heros-Amora, cuộc đời thật vui thay,
Tưởng chừng như thế giới là đồ chơi vĩ đại,
Tâm con phóng thế nào thì đời như thế nấy,
Vì tấm gương cuộc sống phản chiếu đúng như vậy.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

1.3. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con thấy lòng khao khát tự nhiên muốn biết chân lý bị hủ hóa thành khao khát muốn biết một chân lý tuyệt đối, và điều này tạo bối cảnh gây ra các vấn đề trong quan hệ giữa con người.

Heros-Amora, đốt hết mọi điều kiện,
Con biết TA LÀ quyền được lật sang trang mới,
Trầm mình trong dòng chảy của Tình yêu vô biên,
Con biết rằng Tánh linh đã từ Trên xuống đời.

Heros-Amora, tỉnh ngộ con phát hiện
Rằng tình thương đích thực không hề có điều kiện,
Tuy rắn bị kẹt cứng trong nhị đối của y,
Nhưng con thì thoát được nhờ Tình thương vô kỷ.

1.4. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con nhìn nhận là những gì con thấy bây giờ là sản phẩm của tầng mức tâm thức của con và cá tính của cỗ xe tâm hồn của con.

Heros-Amora, rốt cuộc con cảm thấy
Mình đã vượt lên trên vùng dĩ vãng sa lầy.
Trong tình yêu chân thật con tự do phát triển,
Mãi mãi con là một với Dòng Từ vô biên.

Heros-Amora, điều kiện vốn trói buộc,
Chúng hình thành mạng lưới những gian manh lừa dối,
Tình thương bay xa mãi vì nó không biên giới,
Nâng cao muôn sự sống vào trời Hồng ngọc tươi.

1.5. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con thoát khỏi cái bẫy nghĩ rằng khi con thương yêu một người và muốn giúp họ, thì cách duy nhất giúp họ là khiến họ thấy chân lý như con thấy.

Cyclopea yêu dấu, thày phơi ra sự thực, 
Rằng phiền não nhị nguyên rồi sẽ được hàn gắn, 
Ánh sáng màu Lục bảo của thày như thần dược, 
Chữa lành cảm thể con cho bình an mỹ mãn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Viễn kiến sao trong sáng, con nhất mực giữ gìn. 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt trong tim.

1.6. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con chấp nhận là người khác không tăng triển bằng cách thấy sự việc như con thấy. Người đó sẽ tăng triển khi có một tầm nhìn sáng suốt hơn dựa trên cá tính riêng của họ.

Cyclopea yêu dấu, con cùng thày tháo gỡ 
Những vòng xoáy tiêu cực đang phủ tâm mây mờ, 
Con biết mình cốt lõi là cái biết thuần sơ,
Là chìa khóa để thành cánh cửa luôn rộng mở.

Cyclopea yêu dấu, thanh lọc mắt bên trong, 
Uy lực đó giúp con xuyên thủng đêm trong hồn,
Xuyên tấm màn nhị nguyên, con giương cánh bay cao, 
Và tắm trong Ánh sáng thâm sâu màu Lục bảo.

1.7. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con thoát ra khỏi ham muốn không bao giờ ngừng của tự ngã muốn cái nhìn cá biệt của nó trở nên phổ quát bằng cách khiến mọi người chấp nhận đó là sự thật duy nhất.

Cyclopea yêu dấu, cuộc sống chỉ phản ánh 
Những hình tướng mà tâm cứ phóng ra địa cầu, 
Giữ tâm mình trong sáng là bí quyết chữa lành, 
Không còn một tâm ảnh để ngã trốn đằng sau. 

Cyclopea yêu dấu, chúng con nhắm thật cao, 
Ngày càng xích lại gần với ngọn lửa hàn gắn,
Nay con nhìn cuộc sống với con mắt thuần đơn,
Vượt lên trên bệnh tật, con sẽ bay cao hơn.

1.8. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con nhận ra cỗ xe tâm hồn của con ảnh hưởng tầm nhìn của con. Xin thày giúp chúng con bước ra khỏi phin lọc nhận thức của cỗ xe tâm hồn và trải nghiệm một thực tại cao hơn.

Cyclopea yêu dấu, Lửa Lục bảo phanh phui 
Từng trò chơi quyền lực tinh vi của nhị đối, 
Kể cả âm mưu cũ là trò chơi gian dối, 
Cứ định nghĩa chân lý theo một cách mà thôi.

Cyclopea yêu dấu, dòng chảy con cảm được, 
Của Chân lý Hằng sống mà thày ban liên tục, 
Con biết chân lý vượt mọi hệ thống dưới này, 
Con bơi trong ánh sáng và tăng trưởng gấp mấy. 

1.9. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con thấy và hoàn toàn chấp nhận rằng người phối ngẫu trong quan hệ tình yêu của con sẽ không bao giờ nhìn đời giống y như con.

Gia tốc tới Hợp nhất, Ta Là có thật.
Gia tốc tới Hợp nhất, mọi sự sống được lành.
Gia tốc tới Hợp nhất, Ta Là HƠN NỮA.
Gia tốc tới Hợp nhất, tất cả sẽ vút cao.

Gia tốc tới Hợp nhất! (3X)
Heros và Amora yêu dấu.
Gia tốc tới Hợp nhất! (3X)
Chamuel và Charity yêu dấu.
Gia tốc tới Hợp nhất! (3X)
Paul người Venice yêu dấu.
Gia tốc tới Hợp nhất! (3X)
TA LÀ yêu dấu.

2. Chúng con muốn tăng triển trong quan hệ của chúng con

2.1. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con chấp nhận là chúng con có sự thu hút với người bạn đời vì người đó giúp phơi bày những vấn đề tâm lý mà con chưa giải quyết.

Đại thiên thần Chamuel, uy lực tia ngọc hồng,
Con biết con đang tắm trận mưa ban sự sống,
Bao ý chí sa đọa đốt sạch bởi tình thương,
Bỗng nhiên bao ham muốn như chìm nghỉm lắng xuống.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.2. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con chấp nhận là người bạn đời phơi bày những tâm lý chưa giải quyết của con bằng cách khiến con phản ứng, chứ không phải bằng cách khiến con thấy mọi chuyện giống họ.

Đại thiên thần Chamuel, ánh sáng dâng cuồn cuộn,
Tia hồng ngọc rực lửa đâm xuyên qua đêm trường,
Mọi thế lực bóng tối bị lửa thày thiêu nướng,
Thiêu sạch cả những ai không chịu bước cao hơn.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.3. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con hiểu là con cần xem xét phản ứng của mình đối với người bạn đời để khám phá những tâm lý chưa giải quyết của mình.

Đại thiên thần Chamuel, tình yêu thày bao la,
Cuộc sống nay ý nghĩa do tầm nhìn sáng tỏ,
Khi mục đích cuộc đời con nhận ra quá rõ,
Nhận cả đấng Duy nhất trong tình thương chan hòa.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.4. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con vượt qua cái bẫy nghĩ rằng trong mối quan hệ tình yêu lý tưởng, cả hai người phải nhìn mọi chuyện giống y hệt nhau.

Đại thiên thần Chamuel, đem bình an bất nhị,
Thậm chí cả cái chết mà cũng chẳng là chi,
Thật sự trong tình thương không thể có phân hủy,
Tình thương là thăng vượt vào ngày mới vô thỉ.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.5. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con tránh xem sự khác biệt về quan điểm là mối đe dọa và thay vào đó, xem đây là cơ hội mở rộng tầm nhìn của mình.

Đại thiên thần Raphael, thày sáng rỡ làm sao, 
Thày nâng con lên khỏi tuồng sân khấu cuộc đời. 
Mẹ Mary và thày, viễn quan sao táo bạo, 
Muốn con đạt tiềm năng cao nhất có thể với. 

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

2.6. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con hiểu rằng khi người khác nhìn sự việc khác con, thì đây là cơ hội để con mở rộng ý niệm bản ngã của mình.

Đại thiên thần Raphael, trong quả cầu lục bảo, 
Niệm tinh khôi con giữ cho mãi mãi thanh cao, 
Mẹ Mary bao bọc, ôm con trong Tim Thánh, 
Không bao giờ xa cách trong tình Mẹ chân thành.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

2.7. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con hiểu rằng muốn có một quan hệ hài hòa, con cần nhìn nhận là chúng con mỗi người có một tầm nhìn cá biệt về cuộc đời và người bạn đời của con không nên chấp nhận cái nhìn của con.

Đại thiên thần Raphael, mọi đau ốm trị lành, 
Từng tế bào trong thân niêm lại trong ánh sáng, 
Chợt thấy niệm tinh khôi của đức Mẹ Mary, 
Con sống hiện thực mới là sức khỏe thần kỳ.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

2.8. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con chấp nhận là người bạn đời của con nên mở rộng cái nhìn cá biệt của họ nhưng cái nhìn này phải được phép giữ cá tính của nó.

Đại thiên thần Raphael, ánh sáng vô cùng thực, 
Lộ ra cho con thấy Ki-tô trong thần thức, 
Mẹ Mary đang giúp để con thăng liên tục, 
Cùng thày con thăng lên trong ánh sáng bảo lục.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

2.9. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con cho phép cả hai tăng triển theo cách riêng của mình để chúng con có một mối quan hệ hài hòa giúp cả hai tăng triển.

Con bay với thiên thần,
Để đạt được nhiều HƠN.
Thiên thần ôi rất thật,
Tình thương sẽ chữa hết.
Với thiên thần bình an,
Muôn ray rứt phải tàn.
Với thiên thần ánh sáng,
Ta bay bổng thênh thang.

Cánh thiên thần xào xạc trong ngọn gió,
Vui vui lắm khi vật chất hát to,
Vui với từng hạt nguyên tử vo vo
Cùng hòa tấu với cánh thiên thần nhỏ.

3. Chúng con chấp nhận sự khác biệt

3.1. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con cải thiện cách chúng con giao tiếp với nhau bằng cách vượt qua khuynh hướng ép uổng người kia phải nhìn đời một cách nào đó.

Ôi chân sư Paul, thày là giấc mơ,
Thày yêu cái đẹp hằng chảy tuôn ra.
Ôi chân sư Paul, tình mang trong dạ
Quyền năng đập vỡ nấm mồ tự ngã.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.2. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con cho nhau không gian để diễn đạt cách mình nhìn đời, và cho phép nhau thấy rõ mình cảm nhận hoàn cảnh như thế nào.

Ôi chân sư Paul, là nguồn khuyên nhủ,
Tâm con bay vút lên đỉnh trời cao.
Ôi chân sư Paul, minh triết ấp ủ
Cái đẹp chảy xuống từ Trên nhập vào.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.3. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con thiết lập nền móng của mối giao tiếp xây dựng có thể giúp giải quyết căng thẳng và xung đột giữa chúng con.

Ôi chân sư Paul, yêu là nghệ thuật,
Mở trái tim ra căn phòng mật thất.
Ôi chân sư Paul, ào ào chảy xuống,
Cho tim tràn ngập ánh sắc yêu thương.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.4. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con chấp nhận những khác biệt của nhau như một điều tích cực, một chất xúc tác giúp tăng triển.

Ôi chân sư Paul, gia tốc mài miệt,
Trụ vào từ bi, con thiền nhận biết.
Ôi chân sư Paul, ý định thuần khiết
Sẽ được bảo đảm thăng lên siêu việt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.5. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con xây dựng mối quan hệ mới dựa trên sự chấp nhận khác biệt của nhau. Xin thày giúp chúng con vượt qua ước muốn không thể đạt được muốn tìm một người bạn đời hoàn toàn giống mình và luôn luôn nhìn đời giống mình.

Ôi chân sư Paul, tình yêu hàn gắn,
Thày mở lộ ra ánh sáng nội tâm.
Ôi chân sư Paul, tình yêu an ủi,
Để con nguyên vẹn trong một niềm vui.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.6. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con chấp nhận một người bạn đời khác mình, thấy điều này như một nguồn tăng triển và dùng nó một cách xây dựng.

Ôi chân sư Paul, phụng sự Tất cả,
Giúp mọi chúng sinh thăng vượt sa ngã.
Ôi chân sư Paul, an bình ra khơi,
Mặc cho tự ngã tất phải tàn hơi.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.7. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con vượt qua ảo tưởng cho rằng quan hệ hài hòa dựa trên sự giống nhau. Xin thày giúp chúng con thấy chỉ có tự ngã mới bị đe dọa bởi khác biệt.

Ôi chân sư Paul, tình yêu giải phóng,
Thày yêu mãi mãi, cho con nhập dòng.
Ôi chân sư Paul, thày là vị Chủ
Giúp cho hành trình của con hứng thú.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.8. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con vượt qua mô thức dùng áp lực để khiến người bạn đời đồng ý với mình.

Ôi chân sư Paul, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư Paul, thày tô bầu trời,
Cái ta mừng rỡ trong màu vui tươi.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.9. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con vượt qua mô thức không nói một điều nào đó vì con không muốn làm người bạn đời bực bội.

Ôi chân sư Paul, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tình yêu Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4. Chúng con cho nhau tự do phát biểu

4.1. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con đạt được tình trạng mà cả hai người đều có thể tự do phát biểu. Xin thày giúp chúng con không phản ứng với nhau qua tự ngã của mình.

Hilarion, trên bờ lục bảo,
Con đã bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con cho nhau không gian để chúng con có thể tự do phát biểu mà không sợ phản ứng tiêu cực của người kia.

Hilarion, chìa khóa bí mật,
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con cho nhau tự do để một người có thể nói bất cứ điều gì người đó muốn, và người kia có tự do trả lời bất cứ điều gì dựa trên phản ứng của họ.

Hilarion, tình yêu sự sống,
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con học cách không bao giờ nói dựa trên phản ứng sợ hãi mà chỉ mô tả phản ứng cho người kia.

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng, 
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền, 
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con xây dựng sự thông cảm giúp chúng con không phản ứng lại nhau dựa trên nỗi sợ bị đe dọa hay bị hất hủi.

Hilarion, thương yêu đón chào,
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con phát triển mối quan hệ trong đó không ai cảm thấy bị hất hủi khi người kia không hiểu mình.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con cho nhau tự do nói những gì mỗi người cần nói, nhờ vậy tạo được vòng xoắn hướng thượng mở rộng dòng chảy giao tiếp giữa chúng con.

Hilarion, thông sạch luân xa, 
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà, 
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con nhận ra rằng một quan hệ hài hòa không bao giờ thành tựu được nếu giao tiếp bị trấn áp, nhưng chỉ thành tựu khi cả hai có tự do phát biểu.

Hilarion, thày sẽ quân bình 
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Thày Paul người Venice, xin thày giúp chúng con hiểu rằng con không xây dựng hài hòa qua sự giống nhau. Chúng con xây dựng nó qua giao tiếp tự do cho phép khác biệt được phát biểu tự do mà không tạo căng thẳng.

Hilarion, thày đang Hiện diện, 
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế con xin rải truyền. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

16 | Tình thương và Tự do

Bài giảng của chân sư thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels, ngày 3/1/2015, đăng ngày 9/1/2015.

TA LÀ Paul người Venice, Thượng sư của Tia thứ Ba và thày tự do. Thày tự do vì thày đã vượt qua những hủ hóa của tình thương.

16.1. Khái niệm tình yêu tự do

Khi con tới tầng thứ bảy của khóa nhập thất của thày, thày sẽ cho con cơ hội để vượt qua một trong những hình thức hủ hóa tình thương phổ thông nhất trên trái đất. Đó là khái niệm đã trở nên rất phổ quát vào thập niên 1960, gọi là “tình yêu tự do”.

Trong nhiều trường hợp, tình yêu tự do có nghĩa là có quan hệ tình dục tự do với càng nhiều người càng tốt. Con có thấy chăng là, trong thập niên 1960, cũng có một phong trào kêu gọi cho phụ nữ nhiều quyền tự do và bình đẳng hơn? Cùng lúc, có khuynh hướng đề cao khái niệm tình yêu tự do.

Vào thời đó, tình yêu tự do thường có nghĩa gì? Trong thời đại trước, khi một người đàn ông cưới người phụ nữ mà y có quan hệ tình dục, thì người phụ nữ được bảo vệ phần nào vì có một mối quan hệ ổn định. Theo quan niệm tình yêu tự do thì đâu là sự bảo vệ cho người phụ nữ? Phải chăng quan niệm tình yêu tự do chính yếu phục vụ người đàn ông, giúp họ biểu lộ động lực có tình dục với nhiều người đàn bà khác nhau mà không phải chịu trách nhiệm gì? Quan niệm này giải phóng phụ nữ hay áp đặt lên họ một hình thức bạo ngược mới, khi họ trở nên một đối tượng tình dục thay vì một người bạn đời?

Một điều lạ kỳ là phong trào tình yêu tự do cũng đã có một kết quả tích cực, vì nó đã khiến các khuôn mẫu cũ giữa hai giới bị phá vỡ. Như thày đã giảng trong các bài trước, tình hình trên trái đất đã đen tối đến độ đôi khi cần biện pháp quyết liệt để phá vỡ các khuôn mẫu cũ. Điều này không có nghĩa là các thày là chân sư thăng thiên ủng hộ các biện pháp này, nhưng chỉ có nghĩa là các thày nhận ra là có trường hợp không thể làm gì khác hơn. Các thày giản dị để con người phát biểu đến cùng cực các khuynh hướng mà họ có trong tâm thức họ, vì đằng nào thì họ cũng không nghe lời khuyên của các thày. Có lẽ con cũng nhớ lời dạy trẻ thơ: nếu không chịu nghe thì sẽ phải cảm nhận. Điều đáng tiếc là đây là cách mà nhiều người học hỏi. Họ chỉ học qua đau khổ. Họ không dễ dàng tiếp nhận lời chỉ dẫn Thiêng liêng.

Khi con nhìn phong trào tình yêu tự do, thì con có thể so sánh nó với câu ngạn ngữ phổ thông là không có bữa cơm nào miễn phí. Tình yêu tự do có thật tự do chăng? Con sống trong một thế giới trong đó mọi chuyện đều là năng lượng. Tất cả những gì con làm, con đều làm với năng lượng. Khi con có tình dục với nhiều người khác nhau, thì mỗi lần con đều trao đổi năng lượng. Khi con lấy năng lượng từ người bạn tình dục và làm cạn kiệt nguồn năng lượng của mình, thì điều này giải thoát con hay là một gánh nặng? Trên đường dài, con có tự đốt cháy mình chăng khi con có tình yêu tự do?

Khi con quan sát những người đã thí nghiệm tột cùng trong thập niên 1960 thì con thấy rằng, khi họ vừa có tình dục với nhiều người vừa dùng ma túy, thì quả thật là họ đã tự đốt cháy họ. Luân xa của họ bị cạn kiệt. Họ bị kích thích quá độ và không thể đương nổi nữa. Cấu trúc năng lượng mỏng manh của luân xa bắt đầu suy sụp và luân xa không còn toàn vẹn nữa.

Nhiều người thuộc phong trào híp pi vào thập niên 1960 và sau đó đã phải bỏ Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Năng lượng của họ bị cạn kiệt đến độ không còn đủ năng lực hay sự toàn vẹn để giúp họ hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của họ. Chúng ta phải làm gì trước sự kiện tình thương trên trái đất quá dính liền với sinh hoạt tình dục?

Điều đầu tiên mà chúng ta phải nhận ra là các thày, các chân sư thăng thiên, đã thăng thiên. Điều này có nghĩa là các thày đã thăng vượt một tâm thức rất phổ quát trên trái đất. Các thày không sợ nói về tình dục. Các thày không ngại ngùng gì khi nói về vần đề này hay mọi vấn đề khác. Vì sao lại có quá nhiều người tâm linh, đặc biệt là đệ tử chân sư thăng thiên, đặc biệt là đệ tử chân sự thăng thiên tại Hoa Kỳ, lại không thể thảo luận thoải mái về tình dục? Con yêu dấu, tại sao lại như vậy? Điều này không thể tới từ cõi thăng thiên, phải vậy chăng?

Sự rụt rè này chỉ có thể có vì con vẫn còn bị ảnh hưởng bởi một khía cạnh đặc thù của tâm thức sa ngã muốn con dồn nén đòi hỏi tình dục và năng lực tình dục. Sa nhân muốn con cảm thấy xấu hổ khi nhìn nhận rằng mình có đòi hỏi tình dục và cơ thể mình có một số nội tiết tố và nhu cầu. Con không được công khai thảo luận những chuyện này mà phải giấu giếm.

Đây là một sự hủ hóa đã có từ lâu đời. Con có nghĩ rằng sự dồn nén năng lực tình dục và tránh thảo luận về tình dục có trước thập niên 1960, đã do các chân sư thăng thiên chủ trương hay ủng hộ? Nếu con nghĩ như vậy thì con đã lầm rồi.

16.2. Năng lực tình dục không phải là nguyên nhân sa ngã

Một số các con đã nghe hoặc đọc rằng Giê-su có ý định giải thoát phụ nữ khi thày hành đạo hai ngàn năm trước đây. Thày có thể cam quyết là Giê-su không bao giờ ngần ngại nói về tình dục, tuy rằng điều này khó làm trong bối cảnh văn hóa lúc bấy giờ. Chính Giáo hội Công giáo đã thực sự bắt đầu việc dồn nén năng lực tình dục và loại bỏ mọi thảo luận về tình dục. Giáo hội khiến người ta tưởng tình dục là nguyên nhân của sa ngã. Ngay một số đệ tử chân sư thăng thiên vẫn tin điều này.

Làm sao tình dục lại có thể là nguyên nhân sa ngã khi sa ngã xảy ra trong bầu cõi trước? Lúc đó, con người không có cơ thể với những đặc tính giống như cơ thể con người hiện nay trên trái đất. Trong những bầu cõi đó, năng lượng không thô đặc như hiện nay. Do đó, lúc đó không cần có giao hợp để tạo ra một trẻ sơ sinh.

Làm sao giao hợp có thể là nguyên nhân của sa ngã? Điều này đã không xảy ra. Chính những sinh thể rơi vào tâm thức sa ngã và việc họ chống đối Thượng đế và luật tự quyết đã là nguyên nhân của sa ngã. Họ không muốn con biết điều này nên họ tìm cách đánh lạc hướng với đủ mọi nguyên nhân khác. Cho rằng năng lượng tình dục, hành động giao hợp là nguyên nhân của sa ngã là một cách tiện lợi để đổ lỗi cho phụ nữ.

Điều phổ quát trên trái đất là đàn ông có thúc đẩy tình dục cao hơn nhưng họ lại nói chính phụ nữ đã quyến rũ họ. Đây chính là khuynh hướng của tự ngã luôn luôn phóng chiếu là vấn đề ở bên ngoài mình. Phụ nữ bị đổ lỗi đã quyến rũ đàn ông trong khi sự thực là chính đàn ông đã không làm chủ được thúc đẩy tình dục của họ. Họ không làm chủ được vì họ không được nói chuyện tự do về đề tài này, do nền văn hóa đã trở nên lệch lạc và xếp đề tài này thành điều cấm kỵ. Đây là một cực của tâm thức sa ngã, nhưng cực kia là tự do tình yêu và tự do tình dục. Hai cực này sẽ không dẫn con tới thiên đàng. Hai cực này sẽ không dẫn con tới thiên đàng nơi hạ giới.

16.3. Khác biệt giữa tình dục và tình yêu

Khi con tới tầng thứ bảy của khóa nhập thất của thày thì con nên chuẩn bị tình thần để thảo luận về tình dục. Con sẽ không đạt được khai ngộ ở tầng này nếu con không chịu xem xét đề tài tình dục và sự liên hệ của nó với tình yêu. Tình dục không đồng nghĩa với tình yêu. Con người có thể biểu lộ tình thương, ngay cả tình yêu giữa một người nam và một người nữ, mà không có tình dục. Thày không nói điều này thông thường, thày chỉ nói điều này khả thi.

Khi con bắt đầu tăng triển trên con đường tâm linh, thì ban đầu con sẽ qua một giai đoạn xáo trộn trong đó con bắt đầu nhìn vào một số điều mà con chưa quan tâm trước đó. Trong nhiều trường hợp, các điều này đã bị nền văn hóa nơi con lớn lên loại bỏ. Có bao nhiêu người trong các con đã lớn lên trong một khung cảnh có thể tự do nói chuyện về tình dục? Có rất ít. Khi con tới khóa nhập thất của thày, mình sẽ ngồi xuống trong một khung cảnh an toàn, thương yêu, và mình sẽ xem xét đề tài tình dục và tình yêu – và mình sẽ thảo luận đề tài này. Mình sẽ thảo luận đề tài này cho tới khi con có thể thoải mái nói về đề tài này ở cõi ê-the. Thày đang giảng bài này dưới dạng vật chất vì thày hy vọng con sẽ dùng được nó để mang xuống tâm ý thức của con những khai ngộ mà con đã trải nghiệm ở cõi ê-the.

Vì sao xem xét chủ đề tình dục lại quan trọng? Con rất cần học cách biểu lộ tình yêu một cách tự do. Vì tình dục đã trở nên quá đồng nghĩa và quấn bện với tình yêu, nên trên hành tinh này không thể nào biểu lộ tình yêu tự do nếu con không xem xét và vượt qua các hủ hóa tình yêu liên quan đến tình dục. Điều lý tưởng nhất là con có thể biểu lộ tình yêu một cách tự do với một người khác phái tính (và thật ra cùng phái tình cũng vậy) mà không khuấy động năng lượng tình dục hay sự thu hút giữa hai người. Đây cũng là một bước cần thiết để thành công trong mối quan hệ.

16.4. Thu hút tình dục và nghiệp quả

Chúng ta hãy thẳng thắn và nhìn nhận rằng con, như những người tâm linh khác, thường tiến triển rất nhanh. Con giải quyết nghiệp quả nhanh hơn những người không biết tâm linh và không có được giáo lý và các dụng cụ do các chân sư thăng thiên cung cấp. Trong thời trước, vào thời thế hệ cha mẹ của con, điều hay xảy ra là một người nam và nữ thu hút lẫn nhau và trở nên vợ chồng vì họ cần quân bình nghiệp quả với nhau. Trong nhiều trường hợp, họ cần cả một đời người để quan bình nghiệp quả đó. Với giáo lý và dụng cụ do các chân sư thăng thiên cung cấp, nếu con ở trong một quan hệ tạo nên bởi nghiệp quả, con có thể quân bình nghiêp quả này rất nhanh chóng. Bất cứ quan hệ nào mà con có trên trái đất đều một phần do nghiệp quả. Con không thể có quan hệ với một người trên trái đất mà không có nghiệp quả với người đó.

Chuyện gì xảy ra khi con bị thu hút bởi một người vì con có nghiệp quả cần quân bằng với người đó? Con cưới và có con với người đó. Sau một vài năm, sự mới lạ của mối quan hệ bị hao mòn đi. Con cũng cần làm nhiều công việc nhàm chán cần phải làm để nuôi con, để kiếm sống, vân vân, và bỗng nhiên sự mới lạ và thu hút biến mất. Cũng có thể là con đã quân bằng nghiệp quả đã khiến con tới với người kia. Lúc đó, một trong hai người (hay cả hai) gặp một người khác và con cảm thấy có nghiệp quả với người đó. Điều này hay khiến con có thu hút tình dục với người đó.

Lúc đó, con có nên ngưng mối quan hệ trước, bỏ rơi con cái, khiến chúng phải chịu tất cả những hệ lụy khi cha mẹ chia tay, để đi với người bạn mới? Con có nên có con với người này, và sau vài năm con sẽ làm gì, khi nghiệp quả đã cân bằng, khi sự mới lạ đã hao mòn, và có một người mới mà con cảm thấy bị thu hút? Con có thể tiếp tục như vậy suốt đời, và một người có thể có bao nhiêu gia đình trong một kiếp sống? Bao nhiêu gia đình một người có thể bỏ rơi trong một kiếp sống mà không trở nên một gánh nặng?

Mẫu đồ của gia đình trong thời hoàng kim là tạo môi trường cho mọi người trong gia đình đạt được tối đa phát triển. Phát triển luôn luôn là mục đích cốt yếu. Mẫu đồ gia đình của thời hoàng kim không đòi hỏi hôn nhân phải kéo dài trọn đời hay cho tới khi con cái trưởng thành. Sẽ có những trường hợp điều lợi ích nhất cho sự phát triển là hai người bạn đời chấm dứt hôn nhân, ngay cả khi đã có con với nhau. Theo mẫu đồ của thời hoàng kim thì chuyện này sẽ ít khi xảy ra vì đa số sẽ có một trình độ trưởng thành cao hơn khi có quan hệ tình yêu. Họ sẽ chỉ quyết định có con khi đã quyết định cùng nhau nuôi con và cho con cái một môi trường ổn định. Môi trường này sẽ không giống những gì con thấy thời xưa khi người ta ở lại với nhau mà không tăng triển, nhưng là một môi trường sinh động trong đó có cơ hội tăng triển.

Làm sao thực hiện được điều này? Con có thể làm được khi con nhất quyết tôn trọng mối quan hệ và nhất quyết nuôi con trong mối quan hệ đó. Chuyện gì xảy ra khi, sau vài năm, con gặp một người khác giới tính và cảm thấy bị thu hút bởi người đó? Điều này có nghĩa là con có nghiệp quả với người đó. Làm sao con cân bằng nghiệp quả này? Con có thể cân bằng nghiệp quả nếu con tách tình thương khỏi tình dục. Lúc đó, con có thể có một quan hệ thương yêu và biểu lộ tình yêu chân thật với người đó mà không có quan hệ tình dục, vì quan hệ tình dục tạo ra nhiều rắc rối. Điều này có nghĩa là con có một quan hệ thương yêu với người đó mà vẫn duy trì được hôn nhân, vì con không ngoại tình và do đó người chồng hay vợ của con không cảm thấy bị đe dọa.

16.5. Những dây năng lượng trong quan hệ tình dục

Đồng thời, con có thể giải quyết nghiệp quả với người mới mà không có quan hệ tình dục với người đó. Con sẽ tăng triển nhanh hơn so với tình trạng hiện nay khi một người bị thu hút bởi người khác vì có nghiệp quả với người đó, hai người có quan hệ tình dục với nhau và có thể có con với nhau. Khi có con với nhau, có quá nhiều dây năng lượng khiến phá vỡ chúng tạo nên căng thẳng.

Thiết lập một quan hệ là thiết lập một mạng dây năng lượng rất phức tạp giữa hai người. Những mối dây này càng phức tạp hơn khi hai người có con với nhau. Cắt đứt mối quan hệ luôn luôn là một mối căng thẳng, ít nhất là trên mặt năng lượng. Vì cắt đứt một quan hệ thường đi đôi với cảm xúc tiêu cực, nên căng thẳng lại thêm nữa. Thiết lập một mối quan hệ mới cũng là một nguồn căng thẳng, nhất là khi thời nay người bạn đời mới của con có con cái từ một mối quan hệ trước, và con cũng vậy. Như vậy có rất nhiều chuyện rắc rối có thể xảy ra. Thày đang không bàn về chuyện đúng hay sai. Thày chỉ giải thích cho con thấy những rắc rối xảy ra trên lãnh vực năng lượng. Trong thời hoàng kim, con người, đặc biệt là những người tâm linh, cần phải tìm ra một cách cân bằng nghiệp quả hay có một quan hệ với một người khác mà không ôm thêm những rắc rối do việc có quan hệ tình dục, hay có con chung với nhau.

16.6. Tình yêu mà không có tình dục

Bằng cách đó con sẽ có thể tăng triển nhanh hơn, và như vậy có nghĩa là con có thể có quan hệ với một người khác giới tính, hay cùng giới tính, mà không nghĩ rằng tình yêu chỉ có thể được biểu lộ bằng tình dục. Con cần tìm ra một cách biểu lộ tình yêu chân thật, là cách nhanh nhất cân bằng nghiệp quả, mà không ôm thêm những rắc rối do một quan hệ tình dục tạo ra, thường là nguyên nhân khiến quan hệ cũ tan vỡ.

Thày biết là có một số người tự coi mình rất tiến bộ sẽ nói: “Nhưng ta có nên cố gắng đạt được tình trạng lý tưởng chăng, trong đó con vẫn nhất quyết bảo tồn mối quan hệ cũ và nuôi con, đồng thời có quan hệ tình dục với người khác khi mình cảm thấy cần?” Thày không nói là điều này không thể làm được, nhưng thày muốn nói là điều này rất khó thực hiện, đặc biệt là trong hoàn cảnh hiện nay của trái đất.

Có điều gì khác biệt khi con bước qua lằn ranh và có một quan hệ vật lý, tình dục. Hai bên liên hệ với nhau gần gũi hơn nhiều. Con có thể tránh tạo ra những hệ lụy nhưng đây là điều rất khó làm trong một môi trường như trái đất. Nếu con là người thực tế và thực tiễn, con sẽ nhận ra là con sẽ tiến triển nhanh hơn nếu con không có quan hệ tình dục với tất cả những người con có nghiệp quả cần cân bằng trong kiếp sống này.

16.7. Cân bằng nghiệp quả trong một quan hệ tình dục

Chắc con cũng hiểu, phải không con, là nếu con có nghiệp quả với một người khác giới tính, thì con không thể cân bằng nghiệp quả đó bằng cách lờ đi không có quan hệ với người đó hoặc có một quan hệ hời hợt trong đó hai bên chỉ lịch sự với nhau? Để cân bằng nghiệp quả, điều hay cần xảy ra là hai bên thảo luận một cách chân thật vì sao họ lại cảm thấy có sự thu hút. Có thể họ cần bày tỏ với nhau những chuyện sâu kín và cá nhân, và tự do biểu lộ tình thương cho nhau nhưng không đi tới giai đoạn vật lý, hay ít nhất là tình dục. Đây là cách nhanh nhất để cân bằng nghiệp quả và giải quyết mối quan hệ giữa hai người.

Thày không nói ở đây là con không nên có nhiều quan hệ tình yêu trong một kiếp sống, nhưng các con chắc cũng đều nhận ra là số quan hệ tình yêu mà con có thể có có giới hạn. Có một giá phải trả nếu con muốn có nhiều quan hệ tình yêu, đặc biệt là quan hệ tình dục. Đa số những người có nhiều bạn tình dục đã cạn kiệt năng lượng của họ và nhận năng lượng từ những người đó tạo nên một gánh năng cho họ. Đó là lý do vì sao thày nói là nếu con có thể tìm cách biểu lộ tình yêu mà không cần tới tình dục, thì con có thể cân bằng nghiệp quả và tiến triển nhanh hơn. Con không thể làm điều này nếu những người khác giới tính mà con bị thu hút đều trở nên quan hệ vật lý, tình dục. Đây là cách cao để có tình yêu tự do mà không phải là tình dục tự do.

Con muốn gì: tăng triển tối đa hay vui thú tối đa? Các thày nhìn nhận rằng năng lượng tình dục đã bị nền văn hóa Cơ đốc dồn nén trong hơn 1700 năm, do đó cần có một giai đoạn con người có một quan niệm tự do hơn về tình dục để giải quyết sự dồn nén đó. Để đạt mục đích này, một số người cần có nhiều người bạn đời trong một kiếp sống và có một số quan hệ trong đó trọng tâm là tình dục.

Các thày không nhất thiết chống việc con giải quyết việc dồn nén tình dục và các ham muốn tình dục của mình. Có những lúc các thày cũng đã làm như Giê-su khi thày nói với Giu-đa: “Bất kỳ chuyện con làm, hãy làm nhanh.” Nếu con có chuyện gì cần giải quyết, thì con cứ tiến hành và sau đó trở lại thực thi Sứ vụ Thiêng liêng của con, hay ít nhất là các khía cạnh khác của Sứ vụ Thiêng liêng. Giải quyết các vấn đề chắc chắn thuộc vào Sứ vụ Thiêng liêng, nhưng có thể đây không phải là phần quan trọng nhất của sứ vụ phụng sự thế gian của con.

Nếu trong nhiều kiếp con đã sống trong một nền văn hóa bắt con dồn nén ham muốn tình dục và năng lượng tình dục, thì con có thể cần vượt lên trên điều đó, giải quyết vấn đề đó. Nếu con tìm được một người bạn đời có cùng ước muốn, và cả hai đều ý thức là các con chỉ giúp nhau giải quyết vấn đề này, thì đây có thể là một cách để các con tăng triển. Thày cực lực khuyên con nên giải quyết ham muốn và thúc đẩy tình dục với tối thiểu bạn đời. Con càng có nhiều bạn đời thì con càng cạn kiệt năng lượng. Đây giản dị là thực tế của hoàn cảnh hiện nay trên trái đất.

16.8. Một quan điểm tự nhiên hơn về tình yêu và tình dục

Ở khóa nhập thất của thày, thày muốn giúp con vượt qua ảo tưởng của tình yêu tự do và ảo tưởng tình dục cần phải dồn nén. Thày giúp con có một quan điểm tự nhiên về tình yêu và tình dục. Làm sao con có thể có một quan điểm tự nhiên về tình yêu khi con nghĩ tình yêu chỉ có thể được biểu lộ qua tình dục? Con hãy ngẫm xem là quan điểm phản tự nhiên về tình dục trên trái đất này đã tạo nên một gánh nặng khiến con không thể có một quan điểm tự nhiên về tình yêu nếu con nghĩ tình yêu và tình dục lúc nào cũng phải đi đôi với nhau. Bước đầu là con phải tách tình yêu khỏi tình dục. Sau đó, con có thể xây dựng một quan điểm tự nhiên hơn về tình yêu, và con dùng nó để xây dựng một quan điểm tự nhiên hơn về tình dục. Lúc đó, con được giải thoát khỏi quan điểm phản tự nhiên về cả tình yêu lẫn tình dục. Tình dục đương nhiên là một đề tài phức tạp. Thày không có ý định giảng giải đầy đủ về đề tài này ở đây. Thày chỉ muốn khuấy động trong tâm ý thức của con một số điều mà mình đã giải quyết ở tầng thứ bảy của khóa nhập thất của thày.

Mục đích của thày ở khóa nhập thất là giúp con biểu lộ tình thương một cách tự do hơn. Chương trình nhập thất của thày giúp con giải quyết các hủ hóa tình thương có mặt trên hành tinh này để con có thể tự do biểu lộ tình thương. Con có thể biểu lộ tình thương qua bất kỳ quan hệ nào. Con có thể tự do biểu lộ tình thương cho con cái, cha mẹ, bạn đồng nghiệp, bạn bè và người phối ngẫu của mình.

Thế gian rất cần có những người có thể tự do biểu lộ tình thương dưới bất kỳ hình thức nào thích hợp dựa trên bản chất vật lý của mối quan hệ. Thế gian rất cần những người biết sự khác biệt giữa điều thích hợp và không thích hợp, không dựa trên tiêu chuẩn cũ của sự dồn nén tình dục nhưng theo cái nhìn cao của điều gì giúp tăng triển.

16.9. Dòng chảy alpha và omega của tình thương

Các thày mong muốn là những học viên tới khóa nhập thất của Tia thứ Ba sẽ đạt được nhiều tiến bộ trong khả năng tự do biểu lộ tình thương. Một khi con vượt qua trở ngại biểu lộ tình thương, thì con cũng cần xây dựng khía cạnh Omega của việc tiếp nhận tình thương. Có lợi ích gì chăng khi con biểu lộ tình thương nhưng người kia không biết tiếp nhận tình thương? Làm sao con có thể giúp người khác biểu lộ tình thương một cách tự do hơn nếu con không biết tiếp nhận tình thương từ người đó?

Khi có sự tuôn chảy tự do giữa hai cực Alpha và Omega, thì sự sống mới nảy sinh – đó là cách năng lượng sáng tạo vận hành. Nguyên lý này đã tạo ra toàn thể thế giới hình tướng. Cách Alpha và Omega tương tác trong dòng chảy tự do của tình thương sinh ra sự sống mới, hình tướng mới, biểu hiện mới, và biểu hiện hữu hạn mới của Tánh linh vô hạn. Vì chúng là biểu hiện tự do nên không bị giam vào một khuôn nếp. Chúng được tự do tuôn chảy và trở nên hơn nữa. Chúng thuộc vào Dòng Sông sự Sống, chúng thuộc về động lực khiến toàn thể Dòng sông trở nên hơn nữa trong vũ điệu liên tục của Thượng đế.

Tình thương chỉ có thể biểu hiện khi được tuôn chảy. Không ai sở hữu tình thương, không ai sản xuất ra nó, ta chỉ có thể để nó tuôn chảy xuyên qua ta. Con càng là cánh cửa mở cho tình thương (con càng cho phép nó được biểu lộ tự do hơn xuyên qua con), thì càng có thêm tình thương được đem vào thế giới này xuyên qua các luân xa và cỗ xe tâm hồn của con. Cỗ xe tâm hồn không phải là cánh cửa mở cho tình thương, cũng không phải là các luân xa. Chính cái Ta Biết là cánh cửa mở cho tình thương, và cái Ta Biết càng ý thức nó là nhận biết thuần khiết, là cánh cửa mở, thì càng có nhiều tình thương tuôn chảy xuyên qua nó vào các luân xa và cỗ xe tâm hồn. Một khi tình thương vào các luân xa và cỗ xe tâm hồn thì nó sẽ được biểu hiện trong thế gian. Để tình thương có thể biểu hiện tự do, thì luân xa và cỗ xe tâm hồn của con cần càng sạch càng tốt khỏi các hủ hóa khiến dòng tình thương bị giới hạn, ngăn chặn, hay lạc hướng.

Trong các thời đại trước, khi năng lực tình dục bị dồn nén thì dòng chảy tình thương bị giới hạn. Phong trào tình yêu tự do mở lối cho dòng chảy, nhưng nó bị đẩy lạc hướng thành năng lực tình dục. Thực sự không phải tình thương được biểu hiện, mà chỉ là các ham muốn thấp của thân thể vật lý, các ham muốn này tương tự như ham muốn của thú vật.

16.10. Biểu lộ động lực tình dục một cách trách nhiệm

Nếu con nhìn vào thú vật thì con thấy là chúng có động lực tình dục, nhưng hầu như không có thú vật nào có sinh hoạt tình dục nhiều bằng con người. Lý do một phần là vì con người có một trình độ tâm thức cao hơn nên không sống chỉ để thỏa mãn những động lực thú vật, tỷ dụ như động lực truyền giống. Con người có thể tìm thú vui trong bất kỳ sinh hoạt nào, kể cả sinh hoạt tình dục, và không có điều gì sai trái với điều này. Để tiếp tục hưởng thú vui tình dục thì con phải nhận ra rằng nếu ham muốn thú vật về tình dục vật lý không còn dính liền với nhu cầu truyền giống, thì sẽ không còn gì giới hạn nó ở cấp vật lý.

Điều này có thể dẫn đến bệnh ghiền tình dục khi con người không bao giờ có đủ tình dục và cảm thấy không trọn vẹn khi không ở trong, hay gần, trạng thái giao hợp khoái lạc, và điều này không thể xảy ra liên tục. Con cần nhận ra là khi thân thể vật lý và nhu cầu truyền giống không còn giới hạn động lực tình dục, thì cái tâm cao cần giới hạn nó để con tìm ra một thế quân bình giúp con sinh hoạt bình thường. Con có thể nghĩ là những người ghiền tình dục vui thú có tình dục, nhưng thực ra thì không phải vậy. Họ có một động lực bắt buộc họ phải làm theo, và hầu như lúc nào họ cũng không thỏa mãn vì đang không có tình dục hoặc không thỏa mãn khi đang có tình dục vì sau đó chuyện gì sẽ xảy ra khi họ lại cảm thấy trống trải trở lại? Làm sao họ lại có thể đáp ứng cơn ghiền?

Như một người tâm linh, con có thể định cho mình một mục đích chính đáng, đó là tới được điểm có thể biểu lộ động lực tình dục một cách trách nhiệm tức là không cản trở việc tăng triển, và không hạ năng lượng xuống hay làm cạn kiệt năng lượng. Con có một người bạn đời cũng có một trình độ trưởng thành và tự do, và con có thể có tình dục và vui thú sinh hoạt này, không phải như một thú vui thú vật, nhưng là một sự vui thú cao đến từ cảm nhận gần gũi, ngay cả hợp nhất, với một người khác.

16.11. Một hình thức hợp nhất cao

Các con chắc cũng biết là có mộ số vị thày ở phương Đông, như thày Padma Sambhava, đã dạy phương pháp tình dục tâm linh (tantric sex). Trong khuôn khổ bài giảng này, thày không khuyến khích các con học pháp này vì đây là một đề tài rộng lớn hơn nhiều. Thày chỉ nêu lên để chỉ cho các đệ tử chân sư thăng thiên thấy là dồn nén động lực tình dục không nhất thiết là cách duy nhất hay cao nhất để đạt được tiến bộ tâm linh. Con có thể giải thoat động lực này để tới điểm con có thể biểu lộ nó một cách quân bình, khiến cho tình dục trở nên vui thú theo nghĩa cao đồng thời giúp con thiết lập một sự gần gũi, hay hợp nhất, với một người khác. Đây có thể là một bước trên tiến trình bước ra ngoài cỗ xe tâm hồn và tái lập sự nhận biết mình kết nối với một cái gì lớn hơn chính mình và mình là nhận biết thuần khiết.

Hình thức cao nhất của giao hợp tình dục chỉ có thể có được khi cả hai người bạn đời có một trình dộ nhận biết cao rằng mình là cái Ta Biết và mình là nhận biết thuần khiết. Nếu cả hai con giúp nhau bước ra ngoài tâm thức bình thường của mình và cả hai đều trải nghiệm giao hợp tình dục như một trạng thái nhận biết thuần khiết, thì lúc đó con đạt được mực tiêu của phương pháp tình dục tâm linh. Mục đích không phải là đat được khoái lạc cao nhất. Mục đích là đạt được mức hợp nhất cao nhất thông qua sự thuần khiết của nhận biết, khi mà ranh giới giữa con và người bạn đời tan ra và cái Ta Biết của một người tuôn chảy vào cái Ta Biết của người kia. Lúc đó các con hình thành hai cực cao và sáng tạo.

Khi hai chân sư thăng thiên họp lại để hoàn thành một mục đích, thì các thày hòa trộn hai sinh thể của mình. Các thày không có giao hợp tình dục, nhưng các thày hòa trộn sinh thể của mình. Chính nhờ sự hòa trộn này, khi các thày hình thành hai cực Alpha và Omega, mà các thày tạo ra một hình tướng mới, một kết quả mới, một xung lực năng lượng mới. Đây là cách cõi tâm linh vận hành. Con không thể hoàn toàn rập khuôn nơi cõi vật lý, nhưng con có thể cố gắng đạt được phần nào. Điều này có thể đạt được qua giao hợp tình dục. Nhưng nó cũng có thể đạt được không qua giao hợp tình dục.

Thày đang cho con một viễn kiến cao của một việc có thể đã khiến con hoang mang, tức là vì sao một số người, nay đã là chân sư thăng thiên, lại thực hành tình dục tâm linh. Như mọi chuyện khác, phương pháp tình dục tâm linh đã bị hủ hóa. Nó đã bị biến thành động lực để đạt được một kết quả vật lý. Nếu con có thể tách rời khỏi ý niệm hủ hóa này và tìm hợp nhất trong dòng chảy tự do, qua một biểu lộ tình thương, thì nó có thể là một dụng cụ giúp con đạt được tiến bộ tâm linh và tự do tình dục. Có phải chăng là thày nói là các đệ tử chân sư thăng thiên đều phải thực hành tình dục tâm linh? Dĩ nhiên là không.

Con có thể đạt tiến bộ tâm linh bằng cách khác, và đó là lý do vì sao các thày đã giảng dạy con đường tự điều ngự gồm giáo lý và phương pháp thỉnh cầu ánh sáng để giúp con đạt được cùng mục đích. Thày đương nhiên khuyên con theo học con đường tự điều ngự, nhưng thày cũng muốn cho con biết với tâm ý thức những điều mà thày thảo luận với con ở tầng ê-the của khóa nhập thất của thày. Con cần biết những khía cạnh của tình thương và tình dục để giải thoát mình khỏi những quan niệm lệch lạc hiện diện trong tâm thức tập thể, đang tìm cách dùng tình dục, nhưng cũng dùng cả tình thương, để ngăn chặn hay làm trệch hướng sự phát triển tâm linh của con.

Chỉ có người có hiểu biết mới có được tự do. Hiểu biết không những là uy lực, nó cũng là chìa khóa đưa tới tự do. Con không có tự do bằng cách trốn tránh một sinh hoạt nào đó. Con chỉ có tự do khi nhận ra ảo tưởng đã sinh ra sinh hoạt đó và chọn lựa thăng vượt nó một cách tự do và hiểu biết. Đó chính là tự do, tự do trong hiểu biết.

16.12. Tốt nghiệp từ Tia thứ Ba

Ở khóa nhập thất của thày, thày mong muốn dẫn con tới điểm con đạt được tự do trong hiểu biết liên quan đến chủ đề tình thương. Bây giờ thì thày dẫn con tới buổi lễ tốt nghiệp khóa nhập thất bằng cách dẫn con tới một căn phòng đặc biệt. Trong phòng này, con sẽ được mời ngồi vào một chiếc ghế rất thoải mái, giống như ngai của nhà vua.

Một khi con an tọa, con sẽ thấy căn phòng mở rộng ra. Con không thấy các bức tường và chỉ thấy thế giới vật lý bao la. Sau đó, con thấy xa hơn nữa và thấy toàn thể vũ trụ bao la cùng với các bầu cõi khác. Đây là món quà chia tay mà thày muốn trao cho con, cảm nhận về sự bao la vô tận của tình thương tuôn chảy tự do xuyên qua mọi tầng của vũ trụ. Thày cho phép con trầm mình trong trải nghiệm đó bao lâu cũng được, nhưng sẽ có một lúc con tự nhiên bước ra khỏi trạng thái đó và nhận biết trở lại chính mình và cỗ xe tâm hồn của mình trên trái đất. Đây là lúc thày có thể quàng tay vào vai con và dìu con ra khỏi cửa và bước vào một căn phòng có một luồng ánh sáng trắng chói lọi. Luồng ánh sáng trắng được tạo ra bởi vị Thượng sư và huynh đệ yêu dấu của thày là thày Serapis Bey, đang đợi con để dẫn con tới tầng khai ngộ kế tiếp ở khóa nhập thất của thày.

Lúc đó con chứng kiến điều cho các thày, các Thượng sư, một niềm vui mãnh liệt. Điều gì cho thày, một Thượng sư, niềm vui lớn nhất? Đó là đã dẫn được một đệ tử qua tất cả các tầng khai ngộ ở khóa nhập thất của thày. Lúc nào thày cảm thấy được niềm vui này? Khi thày chuyển con tới vị Thượng sư kế tiếp. Khi thày dẫn con tới thày Serapis, có một lúc hai thày nhìn vào mắt nhau và hai thày hòa trộn vào trạng thái hợp nhất của cõi thăng thiên. Không có gì cần nói với ngôn từ thế gian, nhưng cả một thế giới được diễn tả vượt lên ngôn từ. Thày Serapis cảm nhận được niềm vui của thày, và thày đáp ứng lại với niềm vui nhận con như đệ tử của thày. Niềm vui lớn nhất của thày Serapis là dẫn con qua các tầng khai ngộ ở khóa nhập thất của thày, nhưng thày chỉ có thể bắt đầu hành trình này khi con đã sẵn sàng vì con đã đạt hết các khai ngộ ở khóa nhập thất của Tia thứ Ba.

Có một lúc hai thày chia sẻ niềm vui vô hạn đó. Nếu con chú tâm thì con có thể thoáng thấy nó và cảm thấy niềm vui khi con biết rằng con là nguyên nhân của niềm vui của các thày. Cảm nhận này có thể sẽ cho con động lực để tiến bộ thêm nữa. Thày bảo đảm với con là con cần động lực này để đạt được những khai ngộ mạnh hơn trong khóa học của thày Serapis, vì các khai ngộ này có thể mạnh mẽ hơn các khai ngộ ở khóa của thày. Thày đương nhiên không muốn tiết lộ những gì đang chờ đợi con, vì chắc hẳn là các khai ngộ của Tia thứ Tư sẽ thú vị hơn khi mình không biết chuyện gì sẽ xảy ra.

Thày đang đùa với con ở lúc cuối này, vì trong suốt các bài giảng thày không khôi hài bao nhiêu. Thày bảo đảm với con là thày khôi hài hơn ở khóa nhập thất của thày. Nhưng không dễ biểu lộ khôi hài trong một quyển sách, vì khôi hài là một đề tài dễ tạo xung đột trên trái đất. Các thày nói chung tránh khôi hài trong các quyển sách có thể tới tay nhiều người thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau. Thày bảo đảm với con là ở khóa nhập thất, các thày có thể vượt qua các trở ngại này, và sự thực là các khóa nhập thất vui vẻ hơn những gì con mường tượng khi đọc sách.

Thày chân thành hy vọng là sự biểu hiện tình thương của thày đối với con dưới một hình thức vật lý sẽ cho con cảm hứng mang xuống cõi vật lý những gì con đã học ở khóa nhập thất của thày trên cõi ê-the. Thày biết rõ là có người tìm ra và đọc quyển sách này mà không trải qua các khai ngộ trong các tầng nội tâm. Bất cứ ai cũng có thể đọc quyển sách này như một tò mò trí thức, hoặc họ cũng có thể đọc với mục đích chê bai. Thày cho rằng ít người đọc với mục đích này có thể đọc hết quyển sách. Và dù mục đích của họ có như thế, họ vẫn nhận được một cơ hội để chọn tình thương. Nếu họ quyết định không chọn tình thương, thì thày cũng biết là thày đã đạt mục đích của thày là cho quyển sách này ra đời.

Thày đã trình bày cơ hội để chọn tình thương. Thày hoan hỉ cho con tự do chọn lựa tuyêt đối, vì thày có tự do tuyệt đối thương yêu, tuôn chảy với tình thương và biểu lộ tình thương.

TA LÀ Paul người Venice. Ta là chân sư thăng thiên. Ta là Thượng sư của Tia thứ Ba, tia của tình thương vô hạn, không ràng buộc, không thể so sánh, vô điều kiện.

14 | Tình thương và Phụng sự

Bài giảng của chân sư thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels, ngày 3/1/2015, đăng ngày 8/1/2015.

TA LÀ Paul người Venice, Thượng sư của Tia thứ Ba của Tình thương Thiêng liêng. Khi con tới tầng thứ sáu của khóa nhập thất của thày, con đối mặt với khai ngộ của tình thương phối hợp với Tia thứ Sáu của Bình an và Phụng sự. Trước khi con có thể phụng sự với tất cả khả năng của mình, con cần đạt được bình an, vậy chúng ta hãy xem xét những hủ hóa tình thương liên quan đến bình an.

14.1. Quan điểm thế gian về tình thương

Đa số các người đến khóa nhập thất của thày trên con đường tự điều ngự đã bị ảnh hưởng sâu đậm bởi quan điểm thế gian về tình thương. Trên trái đất ta thấy phản tình thương biểu hiện quá nhiều, đặc biệt là những biểu hiện của phản an bình và sự hung hãn của những người chơi trò quyền lực, lúc nào cũng sử dụng quyền lực và lạm dụng quyền lực. Vì trong nhiều kiếp con đã lớn lên và trải nghiệm điều này, là nạn nhân của những người quyền lực, nên điều tự nhiên là con tìm một cách sống khác. Sâu thẳm trong nội tâm, con cảm nhận là tình thương là cách khác đó. Con cũng thấy có một số triết lý có mặt ngoài kia nói rằng: “Tình thương thắng tất cả. Tình thương chữa lành hết mọi sự. Tình thương là tất cả những gì con cần,” và những quan điểm tương tự.

Nhiều người đã tin vào triết lý hiện diện trong tâm thức tập thể trên trái đất cho rằng tình thương đối nghịch với quyền lực vì tình thương lúc nào cũng dịu dàng, tử tế, màu hồng và mềm mại. Con nghĩ tình thương là bình an, theo nghĩa bình an là thụ động.

Các thày đã giảng là bình an không thụ động, chắc chắn không phải là giữ cho mọi người vui lòng, và tình thương cũng vậy. Con không thể cảm thấy bình an với tình thương nếu con không sẵn lòng biểu hiện tình thương qua mọi khía cạnh của nó. Tình thương có thể dịu dàng và tử tế, nhưng tình thương chỉ dịu dàng và tử tế khi con người cần những điều này để chữa lành một chấn thương hay một vết thương. Trên một hành tinh đầy chiến tranh như trái đất, con người rất cần tình thương dịu dàng này. Điều này không thể chối cãi. Thày không nói biểu lộ tình thương như vậy là sai.

Điều thày muốn nói là con không thể bình an khi biểu hiện tình thương nếu con không nhận ra là tình thương, cốt lõi của tình thương, là giúp con người thăng vượt và trở nên hơn nữa. Nếu con người cần một hành động của tình thương thẳng thắn hơn, nghiêm khắc hơn, cường độ hơn, thì đó là điều các chân sư thăng thiên sẽ trao truyền. Nếu con muốn an bình khi phụng sự trên con đường tự điều ngự, phụng sự tha nhân, con phải là cánh cửa mở cho sự biểu hiện trực tiếp hơn của tình thương.

14.2. Học những khía cạnh của tình thương

Mỗi một tia tâm linh đều có một dải tần số, như ta có thể thấy nơi các tia màu sắc. Đa số nghĩ tình thương màu hồng, nhưng thật sự dải tần số trải ra tới cường độ cao nhất, giống như tia laser, của lửa màu ngọc đỏ. Rất nhiều học viên khi tới tầng này của khóa nhập thất của thày nghĩ tình thương màu hồng. Rất nhiều người đã lớn lên với cha mẹ hoặc khuôn mặt uy quyền khác lạm dụng quyền lực, và đa số cho thái độ đó là không thương yêu.

Dĩ nhiên lạm dụng quyền lực là không thương yêu. Nhưng sự biểu hiện uy lực để thức tỉnh con và giúp con tiến lên cao hơn hay nhận ra là con cần ngưng các khuôn nếp tự phá hoại, không phải là lạm dụng quyền lực. Khi giúp con, như một trẻ thơ, bước ra ngoài các khuôn nếp tự phá hoại, là biểu lộ tình thương.

Con cần học phân biện giữa một biểu hiện uy lực đúng đắn và sự làm dụng quyền lực. Con có thể học điều này bằng cách học hỏi các khía cạnh khác nhau của tình thương. Nếu con chỉ thấy tình thương màu hồng, con sẽ không bao giờ nhìn nhận một biểu hiện đúng đắn của uy lực. Con sẽ thấy một biểu hiện uy lực thẳng thắn như một lạm dụng quyền lực, nhưng điều này không đúng. Khi con mở lòng đón nhận các khía cạnh màu ngọc đỏ của tình thương, thì con sẽ bắt đầu thấy là cường độ có khi cần thiết để giúp một người trèo ra khỏi vòng xoắn hướng hạ đang kéo người đó xuống.

14.3. Biểu hiện cường độ của tình thương

Chuyện gì xảy ra khi một người bị kẹt trong một vòng xoắn hướng hạ? Con có thể bước vào, cầu thỉnh năng lượng, tiêu hủy năng lượng đang vận chuyển vòng xoắn và qua đó khiến vòng xoắn chậm lại và giúp người đó có thể thoát ra khỏi nó. Con cũng có thể nhận ra là khi một người đang trong một vòng xoắn đi xuống, thì họ đang chuyển động. Nếu con có thể gia tốc sự chuyển động đó, thì con có thể giúp họ bay văng ra khỏi vòng xoắn.

Một số các con có lẽ đã trải nghiệm trong đời mình trường hợp cha mẹ, người phối ngẫu, hay đạo sư đưa ra một nhận xét với cường độ cao đến độ lời đó cắt xuyên qua hàng rào phòng thủ thông thường của con. Lời nói đó khiến tâm con bị chấn động khiến con mở tâm đón nhận một thực tại cao hơn. Chỉ một nhận xét cũng đủ để kéo con ra khỏi khuôn nếp tự phá hoại và bước đi theo một hướng mới. Đó là tình thương. Đó là một biểu hiện tình thương. Nó có thể pha trộn với uy lực, nhưng trên căn bản đó là tình thương như một đối tác của sợ hãi.

Lạm dụng quyền lực lúc nào cũng bắt nguồn từ sợ hãi. Một biểu hiện uy lực đúng đắn vượt lên trên mức rung động đó. Nó rung động với tình thương, tình thương cường độ. Ta không nên nhầm cường độ và sự khe khắt. Cường độ không phải là khe khắt, mà là sự tự tại không lay chuyển. Tới đây thì chắc con đã thấy là tự ngã luôn luôn tìm cách kéo mọi sự xuống mẫu số chung thấp nhất và khiến con vui lòng. Có lúc cần cường độ để kéo con ra khỏi vòng xoắn giữ cho con vui lòng, trạng thái tâm thức giữ cho con vui lòng. Thày có nói là trong quan hệ phải có giao tiếp tự do, nhưng điều này không thể đạt được nếu các người liên hệ chưa đạt được các khai ngộ của Tia thứ Sáu và nhận ra là tình thương không phải lúc nào cũng bình an.

Con có quyền đối xử một cách cường độ với người bạn đời của con. Nếu con không cư xử vì sợ hãi, nếu cường độ của con dựa trên tình thương, thì điều này được phép làm trong quan hệ tình yêu. Trong quan hệ lý tưởng thì phải được phép. Trong một quan hệ, nếu một hay cả hai người bạn đời có thể đạt được cường độ nào đó, thì đó là một yếu tố quý giá trong mối quan hệ. Dĩ nhiên điều quan trọng là con sẵn sàng nhìn vào chính mình và nhận ra là mình cư xử với cường độ dựa trên tình thương hay lạm dụng quyền lực dựa trên sợ hãi. La lối người bạn đời vì mình giận dữ hay sợ hãi không giúp xây dựng mối quan hệ.

14.4. Giao tiếp tự do không phải là lạm dụng quyền lực

Có thể con cần dành một khoảng thời gian để con tự do phát biểu và người bạn đời của con học chịu đựng việc này. Sau đó con có thể xem xét những khuôn nếp mà con có, khiến chúng hiện rõ cho con và người bạn đời, để các con có thể tự do thảo luận chúng. Ở đây thày không muốn nói tới những khuôn nếp lệch lạc mà ta có thể thấy nơi rất nhiều quan hệ, nghĩa là một trong hai người bạn đời lên cơn bực bội và bắt đầu la hét, và người kia khép tâm lại và rút vào vỏ ốc của mình.

Nếu các con đã thiết lập được tự do giao tiếp thì con có thể cho phép một người biểu lộ bất cứ cảm xúc nào có trong tiềm thức. Mục đích là để các cảm xúc này phơi bày ra và qua đó bắt đầu chuyển hóa chúng, khám phá khuôn nếp và ảo tưởng đằng sau chúng, để có thể vượt thăng chúng. Mục đích của giao tiếp tự do không phải là để một người có thể biểu lộ mãi mãi cảm xúc dựa trên sợ hãi mà không bao giờ tìm cách giải quyết chúng.

Con yêu dấu, nếu con quan niệm tình thương là cái gì mềm mại, màu hồng và thụ động, thì câu nói “tình thương là tất cả những gì con cần” không đúng. Nhưng nếu con nắm vững tất cả mọi khía cạnh của tình thương, thì con có thể nói là tình thương là tất cả những gì con cần, vì lúc đó tình thương bao gồm tất cả bảy tia sáng với các đặc tính của chúng. Tất cả những gì con cần trong thế giới vật chất là bảy tia sáng. Con có thể thăng thiên khi con điều ngự cả bảy tia sáng. Nếu con điều ngự Tia thứ Tám của Tổng hợp và một số các tia bí mật thì còn tốt hơn nữa, nhưng con có thể thăng thiên khi con đạt được sự điều ngự bảy tia sáng. Bảy tia sáng là tất cả những gì con cần.

Nhiều quan hệ tình yêu bị kẹt trong một khuôn nếp trong đó hai người bạn đời cảm thấy lúc nào cũng cần phải dịu dàng. Điều này đặc biệt đúng khi hai người bạn đời đều là người tâm linh, đã tìm ra con đường tâm linh và đã thực hành trong một thời gian. Điều này lại đúng hơn nữa khi hai người đã học một số giáo lý Đông phương.

Giáo lý Đông phương khuyến khích con tìm về nội tâm. Các phương pháp như yoga, nhiều trường phái thiền, quán sát hay giữ chánh niệm đều có mục đích tìm sự tĩnh lặng nội tâm. Thày không nói các phương pháp này sai, nhưng nếu con đã chọn đầu thai vào phương Tây, thì con có thể suy ngẫm thấy rằng phương pháp Đông phương muốn con ngồi thiền trong hang động và giữ quân bình tâm linh bằng cách giữ tâm mình an bình, có thể không thích hợp với phương Tây.

Muốn thời hoàng kim được biểu hiện thì điều cần thiết là các người tâm linh khắp thế giới, kể cả ở phương Đông, có vai trò tích cực trong xã hội. Con cần đòi hỏi, và chứng minh qua gương sống của mình, một cách hành xử cao hơn là khuôn nếp không-bình an cũ. Đôi khi, điều cần xảy ra là có người biểu lộ bằng lời nói cường độ của ngọc đỏ. Đôi khi, trên diễn đàn công cộng, cần có người đứng lên, khiến mọi người phải chú ý, và phá tan màn mê chướng đang cản trở sự tiến bộ trong lãnh vực nào đó. Ai sẽ là người làm công việc này, nếu không phải là các người tâm linh? Ai sẽ làm việc này nếu con bị kẹt trong quan niệm lúc nào cũng phải trở về nội tâm, lúc nào cũng an lạc? Làm sao con thiết lập được một quan hệ bình an thật sự nếu con không vượt qua mọi yếu tố không-bình an và phản-bình an?

14.5. Các hủ hóa bình an

Thày đã nói gì trong các bài giảng trước? Mọi đức tính của Thượng đế đã bị sa nhân hủ hóa bằng cách thiết lập một đối cực tương đối, nhị nguyên. Điều này cũng xảy ra với đức tính bình an. Ở một đầu là hung hãn và chiến tranh. Ở đầu kia là một người hoàn toàn bình an và do đó thụ động. Đây không phải là Trung đạo. Đây không phải là con đường hoàng kim, trung dung của thời hoàng kim. Rất nhiều người tâm linh bị kẹt trong tư tưởng đây là cách họ phải cư xử, kể cả trong các mối quan hệ tình yêu.

Con thấy trường hợp các vợ chồng rất tâm linh và tham gia vào nhiều sinh hoạt tâm linh. Họ đã tới điểm mà nhiều cặp vợ chồng đã đạt được trên thế giới. Họ đã thừa nhận mình là ai, các vết thương và vấn đề mà họ có, và tránh khuấy động những vấn đề khó khăn. Họ đã đặt hài hòa và an bình như mục đích của mối quan hệ của họ tới độ điều này trở thành một ngăn trở thay vì động lực cho sự tiến bộ của họ.

Đây không phải là an bình thật sự vì an bình thật sự không tạo nên một tình trạng hòa bình đứng yên trên trái đất. Nó tạo nên một nền hòa bình năng động trong đó có tăng triển tối đa vì không có khái niệm hay xung đột kéo con người vào khuôn nếp tranh chấp. Những khuôn nếp này cướp năng lượng của con và đẩy con từ cao điểm sang hạ điểm khiến con mất đi an bình nội tâm và sự chú tâm vào Hiện diện TA LÀ của con.

Nếu hai chúng con là người tâm linh trong quan hệ vợ chồng thì các con nên sẵn sàng trực diện các vấn đề dù rằng làm như vậy sẽ nhất thời tạo bất hòa. Nếu các con sử dụng các dụng cụ tâm linh mà các thày đã cung cấp, các con sẽ có khả năng dần dần giải quyết các vấn đề đó. Lúc đó các con sẽ có một mối quan hệ chân thật hơn, và chắc chắn là trọng tăng triển hơn. Quan hệ này có thể sẽ giúp con thể hiện Sứ vụ Thiêng liêng của mình ở một mức cao hơn vì con có thể tự do biểu lộ những khía cạnh cường độ của tình thương. Cường độ này là chìa khóa của phụng sự thật sự.

14.6. Cần những người tâm linh trong xã hội

Tia thứ Sáu là tia của bình an và phụng sự, nhưng sa nhân đã hủ hóa khái niệm bình an bằng cách nói rằng những người trọng hòa bình theo nghĩa giữ cho mọi người vui lòng là những người phụng sự chân chính.

Nhiều người, ngay cả nhiều người tâm linh, cho rằng nếu muốn giúp đời thì họ phải tìm một việc làm trong một địa hạt phụng sự. Tỷ dụ như trong các ngành bác sĩ, y tá, giáo sư, từ thiện hay tương tự. Thày hoàn toàn không chỉ trích những người làm như vậy. Các người tâm linh rất cần trong các địa hạt này.

Thày chỉ muốn cho con thấy là nếu con nghĩ các người tâm linh chỉ nên làm việc trong các địa hạt này, thì con có thể đã dùng tâm ý thức đóng cửa việc thực thi Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Con đang phủ lên mình một lớp màn có thể khiến tâm đóng lại và không nhận ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Những người tâm linh cần thiết trong mọi lãnh vực của xã hội. Quả thật là có một số công việc con nên tránh, tỷ dụ như những việc dính tới tội ác, việc phi pháp hay việc khuynh loát người khác.

Ngay cả trong thương trường – là lãnh vực có khi có nhiều trường hợp hủ hóa – cũng có nhu cầu có người có khuynh hướng tâm linh đồng thời hiểu rõ thương trường từ bên trong. Những người này có thể là phương tiện để biểu hiện sáng kiến mới, họ cũng có thể có cường độ cần thiết để gióng lên tiếng nói trong một số trường hợp cá biệt (trong một thương vụ cá biệt nào đó) hoặc để giúp xã hội mở ra một đường hướng mới liên quan đến thương mại hay tiền tệ.

Xã hội cần một hệ thống tiền tệ mới, đây là một điều các thày đã nói tới. Hệ thống này sẽ không được hình thành chỉ với hành động thụ động. Cần có người cầm Ngọn lửa Hồng ngọc để chặt đứt sự đối kháng, sự đối kháng cực kỳ mạnh mẽ, để biểu hiện một hệ thống tiền tệ thực sự đem lại lợi ích cho quần chúng thay vì giới thượng lưu quyền lực.

14.7. Vượt qua phản ứng khi bị lên án

Khi con đến tầng thứ sáu của khóa nhập thất của thày, con đối diện một thử thách rất gay go. Con cần phải đối diện thử thách không bị ảnh hưởng bởi sự lên án của tâm thức sa ngã. Làm sao con giữ được tâm an bình trên một hành tinh như địa cầu khi sa nhân tới và lên án con một điều gì đó và con lập tức mất bình an? Khai ngộ đặc thù mà con đối diện ở khóa nhập thất của thày giúp con học đối phó với hoàn cảnh bị lên án là con không thương yêu vì con dám biểu hiện mình một cách tự do hơn.

Các thày sẽ dạy con làm sao thực hiện điều này. Các thày sẽ chỉ cho con thấy là con đã rơi vào một khuôn nếp phản ứng khi bị lên án. Các thày sẽ giúp con thấy phản ứng này từ đâu tới, và vòng xoắn năng lượng nào đã nuôi dưỡng nó. Các thày sẽ giúp con đi vào vòng xoắn đó, đi vào tận cùng của nó và thấy ra ảo tưởng đằng sau nó. Lúc đó, con có thể nhìn phàm linh và nói: “Quỉ Xa-tăng, hãy đứng sau lưng ta. Mi không còn nắm được gì nơi ta nữa.”

Rất nhiều người thiện tâm đã làm việc phục vụ công chúng. Họ đã đứng lên tranh đấu cho một sự thay đổi nào đó, một ý mới nào đó. Họ đã gặp sự đối kháng không thể tránh được của những người bị kẹt trong tâm thức sa ngã. Không có địa hạt nào trên trái đất mà con có thể nêu lên một ý mới hay một thay đổi tích cực mà không va chạm những người bị kẹt trong tâm thức sa ngã muốn chống lại bất kỳ thay đổi nào.

Biết bao người đã gặp sự đối kháng này và đã có một phản ứng chống đỡ hoặc đã phản ứng bằng cách nâng cao cường độ, có khi đi vào lạm dụng quyền lực. Một khi họ phản ứng như vậy thì những người trong tâm thức sa ngã sẽ lên án là họ không trọng hòa bình, không thương yêu, không tử tế, không thật sự phụng sự, chỉ tìm cách gây rối loạn – và nhiều lối lên án khác mà những người kẹt trong tâm thức sa ngã có thể tìm ra. Ta không cần phải liệt kê tất cả các lời lên án này ở đây vì có quá nhiều đến độ có thể viết kín nhiều quyển sách. Có rất nhiều người thiện tâm có trong Sứ vụ Thiêng liêng ý muốn đem lại thay đổi đã bị quá chấn động, rối loạn tâm và bất an đến độ họ rút lui khỏi việc phục vụ công chúng.

Ta đã thấy điều này xảy ra rất nhiều lần. Những người thiện tâm không thể chấp nhận sống trong khung cảnh lệch lạc, phán xét có mặt trong quá nhiều địa hạt trên trái đất. Con nghĩ tại sao những người tham gia chính trị lại cư xử như vậy? Có một phin lọc đã loại ra khỏi môi trường này tất cả những người tử tế và yêu thương cũng như là những người yêu thương cường độ. Không một người tích cực nào có thể chịu nổi môi trường chính trị trong nhiều quốc gia. Chỉ còn lại trong đó những người đã quá kẹt vào tâm thức sa ngã hay có quá nhiều tham vọng nên sẵng sàng chịu đựng mọi chuyện để nắm được quyền lực.

Đâu là chìa khóa để tránh phản ứng như vậy? Chìa khóa là hòa nhập với cốt lõi của tình thương, là động lực giúp con người vượt thăng và trở nên hơn nữa. Động lực này được cân bằng bởi sự tôn trọng quyền tự quyết. Điều hay khiến con nản chí khi con tham gia một công việc phụng sự công chúng là con có một viễn quan rõ ràng những gì cần cải thiện. Con gắng công đem lại một thay đổi vật lý nào đó. Khi con gặp những người đối kháng không chịu nhìn sự việc giống con, thì con có phản ứng chống đỡ. Tới một lúc thì con chán ngán bị đối kháng và lên án và con nói: “Vậy tôi sẽ để quý vị yên và quý vị có thể làm bất cứ gì quý vị muốn.”

14.8. Trình bày một cơ hội chọn lựa

Phản ứng trên của con chính là điều những người trong tâm thức sa ngã mong muốn. Họ đã hành xử nhiều lần như vậy trong quá khứ, và họ biết rất rõ cách đánh vào các điểm yếu và tạo nên phản ứng như trên. Để tránh rơi vào khuôn nếp này, con cần nhận ra là tình thương không mong cầu đạt được một kết quả vật lý trên trái đất này. Tình thương chỉ muốn đưa ra cho con người một chọn lựa tự vượt thăng. Khi con tham gia một địa hạt phụng sự công chúng và trình bày một ý mới hay một đề nghị thay đổi, con đã cho những người liên hệ một cơ hội chọn lựa giải pháp cao hay thấp.

Tâm ý thức của con có thể khiến con nghĩ là nếu họ không chọn giải pháp cao, thì công việc phụng sự của con đã thất bại. Thày là Thượng sư và thày không nhìn sự việc như vậy. Thày không thấy là cố gắng của con đã thất bại, vì con đã làm gì? Con đã cho con người một chọn lựa mà trước đó họ không có. Con đã buộc họ phải chọn lựa, vì đây là quyền của con theo luật tự quyết vì con đang đầu thai trong thế giới vật lý. Dù họ chọn giải pháp cao hay thấp, con đã làm công việc phụng sự.

Quả thật là nếu họ chọn giải pháp thấp thì các kết quả vỏ ngoài mà con cố gắng đạt sẽ không được biểu hiện. Nhưng sẽ vẫn có một kết quả vì họ tiến thêm một bước về hướng bị phán xử và về hướng bị loại ra khỏi trái đất [muốn biết thêm về đề tài này, xin đọc sách Vũ trụ quan về sự xấu ác]. Trên đường dài, các cố gắng của con sẽ có ảnh hưởng tích cực trên trái đất. Con đã có một đóng góp quý báu, và con nên thỏa mãn đã trình bày cho con người một chọn lựa, và để cho họ quyền quyết định. Bằng cách đó, con tránh trói buộc sự phụng sự của mình vào việc đạt được kết quả nào đó.

Con hãy nhớ lại điều thày giảng về sự thực, về chuyện tránh buộc người bạn đời của con nhìn đời giống như con, và cho phép vị đó nhìn đời theo cách của họ. Nguyên tắc đó cũng áp dụng vào việc phụng sự công chúng. Có thể có những người bị kẹt trong tâm thức sa ngã, hay họ ở một trình độ tâm thức thấp hơn nên không thể thấy ra viễn quan cao của con. Họ có quyền ở mức tâm thức hiện tại của họ. Con có quyền ở mức tâm thức của con. Con có quyền phát biểu viễn quan của con, nhưng họ cũng có quyền phản ứng lại sự phát biểu của con theo trạng thái tâm thức của họ.

Đúng thực là họ có quyền sử dụng viễn quan cao của con để thăng vượt trạng thái tâm thức của họ, nhưng nếu họ không chịu làm điều này, thì họ có quyền từ chối. Con không có quyền phản ứng tiêu cực khi người khác thực thi quyền tự quyết của họ. Con nên – và đây là trách nhiệm của con – có trạng thái tâm không đòi hỏi người khác lấy một chọn lựa nào đó. Con nên thỏa mãn đã cho họ cơ hội chọn lựa.

Đó là cách con phụng sự một cách cao: không phải qua việc tạo ra một kết quả vật lý, mà qua việc trình bày cho con người một cơ hội chọn lựa điều gì cao hơn trình độ tâm thức hiện nay của họ. Đó là tất cả những gì các thày, các Thượng sư, đang làm.

Nếu con nghĩ là các thày, bảy vị Thượng sư và Đại Thượng sư, đang ngồi trên đây lập ra kế hoạch tinh vi làm sao thay đổi từng chi tiết nhỏ trên cõi vật lý, thì con đã không hiểu các thày. Đúng thực là thày Saint Germain có một kế hoạch đem tới thời hoàng kim. Nhưng kế hoạch đó không đuợc khắc trên đá. Nó không được quy định vào chi tiết. Thời hoàng kim không thể được áp đặt trên nhân loại. Nó phải được chọn.

Thày Saint Germain có một kế hoạch làm sao trình bày cho nhân loại một số ý cao giúp nhân loại có cơ hội chọn lựa. Thày Saint Germain không đòi hỏi kết quả nào đó vào một ngày nào đó. Thày Saint Germain đã đạt được quả vị Phật. Thày biết rằng nếu thời hoàng kim không được biểu hiện dưới một hình thức nào đó ngày hôm nay, thì chuyện đó có thể xảy ra ngày mai hay trong một thế kỷ.

14.9. Cân bằng hành động dứt khoát và kiên nhẫn

Có những lúc con cần cấp bách thay đổi cái gì đó trong đời mình. Có thể con cần cấp bách nỗ lực lên một trình độ tâm thức cao hơn trong một thời gian rất ngắn vì con cần phải thực hiện một thành phần nào đó của Sứ vụ Thiêng liêng của con ở một thời điểm nào đó. Cũng có thể con cần nâng cao cường độ để hội đủ điều kiện để thăng thiên trong kiếp này. Nhưng con đừng rơi vào cạm bãy của tư duy cuồng đại và nghĩ rằng một số thay đổi bên ngoài nhất định phải xảy ra vào một thời điểm nào đó. Nghĩ như vậy chỉ khiến con xa rời bình an. Điều đó sẽ khiến con không phụng sự dựa trên tình thương mà phụng sự dựa trên sợ hãi, khiến con càng ngày càng bực bội cho tới khi con bị kiệt sức và không chịu nổi nữa.

Đã rất nhiều lần các thày thấy một người có trong Sứ vụ Thiêng liêng việc đem lại thay đổi nào đó trong một lãnh vực nào đó của xã hội. Nhưng vì người đó bị rơi vào khuôn nếp mà thày đã mô tả và phản ứng lại tâm thức sa ngã, nên vị ấy rút lui khỏi lãnh vực đó. Nếu thay vì làm như vậy, vị ấy có cái nhìn đường dài hơn và kiên nhẫn hơn, thì vị ấy đã có thể đạt được thành quả lớn hơn trong một thời gian dài hơn. Có thể rằng vị ấy không đạt được đúng kết quả vị ấy hình dung khi quyết định rút lui, nhưng một số kết quả đáng kể cũng được thành tựu.

14.10. Vượt qua tâm thức bây-giờ-hay-không-bao-giờ

Thế giới không tiến triển bằng những bước nhảy vọt vĩ đại. Thế giới tiến bộ qua từng bước nhỏ. Mỗi người trong chúng con có mặt trên đời để đóng góp vào những bước nhỏ đó. Thỉnh thoảng, có một người đem ra một ý mới có ảnh hưởng sâu rộng hơn, nhưng đa số các con có mặt trên đời để giúp thế giới tiến lên qua những bước nhỏ. Điều này có nghĩa con cần kiên nhẫn. Con cần bình an. Con cần tránh rơi vào tư duy bực bội và nghĩ rằng: “Chuyện này phải xảy ra ngay bây giờ. Bây giờ hay không bao giờ!”

Chính tự ngã của con, sa nhân và phàm linh nội tại muốn con nghĩ như vậy. Có bao giờ con bước vào một tiệm bán xe và có một người bán hàng thiện nghệ muốn bán con một chiếc xe cũ? Các người bán hàng đó được huấn luyện để tạo ra một cảm giác khẩn cấp. Nếu con không ký hợp đồng ngay bây giờ, con sẽ làm mất đi cơ hội tuyệt vời mà họ nói họ đang cống hiến con. Vì sao con nghĩ con người tham gia chiến tranh? Đó là vì họ bị lừa là tình hình khẩn cấp nên có chuyện gì đó cần xảy ra ngay bây giờ! Con yêu dấu không bao giờ có tình trạng bây giờ hay không bao giờ!

Phương Đông có câu ngạn ngữ: “Người tới, người đi, nhưng ta tiếp tục mãi mãi”. Dòng Sông sự Sống tuôn chảy mãi mãi. Hoàn cảnh tới, hoàn cảnh đi, nhưng Dòng Sông sự Sống tiếp tục tuôn chảy. Một cơ hội mới sẽ hiện ra. Chắc chắn là có trường hợp không lấy cơ hội đưa đến hậu quả tai hại. Nhưng điều này không có nghĩa là cơ hội học hỏi đã bị mất, và đó là điều mà các thày là Thượng sư muốn chú tâm tới.

Thày có nói định nghĩa của quỷ Xa-tăng là gì? Đó là quan niệm Tánh linh phải quy thuận điều kiện đương thời của vật chất. Làm sao con thăng vượt các điều kiện đương thời? Con không thể thăng vượt chúng khi con rơi vào trạng thái bị chúng quá ảnh hưởng đến độ nghĩ rằng phải thay đổi chúng ngay lúc này. Chúng phải được thay đổi bằng cách duy nhất mà ngay lúc này con thấy chúng có thể thay đổi. Như vậy có nghĩa là người khác phải làm theo ý con muốn. Nếu họ không tự nguyện làm vậy thì họ phải bị ép buộc làm theo. Đây là lý do vì sao chiến tranh và xung đột bắt đầu. Đây là lý do vì sao đối thoại bị cắt đứt.

Con hiện đang có một viễn quan. Viễn quan đó không phải là viễn quan cao nhất. Nếu con tiến bộ trên con đường tu, con sẽ không có viễn quan đó suốt đời con. Rất có thể là ngay lúc này con có viễn quan đúng đắn về điều cần phải thay đổi, nhưng cũng có thể là con không có viễn quan cao nhất về cách nó phải thay đổi. Nếu con trình bày cho mọi người một cơ hội, như con thấy hiện nay, và họ chọn lựa không theo, thì con không nên bực bội. Con hãy trở về nội tâm. Con xem xét phản ứng của mình. Con tránh khuôn nếp tiêu cực. Con xin được hướng dẫn và chỉ thị để con thấy vấn đề từ một tầm nhìn cao hơn. Sau đó, con chờ cơ hội mới để trình bày đề nghị từ một viễn quan cao hơn, trưởng thành hơn.

Cùng lúc thì con cũng biết là hành tinh tiếp tục tiến triển, và nó tiến triển theo một vòng xoắn đi lên. Ngay cả những người đang chống đối con hiện nay cũng có thể bị bó buộc phải thay đổi. Khi có cơ hội mới, có thể họ sẽ sẵn sàng chấp nhận. Đột nhiên, tình hình được an bày khác hơn trước và có thể có lối mở mà trước đó không có. Nếu trước đó con có phản ứng dựa trên sức mạnh, dựa trên sợ hãi thì có thể con đã rút lui khỏi lãnh vực đó. Hoặc con đã tạo nên nhiều mâu thuẫn với những người liên hệ và họ đã đóng tâm không chịu nghe con nữa, và cơ hội thứ nhì cũng có thể bị mai một.

14.11. Xung đột là bây-giờ-hay không-bao-giờ. Bình an tiếp tục mãi mãi.

Xung đột hay xảy ra vì quan niệm bây giờ hay không bao giờ. Làm sao con có thể là một sứ giả hòa bình khi con có trạng thái tâm đó? Xung đột là bây giờ hay không bao giờ; bình an tiếp tục mãi mãi. Cơ hội đến, cơ hội đi, nhưng một cơ hội mất đi không biến đi mãi mãi. Bánh xe lại lăn và một cơ hội lại xuất hiện. Đây là cách con học phụng sự trong an bình.

Tình thương lúc nào cũng muốn thăng vượt, nhưng con không thăng vượt khi con có một viễn quan là có kết quả tối hậu cần được biểu hiện. Lúc đó dòng chảy của tình thương bị khóa lại. Nếu con ở bên ngoài tư duy bây-giờ-hay-không bao-giờ, tư duy tất-cả-hay-không-có-gì-cả, tư duy theo-tôi-hay-đi-chỗ-khác, thì con có thể ở trong dòng chảy của tình thương. Con chỉ cần đợi cơ hội kế tiếp.

Nếu con không được một cơ hội kế tiếp vì người khác vẫn tiếp tục chống đối, thì con hành động như thày đã từng giảng. Con chú tâm vào phản ứng của mình, và con có thể sẽ tới điểm biết là lúc này không phải là lúc giận dỗi bỏ đi khỏi lãnh vực này. Nhưng là lúc tuôn chảy tới mức phụng sự kế tiếp, bất kỳ hình thức phụng sự này là gì. Ngay lúc đó con có thể không thấy hình thức phụng sự này là gì, nhưng con chắc chắn không thấy nó nếu con ở trong tư duy tất-cả-hay-không-có-gì-cả.

Làm sao hai người có thể phụng sự nhau trong một mối quan hệ khi mỗi người có một quan niệm người kia phải thay đổi ra sao và mối quan hệ phải như thế nào, và cả hai đều có tư duy tất-cả-hay-không-có-gì-cả, bây-giờ-hay-không-bao-giờ? Phụng sự người khác là cho người đó cơ hội tăng triển, không phải là đạt được một kết quả bên ngoài. Con hãy kiên nhẫn với chính mình và với người bạn đời.

Nhiều người trong chúng con quá nóng nảy, hay quá chán chường với xung đột và nói: “Tôi cần an bình ngay bây giờ!” Ta chỉ có thể đạt an bình bằng kiên nhẫn. Không ai đã đạt an bình mà không qua cánh cửa kiên nhẫn, và điều này có khi đòi hỏi chịu đựng đau khổ lâu dài. Con đau khổ bao lâu tùy thuộc vào con cần bao lâu để buông bỏ dính mắc vào kết quả bên ngoài. Con không thể đạt được bình an khi con còn dính mắc vào kết quả bên ngoài. Con yêu dấu, điều này không thể làm được.

Con có thể sẽ đạt dược một kết quả bên ngoài, nhưng con không tạo ra kết quả đó bằng cách dính mắc vào nó, vì con không phải là người tạo tác. Dòng chảy của Tánh linh, Dòng Sông sự Sống là người tạo tác. Con cung cấp chén thánh để dòng tình thương chảy vào, và con để tình thương làm công việc của nó. Lúc đó, con được bình an, bất kỳ kết quả vật lý là gì. Con được bình an khi con để tình thương tuôn chảy, và qua đó trình bày cho mọi người một cơ hội chọn lựa một con đường cao hơn, con đường của tình thương, con đường của bình an.

TA LÀ Paul người Venice.

12 | Tình thương và Sự thật

Bài giảng của chân sư thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels, ngày 7/1/2015.

TA LÀ Paul người Venice. Điều gì xảy ra khi con tới tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày? Đây là điểm con gặp tình thương phối hợp với Tia thứ Năm, thường được gọi là tia của sự thật hay chân lý. Ông Pontius Pilate đã từng hỏi Giê-su: “Sự thật là gì?” Câu hỏi này đáng để chúng ta suy ngẫm.

12.1. Thực tại và cách chúng ta cảm nhận thực tại

Pontius Pilate đại diện cho một người có tâm thức ở dưới tầng 48. Giê-su đại diện cho một người có tâm thức rất gần tầng 144. Khi con tới gần tầng 144, con có thể biết đâu là sự thật. Khi con ở dưới tầng 48, con không thể nào biết sự thật. Khi con tới khóa nhập thất của thày, con không ở dưới tầng 48, nhưng con cũng không ở gần tầng 144.

Con có thể nào biết sự thật ở tầng tâm thức của con khi con tới khóa nhập thất của thày chăng? Con có thể biết một biểu hiện của chân lý cao hơn lúc con ở dưới tầng 48. Con không thể biết trọn vẹn chân lý mà con biết được khi con tới gần tầng 144. Đây là một điều rất quan trọng mà con nên ghi nhớ. Vậy con biết được gì? Làm sao con thấy được chân lý khi con đang ở đâu đó giữa tầng 48 và 96 trên con đường tự điều ngự?

Con chỉ thấy chân lý xuyên qua cỗ xe tâm hồn là phương tiện con dùng để biểu hiện trong thế giới vật chất. Điều này không có nghĩa là con không thể trải nghiệm chân lý dưới hình thái trong sạch của nó. Cái Ta Biết của con có khả năng bước ra ngoài và không tự đồng hóa với cỗ xe tâm hồn. Giống như con có khả năng trải nghiệm tình thương vô điều kiện, thì con cũng có khả năng trải nghiệm chân lý vô điều kiện, nhưng chân lý vô điều kiện không có điều kiện.

Chúng ta cần thấy một khác biệt vi tế mà đa số người trên hành tinh còn không thể hiểu được. Họ không thấy sự khác biệt này là cần thiết, vì họ không thấy sự khác biệt giữa thực tại và cách họ cảm nhận thực tại. Họ nghĩ rằng điều mà họ thấy qua cỗ xe tâm hồn là thực tại, là chân lý, nhưng điều này không đúng, phải không con? Con đã bắt đầu vượt lên trên tầng 48 và con đã bắt đầu tách mình ra khỏi, không còn tự đồng hóa, với cỗ xe tâm hồn.

12.2. Cỗ xe tâm hồn không phải là kẻ thù của con

Đây là điều con cần phân biệt: cỗ xe tâm hồn không phải là kẻ thù của sự tăng triển tâm linh của con. Nó có thể là kẻ thù, và chắc chắn nó kẻ thù khi con ở dưới tầng 48. Khi con ở dưới tầng 48, cỗ xe tâm hồn, trong đó có tự ngã, kéo con xuống những khuôn nếp vị kỷ dựa trên sợ hãi. Con tìm cách bảo vệ tự ngã và cái ta phàm phu thay vì vươn lên trên tự ngã và các khía cạnh vị kỷ của tâm thức con người.

Tâm thức con người và tự ngã đặt lên trên cỗ xe tâm hồn một lớp phủ có pha màu. Khi con vượt lên trên tầng 48, con bắt đầu thoát khỏi khuynh hướng vị kỷ đó. Khi con vươn lên cao hơn nữa về hướng tầng 96 trên con đường tự điều ngự, con rũ bỏ những khuynh hướng đó thêm nữa. Nhưng không có nghĩa là lúc đó con đã rũ bỏ cỗ xe tâm hồn.

Mục tiêu của con đường tự điều ngự từ tầng 48 đến tầng 96 là giúp con phát triển khả năng sáng tạo để con có thể biểu lộ nó toàn vẹn hơn trong thế giới vật lý. Khi con biểu lộ khả năng sáng tạo, con cần một cỗ xe để biểu lộ. Con cần bốn thể phàm của con. Đó là lý do vì sao cái Ta Biết, là trạng thái nhận biết thuần khiết, không thể biểu lộ sự sáng tạo. Đó là lý do vì sao cái Ta Biết cần tạo ra cỗ xe tâm hồn, trong đó có bốn thể phàm. Nó không cần phải tạo ra tự ngã, nhưng nó đã làm điều này trên trái đất vì hành tinh này rất dày đặc. Công việc chính trên con đường tự điều ngự là vượt lên trên tầm ảnh hưởng của tự ngã để làm chủ cỗ xe tâm hồn, thay vì để tự ngã làm chủ cỗ xe tâm hồn và kéo con vào những khuôn nếp dựa trên sợ hãi có mục đích bảo vệ tự ngã.

12.3. Cỗ xe tâm hồn được hình thành như thế nào

Thày đã có giảng là con cần ngưng trong lọc các phàm linh nội tại và rũ bỏ chúng, nhưng các phàm linh nội tại không phải là cỗ xe tâm hồn trong hình thức trong sạch của nó. Các phàm linh nội tại được tạo ra bởi các sợ hãi của tự ngã và cảm nhận méo mó của nó. Chúng được tạo ra dựa trên một ảo tưởng, là ảo tưởng nhị nguyên, nhưng con có thể thanh lọc chúng khỏi cỗ xe tâm hồn. Điều này không có nghĩa là cỗ xe tâm hồn có thể thăng thiên, nhưng có nghĩa là con có một cỗ xe trong sạch hơn giúp con biểu lộ chính mình trong thế giới vật chất.

Con đã hình thành cỗ xe tâm hồn của con như thế nào? Con đã hình thành nó dựa trên sự cá biệt mà Hiện diện TA LÀ của con sẵn có, vì nó được tạo ra với tính cá biệt này. Hiện diện TA LÀ của con có một khuôn đúc cá biệt độc nhất, khác với khuôn đúc của tất cả các sinh thể tự nhận biết khác trong thế giới hình tướng. Con đã tạo ra cỗ xe tâm hồn dựa trên tính cá biệt của Hiện diện TA LÀ của con tuy lúc đó con không hoàn toàn là Hiện diện TA LÀ.

Con cũng tạo cỗ xe tâm hồn dựa trên những trải nghiệm mà con kinh qua trong thế giới vật chất. Nếu con đã đầu thai trên trái đất một thời gian dài, và con chắc chắn đã làm điều này khi con sẵn sàng gia nhập khóa nhập thất của thày, thì tính cá biệt của con, của cỗ xe tâm hồn của con, đã bị ảnh hưởng bởi những trải nghiệm của con trên trái đất. Đời sống con người là như vậy. Tất cả chúng ta đã đi qua tiến trình này khi chúng ta đầu thai trên trái đất.

Công việc giữa tầng 48 và 96 là thanh lọc cỗ xe tâm hồn khỏi ảnh hưởng của tự ngã, nhưng không phải là loại bỏ cỗ xe tâm hồn hay tước tính cá biệt khỏi cỗ xe tâm hồn. Đây là công việc khi con vượt lên trên tầng 96, vì đó là giai đoạn con bắt đầu giải thoát cái Ta Biết khỏi những khía cạnh của cỗ xe tâm hồn không dựa trên sợ hãi.

Ta có thể nói là trong giai đoạn đầu, con xây dựng một cỗ xe tâm hồn trong sạch để con có thể dùng nó để biểu lộ chính mình, nhưng trong giai đoạn sau con bắt đầu ngưng không tự đồng hóa với cỗ xe tâm hồn để nhận ra mình là – con – Hiện diện, là một nối dài của Hiện diện. Cỗ xe tâm hồn chỉ là một cỗ xe giúp sự sáng tạo chảy xuyên qua để vào thế giới vật chất. Con có thể nghĩ là ở trên tầng 96, con phá bỏ tính cá biệt và cỗ xe tâm hồn mà con đã xây dựng ở dưới tầng 96, nhưng điều này không đúng. Khi con tới tầng 144, con vẫn còn cá tính.

Con có thể thấy là Giê-su có một cá tính rõ rệt. Thánh kinh không mô tả điều này một cách trung thực, nhưng thày có một cá tính. Điều này không là một vấn đề vì thày không tự đồng hóa với nó. Có người có thể nhìn sự việc này và nói rằng đấng Ki-tô hiện thân không thể có cá tính như vậy, và dùng điều đó như lý cớ để chối bỏ thày. Một số người gặp gỡ Giê-su thời đó đã hành xử như vậy, nhưng đó là chọn lựa của họ, chứ không phải là trách nhiệm của Giê-su. Con có thể có một số khía cạnh của cá tính con người khi con thăng thiên, nhưng điều này không ảnh hưởng việc thăng thiên. Nó chỉ là một cỗ xe.

Vì sao thày lại giảng con những điều này? Vì nó liên quan đến các khai ngộ mà con sẽ đối mặt ở tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày. Một trong những hủ hóa tình thương mà con phải đối mặt ở khóa nhập thất của thày chính là khuynh hướng nghĩ rằng chân lý chỉ thể hiện theo một cách. Nếu con thực thương yêu ai và muốn giải phóng người đó, thì con phải giúp họ thấy chân lý.

Con yêu dấu, nếu con đứng nhìn mặt trời lặn về phương Tây thì con có một tầm nhìn nào đó về thế giới. Nếu con quay người lại và nhìn về hướng khác, thì con không còn thấy mặt trời nữa, phải không con? Khi con, là cái Ta Biết, quay về bên trong và rút ra khỏi cỗ xe tâm hồn, thì con có thể ngước nhìn lên và thấy Hiện diện TA LÀ của con. Có thể con sẽ trải nghiệm chân lý vô điều kiện, nhưng con cũng sẽ trải nghiệm là chân lý vô điều kiện không thể biểu hiện qua ngôn từ, hoặc hình ảnh, lý thuyết hay triết lý.

Nếu bây giờ con quay đầu và nhìn ra thế giới vật chất qua con mắt cỗ xe tâm hồn thì chuyện gì sẽ xảy ra? Lúc đó con sẽ nhìn thế gian xuyên qua cỗ xe tâm hồn và tính cá biệt nội tại trong nó. Con có thể nhìn vào khái niệm chân lý xuyên qua cỗ xe đó, nhưng điều thày muốn con suy ngẫm là con không thể nào thấy được chân lý tuyệt đối và vô điều kiện xuyên qua cỗ xe tâm hồn của mình.

Ngay nơi đó chính là sự hủ hóa tình thương, khi ý muốn cái gì hơn nữa bị tâm thức sa ngã hủ hóa thành ý muốn cái gì tối hậu. Con có lòng khao khát tự nhiên muốn biết chân lý, nhưng khao khát đó bị hủ hóa thành khao khát muốn biết một chân lý tuyệt đối mà cỗ xe tâm hồn có thể hiểu được.

12.4. Sự thực cao hơn không phải là chân lý duy nhất

Đó là chỗ con tạo bối cảnh gây ra rất nhiều vấn đề trong quan hệ con người mà con có thể thấy trên trái đất, không những trong quan hệ tình yêu mà còn trong đủ loại quan hệ giữa con người. Con người tin rằng điều họ thấy xuyên qua cỗ xe tâm hồn của họ là một chân lý có ý nghĩa cao cả và tuyệt đối. Nhiều khi họ tin rằng một tôn giáo hay hệ thống triết học đã quy định chân lý trong thánh kinh của tôn giáo hay hệ thống đó. Nếu con chấp nhận tôn giáo đó thì con thấy chân lý trong đó, vì con chấp nhận những gì tôn giáo đó nói về thế giới, kể cả thế giới tâm linh. Điều này không đúng, vì bất kỳ tôn giáo nào được diễn tả bằng ngôn từ hay hình ảnh của thế gian chỉ có thể đưa ra một ước phỏng của chân lý. Các thày đã nhiều lần nói điều này. Giáo lý vỏ ngoài, ngay cả giáo lý vỏ ngoài mà chính các thày trao truyền, chỉ là phương tiện giúp con vượt lên trên chúng để đạt được kinh nghiệm nội tâm về cái gì không có điều kiện, không thể được diễn tả bằng ngôn từ hay hình ảnh, và chắc chắn là không thể bị hạn chế bởi ngôn từ và hình ảnh.

Thí dụ ta có hai người. Họ đều khao khát chân lý. Họ đều mong muốn tăng triển. Họ nhận ra là điều ngăn trở con người tăng triển là vì họ bị mắc kẹt trong ảo tưởng. Họ nhận ra cách để vượt qua ảo tưởng là nhận ra nó là ảo tưởng, nhưng họ vẫn có thể bị mắc kẹt trong bẫy vi tế của tâm thức sa ngã. Tâm thức sa ngã nói rằng muốn khắc phục dối trá, ta cần thấy chân lý. Điều đúng là muốn khắc phục một dối trá nào đó, ta cần thấy nó là một dối trá. Điều đúng là muốn nhận ra một ảo tưởng nào đó là một dối trá, ta cần thấy một biểu lộ cao hơn của sự thực, nhưng một biểu lộ cao hơn của sự thực không đồng nghĩa với “chân lý duy nhất” theo nghĩa tối hậu.

12.5. Khắc phục ảo tưởng của chân lý tối hậu

Lý do vì sao con bị kẹt trong một ảo tưởng không phải là vì con ngu dốt. Lý do là vì con đang ở một tầng tâm thức nào đó. Khi con nhìn qua phin lọc nhận thức ở tầng tâm thức đó, thì ảo tưởng giống như thật. Khi con chấp nhận ảo tưởng, đó là vì con thấy nó là sự thật.

Con không ở tầng tâm thức 144, con đồng ý chứ? Ở tầng tâm thức hiện tại của con, con không thể thấy chân lý tối hậu. Ta hãy giả thử là ở tầng tâm thức hiện tại của con, con nhận ra là trong một kiếp trước, khi con ở một tầng tâm thức thấp hơn, con đã chấp nhận một ảo tưởng. Ảo tưởng này đã nằm trong tiềm thức của con từ thời đó và nó ảnh hưởng con. Nó đã trở thành một phàm linh nội tại. Bây giờ thì con thấy phàm linh nội tại đó là giả. Con thấy nó là một khuôn nếp không xây dựng mà con muốn loại bỏ, và sau đó con thấy được ảo tưởng.

Vì sao bây giờ con thấy được một ảo tưởng mà trước kia con tưởng là sự thật? Đó là vì con đã lên một tầng tâm thức cao hơn. Con bây giờ thấy một điều mà trước kia con tưởng là sự thật, thực sự không phải là sự thật mà là một ảo tưởng. Khi đó, con cần tránh không tin các sa nhân, các thày giả và tự ngã của mình khi chúng thì thầm vào tai con là con đã thấy được chân lý tối hậu. Trái lại, con cần khiêm nhường nhận ra là điều con đang thấy là điều mà con có thể thấy ở tầng tâm thức hiện nay của con, nhưng vì con vẫn ở rất xa tầng 144 nên con chưa thấy được bóng dáng của chân lý tối hậu. Điều con đang thấy thể hiện tầng tâm thức hiện tại của con, nó không phải là chân lý tối hậu.

Bây giờ con cần tiến thêm một bước nữa và nhận ra rằng điều con đang thấy không những là một biểu hiện của tầng tâm thức hiện tại của con, mà nó còn thể hiện cá tính của con, cá tính của cỗ xe tâm hồn của con. Khi con còn xác thân vật lý thì con sẽ không bao giờ thấy được chân lý tối hậu. Con sẽ luôn luôn thấy nó xuyên qua cỗ xe tâm hồn của mình.

Ở đây có hai khía cạnh mà con cần nhận ra. Ở bên dưới là cá tính của cỗ xe tâm hồn của con, và con sẽ giữ một phần cá tính đó cho tới khi con thăng thiên. Ở bên cạnh là con đường song song của tầng tâm thức của con, là một trong 144 tầng. Con càng tới gần tầng 144 thì nhận thức của con càng tinh khiết, nhưng nó vẫn là một nhận thức cá biệt.

12.6. Cạm bẫy nghĩ mình phải thuyết phục người khác

Khi con nhận ra điều trên thì con tránh rơi vào cạm bẫy đã quyến rũ rất nhiều người. Khi con thương yêu một người, muốn giúp người đó, và thấy họ đang bị kẹt trong một khuôn nếp, thì con nghĩ cách duy nhất để giúp họ là khiến họ thấy chân lý như con thấy. Con hãy nhìn lại những quan hệ của con với người khác và nhớ lại những trường hợp mà con thấy một người – có thể là một đồng nghiệp, người thủ trưởng, cha mẹ mình, con cái mình hay vợ chồng – cần phải thấy một điều mà con thấy nơi họ, nhưng chính họ lại không thấy được? Có phải chăng là tất cả chúng ta đã trải qua những trường hợp tương tự khi chúng ta đầu thai trên trái đất này? Các con có đang kinh nghiệm điều này ngay bây giờ chăng?

Bây giờ con hãy suy ngẫm một điểm vi tế khác nữa. Rất có thể là con có một cái nhìn chính xác là người kia cần vượt qua một khuôn nếp, và người đó đang không thấy khuôn nếp đó hay ảo tưởng đằng sau nó. Rất có thể con thấy rõ điều này, và có thể đúng là người đó cần phải thay đổi. Nhưng, người đó sẽ không thay đổi bằng cách thấy sự thật như con thấy.

Tại sao vậy? Đó là vì sự thật mà con thấy không phải là chân lý tối hậu và chỉ là một chân lý cá biệt. Nó là chân lý cá biệt của con, dựa trên cá tính của cỗ xe tâm hồn của con và trình độ tâm thức hiện tại của con. Điều con thấy không phải là chân lý. Thật ra con cũng không thấy tình trạng của người kia và mối quan hệ giữa con và người đó một cách khách quan và sáng suốt. Điều con thấy là một cảm nhận do cỗ xe tâm hồn con tạo ra. Con đang nhìn sự việc qua một cặp kính mờ, có pha màu. Điều này không có gì sai trái. Ngay lúc này, con không thể làm gì khác.

Điều mà thày muốn chỉ cho con thấy là người kia bình thường sẽ không thấy điều con cảm nhận, vì người đó có cá tính riêng của cỗ xe tâm hồn của họ và họ cũng có trình độ tâm thức riêng của họ. Người đó có thể có một trình độ tâm thức cao hơn hay thấp hơn trình độ của con. Nếu người đó ở trình độ tâm thức thấp hơn con, cũng không có nghĩa là người đó sẽ nâng tâm thức mình lên bằng cách nhìn thấy điều mà con thấy. Người đó vẫn cần thấy sự việc dựa trên cỗ xe tâm hồn của mình và trình độ tâm thức của mình.

12.7. Tự ngã ham muốn được phổ quát

Một hủ hóa phổ thông của tự ngã là nó không nhìn nhận là nó nhìn tất cả mọi việc như một cảm nhận cá biệt. Tự ngã khát khao biến cảm nhận cá biệt của nó thành một sự việc phổ quát bằng cách khiến người khác chấp nhận nó như “sự thực duy nhất”. Đây là điều thày mong giúp con thấy và chất vấn khi con tới tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày. Điều mà thày mong giúp con nhận ra là tầm nhìn của con sẽ luôn luôn mang tính chất cá biệt khi con còn hiện thân trong cõi vật chất. Điều mà một người khác thấy cũng luôn luôn mang tính chất cá biệt khi người đó còn hiện thân. Người đó sẽ không tăng triển bằng cách thấy sự việc như con thấy. Người đó sẽ tăng triển khi có một tầm nhìn sáng suốt hơn dựa trên cá tính riêng của họ.

Con lên một tầng cao hơn khi con có một tầm nhìn sáng suốt hơn, nhưng cỗ xe tâm hồn của con vẫn dựa trên tính cá biệt của Hiện diện TA LÀ của con. Phải chăng là thày đang nói là Hiện diện TA LÀ cũng có một tầm nhìn cá biệt về thế giới? Đúng vậy. Con sẽ có một tầm nhìn cá biệt cho tới khi con là một với tâm thức của đấng Sáng tạo. Và có khi còn cao hơn nữa, vì lúc đó con là một đấng Sáng tạo cá biệt. Con sẽ không có tầm nhìn nhị nguyên như khi con còn hiện thân, khi con chưa thăng thiên, nhưng tầm nhìn của con vẫn cá biệt. Làm sao có thể khác hơn được?

Cái gì khiến thày là Paul người Venice, mà không phải là Hilarion? Cái gì khiến thày khác thày Hilarion? Thày Hilarion và thày không là một. Các thày có thể hòa nhập và cộng tác năng lượng của mình khi con tới tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày, nhưng hai thày không phải là một. Thượng đế không muốn hai thày trở thành một. Khi hai thày tiến triển thêm trên con đường tiến hóa của mình, sẽ không có một điểm mà hai thày sẽ mất tính cá biệt của mình. Con có nghĩ rằng Alpha và Omega không có cá tính chăng? Dĩ nhiên là không phải vậy. Không ai mất đi cá tính của mình. Con nâng nó lên trình độ càng ngày càng cao hơn. Thày biết là tâm đường thẳng, tâm phân tích không dễ hiểu được điều này, nhưng con nên suy ngẫm với tâm thức hiện tại của con.

12.8. Hai người bạn đời sẽ không thấy bất kỳ chuyện gì hoàn toàn giống nhau

Điều thày có thể làm ở khóa nhập thất của thày là chỉ cho con thấy là cỗ xe tâm hồn của con ảnh hưởng cái nhìn của con về mọi chuyện trên thế gian này. Cái Ta Biết của con có khả năng bước ra ngoài phin lọc nhận thức của cỗ xe tâm hồn. Con có thể trải nghiệm một thực tại cao hơn, nhưng khi con nhìn về thế gian, khi con không nhìn về Hiện diện TA LÀ, thì con thấy sự việc xuyên qua phin lọc nhận thức của cỗ xe tâm hồn.

Người phối ngẫu trong quan hệ tình yêu của con sẽ không bao giờ – không bao giờ – nhìn đời giống y như con. Đây là một trong những nguyên do phổ thông nhất tạo xung đột trong quan hệ tình yêu. Con nghĩ, vì con đã được dạy dỗ để nghĩ như vậy, là con có sự thu hút với người bạn đời vì người đó rất giống con. Nhưng sự thực là con có sự thu hút với người bạn đời vì người đó có thể giúp con thấy điều gì đó nơi mình bằng cách phơi bày nó ra. Người đó phơi bày bằng cách nào? Bằng cách khiến con phản ứng lại điều họ làm, chứ không phải bằng cách khiến con thấy sự việc giống như họ thấy.

Thày biết là điều thày vừa nói không giúp các quan hệ tình yêu vận hành suôn sẻ. Đa số không có khái niệm là họ cần nhìn vào cách họ phản ứng lại người bạn đời của họ để khám phá ra những vấn đề tâm lý chưa giải quyết của họ. Thay vào đó, họ nghĩ rằng, trong một quan hệ tình yêu lý tưởng, hai người phối ngẫu nên nhìn sự việc y như nhau. Điều này sẽ không bao giờ xảy ra. Ngay cả nếu điều này có thể xảy ra, thì nó cũng sẽ không giúp con tăng triển.

Chuyện gì xảy ra khi thày hợp lại với thày Hilarion? Chuyện xảy ra là thày nhận ra là thày Hilarion không nhìn sự việc giống như thày. Vì thày là một chân sư thăng thiên, thày không thấy điều đó là một mối đe dọa. Thày nhận ra là thày Hilarion có một quan điểm khác, và điều này có thể giúp thày nhìn vấn đề một cách khác hơn và giúp thày thấy được một cách giải quyết rộng rãi hơn. Đây là sức mạnh của sự khác biệt. Khi thày thấy thày Hilarion nhìn tình hình khác thày, thì ý niệm bản ngã của thày được mở rộng. Thày Hilarion cũng mở rộng ý niệm bản ngã của mình khi thấy thày nhìn tình hình một cách khác.

Đây là trạng thái lý tưởng cho các quan hệ tình yêu trên trái đất. Nhưng điều này không xảy ra vì con người đã bị lập trình để tin một cách lệch lạc rằng, nếu muốn có một quan hệ hài hòa thì hai người bạn đời phải nhìn sự việc giống y như nhau. Nếu con muốn có một quan hệ hài hòa thì con cần nhận ra là cách con nhìn đời là một tầm nhìn cá biệt, và người bạn đời của con không nên nhìn sự việc giống như con và chấp nhận tầm nhìn của con. Người bạn đời của con nên mở rộng tầm nhìn cá biệt của vị ấy, nhưng tầm nhìn này phải được phép giữ cá tính của nó.

Nếu cả hai người trong quan hệ tình yêu đều chấp nhận điều này, và cho phép người kia phát triển theo cách của riêng họ, thì con có thể có một quan hệ hài hòa giúp cả hai tăng triển. Nếu một trong hai người bạn đời không nhận ra điều đó và tiếp tục đòi hỏi người kia phải nhìn đời theo ý mình, thì con không thể có một quan hệ hài hòa. Điều này giản dị không thể có được. Con có thể làm gì để khắc phục khuôn nếp lệch lạc này trong quan hệ tình yêu?

12.9. Phin lọc nhận thức khiến giao tiếp bị che mờ

Ở khóa nhập thất của thày, thày chỉ cho con thấy rõ điều gì xảy ra khi con ở trong một tình huống có sự bất đồng ý kiến hay quan điểm. Thày có thể chỉ cho con trên một màn ảnh cách con nhìn vào tình huống này. Thày có thể chỉ cho con thấy là quan điểm của con bị pha màu. Thày có thể chỉ cho con thấy bằng hình ảnh.

Nếu con muốn có một sự so sánh thô thiển, thì con hãy thử tưởng tượng một cảnh thiên nhiên rất đẹp. Thày cho con đeo vào một cặp kính màu. Con đã nhìn thấy quang cảnh trong khi không đeo kính và con nhìn thấy quang cảnh khi đeo kính, do đó con thấy được là cảm nhận cá biệt của con đã pha màu điều con thấy. Sau đó, thày cho con đeo một cặp kính khác, là cặp kính của người bạn đời của con, và lúc đó con thấy quang cảnh hiện lên ra sao cho người bạn đời của con. Con thấy là cặp kính của con đã loại bỏ một số khía cạnh của quang cảnh khiến con không thấy chúng. Cặp kính đó cũng nhấn mạnh một số khía cạnh khác, khiến chúng trở nên quan trọng hơn với con. Chúng ta có thể thấy kết quả qua một đồ hình: điều gì đã bị nhận thức của con loại đi, và điều gì đã được nhấn mạnh?

Sau đó, thày chỉ cho con thấy đồ hình của tình huống dưới mắt người bạn đời của con mà không có pha màu. Sau đó thày chỉ cho con đồ hình của cách con nhận thức: điều gì bị loại bỏ và điều gì được nhấn mạnh. Sau đó thày chỉ cho con thấy đồ hình của cách người bạn đời của con nhận thức: điều gì bị loại bỏ và điều gì được nhấn mạnh. Con có thể thấy là có một số trường hợp điều mà phin lọc nhận thức của con nhấn mạnh (tức là thấy quan trọng) lại bị phin lọc nhận thức của người bạn đời của con loại bỏ.

Làm sao mà hai con có thể hiểu nhau khi người bạn đời của con không thể thấy một điều mà con cho là rất quan trọng? Như con đã trải nghiệm nhiều lần, hai con nói mà như người kia không nghe. Tình trạng này giống như hai người đang không dùng cùng một ngôn ngữ. Các con có thể đang nói tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng La tinh, nhưng các con đang không dùng một ngôn ngữ giúp các con thông cảm. Bây giờ thì con thấy lý do vì sao, và khi con bắt đầu thể nhập ý nghĩa của điều đang xảy ra thì con bắt đầu thấy, một cách ý thức, cách cải thiện sự giao tiếp với người bạn đời của mình.

Để bắt đầu con cần vượt qua niềm tin lệch lạc là người bạn đời của con có thể nhìn đời giống như con. Sau đó con cần vượt qua niềm tin lệch lạc là mọi chuyện sẽ tốt hơn nếu người bạn đời của con nhìn đời giống như con. Sau đó con tiến tới tôn trọng sự việc người bạn đời của con không nhìn đời giống con là điều thuận lý, vì người đó lúc nào cũng sẽ nhìn đời xuyên qua phin lọc nhận thức của họ – và tầm nhìn này lúc nào cũng có tính cá biệt. Thay vì bắt đầu một trò chơi quyền lực nhằm ép người bạn đời của mình nhìn đời giống mình, thì con có thể tránh dùng áp lực. Chuyện gì hay xảy ra trong nhiều cuộc đối thoại giữa hai người bạn đời? Một trong hai người trở nên bực bội và muốn người kia nhìn đời giống mình. Sau đó, người đó tìm cách đổ lỗi hay khiến người kia cảm thấy tội lỗi, hay dùng một tình cảm nào khác dựa trên sợ hãi, để khiến người kia chấp nhận cảm quan của mình.

Phương pháp này có bao giờ thành công? Nó có bao giờ đưa tới một cuộc đối thoại xây dựng giữa hai người chăng? Câu trả lời dĩ nhiên là không, vậy tại sao con lại cứ muốn tiếp tục khuôn nếp này? Cách duy nhất để vượt ra khỏi khuôn nếp là tôn trọng sự việc người bạn đời của mình không nhìn đời giống mình là điều thuận lý. Điều thuận lý là người bạn đời của con nhìn đời theo cách của họ. Điều con có thể làm là nói cho người bạn đời cách con nhìn đời, cách con cảm nhận tình hình. Con cũng có thể tìm cách giúp người bạn đời của con thấy rõ họ thấy hay cảm nhận hoàn cảnh như thế nào.

12.10. Giúp hai người bạn đời giao tiếp rõ ràng

Con người thường không rõ họ đang thấy hay cảm nhận một hoàn cảnh như thế nào. Con có thể giúp người bạn đời của con thấy rõ, nhưng con không được tìm cách ép uổng người đó nhìn đời giống như con. Con cần phải lựa chọn muốn người bạn đời của mình nhìn đời giống mình, hay giúp người đó thấy rõ cảm nhận cá biệt của mình là gì.

Nếu con chọn giúp người bạn đời thấy rõ cảm nhận cá biệt của mình, thì đây là nền móng để tạo nên một mối giao tiếp xây dựng giữa hai người. Nếu cả hai người bạn đời đều chọn cách này, thì các con có được một mối giao tiếp xây dựng giúp con giải quyết sự căng thẳng và xung đột vì không ai muốn ép uổng người kia phải nhìn đời “giống mình”. Con có thể chấp nhận những khác biệt của nhau như một điều tích cực, một chất xúc tác giúp tăng triển.

Rất có thể là khi các con giúp nhau giao tiếp rõ ràng và tôn trọng ý mỗi người phát biểu, thì các con sẽ nhận ra hai người giản dị rất khác nhau. Lúc đó các con cần phải lựa chọn. Các con có thể xây dựng một quan hệ dựa trên sự tôn trọng khác biệt chăng? Các con có thể vượt qua ước muốn không thể đạt được muốn tìm một người bạn đời hoàn toàn giống mình và luôn luôn nhìn đời giống mình? Các con có thể chấp nhận một người bạn đời khác mình, và thấy điều này như một nguồn tăng triển và dùng nó một cách xây dựng? Cũng có thể là các con sẽ thành thực nhận ra là sự khác biệt giữa hai người quá lớn, và do đó hoặc các con không thể chung sống trong một quan hệ xây dựng, hoặc các con không thể hỗ trợ nhau thực hiện Sứ vụ Thiêng liêng của mình vì quá khác nhau.

Có thể là sau khi đã trao đổi với nhau rõ ràng, điều chính đáng là hai người chia tay và đi con đường riêng của mình. Lúc đó, các con có thể làm việc này một cách an bình và hài hòa hơn là nếu mối quan hệ tan vỡ vì giao tiếp lệch lạc.

Thày tìm cách giúp học viên đến khóa nhập thất của thày thấy rõ cách họ giao tiếp, cách họ cảm nhận sự thật và khả năng giao tiếp một cách cởi mở. Sau khi thày đã làm việc với người học viên một thời gian, thì thày tìm cách giúp người học viên thấy vấn đề thực, sâu thẳm trong sự giao tiếp giữa con người. Các học viên có khi khó hiểu được điều này.

Trước khi thày khai triển điều này, thì thày muốn nói như sau: Nếu cả hai vợ chồng có thể tới khóa nhập thất của thày cùng một lúc, và cả hai có cùng trình độ tâm thức, thì thày có thể làm việc đồng thời với cả hai người và giúp họ (khi họ ở trong trạng thái tâm ý thức) giải quyết nhiều chuyện trong quan hệ giữa họ. Nhưng thực tế là rất ít khi người vợ và người chồng cùng lúc ở cùng một trình độ tâm thức.

Khi con tới tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày, thì thường khi người bạn đời của con ở tầng tâm thức thấp hơn con, nhưng cũng có trường hợp hiếm hoi là vị ấy ở tầng tâm thức cao hơn. Điều này khiến người phối ngẫu của con khó chấp nhận điều mà con đã chấp nhận về việc giao tiếp, và do đó con cần phải kiên nhẫn và chịu đựng khi làm việc với người phối ngẫu của mình. Nếu con mang được xuống tâm ý thức những điều con học được ở khóa nhập thất của thày, thì con cũng không thể đòi hỏi người phối ngẫu của con, đang có trình độ tâm thức nhiều bước dưới con, phải cải thiện cách cư xử. Một lần nữa, con cần kiên nhẫn.

12.11. Vấn đề sâu thẳm trong sự giao tiếp giữa con người

Vấn đề sâu thẳm trong sự giao tiếp giữa con người là gì? Điều gì thường ngăn chặn sự giao tiếp giữa con người? Con có một tiêu chuẩn vỏ ngoài khiến con nghĩ rằng quan hệ hài hòa dựa trên sự giống nhau. Ở trình độ tâm thức hiện tại của con, còn ở xa dưới tầng 144, con vẫn còn nhiều thành phần của tự ngã, và tự ngã luôn luôn cảm thấy bị đe dọa bởi khác biệt.

Mục đích của con gồm hai khía cạnh. Khía cạnh “mục đích” là quan hệ hài hòa, và khía cạnh “làm sao” là cách để đạt mục đích. Con nghĩ con chỉ thực hiện được mục đích bằng cách biến người bạn đời giống mình, tìm một người bạn đời giống mình hay khiến người bạn đời nhìn đời giống mình. Con nghĩ rằng nếu cả hai người nhìn đời giống nhau, thì con sẽ có một quan hệ hài hòa. Nhưng trên thực tế, con sẽ có một quan hệ chết trong đó không có tăng triển.

Vấn đề trong quan hệ giữa con người là con tìm cách thiết lập một trạng thái thường trực có tính chất thiên đàng trong thế giới vật chất. Thực tế sâu thẳm, mà các thày tìm cách giúp con nhận ra trong khóa học này, là thế giới vật chất luôn luôn ở trong trạng thái chuyển tiếp – và điều này rất tốt!

Con hãy đón nhận sự chuyển tiếp! Con hãy đón nhận thay đổi. Con hãy trôi theo Dòng Sông sự Sống. Con đừng tìm cách ngưng bất kỳ điều gì trên trái đất ở một trạng thái nào đó. Con đừng tìm hạnh phúc nơi điều kiện vỏ ngoài của thế gian. Con hãy tìm hạnh phúc bên trong, bằng cách tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống.

Nếu con lúc nào cũng tìm cách giao tiếp dựa trên ý niệm tìm cầu hài hòa, thì rất có thể con sẽ tìm cách dùng áp lực để khiến người bạn đời của con nhìn đời giống con. Hoặc con rơi vào khuôn nếp khác cũng rất phổ thông trong sự giao tiếp giữa con người, là con không nói một điều nào đó vì con không muốn làm người bạn đời bực bội.

Vấn đề thực trong sự giao tiếp giữa con người, là hầu như con không bao giờ nói một cách tự do với người khác. Tình trạng này phổ quát trên trái đất đến độ học viên không thấy hay không tin là có thể giao tiếp một cách tự do với một người khác. Đây là kết quả của kinh nghiệm sống của con. Con gặp một người, con nói một chuyện mà con nghĩ hoàn toàn vô sự, và đột nhiên người kia cảm thấy bị va chạm và trở nên rất bực bội. Con ngồi đó và không hiểu tại sao người đó lại phản ứng như vậy.

Khi con đã trải nghiệm điều này nhiều lần với cha mẹ, anh chị em, thày giáo, vợ chồng hay con cái, thì con tạo một khuôn nếp khiến con không tin mình có thể tự do phát biểu. Con lúc nào cũng tìm cách lượng định xem người kia sẽ phản ứng ra sao trước khi con nói điều gì. Như vậy làm sao con có thể tự do giao tiếp?

12.12. Cố gắng đạt được tự do giao tiếp

Thày muốn cho con một mục đích khác. Khi con có một quan hệ tình yêu, con đừng đặt mục đích tạo một quan hệ hài hòa. Con hãy đặt mục đích cố gắng tạo điều kiện để cả hai có thể phát biểu tự do.

Con hãy tìm cách giúp nhau tới điểm cả hai người không phản ứng với nhau qua tự ngã. Con hãy đặt mục đích cho người kia tự do phát biểu mà không sợ phản ứng tiêu cực của con. Con hãy cho mỗi người quyền tự do ngôn luận.

Con hãy suy ngẫm về quyền tự do ngôn luận được coi là được hiến chương các nước dân chủ bảo đảm. Trong bất cứ xã hội nào, ngôn luận có thực sự tự do chăng khi con nói điều gì và bị một phản ứng tiêu cực khiến mình rất khó chịu? Con có thực sự được hoàn toàn tự do nói điều mình muốn nói? Thày không nói rằng có thể có một xã hội trong đó con người có quyền tự do nói bất cứ điều gì mình muốn mà không bị phản ứng từ một số người nào đó.

Thày cũng không nói rằng, trong một quan hệ giữa hai người, con có thể nói bất cứ điều gì con muốn mà không bị người kia phản ứng. Con có thể đặt mục đích cho mỗi người quyền tự do nói bất cứ gì họ muốn, và sau đó, cho người kia quyền tự do nói lại bất cứ gì người đó muốn dựa trên phản ứng của họ.

Nếu con cố gắng thì có thể tới điểm con không phản ứng dựa trên sợ hãi, dù người kia nói điều gì khiến con phản ứng. Điều con có thể làm là nói: “Vợ hay chồng tôi nói điều này. Tôi cảm thấy phản ứng này nơi tôi, nhưng thay vì biểu lộ phản ứng này bằng cách tỏ ra bực bội, tôi sẽ đứng lùi lại và mô tả phản ứng của tôi cho vợ hay chồng tôi.” Có điểm khác biệt giữa cảm thấy giận và phát biểu sự giận dữ đó bằng lời nói, và cảm thấy giận và bước ra ngoài cảm giác giận và nói với người vợ hay chồng: “Hãy để tôi mô tả tôi cảm thấy gì khi anh/em nói điều này.”

Khi con làm như vậy, thì con khiến cuộc giao tiếp đỡ căng thẳng. Một người phối ngẫu có thể nói bất cứ điều gì họ muốn và người kia không cần phải đè nén phản ứng, vì đây không phải là một khuôn nếp lành mạnh. Thay vào đó, con có thể mô tả phản ứng của mình, và con có tự do làm điều này. Điều này giúp người phối ngẫu nhận ra rằng, khi họ phát biểu cách nào đó thì họ tạo phản ứng nơi con. Lúc đó, con có thể nhìn phản ứng của mình và xem có cách nào để vượt qua nó.

Trong nhiều trường hợp, con sẽ thấy là người phối ngẫu của con hoàn toàn không biết là con đã phản ứng như vậy và tại sao con lại phản ứng như vậy. Người phối ngẫu của con không có ý định làm con giận dữ (hay có cảm xúc nào khác). Sau đó, các con có thể bắt đầu thảo luận chuyện gì đã xảy ra. Con có thể bắt đầu hỏi vì sao người phối ngẫu của con lại cần nói điều khiến con giận dữ. Khuôn nếp nào đã khiến cho người phối ngẫu của con nói chuyện đó? Người phối ngẫu của con phản ứng ra sao khi con giận dữ, khi con biểu lộ sự giận dữ? Con có thể dần dần xây dựng sự thông cảm khiến con không phản ứng lại nhau dựa trên nỗi sợ bị đe dọa hay bị hất hủi.

12.13. Kết quả của giao tiếp lệch lạc

Khi con giao tiếp lệch lạc và muốn người phối ngẫu của con nhìn đời giống mình, thì kết quả là gì? Thày đã nói là ước muốn khiến người phối ngẫu của mình nhìn đời giống mình là điều hoàn toàn không thể làm được, do đó điều đó sẽ không xảy ra. Con cảm thấy gì khi người phối ngẫu của con không nhìn đời giống con? Con cảm thấy bị hất hủi!

Khi con xây dựng phương thức giao tiếp tự do mà thày đã trình bày, con sẽ tới điểm cả hai người bạn đời không cảm thấy bị hất hủi khi không được hiểu. Con cũng có thể tới điểm bắt đầu thấy việc người bạn đời không nhìn đời giống mình là một điều lợi ích. Điều đó giúp con có một tầm nhìn rộng rãi hơn, và giúp con mở rộng ý niệm bản ngã của con và khả năng phản ứng một cách xây dựng.

Khi thày và học viên quan sát các mối quan hệ trên trái đất ở khóa nhập thất của thày, ta có thể thấy một cách dễ dàng vì sao sự giao tiếp giữa con người hay bị ngăn chặn. Có rất nhiều trường hợp hai người bạn đời ngồi đó và cảm thấy có sự căng thẳng giữa họ, và một hoặc cả hai ngậm miệng và không dám phát biểu những gì họ cảm thấy. Điều này chỉ khiến tình thế trở nên căng thẳng hơn. Nó tích lũy năng lượng sợ hãi vì khi con đè nén cảm xúc của mình thì con tạo ra năng lượng sợ hãi.

Tại sao con lại đè nén cảm xúc của mình? Con sợ phản ứng sẽ hướng tới con khi con phát biểu cảm xúc của mình, do đó chính sự sợ hãi đã đè nén cảm xúc của con. Con sợ sự phản ứng đến độ sự sợ hãi của con mạnh hơn cảm xúc của con do đó con đè nén cảm xúc. Điều này chỉ có tác dụng gia tăng sự căng thẳng. Nó tạo ra niềm uất hận đối với người bạn đời, vì con nghĩ rằng chính vì lỗi người đó mà con không phát biểu được cảm xúc của mình. Phải chăng đó là lỗi người bạn đời của con, hay đó chỉ là sự vận hành lệch lạc của các quan hệ trên trái đất, đã được tạo ra trong hoàn cảnh dễ đưa tới thất bại? Con có thể bắt đầu bước ra ngoài tiến trình này chăng, nhận biết nó một cách ý thức, và làm việc với nhau cho tới khi con cho phép mỗi người nói điều gì họ cần nói, và cho phép người kia nói điều người đó cần nói để trả lời? Thay vì phản ứng dựa trên sợ hãi chỉ có tác dụng tạo ra một vòng xoắn hướng hạ càng ngày càng ngăn trở sự giao tiếp giữa hai người, thì con có thể dần dần xây dựng một vòng xoắn hướng thượng mở rộng dòng chảy giao tiếp giữa hai người.

12.14. Quan hệ hài hòa và giao tiếp tự do

Con yêu dấu, có thể con mơ ước có một quan hệ hài hòa, nhưng nó không thể thành tựu bằng cách trấn áp sự giao tiếp. Quan hệ hài hòa không thể có được khi cả hai người bạn đời, hay ngay cả chỉ một người, không dám phát biểu tự do. Nếu con tới điểm cả hai người có thể phát biểu tự do, thì con có thể có một quan hệ hài hòa, nhưng con sẽ có một quan hệ giúp tăng triển. Khi con trao người kia quyền tự do, thì con cũng tự cho mình quyền tự do, và do đó căng thẳng tan biến. Phải chăng chính căng thẳng đã tạo ra bất hài hòa?

Con không xây dựng hài hòa bằng cách tạo sự giống nhau. Con xây dựng hài hòa bằng cách xây dựng giao tiếp tự do cho phép khác biệt được phát biểu tự do mà không tạo căng thẳng. Đó là điều các thày tìm cách dạy con ở tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày.

Người phối ngẫu của con có thể không ở cùng trình độ tâm thức với con, nhưng vị đó vẫn có thể chấp nhận một số ý mà thày vừa trình bày. Con có thể dùng các ý này trong tâm ý thức của con để cải thiện sự giao tiếp trong tất cả các mối quan hệ của con. Con có thể sẽ gặp trường hợp người kia không chịu thay đổi, nhưng đó sẽ chỉ là một cơ hội để con mở rộng khả năng giao tiếp tự do của mình. Và con sẽ rốt cuộc tuôn chảy về một tình huống khác.

Con có thấy chăng điều thày muốn dạy con ở đây? Con đừng tìm cách ép uổng khi ở trong một mối quan hệ. Con hãy làm việc để cải thiện chính mình, con hãy tiếp tục làm như vậy, bất kỳ người kia phản ứng ra sao. Lúc đó, con sẽ càng ngày càng buộc chặt mình vào Dòng Sông sự Sống cho tới ngày con có thể buông bỏ các mối dây ràng buộc con vào một cảnh huống và tuôn chảy đi, bất kỳ sự tuôn chảy này diễn đạt ra sao trên cõi vật lý.

Sứ vụ Thiêng liêng của con quan trọng hơn bất cứ quan hệ nào. Nếu cả hai người đều theo con đường tâm linh, thì họ phải có khả năng chấp nhận điều này cho cả hai người. Con không thể chờ đợi người bạn đời của con tạm ngưng hay hủy bỏ một phần quan trọng của Sứ vụ Thiêng liêng của người đó để duy trì một quan hệ mà con coi là đúng hay hài hòa. Nếu cả hai con đều thấy rõ Sứ vụ Thiêng liêng của mình, con sẽ thấy là cả hai người sẽ thực thi được Sứ vụ Thiêng liêng của mình trong lúc cả hai có quan hệ với nhau. Hoặc con thấy cả hai không thể thực thi Sứ vụ Thiêng liêng của mình và vẫn có quan hệ với nhau, lúc đó các con sẽ chia tay trong sự hài hòa, hiểu biết và chấp nhận.

Khi con mở rộng tầm nhìn của mình và nhận ra tầm nhìn của mình không phải là chân lý tối hậu, con sẽ càng ngày càng tự do tuôn chảy và để người khác tuôn chảy. Đây là căn bản để bắt đầu phụng sự sự sống, thay vì nghĩ rằng sự sống phải phục vụ mình – hay đúng hơn là phục vụ tự ngã, và cảm nhận nhị nguyên, vị kỷ của nó. Dĩ nhiên, đây là đề tài của các khai ngộ ở tầng kế tiếp, tầng của tia thứ sáu.

Bây giờ thì thày chúc con chiêm nghiệm niềm vui của sự giao tiếp hoàn toàn tự do với một người khác. Đây có thể là một trải nghiệm rất mãn nguyện. TA LÀ Paul người Venice.

Giới thiệu Tia thứ Hai 

Màu sắc Tia thứ Hai: Màu vàng hoàng kim

Luân xa tương ứng: Đỉnh đầu

Elohim của Tia thứ Hai: Apollo và Lumina

Đại thiên thần của Tia thứ Hai: Jophiel và Christine

Thượng sư của Tia thứ Hai: Chân sư Lanto

Bài chú cho Tia thứ Hai: 2.01 Bài chú Elohim Apollo, 2.02 Bài chú Đại thiên thần Jophiel, 2.03 Bài chú Chân sư Lanto (Xin xem ở cuối sách). 

Đức tính thuần khiết của Tia thứ Hai 

Thường được xem là tia sáng của minh triết, giác ngộ và tự hiểu biết, tuy nhiên ở mức sâu hơn, đây là tia sáng đem lại khả năng nhận rõ tính không thực của ngã tách biệt cũng như ảo tưởng của ý niệm tách biệt. Qua Tia thứ Hai, con người chiêm nghiệm sự thật cơ bản rằng mọi sự sống đều là một, và không có gì có thể tách rời khỏi Đấng Sáng tạo hiện diện khắp mọi nơi. Một đức tính khác của Tia thứ Hai là sự cởi mở đối với hiểu biết siêu việt, và sự chứng nghiệm rằng chân lý có nhiều cách diễn tả chính đáng khác nhau, nhưng mọi diễn tả đều tụ về cùng một thực tại bất nhị nằm bên dưới.

Các mặt tha hóa của Tia thứ Hai

Mặt tha hóa của Tia thứ Hai là minh triết giả hiệu, khi con người tưởng là mình biết tất cả, hay mình nắm một chân lý tối hậu. Ảo tưởng này là hệ lụy của ảo tưởng nhị nguyên, lầm tưởng rằng thực tại có thể chia ra thành từng phần riêng biệt, và tâm tách biệt có quyền và có khả năng định ra phần nào là đúng, phần nào là sai.

Sự tha hóa của Tia thứ Hai thường được thấy nơi những người tin tuyệt đối là mình đúng – đặc biệt những ai đã trở nên cuồng tín – và sẵn sàng cưỡng ép người khác phải tuân theo ý mình. Một sự tha hóa khác là chủ nghĩa trí thức, qua đó người ta sẵn sàng tranh cãi để ủng hộ hay chống đối một ý tưởng mà không chịu vượt lên trên ý tưởng đó để trực nghiệm Tánh linh vượt mọi ngôn từ.

Giới thiệu Chân sư Lanto

Bạn có bao giờ xem những bộ phim có những pha người ta sử dụng ánh sáng và phin đặc biệt để khiến cho màu sắc thật rạng rỡ như được phủ một lớp hoàng kim hay không? Nếu vậy thì bạn đã thoáng thấy được quang cảnh bạn đứng trước Hiện diện của Chân sư Lanto, hay Đức Lanto. Hào quang của thày rộng lớn, tràn ngập ánh sáng màu vàng hoàng kim đến độ bạn tưởng như mình đang sống trong một thế giới khác nơi mọi vật đều minh bạch trong sáng, đều lề lớp gọn gàng mà không gì có thể xáo trộn được sự an bình. Và quả vậy, sự thật đúng là như thế.  

Thày Lanto đã có mấy kiếp đầu thai tại Trung hoa cổ đại, nổi bật nhất là Chu Công, được xem là vị đã khởi xướng truyền thống minh triết Trung hoa mà về sau được biết đến qua sách viết của Khổng Tử. Thày Lanto thăng thiên vào năm 500 trước Công nguyên và từ lâu nay đã chứng đạt quả vị Phật. Trong một kiếp hiện thân, thày đã sùng kính Thượng đế đến độ người đời có thể nhìn thấy một vầng vàng kim chói rạng ở giữa ngực thày, ngay luân xa tim. Kể từ đó, vầng sáng vàng kim đã tỏa ra rộng lớn khắp xung quanh hình dạng ê-the của thày. Khi bạn đứng trong vùng bức xạ này, quả là bạn được bước vào một thế giới khác, nơi không gì có thể được che giấu khỏi tầm nhìn xuyên thấu của con mắt minh triết, con mắt đơn nhất có khả năng nhìn xuyên qua mọi hư ảo của tâm thức nhị nguyên.

Thày Lanto đã vượt xa mức chứng đạt cần thiết cho một vị Thượng sư nhưng thày đã chọn phụng sự trong vai trò này do lòng thương yêu những anh chị em chưa thăng thiên của thày. Chính tình yêu đó – được biểu lộ qua minh triết toàn hảo và luôn thăng vượt của Tia thứ Hai – sẽ biến đổi tất cả những ai chuyên cần tu tập để hội đủ tư cách trở thành đệ tử của thày.

Bạn cần những gì để hội đủ tư cách làm đệ tử của thày Lanto? Bạn chỉ cần sẵn lòng lui lại một bước và nhìn vào phin lọc nhận thức của mình. Thày sẽ chỉ cho bạn thấy sự khác biệt giữa phin lọc nhận thức cá nhân của bạn và thực tại được chứng nghiệm qua Ngọn lửa Giác ngộ neo trụ nơi khóa nhập thất Royal Teton, nằm bên trên núi Grand Teton tại tiểu bang Wyoming, Hoa kỳ.

Đây là một cơ hội thật đặc biệt, bởi vì khi bạn thấy rõ nhãn quan của mình về cuộc sống đã bị phin lọc nhận thức tô màu như thế nào, bạn sẽ không có cảm giác là mình lầm lạc hay ngu ngốc. Khi nhìn ra tính không thực của cuộc sống thì bạn cũng nhìn ra thực tại ở đằng sau, có nghĩa là bạn nhìn ra con người thực của mình không qua một phin lọc nào. Bạn thấy phin lọc nhận thức của mình chỉ đơn giản là một cái gì mình đã khoác vào, và bạn đã khoác nó vào vì những lý do có vẻ như chắc nình nịch trong nhãn quan tâm thức cũ. Nhưng giờ đây từ một trạng thái tâm thức cao hơn, tại sao bạn lại phải bám víu lấy nó, một phin lọc nhận thức mà bạn thấy rõ là hạn hẹp và không còn phản ánh được con người thực của mình?

Thày Lanto có khả năng vô song giúp đỡ các học trò của thày nhìn xuyên thấu những điểm vi tế trong lô-gíc gian manh của rắn, tức hình thức suy luận nhị nguyên. Thày biết rõ đây là một tiến trình tuần tự, và thày luôn có cái nhìn dài hạn, một đặc điểm của truyền thống minh triết ngàn đời. Vì thày đã chứng đạt tâm Phật, thời gian không còn là một yếu tố đối với thày, và vì thế thày có sự kiên nhẫn vô hạn đối với học trò của mình.

Nếu bạn đến với thày với mong muốn bênh vực hay biện hộ cho tự ngã của bạn, nếu bạn tìm cách thuyết phục thày bằng lối suy luận của rắn, thày sẽ kiên nhẫn lắng nghe bạn chừng nào bạn còn tiếp tục phóng chiếu lên thày. Bạn sẽ không tìm thấy sự phản hồi nào ngoại trừ một nụ cười trìu mến, và nụ cười này thường khiến cho tự ngã bị khích động nhiều hơn bất kỳ lời khiển trách nào. Và nếu bạn cứ tiếp tục phóng chiếu lô-gíc của rắn, cuối cùng bạn sẽ không thể tránh khỏi đâm vào một ngõ cụt luận lý, nơi bạn đạt tới trạng thái sẽ mở tâm bạn ra cho sự hướng dẫn của thày Lanto, là trạng thái bối rối.

Một khi bạn xoay chuyển và quyết định là bạn mong muốn thày giúp bạn thoát ra khỏi thế bí triết lý đó, thày sẽ hướng dẫn bạn tùy theo mức chứng đạt cũng như sự sẵn lòng của bạn để nhìn xa hơn nhị nguyên. Một khi bạn ngừng tìm cách trốn chạy, bạn sẽ nhận ra sự hướng dẫn của thày thật xuyên thấu, tuy rằng luôn luôn thương yêu một cách vô điều kiện. Vì thày nhìn xuyên qua tất cả mọi điều kiện mà cái tâm quanh co của rắn đã thiết lập, thày cũng sẽ không chấp nhận bất kỳ điều kiện nào thay thế cho con người thực của bạn.

Do không ngừng hỗ trợ cái ta thực của mình mà cuối cùng các đệ tử sẽ nhận ra rằng thày Lanto nhìn thấy nơi mình một cái gì đó mà chính mình không nhìn thấy. Khi bạn thực sự mong muốn nhìn mình qua chính mắt của Lanto, bạn sẽ không phát hiện ra minh triết mà sẽ phát hiện tình thương vô bờ bến, vô điều kiện, vượt khỏi cả bảy tia sáng nhưng lại chảy xuyên qua cả bảy tia sáng. Đó là lúc bạn sẽ thấy mắt thày lấp lánh sáng ngời, và nụ cười của thày sẽ biến đổi từ một nụ cười xa vời của Phật thành một nụ cười thật gần gũi, đón nhận và tán thành.

17 | Con thỉnh cầu tự do trong Tánh linh (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Apollo và Lumina và Arcturus và Victoria, Đại thiên thần Jophiel và Christine và Zadkiel và Amethyst, và Chân sư Lanto và Saint Germain yêu dấu, hãy giúp con sử dụng mọi trải nghiệm trên địa cầu để thăng vượt hình tướng vỏ ngoài, và đi vào hợp nhất với tánh linh ở đằng sau mọi thứ. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ mọi khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Chân sư Lanto và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con giải quyết thách đố của tự do 

1.1. Con là học trò của chân sư thăng thiên, và con đặt mục tiêu leo từ tầng tâm thức 48 lên tầng 96. Con buông bỏ mong muốn định ra một minh triết tối hậu, và con tự do biểu đạt minh triết mà không phải so sánh với một cái gì định nghĩa bằng ngôn từ.

Apollo yêu dấu, trong tia sáng thứ hai,
Thày mở mắt con ra để con nhìn ngày mới,
Vượt lên trên khuôn đúc tư duy gây thảm bại,
Con nhìn thấu xuyên qua lừa lọc của nhị đối.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

1.2. Con bước ra ngoài phin lọc nhận thức của tâm vỏ ngoài, và con chiêm nghiệm Tánh linh Minh triết. Con buông bỏ mọi quan điểm giới hạn và mọi xu hướng tự xưng mình là quan tòa phán xét người khác.

Apollo yêu dấu, trong ánh lửa con biết
Có dòng nước hằng chảy là dòng sông minh triết.
Kìa ý chí cao nhất nay con đã phát hiện,
Trầm mình trong dòng nước không bao giờ đứng yên.

Apollo yêu dấu, ánh sáng thày soi rõ
Tại sao chúng con lại hiện thân ở đây nhỉ,
Đây bầu cõi vũ trụ chúng con phải nâng cao,
Và cùng nhau hình thành mũi đầu của ngọn giáo.

1.3. Con không thể biết được bằng tâm vỏ ngoài Tánh linh Minh triết muốn biểu đạt như thế nào xuyên qua con trong một tình huống nhất định. Con cho Tánh linh Minh triết khoảng trống để nó tự do biểu đạt xuyên qua con.

Apollo yêu dấu, vạch trần từng dối trá,
Từng sợi dây tự ngã, giờ đây con buông bỏ,
Và hiểu ra thật sự nhận thức là chìa khóa
Để vượt qua nhị đối cho nội tâm sáng tỏ.

Apollo yêu dấu, con nghe lời thày gọi,
Ở Đại sảnh Minh triết tiếng gọi dìu con tới
.
Phơi bày những lọc lừa đã khiến mình sa ngã,
Thày giúp con tìm lại duy nhất với tất cả.

1.4. Con theo chỉ đạo nội tâm của mình để nhìn xa hơn một giáo lý vỏ ngoài nhất định, hay để xem đến một giáo lý mới hơn. Con để cho các thày làm thày, và con chấp nhận mình làm trò. Con xuôi chảy theo tiến trình tiết lộ tuần tự và liên tục của các chân sư.

Apollo yêu dấu, trí tuệ thày sáng rỡ,
Trong hợp nhất với thày, rắn độc con chẳng sợ,
Cái đà trong con mắt, con nay thấy lồ lộ,
Thoát khỏi vùng nhị đối, con tìm được tự do.

Apollo yêu dấu, chúng con nâng viễn kiến
Và dõi nhìn trái đất bước vào tân kỷ nguyên.
Khi mắt thày soi rọi, con tình nguyện đứng đó,
Rồi bước khỏi mê cung với uy lực thày cho.

1.5. Con vươn lên trên mức tâm thức hiện thời của con. Con vươn đến cấp thứ bảy của Tia thứ Hai, và con tự do bước tới khi Tánh linh Minh triết đưa con đi tới.

Arcturus yêu dấu, con nay xin thày phóng
Dòng Lửa Tím của thày cho sự sống tăng triển.
Những vòng tròn ánh sáng cứ không ngừng tỏa rộng,
Trong mỗi hạt nguyên tử cũng đồng nhịp sáng lên. 

Arcturus yêu dấu, Elohim Tự do,
Con đang mở tim ra thực tại của thày đó,
Trái tim con lan rộng ra Vô biên dang trải,
Và bí quyết chiến thắng là ngọn lửa của thày.

1.6. Con không dùng tâm vỏ ngoài hay một lời dạy vỏ ngoài để hạn chế Tánh linh Minh triết. Khi con cảm thấy sự thúc đẩy nội tâm để bước tới, thì con bước tới. Con liên tục gia tăng sự hòa điệu của con với tánh linh. Đây là tự do, đây là điều mà các thày muốn nhìn thấy nơi đệ tử.

Arcturus yêu dấu, ở với con mãi mãi,
Ngày mới con sẵn lòng chào đón khi sống lại,
Khi cuộc đời nhân thế không thể buộc được mình,
Con gọi sự sống mới trong Ngọn lửa Tái sinh.

Arcturus yêu dấu, Lửa Tím thày trong vắt,
Là thần dược tuyệt chiêu để chữa muôn bệnh tật,
Để tự do của con được bảo đảm mãi mãi,
Mà không bóng tối nào có khả năng cưỡng lại. 

1.7. Tự do là thách đố tối hậu. Tự do hoàn toàn tự do, nhưng tự ngã và hàng ngũ mạo danh giả trá muốn con bảo rằng tự do chỉ có thể tự do theo sự quy định của các điều kiện trên địa cầu.

Arcturus yêu dấu, màu tím và ánh lửa
Ngập từng hạt nguyên tử và nâng nó lên cao,
Ánh sáng đổ đầy hết khoảng không gian ở giữa,
Và ngay cả vật chất cũng sáng rực làm sao. 

Arcturus yêu dấu, Hồng ân biến đổi cả,
Trao cho con uy lực đương đầu mọi thách đố,
Khi ánh sáng màu tím ngập toàn cõi bên trong,
Con nhắm hướng thăng thiên, tự nguyện và nhanh chóng.

1.8. Con sẽ không tự do thật sự cho tới khi con trở thành một với Tánh linh Minh triết, và con sẽ không trở thành một với tánh linh đó nếu con muốn ép nó vào một khuôn khổ được thiết kế trên trái đất. Tánh linh Minh triết sẽ không tuân theo nỗ lực của con muốn ép nó vào một khuôn khổ nhất định.

Arcturus yêu dấu, đem lại thời đại mới,
Trái đất và nhân loại lật qua trang đổi đời,
Ánh sáng thày chuyển hóa, cho con niềm chắc chắn,
Hoàng kim Saint Germain là thực tại hoàn toàn.

Arcturus yêu dấu, con buông mọi sợ hãi,
Thày Hiện diện thật gần, tưởng chạm được bằng tay,
Tai con luôn văng vẳng Bài hát của Tự do,
Và con biết Thượng đế yêu thương mình lắm đó. 

1.9. Chân sư Lanto, xin thày giúp con chấp nhận giáo lý con đang có ở mức này là giáo lý tốt nhất cho con ngay bây giờ, dựa trên trình độ tâm thức và hoàn cảnh vỏ ngoài của con.

Gia tốc tới Tỉnh Thức, TA LÀ có thật,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, mọi sự sống chữa lành,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, TA LÀ hơn nữa,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, tất cả sẽ vút cao.

Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Apollo và Lumina yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Jophiel và Christine yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Chân sư Lanto yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
TA LÀ yêu dấu.

2. Con không được định nghĩa bởi bất cứ gì trên địa cầu 

2.1. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhận đón giáo lý mà con hiện có, và sử dụng nó tốt nhất để tăng trưởng thêm nữa. Hãy giúp con tự do khi con tiếp nhận, học hỏi, thực hành và sống theo giáo lý đang hấp dẫn con trong hoàn cảnh hiện tại của con.

Đại thiên thần Jophiel, trong ánh sáng minh triết,
Mọi lừa dối gian xảo đã phơi bày trước mặt.
Thường thường trong tâm người, chúng tinh vi luồn lách,
Nhưng con có thày rồi, là vị thày thượng sách.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.2. Con tự do học hỏi, thể nhập và sống đúng với minh triết mà mình đang có. Con chỉ thực sự tự do vì con không cố tự ép buộc mình bằng tâm vỏ ngoài.

Đại thiên thần Jophiel, con đón mừng minh triết,
Tấm màn của nhị nguyên, thày lấy gươm chặt đứt,
Khi được thày chỉ lối, con biết đâu là thực,
Con hóa giải tức khắc bùa mê với ngờ vực.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.3. Con buông bỏ mong muốn tự ép mình tuân theo một bộ quy tắc, và con tự do cho phép tánh linh đưa con đi tới. Con có khả năng thực sự thể nhập và áp dụng giáo lý mà con đang có. Con làm đúng theo những gì con nói.

Đại thiên thần Jophiel, thực tại của thày đó,
Là liều thuốc thần diệu giải độc chất nhị nguyên,
Dối trá không thể còn khi có thày Hiện diện,
Với thày đứng bên cạnh, tà kiến con cắt liền.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.4. Con cởi mở với khả năng là con có thể đạt tới điểm thăng thiên khỏi địa cầu. Thăng thiên là bước nhảy lượng tử tối hậu khi con phải vứt bỏ mọi luật lệ, hạn chế, giới hạn và mọi điều tin tưởng từ trái đất. Con phải buông bỏ tất cả những thứ đó.

Đại thiên thần Jophiel, tâm Thượng đế trong con,
Con nhận trí tuệ thày, ánh sáng rạng đầu non,
Con gặp được Duy nhất khi tách biệt tiêu mòn,
Và tâm này toàn vẹn, là chiến thắng của con.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.5. Thăng thiên là một tiến trình hợp nhất với tánh linh, nhưng con không thể hợp nhất qua trung gian tâm vỏ ngoài, là tâm khởi lên từ tâm thức tách biệt. Ngã sinh diệt, tự ngã, không thể đưa con lên trạng thái thăng thiên.

Đại thiên thần Zadkiel, dòng chảy nhanh đến nỗi
Trong lửa tím của thày, con lập tức chuyển đổi,
Nhập vào tầng rung động của tự do phơi phới,
Con thoát khỏi kềm chế của cái ta kém cỏi.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

2.6. Phát triển tâm linh không là một tiến trình đường thẳng. Vấn đề không phải là định ra một bộ quy tắc rồi sống gượng theo đó, mà là đạt đến một sự nhìn nhận nội tâm, một chứng ngộ nội tâm.

Đại thiên thần Zadkiel, con khao khát từng ngày
Được cai quản ngọn lửa màu tím của thày đây,
Khi con dùng sức mạnh luyện kim để chuyển hóa,
Và gọi tên Thiên ngữ để giải vây tất cả.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

2.7. Khi con đi vào hợp nhất với tánh linh mà TA LÀ, con sẽ trong Nước Trời, bởi vì tánh linh đó chính Nước Trời, và Nước Trời là một trạng thái hợp nhất với tánh linh.

Đại thiên thần Zadkiel, ngọn lửa tím quyền năng
Biến đổi cả thế giới trong lực chuyển vô song.
Trái đất khi thức dậy, bắt đầu quay nhanh chóng,
Với đoàn quân thiên thần, ta cùng nhau chiến thắng.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

2.8. Vấn đề là con phải tự giải phóng khỏi giới hạn vỏ ngoài. Vấn đề là con cần nhận ra con là cái Ta Biết, một sinh thể vô hình tướng.

Đại thiên thần Zadkiel, trong lửa tím thánh thiện,
Nhân loại với hành tinh không bao giờ như trước,
Thời Hoàng kim mà thày Saint Germain mơ ước
Thành sự thật tuyệt vời, con mừng vui chứng kiến.

Đại thiên thần Zadkiel, hãy bao bọc hành tinh,
Đại thiên thần Zadkiel, trong vòng tay màu tím,
Đại thiên thần Zadkiel, niềm vui không thể nén,
Đại thiên thần Zadkiel, địa cầu đã tái sinh.

2.9. Con không được định nghĩa bởi bất kỳ hình tướng nào trên trái đất, cho nên con không phải sống theo bất kỳ hình tướng nào trên trái đất để bước vào Nước Trời. Con phải tách mình ra khỏi sự đồng hóa với mọi hình tướng, và đi vào hợp nhất với tánh linh mà TA LÀ.  

Con bay với thiên thần,
Để đạt được nhiều HƠN.
Thiên thần ôi rất thật,
Tình thương sẽ chữa hết.
Với thiên thần bình an,
Muôn ray rứt phải tàn.
Với thiên thần ánh sáng,
Ta bay bổng thênh thang.

Cánh thiên thần xào xạc trong ngọn gió,
Vui vui lắm khi vật chất hát to,
Vui với từng hạt nguyên tử vo vo
Cùng hòa tấu với cánh thiên thần nhỏ.

3. Con sống thực với giáo lý tâm linh của con 

3.1. Làm thế nào con có thể thật sự chìa má bên kia? Ngã tách biệt là tách biệt, nghĩa là nó cảm thấy bị đe dọa bởi những chuyện của thế gian. Nó bị những chuyện thế gian đe dọa vì nó là một thể sinh diệt, có khả năng bị thế gian làm hại.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.2. Hiện diện TA LÀ của con hiện hữu nơi một cõi cao hơn. Nó không cảm thấy bị đe dọa bởi bất kỳ điều kiện nào trên điạ cầu, vì nó biết rõ nó không thể bị những điều kiện này làm tổn thương. Hiện diện TA LÀ sẽ chìa má bên kia như một cách thể hiện chính bản chất của nó.   

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.3. Cái Ta Biết hiện hữu ở giữa Hiện diện TA LÀ và ngã vỏ ngoài. Tâm vỏ ngoài luôn tìm cách đạt được một điều gì đó qua sự kiểm soát, nhưng nó lại tạo ra một xung lực năng lượng sẽ đe doạ cảm giác kiểm soát của con, khi xung lực được tấm gương vũ trụ gửi trả về.

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.4. Cách hay hơn là nhận ra con là cái Ta Biết. Con rút ra khỏi sự đồng hóa với tâm vỏ ngoài, với ngã tách biệt. Con hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con. Con cho phép Hiện diện biểu đạt xuyên qua con, và trong bản chất, Hiện diện vốn là bất bạo động.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.5. Con sống đúng theo giáo lý của con, bằng cách cho phép cái Ta Biết tự tháo gỡ ra khỏi sự đồng hóa với ngã vỏ ngoài. Con chuyển ý niệm bản sắc của mình vào sự đồng hóa với Hiện diện TA LÀ. Con là cánh cửa mở để Hiện diện TA LÀ biểu đạt xuyên qua con.

Chân sư Lanto, con nay viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.6. Con đang hội nhập, thể nhập và biểu hiện hoàn toàn lời dạy tâm linh. Mục tiêu của con là chỉ sử dụng giáo lý tâm linh như một cái thang để leo về hướng hợp nhất với tánh linh, rồi con cho phép tánh linh biểu lộ qua con.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.7. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhảy bước lượng tử trong nhận biết ý thức, hầu chuyển trọng tâm ra khỏi việc tuân thủ giáo lý vỏ ngoài. Con đưa trọng tâm vào việc tìm kiếm trước tiên vương quốc Thượng đế, để tất cả mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con khi con tìm hợp nhất với tánh linh. Con đặt điều đó làm mục tiêu vỏ ngoài, mục tiêu ý thức của con.

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.8. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhận ra minh triết cao hơn không phải là áp dụng giáo lý tâm linh theo kiểu bao nhiêu người đã từng làm trong quá khứ. Minh triết cao hơn là nhận ra mục tiêu của giáo lý tâm linh là hợp nhất với tánh linh đứng đằng sau giáo lý.

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, con đang cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.9. Con đặt điều này làm mục tiêu của con, và con tự do. Con không phải ép mình tuân thủ một cách diễn giải đường thẳng về giáo lý vỏ ngoài cùng những quy tắc của nó. Con cảm thấy mình nhẹ nhõm hơn hẳn khi không còn phải cưỡng bức bản thân, hay ý tưởng, hay cảm xúc của con.  

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4. Con tự do xuôi chảy với tánh linh mà TA LÀ 

4.1. Chân sư Lanto, con nhìn ra là con không thể là đệ tử của thày nếu con chối bỏ tánh linh mà thày là. Thày có thể tự biểu đạt qua ngôn từ, nhưng thày là nhiều hơn ngôn từ. Con đi vào hợp nhất với thày bằng cách thăng vượt giáo lý vỏ ngoài, và dùng nó để hòa điệu với tánh linh.

Ôi Saint Germain, nghệ thuật luyện kim, 
Giải phóng con ngay với ngọn lửa tím.
Ôi Saint Germain, con tăng liên tục,
Dòng chảy tự do không sao khuất phục. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Con buông bỏ mong muốn ép Thượng đế, ép tánh linh, phải tuân theo và xác nhận giáo lý vỏ ngoài. Đây lại là cái ngã tách biệt muốn áp đặt mọi thứ.

Ôi Saint Germain, điều khiển tài tình
Hình dạng kỷ hà của ngọn lửa tím.
Ôi Saint Germain, ở thày con tìm
Thấy được công thức giải thoát chính mình. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn thấu và buông bỏ lời dối trá do sa nhân lan truyền, bảo rằng tánh linh có thể bị bắt buộc phải tuân thủ bất kỳ giáo lý nào trên địa cầu. Con nhảy một bước lượng tử và chiêm nghiệm được sự sai lầm của cái nhìn đó.

Ôi Saint Germain, Tự do bao la,
Chính là tình thương giải thoát tất cả.
Ôi Saint Germain, sao con yêu quá
Lửa tím cứ giục con càng hơn xa. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Tánh linh Minh triết sẽ không bao giờ tuân thủ một giáo lý vỏ ngoài biểu đạt qua lời nói. Nó sẽ luôn luôn là nhiều hơn, và con sẽ chỉ biết được tánh linh bằng cách vượt qua ngôn từ và nhập một với tánh linh. Khi con biết điều này, con tự do.    

Ôi Saint Germain, chúng con nối kết,
Từ bỏ nhị nguyên, thăng lên siêu việt.
Ôi Saint Germain, cái ta tinh khiết,
Khoa học lửa tím vững tay cầm trịch.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra đường tu không phải là một hành trình đường thẳng, mà là sự phối hợp những bước đường thẳng với những bước nhảy lượng tử. Có những lúc con đi bộ qua một loạt bước đường thẳng, nhưng cũng có lúc con phải nhảy một bước lượng tử để vượt ra ngoài mức hiện tại của con.

Ôi Saint Germain, sự thật rõ ràng, 
Trong ánh sáng tím, chẳng gì băn khoăn.
Ôi Saint Germain, niêm kỹ hào quang,
Luân xa con được lửa thày hàn gắn. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra ngay cả những điều kiện xấu xa, ô trọc, đáng ghét nhất cũng có thể được biến thành những viên đá lót đường để giúp con tiến bước. Con sử dụng mọi trải nghiệm để đẩy con lên cao hơn, bằng cách thăng vượt hoàn cảnh vỏ ngoài và chạm được tánh linh đằng sau.

Ôi Saint Germain, là thuật biến hóa,
Lửa tím giải phóng nguyên tử thăng hoa.
Ôi Saint Germain, biến chì thành vàng,
Biến cả viễn kiến mà chính con mang.  

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Tánh linh luôn luôn đứng đằng sau mọi thứ. Lời gian dối của ngã vỏ ngoài và các thày giả là bảo rằng có những điều kiện trên địa cầu xấu xa, nhục nhã, hèn hạ, vô nhân và phản tâm linh đến độ con không thể tìm được Tánh linh Minh triết trong đó.

Ôi Saint Germain, nghệ thuật vượt thăng,
Với thày con sẽ hợp nhất vĩnh hằng.
Ôi Saint Germain, thoát khỏi tâm hồn,
Ôi niềm vui sướng biết thày trong con.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Con tự do nhận đón minh triết dưới một dạng cụ thể, nhưng con nhận ra mục tiêu thực sự là chạm được tánh linh. Con tự do xuôi chảy với Tánh linh Minh triết. Chân sư Lanto, xin thày đưa con vào một cuộc hành trình nơi con chiêm nghiệm cảm giác mình đang xuôi chảy với Tánh linh Minh triết.

Ôi Saint Germain, tinh thần cao thượng,
Là chìa khoá cho hóa học tâm linh.
Ôi Saint Germain, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhận ra chính con cũng Tánh linh Minh triết, và cũng là tánh linh của cả sáu đức tính kia của Thượng đế. Hãy giúp con biết mình là một tánh linh vượt khỏi các tia sáng, một sự phối hợp của tất cả các tia sáng. Con còn là hơn thế nữa, bởi vì tia sáng có hình tướng, nhưng tánh linh thì vượt khỏi hình tướng.

Ôi Saint Germain, thày đang Hiện diện, 
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tự do Thượng đế con xin rải truyền. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm: 

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

15 | Con thỉnh cầu minh triết của Phật (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Apollo và Lumina và Peace và Aloha, Đại thiên thần Jophiel và Christine và Uriel và Aurora, và Chân sư Lanto và Nada yêu dấu, hãy giúp con chấp nhận nơi con đang đứng trên đường tu là đủ rồi, trong khi con vẫn nỗ lực bước tới. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ mọi khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Chân sư Lanto và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con sẽ thăng thiên bằng cách vượt xa hơn ngôn từ 

1.1. Chân sư Lanto, xin thày giúp con phụng sự đích thực trong một trạng thái tâm an bình. Hãy giúp con an bình nhờ đạt được minh triết biết rõ điều gì là thực và điều gì không thực, điều gì quan trọng và điều gì không quan trọng.

Apollo yêu dấu, trong tia sáng thứ hai,
Thày mở mắt con ra để con nhìn ngày mới,
Vượt lên trên khuôn đúc tư duy gây thảm bại,
Con nhìn thấu xuyên qua lừa lọc của nhị đối.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

1.2. Chân sư Lanto, xin thày giúp con thăng vượt tư duy nhị nguyên coi minh triết như cái tạo ra phân chia, và cho rằng minh triết thật đứng riêng khỏi minh triết giả trá. Hãy giúp con chiêm nghiệm mọi thứ biểu đạt qua ngôn từ đều là minh triết tương đối.

Apollo yêu dấu, trong ánh lửa con biết
Có dòng nước hằng chảy là dòng sông minh triết.
Kìa ý chí cao nhất nay con đã phát hiện,
Trầm mình trong dòng nước không bao giờ đứng yên.

Apollo yêu dấu, ánh sáng thày soi rõ
Tại sao chúng con lại hiện thân ở đây nhỉ,
Đây bầu cõi vũ trụ chúng con phải nâng cao,
Và cùng nhau hình thành mũi đầu của ngọn giáo.

1.3. Chân sư Lanto, xin thày giúp con thăng vượt xu hướng của tự ngã đòi hỏi ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của con phải xác nhận và chiều theo giáo lý vỏ ngoài. Hiện diện TA LÀ luôn tận tụy muốn con tăng trưởng, cho tới khi con thăng thiên và cả sau đó nữa.

Apollo yêu dấu, vạch trần từng dối trá,
Từng sợi dây tự ngã, giờ đây con buông bỏ,
Và hiểu ra thật sự nhận thức là chìa khóa
Để vượt qua nhị đối cho nội tâm sáng tỏ.

Apollo yêu dấu, con nghe lời thày gọi,
Ở Đại sảnh Minh triết tiếng gọi dìu con tới
.
Phơi bày những lọc lừa đã khiến mình sa ngã,
Thày giúp con tìm lại duy nhất với tất cả.

1.4. Chân sư Lanto, xin thày giúp con chấp nhận là khi con đạt mức tăng trưởng tối đa có thể đạt được với một giáo lý, Hiện diện TA LÀ sẽ trao cho con cả ánh sáng lẫn những ý tưởng vượt lên trên giáo lý.

Apollo yêu dấu, trí tuệ thày sáng rỡ,
Trong hợp nhất với thày, rắn độc con chẳng sợ,
Cái đà trong con mắt, con nay thấy lồ lộ,
Thoát khỏi vùng nhị đối, con tìm được tự do.

Apollo yêu dấu, chúng con nâng viễn kiến
Và dõi nhìn trái đất bước vào tân kỷ nguyên.
Khi mắt thày soi rọi, con tình nguyện đứng đó,
Rồi bước khỏi mê cung với uy lực thày cho.

1.5. Con sẵn sàng để cho Hiện diện TA LÀ đưa con lên cao hơn. Con sẵn sàng tra vấn giáo lý vỏ ngoài của con. Con nhận ra là nếu con không làm vậy, Hiện diện TA LÀ sẽ tiếp tục gửi ánh sáng xuống cho con, làm xáo trộn cân bằng nội tâm của con.

Ôi Elohim Peace, trong Ngọn lửa Kết hợp,
Nhị nguyên không còn chỗ để bày trò cuộc chơi, 
Con biết mọi hình tướng tuôn ra từ một cội,
Con lấy uy lực đó định ra hướng đi mới. 

Ôi Elohim Peace, hồi chuông đã vang rền,
Khiến từng hạt nguyên tử ca hát và rung lên.
Con nay thấy được rằng chẳng vật gì tách biệt,
Khi cái ngã phàm phu, con buông bỏ đoạn tuyệt. 

1.6. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra là con sẽ không thăng thiên bằng cách khiến cho toàn nhân loại đi theo một hệ thống tín ngưỡng nào đó. Con sẽ chỉ đạt được trạng thái thăng thiên bằng cách vượt xa hơn bất kỳ mọi cách biểu đạt nào trên địa cầu.

Ôi Elohim Peace, thày hãy giúp con ngộ
Rằng Giê-su giáng thế để ban con Ngọn lửa,
Rải cho ai sẵn lòng rũ hết chuyện ganh đua,
Nhập sự sống bất tận mà theo chân Ki-tô.

Ôi Elohim Peace, qua mắt thày con biết
Rằng chỉ trong cái Một con mới mong giải thoát,
Con nay bỏ lại hết ý niệm ngã riêng biệt
Khi con vượt biển cả của luân hồi trùng điệp. 

1.7. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra là con sẽ thăng thiên bằng cách thăng vượt ngôn từ và trở thành một với tánh linh. Trước hết, con trở thành một với tánh linh đằng sau mỗi tia trong bảy tia sáng. Sau đó, con trở thành một với Hiện diện TA LÀ, là tánh linh cá nhân của con.

Ôi Elohim Peace, thày chỉ con lối đi, 
Ngừng đấu đá nhị nguyên, con thông sạch tâm trí, 
Thày đâm xuyên ảo giác thời gian lẫn không gian,
Đem Hồng ân Bất tận tiêu hủy mọi phân ly. 

Ôi Elohim Peace, tên thày sao đẹp quá,
Nỗi nhị nguyên tủi hổ trong con thày giải tỏa,
Chính qua sự rung động của Ngọn lửa Hoàng kim
Mà ảo ảnh sự chết được Ki-tô nhận chìm.

1.8. Chân sư Lanto, xin thày giúp con hiểu, với tỉnh giác vỏ ngoài và tâm ý thức, sự cần thiết để cho Hiện diện TA LÀ đưa con lên cao hơn. Hãy giúp con đạt được niềm an bình bao la khi con biết mình không phải đi tranh đua với những hệ thống tín ngưỡng khác nữa.

Ôi Elohim Peace, thày đem vào thế giới  
Lửa Tái sinh Vũ trụ mà chẳng ai ngăn nổi, 
Con nay từ bỏ hẳn mọi ý niệm “cái tôi”,
Để Ánh sáng của thày trong con được chiếu rọi. 

Ôi Elohim Peace, an định thày dẫn lối, 
Cho chúng con thoát khỏi nhị nguyên gây bối rối,
Trong hợp nhất Thượng đế, con có bản sắc mới,
Và con nâng địa cầu vào vùng Vô biên giới. 

1.9. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra trong tâm ý thức rằng con không thể phán xét người khác là họ có đang tăng trưởng hay không, hay họ nên đi theo giáo lý vỏ ngoài nào. Khi con thấy mình trong thế xung đột với người khác, con không thể hợp nhất với họ. Mục đích của đường tu là hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con và hợp nhất với người khác.

Gia tốc tới Tỉnh Thức, TA LÀ có thật,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, mọi sự sống chữa lành,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, TA LÀ hơn nữa,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, tất cả sẽ vút cao.

Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Apollo và Lumina yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Jophiel và Christine yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Chân sư Lanto yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
TA LÀ yêu dấu.

2. Con sẽ nhảy bước lượng tử 

2.1. Sự hợp nhất không thể cưỡng ép. Đó là trạng thái tự nhiên xảy ra khi con vươn lên cao hơn tâm thức dùng vũ lực, và con quyết định bước vào hợp nhất trong ý thức. Con không thể lấy được quyết định này khi con còn tìm cách ép buộc người khác, hay thậm chí ép buộc chính con.

Đại thiên thần Jophiel, trong ánh sáng minh triết,
Mọi lừa dối gian xảo đã phơi bày trước mặt.
Thường thường trong tâm người, chúng tinh vi luồn lách,
Nhưng con có thày rồi, là vị thày thượng sách.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.2. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra là khi con nghĩ có một dạng minh triết cao trội hơn, thì không những con đang cố ép buộc người khác, mà con cũng ép buộc chính con. Con phải cố gượng sống theo giáo lý vỏ ngoài đó. Con phải tuân thủ giáo lý vỏ ngoài theo nghĩa đen của từng chữ, một cách đường thẳng.

Đại thiên thần Jophiel, con đón mừng minh triết,
Tấm màn của nhị nguyên, thày lấy gươm chặt đứt,
Khi được thày chỉ lối, con biết đâu là thực,
Con hóa giải tức khắc bùa mê với ngờ vực.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.3. Con đường khai ngộ là một loạt những bực đường thẳng, nhưng con không vượt qua cuộc khai ngộ mà mỗi bực thang tượng trưng bằng cách ở trong tâm thức đường thẳng. Con chỉ khai ngộ bằng cách vượt khỏi dạng tư duy đường thẳng, vượt khỏi tâm đường thẳng.

Đại thiên thần Jophiel, thực tại của thày đó,
Là liều thuốc thần diệu giải độc chất nhị nguyên,
Dối trá không thể còn khi có thày Hiện diện,
Với thày đứng bên cạnh, tà kiến con cắt liền.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.4. Mỗi bực trên đường tu đòi hỏi con nhảy một bước lượng tử, một bước chuyển hóa từ trạng thái này sang trạng thái kế tiếp. Con sẵn lòng để cho ý niệm cái ta mà con đang có ở bực này chết đi. Trong một khoảnh khắc vượt thời gian, con không còn ý niệm cố định về cái ta, rồi sau đó con được tái sinh trong một ý niệm cao hơn về cái ta.  

Đại thiên thần Jophiel, tâm Thượng đế trong con,
Con nhận trí tuệ thày, ánh sáng rạng đầu non,
Con gặp được Duy nhất khi tách biệt tiêu mòn,
Và tâm này toàn vẹn, là chiến thắng của con.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.5. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra là con đã trải qua sự chuyển hóa như vậy nhiều lần trong đời mình rồi. Rất nhiều khúc ngoặt quan trọng trong đời con là những biến cố khi con nhảy một bước lượng tử trong tâm thức. Bình thường thì con không nhìn thấy, vì tâm con tạo ra một cảm nhận liên tục.  

Đại thiên thần Uriel, với uy lực dũng mãnh,
Các thiên thần hòa bình nuốt trọn hết chiến tranh. 
Bọn quỷ dữ hung hăng không thể nào địch nổi
Ánh sáng đang thiêu chúng, lửa rực lên sáng ngời.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,  
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

2.6. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra cảm nhận liên tục này là khía cạnh cơ bản, cốt lõi của tự ngã. Khi con đạt đến tầng 144, cuộc khai ngộ mà con đối mặt để có thể thăng thiên là phải buông bỏ mọi cảm nhận liên tục. Thăng thiên không phải là một tiến triển đường thẳng từ trạng thái tâm thức chưa thăng thiên, mà là một bước nhảy lượng tử vượt lên khỏi nó.

Đại thiên thần Uriel, âm thanh vang cùng thấu,
Khi hàng triệu thiên thần góp giọng ca hợp tấu, 
Tiếng hát nâng cường độ chọc thủng qua đêm thâu,
Và mọi người bỗng thấy sự duy nhất nhiệm màu.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,  
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

2.7. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhảy bước lượng tử ở cấp thứ sáu này, bằng cách nhận ra là hoặc minh triết có thể giúp con tăng trưởng, hoặc nó có thể trở thành cái bẫy tối hậu sẽ cản trở sự tăng trưởng của con.

Đại thiên thần Uriel, từ trên Ngai Cao ngất,
Hàng triệu cái kèn đồng vang lên Âm Duy nhất, 
Tan hết mọi bất hòa trong ca khúc hài hòa,
Là âm của mọi âm, đời giải thoát mở ra.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,  
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

2.8. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra là khi đức Phật nói: “Ta tỉnh thức”, thày đang cố truyền đạt là thày đã vượt xa khỏi trạng thái tâm thức cần đến một nhãn hiệu cho mọi thứ. Đây là chìa khóa của an bình.

Đại thiên thần Uriel, mọi chiến tranh chấm dứt,
Khi thày đem thông điệp từ trái tim Duy nhất, 
Hòa bình trong tim người trổi lên thành hợp xướng
Cứ thế lớn thêm mãi trong vòng xoáy yêu thương.

Đại thiên thần Uriel, thanh gươm báu thày vung,
Đại thiên thần Uriel, đập tan hết thù hận,  
Đại thiên thần Uriel, chúng con đã đồng thuận,
Đại thiên thần Uriel, cùng Ngài con bước chân.

2.9. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra là ở một giai đoạn nào đó của đường tu, việc dán nhãn cho mọi thứ mình quan sát là điều tự nhiên. Nhưng tự ngã và các thày giả cố tình khiến con bỏ thêm vào tiến trình dán nhãn đó một sự phán xét giá trị.

Con bay với thiên thần,
Để đạt được nhiều HƠN.
Thiên thần ôi rất thật,
Tình thương sẽ chữa hết.
Với thiên thần bình an,
Muôn ray rứt phải tàn.
Với thiên thần ánh sáng,
Ta bay bổng thênh thang.

Cánh thiên thần xào xạc trong ngọn gió,
Vui vui lắm khi vật chất hát to,
Vui với từng hạt nguyên tử vo vo
Cùng hòa tấu với cánh thiên thần nhỏ.

3. Con thăng vượt mọi mong muốn cải đạo người khác 

3.1. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra là nếu con lấy một giáo lý vỏ ngoài và nhận nó làm cỗ xe mà mình đã chọn để tăng trưởng, thì đó là một điều xây dựng. Nhưng điều không xây dựng là con bám lấy sự phán xét giá trị và bảo rằng giáo lý này hay hơn mọi giáo lý khác.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.2. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra là các chân sư thăng thiên không quyết định công việc dựa trên tín ngưỡng và hành vi vỏ ngoài của học trò. Thày nhìn vào các điều kiện nội tâm của dòng sống và lượng định: Liệu dòng sống có sẵn sàng cho cuộc khai ngộ được cống hiến hay không?

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.3. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra, miễn là học viên đi theo con đường khai ngộ, thì họ có khả năng biểu lộ mức tâm thức cao hơn của mình qua rất nhiều nền văn hóa hay tín ngưỡng bên ngoài khác nhau.

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.4. Chân sư Lanto, xin thày giúp con chấp nhận thực tế đó trong tâm ý thức của con. Hãy giúp con nhận ra là con đã bị mắc kẹt trong ý tưởng là mình phải cải đạo người khác. Ý tưởng này dựng lên một khoảng cách giữa con và người khác, và tạo ra một sự căng thẳng.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.5. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhận biết sự căng thẳng đó trong tâm con. Tăng trưởng của con trên đường tu tùy thuộc vào con có vượt qua được căng thẳng nội tâm của con hay không.

Chân sư Lanto, con nay viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.6. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhận biết sự căng thẳng đó, xong con sẽ nỗ lực buông nó ra một cách ý thức. Khi con buông ra, con sẽ dễ dàng hơn để thể hiện con người mà con là, và trình bày niềm tin cùng hiểu biết tâm linh của con.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.7. Con buông bỏ mong muốn cải đạo người khác hay chứng minh là họ sai. Con chia sẻ những gì con tin, những sáng ngộ mà con đạt được, và tại sao và làm thế nào con đã đạt được những sáng ngộ đó. Con chia sẻ trong tình thương, niềm vui và nhiệt tình – là cách tốt nhất sẽ chuyển hóa người khác.

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.8. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra là con không thể an bình nếu con nghĩ con phải cải đạo người khác theo dạng minh triết cao trội của con. Con không thể an bình khi con tiếp cận dựa trên sợ hãi, xé nát tín ngưỡng của họ, khiến họ tin là tín ngưỡng của họ sai lầm và sẽ đẩy họ xuống địa ngục.

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, con đang cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.9. Con chỉ có thể hợp nhất với người khác khi con hợp nhất với Tánh linh của Minh triết. Con giúp người khác hợp nhất với Tánh linh của Minh triết, thay vì cố buộc họ phải tuân theo một cách biểu đạt vỏ ngoài về minh triết.

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4. Con là trò, Lanto là thày 

4.1. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhận ra là con đang không tỉnh thức. Con muốn thức dậy. Con muốn thăng vượt trạng thái không tỉnh thức của con. Con muốn là một trong số những người hiểu được đức Phật.

Chân sư Nada, cái đẹp quyền năng,
Nở ra như một đóa hoa tuyệt trần.
Chân sư Nada, ôi sao thâm trầm, 
Ý chí chinh phục được cả thời gian. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Con đang chia sẻ sự Hiện diện của con, bản thể của con, minh triết và sáng ngộ của con. Con đang tìm cách hợp nhất với những ai hiểu được, những ai biết trân quý, vì chính họ cũng đã đi đến một số sáng ngộ giống như con.

Chân sư Nada, thày ban cho con,
Minh triết chảy ra như dòng nước cuốn.
Chân sư Nada, tâm thày cường tráng, 
Dâng lên theo cánh bài ca thường hằng. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Con buông bỏ mong muốn cải đạo người khác theo một giáo lý hay một tổ chức vỏ ngoài của chân sư thăng thiên. Trong ý thức, con tự cho phép mình là người mà mình là, tự cho phép mình an bình và biết rằng khi mình là người mà mình là thì cũng đủ lắm rồi. Tất cả những gì con cần phải làm ở cấp này của đường tu là chia sẻ con người mà con là.

Chân sư Nada, hương thơm tuyệt hảo,
Tình thương của thày từ cõi thiên thai.
Chân sư Nada, hiền dịu từ ái, 
Nương cánh tình yêu con vươn lên hoài. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Con sẽ tiếp tục vươn lên cao hơn trên đường tu, nhưng khi con đến với cấp khai ngộ thứ sáu của Tia thứ Hai, con không thể bước lên cấp kế tiếp cho đến khi con an bình với nơi con đang đứng, và chia sẻ sáng ngộ của mình ở mức tâm thức đó – và chỉ cần vậy là đủ.

Chân sư Nada, ánh sáng Mẹ đây,
Như diều phơi phới, tim con bay nhảy.
Chân sư Nada, trong mắt của thày,
Sự sống trinh bạch như hạt sương mai. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Chân sư Lanto, xin thày giúp con giải tỏa sự mâu thuẫn bề mặt, là con tiếp tục nâng cao tâm thức mà lại thỏa mãn với nơi mình đang đứng và xem đó là đủ.  

Chân sư Nada, thày đem chân lý,
Như chim buổi sáng hát bản tình ca.
Chân sư Nada, bốn thể phàm ngã, 
Tình yêu của thày hàn gắn được cả. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra là con sẽ không thể nhảy bước lượng tử lên mức kế tiếp cho tới khi con làm hòa với sự kiện mình đang đứng ở cấp thứ sáu, là khai ngộ của an bình. Con sẽ không thể vươn lên cấp thứ bảy cho tới khi con an bình với minh triết mà mình đang có, và không tìm cách sử dụng nó với vũ lực để tạo ra xung đột.

Chân sư Nada, yên tâm phục vụ,
Bao nhiêu tình cảm giải hóa sạch rồi.
Chân sư Nada, cuộc đời hứng thú, 
Và đám rối dương* sáng như mặt trời.
(*: solar plexus) 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Con buông bỏ mong muốn áp đặt lên người khác một cách biểu đạt nhất định về minh triết. Con tự giải phóng để được bình an trong minh triết mà mình đang có. Khi con bình an trong minh triết mà con có, con cũng bình an với việc từ bỏ minh triết đó.

Chân sư Nada, tình yêu tự do,
Không còn điều kiện, không còn so đo.
Chân sư Nada, vươn lên buông bỏ
Sắc thái phàm phu tình yêu thấp nhỏ.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Chân sư Lanto, con nhìn thẳng vào mắt thày và nói: “Thưa chân sư, con muốn nhiều hơn. Con muốn mức khai ngộ kế tiếp, nhưng con an bình nơi con đang đứng, và con để cho thày quyết định xem khi nào con sẵn sàng.”

Chân sư Nada, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Nada, vươn lên rọi sáng, 
Vẻ đẹp thần thánh ôi sao huy hoàng. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Chân sư Lanto, con sẵn lòng để cho thày làm thày và con làm đệ tử. Con có sự bình an nội tâm để biết được là khi con tự đẩy mình ra khỏi tổ chim, đôi cánh của con sẽ giữ cho con bay bổng trên không trung.  

Chân sư Nada, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Hoà bình Thượng đế con xin rải truyền. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm: 

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

13 | Con thỉnh cầu thái độ thắng lợi liên tục (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Apollo và Lumina và Cyclopea và Virginia, Đại thiên thần Jophiel và Christine và Raphael và Mẹ Mary, và Chân sư Lanto và Hilarion yêu dấu, hãy giúp con thăng vượt mọi cảm giác thấy mình là bất xứng, hầu con xem hành trình tâm linh là đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ mọi khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Chân sư Lanto và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con trung thành với con đường tâm truyền 

1.1. Chân sư Lanto, xin thày giúp con đạt được minh triết để bác bỏ cuộc săn đuổi các khả năng siêu phàm của tự ngã. Con từ bỏ mong muốn mở mắt thứ ba hay chữa lành được người khác.

Apollo yêu dấu, trong tia sáng thứ hai,
Thày mở mắt con ra để con nhìn ngày mới,
Vượt lên trên khuôn đúc tư duy gây thảm bại,
Con nhìn thấu xuyên qua lừa lọc của nhị đối.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

1.2. Chân sư Lanto, xin thày giúp con phát triển khả năng của trái tim để nhận ra năng lượng đằng sau mọi hiện tượng vật lý, liệu nó đi lên hay đi xuống, hay chỉ đứng yên tại chỗ.

Apollo yêu dấu, trong ánh lửa con biết
Có dòng nước hằng chảy là dòng sông minh triết.
Kìa ý chí cao nhất nay con đã phát hiện,
Trầm mình trong dòng nước không bao giờ đứng yên.

Apollo yêu dấu, ánh sáng thày soi rõ
Tại sao chúng con lại hiện thân ở đây nhỉ,
Đây bầu cõi vũ trụ chúng con phải nâng cao,
Và cùng nhau hình thành mũi đầu của ngọn giáo.

1.3. Chân sư Lanto, xin thày giúp con phát triển sự phân biện để lượng định dòng năng lượng đằng sau những lời giảng trong các địa hạt tâm linh, chính trị, khoa học hay tôn giáo, đằng sau âm nhạc và bản tin thời sự. Hãy giúp con phát hiện khi sóng năng lượng đi lên, đi xuống, hay lên lên xuống xuống mà không dứt khoát đi theo hướng nào.

Apollo yêu dấu, vạch trần từng dối trá,
Từng sợi dây tự ngã, giờ đây con buông bỏ,
Và hiểu ra thật sự nhận thức là chìa khóa
Để vượt qua nhị đối cho nội tâm sáng tỏ.

Apollo yêu dấu, con nghe lời thày gọi,
Ở Đại sảnh Minh triết tiếng gọi dìu con tới
.
Phơi bày những lọc lừa đã khiến mình sa ngã,
Thày giúp con tìm lại duy nhất với tất cả.

1.4. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhận ra những câu nói tạo ra một dòng năng lượng hướng thượng. Hãy giúp con thấy bất kỳ câu nói nào trong vũ trụ vật chất cũng chỉ có thể phóng ra một xung lực năng lượng với tầm hạn chế.   

Apollo yêu dấu, trí tuệ thày sáng rỡ,
Trong hợp nhất với thày, rắn độc con chẳng sợ,
Cái đà trong con mắt, con nay thấy lồ lộ,
Thoát khỏi vùng nhị đối, con tìm được tự do.

Apollo yêu dấu, chúng con nâng viễn kiến
Và dõi nhìn trái đất bước vào tân kỷ nguyên.
Khi mắt thày soi rọi, con tình nguyện đứng đó,
Rồi bước khỏi mê cung với uy lực thày cho.

1.5. Chân sư Lanto, xin thày giúp con thấy bất kỳ câu nói nào cũng được đưa ra cho một tầng tâm thức nhất định. Bất kỳ câu nói nào cũng được đưa ra cho một trong 144 tầng tâm thức có mặt trên địa cầu. Mọi giáo lý trong thế gian đều có tầm giới hạn.

Cyclopea yêu dấu, thày phơi ra sự thực, 
Rằng phiền não nhị nguyên rồi sẽ được hàn gắn, 
Ánh sáng màu Lục bảo của thày như thần dược, 
Chữa lành cảm thể con cho bình an mỹ mãn.

Cyclopea yêu dấu, trong Quả cầu Lục bảo, 
Viễn kiến sao trong sáng, con nhất mực giữ gìn. 
Chúng con sẽ bền trí để nhận thức nâng cao, 
Chân lý con trân quý, ôm sâu chặt
trong tim.

1.6. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhận ra khi nào một giáo lý vỏ ngoài đưa con xa nhất trong khả năng của nó. Hãy giúp con cảm nhận khi một giáo lý bắt đầu giống như một con sóng chạy vòng vòng trên đại dương.

Cyclopea yêu dấu, con cùng thày tháo gỡ 
Những vòng xoáy tiêu cực đang phủ tâm mây mờ, 
Con biết mình cốt lõi là cái biết thuần sơ,
Là chìa khóa để thành cánh cửa luôn rộng mở.

Cyclopea yêu dấu, thanh lọc mắt bên trong, 
Uy lực đó giúp con xuyên thủng đêm trong hồn,
Xuyên tấm màn nhị nguyên, con giương cánh bay cao, 
Và tắm trong Ánh sáng thâm sâu màu Lục bảo.

1.7. Chân sư Lanto, xin thày giúp con thực sự nắm bắt được cơ chế đó bằng tâm ý thức vỏ ngoài, hầu con không đi vào ngõ cụt khi con nghĩ rằng con phải trung thành với một giáo lý, một đạo sư hay một tổ chức vỏ ngoài.

Cyclopea yêu dấu, cuộc sống chỉ phản ánh 
Những hình tướng mà tâm cứ phóng ra địa cầu, 
Giữ tâm mình trong sáng là bí quyết chữa lành, 
Không còn một tâm ảnh để ngã trốn đằng sau. 

Cyclopea yêu dấu, chúng con nhắm thật cao, 
Ngày càng xích lại gần với ngọn lửa hàn gắn,
Nay con nhìn cuộc sống với con mắt thuần đơn,
Vượt lên trên bệnh tật, con sẽ bay cao hơn.

1.8. Chân sư Lanto, xin thày giúp con buông bỏ một giáo lý, một đạo sư hay một tổ chức mà không bị phản ứng tiêu cực. Hãy giúp con chấp nhận là giáo lý đó không bao giờ có ý đưa con lên cao hơn. Hãy giúp con nhìn xem có phải tự ngã đã khiến con diễn giải giáo lý đó là hứa hẹn suông.

Cyclopea yêu dấu, Lửa Lục bảo phanh phui 
Từng trò chơi quyền lực tinh vi của nhị đối, 
Kể cả âm mưu cũ là trò chơi gian dối, 
Cứ định nghĩa chân lý theo một cách mà thôi.

Cyclopea yêu dấu, dòng chảy con cảm được, 
Của Chân lý Hằng sống mà thày ban liên tục, 
Con biết chân lý vượt mọi hệ thống dưới này, 
Con bơi trong ánh sáng và tăng trưởng gấp mấy. 

1.9. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhận ra là một giáo lý chỉ nhằm đưa con tới một mức nào đó thôi. Khi nó làm xong phận sự, đây là lúc con cần hòa điệu với điều này. Đây là trách nhiệm của con hòa điệu với điều này, rồi con cần lấy quyết định tiến bước.

Gia tốc tới Tỉnh Thức, TA LÀ có thật,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, mọi sự sống chữa lành,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, TA LÀ hơn nữa,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, tất cả sẽ vút cao.

Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Apollo và Lumina yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Jophiel và Christine yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Chân sư Lanto yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
TA LÀ yêu dấu.

2. Con đạt được viễn quan của Tia thứ Năm 

2.1. Khi đệ tử sẵn sàng thì thày xuất hiện. Con sẵn sàng buông bỏ giáo lý hiện hữu và mở tâm ra để nhận chỉ đạo nội tâm từ cái ta Ki-tô cùng các chân sư thăng thiên. Con hòa điệu tâm vỏ ngoài của con, và con biết với tâm vỏ ngoài là con đã nhận được chỉ đạo mới.

Đại thiên thần Jophiel, trong ánh sáng minh triết,
Mọi lừa dối gian xảo đã phơi bày trước mặt.
Thường thường trong tâm người, chúng tinh vi luồn lách,
Nhưng con có thày rồi, là vị thày thượng sách.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.2. Chân sư Lanto, xin thày giúp con mở mang ý thức về dòng chảy năng lượng trong năng trường của con. Hãy giúp con cảm nhận những nơi trong tâm thức có những cái móc buộc con lại với một giáo lý trên địa cầu.

Đại thiên thần Jophiel, con đón mừng minh triết,
Tấm màn của nhị nguyên, thày lấy gươm chặt đứt,
Khi được thày chỉ lối, con biết đâu là thực,
Con hóa giải tức khắc bùa mê với ngờ vực.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.3. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra tại sao con bị lôi kéo về mọi hướng. Hãy giúp con nhìn ra những gì con chưa buông bỏ, và tại sao con không thể xuôi chảy với Dòng sông sự Sống.

Đại thiên thần Jophiel, thực tại của thày đó,
Là liều thuốc thần diệu giải độc chất nhị nguyên,
Dối trá không thể còn khi có thày Hiện diện,
Với thày đứng bên cạnh, tà kiến con cắt liền.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.4. Chân sư Lanto, con muốn được tự do khỏi mọi ràng buộc với quá khứ hay mọi vật vỏ ngoài trên địa cầu. Con sẵn sàng nhìn thấy những dây buộc đó bằng tâm ý thức, và quyết định cắt đứt dây buộc một cách ý thức.

Đại thiên thần Jophiel, tâm Thượng đế trong con,
Con nhận trí tuệ thày, ánh sáng rạng đầu non,
Con gặp được Duy nhất khi tách biệt tiêu mòn,
Và tâm này toàn vẹn, là chiến thắng của con.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.5. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra những sợi dây trói buộc con, và cắt đứt chúng ở mức thể bản sắc, lý trí và cảm xúc. Con chấp nhận trách nhiệm của con là cắt đứt chúng ở mức tâm ý thức. Con sẵn sàng phát triển tỉnh giác ý thức, sẵn sàng nỗ lực ý thức và quyết định ý thức.   

Đại thiên thần Raphael, thày sáng rỡ làm sao, 
Thày nâng con lên khỏi tuồng sân khấu cuộc đời. 
Mẹ Mary và thày, viễn quan sao táo bạo, 
Muốn con đạt tiềm năng cao nhất có thể với. 

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

2.6. Khi con cắt đứt những dây buộc này một cách ý thức, con có cảm giác tự do rất mới, cảm giác được chữa lành khỏi vết thương và mâu thuẫn cũ. Con biết rõ tự ngã và thày giả cố khiến con muốn đóng tâm ý thức lại trước những sáng ngộ mà con đã gặt hái ở các thể cao của tâm con. Nhưng con sẽ buông ra và bước tới.

Đại thiên thần Raphael, trong quả cầu lục bảo, 
Niệm tinh khôi con giữ cho mãi mãi thanh cao, 
Mẹ Mary bao bọc, ôm con trong Tim Thánh, 
Không bao giờ xa cách trong tình Mẹ chân thành.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

2.7. Con tiến về phía trước và con thực sự được chữa lành. Con chữa lành những phân rẽ đã kéo tâm con ra mọi phía. Con đạt được viễn quan cao là dấu ấn của Tia thứ Năm.

Đại thiên thần Raphael, mọi đau ốm trị lành, 
Từng tế bào trong thân niêm lại trong ánh sáng, 
Chợt thấy niệm tinh khôi của đức Mẹ Mary, 
Con sống hiện thực mới là sức khỏe thần kỳ.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

2.8. Khi con đạt được viễn quan này, con cảm thấy toàn vẹn. Khi con toàn vẹn, con là cánh cửa mở để chữa lành tha nhân. Chân sư Lanto, hãy chỉ con cách dùng minh triết để chữa lành vết thương của con, chữa lành cho người khác, bằng cách dùng lý lẽ với người khác và với chính con.

Đại thiên thần Raphael, ánh sáng vô cùng thực, 
Lộ ra cho con thấy Ki-tô trong thần thức, 
Mẹ Mary đang giúp để con thăng liên tục, 
Cùng thày con thăng lên trong ánh sáng bảo lục.

Đại thiên thần Raphael, con cầu nguyện viễn kiến. 
Đại thiên thần Raphael, chỉ đường cho con tiến. 
Đại thiên thần Raphael, tia lục bảo sáng ngời.
Đại thiên thần Raphael, đời con mở ngày mới.

2.9. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra mục đích thật sự của những bài truyền đọc do các chân sư thăng thiên ban truyền, là cho con những dụng cụ để lý luận với chính mình ở mức tâm ý thức.

Con bay với thiên thần,
Để đạt được nhiều HƠN.
Thiên thần ôi rất thật,
Tình thương sẽ chữa hết.
Với thiên thần bình an,
Muôn ray rứt phải tàn.
Với thiên thần ánh sáng,
Ta bay bổng thênh thang.

Cánh thiên thần xào xạc trong ngọn gió,
Vui vui lắm khi vật chất hát to,
Vui với từng hạt nguyên tử vo vo
Cùng hòa tấu với cánh thiên thần nhỏ.

3. Con chấp nhận là con được chữa lành 

3.1. Khi con tìm hiểu một bài truyền đọc, con nhận được ánh sáng tâm linh, và ánh sáng này bắt đầu tạo ra biến đổi trong năng trường của con. Con cũng nhận được kiến thức vỏ ngoài dưới dạng ngôn từ. Hoặc ngôn từ khuấy lên điều gì đó trong con, hoặc nó tạo ra một phản ứng kháng cự lại.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.2. Chân sư Lanto, khi con có cảm giác kháng cự này, con thấy đó là cơ hội cho con sử dụng giáo lý để lý luận với chính mình. Khi con cảm thấy có kháng cự hay có thắc mắc chưa giải đáp liên quan đến lời dạy, con có trách nhiệm phải khám phá xem kháng cự đó có nghĩa là gì.

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.3. Chân sư Lanto, xin thày giúp con hòa điệu với tánh linh đằng sau ngôn từ, hầu con sử dụng làm khung tham chiếu để phơi bày ảo tưởng của tự ngã và các thày giả, là những ảo tưởng cố khiến con bác bỏ hiểu biết cao hơn.

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.4. Chân sư Lanto, xin thày giúp con tra vấn từng vấn đề, đi sâu hơn và sâu hơn nữa. Hãy giúp con dùng lý luận với chính mình để làm sáng tỏ khía cạnh nào của tự ngã, phàm linh nào trong tâm thức, đang chống cự lại lời dạy.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.5. Chân sư Lanto, xin thày giúp con phơi bày phàm linh. Hãy giúp con phơi bày niềm tin đã tạo ra phàm linh, cái ảo tưởng nhị nguyên cụ thể đã tạo ra phàm linh. Hãy giúp con chiêm nghiệm được ảo tưởng, và khi con chiêm nghiệm ảo tưởng, con buông bỏ nó một cách tự nhiên.

Chân sư Lanto, con nay viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.6. Chân sư Lanto, con nhận trách nhiệm của con với tư cách là đệ tử của chân sư thăng thiên. Con biết việc đọc một cuốn sách và thực tập các bài thỉnh sẽ không đi ngược lại quyền tự quyết của con. Con sẽ nhìn vào cái xà, cái phàm linh trong mắt con, một cách ý thức và cố tình.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.7. Chân sư Lanto, con sẽ tiếp tục xem xét ảo tưởng từ nhiều góc độ, tra vấn chúng với đủ loại câu hỏi, cho đến khi con nhìn ra cái tin tưởng cốt lõi nằm đằng sau ảo tưởng. Khi con nhìn nó trong ánh sáng của sự thật Ki-tô, con thấy là nó không thực, nó là một ảo tưởng. Ngay khi đó, buông nó ra không khó khăn gì cho con.

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.8. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhận ra và chấp nhận là để chữa lành, con phải buông bỏ trạng thái không lành lặn. Con buông bỏ cảm nhận là mình không lành lặn. Con bước vào trạng thái của tâm nơi con lành lặn, nơi con trọn vẹn.

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, con đang cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.9. Chân sư Lanto, xin thày giúp con buông bỏ căn bệnh hay ảo tưởng bằng cách nhìn qua tâm Ki-tô. Con sẽ đạt được viễn kiến Ki-tô bằng cách thách đố các ảo tưởng một cách ý thức và có hệ thống, và bước vào những vùng sâu thẳm, cho tới khi con phát hiện niềm tin đang ngăn không cho con xuôi chảy với Dòng sông sự Sống.  

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4. Con lấy thái độ thắng lợi liên tục  

4.1. Sự trọn vẹn đến từ việc buông bỏ cảm nhận thấy mình thiếu sót. Con buông bỏ giấc mơ tìm được một chân lý tối hậu, hay công thức tối hậu, hay khả năng tối hậu nào đó. Không có gì trong thế giới vật chất là tối hậu. Không có gì là cuối cùng. Không có gì là kết liễu. Mọi thứ đều là Dòng sông sự Sống không ngừng tuôn chảy.

Hilarion, trên bờ lục bảo, 
Con đã bỏ lại mọi chuyện đã qua.
Hilarion, con đã buông cả 
Mọi điều ngăn chặn dòng thánh chảy ra. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Chân sư Lanto, xin thày giúp con thực sự thể nhập được sự thật này, và khiến cho đường tu khai ngộ dưới bảy tia sáng dễ dàng hơn. Hãy giúp con cảm thấy mình đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác mỗi lần mình vượt qua một khai ngộ.   

Hilarion, chìa khóa bí mật, 
Nằm ngay thực tại của tâm minh triết.
Hilarion, sự sống chữa lành,
Ngã vốn giấu mặt không còn lẩn tránh.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Chân sư Lanto, xin thày giúp con chấp nhận là thày không phán xét con theo cách mà con tự phán xét mình. Con thấy vai trò của thày không phải là đưa con đến mức khai ngộ tối hậu, mà là dẫn con đi qua bảy cấp được biểu tượng qua các khai ngộ của Tia thứ Hai, rồi giúp con đi tiếp tới Tia thứ Ba.

Hilarion, tình yêu sự sống, 
Giúp con bỏ lại ray rứt bên trong.
Hilarion, lời thày trìu mến,
Như chim ca hót tim con vang rền. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Chân sư Lanto, con chấp nhận là thày không nhìn con như một học trò bất xứng. Thày nhìn con trong ánh sáng tích cực. Thày nhìn con như một đệ tử đã đạt được thắng lợi khi vượt qua bảy cuộc khai ngộ dưới thày MORE và Tia thứ Nhất.

Hilarion, thỉnh cầu ánh sáng, 
Con đọc từng chữ bài chú linh thiêng.
Hilarion, giọng ngân u huyền, 
Là pháp tuyệt hảo của đá luyện vàng. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Chân sư Lanto, con thấy là thày nhìn con như đã đạt được một thắng lợi quan trọng ngay cả trước khi con bước vào khóa của thày. Khi con vượt qua mức khai ngộ đầu tiên, con đạt thêm một thắng lợi nữa, và cứ thế. Khi con tới khai ngộ chót trong khóa này, con đạt được điều mà thày xem là thắng lợi cao nhất ở mức khai ngộ của thày, và thày vui mừng gửi con lên tầng kế tiếp.

Hilarion, thương yêu đón chào, 
Nơi đền đảo Crete thày gọi con ra.
Hilarion, ánh sáng lục bảo,
Cái nhìn Ki-tô là mắt thứ ba.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Chân sư Lanto, con thấy không hề có thất bại, không hề có thiếu sót. Khi con nhập khóa của thày, con đã vượt qua các khai ngộ của Tia thứ Nhất, và chắc chắn đó là một thắng lợi.

Hilarion, thày ban cho con
Quả trái tuyệt vời chân lý tối thượng.
Hilarion, căng thẳng giảm xuống
Khi con nhả hết tham vọng vấn vương.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Chân sư Lanto, xin thày giúp con thăng vượt bất kỳ cảm nhận bất xứng nào. Con chấp nhận là con đã thắng lợi khi vượt qua các khai ngộ khó khăn và nghiêm ngặt của Tia thứ Nhất. Và khi con vượt qua các khai ngộ của Tia thứ Hai, đây cũng là một thắng lợi.

Hilarion, thông sạch luân xa, 
Nỗi sợ sâu nhất, con đã buông xả.
Hilarion, con luôn thật thà, 
Sự thật giải thoát con hằng thiết tha. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Con sẵn sàng chiêm nghiệm Tánh linh Sự thật vượt khỏi mọi câu nói về sự thật. Con tiến bộ nhanh chóng và con vượt qua cấp khai ngộ thứ năm của Tia thứ Hai.

Hilarion, thày sẽ quân bình 
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Hilarion, giữ con thực lòng,
Để con hợp nhất với thày bên trong.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Con sẵn sàng dùng lý luận với chính mình, và tra vấn tại sao tự ngã lại tìm kiếm chân lý tối hậu. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra niềm tin khiến con dễ rơi vào cuộc tìm kiếm vô vọng đó. Hãy giúp con đạt được điểm sáng tỏ trong tâm, nơi con quyết định buông bỏ một cách tự nhiên.

Hilarion, thày đang Hiện diện, 
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm.
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Viễn quan Thượng đế con xin rải truyền. 

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm: 

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

11 | Con thỉnh cầu động lực tinh khiết khi tìm minh triết (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Apollo và Lumina và Purity và Astrea, Đại thiên thần Jophiel và Christine và Gabriel và Hope, và Chân sư Lanto và Serapis Bey yêu dấu, hãy giúp con thăng vượt mọi động cơ xuất phát từ tự ngã muốn tìm cầu minh triết và sử dụng để ép buộc hay khoa trương người khác. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ mọi khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Chân sư Lanto và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con tìm thấy sự an toàn không ngừng thay đổi 

1.1. Chân sư Lanto, xin thày giúp con có ý định rõ ràng khi con sử dụng minh triết. Hãy giúp con nhìn thấu và buông bỏ sự tìm cầu của tự ngã để có an toàn, và mong muốn của tự ngã để tìm một dạng minh triết không thể sai lầm.

Apollo yêu dấu, trong tia sáng thứ hai,
Thày mở mắt con ra để con nhìn ngày mới,
Vượt lên trên khuôn đúc tư duy gây thảm bại,
Con nhìn thấu xuyên qua lừa lọc của nhị đối.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

1.2. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra xu hướng của tự ngã quả quyết là con dùng minh triết với động cơ cao nhất, và vì lợi ích của người khác, vì một đại nghĩa nào đó, mà con cố ép buộc minh triết của con lên người khác.

Apollo yêu dấu, trong ánh lửa con biết
Có dòng nước hằng chảy là dòng sông minh triết.
Kìa ý chí cao nhất nay con đã phát hiện,
Trầm mình trong dòng nước không bao giờ đứng yên.

Apollo yêu dấu, ánh sáng thày soi rõ
Tại sao chúng con lại hiện thân ở đây nhỉ,
Đây bầu cõi vũ trụ chúng con phải nâng cao,
Và cùng nhau hình thành mũi đầu của ngọn giáo.

1.3. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra cái mà tự ngã gọi là minh triết tuyệt đối chỉ hoàn toàn tương đối. Nó hoàn toàn tùy thuộc vào những gì tự ngã đã chấp nhận, cùng ý niệm an toàn mà tự ngã đã tạo dựng.

Apollo yêu dấu, vạch trần từng dối trá,
Từng sợi dây tự ngã, giờ đây con buông bỏ,
Và hiểu ra thật sự nhận thức là chìa khóa
Để vượt qua nhị đối cho nội tâm sáng tỏ.

Apollo yêu dấu, con nghe lời thày gọi,
Ở Đại sảnh Minh triết tiếng gọi dìu con tới
.
Phơi bày những lọc lừa đã khiến mình sa ngã,
Thày giúp con tìm lại duy nhất với tất cả.

1.4. Chân sư Lanto, xin thày giúp con trong tư cách là cái Ta Biết, chiêm nghiệm sự nhận biết thuần khiết, và nhận ra bản chất của con là một trạng thái an toàn tuyệt đối – không theo nghĩa là không thay đổi, mà theo nghĩa luôn luôn tự thăng vượt.

Apollo yêu dấu, trí tuệ thày sáng rỡ,
Trong hợp nhất với thày, rắn độc con chẳng sợ,
Cái đà trong con mắt, con nay thấy lồ lộ,
Thoát khỏi vùng nhị đối, con tìm được tự do.

Apollo yêu dấu, chúng con nâng viễn kiến
Và dõi nhìn trái đất bước vào tân kỷ nguyên.
Khi mắt thày soi rọi, con tình nguyện đứng đó,
Rồi bước khỏi mê cung với uy lực thày cho.

1.5. Chân sư Lanto, xin thày giúp con chiêm nghiệm cốt lõi của bản thể con là cái bất biến – tức là sự nhận biết. Con đang nối kết với nhận biết bất biến này. Con tìm thấy an toàn trong sự vượt thăng liên tục những biểu thị vỏ ngoài của nhận biết.

Astrea yêu dấu, tim của thày thực chân,
Vòng tròn và Gươm báu của thày xanh và trắng,
Chém phăng dây buộc trói của bi kịch vô minh,
Để hành tinh dâng mãi trên đôi cánh Thanh tịnh.

Astrea yêu dấu, trong Thanh tịnh Thượng đế,
Xin gia tốc năng lượng cho đời con tràn trề,
Nâng cao tâm c
ủa con vào hợp nhất chân thực
Với Chân sư yêu dấu của tình thương Vô cực.

1.6. Con không cần phải dừng Dòng sông của sự Sống hầu cảm thấy an toàn. Con cảm thấy an toàn khi con xuôi chảy với nó. Đây là sự an toàn tuyệt đối hay tối hậu, nhưng là an toàn do con tự thăng vượt. Đó là an toàn luôn luôn tuôn chảy.

Astrea yêu dấu, từ Tia sáng Thuần khiết,
Mọi sự sống hôm nay, thày giải thoát thấu triệt.
Khi thanh tịnh gia tốc thì con là tự do,
Khỏi luyến ái ô trọc, con thăng lên buông bỏ.

Astrea yêu dấu, con là một với thày,
Vòng tròn và kiếm báu màu trắng xanh xanh ngắt,
Chặt xuyên qua tất cả bằng Ánh sáng Trinh bạch, 
nâng cao trong con mọi chân lý đẹp thay. 

1.7. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra là nếu con càng cố duy trì an toàn vỏ ngoài cho tự ngã, con sẽ phóng ra càng nhiều xung năng lượng về tấm gương vũ trụ. Các xung năng lượng này sẽ gửi trả về dưới hình thức những điều kiện sẽ đe dọa cảm giác an toàn của tự ngã.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc chúng con,
Thày ra tay giải cứu, con thành khẩn cầu mong,
Vượt quan điểm ô trọc, tất cả sẽ thênh thang,
Bỏ nghi ngờ sợ hãi, con nhất định vượt thăng.

Astrea yêu dấu, con sẵn sàng nhìn rõ
Vào mọi lời gian dối khiến con mất tự do.
Con
đang vượt lên trên từng ô uế bợn nhơ,
Để Ánh sáng Thanh tịnh hoài hoài trong con tỏ.

1.8. Cho nên con sẽ phải phóng ra xung lực mạnh hơn nữa để chống lại lực phản hồi, và điều này chỉ khiến cho phản hồi càng mạnh thêm. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra sự sai lầm của cách thức này trước khi con bị gục ngã dưới áp lực căng thẳng.

Astrea yêu dấu, xin gia tốc sự sống,
Vượt lên trên nhị nguyên, hiềm khích và tấn công,
Xóa hết mọi ranh giới giữa Thượng đế và người,
Ý toàn hảo của Ngài, mau hoàn tất xinh tươi.

Astrea yêu dấu, con trìu mến thỉnh gọi,
Cho cái vách vô hình của ngăn cách đổ rơi,
Nay con đã buông bỏ mọi lọc lừa sa ngã,
Và mãi mãi khẳng định duy nhất của Tất Cả.

1.9. Chân sư Lanto, con buông bỏ mọi khuynh hướng sử dụng minh triết như một loại vũ lực để xây đắp an toàn cho tự ngã.

Gia tốc tới Tỉnh Thức, TA LÀ có thật,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, mọi sự sống chữa lành,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, TA LÀ hơn nữa,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, tất cả sẽ vút cao.

Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Apollo và Lumina yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Jophiel và Christine yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Chân sư Lanto yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
TA LÀ yêu dấu.

2. Con mở ra cho dòng chảy của tánh linh 

2.1. Gia tốc có nghĩa là con vượt lên trên việc tích tụ quyền năng ở một mức nào đó. Con đang gia tốc độ rung của mình lên một mức cao hơn, nơi con không còn cảm thấy những năng lượng thấp mà con đã tạo ra trong quá khứ, khi chúng được tấm gương vũ trụ gửi trở lại.

Đại thiên thần Jophiel, trong ánh sáng minh triết,
Mọi lừa dối gian xảo đã phơi bày trước mặt.
Thường thường trong tâm người, chúng tinh vi luồn lách,
Nhưng con có thày rồi, là vị thày thượng sách.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.2. Năng lượng thấp chạy xuyên thẳng qua con. Chúng không đáng kể gì với con. Chúng không dính dáng gì đến kinh nghiệm sống của con. Đây là gia tốc đích thực. Có sự an toàn trong đó, vì con vượt lên trên quá khứ.

Đại thiên thần Jophiel, con đón mừng minh triết,
Tấm màn của nhị nguyên, thày lấy gươm chặt đứt,
Khi được thày chỉ lối, con biết đâu là thực,
Con hóa giải tức khắc bùa mê với ngờ vực.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.3. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra là minh triết, các hệ tư tưởng do tự ngã tạo ra, thực sự là tương đối. Chúng tương đối vì chúng tùy thuộc vào tâm thức nhị nguyên, và do đó chúng có đối cực.

Đại thiên thần Jophiel, thực tại của thày đó,
Là liều thuốc thần diệu giải độc chất nhị nguyên,
Dối trá không thể còn khi có thày Hiện diện,
Với thày đứng bên cạnh, tà kiến con cắt liền.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.4. Cái gì tương đối thì không là minh triết tuyệt đối. Chân sư Lanto, xin thày giúp con chiêm nghiệm sự nhận biết thuần khiết, cho tới khi con tìm thấy an toàn nội tâm thay vì an toàn vỏ ngoài của một hệ thống tin tưởng tuyệt đối hay không thể sai lầm.

Đại thiên thần Jophiel, tâm Thượng đế trong con,
Con nhận trí tuệ thày, ánh sáng rạng đầu non,
Con gặp được Duy nhất khi tách biệt tiêu mòn,
Và tâm này toàn vẹn, là chiến thắng của con.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.5. Chân sư Lanto, xin thày giúp con trải nghiệm trực tiếp tánh linh của Thượng sư Tia thứ Hai. Con đang mở tâm ra để Tánh linh của Tia thứ Hai chảy qua tâm con. Con đang chiêm nghiệm tánh linh này, là tánh linh được biểu hiện qua con.

Đại thiên thần Gabriel, ánh sáng con kính mến,
Chẳng còn gì sợ hãi, trầm mình trong Hiện diện,
Làm đệ tử Ki-tô nay con đã thật quên
Tự ngã với tham vọng đáp trả miếng từng miếng.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.6. Chân sư Lanto, con đang dùng lời mô tả của thày làm bàn đạp để mở tâm ra cho kinh nghiệm trực tiếp. Con buông bỏ dính mắc của tự ngã vào một lời biểu đạt minh triết nhất định. Biểu đạt minh triết chỉ là sự mô tả. Nó chỉ có giá trị khi con sử dụng để mở tâm ra và trực tiếp kinh nghiệm tánh linh đằng sau ngôn từ.

Đại thiên thần Gabriel, con không sợ ánh sáng,
Trong lửa trắng thanh tẩy, sao con thấy rộn ràng,
Tay con trong tay thày, mỗi thử thách trực diện
Là ân huệ không ngớt để con cứ theo lên.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.7. Thượng đế không tĩnh tại. Thượng đế là tánh linh không ngừng tuôn chảy, không ngừng tự thăng vượt. Con buông bỏ khoảng cách giữa con và tánh linh, Con bước vào chứng ngộ với tánh linh. Con trở thành cánh cửa mở để tánh linh chảy qua con.

Đại thiên thần Gabriel, lửa trắng thày thiêu cháy,
Bước ra khỏi đêm tối, con thăng lên cùng thày.
Chẳng còn một nơi chỗ cho tự ngã trốn chạy,
Con trụ vững trong thày, thăng thiên theo ốc xoáy.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.8. Con cho phép tánh linh chảy qua con bằng cách buông bỏ mọi khuynh hướng đòi hỏi tánh linh phải phù hợp, hay phải chứng thực cho bất kỳ lời biểu đạt nào trên địa cầu. Con buông bỏ mọi khuynh hướng áp đặt một hạn chế trên tánh linh. Con cho phép tánh linh chảy tự do.

Đại thiên thần Gabriel, con nghe thấy tiếng kèn,
Báo hiệu ngày đản sanh của Ki-tô gần đến.
Trong bản thể nhẹ nhõm con đang được tái sinh,
Cùng Ki-tô con bước vào buổi sáng Phục sinh.

Đại thiên thần Gabriel, điều này con chắc chắn,
Đại thiên thần Gabriel, Ki-tô sẽ chữa lành,
Đại thiên thần Gabriel, khi ý định trong sáng,
Đại thiên thần Gabriel, trong thày con an toàn. 

2.9. Chân sư Lanto, con đi theo lời biểu đạt của thày cho tới cội nguồn của nó. Con chiêm nghiệm tánh linh của thày, và con tự gia tốc khỏi mức nhị nguyên.

Con bay với thiên thần,
Để đạt được nhiều HƠN.
Thiên thần ôi rất thật,
Tình thương sẽ chữa hết.
Với thiên thần bình an,
Muôn ray rứt phải tàn.
Với thiên thần ánh sáng,
Ta bay bổng thênh thang.

Cánh thiên thần xào xạc trong ngọn gió,
Vui vui lắm khi vật chất hát to,
Vui với từng hạt nguyên tử vo vo
Cùng hòa tấu với cánh thiên thần nhỏ.

3. Con đang nâng cao động cơ của con khi tìm minh triết 

3.1. Chân sư Lanto, xin thày giúp con ngộ ra bản chất của con đường khai ngộ. Ở mỗi bước, nhiệm vụ của con là bước đi bước kế tiếp, để vượt qua khai ngộ tiếp theo sau. Con sẵn lòng đạt được minh triết sẽ thách đố hộp tư duy hiện thời của mình, hầu con tự gia tốc vượt khỏi nó.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.2. Minh triết cao nhất luôn là minh triết mà con có thể nắm bắt với mức tâm thức hiện tại, nhưng vẫn có khả năng gia tốc con lên mức kế tiếp. Minh triết này tương đối so với mức tâm thức hiện thời của con và mức tâm thức ở ngay bên trên.

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.3. Con buông bỏ mong muốn của tự ngã nhằm đạt được một dạng minh triết tối hậu nào đó, rồi chạy quanh khoa trương minh triết vượt bực của mình cho người khác.

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.4. Con không cho tâm ý thức của mình quay sang trạng thái sợ hãi. Con sẽ đón nhận những ý tưởng có thể đưa con lên tầng tâm thức kế tiếp.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.5. Con buông bỏ mong muốn đi tìm giáo lý tối thượng, và như vậy con cũng thăng vượt lòng sợ hãi nhận giáo lý giả trá. Con sẽ không quá sợ hãi nhận ý tưởng giả trá đến độ con không dám xem đến những ý tưởng chính đáng. Con sẽ không quá sợ hãi hàng ngũ tà đạo đến độ con khép tâm mình lại đối với các vị thày chân chính là chân sư thăng thiên.

Chân sư Lanto, con nay viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.6. Ý định của con khi thu hoạch minh triết là thăng vượt mức tâm thức hiện thời của mình. Con chỉ có thể làm vậy bằng một cách mà thôi, là bắt liên lạc trực tiếp với những vị thày tâm linh vượt trên mức hiện thời của con.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.7. Con buông bỏ mong muốn tìm cầu phép thuật sẽ cho con sự điều ngự tự động, là sự điều ngự giả trá của những kẻ tìm cách chiếm đoạt thiên đàng bằng vũ lực. Con sẵn sàng để cho ngã phát xuất từ tự ngã chết đi. Con sẵn sàng nhìn vào cái xà nơi mắt mình. Con sẵn sàng buông bỏ tự ngã.

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.8. Con là một đệ tử chân chính. Con muốn nâng mình lên trước tiên, nhưng con cũng muốn nâng cao mọi sự sống. Con nâng cao ý định của con, và con đi tìm minh triết để gia tốc chính mình lên tầng tâm thức kế tiếp.

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, con đang cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.9. Con cố đạt minh triết sẽ giúp tạo cảm hứng cho người khác. Con nhìn mọi người một cách cởi mở và trung thực, và con xét xem họ đang ở đâu trên mặt tâm thức. Con tìm cách trao cho họ một điều gì đó sẽ đưa họ lên một nấc cao hơn.

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4. Trên đường tu không có thất bại 

4.1. Con chọn lựa một cách ý thức là con muốn tánh linh nhiều hơn bất cứ gì khác. Bằng cách gia tốc ý định và sẵn lòng không ngừng gia tốc ý định của mình, con đang tự gia tốc khỏi những kẻ mạo danh trong hàng ngũ tà đạo và giáo lý giả trá của họ.

Serapis Bey, biết bao uy lực
Đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.
Serapis Bey, ôi niềm hạnh phúc
Được vào nhập thất tuyệt diệu ở đây.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Nếu con không ngừng nỗ lực tự gia tốc, thì đâu có vấn đề gì nếu con lỡ chấp nhận một giáo lý giả trá? Vì sau đó con sẽ nhìn ra là nó giả trá, và khi con thấy là nó giả trá, con đã tự gia tốc và đạt được phân biện.

Serapis Bey, nhờ có minh triết
Mà lời thày nói mới thật uyên thâm,
Serapis Bey, con muốn thày biết
Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Tiến trình thăng thiên là khi con khám phá một ngàn cách để không trở thành một chân sư thăng thiên. Bởi vì mỗi lần con phát hiện một cách không khiến con trở thành chân sư thăng thiên, con đã bước cao hơn một bực. Cuối cùng sẽ đến mức con có thể phát hiện cách độc nhất để trở thành chân sư thăng thiên – thì ngay lúc đó, con một chân sư thăng thiên.

Serapis Bey, tình thương bát ngát,
Tim con hưởng ứng cũng nhảy lên cao, 
Serapis Bey, bài thơ thanh thoát
Gọi con về nhà ở những vì sao.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Trên đường tu thăng thiên, không có chuyện thử nghiệm thất bại. Cho dù nó có đem lại kết quả hay không, con có thể học hỏi từ đó và tự gia tốc lên một mức tâm thức cao hơn.

Serapis Bey, vững tay dìu dắt,
Nơi gốc tinh sạch màu trắng trong vắt.
Serapis Bey, không còn vướng mắc
Vào bẫy tâm hồn cái ta giam chặt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Chân sư Lanto, con nhìn nhận thày là Thượng sư của Tia sáng thứ Hai, vì thày là một với tánh linh của Tia thứ Hai.

Serapis Bey, là toa thần dược,
Hàn gắn tâm con luôn được yên tĩnh,
Serapis Bey, ý tưởng thanh tịnh,
Kỷ luật làm sao con cũng chịu được.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Chân sư Lanto, con nhìn nhận thày chính là Tia thứ Hai. Thày đã tự nâng mình lên tới mức thày không còn xem mình là một với Tia thứ Hai, vì thày là Tia thứ Hai!

Serapis Bey, thử thách bí mật
Cho những tự ngã cứ ham đứng nhất.
Serapis Bey, xin thày phơi ra
Mọi nét trong con chưa đủ hài hòa.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Chân sư Lanto, con nhìn nhận thày vị đại diện của Tia thứ Hai cho địa cầu. Không có ai khác. Không có tánh linh nào tuôn chảy qua thày.

Serapis Bey, vui mừng biết bao,
Được thấy cái ta thăng cõi linh cao.
Serapis Bey, đời đời giải thoát,
Tất cả linh ứng xảy ra đồng loạt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Chân sư Lanto, con nhìn nhận thày chính là tánh linh đang tuôn chảy, và con sẵn lòng để cho tánh linh của thày tuôn chảy qua con. Con đang mở con ra cho dòng chảy sẽ giúp con thăng vượt mức hiện tại bằng cách thách đố hộp tư duy hiện thời của con.

Serapis Bey, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Trong cõi không gian và cõi thời gian,
Con leo đỉnh tháp cái ta nhiều tầng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Chân sư Lanto, con sẵn lòng bị thách đố, và thày cũng sẵn lòng thách đố. Cả hai chúng ta sẽ chảy lên một mức cao hơn, chúng ta có thể gia tốc lên một mức tinh khiết cao hơn, một biểu đạt minh triết luôn luôn tinh khiết hơn nữa. Con là một với tánh linh của Tia thứ Hai là Lanto!

Serapis Bey, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Trinh nguyên Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm: 

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

9 | Con thỉnh cầu động lực dựa trên tình thương (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Apollo và Lumina và Heros và Amora, Đại thiên thần Jophiel và Christine và Chamuel và Charity, và Chân sư Lanto và Paul người Venice yêu dấu, hãy giúp con thanh lọc động lực của con cho không còn tình thương chiếm hữu, và phát huy một động lực dựa trên tình thương biểu hiện cá thể Thiêng liêng của con. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ mọi khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Chân sư Lanto và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con yêu minh triết hơn tự ngã 

1.1. Chân sư Lanto, xin giúp con bước sâu vào bên trong, và nối kết lại với tình thương vượt khỏi hộp tư duy hiện thời của con, là tình thương đã khiến cái Ta Biết hiện thân trong vũ trụ vật chất.

Apollo yêu dấu, trong tia sáng thứ hai,
Thày mở mắt con ra để con nhìn ngày mới,
Vượt lên trên khuôn đúc tư duy gây thảm bại,
Con nhìn thấu xuyên qua lừa lọc của nhị đối.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

1.2. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nối kết lại với tình thương muốn thấy sáng tạo của Thượng đế trải bày ra, tình thương Hiện diện TA LÀ của con và các đức tính của Thượng đế mà con đã cá thể hóa, tình thương biểu hiện các đức tính đó, và thấy ánh sáng đó tỏa vào bóng tối của cõi vật chất.     

Apollo yêu dấu, trong ánh lửa con biết
Có dòng nước hằng chảy là dòng sông minh triết.
Kìa ý chí cao nhất nay con đã phát hiện,
Trầm mình trong dòng nước không bao giờ đứng yên.

Apollo yêu dấu, ánh sáng thày soi rõ
Tại sao chúng con lại hiện thân ở đây nhỉ,
Đây bầu cõi vũ trụ chúng con phải nâng cao,
Và cùng nhau hình thành mũi đầu của ngọn giáo.

1.3. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nối kết lại với tình thương đã đem con đến hành tinh này, và nhìn ra làm cách nào con có thể biểu hiện tình thương với nhiều minh triết hơn, nhiều phân biện hơn. 

Apollo yêu dấu, vạch trần từng dối trá,
Từng sợi dây tự ngã, giờ đây con buông bỏ,
Và hiểu ra thật sự nhận thức là chìa khóa
Để vượt qua nhị đối cho nội tâm sáng tỏ.

Apollo yêu dấu, con nghe lời thày gọi,
Ở Đại sảnh Minh triết tiếng gọi dìu con tới
.
Phơi bày những lọc lừa đã khiến mình sa ngã,
Thày giúp con tìm lại duy nhất với tất cả.

1.4. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra là khi con người dùng trí khôn trên địa cầu, họ không được thúc đẩy bởi Tình thương Thiêng liêng, mà bởi yêu mến phàm phu.

Apollo yêu dấu, trí tuệ thày sáng rỡ,
Trong hợp nhất với thày, rắn độc con chẳng sợ,
Cái đà trong con mắt, con nay thấy lồ lộ,
Thoát khỏi vùng nhị đối, con tìm được tự do.

Apollo yêu dấu, chúng con nâng viễn kiến
Và dõi nhìn trái đất bước vào tân kỷ nguyên.
Khi mắt thày soi rọi, con tình nguyện đứng đó,
Rồi bước khỏi mê cung với uy lực thày cho.

1.5. Con từ bỏ mọi xu hướng dùng trí khôn làm căn bản cho sự phán đoán, kể cả sự phán đoán giá trị. Minh triết Thiêng liêng đích thực cho con tính phân biện, nhưng phân biện không dính dáng gì đến phán đoán phàm phu.    

Heros-Amora, trong tình thương màu hồng,
Con không cần biết đến ai nghĩ gì về con,
Trong hợp nhất với thày, con gọi một ngày mới,
Như trẻ thơ trong trắng, con đùa giỡn vui chơi.  

Heros-Amora, đời mới đã khởi sự,
Con cười vào mặt quỷ, là đứa luôn nghiêm nghị,  
Con tắm trong Mặt trời màu Hồng Đỏ lộng lẫy,
Biết rằng Thượng đế muốn cuộc đời vui thơ ngây.  

1.6. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra sự khác biệt giữa phân biện Ki-tô và phán đoán khởi lên từ tâm phản-Ki-tô.

Heros-Amora, cuộc đời thật vui thay,
Tưởng chừng như thế giới là đồ chơi vĩ đại,  
Tâm con phóng thế nào thì đời như thế nấy,
Vì tấm gương cuộc sống phản chiếu đúng như vậy.  

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.  

1.7. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn thấy liệu con đã có dùng lời dạy của chân sư thăng thiên để tạo dựng một hộp tư duy cũng hoàn toàn kín mít như hộp tư duy của nhiều nhóm Cơ đốc cực chính thống.

Heros-Amora, đốt hết mọi điều kiện,
Con biết TA LÀ quyền được lật sang trang mới,  
Trầm mình trong dòng chảy của Tình yêu vô biên,
Con biết rằng Tánh linh đã từ Trên xuống đời.

Heros-Amora, tỉnh ngộ con phát hiện
Rằng tình thương đích thực không hề có điều kiện.
Tuy rắn bị kẹt cứng trong nhị đối của y
,
Nhưng con thì thoát được nhờ Tình thương vô kỷ.  

1.8. Chân sư Lanto, xin thày giúp con trải nghiệm độ rung khác biệt giữa phân biện Ki-tô và phán đoán phàm phu. Con đang vượt qua khai ngộ ở cấp thứ ba, là khai ngộ của minh triết biểu hiện qua tình thương.

Heros-Amora, rốt cuộc con cảm thấy
Mình đã vượt lên trên vùng dĩ vãng sa lầy. 
Trong tình yêu chân thật con tự do phát triển,
Mãi mãi con là một với Dòng Từ vô biên.  

Heros-Amora, điều kiện vốn trói buộc,
Chúng hình thành mạng lưới những gian manh lừa dối.
Tình thương bay xa mãi vì nó không biên giới
,
Nâng cao muôn sự sống vào trời Hồng ngọc tươi.

1.9. Hãy yêu thương chứ đừng phán xét. Tình thương Thiêng liêng không phán xét, nhưng tình yêu phàm phu hoàn toàn dựa trên một sự phán xét.

Gia tốc tới Tỉnh Thức, TA LÀ có thật,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, mọi sự sống chữa lành,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, TA LÀ hơn nữa,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, tất cả sẽ vút cao.

Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Apollo và Lumina yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Jophiel và Christine yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Chân sư Lanto yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
TA LÀ yêu dấu.

2. Con sẵn sàng thăng vượt quyền sở hữu  

2.1. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra và buông bỏ mọi xu hướng sử dụng tình yêu phàm phu chiếm hữu để tìm cách sở hữu hay kiểm soát người khác.

Đại thiên thần Jophiel, trong ánh sáng minh triết,
Mọi lừa dối gian xảo đã phơi bày trước mặt.
Thường thường trong tâm người, chúng tinh vi luồn lách,
Nhưng con có thày rồi, là vị thày thượng sách.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.2. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra và buông bỏ ảo tưởng cho rằng con cố ép buộc quyền tự quyết của người khác là vì ích lợi của người đó. Thượng đế đã không bao giờ bổ nhiệm con làm quan tòa để phán xử người khác phải dùng quyền tự quyết của họ như thế nào.

Đại thiên thần Jophiel, con đón mừng minh triết,
Tấm màn của nhị nguyên, thày lấy gươm chặt đứt,
Khi được thày chỉ lối, con biết đâu là thực,
Con hóa giải tức khắc bùa mê với ngờ vực.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.3. Chân sư Lanto, xin thày chỉ cho con thấy con đang sử dụng tình yêu có điều kiện, tình yêu chiếm hữu như thế nào trong quan hệ với người khác.

Đại thiên thần Jophiel, thực tại của thày đó,
Là liều thuốc thần diệu giải độc chất nhị nguyên,
Dối trá không thể còn khi có thày Hiện diện,
Với thày đứng bên cạnh, tà kiến con cắt liền.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.4. Con nhìn nhận là con không có hợp đồng nào của Thượng đế giao cho con nhiệm vụ phán xét người khác. Con không có tờ giấy chứng minh là con trách nhiệm về sự cứu rỗi của người đó.

Đại thiên thần Jophiel, tâm Thượng đế trong con,
Con nhận trí tuệ thày, ánh sáng rạng đầu non,
Con gặp được Duy nhất khi tách biệt tiêu mòn,
Và tâm này toàn vẹn, là chiến thắng của con.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.5. Con buông bỏ ảo tưởng rằng con trách nhiệm về sự cứu rỗi của người khác. Con buông bỏ xu hướng của tự ngã tìm cách sở hữu người khác.

Đại thiên thần Chamuel, uy lực tia ngọc hồng,
Con biết con đang tắm trận mưa ban sự sống,
Bao ý chí sa đọa đốt sạch bởi tình thương,
Bỗng nhiên bao ham muốn như chìm nghỉm lắng xuống.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.6. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra, liệu con có tìm cách sở hữu chính mình và tâm mình từ góc nhìn của tự ngã, tìm cách đặt tự ngã vào địa vị kiểm soát tâm con, ý tưởng của con, cảm xúc của con, ý niệm bản sắc của con.

Đại thiên thần Chamuel, ánh sáng dâng cuồn cuộn,
Tia hồng ngọc rực lửa đâm xuyên qua đêm trường,
Mọi thế lực bóng tối bị lửa thày thiêu nướng,
Thiêu sạch cả những ai không chịu bước cao hơn.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.7. Chân sư Lanto, con sẵn sàng buông bỏ mọi nhu cầu sở hữu bất cứ gì trên địa cầu. Xin thày chỉ cho con đường dẫn tới trạng thái không sở hữu gì, và không gì sở hữu con.

Đại thiên thần Chamuel, tình yêu thày bao la,
Cuộc sống nay ý nghĩa do tầm nhìn sáng tỏ,
Khi mục đích cuộc đời con nhận ra quá rõ,
Nhận cả đấng Duy nhất trong tình thương chan hòa.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.8. Chân sư Lanto, xin thày giúp con đạt được nhận biết rằng mọi sự sống đều là một, vì tất cả đều là Phật tánh.

Đại thiên thần Chamuel, đem bình an bất nhị,
Thậm chí cả cái chết mà cũng chẳng là chi,
Thật sự trong tình thương không thể có phân hủy,
Tình thương là thăng vượt vào ngày mới vô thỉ.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

2.9. Chân sư Lanto, xin thày giúp con vượt qua xu hướng cho rằng Phật tánh là một trạng thái toàn hảo không thay đổi. Hãy giúp con khắc phục tự ngã thèm khát một trạng thái toàn hảo không thay đổi. Con nỗ lực đạt đến sự hợp nhất với Phật tánh.

Con bay với thiên thần,
Để đạt được nhiều HƠN.
Thiên thần ôi rất thật,
Tình thương sẽ chữa hết.
Với thiên thần bình an,
Muôn ray rứt phải tàn.
Với thiên thần ánh sáng,
Ta bay bổng thênh thang.

Cánh thiên thần xào xạc trong ngọn gió,
Vui vui lắm khi vật chất hát to,
Vui với từng hạt nguyên tử vo vo
Cùng hòa tấu với cánh thiên thần nhỏ.

3. Con biểu lộ minh triết qua tình thương 

3.1. Phật tánh là thay đổi không ngừng. Phật tánh là tự thăng vượt không ngừng. Phật tánh không bao giờ đứng yên một chỗ. Nó luôn luôn thăng vượt chính nó.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.2. Con không thể sở hữu Phật tánh. Con không thể kiểm soát Phật tánh. Con không thể tạo ra một hộp tư duy và bảo là Phật tánh được chứa trong hộp. Trước cả khi con có thể tạo ra hộp tư duy, Phật tánh đã tự thăng vượt một tỷ lần rồi.  

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.3. Chỉ có tự ngã con người mới muốn tạo ra một trạng thái toàn hảo không thay đổi, vì nó tin điều đó sẽ khiến nó có thể được chấp nhận trong mắt Thượng đế.

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.4. Chân sư Lanto. xin thày giúp con trong tư cách là cái Ta Biết, bước ra khỏi phin lọc nhận thức của tự ngã và chiêm nghiệm sự duy nhất, chiêm nghiệm chính con là Phật tánh, là một với Dòng sông sự Sống không ngừng tự thăng vượt.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.5. Minh triết được biểu đạt qua tình thương khi con nhận ra là con muốn cái gì nhiều hơn những ảo tưởng của hộp tư duy và phin lọc nhận thức của con. Con muốn chính nguồn suối hằng sống, chứ không muốn một diễn đạt cố định của minh triết.

Chân sư Lanto, con nay viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.6. Chân sư Lanto, con nhận ra là các chân sư không ngừng tự thăng vượt. Con muốn giữ liên lạc với thày, và con dùng giáo lý vỏ ngoài làm nền tảng để thăng vượt ý niệm cái ta của con cùng bất kỳ cách diễn giải nào về giáo lý.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.7. Sự sống mà Giê-su nói đến là tự thăng vượt liên tục. Đây là sự sống mà Ki-tô hằng sống cống hiến cho loài người đang đầu thai. Con đang dự phần vào thân và huyết của Ki-tô, và con buông bỏ mọi mong muốn giam hãm tánh linh của con trong một hộp tư duy được quy định trên địa cầu.

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.8. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra con đang biểu hiện ánh sáng tâm linh như thế nào qua phin lọc nhận thức và hộp tư duy của con. Con buông bỏ xu hướng sử dụng ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ để ép buộc người khác và tạo nghiệp cho con.

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, con đang cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.9. Con yêu chân sư Lanto hơn hộp tư duy hiện thời của con. Con muốn kết hợp nhiều hơn với Lanto và Hiện diện TA LÀ của con. Con từ bỏ mọi ý muốn dùng lý lẽ toàn hảo của hộp tư duy hiện thời để lập luận chống lại sự hợp nhất đó. Con chọn sự sống!

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4. Động lực của con phát xuất từ tình thương 

4.1. Con sẵn sàng thăng vượt mọi thứ mà con nghĩ con sở hữu. Con trở thành nhiều hơn bằng cách đồng hóa với hình tướng rồi thăng vượt hình tướng. Không phải hành động đồng hóa khiến con trở thành nhiều hơn, mà là hành động buông bỏ sự đồng hóa.

Ôi chân sư Paul, thày là giấc mơ,
Thày yêu cái đẹp hằng chảy tuôn ra.
Ôi chân sư Paul, tình mang trong dạ
Quyền năng đập vỡ nấm mồ tự ngã.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Buông bỏ là tình thương đích thực, cố sở hữu là tình thương giả trá. Điều con yêu nhiều hơn mọi thứ trong thế gian này là biểu hiện cá thể Thiêng liêng của con. Con yêu các hình kỷ hà lý tưởng của Hiện diện TA LÀ của con.

Ôi chân sư Paul, là nguồn khuyên nhủ,
Tâm con bay vút lên đỉnh trời cao.
Ôi chân sư Paul, minh triết ấp ủ
Cái đẹp chảy xuống từ Trên nhập vào.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Với cường độ và quyết tâm của ngọn lửa màu hồng ngọc, con đang thiêu sạch với tia laser một khía cạnh nhất định của hộp tư duy của con. Con biểu đạt cá thể thiêng liêng của mình nhiều hơn. Con cảm thấy tình yêu thiêng liêng xối chảy qua mình.

Ôi chân sư Paul, yêu là nghệ thuật,
Mở trái tim ra căn phòng mật thất.
Ôi chân sư Paul, ào ào chảy xuống,
Cho tim tràn ngập ánh sắc yêu thương.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Mục đích hàng đầu của con là biểu hiện cá thể thiêng liêng được cất giữ trong Hiện diện TA LÀ của con. Con từ bỏ nhu cầu phải tự kiểm soát và thích nghi với một chuẩn mực vỏ ngoài nhất định trên trái đất.

Ôi chân sư Paul, gia tốc mài miệt,
Trụ vào từ bi, con thiền nhận biết.
Ôi chân sư Paul, ý định thuần khiết
Sẽ được bảo đảm thăng lên siêu việt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Con không cần gì từ người khác để thể hiện cá thể Thiêng liêng của con. Con không cần gì từ trái đất để thể hiện cá thể Thiêng liêng của con. Con không cần đến điều kiện nào trong thế giới vật chất để thể hiện cá thể Thiêng liêng của con.

Ôi chân sư Paul, tình yêu hàn gắn,
Thày mở lộ ra ánh sáng nội tâm.
Ôi chân sư Paul, tình yêu an ủi,
Để con nguyên vẹn trong một niềm vui.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Con sẵn sàng thể hiện cá thể Thiêng liêng của mình bất kể điều kiện ngoại cảnh nào con phải đương đầu. Con nhận bất kỳ điều kiện nào con phải đối mặt, rồi tìm ra cách biểu hiện cái gì hơn nữa, cái gì thiêng liêng trong hoàn cảnh đó.

Ôi chân sư Paul, phụng sự Tất cả,
Giúp mọi chúng sinh thăng vượt sa ngã.
Ôi chân sư Paul, an bình ra khơi,
Mặc cho tự ngã tất phải tàn hơi.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Con biểu hiện tình thương trong bất cứ điều kiện nào, ngay cả khi nó có vẻ không xứng đáng với tình thương, ngay cả khi có vẻ tình thương không thể biểu lộ được trong hoàn cảnh đó. Con biểu lộ tình thương ngay cả với những người dường như không xứng đáng được thương yêu, không muốn được thương yêu. 

Ôi chân sư Paul, tình yêu giải phóng,
Thày yêu mãi mãi, cho con nhập dòng.
Ôi chân sư Paul, thày là vị Chủ
Giúp cho hành trình của con hứng thú.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Con biểu hiện những gì đến với con từ bên trong. Con đang là mặt trời, là cánh cửa mở cho mặt trời của Hiện diện TA LÀ của con chiếu rọi xuyên qua thế giới vật chất. Đó chính là vai trò của con. Đó là lý do tại sao con ở đây.

Ôi chân sư Paul, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư Paul, thày tô bầu trời,
Cái ta mừng rỡ trong màu vui tươi.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Tình thương của con lớn đủ để con có thể biểu hiện Thiêng liêng bất kể người ta làm gì với nó. Con đã phát huy một động lực dựa trên tình thương.

Ôi chân sư Paul, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tình yêu Thượng đế con xin rải truyền

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

7 | Con thỉnh cầu hợp nhất với thày Lanto (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Apollo và Lumina, Đại thiên thần Jophiel và Christine, và Chân sư Lanto yêu dấu, hãy giúp con vượt qua mọi xu hướng tranh luận khi con sử dụng minh triết như một vũ khí trong cuộc thập tự chinh để chứng thực tự ngã. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ mọi khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Chân sư Lanto và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con tẩy sạch minh triết giả khỏi bốn thể phàm 

1.1. Con đang thăng vượt sự lập trình của thế gian xem cuộc sống là một cuộc tranh tài. Con nhìn ra là khai ngộ trong Tia thứ Hai của minh triết không phải là cuộc tranh tài để chứng tỏ ai biết nhiều nhất, ai có lập luận hay nhất.

Apollo yêu dấu, trong tia sáng thứ hai,
Thày mở mắt con ra để con nhìn ngày mới,
Vượt lên trên khuôn đúc tư duy gây thảm bại,
Con nhìn thấu xuyên qua lừa lọc của nhị đối.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

1.2. Con đang thăng vượt trạng thái tâm thức tin rằng có một lập luận tối hậu, có một minh triết tối hậu, là tiêu chuẩn tối hậu mà tất cả mọi thứ đều phải được đo lường.

Apollo yêu dấu, trong ánh lửa con biết
Có dòng nước hằng chảy là dòng sông minh triết.
Kìa ý chí cao nhất nay con đã phát hiện,
Trầm mình trong dòng nước không bao giờ đứng yên.

Apollo yêu dấu, ánh sáng thày soi rõ
Tại sao chúng con lại hiện thân ở đây nhỉ,
Đây bầu cõi vũ trụ chúng con phải nâng cao,
Và cùng nhau hình thành mũi đầu của ngọn giáo.

1.3. Con đang thăng vượt trạng thái tâm thức tin rằng bất cứ gì không phù hợp với minh triết tối hậu đó đều sai lầm và cần bị phán xét. Và những ai tin vậy cũng phải bị phán xét, hay bị ép buộc phải chấp nhận minh triết hơn trội đó.

Apollo yêu dấu, vạch trần từng dối trá,
Từng sợi dây tự ngã, giờ đây con buông bỏ,
Và hiểu ra thật sự nhận thức là chìa khóa
Để vượt qua nhị đối cho nội tâm sáng tỏ.

Apollo yêu dấu, con nghe lời thày gọi,
Ở Đại sảnh Minh triết tiếng gọi dìu con tới
.
Phơi bày những lọc lừa đã khiến mình sa ngã,
Thày giúp con tìm lại duy nhất với tất cả.

1.4. Con đang thăng vượt tư duy học thuật cứ ham tranh luận và tranh luận, nhằm tiêu diệt về mặt tâm lý những ai không chấp nhận một dạng minh triết là hơn trội.

Apollo yêu dấu, trí tuệ thày sáng rỡ,
Trong hợp nhất với thày, rắn độc con chẳng sợ,
Cái đà trong con mắt, con nay thấy lồ lộ,
Thoát khỏi vùng nhị đối, con tìm được tự do.

Apollo yêu dấu, chúng con nâng viễn kiến
Và dõi nhìn trái đất bước vào tân kỷ nguyên.
Khi mắt thày soi rọi, con tình nguyện đứng đó,
Rồi bước khỏi mê cung với uy lực thày cho.

1.5. Con nhìn ra là cho dù một lời biện luận được xây dựng hay ho đến đâu, luôn luôn có cách dựng lên một lời phản biện đối lại. Con khát khao một cách quan hệ cao hơn với người khác, con khát khao nắm được một dạng minh triết cao hơn.

Apollo yêu dấu, trong tia sáng thứ hai,
Thày mở mắt con ra để con nhìn ngày mới,
Vượt lên trên khuôn đúc tư duy gây thảm bại,
Con nhìn thấu xuyên qua lừa lọc của nhị đối.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

1.6. Con muốn biết và trải nghiệm minh triết thuần khiết, các hình dạng kỷ hà lý tưởng đang được các chân sư của Tia thứ Hai truyền rải.

Apollo yêu dấu, trong ánh lửa con biết
Có dòng nước hằng chảy là dòng sông minh triết.
Kìa ý chí cao nhất nay con đã phát hiện,
Trầm mình trong dòng nước không bao giờ đứng yên.

Apollo yêu dấu, ánh sáng thày soi rõ
Tại sao chúng con lại hiện thân ở đây nhỉ,
Đây bầu cõi vũ trụ chúng con phải nâng cao,
Và cùng nhau hình thành mũi đầu của ngọn giáo.

1.7. Chân sư Lanto, xin thày giúp con làm sạch bản sắc thể của con cho không còn minh triết giả, để con không chặn nghẽn hay bóp méo minh triết kỷ hà thuần khiết được thày truyền rải, mà cho phép nó đi vào trí thể của con trong dạng thuần khiết.

Apollo yêu dấu, vạch trần từng dối trá,
Từng sợi dây tự ngã giờ đây con buông bỏ,
Và hiểu ra thật sự nhận thức là chìa khóa
Để vượt qua nhị đối cho nội tâm sáng tỏ.

Apollo yêu dấu, con nghe lời thày gọi,
Ở Đại sảnh Minh triết tiếng gọi dìu con tới
.
Phơi bày những lọc lừa đã khiến mình sa ngã,
Thày giúp con tìm lại duy nhất với tất cả.

1.8. Chân sư Lanto, xin thày giúp con làm sạch trí thể của con cho không còn minh triết giả, để con không chặn nghẽn hay bóp méo minh triết kỷ hà thuần khiết được thày truyền rải, mà cho phép nó đi vào cảm thể của con trong dạng thuần khiết.

Apollo yêu dấu, trí tuệ thày sáng rỡ,
Trong hợp nhất với thày, rắn độc con chẳng sợ,
Cái đà trong con mắt, con nay thấy lồ lộ,
Thoát khỏi vùng nhị đối, con tìm được tự do.

Apollo yêu dấu, chúng con nâng viễn kiến
Và dõi nhìn trái đất bước vào tân kỷ nguyên.
Khi mắt thày soi rọi, con tình nguyện đứng đó,
Rồi bước khỏi mê cung với uy lực thày cho.

1.9. Chân sư Lanto, xin thày giúp con làm sạch cảm thể của con cho không còn minh triết giả, để con không chặn nghẽn hay bóp méo minh triết kỷ hà thuần khiết được thày truyền rải, mà cho phép nó đi vào tâm ý thức của con trong dạng thuần khiết. Con muốn có khả năng vận chuyển xung lực minh triết qua cả bốn thể phàm, để tâm ý thức nắm bắt được xung lực thuần khiết.

Gia tốc tới Tỉnh Thức, TA LÀ có thật,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, mọi sự sống chữa lành,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, TA LÀ hơn nữa,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, tất cả sẽ vút cao.

Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Apollo và Lumina yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Jophiel và Christine yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Chân sư Lanto yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
TA LÀ yêu dấu.

2. Con đã chán tranh luận rồi 

2.1. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra làm thế nào vai trò mà con khoác vào ở mức bản sắc đã bóp méo cách con nhìn cuộc sống và cách con nhìn minh triết.

Đại thiên thần Jophiel, trong ánh sáng minh triết,
Mọi lừa dối gian xảo đã phơi bày trước mặt.
Thường thường trong tâm người, chúng tinh vi luồn lách,
Nhưng con có thày rồi, là vị thày thượng sách.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.2. Chân sư Lanto, xin thày giúp cái Ta Biết của con nối kết lại với sự thật rằng con là nhận biết thuần khiết. Hãy giúp con tạm thời bước ra ngoài vai trò của con, và trải nghiệm một thực tại nhiều hơn những gì con nhìn thấy từ trong vai trò.

Đại thiên thần Jophiel, con đón mừng minh triết,
Tấm màn của nhị nguyên, thày lấy gươm chặt đứt,
Khi được thày chỉ lối, con biết đâu là thực,
Con hóa giải tức khắc bùa mê với ngờ vực.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.3. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra là trước khi xung lực từ Hiện diện TA LÀ xuống được tâm ý thức của con, nó sẽ bị vai trò của con biến dạng. Tâm ý thức sẽ trải nghiệm một xung lực chỉ xác nhận và chứng thực thế giới quan mà con nhìn thấy xuyên qua phin lọc của vai trò.

Đại thiên thần Jophiel, thực tại của thày đó,
Là liều thuốc thần diệu giải độc chất nhị nguyên,
Dối trá không thể còn khi có thày Hiện diện,
Với thày đứng bên cạnh, tà kiến con cắt liền.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.4. Con nay nhìn ra tại sao không có lập luận nào là tối hậu, và tại sao con không thể dùng lý lẽ với người khác. Ngay trong bản chất, phin lọc nhận thức lọc bỏ đi bất cứ gì đi ngược lại vai trò đã định ra phin lọc.

Đại thiên thần Jophiel, tâm Thượng đế trong con,
Con nhận trí tuệ thày, ánh sáng rạng đầu non,
Con gặp được Duy nhất khi tách biệt tiêu mòn,
Và tâm này toàn vẹn, là chiến thắng của con.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.5. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra làm thế nào phin lọc nhận thức ngăn cản con xem xét ý tưởng một cách trung lập và khách quan, bằng cách lọc bỏ đi mọi sự hữu lý trong ý tưởng đó.

Đại thiên thần Jophiel, trong ánh sáng minh triết,
Mọi lừa dối gian xảo đã phơi bày trước mặt.
Thường thường trong tâm người, chúng tinh vi luồn lách,
Nhưng con có thày rồi, là vị thày thượng sách.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.6. Chân sư Lanto, xin thày giúp con xét lại đời mình và thấy mình đã tranh cãi với người khác thường xuyên như thế nào. Hãy giúp con nhìn ra là những loại thảo luận, tranh cãi như vậy thật sự không đem lại kết quả nào. Con chỉ dùng năng lực, thời gian và chú ý của con một cách vô ích.

Đại thiên thần Jophiel, con đón mừng minh triết,
Tấm màn của nhị nguyên, thày lấy gươm chặt đứt,
Khi được thày chỉ lối, con biết đâu là thực,
Con hóa giải tức khắc bùa mê với ngờ vực.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.7. Chân sư Lanto, con nguyện là con sẽ không bao giờ tranh cãi để mà tranh cãi. Con nhìn ra là xu hướng đó xuất phát từ tự ngã muốn có cảm giác an toàn tối hậu, là được người khác cho mình là đúng.

Đại thiên thần Jophiel, thực tại của thày đó,
Là liều thuốc thần diệu giải độc chất nhị nguyên,
Dối trá không thể còn khi có thày Hiện diện,
Với thày đứng bên cạnh, tà kiến con cắt liền.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.8. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra là tự ngã khiến con nhảy vào những tranh luận như thế mà không ngừng lại được. Tự ngã và các phàm linh trong tâm thức con được nuôi béo bằng năng lượng từ Hiện diện TA LÀ đã bị bóp méo và hướng vào tranh luận vô bổ.

Đại thiên thần Jophiel, tâm Thượng đế trong con,
Con nhận trí tuệ thày, ánh sáng rạng đầu non,
Con gặp được Duy nhất khi tách biệt tiêu mòn,
Và tâm này toàn vẹn, là chiến thắng của con.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.9. Chân sư Lanto, con quyết định trong ý thức là con đã chán ngấy chuyện đóng vai, khiến con liên tục xung đột với người khác. Hãy giúp con thấy rằng lập luận là một chức năng của cách nhìn cuộc sống. Con sẵn sàng nhìn vào chính mình, tra vấn cách nhìn đời của mình, tra vấn phin lọc nhận thức của mình.

Con bay với thiên thần,
Để đạt được nhiều HƠN.
Thiên thần ôi rất thật,
Tình thương sẽ chữa hết.
Với thiên thần bình an,
Muôn ray rứt phải tàn.
Với thiên thần ánh sáng,
Ta bay bổng thênh thang.

Cánh thiên thần xào xạc trong ngọn gió,
Vui vui lắm khi vật chất hát to,
Vui với từng hạt nguyên tử vo vo
Cùng hòa tấu với cánh thiên thần nhỏ.

3. Con thăng vượt nhu cầu chứng thực tự ngã 

3.1. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra, phải chăng con đã khoác vào một vai trò quy định con phải chống lại ai đó, khiến con thu hút những người như vậy trong đời mình. Con đã chán ngấy trải nghiệm này rồi. Hãy giúp con bước ra ngoài vai trò và nhìn cuộc sống cách khác.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.2. Con đang ở một khúc ngoặt quan trọng trên đường tu. Chân sư Lanto, con quyết định trong ý thức là con không muốn tiếp tục cuộc thập tự chinh để chứng thực tự ngã của con nữa.

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.3. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra là cuộc thập tự chinh để chứng thực tự ngã đã được ngụy trang như lòng vị tha nhằm phục vụ cho một đại nghĩa. Hãy giúp con thăng vượt tư duy cuồng đại cứ muốn dựng lên bi kịch với người khác.

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.4. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra con đã dùng giáo lý của chân sư thăng thiên như thế nào trong cuộc thập tự chinh chứng thực tự ngã. Con hiểu đây là một giai đoạn tự nhiên, nhưng con chán nó rồi.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.5. Khi con nhìn ra và buông bỏ cuộc thập tự chinh chứng thực tự ngã, con cũng trút được một gánh nặng ngàn cân. Thay vì mang trọng trách phải thay đổi thế giới bằng cách cải hóa mọi người, con cởi bỏ cái ách nặng nề mà sa nhân cùng các thày giả đã đeo lên cổ con.

Chân sư Lanto, con nay viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.6. Nay con nhìn ra là ách này không phải do chân sư thăng thiên đặt lên con. Con nhìn ra là con không bao giờ phải làm chuyện đó. Không phải các chân sư muốn con trải qua tất cả những tranh luận và xung đột đó, mà chỉ là tự ngã và các thày giả.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.7. Nay con nhìn các chân sư thăng thiên một cách khác. Chân sư Lanto, con muốn nhìn thày như thày là. Con nhận ra thày không phải là người muốn con đi khắp nơi giao chiến vì quan điểm, hay dùng giáo lý chân sư để đập phá thành trì kiên cố bao quanh tâm mọi người.

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.8. Chân sư Lanto, con muốn quan hệ với thày một cách khác. Con muốn nhìn thày với tâm mở rộng. Con thấy được là cho tới giờ, con đã nhìn thày qua một phin lọc. Hãy giúp con cởi bỏ phin lọc đó và nhìn thày trong nhận biết trung hòa.

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, con đang cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.9. Chân sư Lanto, con muốn thày chia sẻ Hiện diện của thày với con. Con muốn trải nghiệm sự biểu thị trọn vẹn của Hiện diện của thày và thấm nhuần Hiện diện Minh triết đó.

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4. Con là một với chân sư Lanto 

4.1. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn thày không phải là một thày giáo truyền thống, dạy bảo con từ trên cao. Hãy giúp con nhìn ra chìa khóa để vượt khai ngộ của Tia thứ Hai là nhập vào kết hợp với thày.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra và thăng vượt định kiến là thày phải như thế nào trong cương vị Thượng sư của Tia thứ Hai, rằng Tia thứ Hai phải như thế nào, minh triết của Tia thứ Hai phải như thế nào, minh triết tối hậu phải như thế nào.

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra bất kỳ xu hướng nào muốn tranh luận với thày để cố chứng minh điều gì đó cho thày. Hãy giúp con thăng vượt mọi mong muốn chứng tỏ là con minh triết tới chừng nào, con giỏi dùng lý lẽ tới chừng nào, con giỏi bẻ cong một ý tưởng hay một hệ thống tin tưởng tới chừng nào, hầu con chứng thực tự ngã của con.  

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn ra là tranh luận với người khác, thậm chí tranh luận với thày, không bao giờ dẫn tới kết quả dứt khoát nào, và không giúp con nâng tâm thức lên cao hơn. Con càng tranh luận thì càng khiến cho mức tâm thức hiện thời của con đặc cứng lại. Hãy giúp con nhảy vọt từ mức hiện thời lên mức kế tiếp.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Chân sư Lanto, con nhìn ra là thày không đang tranh luận với con, thày không cố thuyết phục con bất cứ điều gì. Thày không đòi hỏi con chứng minh là tự ngã của con đúng, chứng minh thế giới quan của con đúng. Con muốn biết thày thực sự là loại Sinh thể gì.

Chân sư Lanto, con nay viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Chân sư Lanto, xin thày giúp con vươn lên tầng kế tiếp để con không còn tranh cãi nhằm chứng thực tự ngã. Hãy giúp con gắn chặt mình vào cách sử dụng minh triết cao hơn – là cách dựa trên tình thương.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Chân sư Lanto, xin thày giúp con nhìn xa hơn minh triết được biểu đạt qua lời nói. Hãy giúp con trải nghiệm minh triết vượt khỏi mọi lời nói, minh triết của những hình dạng kỷ hà thuần khiết.

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Chân sư Lanto, xin thày giúp con chạm được gấu áo của thày! Hãy giúp con thấy được chân sư Lanto là nhiều hơn một thày giáo đang phun ra lời nói, lặp lại những lý lẽ và quan điểm định sẵn.

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, con đang cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Chân sư Lanto, con đang chứng nghiệm thày là một vị thày hằng sống, đầy ắp những hình dạng kỷ hà thuần khiết đang dâng lên sùng sục từ vùng sâu kín nhất của Bản thể thày, tựa như dòng suối dâng trào từ nguồn cội trái đất, là dòng nước thanh khiết, dòng nước mang lại sự sống, là nước hằng sống của minh triết! Đây là chân sư Lanto, và CON LÀ một với Hiện diện Minh triết đó.

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm: 

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

5 | Con thỉnh cầu Tánh linh thày Lanto (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Apollo và Lumina, và Hercules và Amazonia, Đại thiên thần Jophiel và Christine và Michael và Faith, Chân sư Lanto và MORE yêu dấu, hãy giúp con vượt qua mọi khuynh hướng dùng minh triết như một cuộc tranh tài hay một vũ khí chống lại người khác. Xin các thày giúp con nhận ra và rũ bỏ mọi khuôn nếp đang ngăn cản không cho con nhập một với Chân sư Lanto và với Hiện diện TA LÀ của con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con quy phục thày của con

1.1. Lanto yêu dấu, con quy phục thày là thày của con. Con sẵn sàng để thày đánh thức con, để con thấy Phật tánh nơi con, Phật tánh nơi tất cả mọi thứ bao quanh con, và cả Phật tánh nơi thày, hầu con biết được thực sự chúng ta là bình đẳng, như mọi sinh thể tự nhận biết đều bình đẳng trong thực tại của ánh sáng Minh triết Thượng đế.

Apollo yêu dấu, trong tia sáng thứ hai,
Thày mở mắt con ra để con nhìn ngày mới,
Vượt lên trên khuôn đúc tư duy gây thảm bại,
Con nhìn thấu xuyên qua lừa lọc của nhị đối.

Apollo yêu dấu, màu Vàng Elohim,
Mắt con nay thấy được ánh rực sáng hoàng kim,
Từng trang vở minh triết thày giở cho con nhìn,
Không còn gì cũ nữa trên khắp mặt hành tinh.

1.2. Minh triết tối hậu là thấy mọi sự sống là một, thấy tất cả đều là Phật tánh, và vì thế, sự khác biệt trong hình tướng không có nghĩa là khác biệt về giá trị.

Apollo yêu dấu, trong ánh lửa con biết
Có dòng nước hằng chảy là dòng sông minh triết.
Kìa ý chí cao nhất nay con đã phát hiện,
Trầm mình trong dòng nước không bao giờ đứng yên.

Apollo yêu dấu, ánh sáng thày soi rõ
Tại sao chúng con lại hiện thân ở đây nhỉ,
Đây bầu cõi vũ trụ chúng con phải nâng cao,
Và cùng nhau hình thành mũi đầu của ngọn giáo.

1.3. Giá trị là một khái niệm hoàn toàn giả tạo do tâm tạo ra – là tâm đã tách khỏi thực tại của minh triết, đã tạo ra ảo tưởng rằng nó tách biệt khỏi Phật tánh, rằng Phật tánh không ở nơi nó ở, rằng có một chỗ ở riêng biệt mà tâm tách biệt đã tạo ra và đóng chặt Phật tánh ra ngoài.

Apollo yêu dấu, vạch trần từng dối trá,
Từng sợi dây tự ngã giờ đây con buông bỏ,
Và hiểu ra thật sự nhận thức là chìa khóa
Để vượt qua nhị đối cho nội tâm sáng tỏ.

Apollo yêu dấu, con nghe lời thày gọi,
Ở Đại sảnh Minh triết tiếng gọi dìu con tới
.
Phơi bày những lọc lừa đã khiến mình sa ngã,
Thày giúp con tìm lại duy nhất với tất cả.

1.4. Lanto yêu dấu, con sẵn sàng đâm thủng tấm màn của phản minh triết, tấm màn do tâm tách biệt tạo ra – là tâm nhị nguyên, tâm của rắn, tâm sa ngã.

Apollo yêu dấu, trí tuệ thày sáng rỡ,
Trong hợp nhất với thày, rắn độc con chẳng sợ,
Cái đà trong con mắt, con nay thấy lồ lộ,
Thoát khỏi vùng nhị đối, con tìm được tự do.

Apollo yêu dấu, chúng con nâng viễn kiến
Và dõi nhìn trái đất bước vào tân kỷ nguyên,
Khi mắt thày soi rọi, con tình nguyện đứng đó,
Rồi bước khỏi mê cung với uy lực thày cho.

1.5. Lanto yêu dấu, con sẵn sàng để thày bước vào, nhìn vào con, nhìn vào tâm trạng của con, nhìn vào phin lọc nhận thức của con, nhìn vào các tin tưởng cốt lõi cấu tạo phin lọc nhận thức của con, rồi xem cách giải quyết các tin tưởng đó.

Hercules Xanh ngắt, nơi nơi thày đổ tràn
Quyền năng vô bờ bến với Hồng ân vô hạn,
Chìa khóa của sáng tạo, chính thày là hiện thân,
Biểu lộ qua ý chí vượt thăng đến Vô tận.

Hercules Xanh ngắt, con hợp nhất với thày,
Để con mở tim ra thực tại của thày đây,
Bây giờ con thấy rõ khi cảm được lửa sáng,
Cái ta cũng thăng vượt như đá hóa thành vàng.

1.6. Con hiểu khi con ở một tầng tâm thức nào đó, con không thể lập tức lột bỏ tất cả mọi phin lọc nhận thức mà con đang nhìn xuyên qua.

Hercules Xanh ngắt, với tất cả tình thương,
Con dâng lên Thượng đế hằng hà lời tán thưởng,
Con biết ơn quá đỗi được tự tay góp phần
Trong tác phẩm của Ngài đẹp tinh xảo vô tận.

Hercules Xanh ngắt, chữa lành muôn sự sống,
Bao bọc quanh tất cả, Xanh ngọn lửa Niêm phong.
Ngọn lửa xanh như điện mở mắt cho con thấy
Rằng sống trong chân thực: khát vọng của con đây.

1.7. Lanto yêu dấu, con sẵn sàng kiên nhẫn với chính mình và đi theo sự hướng dẫn tuần tự của thày. Con nhận ra là đường tu tâm linh có nhiều giai đoạn. Điều gì giúp con vượt qua một giai đoạn sẽ không giúp con vượt qua giai đoạn kế tiếp.

Hercules Xanh ngắt, con dâng hiến cuộc đời
Giúp cho cả hành tinh vượt tranh chấp loài người.
Bao lọc lừa nhị đối bị ánh sáng chọc thủng,
Trả lại cho trọn vẹn cái nhìn ở thâm cung.

Hercules Xanh ngắt, ý chí thày duy nhất,
Trong con còn khoảng trống, thày đổ đầy Lửa Xanh,
Khi uy lực của thày giục con bước mạnh dạn,
Băng qua bao rặng núi, xuyên qua mọi tấm màn.

1.8. Con không thể gồng mình để cố vượt qua các khai ngộ của Tia thứ Hai. Con từ bỏ giấc mộng là con cần học hỏi cho đến khi con tìm thấy quyển sách bí mật, sáng ngộ bí mật, minh triết bí mật, sẽ phóng con lên điều ngự Tia thứ Hai.

Hercules Xanh ngắt, ngôi Đền của Ánh sáng,
Được tỏ lộ cho con lúc dõi nhìn vào trong.
Ngọn hải đăng sáng rực, trên trái đất tỏa rạng,
Cho tất cả hành tinh phục hồi lại sự sống.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

1.9. Lanto yêu dấu, con nhận ra sự khác biệt to lớn giữa trạng thái tâm thức của con và tâm thăng thiên của thày. Con sẽ không bị nản lòng. Con nhìn nhận là để hoà điệu với tâm thày, con cần nhìn xa hơn phin lọc hiện thời của con.

Gia tốc tới Tỉnh Thức, TA LÀ có thật,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, mọi sự sống chữa lành,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, TA LÀ hơn nữa,
Gia tốc tới Tỉnh Thức, tất cả sẽ vút cao.

Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Apollo và Lumina yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Jophiel và Christine yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
Chân sư Lanto yêu dấu.
Gia tốc tới Tỉnh Thức! (3 lần)
TA LÀ yêu dấu.

2. Con sẽ hòa điệu với khai ngộ của Tia thứ Hai

2.1. Lanto yêu dấu, con nhận ra là cách giao tiếp của thày toàn diện và bao trọn tất cả. Thày không chỉ giao tiếp qua tư tưởng mà qua cả tình cảm, cảm thọ, trải nghiệm.

Đại thiên thần Jophiel, trong ánh sáng minh triết,
Mọi lừa dối gian xảo đã phơi bày trước mặt.
Thường thường trong tâm người, chúng tinh vi luồn lách,
Nhưng con có thày rồi, là vị thày thượng sách.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.2. Lanto yêu dấu, con biết những gì thày muốn truyền đạt cho con không phải là lời nói, hay ý nghĩa mà tâm đường thẳng gán cho lời nói. Con muốn chiêm nghiệm sự giao tiếp toàn diện mà thày đang phóng ra từ mức tâm thức của thày đến mức tâm thức của con.

Đại thiên thần Jophiel, con đón mừng minh triết,
Tấm màn của nhị nguyên, thày lấy gươm chặt đứt,
Khi được thày chỉ lối, con biết đâu là thực,
Con hóa giải tức khắc bùa mê với ngờ vực.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.3. Lanto yêu dấu, con muốn có sự trải nghiệm nội tâm, thần bí, toàn diện, sẽ biến đổi tâm thức của con. Con sẽ cố vượt xa hơn lời nói, hầu con chiêm nghiệm bản chất toàn diện, bao trọn tất cả, của sự giao tiếp của thày.   

Đại thiên thần Jophiel, thực tại của thày đó,
Là liều thuốc thần diệu giải độc chất nhị nguyên,
Dối trá không thể còn khi có thày Hiện diện,
Với thày đứng bên cạnh, tà kiến con cắt liền.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.4. Lanto yêu dấu, con muốn nắm được một số đặc tính tối thiểu của Tia thứ Hai trong ngoại tâm con, hầu con hòa điệu với tia sáng. Và khi tâm con rời thân xác trong giấc ngủ, con muốn bay đến khóa nhập thất của thày tại Royal Teton.

Đại thiên thần Jophiel, tâm Thượng đế trong con,
Con nhận trí tuệ thày, ánh sáng rạng đầu non,
Con gặp được Duy nhất khi tách biệt tiêu mòn,
Và tâm này toàn vẹn, là chiến thắng của con.

Đại thiên thần Jophiel, thày vạch trần dối trá,
Đại thiên thần Jophiel, thày cắt hết dây đọa.
Đại thiên thần Jophiel, thày quét sạch trời xanh,
Đại thiên thần Jophiel, cho tâm con chắp cánh.

2.5. Lanto yêu dấu, con thấy được công việc của thày là giúp con vượt ra ngoài phin lọc nhận thức của con. Con biết con đến nhập học với một phin lọc nhận thức, và con không kỳ vọng thày sẽ xác thực nhận thức của con về cuộc sống. Con sẵn sàng buông bỏ phin lọc này.

Đại thiên thần Michael, trong ngọn lửa xanh ngắt,
Không còn bao đêm tối mà chỉ thày có mặt.
Trong hợp nhất với thày, con đã ngập ánh sáng,
Cảnh rực rỡ nhiệm màu hiện ra ngay trước mắt.

Đại thiên thần Michael, đức Tin thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

2.6. Lanto yêu dấu, con muốn chuyển tiếp vào các khai ngộ của Tia thứ Hai. Con từ bỏ ý muốn gồng mình để cố vượt qua minh triết, vượt qua khai ngộ của Tia thứ Hai.

Đại thiên thần Michael, thày cho con che chở,
Sau tấm khiên màu xanh con được sống muôn thuở.
Niêm con khỏi hồn bóng đang lang thang đêm tối,
Con ở trong cõi thày, rực sáng màu xanh tươi.

Đại thiên thần Michael, đức Tin thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

2.7. Con nhận ra, thật là không đủ nếu con chỉ học hỏi, chất đầy và lập trình tâm mình với tất cả minh triết đó để cố thi đậu. Minh triết Thượng đế không phải là sự khôn ngoan nhân thế.

Đại thiên thần Michael, thày đem bao uy lực,
Mà hàng triệu thiên thần sẽ ca ngợi công đức.
Thiêu đốt muôn loài quỷ của nghi ngờ sợ hãi,
Con biết thày Có Mặt ở bên con hoài hoài. 

Đại thiên thần Michael, đức Tin thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

2.8. Con muốn tham gia vào các khai ngộ của Minh triết Thiêng liêng, và con buông bỏ hình ảnh của con về hiểu biết phàm phu. Con buông bỏ phin lọc nhận thức cho rằng minh triết có thể dùng làm vũ khí.

Đại thiên thần Michael, ý Thượng đế thày yêu,
Từ Trên thày đem xuống ánh sáng của thiên triều.
Thượng đế chỉ muốn thấy mọi sự sống chuyển vọt,
Vươn cao trên bản ngã là quyền linh chót vót.

Đại thiên thần Michael, đức Tin thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

2.9. Con buông bỏ khuynh hướng muốn dùng quyền năng đạt được trong khai ngộ của Tia thứ Nhất để củng cố phin lọc nhận thức đó. Con buông bỏ mong muốn học tập thật siêng năng để trở nên tốt đẹp hơn, giỏi giang hơn, thông minh hơn, hiểu biết hơn các đệ tử khác.

Con bay với thiên thần,
Để đạt được nhiều HƠN.
Thiên thần ôi rất thật,
Tình thương sẽ chữa hết.
Với thiên thần bình an,
Muôn ray rứt phải tàn.
Với thiên thần ánh sáng,
Ta bay bổng thênh thang.

Cánh thiên thần xào xạc trong ngọn gió,
Vui vui lắm khi vật chất hát to,
Vui với từng hạt nguyên tử vo vo
Cùng hòa tấu với cánh thiên thần nhỏ.

3. Con bỏ hẳn việc sử dụng minh triết chống lại người khác

3.1. Con buông bỏ mọi mong muốn tranh luận giống như các nhà trí thức, biến thảo luận thành cuộc tranh tài để xem ai là người khôn ngoan nhất, ứng đáp tài tình nhất. Con buông bỏ khuynh hướng cho rằng nhất định phải có một phe đối lập, nhất định phải có điều gì đúng và điều gì sai.

Chân sư Lanto, trí tuệ vô giá,
Phơi bày trong con dối gian tự ngã.
Chân sư Lanto, ý chí muốn Là,
Giúp con chinh phục điều ngự cái ta.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.2. Con buông bỏ tâm thức cho rằng những ai biết cái đúng, phải khống chế những ai không có cùng cái nhìn về cuộc sống và do đó nhất định phải sai lầm, giả trá, thuộc về ác quỷ.

Chân sư Lanto, cân bằng tất cả,
Minh triết quân bình, con nguyện thiết tha.
Chân sư Lanto, giúp con đi tìm,
Cân bằng là thế: Chìa khóa Hoàng kim.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.3. Con buông bỏ niềm tin cho rằng sự hiểu biết tâm linh của con cao siêu hơn mọi người khác, cho dù nó đến từ các chân sư thăng thiên hay từ những giáo lý hay vị thày khác. Con biết minh triết tối hậu vượt khỏi mọi ngôn từ. Nó toàn diện, nó bao trọn tất cả, nó là một chiêm nghiệm.

Chân sư Lanto, từ cõi bên Trên,
Xin thày rải xuống tình thương phân biện,
Chân sư Lanto, yêu không mù quáng
Thì mới tìm được Thượng đế minh quang.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.4. Con biết là khi diễn dịch qua ngôn từ thì bản chất toàn diện, bao trọn tất cả, sẽ bị phần nào đánh mất. Lời nói chỉ là dụng cụ để thăng vượt.

Chân sư Lanto, con biết chắc rằng
Làm chiên Ki-tô giữ ý sạch trong,
Chân sư Lanto, con sẽ vượt thăng,
Gia tốc đúng là người bạn chí thân.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.5. Con thấy được là khi con lấy một lời diễn đạt và biến nó thành chân lý tuyệt đối, con đã đánh mất Minh triết Thiêng liêng. Con đã thu được hiểu biết phàm phu nhân thế, nhưng nó khó lòng thay thế được hiểu biết đích thực.

Chân sư Lanto, con nay viên mãn,
Chẳng còn phân rẽ nào trong tâm hồn,
Chân sư Lanto, ngọn lửa hàn gắn,
Nhân danh của thày mọi sự bình quân.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.6. Con buông bỏ khuôn nếp lạm dụng minh triết bằng quyền năng. Con buông bỏ mong muốn nâng cao một lời diễn đạt thành một dạng minh triết cao hơn, phóng chiếu nó lên mọi thứ, và cho rằng mọi thứ phải tuân theo dạng minh triết này.

Chân sư Lanto, phụng sự nhân sinh,
Khi con vượt hết xung đột bên trong,
Chân sư Lanto, thày đem hoà bình
Trải xuống cho người ước ao thực sống.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.7. Con buông bỏ khuynh hướng phóng chiếu để buộc cả Phật Hằng sống lẫn Ki-tô Hằng sống phải tuân theo phin lọc nhận thức của con. Phật Hằng sống và Ki-tô Hằng sống đã đến để giúp con thoát ra khỏi hộp tư duy của con, và con sẵn sàng được tự do.

Chân sư Lanto, tự do được Là,
Trong sự sáng tạo luôn luôn cân xứng,
Chân sư Lanto, chúng con sử dụng
Cân bằng mở khóa cho tim vui mừng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.8. Con thấy được hộp tư duy của con bị đóng kín vì con đã lấy một lời tuyên bố về minh triết, rồi vận dụng quyền năng để nâng nó lên địa vị tuyệt đối. Lời tuyên bố minh triết của con có thể hoàn toàn hữu lý, nhưng nó không phải là cách duy nhất để mô tả thực tại. Nó không phải là chân lý duy nhất, bởi vì không hề có chân lý duy nhất.

Chân sư Lanto, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Chân sư Lanto, con đang cất cánh,
Trong tia sáng rực ngọn lửa ba nhánh.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.9. Bất kỳ lời diễn đạt nào cũng chỉ là một cách mô tả. Có nhiều hơn một cách diễn đạt hữu lý và hữu ích, nhưng tất cả chỉ là những cách mô tả. Con muốn nhập một với tánh linh đằng sau cách mô tả.

Lanto yêu dấu, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Minh triết Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4. Con với lên Tánh linh của Minh triết

4.1. Sự mô tả có thể giúp con thăng vượt ngôn từ và đạt được chiêm nghiệm toàn diện về Tánh linh của Minh triết, là tánh linh đã nảy sinh ra Lời, nhưng lại là nhiều hơn lời nói, nhiều hơn hình tướng.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.2. Con nay nhận ra với ngoại tâm ý thức của con, rằng mọi cách diễn đạt bằng ngôn từ chỉ là một cách mô tả thực tại vượt khỏi mọi ngôn từ.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.3. Một sự mô tả không phải là chân lý duy nhất, và không là cách diễn đạt duy nhất. Con nay buông bỏ mong muốn biến giáo lý thành một hộp tư duy đóng kín. Con đang được Chân sư Lanto dạy con trực tiếp.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.4. Ngay cả lời nói của Lanto cũng không thể nắm bắt được sự viên mãn của tánh linh mà thày là. Lanto yêu dấu, con muốn vượt khỏi lời nói để biết thày.

Ôi chân sư MORE, con sẽ chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Nay con là một với thày luôn luôn.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.5. Con dùng lời nói của thày như một phương thức để hòa điệu chiếc máy thâu thanh của tâm con với Hiện diện của thày, và con biết Lanto sẽ chia sẻ Hiện diện của thày với con.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.6. Con đang vượt qua khai ngộ nhằm gỡ bỏ phin lọc nhận thức đầu tiên của con trên Tia thứ Hai của Minh triết, bằng cách nhận ra Lanto là một tánh linh.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.7. Lanto yêu dấu, con biết thày là nhiều hơn tất cả những gì có thể biểu đạt qua lời nói. Con đang tiếp nhận và hấp thụ cái nhiều hơn đó.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày con luôn hằng có.
Ôi chân sư MORE, con lại được sống,
Trong dòng của thày niềm vui thường hằng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.8. Lanto yêu dấu, con sẵn sàng buông bỏ mọi lời diễn đạt nhằm mô tả thày, hay mô tả Thượng đế, hay mô tả thực tại tâm linh, hay mô tả cuộc sống trên địa cầu.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Con là cánh cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4.9. Lanto yêu dấu, con đang mở tâm ra một chiêm nghiệm hoàn toàn vượt khỏi ngôn từ. Con biết thày là nhiều hơn và con biết thày như là cái nhiều hơn đó. Con biết con như là cái nhiều hơn.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

15 | Cái Ta Biết và Hiện diện TA LÀ

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Guru Ma qua trung gian Kim Michaels, ngày 18/4/2014.

Hiện diện TA LÀ của con có đáp án cho mọi vấn đề con phải đối mặt trên trái đất, nhưng nếu con không hòa điệu được với Hiện diện TA LÀ của con thì con không cảm nhận được đáp án đó. Chìa khóa cốt yếu để thực sự bắt đầu hòa nhập với Hiện diện của con là nhận ra sự khác biệt cơ bản giữa Hiện diện TA LÀ của con và khái niệm của con về vị đạo sư. Con thấy không, khái niệm về vị đạo sư có thể rất, rất ích lợi nhưng khái niệm về vị đạo sư hàm ý, qua chính định nghĩa của nó, là con “ở đây” như một cá nhân khác biệt và vị đạo sư thì tách biệt khỏi con.

Đó là lý do tại sao vị đạo sư có ích cho con vì vị đạo sư không ở trong phin lọc nhận thức của con, không bị đui mù bởi những gì làm con đui mù. Vị đạo sư có thể cho con những hướng dẫn không đến từ bên trong phin lọc nhận thức của con và khi con làm theo hướng dẫn, nó giúp con vượt quá phin lọc nhận thức của mình. Như vậy, theo định nghĩa, con cần xem vị đạo sư như đứng bên ngoài con, ít nhất là bên ngoài ngã tách biệt của con.

15.1. Quan hệ của con với Hiện diện TA LÀ của con

Hiện diện TA LÀ của con không phải là đạo sư của con, Hiện diện TA LÀ là không phải người dạy con. Hiện diện không có mục đích dạy con bất cứ điều gì. Ngay cả một vị chân sư thăng thiên cũng là một sinh thể bên ngoài con. Thày đã nói là khi con chưa thăng thiên, con thường có một hình ảnh khô cứng, sùng bái về các chân sư thăng thiên. Con phải rũ bỏ hình ảnh này khi con thăng thiên và con tìm cách càng lúc càng nhập một với Hiện diện của các chân sư.

Ngay cả ngay sau khi thày thăng thiên, thày thấy mình là một sinh thể cá biệt. Thày thấy chân sư MORE và Saint Germain là những sinh thể cá biệt. Thày có thể hoàn toàn nhập một với Saint Germain – và đấy là một trải nghiệm tuyệt vời – nhưng thày vẫn biết là thày đang hòa nhập với một sinh thể cá biệt. Con sẽ luôn luôn coi một chân sư thăng thiên như khác biệt với mình, ngay cả sau khi con trở thành một chân sư thăng thiên.

Vậy thì làm sao con trở thành một chân sư thăng thiên? Ấy, lúc đầu, khi con tìm thấy giáo lý các chân sư thăng thiên và bắt đầu nghe nói về Hiện diện TA LÀ, con không thể tránh coi Hiện diện TA LÀ ở ngoài con. Khi cái Ta Biết nhìn mọi sự từ bên trong phin lọc nhận thức của một ngã tách biệt, thì quả thực Hiện diện TA LÀ ở bên ngoài ngã tách biệt. Hiện diện TA LÀ ở cõi tâm linh.

Một chân sư thăng thiên như chân sư MORE hay Giê-su, luôn luôn giữ vai trò vị thày của con, nhưng Hiện diện TA LÀ không được tạo ra để là vị thày của con. Hiện diện TA LÀ của con không phải là vị đạo sư ở bên ngoài con. Con thăng thiên cách nào? Bằng cách nhập một với Hiện diện, nhưng có một sự khác biệt vi tế hầu như không nắm bắt được cho tới khi con tới các tầng cao nhất của 144 tầng tâm thức.

Như thày đã nói, thày là một chân sư thăng thiên. Thày có thể nhập một với Saint Germain, nhưng thày biết thày đang nhập một với một sinh thể cá biệt. Khi con thăng thiên, khi con tới tầng 144 và nhảy bước vọt lượng tử cuối cùng, thì con nhập một với Hiện diện TA LÀ của con. Con không nhập một với Hiện diện của con như con nhập một với Saint Germain hay một vị chân sư thăng thiên khác.

Thày là một sinh thể khác biệt với Saint Germain. Thày có thể nhập một với Saint Germain và bước ra khỏi sự hòa nhập với Saint Germain nhưng hai thày vẫn là những sinh thể khác biệt. Khi con ở tầng 144 và nhập một với Hiện diện TA LÀ của con, con không hòa nhập với một sinh thể khác biệt. Con hòa nhập là một với chính mình. Hiện diện TA LÀ của con không phải là vị đạo sư của con. Hiện diện TA LÀ của con là con. Giáo lý vi tế này chỉ nắm bắt được khi con hoàn toàn hiểu và trải nghiệm, qua nhiều thoáng chốc, tính chất nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết.

15.2. Quyết định của Hiện diện TA LÀ của con

Trước khi con hiện thân lần đầu vào một bầu cõi dày đặc hơn, Hiện diện TA LÀ của con ở trên cõi tâm linh. Nó nhìn xuống và quyết định nó muốn phụng sự như một người đồng sáng tạo bằng cách phóng chiếu một phần của nó, một nối dài của nó xuống một cõi dày đặc và mang vào một thân xác nơi đó. Qua đó, nó sẽ trải nghiệm cõi này từ bên trong và sẽ giúp đồng sáng tạo cõi này, nâng cõi này lên cao để trở thành một phần viễn hằng của cõi tâm linh. Như thày đã nói, chuyện này có thể không xảy ra trong vũ trụ vật chất này. Nó có thể xảy ra ở một bầu cõi trước nhưng cơ chế vận hành cũng giống vậy.

Hiện diện TA LÀ gửi một nối dài của chính nó, nối dài này trở thành cái mà bây giờ các thày gọi là cái Ta Biết nhưng trước kia các thày gọi nó là cốt lõi của hồn (core of the soul). Khi gọi nó là cái Ta Biết và xem nó là nhận biết thuần khiết, thì điểm quan trọng là nó quả thực không có hình tướng, không có đặc tính. Nó có nhận biết nhưng không có đặc tính cá biệt khiến nó tách biệt với Hiện diện TA LÀ.

Chúng ta có thể nói ngay cả câu nói “Hiện diện TA LÀ gửi một nối dài của nó xuống thế giới vật chất” là một cách mô tả thô thiển. Một cách hay hơn là nói rằng Hiện diện TA LÀ tập trung chính nó vào thế giới vật chất, không phải là toàn thể chính nó nhưng một phần, một phần nối dài, của nhận biết của nó vào thế giới vật chất. Nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết có nhận biết về chính nó như một sinh thể cá biệt. Nó có ý chí tự do. Nó có thể quyết định muốn tập trung chính nó nơi nào.

Lúc đầu, nó quyết định đi vào một vai trò đã được quy định sẵn, có thể là trong Trường Bí giáo của Maitreya hay một trường bí giáo khác, và nó xem coi nó cảm thấy thế nào khi đóng vai trò đó. Qua vai trò đó, qua ngã đó, cái Ta Biết biểu lộ chính nó trong cõi vật lý hay trong trường bí giáo. Khi cái Ta Biết quyết định thử nghiệm tâm thức nhị nguyên, đã được gọi là hoa trái của hiểu biết về thiện và ác, thì nó mang vào những vai trò không do vị thày tâm linh quy định mà do sa nhân, các thày giả quy định.

15.3. Cỗ xe tâm hồn mang vẻ tâm linh

Qua tiến trình này, cái Ta Biết bắt đầu xây dựng cỗ xe tâm hồn. Như thày đã nói, cỗ xe tâm hồn có thể trở thành một cấu trúc rất phức tạp, rất tinh xảo và nó có thể mang vẻ rất, rất tâm linh. Cái Ta Biết tới điểm bắt đầu nhận ra có cái được gọi là thăng thiên và nó hình thành ý muốn thăng thiên. Chuyện này xảy ra vì giữa hai kiếp đầu thai, con quyết định con muốn theo đuổi mục đích thăng thiên. Khi con xuống hiện thân, có nhiều xác suất nhận biết ý thức của con chụp lấy khái niệm thăng thiên, khái niệm chân sư thăng thiên và con đường tâm linh dẫn tới thăng thiên.

Nhiều đệ tử vẫn còn tin rằng mục đích của con đường dẫn tới thăng thiên chỉ là kiện toàn ngã vỏ ngoài. Thày đã tìm cách giải thích không phải là như thế. Con cần buông bỏ ngã vỏ ngoài và con làm thế bằng cách nhìn vào những thành phần tạo nên ngã vỏ ngoài – là các phàm linh tạo nên ngã vỏ ngoài – và con vứt bỏ những quyết định, những ảo tưởng đã tạo nên chúng.

Chuyện xảy ra khi con vứt bỏ càng ngày càng nhiều những phàm linh đó, càng ngày càng nhiều những ảo tưởng đó, và con đạt tới tầng tâm thức 144? À, điều xảy ra là con bắt đầu xoay chuyển ý niệm bản ngã của con. Khi con ở các tầng thấp hơn của đường tu thì con hoàn toàn đồng hóa mình với ngã vỏ ngoài. Con nghĩ: “Tôi là người có tên này, tôi đến từ gia đình này, tôi sống ở quốc gia này, tôi sống trong xã hội này, tôi hành nghề này, tôi là chủng tộc này, tôi là sắc tộc này, tôi là phái tính này, tôi là cái này, tôi là cái nọ, tôi là cái kia nữa.” Con cho phép tất cả những điều vỏ ngoài đó quy định con và con hoàn toàn đồng hóa mình với chúng.

Khi con biết tới con đường tâm linh thì con nhận ra: “Ố, tôi là nhiều hơn mấy cái vỏ ngoài này và quả thực tôi muốn càng ngày càng nhập một với cái ta tâm linh của tôi.” Tùy con nhìn cái ta tâm linh này là gì, con vẫn xem nó là cái gì ở bên ngoài con, và khi con bắt đầu rũ bỏ những thành phần của ngã vỏ ngoài, thì con bắt đầu xoay chuyển bản sắc của mình. Thay vì nói: “Tôi là cái này, tôi ở dưới này trong cõi vật chất,” thì con bắt đầu nói: “Ồ, tôi là cái TA LÀ ở trên kia trong cõi tâm linh.” Con tới điểm bắt đầu có trải nghiệm ý thức về Hiện diện TA LÀ hay nhận được cảm nhận nội tâm từ Hiện diện.

15.4. Hiện diện TA LÀ không bảo con phải làm gì

Ở giai đoạn này có một khác biệt vi tế mà con cần nhận biết. Khi nhận biết điều này thì con sẽ dễ thực sự hòa điệu với Hiện diện của con hơn rất nhiều. Vị đạo sư sẽ nói chuyện với con và đôi khi con cảm thấy đây là một giọng nói bên ngoài đang nói với con. Nếu con có một đạo sư vật lý thì lẽ tất nhiên con nghe vị ấy nói với con với giọng nói vật lý. Ngay cả vị thày thăng thiên của con hay cái Ta Ki-tô của con sẽ thường đến với con như một giọng nói từ bên ngoài, một ý tưởng từ bên ngoài hay một Hiện diện bên ngoài đang hướng dẫn con. Trong nhiều trường hợp, các hướng dẫn này được diễn tả bằng lời.

Con cũng có thể không nghe thấy các hướng dẫn như một giọng nói bên trong đầu con, nhưng con vẫn có thể cảm nhận: “À, tôi phải làm điều này đây.” Con rõ ràng trải nghiệm sự hướng dẫn như đến từ ngoài con. Thày đã nói gì về Hiện diện TA LÀ của con? Hiện diện của con không phải là đạo sư của con. Thày biết rõ có nhiều đệ tử, ngay cả trong số các đệ tử của thày và chính thày nữa khi còn hiện thân, sẽ cảm thấy: “Ồ, tôi nhận được hướng dẫn này từ Hiện diện TA LÀ của tôi,” “Hiện diện TA LÀ của tôi bảo tôi làm điều này.” Thực sự không phải thế. Nếu con trải nghiệm sự hướng dẫn đến từ ngoài con, thì nó không đến từ Hiện diện TA LÀ của con, nó đến từ vị thày của con. Vị ấy có thể là vị thày nội tại là cái Ta Ki-tô của con hay một chân sư thăng thiên. Có thể con không nghe thấy sự hướng dẫn như một giọng nói bên ngoài mà con nhận được nó trong tâm mình nhưng con vẫn trải nghiệm nó đến từ đâu đó bên ngoài con. Nhiều, rất nhiều đệ tử đã phóng chiếu một hình ảnh khô chết lên Hiện diện TA LÀ và nghĩ rằng mình đã nhận được hướng dẫn từ Hiện diện TA LÀ, nhưng quả thực nó đến từ sinh thể đang là đạo sư bên ngoài của con. Lời hướng dẫn này vẫn có thể chân chính và trong nhiều trường hợp đây là một lời hướng dẫn chân chính. Chỉ là nó không đến từ Hiện diện của con.

Có một giai đoạn trên đường tu khi chuyện con nghĩ hướng dẫn đến từ Hiện diện của con là chuyện hoàn toàn không sao cả. Khi con tiến lên các tầng cao hơn về hướng tầng 144, thì con quả thực cần xoay chuyển nhận biết của mình. Con cần nhận ra mục đích của vị thày khác với mục đích của Hiện diện TA LÀ. Mục đích của vị thày là cho con hướng dẫn để giúp con nâng cao tâm thức, bước đi trên con đường tâm linh trên trái đất, làm những gì con cần làm trên trái đất, kể cả việc hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con, quân bằng nghiệp quả, vân vân.

Đây là vai trò của vị thày, nhưng đây không phải là vai trò của Hiện diện TA LÀ của con. Vai trò của Hiện diện TA LÀ đơn giản là có mặt với con như một Hiện diện, như khung tham chiếu tối hậu của con để nhận rõ cái thật và cái không thật, không những trong thế giới vật lý mà đặc biệt trong thế giới nội tâm của con. Thày vừa nói chuyện gì xảy ra? Con xoay chuyển ý niệm bản sắc của con xa ra khỏi ngã vỏ ngoài và tiến về Hiện diện. Mục đích của Hiện diện là gì? Mục đích của nó là giúp con xoay chuyển ý niệm bản sắc đó và nhận ra con có một bản sắc khác không phải là ngã vỏ ngoài.

Khi nhận biết của con mở rộng hơn, con bắt đầu cảm nhận Hiện diện của con nhưng con không nghe thấy Hiện diện của con như một tiếng nói từ ngoài. Con bắt đầu cảm nhận Hiện diện của con như một Hiện diện nội tại. Nó không cho con hướng dẫn, giáo lý. Nó cho con một khung tham chiếu về bản sắc thật của con là gì. Khi con cảm nhận được điều này, con có thể so sánh cảm nhận này với những gì đến từ ngã vỏ ngoài, từ các phàm linh. Con có thể biết ngay lập tức: “Cái phàm linh này, cái tiếng nói này, không phải là cái tôi là. Tôi hơn thế; tôi là cái TA LÀ ở trên kia!”

Có thể là con chưa trải nghiệm Hiện diện của con trọn vẹn và rõ ràng, nhưng con cảm nhận có cái gì ở đó nhiều hơn ngã vỏ ngoài. Hiện diện TA LÀ của con cho con cảm nhận đó. Đây là vai trò của Hiện diện, và đây là lý do tại sao con cần xoay chuyển. Nếu con phóng chiếu lên Hiện diện là Hiện diện phải giống như vị đạo sư, phải giống tiếng nói từ ngoài thì con không thể đi xa hơn một tầng nào đó. Con không thể lên tới tầng 144 ngày nào con còn xem Hiện diện TA LÀ như một tiếng nói bên ngoài hay một sinh thể bên ngoài.

Con cần rũ bỏ hình ảnh này, hình ảnh khô chết này để con không giơ hình ảnh này lên trước vị Thượng đế thật là Hiện diện của con. Chính Hiện diện TA LÀ của con nói chuyện với con từ bụi cây bốc lửa lúc đầu, nhưng sau này trên đường tu không còn bụi cây nữa, không còn tiếng nói nữa, không còn gì đang bốc cháy, chỉ có Hiện diện. Khi con tới tầng 144, bước cuối cùng của con là buông bỏ chính cốt lõi của ngã vỏ ngoài và ở đây một lần nữa có một sự khác biệt vi tế.

15.5. Cái ta cuối cùng con phải lột bỏ trước khi thăng thiên

Khi cái Ta Biết lần đầu tiên đầu thai, thày có nói là nó mang vào một ngã vỏ ngoài, một vai trò đã được quy định sẵn và nó dần dần bồi đắp thêm vai trò này. Điều đầu tiên cái Ta Biết mang vào là cảm nhận nó là một sinh thể cá nhân cá biệt. Nó có một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm khác với ý niệm bản ngã quả cầu của Hiện diện TA LÀ.

Hiện diện TA LÀ không phải là đấng Sáng tạo, nó không có nhận biết của Thượng đế. Nếu con đang hiện thân trên trái đất thì Hiện diện TA LÀ của con không phải là một sinh thể tiến hóa cao so với các Sinh thể Hoàn vũ và đấng Sáng tạo. Nó có tiềm năng phát triển tới nhận biết trọn vẹn của Thượng đế nhưng nó chưa đạt tới đó. Sự thực là nó gửi con xuống để giúp nó phát triển hầu nó đạt được các trạng thái tâm thức cao hơn. Hiện diện TA LÀ của con sẽ vẫn tiếp tục tăng triển sau khi con thăng thiên và sự việc con xuống cõi vật chất sẽ giúp Hiện diện TA LÀ của con tăng triển.

Khi con mới xuống, con bỗng nhiên nhận ra: “TÔI LÀ, do đó tôi có thể suy nghĩ và tôi có thể nhận biết điều gì đang xảy ra trong thế giới vật chất.” Sau đó con mang vào cảm nhận con là một cái ta cá biệt, cá nhân, tách biệt. Nếu lúc đó con nhận biết trọn vẹn Hiện diện của con thì con sẽ thấy mình tách biệt khỏi Hiện diện. Con ở dưới này, Hiện diện ở trên kia.

Khi con vươn lên về hướng tầng tâm thức 144, con dần dần buông bỏ cảm nhận có khoảng cách giữa con và Hiện diện. Khi con ở tầng 144, để có thể thăng thiên con phải lột bỏ cái cốt lõi của ngã tách biệt. Cốt lõi này vượt xa hơn cái mà chúng ta trong giáo đoàn gọi là kẻ ngụ trên ngưỡng cửa. Nó thực sự vượt quá cái mà trong đa số trường hợp được gọi là tự ngã. Hay chúng ta cũng có thể nói nó chính là cốt lõi của tự ngã. Nó không phải là kẻ ngụ trên ngưỡng cửa vì kẻ này là một phàm linh mà con có thể lột bỏ và có lúc con tới điểm con quả thực đã lột bỏ tất cả mọi phàm linh. Con đã vứt bỏ hết mọi phàm linh nhưng con vẫn còn cảm nhận cốt lõi con là một sinh thể tách biệt khỏi Hiện diện.

Khi con ở tầng 144 và hoàn toàn sẵn sàng thăng thiên thì con lột bỏ cảm nhận cuối cùng tách biệt khỏi Hiện diện đó và con trở thành một với Hiện diện. Con có thể cần suy ngẫm điều này. Thày hoàn toàn nhận biết là nhiều người sẽ phản đối giáo lý này, chất vấn nó, thậm chí còn xem nó là hư giả. Khi thày còn hiện thân thì thày không thể nắm bắt được giáo lý này. Thày sẽ chối bỏ là con mất hết mọi ý niệm bản ngã vì thày vẫn cảm thấy phải có một phần của cỗ xe tâm hồn có thể được Thượng đế chấp nhận vì có bao nhiêu việc vỏ ngoài mà thày đã hoàn thành trên trái đất. Do đó, chắc chắn phải đem được phần ngã kiện toàn đó lên vương quốc.

15.6. Chuyện gì xảy ra cho cái Ta Biết

Ngay cả người sứ giả này đã biết khái niệm cái Ta Biết từ nhiều năm vẫn phải vật lộn với giáo lý trên. Chuyện gì thực sự xảy ra cho cái Ta Biết khi con thăng thiên? Nó biến mất chăng?

Tới đây thì ngôn từ không đủ để mô tả thực tại. Thày đã nói gì trước đây? Hiện diện TA LÀ tập trung chính nó như cái Ta Biết, nó tập trung chính nó như một cái ta trụ vào một nơi. Cái ta trụ vào một nơi này được cho quyền tự quyết nên nó lấy nhiều quyết định dưới này trong hành trình của nó. Khi nó buông bỏ khía cạnh cuối cùng của ngã tách biệt, nó buông bỏ quyền tự quyết của nó, nó buông bỏ nhận biết trụ vào một nơi của nó. Nó trở lại thành Hiện diện tập trung như sự toàn bộ của nó.

Con có thể nói cái Ta Biết trở thành một với Hiện diện TA LÀ, hòa nhập lại vào Hiện diện TA LÀ, buông bỏ ý niệm bản sắc, cá thể, sự hiện hữu của nó. Tất cả những chữ này đều thích ứng nhưng con cần chú ý một điểm. Các chữ này đều đặt trọng tâm vào cách cái Ta Biết trải nghiệm bởi vì điều cái Ta Biết đã làm trong suốt hành trình của nó là trải nghiệm thế gian như một cái ta cá biệt, trụ vào một nơi. Cái Ta Biết đã tin rằng: “Tôi là một sinh thể cá biệt và tôi đang trải nghiệm cái tôi đang trải nghiệm.”

Nhưng con có thể nói là thực sự chưa bao giờ có một sinh thể cá biệt. Con có thể nói chưa bao giờ có một cái Ta Biết bởi vì trong suốt hành trình đó lúc nào cũng chỉ là Hiện diện TA LÀ tập trung chính nó vào một điểm. Không phải là cái Ta Biết đã từng làm mọi điều. Đó là lý do tại sao Giê-su đã nói: “Chính ta không thể làm gì cả.” Giê-su cũng có thể nói: “Ta không có cái ngã riêng, nó là một ảo tưởng.”

Đây là một ảo tưởng mà con không thể đơn giản buông bỏ khi con chưa tới tầng 144. Nếu con buông bỏ nó thì con còn không thể đi từ từng 143 lên tầng 144. Con cần một cỗ xe để leo lên cầu thang xoắn ốc của con đường đưa tới thăng thiên. Con cần cảm nhận có cái “ta” đang hội đủ điều kiện, đang thăng lên, đang vươn lên qua các tầng của vũ trụ vật chất và các tầng tâm thức có thể có được ở đây.

Khi con lên tới đỉnh thì con cần vứt bỏ cỗ xe cuối cùng này, cái ý niệm có một cái ta đang đi trên hành trình. Con bắt đầu trở lại nhận biết mình là Hiện diện tròn đầy. Hiện diện bây giờ hơn là khi cái Ta Biết đi xuống. Những trải nghiệm của cái Ta Biết, những quyết định nó đã lấy, đã thăng vào Căn thể. Do đó, Hiện diện TA LÀ bây giờ hơn trước. Con hơn trước.

Con không thăng thiên cho tới khi cái Ta Biết buông bỏ ý niệm nó là cái Ta Biết và trở lại thành Hiện diện tròn đầy. Ở điểm này, Hiện diện TA LÀ xoay chuyển nhận biết của nó. Nó không còn tập trung như là cái Ta Biết dưới này, giờ đây nó tập trung như là một sinh thể thăng thiên.

15.7. Một sự xoay chuyển kỳ diệu

Một lần nữa từ ngữ không đủ để diễn tả. Bất cứ điều gì thày nói ở đây sẽ bị tự ngã áp chồng lên một suy diễn tùy theo tầng tâm thức của con. Suy diễn này có mục đích giữ con mắc kẹt trong ngã vỏ ngoài khiến con quyết định: “Ồ, một phần của ngã vỏ ngoài của tôi mà tôi không thể buông bỏ được, mà tôi không cần buông bỏ, mà tôi không nên buông bỏ.”

Khi con tiến lên cao hơn trên đường tâm linh, mọi chuyện sẽ dễ dàng cho con hơn bội phần nếu con nhận ra rằng thăng thiên có nghĩa là buông bỏ khía cạnh cuối cùng của ngã tách biệt, ngay cả ý niệm con là một ngã tách biệt.  Ở các tầng cao hơn của đường tu, con bắt đầu thấy một cách ý thức nhu cầu buông bỏ một số thành phần của ngã vỏ ngoài. Con không thể buông bỏ được cho tới khi con thấy và thấy ngã tách biệt không phải thật sự là con vì con cảm nhận được Hiện diện: “À, tôi là là cái TA LÀ trên kia, không phải là cái ta nhỏ bé dưới này!”

Con tiếp tục làm như vậy, con tiếp tục có nhận biết: “À, đây chỉ là cái ta nhỏ bé dưới này mà tôi đang trải nghiệm và từ trước tới giờ tôi đã trải nghiệm cuộc sống xuyên qua ngã nhỏ bé này. Nhưng nó chỉ là một phàm linh, nó chỉ là một thành phần khác của ngã vỏ ngoài. Bây giờ tôi đã thấy đây là ngã vỏ ngoài, tôi cũng nhận biết tôi là nhiều hơn ngã vỏ ngoài vì tôi là cái TA LÀ ở trên kia.” Con tiếp tục làm thế khi con lên cao hơn và cao hơn, nhưng khi con tới tầng 144, con thấy: “Ồ, thậm chí tôi còn không phải là cái ta ở dưới này. Tôi không tách biệt khỏi cái TA LÀ ở trên kia vì cái TA LÀ trên kia không ở “trên kia”. Nó ở đây – hay tôi đang ở đó – vì đâu có tách biệt. TÔI Hiện diện.”

Đây là một sự xoay chuyển tâm thức kỳ diệu tuyệt vời. Thày ước chi có thể mô tả xoay chuyển này bằng lời cho con, nhưng thày quá dư biết ngã vỏ ngoài của con sẽ lạm dụng khi thày cố gắng mô tả nó. Nó là một sự giải thoát kỳ diệu. Bỗng nhiên, Hiện diện TA LÀ của con ý thức rằng nó là một chân sư thăng thiên, một sinh thể thăng thiên. Đây là một sự chuyển hóa kỳ diệu khi trải nghiệm nó. Khi con trải nghiệm nó, khi con trải nghiệm nó xong, con có thể nhìn lại. Ngay cả trước khi con trải nghiệm nó, con cũng quay nhìn lại. Một trong những điểm quan trọng lúc đó là khi con vươn lên cao hơn, hướng tới tầng 144, con bắt đầu nhìn vào tất cả những phàm linh đó và buông bỏ chúng. Rồi con nhìn lại cuộc đời con.

15.8. Nhìn mọi chuyện là cơ hội để tăng triển

Ví dụ như khi con xem xét một phàm linh đặc thù, con nhìn xem mình trải nghiệm cuộc sống như thế nào qua phàm linh đó. Con có thể thấy là mình lấy một số quyết định xuyên qua phin lọc của phàm linh này. Con nhìn vào những hậu quả của quyết định đó, con thấy là những hậu quả này rất khó chịu đối với con, quyết định của con cũng có thể gây ra đủ loại hậu quả, đủ loại khổ đau cho người khác. Con thấy rõ ràng là, nhìn theo một nhãn quan nào đó, con có thể nói những quyết định này sai, không đúng. Con cũng nhận ra rằng chúng không phải là sự biểu hiện của con người mà con thật là. Chúng chỉ là sự biểu hiện của phàm linh đó, của ý niệm bản ngã tách biệt đó.

Con cũng thấy rằng dù chuyện gì xảy ra, dù hậu quả là gì chăng nữa, đấy vẫn là một cơ hội cho con tăng triển. Đúng đấy, có thể con đã làm gì đó xuyên qua một phàm linh nào đó và hành động của con tạo khổ đau cho người khác, nhưng không phải hành động của con tạo ra khổ đau. Sự kiện là những người này trải nghiệm hành động của con xuyên qua phin lọc của một phàm linh đặc thù của họ, xuyên qua ngã vỏ ngoài đặc thù của họ.

Điều tạo khổ đau cho con là con trải nghiệm hành động của mình xuyên qua phin lọc nhận thức của cùng phàm linh đã khiến con làm những gì con làm. Con hành động dựa theo phin lọc nhận thức của một phàm linh, và sau đó con trải nghiệm và phê phán chính hành động của mình và phê phán mình xuyên qua cùng phin lọc nhận thức đó. Đó là lý do tại sao con cảm thấy đau khổ dữ dội như vậy ngày nào con còn ở trong phin lọc nhận thức.

Khi con thấy phin lọc không thực, khi con tách mình ra và không đồng hóa với phin lọc này, con cũng thấy, như thày đã nói trong bài giảng trước, là bất cứ gì xảy ra trên trái đất chỉ trải bày những điều trẻ em chơi trên bãi cát. Mọi chuyện rốt cuộc đều không thực. Tất cả những năng lượng được dùng để tạo nên mọi chuyện đều có thể chuyển hóa được.

Con trải nghiệm là con đã từng chuyển hóa năng lượng bị một phàm linh tha hóa và do đó con biết năng lượng này không còn nữa. Và sẽ tới điểm con nhìn những gì con đã làm xuyên qua phàm linh đó và con hoàn toàn không ân hận. Tất cả những mặc cảm tội lỗi, xấu hổ, ân hận, cảm thấy mình ngu xuẩn, mình đã làm lỗi, mình là kẻ tội đồ, mình vô giá trị, con bỗng nhiên nhìn ra là tất cả những mặc cảm này đều chỉ là sản phẩm của chính phàm linh đã hành động như thế.

15.9. Khi con rốt cuộc ngừng phán xét bản thân

Con phán xét hành động của mình xuyên qua chính phàm linh đã khiến con hành động như vậy để làm gì chứ? Thay vào đó con có thể với lên tới Hiện diện của con và trải nghiệm Hiện diện nhìn hoàn cảnh như thế nào. Con trải nghiệm là Hiện diện của con không hề có bất cứ phán xét nào của phàm linh. Hiện diện hoàn toàn không có chút phán xét bởi vì đối với Hiện diện nó chỉ là một trải nghiệm mà Hiện diện có thể dùng để quy định con là ai một cách tích cực.

Con có thể nói là khi cái Ta Biết trải qua tiến trình bước đi trên đường tâm linh để đi tới thăng thiên, thì cái Ta Biết nhìn vào một phàm linh, nhìn vào những hành động đã làm xuyên qua phàm linh đó, cái Ta Biết trải nghiệm cuộc sống như thế nào qua phàm linh đó, và sau đó nó tới kết luận ý thức là: “Tôi không là như thế. Tôi là hơn thế.” Cái Ta Biết tập trung vào hành động đã làm, điều gì không tích cực, điều gì không phải là biểu hiện cao nhất của con người mà nó là. Cái Ta Biết tập trung vào: “Tôi không phải là cái này.” Trải nghiệm này là của cái Ta Biết. Hiện diện TA LÀ có một trải nghiệm hoàn toàn khác với cái Ta Biết. Hiện diện không nhìn vào lỗi lầm, nó không hề có bất cứ cảm xúc tiêu cực nào. Nó còn không nghĩ: “Tôi không là như vậy.” Quả thực Hiện diện trải nghiệm toàn bộ hoàn cảnh một cách hoàn toàn tích cực. Nó không nói: “Điều này sai quấy” hay “Tôi không phải là người này.” Nó biến mọi chuyện thành một kinh nghiệm tích cực và sau đó nó nói: “Ồ, tôi là cái này,” một cách tích cực.

Ví dụ, con có thể có kinh nghiệm cái Ta Biết đồng hóa nó là người tội đồ. Có thể con đã bị ảnh hưởng bởi quan niệm tội đồ của Cơ đốc giáo, có thể con đã làm điều gì đó mà Cơ đốc giáo quy định là tội lỗi. Có thể con đã chấp nhận cho mình: “Ồ, tôi thực là người tội đồ. Tại sao tôi làm thế? Đáng lẽ tôi không được làm thế. Tôi quá sai trái khi làm thế.”

Đây là một phàm linh. Khi phàm linh này được tạo ra, có một khía cạnh của phàm linh khiến con làm điều tội lỗi, và sau đó có khía cạnh khác của phàm linh được tạo ra cùng một lúc phán xét con khi con hành động như thế. Chúng đều là thành phần của phàm linh đó. Hay chúng là hai phàm linh riêng biệt nảy sinh từ cùng một quyết định, tùy con muốn diễn tả thế nào qua ngôn từ. Hiện diện TA LÀ của con nhìn vào trải nghiệm này và nói: “Tôi là người đồng sáng tạo có quyền tự quyết và tôi có thể chọn hơn nữa. Tôi chọn lựa tôi là thế này; tôi chọn lựa biểu hiện mình cách này.”

15.10. Ý nghĩa của tất cả những vật vã của con là gì?

Con có thấy chăng là lúc đầu, trước khi con bước trên con đường tâm linh một cách ý thức, thì cái Ta Biết của con xây dựng một ngã vỏ ngoài, sinh diệt, tách biệt? Khi con tìm thấy con đường tâm linh và ý thức về con đường thì con bắt đầu dần dần phá vỡ cái ngã mà con đã gày dựng. Con xây dựng một ngã tách biệt cho tới khi con bị mắc kẹt trong đó đến độ con không chịu nổi nữa. Sau đó con kêu lên xin giải cứu. Con tiếp xúc với một vị thày tâm linh chân chính và con bắt đầu con đường dẫn con trở về trạng thái thanh khiết của lúc ban đầu khi con mới xuống đầu thai, nhờ con đã phá vỡ ngã vỏ ngoài.

Khi con tiến tới những tầng cao hơn của con đường, cái Ta Biết bắt đầu nghĩ: “Tất cả chuyện này có ý nghĩa gì? Tại sao tôi phải trải qua cái mớ rối rắm này, xây dựng cái ngã vỏ ngoài ghê khiếp này và trải qua tất cả những kinh nghiệm kinh khủng này, để rồi giờ đây tôi lại phải phá vỡ trở lại ngã vỏ ngoài này. Tại sao Thượng đế lại gạt gẫm tôi như thế?”

Điều con không nhận ra là trong khi con xây dựng ngã tách biệt, ngay cả khi con đi xuống những tầng tâm thức từ tầng 48 xuống tới tầng thấp nhất có thể có trên trái đất, thì Hiện diện TA LÀ của con có một trải nghiệm hoàn toàn tích cực. Nó dùng mỗi trải nghiệm của cái Ta Biết để quy định chính nó một cách tích cực. “Tôi là cái này. Tôi là thế này. Tôi làm điều này. Tôi biểu hiện mình như thế này.” Khi cái Ta Biết xoay chuyển và bắt đầu phá vỡ ngã vỏ ngoài, thì Hiện diện TA LÀ của con giản dị tiếp tục trải nghiệm tích cực của nó.

Mọi chuyện xảy ra “dưới này” được Hiện diện TA LÀ của con biến thành một kinh nghiệm tích cực giúp nó quy định chính nó, quy định chính nó là thế nào như một sinh thể thăng thiên. Hiện diện TA LÀ của con đang xây dựng bản sắc của nó như một chân sư thăng thiên trong khi con, cái Ta Biết, đang ở trong trạng thái không thăng thiên. Mọi chuyện con đã trải nghiệm, mọi việc con đã làm chỉ giúp xây dựng bản sắc tích cực của con như một chân sư thăng thiên.

2| Con thỉnh cầu uy lực sáng tạo của con (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Maraytaii và Mẹ Mary, hãy giúp con khắc phục mọi cảm nhận bất lực hay cảm nhận con là nạn nhân của những yếu tố ngoài tầm kiểm soát của con. Xin các thày giúp con chấp nhận uy lực sáng tạo của con và thấy những yếu tố ngăn cản dòng chảy của sự sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con, kể cả …

[Đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Vũ trụ sẽ cho con sự dồi dào

1.1. Đấng Cha thật sự hoan hỷ cho con đời sống dồi dào cả về mặt tâm linh, tâm lý và vật chất.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin gióng tiếng chiêng,
gọi con về nhà, con thuộc nơi đó,
Con biết mẹ đây yêu con thánh thiện,
trong niệm biết này, con được tự do.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

1.2. Thượng đế thực sự muốn con được cuộc sống dồi dào. Thượng đế hoan hỷ ban nó cho con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin ôm con chặt,
con cộng hưởng theo ánh sáng mẹ dắt.
Nhạc mẹ thanh tẩy tim con vô ngã,
tình yêu của mẹ, con ban tất cả.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

1.3. Có cái gì đó đang ngăn trở con nhận được sự dồi dào mà Thượng đế muốn con có.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, hợp nhất với mẹ,
tim mẹ rực lên mặt trời sáng chói.
Tâm con khuếch đại âm thanh của mẹ,
thánh âm mẹ hiền phóng to khắp cõi.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

1.4. Thượng đế đã thiết kế một tạo vật rất đẹp và kỳ diệu, trong đó có nhiều sự dồi dào.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con nghe thấy liền,
âm vi tế của Bầu cõi Thiêng liêng.
Tâm con hòa điệu Âm Ngân Vũ trụ,
vượt lên ngã nhỏ, con tinh tấn tu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

1.5. Con công nhận có rất nhiều vì sao trên trời và vũ trụ thật bao la.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, đưa con về nhà,
con hòa điệu theo Thánh ngữ OM đây, 
Âm của mọi âm nâng con cao mãi,
chỉ còn ánh sáng trong chén con đầy.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

1.6. Một Thượng đế có khả năng thiết kế một vũ trụ phức tạp như vậy chắc chắn có thể thiết kế hành tinh trái đất để nó có thể đem lại cuộc sống dồi dào.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con là một phần
bài nhạc giao hưởng từ vũ trụ ngân.
CON LÀ nhạc khí thanh âm trong sáng,
dạo lên âm thánh từ cõi thiên đàng.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

1.7. Thượng đế đã thiết kế vũ trụ vật chất có khả năng cho con mọi sự con cần cho sự tăng trưởng tự nhận biết của con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con xin thỉnh cầu
bước vào sảnh đường âm nhạc thiêng liêng.
Con sẽ hòa nhập dòng sống vươn lên
tới bầu trời cao sao sáng nhiệm màu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

1.8. Không có gì trục trặc về phía Thượng đế, nghĩa là vấn đề nằm ở tầng cấp của con người.

Ôi Mẹ Hoàn vũ so dây đàn con,
toàn bản thể con cùng hát với mẹ.
Bài ca của mẹ, con dội âm theo,
tình yêu hoàn vũ con vui mừng đón.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

1.9. Con lấy trách nhiệm về sự kiện Thượng đế không cho con sự dồi dào nghĩa là chắc chắn con đã gạt bỏ nó mà không biết.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con yêu chất ngất,
tình ca của mẹ, giữ con chân chất.
Mẹ đổ đầy con thánh âm rất thật,
có mẹ đây rồi, cô đơn biến mất.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2. Con là người đồng sáng tạo với Thượng đế

2.1. Có điều gì đó thiếu sót trong hình ảnh chung về Thượng đế và con muốn biết thực tại của Thượng đế.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin gióng tiếng chiêng,
gọi con về nhà, con thuộc nơi đó,
Con biết mẹ đây yêu con thánh thiện,
trong niệm biết này, con được tự do.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.2. Thượng đế đã cho con người khả năng cai quản trái đất và khả năng sáng tạo để thay đổi môi trường một cách tích cực và có ý thức.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin ôm con chặt,
con cộng hưởng theo ánh sáng mẹ dắt.
Nhạc mẹ thanh tẩy tim con vô ngã,
tình yêu của mẹ, con ban tất cả.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.3. Đấng Sáng tạo của con đã tạo tác con theo hình ảnh của Ngài và giống như Ngài, có nghĩa là con có sự tự nhận biết, trí tưởng tượng và quyền tự quyết tinh vi.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, hợp nhất với mẹ,
tim mẹ rực lên mặt trời sáng chói.
Tâm con khuếch đại âm thanh của mẹ,
thánh âm mẹ hiền phóng to khắp cõi.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.4. Khả năng sáng tạo của con cho con tiềm năng hành động như một nối dài của Thượng đế, như là bàn tay và bàn chân của Thượng đế.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con nghe thấy liền,
âm vi tế của Bầu cõi Thiêng liêng.
Tâm con hòa điệu Âm Ngân Vũ trụ,
vượt lên ngã nhỏ, con tinh tấn tu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.5. Con được thiết kế là người đồng sáng tạo với Thượng đế trên trái đất và hoàn tất công trình sáng tạo mà Thượng đế đã bắt đầu.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, đưa con về nhà,
con hòa điệu theo Thánh ngữ OM đây, 
Âm của mọi âm nâng con cao mãi,
chỉ còn ánh sáng trong chén con đầy.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.6. Con không được tạo ra để sống thụ động trên trái đất mà để đóng góp một vai trò tích cực trong việc thể hiện vương quốc Thượng đế trên hành tinh này.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con là một phần
bài nhạc giao hưởng từ vũ trụ ngân.
CON LÀ nhạc khí thanh âm trong sáng,
dạo lên âm thánh từ cõi thiên đàng.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.7. Sâu tận đáy tâm con biết con đáng lẽ phải có sự dồi dào, con biết là cuộc đời phải khác, phải khá hơn tình trạng hiện tại.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con xin thỉnh cầu
bước vào sảnh đường âm nhạc thiêng liêng.
Con sẽ hòa nhập dòng sống vươn lên
tới bầu trời cao sao sáng nhiệm màu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.8. Con có thể sử dụng trí tưởng tượng để hình dung một cái gì kém hơn điều Thượng đế muốn cho con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ so dây đàn con,
toàn bản thể con cùng hát với mẹ.
Bài ca của mẹ, con dội âm theo,
tình yêu hoàn vũ con vui mừng đón.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.9. Con có thể sử dụng quyền tự quyết để chọn thể hiện một tình trạng không dồi dào bằng thiết kế nguyên thủy của Thượng đế.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con yêu chất ngất,
tình ca của mẹ, giữ con chân chất.
Mẹ đổ đầy con thánh âm rất thật,
có mẹ đây rồi, cô đơn biến mất.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

3. Dồi dào là trạng thái tự nhiên

3.1. Con có tiềm năng xây dựng thêm trên nền tảng của Thượng đế và thể hiện nhiều dồi dào hơn những gì thiên nhiên được thiết kế để cung cấp.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin gióng tiếng chiêng,
gọi con về nhà, con thuộc nơi đó,
Con biết mẹ đây yêu con thánh thiện,
trong niệm biết này, con được tự do.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

3.2. Xã hội loài người đã đi vào trạng thái thiếu thốn phi tự nhiên dẫn tới nghèo đói và bất công.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin ôm con chặt,
con cộng hưởng theo ánh sáng mẹ dắt.
Nhạc mẹ thanh tẩy tim con vô ngã,
tình yêu của mẹ, con ban tất cả.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

3.3. Sâu trong tim con, con biết thiếu thốn và đau khổ không phải là chuyện tự nhiên, chúng là điều không phải, chúng không phải là ý muốn của Thượng đế.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, hợp nhất với mẹ,
tim mẹ rực lên mặt trời sáng chói.
Tâm con khuếch đại âm thanh của mẹ,
thánh âm mẹ hiền phóng to khắp cõi.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

3.4. Trạng thái tự nhiên trên hành tinh địa cầu là tất cả mọi người được dồi dào mọi tặng vật tốt lành và toàn hảo.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con nghe thấy liền,
âm vi tế của Bầu cõi Thiêng liêng.
Tâm con hòa điệu Âm Ngân Vũ trụ,
vượt lên ngã nhỏ, con tinh tấn tu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

3.5. Con người đã ngăn trở tình trạng tự nhiên trên trái đất, ngăn trở dòng chảy của sự dồi dào của Thượng đế.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, đưa con về nhà,
con hòa điệu theo Thánh ngữ OM đây, 
Âm của mọi âm nâng con cao mãi,
chỉ còn ánh sáng trong chén con đầy.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

3.6. Con buông bỏ một cách ý thức niềm tin cho rằng con đang sống trên một hành tinh nơi đó khổ đau và thiếu thốn không thể tránh. Con chấp nhận dồi dào là trạng thái tự nhiên.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con là một phần
bài nhạc giao hưởng từ vũ trụ ngân.
CON LÀ nhạc khí thanh âm trong sáng,
dạo lên âm thánh từ cõi thiên đàng.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

3.7. Thượng đế đã thiết kế hành tinh này để nó có mọi tài nguyên cần thiết để cung cấp một cuộc sống dồi dào cho tất cả mọi người.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con xin thỉnh cầu
bước vào sảnh đường âm nhạc thiêng liêng.
Con sẽ hòa nhập dòng sống vươn lên
tới bầu trời cao sao sáng nhiệm màu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

3.8. Con quyết định một cách ý thức là con sẵn sàng xem xét làm sao chính con đã dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết của mình để giới hạn, làm trệch hướng và ngăn cản dòng chảy tự nhiên của sự dồi dào của Thượng đế.

Ôi Mẹ Hoàn vũ so dây đàn con,
toàn bản thể con cùng hát với mẹ.
Bài ca của mẹ, con dội âm theo,
tình yêu hoàn vũ con vui mừng đón.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

3.9. Con thấy được làm sao chính con có thể ngưng ngăn cản dòng chảy tự nhiên của sự dồi dào của Thượng đế. Con đang thừa hưởng vương quốc của Đấng Cha và trải nghiệm cuộc sống dồi dào khi con còn đang hiện thân trên trái đất.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con yêu chất ngất,
tình ca của mẹ, giữ con chân chất.
Mẹ đổ đầy con thánh âm rất thật,
có mẹ đây rồi, cô đơn biến mất.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4. Con theo cách tiếp cận tích cực

4.1. Con thăng vượt cách tiếp cận tiêu cực nghĩ rằng bởi vì con hiện đang không có dồi dào, nên điều này phải có nghĩa là Thượng đế không muốn cho con sự dồi dào ngay lúc này.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin gióng tiếng chiêng,
gọi con về nhà, con thuộc nơi đó,
Con biết mẹ đây yêu con thánh thiện,
trong niệm biết này, con được tự do.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.2. Con sẽ không chờ đợi và hy vọng nữa rằng một ngày kia, Thượng đế sẽ đổi ý và cho con cuộc sống dồi dào.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin ôm con chặt,
con cộng hưởng theo ánh sáng mẹ dắt.
Nhạc mẹ thanh tẩy tim con vô ngã,
tình yêu của mẹ, con ban tất cả.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.3. Con thăng vượt niềm tin cho rằng  con đang ở trong vị thế chờ đợi hay con là một nạn nhân bất lực của hoàn cảnh và của các lực ngoài tầm kiểm soát của con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, hợp nhất với mẹ,
tim mẹ rực lên mặt trời sáng chói.
Tâm con khuếch đại âm thanh của mẹ,
thánh âm mẹ hiền phóng to khắp cõi.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.4. Con quyết định một cách ý thức là con theo cách tiếp cận tích cực và con chấp nhận là điều tự nhiên là con có được sự dồi dào.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con nghe thấy liền,
âm vi tế của Bầu cõi Thiêng liêng.
Tâm con hòa điệu Âm Ngân Vũ trụ,
vượt lên ngã nhỏ, con tinh tấn tu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.5. Con chấp nhận là nếu con không được dồi dào, đó là vì có cái gì trong con ngăn cản dòng chảy của nó vào cuộc đời của con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, đưa con về nhà,
con hòa điệu theo Thánh ngữ OM đây, 
Âm của mọi âm nâng con cao mãi,
chỉ còn ánh sáng trong chén con đầy.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.6. Con đang thấy cái gì ngăn cản sự dồi dào, con đang tháo gỡ những rào cản đó. Sự dồi dào của Thượng đế tự nhiên tuôn chảy vào cuộc đời của con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con là một phần
bài nhạc giao hưởng từ vũ trụ ngân.
CON LÀ nhạc khí thanh âm trong sáng,
dạo lên âm thánh từ cõi thiên đàng.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.7. Thượng đế đã cho con khả năng đồng sáng tạo, có nghĩa là Thượng đế sẽ không cho con cuộc sống dồi dào. Con đang dùng những khả năng sáng tạo của con để tuôn chảy với Dòng sông sự Sống.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con xin thỉnh cầu
bước vào sảnh đường âm nhạc thiêng liêng.
Con sẽ hòa nhập dòng sống vươn lên
tới bầu trời cao sao sáng nhiệm màu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.8. Con đang khơi mở và kích hoạt lại khả năng đồng sáng tạo của con. Con đang dùng chúng để đem lại sự dồi dào cho tất cả.

Ôi Mẹ Hoàn vũ so dây đàn con,
toàn bản thể con cùng hát với mẹ.
Bài ca của mẹ, con dội âm theo,
tình yêu hoàn vũ con vui mừng đón.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.9. Con đang nhận các chìa khóa của vương quốc và con đang chấp nhận sự hướng dẫn của các vị thày thăng thiên của con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con yêu chất ngất,
tình ca của mẹ, giữ con chân chất.
Mẹ đổ đầy con thánh âm rất thật,
có mẹ đây rồi, cô đơn biến mất.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Maraytaii và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả những  người trong vòng ảnh hưởng của con trong dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó con chấp nhận chuyện này đã hoàn toàn thể hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói ra nó. Amen.

16 | Con thỉnh cầu tình yêu cuộc sống

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Omega và Mẹ Mary, hãy giúp con biết mình là ai và tại sao con ở đây. Hãy giúp con neo chặt vào lựa chọn nguyên thủy đã khiến con đến đây, một lựa chọn xuất phát từ tình yêu và vui mừng. Hãy giúp con đón nhận khả năng sáng tạo của con và nhìn ra các yếu tố ngăn chặn dòng chảy sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con, kể cả …

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con chấp nhận con có tiềm năng thay đổi tất cả

1.1. Con công nhận là tâm con có bốn tầng – tầng bản sắc, tầng lý trí, tầng cảm xúc và tầng vật lý hay ý thức.

Ôi Omega, con nay thiền định
bên ngai của thày nơi cổng hoàn vũ.
Từ hình số tám, con sinh thanh tú,
Alpha và thày, từ đó con sinh.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.2. Con công nhận là bốn tầng này của tâm con hình thành một cấu trúc có cấp bậc. Ý niệm bản sắc của con đặt giới hạn cho tư tưởng, tư tưởng đặt thông số cho cảm xúc, và cảm xúc ảnh hưởng các chọn lựa ý thức của con.

Ôi Omega, ở nơi linh thánh,
con giang tay ôm phụ mẫu vũ trụ.
Thật là hồng ân, con sao may mắn,
gia nhập cuộc đua hoàn vũ, con tu.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.3. Con công nhận là con đồng-sáng tạo bằng cách dùng ánh sáng chảy xuống từ Hiện diện TA LÀ của con. Ánh sáng này chảy qua bốn tầng của tâm con, khoác vào hình dạng những hình ảnh được lưu trữ ở đó, và hoàn cảnh vỏ ngoài của con là sự biểu hiện của các hình ảnh này.

Omega, nơi Mặt trời Trung ương,
thày dạy sống là niềm vui hoàn vũ.
Con giành chiến thắng, tu là sung sướng,
bắt đầu về nhà, tiến bước trơn tru.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.4. Các hình ảnh con giữ trong bốn tầng của tâm con không tự dưng xuất hiện từ hư vô. Cái Ta Biết được trù liệu phải cai quản quả cầu cái ta của con. Cái Ta Biết được trù liệu phải nắm quyền điều khiển bốn thể phàm của con.

Ôi Omega, nguyên lý của nữ
là cửa đi vào vô thỉ vô biên,
Đồng cảm với thày, âm này con giữ,
con nhận ra rồi bản sắc thiêng liêng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.5. Con có một hệ miễn dịch tâm lý. Không gì có thể đi vào bốn thể phàm của con mà không có con ưng thuận. Tất cả những gì đã vào được bốn thể phàm là do con đã quyết định như vậy. Việc con quyết định để cho cái ta hữu diệt làm người gác cổng cho vương quốc của con vẫn là một quyết định mà chính con đã lấy.

Ôi Omega, trong dòng chảy đó,
Sứ vụ Thiêng liêng của mình con rõ.
Tim con giờ sáng như ngọn đèn đỏ,
tình thương chan hòa, mọi người con cho.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.6. Con công nhận là không gì có thể đi vào bốn thể phàm của con mà không có con đồng ý. Con lấy lại quyền thanh lọc bốn thể phàm. Không gì có thể ở lại trong các thể này mà không có con đồng ý.

Ôi Omega, Lửa Mẹ vũ trụ,
từ ngọn lửa thày con đã sinh ra.
Con gia nhập vào cuộc chơi hoàn vũ,
chiến thắng Ki-tô công bố gần xa.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.7. Con sẵn lòng phơi bày mọi ý tưởng nhị nguyên từ tâm phản Ki-tô. Con quyết định là con không muốn bất kỳ ý tưởng giả trá nào ở lại trong bản thể con. Chúng sẽ bị trục xuất và được thay thế bởi sự thật Ki-tô mà con đã chọn thay vào lời dối của phản Ki-tô.

Ôi Omega, con nay hiểu thật
vì sao con xuống đầu thai trái đất.
Tim con ấp ủ ý định rõ ràng,
giúp hành tinh này cất cánh vượt thăng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.8. Con lấy lại quyền thay thế tức khắc bất kỳ chọn lựa nào trong quá khứ bằng một chọn lựa tốt hơn trong hiện tại. Cái Ta Biết có quyền năng thay đổi bất kỳ quyết định nào con đã lấy trong quá khứ. Con luôn luôn có quyền năng thay thế một quyết định gây giới hạn bằng một quyết định giúp con giải thoát.

Ôi Omega, con khao khát quá,
gia nhập hợp xướng hoàn vũ hát ca.
Tim con bùng cháy ngọn lửa Ki-tô,
ngọn lửa thánh hóa hành tinh xô bồ.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.9. Con nay chấp nhận hoàn toàn là con có thể thay đổi thế giới bằng cách thay đổi chính mình. Con biết là khi con thay đổi các hình ảnh trong bốn tầng tâm con, hoàn cảnh vỏ ngoài của con cũng sẽ phải thay đổi, vì đó chỉ là sự phóng chiếu của những cuộn phim trong tâm mình lên màn hình cuộc sống.

Ôi Omega, tim con rực lên,
đời con bước vào giai đoạn vươn lên.
Xin thày dạy con câu chú bí huyền,
con nâng địa cầu lên cõi thượng thiên.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2. Con phục hồi viễn quan dồi dào của Thượng đế

2.1. Sự sống dồi dào phải đến từ cõi tâm linh xuyên qua Hiện diện TA LÀ của con. Con nay nối kết lại với viễn quan thuần khiết của sự sống dồi dào được lưu trữ trong Hiện diện TA LÀ. Viễn quan này đang tuôn chảy không cản trở, không pha loãng, xuyên qua bốn tầng của vũ trụ vật chất cho đến khi nó xuống đến cõi vật lý và được chuyển thành điều kiện vật lý.

Ôi Omega, con nay thiền định
bên ngai của thày nơi cổng hoàn vũ.
Từ hình số tám, con sinh thanh tú,
Alpha và thày, từ đó con sinh.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.2. Con được thiết kế để là một người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Con đang với lên tầng mức Hiện diện TA LÀ và thấy được viễn quan dồi dào toàn hảo của Thượng đế dành cho con. Con nắm lấy viễn quan này, đem nó vào thể bản sắc. Con đặt toàn bộ ý niệm bản sắc của con – là bản sắc liên quan đến cách con tự biểu đạt trong cõi vật chất – trên nền tảng viễn quan dồi dào của Thượng đế.

Ôi Omega, ở nơi linh thánh,
con giang tay ôm phụ mẫu vũ trụ.
Thật là hồng ân, con sao may mắn,
gia nhập cuộc đua hoàn vũ, con tu.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.3. Con đem viễn quan dồi dào của Thượng đế xuống tầng tư tưởng. Con khiến nó cụ thể hơn bằng cách nối liền nó với các điều kiện con gặp trên trái đất.

Omega, nơi Mặt trời Trung ương,
thày dạy sống là niềm vui hoàn vũ.
Con giành chiến thắng, tu là sung sướng,
bắt đầu về nhà, tiến bước trơn tru.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.4. Con đang đem viễn quan dồi dào của Thượng đế xuống tầng cảm xúc và chuyển nó thành mong muốn, là mong muốn đích thực của Thượng đế sẽ không giới hạn mà chỉ nhân lên khả năng sáng tạo của con.

Ôi Omega, nguyên lý của nữ
là cửa đi vào vô thỉ vô biên,
Đồng cảm với thày, âm này con giữ,
con nhận ra rồi bản sắc thiêng liêng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.5. Con đang dùng những mong muốn chân chính này – vị thần linh sinh tạo xuyên qua con – để phú cho tư tưởng sức mạnh và phương hướng cần thiết, hầu tư tưởng chuyển thành hành động vật lý và hoàn cảnh vật lý. Con đang đồng-sáng tạo sự sống dồi dào ngay đây trên hành tinh địa cầu.

Ôi Omega, trong dòng chảy đó,
Sứ vụ Thiêng liêng của mình con rõ.
Tim con giờ sáng như ngọn đèn đỏ,
tình thương chan hòa, mọi người con cho.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.6. Ánh sáng Thượng đế đang loại bỏ các rào cản khỏi bốn tầng tâm con. Cái Ta Biết khoác vào ý niệm bản sắc đích thực của con như một sinh thể tâm linh có quyền năng trên hoàn cảnh vỏ ngoài. Con biết con là ai và tại sao con ở đây, và con đang thị hiện viễn quan toàn hảo của Thượng đế cho đời con, cho hành trình của con trong vũ trụ vật chất.

Ôi Omega, Lửa Mẹ vũ trụ,
từ ngọn lửa thày con đã sinh ra.
Con gia nhập vào cuộc chơi hoàn vũ,
chiến thắng Ki-tô công bố gần xa.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.7. Cái Ta Biết của con thấy nó là một sinh thể tâm linh bất diệt chỉ đang tự biểu đạt xuyên qua bốn thể phàm. Con nhận biết được thể bản sắc vì con biết con là nhiều hơn nội dung của thể này.

Ôi Omega, con nay hiểu thật
vì sao con xuống đầu thai trái đất.
Tim con ấp ủ ý định rõ ràng,
giúp hành tinh này cất cánh vượt thăng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.8. Con đang dùng quyền năng thay đổi các hình ảnh trong thể bản sắc theo viễn quan toàn hảo của tâm Ki-tô. Con đang thay đổi một cách ý thức thể bản sắc của con bằng cách chất vấn và nhìn xuyên thấu các hình ảnh được lưu trữ ở đó.

Ôi Omega, con khao khát quá,
gia nhập hợp xướng hoàn vũ hát ca.
Tim con bùng cháy ngọn lửa Ki-tô,
ngọn lửa thánh hóa hành tinh xô bồ.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.9. Con trải nghiệm bản sắc của con là nhiều hơn những gì được tìm thấy trong thể bản sắc của con. Con sẵn lòng để cho cái ta hữu diệt chết đi, cho nên con chinh phục kẻ thù cuối cùng của sự chết. Con được tái sinh vào bản sắc bất diệt của con.

Ôi Omega, tim con rực lên,
đời con bước vào giai đoạn vươn lên.
Xin thày dạy con câu chú bí huyền,
con nâng địa cầu lên cõi thượng thiên.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3. Con tái nối kết với tình yêu cuộc sống

3.1. Tâm ý thức không thể thay đổi cảm xúc của con. Thể cảm xúc không thể thay đổi tư tưởng của con. Thể lý trí không thể thay đổi ý niệm bản sắc của con. Nhưng cái Ta Biết có khả năng tự phóng chiếu trực tiếp vào thể bản sắc và thách thức ý niệm bản sắc hữu diệt của con.

Ôi Omega, con nay thiền định
bên ngai của thày nơi cổng hoàn vũ.
Từ hình số tám, con sinh thanh tú,
Alpha và thày, từ đó con sinh.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.2. Con đang dùng chìa khóa của hiểu biết ở trong con để thay đổi ý niệm bản sắc. Một khi con thay đổi ý niệm bản sắc, không thể tránh là con sẽ thay đổi tư tưởng. Khi con thay đổi tư tưởng, cảm xúc của con cũng sẽ thay đổi, và như vậy hành động vật lý cũng thay đổi theo.

Ôi Omega, ở nơi linh thánh,
con giang tay ôm phụ mẫu vũ trụ.
Thật là hồng ân, con sao may mắn,
gia nhập cuộc đua hoàn vũ, con tu.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.3. Con muốn đạt thành quả tối hậu, con muốn tăng triển tối đa. Con đang thách thức bản sắc là một người phàm trần hữu diệt. Con đang thách thức tất cả mọi hạn chế đã được lập trình vào trong con bởi cái ta hữu diệt của con, bởi tâm phản Ki-tô, bởi gia đình, giáo hội và nhà nước.

Omega, nơi Mặt trời Trung ương,
thày dạy sống là niềm vui hoàn vũ.
Con giành chiến thắng, tu là sung sướng,
bắt đầu về nhà, tiến bước trơn tru.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.4. Con là một sinh thể tâm linh vô biên. Con ở đây không chỉ để hưởng đời sống vật chất sung sướng, mà con đến đây với một sứ vụ tâm linh quan trọng.

Ôi Omega, nguyên lý của nữ
là cửa đi vào vô thỉ vô biên,
Đồng cảm với thày, âm này con giữ,
con nhận ra rồi bản sắc thiêng liêng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.5. Con có một cảm nhận sâu sắc hơn về chí hướng, về ý nghĩa, về cuộc đời như một cơ hội tuyệt vời để biểu lộ khả năng sáng tạo của mình và trở nên nhiều hơn nữa trong thiết kế mà Đấng Sáng tạo đã dành cho con.

Ôi Omega, trong dòng chảy đó,
Sứ vụ Thiêng liêng của mình con rõ.
Tim con giờ sáng như ngọn đèn đỏ,
tình thương chan hòa, mọi người con cho.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.6. Con đang thay đổi một cách lớn lao và cơ bản trong mọi khía cạnh cuộc sống bằng cách thay đổi cách con nhìn mọi chuyện. Cảm giác vật lộn dần dần giảm bớt và đang biến mất hoàn toàn.

Ôi Omega, Lửa Mẹ vũ trụ,
từ ngọn lửa thày con đã sinh ra.
Con gia nhập vào cuộc chơi hoàn vũ,
chiến thắng Ki-tô công bố gần xa.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.7. Cuộc sống không là một gánh nặng áp đặt lên con. Con đang cảm thấy cuộc đời là một cơ hội to lớn mà chính con đã nắm lấy bởi vì dòng sống của con, cái Ta Biết, đã thực sự mong muốn đi vào cõi vật chất để đem sự toàn hảo của viễn quan cao hơn của con vào cõi này.

Ôi Omega, con nay hiểu thật
vì sao con xuống đầu thai trái đất.
Tim con ấp ủ ý định rõ ràng,
giúp hành tinh này cất cánh vượt thăng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.8. Con quả thực đã muốn đến đây vì con muốn góp phần vào kế hoạch vĩ đại đem vương quốc Thượng đế đến hành tinh địa cầu. Qua đó, con đổ đầy ánh sáng và sự thật vào bầu cõi này của vũ trụ vật chất để bóng tối không còn nữa, và tất cả chỉ phản ánh sự toàn hảo được cất giữ trong tâm Ki-tô hoàn vũ.

Ôi Omega, con khao khát quá,
gia nhập hợp xướng hoàn vũ hát ca.
Tim con bùng cháy ngọn lửa Ki-tô,
ngọn lửa thánh hóa hành tinh xô bồ.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.9. Trong cốt lõi bản sắc con, con biết con ở đây vì con yêu sinh thể mà con là, và con muốn chia sẻ sinh thể mà con là, một người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Cuộc sống không phải là một gánh nặng, cuộc sống không do một Thượng đế bất công áp đặt lên con. Cuộc sống là một cơ hội, cuộc sống là một chọn lựa, và con đang chọn SỰ SỐNG.

Ôi Omega, tim con rực lên,
đời con bước vào giai đoạn vươn lên.
Xin thày dạy con câu chú bí huyền,
con nâng địa cầu lên cõi thượng thiên.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4. Con là một Mặt trời của sự Sống

4.1. Trong quá khứ xa xôi, con đã chọn bước xuống cõi vật chất này để đem ánh sáng vào bóng tối. Con đang thách thức ý niệm bản sắc giới hạn của mình, và con được tái sinh trong nhận biết nguyên thủy rằng con là ai và tại sao con đến đây.

Ôi Omega, con nay thiền định
bên ngai của thày nơi cổng hoàn vũ.
Từ hình số tám, con sinh thanh tú,
Alpha và thày, từ đó con sinh.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.2. Mọi cảm nhận vật lộn đang tan biến giống như sương tan trong tia nắng bình minh. Con đang nhìn thấy mặt trời của bản thể cao của con, mặt trời của Hiện diện TA LÀ, chiếu xuyên qua tất cả mọi tầng của tâm con.

Ôi Omega, ở nơi linh thánh,
con giang tay ôm phụ mẫu vũ trụ.
Thật là hồng ân, con sao may mắn,
gia nhập cuộc đua hoàn vũ, con tu.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.3. Mặt trời đang rọi sáng xuyên qua bốn thể phàm của con, làm tan chảy bóng tối và mọi giới hạn. Cảm giác vật lộn đang theo chân biến mất như thể nó chưa bao giờ hiện hữu. Đời con khoác vào một ý nghĩa và một hướng đi hoàn toàn mới.

Omega, nơi Mặt trời Trung ương,
thày dạy sống là niềm vui hoàn vũ.
Con giành chiến thắng, tu là sung sướng,
bắt đầu về nhà, tiến bước trơn tru.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.4. Con đang nối kết lại với thực tại cuộc sống. Cuộc sống là an lạc. Cuộc  sống là dòng chảy liên tục của tình thương Thượng đế, niềm vui Thượng đế, hạnh phúc Thượng đế đang xuôi chảy đằng sau mọi hình tướng bề mặt được lưu trữ trong bốn phần thấp của tâm con.

Ôi Omega, nguyên lý của nữ
là cửa đi vào vô thỉ vô biên,
Đồng cảm với thày, âm này con giữ,
con nhận ra rồi bản sắc thiêng liêng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.5. Con đang lao mình vào dòng chảy của sự sống và chạm được niềm vui tái ngộ với cái Tất Cả của Thượng đế, niềm vui góp phần vào đồ án vĩ đại là sự trải bày của công trình sáng tạo của Thượng đế.

Ôi Omega, trong dòng chảy đó,
Sứ vụ Thiêng liêng của mình con rõ.
Tim con giờ sáng như ngọn đèn đỏ,
tình thương chan hòa, mọi người con cho.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.6. Đây là tấm thảm của sự sống, tráng lệ đến độ không ai có thể tham gia mà không cảm thấy kinh ngạc lẫn biết ơn, biết ơn là mình được chứng kiến sự trải bày của thiết kế vĩ đại này từ một góc nhìn cá nhân, đặc biệt.

Ôi Omega, Lửa Mẹ vũ trụ,
từ ngọn lửa thày con đã sinh ra.
Con gia nhập vào cuộc chơi hoàn vũ,
chiến thắng Ki-tô công bố gần xa.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.7. Cuộc sống là niềm vui. Đây là thực tại đằng sau mọi vật lộn của con người trên hành tinh này.

Ôi Omega, con nay hiểu thật
vì sao con xuống đầu thai trái đất.
Tim con ấp ủ ý định rõ ràng,
giúp hành tinh này cất cánh vượt thăng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.8. Con đang giúp mọi người nhìn xa hơn cảm giác vật lộn và cho phép một tia nắng của mặt trời bản thể cao của họ rọi xuyên qua. Tia nắng này xua tan cảm giác vật lộn để họ có thể nối kết lại với niềm vui đích thực là chính bản thể họ.

Ôi Omega, con khao khát quá,
gia nhập hợp xướng hoàn vũ hát ca.
Tim con bùng cháy ngọn lửa Ki-tô,
ngọn lửa thánh hóa hành tinh xô bồ.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.9. Con đang thấy một tia nắng rọi qua tâm thức con, cho con bằng chứng không thể chối cãi là, thật vậy, cuộc sống là nhiều hơn những gì hầu hết mọi người trên hành tinh này trải nghiệm. Con đang với lên và trải nghiệm Mặt trời của sự Sống, Mặt trời của Hiện diện TA LÀ của con.

Ôi Omega, tim con rực lên,
đời con bước vào giai đoạn vươn lên.
Xin thày dạy con câu chú bí huyền,
con nâng địa cầu lên cõi thượng thiên.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Omega và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy.” Do đó con chấp nhận là điều này đã hoàn toàn biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói nó ra. Amen.

14 | Con thỉnh cầu khả năng làm chủ vật chất (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Venus và Mẹ Mary, hãy giúp con thăng vượt tư duy phản-Ki-tô và đạt tâm thức Ki-tô sẽ cho con khả năng làm chủ vật chất. Xin các thày giúp con thăng vượt mọi chướng ngại đang ngăn cản khả năng thị hiện sự dồi dào của con, kể cả …

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con nhận tiềm năng là Ki-tô của con

1.1. Con hoàn toàn đủ khả năng là người đồng-sáng tạo với Thượng đế ngay đây trên trái đất. Con hợp nhất với nguồn cội của con thay vì tách biệt khỏi Thượng đế. Con và Hiện diện TA LÀ của con là một.

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.2. Trạng thái tâm thức mà Giê-su chứng minh là ý niệm bản sắc dựa trên thực tại của con người thật của con thay vì dựa trên hình ảnh con người giả của con. Con chấp nhận con có tiềm năng biểu hiện quả vị Ki-tô cá nhân.

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.3. Con thuộc vào phong trào đang tìm cách dò tìm tiềm năng tâm làm chủ vật chất. Con học cách hoán chuyển năng lượng tâm lý thành chất liệu vật chất bằng cách hạ độ rung của nó và khiến nó khoác vào hình tướng vật lý.

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.4. Chìa khóa thật để có dồi dào là vượt lên trên sức mạnh. Con biết rằng đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc. Con có thể đạt mọi chuyện con cần qua tình thương thay vì sức mạnh.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.5. Con xoay chuyển từ cách tiếp cận sự sống dựa trên thiếu thốn và sợ hãi sang cách tiếp cận dựa trên dồi dào và tình thương.

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.6. Con gia tăng nhận biết về khả năng sáng tạo của con. Con biết các quy luật thiên nhiên và những quy luật lớn hơn của Thượng đế cung cấp khung sườn trong đó các quy luật thiên nhiên vận hành.

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.7. Con thấy mình là một với Thượng đế và với Thân thể Thượng đế trên trái đất. Con là một thành phần của một tổng thể lớn hơn. Con là một cá thể hóa của Thượng đế.

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.8. Con hoàn toàn nhận ra và chấp nhận con là một phần của tạo vật của Thượng đế. Con biết là Thượng đế hoan hỷ cho con vương quốc và con không cần phải sống trong thiếu thốn hay lấy mọi thứ bằng sức mạnh.

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.9. Con trải nghiệm tình thương toàn hảo, tình thương vô điều kiện mà Thượng đế có đối với con là một nối dài của ngài. Đây là tình thương toàn hảo sẽ xua tan mọi sợ hãi ra khỏi bản thể con. Con tiếp cận cuộc sống dựa trên tình thương.

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2. Con thuộc vào Thân thể Thượng đế

2.1. Con thương yêu Thượng đế với tất cả trái tim, tâm và hồn của con và con yêu thương người hàng xóm như chính con. Con nhận ra người hàng xóm con. Con và người hàng xóm đều là thành phần của cùng Thân thể Thượng đế và chúng con đều đến từ cùng một nguồn gốc.

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.2. Thượng đế không tách biệt khỏi con, Thượng đế là một phần của con vì con là một phần của Thượng đế. Con là một cá thể hóa của Thượng đế. Con yêu Thượng đế như chính con vì Thượng đế cái ta thật của con, bản sắc thật của con.

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.3. Cái ta vỏ ngoài, cái ý niệm bản sắc dựa trên tách biệt khỏi Thượng đế, không là người hành động. Hiện diện TA LÀ bên trong con là người hành động. Nó là nguyên nhân đầu tiên, là nguồn cội của mọi tặng vật tốt lành và toàn hảo.

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.4. Con sử dụng các quy luật thiên nhiên để thỏa mãn các mong muốn của con mà chỉ cần bỏ ít sức hơn. Con thỏa mãn các nhu cầu của con mà không dùng sức mạnh, không lấy từ người khác hay dùng sức mạnh để lấy từ Mẹ Thiên nhiên.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.5. Con đạt khả năng dùng tư tưởng làm chủ vật chất, dùng tâm làm chủ vật chất. Con đạt được mức tương xứng làm chủ con tim. Con là một với Thượng đế và một với người khác.

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.6. Con đạt được nhận biết trọn vẹn mình là một nối dài của Thượng đế. Con có sự quân bình toàn hảo giữa mong muốn cá nhân và điều gì tốt cho tất cả mọi người khác.

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.7. Con thỏa mãn mong muốn cá nhân của con trong sự hài hòa với các quy luật Thượng đế, những quy luật được thiết kế để bảo đảm điều tốt nhất cho tổng thể.

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.8. Con dùng uy lực của tâm để tác động lên năng lượng một cách hoàn toàn hài hòa với các quy luật Thượng đế, trong đó quy luật quan trọng nhất là Luật Tình thương đem lại sự hài hòa giữa cá nhân và tổng thể.

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.9. Con thăng vượt tư duy phản-Ki-tô. Con quở trách ác ma và bác bỏ cám dỗ dùng các khả năng của tâm con với mục đích ích kỷ.

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3. Con có uy lực thay đổi hoàn cảnh của con

3.1. Tâm thức phản-Ki-tô không dính dáng đến con. Con phục vụ Thượng đế xuyên qua tâm thức Ki-tô.

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.2. Con chọn sự sống. Con chọn tâm thức Ki-tô là cánh cửa dẫn tới đời sống bất tử, đời sống vĩnh cửu của sự hợp nhất với cội nguồn của con và với mọi sự sống.

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.3. Con nhìn quá những mong muốn ngắn hạn của con. Con chấp nhận là hành động của con có những hậu quả mà con không thể tránh được. Con sẽ gặt hái trong một kiếp tương lai những gì con gieo trong kiếp này.

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.4. Con chấp nhận là tái sinh có thực, có nghĩa là Thượng đế công minh và không trừng phạt bất cứ ai. Những hoàn cảnh mà con kinh nghiệm trong kiếp sống này là hậu quả của những chọn lựa mà con đã lấy trong những kiếp trước.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.5. Con học hỏi từ những chọn lựa quá khứ của con và con thăng vượt tâm thức khiến con lấy những chọn lựa đó. Con kêu gọi cơ hội tăng triển thị hiện trong kiếp sống hiện thời của con mà không bị gián đoạn bởi hành vi từ một kiếp trước.

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.6. Ước muốn duy nhất của Thượng đế là con tăng trưởng qua sự thăng vượt không ngừng trạng thái tâm thức của con, ý niệm bản sắc của con.

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.7. Những hoàn cảnh mà con kinh nghiệm trong kiếp sống này không phải là sự trừng phạt của Thượng đế và cũng không phải là kết quả của trò chơi may rủi. Chúng là hậu quả của những nguyên nhân mà con đã khởi động trong một kiếp trước qua những chọn lựa của con trong những kiếp đó.

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.8. Hoàn cảnh hiện nay của con không do Thượng đế tạo ra; nó do chính tự ngã của con tạo ra. Con đang gặt những gì con đã gieo trong quá khứ. Con thăng vượt cảm giác con là nạn nhân của những lực ngoài tầm kiểm soát của con.

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.9. Con đảm nhận một vai trò tích cực và đứng thẳng hàng với các quy luật Thượng đế, với Hiện diện TA LÀ của con. Con là cánh cửa mở cho ánh sáng Hiện diện TA LÀ của con tuôn chảy xuống thế giới này và biểu hiện sự dồi dào.

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4. Con ở trong cái một

4.1. Con cất bước trên con đường chân chính và khoa học dẫn tới dồi dào bền vững. Con bước trên con đường chân chính dẫn tới đời sống dồi dào có thể duy trì mãi mãi nếu con tiếp tục ở trong tâm thức Ki-tô.

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.2. Con là một người đồng-sáng tạo có ý thức, với lên cõi tâm linh để mang nhiều năng lượng tâm linh hơn vào quang phổ tần số vật chất. Con gia tăng tổng lượng dồi dào có sẵn trên thế giới này xuyên qua tâm Ki-tô.

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.3. Uy lực sáng tạo tối hậu là đem năng lượng tâm linh vào quang phổ tần số vật chất. Một tâm bị kẹt trong ích kỷ không thể làm việc này.

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.4. Con thăng vuợt lòng ích kỷ qua cảm nhận hợp nhất với Thượng đế và với Thân thể Thượng đế. Con tiếp cận được sự dồi dào vô tận của Thượng đế.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.5. Con với lên cõi tâm linh và tải xuống nhiều năng lượng Thượng đế hơn. Con biểu hiện nhiều dồi dào hơn là nếu con chỉ làm việc ở tầng chất liệu vật lý.

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.6. Con đạt được điều ngự tâm linh và tâm thức Ki-tô. Con biểu hiện dồi dào mà không bị kẹt trong tâm thức phản-Ki-tô.

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.7. Con không chỉ biểu hiện dồi dào vật chất. Con biểu hiện đời sống dồi dào trường tồn, đời sống vĩnh cửu.

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.8. Con bước ra ngoài cái chết, vượt lên trên tâm thức chết để đi vào đời sống trường cửu của tâm thức Ki-tô. Con đạt được vương quốc Thượng đế, và con biết là mọi thứ khác quả thực sẽ được cộng thêm cho con.

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.9. Con muốn về nhà nơi vương quốc đấng Cha và con không tìm đường tắt. Con sẵn sàng để cho tâm đó ngự trong con và tâm đó cũng chính đã và đang là tâm Giê-su Ki-tô.

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Venus và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả những người trong vòng ảnh hưởng của con trong dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó con chấp nhận là chuyện này đã hoàn toàn thể hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói ra nó. Amen.

14 | Con thỉnh cầu sự chứng nghiệm đức tin

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Nữ chân sư Venus và Mẹ Mary, hãy giúp con khắc phục mọi nghi ngờ và xây dựng một đức tin dựa trên cái biết nội tâm. Xin các thày giúp con đón nhận khả năng sáng tạo của con và nhìn ra các yếu tố ngăn chặn dòng chảy sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con, kể cả …

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con đang thay đổi cách con tiếp cận cuộc sống

1.1. Con đang thăng vượt xu hướng chờ đợi điều kiện ngoại cảnh phải thích hợp trước khi con có thể hành động, trước khi con thay đổi chính mình, trước khi con từ bỏ một phần nào đó của cái ta hữu diệt.

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.2. Con đang thăng vượt nhu cầu của tự ngã muốn được an toàn tối hậu, muốn tạo ảo tưởng an toàn bằng cách kiểm soát mọi khía cạnh trong đời con.  

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.3. Nguồn tối hậu và duy nhất của sự trọn vẹn đích thực là khi cái Ta Biết tự đồng hóa với Hiện diện TA LÀ của con. Con lao mình vào Dòng sông sự Sống.

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.4. Chìa khóa thực sự của trọn vẹn là nhập vào Dòng sông sự Sống, tức là không ngừng tự thăng vượt. Con trọn vẹn vì con liên tục thăng vượt chính mình, liên tục trở nên hơn nữa. Đây là niềm vui cuộc sống, đây là sự trọn vẹn đích thực.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.5. Con thấy là cái ta hữu diệt được lập trình để cố sức ngăn con thăng vượt chính mình, ngăn con bước ra ngoài chiếc hộp tư duy do tin tưởng nhị nguyên của nó quy định.

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.6. Con đang thăng vượt lời dối bảo rằng toàn hảo có nghĩa là đứng yên. Con thăng vượt nỗi sợ tăng trưởng, nỗi sợ thay đổi. Bản chất cuộc sống là tăng trưởng, nghĩa là tự thăng vượt.

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.7. Con thấy cái ta hữu diệt đang đeo đuổi mục tiêu vô vọng là chế tạo sự trọn vẹn bằng cách kiểm soát thế giới chung quanh. Cho nên con buông bỏ mọi nỗi sợ mất mát.

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.8. Con thấy cách tiếp cận hiện thời của con đã không đem lại sự sống dồi dào, cho nên cách thực tế duy nhất để thị hiện dồi dào là thay đổi cách tiếp cận cuộc sống. Quả thực con sẵn lòng thay đổi cách tiếp cận của con.

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.9. Nguyên tắc cốt yếu để thị hiện dồi dào là nếu con muốn đời con thay đổi, thì chính con phải thay đổi. Con sẵn lòng khởi sự thay đổi chính mình. Con đang đi bước đầu tiên là thay đổi tâm thức của con, thay đổi cách con tiếp cận cuộc sống.

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2. Con ở trong tâm thức dồi dào

2.1. Con sẵn lòng từ bỏ một phần ý niệm bản sắc hiện thời của con. Con sẵn lòng từ bỏ các tin tưởng nhị nguyên của cái ta hữu diệt, vì chúng giữ con kẹt lại trong nhà tù của các giới hạn và cảm giác thiếu thốn.

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.2. Con thấy được nguyên lý của sự tăng trưởng. Con sẵn lòng để cho ý niệm bản sắc hiện thời chết đi, hầu con có thể tái sinh vào một ý niệm bản sắc mới, rộng lớn hơn.

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.3. Con thấy là con không thể bước vào một ý niệm bản sắc mới cho đến khi con sẵn lòng để cho bản sắc cũ chết đi. Con sẵn lòng buông bỏ các hạn chế của mình, vì con biết là con phải cho, trước khi con có thể nhận.

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.4. Con buông bỏ xu hướng của tự ngã nghĩ rằng việc cho ra tùy thuộc vào các điều kiện ngoại cảnh. Con biết là tấm gương vũ trụ chỉ có thể phản chiếu lại cho con những gì con gửi ra. Và con đang gửi ra một tâm thức dồi dào.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.5. Con buông bỏ niềm tin rằng hạnh phúc của con tùy thuộc hoàn toàn vào điều kiện ngoại cảnh. Hạnh phúc là một cảm nhận diễn ra trong quả cầu cái ta. Con đang nắm quyền cai quản quả cầu cái ta của con.

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.6. Con đang chế tạo hạnh phúc từ bên trong quả cầu cái ta. Con buông bỏ ảo tưởng nhị nguyên rằng hạnh phúc của con tùy thuộc bất cứ gì bên ngoài quả cầu cái ta của con.

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.7. Con buông bỏ tin tưởng nhị nguyên rằng con sống trong một vũ trụ có sự dồi dào hạn chế, và con chỉ có thể dồi dào bằng cách đoạt từ người khác. Con thấy tại sao tin tưởng này sẽ tự tăng cường chính nó.

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.8. Con đang phá vỡ vòng dây siết cổ của sự đồng hóa với cái ta hữu diệt và tin tưởng nhị nguyên của nó. Con đang cho phép ý niệm cái ta mà con đã xây dựng từ sự đồng hóa này chết đi. Con đang tái sinh vào một ý niệm bản sắc dồi dào.

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.9. Trước khi con có được một cái gì tốt hơn, con phải từ bỏ cái con đang có ngay bây giờ. Con biết từ trong nội tâm – là cái biết vượt khỏi mọi hiểu biết – rằng quy luật của Thượng đế thực sự hiệu quả. Và khi con tìm trước tiên sự công chính của tâm thức Ki-tô, thì mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con.

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3. Con có đức tin dựa trên hiểu biết

3.1. Con chấp nhận hoàn toàn là ngay bây giờ, con đã có những gì mình cần để tự thăng vượt. Những gì con cần để tái lập sự trọn vẹn của con chỉ có thể tìm thấy bên trong quả cầu cái ta.

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.2. Con là nối dài của một sinh thể tâm linh rộng lớn hơn, Hiện diện TA LÀ của con. Con đến từ một dòng dõi, một hàng ngũ nhiều tầng, gồm những sinh thể tâm linh trở ngược lên tận Đấng Sáng tạo của con.

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.3. Con đang thiết lập cảm nhận hợp nhất với Đấng Sáng tạo bằng cách đi vào bên trong quả cầu cái ta và tìm thấy những gì đã sẵn ở đó, đã luôn luôn ở đó, nhưng bị che phủ bởi tấm màn ảo tưởng do cái ta hữu diệt thêu dệt.

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.4. Vượt khỏi quy luật tự nhiên có một bộ quy luật cao hơn. Con đang dùng các quy luật tâm linh từ tâm thức Ki-tô, phủ quyết và thay thế các quy luật vật chất. Con chấp nhận là khái niệm tâm làm chủ vật chất là một điều khả dĩ. Tâm Ki-tô đang cho con khả năng điều ngự vật chất thật sự.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.5. Khả năng điều ngự vật chất không phải là chuyện huyễn tưởng. Đây là kế hoạch của Đấng Sáng tạo dành cho con. Con sẵn lòng học cách nắm quyền cai quản trái đất, hầu Ánh sáng Mẫu-Vật trải bày tức khắc hình tư tưởng của con mà không gặp yếu tố trì hoãn.

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.6. Con sẵn lòng đi bước đầu tiên mà không cần thấy ngay kết quả cho nỗ lực của mình. Con tiếp cận cuộc sống như một hành trình. Con sẵn lòng đi tiếp từng bước một, cho tới khi con thấy kết quả hiện thực cho nỗ lực của mình.

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.7. Con buông bỏ ảo tưởng của tâm rắn cho rằng con có quyền được thỏa mãn tức thì. Con biết là nghi vấn của con về tính hiệu quả của một kỹ thuật sẽ làm giảm hiệu quả của nó. Nếu con nghi ngờ một kỹ thuật có hiệu quả hay không, thì kỹ thuật này sẽ không hiệu quả – đối với con.

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.8. Con chấp nhận là quả thực, con đã có trong quả cầu cái ta tất cả những gì mình cần để thị hiện sự sống dồi dào, hầu tăng trưởng tâm linh và đạt sự cứu rỗi tối hậu.

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.9. Con đang dùng những gì con có với đức tin trọn vẹn, một đức tin đích thực dựa trên kiến thức lẫn hiểu biết. Khi con làm vậy, tấm gương vũ trụ sẽ phản chiếu lại cho con những gì con đã chấp nhận là một thực tại hiện thực.

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4. Con chứng minh luật hoàn trả

4.1. Chìa khóa cốt yếu trong việc thị hiện dồi dào là con phải bắt đầu tỏa rạng sự dồi dào. Chìa khóa cốt yếu trong việc nhận dồi dào của Thượng đế là buông bỏ trước hết bất cứ dính mắc nào con có với thế gian.

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.2. Con buông bỏ ảo tưởng là để có dồi dào, con phải nhận được gì đó từ ngoài. Con buông bỏ mọi cố gắng ép buộc vũ trụ phải cho con những gì con muốn.

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.3. Vũ trụ là một tấm gương. Nếu con phóng chiếu sự thiếu hụt ra tấm gương thì tấm gương sẽ phản chiếu lại cho con một tình trạng thiếu hụt. Con đang phóng chiếu ra một trạng thái dồi dào, sẵn sàng cho ra. Vũ trụ đang phản chiếu sự dồi dào cho con.

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.4. Con không thể thị hiện dồi dào chừng nào con còn ở trong trạng thái tâm thức khiến mình cảm thấy thiếu hụt. Con không thể có được dồi dào chừng nào con ở trong tâm trạng thiếu thốn.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.5. Con buông bỏ tâm trạng thiếu hụt. Con đang nhận được dồi dào vì con đang phóng chiếu dồi dào ra tấm gương vũ trụ.

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.6. Con khắc phục xu hướng bám giữ những gì con có. Con buông bỏ mọi sợ hãi phải cho đi những gì con có. Con đang ở trong một trạng thái dồi dào và con sẵn sàng cho ra.

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.7. Trước khi con có thể nhận, con phải sẵn sàng cho. Con sẵn lòng cho những gì con có, và con đang nhận được nhiều hơn.

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.8. Con tin vào quy luật. Con biết là bất cứ gì con cho sẽ được trả lại nhân lên nhiều lần. Cuối cùng con sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng của mình. Con đang chứng minh quy luật.

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.9. Con là một mặt trời không ngừng tỏa rạng ánh sáng tâm linh chan hòa từ nguồn cung cấp bất tận của Thượng đế.

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Venus và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy.” Do đó con chấp nhận là điều này đã hoàn toàn biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói nó ra. Amen.

12 | Con thỉnh cầu trọn vẹn tâm linh (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Nữ thần Liberty và Mẹ Mary, hãy giúp con tìm cầu độc lập tâm linh sẽ biến tâm con thành Chén thánh. Xin các thày giúp con thăng vượt mọi chướng ngại đang ngăn cản khả năng thị hiện sự dồi dào của con, kể cả …

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con thăng vượt sự đấu tranh giữa con người

1.1. Con thăng vượt tâm thức đằng sau sự đấu tranh giữa các cá nhân và đấu tranh giữa các nhóm người, thậm chí đấu tranh giữa loài người và Mẹ Thiên nhiên.

Ôi Mẹ Tự do, cho con thoát khỏi
lời nguyền của rắn muốn con đói nghèo.
Con không trách mẹ vì đời còm cõi,
ôi Mẹ Chân phước, con xin về theo.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.2. Con không còn coi mình, con không còn đồng hóa mình, như một người chống lại người khác hay chống lại hành tinh nơi con đang sống.

Ôi Mẹ Tự do, từ xa không ngại,
con xuống nơi đây, muốn tiến Hơn hoài.
Con thấy trù phú là dòng nước thánh,
tâm thức dồi dào, con tăng triển nhanh.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.3. Con thăng vượt tâm thức đằng sau sự đấu tranh triền miên giữa con người, là niềm tin không có đủ cho mọi người, và nếu con muốn có nhiều hơn thì con phải lấy từ người khác.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày gian dối,
mọi điều giới hạn không buộc con nổi.
Ánh sáng Mẫu-Vật không chống lại con,
nó ban trù phú rất thật viên tròn.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.4. Con chấp nhận con có thể có đời sống dồi dào mà không cần lấy từ người khác hay không cần cưỡng đoạt bằng sức mạnh từ Mẹ Thiên nhiên.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày mưu dối,
sa nhân phóng chiếu từ tâm tăm tối.
Ôi Mẹ Hoàn vũ, nay con nhìn rõ,
Mẹ không chống con, cho con ấm no.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.5. Thượng đế đã sinh tạo một vũ trụ vận hành giống như một tấm gương. Bất cứ điều gì con gửi ra dòng không gian-thời gian liên tục sẽ được tấm gương hoàn vũ gởi trả về con.

Ôi Mẹ Tự do, mắt con mở to,
dối gian của rắn, con nay bác bỏ.
Cõi của Mẹ đây, con ôm hoài hoài,
hòa cùng với Mẹ, Cha cầm bánh lái.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.6. Ánh sáng Mẫu-Vật ngoan ngoãn khoác lên hình tướng khi một tâm có tự nhận biết tác động lên nó. Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ khoác lên bất cứ hình tướng nào được giữ như một hình tư tưởng trong tâm con.

Ôi Mẹ Tự do, bốn thể phàm con
là chén thánh nhận ánh sáng sạch trong.
Mẹ gửi qua con giai điệu ngàn thu,
quà tặng thiêng liêng Tự do Hoàn vũ.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.7. Bất cứ gì con giữ trong tâm con quy định hình ảnh mà con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và như thế hình tư tưởng này sẽ quy định hình tướng mà Ánh sáng Mẫu-Vật khoác vào trong quang phổ tần số vật chất.

Ôi Mẹ Tự do, cánh cửa mở ra,
giai điệu Hơn Nữa, con theo thiết tha.
Mẹ ban ánh sáng, luân xa con mới,
dòng thác tình yêu tuôn chảy đời đời.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.8. Chính cảm nhận đấu tranh tạo nên đấu tranh, và ngay lúc này con chọn một cách ý thức hoàn toàn buông bỏ cảm nhận đấu tranh.

Ôi Mẹ Tự do, dòng chảy ngọt ngào,
mẹ ban tất cả đời sống dồi dào.
Con dang vòng tay đón nhận quà mẹ,
Áo Vàng mẹ dệt, tình mẹ chở che.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.9. Khi con sáng tạo điều gì thì con sẽ bắt buộc phải trải nghiệm chính tạo vật của con dưới dạng hoàn cảnh vật lý. Điều này không những công bằng mà còn là cách duy nhất con học cách sử dụng khả năng sáng tạo của con một cách tốt đẹp hơn.

Ôi Mẹ Tự do, thuốc mẹ ban ra,
giải phóng người nghèo mệt nhoài vật vã.
Đám người nằm rúc, mẹ giải thoát qua
Bài Hát Tự do, tình mẹ chan hòa.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2. Con thăng vượt hoàn cảnh bên ngoài của con

2.1. Tự ngã của con chống lại quy luật gieo gì gặt nấy của Thượng đế. Nhưng con nối kết với con người bên trong con, và con biết ơn sự kiện luật nhân quả quy định con sẽ trải nghiệm điều con sáng tạo.

Ôi Mẹ Tự do, cho con thoát khỏi
lời nguyền của rắn muốn con đói nghèo.
Con không trách mẹ vì đời còm cõi,
ôi Mẹ Chân phước, con xin về theo.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.2. Con biết đây là cách học hỏi nhanh chóng cách dùng uy lực sáng tạo của mình. Con học hỏi cách tạo ra trải nghiệm sống tốt nhất cho mình.

Ôi Mẹ Tự do, từ xa không ngại,
con xuống nơi đây, muốn tiến Hơn hoài.
Con thấy trù phú là dòng nước thánh,
tâm thức dồi dào, con tăng triển nhanh.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.3. Dù hoàn cảnh sống của con khó khăn đến đâu chăng nữa, có một bài học ẩn giấu đằng sau. Con đã tạo ra những hoàn cảnh này trong quá khứ bằng cách tạo ra một hình tư tưởng và phóng chiếu nó lên Ánh sáng Mẫu-vật.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày gian dối,
mọi điều giới hạn không buộc con nổi.
Ánh sáng Mẫu-Vật không chống lại con,
nó ban trù phú rất thật viên tròn.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.4. Con không mãi mãi bị mắc kẹt vào hoàn cảnh vượt quá tầm kiểm soát của con. Con thay đổi hình tư tưởng trong tâm con và phóng chiếu một hình ảnh tốt hơn lên Ánh sáng Mẫu-vật. Chỉ là vấn đề thời gian để hoàn cảnh bên ngoài bắt đầu phản ánh những hình ảnh mới mà con giữ trong tâm con.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày mưu dối,
sa nhân phóng chiếu từ tâm tăm tối.
Ôi Mẹ Hoàn vũ, nay con nhìn rõ,
Mẹ không chống con, cho con ấm no.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.5. Cảm nhận bị mắc kẹt, cảm nhận phải vật lộn, chỉ hiện hữu trong tâm con người mà thôi. Thượng đế đã trao cho con quyền năng thay đổi tuyệt đối mọi hoàn cảnh, vượt lên trên giới hạn và biểu hiện cuộc sống dồi dào ngay đây trong thế giới này.

Ôi Mẹ Tự do, mắt con mở to,
dối gian của rắn, con nay bác bỏ.
Cõi của Mẹ đây, con ôm hoài hoài,
hòa cùng với Mẹ, Cha cầm bánh lái.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.6. Con luôn luôn có thể làm một cái gì để cải thiện hoàn cảnh của con. Dù hoàn cảnh bên ngoài là gì chăng nữa, con luôn có chọn lựa làm chủ hoàn cảnh bên trong của con, làm chủ cách con đáp ứng lại hoàn cảnh bên ngoài.

Ôi Mẹ Tự do, bốn thể phàm con
là chén thánh nhận ánh sáng sạch trong.
Mẹ gửi qua con giai điệu ngàn thu,
quà tặng thiêng liêng Tự do Hoàn vũ.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.7. Hoàn cảnh bên ngoài của con không gì khác sự phản ánh hoàn cảnh bên trong của con trong quá khứ. Con thay đổi hình tư tưởng trong tâm con và chắc chắn con sẽ thay đổi điều mà tấm gương vũ trụ sẽ phản chiếu lại con.

Ôi Mẹ Tự do, cánh cửa mở ra,
giai điệu Hơn Nữa, con theo thiết tha.
Mẹ ban ánh sáng, luân xa con mới,
dòng thác tình yêu tuôn chảy đời đời.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.8. Cuộc đấu tranh giữa con người thực sự là một đấu tranh để đạt một cảm giác an toàn, và cảm giác này là kết quả của năng lượng bên ngoài quang phổ vật chất.

Ôi Mẹ Tự do, dòng chảy ngọt ngào,
mẹ ban tất cả đời sống dồi dào.
Con dang vòng tay đón nhận quà mẹ,
Áo Vàng mẹ dệt, tình mẹ chở che.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.9. Đằng sau nhu cầu an toàn vỏ ngoài là nhu cầu sâu hơn được trọn vẹn. Dòng sống của con được thiết kế để tìm cầu sự trọn vẹn.

Ôi Mẹ Tự do, thuốc mẹ ban ra,
giải phóng người nghèo mệt nhoài vật vã.
Đám người nằm rúc, mẹ giải thoát qua
Bài Hát Tự do, tình mẹ chan hòa.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3. Con thăng vượt ham muốn nhân phàm

3.1. Điều tạo ra khao khát không bao giờ thỏa mãn được muốn có thêm sở hữu, thú vui, quyền lực hay bất cứ gì khác mà thế giới cống hiến, là ước muốn sâu thẳm được trọn vẹn.

Ôi Mẹ Tự do, cho con thoát khỏi
lời nguyền của rắn muốn con đói nghèo.
Con không trách mẹ vì đời còm cõi,
ôi Mẹ Chân phước, con xin về theo.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.2. Khao khát thật của con là tìm lại sự trọn vẹn, và khao khát này chỉ thỏa mãn được khi con tái thiết lập sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của con. Con khao khát trọn vẹn bên trong hơn là an toàn bên ngoài.

Ôi Mẹ Tự do, từ xa không ngại,
con xuống nơi đây, muốn tiến Hơn hoài.
Con thấy trù phú là dòng nước thánh,
tâm thức dồi dào, con tăng triển nhanh.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.3. Con tái thiết lập sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của con. Con trải nghiệm một dòng chảy năng lượng tâm linh liên tục tuôn chảy vào mọi tầng của bản thể con trực tiếp từ Hiện diện TA LÀ.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày gian dối,
mọi điều giới hạn không buộc con nổi.
Ánh sáng Mẫu-Vật không chống lại con,
nó ban trù phú rất thật viên tròn.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.4. Dòng chảy năng lượng tâm linh đó khiến con cảm thấy trọn vẹn, cảm thấy mình là một với Dòng sông sự Sống. Con là một thành phần của cái Tất cả của Thượng đế thay vì đơn độc và không trọn vẹn.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày mưu dối,
sa nhân phóng chiếu từ tâm tăm tối.
Ôi Mẹ Hoàn vũ, nay con nhìn rõ,
Mẹ không chống con, cho con ấm no.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.5. Con không cần gì từ bên ngoài con vì con có Dòng sông sự Sống tuôn chảy bên trong bản thể của con.

Ôi Mẹ Tự do, mắt con mở to,
dối gian của rắn, con nay bác bỏ.
Cõi của Mẹ đây, con ôm hoài hoài,
hòa cùng với Mẹ, Cha cầm bánh lái.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.6. Thay vì tìm cách dùng sức mạnh để lấy từ người khác hay lấy từ Mẹ thiên nhiên, con đi vào bên trong và thiết lập lại nối kết với Hiện diện TA LÀ của con. Con đi tìm trước hết vương quốc Thượng đế, vương quốc ở bên trong con

Ôi Mẹ Tự do, bốn thể phàm con
là chén thánh nhận ánh sáng sạch trong.
Mẹ gửi qua con giai điệu ngàn thu,
quà tặng thiêng liêng Tự do Hoàn vũ.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.7. Hiện diện TA LÀ của con là một nối dài của đấng Sáng tạo của con và Hiện diện TA LÀ nhận được năng lượng vô tận của đấng Sáng tạo sẵn có vô điều kiện trong cõi tâm linh.

Ôi Mẹ Tự do, cánh cửa mở ra,
giai điệu Hơn Nữa, con theo thiết tha.
Mẹ ban ánh sáng, luân xa con mới,
dòng thác tình yêu tuôn chảy đời đời.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.8. Hiện diện TA LÀ của con cho con tất cả năng lượng tâm linh cần có để hoàn thành tất cả mong muốn thực của con trong thế giới vật chất này.

Ôi Mẹ Tự do, dòng chảy ngọt ngào,
mẹ ban tất cả đời sống dồi dào.
Con dang vòng tay đón nhận quà mẹ,
Áo Vàng mẹ dệt, tình mẹ chở che.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.9. Tâm ý thức của con là cánh cửa mở qua đó ánh sáng của Thượng đế, Mặt trời của Hiện diện TA LÀ của con, có thể tỏa sáng xuống thế gian này và xua tan bóng tối đang khiến con cảm thấy thiếu thốn, không trọn vẹn và không có giá trị.

Ôi Mẹ Tự do, thuốc mẹ ban ra,
giải phóng người nghèo mệt nhoài vật vã.
Đám người nằm rúc, mẹ giải thoát qua
Bài Hát Tự do, tình mẹ chan hòa.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4. Mục đích đời con là độc lập tâm linh

4.1. Con hoàn toàn xoay chuyển cuộc đời mình và đặt mình vào hướng đi sẽ dẫn con tới thành tựu tối hậu mà con tìm cầu, là cảm giác trọn vẹn bên trong, đến từ nhận biết: “Ta và Cha ta là một”.

Ôi Mẹ Tự do, cho con thoát khỏi
lời nguyền của rắn muốn con đói nghèo.
Con không trách mẹ vì đời còm cõi,
ôi Mẹ Chân phước, con xin về theo.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.2. Con lớn lên trong một xã hội đã lập trình để con tin rằng nếu con có một nhu cầu hay một ước muốn thì con phải đi tìm cái gì đó ở bên ngoài con để thỏa mãn nó. Lập trình này phát xuất từ ý muốn kiểm soát con qua những nhu cầu của con.

Ôi Mẹ Tự do, từ xa không ngại,
con xuống nơi đây, muốn tiến Hơn hoài.
Con thấy trù phú là dòng nước thánh,
tâm thức dồi dào, con tăng triển nhanh.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.3. Bí mật của cuộc sống là chìa khóa thật để thỏa mãn mọi ước muốn của con, chìa khóa thật để trải nghiệm cuộc sống dồi dào của Thượng đế, là ngừng đi tìm dồi dào bên ngoài con. Để tìm thấy dồi dào, tìm thấy trọn vẹn, con phải đi vào bên trong con.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày gian dối,
mọi điều giới hạn không buộc con nổi.
Ánh sáng Mẫu-Vật không chống lại con,
nó ban trù phú rất thật viên tròn.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.4. Con tự đầy đủ trong tâm linh và do đó con không cần bất cứ gì khác từ bất cứ nguồn nào bên ngoài con. Con không còn cần bất cứ gì từ bất cứ người nào hay bất cứ định chế, tổ chức hay cơ sở thương mại nào của con người. Con thật sự độc lập theo nghĩa tâm linh.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày mưu dối,
sa nhân phóng chiếu từ tâm tăm tối.
Ôi Mẹ Hoàn vũ, nay con nhìn rõ,
Mẹ không chống con, cho con ấm no.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.5. Tương tác với người khác dựa trên cảm giác dồi dào nội tại. Thay vì tìm cách lấy từ người khác bằng sức mạnh, con tìm cách cho người khác.

Ôi Mẹ Tự do, mắt con mở to,
dối gian của rắn, con nay bác bỏ.
Cõi của Mẹ đây, con ôm hoài hoài,
hòa cùng với Mẹ, Cha cầm bánh lái.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.6. Đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc. Ngài cho con vô điều kiện vì con đã nhận vô điều kiện. Con chia sẻ vô điều kiện những gì con nhận vô điều kiện.

Ôi Mẹ Tự do, bốn thể phàm con
là chén thánh nhận ánh sáng sạch trong.
Mẹ gửi qua con giai điệu ngàn thu,
quà tặng thiêng liêng Tự do Hoàn vũ.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.7. Con làm việc với người khác và chúng con nhân lên khả năng của mỗi cá nhân và góp chung khả năng của mọi người để tổng thể trở nên nhiều hơn tổng số của các thành phần. Chúng con cho trong tinh thần vị tha và thiết lập lại sự nối kết đúng đắn với Thượng đế.

Ôi Mẹ Tự do, cánh cửa mở ra,
giai điệu Hơn Nữa, con theo thiết tha.
Mẹ ban ánh sáng, luân xa con mới,
dòng thác tình yêu tuôn chảy đời đời.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.8. Con mở đường kết nối với sự dồi dào vô tận của Thượng đế. Con cho Thượng đế niềm vui ban cho con vương quốc của ngài bằng cách gia tăng tổng số năng lượng trên trái đất. Lượng năng lượng tâm linh mà Hiện diện TA LÀ của con có thể tuôn rải qua bản thể của con không có giới hạn.

Ôi Mẹ Tự do, dòng chảy ngọt ngào,
mẹ ban tất cả đời sống dồi dào.
Con dang vòng tay đón nhận quà mẹ,
Áo Vàng mẹ dệt, tình mẹ chở che.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.9. Con là Chén thánh. Tâm con, bản thể con là chiếc chén chứa ánh sáng tâm linh đến từ Hiện diện TA LÀ của con. Con sử dụng sự dồi dào của con một cách minh triết. Con cho phép ánh sáng Thượng đế tuôn chảy vào bản thể của con và vào thế gian, biểu hiện sự dồi dào của Thượng đế trong đời con.

Ôi Mẹ Tự do, thuốc mẹ ban ra,
giải phóng người nghèo mệt nhoài vật vã.
Đám người nằm rúc, mẹ giải thoát qua
Bài Hát Tự do, tình mẹ chan hòa.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Liberty và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả những người trong vòng ảnh hưởng của con trong dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại điện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó con chấp nhận là chuyện này đã hoàn toàn thể hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói ra nó. Amen.

12 | Con thỉnh cầu ý chí cao hơn của con

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Nữ thần Tự do và Mẹ Mary, hãy giúp con khắc phục mọi cảm nhận không biết mình là ai, không biết tại sao mình ở đây, không biết ý chí cao hơn của mình. Xin các thày giúp con đón nhận khả năng sáng tạo của con và nhìn ra các yếu tố ngăn chặn dòng chảy sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con, kể cả …

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con hợp nhất với vị thày thật của con

1.1. Trong hợp nhất với thày, con nhìn nhận là con đã từng đánh mất sự hồn nhiên của mình, là cảm nhận hợp nhất nội tâm với Hiện diện TA LÀ. Con nhìn nhận là con đã sa ngã mất Ân sủng.

Ôi Mẹ Tự do, cho con thoát khỏi
lời nguyền của rắn muốn con đói nghèo.
Con không trách mẹ vì đời còm cõi,
ôi Mẹ Chân phước, con xin về theo.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.2. Vì cái Ta Biết nhìn mọi chuyện qua phin lọc nhị nguyên, nó cũng nhìn sự sa ngã của con trong quan điểm nhị nguyên. Bây giờ con nhìn ra là con đã phản ứng lại giây phút sự thật một cách tiêu cực, và con đã cố chạy trốn khỏi nó thay vì dùng nó như một cơ hội để trở về với vị thày.

Ôi Mẹ Tự do, từ xa không ngại,
con xuống nơi đây, muốn tiến Hơn hoài.
Con thấy trù phú là dòng nước thánh,
tâm thức dồi dào, con tăng triển nhanh.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.3. Con nhìn ra là các thày giả đã thì thầm vào tai con rằng con bị tách rời vĩnh viễn khỏi Thượng đế và con không thể nào quay về được nữa. Con đang thăng vượt cám dỗ này một cách ý thức.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày gian dối,
mọi điều giới hạn không buộc con nổi.
Ánh sáng Mẫu-Vật không chống lại con,
nó ban trù phú rất thật viên tròn.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.4. Con đang quay trở về vị thày thật và khắc phục tâm thức nhị nguyên bằng cách quy phục sự chỉ đạo của thày thật.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày mưu dối,
sa nhân phóng chiếu từ tâm tăm tối.
Ôi Mẹ Hoàn vũ, nay con nhìn rõ,
Mẹ không chống con, cho con ấm no.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.5. Con đang bước theo một vị thày tâm linh chân chính. Con đang thấm nhuần lời hướng dẫn của thày. Con đang trở thành một với thày một cách trọn vẹn đến độ con biết tại sao thày đã ban ra hướng dẫn đó.

Ôi Mẹ Tự do, mắt con mở to,
dối gian của rắn, con nay bác bỏ.
Cõi của Mẹ đây, con ôm hoài hoài,
hòa cùng với Mẹ, Cha cầm bánh lái.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.6. Con không còn xem thày là một sinh thể bên ngoài, con không còn xem lời hướng dẫn của thày là đến từ một nguồn ở ngoài con. Con đã mở rộng ý niệm cái ta của mình để bao gồm cả thày.

Ôi Mẹ Tự do, bốn thể phàm con
là chén thánh nhận ánh sáng sạch trong.
Mẹ gửi qua con giai điệu ngàn thu,
quà tặng thiêng liêng Tự do Hoàn vũ.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.7. Trên đường trở thành một với cái Tất cả của Thượng đế, con đang trở thành một với vị thày. Con xem thày như một phần của bản thể rộng lớn của con, và con xem hướng dẫn của thày như xuất phát từ bên trong bản thể rộng lớn này.

Ôi Mẹ Tự do, cánh cửa mở ra,
giai điệu Hơn Nữa, con theo thiết tha.
Mẹ ban ánh sáng, luân xa con mới,
dòng thác tình yêu tuôn chảy đời đời.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.8. Sự hợp nhất với vị thày đưa con lên cao hơn trong hợp nhất với Thượng đế. Con không thể đánh mất cảm nhận hợp nhất này được nữa vì con đồng hóa vĩnh viễn với Hiện diện TA LÀ của con.

Ôi Mẹ Tự do, dòng chảy ngọt ngào,
mẹ ban tất cả đời sống dồi dào.
Con dang vòng tay đón nhận quà mẹ,
Áo Vàng mẹ dệt, tình mẹ chở che.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.9. Con đã thể nhập và chấp nhận trọn vẹn con là một nối dài của Thượng đế. Cái Ta Biết của con đang thấy mình là một với cái Tất cả của Đấng Sáng tạo, thậm chí với cái Tất cả của Bản thể thuần khiết của Thượng đế.

Ôi Mẹ Tự do, thuốc mẹ ban ra,
giải phóng người nghèo mệt nhoài vật vã.
Đám người nằm rúc, mẹ giải thoát qua
Bài Hát Tự do, tình mẹ chan hòa.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2. Con giành lại khả năng lấy quyết định

2.1. Con nhìn ra là trong quá khứ, cái Ta Biết nghĩ nó sa ngã là vì nó đã quyết định sai lầm. Cho nên con đã quyết định là cách duy nhất để tránh quyết định sai lầm là ngừng lấy bất kỳ quyết định nào, bằng cách cho phép một thẩm quyền bên ngoài bảo mình phải cư xử thế nào và phải tin những gì.

Ôi Mẹ Tự do, cho con thoát khỏi
lời nguyền của rắn muốn con đói nghèo.
Con không trách mẹ vì đời còm cõi,
ôi Mẹ Chân phước, con xin về theo.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.2. Từ quyết định đó mà một sinh thể tự nhận biết đã ra đời với khả năng và ý muốn lấy quyết định giùm con. Sinh thể tự nhận biết này là cái ta hữu diệt, tự ngã của con.

Ôi Mẹ Tự do, từ xa không ngại,
con xuống nơi đây, muốn tiến Hơn hoài.
Con thấy trù phú là dòng nước thánh,
tâm thức dồi dào, con tăng triển nhanh.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.3. Cái ta hữu diệt ngay trong bản chất là một thế lực hung hãn. Nó tin là nó biết cách điều hành cuộc sống của con giỏi hơn cái Ta Biết. Nó tin chắc là nó đúng, và bất cứ gì trái với quan điểm và ý muốn của nó cũng đều sai.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày gian dối,
mọi điều giới hạn không buộc con nổi.
Ánh sáng Mẫu-Vật không chống lại con,
nó ban trù phú rất thật viên tròn.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.4. Con đang thăng vượt một cách ý thức mọi sự phủ nhận. Con sẵn lòng để một vị thày chân chính phơi bày tự ngã của con. Con thăng vượt vòng xoáy hướng hạ được tạo ra bởi các quyết định dựa trên các lỗi lầm cũ, khiến con chồng chất hết sai lầm này đến sai lầm khác gần như bất tận.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày mưu dối,
sa nhân phóng chiếu từ tâm tăm tối.
Ôi Mẹ Hoàn vũ, nay con nhìn rõ,
Mẹ không chống con, cho con ấm no.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.5. Phạm lỗi không cứ là một quyết định tồi tệ, nhưng từ chối nhìn nhận và học hỏi từ lỗi lầm chắc chắn sẽ giăng ra một cái bẫy. Con thăng vượt cám dỗ muốn biện minh cho hành động quá khứ của mình qua lý luận nhị nguyên của cái ta hữu diệt. Con công khai nhìn nhận các quyết định cũ của mình và con thay thế chúng bằng những quyết định tốt hơn.

Ôi Mẹ Tự do, mắt con mở to,
dối gian của rắn, con nay bác bỏ.
Cõi của Mẹ đây, con ôm hoài hoài,
hòa cùng với Mẹ, Cha cầm bánh lái.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.6. Cái Ta Biết của con đang thức tỉnh với thực tế con là ai, thực tế là con đã được Thượng đế phú cho quyền tự quyết. Con quyết định nắm lại quyền lấy quyết định trong đời mình.

Ôi Mẹ Tự do, bốn thể phàm con
là chén thánh nhận ánh sáng sạch trong.
Mẹ gửi qua con giai điệu ngàn thu,
quà tặng thiêng liêng Tự do Hoàn vũ.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.7. Không có cách nào trở về Nước Trời mà không lấy những quyết định hoàn toàn ý thức. Tuyệt đối không có cách nào con có thể trở về cảm nhận hợp nhất nội tâm với Thượng đế bằng cách cho phép một ai khác quyết định giùm con.

Ôi Mẹ Tự do, cánh cửa mở ra,
giai điệu Hơn Nữa, con theo thiết tha.
Mẹ ban ánh sáng, luân xa con mới,
dòng thác tình yêu tuôn chảy đời đời.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.8. Vị thày thật của con đang cho con những sáng ngộ mà con cần để lấy những quyết định tốt nhất cho con. Vị thày thật cho con thông tin, xong để yên cho con lấy quyết định riêng của mình. Vị ấy biết rõ là chỉ bằng cách lấy quyết định riêng của mình thì con mới tăng triển.

Ôi Mẹ Tự do, dòng chảy ngọt ngào,
mẹ ban tất cả đời sống dồi dào.
Con dang vòng tay đón nhận quà mẹ,
Áo Vàng mẹ dệt, tình mẹ chở che.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.9. Con đang giành lại quyền tự quyết, khả năng quyết định của mình. Con đang lấy những quyết định này ở mỗi bực thang đưa con trở lên cầu thang xoắn ốc, cho đến khi con bước qua ngưỡng cửa ở trên cùng và tắm trong mặt trời của Hiện diện TA LÀ.

Ôi Mẹ Tự do, thuốc mẹ ban ra,
giải phóng người nghèo mệt nhoài vật vã.
Đám người nằm rúc, mẹ giải thoát qua
Bài Hát Tự do, tình mẹ chan hòa.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3. Con sẵn lòng lấy quyết định

3.1. Con đang tái nối kết một cách ý thức với đấng An ủi là cái ta Ki-tô của con, vị thày nội tâm đang cho con sự thật Ki-tô. Con luôn luôn có những sáng ngộ mà con cần có để lấy những quyết định dựa trên sự thật Ki-tô, tảng đá Ki-tô, thay vì cát lún của tâm thức nhị nguyên.

Ôi Mẹ Tự do, cho con thoát khỏi
lời nguyền của rắn muốn con đói nghèo.
Con không trách mẹ vì đời còm cõi,
ôi Mẹ Chân phước, con xin về theo.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.2. Kết quả thực tế của một tình huống thật không quan trọng. Với sự hướng dẫn của cái ta Ki-tô, mọi tình huống đều đang giúp con đến gần hơn sự hợp nhất với Thượng đế, giúp con tách mình ra khỏi các lời dối nhị nguyên. Mỗi tình huống đều là một chiến thắng đưa con gần hơn đến hợp nhất.

Ôi Mẹ Tự do, từ xa không ngại,
con xuống nơi đây, muốn tiến Hơn hoài.
Con thấy trù phú là dòng nước thánh,
tâm thức dồi dào, con tăng triển nhanh.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.3. Con luôn luôn có nền tảng cần thiết để quyết định đúng đắn. Trong mọi hoàn cảnh, con đều có hướng dẫn từ trên. Khi con yêu cầu sự hướng dẫn từ cái ta Ki-tô, con luôn luôn nhận được câu trả lời. Con ghi nhận câu trả lời và hành động dựa theo đó.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày gian dối,
mọi điều giới hạn không buộc con nổi.
Ánh sáng Mẫu-Vật không chống lại con,
nó ban trù phú rất thật viên tròn.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.4. Con quyết định là con muốn có một cái hiểu cao hơn những gì con đang hiểu, thay vì muốn một câu trả lời sẽ xác nhận những gì cái ta hữu diệt muốn con tin.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày mưu dối,
sa nhân phóng chiếu từ tâm tăm tối.
Ôi Mẹ Hoàn vũ, nay con nhìn rõ,
Mẹ không chống con, cho con ấm no.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.5. Con lật mặt nạ và vô hiệu hóa cái ta hữu diệt cùng xu hướng của nó là phân tích từng câu trả lời nhận được, rồi cố nhét vào khuôn khổ hệ thống tin tưởng nhị nguyên của nó.

Ôi Mẹ Tự do, mắt con mở to,
dối gian của rắn, con nay bác bỏ.
Cõi của Mẹ đây, con ôm hoài hoài,
hòa cùng với Mẹ, Cha cầm bánh lái.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.6. Con đang lật ngược khuôn nếp hướng hạ bằng cách phá vỡ một cách ý thức sợi dây đồng phụ thuộc mà con có với các thày vỏ ngoài bảo con phải làm gì. Con đang tái khám phá và tăng cường sự nối kết bên trong với vị thày nội tâm của cái ta Ki-tô và các vị thày chân chính là chân sư thăng thiên.

Ôi Mẹ Tự do, bốn thể phàm con
là chén thánh nhận ánh sáng sạch trong.
Mẹ gửi qua con giai điệu ngàn thu,
quà tặng thiêng liêng Tự do Hoàn vũ.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.7. Con quyết định một cách ý thức là con muốn lấy quyết định trở lại. Con đang thăng vượt chướng ngại lớn nhất trên đường tu tâm linh – con thoát khỏi nỗi sợ phạm lỗi.

Ôi Mẹ Tự do, cánh cửa mở ra,
giai điệu Hơn Nữa, con theo thiết tha.
Mẹ ban ánh sáng, luân xa con mới,
dòng thác tình yêu tuôn chảy đời đời.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.8. Con đang thăng vượt mọi ý muốn trốn tránh việc lấy quyết định. Lấy quyết định, có quyền tự quyết, là cơ hội lớn nhất từ Thượng đế, cơ hội lớn nhất để tự thăng vượt và trở nên hơn nữa, nhờ vậy con mới đồng-sáng tạo sự sống dồi dào.

Ôi Mẹ Tự do, dòng chảy ngọt ngào,
mẹ ban tất cả đời sống dồi dào.
Con dang vòng tay đón nhận quà mẹ,
Áo Vàng mẹ dệt, tình mẹ chở che.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.9. Con đang gỡ bỏ mọi quyết định gây giới hạn trong quá khứ, bằng cách lấy những quyết định giải thoát mình trong hiện tại. Con luôn luôn có một nền tảng đế lấy quyết định đúng đắn vì con tìm câu trả lời từ cái ta Ki-tô của con.

Ôi Mẹ Tự do, thuốc mẹ ban ra,
giải phóng người nghèo mệt nhoài vật vã.
Đám người nằm rúc, mẹ giải thoát qua
Bài Hát Tự do, tình mẹ chan hòa.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4. Con ở trong Dòng sông sự Sống

4.1. Con xoay chuyển tâm thức bằng cách nhận ra là việc phạm lỗi không có gì khủng khiếp như các thế lực thế gian muốn con tin. Điều tuyệt vời là bất cứ quyết định nào cũng có thể được thay thế lập tức bởi một quyết định khác.

Ôi Mẹ Tự do, cho con thoát khỏi
lời nguyền của rắn muốn con đói nghèo.
Con không trách mẹ vì đời còm cõi,
ôi Mẹ Chân phước, con xin về theo.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.2. Bất cứ quyết định nào dựa trên tâm thức nhị nguyên, tâm thức phản Ki-tô, cũng có thể được thay thế lập tức bằng một quyết định dựa trên tâm thức Một, tâm thức Ki-tô.

Ôi Mẹ Tự do, từ xa không ngại,
con xuống nơi đây, muốn tiến Hơn hoài.
Con thấy trù phú là dòng nước thánh,
tâm thức dồi dào, con tăng triển nhanh.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.3. Con nhất quyết thỉnh cầu công khai sự thật Ki-tô. Con hấp thu sự thật này vào trong tâm thức, thể nhập nó, rồi dùng nó để lấy những quyết định cao hơn. Con đang xoay chuyển đời con và con khởi sự một vòng xoáy tích cực, hướng thượng, dẫn con vào sự sống dồi dào.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày gian dối,
mọi điều giới hạn không buộc con nổi.
Ánh sáng Mẫu-Vật không chống lại con,
nó ban trù phú rất thật viên tròn.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.4. Dồi dào đích thực là biết mình hợp lẽ Thượng đế, biết mình đang trở về nhà, biết mỗi quyết định của mình đang đưa mình gần hơn tới mục đích tối thượng là sự hợp nhất với Thượng đế.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày mưu dối,
sa nhân phóng chiếu từ tâm tăm tối.
Ôi Mẹ Hoàn vũ, nay con nhìn rõ,
Mẹ không chống con, cho con ấm no.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.5. Sự sống dồi dào đích thực là biết mình là một sinh thể tâm linh bất diệt đang ở đây trên trái đất để biểu đạt cá thể thiêng liêng của mình.

Ôi Mẹ Tự do, mắt con mở to,
dối gian của rắn, con nay bác bỏ.
Cõi của Mẹ đây, con ôm hoài hoài,
hòa cùng với Mẹ, Cha cầm bánh lái.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.6. Con đang biểu đạt cá thể thiêng liêng của con vào mỗi lúc. Con được thiết kế để là một người đồng-sáng tạo với Thượng đế, và con ở đây không chỉ để thực hiện mong muốn riêng của mình mà để đồng-sáng tạo vương quốc của ngài trên trái đất.

Ôi Mẹ Tự do, bốn thể phàm con
là chén thánh nhận ánh sáng sạch trong.
Mẹ gửi qua con giai điệu ngàn thu,
quà tặng thiêng liêng Tự do Hoàn vũ.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.7. Mỗi quyết định mà con lấy đang đưa vương quốc này một bước gần hơn đến sự thị hiện vật lý. Con là một phần của Dòng sông sự Sống của Thượng đế, con là một phần của phong trào toàn cầu gồm những người đang nỗ lực đến gần ngài, đem vương quốc của ngài gần hơn ngày thị hiện trên trái đất.

Ôi Mẹ Tự do, cánh cửa mở ra,
giai điệu Hơn Nữa, con theo thiết tha.
Mẹ ban ánh sáng, luân xa con mới,
dòng thác tình yêu tuôn chảy đời đời.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.8. Con đang lao mình vào Dòng sông sự Sống, vào tâm thức Một, và con đang trôi theo sông. Con ở trong dòng chảy dồi dào của Thượng đế, và sự dồi dào này đang chảy qua con, vì con chính là sự dồi dào của Thượng đế đang biểu hiện. Con chính là Thượng đế trong biểu hiện.

Ôi Mẹ Tự do, dòng chảy ngọt ngào,
mẹ ban tất cả đời sống dồi dào.
Con dang vòng tay đón nhận quà mẹ,
Áo Vàng mẹ dệt, tình mẹ chở che.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.9. Con biết thực sự tại sao con đã đến trái đất. Con ở đây để mang lại món quà độc đáo của mình cho thế gian. Con đang sống sự dồi dào của việc trao tặng món quà vô hạn cho một thế giới hữu hạn, và như vậy đưa thế giới hữu hạn này gần hơn với vương quốc vô hạn của Thượng đế.

Ôi Mẹ Tự do, thuốc mẹ ban ra,
giải phóng người nghèo mệt nhoài vật vã.
Đám người nằm rúc, mẹ giải thoát qua
Bài Hát Tự do, tình mẹ chan hòa.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Nữ thần Tự do và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy.” Do đó con chấp nhận là điều này đã hoàn toàn biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói nó ra. Amen.

10 | Con thỉnh cầu dồi dào tâm linh (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Portia và Mẹ Mary, hãy giúp con thăng vượt tư duy dựa trên sức mạnh coi thiếu thốn là tất nhiên, và chấp nhận tư duy coi sự dồi dào của Thượng đế là vô tận. Xin các thày giúp con thăng vượt mọi chướng ngại đang ngăn cản khả năng thị hiện sự dồi dào của con, kể cả …

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con buông bỏ tư duy dựa trên sức mạnh

1.1. Con chọn con đường cao thị hiện sự dồi dào của Thượng đế. Con buông bỏ con đường thấp tìm cách thu thập dồi dào của trái đất.

Ôi Portia, nơi nhập thất của thày,
tình thương Mẹ, thày đón con dang tay.
Bao cuộc thi, con đà hoàn tất đủ,
khuôn nếp cũ, con từ nay buông rũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.2. Con buông bỏ nỗ lực dùng sức mạnh giành sự dồi dào và con cho phép Thượng đế cho con sự dồi dào vô điều kiện.

Ôi Portia, Công lý là tên thày,
giương lên cao Lửa Danh dự Toàn vũ,
Con không còn tham dự trò chơi cũ,
cứ giữ y một cái ngã hoài hoài.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.3. Con buông bỏ tầm nhìn hạn chế về Thượng đế mà hầu hết con người có trên thế gian này. Con trải nghiệm trực tiếp tâm thức và Bản thể quả cầu và trùm khắp của Thượng đế.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
một với thày, con tăng trưởng mãi mãi.
Con chính là chén thánh ở nơi đây,
thày ban xuống dòng công lý hoàn vũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.4. Con là một nối dài có tự nhận biết của đấng Sáng tạo. Con được gửi xuống thế giới vật chất với mệnh lệnh nhân lên và cai quản. Con nhân lên khả năng sáng tạo của con, ánh sáng của con, sự tự nhận biết của con.

Ôi Portia, cho vũ trụ quân bằng,
tim con hát, niềm hy vọng vĩnh hằng.
Đôi cánh Mẹ bảo bọc con yên ắng,
con là một với tất cả chúng sanh.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.5. Con cai quản bầu cõi vật chất, lấp đầy bầu cõi này với ánh sáng cho tới khi nó trở thành vương quốc của Thượng đế, là nơi mọi thứ đều tỏa chiếu ánh sáng và con có thể thấy Ánh sáng Mẹ thuần khiết đằng sau mọi biểu hiện.

Ôi Portia, thày đem ánh sáng Mẹ,
khỏi đêm tối, giải thoát chúng con nhé.
Lửa Tình thương của thày sáng mãi mãi,
ôm con chặt, Saint Germain và thày.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.6. Con thấy Thượng đế Sáng tạo là nguyên nhân đầu tiên đằng sau mọi hình dạng và con không bao giờ đánh mất nhận biết về Thượng đế.

Ôi Portia, thày điều ngự tài hoa,
con cảm nhận trong con sự biến hóa.
Ánh sáng thày là thực tại màu tím,
con tìm ra biến hóa đá luyện kim.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.7. Vũ trụ vật chất không tách biệt khỏi Thượng đế và phần còn lại của tạo vật của Thượng đế. Vũ trụ vật chất không tách biệt khỏi Thượng đế hay cõi tâm linh bởi một rào cản không xuyên thủng được. Vũ trụ là một nối dài của cõi tâm linh, nó là một nối dài của Thượng đế.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
con tỉnh mộng, giấc mơ ảo phàm phu.
Gỡ khỏi mắt cái đà tự ngã cũ,
con được đứng cùng các thày vũ trụ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.8. Con thăng vượt ảo tưởng cho rằng con  tách biệt khỏi đấng Sáng tạo của con. Đấng Sáng tạo ở ngay đây với con. Đấng Sáng tạo có mặt khắp nơi trong tạo vật của ngài và do đó con không bao giờ có thể tách biệt khỏi đấng Sáng tạo của con.

Ôi Portia, thày đến từ cõi xa,
avatar toàn vũ, thày chính là.
Quyền năng thày vô biên, con trân quý,
ngôi sao thày dìu dắt hành tinh đi.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.9. Mẹ Mary, con sẵn sàng để thày đi vào bản thể của con. Con hòa nhập bản thể của con với Bản thể của thày. Xin thày có thể nắm bàn tay con và chỉ cho con thực tại sâu xa đằng sau các câu nói của thày, thực tại không thể diễn tả bằng từ ngữ bởi vì từ ngữ quá đường thẳng.

Ôi Portia, con tự tin an trú,
con nay là dụng cụ của toàn vũ.
Con xuống đây từ thiên hà gửi tới,
để nâng cao trái đất thăng lên trời.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2. Con chấp nhận gia sản tâm linh của con

2.1. Con chỉ có thể tách biệt khỏi đấng Sáng tạo trong chính tâm con vì tâm tạo ra cảm nhận tách biệt. Cảm nhận tách biệt này chỉ là một ảo tưởng, một ảo giác được phóng chiếu lên màn ảnh cuộc sống bởi một thành phần của tâm thức của con.

Ôi Portia, nơi nhập thất của thày,
tình thương Mẹ, thày đón con dang tay.
Bao cuộc thi, con đà hoàn tất đủ,
khuôn nếp cũ, con từ nay buông rũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.2. Tất cả mọi sinh thể có tự nhận biết đều được sinh tạo từ Bản thể của chính đấng Sáng tạo. Con là một phần trong đẳng cấp các sinh thể tâm linh tạo thành Chuỗi Sinh thể đi ngược về tới chính đấng Sáng tạo.

Ôi Portia, Công lý là tên thày,
giương lên cao Lửa Danh dự Toàn vũ,
Con không còn tham dự trò chơi cũ,
cứ giữ y một cái ngã hoài hoài.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.3. Con chấp nhận nguồn gốc thật và bản sắc thật của con. Con trải nghiệm là cuộc sống có một mục đích lớn hơn. Con là thành phần của một kế hoạch vĩ đại nhằm xây dựng vương quốc Thượng đế ngay đây trên trái đất, qua đó sẽ biến hành tinh này thành một thế giới đẹp đến độ nó sẽ hoàn thành những giấc mơ sâu thẳm nhất, những khát khao sâu thẳm nhất của con.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
một với thày, con tăng trưởng mãi mãi.
Con chính là chén thánh ở nơi đây,
thày ban xuống dòng công lý hoàn vũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.4. Con thấy cuộc đời đáng sống, cuộc đời có một mục đích lớn hơn và quả thực mục đích lớn hơn là tạo sự dồi dào. Con không ở đây chỉ để hoàn thành những mong muốn tạm thời, nhân phàm của con.

Ôi Portia, cho vũ trụ quân bằng,
tim con hát, niềm hy vọng vĩnh hằng.
Đôi cánh Mẹ bảo bọc con yên ắng,
con là một với tất cả chúng sanh.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.5. Con ở đây để biểu hiện trọn vẹn bản sắc lớn hơn của con, cá thể thiêng liêng của con. Con ở đây để phục vụ như một người đồng-sáng tạo với Thượng đế, để đem vào thế giới này ánh sáng của Thượng đế, sự toàn hảo của Thượng đế, sự hài hòa của Thượng đế và các đức tính của Thượng đế.

Ôi Portia, thày đem ánh sáng Mẹ,
khỏi đêm tối, giải thoát chúng con nhé.
Lửa Tình thương của thày sáng mãi mãi,
ôm con chặt, Saint Germain và thày.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.6. Con ở đây để là ánh sáng của thế gian và biến thế gian này thành vương quốc ánh sáng, ánh sáng tiêu hủy bóng tối đang che phủ mặt đất.

Ôi Portia, thày điều ngự tài hoa,
con cảm nhận trong con sự biến hóa.
Ánh sáng thày là thực tại màu tím,
con tìm ra biến hóa đá luyện kim.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.7. Tâm thức của con, tâm của con, có khả năng là cánh cửa mở để đem xuống trái đất thêm ánh sáng của Thượng đế, thêm ánh sáng tâm linh có tần số cao, đi vào các rung động thấp của vũ trụ vật chất.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
con tỉnh mộng, giấc mơ ảo phàm phu.
Gỡ khỏi mắt cái đà tự ngã cũ,
con được đứng cùng các thày vũ trụ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.8. Con mở rộng sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của con. Con đem lại nhiều ánh sáng hơn cho thế giới, gia tăng tổng lượng ánh sáng có thể dùng vào việc sáng tạo hình tướng.

Ôi Portia, thày đến từ cõi xa,
avatar toàn vũ, thày chính là.
Quyền năng thày vô biên, con trân quý,
ngôi sao thày dìu dắt hành tinh đi.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.9. Con điều khiển ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ và dùng nó để sáng tạo những hình tướng biểu hiện nhiều hơn sự dồi dào của Thượng đế. Sự dồi dào được thể hiện như một thực tại vật lý.

Ôi Portia, con tự tin an trú,
con nay là dụng cụ của toàn vũ.
Con xuống đây từ thiên hà gửi tới,
để nâng cao trái đất thăng lên trời.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3. Con thỉnh cầu ánh sáng tâm linh

3.1. Chìa khóa cốt yếu của sự dồi dào là mọi vật trên trái đất đều được tạo ra từ ánh sáng tâm linh mà tần số được hạ xuống cho tới khi ánh sáng rung động trong quang phổ tần số tạo nên vũ trụ vật chất.

Ôi Portia, nơi nhập thất của thày,
tình thương Mẹ, thày đón con dang tay.
Bao cuộc thi, con đà hoàn tất đủ,
khuôn nếp cũ, con từ nay buông rũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.2. Tâm con có khả năng hạ thấp độ rung của ánh sáng tâm linh xuống quang phổ tần số vật chất. Một khi ánh sáng đã được hạ thấp độ rung, tâm con có thể áp đặt một hình ảnh lên ánh sáng để tạo ra một hình tướng.

Ôi Portia, Công lý là tên thày,
giương lên cao Lửa Danh dự Toàn vũ,
Con không còn tham dự trò chơi cũ,
cứ giữ y một cái ngã hoài hoài.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.3. Con với lên cõi tâm linh để kết nối với Hiện diện TA LÀ của con và phục vụ như cánh cửa mở đem ánh sáng tâm linh xuống quang phổ tần số của vũ trụ vật chất.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
một với thày, con tăng trưởng mãi mãi.
Con chính là chén thánh ở nơi đây,
thày ban xuống dòng công lý hoàn vũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.4. Con thăng vượt lập trình cho rằng chỉ có một lượng cố định dồi dào trong thế gian và con sống trong một thế gian được quy định bởi thiếu thốn và giới hạn.

Ôi Portia, cho vũ trụ quân bằng,
tim con hát, niềm hy vọng vĩnh hằng.
Đôi cánh Mẹ bảo bọc con yên ắng,
con là một với tất cả chúng sanh.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.5. Con là một thành phần của nỗ lực vượt quá vũ trụ vật chất để kết nối với Hiện diện TA LÀ và đem lại ý tưởng và hiểu biết mới sẽ khai sinh ra phát minh và công nghệ mới.

Ôi Portia, thày đem ánh sáng Mẹ,
khỏi đêm tối, giải thoát chúng con nhé.
Lửa Tình thương của thày sáng mãi mãi,
ôm con chặt, Saint Germain và thày.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.6. Con là một thành phần của nỗ lực gia tăng lượng dồi dào hiện có trên trái đất. Chúng con nhân lên khả năng sáng tạo và hiểu biết của chúng con về các quy luật của Thượng đế.

Ôi Portia, thày điều ngự tài hoa,
con cảm nhận trong con sự biến hóa.
Ánh sáng thày là thực tại màu tím,
con tìm ra biến hóa đá luyện kim.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.7. Chúng con thăng vượt trình độ nhận biết hiện thời của mình và thật sự trở thành các người đồng-sáng tạo với Thượng đế, có khả năng tạo sự dồi dào từ những gì hiện nay coi là vô giá trị.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
con tỉnh mộng, giấc mơ ảo phàm phu.
Gỡ khỏi mắt cái đà tự ngã cũ,
con được đứng cùng các thày vũ trụ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.8. Tất cả những gì con thấy chung quanh con, kể cả chất liệu vật lý, đều được tạo ra từ ánh sáng tâm linh. Lượng tài nguyên và dồi dào trên trái đất có tỷ lệ thuận với lượng ánh sáng tâm linh được đem xuống quang phổ tần số vật chất.

Ôi Portia, thày đến từ cõi xa,
avatar toàn vũ, thày chính là.
Quyền năng thày vô biên, con trân quý,
ngôi sao thày dìu dắt hành tinh đi.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.9. Vật chất không xuất hiện từ hư không. Nó là sản phẩm của Ánh sáng Mẹ đã được hạ độ rung cho tới khi nó xuống quang phổ tần số chất liệu vật lý.

Ôi Portia, con tự tin an trú,
con nay là dụng cụ của toàn vũ.
Con xuống đây từ thiên hà gửi tới,
để nâng cao trái đất thăng lên trời.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4. Con chấp nhận sự dồi dào vô biên

4.1. Không có một lượng vật chất cố định. Các đồng-sáng tạo của Thượng đế đem thêm ánh sáng vào quang phổ tần số vật chất và tăng trưởng lượng tài nguyên thiên nhiên trên hành tinh này.

Ôi Portia, nơi nhập thất của thày,
tình thương Mẹ, thày đón con dang tay.
Bao cuộc thi, con đà hoàn tất đủ,
khuôn nếp cũ, con từ nay buông rũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.2. Dồi dào không phải là một lượng cố định. Chúng con đang đem lại nhiều dồi dào hơn bằng cách sử dụng hữu hiệu hơn các tài nguyên thiên nhiên. Chúng con đang đem nhiều ánh sáng tâm linh hơn vào cõi vật chất và do đó tăng trưởng lượng tài nguyên và dồi dào trên trái đất.

Ôi Portia, Công lý là tên thày,
giương lên cao Lửa Danh dự Toàn vũ,
Con không còn tham dự trò chơi cũ,
cứ giữ y một cái ngã hoài hoài.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.3. Con có, ngay trong con, ngay trong tâm thức con, khả năng với lên cõi tâm linh, để kết nối với Hiện diện TA LÀ của con và đem ánh sáng tâm linh vào thế giới vật chất.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
một với thày, con tăng trưởng mãi mãi.
Con chính là chén thánh ở nơi đây,
thày ban xuống dòng công lý hoàn vũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.4. Con gia tăng lượng dồi dào biểu hiện trong cuộc sống của con và con làm vậy mà không lấy dồi dào từ một thành phần nào khác của cuộc sống.

Ôi Portia, cho vũ trụ quân bằng,
tim con hát, niềm hy vọng vĩnh hằng.
Đôi cánh Mẹ bảo bọc con yên ắng,
con là một với tất cả chúng sanh.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.5. Con thăng vượt tâm thức thiếu thốn. Con bước vào tâm thức dồi dào thật sự. Con giúp bứng thiếu thốn và khổ đau ra khỏi trái đất bằng cách đem thêm ánh sáng tâm linh vào thế giới này.

Ôi Portia, thày đem ánh sáng Mẹ,
khỏi đêm tối, giải thoát chúng con nhé.
Lửa Tình thương của thày sáng mãi mãi,
ôm con chặt, Saint Germain và thày.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.6. Tâm con là cánh cửa mở để ánh sáng của Thượng đế tuôn chảy vào thế giới này. Con gia tăng lượng ánh sáng tâm linh đang tuôn chảy xuyên qua tâm thức của con. Con gia tăng lượng dồi dào mà con có được trong thế giới vật chất.

Ôi Portia, thày điều ngự tài hoa,
con cảm nhận trong con sự biến hóa.
Ánh sáng thày là thực tại màu tím,
con tìm ra biến hóa đá luyện kim.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.7. Không có giới hạn nào cho lượng dồi dào mà con có thể biểu hiện trong cuộc đời của con.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
con tỉnh mộng, giấc mơ ảo phàm phu.
Gỡ khỏi mắt cái đà tự ngã cũ,
con được đứng cùng các thày vũ trụ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.8. Tâm con là một ống dẫn giữa tâm ý thức của con và Hiện diện TA LÀ của con. Con mở rộng kích thước của ống dẫn, qua đó Thượng đế sẽ cho con nhiều năng lượng tâm linh hơn và điều này sẽ gia tăng uy lực sáng tạo của con.

Ôi Portia, thày đến từ cõi xa,
avatar toàn vũ, thày chính là.
Quyền năng thày vô biên, con trân quý,
ngôi sao thày dìu dắt hành tinh đi.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.9. Thượng đế không có giới hạn. Thượng đế không có một lượng ánh sáng hữu hạn mà các sinh thể đồng-sáng tạo có thể dùng. Thượng đế có một nguồn cung cấp ánh sáng vô tận và con nhân lên khả năng sáng tạo của mình.

Ôi Portia, con tự tin an trú,
con nay là dụng cụ của toàn vũ.
Con xuống đây từ thiên hà gửi tới,
để nâng cao trái đất thăng lên trời.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Portia và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả những người trong vòng ảnh hưởng của con trong dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó con chấp nhận là chuyện này đã hoàn toàn thể hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói ra nó. Amen.

10 | Con thỉnh sự làm hòa với Thượng đế

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Portia và Mẹ Mary, hãy giúp con làm hòa với Thượng đế và nhận biết vị Thượng đế vượt trên mọi hình tướng. Xin các thày giúp con đón nhận khả năng sáng tạo của mình và nhìn ra các yếu tố ngăn chặn dòng chảy sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con, kể cả

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Khao khát thực của con là được trọn vẹn

1.1. Khi con đánh mất liên lạc với Hiện diện TA LÀ của con, cái Ta Biết cảm thấy cô đơn. Con cảm thấy mất mát, không trọn vẹn. Mong muốn sâu xa nhất trong tâm thức con là phục hồi sự trọn vẹn của con.

Ôi Portia, nơi nhập thất của thày,
tình thương Mẹ, thày đón con dang tay.
Bao cuộc thi, con đà hoàn tất đủ,
khuôn nếp cũ, con từ nay buông rũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.2. Cách duy nhất tuyệt đối để con trọn vẹn trở lại là phục hồi cảm nhận kết hợp nội tâm với nguồn cội và Hiện diện TA LÀ của con. Cảm nhận kết hợp nội tâm này chỉ có thể đạt được bằng cách đi vào bên trong, và đây là tại sao Giê-su nói rằng Nước Trời ở trong con.

Ôi Portia, Công lý là tên thày,
giương lên cao Lửa Danh dự Toàn vũ,
Con không còn tham dự trò chơi cũ,
cứ giữ y một cái ngã hoài hoài.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.3. Con đang khắc phục sự chống đối của kẻ thù bên trong và kẻ thù bên ngoài. Con đang đi vào bên trong và tái lập cảm nhận hợp nhất nội tâm với Thượng đế. Con đang thăng vượt mọi sự đồng hóa với tâm thức nhị nguyên.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
một với thày, con tăng trưởng mãi mãi.
Con chính là chén thánh ở nơi đây,
thày ban xuống dòng công lý hoàn vũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.4. Khao khát nội tâm thực sự của con là khao khát được trọn vẹn. Để có thể trọn vẹn, con sẽ giải quyết quan hệ của con với Thượng đế.

Ôi Portia, cho vũ trụ quân bằng,
tim con hát, niềm hy vọng vĩnh hằng.
Đôi cánh Mẹ bảo bọc con yên ắng,
con là một với tất cả chúng sanh.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.5. Con đang thăng vượt các tôn giáo vỏ ngoài khiến con chạy trốn khỏi, hay chạy về phía, Thượng đế bên ngoài. Con vượt lên khỏi mọi hình thức tôn giáo củng cố hình ảnh một Thượng đế bên ngoài.

Ôi Portia, thày đem ánh sáng Mẹ,
khỏi đêm tối, giải thoát chúng con nhé.
Lửa Tình thương của thày sáng mãi mãi,
ôm con chặt, Saint Germain và thày.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.6. Con biết Thượng đế không phải là một sinh thể bên ngoài. Thượng đế là một sinh thể bên trong, và không có hàng rào nào ngăn cách con với ngài, ngay cả các sai lầm quá khứ và tội lỗi của con.

Ôi Portia, thày điều ngự tài hoa,
con cảm nhận trong con sự biến hóa.
Ánh sáng thày là thực tại màu tím,
con tìm ra biến hóa đá luyện kim.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.7. Con không chạy trốn khỏi, cũng không chạy về phía, Thượng đế bên ngoài. Con đang tìm thấy Thượng đế bên trong, và đây là chìa khóa duy nhất cho sự cứu rỗi của con.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
con tỉnh mộng, giấc mơ ảo phàm phu.
Gỡ khỏi mắt cái đà tự ngã cũ,
con được đứng cùng các thày vũ trụ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.8. Con đang xoay tâm thức con lên và đứng thẳng hàng lại với thực tại của con đường nội tâm dẫn đến Thượng đế.

Ôi Portia, thày đến từ cõi xa,
avatar toàn vũ, thày chính là.
Quyền năng thày vô biên, con trân quý,
ngôi sao thày dìu dắt hành tinh đi.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.9. Con đang xoay chiếc kim của tâm thức, điều chỉnh các tin tưởng của mình cho thẳng hàng lại với sự thật Ki-tô. Con quyết tâm phơi bày và thăng vượt tính không thực của phản Ki-tô, các tin tưởng nhị nguyên đã len lỏi vào hầu hết mọi tôn giáo trên hành tinh.

Ôi Portia, con tự tin an trú,
con nay là dụng cụ của toàn vũ.
Con xuống đây từ thiên hà gửi tới,
để nâng cao trái đất thăng lên trời.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2. Con tha thứ tất cả

2.1. Con đang thăng vượt lời quả quyết rằng tin tưởng nhị nguyên là sự thật tuyệt đối không thể nào sai sót. Con buông bỏ cảm giác an toàn giả tạo khiến tự ngã của con tin rằng con chỉ cần đi theo các tín điều vỏ ngoài đó thì chắc chắn con sẽ được cứu rỗi.

Ôi Portia, nơi nhập thất của thày,
tình thương Mẹ, thày đón con dang tay.
Bao cuộc thi, con đà hoàn tất đủ,
khuôn nếp cũ, con từ nay buông rũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.2. Con sẵn lòng nhận diện nỗi giận hay cảm nhận bất công của con đối với Thượng đế. Con đang phơi bày và giải quyết những cảm xúc này.

Ôi Portia, Công lý là tên thày,
giương lên cao Lửa Danh dự Toàn vũ,
Con không còn tham dự trò chơi cũ,
cứ giữ y một cái ngã hoài hoài.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.3. Con nghe lời dặn của Giê-su và con đang tha thứ cho mọi người về mọi chuyện. Con buông bỏ tất cả mọi thù hận, hờn giận hay tổn thương, vì con biết chúng sẽ chỉ giữ con lại trong tâm thức nhị nguyên.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
một với thày, con tăng trưởng mãi mãi.
Con chính là chén thánh ở nơi đây,
thày ban xuống dòng công lý hoàn vũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.4. Bí quyết cho tự do tâm linh là sự tha thứ toàn diện, trọn vẹn và tuyệt đối cho Thượng đế, cho tất cả mọi người, cho mọi tổ chức con người và cho chính con.

Ôi Portia, cho vũ trụ quân bằng,
tim con hát, niềm hy vọng vĩnh hằng.
Đôi cánh Mẹ bảo bọc con yên ắng,
con là một với tất cả chúng sanh.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.5. Con đang biểu hiện sự sống dồi dào vì con tha thứ tất cả những ai đã từng làm hại con.

Ôi Portia, thày đem ánh sáng Mẹ,
khỏi đêm tối, giải thoát chúng con nhé.
Lửa Tình thương của thày sáng mãi mãi,
ôm con chặt, Saint Germain và thày.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.6. Con đang tha thứ cho Thượng đế về bất kỳ hình ảnh giả trá nào của ngài đã được áp đặt lên con.

Ôi Portia, thày điều ngự tài hoa,
con cảm nhận trong con sự biến hóa.
Ánh sáng thày là thực tại màu tím,
con tìm ra biến hóa đá luyện kim.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.7. Con đang tha thứ cho ông hoàng của thế gian đã gian dối, đánh lừa và khuynh loát.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
con tỉnh mộng, giấc mơ ảo phàm phu.
Gỡ khỏi mắt cái đà tự ngã cũ,
con được đứng cùng các thày vũ trụ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.8. Con đang tha thứ cho cái ta hữu diệt của con. Con tha thứ chính con, cái Ta Biết, đã chấp nhận những lời dối nhị nguyên trong quá khứ.

Ôi Portia, thày đến từ cõi xa,
avatar toàn vũ, thày chính là.
Quyền năng thày vô biên, con trân quý,
ngôi sao thày dìu dắt hành tinh đi.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.9. Con không cần được Thượng đế tha thứ về bất kỳ lỗi lầm nào mà con đã phạm. Thượng đế đã cho con quyền tự quyết, và ngài không hề giận con khi con dùng quyền này để đi ngược lại các quy luật của ngài. Con chấp nhận là con đã được Thượng đế tha thứ rồi.

Ôi Portia, con tự tin an trú,
con nay là dụng cụ của toàn vũ.
Con xuống đây từ thiên hà gửi tới,
để nâng cao trái đất thăng lên trời.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3. Con tha thứ chính mình

3.1. Con đang thăng vượt các lỗi lầm của con. Con buông bỏ hoàn toàn lời dối nhị nguyên đã khiến con phạm một lỗi lầm nào đó.

Ôi Portia, nơi nhập thất của thày,
tình thương Mẹ, thày đón con dang tay.
Bao cuộc thi, con đà hoàn tất đủ,
khuôn nếp cũ, con từ nay buông rũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.2. Con đang hoàn nguyên tất cả năng lượng mà con đã làm tha hóa qua các tin tưởng nhị nguyên của mình. Con đang phục hồi sự cân bằng của vũ trụ.

Ôi Portia, Công lý là tên thày,
giương lên cao Lửa Danh dự Toàn vũ,
Con không còn tham dự trò chơi cũ,
cứ giữ y một cái ngã hoài hoài.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.3. Con chấp nhận là đối với Thượng đế, con hoàn toàn giải thoát khỏi lỗi lầm quá khứ. Ngài sẽ không nhớ tội lỗi của con nữa.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
một với thày, con tăng trưởng mãi mãi.
Con chính là chén thánh ở nơi đây,
thày ban xuống dòng công lý hoàn vũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.4. Con đang cảm thấy hoàn toàn tự do khỏi lỗi lầm của mình vì con tha thứ mình đã phạm lỗi. Chính con cũng không nhớ tội lỗi của mình nữa.

Ôi Portia, cho vũ trụ quân bằng,
tim con hát, niềm hy vọng vĩnh hằng.
Đôi cánh Mẹ bảo bọc con yên ắng,
con là một với tất cả chúng sanh.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.5. Con đang tha thứ tất cả những ai bị kẹt trong cùng khía cạnh này của trạng thái tâm thức nhị nguyên.

Ôi Portia, thày đem ánh sáng Mẹ,
khỏi đêm tối, giải thoát chúng con nhé.
Lửa Tình thương của thày sáng mãi mãi,
ôm con chặt, Saint Germain và thày.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.6. Sự tha thứ mà con cần để thoát khỏi lỗi lầm quá khứ không phải là sự tha thứ từ Thượng đế, mà từ chính con. Con đang tha thứ chính mình bằng cách tha thứ mọi người khác.

Ôi Portia, thày điều ngự tài hoa,
con cảm nhận trong con sự biến hóa.
Ánh sáng thày là thực tại màu tím,
con tìm ra biến hóa đá luyện kim.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.7. Nếu con khó lòng tha thứ người khác, điều này cho thấy con chưa tha thứ được chính con. Con đang nhìn thấy cái xà trong mắt mình. Con buông bỏ các tin tưởng nhị nguyên về sự tha thứ còn tồn tại trong tâm thức con.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
con tỉnh mộng, giấc mơ ảo phàm phu.
Gỡ khỏi mắt cái đà tự ngã cũ,
con được đứng cùng các thày vũ trụ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.8. Tha thứ là thực sự giải thoát mình khỏi một tình huống bất toàn trong quá khứ, giải thoát mình khỏi dính mắc tình cảm với tình huống đó và những người đã can dự vào tình huống.

Ôi Portia, thày đến từ cõi xa,
avatar toàn vũ, thày chính là.
Quyền năng thày vô biên, con trân quý,
ngôi sao thày dìu dắt hành tinh đi.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.9. Con đang tự giải phóng khỏi mọi dính mắc tình cảm với những lỗi lầm hay những người trong quá khứ. Con tự giải phóng khỏi mọi ràng buộc với quá khứ bằng cách trước hết tha thứ hoàn toàn cho việc mình đã phạm những lỗi này.

Ôi Portia, con tự tin an trú,
con nay là dụng cụ của toàn vũ.
Con xuống đây từ thiên hà gửi tới,
để nâng cao trái đất thăng lên trời.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4. Con tái lập sự ngây thơ của con

4.1. Tha thứ là chìa khóa của tự do. Con tự do nhận lấy sự sống dồi dào mà Thượng đế cứ chực cho con bất cứ lúc nào.

Ôi Portia, nơi nhập thất của thày,
tình thương Mẹ, thày đón con dang tay.
Bao cuộc thi, con đà hoàn tất đủ,
khuôn nếp cũ, con từ nay buông rũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.2. Con đang nhận sự sống dồi dào bằng cách tha thứ chính mình về những lỗi lầm đã khiến mình khước từ sự sống dồi dào trong quá khứ. Con tha thứ cho con đã bước vào vòng xoáy hướng hạ kéo con xa khỏi sự sống dồi dào. Con đang thăng vượt tâm thức nhị nguyên.

Ôi Portia, Công lý là tên thày,
giương lên cao Lửa Danh dự Toàn vũ,
Con không còn tham dự trò chơi cũ,
cứ giữ y một cái ngã hoài hoài.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.3. Con đang tái lượng định quan hệ của con với Thượng đế. Vấn đề trung tâm trong tâm lý con người là mọi việc trong đời con, mọi điều trong tâm lý con, đều xoay quanh mối quan hệ của con với Thượng đế.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
một với thày, con tăng trưởng mãi mãi.
Con chính là chén thánh ở nơi đây,
thày ban xuống dòng công lý hoàn vũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.4. Với sự trợ giúp của các chân sư thăng thiên, con nắm bất cứ vấn đề nào trong tâm lý của con và truy tìm nguồn gốc tận cùng của nó, nguyên nhân tối hậu của nó, cụ thể là quyết định đã khiến con quay lưng lại vị thày của con, quay lưng lại Thượng đế. Quyết định này là nguyên nhân gốc rễ của mọi vấn đề của con.

Ôi Portia, cho vũ trụ quân bằng,
tim con hát, niềm hy vọng vĩnh hằng.
Đôi cánh Mẹ bảo bọc con yên ắng,
con là một với tất cả chúng sanh.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.5. Con truy tìm xuyên qua nhiều lớp vấn đề, vì quyết định nguyên thủy của con đã phân nhánh thành nhiều quyết định nhị nguyên. Con vượt quá các vấn đề có vẻ riêng rẽ này để giải quyết nguyên nhân sâu xa.

Ôi Portia, thày đem ánh sáng Mẹ,
khỏi đêm tối, giải thoát chúng con nhé.
Lửa Tình thương của thày sáng mãi mãi,
ôm con chặt, Saint Germain và thày.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.6. Con đang đi xuống những tầng càng ngày càng sâu của tâm lý. Con giải quyết hoàn toàn mọi yếu tố nhị nguyên trong quan hệ của con với Thượng đế, cách con nhìn ngài và cách con tương tác với ngài.

Ôi Portia, thày điều ngự tài hoa,
con cảm nhận trong con sự biến hóa.
Ánh sáng thày là thực tại màu tím,
con tìm ra biến hóa đá luyện kim.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.7. Con sẵn lòng xử lý quyết định đã khiến con quay lưng lại Thượng đế và do đó khước từ món quà miễn phí của ngài là sự sống dồi dào. Con đang phơi bày quyết định này. Con đang trở về hợp nhất với Thượng đế bằng cách tái lập sự hồn nhiên của mình, cảm nhận kết hợp nội tâm của mình với Thượng đế.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
con tỉnh mộng, giấc mơ ảo phàm phu.
Gỡ khỏi mắt cái đà tự ngã cũ,
con được đứng cùng các thày vũ trụ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.8. Con sẵn lòng đi vào bên trong và tìm trả lời từ bên trong chính mình. Con biết con sẽ nhận được câu trả lời từ một nguồn bên trong con.

Ôi Portia, thày đến từ cõi xa,
avatar toàn vũ, thày chính là.
Quyền năng thày vô biên, con trân quý,
ngôi sao thày dìu dắt hành tinh đi.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.9. Khi con biết câu trả lời, con sẽ mừng rỡ và ý thức buông bỏ quyết định đã khiến con quay lưng lại Thượng đế. Con chấp nhận là con hoàn toàn xứng đáng được trở về hợp nhất với ngài, trở về với trạng thái ngây thơ của con.

Ôi Portia, con tự tin an trú,
con nay là dụng cụ của toàn vũ.
Con xuống đây từ thiên hà gửi tới,
để nâng cao trái đất thăng lên trời.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Portia và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy.” Do đó con chấp nhận là điều này đã hoàn toàn biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói nó ra. Amen.

8 | Con thỉnh cầu hợp nhất với thày con

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là thày Maitreya và Mẹ Mary, hãy giúp con khắc phục mọi cảm nhận tách biệt khỏi thày con, hay mong muốn trốn tránh khỏi thày con. Xin các thày giúp con đón nhận khả năng sáng tạo của mình và nhìn ra các yếu tố ngăn chặn dòng chảy sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con, kể cả …

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con đã định ra con đường riêng của mình

1.1. Khi con bị kẹt trong cái ta hữu diệt, kẹt trong tâm thức nhị nguyên, con trở thành một lời tiên tri tự nó ứng nghiệm. Do con cảm thấy mình bị tước đoạt sự dồi dào của Thượng đế, vũ trụ gửi cho con những cảnh ngộ vỏ ngoài sẽ phản ánh tin tưởng này của con.

Maitreya, con là đứa rất hiền,
Thày khuyên bảo, con quý trọng biết mấy, 
Viễn quan thày, con thực tình muốn thấy, 
Với thày, con sẽ ở vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

1.2. Con buông bỏ hình ảnh một Thượng đế nóng giận, phán xét. Thượng đế sẽ vui mừng thấy con thoát khỏi tâm thức nhị nguyên ngay bây giờ, nhưng vì ngài tôn trọng quyền tự quyết của con, nên ngài biết con phải trở về vương quốc của ngài bằng cách thay thế các chọn lựa cũ dựa trên nhị nguyên phản Ki-tô bằng những chọn lựa xây trên tảng đá Ki-tô.

Maitreya, hãy giúp con trở về,
Học từ thày, con thật chỉ muốn thế. 
Khi Duy nhất chiếm trọn lòng khao khát, 
Con cảm được ngọn lửa tâm ngộ đạt. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

1.3. Thượng đế đã không quy định con đường mà con phải theo để trở về vương quốc của ngài. Chính con đã định ra con đường riêng của mình khi con chấp nhận một số điều kiện. Con đường cá nhân của con là phải nhìn thấu và buông bỏ mọi điều kiện trong tâm con.

Maitreya, bây giờ con xin hẹn,
Đối với thày, không bao giờ che giấu, 
Hãy phơi bày sự lừa lọc hư xấu 
Đã làm chết cái ta vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

1.4. Những quyết định mà con đã lấy dựa trên tâm thức phản Ki-tô hình thành một tập hợp. Tập hợp này biến thành một tổng thể mạch lạc khoác vào một tâm thức đặc trưng như một ngã tách biệt. Đây là cái ta hữu diệt của con ra đời, là một ý niệm cái ta tách biệt có mặt trong bình chứa cái ta của con.

Maitreya, vị Đạo sư chân phúc,
Tim sâu nhất, con trao cả cho thày, 
Con xin nguyện lắng nghe trọn tỉnh thức, 
Để bẻ gẫy bùa ngải của rắn đây. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

1.5. Khi cái ta hữu diệt ra đời, nó hình thành một đối lập cho cái ta bất diệt của con. Nó hình thành một cái ta ngoại lai đối với bản mẫu thiêng liêng của con.

Maitreya, giúp con thấy tà thuật,
Vì lời rắn mà sợi dây phải đứt, 
Nay trong con, nó chẳng nắm gì được, 
Con đã tìm tự do trong Duy nhất. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

1.6. Khi cái ta hữu diệt tăng thêm sức mạnh thì lực hấp dẫn của nó lôi kéo mạnh hơn, khiến cái Ta Biết, sự chú ý của con, càng ngày càng tập trung vào nó. Đến một điểm, nó trở nên hùng mạnh đến độ cái Ta Biết bắt đầu đồng hóa với nó.

Maitreya, tự do nhờ sự thực,
Mà thoát khỏi sai lầm của nhị đối, 
Con rũ hết thành quả của kiến thức, 
Để chỉ biết chân tánh của thày thôi. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

1.7. Chính cái ta hữu diệt này ngăn con trải nghiệm sự sống dồi dào. Con đường chân chính duy nhất dẫn đến nhiều dồi dào hơn là con phải tách cái Ta Biết ra khỏi cái ta hữu diệt. Con đang đi trên tiến trình tách mình ra khỏi cái ta hữu diệt để con không còn đồng hóa với nó nữa.

Maitreya, con cúi đầu quy phục,
Ý định sạch và tim con chân thực, 
Cả tự ngã con cũng bỏ lại nốt,
Và trọn vẹn con với thày là một. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

1.8. Con đang khắc phục ảo tưởng rằng con là cái ta hữu diệt. Chừng nào cái Ta Biết còn đồng hóa với cái ta hữu diệt, làm sao con có thể tách ra khỏi cái ta hữu diệt?

Maitreya, thiện tâm là chìa khóa,
Thày dạy con lòng tốt đủ mọi diện, 
Nay con là cánh cửa đã mở ra, 
Để phục hồi Nghệ thuật của Tâm thiện. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

1.9. Con không thể tách mình ra khỏi chính con. Con không thể tách mình ra khỏi cái con xem là chính mình, ý niệm cái ta của mình. Con đang thức tỉnh với nhận biết là cái ta hữu diệt không thuộc về bản thể thực của con.

Maitreya, ôi bí ẩn ngọt ngào,
Con trầm mình trong thực tại của thày, 
Trường huyền bí giờ đây sẽ trở lại, 
Khiến lòng con đang bừng cháy làm sao. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

2. Con đang trở về với thày con

2.1. Con đang tách mình ra khỏi cái ta hữu diệt. Con đang giảm bớt lượng ánh sáng chảy xuyên qua nó. Một cách có hệ thống, con đang cắt đứt tất cả ánh sáng chảy qua cái ta hữu diệt, và con cho phép nó chết đi từng chút, từng chút.

Maitreya, con là đứa rất hiền,
Thày khuyên bảo, con quý trọng biết mấy, 
Viễn quan thày, con thực tình muốn thấy, 
Với thày, con sẽ ở vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

2.2. Vì cái ta hữu diệt có một bản năng sinh tồn, nó không muốn thấy chuyện này xảy ra. Nó sẽ chiến đấu cho mạng sống của nó, và cách duy nhất nó có thể duy trì mạng sống là giữ con kẹt lại trong một số tin tưởng nhị nguyên. Nó sẽ phóng chiếu vào con bất cứ gì nó có thể nghĩ tới để con tiếp tục bị dính mắc tình cảm với các tin tưởng này.

Maitreya, hãy giúp con trở về,
Học từ thày, con thật chỉ muốn thế. 
Khi Duy nhất chiếm trọn lòng khao khát, 
Con cảm được ngọn lửa tâm ngộ đạt. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

2.3. Nếu cái Ta Biết của con đồng hóa với cái ta hữu diệt, cái Ta Biết sẽ tin chắc là nó sẽ chết nếu nó từ bỏ một tin tưởng nhị nguyên của con. Và như vậy con sẽ không thể từ bỏ tin tưởng này.

Maitreya, bây giờ con xin hẹn,
Đối với thày, không bao giờ che giấu, 
Hãy phơi bày sự lừa lọc hư xấu 
Đã làm chết cái ta vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

2.4. Con không thể thoát khỏi thế kẹt lưỡng nan đó mà không có một vị thày đứng ngoài hộp tư duy của con để cho con nhãn quan của Ki-tô, một nhãn quan mà con không thể có từ bên trong hộp.

Maitreya, vị Đạo sư chân phúc,
Tim sâu nhất, con trao cả cho thày, 
Con xin nguyện lắng nghe trọn tỉnh thức, 
Để bẻ gẫy bùa ngải của rắn đây. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

2.5. Trong quá khứ, con đã lấy những quyết định khiến con tách khỏi vị thày riêng của mình. Giờ đây con quyết định một cách ý thức là con sẵn lòng quay về với thày con, thừa nhận những gì mình đã làm và nhờ thày giúp mình leo lên trở lại cầu thang xoắn ốc.

Maitreya, giúp con thấy tà thuật,
Vì lời rắn mà sợi dây phải đứt, 
Nay trong con, nó chẳng nắm gì được, 
Con đã tìm tự do trong Duy nhất. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

2.6. Thày con sẽ không vi phạm quyền tự quyết của con. Nếu con quyết định trốn tránh thày, thày không còn chọn lựa nào khác để giúp con. Con sẵn lòng để thày phơi bày bất kỳ khía cạnh nào của cái ta phàm phu. Con không tìm cách giấu giếm gì khỏi mắt thày.

Maitreya, tự do nhờ sự thực,
Mà thoát khỏi sai lầm của nhị đối, 
Con rũ hết thành quả của kiến thức, 
Để chỉ biết chân tánh của thày thôi. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

2.7. Luật Tự quyết quy định là nếu con trốn tránh thày, thày sẽ không thể đuổi theo con và đối chất con. Con không còn muốn trốn thày nữa. Con quyết định quay đầu lại và nhờ thày giúp đỡ.

Maitreya, con cúi đầu quy phục,
Ý định sạch và tim con chân thực, 
Cả tự ngã con cũng bỏ lại nốt,
Và trọn vẹn con với thày là một. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

2.8. Thày con không lên án con về những chọn lựa mà con đã lấy. Thày con không muốn thấy con tiếp tục bị giam trong các chọn lựa này. Thày con muốn con có sự sống dồi dào.

Maitreya, thiện tâm là chìa khóa,
Thày dạy con lòng tốt đủ mọi diện, 
Nay con là cánh cửa đã mở ra, 
Để phục hồi Nghệ thuật của Tâm thiện. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa.

2.9. Thày con muốn con tách mình ra khỏi cái ta hữu diệt. Con đang khám phá cánh cửa của nhà tù thế phàm và con nhận thấy cửa này không khóa. Con đang mở cửa ra, bước ra ngoài ánh sáng rực rỡ của Mặt trời Hiện diện TA LÀ của con.

Maitreya, ôi bí ẩn ngọt ngào,
Con trầm mình trong thực tại của thày, 
Trường huyền bí giờ đây sẽ trở lại, 
Khiến lòng con đang bừng cháy làm sao. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3. Con nhìn ra bí mật của cuộc sống

3.1. Không phải thày con đang cố giữ con lại trong nỗi xấu hổ hay sự phủ nhận các chọn lựa cũ của mình, mà là cái ta hữu diệt và ông hoàng của thế gian đang cố giam con chặt trong các chọn lựa này.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.2. Con buông bỏ lời dối bảo rằng do các lỗi lầm quá khứ mà con không thể quay về với thày con, không thể thừa kế vương quốc của Cha con.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.3. Trước khi con có thể quyết định bước ra ngoài nhà tù thế phàm, con phải nhận diện một cách ý thức tại sao con đã quyết định quay lưng lại vị thày. Với sự giúp đỡ của thày con, con đang nhìn ra quyết định này.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.4. Con đang giải thể một cách ý thức quyết định mà con đã lấy rất lâu về trước. Bằng cách tháo gỡ quyết định này, con đang tách mình ra khỏi cái ta hữu diệt.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.5. Có thể vẫn còn một số yếu tố của cái ta hữu diệt trong bình chứa cái ta của con, và con sẵn lòng để thày con phơi bày cho con thấy.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.6. Bằng cách giải thể quyết định nguyên thủy đã khiến con quay lưng lại thày con, cái ta hữu diệt đang mất hết uy quyền trên con.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.7. Bí mật của cuộc sống là thế này: Điều giữ con kẹt lại trong một trạng thái thiếu thốn và đau khổ là quyết định nguyên thủy đã khiến con quay lưng lại vị thày tâm linh của con, quay lưng lại Hiện diện TA LÀ của con, quay lưng lại Đấng Sáng tạo ra con.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.8. Từ quyết định nguyên thủy đó đã nẩy lên vô số quyết định khác dựa trên tâm thức nhị nguyên. Cho nên quyết định nguyên thủy thật sự tượng trưng cho một thế kẹt lưỡng nan về mặt tâm linh – đó chính là quyết định ngăn cản con tái sinh.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.9. Với thày con giúp đỡ, con quyết định cho phép cái ta hữu diệt chết đi trên thập tự giá. Quyết định này cho con uy lực thoát khỏi nanh vuốt của tâm phản Ki-tô.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4. Con cho phép mình cảm thấy chiến thắng

4.1. Với thày con giúp đỡ, con cảm được là con đường hướng thượng thật tràn đầy hứng khởi, và do đó nó thật đáng công lao bỏ ra.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.2. Mỗi lần con bước lên một bực cao hơn trên cầu thang xoắn ốc, con thu được một chiến thắng quan trọng.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.3. Con đang mở tim ra đón nhận cảm giác chiến thắng, và con cho phép mình cảm thấy là với thày con giúp đỡ, quả thực con đang giành thắng lợi trong việc khắc phục cái ta hữu diệt.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.4. Con đang đứng trên ngưỡng cửa, và con đang bước ra ngoài nhà tù của cái ta hữu diệt để vĩnh viễn bỏ lại đằng sau ảo tưởng rằng con bị giam trong nhà tù đó, không đường nào khác hơn là con đường đi xuống.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.5. Con đang cho phép mình cảm thấy lòng hứng khởi và niềm vui mà thày con cùng tất cả anh chị của con nơi thiên đàng cảm thấy, vì con đã chọn vươn mình lên tới mức này.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.6. Con nhìn nhận một cách ý thức là con đã sẵn sàng bước qua cánh cửa nhà tù, bước xuyên qua tấm màn năng lượng chia cách con với các thày thăng thiên và Hiện diện TA LÀ của con.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.7. Con biết là các thày thăng thiên của con mong mỏi nhìn thấy con, một lần nữa, lại là sự trọn vẹn mà con đã sẵn là.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.8. Con biết là các thày của con đang cầm giữ niệm tinh khôi cho con, và với các thày giúp đỡ, con đang cầm giữ niệm tinh khôi này cho chính con.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.9. Bây giờ con thấy mọi thứ trên trái đất đơn giản là không thực. Con chấp nhận chỉ có niệm tinh khôi neo trụ nơi Hiện diện TA LÀ và căn thể của con mới là thực tại tối hậu cho dòng sống của con, cho trải nghiệm sống của con.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Maitreya và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy.” Do đó con chấp nhận là điều này đã hoàn toàn biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói nó ra. Amen.

8 | Con thỉnh cầu ý chí cao của con

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng và Cha Thiêng liêng, đặc biệt là Phật Gautama và Mẹ Mary, hãy giúp con khắc phục mọi thiếu thốn ý chí và không sẵn lòng để uy lực Thượng đế tuôn chảy xuyên qua con một cách cân bằng, lúc nào cũng ở trên Trung đạo. Xin các thày giúp con chấp nhận uy lực sáng tạo của con và thấy những yếu tố ngăn cản dòng chảy của sự sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con, kể cả …

[Đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con biết luật tự quyết vận hành làm sao

1.1. Con buông bỏ ảo tưởng là ý chí Thượng đế bên ngoài, tách biệt và có khi đối chọi ý chí cá nhân của con.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.2. Ý chí của tự ngã, ý chí của ngã hữu diệt, sẽ luôn luôn cảm thấy bị gò bó bởi ý chí Thượng đế. Con bãi bỏ ảo tưởng cho rằng muốn tuân theo ý chí Thựơng đế, con cần phải từ bỏ ý chí của mình.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.3. Con buông bỏ ảo tưởng cho rằng Thượng đế muốn kiểm soát con, và chỉ khi con nổi loạn chống Thượng đế trong Vườn Địa đàng thì con người mới có được quyền tự quyết.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.4. Con được tạo ra với quyền tự quyết ngay từ lúc ban đầu, và khi con nổi loạn chống ý chí Thượng đế, con không giành được quyền tự do chọn lựa. Con đã đánh mất quyền tự do đó khi con trao nó cho ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.5. Con có một khát khao nội tại muốn phát biểu cá tính của mình. Nếu con tin hai điều này không thể tương hợp, thì con sẽ không bao giờ cảm thấy trọn vẹn và toại nguyện. Con biết con có thể biểu lộ cá tính của con trong khuôn khổ ý chí Thượng đế, cũng là ý chí của cái ta cao hơn của con.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.6. Con biết sự trọn vẹn chỉ đạt được bằng cách thuận theo ý chí Thượng đế. Mâu thuẫn có vẻ có giữa ý chí cá nhân của con và ý chí Thượng đế chỉ là một ảo tưởng nhị nguyên.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.7. Con buông bỏ mọi cảm giác nỗi oán giận vi tế đối với Thượng đế vì sự kiện con đang sống. Con buông bỏ mọi cảm giác Thượng đế đã ép con phải sống, và do đó Thượng đế chịu trách nhiệm về các nỗi khổ và giới hạn của con.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.8. Con thanh tẩy thể bản sắc của con và con nhận ra và hoàn toàn chấp nhận ý chí của Thượng đế quả thật là ý chí của con, và ý chí của con là ý chí của Thượng đế.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

1.9. Con không được tạo ra trong trống không. Con là một nối dài của một Sinh thể tâm linh lớn hơn, và con biểu hiện sự kiện Sinh thể tâm linh lớn hơn đó muốn vươn mình vào vũ trụ vật chất và đem lại ánh sáng và vương quốc Thượng đế để thay thế bóng tối đang bao trùm mặt đất.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

2. Con tới đây vì tình thương

2.1. Sau khi con được tạo ra như một dòng sống cá biệt, con có chọn lựa hoặc đi xuống vũ trụ vật chất hoặc theo đuổi tăng trưởng trên cõi tâm linh. Con thấy rõ mục đích vì sao con được tạo ra, nên con chọn với lòng thương yêu đi xuống vũ trụ vật chất như một sứ thần của Sinh thể lớn hơn mà con là.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.2. Con không bị ép buộc phải tới đây. Con tới đây như kết quả một chọn lựa, và chọn lựa đó không do một sinh thể, ngoại lai lấy. Chính con, cái Ta Biết, đã lấy chọn lựa đó trong tâm thái thấy mình là một nối dài của Sinh thể lớn hơn mà con là.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.3. Con ở đây vì con đã chọn tới đây, và con đã chọn trong tình thương. Con ở đây vì con muốn ở đây.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.4. Con kết nối lại với mục đích vì sao con tới đây, và cuộc đời của con mang một chiều kích hoàn toàn mới. Con đạt được một lý lẽ sống sâu đậm và vui tươi và con kết nối với ý nghĩa nguyên thủy, mục đích nguyên thủy của tạo vật của Thượng đế.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.5. Con biết con là ai và vì sao con tới trái đất. Con là phần nối dài của một Sinh thể tâm linh lớn hơn thể hiện một đặc tính đặc thù của Thượng đế. Con ở đây để đem một đặc tính đặc thù của Thượng đế xuống trái đất và qua đó con phục vụ như một mặt của viên kim cương của tâm Thượng đế sẽ thể hiện vương quốc Thượng đế trên hành tinh này.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.6. Con kết nối lại với toàn thể Thân thể Thượng đế và thấy là con thuộc một làn sóng lớn những Sinh thể tới trái đất vì một mục đích cao. Con có ý niệm cuộc sống có mục đích, có ý nghĩa, có hướng đi thiêng liêng, và đây quả thật là sự thành tựu tối hậu của một khao khát mà con có tự đáy lòng.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.7. Đời sống dồi dào thực sự đến từ cảm nhận ánh sáng Thượng đế đang tuôn chảy qua bốn thể phàm của con. Đời sống dồi dào đến từ nhận biết tất cả khía cạnh của con người phàm của con đều thẳng hàng với mục đích nguyên thủy vì sao con tới đây. Mọi khía cạnh cuộc đời con biểu lộ mục đích đó và đóng góp vào việc thành tựu mục đích đó.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.8. Thể bản sắc là trụ điểm của uy lực ý chí, uy lực quyết tâm, uy lực định hướng, uy lực chí hướng. Xung lực căn bản đằng sau việc con xuống cõi vật chất là một quyết định. Toàn  bộ dòng sống của con bắt nguồn từ một hành động thể hiện ý chí. Hành động ý chí này nối dài quyết định nguyên thủy của đấng Sáng tạo, rằng: “Ta muốn sáng tạo!”

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.9. Con kết nối trở lại với ý chí cao hơn của con người con, ý chí vượt quá bất cứ gì có thể chứa đựng trong bốn thể phàm của con. Con kết nối với ý chí cao hơn ý chí của tâm ý thức của con.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3. Con thăng vượt lực phản-ý chí

3.1. Có một lực phản-ý chí trên hành tinh này, đang tích cực chống lại ý chí của Thượng đế và sự thể hiện vương quốc Thượng đế. Những lực chỉ có thể sống trong bóng của tăm tối không muốn con hay bất cứ ai khác đem ánh sáng Thượng đế xuống hành tinh này. Con sẽ không phớt lờ coi như lực phản-ý chí đó không có vì con muốn nâng mình lên khỏi nó.

Gautama, thày chỉ ra tâm thức
khởi hận thù, cũng khởi lên ưa thích. 
Con nhận chịu khi thày giảng bộc bạch 
làm thế nào để nhận biết trong sạch. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.2. Con khám phá một nguồn uy lực ý chí mạnh hơn những gì có mặt trong thế gian. Nguồn uy lực ý chí này phát xuất từ việc con kết nối lại với con người thật mà con là, với sinh thể tâm linh lớn hơn mà con là một nối dài.

Gautama, trong Ngọn lửa Hòa bình,
con giải thể cái ngã muốn giao tranh,
con giờ đây đã thấy được Phật tánh, 
là thực chất của thày lẫn chúng sinh. 

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.3. Con kết nối lại với Sinh thể tâm linh lớn hơn của con, và con tiếp nhận được toàn thể uy lực ý chí bắt nguồn từ tận đấng Sáng tạo. Không có lực nào trên thế gian có thể kháng cự uy lực ý chí của Thượng đế.

Gautama, con là một cùng thày,
quỷ Mara đang tìm đường lẩn tránh.
Hiện diện thày là liều thuốc dỗ dành,
để giác quan với tâm con yên lành.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.4. Ý chí Thượng đế tuyệt đối, không khoan nhượng, và nó không dung dưỡng suy luận nhị nguyên của tâm phản-Ki-tô. Ý chí Thượng đế không tha hóa sự thực và không chấp nhận bất cứ lực nào chống đối việc thể hiện vương quốc Thượng đế.

Gautama, con xin nguyện một điều,
sống luôn luôn trong hiện tại vĩnh cửu,
vượt thời gian, con với thày tiêu diêu,
sống mãi mãi trong khoảnh khắc tuyệt diệu.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.5. Con kết nối lại với ý chí của sinh thể lớn hơn của con, và con không chấp nhận bất cứ điều kiện nào trên trái đất ngăn trở sự thành tựu của mục đích nguyên thủy khiến con tới đây. Con đột phá lực phản-ý chí của ngã hữu diệt, lực phản ý chí của những người chung quanh con, lực phản ý chí của tâm thức tập thể và của ông hoàng thế gian.

Gautama, con không còn thèm muốn,
và không ham vật gì của đời sống,
không dính mắc, con nghỉ ngơi buông xả,
vượt thử thách tinh vi của Mara.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.6. Con kết nối lại với một lực hoàn toàn vượt quá tha hóa, và lực đó là ý chí Thượng đế. Ý chí Thượng đế sẽ không tha hóa sự thực, và con sẽ không tha hóa mục đích nguyên thủy vì sao con tới đây.

Gautama, con chảy nhập vào thày,
tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
con trầm mình trong ánh quang rực sáng,
không còn biết gì hơn cõi Niết bàn.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.7. Cái Ta Biết của con tách ra khỏi tâm ý thức và kết nối lại với bản sắc thật của con. Con đem sự quyết tâm của ý chí Thượng đế xuống tầng tâm ý thức.

Gautama, không gian phi thời gian,
trong Hồng ân Vũ trụ con chìm lắng,
con nhận ra Thượng đế vượt hình dáng,
và không còn chiều theo chuyện thế gian.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.8. Con không cho phép bất cứ gì, ở bên trong tâm của con hay bên ngoài con, ngăn trở sự thành tựu của mục đích khiến con tới trái đất. Con quét phăng đi sự chống đối sứ vụ thiêng liêng của con, sự chống đối lý do vì sao con hiện hữu.

Gautama, bây giờ con tỉnh thức,
thấy rõ được hiểm họa trên trái đất,
lấy lại quyền thiêng liêng, con nao nức
biểu hiện ở ngay đây Ánh sáng Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

3.9. Con kết nối lại với uy lực của ý chí Thượng đế, và con không sợ bất cứ lực nào của thế gian. Con có cái biết nội tại con được Thượng đế gửi đến đây để đem ánh sáng vào thế giới tăm tối này, và con chống trả mọi thách thức của ông hoàng thế gian.

Gautama, sấm sét vang trời đất,
con xin mượn để lay chuyển địa cầu,
vì biết rằng có người sẽ hiểu thấu
mà gia nhập đoàn vô thỉ của Phật.

Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ
chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng.
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

4. Con giành quyền là Ki-tô trên trái đất

4.1. Con biết con có quyền đạt quả vị Ki-tô trên thế gian này. Con thực thi quả vị Ki-tô bằng cách mang ánh sáng sự thật tới người khác và xã hội.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.2. Con giàng quyền chứng minh có cái gì khác trạng thái tâm nhị nguyên, có một con đường khả thi dẫn tới một trạng thái tâm thức cao hơn. Con là một trong số đông người đi con đường dẫn tới quả vị Ki-tô và đời sống dồi dào.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.3. Con người thật của con, Hiện diện TA LÀ và cái Ta Biết của con, được thiết kế để là mặt trời tâm linh tỏa rạng ánh sáng Thượng đế xuống trái đất. Hiện diện TA LÀ của con hạ độ rung của ánh sáng Thượng đế và gửi ánh sáng đó xuống bốn thể phàm của con dưới sự điều khiển của cái Ta Biết để chúng thẳng hàng với mục đích nguyên thủy khiến con xuống trái đất.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.4. Con là một ống dẫn cho ánh sáng Thượng đế tuôn chảy xuống và tỏa rạng trên trái đất. Con đem ánh sáng Thượng đế vào cõi vật chất và qua đó nâng độ rung của toàn vũ trụ, đổ đầy ánh sáng vào đó để nó trở thành một bầu cõi khác của cõi tâm linh.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.5.  Con hướng ánh sáng Thượng đế vào những điều kiện đặc trưng trên trái đất để phóng đại chúng, gia tốc các điều kiện đó và giúp chúng thăng vượt trạng thái bất toàn hiện tại. Con giúp mọi chuyện trên trái đất trở nên hơn nữa, và khi con làm vậy thì con trở nên hơn nữa. Khi con cho ánh sáng của con thì con nhận được mãn nguyện tối hậu.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.6. Cuộc sống dồi dào là ánh sáng Thượng đế tuôn chảy mà không bị pha loãng hay bị cản trở xuyên qua bốn thể phàm, phóng đại mọi thứ mà nó gặp. Con được vây quanh bởi dồi dào. Con chủ động sản xuất dồi dào bằng cách để ánh sáng từ Trên gia tốc mọi thứ mà con gặp.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.7. Con nhân các tài năng của con. Khi con cảm thấy ánh sáng tuôn chảy qua con, thì con sẽ có cảm giác mãn nguyện tối hậu, cảm giác dồi dào và nuôi dưỡng tối hậu.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.8. Con biết con là ai và con là người con là. Con trải nghiệm ngộ nhập và không còn khoảng cách, khác biệt, tách biệt, giữa người biết và cái được biết.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.9. Con không còn tách biệt với Thượng đế, và con biết Thượng đế như thế nào. Con biết con cảm thấy thế nào khi là Thượng đế. Cách duy nhất để biết Thượng đế, là Thượng đế!

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Phật Gautama và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả những  người trong vòng ảnh hưởng của con trong dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó con chấp nhận chuyện này đã hoàn toàn thể hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói ra nó. Amen.

6 | Con thỉnh cầu tự do sáng tạo (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Quan Âm và Mẹ Mary, hãy giúp con hòa điệu với các nguyên lý sáng tạo mà Thượng đế đã sử dụng và khắc phục mọi chướng ngại đang ngăn cản khả năng thị hiện sự dồi dào của con, kể cả …

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con giành lại sự thơ ngây của con

1.1. Con thăng vượt tâm thức rắn cho rằng vì con người không thể tìm thấy Thượng đế trong vũ trụ vật chất, nên con người có thể tự mình quy định các luật lệ của mình.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.2. Con giành lại nội giác của con, cũng là sự ngây thơ của con, và con trải nghiệm Hiện diện của Thượng đế ngay trong chính mình. Bản sắc thật của con là Hiện diện TA LÀ của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.3. Quy luật của Thượng đế không bị ảnh hưởng bởi niềm tin của người phàm.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.4. Thượng đế đã tạo ra rất nhiều sinh thể có tự nhận biết và tất cả đều được tạo ra từ chính Bản thể và chất liệu của Thượng đế. Chúng ta đều thuộc vào Thân thể Thượng đế.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.5. Tất cả mọi thứ trong thế giới hình tướng đều được tạo ra từ tương tác hài hòa và quân bình giữa lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.6. Khi con đồng-sáng tạo với tư duy tách biệt thì lực co lại của Mẹ sẽ phá hủy tạo vật của con và đem Ánh sáng Mẫu-Vật trở về trạng thái nền của nó.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.7. Con đang mở rộng hiểu biết của con về cách thế giới vận hành. Con đang dùng khả năng đồng-sáng tạo của con để khuếch trương tổng thể.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.8. Đấng Sáng tạo của con đã tạo ra vũ trụ này với tình thương vô điều kiện cho con và với mong muốn trong sáng tạo tác thế giới này như môi trường tốt nhất giúp con tăng triển.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.9. Con thăng vượt mọi nỗi giận thượng đế mà con che giấu hay công nhận. Thượng đế đã không tạo ra bất cứ bất toàn nào mà con thấy trên trái đất. Lúc ban đầu Thượng đế đã hình dung một vũ trụ trong đó con có thể gia tăng sự dồi dào bằng uy lực sáng tạo của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2. Con biết các nguyên lý sáng tạo

2.1. Thượng đế đã thiết kế vũ trụ để phục vụ như môi trường tốt nhất cho sự mở rộng các khả năng sáng tạo của con. Con tự thăng vượt và trở thành một sinh thể tự do như Thượng đế, có nhận biết hành động của con ảnh hưởng thế nào tới tổng thể trong đó con là một thành phần.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.2. Vũ trụ được thiết kế dựa trên một số nguyên lý sáng tạo. Nguyên lý căn bản nhất trong số các nguyên lý này là động lực trở nên hơn nữa.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.3. Nguyên lý hoàn vũ của mọi sáng tạo là sáng tạo không bao giờ ngừng, con không thể đứng yên. Con liên tục tự thăng vượt chính mình và trở nên hơn nữa bằng cách mở rộng nhận biết của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.4. Con thăng vượt khuynh hướng của tự ngã muốn dùng các khả năng sáng tạo của con để tạo một ý niệm bản sắc đặc thù và mãi mãi ở trong ý niệm bản sắc đó.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.5. Nếu con cố gắng ôm chặt một ý niệm bản sắc giới hạn, thì lực co lại của Mẹ sẽ vận hành như một cơ chế an toàn để phá vỡ tạo vật của con và giải thoát con khỏi nó.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.6. Con thăng vượt tâm thức chết. Con đón nhận tâm thức của sự sống, và con luôn luôn thăng vượt ý niệm bản sắc hiện tại của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.7. Vũ trụ vận hành theo một số nguyên lý. Con sử dụng quyền năng sáng tạo của con trong phạm vi các thông số mà Thượng đế đã dùng để thiết kế vũ trụ, và con tiếp tục đồng-sáng tạo thêm sự dồi dào cho con.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.8. Khổ đau trên trái đất không phải là sự trả thù của một Thượng đế giận dữ trên trời. Nó là hậu quả tự nhiên của việc hầu hết con người trên trái đất đã lạm dụng quyền năng sáng tạo của họ.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.9. Con thăng vượt phương cách thụ động để có dồi dào và ảo tưởng con là một nạn nhân của những lực vượt quá tầm kiểm soát của mình. Con sử dụng khả năng đồng-sáng tạo của con để thị hiện sự dồi dào trong cuộc đời của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3. Con cai quản quyền năng sáng tạo của con

3.1. Cốt lõi của quyền năng sáng tạo của con là trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Con khiến hiểu biết và chọn lựa của con thẳng hàng với những nguyên lý cơ bản mà Thượng đế đã dùng để sáng tạo ra vũ trụ này.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.2. Mọi sinh thể mà Thượng đế tạo tác được tạo ra từ Hiện diện của đấng Sáng tạo. Họ đều là các nối dài của Thượng đế, các cá thể hóa của Thượng đế, con trai và con gái của Thượng đế.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.3. Thượng đế đã ghi mã các nguyên lý sáng tạo vào chính bản chất của bản thể con, vào Hiện diện TA LÀ của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.4. Con biết qua bản năng và trực giác cách biểu hiện trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con một cách thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.5. Con thăng vượt mọi xung đột giữa con và những người đồng-sáng tạo khác.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.6. Con ở trong trạng thái thơ ngây, trạng thái hồng ân, trạng thái thiên đường, bằng cách sử dụng quyền năng sáng tạo của con trong khuôn khổ những nguyên lý sáng tạo mà đấng Sáng tạo đã quy định.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.7. Con thăng vượt cảm nhận chỉ có một số lượng của cải hữu hạn, và do đó con cần lấy từ người khác. Tại sao phải lấy từ người khác khi con nhận trực tiếp từ Thượng đế mà không cần điều kiện nào?

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.8. Con nhận ra là con có một cây đèn thần. Ông thần trong chiếc bình không phải là một thực thể bên ngoài mà là Hiện diện TA LÀ của con. Qua Hiện diện TA LÀ, đấng Sáng tạo của con biểu hiện ý muốn cho con vương quốc của ngài.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.9. Hiện diện TA LÀ của con là kho chứa các quy luật của Thượng đế. Con khiến những mong muốn, trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con thẳng hàng với Hiện diện TA LÀ của con. Con không cần nỗ lực mà sự dồi dào của Thượng đế được biểu hiện trong cuộc sống của con xuyên qua Hiện diện TA LÀ của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4. Con nhân lên tiền ta lăng của con

4.1. Con làm việc cùng với người khác để tạo dồi dào mà không cần cố gắng. Chúng con nhân lên quyền năng sáng tạo của mình và khi làm việc hợp nhất, chúng con hoàn thành nhiều hơn là khi mỗi người làm việc đơn độc.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.2. Chúng con góp chung uy lực sáng tạo của mình để đem lại dồi dào nhiều chưa từng thấy trên trái đất, dồi dào nhiều hơn những gì mà hầu hết mọi người trong trạng thái tâm thức hiện nay có thể tưởng tượng được.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.3. Thượng đế không đặt giới hạn nào vào thiết kế cơ bản của hành tinh này. Giới hạn duy nhất là những giới hạn nằm trong tâm những người đồng-sáng tạo với Thượng đế, là những sinh thể tự nhận biết mà Thượng đế cho phép ngự trị trái đất.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.4. Con đứng thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, và do đó tạo vật của con được bền vững. Con thăng vượt sự hỗn loạn nội tại của con và con được giải thoát khỏi định luật thứ nhì của nhiệt động học.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.5. Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ tìm cách đem mọi hình tướng trở về trạng thái nền của nó, nhưng khi lực lan ra của Cha đứng vào đúng cương vị của nó thì tạo vật của con được bền vững.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.6. Khi con sáng tạo hình tướng không toàn hảo, thì con tham gia một trận chiến khó như leo dốc núi. Đây là điều dẫn tới cảm nhận thiếu thốn, vật vã và khổ đau. Con hòa hợp với Thượng đế, và con dùng cái con có làm nền tảng để xây đắp thêm dồi dào.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.7. Con thăng vượt tư duy dựa trên tự ngã đã khiến con chôn tiền ta lăng của con xuống dưới đất. Con khuếch trương cuộc sống của con và cuộc sống của tất cả mọi người trên hành tinh này, sau cùng dẫn tới khuếch trương đấng Sáng tạo.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.8. Khi con trở nên hơn nữa, Thượng đế trở nên hơn nữa xuyên qua con và đây là động lực đằng sau mọi sáng tạo. Mọi sự đều phải hoặc vượt thăng xuyên qua lực lan ra hoặc tự tiêu hủy xuyên qua lực co lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.9. Con đặt mình thẳng hàng với nguyên lý tăng triển không ngừng. Con sử dụng uy lực sáng tạo của con trong khuôn khổ các quy luật Thượng đế. Những gì con đồng-sáng tạo bền vững và đem thêm dồi dào đến tất cả mọi sự sống trên hành tinh này.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Quan Âm và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả những người trong vòng ảnh hưởng của con trong dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó con chấp nhận là chuyện này đã hoàn toàn thể hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói ra nó. Amen.

6 | Con thỉnh cầu tự do khỏi vật lộn

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Quan Âm và Mẹ Mary, hãy giúp con khắc phục mọi cảm giác bị dồn vào thế phải vật lộn với những lực cùng điều kiện bên ngoài con. Xin các thày giúp con đón nhận khả năng sáng tạo của con và nhìn ra các yếu tố ngăn chặn dòng chảy sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con, kể cả …

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con ở trong vương quốc Thượng đế

1.1. Con có một nhận biết độc lập với cái ta vỏ ngoài của con. Con đang chọn tái nối kết nhận biết ý thức của con với cảm nhận thuần khiết của Bản thể con, với ý niệm nhận biết thuần khiết, với ý niệm cái ta thuần khiết mà CON LÀ.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.2. Con đang dời chuyển ý niệm bản sắc xa khỏi cái ta hữu diệt, về hướng cái ta bất diệt. Con đang tái sinh tâm linh, con đang tái sinh trong Tánh linh. Con chấp nhận con đang ở trong Nước Trời ngay bây giờ.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.3. Con đang đi qua tiến trình vứt bỏ, một cách hệ thống, các lời dối nhị nguyên cấu tạo cái ta hữu diệt, và con đang làm tỏ lộ cái ta thiêng liêng của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.4. Con không còn đồng hóa với cái ta hữu diệt nữa. Mặc dù con vẫn có một cái ta hữu diệt, nhưng con xứng đáng và có khả năng ở trong vương quốc Thượng đế ngay bây giờ.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.5. Vương quốc Thượng đế ở trong con. Đó là một trạng thái nội tâm, một trạng thái tâm thức. Vương quốc Thượng đế sẽ biểu hiện trong đời con khi cái Ta Biết tự đồng hóa ở ngay trong đó.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.6. Con đang xoay chuyển ý niệm cái ta của con. Con chấp nhận mình là một sinh thể tâm linh, và không gì trong thế gian này có thể lấy đi bản sắc thực của mình. Con chấp nhận con đang ở trong vương quốc Thượng đế ngay lúc này.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.7. Con không thể lập tức vứt bỏ cái ta hữu diệt vì nó phải được giải thể từng bước một, từng quyết định một. Nhưng con đang lập tức vứt bỏ ý niệm rằng con bị giam cầm, bị kẹt cứng trong cái ta hữu diệt.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.8. Cái Ta Biết là nhiều hơn gấp bội nhà tù của cái ta hữu diệt.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.9. Con chấp nhận ý niệm bản sắc rộng lớn hơn của con. Con đang tái sinh trong cái ta lớn này, và con cảm thấy nối kết chặt chẽ hơn với cái Tất cả của Thượng đế. Đường tu của con vui thú hơn rất nhiều, an bình hơn rất nhiều.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2. Con không dính mắc các niềm tin của con

2.1. Cá thể con là nhiều hơn cái ta hữu diệt. Con không có dính mắc tình cảm với bất cứ khía cạnh nào của cái ta hữu diệt. Con sẵn lòng buông bỏ các tin tưởng của cái ta hữu diệt, vì con biết con sẽ không mất cá thể mà sẽ lấy lại cá thể thực của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.2. Con thăng vượt nỗi sợ khi mất đi cái ta hữu diệt, hay mất đi một tin tưởng của nó, thì con cũng mất đi cá thể của con. Con thăng vượt cuộc vật lộn của tâm vỏ ngoài đang cố ép tâm tiềm thức phải buông bỏ một tin tưởng, nhưng tâm tiềm thức thì đang cưỡng lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.3. Con đường tâm linh, con đường đến sự sống dồi dào, con đường đến cứu rỗi và sự sống vĩnh cửu, không cần phải là một cuộc vật lộn. Con đang bước ra ngoài cái hộp của cái ta hữu diệt. Con biết con là nhiều hơn cái ta hữu diệt.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.4. Vì con biết con là nhiều hơn cái hộp, vì con nhìn thế giới từ ngoài hộp, con không còn dính mắc tình cảm nào nữa với các tin tưởng cá biệt cấu thành cái hộp của cái ta hữu diệt.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.5. Khi con vứt bỏ một tin tưởng, con không mất ý niệm bản sắc của con. Vứt bỏ tin tưởng hết là một vấn đề sinh tử. Con không cần đánh nhau để cố giữ các tin tưởng đó vì con biết chúng không thuộc về con người thực của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.6. Thay vì cảm thấy như mình sắp chết mỗi khi buông bỏ một tin tưởng, con thấy mình sắp được sống dồi dào hơn với mỗi tin tưởng mà con vứt bỏ, với mỗi tin tưởng không còn nặng gánh trên hành trình leo núi của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.7. Điều này tạo ra khác biệt to lớn trong đời con. Chỉ bằng một bước tái sinh tâm linh, con đang xoay chuyển mọi chuyện trong đời mình.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.8. Toàn bộ quan điểm của con về cuộc sống đang thay đổi trong bản chất, tầm nhìn của con về cuộc đời được khuếch đại muôn phần. Con cảm thấy là con đã về nhà và mọi chuyện đúng ra phải như thế này.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.9. Ý niệm cái ta tự nhiên của con chính là sinh thể tâm linh thuần khiết mà con là. Thật không tự nhiên chút nào khi ý niệm cái ta bị giam trong một cái hộp nhỏ xíu. Con đang bước ra ngoài hộp, và con cảm thấy mình đã về nhà. Quả thực con đã về nhà là vương quốc của Cha con, là ý niệm cái ta mà Cha con đã dành sẵn cho con ngay từ ban đầu.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3. Con bước chân với Ki-tô

3.1. Con đang tách mình, con đang tách cái Ta Biết ra khỏi cái ta hữu diệt. Con đang bước lên mỗi bực của cầu thang xoắn ốc với niềm vui và cảm giác an bình đến từ nhận biết rằng những gì con bỏ lại đều là không thực. Đây là niềm vui biết rằng mỗi lần con bỏ một lời dối nhị nguyên thì con cũng tiến một bước gần hơn trạng thái tự do biểu hiện cá thể thiêng liêng của mình.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.2. Việc buông bỏ các hạn chế cũ, buông bỏ ý niệm cái ta hữu diệt, không gắn liền với nỗi sợ mất mát mà với niềm vui thu hoạch. Thay vì cảm thấy mình bị mất gì đó, kỳ thực con đang được gì đó, khi ý niệm cái ta cũ được thay thế bằng một cái ta lớn hơn, đẹp hơn.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.3. Khi con thay thế, khi con buông bỏ một phần của cái ta hữu diệt, con đang làm lộ ra phần tương ứng của cái ta bất diệt từng bị ảo tưởng hữu diệt che mờ. Con không mất gì hết trong quá trình này, mà con chỉ được một cái gì đẹp hơn, sáng giá hơn vô lượng – và đây chính là ý nghĩa thật sự của sự sống dồi dào.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.4. Con buông bỏ cảm giác bị giam trong chiếc hộp cái ta hữu diệt, con buông bỏ nỗi sợ thiếu thốn. Cách duy nhất để đạt sự sống dồi dào là bước ra ngoài chiếc hộp cái ta hữu diệt. Con đang tìm thấy sự dồi dào mà Thượng đế cho con miễn phí, vì ngài rất vui lòng ban cho con vương quốc của ngài.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.5. Con sẵn lòng và háo hức muốn phơi bày các lời dối của cái ta hữu diệt. Con đang với lên sự thật của tâm Ki-tô sẽ thay thế lời dối của tâm phản Ki-tô. Con đang khắc phục nỗi sợ không dám xem xét các ảo tưởng của phản Ki-tô.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.6. Điều ngăn cách con với sự sống dồi dào chỉ là một sự xoay nhẹ chiếc la bàn của nhận thức, la bàn của cái ta. Con đang dời chuyển ý niệm cái ta xa khỏi cái ta hữu diệt và con chấp nhận cái Ta lớn hơn mà CON LÀ.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.7. Con sẵn lòng từ bỏ cái ta hữu diệt để đi theo Giê-su. Cái ta mà con từ bỏ để đi theo Giê-su không phải là cái ta thực; đó là cái ta hữu diệt. Con đang từ bỏ nó bằng cách chối bỏ nó là cái ta thực. Con đang chối bỏ niềm tin là nó có bất kỳ uy quyền gì trên con. Con đang chối bỏ ảo tưởng là cái ta hữu diệt có thể ngăn con đi theo Ki-tô.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.8. Cả cái ta hữu diệt, kẻ thù bên trong, lẫn các thế lực thế gian, kẻ thù bên ngoài, không thể nào ngăn con đi theo Ki-tô. Không gì có thể ngăn chặn con vì con không đồng hóa với cái ta hữu diệt và con sẵn lòng xem xét bất kỳ khía cạnh nào của nó.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.9. Con đang vác thập tự giá của con và đi theo Ki-tô. Thập tự giá biểu tượng cho cái ta hữu diệt được cấu tạo bởi nhiều lời dối nhị nguyên mà con đã dần dà chấp nhận. Do con sẵn lòng xem xét và buông bỏ mọi thứ, cái Ta Biết không còn bị đóng đinh – bị giữ mải mê – vào cây thập tự.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4. Con đón nhận quả vị Ki-tô của con

4.1. Con đang vác thập tự giá của con. Con sẵn lòng tham gia vào tiến trình thanh lọc một cách hệ thống mỗi thể phàm của con cho không còn lời dối nhị nguyên nào khởi lên từ tâm phản Ki-tô.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.2. Con đang khắc phục mọi lời dối. Con đang khắc phục ngay cả kẻ thù cuối cùng của cái chết, bằng cách cho phép cái ta hữu diệt được chết trên cây thập tự. Con được phục sinh vào sự sống bất diệt của tâm thức Ki-tô. Con không còn là một người đi theo Ki-tô, mà là Ki-tô Hằng sống ngay nơi con đứng. Con có khả năng là Ki-tô Hằng sống ngay đây trên trái đất.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.3. Con không còn đi theo đường tu tâm linh với mục đích tăng triển cá nhân mình thôi. Con có nhận biết lớn hơn rằng con là một với tổng thể, với Thân thể Thượng đế trên trái đất. Là Ki-tô Hằng sống hiện thân trên trái đất, con đang phụng sự như một cánh cửa mở để đem ánh sáng Ki-tô vào tâm thức tập thể của nhân loại.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.4. Con đang giúp thanh lọc bốn thể phàm của tâm thức đại chúng, giúp cho người khác khám phá và đi theo đường tu tâm linh dễ dàng hơn.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.5. Để chấp nhận vương quốc Thượng đế là một thực tại biểu hiện trên trái đất, con chấp nhận vương quốc Thượng đế như một thực tại trong chính tâm thức và bản thể của con. Con đang ở đây để làm người tiên phong cho một thời đại hoàng kim sẽ đem lại sự sống dồi dào cho mọi người, bằng cách vĩnh viễn trục xuất những kẻ cầm đầu mù quáng, cùng với tâm thức tách biệt và thiếu thốn của họ, ra khỏi hành tinh.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.6. Con đang khám phá sự thật về sứ vụ của Giê-su, và con đang bước theo chân Giê-su bằng cách giải thoát mình khỏi tâm phản Ki-tô. Con tự do khỏi kẻ thù bên ngoài tức ông hoàng của thế gian, lẫn kẻ thù bên trong tức cái ta hữu diệt của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.7. Con chấp nhận sự thật Ki-tô, và con đang cho phép sự thật này trở thành chất men nâng cao toàn bộ tâm thức của con. Sự thật sẽ giải thoát con khỏi mọi lời dối của phản Ki-tô. Đây không chỉ là một lời hứa suông. Đây là thực tế!

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.8. Mẹ Mary, con sẵn lòng đi theo con đường chân truyền. Xin thày nắm tay con và đồng hành với con mỗi bước trên hành trình. Hãy chỉ cho con con đường đích thực của Ki-tô, con đường tình thương, con đường an lạc, con đường tự do, con đường của sự sống dồi dào.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.9. Con lấy quyết định ý thức dời chuyển ý niệm bản sắc xa khỏi cuộc chiến nhị nguyên. Con không thể lấy quyết định trong quá khứ hay trong tương lai. Con chỉ có thể quyết định trong hiện tại. Cho nên con quyết định là con sẽ không chấp nhận hình ảnh cuộc sống là một cuộc chiến nữa. Con lấy quyết định này ngay bây giờ.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Quan Âm và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy.” Do đó con chấp nhận là điều này đã hoàn toàn biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói nó ra. Amen.

6 | Con thỉnh cầu tự do khỏi thói quen giới hạn

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng và Cha Thiêng liêng, đặc biệt là Quan Âm, Maitreya và Mẹ Mary, hãy giúp con thanh tảy các tầng bản sắc, tư tưởng, cảm xúc và vật lý của tâm con khỏi mọi thói quen giới hạn và các phản ứng lập trình trước cuộc sống. Xin các thày giúp con chấp nhận uy lực sáng tạo của con và thấy những yếu tố ngăn cản dòng chảy của sự sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con, kể cả …

[Đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con sẽ ngưng chạy trốn

1.1. Mẹ Mary, xin thày giúp con thấy những thói quen tiềm thức đang quy định cách ánh sáng chảy qua bốn thể phàm của con. Xin thày giúp con phá vỡ thói quen và giành lại quyển kiểm soát có ý thức phản ứng của con trước hoàn cảnh sống.

Maitreya, con là đứa rất hiền,
Thày khuyên bảo, con quý trọng biết mấy, 
Viễn quan thày, con thực tình muốn thấy, 
Với thày, con sẽ ở vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

1.2. Con thỉnh cầu ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ để chuyển hóa năng lượng trong các thể bản sắc, tư tưởng và cảm xúc của con đang cũng cố các thói quen đó.

Maitreya, hãy giúp con trở về,
Học từ thày, con thật chỉ muốn thế. 
Khi Duy nhất chiếm trọn lòng khao khát, 
Con cảm được ngọn lửa tâm ngộ đạt. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

1.3. Mẹ Mary, xin thày giúp con thấy những quyết định trong tâm dài hạn và ngắn hạn của con đã hình thành thói quen lúc ban đầu. Con xây dựng một thói quen tích cực thay vì một thói quen giới hạn.

Maitreya, bây giờ con xin hẹn,
Đối với thày, không bao giờ che giấu, 
Hãy phơi bày sự lừa lọc hư xấu 
Đã làm chết cái ta vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

1.4. Mẹ Mary, xin thày giúp con tiêu hủy xung lực năng lượng, tức là nghiệp, được tấm gương vũ trụ phản chiếu trở về đúng theo hành động quá khứ của con.

Maitreya, vị Đạo sư chân phúc,
Tim sâu nhất, con trao cả cho thày, 
Con xin nguyện lắng nghe trọn tỉnh thức, 
Để bẻ gẫy bùa ngải của rắn đây. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

1.5. Con quyết tâm phá vỡ vòng xoáy đi xuống và thay vào đó tạo ra một vòng xoáy đi lên, tự duy trì. Cuộc đời con mang một chiều kích mới lạ hoàn toàn. Con trải nghiệm cuộc sống dồi dào về mặt vật chất lẫn tâm linh.

Maitreya, giúp con thấy tà thuật,
Vì lời rắn mà sợi dây phải đứt, 
Nay trong con, nó chẳng nắm gì được, 
Con đã tìm tự do trong Duy nhất. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

1.6. Con nhận ra là để phá vỡ vòng xoáy tiêu cực, cái Ta Biết phải tách mình ra khỏi ngã hữu diệt. Con tìm ra khuôn nếp phủ nhận, một khuôn nếp chạy trốn những tình huống hay quyết định có vẻ khó chịu hay choáng ngợp.

Maitreya, tự do nhờ sự thực,
Mà thoát khỏi sai lầm của nhị đối, 
Con rũ hết thành quả của kiến thức, 
Để chỉ biết chân tánh của thày thôi. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

1.7. Trong quá khứ, cái Ta Biết quyết định nó không muốn trải nghiệm một số tình huống, nó không muốn trải nghiệm hậu quả của những chọn lựa quá khứ của nó và nó không muốn trải nghiệm sự dày vò khi phải lấy quyết định mới trong một tình huống đã bị ảnh hưởng sâu xa bởi chọn lựa bất toàn trong quá khứ, khiến cho có vẻ không còn lựa chọn nào tốt cả.

Maitreya, con cúi đầu quy phục,
Ý định sạch và tim con chân thực, 
Cả tự ngã con cũng bỏ lại nốt,
Và trọn vẹn con với thày là một. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

1.8. Cái Ta Biết của con rút lui khỏi những tình huống như thế và cho phép ngã hữu diệt lấy quyết định, và hành động này đã thiết lập một khuôn nếp rất thâm sâu và rất vi tế chạy trốn những quyết định khó chịu hay có vẻ khó khăn. Đây là khuôn nếp nghĩ con có thể né tránh một trải nghiệm bằng cách lờ nó đi hay chối bỏ nó.

Maitreya, thiện tâm là chìa khóa,
Thày dạy con lòng tốt đủ mọi diện, 
Nay con là cánh cửa đã mở ra, 
Để phục hồi Nghệ thuật của Tâm thiện. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

1.9. Mẹ Mary, xin thày giúp con đảo ngược những lựa chọn nhị nguyên đã tạo ra ngã hữu diệt, giữ cho nó sống và cho nó quyền điều khiển. Xin thày giúp con phá vỡ thói quen này, khuôn nếp này, thói quen quay lưng lại bất cứ gì làm con khó chịu hay choáng ngợp. Con sẵn lòng lấy quyết định. Con sẵn lòng quay đầu lại và đối diện với những gì con đã không chịu đối diện trước đây.

Maitreya, ôi bí ẩn ngọt ngào,
Con trầm mình trong thực tại của thày, 
Trường huyền bí giờ đây sẽ trở lại, 
Khiến lòng con đang bừng cháy làm sao. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

2. Con nghe vị thày bên trong

2.1. Khi con còn duy trì thói quen chạy trốn, thói quen không nhận lãnh trách nhiệm về những tin tưởng và quyết định tồn giữ trong bốn thể phàm của con, thì con sẽ giữ mình trong thế bí.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.2. Cứu rỗi thật sự là hợp nhất với nguồn cội của con. Làm sao con có thể trở về hợp nhất với nguồn cội khi con còn chạy trốn Thượng đế? Làm sao chạy trốn nhà có thể đem con trở về nhà?

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.3. Làm sao con có thể tỉnh dậy ở một nơi nào khác ngoài nơi con đang ở hiện thời? Con quyết định ngay đây là con sẵn sàng tỉnh dậy ngay bây giờ, ngay ở đây.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.4. Nếu con có viễn kiến rõ ràng cho phép con thấy chọn lựa tốt nhất trong mỗi hoàn cảnh, thì lấy quyết định không còn khó nữa. Con sẵn lòng nghe lời chỉ đạo của cái Ta Ki-tô của con và các vị thày đã thăng thiên.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.5. Con biết là mỗi bước con cần bước lên, cái Ta Ki-tô sẽ cho con chỉ đạo cần thiết để lấy quyết định tốt nhất. Con sẵn lòng thay đổi mình, con sẵn lòng nhìn thấy từng tin tưởng nhị nguyên mà con cần khắc phục.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.6. Con muốn được giúp để con có thể tự giúp mình. Con muốn được nghe lời chỉ đạo sẽ giúp con lấy quyết định đúng. Con muốn trở thành một người đồng-sáng tạo tự túc, hoàn toàn chịu trách nhiệm cuộc đời mình, giải quyết các vấn đề của con bằng sức mạnh nội tại của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.7. Con nhìn nhận là Thượng đế đã làm việc bằng cách sinh tạo ra con với một cá tính độc đáo, cho con quyền tự quyết và tạo ra cả một vũ trụ trong đó con có thể thực thi quyền tự quyết của mình. Con chập nhận trách nhiệm xây dựng trên nền móng đó bằng cách lấy những chọn lựa liên quan tới những gì con sẽ đồng-sáng tạo.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.8. Con buông bỏ giấc mơ bất khả thi muốn chạy trốn việc lấy quyết định. Con lấy quyết định sẵn sàng làm việc để phá tan thói quen đó, và con biết là con nghe được chỉ đạo nội tâm rõ hơn.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.9. Con biết là khi con nghe theo lời chỉ đạo nội tâm, con sẽ tăng cường khả năng nghe thấy vị thày nội tâm của mình. Cuộc đời con biến thành vòng xoáy đi lên khi con lấy quyết định dựa trên sự chỉ đạo chân chính của một vị thày chân chính.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3. Con học hỏi từ những lỗi lầm của con

3.1. Mỗi sai lầm con từng phạm đều bị ảnh hưởng bởi tâm nhị nguyên hay hoàn toàn dựa trên tâm nhị nguyên, tâm phản Ki-tô. Tâm thức này không là một phần của bản thể thật của con, nó không là một phần tất yếu của quả cầu cái ta của con. Cái ta thật của con, sinh thể tâm linh bất diệt mà con là, không phạm những sai lầm đó.

Maitreya, con là đứa rất hiền,
Thày khuyên bảo, con quý trọng biết mấy, 
Viễn quan thày, con thực tình muốn thấy, 
Với thày, con sẽ ở vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.2. Con đã phạm những sai lầm này vì con đã xây đắp một ý niệm bản sắc tạm bợ dựa trên tâm thức nhị nguyên, và ý niệm bản sắc này tối hậu không có thật.

Maitreya, hãy giúp con trở về,
Học từ thày, con thật chỉ muốn thế. 
Khi Duy nhất chiếm trọn lòng khao khát, 
Con cảm được ngọn lửa tâm ngộ đạt. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.3. Cái Ta Biết có lấy quyết định đó nhưng nó làm vậy vì nó không còn tự đồng hóa như người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Cái Ta Biết phạm những lỗi lầm này dựa trên một thế giới quan đặc thù bị ảnh hưởng bởi tâm thức nhị nguyên.

Maitreya, bây giờ con xin hẹn,
Đối với thày, không bao giờ che giấu, 
Hãy phơi bày sự lừa lọc hư xấu 
Đã làm chết cái ta vườn Eden. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.4. Con đã nhìn qua phin lọc của một ý niệm bản sắc thấp hơn. Phin lọc này, ý niệm bản sắc này dựa trên sự tách biệt với Thượng đế, ý niệm bản sắc này tối hậu không thật và không phải là một thành phần của con. Con tách mình ra khỏi ý niệm bản sắc đó bằng cách với lên trên và nối kết lại với bản sắc bất diệt của con.

Maitreya, vị Đạo sư chân phúc,
Tim sâu nhất, con trao cả cho thày, 
Con xin nguyện lắng nghe trọn tỉnh thức, 
Để bẻ gẫy bùa ngải của rắn đây. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.5. Muốn làm vậy đòi hỏi một hành động ý chí có ý thức. Con muốn ngưng trốn chạy việc lấy quyết định. Con muốn cho ý niệm cái ta hữu diệt chết đi.

Maitreya, giúp con thấy tà thuật,
Vì lời rắn mà sợi dây phải đứt, 
Nay trong con, nó chẳng nắm gì được, 
Con đã tìm tự do trong Duy nhất. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.6. Con không thể cho ý niệm bản sắc hữu diệt chết đi nếu chưa có cái gì khác thay thế nó. Con thanh lọc thể bản sắc của con và tìm ra ý niệm bản sắc cao nhất của con.

Maitreya, tự do nhờ sự thực,
Mà thoát khỏi sai lầm của nhị đối, 
Con rũ hết thành quả của kiến thức, 
Để chỉ biết chân tánh của thày thôi. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.7. Con biết và hoàn toàn chấp nhận con là người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Con để cho ý niệm bản sắc hữu diệt chết đi. Con xây đắp lòng tự trọng thật, lòng tự trọng xây dựng trên tảng đá của Ki-tô khi con biết mình là ai. Con là người đồng-sáng tạo với Thượng đế và con biết đấng Sáng tạo cho con quyền cai quản trái đất và thị hiện vương quốc của ngài.

Maitreya, con cúi đầu quy phục,
Ý định sạch và tim con chân thực, 
Cả tự ngã con cũng bỏ lại nốt,
Và trọn vẹn con với thày là một. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.8. Con buông bỏ mọi mong chờ nhân gian, hữu diệt. Con đặc biệt buông bỏ chờ đợi Thượng đế đòi hỏi con phải toàn hảo. Con buông bỏ tin tưởng con phải đạt một tiêu chuẩn siêu phàm, siêu trần thế để được chấp nhận bởi Thượng đế.

Maitreya, thiện tâm là chìa khóa,
Thày dạy con lòng tốt đủ mọi diện, 
Nay con là cánh cửa đã mở ra, 
Để phục hồi Nghệ thuật của Tâm thiện. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

3.9. Những sinh thể đã thăng thiên không phải là những sinh thể không bao giờ sai lầm, nhưng là những người sẵn sàng nhìn nhận mình đã sai lầm, sẵn sàng học bài học từ đó và sau đó buông bỏ chúng. Con học hỏi từ những sai lầm của con và thăng vượt chúng.

Maitreya, ôi bí ẩn ngọt ngào,
Con trầm mình trong thực tại của thày, 
Trường huyền bí giờ đây sẽ trở lại, 
Khiến lòng con đang bừng cháy làm sao. 

Maitreya, lòng tốt là thuốc chữa, 
Con đã sạch trong hỏa luyện tình thương, 
Maitreya, hãy phóng ngay ngọn lửa, 
Nâng con tới những tầng cao hơn nữa. 

4. Con theo vi thày chân chính của con

4.1. Mẹ Mary, xin thày giúp con thấy lòng kiêu hãnh ngăn cản con đứng lên sau khi té ngã. Xin thày giúp con thấy ảo tưởng của tự ngã cho rằng con không cần với lên sự thật cao hơn của tâm Ki-tô bởi vì con đã biết những điều cần biết để được cứu rỗi.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.2. Con không thể giải thoát mình khỏi tâm thức phản Ki-tô bằng cách dùng lô-gíc và khả năng suy luận của tâm phản Ki-tô. Mẹ Mary, xin thày phơi bày mọi hình thức ngạo mạn cho rằng tâm thức phản Ki-tô cao trội hơn tâm thức Ki-tô, thậm chí cao hơn cả tâm Thượng đế.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.3. Con nhận ra cách duy nhất giải thoát con khỏi quyết định quá khứ đến từ viễn kiến nhất nguyên, viễn kiến của con mắt đơn nhất của tâm Ki-tô. Ngày nào cái Ta Biết còn mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên thì con không thể tự mình thấy được chân lý cao hơn đó.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.4. Đó là lý do tại sao con cần một vị thày có thể cho con một mảnh chân lý từ tầm nhìn cao hơn của tâm Ki-tô. Con biết vị thày chân chính luôn luôn tìm cách giúp con thoát khỏi hộp tư duy hiện thời của con. Vị thày chân chính sẽ nói với con điều con cần nghe, không phải điều ngã hữu diệt muốn con nghe.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.5. Cách duy nhất để bắt đầu tiến trình leo lên trở lại cầu thang xoáy ốc là nhận ra sự thật là con không có những hiểu biết mà con cần. Ngay đây, con hạ mình và với lên một vị thày tâm linh để xin giúp đỡ.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.6. Cái Ta Ki-tô của con đã đi theo con từng bước con đi xuống cầu thang xoáy ốc, và do đó vị thày nội tâm của con biết từng quyết định nhị nguyên con đã lấy, từng tin tưởng nhị nguyên con đã chấp nhận. Cái Ta Ki-tô yếu dấu, xin hãy cho con chân lý phản bác từng lời dối trá nhị nguyên tạo thành ngã hữu diệt. Xin hãy cho con chân lý sẽ giải thoát con.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.7. Con biết con đang nhận được sự giúp đỡ mà con cần và con nghe theo vị thày và làm theo hướng dẫn của thày. Khi vị thày chân chính xuất hiện, thày sẽ cho con sự thật vượt quá những tin tưởng nhị nguyên của ngã hữu diệt. Ngã hữu diệt sẽ chế ra một lập luận rất tinh xảo, nhưng con sẽ vẫn nghe theo hướng dẫn của vị thày chân chính.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.8. Con sẵn lòng vươn lên quá tâm thức nhị nguyên và tìm vị thày chân chính có thể cho con chân lý của Ki-tô, cho dù chân lý đó không thể biểu lộ bằng lời nói. Con muốn chân lý và con tìm nó bên trong con.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.9. Con dùng Chìa khóa Hiểu biết để tìm thấy chân lý trong vương quốc Thượng đế bên trong con. Con xoay chuyển cuộc đời của con vào vòng xoáy đi lên bằng cách với lên thành phần cao hơn của Bản thể con, thành phần neo trụ trong tâm Ki-tô hoàn vũ.  Con nối kết với Hiện diện TA LÀ của con và nhận ra nó là cái ta thật của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Quan Âm, Maitreya và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả những  người trong vòng ảnh hưởng của con trong dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó con chấp nhận chuyện này đã hoàn toàn thể hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói ra nó. Amen.

4 | Con thỉnh cầu một trải nghiệm mới về cuộc sống (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Nada và Mẹ Mary, hãy giúp con chấp nhận hoàn toàn là Thượng đế sẽ không cho con sự dồi dào từ một nguồn bên ngoài con. Xin các thày giúp con học cách sử dụng khả năng đem lại sự dồi dào từ bên trong tâm con và khắc phục mọi chướng ngại đang ngăn cản khả năng thị hiện sự dồi dào của con, kể cả …

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con chọn sự dồi dào

1.1. “Thực tại” vật lý, tình trạng thiếu thốn, mà chúng ta trải nghiệm trên hành tinh này không do Thượng đế tạo ra. Nó do tâm thức tập thể của nhân loại tạo ra.

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.2. Tình trạng này được tạo ra khi con người hình dung một trạng thái thiếu thốn và sau đó dùng uy lực ý chí của mình để chấp nhận tình trạng này là miên viễn và không tránh được.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.3. Con không thể vừa làm tôi Thượng đế vừa làm tôi Ma môn, con không thể vừa ở trong trạng thái tâm thức nhân phàm, trạng thái chấp nhận thiếu thốn và giới hạn không thể tránh được, vừa có được cuộc sống dồi dào.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.4. Con có khả năng tưởng tượng điều mà giác quan không cảm nhận được. Con có khả năng hình thành một khái niệm hay một thiết kế trong tâm và sau đó phóng chiếu nó lên chất ánh sáng cơ bản sẽ thể hiện tâm ý của con.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.5. Vì đấng Sáng tạo đã cho con trí tưởng tượng và ý chí tự do, nên cuộc sống dồi dào không thể do một nguồn ngoại lai trao cho con được.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.6. Con dùng trí tưởng tượng và ý chí tự do của con để thị hiện cuộc sống dồi dào trong phạm vi ảnh hưởng của con. Con quyết định ngự trị tâm con và cõi vật chất.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.7. Con chọn lựa thị hiện cuộc sống dồi dào.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.8. Con có khả năng tưởng tượng điều chưa được thị hiện và khả năng quyết định con sẽ thị hiện vật lý tâm ảnh nào.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.9. Con đang sáng tạo trải nghiệm của con vì con có cùng những khả năng mà đấng Sáng tạo đã dùng để sáng tạo con và vũ trụ nơi con đang sống.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2. Con vươn lên khỏi đau khổ

2.1. Thượng đế không muốn con ở trong trạng thái đau khổ trong một thời gian vô hạn định.

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.2. Cuộc sống không nhất thiết phải là khổ đau. Con thăng vượt trạng thái tâm thức đã tạo ra những điều kiện hiện hành trên trái đất.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.3. Con thăng vượt tất cả mọi điều kiện nhân phàm. Con biến nước của tâm thức nhân phàm thành rượu của trạng thái tâm thức cao hơn.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.4. Con thăng vượt thoát cái chết vật lý, và con tái sinh trong một trạng thái tâm thức cao hơn, một hình thức sống cao hơn.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.5. Con thăng vượt hình ảnh giả của sự thiếu thốn. Con tách mình ra khỏi hình ảnh giả này, con tách mình ra khỏi nó trong tâm thức.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.6. Con thăng vượt trạng thái tâm thức hiện hành của con. Con giải thoát trí tưởng tượng và ý chí của con, và con chấp nhận cuộc sống dồi dào thay vì cuộc sống giới hạn.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.7. Con quyết định một cách ý thức sử dụng ý chí tự do của con để thanh lọc trí tưởng tượng của con. Con sáng tạo cuộc sống dồi dào thay vì tiếp tục sáng tạo cuộc sống giới hạn và khổ đau.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.8. Thượng đế muốn cho con sự dồi dào và thiết kế của ngài là cho con uy lực sáng tạo. Con đem lại sự dồi dào từ trong tâm con.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.9. Con công nhận sự thực của câu nói của Giê-su, rằng vương quốc Thượng đế ở trong con. Con sẽ không đi tìm một Thượng đế bên ngoài sẽ cho con sự dồi dào.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3. Con tái tạo kinh nghiệm sống của con

3.1. Con có khả năng tái tạo kinh nghiệm sống của con từ bên trong con. Con tái tạo mọi khía cạnh của kinh nghiệm sống của con.

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.2. Những gì con thấy chung quanh mình không phải là một thực tại không thể tránh. Con giải thoát mình khỏi những điều kiện tạm thời trên trái đất.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.3. Con giúp đồng-sáng tạo một thực tại phản ánh ý muốn thật của Thượng đế cho hành tinh này, một hành tinh có khả năng nuôi dưỡng nhiều tỷ người đều có được cuộc sống dồi dào.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.4. Con có uy lực sáng tạo bên trong con để tái tạo kinh nghiệm sống của con vì đấng Sáng tạo đã cho con khả năng sáng tạo của chính ngài.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.5. Con bước đi trên con đường có hệ thống, lô gíc dẫn con từng bước một tới điểm con tái tạo cuộc đời mình để nó thẳng hàng với viễn quan dồi dào, với niệm tinh khôi được gìn giữ trong tâm Thượng đế.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.6. Con giải thoát mình khỏi mọi hình ảnh giả về Thượng đế, mọi hình ảnh giả về chính con và mọi hình giả về vũ trụ nơi con đang sống.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.7. Con là sinh thể mà con đã được thiết kế để là. Con vận dụng trí tưởng tượng và ý chí tự do của con để có thể đem lại cho con cuộc sống dồi dào đồng thời cũng đem lại đời sống dồi dào cho mọi sự sống khác trên hành tinh này.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.8. Đấng Sáng tạo muốn con cảm thấy con đem lại cuộc sống dồi dào qua chính uy lực sáng tạo của con, con thị hiện nó bằng cách là người đồng-sáng tạo với Thượng đế.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.9. Con nhân khả năng sáng tạo của con và con dùng tâm mình để ngự trị vũ trụ vật chất. Con thị hiện sự dồi dào của Thượng đế.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4. Con chọn sự sống

4.1. Con sẽ không bỏ toàn cuộc đời tích lũy các vật của thế gian. Con trực tiếp đem lại sự dồi dào từ kho vô tận của Thượng đế.

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.2. Con nơi đây chọn làm tôi chủ nào. Con không làm tôi hình ảnh giả của sự thiếu thốn do tâm thức tập thể tạo ra. Con làm tôi thực tại của cuộc sống dồi dào của Thượng đế.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.3. Con không thể cùng một lúc ở trong hai trạng thái tâm thức tương phản. Con chọn lựa nơi đây ngưng phục vụ ông chủ giả của ảo tưởng nhân phàm. Con phục vụ ông chủ thực của thực tại của Thượng đế.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.4. Vật chất sẽ khoác vào những hình tướng mà con giữ trong tâm mình. Uy lực sáng tạo của con sẽ đem lại cho con trải nghiệm vật lý của điều mà con cầm giữ trong tâm mình.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.5. Con giải thoát trí tưởng tượng của con khỏi mọi hình ảnh và tin tưởng giả. Con chọn đứng thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo mà Thượng đế đã dùng để quy định vũ trụ này.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.6. Con giải phóng mình khỏi người đốc công đang giam hãm con trong cái hộp của giới hạn và đau khổ, cái hộp thực sự chỉ hiện hữu trong tâm con và trong tâm thức tập thể.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.7. Trạng thái tâm thức mà hầu hết con người hiện nay chấp nhận như thực tại của họ là trạng thái mà Giê-su gọi là “chết”, có nghĩa là cái chết tâm linh.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.8. Ngay lúc này, con chọn giải thoát mình khỏi gông cùm của tâm thức chết. Con bước vào tâm thức của sự sống là cánh cửa duy nhất dẫn con tới vương quốc của Cha con.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.9. Con hợp một với Tâm Ki-tô Hoàn vũ và nói với Giê-su: “Ta là con đường, sự thật và sự sống: không ai đến Đấng Cha mà không qua ta”.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Nada và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả những người trong vòng ảnh hưởng của con trong dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó con chấp nhận là chuyện này đã hoàn toàn thể hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói ra nó. Amen.

4 | Con thỉnh cầu tự do khỏi sợ hãi

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Nada và Mẹ Mary, hãy giúp con khắc phục tác động tê liệt của lòng sợ hãi. Xin các thày giúp con đón nhận khả năng sáng tạo của con và nhìn ra các yếu tố ngăn chặn dòng chảy sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con, kể cả …

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con là nhiều hơn các nỗi sợ của con

1.1. Con đang tái lập sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của con. Con đang trải nghiệm một tia sáng từ mặt trời Hiện diện TA LÀ rọi trực tiếp vào bản thể thấp của con.

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.2. Con đang trải nghiệm tình thương toàn hảo, tình thương vô điều kiện mà Hiện diện TA LÀ và Đấng Sáng tạo của con dành cho con. Tình thương tuyệt hảo này xua tan mọi nỗi sợ của con.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.3. Con thăng vượt con đường giả tìm cách toàn thiện cái ta hữu diệt. Con buông bỏ lý tưởng, hình tư tưởng, thần tượng của con về một người tâm linh phải như thế nào và không được như thế nào.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.4. Con buông bỏ hình ảnh giả trá, hình ảnh bất khả thi, hình ảnh thần tượng về con người toàn hảo – nó không ăn nhập gì với sự toàn hảo của con tim.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.5. Thượng đế không đòi hỏi con biểu hiện một sự toàn hảo thế phàm vỏ ngoài dựa trên một lý tưởng xuất phát từ tâm phản Ki-tô, mà ngài tìm một phẩm chất nội tâm, là sự tinh khiết của tim con. Con để cho cái ta ô nhiễm chết đi, thay thế bởi cái ta thực của con đã sinh tạo trong toàn hảo thiêng liêng.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.6. Con đang đòi lại ý niệm bản sắc bất tử của mình bằng cách bước theo chân Giê-su. Con đang đâm thủng lực chống đối quả vị Ki-tô của con, được thể hiện như lực phản Ki-tô đã chi phối mọi lãnh vực đời sống trên hành tinh này.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.7. Tâm phản Ki-tô tạo ra một tâm ảnh, một thần tượng che khuất thực tại. Còn tâm thức Ki-tô giống như ngọn đèn sáng rực chiếu lên vạn vật từ mọi hướng để không tạo bóng tối và không có gì bị che giấu.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.8. Mọi thứ được nhìn thấy dưới ánh sáng rực rỡ của Mặt trời Thượng đế, của tâm Ki-tô. Không có khác biệt, không có bóng tối hay biến đổi, không có chỗ nào cho dối trá hay lừa lọc. Con sẽ không giấu gì hết khỏi Ki-tô.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.9. Con đang thăng vượt tâm thức nhị nguyên và con nhìn thấy sự thật tuyệt đối của Ki-tô. Con là một trong số người vươn lên tâm thức Ki-tô để đuổi tan sự lừa dối khỏi hành tinh.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2. Con đối mặt các nỗi sợ của con

2.1. Cốt lõi của sợ hãi là con muốn tránh xa một điều gì. Khi con sợ nó thì con không muốn nhìn nó. Khi con không nhìn điều con sợ thì con không thể thấy là nó không thực, cho nên con không thể thoát khỏi nỗi sợ.

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.2. Con đang thăng vượt ý niệm cái ta hạn chế dựa trên nhị nguyên, dối trá và lừa lọc của tâm phản Ki-tô. Con đang trèo ngược lên chiếc cầu thang theo cùng một cách như con đã đi xuống cầu thang, nghĩa là bằng cách lấy những quyết định có ý thức.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.3. Con đang thoát ra khỏi các dối trá do lực phản Ki-tô chủ xướng. Con đang đối mặt nỗi sợ của mình. Con nhìn thẳng vào thế lực đang cưỡng chống bước tiến của con, và con giải thoát tâm con khỏi dối trá của nó.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.4. Dối trá của phản Ki-tô có thể vi tế, nhưng với một chút sự thật Ki-tô, nó không khó lột mặt nạ lắm đâu. Dối trá của ác quỷ không có chút lẽ thật nào, nó không có quyền lực thật nào trên con. Ngay lúc con thấy nó là ảo tưởng thì nó mất hết sức mạnh ảnh hưởng con.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.5. Tác động tâm lý của sợ hãi là sự tê liệt, nghĩa là con không sẵn lòng nhìn vào điều con sợ. Bây giờ con quyết định con sẵn lòng nhìn vào điều kiện con sợ. Con đang nhận ra là nó khởi lên từ nhị nguyên của phản Ki-tô và nó không có chút thực thể nào.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.6. Con đang bước trên đường tu tâm linh bằng cách đối mặt các nỗi sợ của mình. Con thấy con không có lý do gì để sợ. Con đang ngộ ra là con không có lý do gì để sợ một điều kiện đặc thù, cho nên con khắc phục hạn chế đó và tiến một bước gần hơn sự sống dồi dào.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.7. Con đang bước trên con đường khắc phục bằng cách buông bỏ các điều kiện trong tâm lý mình, kể cả nỗi sợ khiến mình sợ tiến thêm một bước hay sợ bỏ lại đằng sau một hạn chế nào đó.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.8. Sợ hãi luôn luôn là nỗi sợ một điều gì chưa biết, nó nẩy lên từ vô minh. Một khi con khắc phục vô minh, con biết làm thế nào con có thể khắc phục bất cứ điều kiện nào và bỏ nó lại đằng sau.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.9. Con đang bước trên con đường khắc phục vô minh, cái vô minh khởi lên từ nhị nguyên của tâm phản Ki-tô. Con thay thế nó bằng sự thật không phân rẽ của Ki-tô.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3. Con nhìn xuyên thấu mọi lời dối

3.1. Con đang tự giải thoát khỏi lực phản Ki-tô bằng cách gột sạch bình chứa cái ta cho không còn tin tưởng nào khởi lên từ dối trá phản Ki-tô, dối trá của rắn. Ông hoàng của thế gian có thể đến mà không nắm được gì nơi con.

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.2. Con đang thăng vượt mọi ngờ vực về chính mình, về Thượng đế và đường tu. Con tái lập nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, xuyên qua đó con tiếp cận sự thật Ki-tô sẽ tức khắc xua tan lừa lọc và dối trá của tâm phản Ki-tô.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.3. Con có sự thật của tâm Ki-tô, và con biết không có lý do gì để sợ tà ác. Con đang cho phép sự thật Ki-tô ngụ trong con và xua tan mọi bóng tối. Ông hoàng của thế gian không nắm được gì nơi con để mà kiểm soát con qua sợ hãi, nghi ngờ hay bất cứ cảm xúc tiêu cực nào khác.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.4. Con thấy là các thày giả, thế lực phản Ki-tô, đã mưu toan đặt con vào một thế lưỡng nan không lối thoát. Con đang thăng vượt trạng thái tê liệt này vì con không sợ nhìn các dối trá phản Ki-tô trong bình chứa cái ta của con.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.5. Lời dối của phản Ki-tô là ảo tưởng. Chừng nào con còn sợ nhìn chúng và nhận ra chúng là ảo tưởng, thì chúng còn nắm quyền lực trên con, chúng còn giam con trong nhà tù tinh thần của sự hạn chế, thiếu thốn, khổ ải và đau đớn.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.6. Con buông bỏ ý niệm cái ta hữu diệt. Con đang khắc phục những lời dối mà từ đó cái ta hữu diệt đã khởi lên. Con tự do khỏi mọi ảo tưởng.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.7. Con đang dùng chìa khóa của hiểu biết trong tim con. Con thỉnh một hiểu biết cao hơn về một khía cạnh đặc thù của cuộc sống, và con được trao hiểu biết cao hơn này.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.8. Con sẵn lòng nhìn xa hơn sự thật tương đối mà tâm vỏ ngoài nghĩ là sự thật tuyệt đối. Con đang mở tâm ra sự thật cao hơn của Ki-tô.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.9. Con đang bước trên một con đường tuần tự, và một cách có hệ thống con nhìn xuyên thấu mỗi lời dối trong bình chứa cái ta. Khi con nhìn xuyên thấu một lời dối, con gạt bỏ nó như chuyện không thực, như một ảo ảnh, và nhờ vậy con thoát khỏi nó.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4. Con vươn lên cao hơn trạng thái hữu diệt

4.1. Với mỗi lời dối con bỏ lại đằng sau, con tiến thêm một bước đến việc thị hiện quả vị Ki-tô cá nhân của mình. Con đang đạt đến một điểm mấu chốt, một điểm không quay lại, nơi con tái lập nối kết ý thức với Hiện diện TA LÀ của con.

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.2. Con cho phép mình nhận biết bằng nội giác rằng con đang bước chân trên con đường tâm linh rồi, con đường dẫn tới sự sống dồi dào của tâm thức Ki-tô. Con cho phép mình cảm thấy mình neo trụ trên con đường này. Con cảm nhận đây quả là một chiến thắng.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.3. Con chấp nhận là ý niệm cái ta hiện tại của con phải chết trước khi con có thể leo bước kế tiếp trên cầu thang xoắn ốc. Con chấp nhận là bằng cách nhìn vào cái ta hữu diệt và để cho nó chết, đường tu sẽ dễ đi hơn nhiều.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.4. Con thấy rõ Giê-su đã đến để chứng minh ai ai cũng có khả năng khắc phục cảm giác vật lộn và thị hiện sự sống dồi dào. Con đang khắc phục cảm giác vật lộn bằng cách buông bỏ ý niệm cái ta dựa trên hình tư tưởng cho rằng đời sống là một cuộc đấu tranh.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.5. Con là nhiều hơn hình ảnh giới hạn về chính mình. Thực tại của con là cái Ta Biết. Cho phép cái ta hữu diệt chết đi không có nghĩa là cá thể của con sẽ chết, vì cái Ta Biết không thể nào chết. Con được tự do nhận lấy một ý niệm cái ta cao hơn, con được tái sinh vào cái ta tâm linh của con.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.6. Mẹ Mary yêu dấu, Mẹ tâm linh yêu dấu, con biết thày ở đây để giải phóng con. Trong vòng tay yêu thương của thày, con buông bỏ sợ hãi. Con sẵn sàng nhìn vào lời dối nằm ngay tâm điểm của mỗi hạn chế con phải đối mặt.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.7. Con đón chào mặt trời ngày mới, ý niệm cái ta mới, và con quên đi cái ta cũ. Con cho phép cái ta cũ chết đi mà không để ý là nó không còn. Con giống như đứa bé mải vui đùa với đồ chơi mới đến độ nó quên bẵng mất đồ chơi cũ, cái đồ chơi đã mòn nát trên bãi chơi cuộc đời.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.8. Con được tái sinh vào niệm tinh khôi được cất giữ vĩnh hằng trong tâm Ki-tô, nhưng cũng được giữ chặt trong trái tim của Mẹ tâm linh của con. Mẹ Mary đang giữ chặt niệm tinh khôi cho con y như thày đã giữ cho Giê-su, cho đến ngày sứ mạng của con thành tựu.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.9. Mẹ Mary yêu con và tình yêu của thày vô điều kiện. Con biết rõ tiềm năng thật của con, và con sẵn lòng vươn lên trên mọi điều kiện đang ngăn con biểu hiện tiềm năng này trọn vẹn trên trái đất. Con nắm lấy tay Mẹ Mary và thày đang bước đi với con y như thày đã bước với Giê-su, trên mỗi bước đường dẫn con đến quả vị Ki-tô cùng sự thăng thiên vào ánh sáng.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Nada và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy.” Do đó con chấp nhận là điều này đã hoàn toàn biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói nó ra. Amen.

4 | Con thỉnh cầu tự do khỏi nghiệp quả

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng và Cha Thiêng liêng, đặc biệt là Nada, Giê-su và Mẹ Mary, hãy giúp con chuyển hóa tất cả nghiệp quá khứ trước khi chúng đi vào cõi vật lý. Xin các thày giúp con chấp nhận uy lực sáng tạo của con và thấy những yếu tố ngăn cản dòng chảy của sự sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con, kể cả …

[Đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con vô hiệu hóa hành động quá khứ

1.1. Con là cái Ta Biết đang vươn lên Hiện diện TA LÀ và rải xuống một dòng ánh sáng thấm xuống não bộ vật lý và kích hoạt những định khu cao của não bộ.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.2. Con thăng vượt những niềm tin trong thể bản sắc dài hạn và ngắn hạn đang tạo giới hạn. Con chữa lành mọi mâu thuẫn giữa hai khía cạnh đó của thể bản sắc của con.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.3. Con thăng vượt mọi xung đột nội tâm lớn và mưu toan của ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian muốn đặt con vào một tình trạng tiến thoái lưỡng nan tâm linh. Con không còn là một ngôi nhà phân hóa.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.4. Con đi sâu vào tâm lý của con để giải tỏa niềm tin dài hạn và ngắn hạn là con không xứng đáng. Con quả thực xứng đáng được nhận sự dồi dào của Thượng đế.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.5. Con xem xét phản ứng của con và khám phá các khuôn nếp sâu thẳm trong tâm. Con đi ngược tới tận quyết định quay lưng lại Thượng đế, quay lưng lại vị thày tâm linh, và cho phép ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian trở thành vị thày của con.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.6. Con nhận ra những điều kiện mà con đối mặt trong kiếp này là kết quả của một bức tranh rất phức tạp, đó là những niềm tin mà con đã chấp nhận trong những kiếp trước và vẫn còn nằm trong bốn thể phàm của con.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.7. Con nhận ra là trong một kiếp trước con đã có hành động tạo ra nghiệp. Khi nghiệp trở lại thì nó có thể ngăn trở sự biểu hiện của dồi dào Thượng đế trong kiếp này. Con tiêu trừ nghiệp trở về từ các hành động quá khứ của con trước khi nó biểu hiện thành hoàn cảnh vật lý.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.8. Con nhận ra có một lằn ranh phân chia tư tưởng cảm xúc và hành động vật lý. Khi con có hành động vật lý, con đã đem tư tưởng và cảm xúc xuống tầng thấp nhất của vũ trụ vật chất là nơi mọi chuyện khó thay đổi.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.9. Một hành động vật lý bắt đầu trong thể bản sắc, có hình dạng rõ rệt hơn trong thể tư tưởng, và nhận phương hướng và động lực trong thể cảm xúc. Con tới được hiểu biết cao hơn cho phép con đảo ngược xung lực tư tưởng trước khi chúng trở thành hành động vật lý.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2. Con tiêu trừ nghiệp

2.1. Con làm chủ cuộc đời mình bằng cách thanh tẩy bốn thể phàm khỏi mọi tư tưởng và cảm xúc bất toàn.

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.2. Con làm chủ phản ứng của mình trước những khó khăn của đời sống. Thay vì cảm thấy con không có chọn lựa, con nay có thể lấy chọn lựa tốt nhất cho con trong dài hạn. Con chọn nghe theo lời khuyên của Giê-su nên chià má bên kia.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.3. Con tháo gỡ các tư tưởng và ham muốn bất toàn trước khi chúng trở thành hành động vật lý và do đó có hậu quả khó khắc phục hơn rất nhiều.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.4. Con thừa nhận sự kiện con đã có kiếp trước. Con không thể trốn chạy bất cứ gì bằng cách phủ nhận sự hiện hữu của nó. Cách giải thoát duy nhất là tự thăng vượt.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.5. Con thừa nhận là trong một kiếp trước, con có thể đã khởi động những nguyên nhân đang biểu hiện như tình huống vật lý. Những tình huống này có thể đang ngăn trở sự biểu hiện của dồi dào Thượng đế trong cuộc đời con.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.6. Thượng đế đã thiết kế một vũ trụ trong đó nghiệp không tức khắc trở về con. Xung lực năng lượng mà con tạo ra sẽ luân lưu qua bốn tầng của cõi vật chất. Con giải tỏa những niềm tin nhị nguyên của con trước khi xung lực năng lượng, tức là nghiệp, trở về con như một hoàn cảnh vật lý.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.7. Con học bài học của con và nâng mình lên trên các niềm tin gây giới hạn. Con xem xét và giải trừ các niềm tin đó trong các thể bản sắc, tư tưởng, cảm xúc và vật lý.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.8. Khi nghiệp từ hành động quá khứ đi xuống, nó đi xuyên qua bốn thể phàm của con trước khi thể hiện như hoàn cảnh vật lý. Con tiêu trừ nghiệp đang sa xuống trong các tầng bản sắc, tư tưởng, cảm xúc và thậm chí ở tầng vật lý.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.9. Con không thể thay đổi hành động mà con đã làm trong một kiếp trước, nhưng con đang thay đổi những xung lực năng lượng mà con đã khởi động trong quá khứ. Con có thể hoàn nguyên năng lượng bị tha hóa khi nó đi xuống qua các tầng bản sắc, tư tưởng và cảm xúc, và qua đó ngăn nó thể hiện như hoàn cảnh vật lý.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3. Con tràn đầy ánh sáng

3.1. Con tiêu trừ nghiệp mà con đã tạo ra trong một kiếp trước, đang ngăn con hưởng được dồi dào trong kiếp này. Con thay đổi nghiệp và hoàn cảnh vật lý của con.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.2. Con khám phá và tiêu trừ nghiệp mà con tạo ra trong các kiếp trước, trước khi nó vượt qua lằn ranh và mang một hình tướng vật lý dày đặc.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.3. Con tẩy rửa mọi tầng của tâm khỏi những niềm tin và năng lượng bất toàn đã khiến con tạo nghiệp trong một kiếp trước, qua đó con giải trừ nhu cầu trải nghiệm nghiệp vật lý của hành động của con.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.4. Con học bài học mà con cần học, do đó con không cần trải nghiệm hoàn cảnh vật lý.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.5. Con xin Thượng đế và các thày tâm linh bỏ qua bên nghiệp đang sa xuống đời con. Con hoàn toàn chấp nhận trách nhiệm cân bằng năng lượng bất toàn mà con đã tạo ra trong quá khứ.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.6. Con cân bằng nghiệp bằng cách cầu thỉnh ánh sáng tâm linh sẽ tái chỉnh lại năng lượng bất toàn bằng cách nâng độ rung của nó.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.7. Con được giải thoát khỏi hành động quá khứ mà không phải trải nghiệm hậu quả vật lý. Con tiêu trừ nghiệp do tấm gương vũ trụ phản chiếu lại trước khi nó xuống cõi vật lý. 

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.8. Con hoàn toàn buông bỏ niềm tin con là một cá nhân tách biệt và con có thể làm hại người khác mà không làm hại chính mình.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.9. Con tháo gỡ niềm tin bất toàn và năng lượng tha hóa trong bốn thể phàm của con, và bốn thể của con tràn đầy ánh sáng.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4. Con trong một vòng xoắn hướng thượng

4.1. Vì bốn thể của con trong sạch nên viễn quan của con đơn nhất, không bị phân rẽ. Mắt con đơn nhất và toàn thân con tràn đầy ánh sáng.

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.2. Con đón nhận cơ hội giải thoát mình khỏi những giới hạn mà con trải nghiệm mỗi ngày trong đời.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.3. Con quyết tâm cố gắng nâng mình vĩnh viễn lên khỏi các giới hạn đó.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.4. Con kéo con ra khỏi khung tư duy hiện tại của con.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.5. Con bước ra khỏi cỗ máy chạy của cuộc sống hàng ngày để làm việc gì khác lạ sẽ vĩnh viễn giải thoát con.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.6. Con đảo ngược vòng xoáy hướng hạ đang giam cầm con.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.7. Con tạo một vòng xoáy hướng thượng thường trực sẽ lần hồi dẫn con từ nơi con đang ở hiện nay tới nơi con thực sự mong muốn trong đời này.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.8. Con là một sinh thể có an bình nội tâm và đang ở trong dòng chảy dồi dào của Thượng đế.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.9. Con được giải thoát khỏi tâm phản-Ki-tô. Con đi lên cầu thang xoắn ốc và con trở về hợp nhất với cái ta cao của con.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả.
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Nada, Giê-su và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả những  người trong vòng ảnh hưởng của con trong dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó con chấp nhận chuyện này đã hoàn toàn thể hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói ra nó. Amen.

2 | Con thỉnh cầu sự tái sinh tâm linh

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Maraytaii và Mẹ Mary, hãy giúp con sẵn lòng cho phép ý niệm cái ta cũ của con chết đi, hầu con được tái sinh về mặt tâm linh. Xin các thày giúp con đón nhận khả năng sáng tạo của con và nhìn ra các yếu tố ngăn chặn dòng chảy sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con, kể cả …

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con đang chuyển đổi ý niệm cái ta của con

1.1. Con chấp nhận thử thách liên quan đến cá thể và quyền tự quyết. Con đang cân bằng cái biết mình là một sinh thể cá biệt với cái biết mình là một biểu hiện của cái Tất cả của Bản thể Thượng đế.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin gióng tiếng chiêng,
gọi con về nhà, con thuộc nơi đó,
Con biết mẹ đây yêu con thánh thiện,
trong niệm biết này, con được tự do.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

1.2. Cốt lõi con người con là ý niệm cái ta, ý niệm bản sắc của con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin ôm con chặt,
con cộng hưởng theo ánh sáng mẹ dắt.
Nhạc mẹ thanh tẩy tim con vô ngã,
tình yêu của mẹ, con ban tất cả.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

1.3. Ý niệm bản sắc của con không hề cố định. Con đang nắm chủ động cái ta của con. Con đang thay đổi ý niệm cái ta theo viễn quan cao nhất của con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, hợp nhất với mẹ,
tim mẹ rực lên mặt trời sáng chói.
Tâm con khuếch đại âm thanh của mẹ,
thánh âm mẹ hiền phóng to khắp cõi.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

1.4. Con là một sinh thể tâm linh. Con có quyền tự do hoàn toàn để vươn lên cao hơn ý niệm bản sắc hiện tại của con, thậm chí vươn lên cao hơn cả ý niệm bản sắc mà cá thể con được sinh tạo.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con nghe thấy liền,
âm vi tế của Bầu cõi Thiêng liêng.
Tâm con hòa điệu Âm Ngân Vũ trụ,
vượt lên ngã nhỏ, con tinh tấn tu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

1.5. Khi Đấng Sáng tạo ban cho con khả năng tự nhận biết, tưởng tượng và quyền tự quyết, ngài đã tạo ra một sinh thể không có bản sắc cố định bất biến. Con là người mà con nghĩ con là, con là người mà con thấy con là. Con thấy con là một đứa con của Thượng đế.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, đưa con về nhà,
con hòa điệu theo Thánh ngữ OM đây, 
Âm của mọi âm nâng con cao mãi,
chỉ còn ánh sáng trong chén con đầy.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

1.6. . Con đang thay đổi ý niệm bản sắc của con. Con đang thay đổi nhận biết về chính mình bằng cách dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết của mình.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con là một phần
bài nhạc giao hưởng từ vũ trụ ngân.
CON LÀ nhạc khí thanh âm trong sáng,
dạo lên âm thánh từ cõi thiên đàng.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

1.7. Con đang bỏ lại đằng sau ý niệm bản sắc giới hạn của một người phàm trần và đòi lại bản sắc thực mà con đã có khi bước vào hiện hữu. Con đang xây dựng trên niệm tinh khôi đó, và con trở nên hơn nữa so với khi con được sinh tạo.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con xin thỉnh cầu
bước vào sảnh đường âm nhạc thiêng liêng.
Con sẽ hòa nhập dòng sống vươn lên
tới bầu trời cao sao sáng nhiệm màu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

1.8. Sự tự nhận biết của con có hai khía cạnh: một là “nhận biết,” hai là “tự” – hay cái ta. Nhận biết của con là bình chứa bản thể con. Còn ý niệm cái ta là nội dung trong bình chứa bản thể của cá nhân con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ so dây đàn con,
toàn bản thể con cùng hát với mẹ.
Bài ca của mẹ, con dội âm theo,
tình yêu hoàn vũ con vui mừng đón.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

1.9. Sự nhận biết độc lập với cái ta. Nó không tùy thuộc bất kỳ hình tướng nào. Nó có thể tồn tại như là nhận biết thuần khiết mà không tập trung vào – hay xuyên qua – một cá thể đặc thù, và chính nhận biết này là cốt lõi của bản thể Thượng đế.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con yêu chất ngất,
tình ca của mẹ, giữ con chân chất.
Mẹ đổ đầy con thánh âm rất thật,
có mẹ đây rồi, cô đơn biến mất.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2. Con đang buông bỏ cái ta tách biệt

2.1. Con đang thay đổi nhận biết về chính mình bằng cách thay đổi ý niệm cái ta, thay đổi nội dung bình chứa bản thể của con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin gióng tiếng chiêng,
gọi con về nhà, con thuộc nơi đó,
Con biết mẹ đây yêu con thánh thiện,
trong niệm biết này, con được tự do.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.2. Cái Ta Biết là cái nó nghĩ nó là, cái nó thấy nó là. Khi con thay đổi nhận biết về mình thì con người cũ của con, ý niệm cũ về cái ta, sẽ chết đi và không còn nữa.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin ôm con chặt,
con cộng hưởng theo ánh sáng mẹ dắt.
Nhạc mẹ thanh tẩy tim con vô ngã,
tình yêu của mẹ, con ban tất cả.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.3. Con đang chuyển sự chú ý từ nội dung trong bình chứa bản thể sang chính bình chứa. Con đang buông bỏ ý niệm cái ta mà con đã tạo dựng trong thế gian và tái khám phá cái ta bất tử được lưu giữ trong tâm Ki-tô.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, hợp nhất với mẹ,
tim mẹ rực lên mặt trời sáng chói.
Tâm con khuếch đại âm thanh của mẹ,
thánh âm mẹ hiền phóng to khắp cõi.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.4. Con không còn bị kẹt trong ý niệm cái ta hạn chế mà con đã tạo dựng. Con giành lại sự nối kết ý thức với Hiện diện TA LÀ, và con nhớ lại nguồn cội thực của con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con nghe thấy liền,
âm vi tế của Bầu cõi Thiêng liêng.
Tâm con hòa điệu Âm Ngân Vũ trụ,
vượt lên ngã nhỏ, con tinh tấn tu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.5. Ý niệm cái ta của con dựa trên sự kiện con là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ và con vĩnh viễn nối kết với Hiện diện. Con buông bỏ ý niệm cái ta dựa trên tách biệt với Hiện diện.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, đưa con về nhà,
con hòa điệu theo Thánh ngữ OM đây, 
Âm của mọi âm nâng con cao mãi,
chỉ còn ánh sáng trong chén con đầy.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.6. Con xem mình là một sinh thể tâm linh nối kết với một cái gì lớn hơn mình. Con nối kết với một cái gì vượt ngoài thế giới vật chất.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con là một phần
bài nhạc giao hưởng từ vũ trụ ngân.
CON LÀ nhạc khí thanh âm trong sáng,
dạo lên âm thánh từ cõi thiên đàng.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.7. Hiện diện TA LÀ là khía cạnh nam của toàn bộ bản thể con. Cái Ta Biết, ý niệm cái ta đã bước xuống thế giới vật chất, là thái cực nữ của toàn bộ bản thể con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con xin thỉnh cầu
bước vào sảnh đường âm nhạc thiêng liêng.
Con sẽ hòa nhập dòng sống vươn lên
tới bầu trời cao sao sáng nhiệm màu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.8. Qua tâm Ki-tô, con vươn lên cao hơn cám dỗ muốn dự phần vào tâm thức nhị nguyên, tâm thức của thiện ác tương đối.

Ôi Mẹ Hoàn vũ so dây đàn con,
toàn bản thể con cùng hát với mẹ.
Bài ca của mẹ, con dội âm theo,
tình yêu hoàn vũ con vui mừng đón.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.9. Việc dự phần vào tâm thức nhị nguyên đã khiến cái ta tâm linh của con phải chết. Đây là vấn đề trung tâm trong đời con và trên hành tinh trái đất.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con yêu chất ngất,
tình ca của mẹ, giữ con chân chất.
Mẹ đổ đầy con thánh âm rất thật,
có mẹ đây rồi, cô đơn biến mất.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

3. Con ăn vào tâm thức Ki-tô

3.1. Tất cả mọi vấn đề riêng biệt mà con thấy trên hành tinh này đều xuất phát từ tâm thức của thiện ác tương đối, là tâm thức nhị nguyên khiến cho các sinh thể tự nhận biết chế tạo định nghĩa riêng của mình về đúng-sai, tốt-xấu.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin gióng tiếng chiêng,
gọi con về nhà, con thuộc nơi đó,
Con biết mẹ đây yêu con thánh thiện,
trong niệm biết này, con được tự do.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

3.2. Nếu mỗi người đều có định nghĩa riêng của mình về thiện ác thì không thể tránh được xung đột với nhau. Nếu mỗi người định nghĩa “tốt” là những gì tốt cho “tôi”, làm sao sẽ có được an bình và hài hòa trên hành tinh này đây?

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin ôm con chặt,
con cộng hưởng theo ánh sáng mẹ dắt.
Nhạc mẹ thanh tẩy tim con vô ngã,
tình yêu của mẹ, con ban tất cả.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

3.3. Con đang giúp tạo một hành tinh hòa bình bằng cách vươn lên cao hơn tâm thức nhị nguyên. Định nghĩa của con về thiện ác là định nghĩa tuyệt đối của tâm Ki-tô, và con đang giúp tiêu hủy xung đột và chiến tranh trên hành tinh.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, hợp nhất với mẹ,
tim mẹ rực lên mặt trời sáng chói.
Tâm con khuếch đại âm thanh của mẹ,
thánh âm mẹ hiền phóng to khắp cõi.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

3.4. Con đang ăn vào tâm thức Ki-tô, và con có sự sống trong con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con nghe thấy liền,
âm vi tế của Bầu cõi Thiêng liêng.
Tâm con hòa điệu Âm Ngân Vũ trụ,
vượt lên ngã nhỏ, con tinh tấn tu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

3.5. Con có sự sống tâm linh trong con vì con có một miếng tâm thức Ki-tô trong bầu cõi cái ta, trong bình chứa cái ta của con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, đưa con về nhà,
con hòa điệu theo Thánh ngữ OM đây, 
Âm của mọi âm nâng con cao mãi,
chỉ còn ánh sáng trong chén con đầy.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

3.6. Con đang cắn vào một miếng tâm thức Ki-tô. Con đang cho phép nó nâng cao ý niệm cái ta của con, cho phép nó xua tan bóng tối phản Ki-tô bằng ánh sáng Ki-tô.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con là một phần
bài nhạc giao hưởng từ vũ trụ ngân.
CON LÀ nhạc khí thanh âm trong sáng,
dạo lên âm thánh từ cõi thiên đàng.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

3.7. Con đang trở về nhà xưa và chấp nhận mình là một đứa con của Thượng đế.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con xin thỉnh cầu
bước vào sảnh đường âm nhạc thiêng liêng.
Con sẽ hòa nhập dòng sống vươn lên
tới bầu trời cao sao sáng nhiệm màu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

3.8. Con đang bước vào Nước Trời do con được tái sinh. Cái ta tâm linh của con được tái sinh và con lấy lại bản sắc tâm linh đúng đắn.

Ôi Mẹ Hoàn vũ so dây đàn con,
toàn bản thể con cùng hát với mẹ.
Bài ca của mẹ, con dội âm theo,
tình yêu hoàn vũ con vui mừng đón.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

3.9. Con đòi lại bản sắc thực của mình vẫn được lưu giữ như là niệm tinh khôi trong tâm Ki-tô.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con yêu chất ngất,
tình ca của mẹ, giữ con chân chất.
Mẹ đổ đầy con thánh âm rất thật,
có mẹ đây rồi, cô đơn biến mất.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4. Con tái sinh trong một cái ta mới

4.1. Con đang lấy lại bản sắc thực của con. Con đang trở về nhà xưa, con đang đòi lại gia sản thiêng liêng của mình. Con là đứa con hoang đàng đang quay về căn nhà cha con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin gióng tiếng chiêng,
gọi con về nhà, con thuộc nơi đó,
Con biết mẹ đây yêu con thánh thiện,
trong niệm biết này, con được tự do.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.2. Khi con chuyển từ một cái ta tâm linh sang một cái ta nhị nguyên, từ một cái ta dựa trên tảng đá Ki-tô sang một cái ta dựa trên cát lún của phản Ki-tô, thì ý niệm cái ta tâm linh của con đã chết.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin ôm con chặt,
con cộng hưởng theo ánh sáng mẹ dắt.
Nhạc mẹ thanh tẩy tim con vô ngã,
tình yêu của mẹ, con ban tất cả.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.3. Con đang đảo ngược chiều hướng đó và quay trở về cái ta tâm linh. Con cho phép cái ta dựa trên tách biệt chết đi. Con đang buông bỏ nó hoàn toàn.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, hợp nhất với mẹ,
tim mẹ rực lên mặt trời sáng chói.
Tâm con khuếch đại âm thanh của mẹ,
thánh âm mẹ hiền phóng to khắp cõi.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.4. Con không thể đem theo cái ta tách biệt vào Nước Trời. Cái gì sinh ra từ tách biệt không bao giờ có thể bước vào hợp nhất. Cái ta hữu diệt không bao giờ có thể nắm bắt hay chấp nhận thực tại của Thượng đế. Cái ta dựa trên nhị nguyên và tách biệt không bao giờ có thể khắc phục cảm nhận tách biệt khỏi Thượng đế.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con nghe thấy liền,
âm vi tế của Bầu cõi Thiêng liêng.
Tâm con hòa điệu Âm Ngân Vũ trụ,
vượt lên ngã nhỏ, con tinh tấn tu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.5. Cái Ta Biết mới có khả năng khắc phục cảm nhận tách biệt với Thượng đế. Con đang thay thế nội dung của bình chứa cái ta với một ý niệm cái ta mới.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, đưa con về nhà,
con hòa điệu theo Thánh ngữ OM đây, 
Âm của mọi âm nâng con cao mãi,
chỉ còn ánh sáng trong chén con đầy.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.6. Con đang cho phép ý niệm cái ta hiện thời của con bị thiêu hủy trong ngọn lửa thiêu đốt của Thượng đế – là ngọn lửa thiêu rụi tất cả những gì không giống nó, và như vậy cũng thiêu rụi tất cả những gì sinh ra từ nhị nguyên và tâm phản Ki-tô.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con là một phần
bài nhạc giao hưởng từ vũ trụ ngân.
CON LÀ nhạc khí thanh âm trong sáng,
dạo lên âm thánh từ cõi thiên đàng.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.7. Con tin chắc như thạch đồng là điều này không có nghĩa là con sẽ đánh mất ý thức liên tục như một sinh thể riêng biệt. Một ý niệm cái ta mới sẽ ra đời.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con xin thỉnh cầu
bước vào sảnh đường âm nhạc thiêng liêng.
Con sẽ hòa nhập dòng sống vươn lên
tới bầu trời cao sao sáng nhiệm màu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.8. Cái ta tâm linh của con được tái sinh, được phục sinh, và nó trỗi dậy từ đống tro tàn của cái ta cũ.

Ôi Mẹ Hoàn vũ so dây đàn con,
toàn bản thể con cùng hát với mẹ.
Bài ca của mẹ, con dội âm theo,
tình yêu hoàn vũ con vui mừng đón.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.9. Con là ý niệm cái ta mới dựa trên bản mẫu thiêng liêng do Thượng đế thiết kế. Con sẽ là cái con sẽ là, vì CON LÀ HƠN NỮA.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con yêu chất ngất,
tình ca của mẹ, giữ con chân chất.
Mẹ đổ đầy con thánh âm rất thật,
có mẹ đây rồi, cô đơn biến mất.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Maraytaii và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy.” Do đó con chấp nhận là điều này đã hoàn toàn biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói nó ra. Amen.

2 | Con thỉnh cầu ánh sáng vào bốn thể phàm của con

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng và Cha Thiêng liêng, đặc biệt là Maraytaii, Đại thiên thần Michael và Mẹ Mary, hãy giúp con thanh tẩy các thể bản sắc, tư tưởng, cảm xúc và vật lý của con khỏi tất cả năng lượng thấp và niềm tin giới hạn. Xin các thày giúp con chấp nhận uy lực sáng tạo của con và thấy những yếu tố ngăn cản dòng chảy của sự sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con, kể cả …

[Đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con buông bỏ phương pháp tiêu cực

1.1. Con có một ý niệm đồng-đo lường uy lực của Thượng đế và con biết con có thể đi con đường quả vị Ki-tô mà Giê-su đã chứng minh.

Đại thiên thần Michael, sáng xanh ngắt,
Tim con chỉ còn chỗ cho mình thày,
Tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
Tình yêu thày cho con luôn chân chất.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.2. Con biết là Giê-su đã có lời hứa chân chính khi nói là nếu con thực sự theo thày thì con sẽ làm được những việc thày làm và những việc lớn lao hơn thế nữa.

Đại thiên thần Michael, con mãi mãi
Luôn là một với thực tại của thày,
Muôn sợ hãi không thể giam con mãi,
Và thế gian phải nhả hết quyền oai.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.3. Con muốn đi theo con đường Giê-su đã đi, con đường vượt qua ngã hữu diệt, đâm chết con rồng của ngã hữu diệt. Thượng đế có thể làm cùng những việc qua con mà Thượng đế đã làm qua Giê-su.

Đại thiên thần Michael, ôm con chặt,
Phá tan đi bóng đêm đen tối nhất,
Sạch luân xa trong ánh sáng thần sầu,
Và phục hồi trong con cái nhìn sâu.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.4. Khi uy lực của Thượng đế tuôn chảy không bị pha loãng xuyên qua bốn thể phàm của con, những điều Thượng đế có thể làm được không giới hạn.

Đại thiên thần Michael, con đang đứng
Với thày đây, ánh sáng con ra lệnh,
Tim con sẽ trải rộng mãi không ngừng
Cho đến khi lý tối cao sáng bừng.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.5. Con giành lại sứ vụ ban đầu của con là người đồng-sáng tạo với Thượng đế thật, chính là Thượng đế nội tại lúc nào cũng mong muốn con đồng-sáng tạo đời sống dồi dào mà ngài hình dung cho con.

Đại thiên thần Michael, trong tim này,
Không bao giờ con với thày xa cách,
Đoàn chưởng giáo nay con xin trọng trách,
Khởi hành mới, con sẽ bước chân ngay.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.6. Con tinh lọc bốn thể phàm và trở về trạng thái tự nhiên. Uy lực của Thượng đế có thể tuôn chảy qua bốn thể phàm của con mà không bị pha loãng và hạ giảm thấp hơn mức rung động tự nhiên.

Đại thiên thần Michael, gươm sáng xanh,
Bao bóng tối vung tay thày chặt đứt,
Quả Ki-tô nay con theo nao nức,
Dùng phân biện thực chân rõ ngọn ngành.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.7. Con thanh lọc bốn thể phàm của con và tâm ý thức của con nhận thêm nhiều năng lượng có tần số cao. Con phục hồi lại những chức năng cao của não bộ và gia tăng uy lực sáng tạo của con.

Đại thiên thần Michael, con nương cánh
Của thày đây, bỏ lại chuyện cỏn con,
Tim con rộn tiếng Thượng đế gọi đàn,
Cùng tim thày mà hát mãi vang vang. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.8. Mẹ Mary đang chỉ cho con cách tăng cường uy lực sáng tạo của con. Qua uy lực Thượng đế bên trong con, con khắc phục cảm nhận vật lộn và thay thế tất cả những vật lộn bằng vòng xoáy đi lên mà con tạo được khi con nhân lên các khả năng mà Thượng đế đã ban cho con.

Đại thiên thần Michael, đưa con về
Những bầu cao con muốn được tiêu dao,
Được tái sinh khỏi vũ trụ xôn xáo,
Cho đời sống thành bài thơ dâng trào.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

1.9. Con buông phương pháp cầu nguyện thụ động và chờ đợi Mẹ Mary sẽ làm việc hộ con. Con theo phương pháp tích cực và nói: “Mẹ Mary, hãy chỉ cho con cách tăng cường uy lực sáng tạo của con để uy lực Thượng đế bên trong con có thể loại bỏ giới hạn này.”

Đại thiên thần Michael là ánh sáng
Chiếu rực rỡ như tinh tú xanh ngời,
Thày đến đây từ tinh tú trên trời,
Con cùng thày đi khắp chốn xa xôi. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

2. Con thăng vượt sự nản chí

2.1. Con mở tâm ra để sử dụng uy lực của viễn kiến. Con gửi ra ngoài một xung lực năng lượng vượt quá thân vật lý. Con biết rằng đời sống nhiều hơn những gì thấy được nơi cõi vật lý và có một phương cách biểu hiện dồi dào cao hơn là dùng thân thể.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin gióng tiếng chiêng,
gọi con về nhà, con thuộc nơi đó,
Con biết mẹ đây yêu con thánh thiện,
trong niệm biết này, con được tự do.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.2. Con tạo ra một xung lực năng lượng đi từ tâm ý thức của con vào thể bản sắc. Xung lực năng lượng này chảy qua các tâm bản sắc, tư tưởng, cảm xúc và vật lý của con mà không bị ngăn chặn hay pha loãng.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin ôm con chặt,
con cộng hưởng theo ánh sáng mẹ dắt.
Nhạc mẹ thanh tẩy tim con vô ngã,
tình yêu của mẹ, con ban tất cả.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.3. Thể bản sắc của con trong sáng và viễn kiến ý thức của con thẳng hàng với viễn kiến Ki-tô cho cuộc đời con. Xung lực năng lượng của con thấm đậm uy lực không bị pha loãng của Thượng đế hiện hữu trong thể bản sắc của con. Xung lực năng lượng này mạnh hơn nhiều xung lực mà con có thể tạo ra với tâm ý thức của con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, hợp nhất với mẹ,
tim mẹ rực lên mặt trời sáng chói.
Tâm con khuếch đại âm thanh của mẹ,
thánh âm mẹ hiền phóng to khắp cõi.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.4. Xung lực năng lượng mạnh giờ đây chảy vào thể tư tưởng của con và tại đó nó lại được tăng cường bởi uy lực Thượng đế. Viễn kiến về cách thành tựu mục đích của con trở nên rõ ràng hơn.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con nghe thấy liền,
âm vi tế của Bầu cõi Thiêng liêng.
Tâm con hòa điệu Âm Ngân Vũ trụ,
vượt lên ngã nhỏ, con tinh tấn tu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.5. Xung lực năng lượng giờ đây chảy vào thể cảm xúc của con và tại đó nó lại được tăng cường bởi uy lực Thượng đế. Các mong muốn của con thẳng hàng với viễn quan của Ki-tô.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, đưa con về nhà,
con hòa điệu theo Thánh ngữ OM đây, 
Âm của mọi âm nâng con cao mãi,
chỉ còn ánh sáng trong chén con đầy.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.6. Xung lực năng lượng giờ đây chảy vào tầng vật lý và tại đó viễn quan của Ki-tô cho đời con được biểu hiện dễ dàng.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con là một phần
bài nhạc giao hưởng từ vũ trụ ngân.
CON LÀ nhạc khí thanh âm trong sáng,
dạo lên âm thánh từ cõi thiên đàng.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.7. Con biết đây là một tiến trình khoa học không thể thất bại. Nếu viễn quan của con không thể hiện, thì con biết là dòng năng lượng trở về đang bị niềm tin gây giới hạn và năng lượng có tần số thấp trong bốn thể phàm của con ngăn cản.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con xin thỉnh cầu
bước vào sảnh đường âm nhạc thiêng liêng.
Con sẽ hòa nhập dòng sống vươn lên
tới bầu trời cao sao sáng nhiệm màu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.8. Con thăng vượt mọi nản chí và chán chường. Con biết con hơn một người phàm và con có uy lực biểu hiện sự dồi dào trong đời con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ so dây đàn con,
toàn bản thể con cùng hát với mẹ.
Bài ca của mẹ, con dội âm theo,
tình yêu hoàn vũ con vui mừng đón.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

2.9. Con nhất quyết tiếp tục nỗ lực thanh tẩy bốn thể phàm của con. Con sẽ tiếp tục những cố gắng biểu hiện sự dồi dào cho tới khi chúng không còn bị ngăn chặn bởi chính tâm con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con yêu chất ngất,
tình ca của mẹ, giữ con chân chất.
Mẹ đổ đầy con thánh âm rất thật,
có mẹ đây rồi, cô đơn biến mất.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

3. Con quyết tâm theo tiến trình

3.1. Con gia tăng quyền năng sáng tạo của con, và con bắt đầu thấy kết quả của tiến trình này.

Đại thiên thần Michael, sáng xanh ngắt,
Tim con chỉ còn chỗ cho mình thày,
Tâm con chỉ là một, chẳng còn hai,
Tình yêu thày cho con luôn chân chất.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.2. Con buông bỏ mọi cảm nhận tuyệt vọng, muốn kết quả tức khắc, muốn toại nguyện tức khắc.

Đại thiên thần Michael, con mãi mãi
Luôn là một với thực tại của thày,
Muôn sợ hãi không thể giam con mãi,
Và thế gian phải nhả hết quyền oai.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.3. Con chấp nhận là không có giải pháp đi tắt. Con biết con có thể biểu hiện dồi dào thật sự trong cuộc sống nhưng con chỉ có một cách. Con thanh tẩy một cách có hệ thống bốn thể phàm khỏi những niềm tin không toàn hảo và những năng lượng không thanh khiết đang ngăn chặn dòng chảy của dồi dào Thượng đế vào cuộc đời con.

Đại thiên thần Michael, ôm con chặt,
Phá tan đi bóng đêm đen tối nhất,
Sạch luân xa trong ánh sáng thần sầu,
Và phục hồi trong con cái nhìn sâu.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.4. Tiến trình biểu hiện dồi dào hoàn toàn khoa học, và phần nào máy móc. Con nhất định quyết tâm theo tiến trình và cam kết tu tập trọn đời.

Đại thiên thần Michael, con đang đứng
Với thày đây, ánh sáng con ra lệnh,
Tim con sẽ trải rộng mãi không ngừng
Cho đến khi lý tối cao sáng bừng.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.5. Con theo tiến trình leo lên cầu thang xoắn ốc với tinh thần làm một công việc hứng thú trọn đời. Suốt quãng đời còn lại của con trên trái đất, con sẽ tiếp tục leo từng bước một trên cầu thang này.

Đại thiên thần Michael, trong tim này,
Không bao giờ con với thày xa cách,
Đoàn chưởng giáo nay con xin trọng trách,
Khởi hành mới, con sẽ bước chân ngay.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.6. Con biết là trước khi con rời trái đất, con sẽ biểu hiện một mức tâm thức Ki-tô cao như Giê-su đã chứng minh. Con sẽ đi trên mặt đất trong tự do tâm linh thật sự, nghĩa là con không còn các điểm nghẽn nữa trong bốn thể phàm.

Đại thiên thần Michael, gươm sáng xanh,
Bao bóng tối vung tay thày chặt đứt,
Quả Ki-tô nay con theo nao nức,
Dùng phân biện thực chân rõ ngọn ngành.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.7. Con buông bỏ cảm nghĩ con không đi nhanh đủ, con không đạt được những kết quả mà con được hứa hẹn. Con buông bỏ những mong chờ không thiết thực đã được lập trình vào tâm con.

Đại thiên thần Michael, con nương cánh
Của thày đây, bỏ lại chuyện cỏn con,
Tim con rộn tiếng Thượng đế gọi đàn,
Cùng tim thày mà hát mãi vang vang. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.8. Con thăng vượt mưu gian của tự ngã và tà lực muốn con rơi vào thất vọng, tuyệt vọng, nghi ngờ hay nóng giận. Con sẽ tiếp tục tiến triển và leo cầu thang cho tới mức con thoát khỏi tầm kiểm soát của các lực thấp.  

Đại thiên thần Michael, đưa con về
Những bầu cao con muốn được tiêu dao,
Được tái sinh khỏi vũ trụ xôn xáo,
Cho đời sống thành bài thơ dâng trào.

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

3.9. Con tập trung tâm mình kiên cố vào hình ảnh con đang theo một tiến trình lâu dài một cách có ý thức và cố ý. Con hiểu con cần làm công việc khó khăn thanh tẩy bốn thể phàm khỏi những rác rưởi mà con đã tích tụ từ nhiều ngàn năm.

Đại thiên thần Michael là ánh sáng
Chiếu rực rỡ như tinh tú xanh ngời,
Thày đến đây từ tinh tú trên trời,
Con cùng thày đi khắp chốn xa xôi. 

Đại thiên thần Michael, thày có mặt,
Ánh sáng thiêu mọi sợ hãi nghi ngờ,
Thày Hiện diện gần gũi như bao giờ,
Đối với con, thày là thân thương nhất.

4. Con neo trụ vào con đường đi lên

4.1. Con nhận ra tiến trình này cần thời gian và nỗ lực từ phía con. Con cũng nhận ra nếu con ra sức làm việc thì kết quả chắc chắn sẽ hiện ra. Đây không phải là chuyện mơ tưởng hão huyền, kỳ vọng hay mộng tưởng. Đây là một tiến trình rất khoa học.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin gióng tiếng chiêng,
gọi con về nhà, con thuộc nơi đó,
Con biết mẹ đây yêu con thánh thiện,
trong niệm biết này, con được tự do.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.2. Khi con chùi sạch một cách có hệ thống những mảnh kính tượng trưng cho bốn tầng của tâm con, ánh sáng của Thượng đế tất nhiên sẽ chiếu rạng qua tâm con. Ánh sáng này sẽ biểu hiện dồi dào của Thượng đế trong trải nghiệm vật lý của con và nó sẽ cho con một trải nghiệm về cuộc sống mở rộng bao la, kể cả cho con nhận biết bản chất tâm linh của mình và mục tiêu thật của con khi tới trái đất.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin ôm con chặt,
con cộng hưởng theo ánh sáng mẹ dắt.
Nhạc mẹ thanh tẩy tim con vô ngã,
tình yêu của mẹ, con ban tất cả.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.3. Con thỉnh cầu ánh sáng Thượng đế tiêu trừ các năng lượng trong thể bản sắc, thể tư tưởng và thể cảm xúc đang ngăn chặn con thấy những giới hạn trong cách con nhìn chính mình, nhìn thế giới và nhìn tiềm năng biểu hiện những điều con mong muốn.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, hợp nhất với mẹ,
tim mẹ rực lên mặt trời sáng chói.
Tâm con khuếch đại âm thanh của mẹ,
thánh âm mẹ hiền phóng to khắp cõi.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.4. Mẹ Mary, xin thày giúp con thấy tất cả các niềm tin gây giới hạn ở tầng thể bản sắc của con. Xin thày giúp con kết nối lại với viễn quan thuần khiết của Ki-tô về bản sắc thật của con như một người đồng-sáng tạo với Thượng đế.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con nghe thấy liền,
âm vi tế của Bầu cõi Thiêng liêng.
Tâm con hòa điệu Âm Ngân Vũ trụ,
vượt lên ngã nhỏ, con tinh tấn tu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.5. Mẹ Mary, xin thày giúp con thấy tất cả các niềm tin gây giới hạn ở tầng thể tư tưởng của con. Xin thày giúp con kết nối lại với viễn quan thuần khiết của Ki-tô về cách con biểu hiện sứ vụ thiêng liêng của con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, đưa con về nhà,
con hòa điệu theo Thánh ngữ OM đây, 
Âm của mọi âm nâng con cao mãi,
chỉ còn ánh sáng trong chén con đầy.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.6. Mẹ Mary, xin thày giúp con thấy tất cả các niềm tin gây giới hạn ở tầng thể cảm xúc của con. Xin thày giúp con kết nối lại với viễn quan thuần khiết của Ki-tô về các mong muốn cao của con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con là một phần
bài nhạc giao hưởng từ vũ trụ ngân.
CON LÀ nhạc khí thanh âm trong sáng,
dạo lên âm thánh từ cõi thiên đàng.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.7. Mẹ Mary, xin thày giúp con khám phá các niềm tin gây giới hạn mà con đã chấp nhận vào mỗi tầng của tâm con. Con sẽ thay thế những niềm tin bất toàn này, các niềm tin nhị nguyên này, một cách có ý thức bằng cách lấy những quyết định dựa trên sự thực Ki-tô.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con xin thỉnh cầu
bước vào sảnh đường âm nhạc thiêng liêng.
Con sẽ hòa nhập dòng sống vươn lên
tới bầu trời cao sao sáng nhiệm màu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.8. Con đang neo trụ chặt chẽ vào con đường đi lên. Con có cái biết nội tại – vượt quá niềm tin thông thường – là không có sức mạnh nào trên trái đất, kể cả ngã hữu diệt hay ông hoàng thế gian, có thể khiến con rời con đường tâm linh.

Ôi Mẹ Hoàn vũ so dây đàn con,
toàn bản thể con cùng hát với mẹ.
Bài ca của mẹ, con dội âm theo,
tình yêu hoàn vũ con vui mừng đón.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

4.9. Con thăng vượt cảm giác vật lộn và đau khổ. Con đã neo trụ mình vào con đường đi lên của sự tự thăng vượt, và con về nhà với Mẹ Hoàn vũ và Hiện diện TA LÀ của con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con yêu chất ngất,
tình ca của mẹ, giữ con chân chất.
Mẹ đổ đầy con thánh âm rất thật,
có mẹ đây rồi, cô đơn biến mất.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Maraytaii, Đại thiên thần Michael và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả những  người trong vòng ảnh hưởng của con trong dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó con chấp nhận chuyện này đã hoàn toàn thể hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói ra nó. Amen.

16 | Con thỉnh cầu bản sắc cao nhất của con (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Omega và Mẹ Mary, hãy giúp con khám phá trở lại lý do vì sao con tới trái đất để con có thể biểu lộ cá thể của con xuyên qua sự cân bằng của tâm Ki-tô. Xin các thày giúp con thăng vượt mọi chướng ngại đang ngăn cản khả năng thị hiện sự dồi dào của con, kể cả …

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con thăng vượt sự tách biệt cội nguồn của con

1.1. Con giờ đây buông bỏ mọi hình ảnh về mình như người giỏi hơn hay có giá trị hơn người khác. Con buông bỏ hình ảnh coi mình kém hơn hay ít giá trị hơn người khác. Con buông bỏ ý muốn cai quản người khác và kiểm soát tổng thể. Con làm việc để khuếch trương tổng thể.

Ôi Omega, con nay thiền định
bên ngai của thày nơi cổng hoàn vũ.
Từ hình số tám, con sinh thanh tú,
Alpha và thày, từ đó con sinh.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.2. Con được thiết kế với một vẻ đẹp và sự toàn hảo vượt xa mức bản sắc và nhận biết phàm phu. Con được sinh tạo để trở thành vô vàn hơn những gì con có thể chấp nhận hiện nay, và cá thể mà Thượng đế ban cho con không bao giờ mất được vì nó được ghi lại vĩnh viễn trong Tâm Ki-tô Hoàn vũ.

Ôi Omega, ở nơi linh thánh,
con giang tay ôm phụ mẫu vũ trụ.
Thật là hồng ân, con sao may mắn,
gia nhập cuộc đua hoàn vũ, con tu.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.3. Tâm Ki-tô là người gìn giữ cá thể thật của con, và nó cũng là chìa khóa giúp con tìm lại bản sắc thật của mình. Con khắc phục ý niệm bản sắc giới hạn sinh ra từ tâm phản Ki-tô. Con giành lại bản sắc sinh ra từ tâm Ki-tô, là tâm hợp nhất với nguồn cội của con.

Omega, nơi Mặt trời Trung ương,
thày dạy sống là niềm vui hoàn vũ.
Con giành chiến thắng, tu là sung sướng,
bắt đầu về nhà, tiến bước trơn tru.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.4. Tâm Ki-tô hướng dẫn nỗ lực sáng tạo của con và chúng luôn luôn thẳng hàng với các quy luật Thượng đế. Có sự hài hòa giữa con và Thân thể Thượng đế. Qua tâm Ki-tô được cá thể hóa của con, con sáng tạo trong sự hài hòa toàn hảo với các quy luật Thượng đế, và những gì con sáng tạo có uy lực tối đa.

Ôi Omega, nguyên lý của nữ
là cửa đi vào vô thỉ vô biên,
Đồng cảm với thày, âm này con giữ,
con nhận ra rồi bản sắc thiêng liêng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.5. Con là cái Tất cả của đấng Sáng tạo được biểu hiện và tập trung qua cá thể của con. Con không còn nhìn cuộc sống dưới tầm nhìn giới hạn của nhận biết cá nhân của con. Con nhìn cuộc sống dưới tầm nhìn mở rộng của đấng Sáng tạo, tỏa rạng xuyên qua cá thể của con.

Ôi Omega, trong dòng chảy đó,
Sứ vụ Thiêng liêng của mình con rõ.
Tim con giờ sáng như ngọn đèn đỏ,
tình thương chan hòa, mọi người con cho.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.6. Thượng đế ở ngay đây với con. Con là Thượng đế đang biểu lộ chính ngài như sinh thể cá biệt của con. Con là Thượng đế đang biểu lộ chính con như sinh thể cá biệt của con. Đó là lý do vì sao vương quốc Thượng đế ở trong con.

Ôi Omega, Lửa Mẹ vũ trụ,
từ ngọn lửa thày con đã sinh ra.
Con gia nhập vào cuộc chơi hoàn vũ,
chiến thắng Ki-tô công bố gần xa.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.7. Con nhìn quá những ý muốn cá nhân của con. Con không tới hành tinh này chỉ để thỏa mãn các ước muốn cá nhân của con. Có một kế hoạch thiêng liêng để đem đến sự tăng trưởng của trái đất và con đứng thẳng hàng với nó. Con được toại nguyện hơn khi thấy những nỗ lực cá nhân của con tăng cường và khế hợp với kế hoạch lớn hơn cho trái đất.

Ôi Omega, con nay hiểu thật
vì sao con xuống đầu thai trái đất.
Tim con ấp ủ ý định rõ ràng,
giúp hành tinh này cất cánh vượt thăng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.8. Cốt lõi của tâm thức Ki-tô là sự quân bình. Tâm thức Ki-tô quân bình lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ. Tâm thức Ki-tô quân bình quan hệ giữa cá thể của con và Thân thể Thượng đế.

Ôi Omega, con khao khát quá,
gia nhập hợp xướng hoàn vũ hát ca.
Tim con bùng cháy ngọn lửa Ki-tô,
ngọn lửa thánh hóa hành tinh xô bồ.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.9. Bất cứ hình tướng nào được quy định bởi và qua tâm thức Ki-tô đều là một hình tướng toàn hảo. Nó là một hình tướng hài hòa toàn hảo với các quy luật Thượng đế và với ý định sáng tạo của Thượng đế, đó là tất cả người đồng-sáng tạo tăng trưởng một cách hài hòa với nhau để mọi sự sống đều trở nên hơn nữa.

Ôi Omega, tim con rực lên,
đời con bước vào giai đoạn vươn lên.
Xin thày dạy con câu chú bí huyền,
con nâng địa cầu lên cõi thượng thiên.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2. Con luôn luôn đồng-sáng tạo

2.1. Qua tâm Ki-tô, con thực thi khả năng sáng tạo và mở rộng sự tự nhận biết của con. Con trở nên hơn nữa cho tới khi con đạt được trọn vẹn tâm thức Thượng đế và biết con là một cá thể của Tất cả, là một với Thượng đế. Con là Thượng đế đang tự biểu hiện chính mình qua ý niệm cái ta cá nhân của con.

Ôi Omega, con nay thiền định
bên ngai của thày nơi cổng hoàn vũ.
Từ hình số tám, con sinh thanh tú,
Alpha và thày, từ đó con sinh.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.2. Thượng đế muốn hình tướng năng động, có nghĩa là hình tướng nào cũng là nền tảng cho sự tăng trưởng thêm nữa. Con ở trong tâm thức Ki-tô và con không bao giờ muốn đứng yên hay duy trì một hình tướng đặc thù. Con liên tục sáng tạo hình tướng mới tốt đẹp hơn, con ở trong Dòng sông sự Sống là lực sáng tạo luôn luôn tuôn chảy, chính là khía cạnh Đấng Sáng tạo của Thượng đế.

Ôi Omega, ở nơi linh thánh,
con giang tay ôm phụ mẫu vũ trụ.
Thật là hồng ân, con sao may mắn,
gia nhập cuộc đua hoàn vũ, con tu.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.3. Con ở trong dòng chảy của sự sống, và con không dính mắc vào bất kỳ hình tướng đặc thù nào. Con không mong muốn hình tướng nào trường tồn, con chỉ có mong muốn duy nhất dùng hình tướng đó làm bàn đạp để mở rộng khả năng sáng tạo của con.

Omega, nơi Mặt trời Trung ương,
thày dạy sống là niềm vui hoàn vũ.
Con giành chiến thắng, tu là sung sướng,
bắt đầu về nhà, tiến bước trơn tru.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.4. Con tập trung vào tiến trình sáng tạo thay vì kết quả của sự sáng tạo. Con tập trung vào hành trình thay vì nơi đến vì con nhận ra cuộc sống là một hành trình không bao giờ dứt.

Ôi Omega, nguyên lý của nữ
là cửa đi vào vô thỉ vô biên,
Đồng cảm với thày, âm này con giữ,
con nhận ra rồi bản sắc thiêng liêng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.5. Con là một thành phần của Dòng sông sự Sống, con liên tục dùng một hình tướng để làm bàn đạp cho một sự thành đạt sáng tạo cao hơn. Khi con ở trong dòng chảy của sự sống con cảm thấy mãn nguyện và sống động.

Ôi Omega, trong dòng chảy đó,
Sứ vụ Thiêng liêng của mình con rõ.
Tim con giờ sáng như ngọn đèn đỏ,
tình thương chan hòa, mọi người con cho.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.6. Tâm thức tự thăng vượt liên tục là tâm thức của sự sống. Sự dính mắc vào một hình tướng đặc thù và cố gắng duy trì hình tướng đó là tâm thức chết, tâm thức của phản-Ki-tô.

Ôi Omega, Lửa Mẹ vũ trụ,
từ ngọn lửa thày con đã sinh ra.
Con gia nhập vào cuộc chơi hoàn vũ,
chiến thắng Ki-tô công bố gần xa.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.7. Con sẵn lòng bỏ đi ý niệm sự sống đứng yên để thăng vượt giai đoạn này và đạt được một ý niệm bản ngã lớn hơn. Qua tâm thức Ki-tô, qua sự thăng vượt liên tục, con ở trong dòng chảy của sự sống không bao giờ chấm dứt và do đó con có đời sống vĩnh cửu.

Ôi Omega, con nay hiểu thật
vì sao con xuống đầu thai trái đất.
Tim con ấp ủ ý định rõ ràng,
giúp hành tinh này cất cánh vượt thăng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.8. Vì con có tự nhận biết, trí tưởng tượng và quyền tự quyết, nên con là người mà con nghĩ con là. Thượng đế đã cho con quyền tạo ra bất cứ ý niệm bản sắc nào mà con muốn, nhưng Thượng đế không cho con quyền ở lại mãi mãi trong ý niệm bản sắc đó.

Ôi Omega, con khao khát quá,
gia nhập hợp xướng hoàn vũ hát ca.
Tim con bùng cháy ngọn lửa Ki-tô,
ngọn lửa thánh hóa hành tinh xô bồ.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.9. Con sẵn lòng tăng trưởng. Con mất đi một ý niệm bản sắc đặc thù, nhưng con duy trì ý niệm bản sắc liên tục thay đổi, độc lập với mọi hình tướng đã được tạo ra. Đây là ý niệm bản sắc thật của con, vượt lên trên mọi thứ trên thế gian này.

Ôi Omega, tim con rực lên,
đời con bước vào giai đoạn vươn lên.
Xin thày dạy con câu chú bí huyền,
con nâng địa cầu lên cõi thượng thiên.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3. Con hơn mọi ngã trong thế gian này

3.1. Đấng Sáng tạo vượt lên trên tạo vật của ngài. Như một người đồng-sáng tạo, con vượt lên trên tạo vật của con, vượt lên trên ngay cả thế giới hình tướng. Con là một nối dài của đấng Sáng tạo và do đó con hơn bất kỳ hình tướng nào mà con đã tạo ra trong thế giới này. Con hơn bất kỳ ý niệm bản sắc nào mà con đã tạo ra khi con ở trong tư duy tách biệt.

Ôi Omega, con nay thiền định
bên ngai của thày nơi cổng hoàn vũ.
Từ hình số tám, con sinh thanh tú,
Alpha và thày, từ đó con sinh.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.2. Thượng đế thương con vô điều kiện, và Thượng đế không chấp nhận để bất cứ điều kiện nào giữ con vĩnh viễn tách biệt khỏi ngài. Thượng đế sẽ không cho phép bất cứ điều kiện nào khiến con vĩnh viễn mắc kẹt vào trạng thái tách biệt, lúc nào cũng kém hơn sự trọn vẹn của đời sống dồi dào.

Ôi Omega, ở nơi linh thánh,
con giang tay ôm phụ mẫu vũ trụ.
Thật là hồng ân, con sao may mắn,
gia nhập cuộc đua hoàn vũ, con tu.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.3. Hoàn cảnh bên ngoài của con là kết quả của những chọn lựa mà con đã lấy trong quá khứ và đang lấy trong hiện tại. Hoàn cảnh bên ngoài của con là kết quả một hình tư tưởng mà con giữ trong tâm và phóng chiếu lên màn ảnh cuộc sống.

Omega, nơi Mặt trời Trung ương,
thày dạy sống là niềm vui hoàn vũ.
Con giành chiến thắng, tu là sung sướng,
bắt đầu về nhà, tiến bước trơn tru.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.4. Hoàn cảnh bên ngoài của con là kết quả của tâm con phóng chiếu một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Mỗi lúc con đều có cơ hội thay đổi hình ảnh con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Cách duy nhất để con cải thiện hoàn cảnh của con là con phải thay đổi hình ảnh trong tâm con.

Ôi Omega, nguyên lý của nữ
là cửa đi vào vô thỉ vô biên,
Đồng cảm với thày, âm này con giữ,
con nhận ra rồi bản sắc thiêng liêng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.5. Con thăng vượt trạng thái tê liệt tâm linh đang khiến tâm con, gồm trí tưởng tượng, quyền tự quyết và ý niệm bản sắc của con, bị mắc kẹt trong cùng một hình ảnh khô chết. Con biến những hình ảnh trong tâm con thành một cuộn phim, và con liên tục thăng vượt các hình tư tưởng của con.

Ôi Omega, trong dòng chảy đó,
Sứ vụ Thiêng liêng của mình con rõ.
Tim con giờ sáng như ngọn đèn đỏ,
tình thương chan hòa, mọi người con cho.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.6. Xuyên qua tâm thức Ki-tô, con nhận ánh sáng có tần số cao trực tiếp từ Hiện diện TA LÀ của con. Ánh sáng thuần khiết này khiến con có khả năng thăng vượt mọi giới hạn mà con đang đối mặt. Sự sáng tạo của con không cần nỗ lực vì chính ánh sáng làm công việc.

Ôi Omega, Lửa Mẹ vũ trụ,
từ ngọn lửa thày con đã sinh ra.
Con gia nhập vào cuộc chơi hoàn vũ,
chiến thắng Ki-tô công bố gần xa.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.7. Con thiết lập lại sự kết nối với Hiện diện TA LÀ của con và kết nối này là cốt lõi của tâm thức Ki-tô. Con khắc phục ý niệm tách biệt và thiết lập lại ý niệm hợp nhất với nguồn cội của con. Cuộc đời con không còn là một cuộc vật lộn nữa.

Ôi Omega, con nay hiểu thật
vì sao con xuống đầu thai trái đất.
Tim con ấp ủ ý định rõ ràng,
giúp hành tinh này cất cánh vượt thăng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.8. Uy lực của ánh sáng Thượng đế tuôn chảy xuyên qua tâm con và như thế Cha con có thể làm việc cho đến bây giờ và con cũng làm việc. Với Thượng đế mọi chuyện đều làm được và con nói cùng với Giê-su: “Ách của ta dễ chịu và gánh nặng của ta nhẹ nhàng”.

Ôi Omega, con khao khát quá,
gia nhập hợp xướng hoàn vũ hát ca.
Tim con bùng cháy ngọn lửa Ki-tô,
ngọn lửa thánh hóa hành tinh xô bồ.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.9. Mục đích của đời sống, định nghĩa đích thực của đời sống là thăng vượt liên tục. Con liên tục cập nhật và cải thiện các hình tư tưởng trong tâm con. Con trung tín trong một số việc nhỏ, và Thượng đế sẽ cho con cai quản nhiều ánh sáng hơn, sẽ cho phép con sáng tạo nhiều dồi dào hơn nữa và những hình tướng đẹp hơn và toàn hảo hơn nữa.

Ôi Omega, tim con rực lên,
đời con bước vào giai đoạn vươn lên.
Xin thày dạy con câu chú bí huyền,
con nâng địa cầu lên cõi thượng thiên.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4. Con biết vì sao con đã tới địa cầu

4.1. Trong tâm thức Ki-tô, con liên tục tăng trưởng, liên tục thăng vượt. Con toàn hảo giống như Cha con trên trời toàn hảo vì con liên tục trở nên hơn nữa giống như Thượng đế liên tục trở nên hơn nữa qua con.

Ôi Omega, con nay thiền định
bên ngai của thày nơi cổng hoàn vũ.
Từ hình số tám, con sinh thanh tú,
Alpha và thày, từ đó con sinh.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.2. Ngày hôm nay con chọn tùng phục ai. Con trở về tâm thức Ki-tô và đời sống vĩnh hằng của tâm thức Ki-tô. Con buông bỏ ý niệm bản sắc dựa trên tâm thức phản Ki-tô. Con cho nó chết đi.

Ôi Omega, ở nơi linh thánh,
con giang tay ôm phụ mẫu vũ trụ.
Thật là hồng ân, con sao may mắn,
gia nhập cuộc đua hoàn vũ, con tu.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.3. Dù con đã làm gì chăng nữa trong thế gian này, dù con đã đi xuống dưới tầng mức tâm thức Ki-tô bao xa chăng nữa, con vẫn có tiềm năng quay đầu lại và bắt đầu hành trình đi lên sẽ đưa con về với tâm thức Ki-tô.

Omega, nơi Mặt trời Trung ương,
thày dạy sống là niềm vui hoàn vũ.
Con giành chiến thắng, tu là sung sướng,
bắt đầu về nhà, tiến bước trơn tru.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.4. Con kết nối trở lại với niệm tinh khôi, là hình ảnh được giữ trong tâm của đấng Sáng tạo thuở ban đầu khi ngài sinh tạo dòng sống của con. Con chấp nhận cá thể thật của con, những món quà cá biệt mà đấng Sáng tạo đã ban cho con khi lần đầu tiên ngài hình thành ra con.

Ôi Omega, nguyên lý của nữ
là cửa đi vào vô thỉ vô biên,
Đồng cảm với thày, âm này con giữ,
con nhận ra rồi bản sắc thiêng liêng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.5. Con khôi phục lại ý niệm bản ngã, ý niệm bản sắc của con bằng cách một lần nữa hợp nhất với niệm tinh khôi. Con là cái con nghĩ con là, cho nên vì con hình dung và chấp nhận niệm tinh khôi, nên con niệm tinh khôi mà Thượng đế đã sinh tạo.

Ôi Omega, trong dòng chảy đó,
Sứ vụ Thiêng liêng của mình con rõ.
Tim con giờ sáng như ngọn đèn đỏ,
tình thương chan hòa, mọi người con cho.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.6. Con là một trong những sinh thể đã xuống đầu thai trên trái đất để nâng tâm thức mình lên tầng mức Ki-tô và qua đó phục vụ như những cánh cửa mở để đem niệm tinh khôi vào hiển thị vật lý trở lại.

Ôi Omega, Lửa Mẹ vũ trụ,
từ ngọn lửa thày con đã sinh ra.
Con gia nhập vào cuộc chơi hoàn vũ,
chiến thắng Ki-tô công bố gần xa.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.7. Con thăng vượt ảo tưởng của phản Ki-tô và con đặt viễn quan của con về trái đất thẳng hàng trở lại với niệm tinh khôi.

Ôi Omega, con nay hiểu thật
vì sao con xuống đầu thai trái đất.
Tim con ấp ủ ý định rõ ràng,
giúp hành tinh này cất cánh vượt thăng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.8. Ánh sáng Mẫu-vật sẽ hân hoan trình chiếu niệm tinh khôi này thay vì khái niệm hiện thời chịu ảnh hưởng quá lớn của tâm phản Ki-tô.

Ôi Omega, con khao khát quá,
gia nhập hợp xướng hoàn vũ hát ca.
Tim con bùng cháy ngọn lửa Ki-tô,
ngọn lửa thánh hóa hành tinh xô bồ.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.9. Con biết con đã xuống đầu thai trong lúc này vì con muốn trở thành một trong những sinh thể Ki-tô có thể giúp nâng trái đất khỏi những hạn chế hiện nay của nó và đem nó vào thời đại hoàng kim trong đó tất cả mọi người cùng chia sẻ cuộc sống dồi dào. Con đón nhận và đồng-sáng tạo sứ vụ này.

Ôi Omega, tim con rực lên,
đời con bước vào giai đoạn vươn lên.
Xin thày dạy con câu chú bí huyền,
con nâng địa cầu lên cõi thượng thiên.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Omega và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả những người trong vòng ảnh hưởng của con trong dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó con chấp nhận là chuyện này đã hoàn toàn thể hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói ra nó. Amen.

8| Con thỉnh cầu hài hòa tâm linh (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Mẹ Mary, hãy giúp con phân biện điều gì thẳng hàng với thực tại của Thượng đế và điều gì phát sinh từ tâm thức nhị nguyên. Xin các thày giúp con thăng vượt mọi chướng ngại đang ngăn cản khả năng thị hiện sự dồi dào của con, kể cả …

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con thăng vượt nhị nguyên

1.1. Con thăng vượt tâm thức nhị nguyên mà biểu tượng là trái cây của hiểu biết thiện và ác, nghĩa là thiện và ác tương đối.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.2. Con thăng vượt tâm thức dựa trên tự ngã muốn quy định khái niệm thiện và ác của chính mình, quy định “thực tại” của chính con.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.3. Con trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con và nó là thanh gậy hướng dẫn con biết điều gì hài hòa với quy luật của Thượng đế, lợi ích cho tổng thể và vững bền.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.4. Ngay đây con quyết định con muốn trở về với Thượng đế, nhận tội về những hành động của con và xin được tha thứ. Con tiết lộ tất cả cho Thượng đế.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.5. Thượng đế sẽ không tạo đời sống dồi dào cho con. Thượng đế muốn con đồng-sáng tạo đời sống dồi dào cho chính mình.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.6. Thượng đế muốn con biết rằng con đã tạo đời sống dồi dào với quyền năng nội tại của mình – quyền năng của Thượng đế trong con – và con đã làm chuyện đó bằng cách đứng thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.7. Con không còn muốn những giấc mơ và ngõ tắt rỗng tuếch nữa, con không còn muốn trải nghiệm đau đớn, thiếu thốn và khổ đau. Con đi trên con đường chân thật qua đó con thay đổi hoàn toàn tâm thức của mình, đem tâm thức mình thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.8. Dòng sống cá nhân của con hài hòa với toàn Thân thể của Thượng đế trên cả thiên đàng lẫn trần thế. Toàn thể vũ trụ vật chất và chính Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ vui mừng đáp ứng những mong muốn thật của con.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

1.9. Con chấp nhận sự dồi dào đến với con qua cách sử dụng cân bằng và hài hòa quyền năng sáng tạo mà Thượng đế đã phú cho con khi dòng sống của con bắt đầu hiện sinh.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2. Con đón nhận tâm thức Ki-tô

2.1.  Con không có mục đích đem lại của cải tạm thời trên trái đất. Mục đích của con là một sự thay đổi tâm thức thường trực. Con đem mình thẳng hàng trở lại với thiết kế nguyên thủy được lưu trữ trong tâm Thượng đế khi dòng sống của con được tạo sinh.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.2. Con là người con trai hay con gái thật của Thượng đế, được tạo sinh theo hình ảnh và giống như Thượng đế. Con dùng những quyền năng sáng tạo của con hoàn toàn hài hòa với tổng thể. Con khuếch đại dòng sống của chính mình và con khuếch đại kinh nghiệm sống của mọi sự sống trên trái đất.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.3. Con sử dụng quyền năng sáng tạo của mình một cách hài hòa với các quy luật của Thượng đế. Con đứng thẳng hàng một cách toàn hảo với mục đích của sự sống và những nguyên lý hướng dẫn của sự sống.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.4. Con trầm mình trong Dòng sông sự Sống, luôn tuôn chảy, luôn tăng trưởng. Con luôn luôn di chuyển cùng với Dòng sông sự Sống. Con luôn luôn thăng vượt chính mình, nhân các khả năng của mình và trở nên hơn nữa, qua đó con đem thêm dồi dào vào cuộc đời mình.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.5. Định nghĩa tâm linh thật của sự sống là con thăng vượt chính mình và trở nên hơn nữa. Con trải nghiệm cuộc sống dồi dào, con là một phần của dòng chảy dồi dào luôn luôn di động của Thượng đế, là Dòng sông sự Sống.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.6. Con được tạo ra như một sinh thể tự nhận biết với quyền năng sáng tạo giới hạn. Khi con nhân khả năng của con lên bằng cách đồng-sáng tạo một cách hài hòa với quy luật của Thượng đế, thì Thượng đế sẽ ban cho con quyền năng sáng tạo lớn hơn.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.7. Con có thể dần dần nâng khả năng sáng tạo và nhận biết của mình tới điểm con vĩnh viễn thăng lên khỏi vũ trụ vật chất và trở thành một sinh thể bất tử trên thế giới tâm linh.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.8.  Thượng đế đã thiết lập một cơ chế an toàn trong thiết kế vũ trụ, ấy là Ngôi Lời, hay là người con duy nhất được tạo sinh của Cha, cũng là tâm thức Ki-tô hoàn vũ.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

2.9. Con sáng tạo từ bên trong tạo vật mà đấng Thượng đế đã tạo ra. Con sáng tạo một cái gì bền vững qua trung gian của tâm thức Ki-tô.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3. Con chấp nhận tình thương của Thượng đế cho con

3.1. Tâm thức Ki-tô là một nhận biết về các quy luật của Thượng đế không bao giờ bị tha hóa. Tâm thức Ki-tô lúc nào cũng là một với Cha và các quy luật của Cha. Trong hợp nhất với Giê-su con nói: “Ta và Cha ta là một”.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.2. Con không phải là người hành động thật vì tự mình con không làm được gì. Con đồng-sáng tạo qua quyền năng của Thượng đế ở trong con và con tiếp cận quyền năng này xuyên qua tâm thức Ki-tô. Tâm thức Ki-tô là trạng thái tự nhiên của mọi dòng sống do Thượng đế tạo ra.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.3.  Người đang thực sự sáng tạo là phần cao hơn của bản thể của con, một cá thể hóa của Thượng đế, được tập trung thành Hiện diện TA LÀ. Hiện diện của con sáng tạo bằng cách sử dụng năng lượng và các quy luật của Thượng đế để tạo ra hình tướng.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.4. Khi một hình tướng được tạo ra trong sự hài hòa với các quy luật của đấng Sáng tạo, thì hình tướng đó thuộc Dòng sông sự Sống, có nghĩa là nó thuộc vào tiến trình tự thăng vượt không ngừng. Một hình tướng chỉ bền vững khi nó tự thăng vượt vì tăng trưởng là quy luật cơ bản của sự sáng tạo.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.5. Chính lực co thắt khiến hình tướng có thể được tạo ra. Nhưng nếu con dính mắc vào bất kỳ hình tướng nào, con bước ra ngoài Dòng sông sự Sống và rơi vào ảnh hưởng của lực sẽ đem Ánh sáng Mẫu-vật trở về trạng thái nền của nó.  

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.6.  Con ở trong tâm thức Ki-tô và con thấy mình là một với Tất cả. Con là một phần của Dòng sông sự Sống đang di động không ngừng và Dòng sông là toàn thể tạo vật của Thượng đế, là Bản thể của Thượng đế.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.7. Dòng sống của con, tâm thức của con, ý niệm bản sắc của con, không chỉ giới hạn vào thế giới vật chất này. Con vượt lên trên ý niệm bản sắc giới hạn của con. Con xây dựng một ý niệm bản sắc mới thẳng hàng với thiết kế thật của bản thể con.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.8. Con biết mục đích của con tới trái đất. Con đem mình đứng thẳng hàng trở lại với những ước muốn nguyên thủy của con, những ước muốn đã khiến con tới vũ trụ này.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

3.9. Thượng đế của con là một Thượng đế thương yêu. Tình thương nguyên thủy của Thượng đế cho con, được giữ trong tim Thượng đế, không bị giảm thiểu chút nào bởi bất kể điều gì con đã làm trên trái đất. Thượng đế thương yêu con y như lúc dòng sống của con được sinh tạo lúc ban đầu. Con chấp nhận tình thương vô điều kiện của Thượng đế cho con.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4. Con biết mục đích thật của con

4.1. Nơi đây con từ bỏ ý niệm bản sắc giới hạn của con. Con chấp nhận dồi dào của Thượng đế. Con trở lại vương quốc Thượng đế và con nhận cuộc sống dồi dào mà con được quyền có. Con tuân theo những nguyên lý sáng tạo của Thượng đế và con thể hiện sự dồi dào trong trải nghiệm sống của con.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.2. Con là một người đồng-sáng tạo có ý thức của Thượng đế, con biết mình là ai, con biết con từ đâu tới. Con thực thi những quyền năng sáng tạo của mình một cách có ý thức với mục đích khuếch đại toàn thể tạo vật của Thượng đế.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.3. Con đang đi con đường dẫn con trở về vương quốc của Cha ở bên trong con. Tâm thức của con là nơi con quyết định con sẽ trải nghiệm cuộc sống dồi dào của vương quốc Thượng đế hay con sẽ trải nghiệm cuộc sống không mấy dồi dào tạo ra bởi những người đã rơi vào tách biệt.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.4. Con vươn lên trên tất cả các giới hạn nhân phàm. Con bước ra ngoài sa mạc của giới hạn nhân phàm. Con đứng bên bờ Dòng sông sự Sống, dòng dồi dào luôn luôn tuôn chảy của Thượng đế.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.5. Con buông bỏ, con từ bỏ trạng thái tâm thức giới hạn dựa trên tách biệt và nhị nguyên. Con trầm mình vào Dòng sông sự Sống và con trở thành một với toàn thể tạo vật của Thượng đế.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.6. Con lấy lại cá tính thật của mình. Con từ bỏ cá tính giả có giới hạn mà con đã tạo dựng trong hành trình của con trên trái đất. Con là con trai hay con gái của Thượng đế và con đồng-sáng tạo vương quốc của Thượng đế ngay đây trên trái đất.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.7. Con khuếch đại cuộc sống của riêng mình và cuộc sống của tất cả mọi người khác. Hành tinh này được nâng lên và trải bày cùng một sự toàn hảo, cân bằng và hài hòa mà ta tìm thấy trên cõi tâm linh. Đây là ý nghĩa thật của câu đem lại vương quốc của Thượng đế trên trái đất.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.8. Con đã xuống trái đất với mục đích đặc trưng đem lại vương quốc của Thượng đế trên hành tinh này. Con tới đây vì con mong muốn đem lại vương quốc của Thượng đế trên trái đất.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo,
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

4.9. Con tới đây với lòng thương yêu muốn thấy Ánh sáng Mẫu-Vật được giải thoát khỏi những hình ảnh bất toàn mà sa nhân đã áp chồng lên nó. Ánh sáng Mẫu-vật được tự do trải bày sự toàn hảo và vẻ đẹp mà con biết là tiềm năng thật của nó.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin Mẹ tạo ra
bài ca gia tốc, tâm con êm ả,
Thượng đế vô biên, con tỏa tình thương
toàn hảo của Ngài, chúng sinh vui hưởng.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả những người trong vòng ảnh hưởng của con trong dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại điện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó con chấp nhận là chuyện này đã hoàn toàn thể hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói ra nó. Amen.

16 | Minh triết và Tự do

Bài giảng của chân sư thăng thiên Lanto qua trung gian Kim Michaels, ngày 16/3/2014.

Lanto TA LÀ, và TA LÀ tự do. Thày tự do vì thày biết thực tại.

Cấp khai ngộ thứ bảy tại khóa nhập thất ở Royal Teton hiển nhiên là về tự do. Tự do liên quan thế nào với minh triết? Có những người sẽ nói, con chỉ có thể tự do khi con có minh triết cao nhất, minh triết tối hậu. Có những người cũng sẽ nói, tự do chỉ đến được khi con chấp nhận minh triết cao nhất.

16.1. Tính không thực của các hệ thống tin tưởng nhị nguyên

Con có thể lấy gần như bất cứ hệ thống tin tưởng nào và con sẽ thấy là những người theo hệ thống đó một cách đường thẳng sẽ nói rằng những ai biết rõ hệ thống – những ai chấp nhận các học thuyết, giáo điều và minh triết của hệ thống – là người tự do. Mọi người khác đều đã làm nô lệ cho sự ngu dốt, cho ác quỷ hoặc bất kỳ kẻ thù nào mà hệ thống đã quy định. Quả thực là một kẻ thù, nhưng kẻ thù lại không thực. Kẻ thù đó không phải là kẻ mà hầu hết các hệ thống tin tưởng trên địa cầu gán ghép, tức là đối nghịch của điều thiện, đối nghịch của Thượng đế. Như các thày đã giảng dạy nhiều lần, tâm thức nhị nguyên tạo ra hai đối cực chỉ hiện hữu trong thế tương đối với nhau. Cả thiện lẫn ác được định nghĩa bởi hầu hết mọi hệ thống tin tưởng đều nảy ra từ cùng tâm thức nhị nguyên.

Ngay cả khi hệ thống tin tưởng gán cho điều thiện một cái nhãn gọi là Thượng đế, thì đó cũng không thực là Thượng đế – Thượng đế vô hình tướng, siêu việt – mà chỉ là một ông thần đã được hệ thống định nghĩa và phú cho một hình tướng. Tất nhiên, chính hệ thống cũng đã được quy định bởi những kẻ đã rơi vào tách biệt, nghĩa là hàng ngũ giả trá của các thày giả trên địa cầu. Họ đã dùng tâm thức nhị nguyên để định nghĩa một hệ thống, định nghĩa Thượng đế bên trong hệ thống, rồi nâng hệ thống đó lên vị thế thẩm quyền tối hậu bằng cách tuyên bố nó nắm giữ định nghĩa tối hậu về Thượng đế.

Bất cứ khi nào con nghĩ con có thể định nghĩa được Thượng đế bằng ngôn từ trên hành tinh địa cầu, thì con cũng chứng tỏ là con không có minh triết đích thực. Con chỉ có minh triết giả hiệu, tương đối, nhị nguyên, nơi con tạo ra hệ thống của riêng con để định nghĩa minh triết. Một hệ thống như vậy cống hiến một số lợi thế, đặc biệt cho những ai ở dưới tầng tâm thức 48. Nếu con muốn cảm thấy mình hơn trội người khác, nếu con muốn cảm thấy chỉ có nhóm mình sẽ được cứu rỗi và mọi người khác sẽ đều bị đày xuống địa ngục vĩnh viễn, thì quả là con cần một hệ thống như vậy. Nhưng khi con trở thành đệ tử của chân sư thăng thiên và đặt mục tiêu là leo từ tầng tâm thức 48 lên tới tầng 96, con không thể tiếp tục bám vào cái nhìn đó về minh triết, bám vào ý muốn định nghĩa một minh triết tối hậu nào đó. Con không thể tự do biểu đạt minh triết nếu con luôn luôn phải so sánh nó với một cái gì được định nghĩa bằng ngôn từ.

16.2. Là cánh cửa mở cho Tánh linh Minh triết 

Thày đã nói đâu là chìa khóa tối hậu để thật sự biết được minh triết? Đó là phải vượt khỏi mọi hệ thống ngôn từ trên địa cầu và – trong nội tâm mình – hòa điệu với Tánh linh của Minh triết. Khi con chưa chiêm nghiệm được tánh linh này – như cái Ta Biết làm được khi nó bước ra ngoài phin lọc nhận thức của tâm vỏ ngoài – thì con vẫn chưa biết được minh triết. Nếu con không biết minh triết, tại sao con lại muốn áp đặt lên người khác một cái gì chỉ có thể là một quan điểm giới hạn? Tại sao con lại muốn tự xưng làm quan tòa phán xét người khác?

Tất nhiên, con có thể tự xưng mình là quan tòa đó, nhưng khi đó con không thể thực sự là một đệ tử của chân sư thăng thiên. Con có thể tự xưng là một học trò của chân sư nắm giữ minh triết cao trội về một giáo lý nào đó của chân sư, nhưng con không là một đệ tử đích thực. Con là một trong số những đệ tử giả. Con chỉ sử dụng một giáo lý vỏ ngoài của chân sư được biểu đạt thành lời để xác nhận cái nhìn của con về con đường giả trá.

Tất nhiên, các thày không bị lừa đâu. Ai đó trên địa cầu có thể bị lừa. Chắc chắn các thày biết là có nhiều người tự xưng mình là đệ tử của các thày và đã tự lừa dối, cũng như đã lừa dối người khác, để mà tưởng rằng họ có minh triết cao trội nào đó của chân sư. Nếu con đang sử dụng minh triết của con làm vũ khí chống lại người khác, thì con chứng tỏ là con chỉ có minh triết vỏ ngoài. Con vẫn chưa áp chặt vào tánh linh, cho nên con không tự do. Làm sao con biết được bằng tâm vỏ ngoài Tánh linh Minh triết muốn biểu đạt như thế nào xuyên qua con trong một tình huống nhất định? Nếu mỗi khi minh triết được biểu đạt xuyên qua con, con luôn đòi hỏi là nó phải được so sánh với một hệ thống vỏ ngoài và phải tuân thủ hệ thống đó, thì con đâu cho tánh linh khoảng trống nào để mà biểu đạt?

Con có thể nói: “Nhưng tôi đã có một giáo lý của chân sư thăng thiên trao truyền qua một sứ giả được bảo trợ. Nhất định đó phải là một giáo lý có giá trị chứ.” Quả thực, chắc hẳn đó là một giáo lý giá trị. Nó có giá trị vào lúc được ban ra vì đó là một biểu đạt của Tánh linh Minh triết hay một tánh linh nào khác vào thời điểm đó. Nó cũng được ban ra cho một trình độ tâm thức nào đó. Rất có thể là nó vẫn có giá trị cho những ai ở mức tâm thức đó và thấp hơn, nhưng làm sao con biết được Tánh linh Minh triết sẽ quyết định, sẽ mong muốn, sẽ biểu đạt những gì ngày hôm nay, xuyên qua con hay một ai khác?

16.3. Các chân sư thăng thiên làm việc như thế nào với các tổ chức

Các thày thường xuyên nhìn thấy những người bảo mình là đệ tử của chân sư thăng thiên, tu tập theo một tổ chức hay một giáo lý của chân sư mà họ đang dùng làm giáo lý chủ yếu. Họ tin giáo lý đó là có giá trị. Thường khi, họ tin đó là giáo lý chân chính duy nhất, ít ra là cao nhất. Các đệ tử này thường bảo rằng những sứ giả đến sau tổ chức của họ không thể là sứ giả chân chính. Họ thường trích dẫn một lời dạy nào đó từ giáo lý trước, hay từ sứ giả trước, hay từ văn hóa bao quanh tổ chức trước, và bảo đó là lời dạy tối hậu vì sẽ không có gì đến sau.

Con yêu dấu, con nghĩ tại sao các thày – các chân sư thăng thiên – lại khởi sự bày tỏ trực tiếp khoảng một thế kỷ trước đây qua trung gian một số vị sứ giả? Con nghĩ tại sao các thày lại bỗng nhiên bước vào tầm chú ý của công chúng trong khi các thày vẫn ở ẩn trong các thế kỷ trước? Đó là vì có một định luật huyền bí không cho phép các thày xuất hiện dưới mắt công chúng khi tâm thức loài người chưa nâng tới mức cần thiết. Khi sự chuyển vọt này xảy ra và tâm thức được nâng đủ, các thày đã được Hội đồng Nhân quả cho phép biểu lộ một cách công khai, và các thày đã làm vậy ngay lập tức.

Những phản ứng đầu tiên mà các thày nhận được là gì? Đó là phản ứng từ tín đồ các tôn giáo chính thống, họ nói: “Nhưng tại sao các thày lại xuất hiện với lời tiết lộ mới mẻ khi mà kinh điển chúng tôi đã ghi ra mọi thứ là chân lý tối thượng rồi, đã chứa đựng tất cả mọi điều cần phải nói rồi?” Các thày đã nghe câu này từ tín đồ Cơ đốc giáo. Các thày đã nghe từ tín đồ Hồi giáo. Các thày đã nghe từ tín đồ Do thái giáo. Các thày đã nghe từ tín đồ Phật giáo, Ấn độ giáo, Lão giáo, và tất cả mọi môn phái trong các phong trào tâm linh. Tại sao các thày lại bắt đầu bày tỏ công khai vào thế kỷ thứ 19? Bởi vì các thày có nhiều điều hơn để nói cho nhân loại, các thày có một chương trình tiết lộ tuần tự, liên tục. Phải, các thày đã bảo trợ một số tổ chức và sứ giả. Và phải, các tổ chức và sứ giả này đã chính đáng khi họ còn truyền đạt lời tiết lộ tuần tự mới, nhưng rồi đợt truyền pháp đã phải ngừng lại vì lý do này hay lý do khác.

Có nghĩa chăng là các chân sư thăng thiên không còn gì để nói nữa? Các thày đã có những đệ tử của chân sư thăng thiên sử dụng cùng y chang cách lý luận như các tín đồ tôn giáo chính thống để đả phá vị sứ giả đến sau sứ giả của mình. Thế con có nghĩ các thày mong muốn đệ tử rơi vào cùng khung tư duy như các tín đồ chính thống hay cực chính thống kia hay không? Con có nghĩ là các thày muốn con đóng tâm mình lại đối với những tiết lộ tuần tự liên tục và cứ bám chặt vào một tổ chức hay một sứ giả nhất định? Không, các thày không muốn vậy. Các thày muốn con bước tới khi con sẵn sàng bước tới.

Điều này không có nghĩa là con phải bước tới ngay bây giờ. Một lần nữa, các thày không tìm cách lôi kéo mọi người đi theo giáo lý của chân sư thăng thiên, và cũng không tìm cách khiến ai nấy tu tập theo một lời dạy nhất định nào của chân sư, kể cả lời dạy này đây. Mà điều này có nghĩa là các thày muốn đệ tử của mình cởi mở với sự chỉ đạo từ bên trong mỗi người. Nếu con nhận được chỉ đạo là nên nhìn xa hơn một lời dạy vỏ ngoài, hay xem đến một lời dạy mới, các thày muốn con đi theo chỉ đạo nội tâm đó thay vì quyết định với tâm vỏ ngoài: “Ồ không thể nào, các thày không thể nào còn gì để nói thêm nữa vì chuyện này đã được giảng dạy trong giáo lý trước rồi.”

Khi con làm vậy, con đang không làm theo lời thày nói ở cuối bài giảng trước. Con đã không cho các thày làm thày, và con đã không chấp nhận mình làm trò. Con nghĩ con đã trở thành bậc thày có thể bảo chân sư phải nói gì hay không được nói gì, nói khi nào và nói cách nào. Đây không phải là một thái độ xây dựng nếu con muốn vươn lên khỏi mức tâm thức hiện tại của con. Đó chắc chắn không phải là một thái độ xây dựng nếu con muốn vươn lên cấp thứ bảy của Tia thứ Hai, thậm chí vượt lên trên và bước vào khai ngộ của Tia thứ Ba.

16.4. Tự do trong Tánh linh Minh triết

Để vươn lên cấp thứ bảy và vượt qua khai ngộ ở đó, con cần đạt được tự do về mặt minh triết. Điều này có nghĩa là, trước tiên, con tự do bước tới khi Tánh linh Minh triết đưa con đi tới. Con không sử dụng tâm vỏ ngoài hay một lời dạy vỏ ngoài nào đó để hạn chế, giới hạn, hạ thấp Tánh linh Minh triết. Khi con cảm thấy sự thúc đẩy nội tâm để bước tới thì con bước tới. Con liên tục tìm cách gia tăng sự hòa điệu của con với tánh linh. Đây là tự do, đây là điều mà các thày mong muốn nhìn thấy nơi đệ tử. Các thày không đang nói là con cần quyết định với tâm vỏ ngoài là mình sẽ bỏ lại một lời dạy trước và bước theo một lời dạy khác, mà thày nói là con cần vượt khỏi tâm vỏ ngoài, cần cảm nhận và biết được từ bên trong là tánh linh đang thúc đẩy con bước tới về đâu.

Tự do là một trong những khái niệm khó nắm bắt nhất, như thày Saint Germain đã giảng mấy lần. Tự do là thách đố tối hậu, ít ra cho tới khi con vượt qua khai ngộ của tầng 96. Tự do hoàn toàn tự do, thế nhưng tự ngã và hàng ngũ giả trá của những kẻ mạo danh muốn gì? Họ muốn tự do chỉ có thể tự do theo quy định của các điều kiện trên hành tinh. Tất nhiên điều này không đúng. Con sẽ không tự do thật sự cho tới khi con trở thành một với Tánh linh Minh triết, và con sẽ không trở thành một với tánh linh đó nếu con muốn ép uổng nó vào một khuôn khổ được thiết kế trên trái đất. Giản dị là tánh linh sẽ không tuân thủ, cũng như Tánh linh Minh triết sẽ không tuân thủ mọi nỗ lực của con nhằm ép uổng nó vào một khuôn khổ nhất định.

Khi con đến với khai ngộ của tia thứ bảy tại khóa nhập thất của thày, dĩ nhiên là con chưa đạt đến tầng tâm thức 96. Không ai chờ đợi con ở mức đó. Không ai chờ đợi con đã đạt tới tầng 144 và sẵn sàng thăng thiên. Nghĩa là không có cách chi con có thể nắm bắt được minh triết cao nhất. Bất kỳ giáo lý vỏ ngoài nào mà con đã chấp nhận ở điểm này là giáo lý mà con có khả năng nắm bắt ở mức tâm thức hiện thời của con, là giáo lý mà con đã phát hiện trong hoàn cảnh vỏ ngoài của con, chẳng hạn nền văn hóa và nơi con đã lớn lên. Đó là giáo lý tốt nhất cho con ngay lúc này, dựa trên trình độ tâm thức và hoàn cảnh vỏ ngoài của con. Các thày không hề mong muốn con tự ép mình từ bỏ một giáo lý nào đó hay ôm lấy một giáo lý khác.

Điều các thày thật sự mong muốn là con đạt được tự do để nhận đón giáo lý mà con hiện có, và sử dụng nó tốt nhất hầu tăng trưởng thêm nữa. Các thày mong muốn con tự do khi con tiếp nhận, học hỏi, thực hành và sống theo giáo lý mà con có, giáo lý đang hấp dẫn con trong hoàn cảnh hiện tại của mình cho dù giáo lý đó là gì – một giáo lý của chân sư thăng thiên, của một tôn giáo khác hay một giáo lý tâm linh nào khác. Ngay cả nếu con không theo một giáo lý nào, các thày cũng không bảo con nên ép mình tìm theo một giáo lý nào đó. Các thày muốn con cảm thấy mình tự do khi học hỏi, thể nhập và sống đúng với minh triết mà mình đang có. Con chỉ có thể thực sự tự do học hỏi, thể nhập và áp dụng một giáo lý nếu con không tìm cách ép buộc bản thân bằng tâm vỏ ngoài.

16.5. Thể nhập một giáo lý tâm linh nghĩa là gì 

Con có nhớ thày nói gì về bước nhảy lượng tử, là bước nhảy cần thiết trước khi chim con có thể bước ra khỏi tổ và cất cánh bay lên lần đầu? Nếu con cố gượng ép bằng tâm vỏ ngoài hầu tuân thủ một lời dạy hay một giáo điều, một bộ quy tắc hay ngay cả một phương pháp tu tập vỏ ngoài, thì con sẽ không tự do cho phép tánh linh đưa con đi tới. Điều này có nghĩa là con sẽ không thể thực sự thể nhập và áp dụng giáo lý mà con đang có. Nếu con thành thật nhìn vào các phong trào tâm linh và tôn giáo, đâu là một trong những vấn đề chủ yếu mà con thấy được? Chính là vấn đề rất nhiều người nói mà không làm được. Họ có một giáo lý, chẳng hạn họ biết là Giê-su đã dạy mình phải chìa má bên kia. Việc nhận giáo lý trong tâm vỏ ngoài là một chuyện, còn việc thực hành, sống đúng theo giáo lý trong những hoàn cảnh bất ngờ là chuyện khác. Nhiều người cảm thấy mình đã nắm chắc được một lời dạy và đã có thể sống theo lời dạy đó, nhưng khi một tình huống bất ngờ xảy đến, thì bỗng nhiên, họ không thể áp dụng lời dạy được nữa. Con để ý ở đây, thày đang không mỉa mai hoặc chê bai. Thày chỉ nói ra sự thể một cách thẳng thắn. Thày không lên án, và thày không nói ra để khơi lên trong con bất kỳ cảm giác thiếu sót hay tội lỗi nào. Thày nói ra vì thày mong con nhìn ra một cách ý thức là khi con không thể làm đúng theo lời nói, khi con không thể thực hành một lời dạy, đó là vì con chưa tự do để thể nhập được lời dạy. Con chưa tự do vì con còn cố dùng tâm vỏ ngoài để ép buộc tánh linh của con phải tuân thủ một giáo lý hay một bộ quy tắc vỏ ngoài.

Con thử suy ngẫm xem việc sống thực với một giáo lý tâm linh có nghĩa gì. Con có hai cách nhìn vấn đề này. Cách hầu hết mọi người đều dùng là định nghĩa một giáo lý vỏ ngoài, định nghĩa một bộ quy tắc hành xử, xong dùng tâm vỏ ngoài để tự ép mình phải tuân thủ các quy tắc đó. Họ cho rằng chỉ có việc định nghĩa, “Phải làm cái này, không được làm cái kia,” và nếu họ tuân thủ cách hành xử bên ngoài thì họ sẽ làm đúng theo lời nói, họ sẽ sống đúng theo lời dạy. Nhưng tại sao con lại cần một lời dạy vỏ ngoài chứ?

Là một người cởi mở với giáo lý của chân sư thăng thiên, con cũng cởi mở với khả năng là con có thể đạt tới điểm thăng thiên khỏi địa cầu. Như thày vừa giải thích, thăng thiên là bước nhảy lượng tử tối hậu khi con phải vứt bỏ mọi luật lệ, hạn chế, giới hạn và mọi điều tin tưởng từ trái đất. Con phải buông bỏ tất cả những thứ đó. Nếu con vẫn còn cố ép buộc mình phải áp dụng một bộ quy tắc vỏ ngoài, thì làm sao con có thể thăng thiên? Điều các thày cứ cố giảng và lặp đi lặp lại là thăng thiên là một tiến trình hợp nhất với tánh linh, nhưng làm sao con có thể hợp nhất qua trung gian tâm vỏ ngoài là cái tâm khởi lên từ tâm thức tách biệt? Làm sao con có thể giải quyết một vấn đề với cùng trạng thái tâm thức đã tạo ra vấn đề? Làm sao con có thể hợp nhất qua tâm thức tách biệt? Làm sao cái ngã sinh diệt, tự ngã, có thể đưa con lên trạng thái thăng thiên?

Đó là tại sao thày bảo rằng sự phát triển tâm linh không phải là một tiến trình đường thẳng. Không phải là chuyện định ra một bộ quy tắc xong phải sống gượng theo đó, mà là chuyện đạt đến một sự nhìn nhận nội tâm, một chứng ngộ nội tâm. Đâu là nhìn nhận nội tâm mà con cần đạt đến? Biết bao người tâm linh trên địa cầu tin là giáo lý đặc thù của họ đã định ra một bộ luật lệ quy định những điều kiện để xứng đáng vào được cõi tâm linh, vào được nước trời, vào được trạng thái thăng thiên hay bất kỳ cách định nghĩa nào của họ. Nhưng một giáo lý đích thực sẽ không nói vậy. Một giáo lý đích thực nói rằng khi con hợp nhất với tánh linh mà con là, con sẽ trong Nước Trời, bởi vì tánh linh đó chính Nước Trời, và Nước Trời là một trạng thái hợp nhất với tánh linh.

Tâm vỏ ngoài của con cho rằng chỉ có vấn đề mình cố sống theo luật lệ vỏ ngoài, nhưng kỳ thực, vấn đề là mình phải tự giải phóng khỏi giới hạn vỏ ngoài. Vấn đề là con cần nhận ra con chính là cái mà các thày gọi là cái Ta Biết, một sinh thể vô hình tướng. Con không hề được định nghĩa bởi bất kỳ hình tướng nào trên trái đất, và do đó con không phải sống theo bất kỳ hình tướng nào trên trái đất hầu bước vào Nước Trời. Con phải tách mình ra khỏi sự đồng hóa với mọi hình tướng và bước vào sự hợp nhất với tánh linh mà con thật là.

16.6. Làm thế nào sống thực với một giáo lý tâm linh 

Để sống đúng theo một lời dạy tâm linh, con cần những gì? Chẳng hạn, lấy lời của Giê-su dạy con chìa má bên kia. Làm thế nào con sẽ sống thực, sống đúng với lời dạy này và đáp lại mọi sự xảy ra trên địa cầu một cách bất bạo động? Con có thấy chăng là con không bao giờ có thể làm được qua ngã tách biệt? Ngã tách biệt là tách biệt, có nghĩa là nó cảm thấy bị đe dọa bởi những chuyện của thế gian. Nó bị những chuyện thế gian đe dọa vì nó là một thể sinh diệt, có khả năng bị thế gian làm hại. Nhưng Hiện diện TA LÀ của con hiện hữu nơi một cõi cao hơn. Nó không cảm thấy bị đe dọa bởi bất kỳ điều kiện nào trên điạ cầu vì nó biết rõ nó không thể bị những điều kiện này làm tổn thương. Hiện diện TA LÀ không có vấn đề gì sống thực với lời dạy chìa má bên kia. Nó sẽ chìa má bên kia như một cách thể hiện chính bản chất của nó.

Các thày đã ban ra lời dạy – và đây là một lời dạy rất quan trọng – rằng cái Ta Biết hiện hữu ở giữa Hiện diện TA LÀ và ngã vỏ ngoài. Câu hỏi thực sự ở đây là: Làm thế nào cái ta thật của con, cái Ta Biết, có thể sống thực với lời dạy chìa má kia? Liệu con có thể làm được bằng cách đồng hóa với ngã vỏ ngoài không? Không thể được, vì ngã vỏ ngoài không bao giờ sống thực được với lời dạy đó. Điều ngã vỏ ngoài có thể làm được là tạo ra một tâm ảnh, nói rằng: “Tôi không được làm một số hành vi bạo lực.” Xong con tự ép mình phải sống theo tâm ảnh đó bằng cách nhịn không có hành vi bạo lực, và con có thể làm vậy thành công nếu con không phải đương đầu với những điều kiện chấn động khiến con bị mất thế cân bằng của con.

Ví dụ, nhiều tín đồ đạo Cơ đốc có thể tỏ ra bất bạo động, ôn hòa và bình tĩnh miễn là họ ở trong tình huống mà họ cảm thấy hoàn toàn kiểm soát được. Nhưng thử đặt họ vào một tình huống chấn động, con sẽ thấy họ bắt đầu bị lung lay trong quyết tâm chìa má bên kia. Rất dễ xảy ra những tình huống khi họ không thể làm đúng theo lời nói được nữa, vì tình huống quá khác với những gì họ kiểm soát được. Tâm vỏ ngoài luôn tìm cách đạt được một điều gì đó qua sự kiểm soát, nhưng như các thày đã giảng, mọi chuyện con làm trên địa cầu đều trở thành xung năng lượng được phóng ra tấm gương vũ trụ và được tấm gương này phóng ngược trở về, nhân lên gấp mấy lần.

Chính do con tìm cách đạt được bất bạo động qua sự kiểm soát mà con đã gửi ra một xung năng lượng sẽ được tấm gương gửi trả về dưới hình thức những tình huống gay gắt hơn tình cảnh hiện thời của con. Chỉ là một vấn đề thời gian trước khi những gì được tấm gương phóng trở về sẽ gay gắt hơn khả năng kiểm soát bằng tâm vỏ ngoài, và con đánh rơi mất quyết tâm chìa má kia ra. Thế là con có hành vi bạo lực, và tất nhiên, tự ngã và hàng ngũ giả trá của những kẻ mạo danh sẽ đứng ngay ở đó, và giờ đây họ muốn con phải cảm thấy tội lỗi vì con đã không làm đúng những gì con nói. Thế là con bị rơi vào vòng xoắn ốc đi xuống cố hữu khi con cố tự biện minh và càng cố tự kiềm chế mình hơn nữa. Cuối cùng, tất cả biến thành một nỗi căng thẳng to lớn đến độ, không sớm thì muộn, con sẽ phải chịu thua và thốt lên: “Tôi không thể làm thế này được nữa.”

Các thày thà thấy đệ tử nhận ra là có một phương thức hay hơn, và phương thức hay hơn đó là nhận ra mình là cái Ta Biết. Con có sự chọn lựa rút mình ra khỏi sự đồng hóa với tâm vỏ ngoài, với ngã tách biệt. Thay vào đó, con có thể đi vào hợp nhất với Hiện diện TA LÀ. Giờ đây, con không bất bạo động do đã tự ép mình phải làm theo ý tưởng vỏ ngoài, mà do con cho phép Hiện diện biểu đạt xuyên qua con, và ngay trong bản chất của nó, Hiện diện vốn bất bạo động.

Đó chính là cách con làm đúng theo lời nói. Đó là cách sống thực với lời dạy, bằng cách cho phép cái Ta Biết tự tháo gỡ ra khỏi sự đồng hóa với ngã vỏ ngoài, và chuyển ý niệm bản sắc của mình vào sự đồng hóa với Hiện diện TA LÀ. Con đang trở thành cánh cửa mở để Hiện diện TA LÀ biểu đạt xuyên qua con, và đây thật là cách duy nhất để con làm đúng theo lời nói, cách duy nhất để hội nhập, thể nhập và thể hiện hoàn toàn một lời dạy tâm linh. Con không hề có ý muốn thể hiện giáo lý tâm linh vỏ ngoài.

Mục tiêu của con không phải là biết rõ và tuân thủ một bộ quy tắc vỏ ngoài. Mục tiêu của con là chỉ sử dụng giáo lý tâm linh như một cái thang để leo về hướng hợp nhất với tánh linh, rồi con cho phép tánh linh biểu lộ qua con.

16.7. Leo lên hợp nhất với tánh linh

Các thày thừa hiểu là ở cấp khai ngộ này, con chưa thể hoàn toàn làm được như vậy. Các thày không đòi hỏi điều đó nơi con. Điều các thày yêu cầu là con hãy xem xét những lời dạy này, ngay cả bằng tâm ý thức, và con thử nhìn xem con cần những gì để nhảy bước lượng tử trong nhận biết ý thức, hầu chuyển hẳn trọng tâm của mình ra khỏi việc tuân thủ giáo lý vỏ ngoài. Thay vào đó, con chuyển trọng tâm vào việc tìm kiếm trước tiên vương quốc Thượng đế, để tất cả mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con khi con tìm hợp nhất với tánh linh. Và con đặt điều đó làm mục tiêu vỏ ngoài, mục tiêu ý thức của con.

Thày cũng thừa hiểu là con không thể lập tức nhảy vào hợp nhất với tánh linh, nhưng khi con đến với cấp khai ngộ thứ bảy dưới Tia sáng thứ Hai, con có khả năng nhận ra minh triết cao hơn không phải là chuyện đem một giáo lý tâm linh ra áp dụng theo kiểu bao nhiêu người đã từng làm trong quá khứ. Minh triết cao hơn mà con có thể bước lên là nhận ra mục tiêu của một giáo lý tâm linh là nhập một với tánh linh đứng đằng sau giáo lý. Khi con đặt điều này làm mục tiêu của con, con sẽ tự do hơn rất nhiều. Con không phải ép mình tuân thủ một cách diễn giải đường thẳng về giáo lý vỏ ngoài cùng những quy tắc của nó. Con sẽ ngạc nhiên cảm thấy mình nhẹ nhõm hơn hẳn khi mình không còn phải cưỡng bức bản thân – không chỉ cách hành xử vỏ ngoài mà cả suy nghĩ lẫn cảm xúc của mình.

16.8. Khác biệt giữa giáo lý thực và giả

Có khi nào con lùi lại để tự kiểm điểm và nhìn xem mình đã sử dụng một giáo lý tâm linh để cưỡng ép ý tưởng, cảm xúc cùng cách hành xử của mình theo một số khuôn nếp do giáo lý ấn định? Liệu con đã cho phép mình cảm thấy độ căng thẳng mà chuyện này gây ra cho con? Thày biết rõ cái ngã vỏ ngoài, hàng ngũ giả trá của những kẻ mạo danh và nhiều người khác nữa sẽ nói gì về lời dạy này. Họ sẽ bảo: “Đây nhất định là lời dạy giả trá, vì chẳng phải giáo lý đã dạy rằng nếu bạn bền bỉ thực hành giáo lý thì chắc chắn bạn sẽ đạt được mục tiêu tối hậu hay sao?” Nhưng giáo lý có bảo vậy đâu – trừ khi đó là một giáo lý giả trá.

Một giáo lý đích thực của chân sư thăng thiên sẽ nói, nếu con bền bỉ và luôn luôn nỗ lực thăng vượt mức tâm thức hiện thời của con, thì con sẽ hội đủ tư cách để thăng thiên. Đây là tất cả những gì một giáo lý tâm linh đích thực có thể nói. Một giáo lý đích thực không thể hứa hẹn là bằng cách tuân theo luật lệ và nghi thức vỏ ngoài, hoặc tin vào một giáo lý vỏ ngoài, thì con sẽ tự động đủ tư cách thăng thiên. Một giáo lý đích thực chỉ có thể được ban ra từ cõi thăng thiên, và một sinh thể đã thăng thiên biết rõ con cần gì để thăng thiên. Sinh thể đó biết rõ là cuối cùng con sẽ phải thăng vượt mọi giáo lý vỏ ngoài, mọi hình ảnh cũng như mọi tin tưởng biểu đạt qua ngôn từ.

Con phải buông tất cả và đi vào hợp nhất với tánh linh không thể bị giam cầm trong ngôn ngữ. Tánh linh có thể biểu hiện qua ngôn từ, nhưng nó không thể bị giới hạn trong bất kỳ lời biểu đạt nào. Nó luôn luôn là nhiều hơn những gì có thể được biểu đạt, và con chỉ có thể hợp nhất với tánh linh bằng cách vươn tới cái nhiều hơn đó vượt khỏi ngôn từ. Khi con tập trung chú ý vào ngôn từ, trên cơ bản con đang nói với tánh linh: “Hãy để mặc cho tôi yên, vì tôi muốn cảm thấy cao trội khi tôi làm theo giáo lý vỏ ngoài này.” Con có toàn quyền lấy quyết định đó. Thày chỉ có thể bênh vực cho quyền của con, nhưng thày cũng cần nói là khi làm vậy, con đã đánh mất Tánh linh Minh triết mà TA LÀ.

Con không thể là đệ tử của thày nếu con chối bỏ tánh linh mà TA LÀ. TA LÀ Lanto. Thày là Thượng sư của Tia sáng thứ Hai. Thày có thể biểu đạt qua ngôn từ như thày đã làm qua quyển sách này. TA LÀ bên trong ngôn từ, nhưng thày cũng là nhiều hơn ngôn từ. Nếu con cho là con có thể cầm quyển sách này và tìm hiểu nó, rồi tìm hiểu và tìm hiểu nó thêm nữa, rồi thực hành các dụng cụ, rồi sẽ hợp nhất với tánh linh, thì con lầm rồi. Con chỉ đến được hợp nhất với thày bằng cách thăng vượt giáo lý và dụng cụ vỏ ngoài. Con sử dụng giáo lý và dụng cụ để hòa điệu với tánh linh. Điều mà biết bao người sùng đạo đã làm suốt các thời đại là dựng lên một giáo lý vỏ ngoài, tôn nó lên là cao siêu, xong tìm cách ép uổng Thượng đế – họ cưỡng ép tánh linh – phải tuân theo và đồng thời cũng xác nhận giáo lý vỏ ngoài đó. Một lần nữa, đây lại là cái ngã tách biệt muốn áp đặt mọi thứ. Con nghĩ xem tự ngã và ngã tách biệt có bao nhiêu xác suất cưỡng ép được tánh linh vào trong một khuôn đúc? Trên địa cầu quả là có rất, rất nhiều người tin vào những lời dối trá do sa nhân lan truyền bảo rằng tánh linh có thể bị bắt buộc phải tuân thủ. Từ rất lâu, các sa nhân đã tin rằng một ngày nào đó, chúng sẽ có khả năng tạo ra áp lực to lớn đến độ chính Thượng đế cũng phải tuân theo định nghĩa của chúng về Thượng đế.

Khi con đến cấp thứ bảy tại khoá nhập thất ở Royal Teton, con cũng đạt đến điểm nhảy được một bước lượng tử và chiêm nghiệm được sự sai lầm của cái nhìn đó. Con có khả năng nhìn ra là Tánh linh Minh triết sẽ không bao giờ tuân thủ một giáo lý vỏ ngoài biểu đạt qua lời nói. Nó sẽ luôn luôn là nhiều hơn, và con sẽ chỉ biết được tánh linh bằng cách vượt qua ngôn từ và nhập một với tánh linh. Điều này con có khả năng biết được. Con có khả năng biết được trong tâm ý thức, và khi con biết, con có thể tự do.

Bất kể giáo lý mà con đang áp dụng ở mức hiện thời của con là gì, con hãy đón nhận nó. Hãy học hỏi, thực hành, nhưng trước tiên hết, con hãy nỗ lực thể nhập nó, nỗ lực sử dụng giáo lý vỏ ngoài để với tới tánh linh vượt khỏi giáo lý. Nếu con chịu làm vậy, bất cứ giáo lý vỏ ngoài nào cũng sẽ đưa con lên cao hơn. Nó sẽ đưa con đến điểm cao nhất trên đường tu mà nó có thể. Rồi sau đó nếu con vẫn nỗ lực hợp nhất với tánh linh, con sẽ nhận được sự chỉ đạo nội tâm cho con biết con nên đi về đâu tiếp theo sau, có thể là một giáo lý vỏ ngoài nào khác, hoặc cũng có thể là con sẵn sàng đi sâu vào bên trong và thiết lập mối liên hệ trực tiếp với cái Ta Ki-tô của con, Hiện diện TA LÀ của con cùng các chân sư thăng thiên.

16.9. Phối hợp bước đường thẳng với bước nhảy lượng tử

Tại khóa nhập thất Royal Teton, thày đã thiết lập một căn phòng đặc biệt để đón nhận các đệ tử đã bắt đầu nắm bắt khai ngộ của cấp thứ bảy. Thày sẽ không đưa họ vào trước khi họ thực sự nắm bắt được khai ngộ này, mà chỉ sau đó. Như một phần thưởng, thày sẽ dẫn họ vào căn phòng và cho họ thấy hành tinh địa cầu có thể được chiêm ngưỡng như một tấm thảm tuyệt đẹp đến chừng nào. Nó gần giống như một tấm bản đồ, và nó cho con thấy có một mục tiêu mà con cần đạt đến. Mục tiêu này gần giống như một ngọn núi, và tấm thảm cho con thấy có nhiều con đường khác nhau dẫn đến núi. Nó cũng cho thấy không có đường nào dẫn thẳng đến núi, vì mỗi con đường đều có một số chặng nhất định nơi con phải vượt qua một vực sâu, một ranh giới nào đó.

Trên hầu hết cuộc hành trình, con sẽ đi bộ, nhưng có một số điểm con không thể vượt qua bờ bên kia bằng đường bộ. Có thể là một con sông, hay một hẻm núi thật sâu. Có thể là một đầm lầy hay một khu rừng rậm. Nhưng con không thể đi bộ mà vượt qua được. Con phải tìm cách khác. Con phải nhảy một bước lượng tử, như thày đã chỉ. Con có thể tiến khá xa bằng cách đi bộ, nhưng nếu con gặp một con sông, đi bộ mãi sẽ không giúp con đâu. Con cần một phương tiện vận chuyển khác. Con cần một con thuyền, hay khi con tới hẻm núi, có thể con sẽ cần một cây cầu hay một sợi dây để mà lướt qua.

Ý của thày là ở mức này, đệ tử có thể thấy được là đường tu không phải là một hành trình thuần đường thẳng, mà là sự phối hợp của những bước đường thẳng với những bước nhảy lượng tử. Có những lúc con đi bộ qua một loạt những bước đường thẳng, nhưng cũng sẽ có lúc con phải nhảy lượng tử để sang được bờ bên kia. Nếu con không nhảy lượng tử mà cứ đi bộ mãi, cuối cùng con sẽ chỉ đi lòng vòng mà thôi, như con cũng dư biết người nào đi bộ trong sa mạc mà không có cột mốc cũng sẽ đi lòng vòng như vậy.

Khi đệ tử nhìn thấy tấm thảm, họ thường vô cùng hứng khởi. Họ thấy được vẻ đẹp sâu xa của con đường tâm linh. Họ thấy được đằng sau tất cả mọi điều kiện mà mình đã phải đối mặt, có một hành trình tuyệt vời dẫn mọi người trở về nhà. Có nhiều đệ tử đã phải đương đầu với nhiều tình cảnh vô cùng gian khó trong đời sống vỏ ngoài của mình, nhưng khi họ đến được mức này của khóa nhập thất, thày có thể chỉ cho họ thấy là cho dù hoàn cảnh của họ có thể xấu xa, ô trọc, đáng ghét đến đâu đi nữa, thì tất cả vẫn có thể được biến thành những viên đá lót đường để giúp họ tiến bước. Tất cả mọi hoàn cảnh đều có thể được sử dụng để đẩy con lên cao hơn khi con thăng vượt hoàn cảnh vỏ ngoài và chạm được tánh linh đằng sau.

Tánh linh luôn luôn đứng đằng sau mọi thứ. Lời gian dối của ngã vỏ ngoài và các thày giả là bảo rằng có những điều kiện trên địa cầu xấu xa, nhục nhã, hèn hạ, vô nhân và phản tâm linh đến độ con không thể nào tìm được tánh linh trong đó. Về mặt minh triết, hàng ngũ giả trá sẽ muốn con tin rằng con phải tuân thủ một lời biểu đạt vỏ ngoài của minh triết, và do đó, con không bao giờ có thể chạm được Tánh linh Minh triết. Tất cả những gì con cần là minh triết vỏ ngoài, và nó sẽ đưa con tới điểm đích cuối cùng. Khi con nhìn ra đó chỉ là một ngõ cụt và không có chút thực thể nào, con tự do nhận đón minh triết dưới một dạng cụ thể, nhưng con cũng nhận ra mục tiêu thực sự là chạm được tánh linh. Cho dù hoàn cảnh vỏ ngoài, hay dạng vỏ ngoài của biểu đạt minh triết có là gì đi nữa, thì mục tiêu thật sự vẫn là chạm được minh triết.

16.10. Bước tới khai ngộ của Tia thứ Ba 

Một khi con nhận ra điều này, con sẽ tự do xuôi chảy với Tánh linh Minh triết. Sau đó, thày sẽ đưa con vào một cuộc hành trình nơi con sẽ, trong một khoảng thời gian, chiêm nghiệm cảm giác mình đang xuôi chảy với Tánh linh Minh triết. Hành trình sẽ không dài lắm, vì mục đích không chỉ để tận hưởng cuộc xuôi chảy với minh triết, mà thực sự là để vượt qua vực sâu sẽ dẫn con từ khai ngộ của Tia thứ Hai đến khai ngộ của Tia thứ Ba cùng với vị bào huynh yêu dấu của thày, Paul người Venice, đang chờ đón con tại Chateau de Liberty. Sau đó thày Paul sẽ đưa con qua các khai ngộ, bảy cấp khai ngộ dưới Tia thứ Ba của Tình thương Thượng đế.

Thật là một niềm vui rất lớn cho thày khi một đệ tử đã sẵn sàng. Con có thể nghĩ là thày sẽ muốn giữ lại trong tu viện của thày những đệ tử nào đã vượt qua mọi cấp khai ngộ. Đó là cách suy nghĩ của người phàm phu. Tâm phàm phu sẽ cho rằng mục đích của thày, chân sư của Tia thứ Hai, là nâng học viên qua tất cả các khai ngộ trong khóa nhập thất của thày để sau đó được tận hưởng thành quả công khó của mình. Thày sẽ muốn phô trương những học trò giỏi nhất của mình và cảm thấy tự hào là mình đã dẫn họ đi xa đến chừng này. Đó là điều mà một thày giả sẽ làm, nhưng thày không là một thày giả. Thày là chân sư.

Mục đích duy nhất của thày khi dạy dỗ một học trò là đưa học trò đó tới mức xa nhất trong trách vụ của thày, và sau đó giúp người đó bước đi tiếp lên mức khai ngộ kế tiếp. Không phải khi nhìn thấy học trò vượt qua mức khai ngộ tối hậu mà thày có được niềm vui và lòng thỏa nguyện cao nhất, mà là được thấy người đó tiếp tục bước tới, rồi được Paul người Venice chào đón ở bên kia. Đó chính là niềm vui tột cùng của thày. Thày cũng biết là sau khi con đạt đến tầng khai ngộ thứ 96, con sẽ dễ dàng trở về với thày nếu con muốn thế, nhưng thày không có nhu cầu và cũng không có mong muốn sở hữu bất cứ ai hay bất cứ gì, bởi vì thày tự do.

Thày không xuôi chảy cùng với Tánh linh Minh triết, vì TA LÀ Tánh linh Minh triết. Điều này nghe có vẻ là một sự phân biệt vô nghĩa ở mức tâm thức hiện thời của con, nhưng trước khi con thăng thiên khỏi địa cầu này, con sẽ hiểu được ý nghĩa đầy đủ của câu thày vừa nói. Con sẽ nhận ra là chính con cũng Tánh linh Minh triết cũng như tánh linh của cả sáu đức tính kia của Thượng đế. Thậm chí con sẽ biết con là một tánh linh vượt khỏi các tia sáng nhưng một sự phối hợp của tất cả các tia sáng – và con còn là hơn thế nữa, bởi vì tia sáng thì có hình tướng, nhưng tánh linh thì vượt khỏi hình tướng.

Và chính thày cũng là thế, cho dù thày khoác vào một hình dạng nào đó để con có một cái gì mà nắm lấy ở mức tâm thức hiện thời của con. Nhưng con hãy đừng nghĩ thày có thể bị giới hạn trong hình tướng mà thày đã khoác lấy. Mặc dù thày không phải là Chân sư MORE, nhưng thày là một chân sư, và TA LÀ nhiều hơn (more). TA LÀ Lanto, Chủ tể của Tia sáng thứ Hai. Nhưng thày là nhiều hơn Thượng sư, vì thày là tánh linh không thể diễn tả thành lời. Khi nào con biết được, ngộ được, rằng con cũng không thể diễn tả được thành lời, thì con sẽ biết thày.

14 | Minh triết và An bình

Bài giảng của chân sư thăng thiên Lanto qua trung gian Kim Michaels, ngày 15/3/2014.

TA LÀ chân sư thăng thiên Lanto. Thày đến để giảng dạy về những khai ngộ mà con đối mặt ở cấp học thứ sáu dưới Tia sáng thứ Hai của Minh triết Thượng đế. Cấp thứ sáu tương ứng với Tia sáng thứ Sáu, thường được gọi là tia sáng của an bình hay tia sáng của phụng sự. Làm sao con có thể phụng sự đích thực nếu con không phụng sự trong tâm an bình? Và làm sao con có thể an bình nếu con không có minh triết để biết được điều gì là thực và điều gì không thực, điều gì quan trọng và điều gì không quan trọng?

Thày đã nói trong các bài giảng trước về niềm tin tưởng quá phổ biến trên địa cầu cho rằng phải có một minh triết cao trội hay tối hậu, một chân lý tuyệt đối nào đó. Khi con nhìn khái niệm minh triết từ tâm nhị nguyên, là tâm dựa trên sự tách rời khỏi duy nhất, thì con chỉ có thể nhìn minh triết một cách mà thôi. Con xem minh triết như cái tạo ra sự phân chia, vì con nghĩ minh triết thật đứng riêng khỏi minh triết giả, minh triết cao siêu đứng riêng khỏi minh triết thấp kém, minh triết tuyệt đối đứng riêng khỏi minh triết tương đối. Tuy nhiên, sự thật là bất cứ gì được biểu đạt bằng ngôn từ đều là minh triết tương đối. Điều này nghĩa là gì?

14.1. Khai ngộ thứ sáu dưới Tia thứ Hai

Điều các thày cố cho học viên thấy ở cấp thứ sáu của khóa nhập thất của thày là một minh triết dưới dạng ngôn từ – bất kỳ dạng ngôn từ nào – sẽ không đưa con đến trạng thái thăng thiên. Thày có nói là các thày cho hiện lên trên một màn ảnh những gì xảy ra ở mức năng lượng. Ở cấp khai ngộ thứ sáu, các thày mời các học viên vào thư viện để họ chọn ra quyển sách mà họ xem là minh triết cao trội nhất, hoặc ít ra, một dạng minh triết chân chính và có giá trị. Khi họ trở về với một quyển sách hay một bộ kinh, các thày cho họ xem điều gì xảy ra ở mức năng lượng nếu họ sử dụng những lời biểu đạt đó về minh triết.

Các thày có thể cho họ thấy là đường tu giống như một cầu thang hình xoắn ốc. Các thày cho họ thấy ngay lúc này họ đang đứng ở điểm nào trên cầu thang. Các thày cho thấy con đường ánh sáng dẫn họ lên cao cho đến tầng thứ 144. Xong các thày cho thấy là cách biểu đạt minh triết mà họ đã chọn có thể đưa họ lên cao hơn trên cầu thang, nhưng chỉ tới một tầng nào đó thôi. Các thày cho thấy là khi họ tới tầng đó, tiến bộ của họ sẽ ngừng lại như thế nào, và từ điểm đó trở đi, những năng lượng tuôn chảy qua bản thể của họ không thể chuyển thành những bước tiến xa hơn trên đường tu được nữa.

Lý do đơn giản là giờ đây họ đã đạt tới mức cao nhất mà lời dạy cụ thể đó đã được ban ra cho mức đó. Con không thể nào lên cao hơn bằng cách bám níu lấy giáo lý vỏ ngoài và cứ khăng khăng muốn cho ánh sáng chảy xuống từ Hiện diện TA LÀ của con phải xác nhận và chiều theo giáo lý vỏ ngoài. Hiện diện TA LÀ luôn luôn tận tụy muốn con tăng trưởng lên cao chót vót cho tới khi con thăng thiên, và cả sau đó nữa. Một khi con đã đạt tới mức tăng trưởng tối đa có thể đạt được với giáo lý đó, Hiện diện TA LÀ sẽ trao cho con cả ánh sáng lẫn những ý tưởng vượt lên trên giáo lý.

Điều này không có nghĩa là con nhất thiết phải vứt bỏ giáo lý đó đi, nhưng con phải sẵn lòng để cho Hiện diện TA LÀ của con dẫn con vượt xa hơn giáo lý. Điều này có thể đòi hỏi con phải tìm một giáo lý được ban ra cho một mức tâm thức cao hơn. Có thể sẽ cần thiết là con không có giáo lý, hoặc tạm thời không có giáo lý trong một thời gian. Thậm chí cũng có thể là con sẽ giữ lại một giáo lý nào đó và tiếp tục sử dụng làm nền tảng, nhưng Hiện diện TA LÀ sẽ đưa con đi xa hơn hầu con có thể phát triển một tầm hiểu sâu sắc hơn những gì được giáo lý đó biểu đạt qua ngôn từ.

Hiện diện TA LÀ sẽ chỉ có thể đưa con lên cao hơn nếu con sẵn sàng tra vấn giáo lý. Nếu con không sẵn sàng làm vậy, nếu con không sẵn sàng nhìn xa hơn, Hiện diện TA LÀ sẽ tiếp tục gửi ánh sáng xuống cho con, nhưng giờ đây ánh sáng sẽ trở thành một yếu tố làm xáo trộn sự an bình và cân bằng nội tâm của con. Nó sẽ làm xáo trộn ý niệm mà con đã tạo dựng, là ý niệm rằng mình sẽ được cứu rỗi vì mình tuân thủ giáo lý cao nhất. Có một áp lực bên trong sẽ không ngừng dâng lên, và con sẽ làm một trong hai điều: hoặc con sẽ thăng vượt giáo lý vỏ ngoài – hay ít ra thăng vượt cách tiếp cận giáo lý vỏ ngoài – hoặc con sẽ làm y như con thấy quá nhiều tín đồ các tôn giáo đã làm trên địa cầu, là biến giáo lý vỏ ngoài đó thành một vũ khí để hạ thấp người khác và nâng cao chính mình.

14.2. Hãy thăng vượt chứ đừng bám víu ngôn từ

Con sẽ thấy nhiều người nhảy vào trò chơi nhị nguyên khi họ tìm cách xác lập giáo lý của mình, xác lập tôn giáo, triết lý chính trị hay triết lý khoa học của mình là cao trội. Họ rơi vào tình trạng giao tranh với người khác. Họ tin chắc, bởi vì họ nắm giữ chân lý vượt trội, rằng họ phải đập tan những chân lý giả trá kia, họ phải khiến cho người khác tuân thủ. Mong muốn thay đổi một cái gì bên ngoài mình không là gì khác hơn một lớp ngụy trang. Con sẽ không thăng thiên được cho dù con có khiến cho toàn thể nhân loại trên địa cầu đi theo một hệ thống tín ngưỡng nhất định.

Lý do thật đơn giản. Con sẽ chỉ đạt được trạng thái thăng thiên bằng cách đi xa hơn bất kỳ mọi cách biểu đạt nào trên địa cầu – bất kể lời dạy mà con nắm là lời nói của Thượng đế hay một bài truyền giảng của chân sư thăng thiên được diễn đạt qua một sứ giả được bảo trợ. Như thày đã có nói, một khi lời dạy được biểu đạt bằng ngôn từ, nó hết là Tánh linh Hằng sống của Minh triết. Con sẽ không thăng thiên bằng cách bám vào một lời biểu đạt. Con sẽ thăng thiên bằng cách thăng vượt ngôn từ và trở thành một với tánh linh. Trước hết, con trở thành một với tánh linh đằng sau mỗi tia trong bảy tia sáng. Sau đó con trở thành một với Hiện diện TA LÀ, là tánh linh cá nhân của con.

Các thày có thể cho thấy trên màn ảnh điều gì xảy ra cho năng lượng khi nó bám mắc vào một giáo lý vỏ ngoài. Con hãy lưu ý một sự khác biệt tinh tế. Có một giai đọan khi việc tuân thủ một giáo lý vỏ ngoài sẽ giúp con tăng trưởng, giúp con bước lên cao hơn trên cầu thang xoắn ốc. Nhưng cũng sẽ tới một điểm khi giáo lý vỏ ngoài không thể đưa con lên cao hơn cho dù giáo lý vỏ ngoài đó là gì. Con có hiểu điều thày đang nói không? Con có nắm được điều này với sự tỉnh giác vỏ ngoài, với tâm ý thức của con hay không? Thày có thể cam đoan với con là nhiều đệ tử cảm thấy rất khó khăn nắm được điều này, ngay cả trong nhập thất của các thày khi tâm vỏ ngoài của học viên không đến nỗi bị tô màu. Thật quan trọng con nắm bắt được điều này với tâm vỏ ngoài của con.

Không có lời đạy nào bằng ngôn từ tương ứng với tầng tâm thức 144. Không có lời dạy nào bằng ngôn từ tương ứng với tầng 143 hay 142. Đến một điểm – và thày sẽ không nói là điểm nào – con đạt tới một mức tâm thức mà từ đó trở đi, không một lời giáo lý nào có thể đưa con lên cao hơn. Ở điểm đó, con phải đi xa hơn ngôn từ và bắt liên lạc trực tiếp với tánh linh đằng sau lời giáo lý. Nếu con không thiết lập được mối liên lạc này, con sẽ không thể lên cao hơn. Điều này là để đảm bảo con không thể đi xa hơn một tầng nào đó mà vẫn duy trì một số yếu tố của tâm thức tách biệt, là tâm thức nhị nguyên, là mong muốn hạ thấp người khác hầu năng cao chính mình.

Khi một đệ tử nắm được thực tế này, một gánh nặng rất lớn được trút bỏ khỏi vai người đó. Bỗng nhiên con cảm thấy một niềm an bình bao la, vì giờ đây con biết mình không còn phải đi tranh đua với những hệ thống tín ngưỡng khác nữa. Đệ tử hiểu ra là trên địa cầu có nhiều hệ thống tín ngưỡng có khả năng đưa con lên những tầng tâm thức cao hơn, và dù con có đi theo cái nào trong số những hệ thống chính đáng đó thì thật sự không quan trọng lắm, miễn là con vẫn tăng trưởng. Con không thể dùng tâm vỏ ngoài của con – ít ra cho tới khi con đạt một mức tâm thức rất cao – để phán đoán người khác là họ có đang tăng trưởng hay không, hay họ nên đi theo giáo lý vỏ ngoài nào.

14.3. Con không thể cưỡng ép hợp nhất 

Con hãy nhìn một cách trung thực những phong trào tâm linh mà con đã tìm thấy và đã tham gia. Con thử nhìn xem có bao nhiêu trong số đó có một ý thức độc quyền là họ có giáo lý cao nhất hay vị đạo sư cao nhất, và họ cần đi cải đạo thế giới theo quan điểm của mình. Con thử nhìn xem con người bị căng thẳng như thế nào khi rơi vào tư duy đó. Một đằng, nó mang lại cho tự ngã một cảm giác cao trội rất lớn do mình là môn đồ của tín ngưỡng tối thượng, nhưng đằng khác, nó lại đặt mình vào thế xung đột liên tục với những ai không ở trong giáo lý đó.

Điều gì xảy ra khi con thấy mình trong thế xung đột với người khác? Con không thể hợp nhất với họ, phải không con? Mà mục đích của đường tu là gì? Đó là với lên khía cạnh Alpha của hợp nhất với Hiện diện TA LÀ, hợp nhất với tánh linh, và sau đó con với ra theo chiều ngang để cố thiết lập sự hợp nhất với người khác.

Làm sao con có thể hợp nhất với người khác nếu con cố ép họ phải bước vào một giáo lý nào đó? Điều này không thể làm được. Sự hợp nhất không thể cưỡng ép. Đó là trạng thái tự nhiên xảy ra khi con vươn lên cao hơn tâm thức dùng vũ lực, và con quyết định một cách ý thức bước vào hợp nhất. Con không thể lấy được quyết định này khi con còn tìm cách ép buộc người khác, hay thậm chí ép buộc chính con. Các thày muốn cho học viên thấy rằng khi con nghĩ là có một dạng minh triết cao trội hơn, thì không những con đang tìm cách ép buộc người khác mà thật ra con cũng ép buộc chính con. Con phải cố gượng sống theo giáo lý vỏ ngoài đó. Con phải tuân thủ giáo lý vỏ ngoài một cách đường thẳng, thường khi theo nghĩa đen của từng chữ. Và đây là điểm chúng ta có thêm một lằn ranh chia cắt. Con sẽ không lên được cấp khai ngộ thứ bảy tại khóa nhập thất của thày cho tới khi con vượt qua khai ngộ này.

Chúng ta đã bàn về một con đường tu tâm linh. Chúng ta đã bàn tới việc con bước đi trên đường tu từ một mức tâm thức nào đó, ngày càng cao hơn cho đến khi con đạt mức cao nhất và có thể thăng thiên. Chúng ta đã so sánh đường tu như một cầu thang xoắn ốc, và con biết rất rõ là với một cầu thang xoắn ốc, con có thể đi lên bằng cách bước lên từng bực một. Đây là một tiến trình vô cùng đường thẳng. Con đang ở bực này, con nhấc một chân và đặt nó lên bực kế tiếp. Xong con nhấc chân kia và kéo nó lên, và bây giờ con đang đứng ở bực cao hơn. Xong con làm lại y hệt và con đứng ở một bực cao hơn nữa. Con có thể tiếp tục làm vậy với từng bực cho tới khi con lên tới bực cao nhất của cầu thang. Con đường khai ngộ là một loạt những bực đường thẳng như vậy, nhưng con không vượt qua cuộc khai ngộ mà mỗi bực thang tượng trưng bằng cách ở trong trạng thái tâm thức đường thẳng. Con chỉ khai ngộ bằng cách vượt khỏi dạng tư duy đường thẳng, vượt khỏi tâm đường thẳng.

14.4. Bước nhảy lượng tử trong tâm thức 

Hẳn con đã nghe nói về khái niệm bước nhảy lượng tử. Bước nhảy lượng tử là gì? Đó là một bước chuyển hóa từ trạng thái này sang trạng thái tiếp theo. Có thể nói một con ấu trùng tự biến thành một cái kén, rồi sau một thời gian nó tự biến thành một con bướm. Nếu con nhìn con ấu trùng, con không thể nói là có một sự tiến triển đường thẳng từ giai đọan ấu trùng sang giai đoạn kén, cũng như không có tiến triển đường thẳng từ kén thành bướm. Sự tiến hóa của kén thành bướm không phải là một tiến trình lôgíc, đường thẳng và cần thiết. Đó là một bước nhảy lượng tử từ kén thành bướm. Con thử nhìn một tổ chim và thấy một quả trứng trong đó. Con có thể làm như khoa học đã làm là quan sát phôi chim lớn lên như thế nào trong trứng. Phôi ngày càng lớn và phát triển đầy đủ hơn cho tới ngày nó mổ vỏ trứng chui ra, và bây giờ nó bước đi như một con chim con thay vì là cái phôi trong trứng. Nhìn từ bên trong, đây không phải là một tiến triển đường thẳng. Chim con phải làm một bước nhảy lượng tử trong tâm thức hầu có thể đập vỡ vỏ trứng và bước ra giai đọan kế tiếp.

Con nhìn vào tổ chim và thấy chim con ngày càng lớn hơn. Nó mọc thêm lông và cũng mọc cánh dài hơn. Con nhìn chim con ngồi vỗ cánh trong tổ, nhưng một con chim con ngồi vỗ cánh trong tổ không phải là một con chim bay. Nó cần gì để bay? Nó cần nhảy một bước nhảy lượng tử trong tâm thức, và từ giây phút nó rời tổ, nó không còn là một con chim chưa thành mà là một con chim đã thành.

Các thày đang cố giúp con bước đi trên đường khai ngộ bằng cách mô tả con đường này là một sự tiến triển đường thẳng từ mức tâm thức thấp lên mức cao hơn. Các thày cố dắt tay học viên, dẫn qua các khai ngộ, đưa ra các bài tập và trao truyền các lời dạy minh triết để đưa người đó đến một điểm sẵn sàng vượt qua khai ngộ và vươn lên mức tâm thức kế tiếp.

Mặc dù các thày cố đưa con đi lên một cách tuần tự, con không thể thực sự di chuyển từ mức này sang mức kế tiếp trong một tiến trình đường thẳng. Mỗi lần con đã sẵn sàng ở một mức và có tiềm năng bước lên mức sau, con phải nhảy một bước lượng tử trong tâm thức. Các thày có giảng trước đây là con phải để cho ý niệm cái ta mà con đang có ở mức đó chết đi. Trong một khoảnh khắc vượt ngoài thời gian, con không còn ý niệm cố định về cái ta, rồi sau đó con được tái sinh trong một ý niệm cao hơn về cái ta. Hầu hết mọi người đều không ý thức được điều này trong tâm thức tỉnh giấc của mình, nhưng con đã trải qua nhiều lần trong đời mình rồi. Rất nhiều khúc ngoặt quan trọng trong đời sống là những biến cố khi con nhảy một bước lượng tử trong tâm thức. Hầu hết đều không nhận thức điều này với tâm ý thức. Họ thực hiện bước chuyển hóa mà không ý thức là ý niệm cái ta cũ đã chết đi và họ đã tái sinh trong một ý niệm cái ta mới. Đó là bởi vì tâm con tạo ra một cảm nhận liên tục.

Chúng ta có thể nói rằng cảm nhận liên tục này là khía cạnh cơ bản, cốt lõi của tự ngã. Chúng ta có thể nói rằng khi con đạt đến tầng thứ 144, cuộc khai ngộ mà con đối mặt ở đó là con phải buông bỏ mọi cảm nhận liên tục thì con mới thăng thiên. Cuộc thăng thiên không phải là một tiến triển đường thẳng từ trạng thái tâm thức chưa thăng thiên, mà là một bước nhảy lượng tử vượt lên khỏi nó. Đây là bước nhảy vọt lượng tử tối hậu mà con có thể thực hiện trong vũ trụ vật chất, và đó là tại sao các thày đang cố đưa con đi qua 144 bực nhảy lượng tử nhỏ hơn để chuẩn bị cho con nhảy bước tối hậu. Ở cấp thứ sáu này, con cần nhảy một bước lượng tử, vì con nhận ra là hoặc minh triết có thể giúp con tăng trưởng, hoặc nó có thể trở thành cái bẫy tối hậu sẽ cản trở sự tăng trưởng của con.

14.5. Vượt qua sự phán xét giá trị để đạt an bình 

Đức Phật đã trả lời như thế nào khi có người nhìn thày tĩnh tọa Niết bàn và hỏi: “Thày là gì?” Ý họ muốn hỏi: “Thày là một người hay một vị thần?” Đức Phật trả lời ra sao? Thày không bảo thày là một người, thày không bảo thày không phải là một người. Thày không bảo thày là một vị thần, thày cũng không bảo thày không là một vị thần. Thày trả lời: “Ta tỉnh thức”. Con để ý những gì mà thày cũng không bảo. Thày không bảo: “Ta là một người đạo Phật” và cũng không bảo: “Ta là một vị Phật.” Thày đang cố truyền đạt điều gì khi nói: “Ta tỉnh thức”? Thày cố truyền đạt là thày đã đi vượt xa khỏi trạng thái tâm thức cần đến một nhãn hiệu cho mọi thứ. Đây là chìa khóa của an bình.

Khi con nhìn cuộc sống qua tâm thức nhị nguyên và tách biệt, con phải dán nhãn cho mọi thứ mà con nhìn thấy, mọi thứ đang xảy ra. Điều này thật là tự nhiên. Tự thân nó không có gì sai trái, bởi vì đây là cách thức con tăng trưởng từ tầng tâm thức này đến tầng sau. Con đang nhận ra là cho tới giờ con có một điều tin tưởng nào đó. Con nhận ra là có một giai đoạn cao hơn tin tưởng đó, và con quyết định buông bỏ cái cũ và ôm lấy cái cao hơn.

Điều mà tự ngã và thày giả cố làm là khiến cho con bỏ thêm vào tiến trình dán nhãn đó một sự phán xét giá trị. Tự ngã nói: “Cái này thiện, cái kia ác, Cái này tối thượng, cái kia tệ mạt.” Nếu con nói: “Cái này trắng và cái kia đen,” thì con đang dán nhãn. Con đang phân biệt giữa hai hình tướng, nhưng bảo trắng hay đen không phải là bảo tốt hay xấu. Băng tuyết trắng, than đá đen. Có nghĩa lý gì chăng nếu bảo than là ác và tuyết là thiện? Tuyết trắng có thể làm chết người trong khi than đen có thể đốt lên để sưởi ấm và cứu mạng sống.

Các thày muốn chỉ ra cho con thấy là ở mức này, điều hoàn toàn có thể chấp nhận được là con lấy một câu nói minh triết hay một giáo lý vỏ ngoài, và nhận nó là cỗ xe mà mình đã chọn làm phương tiện tăng trưởng. Tuy nhiên, điều không chấp nhận được ở mức này là con giữ lấy sự phán xét về giá trị và bảo rằng giáo lý này hay hơn mọi giáo lý khác, và con phải tiếp tục bám lấy nó cho tới cuối đường tu.

Có lẽ con hiểu được bằng tâm vỏ ngoài một sáng ngộ vô cùng thâm sâu? Các thày đã từng thấy nhiều học trò tìm được một giáo lý mà các thày đã ban ra trong hơn thế kỷ qua, qua đó các thày tiết lộ công khai về sự hiện diện của mình là chân sư thăng thiên. Các thày đã nhìn họ tìm thấy một lời dạy cụ thể được truyền đạt qua một sứ giả hay một tổ chức cụ thể, và các thày thấy họ lý luận rằng giờ đây chắc hẳn mình đã tìm ra giáo lý tối hậu. Các giáo lý mà các thày đã ban ra đều có giá trị. Tuy mức độ thuần khiết có khác nhau và được nhắm tới những trình độ tâm thức khác nhau, nhưng giáo lý có giá trị và hiện vẫn còn giá trị.

Nhưng nhiều đệ tử lý luận đó không chỉ là một giáo lý giá trị, mà là giáo lý tối hậu, và vì vậy mọi người phải cải đạo sang giáo lý đó. Họ cho rằng mục đích của các thày, các chân sư thăng thiên, thực sự là cải đạo mọi người trên địa cầu để ai ai cũng ý thức đi theo giáo lý của chân sư. Điều này hoàn toàn không đúng.

Cũng có những học trò tin rằng chỉ có những ai đã, với tâm ý thức, chấp nhận sự hiện hữu và giáo lý vỏ ngoài của chân sư thăng thiên thì mới được phép đến dự khóa nhập thất của các thày về đêm. Tại khóa nhập thất nơi đây ở Royal Teton ngay trong lúc này, thày có học viên đến từ khắp mọi nơi trên thế giới, mọi nền văn hóa, mọi tôn giáo, trong số đó có cả nhiều người không theo một tôn giáo công truyền nào. Thày có học trò là người theo thuyết bất khả tri (agnostic), người vô thần hay người duy vật trong tâm vỏ ngoài của họ.

Các thày là chân sư thăng thiên, không quyết định công việc của mình dựa trên tín ngưỡng và hành vi vỏ ngoài của học trò. Các thày nhìn vào các điều kiện nội tâm của dòng sống và lượng định từ đó: Liệu dòng sống có sẵn sàng cho cuộc khai ngộ mà thày, Lanto, cống hiến ở cấp thứ nhất tại khóa nhập thất Royal Teton hay không? Nếu được vậy, học viên sẽ được chào đón nhập học trong thể vi tế của mình. Và khi họ đến đây, thày không có ý là họ luôn luôn phải cần công nhận sự hiện hữu của chân sư thăng thiên, hoặc một giáo lý hay một tổ chức vỏ ngoài nào đặc biệt, rồi phải tuân thủ giáo lý đó hay gia nhập tổ chức đó.

Các thày có nhiều học viên nhập thất đang đi theo đường tu tâm linh, nhưng ở cấp này nếu học viên đến từ một nền văn hóa, một tôn giáo hay một hệ thống tín ngưỡng bên ngoài – hay họ là người vô tôn giáo, vô tín ngưỡng – thì điều này hoàn toàn chấp nhận được. Miễn là học viên đi theo con đường khai ngộ thì rất có thể người đó sẽ biểu lộ được tiến bộ của mình, mức tâm thức cao hơn của mình, qua rất nhiều nền văn hóa hay tín ngưỡng bên ngoài khác nhau.

14.6. Để đạt an bình, đừng cố cải đạo người khác 

Đây là một thực tế có thể rất khó chấp nhận cho các học trò của chân sư thăng thiên, đặc biệt là trong tâm ý thức. Khi con chấp nhận nó rồi thì con sẽ thấy mình trút bỏ được một gánh nặng to lớn. Con sẽ nhận ra là quả thực con đã bị mắc kẹt trong ý tưởng là mình phải cải đạo người khác, do ý tưởng đó đã dựng lên một khoảng cách giữa con và người khác và tạo ra một sự căng thẳng. Con là người cảm thấy sự căng thẳng này nhiều hơn người kia có thể cảm được, vì tất nhiên, con trải nghiệm nó ở bên trong tâm con, và con yêu dấu, tâm chính là nơi căng thẳng được tìm thấy. Người kia cũng có thể bị căng thẳng, nhưng căng thẳng của họ nằm trong tâm họ. Tăng trưởng của con trên đường tu không tùy thuộc vào họ có vượt qua được căng thẳng của họ hay không, mà tùy thuộc vào con có vượt qua được căng thẳng nội tâm của chính con hay không.

Điều con cần làm ở cấp này, cấp thứ sáu của Tia thứ Hai, là con cần nhận biết sự căng thẳng, xong con cần nỗ lực buông nó ra một cách ý thức. Khi con buông căng thẳng đó ra, con sẽ dễ dàng hơn để thể hiện con người mà con là, và trình bày niềm tin cùng hiểu biết tâm linh của con. Con không làm chuyện đó với mục đích cải đạo người kia hay chứng minh là họ sai. Con chia sẻ những gì con tin, những sáng ngộ mà con đạt được, và tại sao và làm thế nào con đã đạt được những sáng ngộ đó. Con chia sẻ với mục đích chia sẻ, chứ không phải với mục đích cải đạo hay cưỡng ép. Con không tìm cách hạ thấp, dãn nhãn hay phán xét giá trị của niềm tin người kia. Con chỉ chia sẻ niềm tin của con, và con có thể làm vậy trong tình thương, niềm vui và nhiệt tình – là cách tốt nhất sẽ chuyển hóa người khác.

Làm sao con có thể an bình được nếu con nghĩ là con phải cải đạo người khác theo dạng minh triết cao trội của con? Làm sao con có thể an bình nếu con nghĩ con chỉ đạt được mục tiêu đó qua cách tiếp cận dựa trên sợ hãi, hay bằng cách xé nát tín ngưỡng của họ, khiến họ tin rằng tín ngưỡng của họ sai lầm và sẽ đẩy họ xuống địa ngục? Làm sao con có thể hợp nhất với người khác nếu con tin là họ sẽ bị xuống địa ngục trừ khi họ chấp nhận quan điểm của con, cách biểu đạt vỏ ngoài của con về minh triết? Con chỉ có thể hợp nhất với người khác khi con hợp nhất với Tánh linh của Minh triết. Con giúp người khác hợp nhất với Tánh linh của Minh triết thay vì cố buộc họ phải tuân theo một cách biểu đạt vỏ ngoài về minh triết.

Điều rất đúng là khi đức Phật đưa ra câu nói: “Ta tỉnh thức”, thày biết rõ là nhiều người trên địa cầu sẽ không coi đó là lời gì quan trọng. Họ sẽ không nhận ra là họ đang không tỉnh thức. Họ không muốn thức dậy. Họ muốn ở mãi trong trạng thái không tỉnh thức vì đó là trải nghiệm mà họ muốn có. Đức Phật không có mục đích cải đạo tất cả mọi người trên trái đất để họ đi theo một minh triết hay một tôn giáo vỏ ngoài. Thày biết rõ là chỉ có một số mới hiểu được.

Con cũng nên biết như vậy. Con không phải cải đạo hay thuyết phục tất cả mọi người. Con không phải hợp nhất với tất cả mọi người, bởi vì rất nhiều người vẫn còn bám mắc vào tâm thức tách biệt đến độ họ không muốn đụng tới chuyện hòa nhập với con hay với bất kỳ ai khác. Con chỉ cần chia sẻ sự Hiện diện của con, bản thể của con, minh tríết và sáng ngộ của con, rồi tìm cách hợp nhất với những ai hiểu được, những ai biết trân quý, vì chính họ cũng đã đi đến một số sáng ngộ giống như con.

14.7. Hãy an bình với mức tâm thức hiện thời của mình 

Đừng lo đến chuyện cải đạo người khác theo một giáo lý hay một tổ chức vỏ ngoài của chân sư thăng thiên. Con hãy nỗ lực một cách ý thức để từ bỏ tin tưởng đó đi và tự cho phép mình là người mà mình là, tự cho phép mình an bình và biết rằng khi mình là người mà mình là thì cũng đủ lắm rồi. Tất cả những gì con cần phải làm ở cấp này của đường tu là chia sẻ con người mà con là. Tất nhiên, con vẫn có ý tiếp tục vươn lên cao hơn và cao hơn nữa, nhưng con không thể, khi con đến với cấp khai ngộ thứ sáu của Tia thứ Hai, bước lên cấp kế tiếp cho đến khi con an bình với nơi con đang đứng và chia sẻ sáng ngộ của mình ở mức tâm thức đó – và chỉ cần vậy là đủ. 

Chắc con nghĩ là thày đang tự mâu thuẫn, ít ra là tâm vỏ ngoài của con đang nghĩ như vậy. Con nghĩ thày đang bảo con tiếp tục vươn lên cao hơn trong tâm thức, và con nghĩ điều này nghĩa là con không thể thỏa mãn với nơi mình đang đứng và xem đó là đủ. Dĩ nhiên, con nghĩ đúng. Con không thể vươn lên cao hơn nếu con không mong muốn nhiều hơn những gì con đã có, cao hơn mức tâm thức nơi con đang đứng. Thày đã nói gì về bước nhảy lượng tử?

Cấp khai ngộ thứ bảy không phải là một tiến triển đường thẳng từ cấp thứ sáu, mà là một bước nhảy lượng tử vọt lên trên. Con sẽ không thể nhảy bước lượng tử đó cho tới khi con làm hòa với sự kiện mình đang đứng ở cấp thứ sáu, là khai ngộ của an bình. Con sẽ không thể vươn lên cấp thứ bảy cho tới khi con an bình với minh triết mà mình đang có và không tìm cách sử dụng nó với vũ lực để tạo ra xung đột.

Con sẽ bước lên cấp thứ bảy khi con buông bỏ mong muốn áp đặt lên người khác một cách biểu đạt nhất định về minh triết, và như vậy con tự giải phóng để được bình an trong minh triết mà mình đang có. Khi con bình an trong minh triết mà con có, con cũng bình an với việc từ bỏ minh triết đó. Con có thể nhìn thày, Lanto, nhìn thẳng vào mắt thày và nói: “Thưa chân sư, con muốn nhiều hơn. Con muốn mức khai ngộ kế tiếp, nhưng con an bình nơi con đang đứng, và con để cho thày quyết định xem khi nào con sẵn sàng.”

Khi con quyết định là con sẽ để cho thày quyết định thay vì tự phán đoán chính mình với tâm vỏ ngoài, thì con đã sẵn sàng đi bước kế tiếp. Khi nào con còn chưa sẵn lòng để cho thày làm thày và con làm đệ tử, thì con vẫn chưa sẵn sàng. Con có thể ngồi trên bờ tổ chim vẫy cánh với tất cả sức bình sinh nhưng con sẽ không bay bổng lên được. Con sẽ không có bình an nội tâm để biết được là khi mình tự đẩy mình ra khỏi tổ chim, đôi cánh sẽ có thể giữ mình bay bổng trên không trung.

Lanto TA LÀ, và TA LÀ sự an bình trong minh triết mà TA LÀ.

12 | Minh triết và Viễn quan

Bài giảng của chân sư thăng thiên Lanto qua trung gian Kim Michaels, ngày 14/3/2014.

TA LÀ chân sư thăng thiên Lanto. Thày đến để giảng về những khai ngộ mà con đi qua ở cấp khai ngộ thứ năm tại khóa nhập thất Royal Teton. Dĩ nhiên, đây là mức của Tia sáng thứ Năm, thường được gọi là tia của sự thật, tia chữa lành hay tia của viễn kiến. Điều thày muốn con biết đến ở đây là có một yếu tố của Tia thứ Năm nói chung chưa được biết đến, ngay cả đối với học trò của các chân sư thăng thiên.

12.1. Luân xa Mắt thứ ba 

Tất nhiên, Tia thứ Năm có liên hệ đến cái gọi là con Mắt thứ ba ở điểm giữa hai lông mày. Người ta bảo khi luân xa này được linh hoạt, con đạt được khả năng nhìn thấy những thứ mà mắt vật lý không thể thấy. Nhiều người tâm linh đã nghe kể chuyện có người đã mở được mắt thứ ba và nhìn được hào quang cùng một số hiện tượng khác. Nhiều người còn cho rằng khả năng này rất đáng thu hoạch và là một chỉ dấu thành tựu tâm linh. Kỳ thực, có thể đó không là chỉ dấu thành tựu tâm linh chút nào, như con thấy rõ nơi rất nhiều người gọi là ngoại cảm trên thế giới. Họ có thể có một số khả năng bắt sóng được một cái gì đó vượt khỏi cõi vật chất, nhưng họ thường không đủ trưởng thành tâm linh để biết được cách sử dụng như thế nào.  

Có một yếu tố của Tia thứ Năm, tia của viễn kiến tâm linh, mà ít người biết đến. Tất nhiên con biết rõ từ bản thân cũng như từ kinh nghiệm, có bao người trên thế giới vô cùng gắn bó với khái niệm chân lý. Như thày đã có giảng, người ta thường cho rằng có một cách diễn đạt minh triết, một hệ tư tưởng hay một hệ thống tín ngưỡng là chân lý cao trội, hay minh triết cao trội. Có nhiều học trò của chân sư thăng thiên bị quá dính mắc vào một giáo lý vỏ ngoài đến độ họ không thể theo kịp các thày khi các thày cứ tiếp tục rải truyền Lời Hằng sống, là dòng chảy liên tục sẽ không bao giờ ngừng lại cho đến khi con người cuối cùng thăng thiên khỏi trái đất.

12.2. Giấc mơ công thức bí mật 

Khi học viên đến cấp khai ngộ thứ năm tại khóa nhập thất của thày, họ thường nghĩ giờ đây chỉ có việc đi vào thư viện của các thày và phát hiện quyển sách bí mật chứa đựng một công thức bí mật sẽ bỗng nhiên trao cho họ những khả năng siêu phàm đó. Con nhìn xem có bao nhiêu người trên thế giới cứ chạy đuổi theo hũ vàng ở cuối cầu vồng. Một số đuổi theo hũ vàng trong nghĩa đen dưới hình dạng của cải vật chất, nhưng con nhìn xem có bao nhiêu người tầm đạo cũng đuổi theo một hũ vàng theo nghĩa ẩn dụ khi họ cố giành được một loại kiến thức, hay một công thức, hay một khả năng nào đó vượt khỏi bình thường. Đây là một trở ngại to lớn cho các đệ tử trên đường tu tâm linh mà không sớm thì muộn con cần phải lột bỏ. Vậy thì tại sao con không lột bỏ nó ngay tại đây ở khóa nhập thất của thày tại Royal Teton?

Các thày hoàn toàn có khả năng giúp con đạt được minh triết sẽ cho phép con bác bỏ cuộc săn đuổi khả năng siêu phàm mà tự ngã đã bày ra. Thày đã nói gì về tự ngã? Nó tìm kiếm sự an toàn tối hậu. Nếu bỗng nhiên con có được một loại công thức hay khả năng siêu nhân nào đó, thì có phải là nó sẽ cho con và tự ngã của con một cảm giác an toàn? Thế nhưng nếu con đạt được khả năng đó và nó cho tự ngã con một cảm giác an toàn, thì liệu con sẽ thực sự tinh tiến tâm linh hay không? Ngược lại là đằng khác, nó sẽ cản trở bước tiến tâm linh của con và dẫn con vào ngõ cụt.

Các thày có nhiều học trò đến khóa nhập thất đã lạc vào một ngõ cụt như vậy, hoặc là họ đã thu hoạch một kiến thức hay khả năng nào đó, hoặc là họ mơ ước làm được chuyện đó. Và họ đến, tưởng rằng các thày sẽ giúp họ có được khả năng siêu phàm. Và dĩ nhiên, họ cũng nghĩ là chân lý có thể được diễn tả bằng ngôn từ, và phải có cách tìm ra một lời biểu đạt là chân lý tuyệt đối. Tại khóa nhập thất Royal Teton, các thày có một thư viện chứa đựng tất cả mọi giáo lý tâm linh đã từng được truyền giảng trên trái đất. Nó cũng hao hao như Thư viện Alexandria danh tiếng thuở trước nhưng rộng lớn hơn nhiều. Thư viện của các thày trở ngược về những nền văn minh từ lâu đã bị lãng quên. Con hẳn có nghe nói tới thời Atlantis và Lemuria, nhưng thư viện của các thày đi ngược trở về tới những nền văn minh chưa từng bao giờ có tên.

Khi có ai tìm kiếm chân lý cách đó, tìm kiếm chân lý tối hậu được biểu đạt qua lời nói, các thày đưa họ vào thư viện đó và bảo họ: “Vào đây, con hãy bỏ ra bao nhiêu thì giờ cũng được để tìm ra chân lý đó, và khi nào con tìm thấy điều gì, con cho các thày biết nhé.”  Họ háo hức nhảy vào thư viện. Lúc đầu, họ vô cùng hào hứng, gần như bị choáng ngợp bởi lượng sách trong thư viện, vì thật sự có hàng triệu quyển trong đó. Họ chọn ra một vài quyển và đọc ngấu nghiến. Họ vô cùng phấn khích, tưởng rằng mình đã tìm ra một biểu đạt rất cao của chân lý.

Nhưng rồi họ tìm ra một quyển khác hình như cũng có thẩm quyền rất lớn, một chiều sâu và minh triết cũng tuyệt vời, và họ lại đọc. Cứ thế hết cuốn này tới cuốn khác, dù ít hay nhiều đến đâu thì cũng sẽ tới điểm họ bắt đầu nhận ra là có quá nhiều cách khác nhau để biểu đạt chân lý, đều có vẻ có giá trị, đều có vẻ thẩm quyền, nhưng tất cả đều khác nhau một chút và có khi thì khác nhau rất nhiều.

Lần hồi học viên bị dồn tới chỗ bực dọc khi họ không biết phải tin cái nào. Có lẽ chính con cũng nhận diện được trạng thái này trong đời con, hay ít ra nơi nhiều người trên thế giới đã đi theo thuyết bất khả tri (agnosticism) do cuộc chiến không giải quyết được giữa khoa học và tôn giáo. Họ không biết phải tin vào gì nữa, hay họ tin là chẳng có chân lý nào tối hậu. Liệu thày có đang bảo là các thày muốn học trò của chân sư thăng thiên đi theo thuyết bất khả tri hay chăng? Không phải trong nghĩa phàm phu, nhưng các thày mong muốn con đạt tới điểm nhận ra, như thày đã có đề cập, rằng không một câu nào bằng ngôn từ có thể là chân lý tối hậu.

12.3. Con nhìn thấy gì khi mở mắt thứ ba   

Đó là một nhận thức hoàn toàn cơ yếu trên đường tu. Vậy con sẽ làm gì đây? Khi một học viên đạt tới điểm thất vọng này, các thày có thể nhập cuộc và giúp người đó. Tại sao các thày lại để cho họ đạt tới cao điểm thất vọng đó? Bởi vì khi họ mới đến nhập thất, họ tin chắc nình nịch là phải có một chân lý tuyệt đối, và họ không sẵn sàng lắng nghe khi các thày bảo họ là chuyện đó không phải. Họ cần phải trải nghiệm tuyệt vọng trước khi họ mở tâm ra để nhận lấy những gì mà các thày sẽ cho họ tiếp theo.

Sau đó các thày đưa học viên vào một căn phòng đặc biệt nơi các thày hiển thị lên một màn ảnh những gì con thật sự thấy được với con mắt thứ ba mở tối đa. Có những nhà ngoại cảm trên thế giới ở những mức độ mở mắt thứ ba nhiều hay ít, nhưng rất ít người trong hiện thân đã mở được tối đa con mắt thứ ba.

Và như vậy, các thày chiếu lên màn hình những gì con có thể thấy được nếu mắt thứ ba của con mở ra toàn diện. Các thày cho thấy khi con đưa ra một câu nói bằng ngôn từ, những lời này thật sự không phải là lời vật lý. Như con cũng biết từ khoa học, không có gì gọi là vật chất vật lý. Vật chất chỉ đơn giản là một dạng năng lượng dày đặc hơn, và đó là tại sao con thọ nhận được bằng giác quan vật lý. Khi con có khả năng nhìn bằng con mắt thứ ba đã linh hoạt, con thấy được năng lượng đằng sau vật chất, con thấy được dòng chảy của năng lượng đằng sau hình dạng vỏ ngoài. Bấy giờ các thày có thể lấy bất kỳ câu nói nào, cho nó chạy qua một bộ máy đặc biệt, hơi giống như máy tính nhưng tân tiến hơn bội phần, và hiển thị lên màn ảnh năng lượng do lời nói tạo ra.

Nếu con muốn một minh họa cụ thể, con thử hình dung một chương trình máy tính mà con sử dụng để thu và chỉnh sửa âm thanh. Âm thanh được lưu trữ dưới dạng những bít gồm có số một và số không trên ổ đĩa của máy tính, nhưng trên màn ảnh, nó hiện ra như là những làn sóng hay đường vẽ lên lên xuống xuống. Bây giờ con có thể vặn âm thanh lên và thấy sóng hiện trên màn ảnh. Con có thể thay đổi một số yếu tố và sóng cũng thay đổi theo. Nó cũng từa tựa – tuy sơ khai hơn rất nhiều – những gì con sẽ thấy tại nhập thất Royal Teton. Các thày cho học viên thấy là khi con lấy một câu nói đút vào máy, trên màn ảnh sẽ hiện ra dòng năng lượng do câu nói tạo ra.       

Các thày cho thấy là dòng năng lượng có thể đi lên hay đi xuống, hay giản dị đứng yên tại chỗ. Các thày cho thấy là có rất nhiều điều giảng dạy trong các địa hạt tâm linh, chính trị, khoa học hay tôn giáo có mặt trên địa cầu thực sự tạo ra một dòng năng lượng đi xuống. Nếu con đọc và nhập tâm những lời đó, hoặc nếu con đọc lớn trên đài phát thanh hay truyền hình, những ai nghe được sẽ trải nghiệm một dòng chảy đi xuống trong năng trường của mình.

Các thày cũng cho thấy tuyệt đại đa số những loại nhạc, lời nói, tin thời sự được truyền thông trên đài phát thanh, truyền hình hay qua internet, đều sản xuất ra những làn sóng năng lượng “bơi đứng” – nếu có thể gọi như vậy. Chúng trồi lên ngụp xuống, nhưng chúng không dứt khoát đi lên hay đi xuống. Chúng cứ đứng yên một chỗ, nhảy múa tại chỗ. Các thày cũng cho thấy có những câu nói tạo ra một dòng chảy hướng thượng. Tất nhiên, đây là những câu nói sẽ nâng cao tâm thức của con. Nhưng sau đây mới là phần hấp dẫn. Bất cứ câu nói nào bằng ngôn từ được thốt ra trong vũ trụ vật chất chỉ có thể sản xuất một xung năng lượng với tầm hạn chế.   

12.4. Các bài truyền đọc có một mục đích đặc biệt 

Nếu ngay bây giờ con đang ở một trình độ tâm thức nào đó và con nghe hay đọc được bài truyền đọc này, rất có thể bài này sẽ nâng cao mức tâm thức của con. Nó tạo ra một xung lực đi lên, một xung năng lượng hướng thượng, sẽ nâng cao trạng thái tâm thức của con – nếu con hòa điệu vào với nó và cho phép mình được nâng lên. Tất nhiên, con cũng hoàn toàn có thể đọc hay nghe bài truyền đọc này mà không hòa điệu với nó, hoặc con từ chối để cho mình được nâng cao hơn mức tâm thức hiện tại của mình. Nhưng đối với những ai sẵn lòng, bài truyền đọc có thể đưa con lên cao hơn mức hiện tại, trừ khi tất nhiên là con đã ở sẵn một mức cao hơn trình độ mà bài này nhắm đến.

Điều các thày có thể cho con thấy là bất kỳ một câu nói nào cũng được đưa ra cho một tầng tâm thức nào đó. Bất kỳ câu nói nào cũng được đưa ra cho một trong 144 tầng tâm thức hiện diện trên địa cầu. Mục đích của bài truyền đọc này là để chạm được những ai ở cấp khai ngộ thứ năm của Tia thứ Hai, và cống hiến cho con một xung năng lượng có khả năng đưa con lên cấp thứ sáu. Câu này không được đưa ra cho tầng tâm thức thứ 144, và nó cũng không có ý là chân lý tối hậu. Nó không có ý nâng con từ mức hiện thời của con lên thẳng tới tầng 144. Nó chỉ nhằm mục đích nhấc con lên một bậc, và điều này nó sẽ làm được.

Chuyện gì xảy ra nếu con lại nghĩ bài truyền đọc này là một biểu đạt tối hậu về chân lý? Điều các thày có thể thị hiện trên màn ảnh là dòng năng lượng do bài này tạo ra sẽ đưa con lên tới một mức nào đó, nhưng rồi nó sẽ bắt đầu chạy vòng tròn. Từ đó trở đi, con sẽ dẫm chân tại mức này. Vì năng lượng chảy vòng tròn, con sẽ cảm giác có lúc lên lúc xuống. Trong vòng tròn, khi năng lượng chảy xuống phía này, con có cảm giác đi xuống, và khi nó chảy lên phía kia, con có cảm giác đi lên.

Điều này quan trọng vì nó cho con thấy chuyện gì xảy ra cho nhiều đệ tử tâm linh khi họ tìm thấy một giáo lý nhất định. Như thày đã nói, bài truyền đọc này cốt ý nhấc con lên một nấc. Trên thế giới có nhiều giáo lý tâm linh nhắm vào nhiều trình độ tâm thức, và chúng có thể đưa con lên mấy nấc. Bất kỳ giáo lý nào trên thế giới cũng chỉ có một tầm hiệu nghiệm giới hạn. Không thể nào khác được. Thày không thể đưa ra một lời dạy cho tầng 144 sẽ hấp dẫn một người ở tầng thứ 10. Người này sẽ không cách chi nắm bắt được lời dạy đó.

Một giáo lý chỉ có thể chạm được một tầm giới hạn, có nghĩa là ngay cả khi một giáo lý đưa con lên mấy tầng tâm thức, nhất định sẽ tới một điểm con không thể lên cao hơn. Khi đó, giáo lý bắt đầu giống như một con sóng chạy vòng vòng trên đại dương. Điều này có nghĩa là có những điểm con sẽ đi xuống trong tâm thức cho dù con vẫn tuân thủ giáo lý. Có thể con không để ý thấy mình đi xuống, nhưng rồi lại tới một điểm khi năng lượng lại chảy ngược lên và con có cảm tưởng đi lên. Nếu con để ý thấy mình đi lên, con sẽ tưởng là giáo lý vẫn đang giúp con tăng trưởng. Đây là lý do tại sao một số đệ tử có thể ở lại với một giáo lý vỏ ngoài nhiều năm trời, nhiều thập niên, thậm chí nhiều kiếp sống, cho tới khi họ chán ngấy và nhận ra là mình cần tìm kiếm cái gì đó có thể dẫn mình lên mức kế tiếp.

Đây là một cơ chế vô cùng quan trọng mà con cần hiểu rõ với tâm ý thức vỏ ngoài của con, vì nó có thể tránh cho con bước vào ngõ cụt mà rất, rất nhiều đệ tử đã bước vào do nghĩ mình phải trung thành với một giáo lý vỏ ngoài, một đạo sư vỏ ngoài hay một tổ chức vỏ ngoài. Khi học viên nhìn ra điều này, thực sự nắm bắt được điều này, thì dường như họ trút được một gánh nặng ngàn cân. Giờ đây họ nhìn ra là họ có thể buông bỏ một giáo lý, đạo sư hay tổ chức mà không bị phản ứng tiêu cực.

12.5. Khi đệ tử nhận ra là không có giáo lý nào tối hậu 

Điều xảy ra với nhiều đệ tử trên thế giới là họ tìm được một giáo lý nào đó. Trong một thời gian họ rất nhiệt tình, nghĩ rằng nó sẽ cho mình sự an toàn tối hậu mà tự ngã thèm khát. Khi tìm được giáo lý, đạo sư, tổ chức đó, họ nghĩ là mình đã tìm được hũ vàng ở cuối cầu vồng. Họ cho rằng họ chỉ cần ở lại đó và tiếp tục làm cùng những thứ đó thì một ngày kia họ sẽ thăng thiên, nhập được Niết bàn hay bất kỳ mục tiêu nào khác.

Sau một thời gian, họ đạt tới một điểm khi họ không thể đi lên cao hơn với giáo lý đó, và giờ đây họ bắt đầu chạy vòng vòng. Đối với một số đệ tử nhạy bén, sẽ có một điểm khi họ nhận ra quả thực họ đang chạy vòng vòng và chẳng đi tới đâu. Nếu họ không hiểu được là giáo lý đó không bao giờ được trù liệu để đưa họ lên cao hơn mức đó, thì rất có thể họ sẽ tức giận, oán trách. Có thể họ cảm thấy là đạo sư hay giáo lý kia đã hứa hẹn suông. Trong một số trường hợp, quả là đạo sư đã hứa hẹn suông. Nhưng trong nhiều trường hợp khác, đơn giản là tự ngã của đệ tử đã khiến cho họ diễn giải giáo lý như một lời hứa suông. Nhưng kỳ thực nó không hứa suông, mà chỉ cách diễn giải đã khiến cho nó sai lầm, bởi vì tự ngã, tất nhiên, luôn tìm đường thoát dễ dãi nhất, là một sự cứu rỗi bảo đảm, tự động.

Điều gì xảy ra cho rất nhiều đệ tử như vậy? Sâu bên trong và vượt khỏi mức ý thức của tâm, họ biết là họ phải rời bỏ giáo lý cũ và bước về phía trước. Nếu tâm vỏ ngoài của họ vẫn còn vấn vương với giáo lý đó hay những lời hứa hẹn của giáo lý đó, thì trong nhiều trường hợp, cách duy nhất để họ thoát ra được là họ chợt hiểu giáo lý đó không phải là tối hậu. Họ hiểu ra là nó giả trá, và họ tức giận buộc tội đạo sư hay giáo lý kia là đã hứa suông.

Vấn đề với phản ứng này là nó sẽ kéo đệ tử bước ngược trở xuống cầu thang tâm thức. Có rất, rất nhiều đệ tử tìm được một giáo lý và sử dụng giáo lý đó để vươn lên mấy tầng tâm thức, thế rồi vì tức giận đã rơi xuống mấy tầng, có khi còn thấp hơn cả mức tâm thức trước khi họ theo giáo lý. Nhiều người bị lạc vào ngõ cụt. Nhiều người trở thành như kẻ không còn tin vào gì nữa, cho rằng không có lời dạy nào là hiệu nghiệm, không có vị đạo sư nào là chân chính. Nếu con hiểu điều thày đang nói ở đây, nếu con có thể nắm vững điều này trong tâm ý thức của con, thì con sẽ hiểu ra là một giáo lý chỉ nhắm đưa con tới một mức nào đó thôi.

Một khi giáo lý đã làm xong phận sự, đây là lúc con cần hòa điệu với điều này. Thật ra đây là trách nhiệm của con hòa điệu với điều này, rồi con cần lấy quyết định tiến bước. Khi đệ tử sẵn sàng thì thày xuất hiện. Khi con sẵn sàng buông bỏ giáo lý hiện hữu và mở tâm ra để nhận sự chỉ đạo nội tâm từ cái ta Ki-tô cùng các chân sư thăng thiên, con sẽ nhận được chỉ đạo đó. Nếu con hòa điệu tâm vỏ ngoài của con, thì trong tâm vỏ ngoài con sẽ biết là con đã nhận được. Con sẽ có thể bước tới mà không có phản ứng tiêu cực, không cảm thấy như mình bị lạc lõng trong một khoảng trống không. Để tới được điểm này, con phải buông ra.

12.6. Nhìn ra những cái móc trong tâm thức mình 

Các thày cho các học viên thấy trên màn ảnh một tấm hình của năng trường của họ. Họ đứng trước một máy scan, và các thày chiếu lên màn ảnh những chỗ trong tâm thức họ có những cái móc buộc họ lại với một giáo lý trên địa cầu. Đây chính là điều khiến cho “một nhà bị chia xé nhau” [Matthew 12:25]. Nó lôi kéo họ ra mọi hướng, hoặc nó kéo họ rơi xuống cầu thang. Có một điều gì đó mà họ đã không buông ra, khiến họ không thể xuôi chảy cùng với Dòng sông sự Sống vì hình như con thuyền của họ có một chiếc neo đang giữ chặt thuyền lại ở vị trí cũ hay đang lôi thuyền đi ngược dòng. Hoặc nó khiến cho thuyền nằm tréo trên dòng chảy, khiến cho nước bị khuấy động, đập tung toé.

Khi đệ tử nhìn ra chuyện này và cắt đứt sợi dây trói buộc, họ thấy rõ là họ tự do đến chừng nào. Vấn đề khó khăn ở đây là con sẽ không thực sự được tự do cho tới khi con cũng nhìn ra trong tâm ý thức và lấy quyết định ý thức cắt đứt sợi dây. Điều mà các thày có thể làm tại khóa nhập thất Royal Teton là giúp con nhìn ra những dây buộc mà con mang và cắt đứt ở mức thể bản sắc, lý trí và cảm xúc. Điều mà các thày không thể làm được tại khóa nhập thất là giúp con cắt đứt ở mức tâm ý thức. Đây là công việc mà con phải làm một cách ý thức trong tâm nhận biết bình thường, tỉnh táo của con. Tất nhiên, công việc này sẽ dễ hơn hẳn một khi đã làm ở ba cõi trên, nhưng nó vẫn đòi hỏi ở con một sự tỉnh giác ý thức, một nỗ lực ý thức và một quyết định ý thức.

Khi con đã cắt đứt các ràng buộc này một cách ý thức, con sẽ có một cảm giác tự do rất mới, một cảm giác được chữa lành khỏi những vết thương và mâu thuẫn cũ. Tự ngã và các thày giả không muốn con cắt đứt các sợi dây này. Đó là tại sao họ sẽ cố khiến con cảm thấy là con phải giữ lòng trung thành, giống như con phải đóng tâm ý thức lại trước những sáng ngộ mà con đã gặt hái ở các thể cao của tâm con. Họ ráo riết tìm cách khiến con bám chặt vào những gì con đang có mà không chịu bước tới.

Khi con chưa bước tới thì làm sao con có thể thật sự được chữa lành? Khi con chưa chữa lành những phân rẽ lôi kéo tâm con ra tứ phía, thì làm sao con đạt được viễn kiến cao hơn là dấu ấn của Tia thứ Năm? Nếu con không đạt được viễn kiến đó, làm sao con có thể cảm thấy mình trọn vẹn? Và nếu con không cảm thấy trọn vẹn, làm sao con có thể là cánh cửa mở để chữa lành tha nhân? “Thày thuốc, hãy chữa lành chính mình,” câu tục ngữ nói vậy. Điều mà các thày có thể cho con thấy là làm cách nào sử dụng minh triết để chữa lành vết thương của con, chữa lành cho người khác, bằng cách dùng lý lẽ với người khác và với chính con.

12.7. Sử dụng bài truyền đọc để tăng triển một cách ý thức 

Đâu là mục đích của bài truyền giảng này cùng những bài truyền giảng khác từ thày và các Thượng sư khác? Đó là trao cho con những dụng cụ để con lý luận với chính mình ở mức tâm ý thức. Khi con tìm hiểu một bài truyền đọc, có hai điều xảy ra. Con sẽ nhận được ánh sáng tâm linh, và ánh sáng này bắt đầu tạo ra biến đổi trong năng trường của con.

Con cũng sẽ nhận được kiến thức vỏ ngoài dưới dạng ngôn từ. Vấn đề là con sẽ làm gì với những ngôn từ đó. Một số học viên sẽ chỉ đọc qua và nói: “Ừ nhỉ, chuyện này thật thú vị.” Một số khác sẽ nghiên cứu chăm chú hơn, và thậm chí một số khác còn học thuộc lòng một số câu, nghĩ rằng nếu mình ghi nhớ từng câu thì chắc hẳn mình đã học được bài học. Một trong những bài học mà thày mong muốn con học là con hãy đọc một bài truyền đọc cho tới khi con gặp một số câu gây ra hai loại tác động. Hoặc câu đó khuấy lên trong con khiến con cảm thấy mình đã chạm được gấu áo của một thực tại cao hơn, hoặc nó khuấy lên một phản ứng trong con khiến con cảm thấy muốn kháng cự lại. Khi con có cảm giác kháng cự này, đó là cơ hội cho con sử dụng giáo lý để lý luận với chính mình. Con có thể, với tâm ý thức, khảo sát xem kháng cự đó là gì.

Vì tất nhiên, con thừa hiểu là một cuốn sách như thế này chỉ có thể trình bày một cách chung chung. Thày không thể nói riêng cho từng đệ tử sẽ đọc sách này trong tương lai. Chính con mới có nhiệm vụ liên kết cuốn sách này với hoàn cảnh cá nhân của mình. Khi con cảm thấy có sự kháng cự hay có thắc mắc chưa giải đáp liên quan đến một câu trong sách, thì con có trách nhiệm khám phá xem kháng cự đó có nghĩa là gì. Con tự đặt một số câu hỏi. Con cố hòa điệu với câu văn. Con cố nhìn từ mọi góc cạnh và nói: “Nhưng lỡ lời nói này chính xác? Vậy thì có nghĩa là gì? Làm thế nào nó sẽ giúp tôi thoát ra được đây? Khi đọc câu này, tôi có sợ hãi gì không? Tôi có ngờ vực gì không? Thắc mắc nào nảy lên trong tâm tôi?”

Xong con tra vấn từng vấn đề, con cố nhìn khắp chung quanh rồi đi sâu hơn và sâu hơn nữa. Con đang dùng lý luận với chính mình để làm sáng tỏ khía cạnh nào của tự ngã, phàm linh nào trong tâm thức, đang chống cự lại câu viết. Làm như vậy, con có khả năng phơi bày ra phàm linh, nhưng con cũng có thể phơi bày niềm tin đã tạo ra phàm linh, cái ảo tưởng nhị nguyên cụ thể đã tạo ra phàm linh. Khi con làm vậy, con có thể đạt đến một điểm, như thày đã có đề cập, khi con nhìn thấy, con chiêm nghiệm được ảo tưởng. Và khi con chiêm nghiệm được ảo tưởng, con sẽ buông bỏ nó một cách tự nhiên, tức thì và không chút khó nhọc nào.

Đây là trách nhiệm của con với tư cách là đệ tử của chân sư thăng thiên. Con không thể chờ đợi việc đọc một cuốn sách là đủ được. Ngay cả con cũng không thể chờ đợi việc thực tập các bài thỉnh là đủ được. Chắc chắn là chúng có tác dụng, nhưng không có gì có thể đi ngược lại quyền tự quyết của con. Phải đến một lúc con nhìn vào cái xà, cái phàm linh trong mắt con một cách ý thức và cố tình. Con nhìn vào các ảo tưởng, và con sẽ tiếp tục xem xét chúng từ nhiều góc độ khác nhau, tra vấn chúng với đủ loại câu hỏi, cho đến khi con nhìn ra cái tin tưởng cốt lõi nằm đằng sau ảo tưởng. Khi con nhìn thấy nó trong ánh sáng của sự thật Ki-tô, con nhận ra là nó không thực, nó là một ảo tưởng. Ngay khi đó, buông nó ra sẽ không khó khăn gì cho con.

12.8. Được chữa lành nhờ buông ảo tưởng là mình không trọn vẹn 

Đây cũng là một yếu tố của Tia thứ Năm là tia chữa lành. Con cần gì để được chữa lành? Con cần buông bỏ trạng thái không lành lặn. Nếu con không buông bỏ cảm nhận là con không lành lặn, con sẽ không thể bước vào trạng thái tâm nơi con lành lặn, nơi con trọn vẹn. Con không thể buông bỏ căn bệnh hay ảo tưởng cho đến khi con nhận ra là nó không thực. Con không thể thấy được điều này nếu con không nhìn qua tâm Ki-tô, nhưng con sẽ không tự động có được tâm Ki-tô. Con chỉ có thể đạt được tâm Ki-tô bằng cách thách đố các ảo tưởng một cách ý thức và có hệ thống, bước vào những vùng sâu thẳm cho tới khi con phát hiện điều tin tưởng mà cá nhân con đã chấp nhận một lúc nào đó trong quá khứ, và bây giờ nó đã trở thành một cái neo giữ chặt chiếc thuyền của con lại và ngăn không cho thuyền xuôi chảy với Dòng sông sự Sống.

Đây là cái mà trong đạo Phật gọi là con thuyền Bát nhã, con thuyền minh triết, và khi con leo lên thuyền, con sẽ có thể giữ tay lái giữa biển Luân hồi cho đến khi con đến được bờ bến xa hơn. Bờ bến xa hơn thường được người đạo Phật xem là một trạng thái tối hậu, Niết bàn. Nhưng bờ bến xa hơn đối với mức tâm thức đặc thù của con là khi con vượt qua khai ngộ sẽ đưa con lên tầng kế tiếp. Không chỉ có một “bờ bến xa hơn” duy nhất. Bờ bến xa hơn là cái bến kế tiếp, cái tầng kế tiếp, và cứ thế con leo lên bước kế tiếp cho tới khi con đạt đến tầng 144, là khi con nhảy bước lượng tử cuối cùng vào trạng thái thăng thiên.

Sự trọn vẹn sẽ đến khi con từ bỏ cảm nhận mình thiếu sót, và một trong những bước to lớn để tiến tới trọn vẹn là con buông giấc mơ tìm được một chân lý tối hậu, hay công thức tối hậu, hay khả năng tối hậu nào đó. Không có gì trong thế giới vật chất là tối hậu. Không có gì là cuối cùng. Không có gì là kết liễu. Mọi thứ đều là Dòng sông sự Sống không ngừng tuôn chảy. Nếu con có thể thực sự thể nhập được sự thật này, con sẽ khiến cho đường tu khai ngộ của con dưới bảy tia sáng dễ dàng hơn bội phần. Thay vì cảm thấy mình là kẻ thất bại triền miên vì mình đã không đạt được trạng thái tối hậu, con có khả năng cảm thấy mình đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác mỗi lần mình vượt qua một cuộc khai ngộ.

12.9. Các chân sư thăng thiên không phán xét con 

Các thày đã từng thấy những học trò theo học một giáo lý của chân sư thăng thiên suốt 30, 40 năm trời hoặc nhiều hơn nữa. Họ đã siêng năng học tập giáo lý. Họ đã siêng năng cầu thỉnh ngọn lửa tím hay đọc bài chú cho các tia khác. Họ đã làm tất cả đúng theo tiêu chuẩn vỏ ngoài, nhưng toàn bộ hành trình của họ là một cuộc vật lộn. Họ đã lắng nghe và chấp nhận giáo lý về đường tu khai ngộ, nhưng họ vẫn tập trung tâm trí vào mục đích cuối cùng, cho dù là thăng thiên hay cái gì khác. Họ đã quá tập trung vào mục tiêu cuối cùng này đến độ họ có cảm tưởng là nếu mình chưa đạt được thì mình sẽ thiếu sót, mình sẽ bất xứng, mình không thể được các chân sư chấp nhận.

Các thày không phán xét con theo cách mà con tự phán xét. TA LÀ Lanto, TA LÀ Thượng sư của Tia sáng thứ Hai. Vai trò của thày không phải là đưa con đến mức khai ngộ tối hậu. Vai trò của thày là dẫn con từ mức này lên mức sau, xuyên qua bảy cấp được biểu tượng qua các khai ngộ của Tia thứ Hai, rồi giao phó con cho vị bào huynh yêu dấu của thày, Paul người Venice, sẽ dẫn con đi tiếp qua các khai ngộ của Tia thứ Ba.

Liệu con có thực sự nghĩ là thày, Lanto, nhìn con như một học trò bất xứng? Toàn bộ thời gian con kinh qua các khai ngộ của khóa nhập thất này, thày đã nhìn con trong ánh sáng tích cực. Thày nhìn con như một đệ tử đã đạt được thắng lợi vượt qua bảy cuộc khai ngộ dưới thày MORE và Tia thứ Nhất. Thày nhìn con như đã đạt được một thắng lợi quan trọng ngay cả trước khi con bước vào khóa nhập thất của thày, rồi khi con vượt mức khai ngộ đầu tiên, con đã đạt thêm một thắng lợi nữa, và cứ thế. Khi con tới khai ngộ chót trong khóa này, con sẽ đoạt được điều mà thày xem là thắng lợi cao nhất ở mức khai ngộ của thày, và thày vui mừng gửi con lên tầng kế tiếp.

Thất bại ở đâu? Thiếu sót ở đâu? Con là học trò toàn hảo khi con bước đến, không phải là con toàn hảo, không phải là con thành tựu mức tâm thức cao nhất, nhưng con đã bước qua các khai ngộ của Tia thứ Nhất trước khi con nhập khóa của thày. Đó không là thắng lợi hay sao? Làm sao con có thể cảm thấy mình bất xứng khi con đã đi qua các khai ngộ khó khăn và nghiêm ngặt của Tia thứ Nhất? Thày MORE đã không gửi con đến với thày nếu con chưa vượt qua khai ngộ, và điều đó, thày cam đoan là một thắng lợi. Thày sẽ không gửi con đến với Paul người Venice cho tới khi con vượt qua khai ngộ của Tia thứ Hai, và điều đó là một thắng lợi nữa.

Con hãy ngừng đeo đuổi hũ vàng ở cuối cầu vồng, vì thày nói với con, cũng như thày Maitreya đã nói trong sách, không những không có hũ vàng nào cả mà cầu vồng cũng chẳng có luôn. Cầu vồng sẽ không ngừng dời đi trước mặt con, y hệt như củ cà rốt treo lủng lẳng trước mũi con lừa của truyện ngụ ngôn. Con sẽ không bao giờ bắt kịp. Con sẽ không bao giờ bắt kịp cầu vồng, con yêu dấu, vì cầu vòng chỉ hiện thực từ một góc độ nào đó. Nó không có hiện hữu cố định hay khách quan. Nó chỉ tương đối trong quan điểm của con và con sẽ luôn luôn nhìn thấy nó với một khoảng cách. Nếu con lại gần, con sẽ không còn thấy nó nữa, vậy thì làm sao con biết được nó kết thúc ở đâu?

Con hãy từ bỏ cuộc tìm kiếm chân lý tối hậu. Hãy nhận ra những câu nói của thày qua ngôn từ chỉ có thể đưa con lên tới một mức nào đó, và sau đó con cần phải mở chính con ra để nhận được lời dạy kế tiếp, câu kế tiếp, chỉ dấu kế tiếp, trải nghiệm kế tiếp. Hãy sẵn lòng chiêm nghiệm Tánh linh Sự thật vượt khỏi câu nói về sự thật. Đây là dấu ấn của những đệ tử tiến bộ nhanh chóng, vượt qua cấp khai ngộ thứ năm của Tia thứ Hai.

TA LÀ Thượng sư của Tia thứ Hai. Thày sẽ làm hết sức để giúp con vượt qua khai ngộ này, nhưng thày không thể vượt qua thay cho con, vì nó đòi hỏi một quyết định với tâm ý thức. Trước khi con lấy quyết định tự nguyện đó, con phải sẵn lòng dùng lý luận với chính mình, và tra vấn xem tại sao tự ngã của con lại tìm kiếm chân lý tối hậu. Đâu là tin tưởng cụ thể mà cá nhân con đã chấp nhận khiến con dễ bị ý tưởng đó tấn công, là ý tưởng phải có cách tìm ra một chân lý tối hậu hay một khả năng tối hậu? Con hãy buông nó ra, con yêu dấu, rồi sau đó con có thể bước lên cấp khai ngộ thứ sáu dưới Tia thứ Hai. Thày sẵn lòng và sẵn sàng chào đón con bước vào cấp khai ngộ này. Lanto TA LÀ.

10 | Minh triết và Tinh khiết 

Bài giảng của chân sư thăng thiên Lanto qua trung gian Kim Michaels, ngày 13/3/2014.

TA LÀ chân sư thăng thiên Lanto. Thày đến để chia sẻ một số ý nghĩ về các khai ngộ mà học viên đi qua ở cấp thứ tư của khóa nhập thất tại Royal Teton. Đây là những khai ngộ trong Tia sáng thứ Tư, là minh triết được thể hiện qua sự tinh khiết hay gia tốc. “Tinh khiết” có nghĩa là ý định tinh khiết, và điều mà các thày mong giúp đệ tử đạt được ở cấp này là sự rõ ràng trong ý định khi sử dụng minh triết.

Học viên đến khóa nhập thất của thày thường có ý muốn điển hình rất thịnh hành trên địa cầu, là ý muốn do tự ngã châm ngòi khi nó đi tìm sự an toàn trong thế gian này. Những ai bị mù quáng bởi ý muốn này sẽ cố tìm một loại minh triết mà họ có thể nâng lên vị thế bất khả sai lầm. Nếu minh triết của mình không thể sai lầm thì an toàn của mình cũng phải tối đa – tự ngã lý luận như thế. Có nghĩa là học viên có xu hướng sử dụng minh triết để xác nhận những gì khiến cho tự ngã cảm thấy an toàn. Nhiệm vụ khó khăn mà thày phải đối diện ở cấp này là làm sao cho học viên thấy được cái nhìn này thật là rỗng tuếch.

Thày cố giúp học viên nhìn ra điều này phi lôgíc tới chừng nào, đạo đức giả đến chừng nào. Những ai bị mắc kẹt trong mong muốn chứng thực tự ngã sẽ quả quyết là mình dùng minh triết với động cơ cao thượng nhất. Họ tin rằng họ nắm được cách biểu đạt minh triết tuyệt đối, không thể sai lầm, và vì lợi ích của một đại nghĩa nào đó, thậm chí có thể là đại nghĩa của chính Thượng đế, mà họ tìm cách ép buộc minh triết của họ lên người khác.

Họ nhất định là họ có dạng minh triết tuyệt đối, nhưng kỳ thực, minh triết của họ hoàn toàn tương đối. Nó hoàn toàn tùy thuộc vào những gì mà tự ngã của họ đã chấp nhận cùng ý niệm an toàn mà tự ngã đã tạo dựng. Như các thày đã nói nhiều lần, tự ngã không bao giờ có thể tìm thấy sự an toàn tuyệt đối. Nó cố xây dựng an toàn trong thế gian này, nhưng đó luôn luôn sẽ là một căn nhà xây trên cát bởi vì không có gì trong thế gian này có thể bất biến. Tất nhiên, trong cõi tâm linh cũng không có bất biến, và vì thế, giấc mơ có được một trạng thái toàn hảo hay an toàn tĩnh tại nào đó chỉ là một giấc mơ hão huyền. Điều này, tất nhiên, tự ngã sẽ không bao giờ thấy được.

10.1. An toàn tuyệt đối trong Dòng sông sự Sống 

Tuy nhiên, cái Ta Biết thì có khả năng trải nghiệm điều này bằng cách chiêm nghiệm nhận biết thuần khiết. Qua đó, nó nhận ra rằng bản chất của nó chính là một trạng thái an toàn tuyệt đối – không theo nghĩa là không thay đổi, mà theo nghĩa luôn luôn tự thăng vượt. Hay đúng hơn có thể nói, cốt lõi của bản thể của con là cái bất biến – tức là sự nhận biết – và một khi con nối kết với nhận biết bất biến này, con sẽ tìm thấy an toàn trong sự vượt thăng liên tục những biểu thị vỏ ngoài của nhận biết, là cái mà nhận biết chú tâm vào. Do đó, con không cần phải dừng dòng chảy của Dòng sông sự Sống hầu cảm thấy an toàn, mà con cảm thấy an toàn khi con xuôi chảy với nó. Đây là sự an toàn tuyệt đối hay tối hậu, nhưng là an toàn qua tự thăng vượt, an toàn luôn luôn tuôn chảy.

Thày đã nói gì về Dòng sông sự Sống? Nó luôn luôn thăng vượt chính nó. Thày đã nói gì về Minh triết Thiêng liêng? Nó luôn luôn thăng vượt chính nó. Vì vậy, không có gì đứng yên – chắc chắn nguồn suối của minh triết hằng sống không đứng yên. Điều này, một lần nữa, có nghĩa là cuộc tìm kiếm của tự ngã là chuyện vô vọng khi nó cố tạo ra một cách biểu đạt minh triết tĩnh tại, không bao giờ có thể thay đổi, không bao giờ có thể bị đe doạ, không bao giờ có thể bị lật đổ. Như các thày đã có giải thích qua định luật thứ hai của nhiệt động học, bất cứ gì mà trở thành một hệ thống đóng kín sẽ bắt buộc phải tan rã, bởi vì các mâu thuẫn nội tại sẽ gia tăng hỗn loạn bên trong khiến nó phải tan vỡ.

10.2. Khai ngộ ở cấp thứ tư của Tia thứ Hai 

Thực tế là nếu càng cố duy trì sự an toàn vỏ ngoài cho tự ngã, thì học viên sẽ phát ra càng nhiều xung năng lượng ̣(energy impulse) phóng về tấm gương vũ trụ. Các xung năng lượng này sẽ được gửi trả về dưới hình thức những điều kiện sẽ đe dọa cảm giác an toàn của học viên, và khi đó, học viên sẽ phải phóng ra xung lực mạnh hơn nữa để chống chọi lực phản hồi, và tất nhiên điều này chỉ khiến cho cường độ phản hồi càng mạnh hơn thôi. Cuộc “chạy đua vũ trang” cứ tiếp diễn như thế cho đến khi học viên bị tan vỡ bởi áp lực căng thẳng và không thể tiếp tục.

Dĩ nhiên, các thày sẽ cố giúp cho học viên nhìn ra sự sai lầm của cách thức này trước khi họ gục ngã trong căng thẳng, nhưng cũng có một số học viên đến nhập thất của thày phải kinh qua tiến trình tan vỡ đó. Họ nhận ra là mình không sao đủ sức mạnh, đủ uy lực, để chống chọi lại những mối đe dọa cho an toàn của mình. Vậy con phải làm gì đây? Con phải buông ra, con phải từ bỏ. Không có bước nào khác.

Gia tốc của Tia thứ Tư không giống như công việc tích tụ. Con có thể nghĩ là nếu con cần phát ra một xung năng lượng để chống lại cái gì đang phóng tới mình, thì con sẽ cần tích tụ ngày càng nhiều quyền năng hơn, nhiều quyền năng vật lý, vật chất hơn. Nhưng như thày đã nói, tích tụ nhiều quyền năng hơn chỉ có nghĩa là con tạo ra một xung lực vũ bão hơn sẽ phóng vào con trong tương lai.

Gia tốc có nghĩa là con vượt lên trên việc tích tụ quyền năng ở một mức độ nào đó vì con đã gia tốc độ rung của mình lên một mức cao hơn, nơi con sẽ không còn cảm thấy những năng lượng thấp mà con đã tạo ra trong quá khứ khi chúng được tấm gương vũ trụ gửi trở lại. Chúng sẽ chạy xuyên thẳng qua con. Chúng không đáng kể gì với con. Chúng không dính dáng gì đến kinh nghiệm sống của con. Đây là gia tốc đích thực. Có an toàn trong đó, theo nghĩa là con vượt lên trên quá khứ.

10.3. Ngay cả giáo lý của chân sư cũng tương đối 

Để giúp đệ tử vượt qua mức khai ngộ này, các thày tìm cách giúp họ nhìn ra là minh triết, các hệ tư tưởng do tự ngã tạo ra – và do loài người cũng như các thày giả tạo ra – thực sự là tương đối, mặc dù chúng được tuyên bố là tuyệt đối. Chúng tương đối vì chúng tùy thuộc vào tâm thức nhị nguyên, và do đó chúng tương đối so với một đối cực. Cho mỗi biểu đạt của minh triết xuất phát từ tâm thức nhị nguyên, sẽ có một đối cực. Điều này không mấy dễ hiểu cho hầu hết học viên cho dù các thày đã dẫn dắt họ qua từng bước – như thày đã có giải thích – là ngôn từ có thể được diễn giải và bị hiểu lầm như thế nào. Họ vẫn khó lòng nắm bắt được, và nỗi khó khăn này cũng dễ hiểu thôi.

Thày đã nói là bất kỳ biểu đạt nào của “minh triết” đến từ tâm thức nhị nguyên đều có một đối cực. Điều đó đúng, nhưng cũng đúng là bất kỳ biểu đạt nào của minh triết đến từ chân sư thăng thiên cũng có một đối cực. Sự khác biệt ở chỗ khi minh triết biểu đạt qua tâm thức nhị nguyên, tự thân nó đã chứa sẵn đối chọi, vì cách tâm thức nhị nguyên nhìn thế giới đã sẵn mâu thuẫn.

Những gì các thày ban ra nơi cõi thăng thiên không chứa đựng mâu thuẫn nội tại, nhưng hiển nhiên khi các thày giảng dạy giáo lý, các thày giả và học trò của họ sẽ nghĩ ra cách đối chọi lại giáo lý đó, và như vậy bất kỳ biểu đạt nào bằng ngôn từ cũng có một đối nghịch. Bất cứ biểu đạt nào bằng ngôn từ cũng có thể bị phủ nhận, bị vô hiệu hóa hay phế bỏ, hay ít ra bị phản bác bởi một câu nói khác cũng dùng ngôn từ. Đây là hệ quả tất yếu khi tâm thức tập thể trên địa cầu còn quá thấp đến độ hầu hết mọi người vẫn bị đui mù bởi tâm thức nhị nguyên. Khi con nhìn giáo lý của chân sư thăng thiên qua phin lọc nhận thức của ngã vỏ ngoài, của ngã tách biệt, thật là dễ cho con tìm được một đối nghịch cho giáo lý đó.

Con vẫn có thể chấp nhận giáo lý đó, nhưng kỳ thực con đang tìm cách dùng nó để xác nhận nhu cầu an toàn của tự ngã bằng cách nâng nó lên, và cũng nâng cách biểu đạt giáo lý đó lên, một vị thế không thể sai lầm. Thày vừa nói gì? Thày vừa nói là con không bao gìờ nên tập trung vào ngôn từ đến độ con quên mất tánh linh đằng sau ngôn từ. Điều cơ yếu là con nối kết với Hiện diện của thày, với dòng chảy của minh triết, Tánh linh Minh triết hằng sống. Con sẽ không làm được vậy nếu con lấy một biểu đạt minh triết nào đó bằng ngôn từ và nâng nó lên vị thế không thể sai lầm, nghĩa là con sẽ không bao giờ muốn thay đổi nó, hay con không bao giờ muốn vượt xa hơn nó. Đó không phải là gia tốc, mà chỉ là một nỗ lực xây đắp một khối tích tụ có vẻ là có thẩm quyền. Mục đích của các thày là cho đệ tử thấy mọi biểu đạt của minh triết phát xuất từ tâm thức nhị nguyên, hay đã được diễn giải qua tâm thức nhị nguyên, đều tương đối.

Ngay cả học trò của chân sư thăng thiên cũng đã sử dụng giáo lý của các thày để tạo dựng một thế giới quan tương đối. Điều này quan trọng ở chỗ cái gì tương đối thì không thể là minh triết tuyệt đối. Học viên thường khó lòng hiểu điều này vì họ còn quá dính mắc vào mong muốn của tự ngã xây dựng sự an toàn tối hậu. Học viên cần một sự điều chỉnh to lớn để khắc phục vấn đề này. Thật sự, học viên cần bắt đầu trải nghiệm nhận biết thuần khiết thì mới chiêm nghiệm được là mình có khả năng tìm thấy sự an toàn nội tâm đó, thay vì an toàn vỏ ngoài của một hệ thống tin tưởng tuyệt đối hay không thể sai lầm.

Ngay cả nhiều học trò của chân sư thăng thiên cũng bám vào niềm tin rằng nếu mình là thành viên của một tổ chức nào đó hay tuân theo lời dạy của vị sứ giả cao nhất, thì mình được đảm bảo sẽ thăng thiên. Họ thật không sẵn lòng buông bỏ tin tưởng này, và đó là tại sao một số bị kẹt lại trong những tổ chức không còn sứ giả hoạt động hay không còn nhận được dòng chảy của lời hằng sống. Họ bám vào những giáo lý được đưa ra trong quá khứ, và mặc dù những giáo lý này vượt thời gian và vẫn còn giá trị, đó không phải là sự biểu đạt của tâm thức mà các chân sư hiện có ngày nay. Các thày đã tự thăng vượt rất nhiều lần từ khi giáo lý cũ được đưa ra, nhưng hiển nhiên lời biểu đạt thì không thể tự thăng vượt, đặc biệt là khi nó được nâng lên vị thế một lời nói toàn hảo không thể sai sót. Đối với các học viên sẵn lòng buông bỏ nhu cầu an toàn vỏ ngoài này, các thày có thể giúp họ tiến một bước rất lớn để thấy được mọi lời biểu đạt là tương đối.

10.4. Mô tả bằng ngôn từ không là chiêm nghiệm trực tiếp 

Ngôn từ mang ý nghĩa khác nhau đối với mỗi người, cho nên ngôn từ phải được diễn giải. Các thày đã từng dùng ví dụ sau đây, nhưng thày sẽ dùng lại lần nữa. Tưởng tượng là con đang đứng trên bờ biển với một người mù bẩm sinh. Cả hai đều nhìn về chân trời và con có nhiệm vụ mô tả cảnh mặt trời lặn cho anh mù kia. Bình thường con sẽ cố gợi lên một điều gì mà anh ta đã trải nghiệm, nhưng anh chưa từng nhìn thấy gì bằng mắt. Con sẽ mô tả cảnh hoàng hôn như thế nào cho anh mù đó? Con có thể làm chuyện đó qua ngôn từ, nhưng anh ta sẽ rút tỉa được gì? Anh sẽ chỉ rút tỉa được một lời mô tả hoàng hôn.

Lời mô tả đó có thể rất hay, rất chính xác, nhưng đối với người khiếm thị, đó chỉ là lời tả chứ không là sự chiêm nghiệm trực tiếp. Khi các thày trao cho con minh triết từ cõi thăng thiên, các thày chiêm nghiệm được Tánh linh Minh triết. Khi các thày diễn dịch chiêm nghiệm đó thành lời, nó trở thành một lời tả tánh linh chứ không phải là tánh linh. Đây không phải là vấn đề vị sứ giả có tài tình hay không, mà chỉ đơn giản là hậu quả không thể tránh của việc diễn dịch một trải nghiệm thành lời nói. Lời nói chỉ có thể truyền đạt một mô tả. Khác biệt là gì? Khác biệt là con chỉ cần đến lời tả khi con không chiêm nghiệm trực tiếp. Một lời tả chỉ cần thiết khi có một khoảng cách, có một tách biệt giữa con và kinh nghiệm. Con, là người đang đầu thai, giống như anh mù kia chưa bao giờ chiêm nghiệm Tánh linh Minh triết. Các thày đang cho con một sự mô tả về tánh linh đó bằng ngôn từ, nhưng trong tâm con, nó vẫn chỉ là một lời tả. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là chính sự kiện con tách biệt khỏi tánh linh khiến con chỉ có thể nắm bắt được lời tả về tánh linh. Con càng tập trung vào lời tả thì thực sự nó sẽ càng đóng tâm con lại khỏi kinh nghiệm trực tiếp.

10.5. Mục đích của việc giảng dạy tâm linh 

Mục tiêu của các thày khi giảng dạy không phải để đệ tử có được một lời mô tả tuyệt vời về tánh linh. Mục tiêu của các thày là cho đệ tử một kinh nghiệm tánh linh trực tiếp. Thày là Thượng sư của Tia sáng thứ Hai. Thày không màng đến chuyện có đệ tử trên địa cầu có lời mô tả tinh xảo nhất về Tia thứ Hai. Thày quan tâm để làm sao có những đệ tử trên địa cầu có khả năng mở tâm ra hầu Tánh linh Minh triết xối xuống vào tâm họ, và họ chiêm nghiệm được tánh linh khi tánh linh biểu đạt xuyên qua họ. Đó là điều thày muốn.

Thày không muốn những học viên chụp lấy một lời biểu đạt rồi sử dụng để đóng chặt tâm mình lại khỏi kinh nghiệm. Thày muốn con nắm lấy lời mô tả và dùng làm bàn đạp để mở tâm ra cho kinh nghiệm trực tiếp. Đây là mục tiêu của thày. Làm thể nào con đạt được điều đó? Bằng cách khắc phục sự dính mắc của con với một lời biểu đạt minh triết nhất định và nhận ra rằng một biểu đạt minh triết chỉ là một sự mô tả, và nó chỉ có giá trị khi con dùng nó để mở tâm ra và trực tiếp kinh nghiệm tánh linh đằng sau ngôn từ. Khi con tới được điểm này, khi con ngộ ra điểm này, con mới sẵn sàng bước đi bước kế tiếp. Con sẽ cần gì để làm cánh cửa mở cho Tánh linh Minh triết chảy qua con?

Thế nào là một tánh linh? Một lần nữa, con lại có những hình ảnh giả trá về Thượng đế do các tôn giáo lớn trên thế giới tạo dựng, miêu tả Thượng đế là một đấng toàn hảo, tĩnh tại, ngồi ở trên trời. Nhưng Thượng đế không tĩnh tại. Thượng đế là tánh linh không ngừng tuôn chảy, không ngừng tự thăng vượt – đó là Đấng Sáng tạo. Làm thế nào con biết được tánh linh? Không phải qua một sự mô tả mà con có thể nhìn từ xa. Con sẽ biết được tánh linh khi con khắc phục khoảng cách giữa tánh linh và con, khi con bước vào chứng ngộ tánh linh, khi con trở thành cánh cửa mở để tánh linh tuôn chảy qua con.

Làm thế nào con cho phép tánh linh tuôn chảy qua con? Con sẽ không thể làm được nếu con bám vào một lời biểu đạt cố định và đòi hỏi tánh linh phải phù hợp hay phải chứng thực cho lời biểu đạt này. Nếu con áp đặt một hạn chế trên tánh linh thì làm sao con sẽ trải nghiệm được dòng chảy của tánh linh? Nếu con bảo rằng tánh linh không cần chảy mà cần xác nhận một lời biểu đạt, thì con đã đánh mất tánh linh rồi.

10.6. Con hãy tự gia tốc vượt khỏi mọi lời biểu đạt 

Thày đã nói bất kỳ cách biểu đạt nào về minh triết đến từ tâm thức nhị nguyên đều tương đối. Một biểu đạt về minh triết đến từ tâm thức nhị nguyên tùy thuộc vào một biểu đạt khác về minh triết cũng đến từ tâm thức nhị nguyên. Cho dù con có phóng chiếu một cái là giả và cái kia là thật, một cái là sai và cái kia là đúng, thì cũng không có chút thực tế gì trong đó. Cả hai cách biểu đạt sẽ không giúp con tự gia tốc lên cao hơn mức nhị nguyên.

Và đây là điểm mà con cần tinh tế hơn hầu hết mọi người và ngay cả hầu hết học trò của chân sư thăng thiên. Một biểu đạt về minh triết đến từ cõi thăng thiên cũng chỉ tương đối. Ngay cả một bài giảng được các thày truyền đọc qua trung gian một sứ giả được bảo trợ cũng không là một lời biểu đạt tuyệt đối về chân lý. Đó là một biểu đạt tương đối, nhưng một biểu đạt đến từ tầm mức của các thày không tương đối so với một đối nghịch trong cõi vật chất. Nó tương đối so với tánh linh, và do đó nếu con đi theo biểu đạt của các thày để vượt quá ngôn từ, con sẽ tìm thấy tánh linh. Chứ nếu con lấy một biểu đạt nhị nguyên và đi theo nó và vượt quá ngôn từ, con cũng tìm thấy một linh thể, nhưng một linh thể nằm trong phổ tần số vật chất, và cái này thì không thể giúp con vượt thăng lên cõi thăng thiên.

Khi con đi theo lời biểu đạt đến từ một chân sư thăng thiên cho tới cội nguồn của nó, con sẽ tìm thấy chân sư đó và tánh linh của vị đó, và điều này có thể giúp con tự gia tốc khỏi mức nhị nguyên. Đây là điểm khác biệt. Đây là khía cạnh Alpha của câu nói bảo rằng ngay cả một bài truyền giảng từ chân sư thăng thiên cũng tương đối, nhưng cũng có một khía cạnh Omega. Bất kỳ biểu đạt nào mà các thày ban ra đều tùy thuộc vào mức tâm thức nơi con người bị mắc kẹt. Nó được điều chỉnh cho phù hợp với mức tâm thức này vì các thày không có mục đích ban ra một lời biểu đạt tối hậu hay bất khả sai lầm về minh triết. Các thày biết rõ điều này không thể thực hiện được qua ngôn từ.

Mục đích của các thày là đưa ra một biểu đạt về minh triết phù hợp với con người ở một mức tâm thức với một hộp tư duy nhất định, và họ nhận được những gì họ cần để tự gia tốc ra khỏi hộp tư duy đó. Các thày không cố ban ra cho mọi người những gì sẽ đưa họ tới giai đoạn tối hậu, mà chỉ cố dẫn đắt họ vượt qua một bước. Đây chính là tinh túy của con đường khai ngộ. Ở cấp thứ tư của khóa nhập thất của thày, khai ngộ tối hậu mà con cần kinh qua là nhận ra bản chất của con đường khai ngộ.

10.7. Tinh túy của con đường khai ngộ 

Khi con ở một tầng cấp nào đó, cho dù là thứ 48 hay thứ 2 hay thứ 142, mối quan tâm của con không phải là vượt qua thử thách cuối cùng hay đạt được minh triết cuối cùng nào đó. Nhiệm vụ của con là đặt chân lên bực kế tiếp của cầu thang vòng xoáy ốc. Nhiệm vụ của con là vượt qua cuộc khai ngộ tiếp theo sau, đưa con lên mức ở ngay trên mức hiện thời của con. Để làm vậy, con cần đạt được minh triết sẽ thách đố hộp tư duy hiện thời của mình để con tự gia tốc vượt lên trên. Đây là minh triết cao nhất. Minh triết cao nhất luôn luôn là minh triết mà con có thể nắm bắt với mức tâm thức hiện tại nhưng vẫn có khả năng gia tốc con lên mức kế tiếp. Đó, con yêu dấu, chính là minh triết tối hậu, nhưng minh triết này hiển nhiên vẫn tương đối so với mức tâm thức hiện thời của con và mức tâm thức ở ngay bên trên.

Nếu con muốn, con có thể nói rằng một mức minh triết tối thượng. Đó là mức mà con có thể nhận được ở tầng tâm thức thứ 144 sẽ gia tốc con lên trạng thái thăng thiên. Đâu có ích lợi gì trao cho con minh triết đó ở tầng 55 khi con không có cách chi nắm bắt được? Con sẽ không có cách nào sử dụng được vì con không thể liên kết nó với mức tâm thức hiện hữu của con. Con cần có một dạng minh triết tương ứng với mức tâm thức hiện hữu của mình hầu con có thể liên kết nó với hoàn cảnh hiện thời, và đồng thời cũng tương ứng với mức kế tiếp hầu con có thể gia tốc tới mức đó.

10.8. Hãy từ bỏ mong muốn một giáo lý tối hậu 

Nếu con muốn vượt được khai ngộ của Tia thứ Tư tại khóa nhập thất Royal Teton, con cần từ bỏ mong muốn của tự ngã nhằm đạt được một dạng minh triết tối hậu nào đó rồi chạy khắp nơi khoa trương minh triết vượt bực của mình cho người khác. Đó là một mong muốn hoàn toàn vô ích, một tìm kiếm hão huyền. Con có thấy chăng? Con có nắm được hay chăng? Con có đang cảm thấy sự chống đối của tự ngã, và có thể cả của các thày giả, đang gào lên bảo con rằng những gì thày đang dạy con nhất định phải là giáo lý giả trá, rằng con không được chấp nhận kẻo nó sẽ kéo con xuống địa ngục? “Cái này nhất định phải đến từ một kẻ trong hàng ngũ tà đạo mạo danh chân sư thăng thiên”.

Đây là điều mà chúng sẽ phóng vào con, và đã có nhiều đệ tử cho phép tâm ý thức của mình quay sang trạng thái sợ hãi. Họ bác bỏ chính những ý tưởng khả dĩ sẽ đưa họ lên tầng tâm thức kế tiếp. Có nhiều học trò của chân sư thăng thiên bám víu vào niềm tin rằng một lời biểu đạt nào đó, một sứ giả hay một tổ chức nào đó đã đưa ra những lời dạy tối thượng. Tất nhiên, điều này cũng phải như vậy thôi, vì các đệ từ này còn cần sống qua trải nghiệm đó thêm một thời gian nữa. Họ cần đi đến chỗ cùng cực của trải nghiệm đó trước khi họ chán ngấy và buông nó ra. Thày không chờ đợi mọi người sẽ nắm được lời dạy này của thày, và thày chỉ đưa nó ra cho những ai đã sẵn sàng, vì họ sẵn sàng vượt qua khai ngộ ở cấp thứ tư, sẵn sàng nắm bắt và chấp nhận khai ngộ đó với tâm ý thức của mình.

Thật con sẽ nhẹ nhõm làm sao khi con buông được mong muốn đi tìm giáo lý tối thượng, vì khi đó con cũng thăng vượt được lòng sợ hãi nhận phải giáo lý giả trá. Có quá nhiều đệ tử, cho dù là theo học chân sư thăng thiên hoặc một giáo lý tâm linh hay tôn giáo nào khác, sợ hãi nhận phải tư tưởng giả trá đến độ họ không dám xem đến cả những ý tưởng chính đáng. Tâm họ không mở ra. Họ khép kín đối với bất cứ gì vượt ra ngoài hệ thống tin tưởng mà họ đã nâng lên vị thế cao trội và bất khả sai lầm.

Con yêu dấu, con có thấy trớ trêu không? Nếu con biết đến sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên và chấp nhận là các thày có thật, con chẳng nhận ra được là các thày đã thăng thiên hay sao? Các thày hiện hữu nơi cõi thăng thiên. Làm thế nào để mà thăng thiên? Bằng cách thăng vượt mọi thứ trên địa cầu. Vậy thì nghĩa lý gì khi bảo các thày là chân sư thăng thiên mà phải tuân theo một hệ thống tin tưởng trên địa cầu? Nghĩa lý gì khi bảo các thày là chân sư thăng thiên mà phải tuân theo một hệ thống tin tưởng mà các thày đã đưa ra cho loài người trong quá khứ?

Làm sao con có thể lấy những bài giảng cũ của các thày truyền đọc qua trung gian một sứ giả chính đáng, rồi sử dụng làm vũ khí để chống lại mọi sứ giả tương lai? Con đang dùng giáo lý đó làm vũ khí chống lại chính các thày để ngăn cản các thày chạm được con với một biểu đạt cao hơn của minh triết phù hợp với thời đại hôm nay hay một mức tâm thức cao hơn. Chuyện này có nghĩa lý gì không? Nghĩa lý gì khi con quá sợ hãi những tư tưởng giả trá, sợ hãi hàng ngũ tà đạo và bọn thày giả, đến nỗi con đóng chặt tâm con không cho vị thày nào vào, thậm chí cả những vị thày chân chính là chân sư thăng thiên?

10.9. Khác biệt giữa đệ tử thật và giả 

Một lần nữa, đây là vấn đề động cơ, vấn đề gia tốc ý định của con. Đâu là ý định của con khi con thu hoạch minh triết? Có phải là để con xác nhận tự ngã và nhu cầu an toàn của tự ngã, hay là để thăng vượt mức tâm thức hiện thời của con? Nếu con muốn thăng vượt mức tâm thức hiện thời, con chỉ có thể làm được bằng một cách: bắt liên lạc trực tiếp với những vị thày tâm linh vượt trên mức hiện thời của con.

Đây là một khía cạnh khác nữa của con đường khai ngộ mà con cần hiểu. Tiếc thay, có nhiều người tâm linh, và ngay cả nhiều học trò của chân sư thăng thiên, tin rằng nếu họ có thể thu hoạch một lời biểu đạt cao trội về minh triết thì công thức đó, lời nói đó, bản văn đó, lời kinh đó, sẽ tự động phóng họ lên một mức tâm thức cao hơn.

Điều này chưa từng đúng bao giờ. Đây là điều mà những kẻ mạo danh trong hàng ngũ tà đạo và những ai theo học chúng luôn tìm kiếm, bằng phép thuật, để đạt được sự điều ngự tự động, là sự điều ngự giả trá của những kẻ tìm cách chiếm đoạt thiên đàng bằng vũ lực, bởi vì họ không sẵn lòng để cho ngã tách biệt của họ chết đi, để cho những cái ngã phát xuất từ tự ngã chết đi. Họ không sẵn lòng nhìn vào cái xà nơi mắt mình, và họ tưởng họ có thể đạt được quyền năng phi thường mà không cần từ bỏ tự ngã, là những quyền năng để họ chế ngự hay khoa trương với người khác.

Đây không phải là những đệ tử chân chính, vì đệ tử chân chính sẽ muốn nâng mình lên trước tiên, nhưng cũng muốn nâng cao mọi sự sống. Đây là những đệ tử chân chính của Ki-tô, và khi con nâng cao ý định của con, con sẽ không thu hoạch minh triết để minh chứng cho nhu cầu an toàn của tự ngã. Con không thu hoạch minh triết để khoa trương với người khác. Con không thu hoạch minh triết để đạt được quyền năng phi thường sẽ khiến người khác nể phục mình hay đạt được những thứ mà con muốn trong cõi vật chất. Con đi tìm minh triết sẽ giúp con gia tốc chính mình lên mức tâm thức kế tiếp, nhưng cũng sẽ giúp con tạo cảm hứng cho người khác muốn gia tốc theo. Con cố gắng tự nâng cao và nâng cao người khác, và như vậy con cũng nâng cao mọi sự sống. Đây là động cơ đích thực để thu hoạch minh triết.

Con không tìm cách đạt được một minh triết tối thượng, tuyệt đối nào đó. Con tìm cách đạt được minh triết sẽ hữu ích cho con thăng vượt mức của con, nhưng cũng hữu ích cho người khác nhận lấy cảm hứng để mà thăng vượt chính mức của họ, bất kể con gặp những ai trong khi con đầu thai trên địa cầu. Điều này có nghĩa là con không chạy khắp nơi đem minh triết cao siêu của mình đập lên đầu mọi người rồi bắt họ phải chấp nhận.

Con nhìn mọi người một cách cởi mở và trung thực, và con xét xem họ đang ở đâu trên mặt tâm thức. Rồi con tìm cách trao cho họ một điều gì đó sẽ đưa họ lên một nấc cao hơn – không phải hai trăm nấc cùng một lúc trong một bước nhảy khổng lồ, mà chỉ một nấc cao hơn. Khi họ đã bước lên nấc đó, con có thể cho họ nhiều hơn, nhưng con không cho họ tất cả một lượt. Đó không phải là minh triết. Đó là điều mà người ta làm khi bị đui mù bởi tự ngã, khi chỉ có hai lựa chọn, hoặc là tất cả hoặc không có gì. “Hoặc bạn phải nhận lấy toàn bộ hệ thống tin tưởng cao siêu của chúng tôi, hoặc bạn sẽ bị xuống địa ngục,” như người đạo Cơ đốc đã đập lên đầu mọi người khác suốt bao nhiêu thế kỷ, đến độ ngày càng có nhiều người chán ứ, khiến họ bác bỏ toàn bộ tánh linh đứng đằng sau đạo Cơ đốc, tức là chính Giê-su.

Làm thế nào con có thể nhận được minh triết của một chân sư thăng thiên nếu con không vượt xa hơn ngôn từ và chiêm nghiệm tánh linh của chân sư – là tánh linh hằng sống, không ngừng tuôn chảy, không ngừng thăng vượt của chân sư? Làm thế nào con sẽ chứng nghiệm tánh linh hằng sống đó nếu con đòi hỏi tánh linh phải phù hợp với những cách biểu đạt cũ qua những ngôn từ nay đã đóng băng trong vật chất? Một khi lời nói được thốt ra, nó liền đóng thành băng, nhưng tánh linh thì không bao giờ đóng băng. Con muốn gì: một biểu đạt bằng ngôn từ đóng băng hay nguồn suối hằng sống của tánh linh?

10.10. Trên đường tu không có thử nghiệm nào thất bại 

Đây là sự lựa chọn của con ở cấp thứ tư. Đôi khi học viên phải mất một thời gian rất, rất dài để chọn lựa là họ có muốn tánh linh nhiều hơn mọi thứ khác hay không. Khi rốt cuộc họ chọn lựa, họ nhận ra là bằng cách gia tốc ý định của mình và sẵn lòng không ngừng gia tốc ý định của mình, họ cũng tự gia tốc khỏi các thày giả, khỏi những kẻ mạo danh trong hàng ngũ tà đạo và giáo lý giả trá.

Nếu con không ngừng nỗ lực tự gia tốc thì đâu có vấn đề gì nếu con lỡ chấp nhận một giáo lý giả trá? Vì sau đó con sẽ nhìn ra là nó giả trá, và khi con thấy là nó giả trá, con đã tự gia tốc và đạt được phân biện. Giờ đây con biết rõ cái gì không đem lại kết quả. Hẳn con đã nghe câu chuyện về Thomas Edison khi ông tìm kiếm vật liệu thích hợp cho bóng đèn điện. Ông đã khám phá ra một ngàn cách không nên sử dụng để chế tạo bóng đèn điện. Mỗi thử nghiệm đó không hề là thử nghiệm thất bại mà là thử nghiệm thành công. Nó khiến ông nhận ra: “À! Cách này không được.”

Thế nào là tiến trình thăng thiên? Đó là khi con khám phá ra một ngàn cách để không trở thành một chân sư thăng thiên. Bởi vì mỗi lần con phát hiện một cách không khiến con trở thành chân sư thăng thiên, con đã bước cao hơn một bực. Cuối cùng thì đến mức con có thể phát hiện cách độc nhất để trở thành chân sư thăng thiên – thì lúc đó, con một chân sư thăng thiên.

Trên đường tu thăng thiên, không có chuyện thử nghiệm thất bại. Cho dù nó có đem lại kết quả hay không, con có thể học hỏi từ đó và tự gia tốc lên một mức tâm thức cao hơn. Đó chính là dấu ấn của một đệ tử chân chính, chứ không phải là con đòi hỏi sự bảo đảm là con sẽ thăng thiên nếu con đi theo giáo lý vỏ ngoài này hay đạo sư vỏ ngoài nọ. Không, con sẵn lòng thử nghiệm vì con bắt đầu nhận ra chìa khóa để thăng thiên là bắt liên lạc với tánh linh, là trở thành cánh cửa mở cho tánh linh, là trở thành một với tánh linh.

Thế nào là một chân sư thăng thiên? Thày là Thượng sư của Tia sáng thứ Hai không phải vì thày đã học hỏi Tia thứ Hai và có những kiến thức từ xa về Tia thứ Hai. Thày là Thượng sư của Tia thứ Hai vì thày là một với tánh linh của Tia thứ Hai. Do đó, thày là Tia thứ Hai. Thày đã tự nâng mình lên tới mức thày không còn xem mình là một với Tia thứ Hai, vì thày là Tia thứ Hai!

Thày vị đại diện của Tia thứ Hai cho địa cầu. Không có ai khác. Không có tánh linh nào tuôn chảy qua thày. Thày chính là tánh linh đang tuôn chảy, và tánh linh của thày sẵn lòng tuôn chảy qua con nếu con chịu mở con ra cho dòng chảy sẽ giúp con thăng vượt mức hiện tại của con, cho dù mức đó là gì, bằng cách con thách đố hộp tư duy hiện thời của mình.

Nếu con sẵn lòng bị thách đố thì thày cũng sẵn lòng thách đố. Cả hai chúng ta có thể chảy lên một mức cao hơn, chúng ta có thể gia tốc lên một mức tinh khiết cao hơn, một biểu đạt minh triết luôn luôn tinh khiết hơn nữa. Thày là tánh linh của Tia thứ Hai. TA LÀ Lanto!

8 | Minh triết và Tình thương

Bài giảng của chân sư thăng thiên Lanto qua trung gian Kim Michaels, ngày 12/3/2014.

TA LÀ Lanto và thày thương yêu con. Có lý do nào khác mà thày lại ở với hành tinh địa cầu nếu thày không thương yêu con? Thày thương yêu các dòng sống khác đang hiện thân trên địa cầu. Thày thương yêu chính hành tinh này, và thày thương yêu viễn kiến cùng hoạch định cho hành tinh này được giữ trong tâm các chân sư thăng thiên – trong thời đại này, chân sư Saint Germain.

Thày là một sinh thể thăng thiên. Con hãy nhìn trong giây lát khoảng mênh mông của vũ trụ vật chất. Nghĩ xem có bao nhiêu tinh tú, bao nhiêu thiên hà, bao nhiêu hành tinh. Thật là vô số kể. Bây giờ con thử tưởng tượng con có một phi thuyền không gian cho phép con đi chơi tự do khắp đây đó trong vũ trụ vật chất. Liệu con sẽ ở lại với hành tinh nhỏ bé này, hay con sẽ đi khám phá những chân trời xa xôi kia? Đó, thày có thể cam đoan với con là cõi tâm linh còn rộng lớn hơn gấp bội, và có những chân trời thú vị hơn gấp bội vũ trụ vật chất để con khám phá. Khi con thăng thiên, toàn bộ khoảng bao la này của cõi tâm linh sẽ mở ra cho con. Con có thể đi gần như bất cứ nơi đâu nếu con thật chuyên cần. Vậy thì tại sao một chân sư thăng thiên lại chọn ở lại với địa cầu? Chỉ có thể có một lý do mà thôi: tình thương.

8.1. Con có thể chứng minh bất cứ quan điểm nào

Như thày có nói trong bài giảng trước về minh triết, điều các thày muốn cho học viên thấy là con có thể tranh luận chống hay thuận bất kỳ quan điểm nào. Bằng cách loại bỏ bằng chứng trái ngược, con có thể minh chứng bất kỳ điều gì con muốn. Con có thể chứng thực bất kỳ tin tưởng nhị nguyên nào để thỏa mãn tự ngã, thỏa mãn những ai nhìn qua phin lọc nhận thức của một vai trò nhất định. Có những người trên trái đất nghi ngờ sự hiện diện của các chân sư thăng thiên. Có những người trên trái đất nghi ngờ động cơ của các thày khi ở lại với địa cầu. Có những người bảo rằng đáng lý các thày phải đi nơi khác thay vì ở lại địa cầu.

Họ hoàn toàn chắc chắn là họ đúng, vì họ nhìn các thày qua một phin lọc nhận thức nhất định. Thậm chí có cả những học trò của chân sư thăng thiên tuy chắc chắn là các thày có thật, chắc chắn là các thày có lý do chính đáng để ở lại với địa cầu, nhưng lại cố ép các thày vào cho vừa một hộp tư duy nhất định. Một lần nữa, nếu con cứ chọn mãi thì con sẽ tìm ra một giáo lý nào đó của chân sư chứng thực gần như bất cứ gì con muốn tin. Liệu con có muốn tin là các chân sư giống như những phiên bản nhỏ của một thượng đế giận dữ trên trời mà cả ba tôn giáo độc thần đã đề xướng từ hàng ngàn năm nay? Nếu vậy thì con sẽ tìm ra một số lời dạy dường như xác nhận quan điểm đó, nhưng các thày là nhiều hơn hẳn quan điểm đó. Các thày nhiều hơn hẳn bất kỳ quan điểm nào. Điều các thày muốn đệ tử thấy được ở giai đoạn thứ nhì của khai ngộ tại Royal Teton là một khi con đã tạo ra một hộp tư duy đóng kín, nó sẽ lọc bỏ đi bất cứ bằng chứng trái ngược nào, và như vậy nó trở thành một hệ thống kín mít, một vòng tròn kín mít, một lời tiên đoán bắt buộc phải thành hiện thực.    

8.2. Thoát khỏi hộp tư duy – bằng tình thương hay bằng vũ lực

Con sẽ không có cách nào thoát khỏi hộp tư duy khi con còn nhìn cuộc sống qua phin lọc nhận thức đã tạo ra chiếc hộp ngay từ đầu. Con không thể tra vấn nhận thức từ bên trong phin lọc nhận thức. Con phải dùng khả năng của cái Ta biết khi nó tự phóng chiếu ra ngoài hộp tư duy và phin lọc hiện thời của con. Cái gì sẽ thúc đẩy cái Ta Biết làm vậy? Trong Trường đời Cay đắng, rồi đây con sẽ đạt tới một điểm khi trường đời trở nên quá đỗi cay đắng và con bị cuộc đời đánh gục, bị tuyệt vọng đến độ con sẽ sẵn lòng nhìn ra ngoài hộp tư duy để trốn khỏi nỗi đau.

Ở khóa nhập thất tại Royal Teton, các thày không có ý định bắt con phải trải nghiệm khổ đau cho tới khi nỗi đau nhức nhối đến độ con phải quyết định tìm cách thoát thân. Các thày không ở đây để cống hiến cho con một cách thoát thân, và do đó sẽ tới một điểm ở cấp khai ngộ thứ ba khi con sẽ không thể tiến xa hơn cho tới khi con tự phát huy một động lực dựa trên tình thương. Con phải yêu thương một cái gì đó nhiều hơn là hộp tư duy của con. Con phải yêu thương một minh triết cao hơn, nhiều hơn minh triết do phin lọc nhận thức quy định.

Nếu con không có tình thương này, con sẽ không thể bước tiếp. Điều các thày muốn làm ở cấp khai ngộ thứ ba là chỉ cho đệ tử thấy là con đã có sẵn tình thương này ở đâu đó trong chính con. Khi con bước vào bên trong đủ sâu, con sẽ nhận ra dòng sống của con là sự yêu thương một cái gì vượt khỏi hộp tư duy hiện thời của mình. Tình thương này đã có mặt trước khi con tạo ra hộp tư duy khi con bước vào vai trò hiện tại của mình. Chính tình thương này đã khiến cái Ta Biết hiện thân trong vũ trụ vật chất. Con có tình thương muốn nhìn thấy sáng tạo của Thượng đế trải bày ra. Con yêu thương Hiện diện TA LÀ của con cùng các đức tính của Thượng đế mà con đã cá thể hóa (individualize). Con yêu thương việc biểu hiện các đức tính đó của Thượng đế và thấy ánh sáng đó tỏa vào bóng tối của cõi vật chất.

Đây là động lực mà các thày cố giúp con tái khám phá. Chắc chắn con đã tái khám phá phần nào động lực đó khi con đi qua các khai ngộ của Tia thứ Nhất, nhưng các thày giúp con bước vào sâu hơn và nối kết lại với tình thương đã đem con đến hành tinh này. Các thày giúp con nhìn ra làm cách nào con có thể biểu hiện tình thương với nhiều minh triết hơn, nhiều phân biện hơn. Ở mức khai ngộ của Tia thứ Ba trong khóa nhập thất này, các thày muốn giúp con nhìn ra là khi minh triết được biểu lộ qua tình thương, một cái gì thật mới sẽ đột nhiên thức dậy trong con. Con bắt đầu nhận ra là những việc làm khôn ngoan của con người trên trái đất không do tình thương thúc đẩy, hay đúng hơn, không do Tình thương Thiêng liêng thúc đẩy mà do sự yêu mến phàm phu. Con người sử dụng trí khôn đó để phán đoán, kể cả sự phán đoán giá trị mà tự ngã, các sa nhân và thày giả đều ưa thích.

8.3. Phân biện Ki-tô và sự phán đoán phàm phu

Minh triết bị tha hóa bởi tình thương giả trá này, là loại tình thương chiếm hữu và kiểm soát, cho nên nó không còn là Minh triết Thiêng liêng nữa. Minh triết Thiêng liêng đích thực đem lại cho con tính phân biện, nhưng phân biện này không dính dáng gì tới phán đoán phàm phu.  Đây là một điểm mà hầu hết các đệ tử chưa hề nghĩ tới bao giờ. Họ chưa bao giờ nghĩ tới là có sự khác biệt giữa phân biện Ki-tô và phán đoán khởi lên từ tâm phản-Ki-tô. Từ một quan điểm hời hợt, người ta quen thói nghĩ rằng khi mình dùng một tiêu chuẩn công phu để lượng định một tình huống hoặc một người hoặc một ý tưởng, thì mình đang thực hành phân biện. Thậm chí nhiều người còn tưởng đó là phân biện Ki-tô.

Con hãy nhìn xem, nhiều tín hữu Cơ đốc tin chắc giáo hội của mình nắm giữ cách diễn giải Kinh thánh đúng đắn duy nhất, và giáo điều cùng thế giới quan của giáo hội mình nhất định phải dựa trên cái mà họ gọi là phân biện Ki-tô – nếu họ dùng thuật ngữ này. Họ tin chắc tuyệt đối là họ đang phán xét một cách công chính vì họ đã có lời diễn giải chân chính về lời dạy của Ki-tô. Kỳ thực, cái họ có là sự diễn giải của con người phàm phu dựa trên tâm phản-Ki-tô về lời dạy của Ki-tô. Họ đã áp đặt một hình tượng giả trá lên lời dạy của Ki-tô, và họ dùng hình tượng này để phán xét mọi tôn giáo khác, mọi ý tưởng, mọi cách diễn giải khác về Kinh thánh cũng như người khác.

Họ phán xét các tôn giáo khác và những ai không có tôn giáo, nhưng họ phán xét cả những người đồng đạo Cơ đốc của họ. Trong nhiều hội thánh nhỏ như thế, đặc biệt tại Hoa Kỳ, các thành viên tin chắc mình là người đặc biệt, ngay cả so với mọi tín đồ Cơ đốc khác. Họ là người nắm giáo lý chân chính. Họ là những người chắc chắn được lên thiên đàng, hoặc chắc chắn sẽ nhận ra Giê-su khi thày trở lại trong lần tái lâm. Và khi Giê-su tái lâm, họ chắc chắn mình sẽ được chứng thực là những người duy nhất nắm giữ lời dạy chân truyền của Ki-tô. Tất nhiên đây không phải là phân biện Ki-tô.

Tiếc thay, thậm chí có cả những học trò của chân sư thăng thiên cũng tin mình có phân biện Ki-tô, dựa trên giáo lý do các chân sư thăng thiên truyền giảng. Nhưng như thày đã nói, điều mà các thày đưa ra là lời nói, mà lời nói thì tha hồ diễn giải. Họ diễn giải lời nói của các thày dựa trên phin lọc nhận thức hiện thời của họ. Chuyện hoàn toàn có thể xảy ra là họ lấy một lời dạy của chân sư để tạo dựng một cái hộp tư duy cũng hoàn toàn kín mít y như hộp tư duy của nhiều nhóm Cơ đốc cực chính thống.

Các thày đã thấy chuyện này xảy ra trong hơn thế kỷ qua khi truyền giảng một cách công khai. Các thày vẫn thấy chuyện này xảy ra ngày hôm nay khi có những nhóm tin chắc mình là những đệ tử cao cấp nhất của chân sư thăng thiên trên địa cầu, bởi vì họ đã lấy một giáo lý nhất định, biến nó thành hộp tư duy khép kín rồi sử dụng để phán xét Lời Hằng sống mà các thày vẫn liên tục truyền rải cho những ai có tâm rộng mở để làm sứ giả cho Lời Hằng sống.

Đó không phải là phân biện Ki-tô, và đó là điều con cần nhìn thấy ở cấp khai ngộ thứ ba tại nhập thất Royal Teton. Cho tới khi con chiêm nghiệm được – trong nghĩa đen – sự khác biệt trong độ rung giữa phân biện Ki-tô và sự phán đoán phàm phu, con không thể tiến bước. Con không thể vượt qua cuộc khai ngộ của cấp thứ ba, là khai ngộ của minh triết biểu hiện qua tình thương.

8.4. Tình thương Thiêng liêng không hạn chế quyền tự quyết

Tình thương không phán xét. Tình thương Thiêng liêng thì không phán xét, nhưng đúng là tình thương của con người hoàn toàn dựa trên một sự phán xét. Con chỉ việc nhìn khắp thế giới xem người ta tiếp cận đề tài hay khái niệm tình thương như thế nào. Hãy xem có bao nhiêu người, trong quan hệ cá nhân, tìm cách sở hữu hay kiểm soát người mà họ nói họ yêu. Họ có thể cho đó là vì lợi ích của người kia, nhưng làm sao là lợi ích được nếu họ cố cưỡng ép quyền tự quyết của người đó? Có bao giờ Thượng đế đã bổ nhiệm con làm quan tòa để xét xử người khác phải dùng quyền tự quyết của họ như thế nào không?

Đôi khi các thày phải cứng rắn một chút với học viên. Đôi khi các thày phải cho họ thấy là trong lúc tỉnh táo, họ đang sử dụng tình thương có điều kiện, tình thương chiếm hữu, trong quan hệ với người khác. Xong các thày cho họ thấy một mối quan hệ cụ thể và cách họ cư xử với một người nào đó, và các thày hỏi họ tại sao họ lại làm thế này hay thế kia. Họ luôn luôn nghĩ ra được một lý lẽ tại sao điều họ làm lại cần thiết cho ích lợi của người kia. Và đôi khi các thày phải chất vấn học viên: “Con có thể trưng ra cho thày xem bản hợp đồng mà con đã ký với Thượng đế giao cho con nhiệm vụ phán xét người đó? Đâu là tờ giấy chứng minh là con lãnh trách nhiệm về sự cứu rỗi của người đó?”

Có khi điều này khiến học viên ngừng lại và suy nghĩ. Tất nhiên, họ nhận ra là họ không hề có bản hợp đồng đó. Tại sao họ đã dựng lên ý tưởng là họ có trách nhiệm về sự cứu rỗi của người khác và họ phải xử sự như thể họ có quyền sở hữu gì đó trên người đó?

Nếu con muốn vượt qua khai ngộ ở cấp thứ ba, con phải ngừng tìm cách sở hữu người khác. Thày đang chực nói là con phải chuyển trọng tâm của con vào việc sở hữu chính mình, nhưng tất nhiên, nói như vậy sẽ dễ dàng bị hiểu lầm. Thật vậy, có nhiều người đã thăng vượt được mong muốn sở hữu người khác, họ vẫn tìm cách sở hữu chính mình cũng như tâm mình, nhưng họ làm vậy từ góc nhìn của tự ngã. Điều họ làm thực sự là tìm cách đặt tự ngã vào địa vị kiểm soát tâm họ, ý tưởng của họ, cảm xúc của họ, ý niệm bản sắc của họ. Thay vì con tìm cách sở hữu tâm con, thà là con buông bỏ mọi nhu cầu sở hữu bất cứ gì trên địa cầu.

8.5. Con không thể giam Phật tánh trong hộp tư duy

Thế nào là minh triết đích thực? Thày đã nói rằng minh triết cao nhất là biết mọi sự sống là một, bởi vì mọi thứ đều là Phật tánh. Đây là điều mà đức Phật đã giảng dạy bao nhiêu năm về trước – 25 thế kỷ, quả là rất lâu trước đây. Con nhìn xem người ta đã làm gì với lời dạy của Phật. Họ đã biến nó thành một đồ vật. Con có thể tìm thấy nhiều môn phái tin rằng họ sở hữu lời dạy của Phật.

Con yêu dấu, lời dạy của Phật là gì? Đó phải chăng là một học thuyết vỏ ngoài nào đó được diễn tả bằng lời? Nếu sự chứng ngộ nằm ở trung tâm đạo Phật rằng tất cả đều là Phật tánh, thì hệ quả chẳng phải là lời dạy của Phật cũng là Phật tánh hay sao? Những lời dạy đó cũng mang Phật tánh ở bên trong.

Vậy thì Phật tánh là gì? Người ta nghĩ Phật tánh là một trạng thái toàn hảo nào đó, và họ nghĩ nếu cái gì toàn hảo thì nó không thể thay đổi. À, đây là vấn đề trung tâm của hiện hữu con người. Vấn đề trung tâm là như sau: Con đang nỗ lực đạt được một trạng thái toàn hảo mà con cho là không thay đổi, hay con nỗ lực đạt đến sự hợp nhất với Phật tánh?

Con thấy đó, Phật tánh là thay đổi không ngừng. Phật tánh là tự thăng vượt không ngừng. Phật tánh không bao giờ đứng yên một chỗ. Nó luôn luôn thăng vượt chính nó. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là con không thể sở hữu Phật tánh. Con không thể kiểm soát Phật tánh. Con không thể tạo ra một cái hộp tư duy và bảo là Phật tánh được chứa trong hộp. Trước cả khi con có thể tạo ra hộp tư duy, Phật tánh đã tự thăng vượt một tỷ lần rồi.

8.6. Mắt Thượng đế chỉ có thể thấy sự duy nhất

Chỉ có tự ngã con người mới muốn tạo ra một trạng thái toàn hảo không thay đổi, vì nó tin rằng khi nó có thể tạo ra trạng thái toàn hảo đó thì nó sẽ được chấp nhận trong mắt Thượng đế. Như các thày đã giảng dạy nhiều lần, kể cả trong những quyển sách nền tảng của Giê-su về tự ngã, tự ngã sẽ không bao giờ được chấp nhận trong mắt Thượng đế, bởi vì mắt Thượng đế chỉ nhìn thấy duy nhất, trong khi mắt của tự ngã thì chỉ thấy tách biệt.

Mắt Thượng đế thấy thực tại rằng mọi sự sống đều là Dòng sông của Sự Sống không ngừng chảy. Mắt của duy nhất sẽ không bao giờ thấy được tự ngã, vì tự ngã đứng riêng ra khỏi duy nhất và do đó nó không có thật. Mắt của duy nhất chỉ thấy được cái có thật. Mắt của tách biệt chỉ thấy được cái không thật, và hai cái này thì không bao giờ gặp nhau. Chỉ có sự gặp nhau khi cái Ta Biết bước ra khỏi phin lọc nhận thức của tự ngã và chiêm nghiệm sự duy nhất, chiêm nghiệm chính nó là Phật tánh, là một với Dòng sông sự Sống không ngừng tự thăng vượt. Đây là minh triết. Minh triết được biểu đạt qua tình thương khi con nhận ra rằng con muốn cái gì nhiều hơn là những ảo tưởng của hộp tư duy và phin lọc nhận thức của con. Con muốn chính nguồn suối hằng sống, chứ không muốn một sự diễn đạt nào đó của minh triết, cho dù cao siêu nhưng cố định.

Trên thế giới có những người đã tìm ra một lời dạy tâm linh cụ thể nào đó. Họ đã nâng lời dạy đó lên địa vị cao siêu với thẩm quyền hơn trội. Họ tin chắc là nếu họ cứ đi theo lời dạy đó, thực hành mọi điều được quy định trong đó, hay được quy định bởi tổ chức vỏ ngoài tuyên bố sở hữu lời dạy, thì họ sẽ được bảo đảm cứu rỗi, sẽ bước vào thiên đàng, trở thành giác ngộ, nhập niết bàn, hoặc bất kỳ mục tiêu nào đặt ra.

Thậm chí có cả những học trò của chân sư thăng thiên cũng nắm lấy giáo lý của chân sư rồi đưa lên địa vị ưu việt và bất khả sai phạm, và như vậy họ cũng đã nhét lời dạy vào một hộp tư duy đóng kín. Họ không còn tai để mà nghe thấy và mắt để mà nhìn thấy lời dạy hằng sống là chính các thày. Các thày là một với Phật tánh, và các thày không ngừng thăng vượt chính mình, có nghĩa là giáo lý của các thày cũng không ngừng tự thăng vượt.

8.7. Hộp tư duy là tình thương bị tha hóa

Chỉ có tình thương mới giúp con giữ liên lạc với các thày khi các thày cứ tiếp tục tự thăng vượt và cũng thăng vượt những giáo lý đã ban ra trong quá khứ, kể cả quá khứ gần đây. Con hãy để ý sự khác biệt vi tế. Một giáo lý do chân sư thăng thiên truyền qua một sứ giả được bảo trợ là một giáo lý chính đáng. Nhưng ngay lúc giáo lý này được trao ra và biểu đạt trong cõi vật chất, các chân sư thăng thiên đã tự thăng vượt rồi và đồng thời cũng thăng vượt giáo lý đó. Điều này không có nghĩa là nó không có giá trị, mà có nghĩa là nếu con muốn giữ liên lạc với các thày, con không thể biến giáo lý thành một hộp đóng kín. Con dùng nó làm nền tảng để thăng vượt ý niệm cái ta của con cũng như bất kỳ cách diễn giải nào về giáo lý.

Thế nhưng điều con chứng kiến trong các tổ chức của chân sư thăng thiên cũng như mọi tổ chức tâm linh và tôn giáo khác, là một tiến trình lọc lựa. Thường khi, sẽ có đa số đệ tử muốn lấy giáo lý và biến nó thành hộp tư duy đóng kín. Khi làm vậy thì họ cũng tạo ra một văn hóa tổ chức là một hộp đóng kín. Thậm chí họ còn có thể đẩy ra rìa những ai không chấp nhận văn hóa đó cùng thế giới quan đó. Và thiểu số còn lại là những đệ tử cởi mở không chấp nhận hiện trạng này sẽ bỏ đi, để tìm một sứ giả khác hay một tổ chức khác, hoặc họ sẽ thiết lập sự tiếp xúc nội tâm của riêng mình với các thày để nhận được xung lực và lời dạy trực tiếp từ các thày. Đây là Dòng sông sự Sống. Đối với những đệ tử muốn ở lại trong hộp, họ có tình thương dưới dạng tha hóa. Suốt ngày họ sẽ quả quyết là họ yêu các chân sư và họ cũng yêu giáo lý của chân sư. Đúng là họ yêu các thày, nhưng một cách chiếm hữu. Họ quyết định là họ đã đạt đến một điểm ổn định trên đường tu nơi họ cảm thấy vô cùng thoải mái, và họ muốn các thày phê chuẩn điểm ổn định đó và sự kiện họ ngồi lại. Họ muốn các thày phải chui vào hộp tư duy của họ. Đây có lẽ là tình thương, nhưng chắc chắn chỉ là tình thương phàm phu chiếm hữu đã gây ra không biết bao nhiêu vấn đề trên hành tinh này khi người ta cố cưỡng ép người khác mà lại tưởng mình đang làm vậy với ý định tốt đẹp nhất, thậm chí với cả thẩm quyền cao nhất.

8.8. Con muốn đứng lại hay con muốn thăng vượt?

Giê-su nói: “Nếu con yêu ta, hãy thi hành các điều răn của ta.” Điều răn quan trọng nhất của Giê-su là gì? “Ai muốn cứu sự sống của mình thì sẽ mất, còn ai vì ta mà sẵn sàng mất sự sống của mình thì sẽ tìm thấy”, tức là tìm thấy sự sống vĩnh hằng trong sự tự thăng vượt liên tục. Sự sống mà Giê-su nói đến là tự thăng vượt liên tục. Đây là sự sống mà Ki-tô hằng sống cống hiến cho loài người đang đầu thai. Nếu con không dự phần vào thân và huyết của Ki-tô, con không thể có sự sống trong con, bởi vì con cố giam hãm tánh linh của mình trong một cái hộp tư duy được quy định trên địa cầu.

Tánh linh của con không thể nhét vừa trong hộp, cho nên nó phải rút lui, nó phải giữ lại ánh sáng và sự sống của nó khỏi phàm ngã của con. Nếu tánh linh không làm vậy thì con sẽ tạo ra rất nhiều nghiệp quả khi con biểu hiện ánh sáng đó qua phin lọc nhận thức và hộp tư duy của con, khi con dùng ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ để cưỡng ép người khác, và như vậy con ngày càng tạo thêm nghiệp cho mình. Thật là một ân huệ khi Hiện diện TA LÀ giữ lại ánh sáng hầu hạn chế khối nghiệp quả mà con gây ra khi con cố ép buộc người khác, ép buộc các chân sư thăng thiên, ép buộc toàn bộ vũ trụ hay thậm chí cả Thượng đế vào hộp tư duy của con – như các sa nhân đã cố làm từ rất lâu nay. Sẽ tới một điểm trong khai ngộ tại khóa nhập thất Royal Teton khi con phải đối mặt với sự cần thiết tuyệt đối là xét xem con thương yêu những gì. Có gì con yêu hơn hộp tư duy hiện tại của con? Nếu thế, con phải hòa điệu với cái đó và tự hỏi một câu vô cùng nghiêm túc: “Tôi có muốn kết hợp nhiều hơn với cái mình yêu thương, hay tôi muốn dùng những lý lẽ toàn hảo dựa trên hộp tư duy hiện thời của mình để lập luận chống lại sự hợp nhất đó?” Con phải đạt đến điểm khi con thấy được sự chọn lựa mà con đối mặt giống như phải chọn giữa sống và chết. Liệu con có muốn tiếp tục chứng thực hộp tư duy của mình, hay con muốn sự kết hợp lớn hơn với những gì con yêu thương hơn cái hộp? Con không thể có cả hai.

8.9. Con không thể ăn hết cái bánh mà lại còn bánh

Đây là khai ngộ mà con đối diện ở cấp ba: Con không thể ăn hết cái bánh mà lại còn bánh. Con hãy suy ngẫm minh triết ẩn giấu trong câu nói dân gian đó, nghe tưởng quá đơn giản. Con có một miếng bánh. Con có thể hoặc ngồi đó, nhìn bánh và hưởng thụ cảm giác mình sở hữu một miếng bánh, hoặc con có thể  ăn bánh và mất đi cảm giác sở hữu miếng bánh. Đâu là công dụng của bánh? Phải chăng là để con trưng bày nó trong tủ kính rồi đi vòng vòng khoe với tất cả bạn bè cùng thân nhân: “Hãy nhìn miếng bánh tuyệt vời này mà tôi sở hữu”. Hay là công dụng của bánh là để con mời bạn bè cùng thân nhân đến, xong giống như Giê-su bẻ thân mình cho môn đồ, con cũng bẻ bánh ra cho mọi người? Con chia cho mỗi người một miếng bánh. Con để họ ăn bánh, và đúng vậy, con đã mất chiếc bánh. Con mất đi cảm giác sở hữu chiếc bánh, nhưng thay vào đó con được gì? Con được sự hợp nhất với dòng chảy của Dòng sông sự Sống. Con được sự hợp nhất bởi vì cái mà con đã tự do nhận được thì con cũng tự do cho ra, và như vậy con có tự do nhận được nhiều hơn.

Sự chọn lựa là như sau: Con có thể lấy giáo lý tâm linh hiện thời của con, đặt nó vào tủ kính và đi vòng vòng với niềm hãnh diện về giáo lý tuyệt vời con đang trưng bày trong tủ. Hay con có thể bẻ giáo lý ra và ăn vào, và do đó con sẽ mất đi ý niệm vật sở hữu. Nhưng con nhập vào dòng chảy liên tục của dòng sông giáo huấn luôn luôn tự thăng vượt đang xối xuống từ các chân sư thăng thiên.

Con có thể đứng lại tại chỗ bên ngoài dòng chảy, hay con có thể nhập một với dòng chảy. Con không thể làm cả hai. Con không thể làm cả hai, con yêu dấu. Tất nhiên, tự ngã và các thày giả rất thèm muốn con tin là con có thể ăn bánh mà vẫn sở hữu miếng bánh. Họ muốn con tin rằng con vẫn vững chân tiến bước về ngày thăng thiên của con miễn là con tiếp tục học giáo lý của chân sư thăng thiên. Nếu con đã tìm thấy một vị sứ giả chân chính vẫn tiếp tục đưa ra giáo lý thì làm sao con lại đứng tại chỗ được? Nhưng con vẫn có thể đứng lại tại chỗ nếu con không thực sự thể nhập giáo lý và cho phép nó dẫn con vượt khỏi hộp tư duy của con.

Ngay cả một lời dạy hằng sống đang tuôn chảy cũng có thể bị sử dụng để xác nhận hộp tư duy của mình, vì hộp tư duy sẽ lọc bỏ đi những khía cạnh của lời dạy có thể thách đố nó. Nếu con không dùng lời dạy để giúp cái Ta Biết bước ra ngoài hộp tư duy, thì thật sự con sẽ dùng lời dạy để khiến cho hộp tư duy đông đặc lại cùng với niềm tin là chiếc hộp sẽ đưa con lên thiên đàng.

Bao nhiêu lần các thày sẽ phải nhắc lại rằng thăng thiên không phải là tiến trình xây đắp một cái hộp tư duy cho nó trở thành hoàn hảo đến độ Thượng đế sẽ phải chấp nhận nó vào cõi thăng thiên? Thăng thiên là một tiến trình mà qua đó con lột bỏ mọi khía cạnh của các hộp tư duy xuất phát từ tách biệt, cho đến khi con trở về với trạng thái ngây thơ nguyên thủy của con, nghĩa là vô tướng. Khi con thăng vượt mọi hình tướng bảo con là cái này hay cái nọ, thì con sẽ là cái mà con luôn luôn là, tức là sinh thể vô tướng đã từng giáng thế. Như Giê-su đã nói: “Chưa hề có ai trở lên trời, trừ ra đấng từ trời xuống.” Chỉ có cái Ta Biết trinh nguyên, vô tướng, đã đi xuống từ cõi tâm linh mới có thể thăng lên trở lại. Đây là một bí ẩn đáng để suy ngẫm, mặc dù nó hơi vượt quá cấp ba tại khoá nhập thất Royal Teton này nhưng vẫn là một ý tưởng con nên giữ trong tâm.

8.10. Thăng vượt mọi sở hữu nếu con muốn thăng thiên

Cái Ta Biết mở rộng nhận biết của nó bằng cách hiện thân, nhưng nó không làm vậy bằng cách xây dựng một ý niệm bản ngã tách biệt. Con không ở đây để xây dựng một cái ngã tách biệt tinh xảo đến mức nó thoả mãn một chuẩn mực tối hậu nào đó và được phép lên thiên đàng. Con ở đây là để xây dựng một ngã tách biệt hầu con trải nghiệm cuộc sống xuyên qua nó trong một thời gian, rồi con thăng vượt ngã này, và con cứ tiếp tục làm vậy cho đến khi con thăng vượt mọi loại ngã mà con có thể nghĩ ra và xây dựng trong thế gian này. Con nhận ra là con đã xong xuôi chuyện trải nghiệm thế gian này. Con đã thăng vượt tất cả mọi ngã mà con có thể nghĩ ra là những cách hữu ích để trải nghiệm thế giới hình tướng này. Giờ đây con đã sẵn sàng trở về với vô tướng, và chính trong trạng thái vô tướng này mà con thăng thiên.

Cũng tựa như người ta nói về thân thể vật lý, con đã bước vào thế gian này trần trụi thì con ra đi cũng y như vậy. Con không thể đem theo sở hữu với con, nhưng con có thể đem theo một thứ. Cái mà con đem theo với con không phải là cái ngã tách biệt con đã tạo dựng, mà là sự chứng đạt được lưu trữ trong căn thể của con (causal body). Căn thể này, con sẽ đem theo với con, và nó sẽ giúp con trên cuộc hành trình nối tiếp như một chân sư thăng thiên.

Con sẽ không trở thành một chân sư thăng thiên cho đến khi con thăng vượt mọi khía cạnh của ngã tách biệt. Bất cứ gì con nghĩ là mình sở hữu phải được thăng vượt. Con phải từ bỏ cuộc sống này để đi theo Ki-tô, và để làm vậy, con phải yêu Ki-tô nhiều hơn bất cứ gì khác trong thế gian. Như Giê-su đã nói: “Ai yêu cha mẹ hay anh chị em hơn ta thì không đáng cho ta.” Thật đúng như vậy. Nếu con yêu bất cứ khía cạnh nào của ngã tách biệt nhiều hơn Ki-tô – Ki-tô nghĩa là sự tự thăng vượt liên tục – thì con không xứng đáng làm đệ tử của Ki-tô, vì con không sẵn sàng từ bỏ tất cả để theo chân Ki-tô trong sự tự thăng vượt liên tục của Dòng sông sự Sống.

8.11. Yêu sự biểu hiện cá thể Thiêng liêng của con

Tình thương là động lực mạnh mẽ nhất, vì tình thương chính là sự tự thăng vượt. Con hiện hữu vì Đấng Sáng tạo của con muốn là nhiều hơn. Con hiện hữu trong một thế giới có hình tướng vì Đấng Sáng tạo của con muốn là nhiều hơn. Chính con cũng trở thành nhiều hơn bằng cách đồng hóa trước hết với một hình tướng, rồi sau đó thăng vượt hình tướng đó. Không phải hành động đồng hóa khiến con trở thành nhiều hơn, mà là hành động buông bỏ sự đồng hóa. Buông bỏ là yêu thương đích thực, trong khi tìm cách sở hữu là tình thương giả trá.

Các thày cố chỉ ra cho đệ tử là họ cần từ bỏ mong muốn sở hữu thế giới quan, minh triết, cái hộp tư duy mà họ đang có ở mức hiện thời. Các thày cố đưa họ chạm được cái mà họ yêu nhiều hơn sự an toàn của hộp tư duy. Thày đã có nói đến sự yêu thương Ki-tô, vì ở mức cá nhân, Ki-tô thật sự là sự biểu hiện của cá thể Thiêng liêng của con.

Thày đã có nói đến các hình dạng kỷ hà lý tưởng. Thật vậy, Hiện diện TA LÀ của con là gì? Đó là một hình kỷ hà lý tưởng, một hình kỷ hà phức tạp tinh vi, và khi con bắt đầu nhìn hé thoáng một khía cạnh nhỏ của hình dạng đó, con sẽ cảm thấy tình thương muốn biểu lộ hình dạng đó trong thế gian. Con sẽ thấy việc này không thể làm được qua phin lọc nhận thức và hộp tư duy hiện thời của con. Con có chọn lựa giữa việc biểu đạt cá thể trong Hiện diện TA LÀ, hay bám chặt vào hộp tư duy của mình.

Khi đệ tử đến điểm thấy được điều đó, và họ thấy hộp tư duy đang hạn chế họ như thế nào, thì con sẽ thấy luân xa tim của họ sáng rỡ lên với cường độ của ngọn lửa màu hồng ngọc, là ngọn lửa cho họ quyết tâm muốn thiêu sạch – trong nghĩa đen – một khía cạnh nhất định của hộp tư duy bằng một tia laser, hầu biểu đạt cá thể thiêng liêng của mình nhiều hơn. Đây là lúc họ cảm thấy tình yêu thiêng liêng xối chảy qua mình. Khi mục đích hàng đầu của con là biểu hiện cá thể thiêng liêng được cất giữ trong Hiện diện TA LÀ của mình, thì con đâu còn nhu cầu nào nữa để kiểm soát người khác? Đâu còn nhu cầu phải tự kiểm soát và thích nghi với một chuẩn mực vỏ ngoài nào đó trên trái đất?

Con không cần gì từ người khác để thể hiện cá thể Thiêng liêng của con. Con không cần gì từ trái đất để thể hiện cá thể Thiêng liêng của con. Con không cần đến điều kiện nào trong thế giới vật chất để thể hiện cá thể Thiêng liêng của con. Con sẽ không bao giờ thể hiện được cá thể Thiêng liêng của mình trừ khi con đạt đến điểm là con cứ làm, bất kể mọi điều kiện ngoại cảnh.

Quá nhiều đệ tử đến với các thày với thái độ là khi điều kiện ngoại cảnh thuận lợi thì họ mới thể hiện được tâm Ki-tô của mình. Đâu là bài học của sự hiện thân của Giê-su? Hãy nhìn vào cuộc đời của thày! Dựa trên cái nhìn vẻ vang mà đạo Cơ đốc đã dựng lên, con có thể nghĩ Giê-su đã có những điều kiện lý tưởng. Nhưng con hãy nhìn vào đời của thày! Đâu là ý nghĩa câu chuyện thày sinh ra nơi máng cỏ khi nhà trọ không còn chỗ? Đâu là ý nghĩa câu chuyện thày sinh ra ngoài hôn nhân vì cha mẹ thày phải chạy trốn khỏi Ai cập, rồi thày lớn lên trong hoàn cảnh khiêm tốn? Toàn bộ đời thày là để cho thấy rằng ngay cả trong những hoàn cảnh hèn mọn và dường như bất lợi nhất, con người vẫn có khả năng thể hiện Ki-tô, thể hiện Phật tánh và cá thể thiêng liêng.

Để thể hiện cá thể thiêng liêng của mình, con cần gì? Con không cần phải cố tạo ra trước tiên những điều kiện lý tưởng trong đời mình, mà con cần sẵn lòng biểu hiện cá thể thiêng liêng đó cho dù các điều kiện vỏ ngoài mà con phải đương đầu là gì. Đây là tình thương. Khi con nhìn vào các điều kiện trên địa cầu mà không nhìn xuyên qua phán đoán của ngoại tâm và tự ngã, con không đánh giá các điều kiện đó là kém lý tưởng và nói: “Tôi không thể biểu hiện bất cứ điều gì thiêng liêng được trong hoàn cảnh này. Hoàn cảnh này không xứng đáng để biểu hiện thiêng liêng.”

8.12. Vượt qua khai ngộ nhờ tình thương vô điều kiện

Tình thương là khi con nhận bất kỳ điều kiện nào mà con đối mặt, rồi tìm ra cách biểu hiện cái gì hơn nữa, cái gì thiêng liêng trong hoàn cảnh đó. Đó là khi con nhân ta-lăng lên cho sinh sôi nhiều hơn, và đó cũng là khi con sẽ được trao cho nhiều hơn để mà biểu hiện. Có những người cứ ngồi đó với một giáo lý tâm linh, họ hiểu phần nào đường tu tâm linh là gì, nhưng họ cứ ngồi chờ cho một số điều kiện lý tưởng hiện ra, và khi đó thì họ sẽ, tự dưng và tự động, biểu hiện được Ki-tô hay điều gì đó tâm linh. Nhưng có những người bước vào bất kỳ hoàn cảnh nào mình gặp mà vẫn tìm ra cách biểu hiện một thực tại cao hơn trong tình huống đó.

Đấy chính là những người đã nhân ta-lăng lên gấp bội thay vì chôn kỹ dưới lòng đất. Đó là những người sẽ vượt qua khai ngộ ở cấp thứ ba tại khóa nhập thất Royal Teton, là sự sẵn sàng biểu hiện tình thương trong bất cứ điều kiện nào, ngay cả khi nó có vẻ không xứng đáng với tình thương, ngay cả khi có vẻ tình thương không thể biểu lộ được trong hoàn cảnh đó. Con biểu lộ tình thương ngay cả với những người dường như không xứng đáng được thương yêu, dường như không muốn được thương yêu, dường như không sẵn sàng nhận thương yêu. Con biểu lộ tình thương ngay cả khi người ta miệt thị con, hay miệt thị tình thương của con, ngay cả khi họ chà đạp nó dưới chân và chế nhạo nó một cách thấp hèn nhất. Con vẫn biểu hiện những gì đến với con từ bên trong. Con đang là mặt trời, là cánh cửa mở cho mặt trời của Hiện diện TA LÀ của con chiếu rọi xuyên qua thế giới vật chất. Đó chính là vai trò của con. Đó là lý do tại sao con ở đây.

Khi tình yêu của con lớn đủ để con có thể biểu hiện Thiêng liêng cho dù người ta có làm gì với nó, thì con đã phát huy được động lực dựa trên tình thương. Con đã vượt qua khai ngộ của cấp ba và con có thể bước sang cấp bốn. Khi đó, con đã phát huy được tính không phán xét, cho phép con gia tốc các động lực của mình lên một mức thuần khiết cao hơn, là nơi con có ý định trong sạch.

Tất nhiên đây sẽ là chủ đề của bài giảng tới của thày. Ngay bây giờ, thày sẽ để yên cho con suy ngẫm câu hỏi này: “Liệu con muốn bánh, hay con muốn ăn bánh và nhập vào Dòng sông sự Sống?” TA LÀ Lanto!

6 | Minh triết và Giác ngộ

Bài giảng của chân sư thăng thiên Lanto qua trung gian Kim Michaels, ngày 11/3/2014.

TA LÀ chân sư thăng thiên Lanto, và thày đến trao cho con chìa khóa để hiểu các khai ngộ ở cấp thứ nhì sau khi con bắt đầu tiến trình khai ngộ trong khóa nhập thất Tia sáng thứ Hai. Cấp đầu là khi con sử dụng minh triết qua Tia thứ Nhất của uy lực, và theo lẽ tự nhiên, cấp thứ nhì là sử dụng minh triết qua Tia thứ Hai của minh triết. Vậy thì đây là một liều minh triết nhân đôi. Khai ngộ con đi qua ở cấp này là con cần học thêm về minh triết có thể được sử dụng và lạm dụng như thế nào.

6.1. Minh triết không phải là một cuộc tranh tài 

Thày có nói với con là các thày sắp xếp các học viên vào nhiều nhóm, xong để yên cho họ dùng minh triết để khống chế lẫn nhau cho tới khi chán chê. Ở cấp kế tiếp này, các thày lại xếp mọi người vào từng nhóm, nhưng bây giờ thày đưa ra một vấn đề cụ thể, rồi để họ nghĩ ra những luận cứ ủng hộ hay chống đối vấn đề. Một lần nữa, thật là đáng kinh ngạc khi thấy nhiều học viên háo hức muốn chứng tỏ là mình khôn ngoan, biện luận giỏi giang đến chừng nào. Trên địa cầu, con đã bị lập trình đến độ con tưởng rằng cuộc sống là một cuộc tranh đua. Nếu con khai ngộ trong Tia thứ Hai của minh triết thì nhất định phải có một cuộc tranh đua để xem ai là người minh triết nhất, ai là người có lý lẽ hay nhất, thuyết phục nhất. Thế nhưng tại khóa nhập thất Royal Teton, mục đích của các thày khác hẳn. Các thày không tìm cách dạy đệ tử đưa ra lập luận hay ho nhất địa cầu, mà tìm cách giúp họ thăng vượt chính cái trạng thái tâm thức tin rằng có một lập luận tối hậu.

Con thử nghĩ xem con đã bị lập trình như thế nào bởi các cơ chế của thế gian này, đặc biệt là các cơ quan tôn giáo và giáo dục. Con đã bị lập trình để suy nghĩ rằng phải có một minh triết tối hậu ở đâu đó, một tiêu chuẩn tối hậu qua đó tất cả mọi thứ đều được đo lường. Bất cứ gì không phù hợp với minh triết tối hậu đó phải sai lầm và cần bị phán xét.

Bất cứ ai đồng ý với minh triết sai lầm đó cũng phải bị phán xét y như vậy, thể theo bất kỳ hệ thống tin tưởng nào mà họ đã chọn và chấp nhận. Chẳng hạn, nếu con là một tín hữu đạo Cơ đốc, con sẽ bảo những ai không đồng ý với phiên bản minh triết của con chắc chắn phải là phản Ki-tô. Họ chắc chắn thuộc về ác quỷ, xứng đáng bị đày xuống địa ngục. Thượng đế muốn họ xuống địa ngục. Ít ra Thượng đế muốn họ cút khỏi địa cầu, và rất có thể ngài sẽ cần con giúp một tay để tiêu trừ họ biến khỏi mặt đất.

Đã bao nhiêu lần con thấy khuôn nếp này tái diễn trong lịch sử? Có bao nhiêu nơi trên thế giới ngày nay con thấy người ta tin là mình có một dạng minh triết cao trội hơn, và nó cho phép mình, bắt buộc mình, phải giết hại đồng loại? Có bao nhiêu nơi tại phương Tây, tuy con không thấy nhiều người sẵn lòng giết hại nhau, nhưng con vẫn thấy những kẻ trong giới học thuật sẵn sàng tranh luận và tranh luận và tranh luận, cốt là để hủy hoại về mặt tâm lý những ai không chịu chấp nhận hiểu biết của mình là hơn trội?

6.2. Khai ngộ thứ nhì trên Tia thứ Hai 

Điều xảy ra với các nhóm tại khóa nhập thất Royal Teton là các thày để yên cho mọi người tranh cãi cho tới khi họ ngán ngẩm, chán ngấy chuyện cãi nhau. Các thày quan sát từng nhóm. Các thày thấy rõ khi có những cá nhân ngày càng giữ im lặng nhiều hơn. Thay vì năng nổ bày tỏ minh triết của mình, giờ đây họ im lặng. Họ ngồi đó, họ lắng nghe, họ quan sát. Các thày thấy được tâm họ đang bắt đầu mở ra. Họ bắt đầu tự hỏi làm thế nào mà dường như ai nấy không thể nào giải quyết một cuộc thảo luận hay tranh cãi. Làm thế nào mà mặc dù lời biện luận được xây dựng hay ho biết mấy, luôn luôn có cách dựng lên một lời phản biện đối chọi lại? Làm thế nào người ta có thể bám giữ lý lẽ của mình mà không sao nhìn được bất cứ gì khác? Hay có chăng một điều gì vượt khỏi những lý lẽ đó mà người ta cần nhìn thấy?

Và đúng vậy, con yêu dấu, đây là lúc các đệ tử khởi sự mở tâm ra với bước khai ngộ kế tiếp. Ở điểm này, các thày đưa một số học viên ra ngoài. Các thày vẫn để yên cho những ai muốn tiếp tục cứ việc tranh luận mãi trong nhóm, và bây giờ lại có thêm người mới nhập vào, những dòng sống vừa mới đến nhập cuộc tranh luận, và chuyện này cứ tiếp diễn cho đến khi chính họ cũng chán ngấy. Đối với những đệ tử đã bắt đầu mở tâm ra, các thày dẫn họ vào một lớp học đặc biệt có một màn hình lớn để các thày chiếu lên cho họ thấy những gì xảy ra ở tầm mức năng lượng. Các thày có thể cho họ thấy rõ những gì thực sự xảy ra trong năng trường của họ khi họ hăng say tranh luận. Các thày có khả năng minh họa để họ nhìn thấy tận mắt cách ánh sáng tuôn chảy như thế nào từ Hiện diện TA LÀ của họ vào bốn thể phàm. Xong các thày cũng cho thấy các thày có thể phóng ra một xung lực minh triết đặc thù từ cõi thăng thiên vào tâm của một đệ tử nhất định. Qua họa đồ và hình ảnh, các thày cho thấy hình dạng của xung lực, cũng như sự cấu tạo của xung lực gồm những thành phần ví như các dạng kỷ hà lý tưởng mà nhà hiền triết Plato đã có giảng dạy.

Đây là những hình kỷ hà cơ bản, không đến nỗi đơn giản như hình tam giác, hình vuông hay hình tròn, mà phức tạp hơn. Khi con ngắm chúng với thị giác, con có thể thấy được vẻ đẹp, sự hài hòa, sự cân bằng, và con thấy chúng có khả năng tương tác với bất kỳ hình kỷ hà nào khác ở tầm mức thuần khiết mà không phá hủy, không triệt tiêu, và cũng không tạo ra mô hình giao thoa tiêu cực nào. Các thày giờ đây có thể chỉ rõ bằng họa đồ chuyện gì xảy ra khi xung lực minh triết cấu tạo bằng hình kỷ hà thuần khiết đó đi xuống thể bản sắc của một đệ tử. Các thày minh họa chính xác chuyện gì xảy ra khi hình thuần khiết của minh triết bắt đầu tương tác với hình kỷ hà trong thể bản sắc của đệ tử. Tất nhiên, những hình dạng này được định đoạt bởi mức tâm thức của đệ tử. Và vì mức tâm thức này không được cao lắm do bản chất người đệ tử đang được khai ngộ, cho nên hiển nhiên sẽ có một hiện tượng giao thoa được thiết lập giữa các hình kỷ hà trong bản sắc thể của đệ tử với các hình dạng trong xung lực thuần khiết của minh triết.

Điều này có nghĩa là ngay từ trong thể bản sắc, xung lực minh triết nguyên thủy đã bị phần nào chặn nghẽn, phần nào bóp méo. So với thuần khiết ban đầu, con sẽ khó lòng nhận ra được cái đi xuống trí thể của đệ tử. Các thày cho thấy cái đi ra từ bản sắc thể xuống trí thể và bắt đầu tương tác với hình kỷ hà được lưu trữ nơi đây. Một lần nữa, sự tắc nghẽn, giao thoa, bóp méo lại xảy ra. Rồi các thày cho thấy cái đi ra từ trí thể xuống cảm thể, và cũng vậy, xung lực lại bị pha loãng, biến đổi thêm. Khi cuối cùng xung lực đi vào tâm ý thức của con thì nó đã bị pha loãng đến độ gần như không còn dính dáng gì đến xung lực thuần khiết ban đầu nữa.

Khi các học viên lần đầu tiên nhìn thấy tận mắt điều đó, họ luôn luôn bị sốc. Họ bị sốc là mình không có khả năng vận chuyển một xung lực minh triết thuần khiết qua bốn thể phàm của mình để ít ra tâm ý thức còn bắt được một vài đặc tính của xung lực nguyên thủy. Mục đích của các thày không phải là để gây sốc cho con. Chấn động của con chỉ đơn giản là thực tế không thể trốn chạy rằng tâm con đã bóp méo đến chừng nào những gì được gửi xuống từ Hiện diện TA LÀ và cõi thăng thiên. Ở mức này của đường tu, sự biến dạng thật to lớn, cho nên cú sốc của con cũng to lớn như thế.

Tất nhiên, các thày sẽ giúp đệ tử đương đầu với cảm giác kinh ngạc này, vì các thày muốn nói rõ là điều đó hoàn toàn tự nhiên, và họ không có gì thua kém phần còn lại của nhân loại. Thật ra thì họ vượt trội hơn, vì tâm họ đã mở rộng hơn đa số mọi người trên trái đất. Tâm họ mở rộng hơn để hộp tư duy của họ có thể được thách thức và khuếch trương.

6.3. Vai trò của con làm biến dạng minh triết như thế nào

Mục đích thực sự của bài thực tập nói trên là để con thấy trên địa cầu không có minh triết nào là cao siêu hơn. Đầu tiên, các thày chỉ cho con thấy trong thể bản sắc là con đã khoác lấy một ý niệm bản sắc nào đó. Các thày đã từng nói đến tiến trình đầu thai và so sánh nó với tiến trình bước vào một nhà hát, mặc lên một bộ trang phục cùng với trang điểm để đóng một vai nhất định trong một vở kịch. Đây là điều xảy ra ở mức bản sắc. Đôi khi trong quá khứ, và thường thì trong quá khứ rất xa xôi, con đã nhìn vào các điều kiện đương thời của địa cầu, và mặc dù các điều kiện này thật bất toàn, con cũng đã quyết định khoác lấy một vai trò nhất định, một ý niệm bản sắc nhất định. Vai trò mà con đảm nhận khá phức tạp, nhưng để minh họa cho điều mà thày muốn giải thích ở đây, hãy cho phép thày giản dị hóa phần nào.

Giả dụ như vào thời trung cổ, con quyết định khoác lấy vai trò của một người lính Thập tự chinh Cơ đốc giáo. Cho dù động cơ của con có là gì, con quyết định là con muốn trải nghiệm cuộc đời làm một người lính Thập tự chinh đi sang Đất thánh chiến đấu để giành lại thành Jerusalem khỏi tay người Hồi giáo. Khi con mặc vào bộ trang phục này trong thể bản sắc của con, có một số khía cạnh của vai trò đó đã được ấn định bất di bất dịch, được cho là đương nhiên và không thể đặt lại thành vấn đề. Điều quy định vai trò chiến binh Cơ đốc là con không được chất vấn những giáo điều và nhân sinh quan của Giáo hội Công giáo. Những điều này hoàn toàn không thể đặt lại vấn đề.

Nếu con, với tư cách là cái Ta Biết, đứng ra ngoài vai trò đó, con có thể thấy được là Giáo hội Công giáo chỉ đưa ra một cái nhìn về thực tại trong số nhiều cái nhìn khả dĩ, và cái nhìn đó không phải là minh triết tối hậu: nó có thể được tra vấn bằng nhiều cách. Nhưng khi con bước vào bộ trang phục đóng vai trò chiến binh Cơ đốc, con không thể thấy được điều đó nữa, y hệt như khi con đeo cặp kính màu vàng thì con không thể thấy được màu trời xanh dương. Cặp kính đã thay đổi những gì mắt con nhìn thấy. Và cũng vậy, vai trò mà con khoác vào nơi thể bản sắc cũng thay đổi cách con nhìn cuộc sống. Con không thể thấy khác được.

Tất nhiên trong tư cách là cái Ta Biết, con có khả năng nối kết lại với sự thật rằng con là sự nhận biết thuần khiết, con có thể tạm thời bước ra ngoài vai trò đã chọn và trải nghiệm một thực tại nhiều hơn là những gì con nhìn thấy từ trong vai trò. Nhưng nếu con không làm được vậy thì con sẽ – trong nghĩa đen – trải nghiệm cuộc sống xuyên qua phin lọc nhận thức của vai trò đó. Bất kỳ xung lực nào đến từ cõi thăng thiên qua trung gian Hiện diện TA LÀ cũng sẽ hoàn toàn bị bóp méo bởi những hình kỷ hà đã quy định vai trò. Trước khi bất kỳ xung lực nào từ Hiện diện TA LÀ đến được tâm ý thức của con, nó sẽ bị vai trò đó biến dạng đi, khiến tâm ý thức chỉ trải nghiệm một xung lực sẽ xác nhận và chứng thực thế giới quan mà con thấy xuyên qua phin lọc nhận thức của vai trò.

Một khi đệ tử bắt đầu nhận ra điều này, họ sẽ phần nào dễ thấy hơn sự kiện là không hề có một lập luận tối hậu nào. Họ hiểu ra tại sao họ thường không thể dùng lý lẽ với người khác, tại sao họ không thể thuyết phục người khác là mình đúng và người kia sai. Trở lại với ví dụ cuộc Thập tự chinh, một bên con có các chiến binh Cơ đốc, và bên kia là người Hồi giáo cũng đang chiến đấu một cuộc thập tự chinh để thiết lập tôn giáo mình là vượt trội. Trong cõi tâm linh, không hề có dòng sống nào là dòng sống Cơ đốc, và cũng không có dòng sống nào là dòng sống đạo Hồi. Không có một sinh thể nào ở cõi thăng thiên xem mình là Cơ đốc hay Hồi giáo. Làm tín đồ Cơ đốc hay tín đồ Hồi giáo chỉ là một vai trò được quy định trên trái đất, và vai trò này bắt đầu nơi cõi bản sắc. Con không thực sự cái đó. Đó là một vai trò mà con đã bước vào, và một khi con bước vào thì con sẽ nhìn thế gian xuyên qua phin lọc nhận thức của vai trò.

6.4. Phin lọc nhận thức loại bỏ thông tin 

Con yêu dấu, phin lọc nhận thức làm gì? Giả thử con có một bộ lọc đặt vào vòi nước trong bếp để lọc nước uống. Bộ lọc làm gì? Đúng vậy, nó chặn lọc một số thứ và để cho những thứ khác chảy qua. Đây chính là bản chất và chức năng của bộ lọc. Cũng vậy, khi con bước vào một vai trò trong thể bản sắc, con mang một bộ lọc sẽ chặn lại một số thứ và để cho những thứ khác đi qua. Ở mức này, các thày chỉ cho đệ tử thấy rằng do bản chất của phin lọc nhận thức, nó sẽ lọc ra tất cả những gì đi ngược lại vai trò.

Nếu con đã bước vào vai trò chiến binh Thập tự chinh Cơ đốc, phin lọc nhận thức của con sẽ lọc bỏ đi bất kỳ xung lực nào, hiểu biết nào, minh triết nào, sáng ngộ nào đi ngược lại thế giới quan của đạo Công giáo thời trung cổ. Nếu có ai đang đầu thai đưa ra lập luận, chẳng hạn, rằng đạo Cơ đốc không phải là tôn giáo chân chính duy nhất và đạo Hồi mới chân chính do tiên tri Mohammed đã nhận được thẩm quyền này kia nọ từ Thượng đế, thì con sẽ nghe được lập luận đó bằng tâm ý thức, nhưng khả năng để cứu xét lập luận đó sẽ hoàn toàn bị phin lọc nhận thức của con chi phối. Nếu con đã bước vào vai trò chiến binh Cơ đốc, con sẽ không thể cân nhắc một cách trung lập, khách quan. Con đã khoác vào một phin lọc nhận thức, nhưng nó không ngăn cản con nghe được lập luận, mà nó sẽ lọc bỏ ra mọi ý niệm rằng lập luận đó có thể hữu lý. Thậm chí, con sẽ không thể thấy bất kỳ giá trị nào trong lập luận vì mọi giá trị và tính chất xác thực của lập luận đã bị lọc ra. Con chỉ thấy được những điều sai sót mà thôi. Con chỉ thấy được là nó sai lầm, giả trá.

6.5. Sự vô ích của lập luận 

Khi các thày đưa lên màn hình những gì xảy ra ở mức năng lượng khi hai chiến binh Cơ đốc và Hồi giáo đối đầu trong tranh luận, các học viên tương đối dễ dàng thấy được cả hai bên đều tham dự vào một chuyện hoàn toàn vô ích là cố thuyết phục, cải đạo lẫn nhau. Các thày cho thấy người đạo Cơ đốc đưa ra lập luận thuận Cơ đốc như thế nào. Các thày cho thấy ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của người đó bị lọc bỏ như thế nào xuyên qua các hình kỷ hà nằm trong bản sắc thể, và điều này tạo ra một cảm giác xác thực, chính đáng cho cái thế giới quan đã cấu tạo hình kỷ hà ở tầng bản sắc. Rồi các thày cho thấy khi chiến binh Hồi giáo đưa ra lập luận của mình, mặc dù chiến binh Cơ đốc nghe được từng lời nói với tâm ý thức, nhưng xung lực năng lượng đã thực sự bị lọc bỏ ở các tầng tình cảm, lý trí và bản sắc. Và cái đi xuống tâm ý thức là cảm nhận rằng lập luận kia hoàn toàn vô giá trị, bởi vì mọi ý niệm giá trị đã bị loại bỏ bởi phin lọc nhận thức.

Thật không có cách nào một bên có thể thuyết phục bên kia khi cả hai người đều ở mức tâm thức này, khi họ đều không có sự nối kết nào, kinh nghiệm nào về nhận biết thuần khiết. Điều này các đệ tử đều rất dễ thấy. Và vì thế, cũng rất dễ cho họ xét lại đời mình và thấy được họ đã đâm đầu vào những cuộc tranh cãi với người khác thường xuyên như thế nào. Trong nhiều trường hợp, đây không cứ là tranh luận về triết lý để xem hệ thống tư tưởng nào đúng hơn, mà nó có thể là chuyện cãi vã giữa vợ chồng, con cái và cha mẹ, là khi con tranh luận về những vấn đề quan hệ và đời sống hàng ngày. Một lần nữa, các thày cho thấy chính phin lọc nhận thức khiến con tin rằng con tuyệt đối có lý, và nó cũng lọc bỏ mọi tính chất hữu lý trong lập luận của người kia.

Các thày cho con thấy là thực sự những loại thảo luận và tranh cãi như vậy không mang lại kết quả nào. Con chỉ sử dụng năng lực, thời gian và chú ý một cách vô ích mà thôi. Đó là tranh cãi để mà tranh cãi, và nó xuất phát từ tự ngã muốn có cảm giác an toàn tối hậu là được người khác cho mình là đúng. Tự ngã thèm khát muốn con nhảy vào những tranh luận như thế và cứ tranh luận hoài hoài, bởi vì đó là cách thức mà tự ngã và phàm linh trong tâm thức con được nuôi béo bằng năng lượng từ Hiện diện TA LÀ đã bị bóp méo và hướng vào tranh luận vô bổ.

Đây là một khai ngộ khó khăn đối với đa số đệ tử vì họ thấy rõ bao nhiêu năng lực, thời gian và chú ý đã bị họ phí phạm trong những tranh luận không có hy vọng đem lại thành quả xây dựng nào. Họ luôn luôn cảm thấy hối tiếc, ân hận vì nhận ra là mình chỉ có một lượng thời gian, năng lực và chú ý giới hạn khi mình đầu thai trong cõi vật lý. Cho nên tại sao lại đem dùng vào chuyện phù phiếm?

6.6. Làm thế nào thảo luận có thể đem lại ích lợi 

Sau giây phút sự thật và hối tiếc bắt buộc phải xảy ra, các thày cho đệ tử thấy là, thật ra, các lý lẽ đưa ra đã không hoàn toàn vô ích. Việc đầu thai trên địa cầu trong hoàn cảnh hiện tại có nghĩa là con đảm nhận một vai trò, một trang phục nào đó. Con đã hoạch định để đóng vai trò đó cho tới khi con chán ngấy trải nghiệm đó và mong muốn một cái gì hơn. Trong hầu hết trường hợp, những vai trò hiện được quy định trên địa cầu đều có một khía cạnh không thể tránh là khiến con xung đột với người khác. Con cần kinh qua một lượng tranh cãi nào đó trước khi con chán chê rồi bắt đầu tra vấn vai trò của con. Nhìn rộng hơn, các cuộc biện luận đó đã không hoàn toàn lãng phí vì chúng đưa con ngày càng gần hơn tới điểm chán ứ, và khi đó con sẽ mở tâm ra một cách tiếp cận khác. Con sẵn lòng tra vấn cách tiếp cận của mình, tra vấn vai trò của mình, tra vấn phin lọc nhận thức của mình.

Liệu đây có phải là cách duy nhất để nhìn cuộc sống? Liệu việc liên tục tranh cãi với người khác có thực là cách sống duy nhất? Liệu tranh luận có là một chức năng của cách tôi nhìn cuộc sống? Nếu tôi đã chán tranh luận với người khác, có phải cách duy nhất để thoát khỏi trạng thái này là tôi khởi sự nhìn vào chính mình, khởi sự tra vấn cách nhìn đời của mình, phin lọc nhận thức của mình?

6.7. Vai trò của con thu hút người khác cùng các trải nghiệm

Các thày cũng có thể chiếu lên màn ảnh một loại bản đồ, như thày đã từng đề cập, nơi con có thể nhìn vào trái đất, và như một bức ảnh chụp từ vệ tinh về đêm, con thấy những khu vực có nhiều ánh đèn là các thành phố lớn và vùng phụ cận. Các thày có thể cho thấy sự nối kết năng lượng giữa mọi con người, và con thấy là con sẽ thu hút những ai có cùng mức tâm thức như con, cùng vai trò như con.

Nếu con đã đảm nhận một vai trò được ấn định là đối lập với ai đó, chắc chắn con sẽ thu hút những người như vậy trong đời con. Nếu con đã khoác lấy vai trò người chiến binh Cơ đốc, hiển nhiên vai trò này được định ra để chống lại một người đạo Hồi. Vai trò sẽ không thật nghĩa lý gì nếu không có ai làm đối thủ. Rất nhiều những vai trò mà con tạo ra hôm nay phức tạp hơn hẳn, tinh tế hơn hẳn, nhưng ngay trong bản chất, chúng đã chứa sẵn một đối thủ nào đó sẽ chống lại con, để con có dịp tranh luận với họ và cãi qua cãi lại.

Miễn là con còn ham muốn trải nghiệm này thì thật chẳng có gì sai trái cả. Nhưng một khi con đã chán ứ trải nghiệm đó, cách duy nhất để con thoát ra là con bắt đầu chất vấn xem con có thực sự cần đóng vai trò đó mãi hay không, hay con là cái gì nhiều hơn vai trò, và do đó con có thể bắt đầu bước ra khỏi vai trò và nhìn cuộc sống khác hơn.

6.8. Cuộc thập tự chinh để chứng thực tự ngã 

Tới đây, đệ tử có thể bước đến một khúc ngoặt quan trọng trên đường tu. Con có thể bắt đầu đặt vấn đề liệu con có thực sự và thực lòng mong muốn tiếp tục cuộc thập tự chinh để chứng thực tự ngã của mình hay không. Trong nhiều trường hợp, cuộc thập tự chinh để chứng thực tự ngã này đã được ngụy trang như lòng vị tha để phục vụ cho một chính nghĩa cao cả nào đó. Trong một số lời dạy khác, các thày đã có nói đến tư duy cuồng đại. Giê-su, bào huynh yêu dấu của thày, đã viết một quyển sách thật thâm sâu về kịch tính của tự ngã, và cách mà tư duy cuồng đại tạo ra bi kịch với người khác như thế nào [Xem quyển Freedom from Ego Dramas]. Các thày có thể cho đệ tử thấy là trong nhiều trường hợp, chính họ có thể sử dụng một giáo lý tâm linh, thậm chí giáo lý của chân sư thăng thiên, trong cuộc thập tự chinh để thuyết phục người khác là giáo lý của mình đúng đắn. Khi con nhìn vào sâu hơn, con sẽ thấy đây chỉ là một cải trang, một ngụy trang của tự ngã muốn chứng thực chính nó.

Ở giai đoạn này, điều cần thiết là cho học viên thấy là họ có thể dùng cả lời dạy của chân sư thăng thiên để tiến hành cuộc thập tự chinh chứng thực tự ngã. Không có một học viên nào ở mức này đã không từng làm chuyện đó, sống qua chuyện đó. Việc con kinh qua giai đọan này là điều hoàn toàn tự nhiên. Khi đệ tử sẵn sàng với mức khai ngộ này, các thày có thể cho thấy là điều này hoàn toàn tự nhiên ở mức hiện thời của con trên đường tu. Khi lần đầu tiên con tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên, việc con trở nên nhiệt tình là chuyện hoàn toàn tự nhiên, phải phép.

Thật vậy, giáo lý của chân sư giải thích nhiều điều không được các tôn giáo chính mạch hay các triết lý duy vật giải thích, và do đó hiểu biết của con đã tăng thêm. Con thấy được nhiều điều mà trước đây con không thấy. Con tìm được nhiều lời giải đáp. Thật là tự nhiên khi ở khởi đầu, con nức lòng đến độ con ước gì ai ai cũng hiểu ra được như con thì có phải địa cầu này sẽ cải tiến biết mấy? Một số vấn nạn sẽ biến mất, và sẽ có hòa bình, thông cảm lớn hơn giữa loài người.

Điều quan trọng là con hiểu được cảm nhận đó của con không hoàn toàn sai đâu. Nếu mọi người trên trái đất mà chấp nhận một lời dạy của chân sư thăng thiên, thì quả là sẽ có sự thông cảm, cộng tác và hòa bình rộng lớn hơn. Chuyện đó không thành vấn đề; tuy nhiên, điều mà các thày muốn chỉ ra cho học viên ở mức này là khi con tham gia vào các cuộc tranh luận mà thày đã minh họa cho con, ngay cả giáo lý của chân sư thăng thiên cũng sẽ không thuyết phục được người khác để họ đi ngược lại phin lọc nhận thức của họ. Giáo lý của chân sư thăng thiên sẽ không hiệu nghiệm hơn giáo lý của Hồi giáo để thuyết phục một chiến binh Cơ đốc, bởi vì giáo lý của chân sư thăng thiên, mặc dù chứa đựng nhiều minh triết và xác thực hơn mọi giáo lý khác hiện có mặt trên địa cầu, vẫn được diễn đạt bằng ngôn từ.

Đây là điểm thày đã đề cập trong bài giảng trước. Ngôn từ chỉ là ngôn từ. Ngôn từ cần được diễn giải, và khi con diễn giải một số lời nói xuyên qua phin lọc nhận thức của con, phin lọc sẽ lọc bỏ đi tính xác thực của bất cứ lời nào đi ngược lại thế giới quan của con – bất kể lời đó đến từ cõi thăng thiên hay từ Kinh thánh, kinh Koran, hay từ một khám phá hay báo cáo khoa học nào. Phin lọc nhận thức sẽ lọc bỏ tính xác thực của bất kỳ lập luận nào đi ngược lại phin lọc cũng như vai trò đã định ra phin lọc.

6.9. Làm thế nào đệ tử vượt qua phin lọc nhận thức 

Thật là tuyệt vời cho một vị thày khi các đệ tử cuối cùng hiểu ra được điều này, thực sự nắm bắt được sự thật này! Con có thể thấy họ trút bỏ được một gánh nặng ngàn cân. Thay vì mang trọng trách phải thay đổi thế giới bằng cách cải hóa mọi người, giờ đây họ có thể bắt đầu buông xả cái ách nặng nề mà các sa nhân cùng thày giả đã đeo lên cổ họ. Nhiều đệ tử tưởng cái ách này là do các chân sư thăng thiên áp đặt. Họ tin là chính các thày đã muốn họ đi khắp nơi để cải hóa mọi người theo lời dạy của chân sư, chính các thày muốn họ đi khắp nơi đấu tranh hầu chứng tỏ rằng các giáo lý và tư tưởng khác đều lầm lẫn. Khi đệ tử cuối cùng hiểu ra và chấp nhận đó không bao giờ là mục tiêu của các thày, thì con thấy họ bỗng nhiên đứng dậy thẳng hơn. Họ cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Họ nhìn lại đời mình và chợt hiểu: “Ồ, tôi có bao giờ phải làm tất cả những chuyện đó đâu. Không phải là các chân sư muốn tôi kinh qua tất cả những tranh luận và xung đột đó, mà chỉ là tự ngã và các thày giả.”

Đó là lúc họ bắt đầu có cái nhìn khác về các thày. Như thày đã nói trong bài giảng trước, con không nhìn thày như TA LÀ. Khi con nhận ra là thày không là vị thày muốn con đi khắp nơi giao chiến vì quan điểm và dùng giáo lý chân sư để đập phá thành trì kiên cố bao quanh tâm mọi người, thì con mới bắt đầu có mối quan hệ khác hơn với thày. Gần như đây là lần đầu tiên đệ tử có thể nhìn thày với tâm cởi mở. Con có thể thấy có gì đó vừa bật lên trong tâm họ, và họ nghĩ: “Thật cái ông chân sư Lanto này là ai đây?”

Họ nhận ra là cho tới giờ, họ vẫn nhìn thày xuyên qua một phin lọc. Họ vẫn nghĩ rằng bằng cách nào đó, thày đang cố ép họ phải làm gì đó, thày đang muốn họ làm gì đó. Bây giờ họ có thể cởi bỏ cái phin lọc đó ra và nhìn thày trong nhận biết trung hòa hơn. Và tất nhiên, đây chính là giây phút mà thày chờ đợi. Như mọi chân sư thăng thiên khác, thật là điều tự nhiên khi thày muốn chia sẻ Hiện diện của thày. Thày luôn luôn vui mừng, hạnh phúc và biết ơn khi có dịp chia sẻ một biểu thị trọn vẹn hơn của Hiện diện của thày cho một đệ tử hay một nhóm đệ tử.

6.10. Nhập vào kết hợp với vị thày 

Làm thế nào con vượt qua khai ngộ của Tia sáng thứ Hai? Không phải bằng cách ngồi nghe thày nói như thể thày là một ông giáo đứng trên bục dạy dỗ con bên dưới. Con sẽ vượt qua khai ngộ của Tia thứ Hai bằng cách nhập vào kết hợp với thày. Con không thể kết hợp với thày khi con còn nghĩ thày đang bắt ép con, rằng con phải làm một số việc vì thày khắt khe. Tại sao con lại muốn kết hợp với một thày giáo như thế? Tại sao con muốn kết hợp với bất kỳ thày giáo nào?

Khi các học viên lần đầu tiên đến khoá nhập thất của thày, họ thực sự không đến với một thái độ khả dĩ có thể học được từ thày. Họ đến với nhu cầu khống chế người khác bằng minh triết. Con có nghĩ là họ chỉ làm chuyện này với các học viên khác thôi? Không đâu, con sẽ ngạc nhiên khi con biết có bao nhiêu học viên đến khóa này với mong muốn lôi kéo thày vào một cuộc tranh luận. Họ có định kiến trước về thày phải như thế nào trong cương vị Thượng sư của Tia thứ Hai, rằng Tia thứ Hai phải như thế nào, minh triết của Tia thứ Hai phải như thế nào, minh triết tối hậu phải như thế nào. Họ thường nhảy vào tranh luận để cố chứng minh những điều đó cho thày – đúng hơn, họ tranh luận một mình, bởi vì thày không tham dự vào chuyện đó. Hoặc thày sẽ giữ im lặng, và điều này sẽ khiến họ bực mình, hoặc thày cố vô hiệu hóa những câu hỏi của họ, sự phóng chiếu của họ, bằng cách đặt ra một câu hỏi.

6.11. Giảng dạy bằng cách đặt câu hỏi 

Hẳn con cũng biết nhà hiền triết Hy lạp cổ Socrates nổi tiếng vì ông không thực sự giảng dạy, mà ông chỉ đưa ra câu hỏi nhằm giúp học trò làm sáng tỏ quan điểm và chất vấn định kiến của chính mình. Socrates đã không phát minh ra phương pháp này, vì nó đã được các chân sư của Tia thứ Hai sử dụng từ rất lâu đời, và tất nhiên tất cả các tia sáng khác cũng đã sử dụng, bởi vì luôn luôn có một phin lọc nhận thức cần được chất vấn, phải không con?

Và tất nhiên, các thày cũng có một số đệ tử ở cấp thứ nhì (minh triết và giác ngộ) muốn tranh luận với thày ở một mức nào đó vì họ nghĩ thày đang áp đặt một số hạn chế lên họ, một số điều mà họ phải tuân thủ. Họ háo hức muốn cho thày thấy họ minh triết đến chừng nào, họ giỏi dùng lý lẽ đến chừng nào, họ giỏi bẻ cong một ý tưởng hay một hệ thống tin tưởng đến chừng nào, hầu chứng thực chính họ và tự ngã của họ.

Tất nhiên, điều này khiến thày không thể dạy họ bất cứ điều gì. Họ đang cố dạy dỗ thày, nhưng hiển nhiên là họ chưa thăng thiên, phải không? Thật có ít hy vọng là thày sẽ học được điều gì đó từ họ mà thày chưa trải qua trong quá trình tu tập để hội đủ tư cách thăng thiên. Một học viên cần nhiều thời gian để nhìn ra lập luận chỉ là lập luận, ngôn từ chỉ là ngôn từ, và lời nói không bao giờ đem lại thành quả quyết định. Điều này khiến học viên nhận ra: “Nhưng tôi chỉ đang tranh luận. Tôi đang tranh luận với người khác. Thậm chí tôi tranh luận cả với thày, nhưng nó không bao giờ dẫn tới một kết quả dứt khoát nào cho tôi, vì nó không khiến tôi chuyển dời tâm thức mình lên một mức cao hơn. Tôi không đang nhảy vọt từ mức hiện thời lên mức kế tiếp. Thật ra, tôi càng tranh luận thì sẽ càng khiến cho mức tâm thức hiện tại của mình đặc cứng lại.”

6.12. Các thày thăng thiên không muốn trội hơn 

Khi đệ tử nhận ra điều này, có một sự chuyển đổi, và đây là lúc họ bắt đầu nhìn thày một cách mới. Họ hiểu ra: “Chân sư Lanto thật không đang tranh luận với tôi. Thày thật không đang cố thuyết phục tôi bất cứ điều gì. Thày không đòi hỏi tôi phải chứng minh là tự ngã của mình đúng, chứng minh thế giới quan của mình đúng. Thày đang làm gì nhỉ? Thày là loại sinh thể gì nhỉ?” Đó là lúc đệ tử có thể khởi sự vượt ra ngoài cái nhìn truyền thống của địa cầu về ý nghĩa của một vị thày. Họ nghĩ là thày phải đứng đó trên bục cao trong lớp học và dạy dỗ học trò ở bên dưới. Và thày sẽ trao truyền cho họ những kiến thức mà họ sẽ nhận lấy, sẽ ghi nhớ và đọc lại thuộc lòng cho thày – và nhờ vậy họ sẽ được điểm cao.

Thày giáo trên địa cầu làm gì chứ? Phải, đa số thày giáo trên địa cầu trở thành thày giáo vì họ muốn cảm thấy trội hơn học trò. Họ tham gia vào việc giảng dạy để chứng thực tự ngã của mình. Những gì họ dạy cho học trò – những ý tưởng, niềm tin, kiến thức mà họ dạy – cũng là một tiến trình vĩ đại nhằm chứng thực một số hệ tư tưởng nào đó trên địa cầu. Một thày giáo tại chủng viện Công giáo sẽ tìm cách minh chứng thế giới quan Công giáo. Một giáo sư đại học sẽ tìm cách minh chứng thế giới quan duy vật – thường thường là vậy. Đây là chuyện chứng thực tự ngã được đưa lên quy mô toàn cầu, nhưng nó vẫn là nó thôi: sự chứng thực tự ngã. Nếu con loại bỏ đủ số bằng chứng đi ngược lại tự ngã thì con luôn luôn có thể chứng minh là tự ngã của con đúng, phải không?

Đây là điều các đệ tử bắt đầu nhìn ra, và khi họ bắt đầu nhìn ra, họ cũng nhận ra là thày không phải là loại thày đó! Thày không có nhu cầu chứng thực chính mình. Thày không có nhu cầu chứng thực một giáo lý nào đó được biểu đạt bằng ngôn từ. Thày muốn đưa đệ tử lên mức kế tiếp hầu đệ tử không còn tham gia vào tranh luận với mục đích chứng thực tự ngã, vì đệ tử nay đã gắn chặt mình vào việc sử dụng minh triết một cách cao hơn, là cách dựa trên tình thương. Có thể có một tình thương đối với người khác, nhưng cũng có thể có một tình thương đối với minh triết, không phải một cách biểu đạt nào đó bằng ngôn từ, mà một sự phối hợp tinh vi những hình dạng kỷ hà thuần khiết.

Cho tới giờ, các đệ tử chỉ mới nhìn thấy được minh triết biểu đạt bằng lời, nhưng khi họ bắt đầu thấy được mọi tranh luận bằng lời đều vô ích thì một lúc nào đó, ít ra họ sẽ thấy thoáng hiện ra minh triết vượt khỏi mọi lời nói, minh triết của những hình dạng kỷ hà thuần khiết. Khi đệ tử nhìn ra được như vậy, con sẽ thấy mắt họ sáng lên. Ồ, bây giờ, ngay bây giờ, họ vừa chạm được gấu áo của vị thày! Ngay bây giờ họ vừa nhìn thấy rằng chân sư Lanto là nhiều hơn một thày giáo đang phun ra lời nói, lặp lại những lý lẽ và quan điểm định sẵn.

Thày là một vị thày hằng sống. Thày không đầy ắp những từ ngữ. Thày đầy ắp những hình dạng kỷ hà thuần khiết đang dâng lên sùng sục từ vùng sâu kín nhất của Bản thể thày, tựa như dòng suối dâng trào từ nguồn cội trái đất, là dòng nước thanh khiết, dòng nước mang lại sự sống, là nước hằng sống của minh triết! TA LÀ cái đó. TA LÀ chân sư Lanto! Con hãy cố bắt kịp ta.

4 | Minh triết và Uy lực

Bài giảng của chân sư thăng thiên Lanto qua trung gian Kim Michaels, ngày 10/3/2014.

TA LÀ chân sư thăng thiên Lanto. Thày được biết đến như là Ngài Lanto, và thật vậy, thày là Ngài hay Thượng sư của Tia sáng thứ Hai của Minh triết Thượng đế. Tuy nhiên, thày không muốn sử dụng tên “Ngài” vì nó đã bị lạm dụng bởi cả các phong trào thế tục lẫn một số phong trào tôn giáo trên địa cầu. Thày không phải là một vị chúa tể đứng trên đầu con. Thày không nhìn con như chính con nhìn con. Thày không nhìn chính mình như con nhìn thày.

Thày đã là một chân sư thăng thiên trong một thời gian rất dài nếu đo theo thời gian trái đất mặc dù trong thời gian vũ trụ thì chưa đầy một chớp mắt. Thày tự xem mình chỉ mới bước vào cõi tâm linh, cho dù nếu đo theo thời gian của trái đất thì đó là một thời gian rất dài. Do đó, thày đã thăng tới mức tâm thức Phật, và ở mức này, thày thấy được thực tại mà thày Gautama đã giảng dạy rằng tất cả đều là Phật tánh.

Thày thấy Phật tánh nơi chính mình, và khi thấy Phật tánh nơi chính mình, thày cũng thấy Phật tánh nơi con, cho dù con chưa thấy được. Cho nên mục đích của thày, mục đích duy nhất của thày, là đánh thức con đến mức con cũng thấy được Phật tánh nơi con, Phật tánh nơi tất cả mọi thứ bao quanh con, và cả Phật tánh nơi thày, hầu con biết được rằng thực sự chúng ta là bình đẳng, như mọi sinh thể tự nhận biết đều bình đẳng trong thực tại của ánh sáng Minh triết Thượng đế.

4.1. Minh triết tối hậu

Thế nào là minh triết tối hậu? Con hãy nhìn xem từ bao thời đại, loài người đã cố đạt được minh triết, nhưng minh triết tối hậu là thấy mọi sự sống là một, thấy tất cả đều là Phật tánh, và vì thế, sự khác biệt trong hình tướng không có nghĩa là khác biệt về giá trị. Thế thì giá trị là một khái niệm hoàn toàn giả tạo được tạo nên bởi tâm, một cái tâm đã tách ra khỏi thực tại của minh triết, đã tạo ra ảo tưởng rằng nó tách biệt khỏi Phật tánh, rằng Phật tánh không ở nơi nó ở, rằng có một chỗ ở riêng biệt mà tâm tách biệt đã tạo ra và đóng chặt Phật tánh ra ngoài.

Tới một lúc trên con đường phát triển tâm linh của con, con sẽ thấy được sự nực cười của lời tuyên bố rằng có thể có cái gì tách riêng khỏi Phật tánh. Con sẽ thấy Phật tánh là tất cả và ở trong tất cả, và nếu không có Phật tánh thì không có tạo vật nào được tạo ra. Không gì có thể đứng riêng khỏi cái ở mọi nơi, cái vô điều kiện, cái thâm nhập tất cả. Tuy nhiên, thày hoàn toàn hiểu được là khi con đến khóa nhập thất của thày trên hành trình từ tầng tâm thức thứ 48 đến 96, con chưa thể thấy được điều này. Con chưa kinh nghiệm được Phật tánh, và tại sao chứ? Bởi vì con vẫn còn nhìn cuộc sống qua phin lọc nhận thức tương ứng với mức tâm thức hiện thời của con, và điều này tất nhiên cũng bình thường thôi.

4.2. Gỡ bỏ các phin lọc nhận thức của phản minh triết

Là một vị thày, vai trò của thày là giúp con đâm thủng tấm màn của phản minh triết, tấm màn do tâm tách biệt tạo ra, là tâm nhị nguyên, tâm của rắn, tâm sa ngã – hay bất cứ tên gọi nào mà con muốn gọi. Tất nhiên, các thày là chân sư thăng thiên chỉ dùng những từ đó vì các thày biết khi con còn sống trên địa cầu và nhìn mọi vật qua tâm đường thẳng, con cần một cái tên. Nhãn hiệu kỳ thực phát xuất từ tâm tách biệt. Còn các thày thì không cần đến nhãn hiệu, vì các thày kinh nghiệm thực tại của Phật tánh, là nhất tâm.

Các thày tức khắc có thể cảm thấy được khi có gì tách biệt khỏi tâm đó. Đối với các thày, tất cả những gì tách biệt, trong một nghĩa nào đó, đều giống như bóng tối vậy. Nó hoàn toàn không thực; nó hoàn toàn là một điều mà con cần vượt qua. Đối với các thày, không có chuyện đặt ra những ánh sắc đậm nhạt, những sự định giá cho rằng loại bóng tối này tốt hơn loại bóng tối kia. Cả hai đều không thực. Vì là ảo tưởng cho nên cả hai cần được bỏ lại.

Đó là vai trò của các thày. Để giữ vai trò đó, các thày cần phải đi vào, nhìn vào con, nhìn vào tâm trạng của con, nhìn vào phin lọc nhận thức đặc thù của con, nhìn vào các tin tưởng cốt lõi cấu tạo phin lọc nhận thức của con, rồi các thày cần xem đến cách giải quyết các tin tưởng đó. Khi con đạt đến một tầng tâm thức nào đó, con nhìn cuộc sống xuyên qua một phin lọc nhận thức, nhưng con có cho phép thày bàn sâu hơn không? Thày muốn gợi ý với con là khi con leo từ tầng tâm thức thứ 48 đến 96, ở mỗi bước mà con leo, con sẽ lột bỏ một phin lọc nhận thức cụ thể, một lớp vỏ cụ thể của phin lọc đó.

Khi con ở tầng 48, con nhìn cuộc sống qua những phin lọc nhận thức của tầng 48. Mỗi phin lọc trong số 48 phin lọc đó tượng trưng cho một bậc trên cái thang xoắn ốc của khai ngộ dẫn con từ tầng tâm thức thứ 48 đến 96. Thày không nói là khi con ở tầng 96, con sẽ không còn phin lọc nhận thức nào nữa, vì con sẽ khởi sự một tầng cấp mới nữa, một lớp vỏ nữa, khi con đi muốt 48 phin lọc nhận thức giữa tầng 96 và 144.

Sẽ rất hữu ích cho con nếu con biết – và chắc chắn con sẽ học được điều này khi con đến khóa nhập thất của thày – rằng vai trò, tiến trình mà con đi qua chính là sự lột bỏ từng phin lọc nhận thức một. Điều này sẽ giúp con hiểu, khi con ở một tầng tâm thức nào đó, rằng con không thể lập tức lột bỏ tất cả mọi phin lọc nhận thức mà con đang nhìn xuyên qua. Có thể là con còn 40 cái phin lọc mà con đang nhìn qua. Con không thể lột bỏ cả 40 cái đó cùng một lúc. Nếu điều này xảy ra, con sẽ mất đi ý niệm bản sắc của con, con sẽ mất hết phương hướng, con sẽ mất cảm giác liên tục, con sẽ mất ý niệm bản ngã của mình. Con không thể nào lập tức chuyển vọt từ một ý niệm bản ngã vô cùng phàm phu lên ý niệm về cái ta của cá thể trụ neo nơi Hiện diện TA LÀ của con. Điều này không thể làm được; con cần bước từng bước một, lột bỏ từng phin lọc nhận thức một.

Điều này tạo cho con một tinh thần kiên nhẫn, như thày Giê-su có nói: “Trong kiên nhẫn, con giữ được linh hồn mình.” Khi một đệ tử mới đến khóa nhập thất của thày để khởi sự tiến trình thăng thiên dưới sự hướng dẫn của Tia sáng thứ Hai, đệ tử đó thường phần nào thiếu kiên nhẫn. Đây là chuyện tự nhiên thôi, vì con vừa mới vượt qua các khai ngộ, bảy lớp khai ngộ, dưới sự chỉ đạo của chân sư MORE yêu dấu của thày cũng như của tia sáng thứ nhất của Uy lực và Ý chí Thượng đế. Con cần trau dồi một ý chí, một sự quyết tâm nào đó, con cần có một uy lực nào đó thì mới vượt qua được những khai ngộ đó. Điều này tự nhiên và cũng đúng đắn thôi, nhưng một trong những sáng ngộ quan trọng nhất mà con học được về đường tu tâm linh là con đường này có nhiều giai đoạn. Điều gì giúp con vượt qua một giai đoạn nào đó sẽ không giúp con vượt qua giai đoạn kế tiếp.

4.3. Thử thách tại khóa nhập thất Tia sáng thứ Hai

Thày có nhiều đệ tử đến với khóa Nhập thất tại Royal Teton nghĩ rằng họ có thể dùng uy lực đó để vượt qua các khai ngộ của Tia thứ Hai. Họ đã lấy trớn từ Tia thứ Nhất và họ nghĩ họ đã nắm vững uy lực đó. Họ tưởng sẽ chỉ là chuyện sử dụng quyền năng của mình, nghị lực của mình, động lượng của mình, quyết tâm của mình, rồi xông vào học hỏi và học hỏi cho đến khi mình tìm thấy quyển sách bí mật, sáng ngộ bí mật, minh triết bí mật, sẽ phóng mình lên điều ngự Tia thứ Hai. Hỡi con yêu dấu, đây quả là một thách đố cho thày. Theo một nghĩa nào đó, đúng là các thày mong muốn loại học trò như thế, háo hức học hỏi, háo hức cầu tiến, thế nhưng chính sự háo hức này sẽ khiến họ rất khó lòng tinh tiến hơn, đặc biệt trong Tia thứ Hai của Minh triết Thượng đế.

Thách đố lớn mà các thày phải đối mặt trong tư cách là chân sư thăng thiên chính là sự kiện các thày đã thăng thiên. Các thày đã gỡ bỏ mọi phin lọc nhận thức của con người trên địa cầu. Các thày đã vươn lên một giai đoạn tâm thức cao hơn. Các thày phải đối diện với một thách thức vô cùng tế nhị khi giúp các con đi qua cùng tiến trình đó để vươn lên mức tâm thức của các thày.

Thách thức là các thày không thể cho con một cái nhìn chính xác về sự khác biệt giữa trạng thái tâm thức của con và trạng thái tâm thức thăng thiên. Giản dị là con không thể hiểu thấu được tâm thức thăng thiên như thế nào khi con còn nhìn cuộc sống qua vô số phin lọc nhận thức của con. Các thày không thể cho con một cái nhìn chính xác về sự khác biệt đó, về khoảng cách đó, giữa hai trạng thái tâm thức thăng thiên và chưa thăng thiên. Nếu các thày truyền đạt được điều này cho con thì con sẽ nản lòng thôi. Con sẽ nghĩ chuyện đó gần như vô vọng bởi vì khoảng cách to lớn đến độ dường như con không thể bù lấp nổi.

Tất nhiên chuyện đó không bất khả thi đâu, nhưng khi con đi từ mức tâm thức phàm phu thấp kém lên đến trạng thái tâm thức thăng thiên, thì quả thực đó là một sự chuyển hóa khó tin hoàn toàn. Để minh họa cho con một cách đường thẳng, con hãy tưởng tượng có hai người bị đui mù từ khi lọt lòng mẹ. Đột nhiên, một người được ban cho khả năng thị giác và nhờ vậy thấy được thế giới y như con đang thấy. Hãy tưởng tượng người đó phải mô tả thế giới mình vừa khám phá cho người kia hiểu được.

Hãy tưởng tượng con phải tả chân thế giới mà con đang nhìn cho một người mù bẩm sinh chưa bao giờ thấy được thế giới con đang thấy, một thế giới mà con coi là hoàn toàn đương nhiên. Cũng vậy, khoảng cách giữa hai trạng thái tâm thức thăng thiên và chưa thăng thiên cũng to lớn đến độ không một lời nào có thể diễn tả sự khác biệt để người chưa thăng thiên có thể hiểu được.

4.4. Các chân sư thăng thiên giao tiếp như thế nào

Ngay lúc này, con đang nghe hay đang đọc những lời phát xuất từ thày nơi cõi thăng thiên. Con có thể cho rằng thày đang đứng đây ở một cõi cao hơn, hoặc có thể thày đang ngồi ở cõi cao này và đang thốt ra những lời nói mà sứ giả tiếp nhận được rồi biểu đạt qua giọng nói trong cõi vật lý. Nhưng không phải vậy đâu con. Thày không đang ngồi đây thốt ra lời nói, bởi vì ở cõi thăng thiên, các thày không giao tiếp qua lời nói. Các thày giao tiếp một cách khác hẳn đến độ con không làm sao mường tượng được với tâm chưa thăng thiên. Có thể nói là các thày giao tiếp qua tư tưởng, nhưng nói vậy cũng không chính xác bởi vì tư tưởng của con khác hẳn với cách các thày suy nghĩ.

Cách giao tiếp của các thày toàn diện và bao trọn tất cả. Các thày không chỉ giao tiếp qua tư tưởng mà qua cả tình cảm, cảm thọ, trải nghiệm. Trong lúc này khi thày trao cho con bài truyền đọc này, quả thực là thày đang thị hiện sự Hiện diện của thày tại một địa điểm cụ thể của cõi tâm linh thấp và cõi ê-the cao. Thày đang tập trung tinh túy của thày, tinh túy của tâm thày, nơi một “địa điểm” – theo danh từ mà con thường dùng. Thày đang biểu lộ một xung lực có thể được hướng về bốn tầng cõi của vũ trụ vật chất, là các tầng bản sắc, lý trí, cảm xúc và vật lý. Rồi thày hướng xung lực này vào bốn tầng trong tâm của sứ giả, và xung lực sẽ lần lượt đi xuống các tầng bản sắc, lý trí và cảm xúc của sứ giả, cho tới khi nó xuống đến tầng tâm ý thức nơi nó được biểu đạt qua những lời nói mà con nghe hay đọc được. Xung lực được phú cho một lớp lời nói nơi bốn tầng của thế giới vật chất, bởi vì cái mà thày gửi ra không phải là lời nói mà là một phương thức giao tiếp toàn diện.

4.5. Hãy với lấy cái tinh túy sâu xa đằng sau lời nói

Con đã quá quen thuộc, con đã bị lập trình, đến độ con chờ đợi sự giao tiếp sẽ diễn ra dưới hình thức lời nói. Thử thách lớn nhất cho thày là thày phải nói bằng lời mà con có thể nghe thấy hay đọc được, bởi vì nếu không thì con sẽ không thể nắm bắt bất cứ xung lực nào từ mức tâm thức của thày. Điều mà thày mong muốn truyền đạt cho con thật ra không phải là lời nói, hay cái ý nghĩa mà tâm đường thẳng gán cho lời nói đó. Điều mà thày cố truyền đạt cho con là một sự chiêm nghiệm, một cái nhìn hé thoáng, về sự giao tiếp toàn diện mà thày đang phóng ra từ mức tâm thức của thày đến mức tâm thức của con.

Chính sự trải nghiệm nội tâm, thần bí, toàn diện này sẽ biến đổi tâm thức của con; không phải lời nói và cũng không phải ý nghĩa. Con có thể nghĩ, thật là vô nghĩa khi thày dùng lời nói để bảo con không nên chú ý đến lời nói, thế nhưng thày không đang bảo con không nên chú ý đến lời nói hay ý nghĩa. Thày muốn nói là con không được chỉ dành sự chú ý của con cho lời nói và ý nghĩa của lời nói. Con cần dành một phần sự chú ý của con để vượt xa hơn lời nói, hầu con có thể chiêm nghiệm được, cho dù chỉ trong một thoáng, bản chất toàn diện và bao trọn tất cả của sự giao tiếp của thày.

Mục đích chính của loạt sách này là trao cho con những dụng cụ để con nắm bắt được, trong ngoại tâm của con, một số đặc tính tối thiểu của một tia sáng nào đó, hầu con có thể hoà điệu với tia sáng đó, và khi tâm con rời thân xác trong giấc ngủ, con có khả năng du hành đến khóa nhập thất của các thày nơi cõi ê-the. Con cần hiểu rằng khi con rời thân xác – và xin con lưu ý, thày đang không dùng từ “con” một cách đặc thù – con cũng đem theo con những phin lọc nhận thức của con. Điều này có nghĩa là khi con gia nhập lớp học trên cõi ê-the, con chờ đợi sẽ gặp một số điều mà con vẫn quen thuộc trên địa cầu.

Con có bắt đầu hiểu được thử thách mà thày phải đối mặt? Nhiệm vụ của thày là giúp con vượt ra ngoài phin lọc nhận thức của con, nhưng khi con đến nhập học thì con lại đến với phin lọc nhận thức, và con kỳ vọng là ở một mức độ nào đó, thày sẽ xác thực nhận thức của con về cuộc sống. Khi con đạt tới một tầng tâm thức nào đó, chẳng hạn tầng 58, các thày không thể đập vỡ tất cả mọi phin lọc của con. Ở mức đó, nhiệm vụ của thày không phải là đập vỡ tất cả mọi phin lọc, mà chỉ là cố giúp con vượt qua cái phin lọc tương ứng với nấc tâm thức đó hầu con có thể bước lên nấc kế tiếp.

Khi con đến với khóa nhập thất, các thày sẵn sàng giúp con gỡ bỏ phin lọc tương ứng với mức tâm thức hiện thời của con, nhưng đây là câu hỏi chủ yếu: “Thế con có sẵn sàng buông bỏ phin lọc đó hay không?” Đây là câu hỏi tối quan trọng, và thày đưa nó ra ngay lớp học đầu tiên bởi vì nó sẽ định đoạt khả năng con bước vào nhập thất tại Royal Teton và khởi sự học tập dưới sự hướng dẫn của thày.

4.6. Minh triết không phải là một vũ khí

Trong số các học viên, có một tỷ lệ nào đó bị mắc kẹt trong một vùng đất hoang. Họ đã qua được các khai ngộ của Tia thứ Nhất nhưng họ lại quá nhiệt tình trong việc áp dụng quyền năng đến nỗi họ không thể chuyển tiếp sang các khai ngộ của Tia thứ Hai. Họ lao vào, và họ gồng mình để cố vượt qua minh triết, vượt qua khai ngộ của Tia thứ Hai. Họ giống như rất nhiều sinh viên nhập đại học khắp thế giới, cứ tưởng rằng nếu mình chỉ lo học, chất đầy và lập trình tâm mình với tất cả hiểu biết đó – kiến thức đó, khả năng ghi nhớ và học thuộc lòng đó – thì mình sẽ thi đậu. Nhưng đây không phải là cách vận hành của khóa nhập thất Tia thứ Hai.

Minh triết Thượng đế không phải là sự khôn ngoan nhân thế. Nếu con đến với khai ngộ Minh triết Thiêng liêng mà lại phóng chiếu hình ảnh của hiểu biết phàm phu, thì con sẽ không thể thực sự tham gia vào cuộc khai ngộ. Đó là tại sao bước đầu tiên mà thày dẫn con đi qua là giúp con gỡ bỏ cái phin lọc nhận thức vô cùng phổ biến trong thế gian cho rằng minh triết có thể được sử dụng làm vũ khí.

Tiếc thay, có khá nhiều học viên đã củng cố cho phin lọc nhận thức này khi họ đi qua các khai ngộ của Tia thứ Nhất. Chân sư MORE biết rõ vấn đề này. Thày MORE cố gắng hết sức để giúp đệ tử đừng tăng cường phin lọc lạm dụng minh triết đó, nhưng thày ấy không có nhiều chọn lựa, bởi vì ở tầng 48 hay 52, con chưa sẵn sàng gỡ bỏ phin lọc nhận thức này. Con sẽ chưa sẵn sàng cho tới khi con đến với Tia thứ Hai và mức khai ngộ đầu tiên của Tia thứ Hai.

Chân sư MORE không thể thực sự dẫn con qua cuộc khai ngộ này. Thày MORE dư biết con mang phin lọc đó, và thày chỉ có thể cố giúp con tránh tăng cường nó mà thôi, nhưng một số đệ tử lại không nghe theo. Họ sử dụng uy lực, sử dụng động lượng mà họ đã đạt được trong khai ngộ của Tia thứ Nhất để củng cố phin lọc đó. Và bây giờ khi họ đến với khóa nhập thất của thày đây, thì họ chờ đợi là họ sẽ tìm thấy một số điều minh triết, họ sẽ học tập thật siêng năng đến độ họ trở nên tốt đẹp hơn, giỏi giang hơn, thông minh hơn, hiểu biết hơn các đệ tử khác.

Họ hành xử y như con thấy rất nhiều người hành xử trên thế giới. Họ hành xử như con thấy các nhà trí thức hành xử mọi lúc, khi họ biến cuộc thảo luận thành một loại tranh tài để xem ai là người khôn ngoan, thông minh nhất, ai là người có khả năng ứng đáp tài tình nhất. Nhất định phải có một phe đối lập, nhất định phải có điều gì đúng và điều gì sai. Và những ai biết được cái đúng thì phải khống chế những kẻ không có hiểu biết đó, khống chế những kẻ không có cùng cái nhìn về cuộc sống và do đó bắt buộc phải sai lầm, phải giả trá, phải thuộc về ác quỷ. Những kẻ này bắt buộc phải là kẻ lừa dối, có chủ ý đánh lừa, khuynh loát người khác, và chúng ta phải khống chế họ bằng minh triết của chúng ta.

4.7. Lời nói là dụng cụ để thăng vượt

Đó là những gì con có thể thấy xảy ra trong thế gian. Đó là một cách phản ứng rất phổ biến, có đúng không con? Có thể là con đã nhận ra chính con, hoặc ít ra một số người trong giới tâm linh đã tham gia vào trò khống chế người khác như vậy? Trong số các con, có bao nhiêu người tin rằng sự hiểu biết tâm linh của mình – cho dù nó đến từ các chân sư thăng thiên hay từ những giáo lý hay vị thày khác – cao siêu hơn mọi người khác? Một lần nữa, đây là một thách đố mà các thày phải đối diện. 

Thày không đang nói là minh triết mà các thày trao cho con không thực, không đúng, không có giá trị, tuy nhiên đây không phải là minh triết tối hậu, bởi vì minh triết tối hậu vượt khỏi mọi ngôn từ. Nó toàn diện, nó bao trọn tất cả, nó là một sự chiêm nghiệm. Điều mà thày trao cho con, điều mà các thày trao cho con qua các giáo huấn này, chỉ là ngôn từ, và khi ngôn từ được diễn dịch, bản chất toàn diện, bao trọn tất cả của nó bị phần nào đánh mất. Điều này không có nghĩa là lời nói không đáng giá gì cả, nhưng lời nói chỉ là dụng cụ để con thăng vượt. Khi con lấy một lời diễn đạt, cho dù là từ Kinh thánh hay từ một bài truyền đọc của chân sư thăng thiên, rồi con biến nó thành một chân lý tuyệt đối, thì con đã đánh mất minh triết, Minh triết Thiêng liêng. Con đã thu được sự hiểu biết nhân thế, hiểu biết phàm phu, nhưng thật sự nó khó lòng thay thế được hiểu biết đích thực. Đây là điều mà con cần bắt đầu nhận ra ở mức khai ngộ đầu tiên tại khóa nhập thất Royal Teton.

4.8. Khai ngộ thứ nhất tại Nhập thất Royal Teton

Các thày nhận các học viên, sắp xếp vào từng nhóm, xong yêu cầu học viên thảo luận về một đề tài nào đó. Lúc đầu, các thày chỉ yêu cầu họ thảo luận dựa theo những gì họ đã biết sẵn. Một câu hỏi được đặt ra, ví dụ: “Làm thế nào con người có thể biết được một điều gì? Làm thế nào con biết được điều con biết là thực, là đúng, là hữu lý?” Đây là câu hỏi mà các nhà hiền triết đã từng tranh luận từ hàng bao thế kỷ. Sẽ hữu ích cho con nếu con đã có nghiên cứu đôi chút về triết học và tìm hiểu xem các triết gia nói gì về đề tài này, bởi vì đây chính là việc con sẽ làm ở cấp đầu của khóa nhập thất.

Sau khi các học viên đã thảo luận sơ khởi dựa trên hiểu biết sẵn có, thày yêu cầu họ vào thư viện của thày để tìm xem các triết gia trên thế giới đã cố giải quyết vấn đề này như thế nào. Sau đó thày yêu cầu mỗi người hãy chọn ra một triết gia, rồi họ lại tụ lại để thảo luận chung quanh ý tưởng của các triết gia đó. Xong thày yêu cầu học viên cứ tiếp tục thảo luận. Thày không đưa ra hướng dẫn hay trợ giúp nào. Và tất nhiên, các học viên lao vào công việc này một cách vô cùng sốt sắng, và sốt sắng nhất là những người đã mang theo động lượng của uy lực để chuyển vào minh triết.

Các học viên này chọn ra một triết gia mà họ tin là có cái nhìn đúng đắn, là nắm được chân lý duy nhất, rồi họ liên tục đưa ra luận cứ dựa theo chân lý của triết gia này, như thể sự thật của vị ấy thực sự là cách nhìn cao nhất về vấn đề này, như thể đó thực sự là sự thật tuyệt đối vậy. Họ tranh luận với nhau, nhưng các học viên khác cũng cho rằng triết gia của mình mới nắm chân lý cao nhất cho nên họ cũng ngồi lại, và cứ vậy dần dần có một số phe nhóm hình thành. Trong nhiều trường hợp, các học viên khởi sự với nhiều quan điểm khác nhau, nhưng dần dà một số quan điểm bị loại bỏ, và cuối cùng chỉ còn lại hai phe chính đối đầu với nhau.

Con sẽ thấy khi con nghiên cứu triết học, hầu như trong mọi vấn đề đều có hai trường phái tư tưởng chính yếu. Một là Cha, một là Mẹ; một là sự tha hóa của Cha và một là sự tha hóa của Mẹ; lực lan ra và lực co lại. Các thày cứ để yên cho họ tranh cãi cho thỏa thích, và thày có thể nói với con là thật may mắn làm sao khi các thày, những vị thày hướng dẫn tại khóa Nhập thất Royal Teton, đã đạt được tâm Phật.

Thật là đáng kinh ngạc khi chứng kiến các học viên ngồi đó tranh cãi với nhau lâu đến như vậy trước khi họ hiểu ra là có lẽ đã đến lúc họ phải tìm một cách tiếp cận nào khác hơn cho vấn đề, bởi vì không có phe nào có khả năng thuyết phục được phe kia là mình đúng. Nếu có học viên nào bắt đầu thấy chính tranh luận là vấn đề, chính tư duy dẫn tới tranh luận là vấn đề, thì học viên đó đã sẵn sàng tiến sang bước kế tiếp.

Đôi khi khóa học khởi sự với một nhóm đệ tử khá đông. Các thày cứ để yên cho họ tranh luận và thay phiên nhau trình bày quan điểm, và các thày chỉ quan sát thôi. Khi có một đệ tử bắt đầu chất vấn chính cuộc tranh luận, chất vấn khuôn khổ tư duy đằng sau cuộc tranh luận, thì lúc đó các thày có thể kéo đệ tử đó ra ngoài. Đệ tử này có khả năng đi lên mức kế tiếp, là mức nơi khai ngộ về minh triết không còn được biểu đạt qua uy lực, mà minh triết được biểu đạt qua chính Tia sáng thứ Hai của minh triết.   

4.9. Các học viên không qua được khai ngộ đầu tiên

Còn đối với các học viên nào không chất vấn cuộc tranh luận, các thày sẽ để yên cho họ tiếp tục tranh luận. Thường chuyện này có thể kéo dài khá lâu, nhưng lần lượt các đệ tử sẽ từ từ được kéo ra ngoài, và trong nhiều trường hợp, cuối cùng sẽ chỉ còn lại đúng hai học viên. Đây chính là hai người đã trở thành kẻ lãnh đạo phe nhóm của mình, là hai người đã phát biểu về minh triết với nhiều uy lực nhất và cũng là hai người tin chắc nhất rằng mình đúng, rằng chỉ có thể có một chân lý duy nhất mà thôi. Và đó chính là tại sao họ lại biện luận quan điểm của mình hùng hồn đến như vậy.

Con sẽ ngạc nhiên khi thấy những học viên hùng hồn như thế có thể tiếp tục tranh luận lâu đến như vậy. Con sẽ ngạc nhiên khi thấy họ nhiều lần trở vào thư viện, tra khảo sách vở để tìm ra cho bằng được cái lý lẽ tối hậu. Và quả thật, điều đã từng xảy ra là các học viên này tới mức không chịu thua nhau, giận dữ nhau, rồi họ bỏ đi, không phải chỉ bỏ khóa nhập thất này, mà bỏ hẳn luôn cả tiến trình khai ngộ.

Một số đã rơi xuống tầng tâm thức ở dưới tầng 48 tương ứng với tầng của họ, bởi vì họ đã không thể buông nhả nỗ lực sử dụng minh triết để khống chế đối thủ của mình. Điều này không xảy ra thường lắm nhưng nó có thể xảy ra, bởi vì ở mỗi tầng tâm thức giữa 48 và 96, con có khả năng rơi xuống tầng đối xứng ở dưới tầng 48. Điều này xảy ra khi con tha hóa cuộc khai ngộ ở mức tâm thức hiện thời của con qua sự tức giận hay sợ hãi, hay một cảm xúc tiêu cực nào khác. Con cứ biểu lộ cảm xúc này ngày càng cực đoan hơn mà không sẵn lòng tra vấn xem có cách nào khác hơn, có cách nào không dẫn đến bực dọc.

Thày muốn con biết là nếu con nhìn vào các sinh hoạt công cộng trên trái đất này, con sẽ thấy trong thời đại hôm nay có những con người tương tự như thế. Con sẽ tìm thấy họ trong giới truyền thông, trên chính trường cũng như trong các lãnh vực khoa học, các tổ chức giáo dục như viện đại học chẳng hạn. Họ là những người ham mê tranh luận trí thức. Họ thường xem mình có kiến thức và hiểu biết cao siêu, nhưng đây là sự hiểu biết nhân thế, hiểu biết nhị nguyên. Hiểu biết như vậy không bao giờ giải quyết được việc gì. Thày có thể nói với con là một số người hiện đang viết lách về một đề tài nào đó, họ đã làm chuyện này từ lâu lắm rồi. Có thể họ đang viết sách để biện bác chống lại một quan điểm nào đó, nhưng họ không vừa mới bắt đầu làm chuyện này trong kiếp này đâu. Họ đã làm chuyện này từ nhiều kiếp trước rồi.

Ngày nay có những người đang đầu thai trong các giới trí thức đã từng đầu thai làm thày thông giáo và người Pha-ri-si cách đây 2000 năm. Vào thời đó, chính họ đã sử dụng sự khôn ngoan phàm phu của họ để biện bác chống lại Giê-su khi thày đứng trước mặt họ như đấng Ki-tô Hằng sống. Một số người đầu thai ngày nay cũng chính là người Bà la môn Ấn giáo thuở trước đã biện bác chống lại Gautama khi thày xuất hiện trước mặt họ trong xác thịt. Họ biện bác rằng đức Phật làm sao có lý được khi bảo tất cả đều là Phật tánh, bởi vì lời này đi ngược lại kinh điển của họ thời đó, cho nên họ phải đem tất cả nghị lực và tài ba trí thức ra để mà bác bỏ.

4.10. Trải nghiệm Tánh linh của Minh triết

Đó chính là khuôn nếp lạm dụng minh triết qua quyền năng. Con nâng cao một lời diễn đạt thành một dạng minh triết cao hơn, rồi con phóng chiếu nó ra để bắt buộc tất cả mọi thứ phải tuân theo minh triết này. Thậm chí con còn phóng chiếu ra để buộc cả Phật Hằng sống lẫn Ki-tô Hằng sống cũng phải tuân theo phin lọc nhận thức của con. Phật Hằng sống và Ki-tô Hằng sống đã đến đây để giúp con thoát ra khỏi hộp tư duy kín mít của phin lọc nhận thức của con. Cái hộp bị đóng kín vì con đã lấy một lời tuyên bố về minh triết rồi vận dụng quyền năng để nâng nó lên địa vị tuyệt đối. Lời tuyên bố minh triết của con có thể hoàn toàn hữu lý, nó có thể đúng, nhưng nó không phải là cách duy nhất để mô tả thực tại. Nó không phải là chân lý duy nhất, bởi vì không hề có chân lý duy nhất. Bất kỳ lời diễn đạt nào cũng chỉ là một cách mô tả, nhưng điều này không có nghĩa là mọi lời diễn đạt đều thực hoặc có giá trị như nhau. Có những lời diễn đạt lầm lẫn, nhưng cũng có nhiều hơn một lời diễn đạt là thực, đúng, hữu lý và hữu ích. Diễn đạt chỉ là diễn đạt; nó chỉ là những cách mô tả có khả năng giúp con thăng vượt ngôn từ và đạt được sự chiêm nghiệm toàn diện về Tánh linh của Minh triết, là tánh linh đã nảy sinh ra Lời, nhưng lại là nhiều hơn lời nói, nhiều hơn hình tướng.

Hỡi con yêu dấu, đây là sự khác biệt giữa những ai vượt qua được khai ngộ đầu tiên của Tia thứ Hai và những ai bị rớt lại. Những học viên này sẽ phải tiếp tục lạm dụng quyền năng của mình bằng cách cố nâng một lời diễn đạt lên thành chân lý tuyệt đối tối thượng mà mọi người trên địa cầu phải tôn trọng, tuân thủ và thờ phượng. Chính đó là thử thách đầu tiên trong các khai ngộ của Tia thứ Hai. Một khi con qua được các khai ngộ của Tia thứ Nhất, con cũng sẵn sàng vượt qua thử thách này ở mức nội tâm. Nhiều người đọc đến đây cũng đã qua được cuộc khai ngộ ở mức nội tâm. Nhưng câu hỏi chủ yếu ở đây là: “Liệu ngoại tâm của con đã hòa điệu được với bước tiến nội tâm của con hay chưa?”

Liệu con đã nhận ra được, với ngoại tâm ý thức của con, rằng mọi cách diễn đạt bằng ngôn từ chỉ là một cách khả dĩ để mô tả thực tại vượt khỏi mọi ngôn từ? Đó không là chân lý duy nhất. Đó không là cách diễn đạt duy nhất, và do đó con không được biến nó thành một cái hộp tư duy đóng kín. Nếu con đóng hộp tư duy con lại, thì thày, Lanto, sẽ không thể dạy con. Nếu vậy thì con cần đi về và học hỏi từ Trường đời Cay đắng, nơi con sẽ giao chiến với người khác và tiếp tục xung đột như thế trong nhiều kiếp đầu thai nữa, cho đến khi con sẵn sàng chấp nhận rằng một lời diễn đạt nào đó, cho dù hay ho đến đâu, cũng chỉ là một cách mô tả cái mà thực sự không có lời nào có thể mô tả được.

Ngay cả Lời của Thượng đế cũng không thể nắm bắt hết sự viên mãn của Thượng đế. Ngay cả lời nói của Lanto cũng không thể nắm bắt được sự viên mãn của tánh linh mà TA LÀ. Nếu con cho rằng con có thể biết được thày qua lời nói, thật là con chưa biết thày chút nào. Nhưng nếu con sử dụng lời nói của thày như một phương thức để hòa điệu chiếc máy thu thanh của tâm con với Hiện diện của thày, thì thày sẽ chia sẻ Hiện diện của thày với con. Và như vậy con sẽ vượt qua cuộc khai ngộ nhằm gỡ bỏ phin lọc nhận thức đầu tiên của con trên Tia sáng thứ Hai của Minh triết.

TA LÀ Lanto. TA LÀ một tánh linh. TA LÀ nhiều hơn tất cả những gì có thể biểu đạt qua lời nói, và thày khao khát chia sẻ với con cái nhiều hơn đó. Trước khi thày có thể làm được vậy, con phải sẵn lòng từ bỏ bất cứ lời diễn tả nào mà con cho là sẽ mô tả thày, hay mô tả Thượng đế, hay mô tả thực tại tâm linh, hay mô tả cuộc sống trên địa cầu. Con hãy dùng những từ này mà thày trao cho con để con mở tâm ra một chiêm nghiệm hoàn toàn vượt khỏi ngôn từ. Lanto TA LÀ. “Lanto” chỉ là một từ. “TA” chỉ là một từ. “LÀ” chỉ là một từ. TA LÀ nhiều hơn. Con hãy biết thày là cái nhiều hơn đó thì con cũng sẽ biết con là cái nhiều hơn.

Phân biện thực với không thực

Bài giảng của chân sư thăng thiên Lanto qua trung gian Kim Michaels, ngày 9/3/2014.

TA LÀ chân sư Lanto, Thượng sư của Tia sáng thứ Hai. Tia thứ Hai thường được xem là tia sáng của Minh triết Thượng đế. Khi thày nói “Minh triết Thượng đế”, có bao nhiêu người sẽ chú tâm vào từ “minh triết” mà quên mất từ “Thượng đế”? Nhiều người nghĩ rằng minh triết có nghĩa là trí tuệ thế gian, bởi vì làm sao họ có được một khung tham chiếu nào khác hơn để mường tượng ra Minh triết Thượng đế? Nhiều người đã ôm giữ một tượng thờ làm hình ảnh về Thượng đế, và ngay cả khi họ nghĩ đến một minh triết vượt khỏi trí tuệ con người, thì họ cũng chỉ nhìn thấy được một minh triết được gán ép vào hình ảnh giả trá đó về Thượng đế, là hình ảnh mà họ đã thờ phượng từ nhiều thế kỷ, nhiều thiên niên kỷ đã qua, thậm chí từ trước cả lịch sử ghi chép.

Quả vậy, có thể nói rằng vấn đề chủ yếu trên địa cầu là hình ảnh giả trả về Thượng đế mà con người đã có từ khi các thiên thần sa ngã nguyên thủy đi xuống trái đất này lần đầu tiên. Chúng đã truyền bá hình tượng riêng của chúng về một ông thần ở bên ngoài, với bất kỳ hình dạng nào mà chúng có thể sử dụng để quyến rũ con người vào thời đó.

Làm sao con có thể biết được Minh triết Thượng đế nếu con không biết đến cả Thượng đế, nếu con nghĩ rằng Thượng đế có thể nằm gọn trong cái hộp tư duy nhỏ xíu đã được tạo ra ở đây trên địa cầu, hay đã được tạo ra ở ngoài địa cầu bởi các sinh thể sa ngã khi chúng cho rằng chúng có thể điều khiển vũ trụ giỏi hơn Thượng đế? Thày có thể đoan chắc với con là nếu các thiên thần sa ngã đã được giao phó nhiệm vụ điều hành vũ trụ, thì từ lâu, vũ trụ đã tự hủy diệt qua cơ chế được mô tả trong định luật thứ hai của nhiệt động học. Có một sức mạnh sẽ phá vỡ bất kỳ hệ thống nào chứa đựng mâu thuẫn nội tại, bởi vì hệ thống đó dựa trên trí tuệ giả trá do tâm thức nhị nguyên tạo dựng – cái mà các thày đã gọi là tâm rắn [serpentine mind, hay tâm lý luận quanh co].

3.1. Một lời mời đặc biệt tham dự lớp nhập thất tại Royal Teton 

Với tư cách là Thượng sư Tia thứ Hai, thày đến đây để đề nghị với con là nếu con đọc các bài thỉnh trong quyển sách này, con sẽ được mời tham dự một khóa tu học đặc biệt tại Nhập thất của thày ở Royal Teton. Điều này sẽ giúp những ai đã sẵn sàng, những ai sẵn lòng nhìn xuyên thấu trí khôn của rắn, nhìn xuyên thấu cái cơ chế mà qua đó những sinh thể đã bước ra sau tấm màn nhị nguyên nghĩ rằng họ có khả năng tạo ra định nghĩa riêng của họ về minh triết. Lần hồi, tùy theo mức tâm thức của con, con sẽ được chỉ dẫn để giải phóng tâm con cho không còn những ý tưởng vi tế đã được sa nhân cài đặt vào tâm thức tập thể trong nỗ lực gài bẫy loài người vào niềm tin phổ biến nhất trên địa cầu – là niềm tin rằng: “Chúng tôi nắm sự thật tuyệt đối. Chúng tôi biết cái gì là thực, chúng tôi biết cái gì là chân, chúng tôi biết Thượng đế có hiện hữu hay không, và Thượng đế đó như thế nào.” Thượng đế đó hiện hữu như được mô tả trong tôn giáo của chúng tôi. Hoặc Thượng đế đó không hề hiện hữu theo tôn giáo của chúng tôi là chủ nghĩa duy vật.

Đây là một lời mời đặc biệt dành cho những ai sẵn lòng đọc các bài thỉnh trong quyển sách này và sau đó, trước khi đi ngủ, thỉnh cầu mình được đưa tới khóa Nhập thất tại Royal Teton nằm bên trên rặng núi Teton, tiểu bang Wyoming tại Hoa Kỳ. Ngọn núi cao nhất trong rặng nui này mang tên Royal Teton, và đó chính là nơi con sẽ tìm thấy những cánh cửa bằng vàng mở vào khu nhập thất.

Trong quá khứ, các thày đã từng mô tả những cánh cửa đó là cánh cửa to lớn bằng đồng, nhưng qua thuật giả kim của tánh linh và biết bao nhiêu người tâm linh trên địa cầu đã tới đây nhập thất, các thày đã nâng cấp thành cửa vàng ròng.

Các thày muốn báo trước cho tất ai những ai sẽ tới tham dự rằng đằng sau cánh cửa, con sẽ tìm thấy Ngọn lửa Giác ngộ Hoàng kim cháy rực sáng trên bàn thờ ở đại sảnh nơi trung tâm khu nhập thất. Con có thể hình dung đại sảnh như một khoảng không gian rộng lớn với một mái vòm khổng lồ bên trên, to lớn hơn mọi mái vòm khác mà con từng thấy trong các công trình kiến trúc nổi tiếng khắp thế giới. Mái vòm này không có cột chống, mà nó được giữ trên cao bởi những tia ánh sáng rực rỡ đến độ chúng cầm giữ được mái vòm. Tất nhiên, mái vòm không được cấu tạo bằng một chất vật lý, nhưng chất liệu của nó vẫn dày đặc hơn ánh sáng đang cầm giữ nó trên cao.

3.2. Ánh sáng cầm giữ cả vũ trụ vật chất 

Điều này tượng trưng cho sự kiện tất cả mọi thứ đều được chống giữ nhờ ánh sáng. Tất cả mọi thứ thị hiện như một chất hữu hình trong vũ trụ vật chất đều thực sự lơ lửng trên một nền tảng ánh sáng. Có một câu chuyện vui rất xưa kể rằng có một vị thày kia ở phương Đông bảo rằng toàn bộ vũ trụ vật chất nằm trên mu một con rùa. Và khi có người hỏi: “Thế ở dưới con rùa là gì?” thì vị ấy trả lời: “Chỉ toàn là rùa với rùa cho tới tầng thấp nhất.” Tất nhiên câu chuyện cần được hiểu trong truyền thống khôi hài của Thiền Phật giáo luôn luôn tìm cách tạo bối rối cho tâm đường thẳng. Không có chuyện một con rùa chống giữ cho cả vũ trụ, nhưng quả là ánh sáng chống giữ cho cả vũ trụ vật chất, và đúng vậy, chỉ toàn là ánh sáng từ trên xuống dưới. Dù con có đi theo hướng nào thì rốt cuộc con cũng đạt tới Bản thể của Đấng Sáng tạo.

Mục đích thật sự của việc tham gia khóa Nhập thất Royal Teton gồm có hai phần. Trước hết là để khiến cho cái tâm trí thức đường thẳng – tâm phân tích – bị bối rối. Cái tâm đó khao khát muốn biết mọi sự, khao khát khả năng đặt mọi khía cạnh của cuộc sống, mọi khía cạnh của Thượng đế, vào trong kho dữ liệu của nó. Nó muốn phân loại tất cả mọi thứ mà nó gặp và mỗi phân loại phải được gán cho một cái nhãn trong kho dữ liệu. Đây là mục tiêu ngàn đời của tâm phân tích, bởi vì chỉ khi làm xong chuyện này thì nó mới cảm thấy đã tròn phận sự. Chỉ có khi đó thì tự ngã mới cảm thấy là nó đã nắm được chính con, cũng như đời sống của con, dưới quyền kiểm soát của nó – bởi vì con đã nhận lấy một nhãn hiệu cho chính mình.

Mục tiêu đầu tiên khi đến Nhập thất Royal Teton là các thày sẽ giúp con đập vỡ những cái nhãn mà con đã tự gán lên mình, gán lên Thượng đế, gán lên mọi khía cạnh của cuộc sống trong cõi vật chất. Các thày giúp con nhìn ra là con có khả năng vượt xa hơn, vượt ra ngoài các giới hạn mà con người đã áp đặt lên mình từ ngàn đời. Các giới hạn này đã không ngừng được tăng cường trong tâm thức tập thể, khiến cho nhiều người thời nay không tin nổi là khi Ki-tô bước chân trên địa cầu, thày đã thực hiện những phép lạ không làm sao thực hiện được trong khuôn khổ những định luật gọi là luật tự nhiên. Hay họ không làm sao tin nổi rằng khi chính thày bước chân trên mặt đất trong kiếp hiện thân chót của thày, người ta có thể nhìn thấy ánh rực sáng của ngọn lửa ba nhánh của thày tỏa xuyên qua da thịt vật lý.

Nhiều người trong thế giới ngày nay sẽ lập tức bác bỏ những chuyện như vậy, và đây là bằng chứng rõ ràng cho thấy tâm thức tập thể đã bị ô nhiễm đến chừng nào bởi những niềm tin gây giới hạn nhằm hạ thấp uy lực của Thượng đế bên trong con. Như Giê-su từng nói: “Với con người thì chuyên đó không thể, nhưng với Thượng đế thì chuyện đó có thể, bởi vì với Thượng đế mọi chuyện đều khả dĩ.” Tất cả mọi thứ đều khả dĩ.

Những gì con có thể hình dung và chấp nhận đều có thể được thị hiện như một hiện thực vật lý. Ánh sáng của Mẹ – Ánh sáng Mẫu-Vật – sẽ trải bày ra bất kỳ hình ảnh nào được phóng chiếu lên nó với một cường độ đủ mạnh. Những gì con nhìn thấy hôm nay trong cõi vật chất không là gì hơn một hình ảnh do tâm thức tập thể phóng chiếu ra. Những gì con nhìn thấy trên địa cầu được phóng chiếu bởi tâm thức tập thể của các cư dân của địa cầu, trong quá khứ lẫn trong hiện tại. Khi nào con phóng chiếu ra một hình ảnh khác thì sự thị hiện vỏ ngoài cũng sẽ thay đổi, tùy theo các chu kỳ của bốn tầng của vũ trụ vật chất.

3.3. Minh triết Thượng đế không trí thức 

Có ích lợi gì mà trao cho con một minh triết sẽ thỏa mãn trí thức của con và cho con cảm giác mình là một đệ tử tâm linh cao cấp nếu minh triết đó không thách thức các giới hạn mà con đã chấp nhận cho chính con? Liệu con có nghĩ rằng các thày – là các vị thày tâm linh của nhân loại – ngồi ở đây để đổ trí tuệ thế gian xuống cho đệ tử của mình hầu đệ tử ngày càng trở nên khôn ngoan hơn trong nghĩa thế gian? Con chẳng nhận ra hay sao rằng các thày đã từng là những vị thày từ rất lâu rồi, và một số thày đã thăng thiên hàng bao thế kỷ trước? Các thày đã từng theo dõi vô số đệ tử, vào thời các thày còn hiện thân lẫn sau đó. Các thày đã thấy họ bước đến, họ muốn nhận được minh triết và họ muốn được người đời nghĩ họ minh triết đến chừng nào. Họ trông chờ các thày sẽ trao cho họ minh triết để họ có thể bước ra ngoài kia và thoả mãn nhu cầu của tự ngã muốn được chứng nhận và cảm thấy là phần nào mình cao trội hơn người khác.

Tất nhiên, các thày đón nhận tất các mọi đệ tử, đặc biệt tại Nhập thất Royal Teton, là một trong những khóa nhập thất tiên khởi nơi mọi người đến nhập môn khi họ sẵn sàng tiếp nhận một giáo lý cao hơn. Các thày phải thỏa mãn bất kỳ mong muốn nào của đệ tử khi họ đến đây lần đầu. Điều các thày tìm kiếm là những người đã đạt tới mức họ sẵn lòng nhìn nhận các giới hạn của trí tuệ thế gian. Họ sẵn lòng nhìn ra là phải có cái gì hơn chuyện trí thức hóa, hơn chuyện bàn cãi triết lý về khía cạnh này của định luật vũ trụ hay khía cạnh nọ của cõi tâm linh. Khi đệ tử đạt đến mức đó, các thày sẽ cống hiến cho họ một con đường cao hơn tại khóa nhập thất để họ vượt lên xa hơn. Lần hồi họ sẽ bắt đầu nhận ra mục tiêu thứ hai – mục tiêu đích thực – của việc tham dự khóa Nhập thất Royal Teton, là để họ chạm được gấu áo của chiếc Áo choàng Giác ngộ Hoàng kim – tức là Ngọn lửa Giác ngộ – và chứng được nó như là một năng lượng, một rung động vượt khỏi mọi thứ trên địa cầu.

3.4. Dạy dỗ một tân đệ tử tại Royal Teton 

Nếu các thày đưa ngay các đệ tử nhập môn vào đại sảnh trung tâm nơi Ngọn lửa Giác ngộ hằng cháy, thì họ sẽ bị thiêu đốt. Cảm nhận mà họ vẫn mang là mình kiểm soát được mọi chuyện, sẽ bị vỡ tan đến mức họ trải qua một cuộc khủng hoảng bản sắc nghiêm trọng. Các thày không cho phép các tân đệ tử tiếp cận với ngọn lửa. Thậm chí các thày không cho phép họ bước vào đại sảnh có chứa ngọn lửa cho đến khi họ sẵn sàng. Họ phải chứng tỏ là họ sẵn lòng buông bỏ mọi tư tưởng trí thức, triết lý, sẵn lòng chất vấn tất cả các niềm tin hiện có, và họ làm được điều đó mà không đánh mất ý niệm bản sắc, đánh mất nền tảng cuộc sống của họ.

Khi nào họ chứng tỏ được sự sẵn lòng này thì khi đó các thày sẽ cho phép họ bước vào đại sảnh. Lúc đầu, họ sẽ được ngồi dọc theo tường trong hội trường, họ sẽ ngồi trên ghế và quan sát ngọn lửa từ xa. Họ sẽ chỉ đơn giản ngồi đó và nhìn từ xa, rồi lần hồi họ làm quen với rung động của Ngọn lửa Giác ngộ Hoàng kim. Sau một thời gian tùy theo khả năng cùng sự sẵn lòng của mỗi cá nhân, họ có thể tiến lại gần hơn. Họ sẽ từ từ đến gần và gần hơn nữa cho tới khi họ có khả năng bước đến hàng rào vòng tròn bao quanh cái bệ nơi có ngọn lửa bùng cháy.

3.5.  Chùm lửa vàng kim trong ngọn lửa ba nhánh của tim

Các đệ tử sẽ có thể quỳ xuống ở một khoảng cách nơi họ gần như có thể chạm tay được ngọn lửa. Họ sẽ được hấp thụ Ngọn lửa Giác ngộ Hoàng kim một cách lần hồi, với cường độ ngày càng gia tăng, cho đến khi ngọn lửa nhảy ra khỏi bệ, nhập vào tim họ, nhập vào căn phòng mật thất của trái tim, nơi nó trở thành chùm lửa màu vàng kim chói rực trong ngọn lửa ba nhánh. Đây là lúc con là một đệ tử của Ki-tô có khả năng phân biện Lời sự Thật một cách chính trực, và con biết được đâu là thực, đâu là không thực, chỉ bằng cách đơn giản là so sánh tất cả những gì con gặp trên trái đất với sự rung động của Ngọn lửa Giác ngộ Hoàng kim nơi căn phòng mật thất trong tim con. Đây chính là thước đo tối hậu về cái thực và cái không thực, về chân và giả – vượt lên trên cả đúng và sai, vì cái này là một khái niệm đã bị tâm của rắn lạm dụng đến mức nó gần như trở thành vô nghĩa.

Hẳn là một cái gì chân thực, và đó là Ngọn lửa Giác ngộ. Bằng cách giữ lấy Ngọn lửa Giác ngộ đó làm khung tham chiếu cho con, và vì ngọn lửa được neo trụ ngay giữa tim con, con sẽ có khả năng nhận ra cái không thực vì con thấy nó không phải là ngọn lửa, nó không rung động đồng nhịp với ngọn lửa. Mục tiêu mà các thày đặt ra tại Nhập thất Royal Teton là nâng cao đệ tử đến mức họ neo trụ được Ngọn lửa Giác ngộ Hoàng kim nơi tim mình, hầu họ có thể bước ra ngoài và toả rạng ánh giác ngộ đó trong xã hội. Và họ sẽ giúp đem lại Thời đại Hoàng kim của Saint Germain, vì thực sự thời đại này phải được xây dựng trên nền tảng của khả năng phân biện giữa trí tuệ giả trá của tâm rắn với minh triết cùng sự giác ngộ đích thực của Ngọn lửa Thượng đế. Thày, Lanto, đã từ nhiều thế kỷ hỗ trợ bào huynh Saint Germain yêu dấu của thày trong nỗ lực đem lại Thời Hoàng kim trên trái đất. Cả hai thày gần gũi hơn bao giờ hết, nhưng sự gần gũi của hai thày chỉ có thể tương xứng với sự sẵn lòng mà các đệ tử đang đầu thai sẽ dành ra để hiện thân Ngọn lửa Giác ngộ Hoàng kim cùng ngọn lửa của các tia sáng khác.

Thày đã hé mở cho con thấy những khai ngộ mà con có thể cố gắng vươn tới. Thày cam đoan với con rằng các bài chú của Tia thứ Hai và các bài thỉnh trong quyển sách này là những dụng cụ hữu hiệu nhất hiện có trong bát cung vật lý (physical octave) để hòa điệu với Tia thứ Hai và Ngọn lửa Giác ngộ Hoàng kim. Các bài này cũng là phương thức hay nhất để đảm bảo con có thể đến được Nhập thất Royal Teton mỗi đêm hầu con tham gia vào các khai ngộ đó. Xuyên qua các bài chú và bài thỉnh, con sẽ có thể lần hồi xây dựng động lượng cần thiết để đem Ngọn lửa Giác ngộ Hoàng kim vào cõi vật chất, hầu cơ thể vật lý và tâm vỏ ngoài của con có thể chịu được sự hiện diện của rung động đó trong căn phòng mật thất nơi tim con.

Thày, Lanto, trao cho con cơ hội bằng vàng này, và các thày sẽ dõi nhìn sự sẵn lòng của con để nhân lên gấp bội những ta-lăng mà con được ban cho, cũng như sự sẵn lòng của mọi người khắp thế giới để hòa điệu với động lượng được tạo ra bởi tất cả những ai đọc thỉnh cho Tia thứ Hai cùng các tia sáng khác.

3.6. Một đợt truyền pháp quan trọng để thăng vượt động lượng cũ

Qua việc phổ biến những bài chú và bài thỉnh cho tất cả bảy tia sáng, các thày đang ban cho con một đợt truyền pháp chủ yếu, một cơ hội quan trọng để mọi người tâm linh trên địa cầu thăng vượt động lượng cũ của mình. Con có thể cho rằng các bài chú và bài thỉnh nghe thật đơn giản, thậm chí nông cạn. Có người còn gọi đó là những bài đồng dao cho trẻ con, nhưng thày nói với con, giống như mọi chuyện khác, các thày đã làm phận sự của mình khi trao cho con một dụng cụ. Không thể bảo đảm được hiệu quả của dụng cụ này trong cõi tự quyết, nhưng điều các thày có thể bảo đảm với con là dụng cụ sẽ hiệu quả tùy theo con sẵn lòng nhân các ta-lăng lên tới chừng nào. Điều này tùy thuộc ở con, tùy thuộc vào tất cả mọi người tâm linh trên địa cầu, liệu các con sẽ tận dùng công cụ này đến chừng nào, và con sẽ nhân lên được chừng nào động lực nguyên thủy mà các thày ban ra.

Nếu có đủ số người tham gia vào việc đọc chú và đọc thỉnh cho bảy tia sáng, quả thật chúng ta có tiềm năng chứng kiến một cuộc đột phá to lớn. Bỗng nhiên chúng ta sẽ có những người hiện đang đầu thai biểu tượng cho mỗi tia trong số bảy tia sáng, thậm chí cả Tia thứ Tám của sự hội nhập. Nhân loại sẽ thực sự có khả năng đem lại một cách tiếp cận mới cho tất cả mọi vấn đề mà con gặp trên địa cầu, dựa trên sự kiện khung tham chiếu của bảy tia sáng có thể giúp quyền năng cho loài người thăng vượt những vấn đề cụ thể đã khởi sinh từ sự tha hóa các tia sáng.

Không có gì trong vũ trụ vật chất có thể được sinh tạo mà không do bảy tia sáng, và điều này có nghĩa là không có một giới hạn nào có thể được sinh tạo mà không là sự tha hóa của một tia sáng. Khi con người đầu thai thỉnh cầu ánh sáng thuần khiết của một tia sáng nhất định, ánh sáng đó sẽ tiêu hủy sự tha hóa đó. Các đặc tính của tia sáng sẽ cho con người niềm sáng ngộ mà họ cần để thăng vượt niềm tin đã tạo ra tha hóa. Một khi năng lượng tha hóa và niềm tin tha hóa được thăng vượt, vấn đề sẽ không còn nữa. Con người sẽ có khả năng kích hoạt sự thị hiện thuần khiết của tia đó, và đột nhiên con sẽ bắt đầu chứng kiến những tiến bộ vượt bực trong xã hội.

Những năm sau năm 2012 có thể được xem là một cơ hội mới, một trang giấy mới, một khởi đầu mới cho nhân loại. Có một tiềm năng to lớn để xây dựng nền tảng cho một thời đại hoàng kim. Tiến trình này phải bắt đầu với một số đệ tử sẵn lòng thăng vượt các động lượng cũ của mình trên mỗi tia sáng, hầu họ đạt tới điểm trở thành cánh cửa mở. Đây chính là cơ hội mà con có thể nắm lấy khi con sử dụng quyển sách này cùng những quyển khác trong nguyên bộ này.

Vậy thày nói: Con hãy được niêm trong Ngọn lửa Giác ngộ Hoàng kim mà thày, Lanto, cầm giữ cho địa cầu – Ngọn lửa Giác ngộ Hoàng kim mà TA LÀ.

18 | Thỉnh cầu tự do khỏi cảm xúc đau đớn

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Venus và Mẹ Mary, hãy giúp con thăng vượt mọi cảm xúc đau đớn đã khiến con không thể nhìn vào quá khứ và tha thứ. Con xin các thày giúp con khắc phục các ảo tưởng đang ngăn trở sự chữa lành của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con thấy nguyên nhân thật của nỗi đau của con

1.1. Khi con không tha thứ người kia, con đang cầm giữ hoàn cảnh cũ. Nghĩa là con cầm giữ nỗi đau được tạo ra trong hoàn cảnh khi con bị người kia làm tổn thương.

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.2. Nỗi đau níu kéo sự chú ý có ý thức của con và níu kéo con nhớ lại hoàn cảnh đó. Bất cứ khi nào con nhớ hoàn cảnh đó, con lại củng cố cho nỗi đau nguyên thuỷ. Qua đó, con trói mình vào quá khứ và con củng cố nỗi đau. 

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.3. Khi con không tha thứ người kia, con làm hại chính mình vì con đang cầm giữ những hình ảnh và cảm xúc bất toàn, và con đang phóng chiếu chúng lên Ánh sáng Mẫu-Vật. 

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.4. Ánh sáng Mẫu-Vật lý giải là con muốn trải nghiệm tình huống trong đó con bị người ta làm tổn thương. Ánh sáng Mẫu-Vật không có chọn lựa nào khác hơn là gửi cho con những hoàn cảnh tương lai trong đó con bị người khác làm tổn thương.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.5. Lý cớ mà con dùng để không tha thứ người khác là vì họ không đáp ứng các điều kiện bên ngoài mà tự ngã của con đã quy định.  

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.6. Tự ngã khiến con nghĩ là khi người kia chưa đáp ứng những điều kiện của con, thì con không thể buông bỏ hoàn cảnh, con không thể tha thứ và vượt lên trên nó. Đây chính là cùng một tâm lý khiến con bị tổn thương trong hoàn cảnh ban đầu.

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.7. Trong hoàn cảnh ban đầu có người đã làm chuyện gì đó với con. Nhưng không phải những gì họ làm đã khiến con bị tổn thương. Đó là những tin tưởng bất toàn mà con nắm giữ về chính mình và cuộc đời đã khiến con phản ứng lại hoàn cảnh theo cách khiến con bị tổn thương. 

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.8. Điều thật sự tạo ra nỗi đau trong hoàn cảnh ban đầu là vì con có một tin tưởng biến con thành một nạn nhân thụ động. Con nghĩ khi người ta làm điều gì với con, con chỉ có thể đáp trả với cảm xúc tiêu cực, và cảm xúc này khiến con đau đớn. Chính tin tưởng này đã biến con thành một nạn nhân. 

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.9. Thậm chí bây giờ con vẫn cầm giữ tin tưởng con là một nạn nhân. Con suy nghĩ là chỉ khi người kia đáp ứng một số điều kiện thì con mới tha thứ họ và buông bỏ hoàn cảnh đó. Khi con không tha thứ thì thật sự con đang duy trì hoàn cảnh nguyên thủy. 

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2. Con buông bỏ nỗi đau của mình

2.1. Chỉ khi con thay đổi những tin tưởng của mình thì con mới phá vỡ chu trình trải nghiệm những hoàn cảnh vật lý, trong đó con nghĩ con chỉ có phản ứng duy nhất là cảm thấy mình là nạn nhân và cảm thấy đau đớn. 

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.2. Điều duy nhất có thể thay đổi phương trình đó là con thay đổi cách con nhìn phương trình, cách con nhìn cuộc sống, cách con nhìn chính mình.

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.3. Ngay đây con lấy lại quyền lực đáp ứng lại hoàn cảnh dựa trên một chọn lựa mà con lấy ngày hôm nay thay vì một chọn lựa mà con đã lấy trong quá khứ.

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.4. Con sẵn lòng quay lại nhìn tin tưởng ban đầu và loại bỏ nó vì nó không có thật. Con loại bỏ tin tưởng đó và con được tự do đáp ứng lại hoàn cảnh mà không bị hành trang cũ đè nặng vai mình.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.5. Con không phải đáp ứng tình huống này bằng cảm xúc tổn thương, cảm xúc sợ hãi, cảm giác xấu hổ, bằng chỉ trích dày vò chính mình, và cho mình là người xấu vì người ta đối xử với con như thể con là người xấu. 

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.6. Những gì người khác làm với con phản ánh trạng thái tâm thức của họ. Người đó có một hình ảnh bất toàn về chính họ, và người đó phóng chiếu hình ảnh đó lên con.

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.7. Nhưng con không phải chấp nhận hình ảnh của người đó về con. Thượng đế đã ban cho con quyền sống cuộc đời mình dựa trên những hình ảnh trong chính tâm mình. Con tự do chọn lựa cách đáp ứng lại người kia.

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.8. Chìa khoá để giải thoát khỏi những tin tưởng bất toàn của người khác hay những tin tưởng bất toàn của các ngã quá khứ của con là sự tha thứ. Con tha thứ bằng việc hoàn toàn không dính mắc với những gì người khác hay tâm thức vỏ ngoài của con phóng chiếu tới con.

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.9. Con có uy lực tuyệt đối để tha thứ vô điều kiện chính mình và người khác. Con giản dị buông bỏ tất cả cảm nhận tổn thương, tất cả cảm nhận đau đớn. 

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3. Con ngừng vòng xoáy đi xuống

3.1. Con vượt lên trên vòng xoáy đi xuống do quá khứ tạo ra. Con không còn tìm cách chuyển đổi quá khứ, kiểm soát quá khứ hay kiểm soát người khác. Con chuyển hóa cách con nhìn quá khứ. Con sẵn lòng buông bỏ tin tưởng mà con vẫn đang cầm giữ. 

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.2. Cây đũa thần là nhận biết có ý thức của con và lòng sẵn sàng buông bỏ. Ngay đây con buông bỏ nỗi đau, con buông bỏ tổn thương, con buông bỏ tin tưởng rằng con cần phản ứng lại một số hoàn cảnh một cách tiêu cực. Con buông bỏ tin tưởng rằng trong một số hoàn cảnh, con chỉ có thể phản ứng với cảm xúc tiêu cực.

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.3. Con chọn bước vào Tánh linh Tha thứ. Con cho phép Tánh linh Tha thứ đi vào thể thấp của con. Con chấp nhận là con ở trong trạng thái luôn luôn tha thứ. Con đã tha thứ chính mình và người khác trước khi họ làm bất cứ điều gì tới con.

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.4. Khi con biết họ đã được tha thứ rồi, thì con cũng biết con đã thoát khỏi mọi phản ứng tiêu cực cho dù người ta có làm gì tới con. Con theo lời khuyên của Giê-su và chìa má bên kia.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.5. Con chìa má bên kia trong trạng thái tha thứ liên tục và vô điều kiện. Con cho người kia một cơ hội khác để nhìn thấy những bất toàn trong họ. 

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.6. Nếu một người gây tổn thương cho con và con phản ứng lại bằng cách gây tổn thương cho họ hoặc tự bảo vệ mình, thì con chỉ củng cố tin tưởng của họ. Con không chỉ củng cố tin tưởng đó trong tâm của người kia, mà còn củng cố nó trong tâm của con.  

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.7. Khi con chìa má bên kia, con phá vỡ vòng xoáy. Khi một người gây tổn thương con mà con đáp trả bằng tình thương, thì con thách thức tin tưởng của họ rằng con là một người xấu. Con cho người kia thấy con là người có thể đáp trả bằng tình thương.

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.8. Khi con chìa má bên kia với lòng tha thứ vô điều kiện và người kia vẫn làm tổn thương con, thì hành động làm tổn thương lần thứ nhì này sẽ trở thành sự phán xử của người đó.

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.9. Con chấp nhận lời dạy của Giê-su là khi con chìa má bên kia và không cưỡng lại cái ác, thì con cho phép luật của Thượng đế thực thi đầy đủ. Bằng cách hành xử như vậy, luật của Thượng đế sẽ có thể tăng tốc việc bứng cái ác ra khỏi trái đất.

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4. Con là công cụ của sự phán xử

4.1. Khi con cho phép người khác làm tổn thương con lúc con chìa má bên kia, thì Thượng đế có thể nhập cuộc và rút người đó ra khỏi trái đất. Qua đó, những người ích kỷ nhất, vị kỷ nhất, duy ngã nhất sẽ bị rút ra khỏi trái đất.  

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.2. Con là công cụ giúp nhân loại vươn lên một tầng cao hơn và khắc phục một số trạng thái tâm thức đã diễn đi diễn lại nhiều lần trong một vòng xoáy dường như vô tận.

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.3. Con đã chán ngán cái vòng xoáy đi xuống này. Con sẽ không tiếp diễn chu trình này, và vì vậy con sẽ làm một điều hoàn toàn khác. Thay vì đáp trả nỗi đau bằng nỗi đau, sự trả thù và mong muốn trừng phạt, thì con đáp trả bằng tình thương và tha thứ vô điều kiện. 

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.4. Khi hành động như thế, con giải thoát mình khỏi tất cả các ràng buộc với những người đã làm con tổn thương. Con không muốn tiếp tục trói mình với những người đã gây tổn thương cho mình. Con vĩnh viễn giải thoát mình khỏi họ.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.5. Mong muốn trừng phạt người kia có nghĩa là con chỉ sẵn sàng quay lưng lại người đó khi con thấy họ bị trừng phạt. Con vươn lên trên tâm thái này và con tha thứ vô điều kiện.

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.6. Con vượt lên trên các tin tưởng do nền văn hoá của con quy định và tha thứ vô điều kiện, tha thứ bất kể những tin tưởng do nền văn hóa quy định. Con hơn các tin tưởng văn hoá. Con tha thứ bất chấp các nhãn hiệu vỏ ngoài và con giải phóng mình khỏi các nhãn hiệu này.

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.7. Con nghe được thông điệp nội tâm và con thăng vượt các giới hạn của mình để hoà mình vào Dòng sông sự Sống. Con trải nghiệm niềm hỷ lạc vô bờ bến của sự tự thăng vượt liên tục.

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.8. Ngay đây con xin được sự hướng dẫn nội tâm của cái Ta Ki-tô của con và của các chân sư thăng thiên. Hãy chỉ cho con thông điệp đằng sau những tình huống bên ngoài mà con gặp phải.

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.9. Con đã tái sinh, con khởi đầu một ngày mới. Con tái sinh trong Ki-tô và vượt lên trên quá khứ. Con vươn lên vào một ngày mới trong vương quốc của Thượng đế. Con mở tâm ra và con hấp thu Ngọn lửa Tha thứ Vô điều kiện. Con tha thứ vô điều kiện và niềm vui của con quả thực đong đầy. 

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Venus và Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

17 | Thỉnh cầu buông bỏ quá khứ

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Nữ thần Tự do và Mẹ Mary, hãy giúp con rốt cuộc và thực sự buông bỏ quá khứ của mình. Con xin các thày giúp con khắc phục các ảo tưởng đang ngăn trở sự chữa lành của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con học qua hướng dẫn nội tâm

1.1. Luật của Thượng đế rất giản dị. Con có quyền tự quyết làm bất cứ điều gì con muốn. Con là một người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Con ở đây để học cách sử dụng khả năng đồng-sáng tạo của mình để tạo ra các hoàn cảnh mà con có thể sống trong đó được, các hoàn cảnh giúp con tăng triển.

Ôi Mẹ Tự do, cho con thoát khỏi
lời nguyền của rắn muốn con đói nghèo.
Con không trách mẹ vì đời còm cõi,
ôi Mẹ Chân phước, con xin về theo.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.2. Con học bằng hai cách. Một là lắng nghe sự hướng dẫn từ nội tâm, từ Hiện diện Ta Là, từ các vị thày tâm linh.

Ôi Mẹ Tự do, từ xa không ngại,
con xuống nơi đây, muốn tiến Hơn hoài.
Con thấy trù phú là dòng nước thánh,
tâm thức dồi dào, con tăng triển nhanh.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.3. Nếu con không lắng nghe sự hướng dẫn thì con phải học qua Trường đời Cay đắng, trong đó con thấy Ánh sáng Mẫu-Vật phản chiếu lại con những hoàn cảnh vật lý biểu lộ những hoàn cảnh trong tâm con. 

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày gian dối,
mọi điều giới hạn không buộc con nổi.
Ánh sáng Mẫu-Vật không chống lại con,
nó ban trù phú rất thật viên tròn.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.4. Con có quyền tạo ra bất cứ hình tư tưởng nào mà con muốn. Con có quyền phóng chiếu hình tư tưởng đó ra ngoài tâm con. Khi con làm vậy, con sẽ chắc chắn trải nghiệm những tình huống vật lý biểu lộ hình tư tưởng đó.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày mưu dối,
sa nhân phóng chiếu từ tâm tăm tối.
Ôi Mẹ Hoàn vũ, nay con nhìn rõ,
Mẹ không chống con, cho con ấm no.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.5. Con sẽ trải nghiệm những gì con phóng chiếu lên cuộc sống. Con sẽ trải nghiệm những gì con đồng-sáng tạo bằng cách dùng uy lực của tâm phóng chiếu một hình tư tưởng lên Ánh sáng Mẫu-Vật. 

Ôi Mẹ Tự do, mắt con mở to,
dối gian của rắn, con nay bác bỏ.
Cõi của Mẹ đây, con ôm hoài hoài,
hòa cùng với Mẹ, Cha cầm bánh lái.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.6. Nếu con đồng sáng tạo những hoàn cảnh khiến con đau khổ thì con có thể chọn lựa cách khác, thay vì tiếp tục tạo ra những hoàn cảnh tương tự.

Ôi Mẹ Tự do, bốn thể phàm con
là chén thánh nhận ánh sáng sạch trong.
Mẹ gửi qua con giai điệu ngàn thu,
quà tặng thiêng liêng Tự do Hoàn vũ.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.7. Cách duy nhất để ngừng chu trình lặp đi lặp lại dẫn đến khổ đau là thay đổi nguyên nhân của hoàn cảnh bên ngoài.

Ôi Mẹ Tự do, cánh cửa mở ra,
giai điệu Hơn Nữa, con theo thiết tha.
Mẹ ban ánh sáng, luân xa con mới,
dòng thác tình yêu tuôn chảy đời đời.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.8. Con nhìn xuyên thấu những ngụy biện đưa ra dáng vẻ rằng con không kiểm soát hoàn cảnh bên ngoài, rằng con đã không tạo ra hoàn cảnh đó mà không biết làm sao, rằng Thượng đế, số phận, may rủi hay người khác đã tạo ra những hoàn cảnh này.

Ôi Mẹ Tự do, dòng chảy ngọt ngào,
mẹ ban tất cả đời sống dồi dào.
Con dang vòng tay đón nhận quà mẹ,
Áo Vàng mẹ dệt, tình mẹ chở che.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.9. Con chấp nhận sự thật phũ phàng ở đây là con đã đồng-sáng tạo hoàn cảnh của mình vì con đã hình thành những hình tư tưởng và đã phóng chiếu những hình tư tưởng này lên Ánh Sáng Mẫu-Vật. 

Ôi Mẹ Tự do, thuốc mẹ ban ra,
giải phóng người nghèo mệt nhoài vật vã.
Đám người nằm rúc, mẹ giải thoát qua
Bài Hát Tự do, tình mẹ chan hòa.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2. Con buông bỏ các tin tưởng giới hạn

2.1. Cách duy nhất tuyệt đối để có thể thay đổi hoàn cảnh bên ngoài của con là con thay đổi nguyên nhân của hoàn cảnh.

Ôi Mẹ Tự do, cho con thoát khỏi
lời nguyền của rắn muốn con đói nghèo.
Con không trách mẹ vì đời còm cõi,
ôi Mẹ Chân phước, con xin về theo.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.2. Hoàn cảnh bên ngoài của con là kết quả. Nguyên nhân của kết quả này là những hình tư tưởng con giữ trong tâm. Cách duy nhất để thay đổi hoàn cảnh bên ngoài là thay đổi các hình tư tưởng đó.

Ôi Mẹ Tự do, từ xa không ngại,
con xuống nơi đây, muốn tiến Hơn hoài.
Con thấy trù phú là dòng nước thánh,
tâm thức dồi dào, con tăng triển nhanh.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.3. Cách duy nhất để thay đổi hình tư tưởng trong tâm là con thấy những hình tư tưởng này một cách ý thức, thấy chúng dựa trên tâm thức nhị nguyên, dựa trên ảo tưởng của tâm phản Ki-tô, rồi sau đó buông bỏ chúng một cách ý thức, thay thế những ảo tưởng này bằng sự thật Ki-tô.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày gian dối,
mọi điều giới hạn không buộc con nổi.
Ánh sáng Mẫu-Vật không chống lại con,
nó ban trù phú rất thật viên tròn.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.4. Vấn đề không phải là tìm một cách nào đó để biện minh cho những tin tưởng mà con đã chấp nhận trong quá khứ.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày mưu dối,
sa nhân phóng chiếu từ tâm tăm tối.
Ôi Mẹ Hoàn vũ, nay con nhìn rõ,
Mẹ không chống con, cho con ấm no.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.5. Con thăng vượt khuynh hướng rơi vào phản ứng tự vệ. Phản ứng tự vệ là phản ứng mặc định của tự ngã, vì nó giản dị không chịu nhìn nhận nó có thể sai. Nó rơi vào phản ứng cố gắng bào chữa hay biện minh cho những tin tưởng của nó. 

Ôi Mẹ Tự do, mắt con mở to,
dối gian của rắn, con nay bác bỏ.
Cõi của Mẹ đây, con ôm hoài hoài,
hòa cùng với Mẹ, Cha cầm bánh lái.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.6. Nếu con tiếp tục biện minh cho một tin tưởng quá khứ, thì con sẽ chỉ đơn giản bồi đắp cho tin tưởng đó. Con sẽ tiếp tục gửi những hình tư tưởng dựa trên tin tưởng ban đầu vào tấm gương vũ trụ.

Ôi Mẹ Tự do, bốn thể phàm con
là chén thánh nhận ánh sáng sạch trong.
Mẹ gửi qua con giai điệu ngàn thu,
quà tặng thiêng liêng Tự do Hoàn vũ.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.7. Nếu con cứ tiếp tục làm cùng một việc và chờ đợi kết quả sẽ khác đi thì con bị kẹt vào sự điên rồ cơ bản của tự ngã con người.

Ôi Mẹ Tự do, cánh cửa mở ra,
giai điệu Hơn Nữa, con theo thiết tha.
Mẹ ban ánh sáng, luân xa con mới,
dòng thác tình yêu tuôn chảy đời đời.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.8. Con bước ra ngoài những khuôn nếp cũ. Con sẵn lòng nhìn nhận công khai rằng một số tin tưởng quá khứ đang giới hạn con.

Ôi Mẹ Tự do, dòng chảy ngọt ngào,
mẹ ban tất cả đời sống dồi dào.
Con dang vòng tay đón nhận quà mẹ,
Áo Vàng mẹ dệt, tình mẹ chở che.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.9. Việc cầm giữ các tin tưởng giới hạn không đem lại lợi ích cho con. Ngược lại, con được lợi ích khi con buông bỏ chúng. 

Ôi Mẹ Tự do, thuốc mẹ ban ra,
giải phóng người nghèo mệt nhoài vật vã.
Đám người nằm rúc, mẹ giải thoát qua
Bài Hát Tự do, tình mẹ chan hòa.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3. Con hơn các tin tưởng của con 

3.1. Cái Ta Biết là một đốm lửa từ chính Bản thể Thượng đế. Nó nhiều hơn quá khứ của con một cách vô vàn, nó hơn bất kỳ hoàn cảnh nào hay tin tưởng nào trong quá khứ.  

Ôi Mẹ Tự do, cho con thoát khỏi
lời nguyền của rắn muốn con đói nghèo.
Con không trách mẹ vì đời còm cõi,
ôi Mẹ Chân phước, con xin về theo.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.2. Thượng đế đã ban cho cái Ta biết có quyền và khả năng bước ra ngoài sự đồng hoá của nó với quá khứ. Con có thể làm điều này bất cứ lúc nào, kể cả ngay bây giờ.

Ôi Mẹ Tự do, từ xa không ngại,
con xuống nơi đây, muốn tiến Hơn hoài.
Con thấy trù phú là dòng nước thánh,
tâm thức dồi dào, con tăng triển nhanh.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.3. Có một thế lực trong thế giới này rất quyết tâm giữ con mắc kẹt vào sự đồng hoá với quá khứ. Con biết con có thể buông bỏ quá khứ. Con biết khi con buông bỏ quá khứ thì con sẽ không mất bản sắc của mình.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày gian dối,
mọi điều giới hạn không buộc con nổi.
Ánh sáng Mẫu-Vật không chống lại con,
nó ban trù phú rất thật viên tròn.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.4. Thế lực này bao gồm tự ngã cá nhân của con, tự ngã của người khác và toàn bộ thế lực đen tối, thế lực phản Ki-tô mà Giê-su gọi là ông hoàng thế gian.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày mưu dối,
sa nhân phóng chiếu từ tâm tăm tối.
Ôi Mẹ Hoàn vũ, nay con nhìn rõ,
Mẹ không chống con, cho con ấm no.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.5. Ông hoàng thế gian sẽ luôn luôn tới tìm con. Hắn sẽ tới để thấy liệu hắn có thể khiến con dính mắc với quá khứ. Con sẵn lòng buông bỏ những tin tưởng bất toàn. Con nhìn nhận rằng con hơn bất kỳ tin tưởng bất toàn nào. 

Ôi Mẹ Tự do, mắt con mở to,
dối gian của rắn, con nay bác bỏ.
Cõi của Mẹ đây, con ôm hoài hoài,
hòa cùng với Mẹ, Cha cầm bánh lái.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.6. Thượng đế đã cho con quyền và khả năng buông bỏ bất cứ tin tưởng bất toàn nào mà con đã có trong quá khứ.

Ôi Mẹ Tự do, bốn thể phàm con
là chén thánh nhận ánh sáng sạch trong.
Mẹ gửi qua con giai điệu ngàn thu,
quà tặng thiêng liêng Tự do Hoàn vũ.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.7. Con sẵn sàng nhìn vào các tin tưởng, nhìn nhận rằng chúng không có thật, chúng xuất phát từ tâm thức phản Ki-tô. Con cũng nhìn nhận rằng con hơn những tin tưởng đó. Tin tưởng đó chỉ giản dị là một cái áo cũ sờn rách mà con đã mặc vào một lúc nào đó trong quá khứ.

Ôi Mẹ Tự do, cánh cửa mở ra,
giai điệu Hơn Nữa, con theo thiết tha.
Mẹ ban ánh sáng, luân xa con mới,
dòng thác tình yêu tuôn chảy đời đời.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.8. Con có thể cởi bỏ ý niệm bản sắc cũ và ném nó vào lửa tâm linh của ngọn lửa tím và Ngọn lửa Tha thứ. Con giản dị buông bỏ nó.

Ôi Mẹ Tự do, dòng chảy ngọt ngào,
mẹ ban tất cả đời sống dồi dào.
Con dang vòng tay đón nhận quà mẹ,
Áo Vàng mẹ dệt, tình mẹ chở che.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.9. Thượng đế trong con thật sự là ngọn lửa có thể thiêu trụi tất cả ý niệm bản ngã bất toàn mà con đã bồi đắp trong bất cứ tiền kiếp nào.

Ôi Mẹ Tự do, thuốc mẹ ban ra,
giải phóng người nghèo mệt nhoài vật vã.
Đám người nằm rúc, mẹ giải thoát qua
Bài Hát Tự do, tình mẹ chan hòa.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4. Con buông bỏ quá khứ của mình

4.1. Con có chọn lựa khác hơn là lặp đi lặp lại mãi các khuôn nếp cũ. Chọn lựa khác là con cởi chiếc áo choàng của ý niệm bản sắc bất toàn và ném nó vào ngọn lửa reo mừng của Thượng đế để nó bị thiêu rụi, và con được tự do như thể bản sắc đó chưa từng hiện hữu. 

Ôi Mẹ Tự do, cho con thoát khỏi
lời nguyền của rắn muốn con đói nghèo.
Con không trách mẹ vì đời còm cõi,
ôi Mẹ Chân phước, con xin về theo.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.2. Chìa khoá chính yếu để buông bỏ một ý niệm bản ngã bất toàn là sẵn lòng tha thứ. Để được tự do khỏi quá khứ, con tha thứ và con tha thứ vô điều kiện.

Ôi Mẹ Tự do, từ xa không ngại,
con xuống nơi đây, muốn tiến Hơn hoài.
Con thấy trù phú là dòng nước thánh,
tâm thức dồi dào, con tăng triển nhanh.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.3. Tự ngã đánh lừa con để con nghĩ rằng con chỉ tha thứ được nếu có đủ một số điều kiện. Con chỉ tha thứ được người đã làm tổn thương con khi người đó bị trừng phạt hay đã thay đổi.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày gian dối,
mọi điều giới hạn không buộc con nổi.
Ánh sáng Mẫu-Vật không chống lại con,
nó ban trù phú rất thật viên tròn.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.4. Những gì con làm với người khác là những gì con đã làm với chính mình trong tiềm thức. Con chỉ có thể làm cho người khác những gì con đã làm cho chính mình, cả điều tốt lẫn điều xấu. 

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày mưu dối,
sa nhân phóng chiếu từ tâm tăm tối.
Ôi Mẹ Hoàn vũ, nay con nhìn rõ,
Mẹ không chống con, cho con ấm no.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.5. Nếu con nghĩ người khác phải hội đủ một số điều kiện trước khi họ được tha thứ thì con cũng nghĩ con phải đáp ứng một số điều kiện trước khi con có thể được tha thứ.

Ôi Mẹ Tự do, mắt con mở to,
dối gian của rắn, con nay bác bỏ.
Cõi của Mẹ đây, con ôm hoài hoài,
hòa cùng với Mẹ, Cha cầm bánh lái.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.6. Tự ngã của con rất khéo đưa ra những điều kiện như vậy và quy định những điều kiện mà không ai có thể làm được, kể cả chính con. Đó là cách tự ngã giam con vào chu trình không bao giờ muốn tha thứ người khác và không bao giờ muốn tha thứ chính mình.

Ôi Mẹ Tự do, bốn thể phàm con
là chén thánh nhận ánh sáng sạch trong.
Mẹ gửi qua con giai điệu ngàn thu,
quà tặng thiêng liêng Tự do Hoàn vũ.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.7. Tự ngã muốn con tin rằng vì con đã phạm lỗi lầm trong quá khứ, con không thể được tha thứ, con không thể chuộc lỗi. Con vượt lên quá khứ và thoát khỏi quá khứ. 

Ôi Mẹ Tự do, cánh cửa mở ra,
giai điệu Hơn Nữa, con theo thiết tha.
Mẹ ban ánh sáng, luân xa con mới,
dòng thác tình yêu tuôn chảy đời đời.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.8. Tự ngã tuyệt đối không muốn con nhận ra là con được Thượng đế trao cho quyền và sức mạnh rời bỏ các bất toàn của quá khứ bằng cách nhìn nhận các tin tưởng bất toàn của mình.

Ôi Mẹ Tự do, dòng chảy ngọt ngào,
mẹ ban tất cả đời sống dồi dào.
Con dang vòng tay đón nhận quà mẹ,
Áo Vàng mẹ dệt, tình mẹ chở che.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.9. Con chấp nhận ở đây là chìa khoá chính yếu để vươn lên trên quá khứ là tha thứ, nhưng không phải là tha thứ theo cách thế phàm dựa trên những điều kiện bên ngoài. Chìa khoá chính yếu để vượt lên trên quá khứ là tha thứ vô điều kiện. Con thực sự tha thứ vô điều kiện.

Ôi Mẹ Tự do, thuốc mẹ ban ra,
giải phóng người nghèo mệt nhoài vật vã.
Đám người nằm rúc, mẹ giải thoát qua
Bài Hát Tự do, tình mẹ chan hòa.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Nữ thần Tự do và Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

16 | Thỉnh cầu lắng nghe thông điệp nội tâm

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Portia và Mẹ Mary, hãy giúp con giải thoát tâm ý thức của con khỏi tự ngã và tâm phàm để con nghe được thông điệp nội tâm từ cái ta Ki-tô của con và từ các vị thày tâm linh. Con xin các thày giúp con khắc phục các ảo tưởng đang ngăn trở sự chữa lành của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con lắng nghe thông điệp nội tâm

1.1. Mọi hoàn cảnh con gặp giống như một cuộc gọi điện thoại từ chính cuộc sống. Con sẽ nhấc điện thoại lên để nghe xem hoàn cảnh đó có một thông điệp quan trọng cho con không, một thông điệp có thể giúp con thăng vượt chính mình hay một giới hạn để con có thể tự do và trở nên hơn nữa trong Dòng sông sự Sống. 

Ôi Portia, nơi nhập thất của thày,
tình thương Mẹ, thày đón con dang tay.
Bao cuộc thi, con đà hoàn tất đủ,
khuôn nếp cũ, con từ nay buông rũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.2. Con không còn đi trong đời sống với miếng da che mắt. Con tiếp cận mỗi hoàn cảnh như một thông điệp giúp con lên cao hơn và khắc phục một số tin tưởng sai lầm, một số nhận thức sai lầm đang giới hạn con và khả năng biểu hiện sự sống qua con.

Ôi Portia, Công lý là tên thày,
giương lên cao Lửa Danh dự Toàn vũ,
Con không còn tham dự trò chơi cũ,
cứ giữ y một cái ngã hoài hoài.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.3. Thay vì hỏi “Tại sao việc này cứ xảy đến với tôi? Tại sao Thượng đế cứ làm điều này với tôi?”, thì con sẽ hỏi: “Tại sao tôi làm điều này cho chính mình?”. 

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
một với thày, con tăng trưởng mãi mãi.
Con chính là chén thánh ở nơi đây,
thày ban xuống dòng công lý hoàn vũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.4. Con lắng nghe bằng tai nội tâm. Con hiểu thông điệp, con hiểu điều mà con không thể thấy bằng tâm vỏ ngoài. Con thấy điều mà tâm vỏ ngoài không thấy.

Ôi Portia, cho vũ trụ quân bằng,
tim con hát, niềm hy vọng vĩnh hằng.
Đôi cánh Mẹ bảo bọc con yên ắng,
con là một với tất cả chúng sanh.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.5. Con thấy là con đã đánh giá hoàn cảnh bằng tâm vỏ ngoài. Tâm vỏ ngoài không thể thấu hiểu thông điệp. Nếu tâm vỏ ngoài của con đã hiểu thông điệp, thì tại sao con cứ phải trải nghiệm hoài cùng một hoàn cảnh? 

Ôi Portia, thày đem ánh sáng Mẹ,
khỏi đêm tối, giải thoát chúng con nhé.
Lửa Tình thương của thày sáng mãi mãi,
ôm con chặt, Saint Germain và thày.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.6. Con thăng vượt nhận thức sai lầm của tâm thức con người và của tự ngã là cuộc sống đang cố trừng phạt con. Cuộc sống và Thượng đế không mong muốn trừng phạt con.

Ôi Portia, thày điều ngự tài hoa,
con cảm nhận trong con sự biến hóa.
Ánh sáng thày là thực tại màu tím,
con tìm ra biến hóa đá luyện kim.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.7. Có một quy luật tuyệt đối là khi con đã học xong bài học mà con cần học từ một hoàn cảnh cụ thể thì con sẽ không gặp phải hoàn cảnh đó nữa. 

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
con tỉnh mộng, giấc mơ ảo phàm phu.
Gỡ khỏi mắt cái đà tự ngã cũ,
con được đứng cùng các thày vũ trụ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.8. Khi con cứ gặp hoài cùng một hoàn cảnh, thì đó là bởi vì con chưa học xong bài học. Cuộc sống cho con lại cùng hoàn cảnh để con có thêm một cơ hội học bài học. 

Ôi Portia, thày đến từ cõi xa,
avatar toàn vũ, thày chính là.
Quyền năng thày vô biên, con trân quý,
ngôi sao thày dìu dắt hành tinh đi.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.9. Thay vì cằn nhằn, thay vì than vãn tại sao cùng một chuyện cứ xảy ra cho con hết lần này đến lần khác, con sẽ nhấc điện thoại và học bài học. Con giải quyết tin tưởng mà con cần giải quyết và con bước lên cao hơn.

Ôi Portia, con tự tin an trú,
con nay là dụng cụ của toàn vũ.
Con xuống đây từ thiên hà gửi tới,
để nâng cao trái đất thăng lên trời.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2. Con thăng vượt quá khứ của mình

2.1. Cuộc sống không phức tạp vì vũ trụ vật chất là một tấm gương. Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ khoác lấy những hình tướng tương ứng với những gì có trong tâm thức của con.

Ôi Portia, nơi nhập thất của thày,
tình thương Mẹ, thày đón con dang tay.
Bao cuộc thi, con đà hoàn tất đủ,
khuôn nếp cũ, con từ nay buông rũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.2. Chính trạng thái tâm thức của con đã phóng chiếu một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật không làm được gì khác ngoài việc phản chiếu lại hình ảnh đó cho con – cả hình ảnh trong tâm ý thức và hình ảnh trong tâm tiềm thức của con, trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc.

Ôi Portia, Công lý là tên thày,
giương lên cao Lửa Danh dự Toàn vũ,
Con không còn tham dự trò chơi cũ,
cứ giữ y một cái ngã hoài hoài.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.3. Cuộc sống chính là nguyên lý của sự tăng triển – của sự trở nên hơn nữa, của sự tự thăng vượt. Thông điệp mà cuộc sống luôn luôn cố trao cho con là con có thể trở nên hơn nữa.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
một với thày, con tăng trưởng mãi mãi.
Con chính là chén thánh ở nơi đây,
thày ban xuống dòng công lý hoàn vũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.4. Con thấy các giới hạn của mình, thấy các tin tưởng đang giới hạn cách con quan niệm chính mình, thế giới và Thượng đế. Con vượt thăng giới hạn đó và vươn lên cao hơn. Con trở nên hơn nữa trong Dòng sông sự Sống luôn tuôn chảy của Thượng đế. 

Ôi Portia, cho vũ trụ quân bằng,
tim con hát, niềm hy vọng vĩnh hằng.
Đôi cánh Mẹ bảo bọc con yên ắng,
con là một với tất cả chúng sanh.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.5. Con ngừng không đi tìm hòn đá hóa kim thần diệu, cây đũa thần, con đường tắt giúp con bỗng nhiên đạt được trạng thái hỷ lạc, hay trạng thái con nghĩ con cần để được hạnh phúc.

Ôi Portia, thày đem ánh sáng Mẹ,
khỏi đêm tối, giải thoát chúng con nhé.
Lửa Tình thương của thày sáng mãi mãi,
ôm con chặt, Saint Germain và thày.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.6. Cuộc sống là sự tự thăng vượt. Con không cần đạt một trạng thái toàn hảo. Con tìm cách thăng vượt chính mình, con trôi theo Dòng sông sự Sống. Con trải nghiệm niềm vui, sự hỷ lạc, và đây chính  Dòng sông sự Sống. 

Ôi Portia, thày điều ngự tài hoa,
con cảm nhận trong con sự biến hóa.
Ánh sáng thày là thực tại màu tím,
con tìm ra biến hóa đá luyện kim.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.7. Mỗi khi con gặp một giới hạn, con nhìn vào bên trong chính mình và nhìn nhận tin tưởng đang khiến con trải nghiệm hoàn cảnh đó như một giới hạn. Con buông bỏ tin tưởng đó, và con vượt lên trên ý niệm bị giới hạn. Con hoà vào niềm hỷ lạc của Dòng sông sự Sống. 

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
con tỉnh mộng, giấc mơ ảo phàm phu.
Gỡ khỏi mắt cái đà tự ngã cũ,
con được đứng cùng các thày vũ trụ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.8. Con thay đổi cách con nhìn quá khứ của mình. Con thoát khỏi ý niệm quá khứ muốn trừng phạt con hay muốn kiềm giữ con trong một chu trình đau khổ dường như vô tận.

Ôi Portia, thày đến từ cõi xa,
avatar toàn vũ, thày chính là.
Quyền năng thày vô biên, con trân quý,
ngôi sao thày dìu dắt hành tinh đi.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.9. Quá khứ của con, và các hồi ức của con về quá khứ đơn giản chỉ biểu lộ mong muốn của cuộc sống muốn con tiến lên cao hơn. Mỗi khi nào con bị kéo về quá khứ, con xem đó là cuộc sống đang gọi điện thoại đến con.

Ôi Portia, con tự tin an trú,
con nay là dụng cụ của toàn vũ.
Con xuống đây từ thiên hà gửi tới,
để nâng cao trái đất thăng lên trời.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3. Con thấy những tin tưởng giới hạn của mình

3.1. Cuộc sống đang gọi điện để cho con thấy là một lần nữa con có thể vượt qua một giới hạn khác. Con vượt lên trên nó, con có thể đơn giản buông bỏ nó và hoà mình vào Dòng sông sự Sống. Con trở nên hơn nữa bằng cách thăng vượt ý niệm bản ngã cũ. 

Ôi Portia, nơi nhập thất của thày,
tình thương Mẹ, thày đón con dang tay.
Bao cuộc thi, con đà hoàn tất đủ,
khuôn nếp cũ, con từ nay buông rũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.2. Những hoàn cảnh quá khứ cứ săn đuổi con là những hoàn cảnh trong đó con phản ứng lại hoàn cảnh bên ngoài theo cách chấp nhận một tin tưởng giới hạn về chính mình.

Ôi Portia, Công lý là tên thày,
giương lên cao Lửa Danh dự Toàn vũ,
Con không còn tham dự trò chơi cũ,
cứ giữ y một cái ngã hoài hoài.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.3. Tin tưởng trong tiềm thức của con là lý do tại sao con trải nghiệm sự khó chịu, sự hổ thẹn, cảm nhận tội lỗi hay những tình cảm tiêu cực khác đang tạo nơi con cảm xúc đau đớn.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
một với thày, con tăng trưởng mãi mãi.
Con chính là chén thánh ở nơi đây,
thày ban xuống dòng công lý hoàn vũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.4. Nỗi đau này thậm chí có thể xem như là một lời nhắc nhở. Nó nhắc con chưa học xong bài học của mình, nó nhắc con chưa vượt qua tin tưởng đang giới hạn mình. 

Ôi Portia, cho vũ trụ quân bằng,
tim con hát, niềm hy vọng vĩnh hằng.
Đôi cánh Mẹ bảo bọc con yên ắng,
con là một với tất cả chúng sanh.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.5. Cuộc sống phải tiếp tục nhắc nhở con về những hoàn cảnh trong đó con đã chấp nhận một số giới hạn. Con sẽ nhấc máy điện thoại ngay lần đầu nó gọi để cuộc sống không phải gia tăng cảm xúc đau đớn để con chú ý.

Ôi Portia, thày đem ánh sáng Mẹ,
khỏi đêm tối, giải thoát chúng con nhé.
Lửa Tình thương của thày sáng mãi mãi,
ôm con chặt, Saint Germain và thày.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.6. Con thấy giới hạn như vậy là đủ rồi. Con sẽ xem xét vấn đề và vượt qua giới hạn để con có thể đoạn trừ nỗi đau đớn thay vì cứ tiếp tục bị nó đè nặng suốt phần đời còn lại hay thậm chí trong nhiều kiếp sống nữa.

Ôi Portia, thày điều ngự tài hoa,
con cảm nhận trong con sự biến hóa.
Ánh sáng thày là thực tại màu tím,
con tìm ra biến hóa đá luyện kim.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.7. Con ngưng tảng lờ hay chối bỏ quá khứ hay tìm cách khiến mình quá bận rộn với hiện tại hoặc tương lai đến độ không còn thì giờ chú tâm đến quá khứ. Con học bài học của quá khứ.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
con tỉnh mộng, giấc mơ ảo phàm phu.
Gỡ khỏi mắt cái đà tự ngã cũ,
con được đứng cùng các thày vũ trụ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.8. Hoàn cảnh trong quá khứ cứ trở đi trở lại là hoàn cảnh trong đó con chưa nhìn thấu suốt một tin tưởng giới hạn và vì vậy con chưa buông bỏ tin tưởng đó. 

Ôi Portia, thày đến từ cõi xa,
avatar toàn vũ, thày chính là.
Quyền năng thày vô biên, con trân quý,
ngôi sao thày dìu dắt hành tinh đi.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.9. Con sẽ ngưng dùng uy lực của tâm để phóng chiếu một tin tưởng giới hạn lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Tấm gương của Ánh sáng Mẫu-Vật chỉ có thể phản chiếu lại những hoàn cảnh bên ngoài phản ánh tình trạng tâm thức của con. 

Ôi Portia, con tự tin an trú,
con nay là dụng cụ của toàn vũ.
Con xuống đây từ thiên hà gửi tới,
để nâng cao trái đất thăng lên trời.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4. Con sẽ không làm cho tâm mình tê dại

4.1. Quá khứ của con trở thành lời mở đầu cho hiện tại và tương lai của con. Những tin tưởng bất toàn mà con đã chấp nhận trong quá khứ đang được tâm tiềm thức của con liên tục phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật phải khoác lấy hình tướng của những tin tưởng này và gửi đến cho con những hoàn cảnh và tình huống vật lý phản ánh những tin tưởng đó. 

Ôi Portia, nơi nhập thất của thày,
tình thương Mẹ, thày đón con dang tay.
Bao cuộc thi, con đà hoàn tất đủ,
khuôn nếp cũ, con từ nay buông rũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.2. Ánh sáng Mẫu-Vật không muốn ép con gặp những hoàn cảnh khiến con đau khổ. Ánh sáng Mẫu-Vật là tấm gương vì vậy nó có thể làm gì ngoài việc phản chiếu lại những gì con đã gửi vào nó?

Ôi Portia, Công lý là tên thày,
giương lên cao Lửa Danh dự Toàn vũ,
Con không còn tham dự trò chơi cũ,
cứ giữ y một cái ngã hoài hoài.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.3. Năng lực của sự sống không muốn con tiếp tục phóng chiếu cùng những hình ảnh bất toàn lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Năng lực của sự sống đang cố giúp con tự đánh thức mình để con có thể thay đổi hình ảnh con giữ trong tâm – và qua đó thay đổi những gì con đang phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. 

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
một với thày, con tăng trưởng mãi mãi.
Con chính là chén thánh ở nơi đây,
thày ban xuống dòng công lý hoàn vũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.4. Con sẽ lắng nghe thông điệp và con sẽ không làm cho tâm mình tê dại hay cảm thấy bực bội với cuộc sống nữa.

Ôi Portia, cho vũ trụ quân bằng,
tim con hát, niềm hy vọng vĩnh hằng.
Đôi cánh Mẹ bảo bọc con yên ắng,
con là một với tất cả chúng sanh.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.5. Không phải cuộc đời đang khiến con bực bội. Mà chính là sự cứng ngắc của tâm con và sự không sẵn lòng nhìn vào các tin tưởng của mình để đánh giá liệu những tin tưởng này có hợp lý chăng. Con đang thay thế những tin tưởng không hợp lý bằng một sự hiểu biết cao hơn xuất phát từ tâm Ki-tô. 

Ôi Portia, thày đem ánh sáng Mẹ,
khỏi đêm tối, giải thoát chúng con nhé.
Lửa Tình thương của thày sáng mãi mãi,
ôm con chặt, Saint Germain và thày.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.6. Con thức tỉnh và nhận ra điều tuyệt đối thiết yếu là con phải nhìn quá những hoàn cảnh bên ngoài trong quá khứ và đi tìm bài học nội tâm mà con cần học từ những hoàn cảnh đó. Con làm việc này một cách chân thật và cởi mở.

Ôi Portia, thày điều ngự tài hoa,
con cảm nhận trong con sự biến hóa.
Ánh sáng thày là thực tại màu tím,
con tìm ra biến hóa đá luyện kim.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.7. Mỗi khi con gặp một hoàn cảnh khiến con đau khổ, thì đó là vì con đang nắm giữ một tin tưởng bất toàn về chính mình và về cuộc sống. Con thấy được sự bất toàn của tin tưởng đó và con với tới sự hiểu biết cao hơn của tâm Ki-tô.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
con tỉnh mộng, giấc mơ ảo phàm phu.
Gỡ khỏi mắt cái đà tự ngã cũ,
con được đứng cùng các thày vũ trụ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.8. Con thay thế tin tưởng giới hạn bằng nhận biết thật sự con là ai. Con thay đổi hình ảnh con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Và ta có thể hoàn toàn chắc chắn là điều này sẽ thay đổi những gì tấm gương vũ trụ phản chiếu lại con dưới dạng các hoàn cảnh bên ngoài.

Ôi Portia, thày đến từ cõi xa,
avatar toàn vũ, thày chính là.
Quyền năng thày vô biên, con trân quý,
ngôi sao thày dìu dắt hành tinh đi.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.9. Đây không phải là mộng tưởng hão huyền hay một lời hứa thiếu thực tế. Đây là quy luật cơ bản nhất của vũ trụ vật chất. Con hoàn toàn thay đổi những gì con phóng chiếu lên tấm gương vũ trụ.

Ôi Portia, con tự tin an trú,
con nay là dụng cụ của toàn vũ.
Con xuống đây từ thiên hà gửi tới,
để nâng cao trái đất thăng lên trời.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Portia và Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

Thanh tẩy luân xa Tim Bí mật

[Ghi chú: nghiên cứu bài truyền đọc của Tia thứ Ba]

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Omega, Đại thiên thần Uzziel và Venus yêu dấu, hãy giúp con khắc phục mọi bợn nhơ trong Căn phòng Bí mật của Luân Xa Tim của con. Xin các thày giúp con thoát khỏi các khuôn nếp và lực bên trong và bên ngoài đang ngăn cản không cho tình thương từ Hiện diện TA LÀ của con tuôn chảy tự do, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con chấp nhận mình vô điều kiện

1.1. Con chấp nhận là tình thương theo nghĩa thiêng liêng không có đối cực, vì nếu có đối cực thì nó không còn thiêng liêng.

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.2. Con chấp nhận con cần ngưng tìm cách thay đổi chính mình. Con vượt ra ngoài ảo tưởng cuối cùng của tự ngã tách biệt bằng cách chấp nhận mình – một cách vô điều kiện – là gì CON LÀ.

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.3. Con chấp nhận là con không cần hội đủ điều kiện nào để biểu lộ cái vô điều kiện. Tình thương tuôn chảy và tuôn chảy và thăng vượt và tăng triển và biểu lộ, bất kể điều kiện như thế nào.

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.4. Con buông bỏ khái niệm con cần tới một trạng thái toàn hảo nào đó thì mới xứng đáng và có khả năng nhận lãnh tình thương của Thượng đế tuôn chảy qua con.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.5. Con thấy là tình thương không chấp nhận bất cứ điều kiện nào. Con không thể hạn chế Thượng đế, con không thể hạn chế tình thương, con không thể hạn chế sự biểu hiện của tình thương. Con bây giờ thấy mình là một với dòng chảy của tình thương.

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.6. Con buông bỏ hình ảnh nhị nguyên, tương đối của tình thương như là đối cực của hận thù, giận dữ và sợ hãi. Con buông bỏ nhu cầu có bề ngoài là người thương yêu và tử tế.

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.7. Con chấp nhận là con không thể tự chữa lành khi còn trong tâm thức cho rằng con cần được chữa lành. Con không thể trở nên trọn vẹn với tâm thức thấy mình không trọn vẹn.

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.8. Con buông bỏ ảo tưởng là con không trọn vẹn. Con chấp nhận con là một sinh thể có tự nhận biết có quyền tự quyết hoàn toàn. Con có tự do sáng tạo mọi kinh nghiệm mà con mong muốn.

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.9. Con chấp nhận là dù con có đồng hóa mình như một sinh thể có bản sắc tách biệt, con vẫn là gì CON LÀ. Con bây giờ buông bỏ vai trò xem mình tách biệt khỏi dòng chảy của tình thương.

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2. Con đón nhận quyền năng thay đổi chính mình

2.1. Con chấp nhận là không có lực bên ngoài nào đã khiến con rơi vào cảm nhận mình không trọn vẹn. Đó là do một số chọn lựa mà con đã lấy.

Ôi Omega, con nay thiền định
bên ngai của thày nơi cổng hoàn vũ.
Từ hình số tám, con sinh thanh tú,
Alpha và thày, từ đó con sinh.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.2. Con chấp nhận là con có quyền năng thay đổi mọi chọn lựa, và thay chúng bằng chọn lựa đem lai sự trọn vẹn, mang con ra khỏi ảo tưởng cho rằng con tách biệt với cái vô điều kiện.

Ôi Omega, ở nơi linh thánh,
con giang tay ôm phụ mẫu vũ trụ.
Thật là hồng ân, con sao may mắn,
gia nhập cuộc đua hoàn vũ, con tu.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.3. Con ngưng một cách ý thức không tìm cách thoát khỏi cảm nhận mình không xứng đáng – con chào đón nó, con thương yêu nó.

Omega, nơi Mặt trời Trung ương,
thày dạy sống là niềm vui hoàn vũ.
Con giành chiến thắng, tu là sung sướng,
bắt đầu về nhà, tiến bước trơn tru.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.4. Con thương yêu có ý thức điều kiện khiến con nghĩ mình không thể thương yêu. Con thương yêu điều mà nhiều người xem là không thể thương yêu, và do đó con không còn tách biệt với dòng chảy của tình thương.

Ôi Omega, nguyên lý của nữ
là cửa đi vào vô thỉ vô biên,
Đồng cảm với thày, âm này con giữ,
con nhận ra rồi bản sắc thiêng liêng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.5. Con không tìm cách trốn chạy các vấn đề của con. Con thương yêu các vấn đề hầu có được một tầm nhìn khác về các vấn đề của con. Con nhận ra rằng con không phải là một với vấn đề. Con hơn nữa, vì con trải nghiệm là con hơn nữa.

Ôi Omega, trong dòng chảy đó,
Sứ vụ Thiêng liêng của mình con rõ.
Tim con giờ sáng như ngọn đèn đỏ,
tình thương chan hòa, mọi người con cho.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.6. Con buông bỏ tính chất điều kiện đang lấy đi tự do của con. Con muốn ở trong trạng thái lềnh bềnh không bị lôi kéo về bất cứ điều kiện nào, bất cứ vai tuồng nào trong màn kịch đang diễn ra trong vũ trụ vật chất.

Ôi Omega, Lửa Mẹ vũ trụ,
từ ngọn lửa thày con đã sinh ra.
Con gia nhập vào cuộc chơi hoàn vũ,
chiến thắng Ki-tô công bố gần xa.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.7. Con trải nghiệm tính vô điều kiện. Con biết có cái gì vượt lên trên thế giới điều kiện. Con nhập với nó ở một tầng cao hơn, và con buông bỏ tình thương giả, tình thương có điều kiện.

Ôi Omega, con nay hiểu thật
vì sao con xuống đầu thai trái đất.
Tim con ấp ủ ý định rõ ràng,
giúp hành tinh này cất cánh vượt thăng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.8. Từ trong trạng thái vô điều kiện, con sẵn sàng nhìn bất cứ điều kiện nào trên thế gian. Con bây giờ chấp nhận là con có tự do biểu lộ tình thương với bất cứ điều kiện nào. Con để cho tình thương tuôn chảy tự do xuyên qua con tới mọi điều kiện.

Ôi Omega, con khao khát quá,
gia nhập hợp xướng hoàn vũ hát ca.
Tim con bùng cháy ngọn lửa Ki-tô,
ngọn lửa thánh hóa hành tinh xô bồ.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.9. Con chấp nhận con là đối tượng của tình thương của Người Tình Thiêng liêng. Con nhập một với Người Tình Thiêng liêng, và con thấy con là cánh cửa mở đón nhận tình thương muốn biểu lộ với mọi sự sống. Con tự do đi theo niềm hân hoan của mình.

Ôi Omega, tim con rực lên,
đời con bước vào giai đoạn vươn lên.
Xin thày dạy con câu chú bí huyền,
con nâng địa cầu lên cõi thượng thiên.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3. Con là một sinh thể vô điều kiện

3.1. Con chấp nhận là cốt lõi con người con, cái ta biết của con, là một màn ảnh trống. Mặc dù con được tạo ra với cá thể, con không được tạo ra với điều kiện.

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.2. Con chấp nhận là con không được tạo ra với bất cứ điều kiện nhị nguyên nào. Con được tạo ra với đặc tính cá biệt vô điều kiện.

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.3. Con chấp nhận là không có tình thương nào đến từ cõi vật chất có thể thỏa mãn lòng khao khát tình thương bẩm sinh của con. Lòng khao khát tình thương của con là lòng khao khát nhập một với gì CON LÀ, với Hiện diện TA LÀ của con.

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.4. Con chấp nhận lòng khao khát nhập dòng chảy của Dòng Sông sự Sống bằng cách thực thi tiềm năng mà con có khi con được Hiện diện TA LÀ của con tạo ra. Con là một người đồng sáng tạo, và con muốn thể hiện Nước Trời trong vũ trụ vật chất.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.5. Con đi theo dòng tâm thức là một với đẳng cấp Tình thương của Thượng đế, tình thương vô điều kiện, và tất cả các sinh thể biểu lộ tánh vô điều kiện đó.

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.6. Con theo dòng tâm thức đó của Thượng đế và nhận ra là khả năng thương yêu của Thượng đế quả thực vô biên. Thượng đế có thể nhận lãnh và tiêu trừ bất cứ điều kiện nào mà con muốn buông bỏ.

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.7. Con thả vào dòng tâm thức của Thượng đế tất cả mọi điều kiện của con. Là một với Chân sư MORE, con nói: “Đủ rồi, như vậy là đủ rồi.”

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.8. Tình thương là một dòng suối tuôn chảy, một suối nguồn của tánh vô điều kiện, giống như dòng nước cứ chảy, chảy qua các tảng đá – ngay cả loại đá cứng nhất – và soi mòn chúng, từng chút từng chút một.

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.9. Tình thương tuôn chảy vô điều kiện, và nếu nó có vẻ như đang không chảy về đâu, nếu có vẻ là con người không nhận nó và không thay đổi, nó vẫn không ngừng chảy. Qua nhiều ngàn năm, nó sẽ soi mòn tảng đá rắn chắc của cái ta tách biệt.

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4. Con ở trong dòng chảy của tình thương

4.1. Người Tình Thiêng liêng sẽ không bao giờ bỏ rơi người yêu dấu, sẽ không bao giờ ngưng tuôn chảy, sẽ không bao giờ ngưng cho ra. Rốt cuộc các điều kiện khó khăn nhất sẽ bị soi mòn bởi dòng chảy của tình thương, dòng chảy vĩnh hằng, không thể ngăn chặn, vô điều kiện của tình thương.

Ôi Omega, con nay thiền định
bên ngai của thày nơi cổng hoàn vũ.
Từ hình số tám, con sinh thanh tú,
Alpha và thày, từ đó con sinh.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.2. Tình thương tuôn chảy không nản chí, nhưng luôn luôn được khích lệ và do đó cứ tuôn chảy mãi và bứng đi một nguyên tử, và một nguyên tử nữa, và một nữa, và một nữa. Chẳng bao lâu, Dòng Sông sự Sống đục được một khe núi trong nền đá của tâm thức con người. Tuôn chảy, tuôn chảy, tuôn chảy mãi mãi.

Ôi Omega, ở nơi linh thánh,
con giang tay ôm phụ mẫu vũ trụ.
Thật là hồng ân, con sao may mắn,
gia nhập cuộc đua hoàn vũ, con tu.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.3. Ngọn núi hùng vĩ nhất cũng bị soi mòn dần dần bởi nước mưa mềm mại từ trời đổ xuống, như giọt nước mưa mềm mại của tình thương rơi xuống người chính đạo và người bất chính, sự xấu xa và sự tốt lành.

Omega, nơi Mặt trời Trung ương,
thày dạy sống là niềm vui hoàn vũ.
Con giành chiến thắng, tu là sung sướng,
bắt đầu về nhà, tiến bước trơn tru.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.4. Với tình thương, không có gì phải hay không phải, không có gì xấu xa hay tốt lành. Tình thương tuôn chảy không điều kiện, hoàn toàn không có một điều kiện nào. Với tình thương, điều kiện không có thực chất và không thường hằng.

Ôi Omega, nguyên lý của nữ
là cửa đi vào vô thỉ vô biên,
Đồng cảm với thày, âm này con giữ,
con nhận ra rồi bản sắc thiêng liêng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.5. Tình thương biết rằng nếu nó tiếp tục tuôn chảy, thì nó sẽ soi mòn những điều kiện khó khăn nhất. Ngay cả những trái tim khô cứng nhất cũng sẽ bị soi mòn bởi dòng chảy không thể ngăn chặn của tình thương.

Ôi Omega, trong dòng chảy đó,
Sứ vụ Thiêng liêng của mình con rõ.
Tim con giờ sáng như ngọn đèn đỏ,
tình thương chan hòa, mọi người con cho.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.6. Trái tim của con nhìn lại chính nó và nói: “Tại sao tôi cứ tách mình ra khỏi dòng chảy của tình thương? Tôi đã chán ngán kinh nghiệm tách biệt. Bây giờ tôi hiếu kỳ muốn biết tôi sẽ cảm thấy thế nào khi ở trong dòng chảy của tình thương.”

Ôi Omega, Lửa Mẹ vũ trụ,
từ ngọn lửa thày con đã sinh ra.
Con gia nhập vào cuộc chơi hoàn vũ,
chiến thắng Ki-tô công bố gần xa.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.7. Con buông mình vào dòng chảy như đập vỡ nước – và bỗng nhiên Dòng Sông sự Sống bị ngăn từ nhiều kiếp được thoát ra như một bộc phát mà không điều kiện nào, không tự ngã nào có thể ngăn được.

Ôi Omega, con nay hiểu thật
vì sao con xuống đầu thai trái đất.
Tim con ấp ủ ý định rõ ràng,
Giúp hành tinh này cất cánh vượt thăng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.8. Cái ta thực của con tuôn chảy với tình thương và cảm thấy biết bao hân hoan, biết bao tự do khi thoát khỏi điều kiện – giải thoát hoàn toàn, vô điều kiện.

Ôi Omega, con khao khát quá,
gia nhập hợp xướng hoàn vũ hát ca.
Tim con bùng cháy ngọn lửa Ki-tô,
ngọn lửa thánh hóa hành tinh xô bồ.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.9. Con đón nhận cái ta mới của con. Con biết con hơn nữa, vì con đã trải nghiệm sự hợp nhất với cái hơn nữa.

Ôi Omega, tim con rực lên,
đời con bước vào giai đoạn vươn lên.
Xin thày dạy con câu chú bí huyền,
con nâng địa cầu lên cõi thượng thiên.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thanh tảy luân xa Tim (4 phần)

[Ghi chú: nghiên cứu bài truyền đọc của Tia thứ Ba]

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Elohim Heros và Amora, Đại thiên thần Chamuel và Charity, Paul người Venice và Venus yêu dấu, hãy giúp con khắc phục mọi bợn nhơ trong Luân xa Tim của con. Xin các thày giúp con thoát khỏi các khuôn nếp và lực bên trong và bên ngoài đang ngăn cản không cho tình thương từ Hiện diện TA LÀ của con tuôn chảy tự do, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Thanh tảy Luân xa Tim của con khỏi phản tình thương

1.1. Đại thiên thần Chamuel, xin thày vào Luân xa Tim của con và thanh tảy nó khỏi tất cả các tính ích kỷ, vị kỷ và các biểu lộ thấp.

Đại thiên thần Chamuel, uy lực tia ngọc hồng,
Con biết con đang tắm trận mưa ban sự sống,
Bao ý chí sa đọa đốt sạch bởi tình thương,
Bỗng nhiên bao ham muốn như chìm nghỉm lắng xuống.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

1.2. Đại thiên thần Chamuel, xin thày vào Luân xa Tim của con và thanh tảy nó khỏi tình thương nhị nguyên là đối ngược của sợ hãi, giận dữ, hận thù.

Đại thiên thần Chamuel, ánh sáng dâng cuồn cuộn,
Tia hồng ngọc rực lửa đâm xuyên qua đêm trường,
Mọi thế lực bóng tối bị lửa thày thiêu nướng,
Thiêu sạch cả những ai không chịu bước cao hơn.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

1.3. Đại thiên thần Chamuel, xin thày vào Luân xa Tim của con và thanh tảy nó khỏi các điều kiện đang biểu hiện thành bợn nhơ trong tâm và cơ thể vật lý của con.

Đại thiên thần Chamuel, tình yêu thày bao la,
Cuộc sống nay ý nghĩa do tầm nhìn sáng tỏ,
Khi mục đích cuộc đời con nhận ra quá rõ,
Nhận cả đấng Duy nhất trong tình thương chan hòa.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

1.4. Đại thiên thần Chamuel, xin thày vào Luân xa Tim của con và thanh tảy nó khỏi khái niệm con không thể và không xứng đáng biểu lộ tình thương cao.

Đại thiên thần Chamuel, đem bình an bất nhị,
Thậm chí cả cái chết mà cũng chẳng là chi,
Thật sự trong tình thương không thể có phân hủy,
Tình thương là thăng vượt vào ngày mới vô thỉ.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

1.5. Đại thiên thần Chamuel, xin thày vào Luân xa Tim của con và thanh tảy nó khỏi tình thương chiếm hữu muốn sở hữu người khác và vật.

Đại thiên thần Chamuel, uy lực tia ngọc hồng,
Con biết con đang tắm trận mưa ban sự sống,
Bao ý chí sa đọa đốt sạch bởi tình thương,
Bỗng nhiên bao ham muốn như chìm nghỉm lắng xuống.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

1.6. Đại thiên thần Chamuel, xin thày vào Luân xa Tim của con và thanh tảy nó khỏi nỗi sợ bị ruồng bỏ và ham muốn của tự ngã muốn làm chủ, sở hữu hay được đền trả.

Đại thiên thần Chamuel, ánh sáng dâng cuồn cuộn,
Tia hồng ngọc rực lửa đâm xuyên qua đêm trường,
Mọi thế lực bóng tối bị lửa thày thiêu nướng,
Thiêu sạch cả những ai không chịu bước cao hơn.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

1.7. Đại thiên thần Chamuel, xin thày vào Luân xa Tim của con và thanh tảy nó khỏi cảm tưởng thiếu thốn, ảo tưởng con cần một điều gì đó từ người khác.

Đại thiên thần Chamuel, tình yêu thày bao la,
Cuộc sống nay ý nghĩa do tầm nhìn sáng tỏ,
Khi mục đích cuộc đời con nhận ra quá rõ,
Nhận cả đấng Duy nhất trong tình thương chan hòa.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

1.8. Đại thiên thần Chamuel, xin thày vào Luân xa Tim của con và thanh tảy nó khỏi tâm thức thiếu hụt, ảo tưởng cho rằng con cần điều gì đó từ một nguồn nào đó trong vũ trụ vật chất.

Đại thiên thần Chamuel, đem bình an bất nhị,
Thậm chí cả cái chết mà cũng chẳng là chi,
Thật sự trong tình thương không thể có phân hủy,
Tình thương là thăng vượt vào ngày mới vô thỉ.

Đại thiên thần Chamuel, thày bước xuống từ Trên,
Đại thiên thần Chamuel, tình yêu ngọc đỏ hồng,
Đại thiên thần Chamuel, con không thể nào quên,
Đại thiên thần Chamuel, ôi Bồ câu Thánh thần.

1.9. Đại thiên thần Chamuel, xin thày vào Luân xa Tim của con và thanh tảy nó khỏi ảo tưởng cho rằng con không xứng đáng nhận tình thương vì con đã làm điều gì đó – hay không làm điều gì đó.

Con bay với thiên thần,
Để đạt được nhiều HƠN.
Thiên thần ôi rất thật,
Tình thương sẽ chữa hết.
Với thiên thần bình an,
Muôn ray rứt phải tàn.
Với thiên thần ánh sáng,
Ta bay bổng thênh thang.

Cánh thiên thần xào xạc trong ngọn gió,
Vui vui lắm khi vật chất hát to,
Vui với từng hạt nguyên tử vo vo
Cùng hòa tấu với cánh thiên thần nhỏ.

2. Mở khóa dòng chảy của tình thương

2.1. Elohim Heros, xin thày vào Luân xa Tim của con và truyền dòng chảy của rung động thực của Tia thứ Ba, là tình thương thiêng liêng vô điều kiện.

Heros-Amora, trong tình thương màu hồng,
Con không cần biết đến ai nghĩ gì về con,
Trong hợp nhất với thày, con gọi một ngày mới,
Như trẻ thơ trong trắng, con đùa giỡn vui chơi.

Heros-Amora, đời mới đã khởi sự,
Con cười vào mặt quỷ, là đứa luôn nghiêm nghị,
Con tắm trong Mặt trời màu Hồng Đỏ lộng lẫy,
Biết rằng Thượng đế muốn cuộc đời vui thơ ngây.

2.2. Elohim Heros, xin thày vào Luân xa Tim của con và truyền dòng chảy của Tình thương là lực vô điều kiện muốn được biểu lộ. Con nay thấy là con không cần làm gì cả để trở thành cánh cửa mở cho vô điều kiện tánh thể hiện.

Heros-Amora, cuộc đời thật vui thay,
Tưởng chừng như thế giới là đồ chơi vĩ đại,
Tâm con phóng thế nào thì đời như thế nấy,
Vì tấm gương cuộc sống phản chiếu đúng như vậy.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

2.3. Elohim Heros, xin thày vào Luân xa Tim của con và truyền sự rung động của vô điều kiện tánh tiêu trừ mọi sợ hãi bị ruồng bỏ.

Heros-Amora, đốt hết mọi điều kiện,
Con biết TA LÀ quyền được lật sang trang mới,
Trầm mình trong dòng chảy của Tình yêu vô biên,
Con biết rằng Tánh linh đã từ Trên xuống đời.

Heros-Amora, tỉnh ngộ con phát hiện
Rằng tình thương đích thực không hề có điều kiện,
Tuy rắn bị kẹt cứng trong nhị đối của y,
Nhưng con thì thoát được nhờ Tình thương vô kỷ.

2.4. Elohim Heros, xin thày vào Luân xa Tim của con và truyền dòng chảy của tình thương vô điều kiện có tính chất tự túc vì nó tự tìm ra niềm vui khi được biểu lộ và tuôn chảy.

Heros-Amora, rốt cuộc con cảm thấy
Mình đã vượt lên trên vùng dĩ vãng sa lầy.
Trong tình yêu chân thật con tự do phát triển,
Mãi mãi con là một với Dòng Từ vô biên.

Heros-Amora, điều kiện vốn trói buộc,
Chúng hình thành mạng lưới những gian manh lừa dối,
Tình thương bay xa mãi vì nó không biên giới,
Nâng cao muôn sự sống vào trời Hồng ngọc tươi.

2.5. Elohim Heros, xin thày vào Luân xa Tim của con và truyền dòng chảy của tình thương vô điều kiện có mặt khắp nơi. Xin thày tiêu trừ ảo tưởng cho rằng có thể có một nơi mà tình thương vô điều kiện của Thượng đế không có mặt.

Heros-Amora, trong tình thương màu hồng,
Con không cần biết đến ai nghĩ gì về con,
Trong hợp nhất với thày, con gọi một ngày mới,
Như trẻ thơ trong trắng, con đùa giỡn vui chơi.

Heros-Amora, đời mới đã khởi sự,
Con cười vào mặt quỷ, là đứa luôn nghiêm nghị,
Con tắm trong Mặt trời màu Hồng Đỏ lộng lẫy,
Biết rằng Thượng đế muốn cuộc đời vui thơ ngây.

2.6. Elohim Heros, xin thày vào Luân xa Tim của con và truyền dòng chảy của tình thương vô điều kiện không bao giờ tìm cách giới hạn bất cứ ai, và chỉ muốn mọi người hơn nữa và được tự do tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống.

Heros-Amora, cuộc đời thật vui thay,
Tưởng chừng như thế giới là đồ chơi vĩ đại,
Tâm con phóng thế nào thì đời như thế nấy,
Vì tấm gương cuộc sống phản chiếu đúng như vậy.

Heros-Amora, gieo gì thì gặt nấy,
Nhưng đây là kế 2 để giúp con tăng trưởng,
Vì thật sự đáng lý con phải nhập dòng chảy,
Trầm mình trong Tình thương mà thày ban Vô lượng.

2.7. Elohim Heros, xin thày vào Luân xa Tim của con và truyền dòng chảy của vô điều kiện tánh từ Hiện diện TA LÀ của con. Xin thày hãy tiêu trừ ảo tưởng cho rằng con không toàn vẹn và vì điều kiện này hay điều kiện khác, con không thể thương yêu.

Heros-Amora, đốt hết mọi điều kiện,
Con biết TA LÀ quyền được lật sang trang mới,
Trầm mình trong dòng chảy của Tình yêu vô biên,
Con biết rằng Tánh linh đã từ Trên xuống đời.

Heros-Amora, tỉnh ngộ con phát hiện
Rằng tình thương đích thực không hề có điều kiện,
Tuy rắn bị kẹt cứng trong nhị đối của y,
Nhưng con thì thoát được nhờ Tình thương vô kỷ.

2.8. Elohim Heros, xin thày vào Luân xa Tim của con và truyền dòng chảy của vô điều kiện tánh sẽ tiêu trừ ảo tưởng cho rằng có cái gì đó không xứng đáng nhận tình thương. Xin thày hãy tiêu trừ mọi điều kiện, vì con sẵn sàng để tình thương tuôn chảy tự do qua con.

Heros-Amora, rốt cuộc con cảm thấy
Mình đã vượt lên trên vùng dĩ vãng sa lầy.
Trong tình yêu chân thật con tự do phát triển,
Mãi mãi con là một với Dòng Từ vô biên.

Heros-Amora, điều kiện vốn trói buộc,
Chúng hình thành mạng lưới những gian manh lừa dối,
Tình thương bay xa mãi vì nó không biên giới,
Nâng cao muôn sự sống vào trời Hồng ngọc tươi.

2.9. Elohim Heros, xin thày vào Luân xa Tim của con và truyền dòng chảy của vô điều kiện tánh tiêu trừ ảo tưởng cho rằng con cần phải hội đủ một điều kiện để xứng đáng nhận tình thương. Con nay chấp nhận tình thương thiêng liêng một cách vô điều kiện.

Gia tốc tới Hợp nhất, Ta Là có thật.
Gia tốc tới Hợp nhất, mọi sự sống được lành.
Gia tốc tới Hợp nhất, Ta Là HƠN NỮA.
Gia tốc tới Hợp nhất, tất cả sẽ vút cao.

Gia tốc tới Hợp nhất! (3X)
Heros và Amora yêu dấu.
Gia tốc tới Hợp nhất! (3X)
Chamuel và Charity yêu dấu.
Gia tốc tới Hợp nhất! (3X)
Paul người Venice yêu dấu.
Gia tốc tới Hơp nhất! (3X)
TA LÀ yêu dấu.

3. Con thăng vượt ảo tưởng của điều kiện tánh

3.1. Paul người Venice, xin thày vào Luân xa Tim của con và giúp con thăng vượt ảo tưởng cho rằng con thiếu sót một cái gì, và ai đó phải tới và lấp khoảng trống đó để giúp con trở nên toàn vẹn.

Ôi chân sư Paul, thày là giấc mơ,
Thày yêu cái đẹp hằng chảy tuôn ra.
Ôi chân sư Paul, tình mang trong dạ
Quyền năng đập vỡ nấm mồ tự ngã.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.2. Paul người Venice, xin thày vào Luân xa Tim của con và giúp con thấy là chỉ khi nào con nhập một với Hiện diện TA LÀ của con thì con mới được đầy đủ, con mới trọn vẹn.

Ôi chân sư Paul, là nguồn khuyên nhủ,
Tâm con bay vút lên đỉnh trời cao.
Ôi chân sư Paul, minh triết ấp ủ
Cái đẹp chảy xuống từ Trên nhập vào.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.3. Paul người Venice, xin thày vào Luân xa Tim của con và giúp con thăng vượt ảo tưởng của tình yêu lứa đôi trịnh trọng. Xin thày giúp con chấp nhận là ta không nên coi tình thương là cái gì trọng đại.

Ôi chân sư Paul, yêu là nghệ thuật,
Mở trái tim ra căn phòng mật thất.
Ôi chân sư Paul, ào ào chảy xuống,
Cho tim tràn ngập ánh sắc yêu thương.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.4. Paul người Venice, xin thày vào Luân xa Tim của con và giúp con thấy là nếu con coi tình thương là trọng đại, thì đó chỉ có thể là tình thương có điều kiện. Xin thày giúp con hòa điệu với tình thương vô điều kiện của Thượng đế, để con có thể vui vẻ tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống.

Ôi chân sư Paul, gia tốc mài miệt,
Trụ vào từ bi, con thiền nhận biết.
Ôi chân sư Paul, ý định thuần khiết
Sẽ được bảo đảm thăng lên siêu việt.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.5. Paul người Venice, xin thày vào Luân xa Tim của con và giúp con thăng vượt ảo tưởng cho rằng chỉ có một người trên thế gian này xứng đáng được nhận tình thương của con, và tình thương đó tuyệt đối phải được đáp trả.

Ôi chân sư Paul, tình yêu hàn gắn,
Thày mở lộ ra ánh sáng nội tâm.
Ôi chân sư Paul, tình yêu an ủi,
Để con nguyên vẹn trong một niềm vui.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.6. Paul người Venice, xin thày vào Luân xa Tim của con và giúp con cười quan niệm tình thương trịnh trọng của con. Xin thày giúp con trở nên người tình vui tươi nhận ra mình là người yêu dấu của một người tình cao hơn, là Người Tình Thiêng liêng thương yêu con như người yêu dấu của ngài.

Ôi chân sư Paul, phụng sự Tất cả,
Giúp mọi chúng sinh thăng vượt sa ngã.
Ôi chân sư Paul, an bình ra khơi,
Mặc cho tự ngã tất phải tàn hơi.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.7. Paul người Venice, xin thày vào Luân xa Tim của con và giúp con trải nghiệm rằng Hiện diện TA LÀ của con là Người Tình Thiêng liêng của riêng con, thương yêu con như người yêu dấu duy nhất của nó. Xin thày giúp con trọn vẹn trong tình thương của bản thể cao của con.

Ôi chân sư Paul, tình yêu giải phóng,
Thày yêu mãi mãi, cho con nhập dòng.
Ôi chân sư Paul, thày là vị Chủ
Giúp cho hành trình của con hứng thú.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.8. Paul người Venice, xin thày vào Luân xa Tim của con và giúp con nhập một với Người Tình Thiêng liêng và trở thành Người Tình Thiêng liêng là cánh cửa mở cho dòng chảy của tình thương. Con là cánh cửa mở cho lực thương yêu mọi sự sống và tìm cách nâng cao mọi sự sống.

Ôi chân sư Paul, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư Paul, thày tô bầu trời,
Cái ta mừng rỡ trong màu vui tươi.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.9. Paul người Venice, xin thày vào Luân xa Tim của con và giúp con giải thoát con và người bạn đường của con không bị điều kiện tánh bao phủ. Xin thày giúp con đạt được một quan hệ tinh nghịch, vui tươi, tuôn chảy không bị gò bó bởi giới hạn, điều kiện, chờ đợi, đổ lỗi và cảm nhận tình thương của mình không được đáp trả.

Ôi chân sư Paul, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Tình yêu Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4. Con giải thoát các tế bào của con để chúng được trọn vẹn

4.1. Venus yêu dấu, xin thày vào Luân Xa Tim của con và giúp con thấy là khi con bắt đầu khóa dòng chảy của tình thương, thì bản thể thấp của con trở nên một hệ thống khép kín, tạo bệnh tật trong cơ thể vật lý của con.

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.2. Venus yêu dấu, xin thày vào Luân Xa Tim của con và giúp con thăng vượt ảo tưởng cho rằng xác thân con đang chống lại con. Xin thày giúp con khắc phục nỗi sợ không muốn nhìn vào căn bệnh và ảo tưởng cho rằng con không thể thương yêu cơ thể vì nó đang mang bệnh.

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.3. Venus yêu dấu, xin thày vào Luân Xa Tim của con và giúp con thấy rằng các tế bào của con đang trải bày trạng thái tâm thức khiến con khóa dòng chảy của tình thương. Xin thày giúp con thương yêu các tế bào để con có thể giúp chúng tự giải thoát khỏi điều kiện đang khiến chúng mang bệnh.

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.4. Venus yêu dấu, xin thày vào Luân Xa Tim của con và giúp con phá vỡ vòng luẩn quẩn được tạo ra khi con khóa dòng chảy của tình thương, để con có thể giải thoát cơ thể con khỏi bệnh tật.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.5. Venus yêu dấu, xin thày vào Luân Xa Tim của con và giúp con chấp nhận là chìa khóa của sự chữa lành là tái lập dòng chảy của tình thương – và con là người tái lập nó.

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.6. Venus yêu dấu, xin thày vào Luân Xa Tim của con và giúp con thương yêu các tế bào của con để giúp chúng giải thoát khỏi mọi bệnh tật, cho chúng tự do trải bày khuôn mẫu cao của cái một, của sự lành mạnh toàn hảo.

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.7. Venus yêu dấu, xin thày vào Luân Xa Tim của con và giúp con mở khóa dòng chảy của tình thương vô điều kiện sẽ tiêu trừ các điều kiện mà con đã phóng chiếu lên các tế bào trong cơ thể con một cách vô thức.

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.8. Venus yêu dấu, xin thày vào Luân Xa Tim của con và giúp con mở khóa sự minh triết trong các tế bào của con, sự minh triết của nguyên lý Mẹ Thiêng liêng biết biểu lộ sự lành mạnh toàn hảo – nếu nó được cho phép trải bày những gì có sẵn trong nó.

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.9. Venus yêu dấu, xin thày vào Luân Xa Tim của con và giúp con chấp nhận là Thượng đế đã viết luật của ngài vào các bộ phận nội tại của con. Xin thày giúp con thương yêu các tế bào của con để chúng được tự do, để chúng rũ bỏ mọi bệnh tật và trải bày trạng thái lành mạnh toàn hảo tự nhiên của chúng.

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Thanh tảy luân xa Cổ Họng (4 phần)

[Ghi chú: nghiên cứu bài truyền đọc của Tia thứ Nhất]

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Đại thiên thần Michael và Faith, Elohim Hercules và Amazonia, Chân sư MORE và Maraytaii yêu dấu, hãy giúp con khắc phục mọi bợn nhơ trong Luân xa Cổ Họng của con. Xin các thày giúp con thoát khỏi các khuôn nếp và lực bên trong và bên ngoài đang ngăn cản không cho tình thương từ Hiện diện TA LÀ của con tuôn chảy tự do, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con từ bỏ mọi tư duy phản-ý chí

1.1. Đại thiên thần Michael, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và thanh tảy nó khỏi sự phản-ý chí đã ngăn cản con quyết định như thế là quá đủ và đòi quyền tiến sang chuyện khác.

Đại thiên thần Michael, trong ngọn lửa xanh ngắt,
Không còn bao đêm tối mà chỉ thày có mặt.
Trong hợp nhất với thày, con đã ngập ánh sáng,
Cảnh rực rỡ nhiệm màu hiện ra ngay trước mắt.

Đại thiên thần Michael, đức Tin thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

1.2. Đại thiên thần Michael, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và thanh tảy nó khỏi cốt lõi của sự gian dối, là niềm tin cho rằng có thể che dấu một điều gì đó, là khuynh hướng nói và làm một đàng và nghĩ một nẻo.

Đại thiên thần Michael, thày cho con che chở,
Sau tấm khiên màu xanh con được sống muôn thuở.
Niêm con khỏi hồn bóng đang lang thang đêm tối,
Con ở trong cõi thày, rực sáng màu xanh tươi.

Đại thiên thần Michael, đức Tin thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

1.3. Đại thiên thần Michael, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và thanh tảy nó khỏi sự dối trá của phản-ý chí khiến con nghĩ con đang bị kẹt trong một vai trò nào đó và có một lực bên ngoài ngăn cản không cho con tiến sang chuyện khác.

Đại thiên thần Michael, thày đem bao uy lực,
Mà hàng triệu thiên thần sẽ ca ngợi công đức.
Thiêu đốt muôn loài quỷ của nghi ngờ sợ hãi,
Con biết thày Có Mặt ở bên con hoài hoài. 

Đại thiên thần Michael, đức Tin thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

1.4. Đại thiên thần Michael, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và thanh tảy nó khỏi sự phản-uy lực khiến con nghĩ rằng có một lực bên ngoài đã đặt con vào hoàn cảnh hiện tại. Xin thày giúp con lấy lại uy lực thay đổi hoàn cảnh của mình.

Đại thiên thần Michael, ý Thượng đế thày yêu,
Từ Trên thày đem xuống ánh sáng của thiên triều.
Thượng đế chỉ muốn thấy mọi sự sống chuyển vọt,
Vươn cao trên bản ngã là quyền linh chót vót.

Đại thiên thần Michael, đức Tin thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

1.5. Đại thiên thần Michael, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và thanh tảy nó khỏi sự phản-ý chí khiến con trao cho một lực bên ngoài quyền tự quyết của mình.

Đại thiên thần Michael, trong ngọn lửa xanh ngắt,
Không còn bao đêm tối mà chỉ thày có mặt.
Trong hợp nhất với thày, con đã ngập ánh sáng,
Cảnh rực rỡ nhiệm màu hiện ra ngay trước mắt.

Đại thiên thần Michael, đức Tin thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

1.6. Đại thiên thần Michael, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và thanh tảy nó khỏi sự phản-ý chí khiến con lấy quyết định là con không muốn quyết định nữa. Xin thày giúp con từ bỏ hình ảnh khô chết về một quyền lực bên ngoài điều khiển đời con.

Đại thiên thần Michael, thày cho con che chở,
Sau tấm khiên màu xanh con được sống muôn thuở.
Niêm con khỏi hồn bóng đang lang thang đêm tối,
Con ở trong cõi thày, rực sáng màu xanh tươi.

Đại thiên thần Michael, đức Tin thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

1.7. Đại thiên thần Michael, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và thanh tảy nó khỏi sự phản-uy lực khiến con nghĩ rằng tự ngã của con có thể sở hữu và chiếm hữu đủ thứ. Xin thày giúp con buông bỏ mọi ham muốn nâng tự ngã tách biệt lên trên người khác hay đạt được một chức vị nổi bật trong xã hội.

Đại thiên thần Michael, thày đem bao uy lực,
Mà hàng triệu thiên thần sẽ ca ngợi công đức.
Thiêu đốt muôn loài quỷ của nghi ngờ sợ hãi,
Con biết thày Có Mặt ở bên con hoài hoài. 

Đại thiên thần Michael, đức Tin thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

1.8. Đại thiên thần Michael, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và thanh tảy nó khỏi sự phản-uy lực khiến con nghĩ rằng con giống như Thượng đế và có khả năng và quyền ấn định thiện và ác dựa trên tư duy nhị nguyên của tự ngã.

Đại thiên thần Michael, ý Thượng đế thày yêu,
Từ Trên thày đem xuống ánh sáng của thiên triều.
Thượng đế chỉ muốn thấy mọi sự sống chuyển vọt,
Vươn cao trên bản ngã là quyền linh chót vót.

Đại thiên thần Michael, đức Tin thày vững chãi,
Đại thiên thần Michael, cuốn theo thày mãi mãi,
Đại thiên thần Michael, bài của thày con hát,
Đại thiên thần Michael, nhập với thày con đạt.

1.9. Đại thiên thần Michael, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và thanh tảy nó khỏi sự phản-uy lực khiến con nghĩ rằng hình tướng mà con thấy trong thế giới vật chất có một thực tại tối hậu. Xin thày giúp con buông bỏ bóng ma nghĩ rằng Tánh linh của con bị đóng đinh trong vật chất.

Con bay với thiên thần,
Để đạt được nhiều HƠN.
Thiên thần ôi rất thật,
Tình thương sẽ chữa hết.
Với thiên thần bình an,
Muôn ray rứt phải tàn.
Với thiên thần ánh sáng,
Ta bay bổng thênh thang.

Cánh thiên thần xào xạc trong ngọn gió,
Vui vui lắm khi vật chất hát to,
Vui với từng hạt nguyên tử vo vo
Cùng hòa tấu với cánh thiên thần nhỏ.

2. Con trung thực

2.1. Elohim Hercules, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và truyền rung động của sự trung thực là sự nhập một với ý chí và uy lực sáng tạo của Thượng đế.

Hercules Xanh ngắt, nơi nơi thày đổ tràn
Quyền năng vô bờ bến với Hồng ân vô hạn,
Chìa khóa của sáng tạo, chính thày là hiện thân,
Biểu lộ qua ý chí vượt thăng đến Vô tận.

Hercules Xanh ngắt, con hợp nhất với thày,
Để con mở tim ra thực tại của thày đây,

Bây giờ con thấy rõ khi cảm được lửa sáng,
Cái ta cũng thăng vượt như đá hóa thành vàng.

2.2. Elohim Hercules, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và truyền rung động của sự tự do sáng tạo giúp con chấp nhận con có quyền và khả năng vứt bỏ bất cứ vai trò hạn chế nào mà con đã chọn thủ vai trên trái đất.

Hercules Xanh ngắt, với tất cả tình thương,
Con dâng lên Thượng đế hằng hà lời tán thưởng,
Con biết ơn quá đỗi được tự tay góp phần
Trong tác phẩm của Ngài đẹp tinh xảo vô tận.

Hercules Xanh ngắt, chữa lành muôn sự sống,
Bao bọc quanh tất cả, Xanh ngọn lửa Niêm phong.
Ngọn lửa xanh như điện mở mắt cho con thấy
Rằng sống trong chân thực: khát vọng của con đây.

2.3. Elohim Hercules, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và truyền ý chí sáng tạo cho con quyền năng thoát khỏi bất cứ ý niệm bản sắc hạn chế nào.

Hercules Xanh ngắt, con dâng hiến cuộc đời
Giúp cho cả hành tinh vượt tranh chấp loài người.
Bao lọc lừa nhị đối bị ánh sáng chọc thủng,
Trả lại cho trọn vẹn cái nhìn ở thâm cung.

Hercules Xanh ngắt, ý chí thày duy nhất,
Trong con còn khoảng trống, thày đổ đầy Lửa Xanh,
Khi uy lực của thày giục con bước mạnh dạn,
Băng qua bao rặng núi, xuyên qua mọi tấm màn.

2.4. Elohim Hercules, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và truyền rung động của sự trung thực và thực tế cho con quyền năng chấp nhận con là Sinh thể trong sáng mà Thượng đế đã tạo ra.

Hercules Xanh ngắt, ngôi Đền của Ánh sáng,
Được tỏ lộ cho con lúc dõi nhìn vào trong.
Ngọn hải đăng sáng rực, trên trái đất tỏa rạng,
Cho tẩt cả hành tinh phục hồi lại sự sống.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.5. Elohim Hercules, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và truyền dòng xung lực sáng tạo giúp con lấy lại đầy đủ uy lực của ý chí của con.

Hercules Xanh ngắt, nơi nơi thày đổ tràn
Quyền năng vô bờ bến với Hồng ân vô hạn,
Chìa khóa của sáng tạo, chính thày là hiện thân,
Biểu lộ qua ý chí vượt thăng đến Vô tận.

Hercules Xanh ngắt, con hợp nhất với thày,
Để con mở tim ra thực tại của thày đây,

Bây giờ con thấy rõ khi cảm được lửa sáng,
Cái ta cũng thăng vượt như đá hóa thành vàng.

2.6. Elohim Hercules, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con chuyển đổi ý niệm bản sắc của con, chuyển đổi hình ảnh về mình, chuyển đổi tầm nhìn của con. Xin thày giúp con có một chuyển đổi kinh thiên động địa về ý niệm bản sắc của con khiến con không còn thấy tách biệt mà chỉ thấy cái một.

Hercules Xanh ngắt, với tất cả tình thương,
Con dâng lên Thượng đế hằng hà lời tán thưởng,
Con biết ơn quá đỗi được tự tay góp phần
Trong tác phẩm của Ngài đẹp tinh xảo vô tận.

Hercules Xanh ngắt, chữa lành muôn sự sống,
Bao bọc quanh tất cả, Xanh ngọn lửa Niêm phong.
Ngọn lửa xanh như điện mở mắt cho con thấy
Rằng sống trong chân thực: khát vọng của con đây.

2.7. Elohim Hercules, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con lấy lại quyền năng sáng tạo của con. Xin thày giúp con kết nối lại với Bản thể Cao của con, cái CON LÀ và nói với Giê-su: “Con và cha con là một. Cha con làm việc cho đến bây giờ, nay con cũng làm việc như vậy.”

Hercules Xanh ngắt, con dâng hiến cuộc đời
Giúp cho cả hành tinh vượt tranh chấp loài người.
Bao lọc lừa nhị đối bị ánh sáng chọc thủng,
Trả lại cho trọn vẹn cái nhìn ở thâm cung.

Hercules Xanh ngắt, ý chí thày duy nhất,
Trong con còn khoảng trống, thày đổ đầy Lửa Xanh,
Khi uy lực của thày giục con bước mạnh dạn,
Băng qua bao rặng núi, xuyên qua mọi tấm màn.

2.8. Elohim Hercules, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con đi tìm trước tiên sự hợp nhất với tâm Ki-tô để cho uy lực của Thượng đế có thể tuôn chảy qua con và quân bằng nghiệp quả của con nhanh hơn nhiều.

Hercules Xanh ngắt, ngôi Đền của Ánh sáng,
Được tỏ lộ cho con lúc dõi nhìn vào trong.
Ngọn hải đăng sáng rực, trên trái đất tỏa rạng,
Cho tẩt cả hành tinh phục hồi lại sự sống.

Hercules Xanh ngắt, che chở muôn sự sống,
Cho chúng con uy lực để thăng vượt luôn luôn.
Trong thày thì cái ta mới mãi mãi tăng trưởng,
Con nương theo xoáy ốc của Thượng đế cuồn cuộn.

2.9. Elohim Hercules, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con lấy lại uy lực của bản thể rộng lớn của con là cái CON LÀ, và dùng nó để chuyển hóa cuộc đời con trong vòng xoắn hướng thượng.

Gia tốc tới Sáng tạo, TA LÀ có thật,
Gia tốc tới Sáng tạo, mọi sự sống chữa lành,
Gia tốc tới Sáng tạo, TA LÀ hơn nữa,
Gia tốc tới Sáng tạo, tất cả sẽ vút cao.

Gia tốc tới Sáng tạo! (3 lần)
Hercules và Amazonia yêu dấu.
Gia tốc tới Sáng tạo! (3 lần)
Michael và Faith yêu dấu.
Gia tốc tới Sáng tạo! (3 lần)
Chân sư MORE yêu dấu.
Gia tốc tới Sáng tạo! (3 lần)
TA LÀ yêu dấu.

3. Con chấp nhận uy lực của Thượng đế trong con

3.1. Chân sư MORE, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con lấy lại ý chí muốn nhìn vào cây đà trong chính mắt mình, nhìn vào và thăng vượt tâm thức đã kết đọng thành bệnh tật trong thân xác con.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.2. Chân sư MORE, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con nhìn ra sự thực là nền móng của bệnh tật là sự gian dối, là ảo tưởng có thể che giấu điều gì đó.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.3. Chân sư MORE, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con hoàn toàn chấp nhận khía cạnh Omega của ý chí của Thượng đế, là chữa lành chân chính là tự chữa lành!

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.4. Chân sư MORE, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con chấp nhận là mục đích của đời sống là tăng trưởng cái ta, tăng trưởng sự tự nhận biết. Xin thày giúp con đón nhận tăng trưởng này là tự tăng trưởng, và không do Thượng đế áp đặt lên con.

Ôi chân sư MORE, con sẽ chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Nay con là một với thày luôn luôn.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.5. Chân sư MORE, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con chấp nhận con là một sinh thể tâm linh không bị mắc kẹt trong vũ trụ này, mắc kẹt trong một vai trò nào đó. Xin thày giúp con lấy lại khả năng tự chữa lành.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.6. Chân sư MORE, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con chấp nhận rằng quyền tự quyết của con thật sự tự do. Bất cứ lúc nào con cũng hoàn toàn có tự do tách mình ra khỏi vai trò của mình – con cởi bỏ nó ra, con bỏ nó xuống, con để con người cũ chết đi và con tái sinh trong một ý niệm bản ngã mới.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.7. Chân sư MORE, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con vứt đi ý gian dối của rắn cho rằng con đã trở thành một sinh thể giới hạn và không thể nào bước ra khỏi cái ta giới hạn này.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày con luôn hằng có.
Ôi chân sư MORE, con lại được sống,
Trong dòng của thày niềm vui thường hằng.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.8. Chân sư MORE, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con vứt đi ý gian dối cho rằng uy lực của Thượng đế chỉ có thể đến từ bên ngoài con. Xin thày giúp con lấy lại uy lực của Thượng đế ở bên trong con.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình,
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Con là cánh cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

3.9. Chân sư MORE, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con vứt đi ảo tưởng cho rằng con, với tư cách một cái ta tách biệt, cần làm điều gì đó trên trái đất này để chuộc tội mình hay để cân bằng nghiệp của mình.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế con xin rải truyền.

Ôi Đức Thánh thần, hãy chảy qua con,
Con là cửa mở cho ngài xối xuống.
Ôi dòng Ánh sáng xông ra cuồn cuộn,
Cho con thăng vượt là quyền thiêng liêng.

4. Con từ bỏ mọi điều kiện nhị nguyên

4.1. Chân sư MORE, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con chấp nhận là con không có gì sai trái. Điều thật sự sai trái với con là ý niệm có gì sai trái.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin gióng tiếng chiêng,
gọi con về nhà, con thuộc nơi đó,
Con biết mẹ đây yêu con thánh thiện,
trong niệm biết này, con được tự do.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.  

4.2. Chân sư MORE, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con chấp nhận là chỉ có những gì được sáng tạo trong cái một là thật. Bất cứ điều gì được sáng tạo từ tâm thức tách biệt đều không thật và không ảnh hưởng được phần thật trong con người con.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin ôm con chặt,
con cộng hưởng theo ánh sáng mẹ dắt.
Nhạc mẹ thanh tẩy tim con vô ngã,
tình yêu của mẹ, con ban tất cả.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.  

4.3. Chân sư MORE, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con nhận ra rằng trong cái một không thể nào có điều kiện. Con tách ra khỏi cái một bằng cách tạo ra hai điều kiện chống đối nhau.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, hợp nhất với mẹ,
tim mẹ rực lên mặt trời sáng chói.
Tâm con khuếch đại âm thanh của mẹ,
thánh âm mẹ hiền phóng to khắp cõi.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.  

4.4. Chân sư MORE, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con nhận ra con không thể nào vô hiệu hóa, cân bằng hay phủ nhận một điều kiện nhị nguyên bằng cách đi vào cái đối nghịch. Con không thể nào khắc phục một vấn đề với cùng tâm thức đã tạo ra vấn đề.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con nghe thấy liền,
âm vi tế của Bầu cõi Thiêng liêng.
Tâm con hòa điệu Âm Ngân Vũ trụ,
vượt lên ngã nhỏ, con tinh tấn tu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.  

4.5. Chân sư MORE, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con nhận ra con tạo ra nghiệp vì con thấy mình là sinh thể tách biệt. Con chú trọng vào cái ta và do đó con làm điều vị kỷ và ích kỷ.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, đưa con về nhà,
con hòa điệu theo Thánh ngữ OM đây, 
Âm của mọi âm nâng con cao mãi,
chỉ còn ánh sáng trong chén con đầy.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.  

4.6. Chân sư MORE, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con nhận ra con không thể nào hóa giải nghiệp của mình bằng cách làm một điều khác qua cái ta tách biệt. Cố gắng cân bằng nghiệp qua cái ta tách biệt chỉ củng cố thêm ảo tưởng con là một cái ta tách biệt.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con là một phần
bài nhạc giao hưởng từ vũ trụ ngân.
CON LÀ nhạc khí thanh âm trong sáng,
dạo lên âm thánh từ cõi thiên đàng.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.  

4.7. Chân sư MORE, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con chấp nhận là con vào được nước Trời khi con trở thành một với uy lực của Thượng đế bên trong con. Con chỉ có thể trở thành một với nó khi con khắc phục được cái ta tách biệt.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con xin thỉnh cầu
bước vào sảnh đường âm nhạc thiêng liêng.
Con sẽ hòa nhập dòng sống vươn lên
tới bầu trời cao sao sáng nhiệm màu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.  

4.8. Chân sư MORE, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con đi theo niềm hân hoan của con. Xin thày giúp con trải nghiệm rằng điều đem lại cho con niềm vui lớn nhất là cảm nhận con hợp nhất với Bản thể bên trong của con, với Ngọn lửa Thượng đế của con, với Bản thể tâm linh lớn hơn mà từ đó cái TA LÀ của con sinh ra.

Ôi Mẹ Hoàn vũ so dây đàn con,
toàn bản thể con cùng hát với mẹ.
Bài ca của mẹ, con dội âm theo,
tình yêu hoàn vũ con vui mừng đón.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.  

4.9. Chân sư MORE, xin thày vào Luân xa Cổ họng của con và giúp con làm một với ý chí và uy lực của Thượng đế bằng cách thương yêu ý chí và uy lực. Xin thày giúp con thanh tẩy động cơ của con để cho uy lực của Thượng đế có thể tuôn chảy qua con để nâng cao mọi sự sống. Con nay chấp nhận CON LÀ thực.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con yêu chất ngất,
tình ca của mẹ, giữ con chân chất.
Mẹ đổ đầy con thánh âm rất thật,
có mẹ đây rồi, cô đơn biến mất.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ.  

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Chương 5 – Quân bằng là chìa khóa để thị hiện

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Portia qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/3/2013.

Portia, THÀY LÀ. Thày giữ một chức vụ tâm linh thường được gọi là Nữ thần Công lý. Nhưng thày cũng là Nữ thần Cơ hội, vì công lý là gì nếu không có cơ hội? Dựa trên những gì con được dạy trên trái đất thì con có thể không thấy ra điều này, vì con thường thấy hình ảnh của Nữ thần Công lý là hình tượng một phụ nữ, một tay cầm cân, tay kia có thể cầm kiếm và có một dải băng bịt kín đôi mắt.

Nhưng tại sao Nữ thần Công lý lại bị bịt mắt? Và tại sao cái cân thày cầm lại mất cân bằng? À, bởi vì loài người bị mất cân bằng. Loài người mất cân bằng trong tâm thức cá nhân, và tâm thức tập thể cũng mất cân bằng. Khi con mất cân bằng, con không có được một cái nhìn trong trẻo, mà con lại nhìn bằng nhận thức ô uế, rồi con phóng chiếu nhận thức này lên mọi thứ xung quanh con.

5.1. Nữ thần Công lý không bị đui mù

Đó cũng là lý do tại sao con người đã phóng chiếu nhận thức mất cân bằng của mình lên Nữ thần Công lý, cho rằng thày chắc hẳn đã đui mù vì thày cho phép nhiều chuyện họ nhìn thấy xung quanh họ xảy ra trên trái đất. Vì nếu Nữ thần Công lý không bị mù, thì làm sao chuyện này hay chuyện kia được phép xảy ra?

Nhưng con thấy đấy, Nữ thần Công lý, chức vụ mà thày đang nắm giữ, liên quan rất ít đến các tiêu chuẩn về công lý mà con người đã tạo ra trên trái đất. Như các thày đã giải thích nhiều lần, khi con ở trong tâm thức tách biệt, con sẽ thấy chính mình đang đối đầu với người khác. Nếu họ không tuân thủ theo cách con nghĩ mọi việc cần phải thế này hay thế kia, thì con sẽ khởi lên mong muốn đánh nhau, huỷ diệt hay trừng phạt họ. Nếu chính con không có quyền năng làm điều này với họ thì con sẽ muốn Thượng đế làm thay con.

Tại sao con không có quyền năng làm điều này? Vì như các thày đã giải thích, một khi con bước vào tách biệt, rõ ràng con bị kẹt trong khuôn mẫu hành động và phản ứng. Khi con phản ứng các tình huống một cách mất cân bằng thì phản ứng của con trở thành một hành động mất cân bằng, rồi con lại phóng chiếu hành động này vào tấm gương vũ trụ. Tấm gương có thể phản chiếu lại điều gì ngoại trừ gửi lại cho con những tình huống vật lý mất cân bằng tương tự?

Con có thể nghĩ người khác đang làm điều bất công với con. Nhưng theo Luật của Thượng đế, họ sẽ không thể làm được điều đó nếu con ở trong trạng thái tâm hoàn toàn hài hoà và cân bằng – trừ khi con đã cân bằng đến độ con tự nguyện hiến thân đem lại phán xử cho những kẻ sẵn sàng hãm hại cả người vô tội. Tuy nhiên, điều này cũng nằm trong phạm vi lớn hơn của Luật Tự quyết.

Vì vậy, thật đúng khi nói rằng không có bất công trong vũ trụ. Vì trên một hành tinh như trái đất, nơi con biết con không ở trong kịch bản lý tưởng – nơi tất cả mọi người đều biết trước như vậy khi họ đầu thai ở đây – thì làm sao con thật sự tạo ra một tiêu chuẩn nói rằng cuộc sống trên hành tinh này phải vận hành theo một chuẩn mực công lý nào đó? Hành tinh này là một phòng thí nghiệm cho phép con người trải bày trạng thái tâm thức hiện thời của họ và, nếu có thể nói như vậy, họ trở thành nghiệp quả cho nhau, là nghiệp quả mà tấm gương vũ trụ gửi trả lại cho họ. 

Con người trên trái đất thường giữ vai trò gửi trả lại cho nhau những điều chính họ đã phóng chiếu vào tấm gương vũ trụ. Con yêu dấu, làm sao điều này có thể là sự bất công khi con nhận chân là tấm gương không thể gửi lại cho con cái con đã không gửi ra? Có thể con đã gửi ra ở một kiếp trong quá khứ. Có thể con không nhớ con đã gửi ra. Nhưng thật sự con đã làm vậy, nếu không thì nó đã không phản chiếu lại con.

5.2. Tại sao con bị xâm hại 

Tất nhiên, giờ đây khi nói điều này, các thày phải cho phép quyền tự quyết trải bày ra. Đúng vậy, một người có thể làm điều gì đó tới con do họ chọn làm vậy trong hiện tại. Ví dụ, họ có thể xâm hại một đứa trẻ ngây thơ, ngay cả một đứa trẻ đã không chọn có hành động nào trong quá khứ tạo ra quả báo ngày hôm nay. Hay nói cách khác, đứa trẻ đã không tạo nghiệp, có nghĩa là nghiệp quả đang không quay trở lại từ tấm gương vũ trụ. 

Ví dụ, trong tình huống đứa trẻ bị xâm hại, một người lớn đã chọn làm hành động này ở thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, khi đứa trẻ tình nguyện đầu thai xuống một hành tinh như trái đất thì nó đã biết trước điều nó sẽ gặp phải, do đó đây là kết quả mà nó đã chọn lựa. Con biết một phần lý do con tới đây đó là để sự Ngây thơ Thiêng liêng được hiện thân. Điều này có nghĩa là sẽ có những người bị kẹt trong tâm thức sa ngã sẽ cố xâm hại con theo cách này hay cách khác. Con có hiểu thày đang nói gì không? Con không thể đầu thai trên một hành tinh như trái đất mà không bị xâm hại bởi những người mắc kẹt trong tâm thức sa ngã. Đơn giản là không thể. Đây là điều con biết trước khi con tình nguyện đầu thai xuống đây. 

Thày hoàn toàn hiểu có những người không tình nguyện đầu thai xuống đây bởi vì họ đến từ các hệ thống hành tinh khác hay họ sa ngã từ các bầu cõi trước. Nhưng dù là sa ngã hay được chỉ định cũng là kết quả của những chọn lựa mà con đã làm, và vì vậy một lần nữa con chịu trách nhiệm cho việc lựa chọn mình có mặt nơi đây. Nếu con tình nguyện xuống đây thì đó là điều con đã chọn. Con đã biết trước con sẽ bị xâm hại bởi những người có tâm thức sa ngã vì ánh sáng con đem tới sẽ khuấy động và khiêu khích họ.

5.3. Duy trì sự ngây thơ

Con đã biết thách đố là con phải đối mặt với một sự xâm hại, nhưng cho dù là sự xâm hại gì thì con vẫn phải giữ nguyên sự ngây thơ hoặc quay trở lại sự ngây thơ càng nhanh càng tốt. Con yêu dấu, vậy sự ngây thơ là gì? Đó là con không có những mong muốn phàm phu về cuộc sống trên trái đất phải như thế nào. Con như dòng nước. Con tuôn chảy. Nếu con tình cờ chảy qua một bờ vực thì con chảy xuống, nhưng rồi con tụ lại và chảy tiếp. Nếu con tình cờ chảy vào một ao tù trong chốc lát thì khi con nhận biết điều này, con vượt lên bờ ao và lại tuôn chảy. Đây là sự ngây thơ. 

Vì con đang luôn luôn tuôn chảy với Dòng sông sự Sống, tuôn chảy với Thánh Linh, con luôn luôn sẵn lòng đi tới nơi con muốn tới để phụng sự cuộc sống nhiều hơn nữa. Khi con hoàn thành lý do con cần có mặt ở một nơi nào đó, con lại mở tâm tuôn chảy tiếp, cho dù cái giá vỏ ngoài phải trả là gì vì con không đi tìm một điểm đến vĩnh viễn. Con tìm cách trở thành một công cụ khi con đang hiện thân, rồi con tìm cách vượt qua và bước tiếp khi con thấy đã đến lúc. Vì làm sao con có thể thăng vượt và bước tiếp khi con bám vào một điều gì đó trên trái đất, chẳng hạn một cảm nhận bất công, một cảm nhận có cái gì đó con phải chỉnh, có cái gì đó con phải sửa trên trái đất? 

Đối với người tâm linh, việc chấp nhận sự có mặt của các sinh thể sa ngã, của tư duy sa ngã và tâm thức nhị nguyên là điều rất quan trọng. Đây là cách duy nhất khiến con có thể thật sự ra khỏi tình trạng bị mắc kẹt trong những hoàn cảnh bế tắc, những hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan, những cái bẫy mà sa nhân đã cố giăng ra để con không thể biểu lộ Quả vị Ki-tô của con và thăng thiên, cũng như khiến con không thể hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con khi đang đầu thai. Chúng tìm cách làm tê liệt con bằng cách để con tận hưởng cuộc sống thoải mái trên trái đất, hoặc nếu con không được thoải mái, thì con cũng không thăng vượt được một tầng tâm thức nào đó, và vì vậy con không thể biểu lộ Quả vị Ki-tô vì việc biểu lộ Quả vị Ki-tô của con sẽ trở thành mối đe dọa đối với việc kiểm soát hành tinh của chúng.

Ý niệm vi tế mà các thày gọi là tư duy cuồng đại chính là một trong nhiều âm mưu, một trong rất rất nhiều âm mưu của chúng khiến con nghĩ rằng có điều gì sai trong kế hoạch của Thượng đế hay trong luật của Thượng đế. Đó là lý do vì sao cán cân của Nữ thần Công lý mất cân bằng. Đó là lý do Nữ thần Công lý bị bịt mắt, và đó là lý do vì sao nên có một thanh gươm để trừng phạt những kẻ phạm tội, vì trong tư duy cuồng đại luôn có một kẻ gánh tội, là những người đại diện cho sự xấu xa. Họ chính là vấn đề. Họ phải bị đập tan. Họ phải bị tiêu diệt, hay bất kỳ bản án nào con có thể nghĩ ra.

5.4. Công lý thiêng liêng

Chừng nào con còn mang cảm nhận bất công này, con sẽ bị nghiệp quả buộc chặt với trái đất, vì con đang gửi vào tấm gương vũ trụ ý niệm là có cái gì sai ở đây, và con là người có thể phán xét điều gì sai, ai làm sai và chuyện này nên xử lý thế nào. Vì con không tin Thượng đế có thể tìm ra cách giải quyết, con không tin công lý thiêng liêng thực sự được thực thi và thực thi hoàn toàn chính xác. 

Con thấy đấy, công lý thiêng liêng là bất cứ điều gì con gửi ra đều được phản chiếu trở lại con; hoặc nếu con là một trong số những người Ngây thơ Thánh thiện thì cho dù bất cứ điều gì xảy ra với con trên trái đất cũng đều trở thành sự phán xử cho những ai có tâm thức sa ngã, và do đó điều này giúp trái đất tăng trưởng khi họ bị phán xử và loại khỏi hành tinh này. Nhưng một lần nữa, chính con đã chọn vai trò này bằng việc đầu thai trên trái đất, và trách nhiệm của con là duy trì sự ngây thơ hoặc quay trở lại sự ngây thơ, vì chỉ khi đó, khi con có được sự ngây thơ đó con mới có thể tuôn chảy dễ dàng khi Thánh linh kêu gọi con tuôn chảy. 

Chỉ khi con tuôn chảy với Thánh Linh, con mới có thể buông bỏ những phàm linh mà con đã tạo ra trên trái đất, đây là những phàm linh đã cột chặt con vào một nơi nào đó, vào một kiểu tư duy nào đó và vào một tầng tâm thức nào đó. Nếu con không thể tuôn chảy thì con sẽ phải cưỡng lại, vì tuôn chảy là trạng thái tự nhiên của cuộc sống. Khi con ở trong trạng thái ngây thơ thì con đang tuôn chảy. Vì trong sự ngây thơ có gì phải nắm giữ? Có gì phải chỉnh sửa? Con cần phải nắm giữ hình ảnh gì về trái đất khi con biết trong cõi vật lý này mọi thứ thay đổi liên tục, mọi thứ đều chuyển động và nói cho cùng, mọi hình tướng trên trái đất đều không thật? Chúng không có quyền lực gì trên con vì con là một sinh thể tâm linh. Đây là một phần của sự Ngây thơ. Con biết cho dù chuyện gì có thể xảy ra trên trái đất cũng không thể chạm đến con vì con là nhận biết thuần khiết của Tánh Linh hằng sống. 

Vì thày không mù quáng với những điều đang xảy ra trên trái đất nên thày hoàn toàn nhận thức được nhiều điều rất hung bạo ở đây. Nhưng con có thể bước lùi lại trong phút chốc và thấy các sa nhân đã tạo ra chính các hoàn cảnh như vậy bởi vì cách duy nhất chúng có thể gài bẫy con người vào trò chơi hành động-phản ứng là bức hại họ bằng một hành động quá đáng, hay bằng sự bất công đến mức họ cảm thấy phải hành động, phải làm một điều gì đó. Rồi họ rơi vào bẫy, phản ứng lại hành động của sa nhân, tìm cách trừng phạt sa nhân hoặc chỉnh sửa sự bất công. Vì vậy chính họ lại gửi ra một hành động mất cân bằng khiến cho một phản ứng mất cân bằng từ tấm gương vũ trụ buộc phải quay trở lại. 

Công lý toàn vũ là khi con gửi ra một hành động từ một tầng tâm thức nào đó thì hành động đó sẽ được gửi trả lại con và nó sẽ thể hiện bằng những hoàn cảnh mất cân bằng trên trái đất. Một tâm mất cân bằng sẽ dẫn đến một tình huống vật lý mất cân bằng. Nhưng khi con nỗ lực cân bằng bốn thể phàm của mình bằng các công cụ mà các thày đã trao truyền, đó là bốn bài truyền đọc cùng với bốn bài thỉnh trước, thì con có thể phá vỡ trò chơi hành động-phản ứng này.

5.5. Cơ hội để cân bằng nghiệp quả

Thày biết rõ là nhiều người tâm linh quen thuộc với khái niệm nghiệp quả, nói chung là sự trở lại của những hành động mà con đã tạo ra ở kiếp trước. Và nhiều người đã lần lần mang cái nhìn định mệnh cho rằng bất kỳ xung lực nào con tạo ra trong kiếp trước chắc chắn sẽ quay trở lại con trong kiếp này hoặc một kiếp tới. Nhưng không phải như vậy. Luật vũ trụ nói rằng bất kỳ những gì con gửi ra sẽ phải quay lại con chừng nào con còn giữ nguyên trạng thái tâm thức mất cân bằng như khi con gửi ra hành động đó. 

Nhưng nếu con thăng vượt trạng thái tâm thức đó, thì công lý vũ trụ sẽ ra lệnh cho những gì con gửi ra không quay ngược trở về con như một hoàn cảnh vật lý, hoặc con sẽ có các công cụ và sự hiểu biết để chuyển hóa nghiệp quả trước khi nó biểu lộ ở tầng vật lý. Đây là lý do vì sao trong thập niên 1930 người bạn yêu quý của thày, Saint Germain, đã xin sự đặc miễn để có thể công bố sự hiểu biết về ngọn lửa tím và cách sử dụng ngọn lửa này. Đây là lý do các thày đã trao cho con những giáo lý của cả bảy tia sáng. Vì thật sự, mặc dù ngọn lửa tím rất hữu hiệu để tiêu trừ nghiệp quả, nhưng con rất cần thỉnh cầu ánh sáng của cả bảy tia để tiêu trừ nghiệp quả mà con đã tạo ra khi con sử dụng bất cứ tia nào trong bảy tia một cách mất cân bằng. 

Con thấy đấy, ngọn lửa tím quả thật có thể ngăn chặn nghiệp quá khứ quay trở lại ở tầng vật lý nhưng nó không thể chuyển hóa nghiệp ở tầng tình cảm, lý trí và bản sắc. Vì để làm được điều này, con phải thỉnh cầu ánh sáng của một tia cụ thể mà con đã tha hoá khi tạo ra nghiệp đó. 

Điều thày muốn nói ở đây là: Khi con đã dùng dụng cụ của các thày để trong lọc bốn thể phàm, con có thể tới điểm nơi con cảm thấy mình vẫn chưa có được kết quả mà mình hy vọng mặc dù con đã làm nhiều công việc tâm linh – có lẽ làm nhiều hơn những gì thày trao cho con ở đây. Con vẫn chưa đem vào thị hiện những điều mà con muốn thấy, cho dù đó là sức khoẻ hay của cải, là một hoàn cảnh khác hơn, một mối quan hệ khác hơn hay một cơ hội để phụng sự tốt hơn. Con cảm thấy con đang dậm chân tại chỗ. Nhưng con thấy đấy, những gì con cần xem xét lại là con cần nhìn vào tâm thức của chính mình và tìm ra có yếu tố mất cân bằng nào không. 

5.6. Tìm ra những tin tưởng mất quân bằng

Con có thể trong lọc bốn thể phàm nhưng con vẫn duy trì những quan điểm mất cân bằng nào đó, những tin tưởng mất cân bằng nào đó về cuộc sống, như thày đã mô tả, đó là những tin tưởng có gì đã sai trên trái đất này, có một sự bất công nào đó cần phải chỉnh sửa, và mọi người kể cả con cần phải chỉnh sửa sự bất công này. Nhưng con thấy đấy, khi con hành động từ một tư duy mất cân bằng, con không thể thoát khỏi chuỗi hành động-phản ứng. 

Như các thày đã nói, con bị mắc kẹt trong cái vòng khép kín này, trong đó con thật sự đang phản ứng lại những hành động mất cân bằng mà chính con đã gửi ra trong quá khứ. Nhưng con vẫn đang phóng chiếu là người khác phải chịu trách nhiệm cho phản ứng của con, hay Thượng đế hay số phận phải chịu trách nhiệm cho phản ứng của con. Điều duy nhất còn lại là con hãy nhìn vào phản ứng của mình, hãy chịu trách nhiệm về phản ứng của mình và nói: “Tại sao tôi lại phản ứng như vậy?”. 

Nếu con sẵn lòng làm vậy thì con có thể thật sự dùng khả năng mà các thày đã mô tả trước đây, đó là nếu con trụ vào tim mình và hoà điệu với luân xa tim ở giữa ngực, thì con sẽ có một công cụ đo lường rất tốt quả thật có thể giúp con lượng định mọi việc con gặp trên trái đất. Thầy More trong quyển sách Uy lực Sáng tạo Nội tâm [The Creative Power Within] đã giải thích bất cứ khi nào con gặp phải một điều gì – một ý tưởng hay một hoàn cảnh – thì con có thể áp dụng cách đo này: “Liệu việc này có nâng cao hay hạ thấp năng lượng của tôi không?”

Nhưng cũng có một cách khác đó là sử dụng khả năng trực giác, là con hình dung có một cái cân trong luân xa tim, giống như cái cân mà Nữ thần Công lý đang cầm, tức là có hai đĩa cân treo trên một cán cân cân bằng. Và bây giờ con hãy hình dung và cảm nhận: đĩa cân bên này có thấp hơn đĩa cân bên kia hay không, đồng thời con hoà điệu điều này trong tim. Nếu có thì con biết rằng cái gì đó đang kéo đĩa cân xuống. Rồi sau đó con xem lại giáo lý của các thày về tâm thức nhị nguyên, đó là luôn có hai cực. Con thấy việc đĩa cân bị kéo xuống là do một sự mất cân bằng, mất cân bằng ở cả hai đĩa cân. 

Ở một bên, có một quan điểm mà con rất dính mắc, đó là con chắc chắn mình đúng. Dính mắc này tạo ra những năng lượng rất cô đọng ở tâm trí đến mức năng lượng này có một sức nặng kéo một đĩa cân xuống. Nhưng ở đầu bên kia của cán cân có một cực đối lập, đó là con cũng có một quan điểm mất cân bằng, có một điều gì đó con không nhìn thấy, hay một điều gì đó con không xem là quan trọng hay con xem nhẹ nó. Và vì vậy, đĩa cân bên này không đủ nặng để kéo cán cân bên kia xuống. 

Con cân bằng cán cân bằng cách nào? Ấy, có phải cách giản dị nhất là con lấy bớt ở một bên và thêm vào bên kia cho đến khi cả hai bên cân bằng không? Vì ở đây thày không nói về tư duy xám của việc thỏa hiệp, hay con cần phải dễ thương, đáng yêu và tốt bụng với tất cả mọi người. Thầy đang nói về phân biện Ki-tô đích thực là con sẵn lòng nhìn vào sự mất cân bằng ở cả hai bên và chỉnh lại sự mất cân bằng này bằng cách vươn tới tâm Ki-tô. Đây thật sự là những giáo lý và công cụ đầy đủ mà các thày đã trao cho con để đạt được sự phân biện này. Con có thể xem xét thái độ và những tin tưởng của con về cuộc đời rồi điều chỉnh lại chúng bằng cách dùng cột trụ ở giữa cán cân đang giữ hai đĩa cân. Đó là cột trụ Ki-tô được neo ở tảng đá Ki-tô. 

Con thấy đấy, đây là tính nhất thể nơi cột trụ thẳng đứng này và không điều gì có thể làm nó lung lay vì nó sẽ không nghiêng qua bên này hay bên kia. Vì vậy, nó là điểm an trụ. Cái cân, cái đĩa cân đang treo trên một cái cán nằm ngang được tảng đá Ki-tô bất động giữ cân bằng ngay tại tâm điểm. Nhưng thanh ngang đó giữ được hai đĩa cân trong bao lâu? 

5.7. Một ý niệm bản ngã mới qua sự quân bằng

Con yêu dấu, các thày đã nói con đầu thai lần đầu trên trái đất với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm. Bản ngã này so ra quá hạn hẹp đến mức con thật sự không thể đi tới cả hai phía của cán cân, điều này có nghĩa là con không thể trở nên mất cân bằng. Nhưng ngược lại, con lại có một ý niệm tự nhận biết rất hạn hẹp; vậy thì làm sao con mở rộng ý niệm tự nhận biết lên đến tầng 144 được? Đó là bằng cách mở rộng cán cân cuộc sống cá nhân của con theo chiều ngang. 

Cán cân càng dài thì ý niệm bản ngã của con càng rộng, ý niệm bản ngã của con càng bao la thì con càng đến gần tầng 144. Nhưng con yêu dấu, khi con nhìn vào một hình học đơn giản, hình học đòn bẩy đơn giản, thì con thấy khi cái cán nằm ngang trở nên càng lúc càng dài, thì mỗi bên tạo thành một đòn bẩy, có nghĩa là giờ đây chỉ cần một ít trọng lượng cũng khiến cán cân mất cân bằng. 

Điều này có nghĩa là gì? Nghĩa là khi con ở những tầng thấp hơn của đường tu, chẳng hạn như tầng 48 và những tầng cao hơn một chút, con có thể cho phép mình có những quan điểm hơi cực đoan. Con vẫn còn non trẻ, con đang trải nghiệm và con cần thử nghiệm nhiều điều khác nhau để xem cái nào hiệu quả, cái nào không. Không có gì sai ở đây, giống như con thấy ở trẻ nhỏ, chúng bày tỏ những gì chúng nghĩ về điều này hay điều kia của cuộc sống một cách rất dứt khoát, rất chắc chắn, nhưng đây là điều tự nhiên mà trẻ nhỏ thường làm. 

Nhưng con cũng thấy trong nhiều trường hợp khi người ta trưởng thành hơn, họ dẫu sao đã điều tiết được phần nào cái nhìn của mình và nhận biết là có nhiều cách khác nhau để nhìn một sự việc và tất cả các cách nhìn này đều có giá trị trong những hoàn cảnh nào đó. Con có một quan điểm sống tinh tế hơn, cân bằng hơn, rộng lớn hơn. Và đây là điều thày đang tìm cách dạy con. 

Con càng đến gần những tầng tâm thức cao hơn thì việc giữ được trạng thái cân bằng lại càng quan trọng. Vì vậy, ngay cả một sự mất cân bằng nhỏ trong quan điểm sống của con cũng có thể tạo ảnh hưởng khiến một đĩa cân bên này hạ xuống và nâng đĩa cân bên kia lên. Và con yêu dấu, đó là lý do con cảm thấy như đang dậm chân tại chỗ và không thị hiện được điều gì, bởi vì con quá mất cân bằng. Thày có thể cam đoan với con, một khi cán cân của con cân bằng thì con mới có thể thị hiện cái con tìm kiếm.

5.8. Điều gì ngăn con thị hiện

Con thấy đấy, con có thể sẽ nghĩ theo cách này: Khi con trong lọc bốn thể phàm của con trong cõi vật chất, tức là con đang thực hiện việc này ở phần nửa dưới của hình số 8, điểm nối kết của hình số 8 nằm ở đường phân chia giữa thế giới vật chất – tức bốn tầng của thế giới vật chất – và thế giới tâm linh nơi Hiện diện TA LÀ của con neo trụ. 

Khi con trong lọc bốn thể phàm, con đang tạo ra một động lượng, một chuyển động, đi xuyên từ nửa bên dưới của hình số 8, bắt đầu hướng lên phía trên hình số 8, và bây giờ chuyển động này chạm đến điểm nối kết và tạo ra một động lượng đi lên phần trên của hình số 8. Một khi nó lên đến đây, nó sẽ đạt được cái mà các khoa học gia hy vọng đạt được khi họ tìm kiếm hiện tượng siêu dẫn, tức là một dòng năng lượng có thể di chuyển xuyên qua vật chất mà không bị giữ lại. Hay nói cách khác, xung lực mà con gửi vào cõi tâm linh sẽ được Hiện diện TA LÀ của con nhân lên gấp nhiều lần và sau đó xung lực này sẽ quay trở xuống hình số 8 cho đến khi nó chạm điểm nối kết. 

Nhưng có điều là, con càng tiến gần đến Quả vị Ki-tô thì việc giữ cân bằng càng quan trọng. Vì khi con đạt được Quả vị Ki-tô thì con – tức cái Ta Biết, ý niệm bản ngã, ý niệm nhận biết – ở ngay điểm nối kết của hình số 8. Điểm nối kết này là gì? Đó là một điểm dị biệt. Chỗ mất cân bằng ở đâu trong cái điểm nhỏ xíu này? 

Vì vậy, trong các kiếp trước và kiếp này, con có thể đã dùng những dụng cụ tâm linh và làm nhiều điều tốt để tạo ra dòng chảy quay trở lại từ vũ trụ, từ Hiện diện TA LÀ của con. Nhưng khi con càng đến gần Quả Vị Ki-tô, thì ngay cả một sự mất cân bằng nhỏ nhất cũng có thể ngăn dòng chảy trở lại này đi qua được điểm kết nối để bước vào cõi vật lý. 

Thày có thể nói với con là rất rất nhiều người tâm linh đã tạo nhiều phước đức. Họ đã tạo ra cái gọi là thiện nghiệp ở kiếp này hay các kiếp trước. Nghiệp này sẵn sàng đi vào thị hiện ở cõi vật lý. Nhưng tại sao nó lại không đi vào cõi vật lý được? Bởi vì vẫn còn vài sự mất cân bằng. 

Thật ra trong viễn quan cao hơn của con, trong ý chí cao hơn của con, con không muốn dòng chảy tích cực này quay trở lại cõi vật lý bởi vì sự mất cân bằng sẽ tha hoá và hướng sai dòng ánh sáng này. Vì vậy chính con đã muốn giữ dòng ánh sáng lại, hơn là để nó bị tha hoá. Và đây là những gì thày đang tìm cách giúp con nhìn thấy – đó là nhiều người tâm linh thuần thành đã tạo được dòng chảy quay trở lại có thể đi vào cõi vật lý và biểu lộ ở những hoàn cảnh sống tốt đẹp hơn: như sức khỏe, của cải, cơ hội phụng sự. Nhưng dòng chảy này lại không chọc thủng xuống được vì họ vẫn còn mất cân bằng một chút ít nào đó. 

Đối với nhiều người trong các con, đây là sự mất cân bằng rất nhỏ. Và các thày hy vọng với tất cả các bài thỉnh và giáo lý các thày đã ban ra ở đây, cùng với tất cả các bài thỉnh và giáo lý của bảy tia sáng đã được ban ra thành sách và sẽ được tiếp tục xuất bản trong tương lai, các thày có thể cho con động lực giúp con cuối cùng nhìn thấy được sự mất cân bằng là gì, thấy được nó, buông bỏ được phàm linh đó, buông bỏ được quyết định đó, và rồi công lý hoàn vũ sẽ thị hiện trong cuộc sống của con. 

Con yêu dấu, không phải là thày, Portia, hay các thày trong Hội đồng Nghiệp quả đang giữ lại dòng chảy quay trở lại xứng đáng với nỗ lực của con. Chính con đã giữ nó lại bởi vì con không muốn dòng chảy đó bị ảnh hưởng bởi sự mất cân bằng rất nhỏ mà con vẫn nắm giữ trong bản thể mình. Con có hiểu không? Đó là tại sao các thày nói không có bất công trong vũ trụ.

5.9. Tìm một viễn kiến cao hơn

Hãy kết nối với viễn kiến cao hơn, với bản thể cao hơn của con. Hãy nhìn ra một sự mất cân bằng hay vài sự mất cân bằng vẫn còn tồn tại. Hãy buông bỏ chúng, con yêu dấu. Hãy buông bỏ chúng. Hãy đến tâm điểm hoàn hảo nơi con đứng tại điểm kết nối của dòng chảy hình số 8 thẳng đứng, và con đứng ở ngay tâm điểm của cán cân tâm thức cân bằng nằm ngang, đây là nơi tâm thức con mở rộng nhất, bao quát nhất, nhưng cũng lại cân bằng nhất. 

Đó là điểm tĩnh lặng nơi con có thể biết được: “Tôi tĩnh lặng và tôi là Thượng đế. Và vì vậy, ở trên tôi thế nào thì ở dưới tôi như vậy.” Và đây là sự thị hiện mà con muốn có. Con không muốn một sự thị hiện mất cân bằng ở bên dưới và sự thị hiện này không phản chiếu những gì ở bên trên. Con muốn Trên sao dưới vậy và đây là lý do, dù con không ý thức về điều này, con cầm nén lại không muốn thị hiện để những gì con biểu hiện trong cuộc sống sẽ không thị hiện một cách mất quân bằng, vì điều này sẽ tạo nên một chuỗi hành động-phản ứng khác mà con sẽ phải cân bằng và giải quyết. 

Con không muốn lặp lại những khuôn nếp này, và đó là lý do tại sao chính con đang cầm nén lại không thị hiện, chờ đến khi con đạt được sự cân bằng toàn hảo sẽ mở toang cửa nước lũ của thiên đàng và đem vào thị hiện dòng chảy hồi quy đã được hứa hẹn: “Và Thượng đế phán rằng: con hãy chứng tỏ ngay đây, hầu ta đổ phước xuống cho con đến độ không có chỗ chứa hết.”

Phước lành này có thể đến, nhưng nó sẽ không đến cho đến khi con sẵn lòng cho nó đến bởi vì con biết con đang cân bằng và có thể nhận được phước lành trong một thái độ cân bằng. Con có hiểu không, con yêu dấu? Con là người chỉ trích mình tồi tệ nhất, nhưng ở một khía cạnh khác, con cũng là người thày tốt nhất của mình, vì con là người quyết định khi nào và bằng cách nào con muốn mọi thứ được thị hiện trong cuộc sống của con. 

Chìa khoá là con trở nên có ý thức hơn về thái độ và những tin tưởng nằm ở tiềm thức của con và bất kỳ sự mất cân bằng nào cũng sẽ ngăn cản sự biểu lộ mà con mong muốn. Tất nhiên con cũng sẽ nhìn vào các mong muốn của mình và đảm bảo chúng không bị mất cân bằng, và tất nhiên cũng không bị mất cân bằng bởi tư duy cuồng đại muốn con chỉnh sửa những bất công bằng cách trừng phạt hay huỷ diệt người khác, hoặc muốn Thượng đế trừng phạt hay huỷ diệt họ. Nếu Thượng đế của con là một vị Thượng đế ngồi tận trên trời, giận dữ và muốn báo thù thì ngay đó, con đang có một sự mất cân bằng to lớn sẽ ngăn cản con thị hiện.

5.10. Đi tìm quân bằng sẽ mở lối cho thị hiện

Thị hiện, con yêu dấu. Con hãy suy ngẫm điều này vì không có một thế lực nào trên thiên đàng sẽ giữ lại quyền năng đồng sáng tạo của con. Con là người đang giữ lại quyền năng này, hoặc xuyên qua một sự mất cân bằng khiến con không thể gửi bất cứ gì lên thiên đàng để nó có thể nhân lên nhiều lần rồi quay trở lại, hoặc bởi vì con biết chưa tới lúc con có thể nhận được dòng chảy quay trở lại và sử dụng nó một cách khôn ngoan. 

Vì vậy, thày nói với con một lần nữa: hãy tìm kiếm cân bằng. Vì chỉ trong cân bằng con mới có thể tuôn chảy với Dòng sông sự Sống. Và như các thày đã hy vọng giúp con hiểu được, tuôn chảy chính là sự sống. Con có thể nghĩ về cái cân như một vật cố định, nhưng không phải vậy. Vì như các thày đã giải thích, có một dòng chảy, một dòng chảy ngầm gọi là Dòng sông sự Sống, là Thánh linh. Và bí quyết để tuôn chảy với dòng chảy này là cái cân cá nhân của con phải cân bằng bởi vì khi chúng không cân bằng, con sẽ đi tới đi lui, đi qua đi lại và tốn rất nhiều năng lượng để cưỡng lại dòng chảy của Dòng sông sự Sống, bắt nó phải tới nơi con nghĩ nó phải tới thay vì con buông mình vào dòng chảy, tuôn chảy với nó, và để cho Tánh linh đưa con tới nơi con có thể phụng sự cao nhất. 

Đây là bí quyết để tuôn chảy với Dòng sông sự Sống. Đó là sự phụng sự vô ngã khi con buông bỏ những mong chờ và khao khát chỉ xoay quanh chính mình, mà con nhận ra con là một phần của tâm thức vĩ đại của Thượng đế, con là một phần của tổng thể, và con ở đây để giúp nâng cao tổng thể, chứ không vì những mục đích vị kỷ. 

Vì vậy, vài người trong các con vẫn còn những mong muốn vị kỷ và mơ ước trở nên nổi tiếng, được công nhận, trở nên giàu có, có quyền lực để chỉnh sửa điều này hay điều nọ, hay thức tỉnh người khác hoặc bất kỳ điều gì khác. Và đây là lý do con đang vô thức giữ lại không cho chúng thị hiện bởi vì những mong muốn của con, viễn kiến của con không cân bằng. 

Con yêu dấu, thày thật sự chỉ có một mong muốn dành cho con, đó là thấy con đạt được sự cân bằng để con có thể tuôn chảy với Dòng sông sự Sống, khi con có thể hoàn toàn nhận ra là không có bất công trong vũ trụ và con không bị trói buộc bởi bất cứ điều kiện nào trong cõi vật chất. 

Đây là khi con nhận chân được vật chất. Khi con nhận ra: “Tôi không phải là vật chất và tôi không bị trói buộc bởi vật chất”, thì con đạt được một thực tại mới cho nên con cân bằng. Rồi con mới có thể là Trên sao dưới vậy. 

Con yêu dấu, thày ở Trên. Thầy không neo mình trong bát cung vật lý. Đó là tại sao thày không thể thị hiện công lý thiêng liêng ở dưới này. Thầy không thể trở thành Trên sao dưới vậy vì thày đã thăng thiên. Cái đẹp và cái kỳ diệu khi con chưa thăng thiên là con có thể trở nên Trên sao dưới vậy.

Nhưng con không thể trở nên dưới này như con ở Trên kia khi con còn có những tin tưởng, những ham muốn và ý tưởng mất cân bằng về việc vũ trụ phải vận hành như thế nào. Vì vậy, con hãy sẵn lòng tuôn chảy với Tánh linh ở dưới này vì thày có thể đảm bảo với con, con yêu dấu, Hiện diện TA LÀ quả thật tuôn chảy với Tánh linh ở Trên. Hiện diện TA LÀ không tuôn chảy theo những ý tưởng và mong chờ phàm phu. Nó tuôn chảy với Thánh linh. Và đây là chìa khoá để là Trên sao dưới vậy. 

Vì vậy, thày niêm con trong tình thương của Mẹ Công lý Toàn vũ cho trái đất, vì TA LÀ người mẹ này. Tên thày là Portia. Thày chúc con yên bình khi biết rằng không có bất công nào trong vũ trụ. 

Lưu ý: Bài thỉnh đi kèm với chương này là: Bài ca sự Sống 5 – Biểu hiện

Chương 4 – Chữa lành ở tầng vật lý

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/3/2013.

Con yêu dấu, TA LÀ Mẹ Mary. Thày giữ chức vụ của Mẹ Thiêng liêng cho hành tinh trái đất. Thày cũng giữ mỗi người các con trong trái tim thày. Vì không ai đầu thai trên hành tinh này mà không đi qua Trụ sở của Mẹ Thiêng liêng, không ai đầu thai mà không cần thày, người đứng đầu trụ sở, giữ cân bằng tâm linh cho con ở một mức độ nào đó; vì vậy, thày có thể thành thật nói rằng thày dành tình thương cho riêng từng người trong số gần 7 tỉ người đang đầu thai trên trái đất, và thậm chí thày dành tình thương cho cả những người còn ràng buộc với trái đất cho dù họ giờ đây không đang hiện thân trong cơ thể vật lý.

4.1. Con là một dòng sống

Như các thày đã cố gắng giải thích không chỉ trong bài giảng về Bài ca sự Sống mà còn trong nhiều bài giảng khác mà các thày đã ban ra, đó là cuộc sống quả thật có một mục đích. Con không phải là sản phẩm của một trò chơi may rủi. Con cũng không phải là sản phẩm của một vị Thượng đế giận dữ và phán xét sẽ đày con xuống địa ngục nếu con không vận hành như một người máy và mù quáng tuân theo một giáo điều nào đó hay giới lãnh đạo một giáo hội nào đó trên trái đất này. Con là một người đồng sáng tạo tự do như một cá thể của Thượng đế (God-free), con được tạo ra để biểu lộ khả năng đồng sáng tạo theo cách có thể thậm chí làm ngạc nhiên cả đấng Sáng tạo vì con có khả năng đem lại vẻ đẹp và sự sáng tạo qua dòng sống độc đáo của mình.

Thày biết rằng theo truyền thống, những ai cởi mở với khía cạnh tâm linh của cuộc sống đều tin rằng mình là một linh hồn đầu thai trên trái đất. Nhưng nhiều người cũng tin rằng linh hồn này bất biến và nó được Thượng đế tạo ra, vì vậy nó vốn đã toàn hảo. Giờ đây linh hồn này đang hiện thân trên trái đất và vai trò của nó là quay trở lại trạng thái toàn hảo ban đầu. Nhưng đây không phải là một hình ảnh chính xác.

Sự thật là con đã được tạo ra như một dòng sống, có nghĩa là con được tạo ra với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm, giống như điểm kỳ dị mà các khoa học gia cho đó là điểm khởi đầu của vũ trụ vật lý. Rồi từ ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm đó, con sẽ tăng trưởng sự tự nhận biết để đạt tới ý niệm bản ngã vô biên của đấng Sáng tạo.

Vì vậy, con là một dòng-sống (life-stream), tuôn chảy (streaming) từ điểm kỳ dị nhỏ như cái chấm đến sự nhận biết Tất cả và đây là tiềm năng cao nhất của con. Con không được tạo ra trong một trạng thái toàn hảo bất biến mặc dù cốt lõi của con là sự nhận biết thuần khiết, nhưng con vẫn được tạo ra để mở rộng ý niệm bản ngã của mình cho đến khi con đạt được sự nhận biết của một đấng Sáng tạo có khả năng tạo ra vũ trụ của riêng mình, thế giới hình tướng của riêng mình.

Tại sao thày lại nói con là một dòng sống? Tại sao các thày lại nói con sinh ra để tuôn chảy với Dòng sông sự Sống? Vì bệnh tật là gì chứ? Đó là khi có một cái gì làm nghẽn dòng chảy. Ở mức độ bề mặt, cái gì đó đã làm nghẽn dòng chảy năng lượng tâm linh qua bốn thể phàm mà con đang dùng ở đây trên trái đất này. Nhưng ở mức độ sâu xa hơn, cái gì đó đã làm nghẽn con khiến con không thấy chính mình là một dòng sống.

Có lẽ con nghĩ rằng con đã đến từ một trạng thái tĩnh tại. Có lẽ con nghĩ rằng việc con phải nỗ lực để đạt được một trạng thái tĩnh tại sẽ cứu rỗi con và giờ đây con mãi mãi ngồi chơi đàn hạc trên một đám mây hồng. Đây có thật sự là hình ảnh mà con muốn đạt đến không – trạng thái đứng yên vĩnh viễn? Thày nghĩ là không, vì thày biết con được tạo ra như một dòng sống, liên tục tuôn chảy, liên tục tăng trưởng, liên tục mở rộng, liên tục trở nên hơn nữa, liên tục đồng sáng tạo cái hơn nữa.

4.2. Không có trạng thái sức khỏe toàn hảo

Vậy thì, mấu chốt của khuôn mẫu chữa lành của Bài ca sự Sống là gì? Đó là giúp con trở lại điểm nơi con nhìn nhận chính mình là một dòng chảy, nơi con thấy dòng chảy năng lượng của Thượng đế, dòng chảy của Thánh linh, dòng chảy của Dòng sông sự Sống đang tuôn chảy qua bốn thể phàm mà con sử dụng ở đây, ở trong vũ trụ vật lý trên hành tinh trái đất này. Con hãy là dòng chảy đó, hãy tuôn chảy và hãy để Thượng đế tuôn chảy qua con.

Vậy bệnh tật trong cơ thể vật lý là gì? Đó là một thông điệp cho biết con đã không tuôn chảy ở một tầng cấp nào đó, con đã không tuôn chảy với Dòng sông sự Sống. Vì vậy, quả thật, cách duy nhất thật sự chữa lành, cách chữa lành bền vững, đó là quay lại tuôn chảy.

Hãy nhìn vào việc con đã được nuôi dạy để nhìn nhận cơ thể vật lý như thế nào, đó là con cho rằng con vốn dĩ có một tình trạng sức khỏe bình thường, và các con ít nhiều đã kéo dài khá lâu tình trạng sức khoẻ này trong đời. Con nghĩ nếu giờ đây cơ thể con bắt đầu biểu lộ các triệu chứng bệnh tật thì có cái gì đó đã sai và tất nhiên con cần quay lại tình trạng ban đầu, tình trạng khỏe mạnh cố định đó.

Nhưng thày cần nói với con là không bao giờ có tình trạng khỏe mạnh cố định, mặc dù đã có lúc con không cần lo lắng về cơ thể vật lý của mình vì cơ thể này chỉ thực hiện các chức năng của nó để con có thể tiếp tục sống theo cách con nghĩ cuộc sống vốn dĩ như vậy, vì như các thày đã nói, điều này tùy thuộc vào việc con lớn lên trong một xã hội mong muốn kiểm soát con theo nhiều cách.

Điều thày đang nói ở đây là: Các thày đã cố gắng giải thích điều này từ nhiều góc độ và Chân sư MORE đã trình bày tuyệt vời về điều này ở cuối quyển sách của thày [The Creative Power Within]. Điều thày đang nói ở đây là: Con không thể tái tạo một sức khỏe toàn hảo vì con không thể tái tạo cái con chưa từng có. Con chưa từng có một sức khỏe toàn hảo trong cơ thể vật lý của con. Có thể con đã có một tình trạng sức khoẻ mà con nghĩ con không cần phải lo lắng, nhưng đó không phải là sức khoẻ toàn hảo.

Không có gì đứng yên trong vũ trụ vật lý. Mọi thứ đều đang liên tục tuôn chảy và thay đổi. Chỉ có tự ngã, tâm vỏ ngoài, mới tạo nên hình ảnh mọi thứ đứng yên, tạo nên hình ảnh con có thể sở hữu thứ gì đó, con có thể duy trì và giữ nó qua thời gian. Vì thày đã nói với con, không có gì đứng yên trong vũ trụ vật chất. Các thày đã nói, mọi thứ đều là sự phóng chiếu, mọi thứ được phóng chiếu nhiều lần mỗi giây, và màn hình nơi mọi thứ được phóng chiếu lên cũng liên tục chuyển động. Như con biết trong ngành vật lý và thiên văn học thì toàn bộ vũ trụ đang dãn nở.

4.3. Không có gì trong thế giới này đứng yên

Con nghĩ vũ trụ đang dãn nở như thế nào? Con có thể đã được dạy rằng tất cả thiên hà, hàng triệu và hàng tỉ thiên hà đang liên tục di chuyển tách rời khỏi nhau. Nhưng thày nói với con điều này, một số nhà vật lý đã đến gần với sự thật hơn – mặc dù không hoàn toàn là sự thật – khi họ nói rằng tất cả các thiên hà như thể được vẽ lên bề mặt của một quả bóng và quả bóng này đang được thổi lớn lên, và khi quả bóng to ra, dường như các thiên hà đang di chuyển càng lúc càng xa nhau.

Sự thật ở đây là toàn bộ thế giới hình tướng là một dòng tâm thức đang tuôn chảy. Các thày đã nói con chỉ đang sống trong dòng chảy đó, và trái đất chỉ là một hạt bụi trong vũ trụ vật lý nhưng vũ trụ vật lý này không phải là một vũ trụ đứng riêng rẽ. Thánh linh, Dòng sông sự Sống, là một dòng chảy liên tục. Chính không gian đang liên tục bị kéo dãn và mở rộng, và con cũng đang mở rộng cùng với không gian này. Điều này khiến trái đất xoay xung quanh mặt trời, hay khiến mặt trời xoay xung quanh trung tâm thiên hà của nó, hay khiến toàn thiên hà xoay xung quanh tâm của nó và tất cả các thiên hà chuyển động trong một bản giao hưởng hài hoà của cuộc sống.

Tự ngã của con, các thày giả của những kẻ sa ngã, và ngay cả các giác quan vật lý của con ở mức độ nào đó muốn con nghĩ rằng con có thể nắm giữ một điều gì trong dòng chảy vĩ đại này. Nhưng không có gì đứng yên cả. Tuy nhiên, cái con có thể nắm giữ như cốt lõi bền vững của cuộc sống là nhận biết thuần khiết, nhận biết thuần khiết giúp con thấy mặc dù con đang ở trong bát cung vật lý nơi mọi thứ đang liên tục thay đổi, nhưng con không cần phải liên tục thay đổi theo các hoàn cảnh con thấy xung quanh mình. Thay vào đó, con là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con.

Hiện diện TA LÀ của con không đứng yên. Hiện diện TA LÀ của con đang tuôn chảy cùng với dòng chảy sự sống, và vì vậy nó liên tục thăng vượt chính nó. Do đó, con chỉ cần thay đổi cùng với Hiện diện khi nó thăng vượt chính nó. Con thật sự không cần thay đổi theo các hoàn cảnh đang biến đổi trên trái đất ngoại trừ những thay đổi thẳng hàng với dòng chảy của Dòng sông sự Sống.

4.4. Hai loại thay đổi

Thày có vẻ khó hiểu không? Quả thật thày có ý cho con một câu đố để con nhận ra có hai loại thay đổi. Thày biết con lớn lên mà không biết điều này. Có một sự thay đổi là sự tự thăng vượt, đó là liên tục thăng vượt chính mình và đây là Dòng sông sự Sống. Trong bản thiết kế nguyên thuỷ của các Elohim, trái đất khởi đầu ở một tầng cấp nào đó và sau đó nó sẽ liên tục thăng vượt tầng cấp đó khi những con người hiện thân nơi đây cùng nhau tạo thêm sự dồi dào trong tự nhiên, trong cuộc sống của chính họ và trong xã hội. Đây là sự tuôn chảy với Dòng sông sự Sống, và tất nhiên, con muốn tuôn chảy với nó.

Nhưng như các thày đã nói nhiều lần, con không có hoàn cảnh lý tưởng trên trái đất. Loài người đã tách chính mình ra khỏi Dòng sông sự Sống, và vì vậy đã tạo ra một vòng xoáy riêng của mình. Đây không phải là vòng xoáy hướng thượng dẫn đến sự thăng vượt. Đây là một vòng xoáy hướng hạ đưa con đến việc thu hẹp các cơ hội khiến mọi thứ bắt đầu tan vỡ thay vì tự thăng vượt. Con có thể thấy những thay đổi này trong xã hội, ngay cả trong tự nhiên ở một mức độ nào đó.

Con yêu dấu, con không cần phải thích ứng với những thay đổi này. Tìm cách thích ứng với những thay đổi như vậy làm tắc nghẽn sự sáng tạo của con vì lúc này con rơi vào lời nói dối cơ bản của cái mà Giê-su gọi là ông hoàng thế gian, đó là Tánh linh phải quy thuận những điều kiện hiện hành trong vật chất.

Đây là điều mà Peter đã nói với Giê-su khi Giê-su kể cho môn đệ những gì sắp xảy ra cho mình. Peter từ chối chấp nhận vì ông nghĩ điều này không tốt nhất cho Giê-su. Và Giê-su đã quay lại quở trách Peter nặng nề – thày có thể đảm bảo với con, Giê-su có thể rất nghiêm khắc: “Satan, hãy lui ra đằng sau ta”. Chính con cũng có thể có dịp dùng câu nói này khi con nhận ra con đang phải chịu một sự phóng chiếu từ tâm thức đại chúng, từ ông hoàng thế gian bảo con rằng: “Ngươi phải thích ứng với hoàn cảnh bất toàn hiện nay trên trái đất”.

4.5. Không chấp nhận bất cứ gì là chung cuộc

Con không bắt buộc phải thích ứng với những hoàn cảnh bất toàn trên trái đất, vì làm vậy sẽ chỉ gây nên bệnh tật trong cơ thể con. Tương tự như vậy, nếu bác sĩ nói: “Anh đang mắc một căn bệnh hiểm nghèo” hay “ Căn bệnh của chị không thể chữa được”, thì con không bắt buộc phải chấp nhận điều này. Thày không có ý nói con nên từ chối chữa trị y khoa vì đây không phải là những gì thày dạy. Thày dạy con phải tận dụng những cái sẵn có trong xã hội của con, cả hệ thống chữa trị chính thống lẫn những phương pháp chữa trị tự nhiên toàn diện. Thày không nói con nên từ chối các hình thức chữa trị đang sẵn có mà ngược lại con hãy sử dụng mọi cách theo hướng dẫn của trực giác. Nhưng dẫu sao, đừng chấp nhận hình ảnh cơ thể vật lý của con hiện đã vượt ngưỡng nào đó và không bao giờ có thể khoẻ mạnh như trước.

Nhưng hãy trở lại những gì thày đã nói. Con không thể tái tạo sức khỏe toàn hảo vì sức khỏe bất toàn là dấu hiệu cho thấy con đã tách mình ra khỏi Dòng sông sự Sống. Vì vậy, cách chữa lành là quay lại dòng chảy để thay vì cố tái tạo tình trạng sức khỏe như trước, thì con không cố quay ngược kim đồng hồ, ngay cả không quay ngược đồng hồ của cơ thể. Con đang tuôn chảy vào một trạng thái mới, cao hơn con có thể hình dung.

4.6. Định nghĩa về bệnh tật

Vậy thì, bệnh tật là gì? Các thày đã nói con có một sứ vụ thiêng liêng cá nhân mà con đã thảo ra cùng với các cố vấn tâm linh trước khi con đầu thai. Như thày Quan Âm đã nói, có vài trường hợp trong đó một căn bệnh và việc đối mặt với một căn bệnh, hay chữa lành một căn bệnh là một phần của sứ vụ thiêng liêng của con. Trong hầu hết trường hợp, căn bệnh có những lúc không nằm trong sứ vụ thiêng liêng của con, vì vậy con có thể nhìn căn bệnh như dấu hiệu con không đi theo sứ vụ thiêng liêng của mình. Nhưng ngay cả nếu căn bệnh nằm trong sứ vụ thiêng liêng thì nó vẫn là một dấu hiệu và vì vậy giáo lý toàn vũ mà thày muốn trao cho con đó là bất kỳ một căn bệnh vật lý nào cũng là một chỉ báo cho thấy con cần thay đổi một điều gì đó.

Nếu căn bệnh không nằm trong sứ vụ thiêng liêng thì con nên nhìn căn bệnh như một dấu hiệu cho thấy con không tuôn chảy với sứ vụ thiêng liêng, con không hòa điệu với sứ vụ thiêng liêng. Tại sao lại không? Bởi vì con được nuôi dạy để chấp nhận những hình ảnh sai lầm đang quanh quẩn trong tâm thức đại chúng trên trái đất. Con nghĩ cuộc sống nên là thế này, con nên sống theo cách này, cuộc sống nên biểu lộ theo cách này.

Một khía cạnh trong số các tin tưởng này là con cần có sức khỏe để làm việc kiếm sống. Con phải trải qua một tiến trình rất dài để cuối cùng con có được một việc làm, và rồi con tiếp tục làm công việc này trong 30, 40, hay 45 năm cho đến khi con về hưu. Cơ thể con đơn giản cần thích nghi để thực hiện chức năng này cho dù công việc có căng thẳng đến mức nào.

Nhưng con thấy đấy, trong thời đại ngày nay, có hàng triệu người tâm linh đã hiện thân chính là để giúp đem lại một thời kỳ mới tốt đẹp, tiếp cận cuộc sống một cách tâm linh hơn. Sứ vụ thiêng liêng không quy định con làm việc như một người máy suốt 40 hay 45 năm để làm giàu cho một nhóm thượng lưu đặc quyền không bao giờ biết chia sẻ với người khác.

Vì vậy, khi con đi quá xa những điều nằm trong sứ vụ thiêng liêng thì cơ thể con bắt đầu cảnh báo có điều cần phải thay đổi. Điều này có gì phải ngạc nhiên không? Tất nhiên, nếu con thật sự muốn chữa lành, con cần dùng những công cụ mà các thày đã trao cho con – các bài giảng và các khuôn đúc chữa lành này – để giúp con trở lại với viễn quan rõ ràng về sứ vụ thiêng liêng của con. Và đối với nhiều người điều này có nghĩa là họ cần phải sẵn lòng suy ngẫm lại cuộc đời mình, xem xét lại cuộc đời và cách sống của mình. Có thật sự đúng không khi con làm một công việc căng thẳng trong hơn 40 năm? Có thật sự đây là điều con muốn làm trong đời? Vậy thì tại sao con cho phép mình nghĩ rằng đây là điều con phải làm, nghĩ rằng con bị mắc kẹt trong công việc này và không còn chọn lựa nào khác?

4.7. Luôn luôn có một chọn lựa

Con yêu dấu, một trong những thông điệp cơ bản của bất kỳ giáo lý tâm linh chân chính nào đều là: luôn luôn có một chọn lựa. Luôn luôn có một cách nhìn khác về cuộc đời. Luôn luôn có một cách khác tương tác với cuộc đời. Khi con đi theo phương cách này, tầm nhìn của con sẽ mở rộng hơn bất cứ gì con có thể mơ ước trước đây, vì có lẽ con đã lập tức bác bỏ nó là không thực tế trước khi con cho phép mình xét xem nó có thể trở thành hiện thực hay không.

Nhưng thông điệp của ngành y khoa và các cơ sở y tế trên địa cầu hiện nay là như sau: Con được sinh ra để lao động thật hiệu năng. Nếu có trục trặc với sức khỏe của cơ thể, thì các cơ sở y tế sẽ can thiệp và cố gắng giải tỏa các triệu chứng để con có thể trở về với hình thức sinh sống gọi là hiệu năng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc chữa trị không có hiệu quả. Vì những lý do mà chưa ai hiểu được, căn bệnh vẫn không hết và con phải chấp nhận sống chung với nó, phải uống thuốc suốt đời, hoặc con sẽ chết vì căn bệnh đó.

Khi con ngã bệnh, và nếu có thể trước cả khi con ngã bệnh, con yêu dấu, chẳng phải đây là cơ hội để con suy nghĩ lại cách sống đó, cách sống máy móc đó hay sao? Chẳng phải là sẽ tới lúc trong cuộc đời mình, dù mắc bệnh hay không mắc bệnh, con lùi lại và tái xét điều này hay sao? Vì tất nhiên, nếu cơ thể con mắc bệnh và con phải dừng lối sống đầy căng thẳng để tập trung vào việc chữa trị, thì chẳng phải là con có thời gian và không gian – không gian trong tâm con – để con bước lùi lại và suy ngẫm: “Sứ vụ thiêng liêng của tôi là gì? Tiềm năng cao nhất trong kiếp sống này của tôi là gì? Tôi có thể học được gì? Tôi có thể biểu lộ được điều gì? Món quà nào tôi có thể trao tặng cho mọi người quanh tôi hay cho hành tinh này nói chung? Thượng đế có thể đem lại được điều gì qua tôi trong phần đời còn lại của kiếp sống này?”

Thay vì nghĩ: “Ồ, nhưng tôi không có sức khỏe toàn hảo thì làm sao tôi có thể phụng sự cuộc đời”, thì con hãy tập trung vào việc phụng sự. Rồi con sẽ chấp nhận con có đủ sức khoẻ cần thiết để phụng sự. Con chấp nhận điều này như một thực tế vì nay con đã hoà điệu với dòng chảy của sứ vụ thiêng liêng. Con biết con sống không phải để có một cuộc đời thoải mái, không phải để tiêu thụ thật nhiều, mà con sống để hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của mình.

Con chấp nhận, đòi hỏi và thỉnh gọi cho sức khỏe thị hiện, cho tiền của và các hoàn cảnh bên ngoài mà con cần có để hoàn thành sứ vụ thiêng liêng. Đừng có cái nhìn vướng mắc về các hoàn cảnh bên ngoài mà con phải có. Hãy uyển chuyển để đạt đến một viễn quan cao hơn và sẵn lòng bắt đầu biểu lộ tiềm năng cao hơn của con, sứ vụ thiêng liêng của con bằng những gì con có ngay bây giờ, ngay cả nếu con đang có một căn bệnh vật lý.

Hãy làm điều con chưa từng làm trước đây. Hãy dang tay ra giúp mọi người bằng một cách nào đó. Con có thể tham gia vào quá trình giúp những người cùng mắc loại bệnh như con. Hãy giúp họ hiểu về căn bệnh. Hãy giúp họ hiểu nguyên nhân của căn bệnh, ngay cả nguyên nhân vượt khỏi tầng vật lý, nguyên nhân còn nằm ở các tầng tình cảm, lý trí và bản sắc.

Con hãy tìm cách nâng cao nhận thức về khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Hãy tìm cách chỉ cho người khác làm cách nào đời sống tâm linh đã xoa dịu căn bệnh của con và có thể cũng xoa dịu được họ. Con yêu dấu, thày không mong muốn cho con một khuôn mẫu chỉ dành riêng cho cá nhân con, mà thày đưa ra nhiều chọn lựa để con có thể dùng trong bất cứ hoàn cảnh nào. Luôn có một điều gì đó con có thể làm để vượt lên chính mình. Con có thấy nhiều người khi già đi và mắc bệnh, thì họ càng lúc càng tập trung hơn vào chính mình cho đến khi toàn bộ sự tập trung vào cuộc đời trở nên hạn hẹp đến độ hầu như không ai có thể liên hệ với họ được nữa? Vậy thì mục đích của việc đầu thai là gì nếu con không đặt tập trung ra ngoài bản thân? Làm sao con có thể tuôn chảy với sứ vụ thiêng liêng nếu con chỉ chú tâm vào cái ngã hẹp hòi? Sứ vụ thiêng liêng của con là tìm cách nâng cao tất cả sự sống, bao gồm cả chính con nhưng không phải chỉ một mình con.

4.8. Bí quyết là tuôn chảy

Vậy thì đây là bí quyết, con yêu dấu: Hãy tuôn chảy với cuộc sống. Từ nơi con đang đứng, hãy lập tức tuôn chảy vào thể chất lành mạnh hơn. Rồi tuôn chảy vào sức khoẻ tốt hơn, rồi lại tuôn chảy vào sức khoẻ tốt hơn nữa. Hãy tuôn chảy vào một phản ứng tốt hơn, rồi lại tuôn chảy vào một phản ứng tốt hơn nữa. Hãy tuôn chảy vào một phản ứng dựa trên tình thương hơn là dựa trên sợ hãi. Hãy tuôn chảy vào sự biết ơn. Hãy tuôn chảy vào sự biết ơn cơ hội được sống, được tự nhận biết, được có một cơ thể vật lý qua đó con có thể biểu đạt một điều gì. Hãy tuôn chảy, con yêu dấu. Hãy thay đổi cách con nhìn cuộc đời. Hãy thay đổi cách con nhìn thực tại.

Hãy dùng bài thỉnh của Bài ca sự Sống. Hãy dùng khía cạnh vật lý của bài thỉnh mà thày đã giới thiệu để kêu gọi sức khỏe toàn hảo của cơ thể biểu lộ trong cõi vật lý. Các bộ phận, các hệ thống trong cơ thể, các tế bào và các nguyên tử, tất cả hãy biểu lộ sự toàn hảo. Hãy biểu lộ ngay. Hãy nhìn chúng đang biểu lộ sự toàn hảo. Hãy chấp nhận chúng đang biểu lộ sự toàn hảo. Hãy chấp nhận chúng có khả năng biểu lộ sự toàn hảo. Hãy chấp nhận chúng đang toàn hảo.

Như thày Giê-su đã nói: “Con có tin ta có quyền năng làm được điều này không?” Con có tin Ki-tô trong con, Thượng đế trong con, Hiện diện TA LÀ có quyền năng thị hiện sức khỏe con cần để hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con không? Nếu con không tin, con hãy thay đổi quan điểm của mình đi. Con hãy để tâm đến việc thay đổi cảm thể, trí thể và bản sắc thể của con, vì khi con làm sạch trí thể khỏi sợ hãi và nghi ngờ, khi con làm sạch cảm thể khỏi bối rối và ngờ vực, khi con làm sạch bản sắc thể khỏi tin tưởng con là một con người bị giới hạn bởi những hoàn cảnh vật lý, thì con sẽ biết sự thật mà các thày đã dạy: đó là thế giới vật lý, bao gồm cả cơ thể vật lý, chỉ là một ảo ảnh. Sự cứng đặc đó đều là ngụy trang. Không có gì là trường tồn và cơ thể vật lý của con đang được tái tạo nhiều lần mỗi giây. Vậy tại sao lại không thể tái tạo một cơ thể cho có sức khỏe toàn hảo hay một cơ thể với diện mạo và chức năng tươi trẻ hơn?

Điều này có thể làm được. Điều này có thể làm được, nhưng nó chỉ có thể xảy ra qua bốn tầng của tâm con. Vì vậy, nếu con tin điều này không thể xảy ra thì con sẽ chặn không cho nó biểu lộ.

Con có quyền tự quyết khi cho phép những tồn đọng ở lại trong bốn thể thấp của con, và con cũng cho phép những tồn đọng đó ngăn chặn sự biểu lộ những điều trong sứ vụ thiêng liêng của con liên quan đến sức khỏe, tiền của, hoàn cảnh bên ngoài của con. Chỉ có con mới có thể ngăn chặn sự biểu lộ bằng những tin tưởng mà con không dám chất vấn, bằng những nghi ngờ, bằng sự sợ hãi, bằng sự giận dữ và các cảm xúc tiêu cực, bằng sự vô ơn, bằng sự bi quan và không sẵn lòng tuôn chảy với cuộc sống, để thay đổi như cuộc sống cần thay đổi khi Hiện diện TA LÀ của con muốn biểu đạt một thị hiện cao hơn. Chỉ có con mới có thể ngăn chặn sự thị hiện đó.

4.9. Quyết định con sẵn sàng thay đổi

Thày không nói điều này để khiến con cảm thấy tồi tệ và cho con thêm gánh nặng tội lỗi. Thày nói điều này để khuyến khích con lấy quyết định con sẵn lòng thay đổi, thay đổi thái độ và viễn quan của con vì thày tin con nhận thấy được những điều này có khả năng thay đổi cho dù chuyện gì xảy ra ở tầng vật lý. Con có khả năng thay đổi. Con có khả năng luôn luôn thay đổi.

Vì vậy con hãy quyết định: “Tôi sẵn lòng thay đổi”, và con hãy xin thày hay bất cứ đại diện nào khác của Mẹ Thiêng liêng: “Xin hãy giúp con thay đổi. Xin hãy giúp con thấy con có thể thay đổi như thế nào”. Khi Giê-su còn nhỏ và đang trưởng thành, thày đã giữ niệm tinh khôi cho Giê-su và giữ niệm tinh khôi cho tiềm năng Ki-tô và tiềm năng sứ vụ của Giê-su. Lúc đó, thày không biết tường tận về tiềm năng này nhưng thày biết vài điều trong đó và thày đã giữ viễn quan cho Giê-su. Thày cũng giữ viễn quan cho từng người trong các con. Thày sẽ dạy con cách giữ niệm tinh khôi cho chính mình nếu con xin thày, và nếu con sẵn lòng buông bỏ, ngừng lại, không nắm giữ những viễn quan sai lầm mà con đã chấp nhận khi con sống ở kiếp này hay ở nhiều kiếp trước.

Thày là đại diện của Tia Thứ Năm – tia của viễn kiến. Thày sẽ cho con một viễn kiến cao hơn nếu con sẵn lòng nhìn vượt quá tầm nhìn giới hạn hiện nay của con. Nếu không có viễn kiến, loài người sẽ diệt vong. Nếu không có viễn kiến, cơ thể vật lý sẽ chết. Nếu không có viễn kiến, cảm xúc sẽ chết. Nếu không có viễn kiến, tư tưởng sẽ chết. Nếu không có viễn kiến, bản sắc, các ngã sẽ chết. Vì nếu không có viễn kiến, con không thể thăng vượt tự ngã và khi không thể thăng vượt con sẽ bị huỷ diệt bởi cái mà các thày gọi là quy luật thứ nhì của nhiệt động học hay cơn thịnh nộ của nữ thần Kali, hay sức mạnh của thần Shiva, hay ngọn lửa tâm linh đốt cháy mọi thứ đứng yên, mọi thứ không thăng vượt.

Con hãy nhìn vào ngọn lửa đang cháy trong lò sưởi. Hãy nhìn gỗ đang chuyển hoá thế nào, nhìn hình tướng vật lý dường như khá cứng đặc đó được chuyển hoá lên một trạng thái năng lượng cao hơn nơi các nguyên tử rung động với tốc độ cao hơn. Vì vậy, các liên kết phân tử bị phá vỡ và giải phóng các nguyên tử. Một căn bệnh trong cơ thể con là một trạng thái bị cứng đặc trong đó các nguyên tử của cơ thể bị giam trong một khuôn đúc. Bằng việc thỉnh cầu ngọn lửa tâm linh từ các bài thỉnh và bằng việc chuyển dời tâm thức đã giam các nguyên tử trong khuôn đúc đó, con có thể giải phóng các nguyên tử, con có thể giải phóng các tế bào. Nhờ vậy, cơ thể con có thể được tái tạo gần như ngay tức khắc trong một khuôn đúc cao hơn theo viễn quan tinh khôi, niệm tinh khôi mà thày giữ trong tâm, mà Hiện diện TA LÀ giữ cho con. Điều quan trọng là việc con có thể chấp nhận điều gì, con có thể giữ điều gì trong bốn tầng của tâm con. Chỉ có điều đó mới quyết định cái gì sẽ thị hiện trong tầng vật lý.

4.10. Xin sự trợ giúp của Mẹ Mary

Vậy đây là thông điệp của thày: Con hãy học giáo lý của các thày. Con hãy đọc các bài thỉnh. Hãy kêu gọi các thày giúp con chuyển đổi tâm thức. Nhưng trước hết, con hãy làm điều giản dị này: đó là sẵn lòng thay đổi.

Có những người khi mắc bệnh đã nói: “Tôi mất cái gì? Chuyện này có thể tệ hơn đến mức nào?”. Nếu con không còn hy vọng gì nữa, tại sao lại không thử làm một điều hoàn toàn khác mà con chưa từng làm trước đây, và ngay cả nếu con chưa gần cõi chết và may thay trước khi căn bệnh bộc lộ, thì thày hy vọng con có thể thấy nhu cầu cần thử một điều mà con chưa từng làm trước đây: đó là chuyển đổi tâm thức, chuyển đổi cách sống.

Vì vậy, thày quả thật có thể đảm bảo với con khi Giê-su còn nhỏ, nhiều lần thày phải hướng Giê-su ra khỏi con đường tự hoại để quay trở lại con đường tích cực. Thày đôi lúc đã phải khá cứng rắn với Giê-su cho đến khi Giê-su tự mình thấy được sứ vụ trong đời và có thể bắt đầu tự hướng dẫn mình. Thày sẵn lòng làm vậy với con, con yêu dấu, nếu con chịu xin thày, nếu con chịu lắng nghe câu trả lời từ nội tâm khi con tiếp tục đọc các bài thỉnh và học giáo lý của các thày. Thày chắc chắn sẽ tìm ra cách thì thầm vào tai con những gì con cần nghe nếu con sẵn lòng nghe mà không sợ hãi.

Con yêu dấu, không có gì trong bát cung vật lý mà không thể thay đổi. Không có gì không thể thay đổi. Con có nghe thày nói không? Không có gì không thể thay đổi vì không có gì bản thân nó tồn tại mãi mãi. Mọi thứ đều là sự phóng chiếu của một khuôn đúc, một khuôn đúc tư tưởng. Hãy thay đổi khuôn đúc đó và con sẽ thay đổi được cái đó. Đây là luật của Thượng đế.

Con đã không được dạy để hiểu quy luật này nhưng tại sao điều này lại ngăn con không chấp nhận sự thật khi nó được trao cho con? Hãy sẵn lòng chuyển đổi. Hãy đọc các bài thỉnh. Hãy học các giáo lý. Và con sẽ ngạc nhiên khi chẳng bao lâu con nhìn lại đời mình, con kinh ngạc khi thấy con đã thay đổi nhiều thế nào chỉ trong một thời gian ngắn. Con có thể ngạc nhiên khi thấy tình trạng bên ngoài của con thay đổi nhiều thế nào, bao gồm cả sức khoẻ vật lý và tình trạng sung túc, đã thay đổi chỉ trong một thời gian ngắn.

Hãy chứng tỏ với thày và thày sẽ đổ phước lành cho con – các thày, những đại diện của Mẹ Thiêng Liêng, sẽ đổ phước lành cho con – đến độ tâm con không còn chỗ nhận thêm. Nhưng khi con mở rộng tâm ra thì sẽ có chỗ để nhận phước lành và nó sẽ được thị hiện trong cõi vật lý.

Vì TA LÀ: Chân Sư có quyền năng kết đọng. Thày có mặt ở đây để giúp con làm chủ sự kết đọng mà không sợ hãi. Và thày chào tạm biệt con, hy vọng thày có thể liên tục làm việc với con để giúp con chuyển đổi ý niệm bản ngã lên tiềm năng cao nhất được ghi sẵn trong sứ vụ thiêng liêng của con.

TA LÀ Mẹ Mary. Ta là mẹ của đứa trẻ Ki-tô trong con. Đừng quên ta.

Lưu ý: Bài thỉnh đi kèm với chương này là: Bài ca sự Sống 4 – Một thân thể mới

Bài ca sự Sống 8 – Dòng chảy Omega

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Omega và Mẹ Mary, hãy chữa lành bốn thể phàm của con, đặc biệt là xin các thày chuyển hóa ý niệm bản sắc của con để con có thể chấp nhận mình là một phần của Mẹ Thiêng liêng và có được cân bằng toàn hảo giữa hai nguyên lý nam và nữ. Con muốn được chữa lành khỏi mọi bất quân bằng, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Khi đấng Cha và đấng Mẹ hợp nhất,
con thấy đấng Con vươn lên cao ngất.
Quân bình Ki-tô chính là chìa khóa,
đối cực không thể bắt con đày đọa.

Khi con trụ tâm vào cái Một này,
quân bình nội tại, con đạt được ngay.
Hiện diện TA LÀ làm được thấu triệt,
mọi điều nó muốn qua cái Ta Biết.

Khi con quân bình Âm Dương với nhau,
chiến thắng Ki-tô con đạt nhiệm mầu.
Khi con thăng vượt Ma vương hung hiểm,
qua bát chánh đạo con sẽ thăng thiên.

Hành trình Thánh cầu, con đã bước xong,
thử thách vi tế, con đã làm tròn.
Theo thày Giê-su, con buông hồn ma,
Phật Gautama chỉ con an hòa.

Cùng thày Maitreya, con tự do,
Sanat Kumara mừng trò nhỏ.
Alpha Omega hợp nhất nay,
tại Mặt trời Trung ương, con cùng thày.

Điểm nối kết, hình số tám thanh tú,
của cả hai ngài mở cổng hoàn vũ.
Trong đấng Sáng tạo, con nay an trú,
CON LÀ thái cực của Ngài nghìn thu.

Khi con trở về hành tinh trái đất,
một cái Ta mới sinh ra rất thật.
Con biết điều gì tốt cho tất cả,
Ý chí Thượng đế thị hiện lộ ra.

1. Con ở Mặt trời Trung ương

1.1. Nơi đại sảnh của Mặt trời Trung ương,
con ngước lên nhìn cột cao ngàn trượng.
Cảnh tượng trước mặt ôi sao hùng tráng,
nhắc nhở mọi sự chính là ánh sáng.

Ôi Omega, con nay thiền định,
bên ngai của thày, nơi cổng hoàn vũ.
Từ hình số tám, con sinh thanh tú,
Alpha và thày, từ đó con sinh.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.2. Nhìn lên cao vút, bát ngát mái vòm,
nhắc nhở con biết đây là nhà con.
Nơi đây mọi sự bắt đầu người ơi,
Dòng chảy Sự sống Thượng đế tới người.

Ôi Omega, ở nơi linh thánh,
con giang tay ôm phụ mẫu vũ trụ.
Thật là hồng ân, con sao may mắn,
gia nhập cuộc đua hoàn vũ, con tu.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.3. Alpha Omega, ngự trên ngai,
Phát ra âm thiêng của sự sống này.
Âm thiêng bảo đảm hài hòa sống động,
cho tất cả ai hát giai điệu sống.

Omega, nơi Mặt trời Trung ương,
thày dạy sống là niềm vui hoàn vũ.
Con giành chiến thắng, tu là sung sướng,
bắt đầu về nhà, tiến bước trơn tru.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.4. Giữa hai thày là số tám vũ trụ,
điểm nối kết là cánh cổng hoàn vũ.
Ngoài xa hơn nữa đấng Sáng tạo ngụ,
tự nhận biết này, là do ngài phú.

Ôi Omega, nguyên lý của nữ
là cửa đi vào vô thỉ vô biên,
Đồng cảm với thày, âm này con giữ,
con nhận ra rồi bản sắc thiêng liêng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.5. Khi con ngắm nhìn không gian miên viễn,
lời khen ân tạ, tim con vang rền.
Con ngồi ở trên Hình khối Hoàn vũ,
cái Ta tự do tỏa sáng nghìn thu.

Ôi Omega, trong dòng chảy đó,
Sứ vụ Thiêng liêng của mình con rõ.
Tim con giờ sáng như ngọn đèn đỏ,
tình thương chan hòa, mọi người con cho.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.6. Cái Ta tôn kính tác phẩm Thượng đế,
Âm nhạc các Cõi, vang lên siêu thế.
Con thấy ánh sáng lung linh chan hòa,
cùng hòa nhịp với âm thanh con tỏa.

Ôi Omega, Lửa Mẹ vũ trụ,
từ ngọn lửa thày con đã sinh ra.
Con gia nhập vào cuộc chơi hoàn vũ,
chiến thắng Ki-tô công bố gần xa.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.7. Từ sâu trong tim, con khao khát muốn,
tham gia Vũ khúc Hoàn vũ cuồn cuộn.
Con muốn tăng trưởng ý niệm bản ngã,
con nhập dòng khi Thượng đế thở ra.

Ôi Omega, con nay hiểu thật
vì sao con xuống đầu thai trái đất.
Tim con ấp ủ ý định rõ ràng,
giúp hành tinh này cất cánh vượt thăng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.8. Thế giới Hình tướng trải ra trước mặt,
con nhìn xuống dưới vòm trời cao ngất.
Mắt con rơi xuống trái đất hành tinh,
đây chính là nơi con muốn hạ sinh.

Ôi Omega, con khao khát quá,
gia nhập hợp xướng hoàn vũ hát ca.
Tim con bùng cháy ngọn lửa Ki-tô,
ngọn lửa thánh hóa hành tinh xô bồ.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

1.9. Con muốn đem lại Đốm sáng Tánh linh,
cho hành tinh còn tăm tối đắm chìm.
Khi con tăng triển Tánh linh của mình,
trái đất thăng thiên, con giúp thành hình.  

Ôi Omega, tim con rực lên,
đời con bước vào giai đoạn vươn lên.
Xin thày dạy con câu chú bí huyền,
con nâng địa cầu lên cõi thượng thiên.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2. Con giành lại quyền có mặt trên trái đất

2.1. Trong thân rắn đặc, con đã sinh ra,
nên thấy tương phản ôi sao lớn quá.
Nhưng con cố gắng làm hết sức mình,
ánh sáng Thượng đế, con nhân nhiệt tình.

Ôi Omega, con nay thiền định,
bên ngai của thày, nơi cổng hoàn vũ.
Từ hình số tám, con sinh thanh tú,
Alpha và thày, từ đó con sinh.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.2. Nhưng chẳng bao lâu, con đã nhận ra,
mọi người bác bỏ ánh sáng quý giá.
Sao họ chê con, con bị sốc ghê,
Họ chê luôn cả ánh sáng Thượng đế.

Ôi Omega, ở nơi linh thánh,
con giang tay ôm phụ mẫu vũ trụ.
Thật là hồng ân, con sao may mắn,
gia nhập cuộc đua hoàn vũ, con tu.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.3. Họ nói con không được ở trần thế
và đem xuống đây ánh sáng Thượng đế.
Họ nói đây là thế giới ngoại lệ,
con không thể là một phần Thượng đế.

Omega, nơi Mặt trời Trung ương,
thày dạy sống là niềm vui hoàn vũ.
Con giành chiến thắng, tu là sung sướng,
bắt đầu về nhà, tiến bước trơn tru.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.4. Họ nói địa cầu là hang ổ quỷ,
con cảm thấy mình tuyệt vọng cực kỳ.
Họ nói Tánh linh con phải thích nghi,
vì con mắc bẫy hành tinh dị kỳ.

Ôi Omega, nguyên lý của nữ,
cánh cửa đi vào vô thỉ vô biên.
Đồng cảm với thày, âm này con giữ,
con nhận ra rồi, bản sắc thiêng liêng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.5. Họ lên án con ôi sao dữ quá,
lòng tự tin con vỡ ra tơi tả.
Con bắt đầu nghĩ chắc họ đúng rồi,
con bắt đầu nhìn qua mắt nhị đối.

Ôi Omega, trong dòng chảy đó,
Sứ vụ Thiêng liêng của mình con rõ.
Tim con giờ sáng như ngọn đèn đỏ,
tình thương chan hòa, mọi người con cho.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.6. Họ tấn công con, giăng bẫy thật tài,
và một ngày kia con phản công lại,
Ôi hỡi buồn thay, chuyện cũ xảy ra.
con đã phản ứng khi rắn dối trá.

Ôi Omega, Lửa Mẹ vũ trụ,
từ ngọn lửa thày con đã sinh ra.
Con gia nhập vào cuộc chơi hoàn vũ,
chiến thắng Ki-tô công bố gần xa.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.7. Con bắt đầu nghĩ con tới để đánh
lực gian tà đem bóng tối ảo ảnh.
Con quy định rõ cái tốt cái xấu,
chiến thắng về mình, con tin rất sâu. 

Ôi Omega, con nay hiểu thật
vì sao con xuống đầu thai trái đất.
Tim con ấp ủ ý định rõ ràng,
giúp hành tinh này cất cánh vượt thăng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.8. Nhiều kiếp đánh nhau gian khổ lâu dài,
giờ tâm giao tranh, con vứt bỏ lại.
Tâm con chán ngán đấu tranh gớm ghê,
tim con cầu cứu: có gì Hơn thế?

Ôi Omega, con khao khát quá,
gia nhập hợp xướng hoàn vũ hát ca.
Tim con bùng cháy ngọn lửa Ki-tô,
ngọn lửa thánh hóa hành tinh xô bồ.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

2.9. Khi con thét lên con thấy Ki-tô,
thổi vào tim con sự sống mới trổ.
Giờ con bỏ lại tất cả lưới cũ,
mục đích cao hơn, tâm con ấp ủ.

Ôi Omega, tim con rực lên,
đời con bước vào giai đoạn vươn lên.
Xin thày dạy con câu chú bí huyền,
con nâng địa cầu lên cõi thượng thiên.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3. Con giành lại bản sắc thiêng liêng

3.1. Ki-tô phơi bày lời rắn dối trá,
nên con thách thức tiêu chuẩn sa ngã.
Tánh linh của con sẽ không tuân thủ
sa nhân cùng với chuẩn mực phàm phu.

Ôi Omega, con nay thiền định,
bên ngai của thày, nơi cổng hoàn vũ.
Từ hình số tám, con sinh thanh tú,
Alpha và thày, từ đó con sinh.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.2. Tăm tối của họ chỉ là ảo tưởng,
điệu bộ chỉ là ngụy trang gạt lường.
Ki-tô trong con khi được hạ sinh,
con giành quyền sống ở trên hành tinh.

Ôi Omega, ở nơi linh thánh,
con giang tay ôm phụ mẫu vũ trụ.
Thật là hồng ân, con sao may mắn,
gia nhập cuộc đua hoàn vũ, con tu.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.3. Với Ki-tô đây con thấy thực tế,
Mẹ không là thù của con dưới thế.
Nay con bình an với Mẹ trù phú,
vì con buông bỏ phàm linh xưa cũ.

Omega, nơi Mặt trời Trung ương,
thày dạy sống là niềm vui hoàn vũ.
Con giành chiến thắng, tu là sung sướng,
bắt đầu về nhà, tiến bước trơn tru.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.4. Con chấp nhận mình hoàn toàn có quyền,
nâng trái đất vào ánh sáng thiêng liêng.
Con thực biết Mẹ chính là chìa khóa,
nữ tính trong con, con nhận hài hòa.

Ôi Omega, nguyên lý của nữ,
cánh cửa đi vào vô thỉ vô biên.
Đồng cảm với thày, âm này con giữ,
con nhận ra rồi, bản sắc thiêng liêng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.5. Khi con xích gần Tim của Mẹ nhé,
giờ đây con là một phần của Mẹ,
Con tuôn theo Cha trong hơi thở ra,
tăng triển theo Mẹ trong hơi thở vào.

Ôi Omega, trong dòng chảy đó,
Sứ vụ Thiêng liêng của mình con rõ.
Tim con giờ sáng như ngọn đèn đỏ,
tình thương chan hòa, mọi người con cho.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.6. Ánh sáng Mẫu-Vật, con tìm cách nâng,
con mở đường cho tất cả tinh tấn.
Vì nâng cao Mẹ là chìa khóa chính
để cho Tánh linh biến hóa thiêng linh.

Ôi Omega, Lửa Mẹ vũ trụ,
từ ngọn lửa thày con đã sinh ra.
Con gia nhập vào cuộc chơi hoàn vũ,
chiến thắng Ki-tô công bố gần xa.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.7. Tâm con là hạt kim cương không tì,
qua sự trong suốt con thấy chân lý,
rằng con chính là Mẹ ở dưới đây,
tâm của Thượng đế qua con được chảy.

Ôi Omega, con nay hiểu thật
vì sao con xuống đầu thai trái đất.
Tim con ấp ủ ý định rõ ràng,
giúp hành tinh này cất cánh vượt thăng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.8. Vai trò của Mẹ, con chấp nhận mang,
con không bị ai kiểm soát cai quản.
Hiện diện TA LÀ là lực bất bại,
hướng đời con vào con đường lên mãi.

Ôi Omega, con khao khát quá,
gia nhập hợp xướng hoàn vũ hát ca.
Tim con bùng cháy ngọn lửa Ki-tô,
ngọn lửa thánh hóa hành tinh xô bồ.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

3.9. Chấp nhận nữ tính, trong tim bừng dậy,
là chìa khóa của nam tính tràn đầy.
Omega ở Mặt trời Trung ương,
cùng Mẹ-Cha con là một, hằng thường.

Ôi Omega, tim con rực lên,
đời con bước vào giai đoạn vươn lên.
Xin thày dạy con câu chú bí huyền,
con nâng địa cầu lên cõi thượng thiên.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4. Con là Mẹ Thiêng liêng

4.1. CON LÀ Omega ở dưới đây,
uy lực Thượng đế con ban ai nấy.
Đấng Sáng tạo con mãi mãi là Một,
chiến thắng Ki-tô đã đạt xong nốt.

Ôi Omega, con nay thiền định,
bên ngai của thày, nơi cổng hoàn vũ.
Từ hình số tám, con sinh thanh tú,
Alpha và thày, từ đó con sinh.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.2. CON LÀ Omega ở dưới đây,
Minh triết Thượng đế con ban ai nấy.
Alpha-Omega hợp thành hai,
con luôn đeo đuổi quân bình tự tại.

Ôi Omega, ở nơi linh thánh,
con giang tay ôm phụ mẫu vũ trụ.
Thật là hồng ân, con sao may mắn,
gia nhập cuộc đua hoàn vũ, con tu.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.3. CON LÀ Omega ở dưới đây,
Tình yêu Thượng đế con ban ai nấy.
Con Trai đầu lòng giờ hợp thành ba,
Ki-tô trong con hạ sinh cao cả.

Omega, nơi Mặt trời Trung ương,
thày dạy sống là niềm vui hoàn vũ.
Con giành chiến thắng, tu là sung sướng,
bắt đầu về nhà, tiến bước trơn tru.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.4. CON LÀ Omega ở dưới đây,
Tinh khiết Thượng đế con ban ai nấy.
Chung với Thánh linh giờ hợp thành tư,
con luôn Hơn nữa, nếp xưa con từ.

Ôi Omega, nguyên lý của nữ,
cánh cửa đi vào vô thỉ vô biên.
Đồng cảm với thày, âm này con giữ,
con nhận ra rồi, bản sắc thiêng liêng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.5. CON LÀ Omega ở dưới đây,
Viễn quan Thượng đế con ban ai nấy.
Đấng Nữ Thiêng liêng giờ hợp thành năm,
con mừng sống đây cuộc đời hồng thắm.

Ôi Omega, trong dòng chảy đó,
Sứ vụ Thiêng liêng của mình con rõ.
Tim con giờ sáng như ngọn đèn đỏ,
tình thương chan hòa, mọi người con cho.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.6. CON LÀ Omega ở dưới đây,
An bình Thượng đế con ban ai nấy.
Trong sự đối xứng giờ hợp thành sáu,
thánh giá vượt thăng, miên viễn tìm cầu.

Ôi Omega, Lửa Mẹ vũ trụ,
từ ngọn lửa thày con đã sinh ra.
Con gia nhập vào cuộc chơi hoàn vũ,
chiến thắng Ki-tô công bố gần xa.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.7. CON LÀ Omega ở dưới đây,
Tự do Thượng đế con ban ai nấy.
Hợp nhất với bảy Thiêng liêng tuyệt vời,
con thăng thiên lên thiên đàng diệu vợi.

Ôi Omega, con nay hiểu thật
vì sao con xuống đầu thai trái đất.
Tim con ấp ủ ý định rõ ràng,
giúp hành tinh này cất cánh vượt thăng.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.8. CON LÀ Omega ở dưới đây,
con đường Trung đạo, con ban ai nấy.
Cùng với Phật tổ, Bát chánh đạo này,
chúng con soi sáng toàn thể bừng dậy.

Ôi Omega, con khao khát quá,
gia nhập hợp xướng hoàn vũ hát ca.
Tim con bùng cháy ngọn lửa Ki-tô,
ngọn lửa thánh hóa hành tinh xô bồ.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

4.9. CON LÀ Omega ở dưới đây,
gia tốc vượt lên, con ban ai nấy.
Gia tốc chín lần nhân chín, thày truyền,
hành tinh chúng con thực là Linh thiêng.

Ôi Omega, tim con rực lên,
đời con bước vào giai đoạn vươn lên.
Xin thày dạy con câu chú bí huyền,
con nâng địa cầu lên cõi thượng thiên.

Bài ca sự Sống, sinh khí tiếp đầy,
thày rung cùng nhịp mọi trái tim đây.
Âm thanh Linh thánh, thày biến hóa cả,
trái đất biến thành thiên đàng đẹp quá.

TA LÀ ALPHA VÀ OMEGA, TRONG HÌNH SỐ TÁM CỦA SỰ SỐNG

(Tụng niệm 9 lần, 33 lần hay nhiều hơn)

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Omega và Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

Bài ca sự Sống 7 – Dòng chảy tình thương

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Nữ Chân sư Venus và Mẹ Mary, hãy chữa lành bốn thể phàm của con, đặc biệt là xin các thày chuyển hóa khả năng chấp nhận tình thương vô điều kiện của con, và để nó tuôn chảy xuyên qua con. Con muốn được chữa lành khỏi mọi hình thức tình thương có điều kiện, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Khi đấng Cha và đấng Mẹ hợp nhất,
con thấy đấng Con vươn lên cao ngất.
Quân bình Ki-tô chính là chìa khóa,
đối cực không thể bắt con đày đọa.

Khi con trụ tâm vào cái Một này,
quân bình nội tại, con đạt được ngay.
Hiện diện TA LÀ làm được thấu triệt,
mọi điều nó muốn qua cái Ta Biết.

Khi con quân bình Âm Dương với nhau,
chiến thắng Ki-tô con đạt nhiệm mầu.
Khi con thăng vượt Ma vương hung hiểm,
qua bát chánh đạo con sẽ thăng thiên.

Hành trình Thánh cầu, con đã bước xong,
thử thách vi tế, con đã làm tròn.
Theo thày Giê-su, con buông hồn ma,
Phật Gautama chỉ con an hòa.

Cùng thày Maitreya, con tự do,
Sanat Kumara mừng trò nhỏ.
Alpha Omega hợp nhất nay,
tại Mặt trời Trung ương, con cùng thày.

Điểm nối kết, hình số tám thanh tú,
của cả hai ngài mở cổng hoàn vũ.
Trong đấng Sáng tạo, con nay an trú,
CON LÀ thái cực của Ngài nghìn thu.

Khi con trở về hành tinh trái đất,
một cái Ta mới sinh ra rất thật.
Con biết điều gì tốt cho tất cả,
Ý chí Thượng đế thị hiện lộ ra.

1. Tại sao con tới trái đất

1.1. Ôi Tình thương, động cơ Thượng đế cao,
Ôi Tình thương, Quyền Trượng đấng Sáng tạo.
Ôi Tình thương, âm thanh thiêng diệu vợi,
Ôi Tình thương tìm thấy khắp nơi nơi.

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.2. Trong Tình thương, Sanat Kumara
tới trái đất khi nó tối nhục nhã.
Khi hội đồng vũ trụ chịu bó tay,
thày nói rằng: Ta còn hy vọng đây.

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.3. Tình thương thày giúp trái đất tự do,
là ngôi sao tròn sứ mệnh của nó.
Nhiều sinh thể tới trái đất cùng thày,
quên đi rồi gốc Kim tinh xưa ấy.

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.4. Họ tới đây, phụng sự không vị kỷ,
họ nguyện sống trên hành tinh mê si.
Họ đến từ Sao Mai cao thăm thẳm,
xuống hành tinh u tối Tình khô cằn.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.5. Khi mới tới, họ bị sốc lớn nhất,
thấy bao người cười chê Tình thương thật.
Với thời gian, nhiều người quên đi mất,
rồi khuất phục âm mưu rắn không thật.

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.6. Nhưng Venus giúp con thức tỉnh dậy,
bằng cách rót Tình thương chén con đầy.
Con ở đây không để làm bộc nô,
cho những ai bị xích hang Pla-tô*.

* truyện thần thoại ẩn dụ về nô lệ trong hang động của triết gia Hy lạp Plato.

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.7. Con không tới từ cát bụi, chắc rồi,
con sẽ phải hoàn thành sứ mệnh thôi.
Không bao giờ con trở về cát bụi,
vì Tình thương đốt bợn nhơ tiêu rụi.

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.8. Con ngước mắt, nhìn thăm thẳm bầu trời,
thấy Vì sao Tình thương Thượng đế gởi.
Con chấp nhận trở thành sứ giả đây,
của Tình thương giải phóng địa cầu này.

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

1.9. Ôi Venus xin thày xuống duyên dáng,
con muốn thày khai tâm con rực sáng.
Con muốn là cánh cửa mở bao la,
Sanat Kumara xưa kia là.

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2. Con muốn biết tình thương

2.1. Con lùi lại chiêm nghiệm để hiểu thông,
điều được viết trong Cuốn sách sự Sống.
Con thấy rằng những kẻ sa ngã sâu,
không muốn con tìm thấy Tình thương đâu.

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.2. Họ hủ hóa Tình thương quá đỗi sai,
nên Tình thương thật không chạm được ai.
Họ nhìn Tình thương ôi sao sai trật,
nên họ không cảm Tình thương chân thật.

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.3. Ôi Venus, dạy con biết Tình thương,
nay Mẹ ban cho con Tình Thánh thượng.
Xin dạy con, Đại sứ của Tình thương,
vì con luôn muốn Hơn nữa hằng thường.

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.4. Các sa nhân lập ra mưu giả thật,
khiến chúng con quên Tình Thương chân thật.
Chúng chế ra nhiều tiêu chuẩn nhị nguyên,
bỏ vào đó biết bao nhiêu điều kiện.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.5. Khi chúng con quy định các điều kiện,
cái “của tôi”, cái “tôi” liền xuất hiện,
chúng con chìm dưới lằn ranh thiêng liêng,
làm nghẽn đi dòng Tình thương miên viễn.

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.6. Vì Tình thương là cỗ máy vũ trụ.
không bao giờ lùi lại cứ tiến vù.
Tình chân thật chỉ cho hai chọn lựa,
bạn co lại hay tiến cao Hơn nữa.

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.7. Khi lìa xa dòng chảy của Tình yêu,
chúng con mơ sở hữu, ôm thật nhiều.
Lực Kali bảo đảm phá nát nhàu,
tháp Babel chẳng tồn tại dài lâu.

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.8. Khi bị điều kiện giam thì tâm trông
tình chân thật là đe dọa bất công.
Tia Hồng ngọc của Tình sẽ đốt thiêu
điều giam con trong phòng tối tiêu điều.

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

2.9. Tình thương thật muốn giải phóng sự sống,
để mãi chảy với Tình thương lớn rộng.
Và giờ đây tim con ao ước mơ,
xin Tình thương nâng con cao muôn thuở.

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3. Con buông bỏ mọi điều kiện

3.1. Khi điều kiện được con buông bỏ ra,
con khám phá Tình yêu rộng bao la.
Ôi Venus, con cho Tình chân thực.
cùng với Thày con hát mừng hạnh phúc.

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.2. Khi buông bỏ mọi điều kiện trăm điều,
cùng Venus con nhập dòng Tình yêu.
Con thấy Tình là dòng xối chứa chan,
đánh thức con khỏi giấc mộng nhân phàm.

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.3. Con nhìn thấy thế gian là sân khấu,
vai trò con chẳng hơn cái lồng đâu.
Các điều kiện quy định vai trò đó,
nhưng con được thay đổi ý tự do.

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.4. Dù trước đây có là gì chăng nữa,
con giờ đây chọn mình luôn Hơn nữa.
Con buông bỏ mọi điều kiện mắc vướng,
vì con chọn trong ý thức Tình thương.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.5. Con thức tỉnh, sứ vụ thiêng, tuân thủ,
đứng chỗ mình trong kế hoạch hoàn vũ.
Con phục vụ Sanat Kumara,
thày xứng đáng đạt chiến công cao cả.

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.6. Ôi Venus, Mẹ kính yêu chan chứa,
chúng con muốn phục vụ cao hơn nữa.
Khi hòa vào bản tình ca của thày,
con về nhà, mình thuộc về nơi đây.

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.7. Con hoàn thành công việc trên thế gian,
lực Tình thương cho ý chí kim cang.
Tình thương yêu tiêu trừ mọi chướng ngại,
con nhận lãnh vai trò đúng không nài.

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.8. Con thực sự thuộc về đoàn cứu nguy,
do Sanat Kumara chỉ huy.
Nên chúng con sẽ nâng cao thế gian,
bằng chia sẻ món quà Tình thương ban.

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

3.9. Khi không còn duy trì điều kiện chi,
điều con làm không gì là uổng phí.
Mỗi lần con chia sẻ Tình Linh thiêng,
bao ân huệ từ Cao được trao truyền.

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4. Con tự do trong Tình thương

4.1. Ôi Tình thương, ôi đôi mắt diễm lệ,
Ôi Tình thương, mọi điều kiện bị phế.
Ôi Tình thương, tăng trưởng mọi sự sống,
Ôi Tình thương, Hơn nữa, con vun trồng.

Ôi Venus, thày dạy con phục vụ,
con nhìn thày, đẹp kiêu sa hoàn vũ.
Từ Venus, tình thương thày lan tỏa,
hai hành tinh song hành cất tiếng ca.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.2. Ôi Tình thương, nhiều hơn là giấc mơ,
Ôi Tình thương, dòng chảy đốt bợn nhơ.
Ôi Tình thương, con có tự trọng thật,
Ôi Tình thương,  ngây thơ lấy về tất.

Ôi Venus, tình thương là chìa khóa,
trên trái đất, giải phóng tim chai đá.
Ôm chầm lấy tương lai sáng táo bạo,
chuyện hành tinh, viết lại tình chan hòa.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.3. Ôi Tình thương, phá tan đêm tối nhất,
Ôi Tình thương, ban con nội giác thật.
Ôi Tình thương, tỏa sáng rực hoài hoài,
Ôi Tình thương, quyền thiêng của con mãi.

Ôi Venus, Mẹ yêu con từ ái,
tình thương thày trong lọc tim con mãi.
Tình ban xuống, như Bồ câu Thần thánh,
con chính là cửa mở cho tình lành.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.4. Ôi Tình thương, âm vô thinh bao la,
Ôi Tình thương, làm bối rối tự ngã.
Ôi Tình thương, tim con âm vang xa,
Ôi Tình thương, làm kinh ngạc tất cả.

Ôi Venus, dạo nốt nhạc huyền bí,
là thuốc giải của hận thù đố kỵ.
Tim tẩm độc, thày chữa lành tất cả,
câu chuyện tình rất thật thày mở ra.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.5. Ôi Tình thương, tim con là lăng kính,
Ôi Tình thương, chữa chia rẽ bất tịnh.
Ôi Tình thương, cho con thêm lạc quan,
Ôi Tình thương, thực tại thật vẹn toàn.

Ôi Venus, tình đáp ứng nhu cầu,
tình Thượng đế, hạt giống đầu trung hậu.
Hạt tình ơi, nở hoa trái xum xuê,
khắp hành tinh, sóng tình tràn dương thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.6. Ôi Tình thương, cách nhìn rất mới này,
Ôi Tình thương, con leo thang của thày.
Ôi Tình thương, điều con quý thiết tha,
Ôi Tình thương, diễm lệ ôi cao cả.

Ôi Venus, nhạc bầu cõi diễm lệ,
vang bên tai người kính thờ Thượng đế.
Chúng con hát, hiệp một trong huynh đệ,
lời ngợi ca yêu vị thày cứu thế.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.7. Ôi Tình thương là dòng chảy miên viễn,
Ôi Tình thương cho Thánh linh biểu hiện.
Ôi Tình thương, tim con rực sáng ngời,
Ôi Tình thương, ban cho dòng sống mới.

Ôi Venus, chúng con cùng hiệp hòa,
tạ ơn thày Sanat Kumara.
Nhờ thày cứu, hành tinh được đời mới
thoát chiến chinh, tranh chấp, người thảnh thơi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.8. Ôi Tình thương, biển Luân hồi an định,
Ôi Tình thương, thày ra lệnh hòa bình,
Ôi Tình thương, con đồng ý với thày,
Ôi Tình thương, con vô ưu trong thày.

Ôi Venus, giai điệu ngọt bao phủ,
thiêu rụi đi bức màn của nhị đối.
Trầm mình trong âm giai Tình Vũ trụ,
con vượt lên mọi đấu tranh suy đồi.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

4.9. Ôi Tình thương, mưa chữa lành xin tỏa,
xin phơi bày nội lực của tất cả.
Ôi Tình thương, trong giờ hoàn vũ này,
cho chúng con thêm uy lực tràn đầy.

Ôi Venus, sáng chói ánh Sao Mai,
là thiên sứ vũ trụ thày tuôn rải
âm thần thánh giải thoát trái đất này,
bầu hành tinh cất cánh lên thiên thai.

Ôi Venus, dòng phụng sự thiêng liêng,
thày chính là dấu hoàn vũ thánh thiện.
Theo chân thày, con phục vụ vô ngã,
trọn đời mình, con phụng sự tất cả.

OM AH HUM, VENUS GURU PADME SIDDHI HUM

(Tụng niệm 9 lần, 33 lần hay nhiều hơn)

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Nữ Chân sư Venus và Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

Bài ca sự Sống 6 – Trù phú

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Nữ thần Tự do và Mẹ Mary, hãy chữa lành bốn thể phàm của con, đặc biệt là xin các thày chuyển hóa khả năng tự do sáng tạo của con, kể cả khả năng biểu hiện cuộc sống dồi dào. Con muốn được chữa lành khỏi mọi ý niệm nghèo đói và thiếu thốn, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Khi đấng Cha và đấng Mẹ hợp nhất,
con thấy đấng Con vươn lên cao ngất.
Quân bình Ki-tô chính là chìa khóa,
đối cực không thể bắt con đày đọa.

Khi con trụ tâm vào cái Một này,
quân bình nội tại, con đạt được ngay.
Hiện diện TA LÀ làm được thấu triệt,
mọi điều nó muốn qua cái Ta Biết.

Khi con quân bình Âm Dương với nhau,
chiến thắng Ki-tô con đạt nhiệm mầu.
Khi con thăng vượt Ma vương hung hiểm,
qua bát chánh đạo con sẽ thăng thiên.

Hành trình Thánh cầu, con đã bước xong,
thử thách vi tế, con đã làm tròn.
Theo thày Giê-su, con buông hồn ma,
Phật Gautama chỉ con an hòa.

Cùng thày Maitreya, con tự do,
Sanat Kumara mừng trò nhỏ.
Alpha Omega hợp nhất nay,
tại Mặt trời Trung ương, con cùng thày.

Điểm nối kết, hình số tám thanh tú,
của cả hai ngài mở cổng hoàn vũ.
Trong đấng Sáng tạo, con nay an trú,
CON LÀ thái cực của Ngài nghìn thu.

Khi con trở về hành tinh trái đất,
một cái Ta mới sinh ra rất thật.
Con biết điều gì tốt cho tất cả,
Ý chí Thượng đế thị hiện lộ ra.

1. Con buông bỏ sự ghét hận Mẹ

1.1. Ôi Mẹ Tự do Hoàn vũ chở che,
không tình nào cao hơn tình của mẹ.
Vượt qua thiếu thốn, nghèo nàn  đằng đẵng,
con đi theo Mẹ với tâm sốt sắng.

Ôi Mẹ Tự do, cho con thoát khỏi
lời nguyền của rắn muốn con đói nghèo.
Con không trách mẹ vì đời còm cõi,
ôi Mẹ Chân phước, con xin về theo.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.2.  Con muốn đi tìm hợp nhất nguồn cội,
nhưng con lại ăn trái cấm nhị đối.
Khi con tin theo mưu mô mãng xà,
thực tại chân lý, con quên tất cả.

Ôi Mẹ Tự do, từ xa không ngại,
con xuống nơi đây, muốn tiến Hơn hoài.
Con thấy trù phú là dòng nước thánh,
tâm thức dồi dào, con tăng triển nhanh.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.3. Và bất thình lình, thế gian thay đổi,
quả thực rất lạ, đời con đen tối,
Nghèo khó ập vào, Mẹ như có vẻ
chỉ muốn phạt con, tiếng than đêm hè.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày gian dối,
mọi điều giới hạn không buộc con nổi.
Ánh sáng Mẫu-Vật không chống lại con,
nó ban trù phú rất thật viên tròn.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.4. Tấm gương vũ trụ phản chiếu thật thà,
bất cứ điều gì con phóng chiếu ra.
Bây giờ mọi chuyện đều xấu nát tan,
nên con cảm thấy tội lỗi ngút ngàn.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày mưu dối,
sa nhân phóng chiếu từ tâm tăm tối.
Ôi Mẹ Hoàn vũ, nay con nhìn rõ,
Mẹ không chống con, cho con ấm no.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.5. Khi con cố gắng bù đắp chịu đựng,
thì con tạo ra cái ngã phản ứng.
Cái Ta Biết thấy như trong địa ngục,
trong cái vỏ nhỏ, con nay trốn núp.

Ôi Mẹ Tự do, mắt con mở to,
dối gian của rắn, con nay bác bỏ.
Cõi của Mẹ đây, con ôm hoài hoài,
hòa cùng với Mẹ, Cha cầm bánh lái.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.6. Giờ đây tự ngã điều hành ra lịnh,
con bước ra ngoài dòng sống thiêng linh.
Mẹ cứ trả về, làm con sính vính,
con cảm thấy như Mẹ tấn công mình.

Ôi Mẹ Tự do, bốn thể phàm con
là chén thánh nhận ánh sáng sạch trong.
Mẹ gửi qua con giai điệu ngàn thu,
quà tặng thiêng liêng Tự do Hoàn vũ.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.7. Con cảm thấy mình lang thang thế gian,
thường mong về nhà tìm lại bình an.
Con cảm thấy mình bị lỡ chuyến tàu,
với Mẹ con chỉ cảm thấy thù sâu.

Ôi Mẹ Tự do, cánh cửa mở ra,
giai điệu Hơn Nữa, con theo thiết tha.
Mẹ ban ánh sáng, luân xa con mới,
dòng thác tình yêu tuôn chảy đời đời.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.8. Chớp sáng lóe lên ôi quá bất ngờ,
Mẹ Tinh tú đang tỏa sáng rực rỡ.
Đây Mẹ Tự do, con vui mừng đón,
Ánh sáng Ki-tô Mẹ gửi cho con.

Ôi Mẹ Tự do, dòng chảy ngọt ngào,
mẹ ban tất cả đời sống dồi dào.
Con dang vòng tay đón nhận quà mẹ,
Áo Vàng mẹ dệt, tình mẹ chở che.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

1.9. Nay con không còn mù lòa chia rẽ,
con không thể nào chối bỏ tình Mẹ.
Mẹ cho con thấy con có thể về,
khi con đốt xong cây cầu ngã thể.

Ôi Mẹ Tự do, thuốc mẹ ban ra,
giải phóng người nghèo mệt nhoài vật vã.
Đám người nằm rúc, mẹ giải thoát qua
Bài Hát Tự do, tình mẹ chan hòa.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2. Con chấp nhận sung túc của Mẹ

2.1. Ôi Mẹ Tự do Hoàn vũ phúc lành,
con thoát ra rồi dối gian của rắn.
Con thấy Mẹ là bạn hiền muôn thuở.
con tin chắc rằng Mẹ sẽ phù trợ.

Ôi Mẹ Tự do, cho con thoát khỏi
lời nguyền của rắn muốn con đói nghèo.
Con không trách mẹ vì đời còm cõi,
ôi Mẹ Chân phước, con xin về theo.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.2. Khi con vượt thăng tranh chấp bất hòa,
Mẹ sẽ ban cho đời sống dư dả.
Vì Mẹ rất muốn thị hiện cõi trần,
điều gì tốt nhất cho con được nhận.

Ôi Mẹ Tự do, từ xa không ngại,
con xuống nơi đây, muốn tiến Hơn hoài.
Con thấy trù phú là dòng nước thánh,
tâm thức dồi dào, con tăng triển nhanh.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.3. Nhưng muốn nhận được sung túc dư dả,
con cần tìm lại ngây thơ êm ả.
Vì tâm trẻ thơ là chìa khóa để
con hòa mình theo biến hóa Thượng đế.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày gian dối,
mọi điều giới hạn không buộc con nổi.
Ánh sáng Mẫu-Vật không chống lại con,
nó ban trù phú rất thật viên tròn.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.4. Vì nếu con muốn lừa gạt hư xấu,
thì chẳng bao giờ thành công được đâu.
Nếu dùng bạo lực xâm nhập nước Trời,
con tách mình khỏi Cội nguồn diệu vợi,

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày mưu dối,
sa nhân phóng chiếu từ tâm tăm tối.
Ôi Mẹ Hoàn vũ, nay con nhìn rõ,
Mẹ không chống con, cho con ấm no.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.5. Nhưng khi nô đùa với tâm trẻ thơ,
con đồng sáng tạo ngày mới tinh mơ.
Con giải thoát đây ánh sáng Mẫu-Vật,
để nó cho con sung túc rất thật.

Ôi Mẹ Tự do, mắt con mở to,
dối gian của rắn, con nay bác bỏ.
Cõi của Mẹ đây, con ôm hoài hoài,
hòa cùng với Mẹ, Cha cầm bánh lái.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.6. Khi Ki-tô trong con kềm cơn bão,
thì sung túc đến, thường tình làm sao.
Khi Elohim phác họa thế gian,
các thày sinh tạo khuôn đúc thập toàn.

Ôi Mẹ Tự do, bốn thể phàm con
là chén thánh nhận ánh sáng sạch trong.
Mẹ gửi qua con giai điệu ngàn thu,
quà tặng thiêng liêng Tự do Hoàn vũ.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.7. Khi con đeo đuổi tâm như Ki-tô,
vườn cây của con hoa trái nở rộ.
Con thực nhận được sung túc Thượng đế,
mà không vướng vào đồi bại trần thế.

Ôi Mẹ Tự do, cánh cửa mở ra,
giai điệu Hơn Nữa, con theo thiết tha.
Mẹ ban ánh sáng, luân xa con mới,
dòng thác tình yêu tuôn chảy đời đời.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.8. Khi con buông bỏ tư duy áp chế,
trái tim con là Chén thánh tràn trề.
Khi con nâng cao chén thánh thanh khiết,
đời sống Ki-tô của con rất thiệt.

Ôi Mẹ Tự do, dòng chảy ngọt ngào,
mẹ ban tất cả đời sống dồi dào.
Con dang vòng tay đón nhận quà mẹ,
Áo Vàng mẹ dệt, tình mẹ chở che.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.9. Vì khi bây giờ con mang thánh giá,
phàm linh chết đi, không mất gì cả.
Với tâm Ki-tô, từ lửa tái sinh,
viễn kiến của con nâng cao hoàn chỉnh.

Ôi Mẹ Tự do, thuốc mẹ ban ra,
giải phóng người nghèo mệt nhoài vật vã.
Đám người nằm rúc, mẹ giải thoát qua
Bài Hát Tự do, tình mẹ chan hòa.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3. Con nhận được ý của Mẹ

3.1. Ôi Mẹ Tự do, ôi Mẹ chân phước,
phụng sự hoàn vũ con tự do bước.
Mẹ thiêng Sung túc muốn ban quà đây,
cho mọi người sống trên hành tinh này.

Ôi Mẹ Tự do, cho con thoát khỏi
lời nguyền của rắn muốn con đói nghèo.
Con không trách mẹ vì đời còm cõi,
ôi Mẹ Chân phước, con xin về theo.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.2. Khi con không muốn sở hữu, làm chủ,
Con hòa điệu vào Âm của Hoàn vũ.
Khi con trở thành cánh cửa mở thông,
con hồi phục lại Dòng chảy sự Sống.

Ôi Mẹ Tự do, từ xa không ngại,
con xuống nơi đây, muốn tiến Hơn hoài.
Con thấy trù phú là dòng nước thánh,
tâm thức dồi dào, con tăng triển nhanh.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.3. Khi con nhìn đời qua mắt đơn nhất,
con sẽ nhận được ý mới rất thật.
Con nay thăng vượt cảm nhận thiếu thốn,
tình Mẹ hàn gắn mọi vết thương hồn.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày gian dối,
mọi điều giới hạn không buộc con nổi.
Ánh sáng Mẫu-Vật không chống lại con,
nó ban trù phú rất thật viên tròn.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.4. Con nhận hoan hỷ, con cho vui lòng,
trong nhận biết này, từ nay con sống.
Và con nâng cao mọi sự sống đây,
con ngợi ca mãi, tự nhận biết này.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày mưu dối,
sa nhân phóng chiếu từ tâm tăm tối.
Ôi Mẹ Hoàn vũ, nay con nhìn rõ,
Mẹ không chống con, cho con ấm no.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.5. Con gửi đến thày, lòng tri ân sâu,
cho con cơ hội hoàn vũ nhiệm mầu.
Khi con buông bỏ cái cũ dại khờ,
con ngắm nhìn đây tương lai rạng rỡ.

Ôi Mẹ Tự do, mắt con mở to,
dối gian của rắn, con nay bác bỏ.
Cõi của Mẹ đây, con ôm hoài hoài,
hòa cùng với Mẹ, Cha cầm bánh lái.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.6. Khi con trở thành hiệp sĩ Ki-tô,
con yêu tha thiết Ánh sáng Mẹ độ.
Giờ con thanh khiết như chú cừu thiêng,
con là một phần của Mẹ thiêng liêng.

Ôi Mẹ Tự do, bốn thể phàm con
là chén thánh nhận ánh sáng sạch trong.
Mẹ gửi qua con giai điệu ngàn thu,
quà tặng thiêng liêng Tự do Hoàn vũ.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.7. Chúng con hồi phục Dòng chảy thiêng linh,
đem sự Hơn nữa cho trái đất mình.
Đi theo tiếng Mẹ gọi từ ngàn xưa,
chúng con nuôi dưỡng tất cả không chừa.

Ôi Mẹ Tự do, cánh cửa mở ra,
giai điệu Hơn Nữa, con theo thiết tha.
Mẹ ban ánh sáng, luân xa con mới,
dòng thác tình yêu tuôn chảy đời đời.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.8. Bây giờ con ở đúng chỗ của con,
thì Ân sủng Mẹ truyền xuống qua con.
Khi tất cả nhận quà Mẹ huyền diệu,
họ sẽ chuyển đổi từ sợ sang yêu.

Ôi Mẹ Tự do, dòng chảy ngọt ngào,
mẹ ban tất cả đời sống dồi dào.
Con dang vòng tay đón nhận quà mẹ,
Áo Vàng mẹ dệt, tình mẹ chở che.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3.9. Món quà quý nhất có thể chính là
chúng ta đều sẽ vượt thăng sa ngã.
Khi chúng ta nhận chúng mình là một,
Thời đại của Mẹ bắt đầu thật tốt.

Ôi Mẹ Tự do, thuốc mẹ ban ra,
giải phóng người nghèo mệt nhoài vật vã.
Đám người nằm rúc, mẹ giải thoát qua
Bài Hát Tự do, tình mẹ chan hòa.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4. Con chấp nhận thịnh vượng của Mẹ

4.1. Ôi Mẹ Tự do, chân phước bao la,
ban cho thịnh vượng giải thoát tất cả.
Xin cho tinh linh thiên nhiên chữa lành,
xin cho của cải thiên nhiên hiện sanh.

Ôi Mẹ Tự do, cho con thoát khỏi
lời nguyền của rắn muốn con đói nghèo.
Con không trách mẹ vì đời còm cõi,
ôi Mẹ Chân phước, con xin về theo.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.2. Mẹ Trái đất là kho đầy của cải,
quà tặng hoàn vũ, mẹ sinh hơn mãi.
Từ đất sẽ sinh mùa màng dư đủ,
con người không còn khó khăn lam lũ.

Ôi Mẹ Tự do, từ xa không ngại,
con xuống nơi đây, muốn tiến Hơn hoài.
Con thấy trù phú là dòng nước thánh,
tâm thức dồi dào, con tăng triển nhanh.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.3. Không trẻ em nào đói khát ở đây,
không mẹ hiền nào sợ hãi suốt ngày.
Chúng con vượt lên khỏi tâm ích kỷ,
cuộc đời sung túc hôm nay hiển thị.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày gian dối,
mọi điều giới hạn không buộc con nổi.
Ánh sáng Mẫu-Vật không chống lại con,
nó ban trù phú rất thật viên tròn.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.4. Những ai giành phần quá đáng bất công,
coi chừng phán xét Ki-tô lồng lộng.
Hãy cho họ biết số họ tới lúc,
họ phải bỏ ngay vị kỷ phàm tục.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày mưu dối,
sa nhân phóng chiếu từ tâm tăm tối.
Ôi Mẹ Hoàn vũ, nay con nhìn rõ,
Mẹ không chống con, cho con ấm no.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.5. Trái đất tặng cho những ai hiền thật,
tất cả những ai đi tìm hợp nhất.
Chúng con hợp nhất cùng với Ki-tô,
đứng lên đòi hỏi bình đẳng đồng bộ.

Ôi Mẹ Tự do, mắt con mở to,
dối gian của rắn, con nay bác bỏ.
Cõi của Mẹ đây, con ôm hoài hoài,
hòa cùng với Mẹ, Cha cầm bánh lái.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.6. Ôi sao thâm sâu quy luật Thượng đế,
Ánh sáng Mẫu-Vật phải theo luật lệ.
Điều gì chúng con đòi trong tình thương,
Mẹ sẽ hoàn thành nhiệm vụ tận tường.

Ôi Mẹ Tự do, bốn thể phàm con
là chén thánh nhận ánh sáng sạch trong.
Mẹ gửi qua con giai điệu ngàn thu,
quà tặng thiêng liêng Tự do Hoàn vũ.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.7. Ánh sáng của Mẹ chỉ muốn cho ra
muôn vàn quà tặng để tim hát ca.
Nên cùng Ki-tô chúng con thỉnh cầu,
nước Trời hiển lộ, người người hợp tấu.

Ôi Mẹ Tự do, cánh cửa mở ra,
giai điệu Hơn Nữa, con theo thiết tha.
Mẹ ban ánh sáng, luân xa con mới,
dòng thác tình yêu tuôn chảy đời đời.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.8. Quy luật Hoàn vũ, chúng con tùng phục,
mọi trái tim hát, ngợi ca hạnh phúc.
Hành tinh rộn rã, từ nay sẽ là
thiên đàng Thượng đế muốn thấy hiện ra.

Ôi Mẹ Tự do, dòng chảy ngọt ngào,
mẹ ban tất cả đời sống dồi dào.
Con dang vòng tay đón nhận quà mẹ,
Áo Vàng mẹ dệt, tình mẹ chở che.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.9. Ôi Mẹ Tự do, chân phước bát ngát,
giai điệu hoàn vũ của Mẹ con hát.
Chúng con biết mình là một với thày,
cho nên chúng con thanh thản tràn đầy.

Ôi Mẹ Tự do, thuốc mẹ ban ra,
giải phóng người nghèo mệt nhoài vật vã.
Đám người nằm rúc, mẹ giải thoát qua
Bài Hát Tự do, tình mẹ chan hòa.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

OM AH HUM, LIBERTY GURU PADME SIDDHI HUM

(Tụng niệm 9 lần, 33 lần hay nhiều hơn)

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Nữ thần Tự do và Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

Bài ca sự Sống 5 – Biểu hiện

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Portia và Mẹ Mary, hãy chữa lành bốn thể phàm của con, đặc biệt là xin các thày chuyển hóa thế giới quan của con. Xin các thày giúp con buông xuôi mình vào Dòng chảy Hoàn vũ, để con có thể thăng vượt tâm thức thiếu thốn và được Thánh linh đưa con tới các nơi và hoàn cảnh nơi con có thể phụng sự tối đa vào việc nâng cao mọi sự sống. Con muốn được chữa lành khỏi mọi bất quân bình, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Khi đấng Cha và đấng Mẹ hợp nhất,
con thấy đấng Con vươn lên cao ngất.
Quân bình Ki-tô chính là chìa khóa,
đối cực không thể bắt con đày đọa.

Khi con trụ tâm vào cái Một này,
quân bình nội tại, con đạt được ngay.
Hiện diện TA LÀ làm được thấu triệt,
mọi điều nó muốn qua cái Ta Biết.

Khi con quân bình Âm Dương với nhau,
chiến thắng Ki-tô con đạt nhiệm mầu.
Khi con thăng vượt Ma vương hung hiểm,
qua bát chánh đạo con sẽ thăng thiên.

Hành trình Thánh cầu, con đã bước xong,
thử thách vi tế, con đã làm tròn.
Theo thày Giê-su, con buông hồn ma,
Phật Gautama chỉ con an hòa.

Cùng thày Maitreya, con tự do,
Sanat Kumara mừng trò nhỏ.
Alpha Omega hợp nhất nay,
tại Mặt trời Trung ương, con cùng thày.

Điểm nối kết, hình số tám thanh tú,
của cả hai ngài mở cổng hoàn vũ.
Trong đấng Sáng tạo, con nay an trú,
CON LÀ thái cực của Ngài nghìn thu.

Khi con trở về hành tinh trái đất,
một cái Ta mới sinh ra rất thật.
Con biết điều gì tốt cho tất cả,
Ý chí Thượng đế thị hiện lộ ra.

1. Con trong dòng chảy của Mẹ

1.1. Con là một phần trong thân của Mẹ,
con là đứa con của Tim của Mẹ.
Hiện diện của con điều ngự rất vững,
vai trò đúng đắn của mình con ưng.

Ôi Portia, nơi nhập thất của thày,
tình thương Mẹ, thày đón con dang tay.
Bao cuộc thi, con đà hoàn tất đủ,
khuôn nếp cũ, con từ nay buông rũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.2. Con sẽ không còn ngồi im lười biếng,
chẳng một lực nào ru ngủ con yên.
Con giành chỗ đứng trong dòng của Mẹ.
tất cả vấn đề, con vượt nhanh nhẹ.

Ôi Portia, Công lý là tên thày,
giương lên cao Lửa Danh dự Toàn vũ,
Con không còn tham dự trò chơi cũ,
cứ giữ y một cái ngã hoài hoài.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.3. Chuyển động vũ trụ, con thấy nơi nơi,
nên con biết được một thực tại mới.
Cái nhìn nhị nguyên, con bỏ, con chừa,
chẳng còn vấn đề cần con chỉnh sửa.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
một với thày, con tăng trưởng mãi mãi.
Con chính là chén thánh ở nơi đây,
thày ban xuống dòng công lý hoàn vũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.4. Con đang thăng vượt tư duy bạo lực,
cái tự ngã này, không cần bênh vực.
Con thoát khỏi rồi kẻ địch muôn đời,
nhờ con chuyển hướng dòng chảy đúng nơi.

Ôi Portia, cho vũ trụ quân bằng,
tim con hát, niềm hy vọng vĩnh hằng.
Đôi cánh Mẹ bảo bọc con yên ắng,
con là một với tất cả chúng sanh.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.5. Hòa cùng âm thanh vũ trụ con hát,
vật chất không buộc, Tánh linh được thoát.
Giờ con quyết định thay đổi hướng đi,
về với cội nguồn, là nơi bất nhị.

Ôi Portia, thày đem ánh sáng Mẹ,
khỏi đêm tối, giải thoát chúng con nhé.
Lửa Tình thương của thày sáng mãi mãi,
ôm con chặt, Saint Germain và thày.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.6. Không quyết định nào con lấy xưa trước,
khống chế được con, ép con theo bước.
Phàm linh xưa cũ, con bỏ không dính,
tương lai của con, quá khứ không định.

Ôi Portia, thày điều ngự tài hoa,
con cảm nhận trong con sự biến hóa.
Ánh sáng thày là thực tại màu tím,
con tìm ra biến hóa đá luyện kim.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.7. Vì Luật Vũ trụ, thật có quy định,
con có thể thoát khỏi quá khứ mình.
Viễn kiến đơn nhất, con nay tìm ra,
Nữ thần Công lý sẽ không mù lòa.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
con tỉnh mộng, giấc mơ ảo phàm phu.
Gỡ khỏi mắt cái đà tự ngã cũ,
con được đứng cùng các thày vũ trụ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.8. Với mắt quân bình, con thấy hết rồi,
phơi bày ra rõ dối gian nhị đối.
Bớ phàm linh cũ, con hét to lên,
ra lệnh cho chúng, xuất đầu lộ diện.

Ôi Portia, thày đến từ cõi xa,
avatar toàn vũ, thày chính là.
Quyền năng thày vô biên, con trân quý,
ngôi sao thày dìu dắt hành tinh đi.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

1.9. Thay mọi chọn lựa không được quân bằng,
cán cân thăng bằng, con vui chiến thắng.
Con cùng Portia phá khuôn đúc đây,
Tánh linh không chôn trong vật chất này.

Ôi Portia, con tự tin an trú,
con nay là dụng cụ của toàn vũ.
Con xuống đây từ thiên hà gửi tới,
để nâng cao trái đất thăng lên trời.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2. Hòa theo vũ khúc vũ trụ

2.1. Thượng đế không cần phạt con khốn khó,
Công lý Thượng đế muốn con tự do.
Nhưng tự do là tìm thấy quân bình,
để con đạt được tâm Một thiêng linh.

Ôi Portia, nơi nhập thất của thày,
tình thương Mẹ, thày đón con dang tay.
Bao cuộc thi, con đà hoàn tất đủ,
khuôn nếp cũ, con từ nay buông rũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.2. Nhờ vào Portia, thương yêu hướng dẫn,
phàm linh xưa cũ không sao núp ẩn.
Giờ con quân bình cán cân mình đó,
Thánh linh thổi buồm ôi sao thuận gió.

Ôi Portia, Công lý là tên thày,
giương lên cao Lửa Danh dự Toàn vũ,
Con không còn tham dự trò chơi cũ,
cứ giữ y một cái ngã hoài hoài.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.3. Ngọn gió Thánh linh thổi bất cứ đâu,
con thuận đi theo, vì con hiểu thấu.
Thánh linh giờ đây dẫn lối chỉ đường.
tới nơi con cần phục vụ làm gương.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
một với thày, con tăng trưởng mãi mãi.
Con chính là chén thánh ở nơi đây,
thày ban xuống dòng công lý hoàn vũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.4. Không bị trói buộc bởi hoàn cảnh nào,
vũ khúc hoàn vũ, con hòa nhập vào.
Thánh linh chỉ đâu, con vui theo liền,
con tìm cách giúp mọi người tăng triển.

Ôi Portia, cho vũ trụ quân bằng,
tim con hát, niềm hy vọng vĩnh hằng.
Đôi cánh Mẹ bảo bọc con yên ắng,
con là một với tất cả chúng sanh.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.5. Cái Ta Biết là cánh cửa mở to
đón nhận kho tàng mà Hiện diện có.
Khi tặng món quà Tánh linh vun trồng,
con chỉ mong muốn nâng mọi sự sống.

Ôi Portia, thày đem ánh sáng Mẹ,
khỏi đêm tối, giải thoát chúng con nhé.
Lửa Tình thương của thày sáng mãi mãi,
ôm con chặt, Saint Germain và thày.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.6. Phục vụ vô ngã, tan biến cái “ta”,
mất mát bản thân, con không nề hà.
Mục đích cao hơn, con nay tìm lại,
con bỏ lại sau tất cả chướng ngại.

Ôi Portia, thày điều ngự tài hoa,
con cảm nhận trong con sự biến hóa.
Ánh sáng thày là thực tại màu tím,
con tìm ra biến hóa đá luyện kim.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.7. Con nắm lấy ngay cơ hội mở lớn,
để đi sâu vào hợp nhất cao hơn.
Con là một phần Đại đoàn Chưởng giáo,
phụng sự của con quan trọng dường nào.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
con tỉnh mộng, giấc mơ ảo phàm phu.
Gỡ khỏi mắt cái đà tự ngã cũ,
con được đứng cùng các thày vũ trụ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.8. Chân sư với con, cùng toán hăng say,
chuộc lại trái đất cho Thượng đế này.
Sức mạnh các thày, ngọn sóng khổng lồ,
giải thoát con người khỏi hang Plato.*

* truyện ẩn dụ về nô lệ trong hang động của triết gia Hy lạp Plato.

Ôi Portia, thày đến từ cõi xa,
avatar toàn vũ, thày chính là.
Quyền năng thày vô biên, con trân quý,
ngôi sao thày dìu dắt hành tinh đi.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

2.9. Qua con các thầy trao tặng ánh sáng,
trên sao dưới vậy, hồng ân đầy tràn.
Chúng con tỏa lan Ánh sáng Hoàn vũ,
nhờ vậy chúng con nâng cao vũ trụ.

Ôi Portia, con tự tin an trú,
con nay là dụng cụ của toàn vũ.
Con xuống đây từ thiên hà gửi tới,
để nâng cao trái đất thăng lên trời.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3. Con thỉnh cầu Công lý Vũ trụ

3.1. Nếu bị sa nhân tấn công ruồng bỏ,
con phản chiếu lại năng lượng của họ.
Vì con hợp lực với đoàn người lành,
nên con chìa má bên kia không đánh.

Ôi Portia, nơi nhập thất của thày,
tình thương Mẹ, thày đón con dang tay.
Bao cuộc thi, con đà hoàn tất đủ,
khuôn nếp cũ, con từ nay buông rũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.2. Con nghe tiếng gọi, đừng chống quỷ dữ,
sa ngã vũ trụ, con thoát thật sự.
Chúng con rộng mở cơ hội chân thật,
cho những ai đó đứng ngoài hợp nhất.

Ôi Portia, Công lý là tên thày,
giương lên cao Lửa Danh dự Toàn vũ,
Con không còn tham dự trò chơi cũ,
cứ giữ y một cái ngã hoài hoài.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.3.  Những kẻ tràn đầy chất độc của rắn,
Ki-tô trong con hãy xử họ nhanh.
Xin cho trái đất thoát lực kéo xuống,
của bọn người đầy nọc độc ngông cuồng.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
một với thày, con tăng trưởng mãi mãi.
Con chính là chén thánh ở nơi đây,
thày ban xuống dòng công lý hoàn vũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.4. Ôi Portia ban Công lý Hoàn vũ,
Bài ca Công lý, thiên thần hát ru.
Ôi Portia mang sa nhân ra xử,
trái đất thoát khỏi âm mưu quỷ dữ.

Ôi Portia, cho vũ trụ quân bằng,
tim con hát, niềm hy vọng vĩnh hằng.
Đôi cánh Mẹ bảo bọc con yên ắng,
con là một với tất cả chúng sanh.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.5. Vì bọn quỷ của Ma vương bị trói,
hòa bình hợp nhất tràn lan các cõi.
Giờ tâm của con chứa không sao xuể,
mừng Saint Germain, niềm vui tràn trề.

Ôi Portia, thày đem ánh sáng Mẹ,
khỏi đêm tối, giải thoát chúng con nhé.
Lửa Tình thương của thày sáng mãi mãi,
ôm con chặt, Saint Germain và thày.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.6. Con ở chính nơi nối kết dòng chảy,
từ Thượng đế xuống tất cả dưới này.
Trôi theo số tám vũ trụ ngay đây,
con rung động theo ánh sáng của thày.

Ôi Portia, thày điều ngự tài hoa,
con cảm nhận trong con sự biến hóa.
Ánh sáng thày là thực tại màu tím,
con tìm ra biến hóa đá luyện kim.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.7. Con thấy hiện ra Sứ vụ thiêng linh,
ôi sao diễm lệ con mãi ngắm nhìn.
Con thấy chỗ mình trong kế hoạch lớn,
thu hẹp khoảng cách Thượng đế, con người,

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
con tỉnh mộng, giấc mơ ảo phàm phu.
Gỡ khỏi mắt cái đà tự ngã cũ,
con được đứng cùng các thày vũ trụ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.8. Hợp nhất cùng với Hiện diện TA LÀ,
giờ con để cho ánh sáng lan tỏa.
Đặt cao đỉnh đồi, đèn con sáng rộ,
con sử dụng nó với tài Ki-tô.

Ôi Portia, thày đến từ cõi xa,
avatar toàn vũ, thày chính là.
Quyền năng thày vô biên, con trân quý,
ngôi sao thày dìu dắt hành tinh đi.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

3.9. Nhờ mắt đơn thuần, con thấy nhất nguyên,
con điều khiển được ánh sáng thiêng liêng.
Ánh sáng biến hóa hành tinh trái đất,
thời đại Hoàng Kim sinh ra rất thật.

Ôi Portia, con tự tin an trú,
con nay là dụng cụ của toàn vũ.
Con xuống đây từ thiên hà gửi tới,
để nâng cao trái đất thăng lên trời.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4. Con biểu hiện sứ vụ thiêng liêng của mình

4.1. Mở ra hiển bày cho mắt tâm thấy,
sứ vụ thiêng liêng lồ lộ ngay đây.
Con nhập dòng chảy dễ dàng bon bon,
con tiến không ngừng tới đích của con.

Ôi Portia, nơi nhập thất của thày,
tình thương Mẹ, thày đón con dang tay.
Bao cuộc thi, con đà hoàn tất đủ,
khuôn nếp cũ, con từ nay buông rũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.2. Vũ trụ nơi đây sẽ thị hiện thật
mọi thứ con cần để làm giỏi nhất.
Giờ con chấp nhận sức khỏe toàn hảo,
giờ con chấp nhận trù phú tuôn trào.

Ôi Portia, Công lý là tên thày,
giương lên cao Lửa Danh dự Toàn vũ,
Con không còn tham dự trò chơi cũ,
cứ giữ y một cái ngã hoài hoài.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.3. Vượt cao lên trên tâm thức thiếu thốn,
trở lại vui hưởng đời sống an ổn.
Giờ con chấp nhận an bình nội tâm,
giờ con chấp nhận chiến tranh sẽ tận.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
một với thày, con tăng trưởng mãi mãi.
Con chính là chén thánh ở nơi đây,
thày ban xuống dòng công lý hoàn vũ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.4. Vì đã học xong bài học của thày,
con biết ngọn triều vũ trụ đã xoay.
Giờ con chấp nhận tâm Ki-tô vào,
giờ con chấp nhận cuộc sống thanh cao.

Ôi Portia, cho vũ trụ quân bằng,
tim con hát, niềm hy vọng vĩnh hằng.
Đôi cánh Mẹ bảo bọc con yên ắng,
con là một với tất cả chúng sanh.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.5. Vì con luôn luôn tiến triển không đứng,
con biết tiến bộ của con không ngừng.
Giờ con chấp nhận chỗ đứng toàn hảo,
Hồng ân Vũ trụ, con xin nhận vào.

Ôi Portia, thày đem ánh sáng Mẹ,
khỏi đêm tối, giải thoát chúng con nhé.
Lửa Tình thương của thày sáng mãi mãi,
ôm con chặt, Saint Germain và thày.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.6. Con đây là người lạc quan hoàn vũ,
tự ngã cũ này cho theo nước lũ.
Giờ con chấp nhận Thượng đế bọc bao,
giờ con chấp nhận ngọn triều dâng cao.

Ôi Portia, thày điều ngự tài hoa,
con cảm nhận trong con sự biến hóa.
Ánh sáng thày là thực tại màu tím,
con tìm ra biến hóa đá luyện kim.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.7. Vì con tiếp tục là cánh cửa mở,
con luôn nhận được hơn nữa không bờ.
Giờ con chấp nhận thơ ngây của con,
thịnh vượng Thượng đế, giang tay ôm tròn.

Ôi Portia, trong dòng chảy vũ trụ,
con tỉnh mộng, giấc mơ ảo phàm phu.
Gỡ khỏi mắt cái đà tự ngã cũ,
con được đứng cùng các thày vũ trụ.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.8. Con phản ánh lại, mọi sự ở trên,
tình thương thanh khiết, con tỏa sáng lên.
Giờ con chấp nhận, tự do biết bao,
cái Ta Ki-tô, con ôm trọn vào.

Ôi Portia, thày đến từ cõi xa,
avatar toàn vũ, thày chính là.
Quyền năng thày vô biên, con trân quý,
ngôi sao thày dìu dắt hành tinh đi.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

4.9. Con nay hợp nhất cùng với Portia,
con nắm cơ hội không cho thoáng qua,
Con nay chấp nhận trù phú Thượng đế,
thành công trọn vẹn, con xin mang về.

Ôi Portia, con tự tin an trú,
con nay là dụng cụ của toàn vũ.
Con xuống đây từ thiên hà gửi tới,
để nâng cao trái đất thăng lên trời.

Ôi Portia, cuộc đời là cơ hội,
con vượt lên mọi tâm thức nhị đối.
Trong nội tâm, nay con tập trung lại,
cùng với thày con tăng trưởng mãi mãi.

OM AH HUM, PORTIA GURU PADME SIDDHI HUM

(Tụng niệm 9 lần, 33 lần hay nhiều hơn)

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Portia và Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

Bài ca sự Sống 4 – Một thân thể mới

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Mẹ Mary, hãy chữa lành bốn thể phàm của con, đặc biệt là xin các thày chuyển hóa thể vật lý của con. Con muốn được chữa lành khỏi mọi bất quân bình và bệnh tật, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Khi đấng Cha và đấng Mẹ hợp nhất,
con thấy đấng Con vươn lên cao ngất.
Quân bình Ki-tô chính là chìa khóa,
đối cực không thể bắt con đày đọa.

Khi con trụ tâm vào cái Một này,
quân bình nội tại, con đạt được ngay.
Hiện diện TA LÀ làm được thấu triệt,
mọi điều nó muốn qua cái Ta Biết.

Khi con quân bình Âm Dương với nhau,
chiến thắng Ki-tô con đạt nhiệm mầu.
Khi con thăng vượt Ma vương hung hiểm,
qua bát chánh đạo con sẽ thăng thiên.

Hành trình Thánh cầu, con đã bước xong,
thử thách vi tế, con đã làm tròn.
Theo thày Giê-su, con buông hồn ma,
Phật Gautama chỉ con an hòa.

Cùng thày Maitreya, con tự do,
Sanat Kumara mừng trò nhỏ.
Alpha Omega hợp nhất nay,
tại Mặt trời Trung ương, con cùng thày.

Điểm nối kết, hình số tám thanh tú,
của cả hai ngài mở cổng hoàn vũ.
Trong đấng Sáng tạo, con nay an trú,
CON LÀ thái cực của Ngài nghìn thu.

Khi con trở về hành tinh trái đất,
một cái Ta mới sinh ra rất thật.
Con biết điều gì tốt cho tất cả,
Ý chí Thượng đế thị hiện lộ ra.

1. Con giành lại sự chữa lành tức khắc

1.1. Thân của con một ảo tưởng giả dạng,
coi rắn chắc nhưng chỉ là ngụy trang.
sự phóng chiếu đến từ bốn tâm thấp
sẽ quy định sức khỏe thân từng chập.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.2. Cùng Ki-tô, con ra mệnh lệnh xuống,
thân con đổi tức khắc theo ý muốn.
Con ra lệnh hình ảnh vẹn toàn này,
được tải xuống tuyến tùng của con đây.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.3. Con ra lệnh mắt bên trong của con,
khuếch to ra hình Ki-tô viên tròn,
Phóng chiếu lên khắp thân nơi to nhỏ,
nó kiện toàn tất cả tế bào đó.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.4. Giữa trung tâm thân thể, tâm Ki-tô,
bánh xe lão hóa, con quay ngược số.
Mọi tế bào cùng nhịp rung Ki-tô,
cùng giai điệu, cho thân thêm bồi bổ.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.5. Tươi trẻ hoài không là chuyện ảo tưởng,
Giờ giành lại tự do thân tráng cường.
Thân của con không còn già nua yếu,
con trải bày mô thức trẻ kỳ diệu.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.6. Bốn thể phàm của con nay thật sự
không còn chịu gánh nặng của quá khứ.
Con bác bỏ lời dối gian lão hóa,
Đây thuốc tiên hoàn thiện mọi tế bào.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.7. Cốt lõi của chân lý Ki-tô đây,
là suối nguồn tươi trẻ mãi tràn đầy.
Trong dòng nước sự sống con trầm mình,
con bước ra tươi trẻ hơn thường tình.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.8. Này cái Chết, đâu mũi chích giết người,
tinh linh thân của con hát vui tươi,
cùng với nhịp giai điệu của sự sống,
con đòi lại vĩnh cửu đời thêm hồng.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống, con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

1.9. Ôi cái Chết, chiến thắng của mi đâu,
vì Ki-tô hóa thân con nhiệm màu.
Bốn thể phàm ngập ánh sáng tràn lan.
Con chỉ thấy qua mắt Ki-tô sáng.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2. Trong vòng tay yêu thương của Mẹ Mary

2.1. Trong vòng tay Mẹ Mary yêu thương,
Con tái sinh tuổi thanh niên tráng cường.
Viễn kiến Mẹ, con thấm nhuần hiểu thấu,
thân xác con tái tạo ôi nhiệm mầu.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.2. Cùng với Mẹ Mary con phóng ra,
hệ tuần hoàn của con nay toàn hảo.
Trầm mình trong dòng chảy thiêng của Mẹ,
máu của con tỏa ánh thiêng tươi trẻ.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.3. Cùng với Mẹ Mary con phóng ra,
tuyến nội tiết của con nay toàn hảo.
con tìm lại nội tiết tố quân bình,
thân quân bình và tâm cũng quân bình.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.4. Cùng với Mẹ Mary con phóng ra,
hệ tiêu hóa của con nay toàn hảo.
Con lấy vào từ Mẹ sự nuôi dưỡng,
sức tràn trề, con hân hoan tận hưởng.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.5. Cùng với Mẹ Mary con phóng ra,
hệ miễn nhiễm của con nay toàn hảo.
toàn thân con niêm khỏi mọi độc tố,
sức khỏe con toàn hảo bừng hiển lộ.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.6. Cùng với Mẹ Mary con phóng ra,
hệ bạch huyết của con nay toàn hảo.
dịch trong thân luân lưu trong bình lặng,
tất cả mô trong trạng thái quân bằng.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.7. Cùng với Mẹ Mary con phóng ra,
toàn cơ bắp của con nay toàn hảo.
Vì mỗi phần của con đều mạnh mẽ,
rung động theo bài hát thiêng của Mẹ.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.8. Cùng với Mẹ Mary con phóng ra,
hệ thần kinh của con nay toàn hảo.
bộ óc và thần kinh con thống lãnh,
và thân con được hưởng mọi tốt lành.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống, con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

2.9. Cùng với Mẹ Mary con phóng ra,
hệ sinh sản của con nay toàn hảo.
Trong tiến trình, con thấy vai trò riêng,
giúp sự sống luôn mãi hoài tiến triển.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3. Viễn kiến tinh khôi của con

3.1. Cùng với Mẹ Mary con phóng ra,
hệ hô hấp của con nay toàn hảo.
Nhờ ôxy đem ánh sáng linh thiêng,
mọi độc tố ngay lập tức tan liền.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.2. Cùng với Mẹ Mary con phóng ra,
xương và tủy của con nay toàn hảo.
Tủy của con trong cốt lõi của thân,
tinh khiết hơn lúc xưa ôi bội phần.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.3. Cùng với Mẹ Mary con phóng ra,
hệ tiết niệu của con nay toàn hảo.
Thân được sạch khỏi mọi chất thải ra,
sức khỏe con toàn hảo, ôi vui quá.  

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.4. Cùng với Mẹ Mary con phóng ra,
óc, tủy sống của con nay toàn hảo.
Vì Ki-tô luôn đang đứng chỉ đạo,
cai quản cả, vững chãi từ trên cao.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.5. Cùng với Mẹ Mary con phóng ra,
trái tim con lúc nào cũng toàn hảo.
Con rống lên vang rền tiếng sư tử,
tim con đập, mãi hoài ôi bất tử.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.6. Cùng với Mẹ Mary con phóng ra,
buồng phổi con lúc nào cũng toàn hảo.
Hơi thở của sự sống nuôi dưỡng thân,
con hoàn thành mục đích trong đời trần.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.7. Cùng với Mẹ Mary con phóng ra,
dạ dày, gan lúc nào cũng toàn hảo.
Khi con nhận món quà của Thượng đế,
con tiêu hóa chất thiêng liêng mang về.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.8. Cùng với Mẹ Mary con phóng ra,
bộ ruột con lúc nào cũng toàn hảo.
Hấp thu vào những gì tốt gặt hái,
chúng loại đi những gì xấu còn lại.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống, con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

3.9. Cùng với Mẹ Mary con phóng ra,
hai thận con lúc nào cũng toàn hảo.
Bộ phận thiêng, chúng sẽ bảo đảm mãi,
máu của con luôn tinh khiết hoài hoài.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4. Con giành lại thân thể khỏe mạnh

4.1. Cùng với Mẹ Mary con phóng ra,
làn da con lúc nào cũng toàn hảo.
Hấp thu vào ánh vàng kim mặt trời,
cả thời đại mới tinh được phát khởi.

Ôi Mẹ Mary, Bài ca sự Sống
tiêu trừ tất cả tranh chấp bất đồng.
Khi con hòa điệu âm thanh thần thánh,
con đây tuyên bố tế bào lành lặn.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.2. Cùng với Mẹ Mary con phóng ra,
hệ sinh dục lúc nào cũng toàn hảo.
Loại trừ đi mọi quá độ mê say,
dòng lực sống, con thật sự hiển bày.

Bài ca sự sống con nghe luôn hoài,
thiêu đi tất cả nỗi niềm sợ hãi.
Hòa điệu cùng theo giao hưởng của Mẹ.
thoát khỏi bệnh tật, nhạc thày chở che.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.3. Cùng với Mẹ Mary con phóng ra,
các tuyến con lúc nào cũng toàn hảo.
bàn tay thiêng của Ki-tô điều hòa,
dòng chảy này hồi sinh cho tất cả.

Trong tình của thày, con vượt thăng mãi
tranh chấp ưu phiền, con bỏ tâm hai.
Nhìn qua mắt thày, tình thày ôm trọn,
không bất toàn nào chạm được tới con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.4. Thân của con, một tổng thể hợp nhất,
Hồn của con, hôm nay tái sinh thật.
Cái Ta Biết mở toang cánh cửa lớn,
để hiển bày cái hơn nữa cao hơn.

Con thấy chữa lành thì phải bắt đầu,
Ki-tô Hằng Sống, tìm ngài trong sâu.
Trong mắt nhất nguyên, con nhìn sáng tạo,
ánh sáng khuếch trương từng mỗi tế bào.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.5. Con biết rõ từ trời con xuống đây,
bốn thể phàm là cây đàn diễn bày,
qua chúng nó giai điệu được dạo lên,
để hiển bày một ngày mới thần tiên.

Trong dòng nhạc Mẹ, ôi con tự do,
thoát khỏi ký ức con người bé nhỏ.
Viễn quan của con, ôi sao toàn hảo,
tất cả tế bào, nay đà tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.6. Con chấp nhận ý chí cao, tuân thủ,
nhờ thế mà con hoàn thành sứ vụ,
Máy biến thế của ánh sáng toàn vũ,
Quyền thiêng liêng con hiển bày đầy đủ.

Ôi tình yêu Mẹ, giai điệu ngọt ngào,
thoát khỏi bất toàn, thân nhẹ làm sao.
Ôi Mẹ Mary, âm của âm thanh,
tim con dạt dào, tình thày thần thánh.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.7. Thắng lợi con, Ki-tô báo trước đây,
sứ vụ thiêng của con đang trải bày.
không cách chia, giữa con người, Thượng đế,
con hiển bày quà cao nhất diễm lệ.

Qua vẻ đẹp thày, siêu phàm diễm lệ,
không gian thời gian, vượt qua hạn chế.
Tế bào vượt chết, hát ca vui hưởng,
từ nay toàn vẹn trong lòng thày thương.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.8. Nhờ con buông tất cả cái “của ta”,
không gì cản sứ vụ thiêng tỏ ra.
Nhờ vậy mà các thể con tự do,
thoát được ra cái “ta” kia bé nhỏ.

Con cùng nhịp rung, bài ca sự sống,
hòa âm dòng sống, con theo bay bổng.
Nguyên mẫu của con, trạng thái toàn hảo
tất cả tế bào theo khuôn tái tạo.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

4.9. Điểm nối kết ngay giữa hình số tám,
Con chính là cánh cửa mở rộng toang.
Thời Hoàng Kim nay sinh hạ phơi phới,
trái đất mình tái sinh một ngày mới.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Ôi Mẹ Mary, xin thày lan tỏa,
bài ca gia tốc, thân con hài hòa,
nâng các tế bào vào trạng thái cao,
sức khỏe toàn hảo, ánh sáng dâng trào.

OM AH HUM, MA-RAY GURU PADME SIDDHI HUM

(Tụng niệm 9 lần, 33 lần hay nhiều hơn)

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

Bài ca sự Sống 3 – Một cảm thể mới

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Quan Âm và Mẹ Mary, hãy chữa lành bốn thể phàm của con, đặc biệt là xin các thày chuyển hóa cảm thể của con và các cảm xúc của con. Con muốn được giải thoát khỏi mọi vết thương tình cảm, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Khi đấng Cha và đấng Mẹ hợp nhất,
con thấy đấng Con vươn lên cao ngất.
Quân bình Ki-tô chính là chìa khóa,
đối cực không thể bắt con đày đọa.

Khi con trụ tâm vào cái Một này,
quân bình nội tại, con đạt được ngay.
Hiện diện TA LÀ làm được thấu triệt,
mọi điều nó muốn qua cái Ta Biết.

Khi con quân bình Âm Dương với nhau,
chiến thắng Ki-tô con đạt nhiệm mầu.
Khi con thăng vượt Ma vương hung hiểm,
qua bát chánh đạo con sẽ thăng thiên.

Hành trình Thánh cầu, con đã bước xong,
thử thách vi tế, con đã làm tròn.
Theo thày Giê-su, con buông hồn ma,
Phật Gautama chỉ con an hòa.

Cùng thày Maitreya, con tự do,
Sanat Kumara mừng trò nhỏ.
Alpha Omega hợp nhất nay,
tại Mặt trời Trung ương, con cùng thày.

Điểm nối kết, hình số tám thanh tú,
của cả hai ngài mở cổng hoàn vũ.
Trong đấng Sáng tạo, con nay an trú,
CON LÀ thái cực của Ngài nghìn thu.

Khi con trở về hành tinh trái đất,
một cái Ta mới sinh ra rất thật.
Con biết điều gì tốt cho tất cả,
Ý chí Thượng đế thị hiện lộ ra.

1. Từ sợ hãi đến tình thương

1.1. Bài ca sự Sống, âm thanh siêu phàm,
thày phá tấm màn không gian thời gian.
Con thấy tình cảm chính là chìa khóa
để con khai mở thênh thang sáng tạo.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.2. Tâm con cùng nhịp chuông ngân thánh thiện,    
cái nhìn xưa cũ, con thăng vượt liền.
Nhờ giáo huấn mới mà con vui đón,
con nay chấp nhận cảm thể của con.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.3. Một mục đích cao, con muốn tìm về,
nên con không cần kiểm soát cảm thể.
Tình cảm chỉ là năng lượng mà thôi,
thay đổi tức khắc, mau chóng phục hồi.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.4. Âm mưu vi tế của bọn quỷ dữ
bảo con cần phải tình cảm thanh trừ.
Nhưng mọi tình cảm con đều gia tốc
lên trạng thái cao, chúng được giải độc.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.5. Con dùng khả năng của tâm ý thức
để con thay đổi năng lượng cảm xúc.
Con thành tâm mời chân sư thăng thiên
khi con cầu thỉnh ánh sáng thiêng liêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.6. Ánh sáng thay đổi tình cảm rối bời,
giờ đây bình an là chuẩn mực mới.
Chân sư cho con một khung tham chiếu
để con cảm nhận Thượng đế tuyệt diệu.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.7. Vượt trên điều kiện là tình thương cao,
như giọt mưa trong tưới con ngọt ngào.
Đây là tiêu chuẩn mà con sẽ dùng
phán xét tình cảm không như đại chúng.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.8. Khi các chân sư bên con gần kề,
sợ hãi sẽ được tình thương thay thế.
Con biết khi con làm trọn phần mình,
sợ hãi cũng được tống khứ khỏi tim.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

1.9. Khi con buông bỏ tất cả điều kiện,
cảm thể của con êm ả, bình yên.
Giờ con quy thuận về với Cội nguồn,
một hướng đi mới, con phác họa luôn.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2. Con cho phép tình cảm tuôn chảy

2.1. Tình cảm của con chỉ là năng lượng,
tìm sự phối hợp, con đi đúng hướng.
Con rung động theo Bài ca sự Sống
tình cảm của con cộng hưởng hòa đồng.       

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.2. Khi con bám chặt vào cái quý giá,
cảm xúc được nâng, sợ hãi vượt qua.
Mọi nỗi sợ được tình thương chuyển hóa,
như bồ câu thiêng, tim con vút xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.3. Hung hãn không ngừng, xung đột can qua,
đây là xu hướng của chính tự ngã.
Nhưng con không vào trò chơi kình chống,
vì tâm con đầy bài ca sự sống.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.4. Khi con buông bỏ, giận hờn đắng cay,
cảm xúc của con bắt đầu tuôn chảy.
Khi tình cảm con không còn nghẽn nữa,
bệnh tật của con sẽ thật được chữa.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.5. Con giờ thoát khỏi giao tranh vị lợi,
cảm thể có được cuộc sống rất mới.
Tình cảm chai đá bắt đầu mềm chảy,
con chưa bao giờ nhẹ nhàng như vậy.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.6. Một tia mặt trời xuyên qua cụm mây,
con muốn vươn lên hát vui tràn đầy.
con cảm rộn ràng niềm vui phơi phới,
con nay tận hưởng một cuộc đời mới.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.7. Dưới hầm sâu của tiềm thức mờ tối,
tình cảm khô cứng đã tan hết rồi.
Thánh linh thanh tảy sạch trong các thể,
tan đi cảm tưởng diệt vong gần kề.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.8. Năng lượng cũ xưa hỗn nguyên bất tịnh,
giờ được thay thế bằng tâm quân bình,
và trong không gian mới linh thiêng ấy,
bắt đầu tăng lên ân huệ vun đầy.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

2.9. Khi con buông bỏ quá khứ xích xiềng,
biết ơn sâu xa bắt đầu khởi lên.
Khi tấm màn tối bắt đầu kéo lên,
con thấy cuộc sống chính là ân điển.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3. Con điều ngự tình cảm

3.1. Con thật tán dương tự nhận biết này,
 ý niệm bản ngã, con nâng cao đây.
Một cái ta mới được sinh ra đời,
tràn ngập niềm vui trẻ thơ phơi phới.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.2. Một số tình cảm không cần lọc trong,
vì tình cảm thấp chẳng phải của con.
Chúng bắt nguồn từ phàm linh tách biệt,
và mọi phàm linh giờ đều đã tiệt.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.3. Con thực làm chủ căn nhà của mình,
đây là tiêu chí mà con khẳng định.
Con biết bây giờ chưa có trễ đâu,
gỡ bỏ vứt đi quyết định hư xấu.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.4. Khi con lấy lại sức mạnh ý chí,
con thấy cuộc sống ôi sao thú vị.
Và khi con lấy quyết định Ki-tô,
tự do mới tìm, niềm vui nở rộ.

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.5. Phàm linh hung hãn, con đuổi đi ngay,
không còn ai muốn bọn mày ở đây.
Nhưng thay vào đó giờ con kính mời,
chân sư phúc lành Quan Âm xin tới.

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.6. Có thày gần kề, con không phiền muộn,
giờ con phó thác rồi con quên luôn.
Mẹ dìu con theo thánh thót giai điệu,
nương trên đôi cánh bài ca huyền diệu.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.7. Giờ con bước vào thuyền Bát nhã đây,
hỷ lạc trong âm chủ đạo của thày.
Bỏ lại đằng sau oán hờn phân hóa,
ánh quang rạng sáng, con thôi mù lòa.

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.8. Không phàm linh nào lay động nổi con,
biển động luân hồi, con vượt ngọn sóng.
Tim con gầm lên tiếng sư tử hống,
khi con chợt thấy bờ giác mênh mông.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

3.9. Ôi thày Quan Âm, con trọn tin thày,
vượt qua Ma vương, con vươn đứng dậy.
Con không bỏ lỡ, giá nào cũng nhận.
cơ hội nhập vào hỷ lạc Phật tâm.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4. Tình cảm của con là bài hợp tấu

4.1. Hỷ lạc mới có trong cảm thể con,
trải ra trong thân nay đã viên tròn.
Từng tế bào sâu, nó thấm hoàn toàn,
tảy sạch chúng khỏi lời nguyền bệnh hoạn.

Ôi Mẹ Quan Âm, tên thày cao cả,
xin đổ đầy con, Ngọn lửa Thứ tha.
Mở tâm dung thứ, thoát ra xích xiềng,
tha thứ chính là chìa khóa linh thiêng.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.2. Tình cảm của con, cây đàn diệu vợi,
hòa nhạc bài ca mà Hiện diện gởi.
Hiện diện TA LÀ nhạc trưởng thiện lành,
con góp phần mình trong ban nhạc thánh.

Ôi Mẹ Quan Âm, giờ con buông bỏ
mọi dây ràng buộc thế gian gò bó.
Tình cảm dồn nén, con cho tuôn chảy,
những bệnh tình cảm, con thoát ra ngay.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.3. Tình cảm của con hòa bài giao hưởng,
một nguồn sinh khí toàn thân nuôi dưỡng.
Từng mỗi tế bào, bộ phận hồi sinh,
vì chúng không còn thiếu thốn bất tịnh.

Ôi Mẹ Quan Âm, con không ấp ủ,
đòi hỏi ước mơ của con kết nụ.
Vì con buông xuống toàn bộ mong chờ,
tâm con trống rỗng, nghìn thu rộng mở.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.4. Bài giao hưởng thiêng dạo khúc ngân nga,
âm thánh chữa lành bệnh tật tan rã,
Hiện diện TA LÀ, của cải ân thánh,
nó cho thân con sức khỏe trọn lành. 

Ôi Mẹ Quan Âm, vượt lên quá khứ,
buông mọi giận hờn ám ảnh tâm tư.
Con chẳng mong chờ hoa trái vị lai,
hiện tại thường hằng, con an trụ lại.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.5. Tình cảm, thân thể của con sạch trong,
con đầy tôn kính Hiện diện trong lòng.
Sức khỏe toàn hảo hiện ra trông thấy,
nay con tràn đầy nghị lực, hăng say.              

Ôi Mẹ Quan Âm, nâng con lên cao,
vượt biển Luân hồi, sóng lớn xôn xao.
An bình cùng mẹ trong thuyền Bát nhã,
bến giác đây rồi, gần gũi đâu xa.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.6. Khi con chấp nhận khỏi bệnh tức khắc,
lời hứa khi xưa thày còn giữ chắc.
Vì Giê-su nói dù con xin gì,
thày luôn làm được nào có khó chi.

Ôi Mẹ Quan Âm, biến hóa thâm sâu,
Mẹ giải thoát con, phép lạ nhiệm màu.
Khi con tha thứ, con được thứ tha,
dày vò tan hết, tâm con thư thả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.7. Ki-tô là vua trong thân con đây,
tế bào của con hát ca cùng thày.
Nhờ được phép lạ Quan Âm chân phước,
sức khỏe toàn hảo con nay có được.  

Ôi Mẹ Quan Âm, ưu phiền không bám,
mọi việc không làm, cũng không không làm.
Con không hành động qua ngã tách riêng,
hợp nhất với Mẹ, con ngơi nghỉ liền.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.8. Con cảm uy quyền dũng mãnh Thượng đế,
từng mỗi tế bào nở hoa diễm lệ.
Hiện diện của con vững tay cầm lái,
thân con bây giờ toàn vẹn lâu dài.

Ôi Mẹ Quan Âm, tâm thày sáng suốt
giúp con cởi dây kiêu căng ràng buộc.
Mắt con sáng rồi, sá gì cái ngã,
tiến bước theo thày, con buông tất cả.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

4.9. Tìm lại vẹn toàn, con thành công đây,
nên con chúc phước mọi sự sống này.
Ánh quang chữa lành, con tỏa rộng lớn,
con cùng sáng tạo thế giới tốt hơn.

Ôi Mẹ Quan Âm, giai điệu ngọt ngào,
từ lòng đất thánh, vang lên thanh cao.
Việc mọn tự ngã, con buông bỏ cả,
bến bờ đại giác, con bước về nhà.

Ôi Mẹ Quan Âm, âm giai ngọt lịm,
con được giải thoát, là Tánh linh mình.
Mẹ ban cho con sinh khí dồi dào,
con đứng lên đòi bất diệt tối cao.

OM MANI PADME HUM

(Tụng niệm 9 lần, 33 lần hay nhiều hơn)

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Quan Âm và Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

Chương 3 – Hãy để cảm xúc tuôn chảy

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Quan Âm qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 13/3/2013.

Quan Âm là tên mà thày đã sử dụng rất lâu khi thày còn hành đạo trên trái đất. Thày được biết đến chủ yếu ở phương Đông. Tuy vậy, từ lâu thày đã đạt được tâm thức của quả vị Phật, và khi con thật sự đạt được quả vị Phật, con đã vượt thăng tất cả nhãn hiệu có thể được gán trên trái đất.

Do đó, ngay chính cái khái niệm cho rằng có một tôn giáo gọi là đạo Phật và tôn giáo này giữ độc quyền nào đó trên đức Phật cùng các giáo lý của Phật, cũng là một sự nhầm lẫn. Vì sự thật là khi con đạt được tầng tâm thức Phật, con trở nên toàn vũ tuyệt đối. Con vượt khỏi tất cả các nhãn hiệu thế gian.

Điều này quả thật được biểu tượng qua một câu chuyện được kể lại nhiều lần với nhiều phiên bản khác khau. Trong câu chuyện đó, thày có một con thuyền Bát nhã, được gọi là con thuyền minh triết, nhờ đó thày có thể đưa mọi người vượt Biển Luân hồi cuồng nộ. Nhưng tại sao Biển Luân hồi lại cuồng nộ? Vì nó bị những cảm xúc hỗn loạn của loài người khuấy động, là những năng lượng cảm xúc hỗn loạn đã được tích tụ từ rất lâu trong trường năng lượng tập thể, trong tâm thức đại chúng.

3.1. Lèo lái vượt biển cảm xúc

Do đó, con cần gì để chèo chống qua biển cảm xúc? Con cần minh triết để giúp con không đi vào đối cực này hay đối cực kia, mà con giữ cho sống thuyền kiên định. Con giữ vững hướng đi mặc dù đôi lúc con phải lèo lái qua những cơn sóng dữ đang ập đến. Nhưng con không tìm cách đánh nhau với chúng, con cũng không khuất phục chúng và để chúng cuốn con thuyền đi. Con dõi mắt theo mục tiêu của mình. Con nhắm hướng bờ biển ở đằng xa, và con tiếp tục lái thuyền theo con đường ngắn nhất hướng về bờ. Bằng cách sử dụng nguyên lý của dòng nước luôn chảy vòng quanh chướng ngại, con nhẹ nhàng lướt qua các con sóng dữ. Đây là làm thế nào minh triết linh động của đức Phật hướng dẫn con luôn tìm thấy Con đường Trung đạo giữa các đối cực.

Con đường Trung đạo là tránh đối cực bên này như thày đã lấy biểu tượng đá bị đóng băng. Con đường Trung đạo là tránh đối cực bên kia như thày đã lấy biểu tượng dung nham nóng chảy không ngừng sủi bọt sôi sùng sục. Nhưng Con đường Trung đạo cũng tránh tâm điểm giữa hai đối cực, là sự thờ ơ, lãnh đạm.

Tất nhiên ở thời đức Phật, Phật đã gặp phải sự thờ ơ của hầu hết mọi người. Trong nhiều trường hợp, họ hoàn toàn tin theo và say mê Ấn giáo đến độ họ đã thờ ơ với một vị Phật tuyên bố có những minh triết mới vượt hẳn giáo lý của các Bà la môn. Đây cũng là điều con thấy tại sao rất nhiều người đã lãnh đạm với thày Giê-su ở thời đó, và con cũng thấy tại sao họ thờ ơ với các chân sư thăng thiên ngày nay. Mặc dù thày có thể cam đoan với con là việc các thày có thể nói trực tiếp qua những bài truyền đọc, qua các sứ giả hiện thân ở đây quả thực là một lực đổi mới to lớn trong bối cảnh tôn giáo trên hành tinh này.

3.2. Khoác vào một vai trò

Chúng ta hãy nhìn vào cảm thể của người nam và người nữ. Các thày đã giải thích con có bốn thể phàm. Thể cao nhất trong bốn thể này là bản sắc thể và sau đó đến trí thể và thứ ba là cảm thể.

Con cần hiểu trong cảm thể, con rất dễ bị lôi kéo theo các hướng khác nhau bởi hai lực thường là đối lập. Nhưng trong nhiều trường hợp, các lực này có lẽ không đối lập như người ta cảm thấy bởi vì sau cùng chúng cũng kéo con về cùng một hướng.

Giờ đây, các thày, các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, không có ý định đi sâu vào sự có mặt của những sinh thể trên địa cầu đang tìm cách kiểm soát loài người. Các thày đã có giảng về chủ đề này ở nơi khác, chủ yếu trong quyển sách Chữa lành Mẹ Trái đất [Healing Mother Earth] mà con có thể tìm đọc nếu con quan tâm hơn về vấn đề này. Nhưng điều tuyệt đối cần thiết cho việc chữa lành và tăng triển cá nhân của con là con nhận ra có những thế lực đang đầu thai lẫn không đầu thai đang tìm cách kiểm soát con, và chúng làm điều này bằng cách kiểm soát cả bốn thể phàm của con.

Vì vậy, tất nhiên giáo lý các thày dạy rằng để đầu thai con cần khởi sự tạo ra một loại phàm linh có khả năng phối hợp với cơ thể vật lý, như Đại thượng sư Maha Chohan đã giảng trong sách Trôi theo Dòng sông sự Sống [Flowing with the River of Life]. Những thế lực thao túng con người rất giỏi tạo ra những vai trò đã được định sẵn cho con người đầu thai trên trái đất, và những vai trò này tồn tại như các phàm linh ở tầng bản sắc của hành tinh, tầng bản sắc của tâm thức đại chúng.

Nhiều sinh thể đầu thai lần đầu trên trái đất, cho dù đây là lần đầu thai đầu tiên hay họ xuống đây từ một hành tinh khác, họ cũng chọn khoác lấy một trong các vai trò đã được định sẵn như thể họ đi vào một rạp hát của thế gian, ngắm nhìn các bộ trang phục khác nhau đang được treo trên móc áo, nhìn vào các vai diễn mà họ có thể đóng và nói: “Tôi muốn thử xem tôi sẽ cảm thấy thế nào khi tôi đóng vai đó.”

3.3. Bị chính vai trò kiểm soát

Con khoác vào một vai trò quy định con như một con người và quy định con có thể làm gì và đặc biệt con không thể làm gì như một con người. Nhưng con đã nhập vai, và vở kịch bắt đầu, khuôn mẫu bắt đầu khởi động. Tất nhiên, con biết trong một rạp hát trên địa cầu, con có sẵn một kịch bản và tất cả diễn viên tham gia vở kịch đó phải diễn theo kịch bản này, làm sao họ làm khác được? Không thể diễn ngẫu hứng được. Không thể ném kịch bản đi và diễn theo ý mình muốn, vì điều này sẽ gây xáo trộn cho các diễn viên khác cũng như cho khán giả và cho cả những ai nghĩ họ đang điều hành rạp hát.

Nhưng tất nhiên, nếu con khoác vào một vai trò đã được định sẵn ở tầng bản sắc thì vai trò đó sẽ tạo ra những giới hạn cho những gì có thể diễn ra trong thể tư tưởng của con, tức trí thể, và lần nữa sẽ tạo ra các giới hạn cho những gì có thể diễn ra ở cảm thể của con, điều này lần nữa lại giới hạn những gì con có thể làm với thể vật lý.

Do đó con có thấy không, nếu nhìn lại lịch sử, nhiều xã hội đã có một khuynh hướng rõ rệt tạo ra một lớp thượng lưu? Con có bao giờ tự hỏi tại sao có quá nhiều xã hội trong lịch sử bị một nhóm nhỏ thượng lưu cai trị, trong khi đại đa số người dân hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp phải làm nô lệ và lao động để giữ cho nhóm thượng lưu này ở vị trí đặc quyền, hay họ phải tuân lệnh nhóm này theo nhiều cách khác nhau, chẳng hạn như gây chiến với nhóm thượng lưu ở nước khác? Tại sao vậy? Có bao giờ con tự hỏi câu hỏi này không?

Quả thật đó là vì hầu hết các dòng sống hiện đang đầu thai trên trái đất đã chọn khoác lấy những vai trò được định sẵn, những vai trò này đã được quy định ở cõi bản sắc bởi những kẻ tìm cách kiểm soát loài người. Kiểm soát loài người có nghĩa là gì? À, điều này có nghĩa là con kiểm soát những gì người ta sẽ làm trong cõi vật lý để con có thể giữ yên đại đa số quần chúng, con có thể giữ họ trong trạng thái thờ ơ gần như mọi lúc.

Nhưng đôi lúc con có thể hướng họ về cực này hoặc cực kia. Ở một cực, họ có thể bị khích động bởi những cơn giận dữ hay thù ghét nhóm kia đến mức họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì để đánh bại nhóm kia trong một cuộc chiến. Con có thể thấy điều này ở nhiều cuộc chiến trên trái đất. Nhưng cũng có thể ở cực kia họ lại lạnh lùng, vô cảm với cuộc sống đến mức họ sẵn sàng giết hại dân thường – ngay cả những người không tấn công họ – bởi vì họ đã trở nên quá lãnh cảm, thờ ơ đến mức họ không xem người khác là những con người. Con đã thấy được điều này thể hiện trong nhiều hành động hung ác chống lại loài người ở khắp các thời kỳ.

3.4. Ba phản ứng cảm xúc

Con thấy đấy, những kẻ thao túng làm được điều này bằng việc tạo ra một khuôn mẫu trong cõi bản sắc. Bằng cách định ra những triết lý và ý thức hệ đã được định trước, chúng tạo ra những khuôn mẫu khác quy định cách suy nghĩ của con, và chúng cũng tạo ra những khuôn mẫu quy định cách phản ứng cảm xúc của con. Chúng đã nỗ lực khiến con người rơi vào một trong ba phản ứng cảm xúc mà thày đã mô tả.

Một là cảm thể của con hoàn toàn đóng băng vì vậy con đè nén, hoặc con nghĩ con phải đè nén tất cả mọi cảm xúc để con không còn cảm thấy gì hết. Con hãy nhìn điều này được khuyến khích ở nhiều lãnh vực trong xã hội. Ví dụ trong giới doanh nghiệp, nhiều người được nuôi dạy không bao giờ được bộc lộ bất kỳ cảm xúc nào cho dù người quản lý của họ có làm gì hay nói gì. Nhưng trong nhiều trường hợp, đây là cách duy nhất để đạt được thành công trong giới kinh doanh. Tất nhiên, điều tương tự cũng xảy ra trong nhiều tổ chức khác nơi con phải chấp nhận hoà đồng bằng cách không bao giờ phản đối, không bao giờ lên tiếng, không bao giờ được nói: “Điều này không đúng” hay “Chuyện này không phải”.

Đằng khác, con thấy những kẻ khuynh loát cũng muốn người ta rơi vào phản ứng trong đó thể tình cảm của họ sôi sục như dung nham khi họ liên tục bị kích động, liên tục nóng giận, và chỉ cần một kích động nhỏ thì cơn giận sẽ bùng lên như con thấy trong những cuộc nổi loạn tại nhiều quốc gia. Con cũng thấy điều này ở những sự kiện thể thao mỗi thứ bảy hay chủ nhật.

Nhưng tất nhiên, con cũng thấy nhiều người rơi vào điểm giữa hai cực này – nhưng không phải là Con đường Trung đạo – trong đó họ gần như hoàn toàn thờ ơ với tất cả những gì xảy ra, và phải cần một sự khiêu khích rất lớn mới có thể khuấy động cảm xúc của họ, hay khuấy động tinh thần trách nhiệm của họ đối với các diễn biến trong xã hội.

3.5. Con không thể phớt lờ cảm xúc

Con có nắm được ý thày đang giảng không? Khi nói đến việc chữa lành cá nhân, tất nhiên đây là chủ đề chính của khuôn đúc Bài ca sự Sống, thì cảm xúc của con rất quan trọng, vì thể tình cảm ở ngay trên thể vật lý. Các cảm xúc không chỉ được phóng chiếu trực tiếp lên Ánh sáng Mẫu-Vật trong quang phổ vật chất – và do đó cảm xúc của con chính là khuôn đúc quyết định các đặc điểm vật lý của cơ thể con – nhưng trên hết, cảm xúc của con cũng là chìa khoá để chữa lành.

Con có thấy không khi con nhìn vào xã hội và nhìn vào ba cách phản ứng mà thày vừa mô tả: con thấy rất nhiều người đạt đến điểm nhận thấy sự nguy hiểm khi để cảm xúc sôi sục như dung nham. Họ thấy sự nguy hiểm khi họ trở nên lạnh giá và vô cảm với khổ đau của người khác đến mức họ im lặng đứng nhìn trong khi cuộc tàn sát người Do Thái xảy ra ngay gần kề. Kết quả là có nhiều người ngày nay không muốn đương đầu với cảm xúc.

Tất nhiên điều này một phần do họ đã lớn lên với suy nghĩ là các cảm xúc của mình chỉ có thể gắn chặt vào một trong những phản ứng này, và họ không được dạy cách giải quyết cảm xúc theo một cách xây dựng hơn. Họ đã được nuôi dạy để tin rằng cảm xúc đại loại giống như kẻ nô lệ cho bất kỳ hoàn cảnh nào xảy ra trong đời. Nếu có sự kiện nào xảy ra trong đời thì họ chỉ biết cảm nhận theo cách đó mà thôi. Và vì dường như họ không thể kiểm soát được hoàn cảnh bên ngoài đang xảy ra, nên họ cũng dường như không thể kiểm soát được cảm xúc của mình.

À, dĩ nhiên người ta không được dạy rằng cảm xúc chỉ biết chạy trên đường rày mà bản sắc và tư tưởng đã vạch ra. Con có thấy kết quả này không? Nhiều người ngày nay không muốn đương đầu với cảm xúc. Họ thà phớt lờ không để ý đến chúng. Nhưng con không thấy sao, con yêu dấu, nếu một căn bệnh vật lý, một sự mệt mỏi cùng cực hay quá trình lão hóa có mặt trong cơ thể vật lý của con, thì con không thể hy vọng chữa lành nếu con không làm việc trên cảm thể (và tất nhiên cả trí thể lẫn bản sắc thể)?

Con có nhận thấy là con không thể nhảy bước bỏ qua tầng cảm xúc giống như nhiều người trong xã hội hiện đại chỉ muốn đi trực tiếp lên tầng lý trí và bản sắc? Con có thấy nhiều người trên thế giới vận dụng trí óc quá nhiều khi tiếp cận cuộc sống đến mức họ nghĩ rằng tất cả những gì họ cần làm là ngồi xuống và phân tích mọi thứ, kể cả cuộc sống của chính họ, vì họ nghĩ tâm phân tích có thể làm nảy sinh những câu trả lời cho mọi vấn đề? Hay thậm chí có những người đi cao hơn vào tầng bản sắc, nhìn vào các lời dạy triết lý, hay tôn giáo, hay tâm linh để tìm câu trả lời trong đó.

Thày không nói tìm câu trả lời trong các cõi lý trí và bản sắc không có giá trị. Thày chỉ đang nói là nếu con làm vậy và phớt lờ cảm xúc, muốn bỏ qua cảm xúc, thì làm sao con chữa lành được thể vật lý?

3.6. Cảm xúc là chìa khoá để chữa lành

Con có thấy giả dụ con có thể trụ ở tầng lý trí và bản sắc, tại đây con có thể tạo một khuôn đúc tư tưởng hoàn hảo về sức khỏe ở thể vật lý, nhưng bằng cách nào con sẽ chuyển khuôn đúc này xuống tầng vật lý? Chỉ có một cách: đó là con phải đi qua cảm thể. Con không thể dùng tâm phân tích phóng chiếu một khuôn đúc tư tưởng trực tiếp lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Con yêu dấu, con không thể làm vậy. Và đó là lý do con thấy nhiều người bị mắc kẹt trong những mưu cầu trí năng đến mức họ nghĩ họ có thể giải quyết tất cả mọi vấn đề của thế giới bằng trí năng, nhưng kỳ thực họ tác động rất ít lên cõi vật lý. Họ xa rời, họ chối bỏ cảm xúc đến mức họ không thể chuyển tư tưởng của mình xuống tầng vật lý. Chỉ qua trung gian tầng cảm xúc thì tư tưởng mới có thể đi xuống tầng vật lý.

Do đó, con thấy nhiều người mắc phải những căn bệnh vật lý và trước khi ngã bệnh, họ đã nghĩ họ có thể sống cuộc đời theo một cách nào đó, thường thường dựa trên một hiểu biết trí thức hay một triết lý nào đó. Họ đơn giản đã sống mà không màng tới việc phải giải quyết các cảm xúc, cho dù đó là những cảm xúc nóng giận, lạnh lẽo hay lãnh cảm. Và rồi khi họ mắc phải một căn bệnh vật lý và nhận ra mình cần phải làm một điều gì đó trong cuộc đời, cần phải thay đổi điều gì đó, thì họ vẫn nghĩ họ có thể tìm ra một giải pháp dựa trên phân tích, dù là qua việc sử dụng hoá chất này hay hoá chất kia, một phương pháp phẫu thuật, kiêng khem, hoặc một cách thể dục mới mẻ để chăm sóc cơ thể.

Tuy nhiên, mặc dù sự chữa lành có thể xảy ra phần nào ở tầng vật lý – hay ít ra một vài triệu chứng bên ngoài có thể được che giấu – nhưng cách chữa lành tự nhiên, toàn diện và cao hơn vẫn là giải quyết ở cảm thể. Đúng vậy, tại sao các thày lại mở đầu bài giảng bằng bản sắc thể và trí thể? Bởi vì một khi con thật sự chuyển đổi ý niệm bản sắc và bước ra ngoài tâm phân tích, thì con sẽ giải quyết ở thể tình cảm dễ hơn nhiều.

Một khi con đã học cách dùng giọng nói để cầu thỉnh năng lượng tâm linh và để dòng năng lượng tâm linh này tuôn chảy tự do qua bản sắc thể và trí thể của con, thì dòng năng lượng này rất dễ dàng chảy vào cảm thể vì trong cảm thể dòng năng lượng tâm linh có thể bắt đầu tiêu hủy những năng lượng cảm xúc tồn đọng và nhờ vậy cũng làm sạch và trong lọc cảm thể của con. Nhưng điều thày muốn chỉ cho con ở đây là: Con sẽ không đạt được kết quả cao nhất nếu con không chuyển tới điểm nơi con sẵn lòng nhìn trực tiếp vào cảm thể và nhìn trực tiếp vào các cảm xúc con có trong thể này. Thày sẽ cho con vài gợi ý để thực hiện trong bài giảng này.

3.7. Cảm xúc không phải là của con

Như thày đã nói, nhiều người lớn lên với suy nghĩ là họ không thể làm được gì với cảm xúc của họ và họ cần kìm nén bất cứ điều gì khuấy động khiến cảm xúc tuôn trào. Như các thày đã giảng, chuyện gì xảy ra chứ? À, cảm xúc không phải là của con.

Như Đại thượng sư Maha Chohan đã giải thích, tất cả những cảm xúc tiêu cực, bất hài hòa đều đến từ các phàm linh. Con, tức nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết, không cảm nhận những cảm xúc này. Chính các phàm linh đang tạo ra các cảm xúc và con chỉ đang trải nghiệm cảm xúc vì con đang trải nghiệm cuộc sống xuyên qua phin lọc của các phàm linh. Chúng không phải là cảm xúc của con. Nhưng con yêu dấu, làm sao con thấy được điều này nếu con không nhìn vào cảm thể, nếu con không nhìn vào cảm xúc đó? Và làm sao con có thể nhìn vào các cảm xúc nếu con trấn áp hay phớt lờ chúng đi?

Chỉ có một cách duy nhất để thấy những cảm xúc này không phải của con và để con ngừng trốn chạy khỏi chúng, đó là con quay ngược lại và chạy thẳng vào các cảm xúc cho đến khi con đứng bên trong ngọn núi lửa dữ dội đó, hoặc cho đến khi con đứng trên lớp đá cảm xúc băng giá, lạnh ngắt đó. Chỉ khi con kết nối với cảm xúc đó rồi đi xuyên qua nó, thì con mới có thể thấy nó không phải là con. Nó ngay cả không phải là cảm nhận của con.

Cảm xúc này thậm chí cũng không phải là sản phẩm của những tư tưởng đặc trưng đã tạo nên một khuôn nếp phản ứng đối với các hoàn cảnh trên trái đất, bởi vì các tư tưởng thấp hơn, các tư tưởng vị kỷ dựa trên nỗi sợ tách biệt cũng do các phàm linh tạo ra. Thật sự con cũng không phải là cái bản sắc đang cảm thấy mình là con người bị giới hạn, bị giam trong một cái lồng và chỉ biết phản ứng dữ dội khi có ai đó rung lắc cái lồng. Con là nhận biết thuần khiết. Tuy nhiên, làm sao con biết được điều này cho đến khi con trải nghiệm được sự nhận biết thuần khiết?

Có thể nói khi con phóng chiếu chính mình lên tầng bản sắc, tức con là cánh cửa mở giữa cõi tâm linh và bốn cõi của thế giới vật chất, thì con mới trải nghiệm được nhận biết thuần khiết. Nhưng bằng cách nào, con yêu dấu, con lên được đến tầng bản sắc nếu con không đi xuyên qua các cảm xúc? Vì khi con hiện diện trong thân thể vật lý thì tâm ý thức của con trụ tại tầng vật lý. Như các thày đã nói, con có khả năng phóng chiếu chính mình vào bất cứ nơi nào con muốn, nhưng con lại không thể phóng chiếu thẳng vào thể bản sắc. À, theo lý thuyết thì con có thể làm vậy, nhưng đối với hầu hết mọi người điều này không thể được vì họ sẽ bị kéo vào cảm thể khi họ nỗ lực vượt khỏi cơ thể vật lý.

Đại đa số con người không thể đi trực tiếp vào bản sắc thể. Vậy làm sao họ vào được thể bản sắc và trải nghiệm được nhận biết thuần khiết? Chỉ bằng cách đầu tiên đi vào cảm thể, đi vào các cảm xúc rồi đi xuyên qua những cảm xúc này, sau đó đi vào trí thể, đi vào các tư tưởng rồi đi xuyên qua các tư tưởng này, sau đó đi vào bản sắc thể, đi xuyên qua ý niệm bản ngã cho đến khi con trải nghiệm nhận biết thuần khiết. Đây là điều có thể xảy ra với tất cả những ai sẵn lòng đi theo trình tự này và tiếp tục áp dụng nó.

Dĩ nhiên cũng có người có khả năng đi trực tiếp vào tầng bản sắc hay tầng tâm linh, nhưng họ có thể làm vậy bởi vì ở một thời điểm trong quá khứ, họ đã làm sạch cảm thể để cảm thể không lôi kéo họ vào những phản ứng đó.

3.8. Đồng hoá với cảm xúc

Điều các thày đang nỗ lực làm ở đây là giúp con phát triển khả năng và sẵn lòng đi vào cảm xúc, nối kết với cảm xúc và đi xuyên qua chúng. Các thày hiểu thoạt tiên điều này có thể đáng sợ, nhưng đây là lý do thày trao cho con các bài tập để con cầu thỉnh ánh sáng tâm linh. Vì khi con cầu thỉnh và tiếp tục cầu thỉnh ánh sáng tâm linh qua thời gian, thì ánh sáng sẽ bắt đầu làm sạch một số năng lượng tồn đọng đã biến cảm thể của con thành một vùng đất hoang vu lạnh lẽo hoặc thành một núi lửa sôi sục. Và khi cường độ của cảm xúc giảm xuống vài mức, thì con có thể dễ dàng đi vào các cảm xúc này hơn.

Nhưng tất nhiên, các thày biết điều này thậm chí vẫn có thể đáng sợ với những ai không quen đối mặt với cảm xúc, vì vậy các thày sẽ đề nghị nắm tay mỗi người và dẫn các con đi qua quá trình này. Các thày đề nghị con có thể lên khoá nhập thất ở tầng ether của các thày, của những chân sư thăng thiên, những đại diện của Mẹ Thiêng liêng. Con có thể đến học và khi con tới điểm làm điều này ở tâm ý thức thì con đã quen với quá trình này. Con biết được cảm giác như thế nào. Con biết nó không tệ như con nghĩ. Con biết con có thể sống sót khi đi vào địa ngục của cảm xúc vì con sẽ không bị thiêu cháy. Con sẽ không bị thiêu cháy. Con cũng sẽ không bị đóng băng và tê liệt. Sự thật sâu xa mà các thày muốn dạy con là cảm xúc là chìa khoá để chữa lành thân thể vật lý. Tại sao vậy?

Không phải các thày đã nói hay sao khi con khởi sự ở tầng bản sắc, con đối mặt với một cái gì rất nhẹ nhàng tinh khiết, nghĩa là ở tầng này mọi thứ đều dễ thay đổi? Khi con có mặt ở tầng bản sắc, bản sắc của con thay đổi khá dễ. Sau đó, khi con xuống đến tầng lý trí, ý niệm bản sắc của con tạo ra một số giới hạn đối với những lựa chọn con có thể thấy ở tầng lý trí, và điều này cũng tạo ra những giới hạn đối với những nơi mà tư tưởng của con có thể đi đến. Con hãy nhìn vào bao nhiêu người trên thế giới đã quyết định là một tôn giáo phải đưa ra sự thật tối hậu, vì vậy khi họ nỗ lực tìm các câu trả lời thì họ không dám vượt ra ngoài khuôn khổ các học thuyết và giáo điều của tôn giáo đó. Hay con hãy nhìn vào những người đã quyết định rằng chủ nghĩa duy vật đưa ra sự thật tối hậu và do đó họ không dám tìm câu trả lời nằm ngoài khung tham chiếu được quy định bởi quan điểm duy vật về cuộc sống. Dĩ nhiên điều này cũng áp dụng cho các hệ tư tưởng chính trị.

Nhưng khi con xuống tới tầng cảm xúc – và đây là một trong những lý do tại sao người ta sợ cảm xúc – con thấy chúng cứng chắc hơn tư tưởng. Một khi cảm xúc của con bị khoá chặt vào một con đường, giả dụ như một cơn giận – nghĩa là một khi con đã vượt quá ngưỡng của cơn giận – thì con biết việc kéo mình ra khỏi cơn giận sẽ khó hơn nhiều. Và con có hiểu lý do vì sao không?

Hãy xem người ta nói như thế nào về cảm xúc của họ: “Tôi đang giận. Tôi trở nên giận dữ. Anh ấy đã giận dữ”. Con thấy chuyện gì xảy ra ở đây không? Khi con nói “Tôi đang” hay “Tôi là”, con đang dùng một câu khẳng định ở tầng bản sắc, nhưng con đã kéo câu này xuống tầng tình cảm, và giờ đây con nghĩ con là cơn giận. Con chính là cơn giận. Con là một người giận dữ.

Ngay cả con có thể nói họ là những người giận dữ vì họ thường nổi giận, họ đáp trả bằng cơn giận. Đây là cảm xúc mặc định, cảm xúc tự động của họ, giống như những cảm xúc khác mà người ta có thể có khi phản ứng tự động đối với cuộc sống. Tất nhiên, điều này khiến mọi người rất khó thay đổi cảm xúc của mình, vì họ đã đồng hoá với cảm xúc. Nhưng nếu con nói “Tôi cảm thấy giận dữ” – có nghĩa, Tôi là một cái “Tôi” tách biệt với cảm giác giận dữ – thì con sẽ dễ bước ra ngoài cảm xúc đó. Nhưng khi con đồng hoá chính mình như trong câu “Tôi giận dữ” thì làm sao con bước ra ngoài cảm xúc đó? Điều này khó hơn rất nhiều.

3.9. Nhận lãnh trách nhiệm về các cảm xúc

Cảm xúc khó thay đổi hơn tư tưởng, và tất nhiên, như phần lớn các con đã trải nghiệm, tầng vật lý, bao gồm thể vật lý của con sau khi mắc bệnh, khó thay đổi hơn cả cảm xúc. Nhưng điều thày đang nói ở đây là con không thể thay đổi thể vật lý nếu con không thay đổi những cảm xúc của con.

Con cần hiểu điều quan trọng nhất ở đây là cảm xúc chỉ thay đổi được khi con nhận lãnh trách nhiệm. Và nhận lãnh trách nhiệm cho cảm xúc của mình nghĩa là trước hết con không trốn chạy chúng. Con không phớt lờ chúng. Con công nhận chúng có tồn tại. Nhưng một khía cạnh khác của việc nhận lãnh trách nhiệm là con đi vào các cảm xúc cho đến khi con đứng bên trong chúng và trải nghiệm năng lượng cảm xúc xung quanh con nhưng con không phải là năng lượng này.

Con có thấy dường như có sự trái ngược khi nói nhận lãnh trách nhiệm cho cảm xúc của mình thực sự là nhận ra chúng không phải là con? Nhưng đây là kết quả của việc đi vào các cảm xúc và trải nghiệm chúng chỉ là năng lượng đang xoay tít. Chúng thật sự không có ý nghĩa lâu dài, vì như các thày đã nói, cảm xúc là năng lượng đang chuyển động, là e-motion [trong Anh ngữ, emotion là cảm xúc, và e-motion viết tắt cho energy in motion có nghĩa là năng lượng đang chuyển động].

Khi con đồng hoá với cảm xúc, khi con nói: “Tôi đang giận” thì con nghĩ chúng có ý nghĩa dài hạn, phổ quát, rộng lớn. Con nghĩ, khi cơn giận của con trở nên đủ mạnh thì con cần hành động dựa trên cơn giận bởi vì phải có một thay đổi, phải có kết quả vật lý nào đó được biểu lộ. Nói cách khác, khi con vượt qua ngưỡng cửa và thấy rằng “Tôi đang giận”, thì con lập tức bước vào suy nghĩ và cảm xúc là con phải hành động dựa trên cơn giận đó. Con phải bộc lộ nó. Nó phải được bộc lộ ở tầng vật lý bằng một kiểu hành động nào đó.

3.10. Con không cần hành động dựa trên cảm xúc

Nhưng khi con nhìn vào cảm xúc, đi vào cảm xúc và đứng ngay bên trong quả bóng cảm xúc đang cuồn cuộn, thì con thấy là bên trong nó chỉ là sự trống rỗng. Thật vậy, khi đó con thấy được sự tĩnh lặng bên trong năng lượng đang chuyển động như thể con đang đứng ở hạt nhân của một nguyên tử và nhìn các hạt hạ nguyên tử xoay tít xung quanh. Và đó là lúc con trải nghiệm trực tiếp bằng trực giác – con có thể ngộ nhập (gnosis) sự trải nghiệm – rằng năng lượng cảm xúc chỉ là năng lượng. Nó không có ý nghĩa rộng lớn, trọng đại hay dài hạn. Con không cần hành động theo nó. Con không cần chuyển nó thành hành động vật lý.

Con yêu dấu, khi con bắt đầu có trải nghiệm này thì vài điều có thể xảy ra. Con có thể tới điểm con không còn cho phép các năng lượng tiêu cực phóng chiếu lên các tế bào của thể vật lý. Vì vậy, con có thể giải phóng các tế bào khỏi những phóng chiếu liên tục của năng lượng cảm xúc tiêu cực đã khiến các tế bào biểu lộ một căn bệnh vật lý. Và tất nhiên đây là chìa khoá chữa lành thể vật lý, vì như các thày đã nói, mọi thứ đều là sự phóng chiếu của các hình tư tưởng.

Có một sự phóng chiếu – một khuôn đúc bản sắc đặc thù – đang tồn tại trong bản sắc thể của con. Khi ánh sáng từ cái ta tâm linh, tức Hiện diện TA LÀ của con, chảy xuyên qua bản sắc thể, nó khoác lấy hình dạng của khuôn đúc đó. Tương tự như một máy chiếu phim chiếu hình ảnh đó lên trí thể. Nhưng sau đó có một hình ảnh khác trong trí thể và hình ảnh này được phóng chiếu vào các cảm xúc và tại đây, lần nữa, hình ảnh này bị thay đổi bởi những gì có trong cảm thể của con. Rồi hình ảnh cuối cùng được phóng chiếu lên các tế bào của cơ thể vật lý của con.

Làm sao con chữa lành được một căn bệnh vật lý do sự phóng chiếu từ cảm thể nếu con không thay đổi sự phóng chiếu này? Và làm sao con thay đổi sự phóng chiếu này nếu con không đi vào cảm xúc và nhận ra con không cần hành động theo chúng? Chúng chỉ là năng lượng đang xoay tít và thật sự con có khả năng chuyển hoá, tiêu huỷ và nâng chúng lên một rung động cao hơn ở tầng cảm xúc trước khi chúng tuôn chảy vào tầng vật lý.

Đây chính xác là những gì con cần làm bằng cách sử dụng các dụng cụ mà các thày đã cho con qua các bài thỉnh. Khi con đọc lớn ở tầng vật lý, con không chỉ có mặt ở tầng vật lý, mà con còn đi vào cảm thể, trí thể và bản sắc thể. Con vượt qua khỏi cõi vật lý để đi vào các cõi khác.

Con có thấy điều các thày đang làm ở đây là giải phóng tất cả các khía cạnh trong bản thể của con để con có thể tuôn chảy với Bài ca sự Sống không? Nhưng con có thấy là chừng nào cảm thể con còn bị đóng băng, rõ ràng nó không thể tuôn chảy phải không? Nhưng ngay cả khi cảm thể con là một ngọn núi lửa dữ dội thì nó cũng không tuôn chảy được vì các dòng chảy hỗn loạn của ngọn núi lửa sôi sùng sục có rất ít khả năng cùng nhau chảy về đại dương. Dòng chảy này không theo một ý hướng xây dựng nào, và đó là lý do tại sao nhiều người bị kẹt vào những tình huống ngày càng khó khăn cho đến khi nó bùng nổ thành cơn khủng hoảng và họ bị tê liệt đến độ họ không biết phải làm gì nữa.

3.11. Cách duy nhất là tuôn chảy

Điều các thày muốn làm cho con ở đây là cho con một viễn kiến, đó là việc con có mặt ở đây có một mục đích, con đến trái đất này vì một mục đích. Con không đến trái đất đơn giản để chỉ có những cảm xúc tiêu cực, để chỉ cảm thấy buồn bực về cuộc sống, để cảm thấy cuộc đời không đáp ứng những mong chờ của con và để dành cả cuộc đời cảm thấy chán nản vì cuộc đời đã không như con nghĩ, và vì vậy con liên tục ở trong trạng thái cảm xúc bị khuấy động. Đôi khi con đóng cửa cảm xúc lại đến độ con không còn mong chờ điều gì ở cuộc sống nữa, con nghĩ cuộc sống phải là sự cam chịu cho đến khi con xong phận sự và thoát ra khỏi đây. Nhưng con sẽ không thoát ra được cho đến khi con xuôi chảy khỏi nơi đây cùng với Dòng sông sự Sống. Không có lối thoát nào khỏi cõi đầu thai vật lý. Con sẽ trở lại đầu thai thêm nhiều lần trong những hoàn cảnh càng ngày càng khó khăn hơn cho đến khi con học được cách sử dụng khả năng đồng sáng tạo để tuôn chảy với Dòng sông sự Sống, để rồi con có thể đồng sáng tạo cách giải thoát của riêng mình thay vì mong chờ một vị cứu tinh từ bên ngoài làm điều này cho con.

Tất nhiên, có một vị cứu tinh từ bên ngoài và đó là Dòng sông sự Sống. Khi con hoà điệu tâm mình và các cảm xúc của mình với Dòng sông sự Sống đó, con sẽ bắt đầu tuôn chảy. Cuộc sống sẽ bắt đầu tuôn chảy. Những cảm xúc lạnh giá bắt đầu tan như con thấy băng tan vào mùa xuân, và rồi đột ngột dòng sông lạnh giá bắt đầu nứt, những khe băng nứt ra và nước bắt đầu chảy xuống hạ nguồn. Rồi nước ấm dần, băng tan, và đột nhiên có những mảng hở trên dòng sông, nước bắt đầu chảy nhanh hơn cho đến khi nó ra đến đại dương. Và dòng sông có mặt, mùa xuân có mặt.

Hoặc con thấy một núi lửa sôi sục thình lình tìm thấy một chỗ thoát vì vậy nó bắt đầu chảy và khi nó chảy, nó nguội dần, rồi đột ngột con tự do khỏi những khuôn đúc của việc đi từ cảm xúc tiêu cực này đến cảm xúc tiêu cực kia, đi từ hoàn cảnh kích động này đến hoàn cảnh kích động kia. Cuộc sống của con giờ đây tự do tuôn chảy, tuôn chảy theo những hướng đi mới để con có thể thay đổi một điều gì.

Thày chắc rằng con đã quen với câu nói nổi tiếng của Albert Einstein: nếu con tiếp tục làm cùng một việc và mong chờ kết quả sẽ khác đi thì con thật điên rồ. Thật vậy, Einstein đã chỉ ra một nguyên lý vũ trụ. Khi con phóng chiếu cùng những khuôn đúc bản sắc vào trí thể, cùng những khuôn đúc tư tưởng vào cảm thể, và cùng những khuôn đúc cảm xúc phóng lên các tế bào và các nguyên tử của thể vật lý, thì không gì có thể thay đổi được.

Căn bệnh biểu lộ trong thể vật lý của con không thể thay đổi vì nó là sự phóng chiếu từ ba thể cao. Vì vậy, nếu con muốn thoát khỏi sự điên rồ này, con phải làm một điều gì khác. Có nghĩa là con phải học cách cho cảm xúc tuôn chảy theo hướng đi lên, chứ không phải đóng băng cảm xúc hay rơi vào các khuôn nếp khuấy động lặp đi lặp lại.

3.12. Ba loại cảm xúc chính

Có hai loại cảm xúc chính vận hành thể cảm xúc của đa số mọi người. Một là sợ hãi khiến con bị tê liệt và đóng băng. Cảm xúc kia là tức giận, khiến con bị khuấy động. Và loại cảm xúc cơ bản thứ ba mà các thày gọi là thờ ơ, tức con không thật sự đóng băng cũng không nóng giận và sôi sục, con chỉ đơn giản không chịu để ý. Con không chịu dùng khả năng tự nhận biết của mình để ý thức môi trường xung quanh con, nhận biết chính mình cũng như tiềm năng tự thay đổi mình.

Khi con đóng băng, con không thể thấy được phải thay đổi như thế nào. Khi con sôi sục, con không thể thấy được phải thay đổi như thế nào. Khi con thờ ơ, lãnh đạm, con có thể thấy cách thay đổi nhưng con sẽ không thay đổi. Vì vậy con tiếp tục phản ứng với cuộc sống mà không chấp nhận rằng con không cần phải tiếp tục phản ứng cùng cách như vậy, vì con có thể thay đổi một điều gì đấy.

Và đây là cái hay của bài thỉnh đối với cảm thể. Khi con đọc bài thỉnh, nó sẽ bắt đầu thay đổi cảm xúc của con. Nó sẽ bắt đầu giúp cho cảm xúc tuôn chảy. Và khi con quyết định ý thức là con muốn cảm xúc tuôn chảy, con muốn đi vào các cảm xúc – đi vào các cảm xúc tiêu cực và với lên cảm xúc tích cực – thì sự thay đổi sẽ bắt đầu xảy ra.

Sự thay đổi này nhiều hay ít sẽ tùy thuộc vào con, vì không bài thỉnh nào có thể đi ngược lại quyền tự quyết của con. Nhưng nếu con hỏi các thày, hỏi một trong những vị nữ chân sư gần với tim con nhất, thì các thày sẽ giúp con tới điểm con có thể quyết định để cảm xúc tuôn chảy. Thày có thể bảo đảm với con một khi con bắt đầu để cảm xúc tuôn chảy trong lúc đang cầu thỉnh, đang đọc tất cả các bài thỉnh, thì các cảm xúc thoạt tiên chỉ đơn giản cần bộc lộ để khôi phục lại dòng chuyển động, nhưng sau đó chúng sẽ bắt đầu chuyển động theo một hướng, và hướng này là hướng đi lên, tích cực. Và khi cảm xúc của con bắt đầu xoay hướng về tầng cao hơn đó, con sẽ không còn phóng chiếu những cảm xúc tiêu cực lên các tế bào trong cơ thể vật lý của con. Bây giờ con sẽ chỉ còn những cảm xúc tích cực.

3.13. Hãy kiên nhẫn

Tất nhiên, thày cần lưu ý con ở đây. Con có lẽ đã sống vô số kiếp sống phóng chiếu ra những cảm xúc tiêu cực vào thể vật lý. Cảm xúc tiêu cực không thể gỡ bỏ được sau chỉ một đêm mặc dù chúng có thể được gỡ bỏ trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, khá ngắn so với khoảng thời gian con đã bỏ ra để tạo nên động lực tiêu cực này. Nhưng dẫu sao, một trong những ưu điểm của cảm xúc là cảm xúc không diễn ra ngắn ngủi như tư tưởng, và điều này có nghĩa là chúng có thể cho con một sự quyết tâm tu tập lâu dài hơn.

Ví dụ, con sẽ thấy khi người ta có một mục tiêu tích cực và một cảm nhận tích cực để đạt được mục tiêu đó, thì những cảm xúc này sẽ khiến họ theo đuổi được mục tiêu trong khoảng thời gian rất dài. Đây là cảm nhận thày hy vọng sẽ khơi dậy trong con để con không chỉ đọc các bài thỉnh trong vài ngày và rồi nản chí khi không có phép lạ nào xảy ra.

Con sẽ có cảm nhận tích cực, và cảm nhận này dần dần sẽ được mở rộng và bồi đắp. Con sẽ tiếp tục dùng các dụng cụ của thày, tiếp tục tìm kiếm những trải nghiệm trực giác mới mẻ bằng việc học giáo lý và đọc các bài thỉnh. Con sẽ giản dị tiếp tục không dính mắc vào một kết quả vật lý vì con nhận ra mặc dù phải cần thời gian để đạt được một kết quả vật lý, nhưng chẳng bao lâu con sẽ nhận thấy con đạt được những kết quả ở tầng tình cảm, lý trí và bản sắc, vì con bắt đầu cảm thấy yêu đời và yêu bản thân mình hơn. Con sẽ bắt đầu suy nghĩ tích cực hơn, con sẽ bắt đầu ngộ ra và chấp nhận mình là một sinh thể tâm linh, và con có mục đích, một mục đích tích cực để có mặt ở đây.

À con yêu dấu, nếu con chỉ cho những bài thỉnh này một cơ hội, cho các thày một cơ hội được hướng dẫn con, thì con sẽ bắt đầu trải nghiệm việc chữa lành ở tất cả mọi tầng của đời con. Đừng quá ám ảnh với một kết quả vật lý đặc thù đến mức con bỏ qua những kết quả khác, vì thật sự việc chữa lành ở tầng vật lý có thể gặp khó khăn, hay ít nhất có thể phải mất thời gian, vì nguyên nhân bị chôn vùi rất sâu ở ba tầng cao hơn.

3.14. Những căn bệnh không thể chữa lành

Có thể có nhiều lý do tại sao con mắc một căn bệnh nào đó: có thể là để giúp người khác học một bài học, hoặc để giữ một cân bằng tâm linh nào đó cho tâm thức tập thể. Vì vậy, có những căn bệnh hay những khuyết tật mà con phải học cách sống chung. Nhưng một phần của sứ vụ thiêng liêng của con trong các trường hợp này là học cách sống chung với căn bệnh theo cách tích cực nhất, để cho dù nếu con có mắc bệnh hay tàn tật, con có thể hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của mình, con vẫn có thể là một con người tích cực giúp nâng cao tâm thức mọi người xung quanh.

Điều thày đang nói đây là con có thể dần hiểu ra, và các thày sẽ giúp con hiểu ra liệu căn bệnh có là một phần trong sứ vụ thiêng liêng của con. Sau đó, các thày sẽ giúp con học cách ứng phó với tình trạng này theo cách cao nhất. Đôi khi, sự chữa lành có thể xảy ra khi con thật sự làm hoà với căn bệnh. Nhưng nếu con thật sự làm hoà với căn bệnh thì việc con có chữa lành được hay không không còn quan trọng với con nữa, vì con đang sống cuộc đời mà con muốn sống đúng theo sứ vụ thiêng liêng của con, là sứ vụ mà con đã quyết định thảo ra cùng với các vị thày thiêng liêng của con trước khi con đầu thai kiếp này, và đây chỉ là một trong nhiều kiếp đầu thai mà thôi. Do đó, khi con bắt đầu hiểu ra điều này, con đạt được viễn quan vũ trụ là những gì xảy ra cho cá nhân mình không thật sự quan trọng, vì so với phần vụ ngắn hạn của mình trong Nhà hát Địa cầu thì việc hoàn thành mục tiêu dài hạn mới là quan trọng hơn.

3.15. Phép lạ

Quan Âm TA LÀ. Thày là Nữ thần Bi mẫn. Những người mong phép lạ thường cầu nguyện thày. Tuy nhiên, phép lạ luôn luôn là sự chuyển đổi trong tâm thức. Chỉ khi sự chuyển đổi này xảy ra thì mới có phép lạ vật lý. Rồi khi sự chuyển đổi đã thật sự xảy ra, phép lạ ở đâu nếu không phải là ở nơi con nhìn chính cuộc sống như một phép lạ thường xuyên trải bày ra vẻ đẹp lạ thường, mức độ tinh xảo phức tạp hầu như không tài nào hiểu nổi mà con chứng kiến trong toàn bộ cơ thể vật lý, các tế bào, các nguyên tử và các hệ thống của cơ thể. Hay con bắt gặp vẻ đẹp này trong vũ trụ, trong điệu vũ bao la của các thiên hà và các thái dương hệ. Tất cả xung quanh con mới đẹp làm sao. Tất cả bên trong con mới đẹp làm sao. Vì mặc dù cơ thể con người ngày nay có thể chưa phải là bản thiết kế cao nhất, nhưng con vẫn tìm thấy một vẻ đẹp kinh ngạc trong các tế bào, trong các nguyên tử, trong các bộ phận cơ thể con, trong cách mọi thứ được hoà tấu trong vũ khúc vũ trụ này.

Thày biết khi con mắc phải một căn bệnh vật lý, có lẽ con hay tập trung vào những điều hoạt động không tốt. Nhưng thỉnh thoảng, con hãy cho phép mình nhìn ngắm phép lạ của hàng nghìn tỷ tế bào được sắp xếp trong một tổng thể nhất quán và thật sự vận hành khiến cơ thể chuyển động và làm được nhiều điều trong thế giới vật lý. Đây không phải là phép lạ con đang nhìn thấy sao? Đây không phải là phép lạ hay sao khi con nhận ra lúc con không can thiệp vào các chức năng của cơ thể bằng một bản sắc giới hạn, tư tưởng giới hạn và những cảm xúc không có tính xây dựng, thì bốn tinh linh – những tinh linh cơ bản điều khiển sự tăng triển của các thể – có khả năng lẫn ý muốn để biểu lộ bản thiết kế hoàn hảo, thậm chí cả ở thể vật lý?

Con hãy suy ngẫm điều này. Con hãy suy ngẫm những bài giảng khác mà các thày đã ban ra và sẽ còn ban ra. Nhưng trước hết, con hãy đọc các bài thỉnh và trong thâm tâm hãy luôn suy ngẫm đến việc hòa điệu với dòng chảy của Dòng sông sự Sống, vì sự hoà điệu này là chìa khoá để chữa lành tất cả. Cho dù bất cứ ai nói gì, cho dù ai đưa ra cách chữa trị bài bản hay thần kỳ nào, thì thật sự chỉ có một phép màu và đó là tuôn chảy với Dòng sông sự Sống. Con hãy tuôn chảy, tuôn chảy, tuôn chảy, tuôn chảy. Đây là chìa khoá mà thày trao cho con trong khuôn đúc này, khuôn đúc chữa lành mà các thày gọi là Bài ca sự Sống.

Vậy con hãy ca hát với các thày và để năng lượng của mình tuôn chảy. Hãy để tư tưởng của mình tuôn chảy. Hãy để bản sắc của mình tuôn chảy càng lúc càng cao hơn đến khi con trở thành cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ biểu lộ xuyên qua con bản thiết kế hoàn hảo cho kiếp sống này.

Quan Âm TA LÀ, và với lòng biết ơn thày trao cho con sự an bình của thày.

Lưu ý: Bài thỉnh đi kèm với chương này là: Bài ca Sự sống 3 – Một cảm thể mới

Bài ca sự Sống 2 – Một tâm trí mới

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Nada và Mẹ Mary, hãy chữa lành bốn thể phàm của con, đặc biệt là xin các thày chuyển hóa thể tư tưởng của con. Con muốn được giải thoát khỏi mọi ảo tưởng nhị nguyên, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Khi đấng Cha và đấng Mẹ hợp nhất,
con thấy đấng Con vươn lên cao ngất.
Quân bình Ki-tô chính là chìa khóa,
đối cực không thể bắt con đày đọa.

Khi con trụ tâm vào cái Một này,
quân bình nội tại, con đạt được ngay.
Hiện diện TA LÀ làm được thấu triệt,
mọi điều nó muốn qua cái Ta Biết.

Khi con quân bình Âm Dương với nhau,
chiến thắng Ki-tô con đạt nhiệm mầu.
Khi con thăng vượt Ma vương hung hiểm,
qua bát chánh đạo con sẽ thăng thiên.

Hành trình Thánh cầu, con đã bước xong,
thử thách vi tế, con đã làm tròn.
Theo thày Giê-su, con buông hồn ma,
Phật Gautama chỉ con an hòa.

Cùng thày Maitreya, con tự do,
Sanat Kumara mừng trò nhỏ.
Alpha Omega hợp nhất nay,
tại Mặt trời Trung ương, con cùng thày.

Điểm nối kết, hình số tám thanh tú,
của cả hai ngài mở cổng hoàn vũ.
Trong đấng Sáng tạo, con nay an trú,
CON LÀ thái cực của Ngài nghìn thu.

Khi con trở về hành tinh trái đất,
một cái Ta mới sinh ra rất thật.
Con biết điều gì tốt cho tất cả,
Ý chí Thượng đế thị hiện lộ ra.

1. Không có tâm tách biệt

1.1. Con dõi mong tìm diệu đế uyên thâm,
sự thật đó là tất cả là tâm.
Nếu muốn thăng vượt vai trò con vướng,
con phải điều ngự cái tâm ngang bướng.

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.2. Nhưng điều khiển tâm có sự lắt léo,
vì tâm tách biệt không thật, chớ theo.
Cái tâm tách biệt, chẳng có mà tìm,
phải buông bỏ đi, ý niệm vô minh.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.3. Cái tâm lầm tưởng nó riêng tách biệt,
chính là một phần tâm lớn minh triết.
Sự thật thiêng này, khi con nắm vững,
như ngã tách biệt, con không phản ứng.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.4. Tăm tối hay là nổi danh khắp cả,
con thấy chỉ là trò hề tự ngã.
Vì khi tìm cách nâng cao ngã riêng,
chân sư không khen, con nên buông liền.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.5. Con tìm cách là cánh cửa rộng mở,
không hơn không kém, con không nghi ngờ.
Hiện diện TA LÀ con theo trìu mến,
tâm con là một chẳng còn hai bên.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.6. Con muốn đi theo con đường Trung đạo,
vượt lên nhị nguyên, tâm con sáng tạo.
Con hiểu mưu xưa của chính Ma vương,
né tránh đối cực, con đi đúng đường.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.7. Tự ngã riêng biệt, con buông bỏ ngay,
Hiện diện TA LÀ, con là dưới đây.
Giờ đây con thấy qua mắt thuần nhất,
vạch trần dối gian, Satan giả thật.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.8. Dòng sông sự Sống, con theo tuôn chảy,
con là nối dài Thượng đế dưới đây.
Con không rời bỏ tâm hợp nhất đâu,
con là một phần tâm Phật nhiệm màu.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

1.9. Tâm Phật giúp con thoát khỏi mù lòa
của lời gian dối đến từ tự ngã.
Trong ý chí Cha, tình Mẹ chan chứa,
Ki-tô nâng con lên cao hơn nữa.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2. Vượt thăng đấu tranh cuồng đại

2.1. Tâm muốn cho con cảm thấy như thể
con phải giải quyết vấn đề nó chế.
Tâm nói dối trá bẻ quẹo rỉ tai
rằng con phải thắng trận chiến cuồng đại.

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.2 Tâm nào là một hệ thống đóng cửa,
sẽ dễ lâm vào sai lầm khó sửa.
Nó muốn tìm được bất tử dài lâu,
xuyên qua nhị nguyên của rắn hư xấu.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.3. Vì đối cực luôn có sự nối kết,
vì vậy nên khi một bên bị diệt,
đối cực còn lại cũng bị đẩy văng,       
như vậy nào đâu có được chiến thắng.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.4. Cuộc chiến cuồng đại sẽ không chấm dứt,
cho đến khi con vượt thăng tâm thức.
Con chỉ giản dị quay lưng bước ra,
từ chối không chơi trò chơi tự ngã.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.5. Khi con không muốn giải quyết vấn đề,
tự ngã tách biệt, con sẽ giải thể.
Con buông bỏ được tách biệt u mê,
trong tâm hợp nhất, thành công mang về.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.6. Cái tâm tách biệt sẽ muốn định ra,
cái ngã dựa vào “của ta”, là “ta”,
Từ bỏ “của ta” và niệm sở hữu,
tâm con thực là dòng chảy luân lưu.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.7. Con nay buông bỏ dõi tìm phù phiếm,
cái ngã đứng yên, con thôi tìm kiếm,
Con thấy tâm mình sẽ chẳng đứng yên,
ý muốn sáng tạo nó luôn biểu hiện.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.8. Phương cách duy nhất để kiện toàn tâm,
chính là chuyển hướng nơi con chú tâm.
Khi con làm chủ sự tập trung này,
thì tâm không giống như bãi cát lầy.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

2.9. Khi con không còn tìm cách giữ chặt
tâm trong nếp gấp cũ xưa nghiêm ngặt,
vượt lên cứng ngắc, hoa tâm hé nở,
con nay sáng tạo vô biên không bờ.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3. Tâm con tái sinh

3.1. Tâm là tập đoàn độc tài muốn chọn,
và muốn áp đặt tương lai của con.
Tự ngã nói rằng những chọn lựa cũ
quyết định tương lai, con cần tuân thủ.

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.2. Nhưng chính ngay cả nghiệp duyên mãnh liệt
không thể kiềm giữ nhận biết thuần khiết.
Vì con có thể chọn lựa nghĩ lại,
tâm con tươi mới như hạt sương mai.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.3. Và khi con nhìn với tâm trẻ thơ,
tìm lại thơ ngây, hồn con rạng rỡ.
Giờ con bỏ lại quá khứ giới hạn,
mở ra tương lai bát ngát ngút ngàn.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.4. Khi tâm con được tự do rong chơi,
tìm đường về nhà, ngôi sao diệu vợi.
Tư tưởng của con không đến từ dưới,
nhưng do Hiện diện từ trên cao gửi.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.5. Đâu còn gì phải suy ngẫm rối mơ,
Hiện diện biết rõ không chút nghi ngờ,
việc nào nên làm, việc nào chân chính,
cho nên con theo Hiện diện của mình.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.6. Không có nhu cầu phân tích chi li,
với trí năng này tưởng là khôn nhỉ?
Không có nhu cầu phải hỏi “tại sao”,
đâu cần biện minh, giải thích thế nào.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.7. Con hướng tâm mình theo đường chân chính,
dẫn con đi về nguồn cội của mình.
Mọi tư tưởng kém, con buông bỏ lại,
xuôi theo dòng thiêng, con thăng tiến hoài.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.8. Giờ đây tâm con thật sự tự do,
cái tâm tinh xảo, con không cần nó.
Rắn không nắm con vì con buông bỏ,
vì con chỉ còn ham muốn tự do.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

3.9. Con nay trở về khu vườn Eden,
thày ôi bài học, thấm sâu trọn vẹn.
Hợp nhất với tâm thày Maitreya,
Mọi dạng “tâm từ”, con làm chủ cả.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4. Giành lại sự ngây thơ

4.1. Nhờ con tỉnh dậy tìm lại ngây thơ,
nội giác của con tốt hơn rạng rỡ.
Rõ như pha lê, chân lý con thấy,
chính tâm tạo ra cõi vật chất này.

Chân sư Nada, hồng ân toàn vũ,
tràn đầy tâm con, mời thày đến trụ.
Bài hát của thày là liều thuốc thiêng,
tâm con lắng xuống, một biển bình yên.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.2. Con nhận ra tâm là một tổng thể,
con muốn nâng cao tâm hồn tập thể.
Không còn chỗ cho cái “ta”, “của ta”,
một thế giới mới con sẽ định ra.

Chân sư Nada, trong tâm Phật thày,
con tìm thấy rồi bình an nội tại.
Con hát vọng lại bài ca thày đây,
tâm con thâm nhập tình yêu của thày.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.3. Con vượt lên trên phê bình lên án,
con nhìn qua mắt tình thương trong sáng.
Lời gian “tốt, xấu”, con nhất quyết buông,
nó được chế ra cho tâm loạn cuồng.

Chân sư Nada, nét đẹp siêu phàm,
con theo chân thày vượt cả thời gian.
Cùng thày chìm lắng trong âm vô thinh,
tái tạo vũ trụ, mênh mang an bình.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.4. Dùng chia để trị là mưu kế gian,
của bọn người xấu chỉ muốn phá tan.
Nhưng nếu chúng con chìa má còn lại,
trái đất được trao cho người hiền ái.

Chân sư Nada, tương lai con đoán
rằng tâm Ki-tô chẳng gì giới hạn.
Với tâm của Phật, chúng con sáng tạo
một tương lai mới, tốt hơn thuở nào.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.5. Cùng với Ki-tô giơ tay từ ái,
với cả những ai thuộc đoàn quỷ quái.
Những ai bác bỏ tình thương vũ trụ,
phán quyết Ki-tô sẽ phải tuân thủ.

Chân sư Nada, mình sẽ viết lại
tương lai không còn vũ lực sai trái.
Khi tâm Ki-tô là vua trong lòng,
con thấy Ki-tô trong từng sự sống.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.6. Trên đá Ki-tô, con tỏ lập trường,
tâm yên vững chắc, trước bao khinh thường.
Chúng bị bứng đi ra khỏi trái đất,
một thời Hoàng kim hiện ra rất thật.

Nada, hòa bình là chuyện bình thường,
Tánh Linh của con vượt lên hình tướng.
Con không tuân theo sắc hình ảo tưởng,
khả năng tiềm ẩn, con dụng tận tường.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.7. Những ai đi vào hợp nhất an trụ,
cùng chung nhận được hồng ân toàn vũ.
Tâm của chúng ta thành ngọn sóng cả,
nâng trái đất này, cái chết vượt qua.

Chân sư Nada, niềm vui rạng rỡ,
con hưởng đời sống, bình an ngây thơ.
Con được cho mình những phút vui sướng,
rối dương con sáng như vầng thái dương.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.8. Con thấy kia rồi tương lai hợp nhất,
mọi người thoát khỏi tách biệt sai trật.
Vì chúng con bỏ trò chơi quỷ xấu,
chúng con giành lại ngây thơ ban đầu.

Chân sư Nada, phụng sự là chính,
để sống chân thực, nâng cao chúng sinh.
Sự sống là một, con thấy trong sâu,
phụng sự tối cao, con sẽ bắt đầu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

4.9. Và Trái đất Mẹ nở một nụ cười,
biết bao lâu rồi mới thấy được tươi.
Các con của mẹ nô giỡn vui sao,
Vì khởi đầu mới, chúng con đón chào.

Chân sư Nada, nay ta tuyên cáo,
thế gian vui hưởng, vô ưu ngọt ngào.
Cùng với Giê-su con đạt thánh cầu,
nước Trời thể hiện an bình dài lâu.

Giai điệu huyền bí của thày Nada,
giúp tâm con luôn tự do thong thả. 
Con hòa với thày điều khiển hợp tấu,
an bình miên viễn, con xin thỉnh cầu.

OM AH HUM, NADA GURU PADME SIDDHI HUM

(Tụng niệm 9 lần, 33 lần hay nhiều hơn)

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Nada và Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

Bài ca sự Sống 1 – Một bản sắc mới

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Maraytaii và Mẹ Mary, hãy chữa lành bốn thể phàm của con, đặc biệt là xin các thày chuyển hóa thể bản sắc của con, ý niệm bản ngã của con. Con muốn thăng vượt tất cả mọi ảo tưởng về một cái ngã tách biệt, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Khi đấng Cha và đấng Mẹ hợp nhất,
con thấy đấng Con vươn lên cao ngất.
Quân bình Ki-tô chính là chìa khóa,
đối cực không thể bắt con đày đọa.

Khi con trụ tâm vào cái Một này,
quân bình nội tại, con đạt được ngay.
Hiện diện TA LÀ làm được thấu triệt,
mọi điều nó muốn qua cái Ta Biết.

Khi con quân bình Âm Dương với nhau,
chiến thắng Ki-tô con đạt nhiệm mầu.
Khi con thăng vượt Ma vương hung hiểm,
qua bát chánh đạo con sẽ thăng thiên.

Hành trình Thánh cầu, con đã bước xong,
thử thách vi tế, con đã làm tròn.
Theo thày Giê-su, con buông hồn ma,
Phật Gautama chỉ con an hòa.

Cùng thày Maitreya, con tự do,
Sanat Kumara mừng trò nhỏ.
Alpha Omega hợp nhất nay,
tại Mặt trời Trung ương, con cùng thày.

Điểm nối kết, hình số tám thanh tú,
của cả hai ngài mở cổng hoàn vũ.
Trong đấng Sáng tạo, con nay an trú,
CON LÀ thái cực của Ngài nghìn thu.

Khi con trở về hành tinh trái đất,
một cái Ta mới sinh ra rất thật.
Con biết điều gì tốt cho tất cả,
Ý chí Thượng đế thị hiện lộ ra.

1. Con là một sinh thể của ánh sáng

1.1. Từ mắt đơn nhất, con nhìn sự thể,
cái gọi là “Ta” thật ra hơn thế.
Vì cái CON LÀ, từ Ánh sáng Thiêng,
con xuống phàm trần, từ cõi cao thiêng.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin gióng tiếng chiêng,
gọi con về nhà, con thuộc nơi đó,
Con biết mẹ đây yêu con thánh thiện,
trong niệm biết này, con được tự do.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

1.2. Con đã đến đây từ dạ hoàn vũ,
nên con phá tan nấm mồ phàm phu.
Con sinh ra là Đốm Sáng Tánh Linh,
để đem ánh sáng vào chốn u minh.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin ôm con chặt,
con cộng hưởng theo ánh sáng mẹ dắt.
Nhạc mẹ thanh tẩy tim con vô ngã,
tình yêu của mẹ, con ban tất cả.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

1.3. Chính Đấng Sáng tạo sinh con ấp ủ,
Ngài sinh con trong Hỷ lạc Hoàn vũ,
Từ tình thương tới, tình thương con về,
trong dòng chảy Mẹ, vượt thăng ngã thể.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, hợp nhất với mẹ,
tim mẹ rực lên mặt trời sáng chói.
Tâm con khuếch đại âm thanh của mẹ,
thánh âm mẹ hiền phóng to khắp cõi.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

1.4. Con đã bắt đầu như chấm giữa trời,
con tìm cái ta trường cửu muôn đời,
bằng cách luôn luôn tìm cầu hơn nữa,
vượt thăng khỏi cái con là trước xưa.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con nghe thấy liền,
âm vi tế của Bầu cõi Thiêng liêng.
Tâm con hòa điệu Âm Ngân Vũ trụ,
vượt lên ngã nhỏ, con tinh tấn tu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

1.5. Nhận biết thuần khiết là cốt lõi con,
ý niệm bản ngã vẫn còn thơ non.
Nhưng con có được tiềm năng thiêng linh
trở thành Thượng đế đã tạo sinh mình.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, đưa con về nhà,
con hòa điệu theo Thánh ngữ OM đây, 
Âm của mọi âm nâng con cao mãi,
chỉ còn ánh sáng trong chén con đầy.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

1.6. Khi con tuôn chảy với chính dòng sống,
giấc mơ Thượng đế, con hoàn thành xong,
mở rộng cái ta từ chấm đơn nhất,
tới mức Ngài phong là Thượng đế thật.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con là một phần
bài nhạc giao hưởng từ vũ trụ ngân.
CON LÀ nhạc khí thanh âm trong sáng,
dạo lên âm thánh từ cõi thiên đàng.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

1.7. Mục đích đặt ra rõ chắc từ đầu,
Nhưng hành trình này vẫn chưa xong đâu.
Hành trình mới là điều con vui hưởng,
không gì ngăn con tiến bước trên đường.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con xin thỉnh cầu
bước vào sảnh đường âm nhạc thiêng liêng.
Con sẽ hòa nhập dòng sống vươn lên
tới bầu trời cao sao sáng nhiệm màu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

1.8. Khi con chiêm nghiệm đời mình trải ra,
con thấy kế hoạch Ngài sao táo bạo,
vì chính thực khi con tự vượt thăng,
tiến triển của con vô tận chiến thắng.

Ôi Mẹ Hoàn vũ so dây đàn con,
toàn bản thể con cùng hát với mẹ.
Bài ca của mẹ, con dội âm theo,
tình yêu hoàn vũ con vui mừng đón.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

1.9. Mọi tâm thức là một dòng tuôn chảy,
giống ánh dương trong, là cái ta này.
Thượng đế cho con có tự nhận biết,
chuyển hóa cái ta con phải mài miệt.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con yêu chất ngất,
tình ca của mẹ, giữ con chân chất.
Mẹ đổ đầy con thánh âm rất thật,
có mẹ đây rồi, cô đơn biến mất.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

2. Thức tỉnh khỏi ảo tưởng

2.1. Từ đáy tim mình, con mong tìm ra,
ý niệm bản ngã chân thật con là.
Chứng minh con đây không từ cát bụi,
ý nghĩa đời mình phải thấy mới vui.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin gióng tiếng chiêng,
gọi con về nhà, con thuộc nơi đó,
Con biết mẹ đây yêu con thánh thiện,
trong niệm biết này, con được tự do.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

2.2. Cái ta bắt đầu một quỹ đạo mới,
như một hành tinh xoay quanh mặt trời.
Hiện diện TA LÀ chính nhà con đó.
con được tự do xoay chung quanh nó.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin ôm con chặt,
con cộng hưởng theo ánh sáng mẹ dắt.
Nhạc mẹ thanh tẩy tim con vô ngã,
tình yêu của mẹ, con ban tất cả.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

2.3. Nếu con lạc lối đi mãi quá xa,
con sẽ chìm trong vật chất đấm đá.    
Quên đi mất rồi cội nguồn Thượng đế,
và nghĩ rằng con không giống như thế.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, hợp nhất với mẹ,
tim mẹ rực lên mặt trời sáng chói.
Tâm con khuếch đại âm thanh của mẹ,
thánh âm mẹ hiền phóng to khắp cõi.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

2.4. Khi con quên rồi, trong tâm lú lẫn,
con tạo ngã mới sinh từ cõi trần.
Con nhìn xuyên qua phin lọc của ngã,
và con nghĩ rằng nó thực là ta.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con nghe thấy liền,
âm vi tế của Bầu cõi Thiêng liêng.
Tâm con hòa điệu Âm Ngân Vũ trụ,
vượt lên ngã nhỏ, con tinh tấn tu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

2.5. Nhưng quên như thế, một phần đây là
tác phẩm Thượng đế được trải bày ra.
Qua ngã tách biệt, con nghe dối trá,
lời rắn cám dỗ như dụ Eva.   

Ôi Mẹ Hoàn vũ, đưa con về nhà,
con hòa điệu theo Thánh ngữ OM đây, 
Âm của mọi âm nâng con cao mãi,
chỉ còn ánh sáng trong chén con đầy.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

2.6. Rắn độc gian dối là đám sa nhân,
trong bầu cõi xưa, quên mất chân tâm,
Bây giờ họ cố lôi cuốn chúng con
cùng xuống theo họ, vòng xoáy tiêu mòn.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con là một phần
bài nhạc giao hưởng từ vũ trụ ngân.
CON LÀ nhạc khí thanh âm trong sáng,
dạo lên âm thánh từ cõi thiên đàng.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

2.7. Họ cố tìm cách cho chúng con tin,
nhìn thế gian đây như chính họ nhìn.
Họ nói chắc rằng con không lùi được,
lỡ ăn trái cấm, không sao quay ngược.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con xin thỉnh cầu
bước vào sảnh đường âm nhạc thiêng liêng.
Con sẽ hòa nhập dòng sống vươn lên
tới bầu trời cao sao sáng nhiệm màu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

2.8. Nhưng nay con thấy, họ chỉ bịa chuyện,
nghe sao rất thật qua tâm nhị nguyên.
Dù con đã chọn điều gì trước nay
con không bao giờ mất quyền đổi thay.

Ôi Mẹ Hoàn vũ so dây đàn con,
toàn bản thể con cùng hát với mẹ.
Bài ca của mẹ, con dội âm theo,
tình yêu hoàn vũ con vui mừng đón.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

2.9. Con biết chắc chắn con sẽ quay về,
một khi học xong bài học trần thế.
Con thấy mưu mô mà rắn lừa phỉnh,
cái ngã tách biệt không là tánh linh.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con yêu chất ngất,
tình ca của mẹ, giữ con chân chất.
Mẹ đổ đầy con thánh âm rất thật,
có mẹ đây rồi, cô đơn biến mất.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

3. Con thấy thế giới không thật

3.1. Cái ta thoáng thấy, nó thật là gì?
Sản xuất hàng loạt, đâu phải là mi.
Vì con thật sự, rất là độc đáo.
diễm lệ tuyệt vời, con đẹp làm sao.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin gióng tiếng chiêng,
gọi con về nhà, con thuộc nơi đó,
Con biết mẹ đây yêu con thánh thiện,
trong niệm biết này, con được tự do.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

3.2. Trong tình thương đầy, con sẽ chấp nhận,
không gian thời gian, con ở cõi trần.
Nơi đây con sẽ nở hoa tâm linh,
thắng lợi Ki-tô trong nội tâm mình.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin ôm con chặt,
con cộng hưởng theo ánh sáng mẹ dắt.
Nhạc mẹ thanh tẩy tim con vô ngã,
tình yêu của mẹ, con ban tất cả.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

3.3. Ngay trái đất này, nếu con tiến bước,
Ki-tô nội tâm vẫn sinh ra được.
Tiềm năng Ki- tô của con phát triển,
về với hợp nhất, vượt trên nhị nguyên.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, hợp nhất với mẹ,
tim mẹ rực lên mặt trời sáng chói.
Tâm con khuếch đại âm thanh của mẹ,
thánh âm mẹ hiền phóng to khắp cõi.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

3.4. Tâm thức chết chóc, con phá xích xiềng,
khi con hòa theo nhịp thở thiêng liêng.
Thế giới vật chất là sân khấu thiêng,
giúp con vươn lên thành một người hiền.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con nghe thấy liền,
âm vi tế của Bầu cõi Thiêng liêng.
Tâm con hòa điệu Âm Ngân Vũ trụ,
vượt lên ngã nhỏ, con tinh tấn tu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

3.5. Ki-tô nội tại mở cho con thấy,
không gì có thực ở dưới này đây.
Dù trông rắn đặc khi tay mình đụng,
thế gian chỉ là một giấc mộng chung.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, đưa con về nhà,
con hòa điệu theo Thánh ngữ OM đây, 
Âm của mọi âm nâng con cao mãi,
chỉ còn ánh sáng trong chén con đầy.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

3.6. Chính thế gian này, chúng con sinh tạo,
nhưng khi theo đuổi một giấc mơ cao,
Ánh sáng Mẫu-vật tuân theo cải hình,
khi con trong lọc viễn quan của mình.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con là một phần
bài nhạc giao hưởng từ vũ trụ ngân.
CON LÀ nhạc khí thanh âm trong sáng,
dạo lên âm thánh từ cõi thiên đàng.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

3.7. Chính con tạo ra thiếu thốn cãi nhau,
cuộc đời nào phải chỉ có thế đâu.
Giờ với Ki-tô, con xin đứng dậy,
giúp người thấu hiểu, mắt nhìn rõ thấy.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con xin thỉnh cầu
bước vào sảnh đường âm nhạc thiêng liêng.
Con sẽ hòa nhập dòng sống vươn lên
tới bầu trời cao sao sáng nhiệm màu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

3.8. Con tỉnh mộng thấy trù phú Thượng đế,
tình thương Ki-tô tràn đầy tâm thể.
Niềm vui dâng tràn tim con phấn khởi,
con nay chấp nhận một khởi đầu mới.

Ôi Mẹ Hoàn vũ so dây đàn con,
toàn bản thể con cùng hát với mẹ.
Bài ca của mẹ, con dội âm theo,
tình yêu hoàn vũ con vui mừng đón.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

3.9. Chấp nhận tiềm năng của con rất thật,
cốt lõi con là vị chân sư thật. 
Vì con ở đây để chỉ cho thấy,
qua gương của con, Ki-tô vươn dậy.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con yêu chất ngất,
tình ca của mẹ, giữ con chân chất.
Mẹ đổ đầy con thánh âm rất thật,
có mẹ đây rồi, cô đơn biến mất.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

4. Con đạt chiến thắng của Ki-tô

4.1. Con thấy hoàn cảnh đều là một phần
vũ khúc cuộc đời sâu xa bí ẩn.
Tất cả đều là cơ hội tâm linh,
thoát khỏi nghiệp xưa, tự do thanh tịnh.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin gióng tiếng chiêng,
gọi con về nhà, con thuộc nơi đó,
Con biết mẹ đây yêu con thánh thiện,
trong niệm biết này, con được tự do.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

4.2. Bao nhiêu kỳ vọng, con buông xả hết,
chỉ có mục đích tăng triển mài miệt.
Khi con làm chủ phản ứng sai trật,
con hoàn thành được nhiệm vụ cao nhất.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, xin ôm con chặt,
con cộng hưởng theo ánh sáng mẹ dắt.
Nhạc mẹ thanh tẩy tim con vô ngã,
tình yêu của mẹ, con ban tất cả.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

4.3. Con không dính mắc kết quả bên ngoài,
do đó tà ma bị đuổi chạy dài.
Ông hoàng thế gian không thể lừa phỉnh,
qua mắt Ki-tô đơn nhất con nhìn.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, hợp nhất với mẹ,
tim mẹ rực lên mặt trời sáng chói.
Tâm con khuếch đại âm thanh của mẹ,
thánh âm mẹ hiền phóng to khắp cõi.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

4.4. Con biết mục đích thế gian tạm bợ
là giúp Ki-tô trong con khai mở.
Giữa tiếng xôn xáo địa ngục cuộc đời,
con đạt chiến thắng Ki-tô muôn đời.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con nghe thấy liền,
âm vi tế của Bầu cõi Thiêng liêng.
Tâm con hòa điệu Âm Ngân Vũ trụ,
vượt lên ngã nhỏ, con tinh tấn tu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

4.5. Con biết buông bỏ chính là chìa khóa,
giúp con thăng vượt là thuật biến hóa.
Nghĩ rằng mình phải giải quyết vấn đề,
là giây xích xiềng cần diệt tận rễ.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, đưa con về nhà,
con hòa điệu theo Thánh ngữ OM đây, 
Âm của mọi âm nâng con cao mãi,
chỉ còn ánh sáng trong chén con đầy.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

4.6. Tâm vỏ ngoài nhìn ôi sao thấy lạ,
con thực không cần thay đổi gì cả.
Đằng sau hình tướng đều là hư ảo,
chỉ cần thị hiện tâm Ki-tô cao.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con là một phần
bài nhạc giao hưởng từ vũ trụ ngân.
CON LÀ nhạc khí thanh âm trong sáng,
dạo lên âm thánh từ cõi thiên đàng.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

4.7. Ki-tô phá tan ảo tưởng lừa phỉnh,
vật chất không thể buộc ràng Tánh linh.
Ông hoàng thế gian bị con lật đổ,
trầm mình con hưởng dòng thiêng cam lồ.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con xin thỉnh cầu
bước vào sảnh đường âm nhạc thiêng liêng.
Con sẽ hòa nhập dòng sống vươn lên
tới bầu trời cao sao sáng nhiệm màu.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

4.8. Bất chấp âm mưu của rắn đề ra,
con giờ chấp nhận đời con vui thỏa.
Con không phê phán, tâm Ki-tô trụ,
khi con xác nhận kế hoạch hoàn vũ.

Ôi Mẹ Hoàn vũ so dây đàn con,
toàn bản thể con cùng hát với mẹ.
Bài ca của mẹ, con dội âm theo,
tình yêu hoàn vũ con vui mừng đón.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

4.9. Vì khi con chọn chìa má bên kia,
chung với người hiền, hợp lực sẻ chia.
Chúng con thừa hưởng trù phú trái đất,
Thời đại Hoàng kim sinh ra rất thật.

Ôi Mẹ Hoàn vũ, con yêu chất ngất,
tình ca của mẹ, giữ con chân chất.
Mẹ đổ đầy con thánh âm rất thật,
có mẹ đây rồi, cô đơn biến mất.

Maraytaii con cộng hưởng cùng
bài ca của mẹ mở cổng hoàn vũ.
Giai điệu của mẹ tâm con nhẹ rung
bản ngã tái tạo, con buông nếp cũ. 

MA-RAY-TA-II

(Tụng niệm 9 lần, 33 lần hay nhiều hơn)

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Maraytaii và Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

Chương 2 – Con sử dụng tâm hay con cho phép tâm sử dụng con

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 12/3/2013.

Nada TA LÀ. Thày vừa là Thượng sư của Tia thứ Sáu, vừa là một trong những đại diện của Mẹ Thiêng liêng cho trái đất. Thày hoàn toàn có thể đảm nhận cả hai chức vụ này bởi vì tất nhiên không có xung đột giữa hai chức vụ, cũng như không có xung đột trong chính tâm thày. Và đây chính là đề tài mà thày mong muốn giảng dạy hôm nay. Vì con thấy đấy, nguyên nhân của tất cả bệnh tật – từ thể lý trí, thể cảm xúc đến cơ thể vật lý – trong bản thể con đều do sự phân chia. Vì sự phân chia làm nảy sinh xung đột giữa hai hay nhiều thành phần với nhau, mà giờ đây con có thể thấy được, hoặc chính các thành phần cũng thấy được là chúng đối chọi với nhau.  

2.1. Trái đất chuyển động cùng với thiên hà

Dựa trên những gì thày Maraytaii đã giảng cho con về tầm nhìn ở tầng cấp thiên hà, là viễn cảnh từ trung tâm thiên hà, con nhìn ra ngoài khoảng không gian bao la này và thấy các vì sao và nhiều hành tinh đang chuyển động nhịp nhàng với nhau thật tuyệt vời, rồi con nhìn xuống, xuống nữa và thấy một hạt bụi nhỏ xíu có tên là trái đất. Từ tầm nhìn thiên hà rõ ràng con thấy trái đất đang di chuyển cùng với trường hấp dẫn của toàn bộ thiên hà và không thể cưỡng lại chính thiên hà. 

Do đó lực hấp dẫn này, như cách con ưa gọi trên trái đất, quả thật đang liên tục kéo trái đất theo cho dù con người trên trái đất có làm gì đi nữa. Chẳng hạn, con có thể quyết định con sẽ đặt một giàn hỏa tiễn khổng lồ ở một phía của trái đất rồi con khai hỏa để trái đất chuyển động ngược chiều với lực hấp dẫn của thiên hà đang kéo trái đất theo. Nhưng cho dù con có đặt bao nhiêu hỏa tiễn đi nữa, con cũng không thể cưỡng lại lực hấp dẫn của toàn bộ thiên hà. Có thể con tạo ra ảo tưởng là con có khả năng cưỡng lại lực hấp dẫn này, nhưng thật sự là con không thể. 

Rồi khi con nhìn thiên hà và toàn thể vũ trụ vật chất, con nhận ra định luật tối thượng là Luật Tự quyết. Tuyệt đại đa số thiên hà và tuyệt đại đa số các hành tinh có sự sống trí năng, tất cả đều đã chọn chuyển động hướng thượng trong đường xoắn ốc đi lên mà các thày gọi là Dòng sông sự Sống và Thánh linh. Không thể đếm hết hàng tỷ sinh thể tự nhận biết đã chọn hợp nhất tâm mình – tức tâm cá thể của mình – với dòng chảy vĩ đại của tâm tổng thể đang liên tục tuôn chảy hướng lên cao. 

Nhưng cũng vì Luật Tự quyết mà có một số hành tinh trong vũ trụ nơi phần lớn các cư dân đã chọn không hòa nhập với Dòng sông sự Sống, với dòng chảy đi lên. Trái đất tất nhiên là một trong các hành tinh này. Và đó là tại sao con thấy rất nhiều tình trạng trên trái đất bị mất cân bằng, gồm những tình trạng trong tự nhiên như thiếu thốn và các thảm họa thiên nhiên. Và cả những tình trạng trong cơ thể vật lý của con người như mệt nhọc và đủ loại bệnh tật khác nhau trong cả thể chất lẫn tinh thần. 

2.2. Sự phân rẽ của các phàm linh đối nghịch  

Con thấy đấy nguyên nhân của tất cả bệnh tật là có một sự phân rẽ trong bản thể con, có nghĩa là có hai thành phần phân chia chống đối nhau. Điều này có thể xảy ra ở nhiều tầng khác nhau. Tất nhiên, như các thày đã nói có bốn tầng: bản sắc, lý trí, tình cảm và vật lý, nhưng thậm chí có những tầng khác nữa. Vì con có thể tạo ra các phàm linh để thực hiện một việc cụ thể gì đó cho con, nhưng rồi con lại tạo ra một phàm linh khác đối chọi với phàm linh đầu. 

Lấy một ví dụ về điều này, con biết việc nhiều người trong các kiếp trước đã tạo nên một số phàm linh ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân, và có lẽ họ có khuynh hướng nổi giận trong một số tình huống nào đó. Nhưng trong các kiếp sống sau, những người này đi theo một tôn giáo hay ngay cả có cái nhìn tâm linh hơn về cuộc đời. Và bây giờ họ quyết định việc người tâm linh, người Cơ Đốc, hay người đạo Phật mà nổi giận thì thật không đúng hay không tâm linh. Nhưng thay vì nhìn vào chính tâm mình, phát hiện phàm linh đã khiến mình tạo nên khuôn đúc phản ứng tức giận ban đầu thì họ lại tạo ra một phàm linh khác để đè nén phàm linh tức giận. Bây giờ con có hai phàm linh được thiết kế với hai mục đích trái ngược, và ngay từ đầu, chúng đã gây chiến với nhau. 

Người ta thường không hay biết về cuộc chiến này vì trong một số trường hợp, người tâm linh rất giỏi việc cho phép một phàm linh đè nén cơn giận của mình đến mức cơn giận hiếm khi xuống đến tâm ý thức. Nhưng thày có thể đảm bảo với con không một phàm linh nào được tạo ra ở cõi vật chất có thể hoàn toàn đánh bại một phàm linh khác. Con có thể có một phàm linh giận dữ. Con có thể đã tạo ra một phàm linh khác để đè nén phàm linh giận dữ. Nhưng phàm linh đè nén này không thể tiêu diệt phàm linh giận dữ. Nó không đủ mạnh để làm vậy. Tại sao nó lại không đủ mạnh? Vì nó không có tự nhận biết. 

Con đã tạo ra phàm linh giận dữ này. Con là nhận biết thuần khiết, con là cái Ta Biết, chính con đã tạo ra phàm linh giận dữ. Con đã tạo ra phàm linh đè nén. Và chỉ có con, người đã tạo ra các phàm linh này, mới có thể giải thể chúng, có thể làm chúng tan rã, có thể để chúng chết đi.  

Điều thày muốn nói ở đây là: Phàm linh đè nén có thể rất mạnh trong việc đè nén phàm linh giận dữ đến mức con không thể nhận ra là con đang nổi giận. Con không nhận ra con có phàm linh giận dữ. Tuy nhiên những phàm linh giận dữ này vẫn nằm trong thể cảm xúc của con. Một phần của nó có thể nằm ở thể lý trí và thậm chí ở cả cõi bản sắc. Con cho rằng điều hợp lý là cuộc sống phải thỏa mãn một số kỳ vọng của con, và nếu nó không thoả mãn được thì việc con nổi giận không có gì quá đáng, vì cuộc sống lẽ ra không được như vậy. 

2.3. Các phóng chiếu ở tiềm thức

Bây giờ con thấy các phàm linh ở các tầng cao hơn vượt khỏi nhận biết ý thức của con bởi vì phàm linh đè nén không vô hiệu hoá được chúng, mà nó chỉ vô hiệu hoá sự nhận biết ý thức của con về chúng. Nó chỉ đè được chúng ở tầng ý thức, nhưng chúng vẫn hoạt động ở các tầng cao. Điều này có nghĩa là con vẫn đang phóng chiếu các hình ảnh và năng lượng vào tấm gương vũ trụ xuyên qua các phàm linh này. Và đó là lý do tại sao tấm gương vũ trụ chỉ có thể phản chiếu lại cho con chính xác những gì con gửi ra. 

Ảo tưởng của nhiều lời dạy phổ biến về khoa tự cứu tâm lý là họ hứa hẹn con có thể đạt được kết quả rất lớn bằng cách thay đổi thái độ ý thức của mình và khoác vào một “thái độ tư duy tích cực”. Nhưng đơn giản điều này không đúng, con yêu dấu. Vì nếu con không đạt đến điểm thấy được các phàm linh ở những tầng cao và con không giải thể chúng một cách ý thức, thì con sẽ đơn giản tạo ra một phàm linh khác, đó là “phàm linh thái độ tư duy tích cực”, và cuối cùng khi con cho phàm linh này đủ năng lượng, có lẽ nó sẽ làm được một chuyện là trấn áp các phàm linh kia ở tầng ý thức mà thôi. 

Vì vậy ở tầng ý thức con nghĩ: “Tôi đang tích cực quá đỗi, tôi đang gửi ra ngoài toàn là năng lượng tích cực, vì vậy tấm gương vũ trụ phải gửi lại cho tôi những hoàn cảnh tích cực”. Và khi con không nhận được hoàn cảnh tích cực thì con chán nản, con nghĩ chắc phải có gì không ổn. Nhưng con đã không nhận ra là tấm gương vũ trụ không chỉ gửi lại những gì ở tầng ý thức của con mà nó còn gửi lại toàn bộ những gì con phóng chiếu ra từ bốn thể phàm của con. 

Bây giờ con thấy thày đang dẫn đến một điều giản dị ở đây: Con không thể cưỡng lại sức kéo của tâm tập thể, tâm đại chúng, đã được tạo ra trên trái đất. Cá nhân con không thể cưỡng lại tâm này. Con có thể cố tạo ra các phàm linh nhằm trấn áp tâm tập thể và các xu hướng giận dữ hoặc hung hãn hoặc bất kỳ xu hướng nào khác của tâm đó, nhưng con sẽ không thành công. Có lẽ ngoại trừ ở tầng ý thức, con mới dối được mình khi nghĩ mình là người tâm linh, người tốt bụng, hay người đáng mến. Nhưng con vẫn sẽ bị ảnh hưởng bởi những phàm linh ở các tầng cao hơn của tâm con, những phàm linh này nằm bên dưới tầng nhận biết ý thức, là nơi thường được gọi là tiềm thức. 

2.4. Tìm cách kiểm soát tư tưởng

Con thấy gì ở nhiều người tâm linh, cả những người rất thuần thành và những người đã thiền tập trong nhiều năm? Điều con thấy ở đây là: Họ đã nhận ra một phần những gì họ cần làm để tiến bộ tâm linh là kiểm soát tâm mình, tránh những tư tưởng xáo trộn hoặc có lẽ thậm chí tránh tất cả mọi tư tưởng. Vậy họ đã làm gì? Họ đã tạo ra một phàm linh tìm cách kiểm soát tư tưởng của họ, tìm cách đè nén một số tư tưởng nhất định hay đè nén mọi tư tưởng. 

Nhưng phương pháp này có mấy điểm không xây dựng. Trước hết, con chỉ có thể dùng phương pháp này ở tầng ý thức. Thật ra con có thể thành công trong việc đè nén các tư tưởng ở tầng ý thức khiến con nghĩ con có thể đi vào các tầng thiền sâu và không còn bất cứ một niệm nào. Nhưng điều này không nhất thiết là con đã làm sạch các thể cao của mình. Qua thiền và các phương pháp luyện tập tâm linh khác, một số người đã thành công trong việc làm sạch các thể cao của họ. Nhưng họ đã thành công chỉ vì một lý do duy nhất: Họ đã sẵn lòng nhìn vào mọi thứ diễn ra ở những thể cao này và loại bỏ chúng. Đây là những người sẽ thành công trong việc áp dụng một giáo lý tâm linh cho dù đó là giáo lý gì. 

Tuy nhiên có nhiều người, đặc biệt ở các nước phương Tây hiện đại, đã sử dụng một phương pháp vỏ ngoài và nghĩ rằng điều quan trọng trên hết là phải chế tạo được một kết quả nào đó – và họ không sẵn lòng đi vào các vùng thâm sâu của tâm. Họ quá chú tâm vào việc đạt được một kết quả, và bởi vì họ quá chú tâm vào kết quả – cho dù đó là làm tâm bất động hay cái gì khác – nên họ đã tạo ra một phàm linh có ý định đạt được kết quả đó. Như thày đã nói, phàm linh có thể làm được điều này ở tầng ý thức nhưng nó không thể giải quyết những phàm linh ở các tầng sâu hơn. 

Con thấy nhiều người có ảo tưởng là họ rất tâm linh nhưng không phải vậy, vì họ không giải quyết những gì đang diễn ra ở các tầng sâu hơn. Ý thày giản dị là: Khía cạnh của Bài ca sự Sống, khía cạnh mà thày đang giảng đây, là tầng lý trí. Thày Maraytaii đã nói về tầng bản sắc và thày đang nói về tầng lý trí. Nhiều người tin rằng để kiểm soát được thể lý trí, bằng cách nào đó họ phải kiểm soát tư tưởng của mình – hoặc bằng cách điều khiển chúng phải theo một số khuôn nếp nhất định, hoặc khiến chúng yên lặng hoàn toàn bằng cách ép bỏ mọi tư tưởng. 

2.5. Nguyên nhân tư duy của bệnh tật

Tuy nhiên như thày đã cố gắng giải thích, điều này sẽ chắc chắn tạo ra một sự phân chia trong bản thể của con qua đó con sẽ tạo ra mấy phàm linh giao chiến với nhau. Việc này sẽ hao tổn năng lượng của con. Sự xung đột giữa các phàm linh cũng sẽ tạo ra sự phân chia này và qua thời gian nó sẽ biểu lộ thành một căn bệnh trong thể vật lý. 

Vậy thể vật lý là gì? Đó là một phóng chiếu của tâm. Tất cả đều là tâm. Cơ thể vật lý của con không tồn tại trong một không gian vật lý, như con đã được nuôi dạy để tin vào những hiểu biết khoa học đương đại về vũ trụ – là loại hiểu biết vẫn lệ thuộc quá đỗi vào giác quan vật lý của con người. 

Sự thật sâu xa là, như thày Maraytaii đã nói, mọi thứ đều được tái tạo nhiều lần mỗi giây. Cơ thể con không tồn tại qua thời gian. Nó liên tục được tái tạo bởi một hình ảnh được phóng chiếu vào Ánh sáng Mẫu-Vật. Hình ảnh đó được phóng chiếu qua ba tầng cao hơn của ba thể cao hơn của con và qua cả tâm ở tầng vật lý. 

Chẳng hạn, khi con có một sự phân chia ở tầng lý trí thì sự phân chia này cuối cùng sẽ thấm xuống tầng vật lý. Bây giờ con sẽ có một hình ảnh bất toàn, một hình ảnh với nhiều mâu thuẫn, được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Và điều này sẽ biểu lộ ra thành một loại xung đột nào đó trong cơ thể vật lý khiến các tế bào không thể vận hành đúng chức năng, thậm chí chúng còn có thể tự huỷ hoại hay huỷ hoại các tế bào khác, để rồi cuối cùng con mắc phải một căn bệnh có thể phá huỷ một bộ phận hay một phần cơ thể hoặc ngay cả làm suy sụp toàn bộ cơ thể. Không thể có cách nào khác, vì cơ thể vật lý chỉ có thể trải bày những gì đang được phóng chiếu từ các thể cao. 

Những gì thày đang nói ở đây rất giản dị: Nếu con nghĩ rằng việc chủ động tâm mình có nghĩa là làm yên tất cả mọi tư tưởng thì đó không phải là một cách tiếp cận xây dựng. Điều các thày đề nghị trong phương pháp chữa lành của Bài ca sự Sống là cho con một chọn lựa khác qua đó con không tìm cách áp chế tư tưởng. Con không tìm cách kiểm soát tư tưởng, mà thật ra con cho phép tư tưởng xuôi chảy. 

Vì lý do giản dị là: Con không thể thay đổi bất kỳ điều gì trong quá khứ. Con không thể quay ngược thời gian cũng như thay đổi quá khứ. Con chỉ có thể thực hiện thay đổi ngay bây giờ, ngay trong giây phút hiện tại. Những gì tâm lý trí làm là nó phóng chiếu một hình tư tưởng, rồi nó phóng chiếu ra là hình tư tưởng này không còn là một hình ảnh mà là chính thực tại. 

Theo một nghĩa nào đó thì câu trên cũng phần nào xác thực vì như thày đã nói, hình tư tưởng được phóng lên Ánh sáng Mẫu-Vật và vì vậy chúng trở thành thực tại tạm thời của con. Nhưng chúng không phải là thực tại theo nghĩa tối hậu. Chúng là những khái niệm. Chúng là những tâm ảnh. 

2.6. Thay đổi hình tư tưởng

Những gì con cần làm để thay đổi ở tầng vật lý đó là thay đổi hình tư tưởng. Nhưng đây là bí quyết. Con không thể thay đổi hình tư tưởng trong quá khứ. Con chỉ có thể thay đổi chúng trong giây phút hiện tại. Và con chỉ có thể làm điều này bằng cách sử dụng khả năng sáng tạo của con. 

Kỳ thực con không thể xóa bỏ một hình tư tưởng. Ngay cả chuyện toan tính xóa bỏ cũng không có tính xây dựng. Nhưng đó là điều tâm con bảo con phải làm, bởi vì tâm tách biệt bị mắc kẹt vào hình thái suy nghĩ nhị nguyên, và trong hình thái suy nghĩ nhị nguyên thì hai cực cơ bản gồm lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ giờ đây bị xem là hai cực đối lập. Tâm tách biệt, tâm rắn, gắn vào đó một phán xét giá trị cho rằng có tốt và có xấu. Và vì vậy, cái xấu phải bị xóa bỏ để cái tốt chiến thắng. 

Nhưng con thấy đấy, cả hai cực nhị nguyên đó được tạo ra cùng một lúc và chúng phụ thuộc lẫn nhau. Cái này không thể tồn tại mà không có cái kia. Nếu con loại bỏ cái con cho là xấu thì cái tốt cũng không tiếp tục tồn tại. Và vì vậy, con không bao giờ có thể xoá bỏ được cái xấu bằng cách sử dụng tâm nhị nguyên. 

Nhưng những gì tâm làm – những gì tâm lý trí làm rất giỏi – là dùng khả năng của lý trí để phân tích, so sánh, và tạo ra một hệ thống nói rằng: “Những tư tưởng này là tốt, những tư tưởng kia là xấu. Tôi phải tìm cách huỷ diệt các tư tưởng xấu”. Điều tâm nói, mà cũng là sở trường thực sự của nó: “Có một vấn đề tôi phải giải quyết trước khi tôi có thể khoẻ mạnh hay trước khi tôi có thể là người tâm linh. Và vấn đề đó liên quan đến một việc gì sai trật và tôi phải tiến hành chỉnh đốn điều sai trật này bằng cách huỷ diệt cái sai.”

Thế là con bị kẹt trong trò chơi qua đó con tìm cách nhận diện và phơi bày một khuôn đúc tư tưởng mà con cho là sai. Rồi sau đó con tìm cách phá huỷ khuôn đúc tư tưởng này. Nhưng con đang làm gì chứ? Chính những gì thày vừa mô tả ở trên. Có thể có một khuôn đúc tư tưởng không có tính xây dựng và khuôn đúc này giờ đây biến thành một phàm linh và phàm linh này đang liên tục phóng chiếu khuôn đúc đó. Nhưng nếu con dùng tâm để tìm cách giải quyết vấn đề này, con sẽ đơn giản tạo ra một phàm linh khác và phàm linh này được thiết kế để cố phá huỷ phàm linh ban đầu. Như thày đã nói, điều này không dẫn tới một giải pháp. Chữa lành không có nghĩa như những gì con đã tin trên hành tinh này, là nếu một tế bào bị ung thư thì con cần huỷ diệt tế bào đó. 

2.7. Sự chữa lành sáng tạo

Con yêu dấu, con không thể chữa lành qua sự huỷ diệt. Con có vui lòng xem lại câu nói giản dị này và cho phép nó thấm đẫm vào bản thể con không? Vì nếu con muốn được chữa lành và toàn vẹn thì con phải nhận ra con không thể chữa lành bằng cách huỷ diệt. Con rời bỏ sự toàn vẹn qua việc phân chia. Con không thể quay trở lại sự toàn vẹn bằng việc dùng một nỗ lực phân chia để huỷ diệt một sự phân chia khác. Điều này chỉ khiến con gia tốc hành trình đi xuống, rời xa sự toàn vẹn. 

Con phải làm gì đây? Con phải kích hoạt lại khả năng sáng tạo của tâm. Sáng tạo không phải là tìm cách nhận diện một vấn đề và loại bỏ vấn đề đó. Sáng tạo là khi con nói: “A, khuôn đúc cũ kỹ này không còn hữu ích cho tôi nữa. Tôi không muốn nó nữa. Tôi đang tìm kiếm một khuôn đúc cao hơn. Tôi đang thăng vượt khuôn đúc cũ. Tôi đang tái tạo lại ý niệm bản sắc của tôi. Tôi đang tái tạo lại trí thể và những tư tưởng của tôi.” Con có thấy không? 

Bằng việc sáng tạo, con vượt thăng cái cũ. Con không hủy diệt cái cũ. Chẳng hạn làm sao con vượt qua được bệnh ung thư? Không phải bằng cách hủy diệt các tế bào đang biểu lộ bệnh ung thư, vì điều này chỉ làm tăng thêm lực phân chia, sự tự huỷ diệt và sự xung đột giữa các tế bào. Con vượt qua căn bệnh bằng cách yêu thương các tế bào. Con vượt qua căn bệnh bằng cách nhìn vượt quá xung đột vật lý bên ngoài để nhìn vào các bộ phận tình cảm, lý trí và bản sắc đã khiến con phóng chiếu những hình ảnh này lên các tế bào, mà giờ đây đang khiến chúng tự hủy diệt hay hủy diệt những tế bào khác nữa. 

Con có thấy không? Chỉ qua sự sáng tạo con mới thăng vượt các khuôn đúc bị phân chia đã gây nên bệnh tật và xung đột. Nhưng sự sáng tạo là tình thương: tình thương đối với cái hơn nữa, tình thương đối với cái mới, tình thương đối với sự thăng vượt cái cũ. 

2.8. Chọn hòa điệu với tâm nào

Con có thấy những gì thày đang cố nói ở đây? Con, một con người trên trái đất, có một chọn lựa: Con muốn hoà điệu tâm cá nhân con với tâm nào, tâm tập thể nào? Con có muốn hoà điệu tâm con với tâm đại chúng được tạo ra trên trái đất, hay con muốn hoà điệu tâm con với tâm tập thể vĩ đại hơn được tạo ra trong toàn thể vũ trụ? 

Tâm tập thể vĩ đại hơn – tức Thánh linh, Dòng sông sự Sống – là một tâm sáng tạo hướng thượng. Tâm tập thể được tạo ra trên trái đất là tâm phân rẽ có sự xung đột giữa các thành phần – như con cũng thấy biểu lộ qua các nhóm người liên tục tìm cách huỷ diệt lẫn nhau. 

Chừng nào con còn hoà điệu với tâm đó, con sẽ không dễ dàng tìm thấy sự chữa lành. Tất nhiên, con sẽ không tìm thấy sự toàn vẹn. Con có thể phủ lấp các triệu chứng vật lý trong một thời gian nhưng rồi con sẽ chỉ có thể che đậy chúng. Con sẽ không thật sự chữa lành, con sẽ không giải quyết được gì.

Những gì các thày đang trao cho con qua công cụ này của Bài ca sự Sống là một cách trong lọc các tầng của tâm con và do đó bắt đầu hoà điệu tâm cá thể của con với tâm vĩ đại hơn, với Dòng sông sự Sống. Các thày làm điều này bằng cách cho con công cụ này qua đó con có thể dùng uy lực giọng nói của con, uy lực của giọng đọc vần điệu, để cầu thỉnh ánh sáng tâm linh, cầu thỉnh các khuôn đúc âm thanh của Bài ca sự Sống. Điều này sẽ bắt đầu căn chỉnh thẳng hàng các khuôn đúc lặp đi lặp lại được tạo ra trong bốn thể phàm của con và được phóng chiếu vào Ánh sáng Mẫu-Vật tạo nên cơ thể vật lý của con. 

Đây là một phương pháp chữa lành khác. Đây là một phương pháp chữa lành khả dĩ. Có thể không chữa lành ngay lập tức, nhưng rồi lần nữa, nếu con chuyển đổi đủ tâm mình, việc chữa lành có thể xảy ra ngay lập tức. Ngay khi tâm con chuyển tới điểm con không còn phóng chiếu các khuôn đúc gây ra bệnh tật trong cơ thể vật lý, thì ngay lúc đó, cơ thể vật lý của con có thể được tái tạo tức khắc. 

Đó chẳng phải là kết quả hợp lý của lời dạy mà thày đã cho con là mọi thứ trong vũ trụ vật chất đang được phóng chiếu nhiều lần mỗi giây lên Ánh sáng Mẫu-Vật hay sao? Rồi con chẳng thấy hay sao là một khi con thay đổi khuôn đúc thì biểu lộ vật lý sẽ thay đổi ngay lập tức?  

Đây chính là những gì thày Giê-su đã biết khi thày chữa cho người đàn ông có cánh tay bị teo, khi thày thực hiện nhiều việc chữa lành khác được gọi là phép lạ. Đó không phải là phép lạ gì cả. Thày đã có khả năng dùng sự chứng đạt của mình để giúp họ vượt qua khuôn đúc – bước ra ngoài khuôn đúc – mà họ đã phóng chiếu lên thể vật lý. Đó là lý do vì sao Giê-su đã hỏi họ: “Các con có tin ta có quyền năng chữa lành không?” Và khi họ tin thì họ có thể được chữa lành. 

Giờ đây, mặc dù điều này không được ghi lại trong Kinh Thánh nhưng thày phải nói với con, vài người trong số họ lại sa ngã và sau một thời gian, căn bệnh cũ tái phát vì họ đã không thể vun bồi ân sủng mà Ki-tô đã ban phát và tái tạo lại một cách ý thức ý niệm bản ngã của mình. Do đó, sau một khoảng thời gian ngắn, họ lại tái tạo cùng khuôn mẫu và lại phóng chiếu căn bệnh lên thể vật lý. 

Dẫu sao, thày đang nói cho con sự thật này, đó là sự thật Ki-tô. Ki-tô trong con có quyền năng chữa lành ngay tức khắc cơ thể vật lý, cảm thể, trí thể và bản sắc thể của con. 

“Con có tin không?” Vì khi con tin, việc chữa lành sẽ xảy ra y như con tin. Đây là Luật Tự quyết, con yêu dấu. Đây không phải là mơ tưởng. Đây là quy luật. 

2.9. Thách thức tin tưởng

Tuy nhiên, khi nói câu: “Con nên tin điều này” với một ai đó thì tất nhiên không xây dựng lắm. Nhiều người không thể tin vì họ mang quá nhiều hành lý trong bốn tầng của tâm. Họ có quá nhiều năng lượng tha hoá. Họ có quá nhiều tin tưởng nhị nguyên. Và mặc dù thày muốn con biết sự thật này, nhưng đó là lý do thày không muốn con cảm thấy buồn phiền nếu con không thể tin ngay. 

Tuy nhiên, thày biết một số người có thể tin ngay và có thể thay đổi ngay. Và chắc chắn thày sẽ muốn chọn lựa này mở ra cho những ai có khả năng tận dụng cơ hội đó. Nhưng với những ai không thể tin ngay, hãy dùng những dụng cụ mà các thày đã trao truyền. Không chỉ là Bài ca sự Sống, mà nhiều dụng cụ khác mà các thày đã ban ra như: các bài chú, các bài thỉnh, các giáo lý mà con đã học – đặc biệt là các giáo lý của Bảy Thượng sư – rồi con hãy tinh tấn chuyển đổi ý niệm bản ngã của con. Vì chẳng phải là con đang bắt đầu nhận ra bằng việc lắng nghe những lời này và bằng việc đọc các bài thỉnh của Bài ca sự Sống, con có thể chuyển đổi ý niệm bản ngã của mình, và chỉ có con mới có thể làm được điều này hay sao? 

Ki-tô không thể xoay chuyển bản ngã của con giùm con. Chỉ có cái Ta Biết mới có thể xoay chuyển ý niệm bản ngã của con. Nhưng Ki-tô có thể giúp con làm việc thay đổi này dễ dàng hơn khi con quyết định buông bỏ bản ngã cũ. Con là người duy nhất có thể buông bỏ vì con có quyền tự quyết. Con là người duy nhất có thể dùng khả năng của mình – khả năng quay trở lại nhận biết thuần khiết – để nhìn vào trí thể từ bên ngoài và nói: “A, tôi thấy tâm mình đang làm gì. Tôi thấy tâm mình như một cái máy điện toán. Nó được lập trình để thực hiện một số chức năng và nó sẽ tiếp tục mãi việc này một cách vô ý thức cho đến tương lai vô định, trừ khi tôi nhấc chuột lên và bấm vào nơi khác, hay tôi ra khỏi chương trình đã chạy suốt nhiều kiếp sống trong trí thể của tôi. Bây giờ tôi thấy tâm mình đã được lập trình để giải quyết một số vấn đề. Nhưng tôi biết Tôi, cái Ta Biết, không cần giải quyết những vấn đề này. Chúng không cần được giải quyết. Chúng cần được thăng vượt. Chúng cần được bỏ lại đằng sau”. 

Đây là chìa khoá để chữa lành: Đó là con chuyển đổi ý niệm bản ngã ở tầng bản sắc, tầng lý trí, tầng tình cảm và tầng vật lý. Con có tin mình có uy lực làm được điều này không? Vậy thì Bài ca sự Sống và giáo lý của các chân sư thăng thiên có thể giúp con. Nếu con không tin con có uy lực thay đổi ý niệm bản ngã của mình thì các thày không thể giúp con, thày rất tiếc phải nói vậy. 

Nếu vậy con sẽ phải học từ Trường đời Cay đắng cho đến khi con gặp quá nhiều khổ đau đến mức con mở tâm ra và nói: “Chắc chắn phải có một cách sống tốt hơn thế này”. Rồi con bắt đầu tự hỏi mình những khổ đau này đến từ đâu – chúng đến từ sự phân chia trong bản thể của con. Con có thể nhận ra con đã tạo ra những phân chia này, và mặc dù thoạt tiên con khó nhận ra chúng, nhưng con yêu dấu, điều tài tình là những gì con đã tạo ra thì con cũng có uy lực tháo gỡ và hoàn nguyên. 

Con có tin không? Vậy hãy nắm lấy công cụ các thày đã trao cho con. Hãy nắm lấy các giáo lý và chuyển đổi ý niệm bản sắc của mình. Hãy chuyển ra khỏi cái tâm đã nghĩ nó phải làm tất cả những thứ đó, nghĩ nó phải giải quyết tất cả vấn đề đó, nghĩ nó cần cứu người khác hay cứu hành tinh này. Thay vì vậy, hãy tập trung vào việc cứu lấy chính mình bằng cách quay lại sự nhận biết thuần khiết. Vậy con hãy dùng Bài ca sự Sống, nhưng con đừng nghĩ chỉ một công cụ có thể làm tất cả mọi thứ cho con vì nó sẽ không xảy ra một cách tự động. 

Con có tin không? Vậy con hãy nhận mãnh lực của niềm vui, mãnh lực của tình thương, mãnh lực chữa lành từ trái tim thày Nada, Thượng sư của tia Thứ Sáu và cũng là đại diện của Mẹ Thiêng liêng. Vì TA LÀ, TA LÀ chữa lành, TA LÀ toàn vẹn, TA LÀ tâm an bình. Con có tin không? Vì chỉ có vậy thày mới là tất cả những điều đó cho con. 

Lưu ý: Bài thỉnh đi kèm với chương này là Bài ca sự Sống 2 – Một tâm trí mới

Chương 1 – Tái tạo ý niệm bản ngã

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Maraytaii qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 11/3/2013.

Ma-ray-taii.
Ma-ray-taii.
Ma-ray-taii.

Tên thày là Maraytaii. Thày là đại diện của Mẹ Thiêng liêng. Nếu Mẹ Mary là đại diện của Mẹ Thiêng liêng cho trái đất, thì thày là đại diện của Mẹ Thiêng liêng ở tầng cấp thiên hà cho ngân hà của con. Thày không phải là đại diện cao nhất của Mẹ Thiêng liêng ở tầng cấp thiên hà, nhưng thày là một trong những vị đại diện.

Do đó, thày đến trái đất để đem lại một món quà, một món quà mà thày đem lại trong sự hợp nhất với các vị đại diện khác của Mẹ Thiêng liêng cho trái đất: Portia, Nữ thần Công lý; Nada, Thượng sư của Tia thứ Sáu; Quan Âm, một đại diện của Bi mẫn Thiêng liêng, và dĩ nhiên là Mẹ Mary. Các thày đem đến cho con món quà mà các thày gọi là Bài ca sự Sống.

Đây là món quà từ Nguyên lý Mẹ Thiêng liêng trao tặng cho tất cả mọi người trên trái đất. Món quà có một mục đích giản dị, đó là cho con những giáo lý và những dụng cụ thực tiễn đưa chính con hoà điệu, hợp nhất và cộng hưởng với Bài ca sự Sống. Vậy Bài ca sự Sống là gì? Hãy để thày giải thích.

1.1. Vai trò sáng tạo của âm thanh

Đại thượng sư Maha Chohan trong quyển sách của thày [Xuôi theo Dòng sông sự Sống] đã giải thích bằng cách nào lực đẩy của Thánh linh – bắt đầu ở ngay bầu cõi thứ nhất – đã được tạo ra bởi các sinh thể tự nhận biết sử dụng khả năng đồng sáng tạo của mình để thăng vượt ý niệm bản ngã và tạo nên cái hơn nữa. Bài ca sự Sống là một phần của Dòng sông sự Sống, là sự chuyển động của Thánh linh, nhưng đây là một khía cạnh đặc thù của Thánh linh. Vậy thì cái gì đã khuấy động Ánh sáng Mẫu-Vật để nó khoác lấy một hình tướng cụ thể và duy trì hình tướng đó qua thời gian?

À, đó là cái trên trái đất con gọi là âm thanh. Và con đã từng được dạy rằng khi Thượng đế bắt đầu quá trình sáng tạo, ngài đã phán: “Ánh sáng hãy có mặt”. Nhưng con thấy đấy, đây chỉ là lời giải thích cho một tầng tâm thức nào đó của con người, bởi vì trên trái đất con biết con không thể nói, không thể tạo ra âm thanh, nếu như không có một môi trường trung gian mà qua đó âm thanh có thể lan truyền.

Như vậy con thấy đó, những gì được ghi trong Kinh Sáng thế không phải là hành động sáng tạo đầu tiên. Sự sáng tạo đầu tiên là tạo ra Ánh sáng Mẫu-Vật không phân biệt và vô hình tướng. Việc này không thể làm qua âm thanh bởi vì khi đó không có một môi trường trung gian để âm thanh lan truyền. Và vì vậy, sự sáng tạo đầu tiên được làm xuyên qua nhận thức của Đấng Sáng tạo.

Nhưng một khi Ánh sáng Mẫu-Vật đã có mặt, cần có một lực để khuấy nó lên tạo thành hình tướng và duy trì hình tướng đó. Các thày đã giải thích rằng con là người đồng sáng tạo, con có khả năng hình thành một hình tư tưởng trong tâm và sau đó phóng chiếu hay áp nó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Nhưng làm sao con phóng chiếu một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật? Con làm điều này qua những gì tương đương với âm thanh, nhưng không nhất thiết là âm thanh có thể nghe được. Thay vì vậy, đó là một sự chuyển động nhịp nhàng có những trình tự được lặp đi lặp lại trong một mô thức, một khuôn đúc.

Và chính sự chuyển động nhịp nhàng này không chỉ khuấy động Ánh sáng Mẫu-Vật để nó khoác lên một hình tướng mà còn khiến cho hình tướng đó liên tục tồn tại do khuôn mẫu được lặp đi lặp lại. Và vì vậy chính sự liên tục lặp lại của khuôn mẫu đã duy trì hình tướng đó.

1.2. Tâm con là một nhạc cụ

Con biết rằng để tạo ra âm thanh, con cần một loại công cụ nào đó. Nhưng công cụ này không cần phải là một công cụ vật lý hay vật chất, vì con biết đấy, nếu mọi thứ trong thế giới vật chất được tạo ra từ âm thanh khuấy động Ánh sáng Mẫu-Vật, thì đã không thể có một công cụ làm bằng vật chất tạo ra hình tướng. Vậy cái gì đã tạo ra công cụ này khi lúc đó chưa có hình tướng?

Con thấy chăng sự sáng tạo bắt đầu ở một tầng cao hơn, nơi đó Hiện diện TA LÀ của con tạo ra một âm thanh, một khuôn đúc chuyển động nhịp nhàng, sau đó nó phóng khuôn đúc này vào tầng bản sắc. Thể bản sắc của con trở thành một công cụ khuếch đại và phóng đại âm thanh vô thinh đó từ Hiện diện của con và rồi lại phóng vào trí thể của con. Trí thể của con bây giờ trở thành công cụ ở tầng cấp sáng tạo đó, và lần nữa nó khuếch đại, có lẽ có chút thay đổi, âm thanh này rồi lại phóng vào thể cảm xúc. Cảm xúc của con có thể bóp méo nó thêm nữa trước khi phóng chiếu vào tầng vật lý. Nơi tầng này, sự phóng chiếu các khuôn đúc nhịp nhàng tạo nên – trong nghĩa đen – thể vật lý của con và cả tình trạng sức khỏe lành mạnh hay bệnh tật của cơ thể con.

Trở lại với Kinh Sáng thế và lời phán của Thượng đế: “Ánh sáng hãy có mặt,” con hiểu là Thượng đế được nhắc đến trong Kinh Sáng thế chính là tầng cấp sáng tạo của các Elohim. Các Elohim đã lấy ánh sáng từ tầng ether, hay tầng bản sắc, sau đó đưa nó vào chuyển động nhịp nhàng, rồi phóng nó vào tầng lý trí, tình cảm và cuối cùng là tầng vật lý. Xong từ ánh sáng giờ đây đã khoác vào rung động của dải tần số vật chất, các Elohim tạo ra trái đất bằng cách lần nữa phóng chiếu một khuôn đúc âm thanh – nếu có thể gọi như vậy – lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Đây là cách mọi thứ đã được tạo ra. Đây là cách mọi hình tướng có thể được duy trì qua thời gian bởi vì có một khuôn đúc chuyển động nhịp nhàng được áp chồng liên tục lên Ánh sáng Mẫu-Vật, khiến Ánh sáng Mẫu-Vật duy trì hình tướng đó.

1.3. Hình tướng liên tục được tái tạo

Con có hiểu rằng hình tướng mà con thấy trong cõi vật chất không có sự tồn tại liên tục hay tự đủ hay không? Con đã lớn lên và được dạy rằng trái đất đã tồn tại 4.5 tỷ năm. Con đã được dạy rằng có những vì sao và những thiên hà xa xôi, những nguyên tử và phân tử, và nhiều hình tướng khác tồn tại độc lập. Tự thân chúng tồn tại, chúng tồn tại một cách khách quan.

Đây là một ảo tưởng vĩ đại mà loài người sắp sửa sẵn sàng chất vấn và vượt qua, là khi con ngộ ra không có gì là trường tồn, không có gì là thường hằng. Vì tất cả mọi điều con thấy, mọi hình tướng con thấy đang liên tục được tái tạo qua sự chuyển động nhịp nhàng khuấy động Ánh sáng Mẫu-Vật nhằm duy trì hình tướng đó.

Giống như con đang trong rạp chiếu phim, con biết có những hình ảnh đơn lẻ trên một cuộn phim được chiếu rất nhanh đến mức mắt con không nhận ra chúng là những hình ảnh đơn lẻ, mà là một sự chuyển động liên tục, trơn tru. Tất cả các con đã xem những bộ phim trắng đen vào thời kỳ đầu của nền điện ảnh, cử động của diễn viên bị giật nhiều hơn, đơn giản là do mỗi giây có ít hình ảnh được chiếu ra hơn, và vì vậy, mắt con không hoàn toàn bị lừa phỉnh để tưởng đó là những chuyển động liên tục và trơn tru. Con cũng biết rằng lúc đầu người ta gọi điện ảnh là “những hình ảnh di động” (motion pictures) tức là những hình ảnh cố định được đem vào chuyển động. Và con thấy đó, không có gì là thường hằng. Không có gì là tồn tại độc lập, vì chắc chắn phải có một âm thanh nào đó, một khuôn đúc chuyển động nhịp nhàng nào đó đang duy trì hình tướng qua thời gian bằng cách phóng chiếu không ngừng lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Thày nói ra điều này hoàn toàn không để khiến con hoảng sợ. Vì thày có thể đảm bảo với con là có những sinh thể tâm linh đang nhận lãnh trách nhiệm duy trì cơ cấu khổng lồ đó trong vũ trụ vật chất, bao gồm cả hành tinh trái đất. Thày không có ý bảo rằng toàn thể vũ trụ có thể thình lình biến mất.

1.4. Hy vọng chữa lành

Mục đích của các thày khi cho con bài giảng này là cho con một niềm hy vọng. Bởi vì khi con nhận ra cơ thể vật lý của con không tồn tại liên tục, khách quan, độc lập thì con biết rằng có hy vọng rất lớn bất kỳ bệnh tật nào trong cơ thể cũng có thể được chữa lành. Bệnh tật, thậm chí cả tuổi già, không phải là một tiến trình không thể tránh được, hay không thể đảo ngược. Bất cứ điều kiện nào trong cơ thể con đều được tạo bởi sự phóng chiếu nhịp nhàng các khuôn đúc lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Cơ thể vật lý của con là tầng thấp nhất trong bốn thể phàm, vì vậy bất cứ biểu hiện nào trong cơ thể đều được phóng chiếu qua các tầng bản sắc, lý trí, tình cảm và vật lý của tâm con. Điều này có nghĩa là – nhiều lần trong một giây – có một khuôn đúc rung động nhịp nhàng đang được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật cấu tạo cơ thể vật lý của con. Và nếu khuôn đúc đó thay đổi thì cơ thể con cũng sẽ thay đổi.

Thật ra, làm sao một cơ thể khoẻ mạnh lại có thể mắc bệnh? Đó là do khuôn đúc được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật để tạo nên cơ thể đã bị thay đổi. Thay vì là khuôn đúc hài hoà của một cơ thể khỏe mạnh, giờ đây sự mất hài hoà xâm nhập vào khuôn đúc này và chính điều này làm bệnh tật xuất hiện.

Các tế bào của con không tự thân tồn tại. Chúng là công cụ khuếch đại âm thanh. Chúng là âm thoa cho khuôn đúc được áp chồng lên chúng từ ba thể cao của tâm. Và chỉ khi một sự bất hài hoà nào đó xâm nhập vào một hay tất cả các thể này thì một căn bệnh mới có thể xuất hiện ở tầng vật lý. Nhưng điều này cũng có nghĩa là nếu con có thể thay đổi sự bất hài hòa đó và giúp cho hài hoà trở lại thì con có thể chữa lành bất cứ tình trạng nào trong cơ thể. Thậm chí có thể đảo ngược cả tuổi già. Con có thấy tiềm năng ở đây không?

Con có thể đã xem những bộ phim khoa học giả tưởng, trong các bộ phim này có một công cụ phát ra những tia vô hình có khả năng chữa lành căn bệnh vật lý hầu như tức khắc. Quả thật kỹ thuật này chẳng bao lâu nữa sẽ được đưa vào sử dụng, ít nhất trong hình dạng còn thô sơ. Nhưng con không cần phải chờ đến khi có nền công nghệ vật lý vỏ ngoài như vậy, vì con đã có một kỹ thuật chữa lành cơ thể con bằng cách học sử dụng chính tâm mình cũng như công cụ – kỹ thuật – của chính giọng nói của mình.

1.5. Giải thích Bài ca sự Sống

Bằng cách nào bệnh tật xuất hiện trong cơ thể vật lý là một đề tài phức tạp, vượt quá phạm vi bài giảng này của thày. Những gì các thày trao cho con ở đây là một công cụ giúp điều chỉnh cơ thể vật lý và ba thể cao của con để khiến chúng hòa điệu mật thiết hơn với Bài ca sự Sống.

Như thày đã gợi ý ở phần trước, Bài ca sự Sống này là một phần của Thánh linh do các sinh thể tự nhận biết tạo ra khi thăng vượt chính mình, qua đó họ đã tạo ra một dòng chảy đi lên, một chuyển động đi lên. Có lẽ con cũng biết dòng sông tạo ra một âm thanh, thì tương tự như vậy, Dòng sông sự Sống cũng tạo ra một âm thanh và âm thanh đó là Bài ca sự Sống. Đây là một khuôn mẫu chuyển động nhịp nhàng đã được tạo ra từ hằng hà thiên kỷ trong bầu cõi này và các bầu cõi trước. Đó là một giai điệu tuyệt đẹp, không giống như những giai điệu con nghe trên trái đất, nhưng dẫu sao cũng là một khuôn mẫu rung động nhịp nhàng. Tất nhiên, khuôn mẫu này có nhiều tầng cấp, nhiều mức rung động khác nhau.

Trong vũ trụ vật chất, một bầu cõi chưa thăng thiên, con chưa thể đồng nhịp và hoàn toàn hoà điệu với Dòng sông sự Sống được tạo ở những bầu cõi đã thăng thiên. Nhưng dẫu vậy, con không cần phải hoà điệu hoàn toàn với các bầu cõi cao hơn. Con chỉ cần dùng những giai điệu dựa trên cùng một khuôn đúc để những giai điệu này hoà hợp, có cùng nhịp điệu cơ bản giống như nhịp điệu của Dòng sông sự Sống, của Bài ca sự Sống.

1.6. Nguyên nhân của bệnh tật

Như con biết, trên trái đất có những khuôn nhạc từ đó con có thể tạo ra nhiều giai điệu riêng lẻ từ cùng một mẫu cơ bản, nhưng tất cả các giai điệu riêng lẻ này lại có một sự hoà điệu nào đó với nhau. Và đây chính xác là những gì con thấy trên trái đất. Mỗi thể vật lý, trong dạng nguyên thủy thuần khiết của nó, được tạo ra như một giai điệu riêng lẻ nhưng hoà hợp với Bài ca sự Sống cho địa cầu. Kể từ đó như các thày đã giải thích trong quyển “Chữa lành Mẹ Trái Đất”, nhiều thứ khác đã du nhập vào những biểu hiện thấp hơn, những năng lượng thấp hơn, những khuôn mẫu rung động thấp hơn, tất cả đã làm xáo trộn sự hài hoà ban đầu.

Một cơ thể vật lý không cần phải già đi. Nó cũng không cần phải mắc bệnh. Những biểu hiện này chỉ có thể xảy ra vì trong bốn thể phàm của con đã có những hình tư tưởng bị du nhập vào, và khi chúng được áp chồng lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì chúng đã hình thành một khuôn đúc chuyển động bất hài hòa, một khuôn mẫu lạc điệu với Bài ca sự Sống.

Chính sự bất hài hoà này đã khiến cho các tế bào rung động trong một khuôn mẫu chệch nhịp hay lạc điệu. Và vì vậy, đến một lúc các tế bào này không thể được duy trì trong khuôn mẫu nuôi sống được các đơn bào, các bộ phận cơ thể do các đơn bào tạo thành, hay các hệ thống trong cơ thể, thậm chí cả chính cơ thể. Kết quả dẫn đến tuổi già, bệnh tật và cái chết của cơ thể.

Vì vậy, không cần phải biết chi tiết về tất cả các khuôn mẫu bất hài hòa, con vẫn có thể đạt được nhiều kết quả trong việc chữa lành bằng cách sử dụng công cụ mà thày sẽ trao cho con nhằm chỉnh cho các khuôn mẫu chuyển động nhịp nhàng trong bốn thể phàm của con được thẳng hàng với Bài ca sự Sống. Và con có thể thực hiện được điều này bằng cách sử dụng giọng nói vật lý của con để cầu thỉnh những rung động cao hơn từ ba tầng cao của cõi vật chất và từ tầng thấp nhất của cõi tâm linh, để những rung động này sắp thẳng lại các tế bào của con.

Các rung động cao hơn có khả năng – trong nghĩa đen – gia tốc, hay thay thế, hay trong lọc các khuôn đúc thấp hơn, để rồi lập tức bốn thể phàm của con được căn chỉnh đứng thẳng hàng hơn và hài hoà hơn với khuôn đúc mà các thể này đã được tạo lập dựa trên đó lúc đầu. Và đây là điều có thể đem lại sự chữa lành, giúp con khỏe mạnh hơn mặc dù nói cho cùng, con vẫn cần phải nhìn ra các tin tưởng, các quan niệm, các khuôn mẫu mà con đã chấp nhận, hầu con có thể gỡ bỏ chúng một cách ý thức.

1.7. Tái tạo lại ý niệm bản ngã của con

Tất nhiên, việc này là một phần trong những gì 7 vị Thượng sư cùng Đại thượng sư sẽ giảng dạy trong loạt sách về 7 tia sáng, con Đường của 7 Bức Màn, con Đường dẫn đến Tự điều ngự. Nhưng các thày đây, các nữ chân sư, mong muốn trao cho con công cụ này để con có thể bắt đầu sử dụng trong khi con hướng đến một sự hiểu biết ý thức cao hơn về 7 tia sáng và các đức tính thuần khiết cũng như các mặt tha hoá của 7 tia, cùng nhiều tin tưởng vi tế nằm bên dưới những mặt tha hoá này.

Do đó, thày đến cho con phần giáo lý đầu tiên này, là phần thực sự tiêu biểu cho tầng ether hay tầng bản sắc. Mục đích của phần này là giúp con tái tạo lại ý niệm bản ngã của con. Và tất nhiên, các thày đã đưa ra nhiều bài giảng về ý niệm bản ngã và giải thích rằng cốt lõi của bản thể con là điều các thày gọi là cái Ta Biết, không phải là những gì con nhìn nhận như tính cá nhân và nhân cách của con, bởi vì cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết. Đó là cánh cửa mở cho Hiện diện.

Tính cá nhân thật sự của con được neo trong Hiện diện TA LÀ của con và sẽ được biểu đạt từ Hiện diện xuyên qua cái Ta Biết. Và vì vậy, điều đã xảy ra với con người trên trái đất là họ đã tạo ra cái ta vỏ ngoài, mà nhiều người gọi là hồn, và bây giờ họ đâm ra đồng hoá chính mình với cái ta vỏ ngoài, từ đó họ nghĩ đây là con người mà họ là. Và nếu con mang ý niệm bản sắc này thì con bắt buộc phải tiếp tục phóng chiếu dòng tâm thức này xuyên qua khuôn đúc của cái ta vỏ ngoài đó.

Tất nhiên, điều này có nghĩa là nội dung của cái ta vỏ ngoài của con gồm cả những ảo tưởng mà con đã dần dần chấp nhận, sẽ được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật là cái tạo nên cơ thể vật lý của con. Và vì vậy, chừng nào con còn duy trì sự đồng hóa đó với cái ta vỏ ngoài, thì con đơn giản không thể chữa lành những tình trạng của cơ thể vật lý, cho dù đó là bệnh tật hay tuổi già. Làm sao con có thể chữa lành nếu con cứ tiếp tục làm cùng một điều đã tạo ra bệnh tật của con? Chuyện này không thực tế, không phải là một kỳ vọng thiết thực.

Thày biết thày nói điều này thật dễ bởi vì thày là một sinh thể tập trung nơi tầng cấp thiên hà. Và có lẽ con có thể hình dung sẽ thế nào khi nhìn về trái đất từ viễn quan rộng lớn của toàn khắp thiên hà, từ đó con thấy trái đất chỉ là một hành tinh nhỏ li ti trong tổng thể rộng lớn. Con có cảm nhận được là khi con nhận biết về toàn thiên hà thì con sẽ có một tầm nhìn hoàn toàn khác không?

Một minh hoạ trực quan cho điều này là con biết đấy, toàn bộ thiên hà di chuyển như một tổng thể, và có một lực hấp dẫn khiến cho toàn thiên hà xoay như một khối thống nhất. Con có thấy chăng hàng ngàn, hàng triệu, và hàng tỷ ngôi sao tạo nên thiên hà, nên trái đất của con chỉ là một hạt bụi nhỏ xíu?

Mặc dù trái đất có vẻ ảnh hưởng cơ thể vật lý của con qua trọng lực to lớn của nó, chắc chắn con có thể thấy được trọng lực của trái đất chẳng là gì so với trọng lực của dải thiên hà. Và vì vậy chẳng có hy vọng gì trái đất có thể thay đổi được quỹ đạo của thiên hà. Cho nên từ tầm nhìn của thày, thật dễ nói rằng trừ khi con thay đổi ý niệm bản ngã thì con sẽ không thể chữa lành cơ thể của con.  

Thày cũng biết là khi con đang đầu thai, điều này dường như khó khăn hơn vô cùng. Dẫu vậy, thày hy vọng trao cho con một ý niệm về chỗ đứng tương đối của mọi chuyện. Thày mong giúp con nhận ra là quả thực con có khả năng thay đổi ý niệm bản ngã của mình, và quả thực điều này là cần thiết. Bởi vì trừ khi con thay đổi ý niệm bản ngã của mình – là tầng cao nhất trong bốn thể phàm của con – làm thế nào con sẽ thay đổi được các tầng thấp hơn, vì các tầng này chỉ có thể hoạt động trong khuôn khổ do tầng cao hơn thiết lập?

1.8. Vai trò của các phàm linh đối với sức khỏe

Ý niệm bản ngã của con là khuôn khổ, là tiết tấu cơ bản cho khúc nhạc giao hưởng của đời con. Nếu con không thay đổi ở tầng bản sắc này thì không gì có thể thật sự thay đổi nơi các tầng thấp hơn. Đó là lý do vì sao nền y học ngày nay trên địa cầu có xác xuất thành công hạn chế , vì y học chỉ tìm cách thay đổi ở tầng vật lý bằng cách phẫu thuật cơ thể hay sử dụng hóa chất. Nhưng việc này chỉ diễn ra ở tầng vật lý và vì vậy đóng góp rất ít để thay đổi những gì xảy ra ở các tầng tình cảm, lý trí và bản sắc.

Tuy nhiên, con không nhất thiết phải chịu sự hạn chế của kỹ thuật y học hay ý thức hệ y học ngày nay. Con có thể nhận ra là con có bốn thể phàm và con có tiềm năng làm chủ cả bốn thể này. Và khi con làm chủ được bốn thể, con sẽ có thể thay đổi được các tình trạng trong thể vật lý của con vì kết quả luôn đi kèm với nguyên nhân.

Nếu con lấy những gì thày nói ở đây và so sánh với những gì con đã đọc trong sách của Đại thượng sư Maha Chohan thì con có thể đạt thêm một tầng hiểu biết nữa. Vì thày đã nói mỗi hình tướng được một khuôn đúc rung động nhịp nhàng tạo ra bằng cách phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật và hình tướng được duy trì do sự phóng chiếu liên tục khuôn đúc này. Dĩ nhiên, con biết là con đã không đồng sáng tạo hay sáng tạo  cơ thể vật lý của con một cách ý thức. Và con cũng biết là con không đang phóng chiếu bất kỳ khuôn đúc nào lên cơ thể một cách ý thức. Vậy thì bằng cách nào khuôn đúc được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật và khiến cơ thể con liên tục tồn tại? Quá trình này được thực hiện qua cái mà thày Maha Chohan gọi là các phàm linh do con tạo ra, hoặc các phàm linh mà con cho phép đi vào bốn tầng của tâm con.

Có một phàm linh tổng thể mà các chân sư trước đây gọi là “tinh linh của cơ thể” (body elemental). Phàm linh này được tạo ra để giữ vững khuôn đúc chung của cơ thể vật lý. Nhưng cũng có một tinh linh cảm xúc giữ khuôn đúc chung của thể tình cảm. Và có một tinh linh cho thể lý trí và một tinh linh cho thể ether hay còn gọi là thể bản sắc.

Do đó có bốn tinh linh chính phối hợp với nhau tạo ra thể vật lý của con. Những năng lượng tha hoá và những tin tưởng bất toàn có thể khiến các tinh linh này phải oằn mình đến mức chúng không thể vận hành tối ưu. Và nếu vậy, bốn thể của con bị mất thẳng hàng với Dòng sông sự Sống và chúng cũng không thẳng hàng với nhau, và con có thể bị bệnh trong bất cứ thể nào, bao gồm cả bệnh tâm thần, tình cảm lẫn thể chất.

Nhưng bằng cách nào những bệnh này và những khuôn đúc ô uế đó đã xâm nhập vào bản thể của con? Bằng những phàm linh khác, hoặc do chính con tạo ra để đối phó với các trải nghiệm trên trái đất, hoặc con cho phép phàm linh do người khác tạo ra bên ngoài xâm nhập vào, kể cả từ các thày giả và sa nhân.

1.9. Anh em bất hòa

Khi con có nhiều hơn bốn tinh linh ban đầu trong bản thể, có khả năng, như thày Giê-su đã nói, anh em trong nhà bất hoà. Có tranh chấp giữa các thành viên, vì các phàm linh có thể chống đối và gây chiến với nhau. Điều này sau đó đưa đến một số khuôn đúc bất hài hòa từ những phàm linh khác đang tìm cách kiểm soát bốn tinh linh căn bản hoặc tìm cách huỷ diệt lẫn nhau. Và khi chiến tranh xảy ra trong bản thể con thì không khó nhận ra con đang tạo ra đủ loại ảnh hưởng bất hài hòa, chẳng khác gì con thấy một cuộc chiến tranh vật lý trên trái đất có thể tàn phá nặng nề một quang cảnh và thậm chí có thể làm ô nhiễm nơi đó bằng bức xạ kéo dài rất nhiều năm về sau.

Một lần nữa, thày không nói điều này để làm con sợ hãi. Thày nói để cho con một lượng định thực tế là con có những phàm linh bất hài hòa này trong bản thể. Nếu con mắc một căn bệnh vật lý nào đó hay con có các biểu hiện của tuổi già, thì con biết rằng con có những phàm linh đang gây chiến ở cả bốn thể phàm. Và trên hết, một lần nữa con cần phải nhìn vào các phàm linh này, nhận ra những quyết định nào của con đã tạo ra chúng hay đã cho phép chúng xâm nhập từ bên ngoài, sau đó con hãy bỏ quyết định đó đi một cách ý thức để vĩnh viễn xua tan chúng khỏi bản thể của con.

Tất nhiên, các Thượng sư sẽ giúp con thực hiện việc này. Nhưng con cũng có thể khởi sự bằng cách quyết định là con sẵn sàng tái tạo ý niệm bản ngã của mình. Con sẵn sàng khởi sự suy ngẫm điều này và xin các Thượng sư cùng các đại diện của Mẹ Thiêng liêng giúp con thể nhập sự thật rằng con không phải là nhân cách vỏ ngoài của con, con không phải là tự ngã của con, con không phải là ngã tách biệt này. Thay vào đó, con là nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết, mà mục đích là làm cánh cửa mở cho Hiện diện.

Và khi con lại đặt ý niệm bản sắc của con thẳng hàng với Hiện diện TA LÀ, và khi con quyết định một cách ý thức là con sẵn sàng để cho bất kỳ khía cạnh nào của cái ta vỏ ngoài chết đi để con trở thành cánh cửa mở cho Hiện diện, thì một điều sâu sắc sẽ xảy đến. Con sẽ bắt đầu lại đứng thẳng hàng với Hiện diện, có nghĩa là giờ đây khuôn đúc hoàn hảo dành cho con và cho bốn thể phàm của con được lưu giữ ở Hiện diện sẽ bắt đầu tỏa sáng xuyên qua bản sắc thể của con. Và rồi nó lại có thể được phóng chiếu lên thể lý trí và cuối cùng, khi con đọc các bài thỉnh mà các thày sẽ ban ra, con sẽ trong lọc tất cả bốn thể phàm của con ở phạm vi rộng hơn, và con có thể bắt đầu hoà điệu bốn thể này với khuôn đúc sức khoẻ lý tưởng được Hiện diện TA LÀ giữ cho con.

1.10. Khôi phục sự hài hòa

Chính sự hoà điệu này sẽ bứng đi một số phàm linh trong bản thể con hoặc giảm bớt ảnh hưởng của chúng, vì vậy con không cho chúng thêm sức mạnh bằng cách tiếp thêm năng lượng cho chúng. Việc này sẽ giải phóng bốn tinh linh, tức bốn phàm linh trong bốn thể phàm của con, để chúng lại có thể đồng thuận với bản vẽ mẫu, là viễn quan tinh khiết, là niệm tinh khôi được cất giữ trong Hiện diện TA LÀ của con. Đây chính là niềm vui của bốn phàm linh này.

Bốn phàm linh này không phải là phàm linh xấu ác, chúng không phải là các phàm linh gây chiến, chúng không làm gì chống lại con. Chúng được tạo ra để hỗ trợ con tăng trưởng khả năng tự nhận biết, và khi con không cần bốn thể phàm nữa, chúng có thể được khen thưởng vì đã hỗ trợ con. Vì vậy việc giúp con biểu lộ khuôn đúc được cất giữ nơi Hiện diện TA LÀ là niềm vui duy nhất của chúng, vì chúng biết đó chính là phần thưởng, là niềm hoan hỉ, là sự phục vụ cao nhất của chúng.

Vậy thì đây là một bài giảng mà nếu con suy ngẫm và thể nhập, sẽ có thể khởi đầu tiến trình biến đổi tâm linh, tiến trình hoá kim. Bởi vì thuật hóa kim đích thực là hoàn thành đúng những gì thày vừa nói: Không có gì trong cõi vật chất tồn tại tự đủ, độc lập. Tất cả là sự phóng chiếu xuyên qua ba thể cao. Và vì vậy, chìa khoá để thay đổi thể vật lý là đem tất cả các khía cạnh của tâm con, tất cả các khía cạnh của bản thể con đặt thẳng hàng, hài hoà với Hiện diện TA LÀ của con. Đó là thuật hoá kim sẽ biến chì của tâm thức con người thành vàng của Tâm thức Ki-tô. Và đó là thuật hoá kim có khả năng biến các hình thái vật lý thành vàng, nhưng đầu tiên sẽ biến đổi thể vật lý của con sang trạng thái sức khỏe cao nhất để giúp con hoàn thành sứ vụ thiêng liêng, công việc thiêng liêng, và nhiệm vụ tâm linh của con trong cuộc sống.

Maraytaii TA LÀ. Thày mong con sẽ thỉnh thoảng dành thời gian và chú tâm đọc lớn tên thày vì điều này sẽ giúp con hòa điệu với Bản thể của thày. Và cũng giúp thể bản sắc của con, ý niệm bản ngã của con hoà điệu với thực tại vũ trụ của toàn bộ sự sống, sự chuyển động đi lên của Thánh linh và chuyển động đi lên của Bài ca sự Sống.

Cho nên thày lại nói:

Ma-ray-taii.
Ma-ray-taii.
Ma-ray-taii.

Lưu ý: Bài thỉnh đi kèm với chương này là: Bài ca sự Sống 1 – Một bản sắc mới.

Uy lực và tự do

Bài giảng của chân sư thăng thiên More qua trung gian Kim Michaels, ngày 8/2/2013.

TA LÀ chân sư MORE, và thày tự do. Con sẽ tự do với thày chăng? Đó là câu hỏi mà con có thể tự hỏi mình. Và con có thể xem câu hỏi này là cơ hội để đứng lùi lại, xem các bài giảng trước của thày và tự đặt câu hỏi: “Con có thể tự do với Chân sư MORE không?”

Con hãy tưởng tượng con và thày đi vào khu vườn xung quanh khu nhập thất của thày tại Darjeeling. Chúng ta tìm thấy một nơi yên tĩnh, ngồi xuống, và ở đây chỉ có hai thày trò chúng ta. Chúng ta có thể nói bất cứ chuyện gì con muốn. Con sẽ cảm thấy tự do đến đâu trong tình huống đó?

Con có cảm thấy đủ tự do để chia sẻ với thày những quan tâm về cuộc đời, những quan tâm về sự tăng triển của mình, về trạng thái tâm thức của mình? Con có cảm thấy đủ tự do để hỏi bất cứ câu hỏi nào, hay có câu hỏi con ngại hỏi vì con sợ nghe câu trả lời của thày?

Con thấy chăng, điều thày muốn giải thích là khóa nhập thất của Tia thứ Nhất là nơi đầu tiên các sinh thể tâm linh tìm đến khi họ sẵn sàng đi con đường tu cao hơn dưới sự hướng dẫn trực tiếp của các chân sư thăng thiên, của các Thượng sư. Điều này có nghĩa là con không cần ở tầng tâm thức thứ 48 khi đến nhập thất với thày. Con cần tới một bước ngoặt, là nơi con thành thật mong muốn điều gì hơn là cứ lặp đi lặp lại những khuôn nếp cũ, như con đã làm trong một thời gian dài.

17.1. Con tự do đến đâu?

Khi con có ước muốn trở nên hơn nữa, con có thể tham dự khóa nhập thất của thày trong các thể cao của mình. Lúc ấy, thày sẽ cố gắng giúp con tùy theo tầng tâm thức của con và ý muốn vượt qua tầng tâm thức đó. Con thấy chăng, ta có thể nói mức độ tự do của con định đoạt khả năng giúp đỡ của thày. Đây là tự do đứng lùi lại và nhìn trạng thái tâm thức hiện nay, phin lọc nhận thức hiện nay, cách nhìn đời của con. Con có sẵn sàng đứng lùi lại, tự do nhìn vào tâm thức hiện nay của mình và nhận ra: “Tôi không còn muốn ở tầng tâm thức này nữa, tôi muốn lên cao hơn?”

Nhiều học viên đến đây có rất ít tự do chất vấn cách họ nhìn cuộc đời. Họ thường cảm thấy kẹt cứng trong một khuôn nếp. Họ chỉ có một cách nhìn cuộc đời. Họ không muốn hay không có khả năng nhận ra cách họ nhìn cuộc đời hiện nay chỉ là một trong nhiều cách và có nhiều cách nhìn khác – và chỉ xem xét các cách này họ mới có cơ hội vượt lên trạng thái tâm thức cao hơn. Vì nếu con tiếp tục nhìn đời theo cách con nhìn hiện nay mà không chất vấn, thì làm sao con có thể bước lên tầng cao hơn? Chuyện giản dị như vậy, phải không con?

Con có cảm thấy đủ tự do để lùi lại và nhìn vào trạng thái tâm thức hiện nay của mình, hoặc hỏi thày: “Chân sư MORE, xin thày chỉ cho con thấy con đang ở tầng tâm thức nào. Xin thày chỉ cho con thấy điều gì đang kềm giữ con ngay bây giờ, ngăn cản con đi bước kế tiếp lên tầng cao hơn.”

17.2. Khuôn nếp phản ứng của con

Con có thể nhận ra yếu tố chính là mức độ con cá nhân hóa những chuyện xảy ra trong cuộc đời mình. Con hãy sẵn sàng nhìn vào đời mình và nhận ra những hoàn cảnh khi người khác nói hay làm điều gì, và con coi điều đó như một tấn công vào chính cá nhân mình. Con cảm thấy người khác tấn công con, chế giễu con, tìm cách miệt thị con, tìm cách làm con xấu hổ, tìm cách làm con tức giận. Và vì vậy, con rơi vào khuôn nếp phản ứng mà con có thể thấy rõ – nếu con chịu nhìn.

Sau đó, con hãy sẵn lòng tự hỏi những phản ứng này từ đâu đến. Khuôn nếp phản ứng này từ đâu đến? Và con hãy nhận ra nó đến từ một chỗ giản dị: nó đến từ các phàm linh mà con đã cho phép xâm nhập vào các thể thấp của con hay con đã tạo ra trong các thể thấp của con.

Khi con biết rằng con là cái Ta Biết – khi con biết con đã trải nghiệm thoáng qua nhận biết thuần túy – con có thể thấy rằng cái Ta Biết, vốn đơn giản là nhận biết thuần túy, không thể thấy những chuyện xảy ra trên thế gian như dính dáng đến cá nhân nó. Bởi vì nó biết nó không phải là thân thể, nó biết nó không phải là tâm phàm, nó biết nó không phải là các phàm linh. Vậy thì đâu có lý do gì con cảm thấy cá nhân mình bị tấn công? Con thấy chăng, cái Ta Biết không xem những chuyện xảy ra dính dáng đến cá nhân nó. Con chỉ thấy một chuyện xảy ra dính dáng đến cá nhân mình khi con nhìn hoàn cảnh xuyên qua phin lọc của một phàm linh.

Thày Saint Germain có nói (Xuôi theo Dòng sông sự Sống) là khu nhập thất chính của thày được gọi là Hang Biểu tượng. Thày có khả năng giúp con nhìn thấy biểu tượng đang kìm hãm con, đang hạn chế con. Nhưng giáo lý này đã được đưa ra trước khi Đại thượng sư giảng về các phàm linh. Vì vậy, bây giờ con thấy tuyến phản ứng đầu tiên thực sự là phàm linh. Nhưng tất nhiên phàm linh được tạo ra từ một khuôn đúc tư tưởng, đó là cái thày Saint Germain gọi là biểu tượng vì nó là chỉ là một biểu tượng. Nó không có thật. Nó chỉ là một khuôn đúc tư tưởng được tạo ra trong tâm. Và nó được tạo ra dựa trên một cái nhìn hạn hẹp, chọn lọc về cuộc đời.

Do đó, con có thể thấy là khi một phàm linh được tạo ra, nó được tạo ra dựa trên một biểu tượng, dựa trên một cách nhìn cá biệt về cuộc đời. Đây là một cách nhìn đời mà con chấp nhận vì một điều gì đó đã xảy ra cho con trên trái đất, hoặc con đã quyết định tạo ra để đối phó với một số tình huống trên trái đất.

17.3. Đối phó với tự tấn công

Thày đã nói gì với con trước đây? Hành tinh này là một hành tinh đen tối với nhiều sa nhân hiện thân và nhiều sinh thể bị kẹt trong tâm thức sa ngã. Họ chỉ có thể thấy mình như sinh thể tách biệt, họ chỉ có thể thấy mình đối lập với người khác, ganh đua với người khác, luôn tìm cách nâng mình lên bằng cách hạ người khác xuống. Khi con biểu lộ bất cứ tính sáng tạo nào, bất cứ tính tâm linh nào, họ cảm thấy bị đe dọa và do đó họ muốn miệt thị con. Đó là lý do vì sao, ngay từ lúc con hiện thân ở đây và dám biểu lộ động lực sáng tạo của mình, con đã bị chế giễu, miệt thị và tấn công qua nhiều cách: thể chất, tình cảm, tư tưởng và thậm chí ở tầng bản sắc.

Con đã làm gì, khi con là một dòng sống mới đến đây với những ý định tốt đẹp nhất và cảm thấy mình như một đứa trẻ ngây thơ, rồi con đã bị tấn công dữ dội bởi những người lớn này. Họ chỉ có một mong muốn là miệt thị, khóa miệng hoặc tiêu diệt con, nếu họ cần tiêu diệt con, để ngăn cản con biểu lộ động lực sáng tạo của con.

Điều con đã làm là con không biết phải hành xử ra sao, và do đó con đã tạo ra một phàm linh để đối phó với tình huống này. Phàm linh này được tạo ra dựa trên ý niệm bản ngã hạn chế mà con có lúc đó. Và do đó, con đã không thể nhìn tình huống một cách rõ ràng bằng Hiện diện TA LÀ của con. Con đã quên rằng con là cái Ta Biết, tức là nhận biết thuần khiết và do đó không cần phải phản ứng với bất cứ chuyện gì xảy ra trên trái đất nhưng có thể cho phép Hiện diện phản ứng.

Con đã tin rằng con phải phản ứng với mọi chuyện xảy ra trên trái đất với mức độ tự nhận biết lúc đó của con. Do đó, con đã phản ứng nhưng vì con không biết phản ứng như thế nào, không muốn phản ứng, và không thấy có cách phản ứng nào xây dựng hay hữu ích, nên con đã tạo ra một phàm linh để phản ứng thay con. Và phàm linh được tạo ra dựa trên mức độ tâm thức, cách nhìn cuộc đời qua cái ta mà con mang lúc đó. Như vậy, trên bản chất nó là một phàm linh hạn hẹp. Nó chỉ có một số ít chọn lựa khi phản ứng lại tình huống.

Một khi phàm linh được tạo ra, nó bị khóa trong khuôn đúc đã tạo ra nó, đã quy định nó. Nó không có khả năng tự nhận biết để thăng vượt khuôn đúc đó, vì vậy nó chỉ có thể tiếp tục phản ứng lại tình huống một cách giản dị theo cùng một khuôn nếp. Nhưng nó có thể đi tới những hình thái ngày càng cực đoan của khuôn nếp, thí dụ nếu khuôn nếp đó là sự tức giận, thì nó có thể ngày càng tức giận nhiều hơn, cho tới khi con gần như lúc nào cũng tức giận, lúc nào cũng sẵn sàng la chửi khi có bất cứ điều gì cản trở hay làm con khó chịu.

17.4. Thấy những phàm linh đang phản ứng thay con 

Khi các học viên đến khóa nhập thất của thày và bị mắc kẹt trong những khuôn đúc này, thì thày có thể – nếu họ đã học qua sáu bước đầu tiên mà thày đã mô tả trong các bài giảng trước – đưa họ đến khóa nhập thất của thày Saint Germain tại Hang Biểu tượng. Nơi đây, các thày có thể chỉ cho học viên thấy trên một màn ảnh là chính các phàm linh đã phản ứng khi họ nhìn sự việc như tấn công cá nhân họ.

Tất nhiên, phản ứng không phải lúc nào cũng là tức giận. Nhiều khi có những cảm xúc khác. Nhiều người tâm linh cảm thấy xấu hổ hay bị chế giễu khi chọ cảm thấy không được người khác chấp nhận. Trước hết, các thày chỉ cho học viên thấy là phản ứng của họ không phải là một phản ứng sáng tạo, một kết quả của lựa chọn. Họ chỉ đơn giản phản ứng một cách tự động, và trong một số trường hợp, họ hoàn toàn rút lui không dùng khả năng tự nhận biết và để phàm linh làm chủ phản ứng của mình.

Các thày chỉ cho họ thấy phàm linh phản ứng ra sao. Các thày chỉ cho họ thấy phàm linh trông như thế nào, thường thì không đẹp đẽ lắm đâu. Sau đó, các thày cho thấy phàm linh phản ứng ra sao, nhưng các thày cũng cho thấy cái gì phóng tới khiến phàm linh phản ứng. Các thày cho thấy cái phóng tới không phải là một phản ứng sáng tạo vì hành động tấn công, chế giễu hay miệt thị không phải là một phản ứng sáng tạo từ người kia.

Người kia cũng đã cho phép một phàm linh làm chủ tâm họ, và do đó chính phàm linh hung hãn này đang tấn công con. Và nay con phản ứng lại nó với một phàm linh hung hãn của chính mình hay với một phàm linh thụ động quy phục sự tấn công. Phàm linh thụ động tìm cách giải quyết bằng cách giữ nó trong tâm, đưa đến tự trách mình, hay cảm thấy mình ngu ngốc, cảm thấy bị chế giễu, xấu hổ hoặc giận mình tại sao không tự vệ hay tấn công lại.

Con thấy chăng, khi con tới khóa nhập thất của thày Saint Germain và nhìn lên màn ảnh, con thấy là phản ứng của con là một phàm linh, nhưng tấn công cũng là một phàm linh. Như vậy, có một phàm linh tấn công con và có một phàm linh khác phản ứng lại cuộc tấn công. Khi con đã học qua sáu cấp của khóa nhập thất của thày, thì thường con sẵn sàng nhận ra thật là vô nghĩa nếu con cho phép cuộc đời mình và sự chú ý của mình bị tiêu hao trong những cuộc phàm linh tấn công và tự vệ chống lại sự tấn công của phàm linh khác. Con nhận ra điều này tiêu hao cuộc đời và sự chú ý của con, và con quyết tâm nói rằng; “Ngưng lại! Tôi sẽ không cho phép phàm linh tước đi tự do của tôi.”

Và tất nhiên, con có thể tiến thêm bước nữa và nhìn vào phàm linh đang điều khiển đời mình – là phàm linh chính mà con cho phép làm chủ phản ứng của mình trước hoàn cảnh sống đang bận tâm con. Con nhận ra rằng cách duy nhất để thực sự thoát khỏi phàm linh là con phải lấy quyết định không cho phàm linh này kiểm soát phản ứng của mình trước loại tình huống này nữa. Vì con thực sự sẵn sàng sử dụng uy lực và ý chí của mình để lấy quyết định sáng tạo về cách phản ứng trước những tình huống này.

17.5. Lấy quyết định sáng tạo

Thày muốn nói gì khi nói tới quyết định sáng tạo? Đó là khi con có tự do phản ứng theo cách mà con chưa từng làm trước đó. Con tự do phản ứng theo cách con muốn phản ứng, không để một phàm linh nào làm chủ phản ứng của con. Con sẵn sàng quyết định và nói: “Vâng, tôi thấy là tôi đã tạo ra một phàm linh. Tôi thấy rằng trong quá khứ tôi đã phản ứng nhiều lần theo cách này trong tình huống như thế. Nhưng tại sao bây giờ tôi lại bị ràng buộc bởi cách mà tôi phản ứng trong quá khứ? Đây không phải là tự do quyết định. Tôi không dùng sức mạnh ý chí của mình khi tôi cho phép một phàm linh làm chủ phản ứng của tôi bởi vì tôi không muốn lựa chọn. Vậy bây giờ, tôi lấy lại sức mạnh ý chí của mình, và tôi sẵn sàng lựa chọn. Vì tôi nhận ra phàm linh mà tôi tạo ra nhiều kiếp trước đây, đã được tạo ra với trạng thái tâm thức của tôi vào lúc đó, ý niệm bản ngã của tôi vào lúc đó. Nhưng tôi đã tăng triển. Tôi đã mở rộng ý niệm bản ngã của mình. Vì vậy, tôi có khả năng và ý muốn phản ứng một cách chín chắn hơn, có ý thức hơn và có nhận biết nhiều hơn so với trước đây.

Con có thấy chăng? Tự do có thể bị mất nếu không chịu lấy quyết định. Nhưng không thể có tự do nếu không chịu lấy những quyết định có ý thức, có chủ tâm và có cân nhắc. Con có thể nghĩ tự do là cái gì đó thụ động, là trạng thái không có gì bên ngoài cản trở con. Nhưng đây không phải là tự do.

Tự do là một lực tích cực. Phải có uy lực mới có tự do, và uy lực chỉ có thể phát huy qua ý chí. Con không thể có tự do bằng cách thụ động và hy vọng không ai tấn công mình. Vì điều đó sẽ không xảy ra trên trái đất này, ít nhất là trong tương lai gần. Vẫn còn quá nhiều dòng sống có tâm thức sa ngã đang hiện thân trên trái đất, và họ sẽ tấn công con. Cuộc sống của họ bị các phàm linh làm chủ, và các phàm linh này được tạo ra bởi một khuôn đúc hung hãn và tấn công. Hiện nay họ không thể sống cách nào khác.

Khi con nhận ra các điều này, con bắt đầu ngưng cá nhân hóa cuộc đời mình. Vì con nhận ra rằng những người đang tấn công hay chế giễu con không thực sự chế giễu cá nhân con. Thậm chí họ còn không thấy con, vì họ chỉ thấy con qua phin lọc của phàm linh đang khống chế tâm thức họ. Phàm linh này nhìn sự việc qua khuôn đúc đã quy định nó. Thật ra điều phàm linh thấy là thấy cái khuôn đúc. Nó không nhìn thấy con thực sự là ai. Nó không có khả năng nhìn thấy con thực sự là ai. Nó chỉ đơn giản nhìn thấy mô thức được tạo ra trong tâm nó khi nó gặp con, trường năng lượng của con, hay phàm linh đang làm chủ cuộc đời con.

Con thấy chăng, phàm linh trong người kia không nhìn thấy con. Người kia không có ý thức, không có nhận biết. Không ai có thể tấn công, chế giễu hay miệt thị con nếu họ hoàn toàn nhận biết họ là một sinh thể tâm linh. Vì lúc đó, họ cũng sẽ nhận biết rằng con là một sinh thể tâm linh. Và tại sao một sinh thể tâm linh lại đi miệt thị một sinh thể tâm linh khác? Nhưng một phàm linh thì sẵn sàng miệt thị một phàm linh khác hay một sinh thể tâm linh khác. Người kia không thấy con là một sinh thể tâm linh, họ chỉ thấy một ảo ảnh được tạo ra trong tâm họ khi phin lọc nhận thức của họ tiếp xúc với con.

17.6. Ngưng cá nhân hóa cuộc đời mình

Khi con biết điều này – khi con bắt đầu nhận ra điều này, khi con bắt đầu nhìn thấy nó – con có thể nói: “Nếu họ không tấn công cá nhân tôi, tại sao tôi lại cá nhân hóa chuyện này? Tôi nhận ra nếu có người khác ở trong hoàn cảnh của tôi, họ cũng sẽ tấn công người đó nếu người đó đang làm những gì tôi đang làm. Vì vậy, đòn tấn công này không thực sự nhắm vào cá nhân tôi. Tại sao tôi lại cảm thấy cá nhân mình đang bị tấn công?”

Lúc đó con nhận ra rằng con, cái Ta Biết – nhận biết thuần khiết – không cảm thấy cá nhân nó bị tấn công. Chính phàm linh mà xuyên qua đó con nhìn tình huống, đang cảm thấy cá nhân nó bị tấn công. Con có thể nói là cá nhân phàm linh đang bị tấn công bởi một phàm linh khác. Hoặc con có thể nói phàm linh của con được tạo ra để cảm thấy cá nhân nó bị tấn công, và để đối phó với loại tình huống này một cách đặc trưng và cá nhân. Nhưng khi con nhận ra con không phải là phàm linh, con thấy được là con không cần cảm nhận những gì phàm linh cảm nhận. Mặc dù phàm linh coi chuyện này là một tấn công cá nhân, con không cần nhìn giống nó.

Cái “ta” đang phản ứng với tình huống là ai? Nó có phải là cùng cái “ta” đang hỏi câu hỏi này không? Và khi con nhận ra con có khả năng tự hỏi, cái ta nào đang phản ứng với tình huống, thì con nhận ra có một cái ta là cái Ta Biết và có một cái ta chỉ là phàm linh – và cái ta nghĩ nó là phàm linh không có thật. Phàm linh không có thật.

Do đó, con nhận ra con không bị ràng buộc bởi phản ứng của phàm linh. Con không bị ràng buộc bởi khuôn đúc. Con có thể quyết định sáng tạo nhìn vào khuôn đúc, xem nó hạn chế con như thế nào và nói: “Tôi không muốn nhìn tình huống qua khuôn đúc này. Tôi muốn nhìn nó một cách sáng tạo hơn. Tôi muốn có tự do nhìn tình huống với tầm nhìn cao hơn và do đó phản ứng từ tầm nhìn cao hơn.”

Đây là lúc con bắt đầu đạt được tự do, tự do ý chí, tự do biểu lộ uy lực của mình. Vì các phàm linh con tạo ra đang làm gì? Chúng đang hạn chế uy lực của con. Chúng nói rằng con không thể phản ứng với tình huống một cách sáng tạo, con phải phản ứng y như những lần trước bởi vì con phải phản ứng qua phàm linh. Con không biểu hiện quyền năng sáng tạo của mình nếu con để phàm linh phản ứng. Con càng tạo ra nhiều phàm linh, con càng hạn chế uy lực sáng tạo từ Hiện diện TA LÀ chảy qua con. Hiện diện TA LÀ làm điều này như một hồng ân cho con, để con không củng cố phàm linh hơn nữa, không để chúng hoàn toàn làm chủ cuộc đời con.

17.7. Đánh mất sự ngây thơ của mình 

Tất nhiên, những phàm linh đang tấn công con không phải là phàm linh sáng tạo. Chúng được tạo ra bởi sa nhân lúc ban đầu để ngăn cản con biểu hiện quyền năng sáng tạo của con. Sa nhân có kinh nghiệm là nếu họ tấn công những người ngây thơ thiêng liêng một cách tàn ác và bất công, thì một tỷ lệ nào đó – đúng thực là một tỷ lệ cao – sẽ bị chấn thương, bị chấn động đến độ bị lừa và đánh mất sự ngây thơ của mình, vì nghĩ rằng phải phản ứng lại đòn tấn công với một tầng mức tâm thức tương tự như tâm thức của kẻ tấn công. Vì vậy, họ nghĩ rằng họ phải tạo ra phàm linh với cùng tầng mức tâm thức để phản ứng lại những phàm linh đang tấn công.

Sự vận hành này rất tinh vi. Khi con đang ở trong tình trạng thơ ngây, con không thể nào đẩy ngược một đòn tấn công có tầng mức tâm thức thấp. Con chỉ có thể đẩy ngược một đòn tấn công bằng cách vô hiệu hóa hay chặn nó với năng lượng ở một tầng tương đương hay thấp hơn. Hành động lúc nào cũng tạo ra phản ứng. Đây là quy luật của một bầu cõi chưa thăng thiên. Và đó là lý do vì sao con dễ rơi vào cái bẫy suy nghĩ rằng khi có một hành động tấn công con ở một tầng rung động nào đó, con phải chống lại nó bằng một phản ứng có cùng độ rung và cùng tầng tâm thức. Và đây là nguyên nhân khiến con mất đi sự ngây thơ thiêng liêng của mình.

Vậy thày muốn nói gì đây? Phải chăng thày muốn nói, để giữ sự ngây thơ, con phải cho phép sa nhân liên tục tấn công con? Đó quả thực là điều thày muốn nói. Vì đâu có sao đâu nếu họ tấn công con và con giữ mình trong suốt để cú đánh đi xuyên qua con? Sự ngây thơ tối hậu là sự trong suốt, khi ấy bất cứ gì họ phóng tới con với tâm thức sa ngã sẽ đi xuyên qua con, bởi vì trong con không có cái gì có cùng tần số rung động cho nó tương tác.

Vì vậy thực tế sâu sắc là tà lực, sa nhân không thể buộc con phản ứng lại chúng. Chính con đã chọn lựa phản ứng ở cùng tầng cấp tâm thức. Chúng rất khôn ngoan lừa con nghĩ rằng phản ứng ở tầng đó cần thiết và chính đáng. Giống như chúng đã dụ những người tốt thuộc Cơ đốc giáo tham gia thánh chiến, nghĩ rằng giết đàn ông, phụ nữ và trẻ em theo đạo Hồi để giải phóng Jerusalem là điều chính đáng. Trong khi sự thực là các cuộc thánh chiến chỉ là một cuộc xung đột lớn do sa nhân và tà lực tạo ra để nuôi dưỡng phàm linh và ngăn cản con người không biểu hiện được quả vị Ki-tô bằng cách kéo họ vào một cuộc xung đột bất tận.

Con không có tự do khi con bị kéo vào chuỗi hành động-phản ứng tiếp diễn mãi mãi. Khi con đến cấp thứ bảy của khóa nhập thất của thày, thày tìm cách giúp con thấy điều này. Một số sẽ không thấy được, và họ phải rời khóa nhập thất và quay trở lại Trường đời Cay đắng. Một số khác sợ hãi đến độ phải trở lại quán cháo từ thiện một thời gian và nhận sự chữa lành.

Một số khác nhìn thoáng thấy những phàm linh mà họ đã tạo ra và chuyện này tạo ra một vết sẹo. Khi nhìn thấy phàm linh của mình, họ phản ứng mạnh đến độ họ tạo ra một phàm linh mới. Lúc đó, họ quay trở lại tầng đầu tiên của khóa nhập thất của thày và học trở lại từ đầu, vừa học vừa nhận sự chữa lành. Hoặc họ đi đến khóa nhập thất của một trong các Thượng sư khác, nơi họ có thể nhận sự chữa lành hoặc tình thương hoặc bất cứ điều gì họ cần, cho đến khi họ sẵn sàng trở lại cấp thứ bảy. Lúc ấy họ có thể bình tĩnh nhìn vào phàm linh đang kìm hãm họ ở tầng tâm thức này và nói: “Ngươi lừa ta đủ rồi. Ngươi sẽ không kiểm soát cuộc đời của ta thêm nữa. Ngươi sẽ không kiểm soát phản ứng của ta đối với loại tình huống này nữa, và từ nay ta sẵn sàng quyết định một cách ý thức phải phản ứng như thế nào.”

17.8. Thay đổi các mối quan hệ của con

Con yêu dấu, có nhiều học viên đến khóa nhập thất của thày mà không có ý thức về những gì thày đang nói với con ở đây. Một phần lý do thày nói với con là để giúp con lưu giữ lại một số ký ức ý thức về các khai ngộ này, để con có thể áp dụng chúng dễ hơn trong cuộc sống hàng ngày. Nhưng thày cũng có thể nói với con là nhiều học viên đã bắt đầu áp dụng những khai ngộ này mà không biết một cách ý thức là chúng từ đâu đến. Và tác dụng của việc đến khóa nhập thất của thày, và đạt được sự khai ngộ ở cấp thứ bảy, là học viên sẽ bắt đầu cố ý thay đổi phản ứng của mình đối với một số tình huống.

Điều này thường xảy ra trong mối quan hệ với một người khác, như cha mẹ, vợ, chồng, bạn bè hay con cái. Cũng có thể là người đồng nghiệp. Con đã gặp khó khăn khi đối xử với họ – có khi suốt nhiều năm hay nhiều chục năm – nhưng nay con chợt nhận ra rằng con không muốn tiếp tục mối quan hệ dựa trên khuôn nếp cũ này nữa.

Con đột nhiên nhận ra rằng người kia sẽ không thay đổi. Vậy nếu muốn quan hệ thay đổi, thì ai là người phải thay đổi? Người đó là con vì con ý thức hơn. Con có nhiều nhận biết hơn. Con sẵn sàng lấy quyết định hơn. Và do đó, con có thể đột nhiên nhìn vào mối quan hệ và nói: “Nếu mối quan hệ này thay đổi, và đó là điều tôi muốn, thì tôi là người phải làm điều gì đó để thay đổi cách nó vận hành. Và điều đó có nghĩa là tôi phải thay đổi phản ứng của tôi và cách tôi đối xử với người kia.”

Con yêu dấu, lúc đó con sẽ thấy rằng khi con quyết định thay đổi một cách cố ý và ý thức cách con đối xử với người kia, thì một trong hai chuyện sẽ xảy ra: hoặc người kia sẽ ngạc nhiên và bắt đầu thay đổi, hoặc, nếu người kia không thay đổi và tiếp tục phản ứng như trước, thì nhiều khi con sẽ thấy con giản dị ngưng mối quan hệ đó và chuyển sang tình trạng không phải đối mặt với loại người này.

Có những trường hợp con có lý do đặc biệt để tiếp tục duy trì mối quan hệ. Đặc biệt là khi đó là quan hệ với con cái, vợ chồng, và tất nhiên cha mẹ. Lúc đó, con sẽ thấy rằng dù người kia không thay đổi, con đã thay đổi nhiều đến độ hành vi người kia không còn làm phiền con nữa vì con không còn coi hành vi này tấn công cá nhân con. Điều này có nghĩa là con tiếp tục có mối quan hệ với người đó, nhưng con sẽ thấy mình rút lui khỏi người đó và chỉ duy trì quan hệ tối thiểu. Nhưng khi con tiếp xúc với họ, con có thể duy trì một phản ứng không cá nhân. Con có thể để người đó nói huyên thuyên như họ đã làm suốt mấy chục năm bởi vì con biết họ bị mắc kẹt trong một khuôn nếp.

Nếu đó là cha mẹ hoặc con cái của con, con thương yêu họ, con chấp nhận họ như họ là, và sau đó con chấp nhận rằng có lẽ họ sẽ không thể thay đổi trong suốt phần còn lại của cuộc đời họ. Và con nhận ra rằng con không có phận sự buộc họ thay đổi, cho dù họ là một người thân thiết với con. Con có thể cho phép mình là mình. Con có thể cho phép người kia là họ bởi vì con chấp nhận Luật Tự quyết.

Con chấp nhận rằng con đã sử dụng quyền tự quyết của mình khi con thay đổi phản ứng của mình. Con sẽ tiếp tục sử dụng quyền tự quyết bằng cách không cho phép bị tâm thức rắn lừa và nghĩ rằng con có trách nhiệm thay đổi người kia. Con cho phép người kia tiếp tục lặp lại những khuôn nếp cũ vì người đó không sẵn sàng sử dụng quyền tự quyết của mình. Nhưng con vẫn sử dụng quyền tự quyết của con bằng cách tiếp tục phản ứng với người kia một cách không cá nhân.

Con không coi cá nhân mình đang bị tấn công. Con duy trì tự do của mình. Và để duy trì phát triển tâm linh của mình, có khi con cần giữ phản ứng không cá nhân với người kia trong một thời gian dài để nó dần dần neo chặt trong bốn thể phàm của con. Và sẽ có một lúc con chứng minh cho chính mình là con có thể đương đầu với người đó, đối phó với người đó, mà không trở lại những khuôn nếp cũ mà con đã lặp đi lặp lại qua nhiều kiếp.

17.9. Không cá nhân hóa và không có nhân tính

Một lần nữa, con không nên dính mắc vào hoàn cảnh bên ngoài và kết quả của hoàn cảnh đó. Đây là một bước cốt yếu để có tự do. Một trong những cách chính mà sa nhân và những người trong tâm thức rắn dùng để cám dỗ con đi vào khuôn nếp hành động-phản ứng, là khiến con tin rằng con phải đạt được một kết quả – một kết quả vật lý – nào đó. Họ thường dùng tư duy cuồng đại cho rằng có một đại nghĩa cao cả đòi hỏi một kết quả nào đó phải được thể hiện.

Con yêu dấu, Adolf Hitler đã làm gì để lừa đối đa số dân Đức và khiến họ tin rằng trong sạch hóa chủng tộc Aryan là điều cốt yếu? Các nhà lãnh đạo cộng sản quốc tế đã làm gì để lừa dối biết bao nhiêu người và khiến họ tin rằng giết và tra tấn người khác để đem lại thiên đàng cộng sản là điều chính đáng?

Con có nghĩ rằng một người tiếp cận tâm linh của mình có thể giết hay tra tấn người khác chăng? Chuyện này không thể làm được. Chuyện này chỉ xảy ra khi người đó cho phép một phàm linh làm chủ phản ứng của mình. Vì sao người đó lại làm vậy? Đó là vì họ tin chắc là một kết quả nào đó hoàn toàn cần thiết để hoàn thành đại nghĩa cuồng đại, và do đó họ cần làm những điều mà họ không thể làm như một con người. Do đó, họ xóa cá nhân tính của họ bằng cách để một phàm linh làm chủ phản ứng và hành động của họ. Do đó, họ có thể tách cá nhân họ khỏi hành động, như vậy họ không thấy là họ đang tra tấn hay giết một con người. Họ nghĩ, vì lý do nào đó, người bị giết hay bị xô đẩy vào buồng hơi ngạt là một loài thấp hơn con người, một loài không phải là người.

Các con thấy chăng, điều thày muốn nói là con cần không cá nhân hóa cuộc đời mình. Nhưng quan niệm không cá nhân hóa có thể đi quá đà và trở thành từ bỏ nhân tính của mình và của người khác. Con cần nhận ra là phản ứng cá nhân – khi con xem cá nhân mình bị tấn công – và phản ứng vô nhân – khi con nghĩ người khác không phải là con người – đều là phản ứng của phàm linh.

Khi con bắt đầu nhận ra điều này thì con bắt đầu thực sự giải thoát mình khỏi khuôn nếp hành động-phản ứng. Con thoát khỏi sự lừa dối của sa nhân, và phản ứng chống lại hai loại sa nhân: sa nhân tấn công bằng vũ lực trắng trợn, và sa nhân tấn công con bằng lừa dối. Với loại thứ hai, con không biết mình đang bị tấn công và bị ép vào một khuôn nếp.

Khi con tới cấp thứ bảy của khóa nhập thất của thày, thì con đã ở tầng tâm thức nơi con có khả năng dùng lý luận để thấy cách quyền lực bị lạm dụng. Con nhận ra cách khiến con người lạm dụng quyền lực là cá nhân hóa mọi việc xảy ra cho mình đồng thời lại từ bỏ nhân tính trong cách mình đối xử với người khác. Thí dụ, người Đức trong Thế chiến thứ Hai coi những điều mà họ nghĩ người Do Thái làm cho họ và cho nước Đức là tấn công cá nhân họ. Đồng thời, họ coi người Do Thái không phải là người để nghĩ rằng họ không đang giết người khi họ giết người Do Thái.

17.10. Thái cực nhị nguyên

Con có thấy phản ứng này chăng? Trong tâm thức nhị nguyên, lúc nào cũng có hai đối cực. Và đó là lý do vì sao con có cả hai khi con bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Con bị hoàn toàn mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên khi con cá nhân hóa phản ứng của mình đối với những gì con nghĩ người khác đang làm, nhưng con không cá nhân hóa hành động của con đối với họ. Vì con nghĩ họ không có quyền coi hành động của con là tấn công cá nhân họ. Vì họ là người xấu.

Do đó, con không nhận ra rằng khi con bạo tàn với họ, con cũng sai y như họ. Khi con nhận ra điều này, con có thể dùng lý luận cao để thoát khỏi phản ứng, và con bất thần ngộ ra: “Tôi không thể buộc tội họ dùng bạo lực đối với tôi trong khi chính tôi cũng đang dùng bạo lực đối với họ. Đây là đạo đức giả.”

Đây là lúc khả năng lý luận có thể giúp con thoát khỏi khuôn nếp phản ứng này. Nhưng con không làm được điều này khi con còn nhìn tình huống xuyên qua phàm linh vì phàm linh không thể lý luận xa hơn khuôn đúc của nó. Phàm linh không có ý thức cá nhân và nhiều phàm linh được tạo ra từ một khuôn đúc coi một nhóm người không có nhân tính. Phàm linh không thể phá vỡ khuôn đúc. Chúng không thể nghĩ một cách sáng tạo.

Vì vậy, khi con còn hoàn toàn đồng hóa mình với phàm linh và nhìn tình huống qua chúng, con không thể nhận ra mình đang đạo đức giả. Ví dụ, con không nhận ra rằng con đang tự xưng là một tín đồ Cơ đốc tốt trong khi việc giết phụ nữ và trẻ em Hồi giáo hoàn toàn đi ngược lại các điều răn của Ki-tô.

Bây giờ con – khi con cảm nhận tâm linh của mình – có thể thấy điều này. Nhưng khi con từ bỏ nhân tính của mình khi cho phép các phàm linh làm chủ cuộc đời mình, thì con không thể thấy điều này. Vì thực sự lúc đó con không còn là một sinh thể tâm linh nữa. Con đã trở thành một người phàm phản ứng với nỗi sợ bị người phàm khác đe dọa.

Chỉ khi nào con chợt nhận ra nhân tính cao của mình – tâm linh của mình – con mới bắt thấy mình đang làm gì và lý luận rằng con không thể cho phép mình tự xưng là người tín đồ Cơ đốc tốt, nếu con vi phạm điều răn của Ki-tô. Cũng vậy, con không thể tự xưng mình đang phục vụ một lý tưởng cao, đồng thời giết, tra tấn, miệt thị, chế giễu hay kỳ thị người khác. Vì họ cũng là sinh thể tâm linh, và một sinh thể tâm linh không thể đối xử một cách vô nhân đạo với một sinh thể tâm linh khác. Chuyện này đơn giản không thể có được.

17.11. Tình trạng tiến thoái lưỡng nan của mặc cảm tội lỗi

Đây là điều mà thày Saint Germain và thày muốn con đạt được khi con ở cấp thứ bảy của khóa nhập thất của thày. Các thày không nhằm giúp con hoàn toàn thoát khỏi khuôn nếp hành động-phản ứng, nhưng các thày muốn giúp con nhận ra một cách ý thức phàm linh nào đã khiến con phản ứng một cách vô nhân với người khác và với chính mình. Sau đó, các thày giúp con ý thức kinh nghiệm của mình khi con thấy phàm linh đó, thấy nó không phải là mình, thấy nó không thật, và từ đó quyết định hoàn toàn buông bỏ nó mà không cảm thấy tội lỗi vì đã tạo ra nó.

Đây thường là một thách đố lớn đối với các thày, vì có nhiều học viên nhận ra họ đã đối xử bất nhân với người khác. Và họ khó nhìn nhận điều này mà không bị một phàm linh khác cướp quyền phản ứng của họ. Phàm linh này đã được họ tạo ra từ nhiều kiếp trước. Họ đã nhiều lần nhập vào phàm linh chỉ biết phản ứng với mặc cảm tội lỗi và tự trách vì phàm linh này được tạo ra dựa trên khuôn đúc đó.

Các sa nhân rất thiện nghệ trong việc tạo ra tình trạng tiến thoái lưỡng nan này, khi con tạo ra một phàm linh phản ứng vô nhân đạo và một phàm linh khác tự trách mình đã phản ứng vô nhân đạo. Hậu quả là con rất khó nhận ra phàm linh đầu vì con biết rằng phàm sau sẽ chiếm lấy phản ứng của con và khiến con cảm thấy khó chịu đến độ không chịu nổi.

Khi con đến cấp thứ bảy của khóa nhập thất của thày, con đã đi qua sáu cấp kia và đã nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ, tình thương từ các thày và các Thượng sư khác nên con đã sẵn sàng nắm lấy tay các thày và nhìn cả hai phàm linh, và thấy rằng sự tự trách không đến từ Thượng đế vì Hiện diện TA LÀ của con không trách cứ con bất cứ điều gì con đã làm trên trái đất này. Nó thấy rằng tất cả đều không thật; vì hành tinh này chỉ là một phần của bãi chơi cát toàn vũ. Vì vậy, không có điều gì trên trái đất này thường hằng, có thật. Và nếu nó không thường hằng và có thật, thì tại sao con phải mang nó theo như một phần của dòng sống mình? Cái gì đang mang nó theo con? Chính là một phàm linh trong tâm con đang mang nó theo.

17.12. Xóa bỏ sử liệu akasha

Đây là lúc các thày đưa con trở lại khóa nhập thất của thày, và con có thể thấy trong kho sử liệu akasha toàn bộ tình huống gồm các quyết định tạo ra phàm linh tự trách và phàm linh giữ con trong khuôn nếp hành động-phản ứng. Lúc đó con có thể dùng động lượng đọc chú của bảy tia sáng – mà lúc đó con đã gầy dựng được, vì nếu không con đã không lên đến được tầng này của khóa nhập thất – để đi vào kho sử liệu akasha. Và bằng cách phóng một tia ánh sáng rất tập trung, chính xác giống như tia sáng la-de, con có thể xóa sử liệu nguyên thủy trong kho sử liệu akasha.

Lúc đó con thấy sự thực rằng khi một điều được xóa khỏi sử liệu akasha, con đã hoàn thành yêu cầu như Thượng đế nói: “Ta sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của họ nữa.” Và đó là lúc con có thể gạt bỏ và thực sự phá tan khuôn đúc tư tưởng đã tạo ra phàm linh, đã giữ tình huống trong thể ký ức của con, và liên tục sử dụng nó để trách móc con đã sai lầm trong quá khứ. Khi con đã thăng vượt tâm thức khiến con lựa chọn như thế trong quá khứ, không còn lý do để con phải ghi nhớ chuyện này trong các thể thấp của mình. Vì thành tựu tích cực của sự thăng vượt tầng mức tâm thức đó bây giờ là một phần của căn thể (causal body) của con.

Con có hiểu chuyện này chăng? Căn thể không lưu trữ ký ức tiêu cực. Nó chỉ lưu trữ thành tựu, bài học tích cực con đã học. Và đó là lúc không còn sử liệu nữa, và đây là kinh nghiệm cuối cùng các thày tìm cách cho con ở cấp thứ bảy của khóa nhập thất. Thày Saint Germain và thày muốn giúp con có cái biết bên trong – kinh nghiệm trực tiếp – biết rằng con có thể hoàn toàn tự do thoát khỏi một tình huống tiêu cực trong quá khứ. Con có thể hoàn toàn thăng vượt cái con nghĩ là một sai lầm và biến nó thành một kinh nghiệm tích cực, một kinh nghiệm hỗ trợ sự sống, hỗ trợ tăng trưởng.

Lúc này một số các con có thể nhận ra, tuy có thể không biết một cách ý thức, là khi con nhìn lại cuộc đời mình, con nhận ra hồi còn thơ ấu, con có một sự lạc quan, một khả năng nhìn đời nhẹ nhàng, một cảm nhận nội tâm rằng không có điều gì thật xấu, không có lỗi lầm nào nặng đến độ con không hàn gắn được. Cảm giác đó không nhất thiết là niềm tin mình đã không làm điều sai lầm, nhưng lỗi lầm nào cũng có thể làm tốt trở lại, thăng vượt, bỏ lại đằng sau.

Con cũng có thể nhận ra rằng con có khuynh hướng tự trách mình, vì nhiều đệ tử tâm linh có ý muốn làm điều tốt rất mạnh, đến độ họ cũng có khuynh hướng trách cứ mình khi họ phạm lỗi. Phản ứng này tất nhiên là của phàm linh, nhưng thày muốn nói tới một sự kiện sâu sắc hơn. Con là cái Ta Biết, và cái Ta Biết kết nối với Hiện diện TA LÀ. Và như vậy, con biết là ở tầng mức của Hiện diện TA LÀ, mọi chuyện trên trái đất đều có thể biến thành một kinh nghiệm tích cực.

17.13. Cuộc sống có thể là một vòng xoáy đi lên

Khi con ý thức hơn về cái biết nội tâm này – tất nhiên, thày đang tìm cách giúp con ý thức nó qua việc dạy con giáo lý vỏ ngoài này – thì lúc đó con có thể ý thức sự kiện cuộc sống trên trái đất – ngay cả trong tình trạng hiện nay của hành tinh này – cuộc sống trên trái đất có thể trở nên một trải nghiệm hoàn toàn tích cực. Con đi từ trải nghiệm học hỏi tích cực này sang trải nghiệm học hỏi tích cực khác và con liên tục thăng vượt chính mình trong một vòng xoáy đi lên. Và thật vậy, buổi lễ tốt nghiệp từ khóa nhập thất của thày, trước khi thày có thể gửi con đến khóa nhập thất của đức Lanto trên Tia thứ Hai, sẽ chỉ diễn ra khi con nắm bắt được điều này, khi con cảm nhận – kinh nghiệm – rằng cuộc sống có thể là một trải nghiệm tích cực.

Điều đó không có nghĩa là con đã xóa sạch tiềm thức của mình, bốn tầng của tâm, khỏi mọi phàm linh và mọi khuôn mẫu quá khứ đang ngăn trở bước tiến của con. Nhưng nó có nghĩa là ở một mức độ nào đó của con người con, con có cái biết nội tâm dựa trên kinh nghiệm rằng cuộc sống có thể tích cực. Và tất nhiên, đó là hy vọng của các thày, bảy Thượng sư và Đại thượng sư, rằng khi con đến tầng 96, con sẽ giữ chặt trong tâm cái biết cuộc sống là một vòng xoáy đi lên. Để sa nhân không thể cám dỗ con rời vòng xoáy đi lên này, để con tiếp tục vượt thăng chính mình. Vì con đã trải nghiệm những cạm bẫy của sa nhân trên bảy tia sáng không thể ngăn cản bước tiến của con, sự tự vượt thăng của con.

Thày cảm thấy một niềm hân hoan rất lớn khi đệ tử đạt trình độ này và tốt nghiệp khóa nhập thất của thày. Và thày có thể mời thày Lanto đến và cầm tay người đệ tử. Và thày đứng nhìn con đi với thày Lanto trên cây cầu ánh sáng từ khu nhập thất của thày đến khu nhập thất của thày Lanto, và thày chỉ giản dị nhìn con bước đi, giống như hình nhân vật chính cưỡi ngựa đi vào ánh chiều tà trong một số cuốn phim. Con cùng với thày Lanto đi vào dòng ánh sáng, và thày đứng lại, đôi khi cảm thấy một giọt nước mắt hạnh phúc khi biết thày đã hoàn thành công việc của mình là Thượng sư của Tia thứ Nhất. Thày đã dẫn người đệ tử đi xa nhất mà người đệ tử có thể đi được trong khóa nhập thất của thày, và trong niềm thương yêu và hân hoan thày chứng kiến người đệ tử tiến lên tầng kế tiếp.

Vì thày là Thượng sư của khóa nhập thất thứ nhất. Thày biết thày không phải là người đưa đệ tử đi hết con đường dẫn tới thăng thiên. Thày là Thượng sư thứ nhất. Có thể nói thày là người làm công việc nhơ bẩn nhất, vì chắn chắn là khi con đã trải qua khóa nhập thất của thày, con đã được thanh lọc phần nào. Đó là lý do vì sao con sẵn sàng nhận những chỉ dẫn cao hơn đang chờ đợi con tại khóa nhập thất của thày Lanto.

Thày đã chọn là Thượng sư của Tia thứ Nhất. Thày hoàn toàn an bình với vị trí của mình và những thách thức và khó khăn của nó. Thày hoàn toàn yêu Tia thứ Nhất của uy lực và ý chí. Nhưng thật ra, thày yêu động lực sáng tạo, và không điều gì khiến thày vui bằng việc giúp các dòng sống mở khóa quyền năng sáng tạo của họ, để họ sẵn sàng lấy quyết định sáng tạo thay vì quyết định máy móc. Chúng không thực sự là chọn lựa, mà là không-chọn lựa, điều mà Giê-su gọi là chọn lựa Chết.

Đến đây là đủ cho kỳ truyền đọc này. Thày sẽ trở lại với một vài nhận xét nữa về Tia thứ Nhất, đúng hơn là nhiều hơn một vài nhận xét. Vì còn một số đặc tính của Tia thứ Nhất mà thày muốn đưa ra dưới một dạng mà các con có thể nghiên cứu ở tầng vật lý, ở mức nhận biết ý thức. Thày là chân sư MORE và thày mãi mãi HƠN NỮA.

Uy lực và an bình

Bài giảng của chân sư thăng thiên More qua trung gian Kim Michaels, ngày 7/2/2013.

TA LÀ Chân sư MORE. Hôm nay thày đến đây để cho các con bài giảng kế tiếp trong bộ này để giúp con lĩnh hội – không phải chỉ hiểu bằng lý trí – và trải nghiệm sự rung động và các đức tính của Tia thứ Nhất.

Dĩ nhiên một đức tính cơ bản của Tia thứ Nhất là uy lực. Nhưng khi thày nói tới uy lực, nhiều đệ tử tức khắc liên tưởng tới quyền lực trên trái đất. Vậy con hãy để thày góp ý thế nào là uy lực thực sự. Khi con nhìn vào trái đất, đặc biệt là lịch sử, con thấy có những người có quyền lực vật lý lớn trên người khác. Do đó, con có thể có một tiêu chuẩn là những người có quyền lực độc đoán như vậy là người có uy lực. Tuy nhiên, xét theo định nghĩa bất nhị, thì những người này không có uy lực chút nào.

Các con yêu dấu, nếu con muốn có một hình ảnh so sánh thì con có thể nhìn vào một tổ kiến. Chắc con cũng biết là tổ kiến có tổ chức rất thứ bậc. Có một con kiến chúa trên đỉnh của tháp quyền lực, có kiến khác là chiến sĩ, và đa số là kiến thợ không thực sự có ý chí riêng biệt và ý muốn riêng biệt. Con có thể cho là kiến chúa có nhiều quyền lực trong tổ kiến. Nhưng con là một con người, con có thể lấy một cái xẻng và chỉ vài phút sau đập nát tổ kiến khiến không thể xây dựng lại như trước.

15.1. Uy lực thực sự là gì?

Khi con tiến lên tầm nhìn của chân sư thăng thiên, thì con thấy những người được coi là quyền uy nhất trên trái đất không khác gì con kiến chúa trong tổ kiến, và quyền lực của họ không ra gì so với uy lực của các Elohim, hay khi so sánh với uy lực hiện diện trên các hành tinh không có những biểu hiện thấp như trên trái đất. Có những hành tinh trong vũ trụ vật chất nơi có những người đã phát triển uy lực của tâm đến mức, nếu họ xuất hiện trên trái đất, họ chỉ cần xua tay là có thể tiêu diệt đội quân hùng mạnh nhất từ xưa tới nay. Do đó, con thấy điều mà con người gọi là uy lực không phải là uy lực thực sự. Nó chỉ là uy lực trong một bối cảnh nào đó, vì như con cũng biết – qua thuyết tương đối nổi danh của Einstein – tất cả đều tương đối, ít nhất là trong vũ trụ vật chất.

Quyền uy trên người khác trong tổ kiến trái đất có phải là uy lực thực sự chăng? Không phải đâu con. Như thày hay nói, nếu vị thày tâm linh là một con kiến thì con hãy nghe nó. Vậy con hãy học từ thí dụ tổ kiến là quyền lực trên thế giới vật chất không ra gì khi so sánh với quyền năng sáng tạo của Thượng đế.

Dĩ nhiên, điều thày muốn giảng qua lời chỉ dẫn này là cho con thấy mục đích của con Đường Bảy bức Màn là giúp con mở khóa quyền năng thật của con, quyền năng sáng tạo đến từ Hiện diện TA LÀ của con. Hiện diện của con khao khát cho quyền năng này tuôn chảy xuyên qua con khi con trở thành cánh cửa mở.

Mục đích của con Đường Bảy bức Màn không phải là nâng mình lên để có quyền uy theo tiêu chuẩn đánh giá của người phàm, mà là để con trở thành cánh cửa mở cho quyền uy của Thượng đế. Nhưng con có thấy chăng, quyền uy của Thượng đế muốn biểu lộ trên trái đất, nhưng nó sẽ không biểu hiện theo kỳ vọng và tiêu chuẩn con người. Đó là lý do vì sao khi con còn ôm chặt những kỳ vọng và tiêu chuẩn, tâm của con sẽ là cánh cửa đóng. Trong tiềm thức, con đặt điều kiện bắt quyền năng sáng tạo của Thượng đế phải biểu hiện qua con như thế nào, và như thế các van trên luân xa của con sẽ khép lại và quyền năng Thượng đế sẽ không chảy qua được. Vì đương nhiên là uy lực Thượng đế, tuy toàn năng, sẽ không vi phạm quyền tự quyết.

15.2. Mơ ước có quyền năng đặc biệt

Các con hãy để thày nói về một vấn đề mà thày hay cần giải quyết ở khóa nhâp thất của thày, đó là có nhiều đệ tử mơ ước có quyền năng đặc biệt. Không nhất thiết là quyền năng vật lý, nhưng là quyền năng tâm linh hay tâm lý. Rất nhiều đệ tử mơ ước trổ tài làm phép lạ để thuyết phục mọi người về thực tại của cõi tâm linh và con đường tâm linh, hay giá trị của giáo lý, hay của vị thày tâm linh, và ngay cả sự hiện hữu của chân sư thăng thiên. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên mơ ước có ngày các chân sư thăng thiên xuất hiện như một biểu hiện vật lý không thể phủ nhận, để mọi người thấy là các thày có thật, và như vậy các đệ tử là người đã sớm nhận ra các thày đã đúng ngay từ đầu.

Con yêu dấu, hầu hết những mơ ước và mong chờ này đều xuất phát từ tự ngã, và các nhà tâm lý gọi chúng là “ảo tưởng vĩ đại”, mơ ước mình bất thần thay đổi giống như trong các truyện thần thoại “nhà nghèo thành phú ông”. Con bất thần thay đổi nhờ một phép lạ nào đó, và nay mọi người coi con là một người đặc biệt, cao cả. Con yêu dấu, các thày không hành xử như vậy với đệ tử. Các thày không mong muốn nâng đệ tử lên một địa vị cao cả, theo định nghĩa của tiêu chuẩn thế gian về uy lực và khả năng đặc biệt. Các thày mong muốn đệ tử là cánh cửa mở cho uy lực thật sự. Nhưng uy lực thật sự không giống điều con chờ đợi dựa trên tiêu chuẩn thế gian. Vậy bây giờ thày muốn dẫn con đi một cuộc hành trình tìm về nguồn gốc của ước mơ này, ảo tưởng vĩ đại này.

Thành thật mà nói thì đa số những người tâm linh hay ngoan đạo trên trái đất có những ảo tưởng vĩ đại như vậy, và những người không tâm linh và không ngoan đạo cũng vậy. Con hãy nhìn trường hợp Liên Xô và thấy có bao nhiêu người mơ ước giấc mơ thống trị và vượt trội toàn cầu của chủ nghĩa cộng sản. Con hãy nhìn trường hợp Đức Quốc xã và thấy bao nhiêu người mơ ước giấc mơ chủng tộc Aryan vượt trội mọi sắc tộc và nước Đức cai trị toàn cầu. Và con hãy nhìn biết bao người tâm linh và Thời đại Mới mơ ước vị thày tâm linh của mình được nhìn nhận như người duy nhất sẽ cứu rỗi nhân loại. Hay con hãy nhìn biết bao nhiêu người ngoan đạo mơ ước tôn giáo, giáo hội hay giáo phái của mình được coi là cao cả nhất.  Biết bao nhiêu người Cơ đốc giáo tin rằng Giê-su sẽ trở lại và minh chứng giáo phái của họ là giáo phái thật duy nhất của đấng Ki-tô. Ôi, đều là ảo tưởng vĩ đại, các con yêu dấu.

Các con đã qua những tầng đầu ở khóa nhập thất của thày, bây giờ các con tới tầng thứ sáu là nơi Tia thứ Nhất phối hợp với Tia thứ Sáu. Các con cần xem xét các ảo tưởng vĩ đại và tự hỏi chúng từ đâu tới.

15.3. Cảm thấy bất lực

Thày có giảng là khi các con đầu thai lần đầu xuống trái đất, con bị các sa nhân cố ý ruồng bỏ một cách ác độc. Họ làm tất cả những gì họ có thể làm để miệt thị khả năng sáng tạo của con, để khiến con dập tắt các khả năng này. Và hậu quả của việc này là gì? Khi con dập tắt khả năng sáng tạo và quy phục tiêu chuẩn, hay quyền lực vật lý, của sa nhân, thì con cảm thấy thế nào? Con cảm thấy bất lực. Con cảm thấy mình chỉ là một cá nhân và không thể đương đầu nổi cơ cấu quyền lực của sa nhân.

Làm sao một cá nhân có thể đương đầu nổi cơ cấu quyền lực của Liên Xô, Đức Quốc xã, hay các đế quốc trong quá khứ? Con thấy chăng, cảm giác bất lực đã tới như song sinh của cảm giác bị ruồng bỏ. Sau đó, sau nhiều kiếp cảm thấy bất lực, con nảy sinh ước muốn có một quyền lực thần kỳ từ ngoài đến và cải sửa mọi chuyện cho hoàn mỹ. Và đây là nguyên nhân sâu xa của ảo tưởng vĩ đại.

Các sa nhân dĩ nhiên đã rất khôn khéo móc nối với cảm xúc này và tạo ra ảo tưởng một cứu tinh bên ngoài. Con thấy điều này rất rõ nơi Cơ đốc giáo. Giê-su đến để chứng minh, qua hành động của thày, quyền năng mà tất cả mọi người đều có khi họ để uy lực của Thượng đế chảy xuyên qua họ. Đó là lý do vì sao thày nói những ai tin thày – hay đúng hơn là những ai dám chứng tỏ tầng tâm thức mà thày biểu lộ – sẽ làm được công việc mà thày làm. Nhưng đã có bao nhiêu người dám làm chuyện này? Không có ai, vì họ đã bị sa nhân lừa dối và ép buộc nhìn Giê-su như một ngoại lệ thay vì một tấm gương. Và nay họ chờ Giê-su trở lại và cải sửa mọi chuyện cho hoàn mỹ, nhưng họ không biết rằng Giê-su, vì tôn trọng Luật Tự quyết, đang ngồi trên thiên đàng chờ họ noi theo gương thày và để uy lực của Thượng đế chảy xuyên qua họ.

Tái lâm của Ki-tô không phải là Giê-su trở lại thế gian trong một biểu hiện không thể phủ nhận, mà là hàng chục ngàn hàng triệu người bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô cá nhân của họ. Đó là ý nghĩa thật của tái lâm của Ki-tô. Đó là Ki-tô tái lâm trong con, như các thày đã giảng trong nhiều quyển sách.

Con có thể làm gì để vượt qua cảm giác bất lực này? Con có thể cảm thấy điều thày sắp nói mâu thuẫn, nhưng thực ra chỉ có một cách duy nhất để vượt qua cảm giác bất lực là kết hợp Tia thứ nhất và Tia thứ sáu để tâm hoàn toàn bình an với sự bất lực. Trong quá khứ tâm con không bình an với điều này. Con cảm thấy cảm giác bất lực khi mình chạm trán sa nhân và những lạm dụng quyền lực trắng trợn của họ, là một điều không phải, không công bằng. Và hậu quả là gì? Hậu quả là con tin một lời dối trá khác của sa nhân. Các thày đã phơi bày sự dối trá này một cách chi tiết trong một quyển sách (Chữa lành Mẹ địa cầu), nhưng thày muốn cho con một tóm lược trong bài giảng này.

15.4. Không có gì sai lầm cả

Bản chất của lời dối trá này là sa nhân đã phóng chiếu ảo tưởng là kế hoạch vận hành vũ trụ của Thượng đế có điều gì không ổn. Cách Thượng đế thiết kế vũ trụ có sai lầm. Thượng đế đã sai lầm khi cho con và các sinh thể tự nhận biết quyền tự quyết, vì quyền này cho con người cơ hội đi vào tâm thức nhị nguyên và bị lạc đường. Sa nhân phóng chiếu là Thượng đế đã sai lầm.

Nhưng, như các thày đã giảng, thực sự là cách duy nhất giúp con gia tăng tự nhận biết là có quyền tự quyết hoàn toàn. Cách duy nhất để con trở thành Thượng đế, là mục tiêu của cuộc sống, là con có quyền tự quyết, sử dụng nó, và nhận ra quyền tự quyết luôn luôn tự do vì lúc nào con cũng có thể xóa bỏ một quyết định cũ bằng một quyết định mới. Con không bao giờ có một lựa chọn có thể lấy đi quyền thay đổi lựa chọn đó. Nhưng sa nhân đã phóng chiếu là có điều gì không ổn, và giờ đây có một tà lực có khả năng lật đổ quyền uy của Thượng đế trong vũ trụ. Như các thày đã giảng trong quyển sách Chữa lành Mẹ Địa cầu, có hai loại sa nhân: một loại dùng lừa dối, và do đó ít khi bị lộ diện, và loại kia dùng bạo lực và lạm dụng quyền lực.

Con bây giờ vào thế trên đe dưới búa, bị tấn công bởi sa nhân lạm dụng quyền lực vật lý và sa nhân thày rắn, thày giả, lan truyền ảo tưởng rằng có cái gì không ổn – nhưng con sẽ là người chỉnh sửa. Con sẽ làm điều mà Thượng đế chính Ngài không làm được, và do đó con phải tham gia trận chiến cuồng đại giữa thiện và ác. Và do đó con phải tìm cách có tối đa quyền lực, hoặc hỗ trợ quyền lực cho các sa nhân đang tìm cách chỉnh sửa vấn đề.

Con yêu dấu, nhiều người dân Liên Xô không sùng đạo, nhưng họ thực sự đã tin vào một giáo điều cốt lõi của thuyết Mác-xít là chuyên chính vô sản, là giấc mơ không tưởng của khuynh hướng cộng sản-xã hội cho rằng con, đám đông bất lực, phải chỉnh sửa vấn đề bằng cách ủng hộ cách mạng cộng sản.

Dĩ nhiên là cách mạng cộng sản do một nhóm nhỏ thượng lưu quyền lực lãnh đạo, và họ không bao giờ có ý định trao quyền cho giai cấp vô sản. Họ luôn luôn muốn giữ đặc quyền của giới thượng lưu, như con đã thấy tại Liên Xô, khi họ giành quyền giết tất cả những người mà họ nghĩ đang đe dọa địa vị của họ. Thực sự là qua các vụ giết chóc này, họ đã dùng năng lượng – năng lượng sống chảy ra từ các vụ tra tấn và giết chóc – để củng cố quyền lực của họ, và của những quỷ dữ nấp sau lưng họ và cho họ quyền lực vỏ ngoài.

15.5. Đấu tranh cuồng đại 

Điều thày muốn nói giản dị là: có nhiều hình thức của trận chiến, cuộc đấu tranh cuồng đại này. Con thấy nó trong đa số tôn giáo. Con thấy nó trong nhiều giáo lý Thời đại Mới. Con thấy nó ngay cả trong một số giáo lý mà các thày đã trao truyền trong thế kỷ vừa qua, vì các thày bắt buộc phải dạy một số giáo lý nhằm giúp một số người lên tầng tâm thức cao hơn. Đó là lý do các thày trước đây đã không thể trực diện thách đố tư duy cuồng đại, vì con người không thể chấp nhận ở tầng tâm thức lúc đó.

Nhưng khi con đã học qua năm tầng đầu ở khóa nhập thất của thày thì con đã sẵn sàng dùng khả năng lý luận để xem xét trận chiến cuồng đại và tư duy cuồng đại đằng sau nó. Dĩ nhiên là thày sẽ giúp con làm việc này, nhưng con cũng sẽ được chân sư Nada chỉ dẫn. Thày Nada sẽ tới khóa nhập thất của thày hoặc con sẽ đi qua khóa nhập thất của thày Nada bên trên Ả Rập Xê-út. Các thày sẽ giúp các đệ tử đã sẵn sàng xem xét tư duy cuồng đại đó. Điều đầu tiên con cần là hiểu sự khác biệt giữa uy lực thực sự và uy lực tâm linh, như thày có đề cập ở đầu bài. Con có thể nhìn vào cuộc đời Giê-su, chẳng hạn, và thấy là thày có quyền năng siêu nhân – theo định nghĩa hiện nay của con người. Hiển nhiên là nếu thày có quyền năng này, thày có thể dễ dàng tránh bị bắt giữ. Thày có thể, bất cứ lúc nào, thoát khỏi nhà tù hay gọi các thiên thần tới giải cứu thày. Khi thày bị treo trên thập tự, chính thày cũng có nói là thày có thể ra lệnh Đức Cha phái thiên thần tới giải thoát thày.

Vậy tại sao Giê-su không dùng quyền năng này? Tại sao thày lại để bị hành hạ và đóng đinh trên thập tự? Đó là vì uy lực của Thượng đế không biểu hiện trong trống không. Như thày có nói, uy lực của Thượng đế không có mục đích biểu hiện một số điều kiện trên trái đất. Uy lực của Thượng đế tôn trọng một thực tế giản dị: trái đất là một lớp học.

Quy luật tối hậu trên trái đất là Luật Tự Quyết. Uy lực Thượng đế sẽ không xuống trái đất và thay đổi mọi thứ trong xã hội con người, cho dù là để thể hiện viễn quan của Thời đại Hoàng kim. Uy lực của Thượng đế sẽ không áp đặt Thời đại Hoàng kim lên nhân loại, vì nhân loại phải đồng-sáng tạo Thời đại Hoàng kim bằng cách sử dụng khả năng đồng-sáng tạo của mình. Mục đích không phải là biểu hiện Thời đại Hoàng kim theo một thiết kế vật lý vỏ ngoài. Mục đích là giúp con người nâng cao tâm thức. Đó mới là mục đích cao hơn.

Con thấy Giê-su và nhiều vị khác đã đạt được điều ngự tâm linh đã quy phục Luật Tự quyết và làm mọi chuyện cần thiết, mọi chuyện thích hợp hoàn cảnh, để nâng cao tâm thức con người, không phải qua một bước nhảy vĩ đại lên một tầng tối hậu, mà từ tầng hiện tại lên tầng kế tiếp.

Các thày có nói là 2,000 năm trước, Giê-su chỉ truyền giáo lý thích hợp cho tầng tâm thức con người lúc đó. Thày không tới để truyền giáo lý tối hậu, và thày đã không truyền giáo lý tối hậu. Đức Phật 2,500 năm trước đây cũng vậy.  Và ngày nay các thày cũng không truyền giáo lý tối hậu. Các thày chỉ truyền giáo lý đủ để giúp những người sẵn sàng lên tầng tâm thức kế tiếp, nhưng các thày cũng mong là giáo lý sẽ giúp họ có động lượng và hiểu biết, nếu họ tiếp tục trên con đường, để đi đến tận tầng thứ 144.

15.6. Để quyền tự quyết trải bày

Khi con tới điểm nhận chỉ dẫn ở tầng Tia Thứ Sáu của Tia thứ Nhất, bước đầu là con phải nhận ra viễn quan rộng lớn là quyền tự quyết phải được phép trải bày ra. Như một người tâm linh, con có thể thấy một số chuyện trên trái đất không đạt được tiềm năng cao nhất của chúng. Những điều này tạo ra nhiều đau khổ, bất công. Có nhiều lạm dụng quyền lực. Nhưng con thấy chăng, điều này không có nghĩa là con nên tham gia một trận chiến cuồng đại chống lại những người mà con coi là nguyên nhân của bất công.

Nếu con muốn có một hình ảnh minh họa điều thày đang nói, thì con có thể xem thí dụ của những cuộc nổi dậy trong hai năm vừa qua trong những nước Ả Rập. Các cuộc nổi dậy này được gọi là Mùa Xuân Ả Rập. Nhưng con cũng thấy là tại các nước Ai Cập, Tunisia, Libya và nay Syria, lật đổ một nhà độc tài không bảo đảm có dân chủ, tiến bộ, hòa bình. Và lý do rất giản dị. Dân chủ và hòa bình chỉ có được khi tâm thức đại chúng được nâng lên tới chỗ bắt đầu vượt thăng tư duy cuồng đại.

Thày không muốn nói là tư duy cuồng đại không thể có mặt trong một nước dân chủ, vì điều này được chứng minh quá rõ ràng bởi nước Hoa Kỳ. Điều thày muốn nói là một quốc gia phải bắt đầu từ bỏ tư duy cuồng đại thì mới có thể thể hiện dân chủ thật sự. Và điều này hiển nhiên chưa xảy ra ở các nước Ả Rập. Phương trình khá giản dị: khi dân một nước lật đổ một nhà độc tài, họ không chứng tỏ là họ đã từ bỏ tư duy cuồng đại. Đó là lý do cuộc bạo động chỉ tạo hoàn cảnh để có thêm xung đột giữa các nhóm người trong nước đó.

Con có thấy điều này ở Hoa Kỳ chăng? Hoa Kỳ có một Hiến chương phần nào được chân sư thăng thiên bảo trợ, dựa trên một số lý tưởng chân chính và bất nhị. Tuy thế, Hoa Kỳ được khai sinh qua một cuộc cách mạng đẫm máu, qua một cuộc chiến hung bạo chống lại Đế quốc Anh, và điều này đã tạo hoàn cảnh cho cuộc Nội Chiến đã gần xé nát dân tộc Mỹ. Chỉ nhờ có một số người lãnh đạo và nhiều người trong dân chúng đã chịu vượt lên trên tư duy cuồng đại mà Hiệp chủng quốc được duy trì và Hoa Kỳ sống sót như một dân tộc dưới Thượng đế.

15.7. Một phân tích sâu sắc về lịch sử

Thày Nada và thày dùng khả năng phóng chiếu sử liệu Akasha lên một màn ảnh để chỉ cho đệ tử một số giai đoạn lịch sử và phân tích sâu sắc những diễn tiến và nguyên do sâu xa. Các thày có thể cho thấy là các thiên thần sa ngã và thày giả đứng đằng sau nhiều diễn biến đó. Các thày cũng cho thấy cách hai nhóm sa nhân – nhóm dùng bạo lực vật lý và nhóm dùng lừa đảo – hoạt động để tạo tình trạng phe nào thắng cũng không quan trọng, vì kết quả vẫn là dân chúng bị đàn áp bởi giới thượng lưu sa nhân. Trong nhiều trường hợp, cuộc tranh chấp chỉ là một cuộc chiến nhị nguyên giữa hai nhóm sa nhân, và kết quả ra sao thì sa nhân vẫn nắm quyền, như con có thể thấy trong cuộc Cách mạng Pháp, Cách mạng Bôn sê víc, và nhiều thí dụ khác.

Khi người đệ tử thấy điều này, họ bắt đầu nhận ra là họ không mong có quyền lực vật lý cho họ khả năng bước vào một hoàn cảnh và thay đổi nó tức khắc. Họ nhận ra rằng nếu họ bước vào một hoàn cảnh và sử dụng quyền năng tâm linh, thì quyền năng tâm linh sẽ hỗ trợ – và do đó cho thêm sức mạnh – một phe sa nhân. Dĩ nhiên, đây là một lạm dụng và tha hóa trầm trọng quyền năng tâm linh. Dĩ nhiên các đệ tử đã tới tầng này của khóa nhập thất của thày không muốn dùng quyền năng tâm linh để hỗ trợ sa nhân đang chống lại mục tiêu của Thượng đế.

Lúc đó người đệ tử nhận ra việc có quyền năng tâm linh lớn trong khi vẫn còn viễn quan giới hạn là một điều rất nguy hiểm cho họ. Vì nếu họ có quyền năng đó, viễn quan giới hạn sẽ khiến họ lạm dụng quyền lực, và như thế cho sa nhân thêm rất nhiều năng lượng tâm linh, giúp chúng kiềm tỏa con người hơn nữa.

Khi người đệ tử thấy điều này, họ nhận ra họ thực sự cần xây dựng một viễn quan cao hơn. Thày Nada rất thiện nghệ trong việc giảng và chỉ cho người đệ tử thấy là chìa khóa để có viễn quan cao hơn, chìa khóa để tăng trưởng khả năng phụng sự với tâm thức Ki-tô, là trước tiên đạt được sự bình an nội tâm. Và điều này đạt được bằng cách xem xét Luật Tự Quyết và cách nó trải bày, và vì sao phải cho phép nó trải bày.

Con có thể nhìn lịch sử trái đất và thấy rằng dân chúng đã bị áp bức bởi một thiểu số thượng lưu, tình trạng này vẫn xảy ra ở một số nơi hiện nay. Dân chúng bị nghèo đói, không được công lý của tòa án, sống dưới chế độ độc tài quân phiệt có thể làm bất cứ điều gì mà không phải tội, hay các hình thức lạm dụng quyền lực khác. Con có thể có ước muốn giải thoát con người khỏi các tệ nạn này. Con có thể có ước muốn dẹp tan giới thượng lưu quyền lực đang áp bức dân chúng.

15.8. Bài học cốt yếu trên con đường tâm linh

Nhưng nếu con nhìn sâu hơn, con thấy là những tệ nạn kia xảy ra vì người dân chưa chịu nâng tâm thức mình lên. Họ chưa chịu nhìn vào sự bất lực và nhận ra một điều giản dị: bất lực theo nghĩa vật lý không dính dáng gì tới quyền năng tâm linh, vì quyền năng tâm linh đến từ bên trong. Con không cần xin phép một thẩm quyền thế gian để đi vào nội tâm, tìm thấy vương quốc mà Giê-su nói có ở trong con, và bắt đầu là cánh cửa mở cho sự biểu hiện uy lực đến từ vương quốc này.

Không một thẩm quyền nào trên trái đất có thể cản con làm chuyện này. Đây là bài học cốt yếu trên con đường tâm linh. Điều này áp dụng cho những người đang bị áp bức, cũng như là cho chính con. Con không cần xin phép bất cứ thẩm quyền nào trên trái đất để mở tâm và cho phép uy lực của Hiện diện TA LÀ tuôn chảy xuyên qua con. Thày Nada và thày sẽ giúp con lĩnh hội và thể nhập bài học này.

Lúc đó, con thấy lý do vì sao dân chúng bị áp bức bởi nhà độc tài tàn ác nhất, chỉ giản dị là: Luật Tự quyết bắt buộc rằng nếu con người không chịu học từ bên trong, thì họ sẽ phải học từ bên ngoài. Nếu họ không chịu học lời chỉ dẫn của chân sư thăng thiên, thì họ sẽ phải học từ Trường đời Cay đắng. Và trong Trường đời Cay đắng, con người sẽ chỉ đổi hướng nhìn khi vị cay đắng lên cao đến độ họ không chịu nổi nữa, và họ chịu nhìn về chính mình và nói: “Tôi có thể làm gì để thay đổi tình trạng này? Tôi có thể thay đổi gì trong chính tôi, thay vì cứ nghĩ rằng điều kiện bên ngoài phải thay đổi?”

15.9. Quyền tự quyết trải bày ra sao

Tại sao con là một đệ tử tâm linh? Tại sao con tham dự khóa nhập thất của thày? Tại sao con đang đọc hay nghe bài giảng này? Đó là vì từ rất lâu rồi con đã quyết định sẵn sàng nhìn vào bên trong mình. Thày Nada và thày có thể dựa trên ý muốn này để giúp con thấy là tất cả mọi chuyện đang xảy ra trên trái đất và trong suốt lịch sử, đều là sự trải bày của quyền tự quyết.

Không điều gì có thể xảy ra cho con người mà không phản ánh trạng thái tâm thức của họ. Và khi người dân một quốc gia nâng tâm thức mình lên quá một mức nào đó thì chính thể độc tài phải được thay thế bởi một hình thức chính quyền cao hơn.

Thay vì một nhóm thượng lưu quyền lực thay thế một nhóm khác – nhóm sau có thể còn tàn ác hơn nhóm trước – thì một sự chuyển vọt xảy ra, đưa đến một hình thức chính quyền cao hơn. Lúc đầu không nhất thiết là hình thức chính quyền lý tưởng, nhưng là một hình thức cao hơn. Sau đó, dân chúng lại nâng tâm thức lên hơn nữa, và một hình thức chính quyền cao hơn lại thể hiện, và vòng xoáy đi lên cứ tiếp tục về hướng Thời đại Hoàng kim. Lúc đó, con có thể nhìn trái đất và nói:  “Con thấy thiết kế của Thượng đế thật tài tình khi cho quyền tự quyết được trải bày.” Sau đó, con nhìn vào ảo tưởng của tư duy cuồng đại, ảo tưởng cho rằng thiết kế của Thượng đế có điều gì sai lầm căn bản, và nói: “Tôi không còn tin bạn nữa. Tôi thấy cái giả đằng sau bạn.” Lúc đó, con có thể bình yên với chuyện đang là.

Sau đó, con có thể đi sâu thêm nữa và nhìn vào cảm giác bị hất hủi khi sa nhân miệt thị nỗ lực sáng tạo của con lúc con đầu thai lần đầu. Con nhận ra tình huống này không tránh được, vì sa nhân có quá nhiều kiểm soát trên trái đất và vì con ở trong trạng thái tâm thức tương đối non nớt.

Ở đây, chúng ta sẽ không đào sâu lý do tại sao con xuống đây, và tại sao nhiều người trong chúng con đã xuống đây khi chưa sẵn sàng đối phó với các sa nhân, vì điều này đã được giảng tường tận trong quyển sách của thày Maitreya (Chìa khóa cốt yếu của tự do tâm linh). Điều thày muốn nói ở đây là: Khi con nhìn chuyện đã xảy ra, con nhận ra đây giản dị là một hậu quả không tránh được. Cảm giác bị hất hủi khi con con xuống trái đất lần đầu là cái giá phải trả của việc con xuống đây.

Con có thể đi sâu thêm chút nữa, và thấy là con đến đây với ước muốn thay đổi một số chuyện theo viễn quan của mình. Lúc đó, đặc biệt dưới sự hướng dẫn của thày Nada, con có thể chất vấn viễn quan này. Thày Nada có nhiều động lượng trên Tia thứ Sáu nên rất thiện nghệ trong việc giúp con nhận ra sự khác biệt giữa phụng sự thật và phụng sự giả, giữa phụng sự phát xuất từ bình an nội tâm hoàn toàn và phụng sự phát xuất từ bất an, nghĩa là từ ý niệm có cái gì sai lầm cần được chỉnh sửa.

15.10. Đừng hạn chế Hiện diện TA LÀ

Trong loạt bài này, thày có nói tới tiêu chuẩn của sa nhân, và lý do vì sao không thể áp dụng tiêu chuẩn vào sự sáng tạo. Con có thấy chăng, liên quan đến tư duy cuồng đại, là khi con muốn thay đổi một điều gì đó theo một viễn quan đã định sẵn, con không thể là cánh cửa mở cho quyền năng sáng tạo của Hiện diện TA LÀ của mình. Lý do là con muốn đặt một viễn quan lên trên điều mà Hiện diện TA LÀ có thể và phải biểu lộ xuyên qua con, và viễn quan này dựa trên một cái nhìn hạn hẹp vì con đang hiện thân trong cõi vật lý.

Đó là lúc con nhận ra, khi con hiện thân trong một hành tinh dày đặc như trái đất, con không thể tránh bắt đầu với một tầm nhìn hạn hẹp. Đó là lý do vì sao tiến trình học cách biểu hiện khả năng đồng-sáng tạo của con gồm hai phần. Con phải học về năng lượng sáng tạo của bảy tia sáng và học cách biểu hiện bảy tia. Nhưng mặt khác, để biểu lộ bảy tia một cách sáng tạo, con cũng cần khắc phục những khái niệm giả tha hóa bảy tia mà sa nhân đã tạo ra.

Như thày có nói, trên một hành tinh như trái đất con không phát triển theo kịch bản lý tưởng. Trong kịch bản thực sự mà con phải đối đầu, con bắt đầu với một viễn quan hạn chế, trong lọc viễn quan này qua nhiều bước và tầng lớp, cho tới khi con trở thành cánh cửa hoàn toàn mở ở tầng tâm thức 96. Trong tiến trình này, con đã buông bỏ một số khía cạnh của tâm thức sa ngã và tiêu chuẩn sáng tạo mà họ áp đặt qua tư duy cuồng đại và quan niệm thiết kế của Thượng đế có điều sai lầm. Do đó, con không thể phụng sự thực sự nếu tâm con chưa an bình trọn vẹn. Thày Nada và thày không chờ đợi con đạt được an bình trọn vẹn ở tầng thứ sáu của khóa nhập thất của thày. Nhưng các thày mong đặt được nền tảng giúp con hiểu tầm quan trọng của việc khắc phục tư duy cuồng đại, đạt được tâm bình an, và phụng sự trong trạng thái bình an thay vì trạng thái sợ hãi, giận dữ, hận thù hay kích động.

15.11. Một bước ngoặt trọng yếu trên đường tu 

Các con yêu dấu, các thày đã thấy đệ tử tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên và hăng say đọc bài chú với lòng hận thù sa nhân và biểu hiện nào đó của thiên thần sa ngã trên trái đất – như họ hình dung. Qua đó, việc đọc chú của họ đã có phần tha hóa ánh sáng. Các thày không muốn thấy điều này tiếp tục, vì nó tạo nghiệp cho người đệ tử, và cũng có phần tạo nghiệp cho các thày, tuy các thày có thể giảm nghiệp này bằng cách giới hạn uy lực chảy xuyên qua bài chú khi người đệ tử đọc với tâm không trong sáng.

Đây là một tầng quan trọng của khóa nhập thất của thày. Các đệ tử không có khả năng chất vấn tư duy cuồng đại không thể đi quá tầng này của khóa nhập thất. Có một số đệ tử tới chỗ này và phải trở lại Trường đời Cay đắng vì họ cần trải nghiệm thế nào là chiến đấu người khác vì tư duy cuồng đại. Họ chưa chán ngán kinh nghiệm này nên chưa thực sự nhận ra niềm mong ước vượt qua tư duy cuồng đại của họ.

Có lẽ con đã bắt đầu nhận ra một sự thực giản dị: con có thể rời con Đường Bảy bức Màn bất cứ lúc nào cho tới tầng 96, nhưng bảy tầng đầu trong khóa nhập thất của thày là những điểm quan trọng nhất. Đây là nơi con có thể quyết định bỏ đường tu và trở về Trường Đời Cay đắng.

Thày phải nói tầng thứ sáu là nơi nhiều đệ tử – không phải đa số, nhưng khá nhiều đệ tử – quyết định, qua việc không chịu chất vấn tư duy cuồng đại, trở về Trường đời Cay đắng và tranh đấu chống một bất công cuồng đại nào đó. Thày hy vọng rằng sau một hay nhiều kiếp sống, họ có thể trở lại khóa nhập thất của thày. Nhưng khi họ trở lại, nhiều khi họ có nhiều nghiệp quả cần giải quyết trước khi có thể mở tâm đón nhận lời chỉ dẫn của thày.

15.12. Đệ tử kẹt trong tranh chấp quyền lực 

Có đệ tử tới khóa nhập thất của thày với động lượng từ nhiều kiếp có địa vị quyền uy trên trái đất. Những đệ tử này không nhiều. Đa số đệ tử đi vào con đường tâm linh đã quyết định từ nhiều kiếp trước không tham gia vào tranh chấp quyền lực trên trái đất. Do đó họ thường chấp nhận một đia vị thấp kém trong xã hội. Hoặc họ đã sống trong tu viện hay rút ra khỏi cuộc đời. Nhưng cũng có người – như chính thày trong nhiều kiếp – đã tham gia vào các giới quyền lực trên trái đất. Những người này, như chính thày, không tránh bị lôi kéo vào các cuộc tranh giành quyền lực.

Trường hợp những đệ tử này là một thách đố khác cho thày, vì họ cần học cùng bài học, nhưng không tự lên án mình vì đã tham gia vào tranh giành hay lạm dụng quyền lực. Thày có nói là trong kiếp thày đầu thai như Thomas More, thày đã lạm dụng quyền lực và đã từng hành quyết một số người mà thày cho là phỉ báng Thượng đế. Thày có thể bảo đảm với con là một thách đố lớn cho thày sau kiếp sống đó là nhìn nhận mình đã lạm dụng quyền lực mà không cảm thấy tủi hổ đến độ bỏ cuộc.

Thày đã làm được điều này vì, như con thấy trong lịch sử, trong cùng kiếp đó thày đã từ chối không dùng quyền lực chống lại nhà vua, và ngược lại để nhà vua hành hạ và hành quyết mình. Qua đó, thày đã bắt đầu tiến trình chất vấn sự lạm dụng quyền lực. Tuy thế, chất vấn nó trong tâm thày vẫn là một thách đố lớn. Vì dĩ nhiên nhìn ra sự lạm dụng quyền lực nơi người khác luôn luôn dễ hơn là nhìn ra sự lạm dụng quyền lực từ chính mình.

Một lần nữa, thày Nada và thày có thiết kế một số dụng cụ nhằm giúp những đệ tử đã có những chức vụ quyền uy trong những kiếp cuối, để họ nhận ra bài học toàn vũ là con không đẩy mạnh mục tiêu của các chân sư thăng thiên và mang lại Thời đại Hoàng kim bằng cách sử dụng quyền lực trong đấu tranh cuồng đại.

Đây là một bài học khó, nhưng khi đệ tử tới chỗ này, thì các thày có dụng cụ và kinh nghiệm để giúp họ vượt qua trở ngại. Nhưng có một số tới khóa nhập thất, và không những họ có động lực lạm dụng quyền lực, có khi ngay cả trong kiếp này, nhưng họ lại ngạo mạn không chấp nhận là mình sai. Dĩ nhiên là con có thể thấy trên trái đất hai đặc tính này đi cùng với nhau. Những người có nhiều quyền lực nhất thường rơi vào một ảo tưởng khác do sa nhân phóng chiếu cho rằng muốn duy trì vị thế quyền lực thì mình lúc nào cũng phải đúng.

Khắc phục tư duy này là một thách đố đặc biệt, một khai ngộ đặc biệt, và đó là một lý do tại sao Giê-su lại để nhóm thượng lưu quyền lực hành hạ và sỉ nhục. Thày làm điều này không phải chỉ để mang họ ra phán xử; nhưng thực là để thày chứng minh cho chính mình và các thày tâm linh của thày là thày đã buông bỏ niềm tự hào đó. Do đó, thày bảo đảm với con là chấp nhận cho các thiên thần sa ngã, sa nhân đang đầu thai, miệt thị, chế giễu, sỉ nhục, nói đủ điều không thật về mình, với mục đích rạng danh Ki-tô, thực sự là một phần của tiến trình khai ngộ.

Nếu con thấy mình đã trải nghiệm bị chế giễu và hành hạ trong kiếp này, thì con hãy tươi lên. Vì khi con học cách nhìn vào điều này mà không dính mắc – chỉ đơn giản nhận ra đó là Luật Tự Quyết trải bày – thì con tiến một bước lớn trên con đường tu của con. Con sẵn sàng để Luật Tự quyết trải bày, nhờ đó những người đang chế giễu con có cơ hội thấy tại sao họ muốn chế nhạo người khác và từ đó bắt đầu chất vấn trạng thái tâm thức của mình. Nhưng con cũng được cơ hội chứng tỏ con sẵn sàng bị chế giễu, vì con sẵn sàng bước lên trạng thái tâm thức cao hơn trong đó con không quá coi trọng nó, con không để những lời chế giễu của người khác ngăn cản con thực hiện sứ vụ thiêng liêng và biểu hiện năng lượng sáng tạo của mình.

Đây là một khai ngộ cực kỳ quan trọng, dó đó thày Nada và thày sẽ giúp con thấy là con có thể nhận sự chế giễu của thế gian mà không dính mắc. Con thực sự có thể học cách buông bỏ ý thức cá nhân trong cuộc sống. Nhưng thày đang đi quá nhanh, vì đây là đề tài của bài chỉ dẫn tới của thày. Vì làm sao con có tự do khi con coi những gì xảy ra với con đều nhắm vào cá nhân mình? Chuyện này không thể làm được. Chính vì vậy, thày Saint Germain và thày đã thiết kế một số phương pháp để giúp đệ tử lên tầng cao hơn. Vậy thày sẽ trở lại để cho con tầng chỉ dẫn đó.

Uy lực và chữa lành

Bài giảng của chân sư thăng thiên More qua trung gian Kim Michaels, ngày 6/2/2013.

TA LÀ Chân sư MORE. Các con hãy để thày nói rộng thêm điều thày đã giảng về bữa tiệc mà các thày dành cho những người đã tới chỗ quyết định sẵn sàng gia tốc chính họ. Thày đã so sánh nó với bữa tiệc kiên tín thường được tổ chức cho thanh thiếu niên khi họ xác nhận đức tin Cơ đốc của họ.

Tất nhiên, thày biết rằng nhiều thanh thiếu niên trên thế giới coi đây là một buổi lễ truyền thống, một hình thức cho phép họ có bữa tiệc và quà tặng. Tuy nhiên, ý nghĩa sâu xa là con đã thực sự trưởng thành và có thể xác nhận một cách ý thức đức tin Cơ đốc của mình.

Tất nhiên, thày không yêu cầu con xác nhận bất cứ điều gì bằng đức tin. Đức tin đâu có dính dáng gì đến điều thày dạy, vì thày dạy qua kinh nghiệm. Và khi con trải nghiệm, con cần gì phải tin vào điều mà con chưa trải nghiệm? Tin một trải nghiệm có thể có giúp con mở tâm trí và trái tim đón nhận trải nghiệm, nhưng mục đích tối hậu là con có được trải nghiệm.

13.1. Một giai đoạn tăng triển mãnh liệt

Khi con thực hiện cam kết này, con bước vào giai đoạn có thể sử dụng quyền năng mà con đã khám phá để gia tốc ý niệm bản ngã. Con có thể gia tăng tốc quá ý niệm bản ngã trước. Nhiều đệ tử bước vào một thời kỳ mà những gì họ trải nghiệm trong khóa nhập thất của thày tương tự với những gì họ trải nghiệm trong cuộc sống có ý thức. Thông thường, khi một người trải qua buổi lễ trong khóa nhập thất của thày, thì họ không nhớ buổi lễ với tâm ý thức của họ, nhưng họ nhận ra con đường tâm linh là một cơ hội lớn để gia tốc mình.

Những người biết tới giáo lý của các thày thì thường nghiên cứu giáo lý một cách sốt sắng hơn và thực hành kỹ thuật đọc chú đọc thỉnh một cách nhiệt thành hơn trước. Điều này thường đưa họ vào một giai đoạn tăng triển rất mạnh mẽ giúp họ rũ bỏ nhiều điều kiện cũ, rũ bỏ phần lớn hành trang mà họ đã mang theo mình, thường khi từ nhiều kiếp. Đây là một tiến trình tăng triển vượt bậc, một gia tốc mãnh liệt.

13.2. Tới khóa nhập thất của các Thượng sư khác

Thêm vào đó, sau khi con trải qua buổi lễ xác nhận con thực sự sẵn sàng gia tốc mình, con không còn bị giới hạn ở trong khóa nhập thất của thày. Khi con chưa làm lời cam kết, con chỉ có thể tham dự khóa nhập thất của Tia thứ Nhất, vì đây là nơi thử thách sự sẵn sàng gia tốc của con. Như thày đã mô tả, khi con mới tới khóa nhập thất của thày, thày tìm cách dẫn con tới điểm lấy quyết định đó. Nhưng khi con chưa lấy quyết định đó, con không thể đi đâu khác; con không thể thực sự tới các khóa nhập thất của các Thượng sư khác. Nhưng một khi con lấy quyết định đó, con có thể đi tới các khóa nhập thất mà con cần, để vượt qua một nấc thang, một khó khăn trên con đường tu của con.

Một số đệ tử đến khóa nhập thất của Đức Lanto để học mở rộng khả năng suy luận của mình vì họ cần suy luận để gia tốc vượt qua một số hành trang trong quá khứ. Có đệ tử khác tham dự khóa nhập thất của thày Paul người thành Venice, để trải nghiệm và hấp thụ tình thương nhiều hơn, để gia tăng khả năng chấp nhận họ xứng đáng được yêu thương. Tất nhiên, tại thời điểm này, cũng có đệ tử khác đi tới khóa nhập thất của thày Serapis Bey, để được nhiều giúp đỡ trong việc sử dụng uy lực gia tốc, Ngọn lửa Gia tốc, Ngọn lửa Thanh khiết, để gia tốc bản thân vượt xa quá khứ.

13.3. Con không thể thăng thiên bằng cách tuân theo các quy tắc

Tuy nhiên thày Serapis cũng sẽ cho những đệ tử này ý niệm rất rõ ràng rằng tại thời điểm này trên con đường tu cá nhân của họ, những gì Ngọn lửa Thanh khiết và Gia tốc có thể giúp họ có giới hạn. Vì dù Serapis là vị thày chính của pháp thăng thiên và xoáy ốc thăng thiên – cuộn xoáy thăng thiên – thày nói rõ là lúc này người đệ tử chưa sẵn sàng bước vào vòng xoáy thăng thiên. Và lý do rất đơn giản: Con không thể thăng thiên bằng cách tuân theo các quy tắc.

Các thày là chân sư thăng thiên có thể cho con một giáo lý, một giáo lý vỏ ngoài trên trái đất. Giáo lý này có giá trị, nhưng điều này không có nghĩa là con có thể thăng thiên bằng cách học hỏi giáo lý vỏ ngoài này. Một số đệ tử đã lấy một giáo lý vỏ ngoài có giá trị và dùng nó để tạo ra quy tắc. Và có đệ tử thực sự tin với tâm ý thức rằng họ sẽ thăng thiên nếu họ tiếp tục tuân theo các quy tắc, đọc các bài chú, làm điều này và tránh điều kia. Nhưng không phải như vậy đâu.

Họ tin điều này với tâm vỏ ngoài của họ vì ở các tầng sâu trong tâm họ, họ chưa cam kết gia tốc bản thân và do đó không thể tham dự khóa nhập thất của thày Serapis. Và họ đã không học được bài học là họ không thể thăng thiên bằng cách tuân theo quy tắc. Vì thăng thiên là gì? Đó là một tiến trình sáng tạo. Con chỉ có thể thăng thiên bằng cách mở khóa trọn vẹn quyền năng sáng tạo của mình, trước tiên là qua bảy tia sáng và sau đó xa hơn nữa là qua các tia bí mật và quả vị Ki-tô. 

Chỉ khi nào con biểu lộ một cách sáng tạo những gì Hiện diện TA LÀ muốn biểu lộ qua con, thì con mới biểu lộ được đầy đủ món quà mà Hiện diện TA LÀ muốn cho trái đất này xuyên qua con. Và lúc đó con sẵn sàng thăng thiên. Vì con thấy chăng, Hiện diện TA LÀ không gửi con xuống đây để tạo nghiệp, cân bằng nghiệp quả và ra đi. Hiện diện gửi con đến đây với mục đích tích cực, mục tiêu tích cực là đem một món quà, là cánh cửa mở để đem món quà của nó cho trái đất.

Chỉ khi nào Hiện diện thỏa mãn là nó đã cho trọn vẹn món quà của nó, thì con – cái Ta Biết, dòng sống hiện thân trong cõi này – mới có thể thăng thiên, vì lúc đó con mới hoàn thành mục đích trở nên cánh cửa hoàn toàn mở. Bức vẽ của con quá hạn hẹp và bảng màu của con bị giới hạn bởi những điều kiện mà con người vỏ ngoài của con đã chấp nhận, và con nghĩ những điều kiện này phải giới hạn, kiểm soát và điều khiển cách con biểu lộ sự sáng tạo của mình.

13.4. Con có nhu cầu chữa lành

Sau khi con đã ở với thày Serapis Bey và học bài học này, con quay trở lại khóa nhập thất của thày. Và bây giờ thày bắt đầu dạy bước thứ năm, tất nhiên là bước sử dụng tia chữa lành. Và sau đó thày cho con hiểu rằng con cần được chữa lành. Thày giúp con thấy rằng mặc dù con đã dùng Ngọn lửa Tinh khiết để gia tốc rất nhiều vượt quá tầng tâm thức trước của mình, con chỉ có thể gia tốc mình bằng Ngọn lửa Tinh khiết tới một mức nào đó mà thôi. Bởi vì con vẫn còn một số vết thương trong tiềm thức, ở các tầng tình cảm, lý trí và bản sắc của tâm mình.

Có thể nói, chúng giống như những cái neo thả đằng sau chiếc thuyền của con. Và khi con tăng tốc độ của động cơ, con cảm thấy có cái gì cản trở không cho thuyền đi về phía trước. Vì làm thế nào con có thể chờ đợi con thuyền đi về phía trước với tốc độ tối đa, nếu con có một số neo treo sau thuyền? Bây giờ là lúc tạm dừng việc gia tốc và thay vào đó hãy thành thật soi mình trong gương và nói: “Con cần chữa lành chỗ nào?”

Nhưng trước khi chúng ta thực sự xem xét chi tiết cách con cần được chữa lành và những gì con cần được chữa lành, trước tiên chúng ta cần trả lời câu hỏi vì sao con cần được chữa lành. Đây là một câu hỏi mà nhiều đệ tử chưa thực sự cân nhắc với tâm ý thức của mình. Đúng thực là nhiều đệ tử sẽ chống không chịu xem xét điều này với tâm ý thức của họ. Lý do một phần là tiêu chuẩn do các thày giả tạo ra, vì tiêu chuẩn đó khiến nhiều người tin rằng nếu họ tuân theo một số quy tắc – một số giáo điều – bằng cách lấy một thái độ nào đó, họ chắc chắn đủ điều kiện để thăng thiên hoặc để đạt cái mà họ định nghĩa là mục tiêu tối hậu của nỗ lực tâm linh của họ.

Thày có thể nói với con rằng có rất nhiều người trong các phong trào tâm linh và tôn giáo tin rằng nếu họ tuân theo các quy định của tôn giáo hay đạo sư của họ, họ sẽ tự động lên được cõi tâm linh. Tất nhiên, điều này không đúng, vì một lần nữa mọi chuyện là một tiến trình sáng tạo. Để biểu lộ trọn vẹn sự sáng tạo của con, con cần nhìn vào các điều kiện, vết thương và hạn chế đã ngăn cản sự biểu lộ quyền năng sáng tạo của con từ Hiện diện TA LÀ.

13.5. Tại sao con bị thương?

Con cần chữa lành những vết thương nào và tại sao con cần phải xem xét chúng? Trong bài trước thày có nói chuyện con đi vào vườn hồng và được chữa lành khi trải nghiệm tình thương vô điều kiện. Nhưng một lần nữa, ngay cả tình thương vô điều kiện cũng không thể chữa lành mọi vết thương của con và lý do rất đơn giản. Con không thể chữa lành một vết thương nếu con không ý thức nhận ra nguyên nhân tạo ra nó. Nguyên nhân tạo ra vết thương là một sự việc bên ngoài đã kích động một kinh nghiệm nội tâm. Và vì kinh nghiệm nội tâm này, con lấy một quyết định.

Chính quyết định này đã thiết lập một điều kiện trong tâm con và điều kiện này giới hạn sự biểu lộ sáng tạo của con. Con đã lập ra điều kiện nhưng có thể con không hoàn toàn nhận biết có ý thức quyết định là gì và hậu quả của nó ra sao. Nhưng để giải thoát mình khỏi quyết định này, con phải ý thức nhận biết quyết định cũ và hậu quả của nó. Sau đó, con phải thay thế một cách ý thức quyết định cũ bằng một quyết định mới, dựa trên tầng tâm thức cao hơn của con hiện nay. Lúc này là lúc các đệ tử cần hiểu tại sao họ bị đả thương trên trái đất.

Con hiểu rằng khi một đệ tử đến khóa nhập thất của thày, dòng sống đó đã trải nghiệm trước đó khóa nhập thất của thày và do đó không có vấn đề chấp nhận lời giảng này. Nhưng thày đang giảng bài này trong một cuốn sách mà con đọc với tâm ý thức của mình, ngay khi con không nhớ gì về khóa nhập thất của thày. Vì vậy, thày sẽ yêu cầu con thành thật và tự trả lời câu hỏi này: Con có đang đọc các bài chú và bài thỉnh mà các thày đã cho các con không? Con có thói quen hàng ngày kêu gọi Đại thiên thần Michael bảo vệ con chưa? Nếu con chưa làm các chuyện này, thày chỉ đơn giản yêu cầu con đừng đọc hoặc nghe phần còn lại của bài giảng này. Vì nó có thể quá những gì con chấp nhận ở mức độ nhận thức có ý thức của con, và lý do rất đơn giản. Khi con đọc các bài chú và bài thỉnh xin bảo vệ tâm linh, sau một thời gian, con sẽ tạo ra một động lượng. Động lượng này, kết hợp với những chỉ dẫn mà con nhận được khi nhập thất với thày, sẽ cho con ý niệm rằng Đại thiên thần Michael có khả năng bảo vệ con khỏi bất cứ mọi lực có mặt trên trái đất.

Khi con biết mình được bảo vệ khỏi một lực nào đó, con có thể ý thức nhìn nó, nhận ra nó có mặt, và nhận ra nó đã ảnh hưởng mình trong quá khứ và con cần gia tốc để vượt qua ảnh hưởng đó. Nhưng con chỉ làm được điều này nếu con ý thức nhìn vào lực này và xem xét điều gì trong tâm lý mình khiến mình dễ bị nó tấn công.

13.6. Không cần phải sợ hãi

Con có thấy sự vận hành đơn giản này chăng? Thày không có ý định dọa con với bất cứ điều gì ở đây. Sợ hãi không có chỗ đứng trong phương pháp giảng dạy của thày. Đôi khi thày cho phép đệ tử sợ hãi trong một thời gian, nếu họ quá dính mắc với nó đến độ thày không thể hướng dẫn họ bằng cách nào khác. Tất nhiên, thày không thể đòi hỏi mọi người thoát sạch sợ hãi trước khi họ tới khóa nhập thất của thày. Nhưng điều này không có nghĩa là thày dùng sợ hãi để hù dọa mọi người.

Thày không có ý khiến con sợ hãi. Và đó là lý do tại sao thày muốn con thành thực và nhận ra rằng chỉ khi nào con xây dựng đủ động lượng cầu thỉnh sự bảo vệ tâm linh, con mới sẵn sàng ý thức đón nhận lời chỉ giáo mà thày cho con bây giờ. Thày tin tưởng rằng nếu con đang đọc hoặc nghe những lời này, con đã có một số động lượng cầu thỉnh sự bảo vệ tâm linh. Do đó, thực tế như sau: Không thể hiện thân trên trái đất mà không bị tổn thương. Đơn giản là không thể được. Chính Đại thượng sư đã mô tả là tất cả các thày, những người đã từng hiện thân, đã phải quy phục cái mà thày gọi là tâm thức chết. Tâm thức chết vô cùng mạnh mẽ trên trái đất,và không cách chi con hiện thân trên trái mà không bị nó đả thương hay không quy phục nó tới một mức độ nào đó.

Quy phục tâm thức chết nghĩa là gì? Nếu con nhìn vào các đệ tử trong các phong trào tâm linh hay Thời đại Mới, con sẽ thấy rằng một số tin rằng họ không cần nhìn vào những gì đen tối, tỷ dụ như tà lực, hoặc các lực xấu ác hoặc ác quỷ. Ho nghĩ nếu họ chỉ tập trung vào điều tích cực, thì họ vẫn có thể đạt được mục tiêu của mình. Họ thực sự – nhiều người trong số họ – tin rằng thật nguy hiểm nếu họ chú ý vào các tà lực vì sẽ cung cấp cho chúng nguồn năng lượng củng cố chúng.

Tất nhiên con cũng đã nghe câu ngạn ngữ “Cái gì con chống lại sẽ tồn tại.” Nhưng con thấy đấy, những gì con chống lại sẽ tồn tại vì khi con chống cự nó, con cho nó năng lượng. Nhưng con có thể nhìn mà không chống cự. Nói cách khác, con có thể nhìn tà lực mà không phản ứng nghĩ rằng phải đánh nhau với chúng. Và khi con cầu thỉnh sự bảo vệ tâm linh từ Đại thiên thần Michael, con không đánh nhau với tà lực. Con bao bọc mình khỏi năng lực chúng phóng tới con. Đây không phải là chống lại chúng, vì không cho chúng thêm năng lượng.Vì vậy, khi con không phản ứng bằng sợ hãi hoặc tức giận, thì con không chống lại tà lực và con đang không tiếp thêm năng lượng cho chúng.

13.7. Nhìn nhận tà lực có mặt

Tại sao nhìn nhận sự tà lực có mặt lại quan trọng? Đó là vì, như Đại thượng sư đã giải thích, tâm thức chết bao phủ hành tinh này như một đám mây đen. Cách duy nhất để biểu hiện một tâm thức tâm linh cao trên trái đất là giải thoát mình khỏi ảnh hưởng của tâm thức chết, và con không làm được điều này nếu con không ý thức về nó. Con không thể tiến tới tự điều ngự nếu con không làm chủ cái ta, có nghĩa con cần vượt quá tất cả những lực và điều kiện đang tìm cách giới hạn cái ta.

Sẽ có lúc con không thể tiến bộ hơn trên con đường tâm linh nếu con không nhìn nhận tà lực có mặt. Các tà lực này đã đả thương con đến độ con không thể gia tốc hơn nữa, và con chỉ tiến triển khi con xem xét những vết thương và quyết định của con khi bị tà lực tấn công.

Nếu con không nhìn nhận tà lực có mặt và thấy chúng ảnh hưởng con ra sao thì con đã và đang quy phục tà lực và tâm thức chết. Thày có thể đảm bảo với con rằng rất nhiều người trong các phong trào tâm linh và Thời đại Mới cảm thấy rất thoải mái, cảm thấy rằng họ rất tâm linh vì họ rất tích cực và rất tốt. Nhưng trên thực tế họ đã quy phục tâm thức chết.

Có thể nói là họ đã thỏa thuận với ác quỷ – tất nhiên không phải một cách ý thức nhưng trong tiềm thức – và nói thế này: “Nếu ta không gia tốc mình quá một mức nào đó, thì ngươi sẽ không tấn công ta.” Khi con thỏa thuận như vậy thì ác quỷ sẽ để con yên. Vì nó không có vấn đề gì khi con ở trong một phòng trào tâm linh và cảm thấy mình thánh thiện, hoàn toàn tin tưởng rằng mình là một người tâm linh tốt. Nếu con không gia tốc mình về hướng quả vị Ki-tô thì ác quỷ sẽ để con yên và để con cảm thấy thoải mái. Nhưng con có thấy chăng, con sẽ không tiến triển quá một điểm nào đó.

13.8. Nỗi sợ từ các tiền kiếp

Câu hỏi rất đơn giản: “Tại sao có rất nhiều người trong các phong trào tâm linh và Thời đại Mới không chịu nhìn nhận tà lực có mặt, không chịu nhìn chúng và không làm gì để giải thoát khỏi ảnh hưởng của chúng?” Một phần là do lười biếng – lười biếng tâm linh – vì họ thực sự không muốn gia tốc mình quá một mức nào đó. Nhưng cũng có lý do sâu xa hơn, đó là sợ hãi.

Họ đã trải nghiệm trong tiền kiếp là khi họ đến một điểm nào đó trên con đường tu, khi họ bắt đầu vươn lên trên tầng tâm thức đại chúng, thì tà lực sẽ tấn công họ. Họ có ký ức là họ đã bị tà lực tấn công trong quá khứ. Vì vậy, họ có ý niệm rằng gia tốc quá một tầng cấp nào đó thật nguy hiểm vì khi đó họ trở thành mục tiêu của những đòn tấn công rất độc ác, cá nhân và trực tiếp.

Bởi vì họ không sẵn sàng trực diện nỗi sợ hãi này, họ đã thỏa thuận với tà lực, nói rằng: “Nếu ta không gia tốc mình, ngươi sẽ để ta yên trong kiếp sống này.” Một số người có thể cần một thời gian yên ổn như thế. Thày không tranh luận điều này; thày không lên án bất cứ ai. Thày chỉ nói đơn giản rằng thày không thể giúp bất cứ ai vượt qua một tầng tâm thức, một tầng trên con đường tâm linh, trừ phi người đó sẵn sàng nhìn nhận một điều: “Tôi đã bị tổn thương và tôi cần xem xét tại sao tôi bị tổn thương vì đây là cách duy nhất để chữa lành vết thương.”

13.9. Ác mộng kinh hoàng nhất của tà lực

Bây giờ thày cho con thức ăn cho tâm ý thức của con, mà nếu con đã theo tiến trình đọc các bài thỉnh bài chú và học các bài giảng trước của thày, thì con có thể dùng tâm ý thức này để nối kết với cái biết bên trong của con. Khi đó, những gì thày nói ở đây sẽ không khiến con sợ hãi, không khiến con nghi ngờ, con không cần phải tranh luận hay bác bỏ nó. Con hòa điệu với trái tim mình, và con cảm thấy có thực tại ở đây và đã đến lúc con phải nhìn vào nó.

Thực tế đơn giản trên hành tinh trái đất là thế này: Hiện nay các tà lực tin rằng họ đang kiểm soát hành tinh này. Sư thực sâu xa là họ không kiểm soát được, vì hành tinh này không phải là một đơn vị biệt lập; nó là một phần của toàn bộ vũ trụ vật chất. Và như các thày đã giải thích, toàn bộ vũ trụ vật chất nằm trong một vòng xoáy đi lên bởi vì có vô số hành tinh khác nơi cư dân đã đưa hành tinh của họ vào một vòng xoáy đi lên. Và điều này, như Đại thượng sư đã giải thích, đã tạo ra sức mạnh của Thánh linh kéo cả vũ trụ vật chất lên cao, tất nhiên là trong đó có hành tinh trái đất.

Hành tinh trái đất đi chậm hơn dòng chuyển động đi lên chung của vũ trụ, và đó là lý do khiến các tà lực tin vào ảo tưởng họ đang kiểm soát hành tinh này. Và họ thực sự có một tầm kiểm soát lớn vì họ đã khiến được biết bao nhiêu người quy phục tâm thức chết.

Bây giờ thì điều gì có thể phá vỡ sự kiểm soát này? Đó là khi có những cá nhân gia tốc tâm thức họ quá một tầng nào đó và bắt đầu đạt được và dám biểu hiện quả vị Ki-tô. Bài học chính con học từ đời Giê-su là thày là một gương chính yếu, một nguyên mẫu, của một người đã gia tốc tâm thức quá tiêu chuẩn và tâm thức đại chúng, và biểu hiện một mức cao của quả vị Ki-tô – và thày dám bày tỏ điều đó.

Tất nhiên, con thấy điều gì đã xảy ra cho Giê-su. Thày bị khủng bố một cách tàn bạo và rốt cuộc bị giết một cách rất tàn nhẫn. Lý do là nếu chỉ một cá nhân đạt được và biểu hiện quả vị Ki-tô, thì tầm kiểm soát của tà lực trên hành tinh này sẽ bị giảm thiểu.

Nay con thử tưởng tượng 10.000 người biểu hiện quả vị Ki-tô giống như Giê-su đã biểu hiện, và có thêm nhiều triệu người nữa biểu hiện quả vị Ki-tô ở mức thấp hơn, thì con có thể thấy được đây sẽ là ác mộng kinh hoàng nhất của tà lực. Và như chính Giê-su đã nói, hiện nay có 10.000 người đang hiện thân có tiềm năng thể hiện mức độ cao của quả vị Ki-tô trong kiếp này của họ. Và có hàng triệu người khác có tiềm năng thể hiện một mức độ nào đó của quả vị Ki-tô trong kiếp này. Nhiều người trong số này đã bắt đầu bày tỏ quả vị Ki-tô của mình, nhưng nhiều người khác thì chưa làm được vì họ bị mắc kẹt ở tầng tâm thức nơi họ không dám hoàn toàn gia tốc mình để biểu hiện quả vị Ki-tô. Bởi vì, do kinh nghiệm các kiếp trước, họ sợ những gì sẽ xảy ra khi họ làm như vậy.

Bên trong tâm họ biết rằng các đòn tấn công sẽ xảy ra lúc họ bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô của mình, và họ biết rằng sẽ bị tấn công dồn dập và ác độc. Tuy nhiên, nếu con đã đến điểm này trên con đường tu cá nhân của mình, thì con đã sẵn sàng nhìn nhận rằng mặc dù các đòn tấn công sẽ xảy ra, nhưng con chỉ bị tổn thương nếu trong tâm con còn điều kiện, là những vết thương và điều kiện con đã chấp nhận khi con lấy một quyết định trong quá khứ. Do đó, nếu con sẵn sàng giải quyết các vết thương và quyết định này, con sẽ trở nên trong suốt trước những đòn tấn công và bất cứ điều gì họ phóng tới con sẽ chỉ lướt xuyên qua con mà thôi.

13.10. Quyền lực giới hạn của tà lực

Con hãy để thày cho con một ý niệm đo lường. Con hiểu chăng là tà lực đã tự cắt rời khỏi cõi tâm linh? Điều này có nghĩa là chúng chỉ có thể làm việc với các năng lượng ở một tầng nào đó của cõi vật chất. Mọi chuyện con làm đều được thực hiện bằng năng lượng. Khả năng sáng tạo của con, uy lực của con, được quy định bởi số lượng năng lượng con có thể tiếp cận, và độ rung của năng lượng mà con có thể tiếp cận.

Các thày đã giải thích rằng vũ trụ vật chất có bốn tầng. Là một người sống trên trái đất, con biết cơ thể vật lý của con chỉ có thể hoạt động trong một phạm vi khả năng nào đó. Lý do là cơ thể vật chất của con chỉ có thể sử dụng năng lượng trong một quang phổ nào đó. Cõi tình cảm có tần số rung động cao hơn. Tuy nhiên, các mức năng lượng thấp hơn trong cõi tình cảm không có chút sức mạnh nào để ảnh hưởng được cõi lý trí. Cũng vậy, các tần số trong cõi lý trí cũng có giới hạn, và những tần số này không thể ảnh hưởng cõi bản sắc. Tất nhiên, không điều gì trong bốn tầng của vũ trụ vật chất có thể ảnh hưởng Hiện diện TA LÀ của con. Đó là lý do vì sao Hiện diện TA LÀ của con không bị tổn thương bởi bất cứ điều gì con đã làm, đã gặp phải hay trải nghiệm trên trái đất.

Con có thể nhận ra một điều rất giản dị. Khi con ngừng đồng hóa mình với xác thân vật lý (và nếu con là một đệ tử tâm linh, và chắc chắn con là thế, con đã ngừng đồng hóa mình hoàn toàn với thân xác), thì con không thể bị tổn thương bởi bất cứ điều gì xảy ra cho thân xác. Tất nhiên, con sẽ bị ảnh hưởng nhưng dòng sống của con – con người thấp của con – sẽ không bị tổn thương bởi bất cứ điều gì xảy ra cho thân xác. Khi con gia tốc ý niệm bản ngã tới mức con không đồng hóa mình với cảm xúc, thì con không thể bị tổn thương bởi bất cứ năng lực nào phóng tới con trong cõi tình cảm. Khi con không còn đồng hóa mình với tư tưởng, con không thể bị tổn thương bởi những năng lực hướng tới con trong cõi lý trí. Và khi con không còn đồng hóa mình là con người bị giới hạn và tách biệt, con không thể bị tổn thương bởi những lực ở các tầng thấp của cõi bản sắc.

Con thấy chăng, vấn đề là con tập trung ý niệm bản sắc ở đâu. Nhiều người trên trái đất hoàn toàn tập trung vào xác thân vật lý và đồng hóa mình với nó. Vì vậy, nếu cơ thể của họ bị giết hoặc bị bệnh, họ bị tổn thương sâu đậm trong tâm hồn. Và họ mang theo vết thương đó từ kiếp này sang kiếp khác, thường khi đầu thai với nỗi sợ lớn bị giết hoặc bệnh tật.

Tất nhiên là cũng có những người hoàn toàn đồng hóa với cảm xúc của họ, và cả đời họ tìm cách tránh những cảm xúc tiêu cực, tìm cách tránh bị khinh miệt, vân vân. Có người khác đồng hóa mình nặng với trí tuệ của họ và họ sống cả đời là học giả hay người trí thức hoàn toàn đồng hóa với tư tưởng của mình và luôn tìm cách tránh bị chứng minh là sai trong các cuộc tranh luận trí thức – hoặc tìm cách chứng minh người khác sai để chứng minh họ giỏi hơn.

13.11. Một ý niệm bản sắc đúng đắn

Là một đệ tử tâm linh, nhiệm vụ của con là nâng cao ý niệm bản sắc, để buông không đồng hóa mình với thân xác, buông không đồng hóa mình với tình cảm, buông không đồng hóa mình với tư tưởng và cuối cùng, buông bỏ bất kỳ ý niệm bản sắc thấp hay tách biệt nào. Con đồng hóa mình đúng đắn với nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết, chính là nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, và do đó nó không thể bị tổn thương hay bị ảnh hưởng bởi các năng lực thấp trong cõi vật chất.

Cái Ta Biết không được cấu tạo bằng năng lực của cõi vật chất. Khi con nhìn nhận điều này một cách ý thức, con không thể bị tổn thương bởi bất cứ điều gì hướng tới con trong cõi vật chất. Tất nhiên tà lực chỉ có thể có mặt trong cõi vật chất. Chúng chỉ có thể phóng tới con năng lực của cõi vật chất – và do đó, khi con tới điểm không đồng hóa với vật chất – thì con trở nên trong suốt. Con đáp ứng yêu cầu mà Giê-su mô tả, khi thày nói: “Ông hoàng của thế gian sẽ đến và không tìm thấy gì trong tôi để nắm.” Vì vậy, bất cứ điều gì họ phóng tới con – bất kỳ đòn tấn công nào họ đánh vào con – sẽ đi xuyên qua con.

Thày giải thích điều này để cho con mục tiêu mà con cần hướng tới khi tu tập. Tất nhiên, thày biết là con chưa tới đích, và đó là lý do vì sao con cần thỉnh cầu sự bảo vệ tâm linh. Con vẫn có những vết thương và những sự đồng hóa khiến con dễ bị tấn công bởi tà lực. Đó là lý do tại sao con thỉnh cầu sự bảo vệ tâm linh: Để tạo ra một lá chắn năng lượng tần số cao bao bọc trường năng lượng của con, để các đòn tấn công không dễ dàng xâm nhập vào con. Chúng chỉ vào được nếu con có những dính mắc tạo ra cánh cửa mở trong lá chắn bao bọc trường năng lượng của mình. Đây là những dính mắc mà con cần giải quyết ở tầng tâm thức này, là những dính mắc khiến con dễ bị tà lực đen tối tấn công nhất.

13.12. Vì sao con bị đả thương trong quá khứ

Con hãy để thày giải thích vì sao con bị đả thương khi con mới tới trái đất. Nếu con xem lại tình trạng khi con lần đầu xuống hành tinh trái đất, con sẽ thấy, như các thày đã nói, rằng hầu hết các con không xuống trái đất khi hành tinh này còn trong điều kiện lý tưởng, nguyên sơ của nó. Hầu hết các con, những người hiện thân ngày nay, đã xuống sau khi hành tinh này đã rơi xuống một tầng thấp hơn. Điều này có nghĩa là khi lần đầu tiên con xuống trái đất, sa nhân đã có mặt trên trái đất.

Chúng tất nhiên có mục tiêu kéo tất cả các dòng sống đến đây vào một vòng xoáy đi xuống. Vì đây là cách tối hậu để chúng hy vọng chứng minh là Đấng Sáng Tạo sai, bằng cách chứng minh quyền tự quyết không khả thi vì nó khiến các linh hồn đi theo vòng xoắn đi xuống và rốt cuộc bị lạc đường. Đây là toàn bộ kế hoạch của chúng, như các thày đã giải thích trước đây [sách Chữa lành cho Trái Đất Mẹ].

Điểm mà thày muốn nói là khi hầu hết các con xuống trái lần đầu thì sa nhân đã có mặt ở đây. Con đến đây để biểu hiện một món quà tích cực nhằm nâng cao hành tinh này. Nhưng các sa nhân hiện thân không muốn món quà đó chút nào, vì như thày đã giải thích, chúng tất nhiên xem sự thể hiện quả vị Ki-tô là một mối đe dọa đối với chúng.

Ngay khi con đầu thai trên trái đất và bắt đầu biểu hiện quyền năng sáng tạo của mình, tà lực đã tấn công con rất ác độc để đẩy con tới chỗ quyết định không dùng quyền năng sáng tạo của mình nữa. Chúng chế giễu hay tấn công con ác độc đến độ con đã quyết định giới hạn hay dẹp bỏ quyền năng sáng tạo của mình vì con muốn tránh phản ứng tiêu cực này.

Con yêu dấu, con lấy quyết định này là điều rất dễ hiểu. Chính thày cũng đã quyết định như vậy khi thày bắt đầu hiện thân trên trái đất. Tất cả các chân sư thăng thiên khác đã từng hiện thân ở đây cũng đã làm vậy. Tất cả chúng ta đều bị sửng sốt bởi sự hung ác của tà lực, đến nỗi chúng ta rơi vào trạng thái chấn động, trạng thái chấn thương. Lúc đó, con không còn khả năng tiếp xúc cảm giác sâu sắc nhất, phản ứng sâu sắc nhất của con đối với cuộc sống trên hành tinh này.

Nhưng nếu con có thể tiếp xúc cảm giác đó, thày có thể đảm bảo với con là cảm giác sâu đậm nhất mà con có về cuộc sống trên trái đất là cảm giác bị chấn động, bị chấn thương bởi sự ác độc của sa nhân khi họ bác bỏ khả năng sáng tạo của con. Đây là vết thương sâu đậm nhất của con.

Thày nói cho con điều này vì đây là một điều quan trọng con cần ghi nhớ. Thày nhận ra là lúc này con chưa sẵn sàng giải quyết vết thương đó, vì con chỉ làm điều này sau này. Trên thực tế, con sẽ làm điều này sau tầng 96. Nhưng điều quan trọng cơ bản con nên biết là vết thương đầu tiên con nhận được trên trái đất là sự bác bỏ tàn nhẫn khả năng sáng tạo của con. Và nói chung là mọi vết thương khác sau đó chỉ đơn giản là biến thể của vết thương ban đầu này. Có thể nói là tất cả những vết thương sau đó là phản ứng lại sự bác bỏ sáng tạo của con lần đầu ấy.

13.13. Vết thương con cần chữa lành ngay bây giờ

Khi con hiểu điều này một cách ý thức, con có thể thấy rằng, trước hết, mục tiêu của con là trở lại tình trạng con là cánh cửa rộng mở và có thể thể hiện sự sáng tạo của mình. Nhưng con cũng thấy nhu cầu đối phó với các vết thương đó. Một lần nữa, con không cần phải giải quyết vết thương sâu nhất vào lúc này.

Nhưng con cần nhận ra con không thể gia tốc mình quá tầng tâm thức hiện nay cho tới khi con thấy vết thương đang kềm con lại bây giờ, đang ngăn con đi bước kế tiếp.

Đây là cái neo đang treo sau con thuyền của con và con cần phải xem xét ngay bây giờ. Con yêu dấu, không thể đi đường tắt được. Con không thể đơn giản cắt dây neo. Con cần phải nhảy xuống nước, lặn dưới nước và lần theo dây neo cho đến khi con thấy cái neo. Sau đó, khi con thấy cái neo, con nhận ra nó dựa trên một quyết định – con thấy nó giống như cái chốt giữ chiếc neo. Và khi con kéo cái chốt đó, chiếc neo sẽ được thả ra. Nhưng để kéo được chốt, con phải thấy được quyết định cũ và làm lại quyết định mới.

Tất nhiên, thày sẽ giúp làm điều này trong khóa nhập thất của thày khi con đến mức độ này. Một lần nữa, thày sẽ đưa con vào căn phòng với màn ảnh nơi đó con có thể rà hào quang của con. Con có thể thấy vết thương con phải giải quyết lúc này, quyết định nào trong quá khứ – thường là con đã củng cố quyết định này trong kiếp này – hiện đang kìm hãm sự biểu lộ sáng tạo của con.

Con có thể cảm nhận điều này bằng cách nhìn vào cuộc đời mình trong kiếp sống này. Có lẽ con đã nhớ, nếu không thì con sẽ nhớ, con đã từng bị chế giễu hoặc miệt thị vì khả năng sáng tạo của con và quyết định không biểu hiện khả năng đó? Thày không nói rằng đây nhất thiết phải là một cuộc tấn công ác độc. Nó có thể đến từ những người có thiện chí tưởng biết cách biểu hiện sáng tạo làm sao cho hợp tiêu chuẩn. Dù sao thì con cũng đã tiếp xúc với một tiêu chuẩn khiến con dẹp bỏ sự sáng tạo, biểu hiện sáng tạo của con.

Thày cần con sẵn sàng nhìn vào điều này. Và tất nhiên, khi con học bài giảng này và các bài giảng khác, khi con tiếp tục thực hành các bài chú và yêu cầu được đưa đến khóa nhập thất của thày ban đêm, thày sẽ dần dần giúp con. Đây không phải là điều thày có thể trình bày trong một cuốn sách, vì mỗi người mỗi khác. Thày sẽ giúp con tiếp xúc với vấn đề cá nhân của con. Con đã có quyết định nào kìm hãm quyền năng sáng tạo của mình trong cuộc đời này, ngưng không biểu hiện mình một cách sáng tạo? Mặc dù một lúc nào đó con có thể có ước mơ sáng tạo nhưng con lại nghĩ: “Ồ, tôi không thể làm được điều đó, hoặc tôi không thể kiếm sống bằng việc làm sáng tạo, vì vậy tôi phải đi vào một lĩnh vực khác kiếm sống tốt hơn.”

Con yêu dấu, thày không nói rằng con nên từ bỏ công việc con đang làm và trở thành một nghệ sĩ. Nhưng thày cũng không nói con không nên từ bỏ công việc con đang làm và trở thành một nghệ sĩ. Thành thật mà nói, từ bỏ công việc đang làm và làm một việc gì khác không phải là điều quan trọng. Vấn đề cốt yếu là tiếp xúc với quyết định đã giới hạn sự biểu lộ sáng tạo trong tâm lý con. Con không cần phải là một nghệ sĩ để biểu lộ mình một cách sáng tạo. Con có thể có một công việc thoạt trông rất bình thường nhưng con vẫn có thể biểu lộ sự sáng tạo qua nó. Tuy nhiên, khi con bắt đầu mở khóa sự sáng tạo của mình, con sẽ thấy con chuyển từ công việc bình thường sang một công việc có nhiều cơ hội cho sự biểu lộ sáng tạo hơn.

13.14. Tiếp xúc với ước mơ của con

Tuy nhiên, ý của thày ở đây là: Nếu con sẵn sàng nhìn vào điều này, nếu con sẵn lòng nhìn vào cuộc đời mình, nếu con sẵn sàng yêu cầu sự giúp đỡ của thày và sự chỉ đạo của thày, thì thày sẽ giúp con. Hiện diện TA LÀ của con sẽ giúp con, và người bào huynh yêu quý của thày, thày Hilarion, sẽ giúp con, khi con tham dự khóa nhập thất của thày ấy, nơi con có thể nhận ra một cách ý thức ước mơ sáng tạo của con là gì. Con có thể nhận biết một cách ý thức sự kiện nào trong cuộc sống đã thực sự khiến con chối bỏ giấc mơ đó, coi nó là viển vông và quyết định ngưng sự biểu lộ sáng tạo của mình. Sau đó, con có thể tới điểm mà con nói: “Tôi lúc đó thật sự không cần lấy quyết định đó, nhưng chắc chắn bây giờ tôi không cần giữ quyết định này nữa. Do đó, tôi quyết định giải phóng sự biểu lộ sáng tạo của mình. Tôi sẵn sàng biểu lộ mình.” Sự biểu lộ sáng tạo, như thày đã nói, không chỉ là vẽ tranh hay viết sách, làm thơ hay thế này thế nọ. Có nhiều cách để sáng tạo. Đưa ra những ý tưởng mới giúp cải thiện một số khía cạnh của cuộc sống hoặc xã hội, đây chính là sáng tạo. Bất cứ cách nào để làm việc giỏi hơn hay cải thiện cuộc sống đều là sáng tạo.

Điều quan trọng đối với con ở thời điểm này trên con đường tu là tiếp xúc với khả năng sáng tạo có sẵn trong con, lòng yêu thích biểu lộ sáng tạo dưới một dạng nào đó. Một lần nữa, thày không nói rằng con cần phải thay đổi nghề và kiếm sống qua sáng tạo. Nhưng ít nhất hãy dám ước mơ. Dám thể hiện nó bằng một cách nào đó. Dám sáng tạo. Ban đầu có thể là những bước nhỏ, nhưng hãy dám sáng tạo. Và sau đó hãy sẵn sàng xem xét con đã chấp nhận trong tâm những tiêu chuẩn nào mà con nghĩ cần áp dụng vào sự sáng tạo của mình. Vì đây là tiêu chuẩn của sa nhân.

Như thày đã nói, con không thể áp dụng tiêu chuẩn vào sự biểu lộ sáng tạo, vì biểu lộ sáng tạo đem lại điều gì mới. Và làm sao một điều mới có thể bị giam hãm và quy định trước bởi một tiêu chuẩn? Phải chăng điều này quá rõ ràng khi con sử dụng khả năng suy luận của mình?

Làm thế nào cuộc sống có thể cải thiện trên trái đất trừ khi có một cái gì mới, hay một số ý tưởng mới xuất hiện? Nếu không có chỗ cho điều mới, con sẽ có một xã hội trì trệ, ví dụ như con đã thấy trong xã hội phong kiến ở Châu Âu thời trung cổ. Trong hơn vài trăm năm, điều kiện sống hầu như không được cải thiện. Có rất ít chỗ cho sáng tạo, vì mọi thứ đều bị khóa chặt bởi một tiêu chuẩn mà sa nhân đã áp đặt qua công cụ bên ngoài là Giáo hội Công giáo, giai cấp quý tộc và các vua chúa. Họ muốn duy trì vị trí đặc quyền của họ trong xã hội bất chấp những đau khổ gây ra cho dân chúng.

13.15. Tiềm năng sáng tạo của con

Vậy thì con hãy sẵn sàng là một thành phần của tầng lớp tâm linh sáng tạo ưu tú, những người sẽ không để nhóm thượng lưu quyền lực ngăn chặn sự biểu lộ sáng tạo của mình. Đây là việc làm của con. Đây là tiềm năng của con trong kiếp sống này. Nếu nó không phải là tiềm năng của con, con đã không tìm thấy giáo lý này. Con đã không đang đọc và nghe những lời này.

Thày là Chân sư MORE. Thày là thượng sư của Tia sáng thứ Nhất của biểu lộ sáng tạo. Thày nói với con: “Con có tiềm năng là một thành phần của giới ưu tú sẽ giúp hành tinh này làm một bước nhảy vọt vĩ đại vào Thời đại Hoàng Kim của Saint Germain.” Đây là lý do tại sao con chọn hiện thân lần này. Đây là lý do tại sao con đã chịu đựng hiện thân nhiều lần trên hành tinh này trong suốt 2,000 năm qua: để bảo đảm Giê-su hoàn thành việc thiết lập khuôn mẫu, nguyên mẫu cho thời đại Song Ngư với những người biểu lộ quả vị Ki-tô. Con ở đây để bảo đảm thời đại Song Ngư sẽ tiến tới thời đại Bảo Bình khi cả ngàn người sẽ thể hiện và biểu lộ quả vị Ki-tô trên hành tinh này.

Đây là mục đích sâu xa khiến các thày ra mắt những cuốn sách này. Mục đích là giúp những người này mở khóa khả năng sáng tạo của họ, để họ có thể biểu lộ khả năng sáng tạo của mình trong việc đưa hành tinh này nhập vào khuôn đúc Thời đại Hoàng kim mà thày Saint Germain giữ trong tâm – mà tất cả các thày giữ trong tâm. Vì các thày đều là một trong nỗ lực nâng trái đất này vào Thời đại Hoàng kim. Các con là một với các thày trong nỗ lực đó, và thày có mặt ở đây để giúp con mở khóa sự nhận biết có ý thức rằng con là một phần của nỗ lực này. Vì khi con nhận biết có ý thức điều này, con có thể gia tốc sự biểu lộ sáng tạo của mình. Con có thể gia tốc quá trình chữa lành vết thương đang kìm hãm sự biểu lộ sáng tạo đó.

Ôi con yêu dấu, thày rất hân hoan khi thấy đệ tử tại khóa nhập thất bắt đầu mở khóa quyền năng sáng tạo của họ và bắt đầu dám biểu lộ những quyền năng sáng tạo đó – không chỉ ở khóa nhập thất mà còn trong cuộc sống có ý thức của họ. Thật là niềm vui lớn khi các thày thấy đệ tử dám vượt ra khỏi khuôn khổ mà họ đã thấm nhuần từ khi thơ ấu, dám làm điều gì đó khác biệt và dám biểu hiện điều cái hơn nữa.

13.16. Tìm sự trợ giúp của Mẹ Mary

Thày chỉ ước thày có thể giúp mỗi đệ tử tới điểm đó. Nhưng đôi khi thày phải nhìn nhận rằng khả năng giúp đỡ của thày có giới hạn. Và tất nhiên, đây là lúc thày làm điều mà mọi vị tướng giỏi đều làm: gọi quân tiếp viện. Thực sự có những đệ tử tại khóa nhập thất của thày gặp khó khăn vượt qua một vết thương đang cản trở sự sáng tạo của họ. Và lúc đó thày nhờ tới người chị yêu dấu của thày, Mẹ Mary, là người đại diện của Mẹ Thiêng liêng cho trái đất.

Mẹ Mary có khả năng ôm đệ tử vào vòng tay và giữ chặt đệ tử đó, như con thấy trong tranh vẽ mẹ Mary ôm bé sơ sinh Giê-su. Nhưng tất nhiên, những bức tranh và bức tượng con thấy trên trái đất không sánh được vẻ đẹp thực sự trong suốt của Mẹ Mary. Tuy nhiên, con có thể tưởng tượng hoàn toàn phó thác mình trong vòng tay của Mẹ Thiêng liêng, trong tình thương vô điều kiện mà Mẹ của Thượng đế dành cho con, khi Mẹ Mary ôm con trong vòng tay.

Con cảm được hào quang chữa lành thấm vào trường năng lượng của mình, lập tức nhắm vào vết thương con đang cần giải quyết, chiếu năng lượng chữa lành của Mẹ vào vết thương đó, khiến con nhìn nó mà không cảm thấy nỗi đau xúc cảm dữ dội như trước kia. Con nhìn nó với viễn quan tinh khôi của Mẹ và thấy nó thực sự chỉ là một vết thương. Nó chỉ là một quyết định.

Con đã lấy một quyết định, nhưng con không trở thành quyết định đó. Quyết định tạo ra một phàm linh, như Đại thượng sư đã giảng, nhưng con không trở thành phàm linh đó. Do đó, con không phải vĩnh viễn nhìn quyết định này xuyên qua phin lọc nhận thức của phàm linh. Tất nhiên, đây là nguyên nhân khiến con đau đớn. Đây là lý do khiến con nghĩ rằng con không thể nào xóa bỏ quyết định đó vì phàm linh không thể nào xóa bỏ quyết định đó. Phàm linh chỉ có thể nhìn quyết định và cảm thấy đau đớn, vì nó được tạo ra từ nỗi đau của kinh nghiệm chấn thương ban đầu khi sự sáng tạo của con bị bác bỏ.

Mẹ Mary sẽ giúp con bước ra ngoài nỗi đau – ra ngoài phàm linh – và nhận ra một thực tế giản dị. Thượng đế không bác bỏ sự sáng tạo của con. Các sa nhân cũng không thực sự bác bỏ nó vì chúng không thấy được sự sáng tạo của con. Chúng không thấy nó như nó là. Chúng chỉ cảm thấy sự biểu lộ sáng tạo của con làm xáo trộn cảm giác kiểm soát của chúng, và do đó chúng phản ứng theo cách duy nhất mà sa nhân biết.

Con yêu dấu, con có bao giờ kinh nghiệm mình là một đứa trẻ phải chạm trán một con chó dữ? Có thể là một con chó bị xích hoặc sủa sau hàng rào, nhưng nó sủa và gầm gừ với con. Và con có thể đã tìm cách nói chuyện với nó với giọng nhẹ nhàng, nhưng nó tiếp tục sủa và gầm gừ với con. Có con chó con có thể dỗ dịu bằng cách nói chuyện với nó, nhưng có con khác, con không làm thế được. Và đó là lúc con nhận ra rằng một con chó tức giận sẽ luôn luôn làm chuyện chó điên thường làm: sủa và gầm gừ bất kể con nói gì.

Vậy thì con phải làm gì? Con chỉ có thể bỏ đi. Nhưng con không cảm thấy con chó giận dữ đang bác bỏ sự biểu lộ sáng tạo của con, vì con nhận ra chó điên chỉ đơn giản là chó điên. Các sa nhân cũng tương tự như vậy thôi. Chúng chỉ có thể phản ứng như một con chó điên. Bất cứ khi nào chúng cảm thấy ai đang biểu lộ điều gì sáng tạo, chúng liền cảm thấy bị đe dọa và làm những gì chúng luôn luôn làm: Chúng tìm cách đập nó xuống. Nhưng không phải vì chúng ghét cá nhân con. Thậm chí chúng còn không nhìn thấy sự độc đáo của con người con và sự biểu lộ sáng tạo của con. Vì chúng chỉ nhìn thấy những hình ảnh được tạo ra trong tâm trí của chúng và hình ảnh thì không liên quan gì đến thực tế của sự biểu lộ sáng tạo của con.

13.17. Tách rời sáng tạo ra khỏi kết quả

Khi con ở trong vòng tay Mẹ Mary và thấy điều này, con có thể thấy rằng con đã lấy quyết định vì nghĩ rằng con đang hiện thân nên phải chấp nhận tiêu chuẩn mà sa nhân phóng chiếu lên con. Nói cách khác, con nghĩ phải nhìn biểu lộ sáng tạo của mình qua phin lọc bác bỏ của họ, thay vì nhìn biểu lộ sáng tạo của mình qua nhận biết thuần khiết mà con là.

Con có nhận ra vì sao con tin điều này? Đó chính là vì con đầu thai xuống trái đất này với ý định thay đổi một số chuyện. Con tới đây với ý muốn tặng một món quà tích cực, đem lại đổi thay, nâng hành tinh lên một trạng thái cao hơn. Con có mục đích này là điều rất dễ hiểu – vì nếu không tại sao con lại tình nguyện xuống một môi trường dày đặc như thế này?

Thật vậy, như thày đã nói, con có mặt ở đây để đem hành tinh này vào Thời đại Hoàng kim. Nhưng cần nhận ra là một điều đơn giản: đem hành tinh đến gần Thời đại Hoàng kim hơn không tùy thuộc vào phản ứng của sa nhân và tâm thức chết trước nỗ lực sáng tạo của con. Con không tới đây để thay đổi các dòng sống. Có phải chăng là thày đã nói trước đây về nhu cầu vượt qua mong muốn thay đổi ý kiến người khác? Con không tới đây để thay đổi ý kiến sa nhân. Sự thành công của biểu lộ sáng tạo của con không tùy thuộc vào phản ứng hay sự chấp nhận hay không chấp nhận từ những người mang trạng thái tâm thức sa ngã – vì họ sẽ luôn luôn bác bỏ.

Sự thành công của biểu lộ sáng tạo của con chỉ dựa trên một điều: con đã biểu lộ nó. Khi con biểu lộ sáng tạo của mình, thì con đã thành công, vì biểu lộ chính là thành công. Phản ứng từ người khác không quan trọng. Và đây là những gì con nhận ra khi con ở trong vòng tay yêu thương của Mẹ Mary. Đây là viễn quan tinh khôi, khái niệm tinh khôi.

13.18. Làm sao nâng địa cầu

Con thấy chăng, điều gì chắc chắn sẽ nâng cao trái đất? Này nhé, nếu con có một căn phòng tối và muốn tăng ánh sáng trong phòng, con phải làm gì? Con đem nhiều ánh sáng vào hơn. Và mỗi khi con mang nhiều ánh sáng hơn, con giảm bóng tối. Không thể nào khác hơn, vì bóng tối là sự thiếu ánh sáng. Con thấy chăng, mỗi khi con biểu lộ quyền năng sáng tạo của mình, con giúp gia tăng ánh sáng trên hành tinh này và đưa nó tới gần Thời đại Hoàng kim hơn.

Nhưng con cũng thấy gì trong căn phòng tối khi con tăng ánh sáng? Lúc đầu mọi thứ đều có màu xám. Nhưng khi ánh sáng tăng thêm, sẽ có tương phản lớn hơn giữa các vùng có tia sáng mặt trời chiếu thẳng xuống sàn nhà và các vùng trong bóng tối. Sẽ có tương phản lớn hơn giữa ánh sáng và bóng tối. Đây là những gì con thấy trên hành tinh trái đất hiện nay.

Đó là lý do vì sao con bị tấn công dữ dội bởi sa nhân và những người vẫn còn bị mắc kẹt trong tư duy sa ngã. Đây là lý do vì sao con có thể bị tấn công khi con bắt đầu công khai biểu lộ quả vị Ki-tô của mình. Nhưng thày không yêu cầu con công khai biểu lộ quả vị Ki-tô của con. Thày chỉ đơn giản yêu cầu con biểu lộ nó cho chính mình, để con có thể bắt đầu tiến trình mở khóa khả năng sáng tạo của mình.

Khi con tới điểm chữa lành được vết thương lớn, con sẽ thấy biểu hiện của mình không được đánh giá bởi sự bác bỏ của những người có tư duy sa ngã. Vì con có quyền biểu lộ khả năng sáng tạo của mình, mặc dù thực tế là sẽ có người kịch liệt bác bỏ nó và tấn công con một cách ác độc. Nhưng con có thể tiếp tục là chính mình, vì Mẹ của Thượng đế – người có thẩm quyền tối hậu trên trái đất – đã cho phép con biểu lộ sự sáng tạo thiêng liêng của con. Chính Đấng Sáng tạo – người có thẩm quyền tối hậu trong thế giới hình tướng – đã cho phép con là chính mình và là cánh cửa rộng mở để biểu lộ Hiện Diện TA LÀ Của Con.

Con yêu dấu, khi con được phép của Thượng đế và Mẹ của Thượng đế, thì tại sao con lại cần sự cho phép của sa nhân, những người đã tự cắt đứt mình ra khỏi Thượng đế và đã bác bỏ và khủng bố Mẹ của Thượng đế và con cái của Mẹ? Tại sao con cần họ cho phép? Và nếu con không cần họ cho phép, tại sao con lại để sự bác bỏ của họ ngăn cản con trao món quà biểu hiện sáng tạo của con cho hành tinh này, món quà mà con đến đây để trao tặng, món quà là tiềm năng cao nhất mà con có thể cống hiến?

Khi con bắt đầu nắm bắt điều này trong tâm ý thức của mình, con bắt đầu chữa lành vết thương. Con bắt đầu chấp nhận vai trò thực sự của mình là biểu lộ sự sáng tạo của mình. Con tới đây để trải qua tiến trình tu của con Đường Bảy bức Màn, theo đó con dần dần trở thành một cánh cửa ngày càng rộng mở để biểu hiện cái hơn nữa, cái HƠN NỮA mà TA LÀ.

Uy lực và gia tốc

Bài giảng của chân sư thăng thiên More qua trung gian Kim Michaels, ngày 5/2/2013.

TA LÀ Chân sư MORE. Trong bài giảng này, thày sẽ nâng các lời hướng dẫn lên một mức cao hơn. Trong các bài trước thày đã mô tả cách thày giúp những dòng sống lần đầu tới khóa nhập thất của thày ở Darjeeling. Thày mô tả là đa số đệ tử mới tới phải qua một giai đoạn sơ khởi trong đó thày giúp họ nhận ra nhu cầu là họ cần nhìn quá những gì họ chờ đợi nơi một vị thày tâm linh, nơi một đệ tử tâm linh, và nơi một nhập thất tâm linh. Những chờ đợi này chính là thế giới quan và tiêu chuẩn của họ. Vì thày không thể giúp những người muốn ép buộc thày phải tuân theo những chờ đợi của họ, thay vì sẵn sàng để cho thày dẫn họ ra ngoài hộp tư duy hiện nay của họ.

Thày có mô tả là thày tìm cách lý luận với họ, vì tất cả mọi người đều có khả năng lý luận một mức trên tầng tâm thức hiện nay của họ. Thày mô tả là thày tìm cách cho người đệ tử cảm thấy mình được thương yêu, và nhận ra là thày không phê phán họ chút nào, vì thày chỉ có một mục đích là giúp họ vươn lên các tầng tâm thức cao hơn.

11.1. Chữa lành trong Vườn Tình thương

Thày cũng mô tả là nhiều đệ tử – sau khi đã nhận ra nhu cầu nhìn quá tiêu chuẩn và bắt đầu dùng khả năng lý luận – cần một thời gian để được chữa lành qua việc kinh nghiệm tình thương. Đó là lý do thày có một khu vườn rất rộng chung quanh khu nhập thất của thày, và vì khu này tọa lạc trên cõi bản sắc nên khí hậu không là vấn đề. Vì khí hậu do thày và các phụ tá chăm lo khu nhập thất tạo ra.

Thày và các phụ tá đã tạo ra một khu vườn rất rộng có nhiều khóm hoa, cây cỏ nức mùi thơm, suối nước và vòi nước, và dĩ nhiên cũng có nhiều loài chim ca hát không ngừng. Thày có nói tới con chim nhỏ màu xanh của sự tử tế nhưng trong vườn của thày cũng có nhiều loài chim khác. Thày có một phần của khu vườn trồng nhiều hoa hồng và có nhiều chim hót một cách khiến người đệ tử cảm nhận được rung động của tình thương.

Dĩ nhiên hoa hồng mà con biết tới trên trái đất có mùi thơm gần rung động của tình thương nhất. Khi con ngửi hoa hồng, con tới gần rung động của tình thương hơn những gì con có thể trải nghiệm qua khứu giác. Sau khi người đệ tử đã ở khóa nhập thất của thày một thời gian thì tới lúc các vị ấy cần ngửi hoa hồng. Lúc đó, các đệ tử đi ra ngoài vườn, chọn một nơi họ thích và ngồi đó hấp thụ mùi thơm của hoa và tiếng hót của chim. Thày dĩ nhiên có người phụ tá biết đọc rung động của từ trường và luân xa con người, và biết thật chính xác họ cần nghe, ngửi, thấy và cảm những gì để được chữa lành tốt nhất.

Các đệ tử có khi ngồi trong khu vườn rất lâu, vì thực sự khóa học không thể tiến xa hơn nếu con chưa trải nghiệm tình thương đích thực, là tình thương vượt lên trên điều kiện. Tình thương này vượt lên trên tình thương con thường trải nghiệm trên trái đất. Trên trái đất con đã quá quen thuộc ý tưởng tình thương của người khác đối với mình lúc nào cũng có điều kiện. Con cần phải xứng đáng, con cần phải hội đủ một số điều kiện thì mới được nhận tình thương. Nhưng sự thực là sự chữa lành tối hậu đến từ trải nghiệm tình thương vô điều kiện.

Lúc ban đầu con có thể cảm nhận tình thương vô điều kiện của thày, nhưng mục đích tối hậu là con trải nghiệm trực tiếp tình thương vô điều kiện của Hiện diện TA LÀ của con, là nguồn tình thương vô điều kiện cho con. Tình thương này, dĩ nhiên, là tình thương của đấng Sáng tạo, tình thương mà đấng Sáng tạo dành cho tất cả những nối dài có tự nhận biết của ngài. Do đó, con không thể tạo ra nó. Con chỉ có thể là cánh cửa mở nhận nó, nhưng nó là tác nhân tối hậu chữa lành.

11.2. Chối bỏ tình thương vô điều kiện

Có những người đã bị lập trình quá nặng bởi điều kiện trên trái đất nên họ khó chấp nhận tình thương vô điều kiện khi lần đầu tới khóa nhập thất của thày. Đây là một thách đố cho thày. Vì làm sao con có thể giúp một người cảm được tình thương, khi người đó có quá nhiều điều kiện liên quan tới tình thương – tình thương phải được biểu hiện như thế nào, một người phải sống theo đúng tiêu chuẩn nào trước khi có thể mở lòng để thực sự trải nghiệm tình thương?

Con nhìn trái đất và thấy là con đã bị lập trình để nghĩ rằng con phải hội đủ một số điều kiện trước khi con có thể nhận tình thương, và nhiều đệ tử đã gán điều này lên Thượng đế và nghĩ Thượng đế là người có nhiều điều kiện nhất. Vì tình thương của Thượng đế đúng lý phải đặc biệt – đặc biệt hơn tình thương của con người – do đó nếu con phải hội đủ một số điều kiện mới nhận được tình thương của người phàm, thì con sẽ phải hội đủ nhiều điều kiện khắt khe hơn nữa mới mong nhận được tình thương cao hơn của Thượng đế.

Một số đệ tử lý luận như vậy khi họ tới thày. Dĩ nhiên là thày có thể tìm cách dùng lý trí để khuyên bảo họ. Nhưng câu hỏi là: liệu họ có thể tới chỗ buông bỏ lâu đủ những điều kiện của họ để trải nghiệm – không phải chỉ hiểu mà thực sự trải nghiệm – tình thương vô điều kiện?

Thày đã giảng là ở tầng tâm thức 48, con phải đối mặt với nhu cầu nhìn quá tiêu chuẩn của mình. Khi con chấp nhận chịu nhìn quá tiêu chuẩn của mình thì con có thể tiến lên tầng 49. Điều này không có nghĩa là con đã buông bỏ hết mọi tiêu chuẩn, vì bình thường con chỉ làm được điều này khi con tới tầng 96, và có khi còn phải cao hơn nữa. Nhưng nó có nghĩa là con đã trải nghiệm nhìn vào chính mình và cuộc đời từ một trạng thái tâm thức cao hơn trạng thái được quy định bởi tiêu chuẩn. Lúc đó con tiến lên tầng 49.

Ở tầng này, con phải học cách dùng khả năng lý luận để chất vấn một cách ý thức một phần của tiêu chuẩn và trải nghiệm cảm giác buông bỏ phần đó. Một lần nữa, không có nghĩa là con buông bỏ hết mọi tiêu chuẩn, nhưng con đã trải nghiệm tiến trình buông bỏ một phần tiêu chuẩn. Lúc đó con tiến lên tầng 50.

Tầng 50 là nơi con phải đối mặt nhu cầu trải nghiệm tình thương vượt lên trên điều kiện. Không có nghĩa là con buông bỏ hết mọi điều kiện, nhưng có nghĩa là con trực tiếp trải nghiệm tình thương vượt lên trên điều kiện hiện nay của con. Và nếu con chưa trải nghiệm điều này thì con không thể lên tầng 51. Điều này không thể xảy ra được.

11.3. Quan hệ giữa con và Thượng đế 

Đối với một số đệ tử, đây là một thách đố lớn, vì con phải nghĩ lại cách con nhìn Thượng đế và quan hệ của con với Thượng đế. Dĩ nhiên là trái đất có một truyền thống rất lâu đời – lâu đời nếu tính theo chiều dài kiếp người, nhưng không lâu nếu so sánh với toàn bộ thời gian có sự sống thông minh trên trái đất – miêu tả Thượng đế như một thượng đế giận dữ và phê phán ở trên trời. Có rất nhiều người trên trái đất hiện nay đã bị lập trình bởi tiêu chuẩn này, bởi ý do sa nhân phóng chiếu là đây là hình ảnh thực duy nhất của Thượng đế, và ai chất vấn hình ảnh này sẽ mang tội thóa mạ thần linh.

Các con yêu dấu, có một sự kiện giản dị là tâm thức con không thể nào vươn cao hơn hình ảnh của con về Thượng đế. Con có thể tới khóa nhập thất của thày với hình ảnh một Thượng đế giận dữ và phê phán. Con có thể tiến triển qua hai tầng đầu, nhưng con sẽ không thể đi quá tầng 50 nếu con giữ hình ảnh Thượng đế giận dữ và phê phán và nhất định phóng chiếu hình ảnh này lên thày; muốn thày là một vị thày giận dữ và phê phán sẽ phạt nặng khi con làm lỗi.

Các con yêu dấu, nhiều đệ tử đã tới khóa nhập thất của thày với trạng thái tâm thức sợ làm lỗi hơn là yêu làm cái hơn nữa. Thày có nói về tiêu chuẩn. Bản chất của tiêu chuẩn là nó quy định hai cực: tốt hoặc xấu, đúng hoặc sai. Hầu hết mọi người đã bị lập trình để đánh giá như vậy mọi khía cạnh của đời sống, tâm thức, tình cảm, tư tưởng và hình ảnh mình là ai.

Nhất định là phải có đúng và sai, đúng vậy chăng? Sai, con yêu dấu! Trong thực tại của Thượng đế không có đúng sai. Những khái niệm nhị nguyên do tâm thức tách biệt, tâm thức phản-Ki-tô tạo ra. Con sẽ không bao giờ biết Thượng đế thật nếu con nhất định phóng chiếu hình ảnh này lên Thượng đế.

11.4. Chân sư MORE không phải là một vị thày giận dữ

Con sẽ không bao giờ biết Chân sư MORE thật nếu con nhất định phóng chiếu hình ảnh này lên thày, như nhiều người tự nhận là đệ tử chân sư thăng thiên đã và đang làm. Họ muốn thày là một vị thày giận dữ và phê phán. Thày không phải là một vị thày như vậy. Thày chưa bao giờ như vậy. Trong mấy chục năm trước, thày đã để đệ tử phóng chiếu hình ảnh này lên thày, nhưng thày sẽ không để chuyện này xảy ra nữa. Thày sẽ công khai bác bỏ hình ảnh này và tố cáo các đệ tử đó là người không chịu nhìn vào – hay đúng hơn là không chịu trải nghiệm – thực tại của thày.

Thày không phải là vị thày giận dữ và phê phán. Thày là vị thày thương yêu vô điều kiện và thày sẽ hỗ trợ con vô điều kiện. Nhưng cách thày hỗ trợ con và sự tăng triển của con là giúp con thăng vượt các điều kiện của mình, vì thày không phải là người kềm con lại. Thượng đế không kềm con lại; ma quỷ không kềm con lại. Cái kềm con lại trên con đường tu chính là các điều kiện của con, những điều kiện mà con đã quy định và chấp nhận. Thày đồng ý là ma quỷ đã quy định nhiều điều kiện mà con đã chấp nhận, và do đó ma quỷ đã gián tiếp kềm con lại. Nhưng ma quỷ không có quyền lực trên con trừ phi con cho nó quyền lực đó bằng cách chấp nhận một số điều kiện.

Con sẽ không bao giờ biết thày nếu con phóng chiếu hình ảnh một Thượng đế giận dữ và phê phán lên thày và nghĩ rằng thày giống vậy. Con yêu dấu, con sẽ không bao giờ biết thày. Và đây là một gánh năng trên tim thày, thày phải thành thật nói vậy. Vì dĩ nhiên thày biết thày là ai. Thày biết thày có thể cống hiến đệ tử rất nhiều. Và thày thấy họ ngồi đó và bị kẹt vì không buông bỏ lâu đủ các điều kiện của mình để trải nghiệm, dù chỉ một thoáng, tình thương vô điều kiện mà thày cảm nhận đang tuôn chảy qua thày từ đấng Sáng tạo, và từ Hiện diện TA LÀ trực tiếp xuống tới họ.

Thày thấy thày trở thành cánh cửa mở cho tình thương đó khi các đệ tử tới khóa nhập thất của thày. Và họ ngồi đó và không chịu nhận nó vì họ nhất định nắm giữ điều kiện nào đó miêu tả họ không xứng đáng – vì thày là người quy định điều kiện mà họ không hội đủ. Thực ra chính họ đã quy định các điều kiện này, nhưng họ phóng chiếu lên thày là thày là người đã quy định chúng. Họ cho rằng thày là người đã giữ lại và không cho họ tình thương vì thày đã quy định những điều kiện quá khắt khe mà họ không hội đủ được. Nhưng thày không có điều kiện. Mọi người tới khóa nhập thất của thày với điều kiện của chính họ.

Có trường hợp đệ tử ở rất lâu trong vườn hồng mà vẫn không cảm được tình thương. Vì giản dị là họ không chịu ngửi mùi hoa hồng và trải nghiệm khu vườn.

11.5. Tia thứ Nhất của uy lực sáng tạo

Đệ tử tới thày trong tâm như có một bản nhạc – tựa như một đĩa nhạc rè cứ lặp đi lặp lại – lặp lại những điều kiện. Họ nhìn khóa nhập thất của thày và nghĩ: “Tôi phải hội đủ những điều kiện nào đây? Tôi không thể phạm lỗi ở đây; tôi đang tham dự một khóa nhập thất tâm linh.”

Vì họ quá quan tâm đến việc tránh phạm lỗi nên họ không dám làm gì cả. Và vì sao đây là một vấn đề? Đây là một vấn đề vì thày là Thượng sư của Tia thứ Nhất. Trong quá khứ, Tia thứ Nhất được miêu tả là tia của uy lực và ý chí, nhưng đó là vì uy lực và ý chí là thành phần thiết yếu của nỗ lực sáng tạo.

Con không thể sáng tạo bất cứ cái gì nếu con không phóng uy lực ra ngoài, và con không thể sáng tạo bất cứ cái gì nếu con không có ý chí sáng tạo. Do đó con có thấy chăng là thày không muốn con nhìn uy lực và ý chí như đức tính cố định, như tiêu chuẩn mà con phải sống theo. Thày đã nói gì về tiêu chuẩn? Nó giết sự sáng tạo. Nhưng con có nghĩ thày, là Chân sư MORE, Thượng sư của Tia thứ Nhất của Nỗ lực Sáng tạo, muốn giết sự sáng tạo của con? Nếu con nghĩ vậy, thì thày có thể bảo đảm với con là con sẽ thấy điều này không đúng nếu con chịu dùng khả năng lý luận của mình.

Thày không phải là người muốn giết sự sáng tạo của con. Tự ngã của con, các tà lực và thày giả muốn làm điều này, nhưng thày thì không, vì thày, chân sư MORE, chỉ muốn con hơn nữa. Và con hơn nữa qua sự sáng tạo. Và con chỉ sáng tạo khi con sẵn sàng thử nghiệm. Và con chỉ sẵn sàng thử nghiệm khi con nhìn vào nỗi sợ phạm lỗi và tự hỏi: “Có điều gì con yêu thích hơn nỗi sợ phạm lỗi không? Trong con có sự yêu thích nào mạnh hơn nỗi sợ phạm lỗi không?”

Thày không muốn nói tới lòng yêu thích muốn mình đúng dựa trên một tiêu chuẩn thế gian, tuy rằng đây có khi là một điểm khởi đầu. Thày muốn nói tới tình yêu thương cái gì hơn mọi tiêu chuẩn. Vì chỉ khi con vượt lên trên tiêu chuẩn con mới có thể sáng tạo.          

Nếu ngồi trong vườn hồng không giúp được người đệ tử, thì thày có một khu khác trong khu nhập thất của thày. Chắc con cũng có nghe đến kho sử liệu akasha. Kho sử liệu akasha có thể coi như một trường năng lượng có độ rung rất thanh hay cao, vượt rất xa các rung động trong cõi vật chất. Những rung động này có khả năng ghi nhận tất cả mọi diễn biến, mọi hành động xảy ra trong vũ trụ vật chất, do đó tất cả những điều này được ghi lại như hình ảnh, giống như cuộn phim có thể xem lại.

Kho sử liệu akasha đặc biệt hữu dụng khi một dòng sống rời bỏ xác thân và duyệt xét lại cuộc đời vừa qua của mình. Vì nhiều khi dòng sống đã quên hay có một cái nhìn méo mó về những chuyện đã xảy ra. Do đó, các thày có thể trở về kho sử liệu và chiếu lại hoàn cảnh thực, vì cái gì được ghi nhận trong kho sử liệu chỉ là sự kiện đã xảy ra, không có những cảm xúc và trải nghiệm nội tâm của những người trong cuộc.

Khi người đệ tử thấy những gì được ghi trong kho sử liệu akasha, y trải nghiệm chuyện xảy ra một cách hoàn toàn trung hòa không cảm xúc. Y có thể nhìn câu chuyện một cách khách quan – thấy nó như nó là – do đó giúp y dễ dàng buông bỏ, ghi nhận điều xảy ra và được chữa lành. Dĩ nhiên, có sử liệu khác ghi nhận các cảm xúc và các rung động này cũng cần được xóa bỏ trước khi người đệ tử thực sự buông bỏ.

11.6. Vẽ lên tấm vải vẽ của tiềm thức

Trong khu nhập thất của thày, thày cũng có một căn phòng có một màn ảnh 180 độ có thể chiếu lên bất cứ hình ảnh nào. Thày cũng có một dụng cụ giống như máy rà hình, tương tự như máy rà hình trong bệnh viện trên trái đất nhưng tinh vi hơn. Máy này có thể rà tiềm thức – gồm các thể xúc cảm, lý trí và bản sắc của tâm – của người đệ tử. Tác dụng là màn ảnh lớn trở nên một tấm vải vẽ trên đó người đệ tử có thể vẽ bất cứ gì mình muốn. Tiến trình xảy ra như sau.

Người đệ tử ngồi xuống và máy rà hình rà tâm của y. Máy rà hình phát hiện tất cả các điều kiện mà người đệ tử có trong tiềm thức. Sau đó, máy phát lên màn ảnh một tấm vải vẽ trắng giống như tấm vải vẽ của người họa sĩ. Tuy nhiên, kích thước của tấm vải vẽ – và con nên nhớ là màn ảnh rất lớn và chiếm nửa căn phòng – được chiếu như một phần màu trắng trên màn ảnh tùy thuộc vào những điều kiện mà người đệ tử có trong tâm. Càng nhiều điều kiện, tấm vải vẽ càng nhỏ.

Bên cạnh người đệ tử có một bảng pha màu gồm cọ và màu, và bảng pha màu này cũng tùy thuộc các điều kiện. Càng nhiều điều kiện, càng ít màu ít cọ. Có đệ tử chỉ có một cọ và chỉ có màu đen để vẽ trên một tấm vải vẽ trắng nhỏ – có khi nhỏ đến độ hầu như không có chỗ để vẽ gì vào.

Người đệ tử được giao công việc vẽ lên tấm vải vẽ màu trắng – vẽ gì cũng được. Một số đệ tử coi đây là một thách đố lớn. Những người có nhiều điều kiện nhất có tấm vải vẽ nhỏ nhất và ít màu nhất, nhưng tuy vậy họ không biết phải chọn màu gì, họ không thể quyết định vẽ cái gì. Họ nhìn thày với con mắt hoảng sợ và muốn thày nói họ phải vẽ gì lên tấm vải vẽ của đời mình. Họ muốn có quy luật, tiêu chuẩn mà họ có thể áp dụng, và như vậy biết chắc là mình đang làm đúng và không làm gì sai.

Nhưng con yêu dấu, con có thấy chăng: ở đây không có đúng sai. Vì mục đích không phải là vẽ một bức tranh. Mục đích là giúp con thẩm định các điều kiện đang hạn chế sự sáng tạo của mình.

Thày rời căn phòng để lại người đệ tử một mình, và trở lại một lúc sau để xem người đệ tử đã vẽ gì. Có khi thày trở lại nhưng y không vẽ được gì cả. Lúc đó thày cho y thêm thì giờ. Nhưng vẫn có một số đệ tử bị giam trong điều kiện đến độ họ không dám vẽ gì cả. Có người thày không thể giúp được và đành phải gửi trả họ về quán ăn miễn phí là nơi họ có thể đi thêm một vòng nữa và nhận được chút ít hơn những gì họ có thể nhận lúc này.

Với những đệ tử đã vẽ được một cái gì, thì thày tìm cách giúp họ bằng cách hỏi: “Khi con vẽ hình này – khi con nhìn hình này – thì năng lượng của con lên hay xuống? Con có phản ứng gì? Trạng thái tâm của con thế nào khi con vẽ và nhìn hình?”

Thày giúp họ thấy đây không phải là một kỳ thi khảo hạch. Đây không giống các chương trình truyền hình trong đó có một số giám khảo đưa ra những lời bàn vô duyên về những gì người khác sáng tạo. Thày không ở đây để bàn về tấm hình của con. Thày ở đây để giúp con thấy trạng thái tâm mình và thấy mức độ tự do – hay nhiều khi là thiếu tự do – của mình khi biểu lộ chính mình một cách sáng tạo.

11.7. Sáng tạo qua các luân xa

Sau khi thày đã giúp người đệ tử tiếp cận cảm xúc của mình, thì thày hỏi y đánh giá tiềm năng sáng tạo của mình. Hay nói cách khác, con có thể làm hơn những gì con đã làm chăng? Nhiều khi người đệ tử trả lời: “Con có thể làm hơn nếu con có một tấm vải vẽ lớn hơn và nhiều màu hơn”. Lúc đó là lúc thày giúp y thấy rằng thày không phải là người giới hạn kích thước tấm vải vẽ và số màu: đó là chính các điều kiện của người đệ tử. Thày có thể chỉ cho y thấy – và chiếu lên màn ảnh – cách điều kiện hạn chế biểu hiện sáng tạo.

Thày có thể chiếu lên màn ảnh từ trường và các luân xa của người đệ tử. Thày có thể cho thấy biểu hiện sáng tạo vận hành ra sao qua các luân xa. Thày có thể cho thấy là mỗi luân xa có những cái được gọi là cánh hoa, vì luân xa có thể so sánh với một đóa hoa. Nhưng những cánh hoa này thực sự là những van hay cổng cho ánh sáng vào. Trong nhiều trường hợp người đệ tử đã đóng hầu hết các cổng này trong luân xa, do đó có rất ít ánh sáng chảy xuyên qua luân xa.

Sau đó, thày cho thấy những luân xa có cổng bị tắc nghẽn. Và thày cho thấy là sự tắc nghẽn được tạo ra bởi điều kiện mà người đệ tử đã chấp nhận. Và thày cho thấy là nếu điều kiện được buông bỏ thì có nhiều ánh sáng chảy qua luân xa hơn, và lúc đó tấm vải vẽ sẽ rộng lớn và số màu sẽ tăng lên. Qua cách này, thày có khi – đúng thật là thường khi – giúp người đệ tử thấy được một số điều kiện và dần dần buông bỏ chúng để mở rộng tấm vải vẽ và gia tăng số màu trong bảng pha màu.

Nhiều đệ tử đáp ứng rất tốt, và họ hăng hái làm công việc buông bỏ điều kiện để tăng kích thước bức vải vẽ. Dĩ nhiên là thày cho họ thấy bức vải vẽ có tiềm năng lớn thế nào. Thày có thể cho họ thấy khi họ sẵn sàng – có nghĩa là họ thấy mà không quá nản chí – những bức hình mà các đệ tử khác đã vẽ. Thày chỉ cho thấy những bức hình đẹp tuyệt vời khi đệ tử dùng được toàn bộ bức vải vẽ và bảng pha màu.

Nhưng thày cũng cho họ thấy là các đệ tử này đã bắt đầu với một bức vải vẽ rất nhỏ và một bảng pha màu giới hạn, giống như họ vậy. Qua đó, thày chỉ cho thấy sự khác biệt giữa tiềm năng sáng tạo và khả năng sáng tạo hiện nay của họ, và cho thấy chính các điều kiện và không gì khác đã hiển nhiên hạn chế tiềm năng sáng tạo của họ.

Đây là một công việc rất hữu ích, và người đệ tử thường đáp ứng rất tốt. Cũng có người không buông bỏ được hình ảnh Thượng đế giận dữ và phê phán, và tiếp tục chối cãi họ không phải là người đã quy định điều kiện của họ. Có khi những đệ tử đó phải trở lại xếp hàng trong quán ăn miễn phí. Cũng có người phải trở lại Trường Đời Cay đắng vì họ không chịu nhận lấy trách nhiệm về cuộc đời mình.

11.8. Quyết định gia tốc

Ở tầng thứ ba của khóa nhập thất của thày – ở tầng tâm thức 50 – công việc của con là tình thương. Công việc của con là trải nghiệm tình thương vô điều kiện. Nhưng trải nghiệm tình thương thực sự chỉ đặt nền móng cho bước kế tiếp. Bước kế tiếp là sử dụng Tia thứ Tư, được coi là tia của tinh khiết. Nhưng tinh khiết là gì? Đó là điều xảy ra khi cái có độ rung thấp được gia tốc lên độ rung cao hơn.

Làm sao con khiến một cái gì trở nên tinh khiết? Bằng cách gia tốc độ rung của nó. Do đó, con sẽ phải tới chỗ nhìn nhận một cách ý thức con thương yêu cái gì hơn nữa – con thương yêu sự biểu hiện sáng tạo của mình, bản thể cao của mình, và tiềm năng sáng tạo của mình. Và con yêu tiềm năng này nhiều đến độ con sẵn sàng nhìn chính mình và thấy cái gì hạn chế sự biểu hiện sáng tạo chính là những điều kiện mình đã chấp nhận và cho phép hiện hữu trong tâm thức.

Lúc đó con lấy quyết định: “Vâng, con sẵn sàng gia tốc mình vượt lên trên các điều kiện này. Con sẵn sàng gia tốc ý niệm bản ngã vượt lên trên tiêu chuẩn con đã chấp nhận. Con bây giờ thấy tiêu chuẩn này dựa trên tâm thức sa ngã, tâm thức phản-Ki-tô. Con sẽ không bị hạn chế bởi tiêu chuẩn này nữa. Con muốn gia tốc ý niệm bản ngã vượt lên trên tiêu chuẩn đó, và con gia tốc mình vượt lên trên tiêu chuẩn đó.”

Nhưng con có thấy chăng, con không thể lấy quyết định này nếu con chưa trải nghiệm, ít nhất là một thoáng, tình thương vô điều kiện. Con yêu dấu, tại sao lại như vậy? Vì trở nên hơn nữa là một tiến trình sáng tạo, và một tiến trình sáng tạo thì không ép uổng được. Nó không thể dựa trên sợ hãi, nó phải dựa trên tình thương. Con thương yêu cái hơn, do đó con sẵn sàng gia tốc mình lên một tầng cao hơn để cái hơn đó chảy qua con.

Chắc con đã bắt đầu thấy là Hiện diện TA LÀ của con là nguồn gốc của sự sáng tạo của con, và Hiện diện TA LÀ muốn thể hiện đầy đủ sự sáng tạo của nó như món quà giúp nâng trái đất lên một mức cao hơn. Nhưng Hiện diện TA LÀ của con chỉ có thể thể hiện sự sáng tạo của nó qua con. Con có tiềm năng – con, cái Ta Biết – có tiềm năng trở về trạng thái nhận biết thuần khiết, khi đó con trở thành cánh cửa mở, cánh cửa hoàn toàn mở. Và con thấy vì tiêu chuẩn của con, vì các điều kiện của con, con chưa là cánh cửa mở hoàn toàn. Con chỉ mở cánh cửa một phần, đôi khi chỉ mở chút xíu.

Khi con nhận ra điều này – khi con trải nghiệm tình thương vô điều kiện của Hiện diện TA LÀ dành cho con và muốn biểu hiện qua con – thì con có thể lấy quyết định từ cốt lõi bản thể mình. Quyết định này không đi qua phin lọc của cái ta vỏ ngoài và cá tính, vì cái ta vỏ ngoài dựa trên sợ hãi và chỉ có thể quyết định dựa trên sợ hãi. Con yêu dấu, Tia thứ Nhất là tia của ý chí, và ý chí thật dựa trên tình thương – ngược với ý chí giả dựa trên sợ hãi.

Ở đây có một điểm tế nhị con cần xem xét. Có đệ tử tới khóa nhập thất của thày quá sợ lấy quyết định sai nên họ không chịu lấy bất cứ quyết định gì. Họ muốn thày nói cho họ biết phải làm gì. Với các đệ tử này, thày không làm được gì khác hơn là gửi họ về quán ăn miễn phí. Thày chỉ có thể khởi sự tích cực làm việc với một đệ tử khi đệ tử này ít nhất chịu lấy quyết định. Nhưng dĩ nhiên lúc đầu – đặc biệt là các đệ tử đã xuống dưới tầng tâm thức thứ 48 – họ chỉ có thể lấy quyết định dựa trên sợ hãi.

11.9. Quyết định dựa trên sợ hãi

Thày muốn nói gì khi thày nói tới quyết định dựa trên sợ hãi? Đó là một quyết định phản ứng lại điều gì con cảm thấy bị áp đặt lên con. Con hãy nhìn cuộc đời mình và thấy có những điều kiện mà con cảm thấy đang hạn chế con. Đó có thể là người khác, có thể là cha mẹ con, người phối ngẫu, thày giáo hay một người có uy quyền, nhưng con cảm thấy họ quy định một số hàm số – họ đặt trên con môt số yêu cầu – và con lấy một quyết định né tránh phản ứng tiêu cực từ các người đó.

Đó là một thí dụ điển hình của một quyết định dựa trên sợ hãi. Con sợ phản ứng tiêu cực, do đó con lấy quyết định né tránh nó. Hầu hết các quyết định của con là quyết định né tránh; con tìm cách né tránh không cho chuyện xấu xảy ra. Tuy thế, lấy những quyết định này còn tốt hơn là không quyết định gì cả, vì ít nhất con đang hành động. Lúc đó, thày có thể làm việc với con và hướng quyết định con về hướng khác bằng cách giúp con nhận ra tiêu chuẩn, lý luận với con và dẫn con tới chỗ con nhận ra con cần trải nghiệm tình thương vô điều kiện. Và do đó, con cần buông bỏ điều kiện để chấp nhận tình thương.

Một khi một người đã trải nghiệm một thoáng tình thương vô điều kiện, y có thể dùng lý luận để bắt đầu hiểu là có một mức quyết định không do sợ hãi, không để né tránh cái xấu. Con lấy quyết định tích cực dựa trên tình thương yêu cái hơn nữa và lòng mong muốn trải nghiệm một cái gì tích cực, một cái gì tốt.

Vì dĩ nhiên khi con bị giam trong sợ hãi, con nghĩ là bất cứ quyết định nào cũng sẽ dẫn tới điều xấu. Vì con quá chú tâm tới tiềm năng của chuyện xấu nên con không thấy sự thực hiển nhiên là một quyết định cũng có thể dẫn tới điều tốt. Nó có thể dẫn tới tiến bộ, nhưng không lấy quyết định không dẫn con tới đâu hết.

11.10. Sự thực về ý chí Thượng đế

Đây là ý chí cao. Ý chí của Thượng đế hoàn toàn tích cực. Con yêu dấu, con hãy nghĩ xem. Con có thực sự nghĩ là Thượng đế sợ hãi? Nếu con tin vào hình ảnh thượng đế giận dữ và phê phán thì con đã gián tiếp tin rằng thượng đế sợ hãi. Vì nếu thượng đế giận dữ, thì nỗi giận này từ đâu tới? Nó tới từ sợ hãi. Nếu thượng đế phê phán, thì nhu cầu phê phán này từ đâu tới? Nó tới từ sợ hãi. Con thấy chăng, hình ảnh phổ biến của một Thượng đế giận dữ và phê phán ở trên trời thực sự là một hình ảnh dựa trên sợ hãi. Nó miêu tả Thượng đế như một Thượng đế hành xử dựa trên sợ hãi.

Dĩ nhiên là ma quỷ ước mơ là Thượng đế sợ ma quỷ và quyền lực của ma quỷ. Quả thực có người trên trái đất tin điều này, tin rằng ma quỷ có quyền năng nào đó khiến Thượng đế phải sợ. Nhưng dĩ nhiên là Thượng đế thật, Thượng đế thật của tình thương vô điều kiện, không sợ bất cứ cái gì. Trong ngài không có sợ hãi.

Ý chí của Thượng đế không dựa trên sợ hãi; quyết định của Thượng đế không dựa trên sợ hãi. Và ý chí của Thượng đế là con có quyền tự quyết, và ý chí của Thượng đế là con thực thi quyền tự quyết theo ý con muốn. Nhưng ý chí và viễn quan cao nhất của Thượng đế là con thực thi quyền tự quyết dựa trên tình thương và tất cả quyết định của con giúp con trở nên hơn nữa, giúp bầu cõi vật chất trở nên hơn nữa, sẽ rốt cuộc giúp đấng Sáng tạo trở nên hơn nữa. Đây là tiến trình của sự sống trong đó mọi thứ đều trở nên hơn nữa.

Tiến trình này đã tạm thời bị đảo ngược trên trái đất, và trái đất quả thực đã là một trường học cho nhiều dòng sống bị giam trong tâm thức sợ hãi. Nó là một loại chặng giữa thiên đàng và địa ngục. Trái đất không phải là một hành tinh cao, như thày đã từng nói trước đây.

Điều thày muốn nói là sẽ có một lúc con phải dùng ý chí để gia tốc mình vượt lên trên tiêu chuẩn của mình, cái tiêu chuẩn đang hạn chế sự sáng tạo của mình. Nhưng ý chí này, quyết định này không thể dựa trên tâm vỏ ngoài thấm đậm sợ hãi. Nó phải dựa trên tình thương vì chỉ như vậy nó mới gia tốc ý niệm bản ngã của con.

Có nghĩa là con có thể thực sự tới chỗ đã bắt đầu con đường đi lên, nhưng con vẫn nghĩ mục đích của con đường tu là kiện toàn cái ta vỏ ngoài và khiến cái ta vỏ ngoài sống theo tiêu chuẩn nào đó. Con nghĩ rằng nếu con kiện toàn cái ta vỏ ngoài theo tiêu chuẩn đó, thì thày sẽ phải chấp nhận con – cái ta vỏ ngoài – và Thượng đế phải chấp nhận cái ta vỏ ngoài. Đó là điều mà Giê-su đã giảng trong ẩn dụ về bữa tiệc cưới:

Con tưởng con có thể nhập tiệc cưới mà không mặc áo cưới. Áo cưới được dệt bằng tình thương; nó không được làm bằng sợ hãi.

Con có thể có hình ảnh một hiệp sĩ thời Trung cổ đội mũ sắt và mặc áo giáp sắt che khắp thân. Đây không phải là áo cưới, đây là một dụng cụ dựa trên sợ hãi được thiết kế để bảo vệ con khỏi những cú đánh mà con sợ sẽ tới. Chỉ khi nào con buông bỏ nỗi sợ và dệt chiếc áo không đường may, chiếc áo cưới, thì con mới bắt đầu thăng vượt sợ hãi. Và chỉ lúc đó con mới vào được tiệc cưới.

11.11. Một tiệc mừng ở Darjeeling

Dĩ nhiên là lúc này con chưa thể vào tiệc cưới, vì chiếc áo không đường may – chiếc áo cưới – phải được dệt với chỉ của cả bảy tia sáng. Tuy nhiên – một khi con đã thoáng trải nghiệm tình thương vô điều kiện – con đã thực sự bắt đầu công việc dệt áo cưới của mình. Và con sẽ tiếp tục kiện toàn nó, đây chỉ là một cách nói, khi con tiến dần lên tầng 96.

Sẽ có lúc cách duy nhất để tiến triển là con quyết định gia tốc ý niệm bản ngã, không phải là vượt lên trên mọi tiêu chuẩn nhưng chắc chắn là vượt lên trên tiêu chuẩn của con lúc đó, và quyết định này phải dựa trên tình thương. Khi con lấy quyết định này, thày cảm thấy một niềm vui trong tim lớn đến độ thày không diễn tả nổi. Khi một đệ tử đã trải nghiệm tình thương vô điều kiện và quyết định gia tốc mình dựa trên tình thương, thì đây là một cơ hội để ăn mừng ở khóa nhập thất của thày.

Đây thực sự là mục đích của công việc của các thày; đây là một phần thưởng quý giá. Không có nghĩa là thày đã làm xong công việc với người đệ tử đó, nhưng có nghĩa đây là một bước cơ yếu trên con đường tu. Và đây là một lý do quá lớn để vui mừng, nên thày luôn luôn tổ chức một tiệc mừng người đệ tử. Giống như những lễ thuộc một số truyền thống Cơ đốc giáo mà con thấy trên trái đất, khi một em trẻ được chứng minh, và sau đó có một bữa tiệc trong đó em được nhận quà và nhiều lời chúc tụng. Thày có một buổi lễ không hoàn toàn giống nhưng tương tự để ăn mừng sự tiến triển của người đệ tử, và thày phải nói, với khá nhiều nghi thức long trọng.

Và thày mong mỏi con có được buổi lễ đó. Thày mong muốn thấy con tới chỗ cảm được tình thương vô điều kiện tới từ cõi cao ngay cả khi con tỉnh thức và ý thức .

Uy lực và tình thương

Bài giảng của chân sư thăng thiên More qua trung gian Kim Michaels, ngày 4/2/2013.

TA LÀ Chân sư MORE. Thày muốn cho con một lớp hiểu biết khác về khả năng suy luận cao. Như các thày đã nói, trái đất ở tình trạng thấp hơn kịch bản lý tưởng rất nhiều. Do đó, khi con tới con Đường Bảy bức Màn và ghi danh với thày là Thượng sư thứ nhất, con không tới với tâm trong trắng; con mang theo mình một quá trình.

Con đã tích lũy quá trình này khi con sống trên trái đất, là một môi trường rất ô nhiễm. Trái đất bị ô nhiễm không phải chỉ do những gì nhân loại đã đồng sáng tạo trong suốt mấy ngàn năm, mà chính yếu là do quan điểm và giáo lý của các sinh thể mà ta có thể gọi là thày giả. Họ đã được phép đầu thai trên hành tinh này từ rất lâu rồi, và do đó đã ảnh hưởng tất cả mọi khía cạnh của đời sống trên trái đất. Không có khía cạnh nào của đời sống trên trái đất không bị ảnh hưởng bởi tư duy các thày giả đó, mà các thày cũng đã gọi là sa nhân. Tư duy này là tâm thức nhị nguyên, được đại diện một cách ẩn dụ bởi con rắn trong Vườn Địa đàng.

9.1. Lời dối trá mình có thể trở thành một thượng đế

Còn câu chuyện truyền thuyết, con rắn nói với E-và là nếu cô ăn trái cấm thì cô sẽ không “chắc chắn chết” nhưng sẽ trở thành như một thượng đế “biết tốt và xấu”. Như các thày có giảng chi tiết trước đây, cách giải thích câu chuyện ẩn dụ này giản dị là: Khi con trở thành một thượng đế, con nghĩ con có khả năng quy định cái gì tốt cái gì xấu. Nói cách khác, bản chất của tâm thức rắn là nó tạo ra một tiêu chuẩn giả về tốt và xấu, sau đó nó nói nếu con sống theo tiêu chuẩn vỏ ngoài này – tìm cách tránh xấu làm tốt – con được bảo đảm lên thiên đàng.

Khi đệ tử tới khóa nhập thất của thày ở Darjeeling, họ không nhiều thì ít mang tư duy sa ngã này. Ho đều đã chấp nhận một tiêu chuẩn nào đó, và họ nghĩ có thể tới khóa nhập thất của thày và áp đặt tiêu chuẩn của mình lên thày.

Các con yêu dấu, có những đệ tử tới khóa nhập thất của thày trong thể cao của họ mà vẫn dính mắc vào tiêu chuẩn của mình và nhất định áp đặt tiêu chuẩn này lên thày. Khi họ thấy thày không chịu tuân theo tiêu chuẩn thì họ suy luận ngay thày là một thày giả hay thày tu không đủ cao để dạy họ, và do đó họ giận dữ bỏ đi.

Các vị đó nghĩ họ từ bỏ thày là hoàn toàn chính đáng, tuy rằng họ từ bỏ thày dựa trên một ảo tưởng, trong khi thày thực sự là thật vì thày đã thăng vượt tư duy sa ngã. Tư duy này đã giam các đệ tử đó đến độ họ không nhận ra là thày cho họ một khung tham chiếu vượt lên trên tư duy sa ngã. Họ còn không nhận ra rằng họ cần vươn ra ngoài hộp tư duy đóng kín của tâm họ. Họ không thấy được giá trị của một vị thày có thể cống hiến một khung tham chiếu vượt lên trên tư duy sa ngã. Vì họ chỉ muốn tìm một vị thày công nhận tiêu chuẩn dựa trên tâm thức rắn.

9.2. Sử dụng khả năng lý luận

Các con có thấy chăng là thày không thể giúp các đệ tử đó? Đó là lý do vì sao điều đầu tiên mà thày muốn giảng trong bài này là nếu con muốn trở thành người mà chân sư thăng thiên có thể dạy được, thì con phải sẵn sàng dùng khả năng lý luận của mình ở bất kỳ tầng tâm thức nào. Con cần dùng khả năng lý luận để nhận ra một điều giản dị: là mức nhận biết hiện nay của con tạo thành cái hộp chung quanh tâm con, một hộp tư duy. Cách duy nhất để vượt quá tầng tâm thức hiện nay và lên tầng kế tiếp là con với tới cái gì bên ngoài hộp tư duy hiện nay của mình. Bất kỳ ai đã vươn lên tầng tâm thức cao hơn trong quá khứ đều đã dùng cách này. Bất kỳ ai có thể vươn lên tầng tâm thức cao hơn trong tương lai sẽ phải dùng cách này. Không ai có thể gian lận được.

Con có nhận ra rằng đây là một bài học của khoa học về các luật thiên nhiên? Không ai có thể gian lận luật trọng lực. Nếu con đứng trên một tòa nhà cao hay một vách đá cao và bước ra ngoài thì con sẽ rơi xuống. Con cần bước ra ngoài một tòa nhà cao bao nhiêu lần để chấp nhận là trọng lực sẽ biến con thành một vết đỏ trên sàn đất dưới kia? Con cần phải trải qua bao nhiêu kiếp bị giam trong một hộp tư duy để nhận ra rằng con đường giả đưa tới cứu rỗi mà các thày giả hứa hẹn sẽ không tự động đưa con lên thiên đàng sau kiếp này?

Điều thày muốn nói là: bất kể con đang ở tầng tâm thức nào, con có khả năng lý luận để nhận ra là nó tạo thành một hệ thống đóng kín – một hộp tư duy đóng kín – và cách duy nhất để vươn lên tầng kế tiếp là tìm một vị thày có thể cho con một cái gì bên ngoài hộp tư duy, ngoài tầng tâm thức hiện tại của con. Lúc đó, nếu con nắm lấy sợi dây cứu sống đó, con có thể dùng nó để kéo mình lên tầng trên của đường tâm linh.

Con có thấy chăng, khi con đang ở dưới tầng tâm thức 48, thì tầng tâm thức hiện nay của con giống như cát lún, và con càng vùng vẫy thì càng lún nhanh hơn. Chỉ có một cách thoát là ngừng vùng vẫy và để tâm lắng yên xuống, nhờ vậy con có thể thấy có người đang cho con một sợi dây. Khi con nắm sợi dây này, con có điểm neo vững chắc giúp con tự kéo mình lên.

Thày muốn con dùng khả năng lý luận để nhận ra thày là một vị thày thật. Thày đang cho con một sợi dây. Nhưng nếu con cho phép mình dính mắc vào một tiêu chuẩn giả hay một giáo lý giả khiến con không chấp nhận thày hay một số khía cạnh giáo lý của thày, thì dĩ nhiên là thày không giúp con được. Thày sẽ phải giản dị tôn trọng Luật Tự quyết, là điều thày sẵn sàng làm với tất cả lòng yêu thương, và để con buông sợi dây và do đó rơi trở lại vào cát lún của tầng tâm thức hiện nay của con.

Tuy nhiên, thày có tình thương vô điều kiện – vì thày đã thăng vượt tất cả điều kiện. Do đó, dù con chối bỏ thày, thày vẫn sẽ luôn luôn có mặt khi con muốn trở lại và xin thày giúp. Vậy, cho những ai chịu dùng khả năng lý luận của mình để nhận ra là Chân sư MORE đang cho họ một cái gì vượt lên trên hộp tư duy của họ, chúng ta hãy xem làm sao tận dụng những gì thày cống hiến.

9.3. Phản ứng cao và phản ứng thấp

Để bắt đầu, con hãy nhận ra rằng khi con nhận lời hướng dẫn từ một vị thày tâm linh, trong con sẽ có hai phản ứng. Con có thể tự hỏi tại sao như vậy, nhưng nếu con dùng lý luận thì con sẽ nhận ra rằng cho tới khi con thăng thiên, trong con luôn luôn có một sự phân chia. Vì có một yếu tố nào đó – mà ta có thể gọi là tự ngã hay tâm thức con người – giữ con hiện thân trên trái đất.

Như thày đã giảng, trái đất là một hành tinh rất dày đặc. Có rất nhiều hành tinh trong vũ trụ ở tầng tâm thức cao hơn trái đất. Con yêu dấu, trái đất là một hành tinh rất dày đặc. Có nghĩa là ngày nào con còn hiện thân ở đây, phải có một yếu tố nào đó của tâm thức con người giữ con trong thân thể vật lý này.

Nếu con buông bỏ tất cả trong một khoảnh khắc, con sẽ giản dị không giữ nổi chú tâm vào thân thể nữa, và do đó con sẽ thăng thiên và bỏ lại tấm thân. Điều thày muốn nói là: bất kể tầng tâm thức của con, khi con nhận lời hướng dẫn từ tầng tâm thức kế tiếp, trong con sẽ luôn luôn có hai phản ứng. Một là phản ứng cao, khao khát cái gì hơn nữa, cao hơn tầng tâm thức hiện nay. Thứ hai là phản ứng thấp, muốn chối bỏ cái cao hơn để biện minh tại sao nên bám víu vào tầng tâm thức hiện nay, cách nhìn cuộc đời hiện nay, cách nhìn con đường tâm linh hiện nay.

Bất kể tầng tâm thức của con, con chỉ cần giản dị dùng khả năng lý luận mà con sẵn có để nhận ra điều này. Như thày có nói nhiều lần, con có thể học cách hòa điệu với trái tim của con, nhưng con cũng có thể hòa điệu với khía cạnh khác của con người con, kể cả các luân xa khác. Lúc đó, con học cách phân biện phản ứng nâng con lên và phản ứng chống lại lời hướng dẫn của thày. Có một phản ứng muốn nhập một với vị thày, và có phản ứng muốn chối bỏ, tránh xa và lẩn trốn vị thày. Phản ứng này sẽ muốn biện minh tại sao con tiếp tục tránh xa vị thày thay vì chấp nhận lời hướng dẫn và dùng nó để thăng vượt tầng tâm thức hiện nay của con.

9.4. Phản ứng chối bỏ vị thày

Chúng ta hãy xem xét phản ứng chối bỏ vị thày và lời hướng dẫn của thày. Phản ứng này dựa vào đâu? Nó luôn luôn dựa trên một tiêu chuẩn mà con đã chấp nhận với tâm vỏ ngoài, và tiêu chuẩn này luôn luôn – con yêu dấu, luôn luôn – do tâm rắn thiết kế.

Thày đang cố ý khiến con bị chấn động vì thày muốn con có cơ hội cảm thấy hai phản ứng trong con khi nghe lời khẳng định này. Bất kể tiêu chuẩn nào con đã chấp nhận trên trái đất, tiêu chuẩn này luôn luôn dựa trên hay bị ảnh hưởng bởi tâm rắn.

Thày biết rằng khi các đệ tử lần đầu tới khóa nhập thất của thày, họ khó chấp nhận được điều này. Thày đã rất nhiều lần thấy đệ tử đến với một tiêu chuẩn mà họ tin có giá trị và có thẩm quyền tối hậu – và họ chờ đợi thày tuân theo tiêu chuẩn này hay xác nhận nó có giá trị. Nhưng con có thấy chăng, nếu tiêu chuẩn của con có thể đưa con lên thiên đàng, thì con đâu cần thày hướng dẫn, phải không con?

Do đó, thày biết rằng, vì con đã tới khóa nhập thất của thày, con chưa sẵn sàng để lên thiên đàng. Sự kiện con tới khóa nhập thất của thày cho thấy tiêu chuẩn của con sẽ không đưa con lên thiên đàng được. Do đó, thày không thể giúp con vươn lên tầng tâm thức cao hơn bằng cách xác nhận hay tuân theo tiêu chuẩn của con. Thày phải chất vấn tiêu chuẩn của con nếu thày muốn giúp con.

Con có thấy điều này chăng? Một lần nữa, con chỉ cần sử dụng khá năng lý luận của con. Không một vị thày nào có thể giúp con vươn lên tầng cao hơn bằng cách xác nhận tiêu chuẩn mà con có ở tầng tâm thức hiện nay của con. Chuyện thật giản dị như vậy.

9.5. Một tiêu chuẩn tôn giáo hay tâm linh

Thày muốn nói rõ là đa số đệ tử tới khóa nhập thất của thày đã tham gia vào một phong trào hay tổ chức tôn giáo hay tâm linh. Đa số đã dùng phong trào và giáo lý để xây dựng một tiêu chuẩn và dùng nó để đánh giá hành động và nỗ lực sáng tạo của mình. Trong quá khứ, các thày đã truyền giáo lý qua một số sứ giả và đã công khai giới thiệu mình là chân sư thăng thiên. Có lúc, các thày đã quy định một số luật lệ cấm hay cho phép đệ tử làm một số điều. Trong một số trường hợp, các thày đã quy định nhiều luật lệ đến độ không thể nào áp dụng hết được. Mục đích các thày rất giản dị: nếu con người không chịu nghe lời hướng dẫn nội tâm, nếu họ không chịu buông bỏ dính mắc vào tiêu chuẩn vỏ ngoài, thì làm sao các thày giúp họ được?

Các con có thấy chăng một kết quả điển hình của tiêu chuẩn vỏ ngoài là con muốn có quy luật cho mọi thứ. Con muốn có một quy luật và khi con tuân theo quy luật, con là người tốt và Thượng đế phải nhận con vào thiên đàng. Những ai không tuân theo quy luật sẽ bị kết án khổ hình vĩnh viễn trong địa ngục. Đây là một lập luận nhị phân đơn giản. Có hay không. Tốt hay xấu. Bật hoặc tắt. Và đây là tâm nhị nguyên. Các thày phải làm gì, khi có đệ tử muốn có luật lệ để họ nghĩ rằng, nếu họ tuân theo hết các quy luật trên trái đất, thì họ sẽ tự động hội đủ điều kiện để thăng thiên? Các thày có thể làm gì để giúp người đệ tử vượt lên trên tư duy đó? Các thày có thể giảng về đề tài này, nhưng nếu đệ tử không chịu nghe thì các thày phải làm gì? Chọn lựa duy nhất của các thày là tạo ra nhiều luật lệ đến độ khi người đệ tử muốn thỏa mãn ước muốn có luật lệ thì họ không thể kham nổi. Và nếu họ cố gắng tuân theo tất cả các quy luật, thì họ trở nên tê liệt và không còn nhúc nhích được nữa. Họ thu mình vào một cái hộp quá nhỏ, và đột nhiên nhận ra cái hộp chật hẹp quá, và cái gì đó trong con người họ hét lên xin được thoát khỏi luật lệ.

9.6. Vì sao tự ngã không thể cho con tự do

Các con hãy cho thày giảng một điều bất ngờ. Cái gì trong con hét lên muốn có tự do? Trên trái đất mọi người đồng ý thế nào là người có tự ngã lớn. Con thấy nhiều người có tự ngã lớn làm bất cứ điều gì họ muốn mà không cần biết đến hậu quả trên người khác. Con thấy các nhà độc tài trong lịch sử có quyền lực tuyệt đối. Họ có thể làm bất cứ gì họ muốn, họ có thể giết bất cứ ai cản trở hay chống đối họ – và họ thực sự đã giết hàng triệu người. Con nhìn các chuyện này và có thể nghĩ là họ có quyền tự do, nhưng đây không phải là tự do. Thày sẽ giảng điều này rõ hơn.

Tự ngã không thể cho con tự do. Nếu con nhìn vào tâm lý của các nhà độc tài đó, con sẽ thấy là tuy họ có vẻ có tự do hành động – vì họ có thể làm bất cứ điều gì mà không bị trừng phạt – nhưng họ không thực sự có tự do. Tâm họ không có tự do vì bị đóng khung bởi những quy luật mà họ tạo ra và dùng để phán xét người khác. Con có thể nói là tự ngã muốn làm bất cứ gì nó muốn mà không bị trừng phạt, nhưng tự ngã không thật sự khao khát tự do, vì nó không biết tự do là gì. Và nó sẽ không bao giờ biết được.

Con có thấy chăng, định nghĩa tự do của tự ngã không phải là vượt lên trên quy luật. Tự ngã tìm cách cho mình tự do bằng cách quy định một bộ luật có tiêu chuẩn hai hàng. Một tiêu chuẩn áp dụng cho người khác và tiêu chuẩn kia áp dụng cho tôi, như vậy tôi có thể làm bất cứ điều gì tôi muốn mà không bị trừng phạt nhưng người khác thì không được làm vậy; người khác phải chấp nhận là tôi có quyền làm bất cứ gì tôi muốn.

Con có thấy chăng, một lần nữa, con chỉ cần dùng lý luận để thấy rằng tự ngã có thể có tự do làm gì nó muốn, nhưng tâm nó không có tự do? Vì trong tâm có bộ luật với tiêu chuẩn hai hàng, và con phải tuân theo tiêu chuẩn này để được tự do do tiêu chuẩn quy định. Do đó, tuy tự ngã đã quy định được một tiêu chuẩn cho nó quyền làm dường như bất cứ gì nó muốn, nó vẫn bị mắc kẹt trong tiêu chuẩn. Sẽ có một lúc con cảm thấy bị giam cầm trong chính tiêu chuẩn của mình.

Con có thể thấy điều này trong tâm lý của những người có vẻ đã đạt được quyền lực tuyệt đối trên trái đất. Họ tới chỗ nhận ra họ thực sự bị giam trong hệ thống mà họ đã tạo ra. Vì họ không thể tự cho phép đi ngược lại tiêu chuẩn đã cho họ quyền lực tuyệt đối. Họ không thể cho phép mình biểu lộ nhược điểm, hay nhân tính. Họ phải sống đúng theo hình ảnh lãnh tụ tuyệt đối mà họ đã tạo ra. Và sẽ có lúc họ thức tỉnh và nhận ra họ đã tạo ra một cái lồng bằng vàng cho chính họ, và cái lồng dường như càng ngày càng thu hẹp, và họ không thể nhúc nhích được nữa.

9.7. Cái gì trong con khao khát tự do?

Cái gì trong con thật sự khao khát tự do? Đó là cái mà các thày gọi là cái Ta Biết vì nó là một nối dài của Hiện diện TA LÀ của con. Nó là Tánh linh (Spirit), và Tánh linh luôn luôn cảm thấy bị giam hãm khi nó phải quy thuận vật chất. Không thể có cách nào khác. Vì sao vậy? Vì Tánh linh có tự do sáng tạo.

Tự do sáng tạo không phải là tự do làm bất cứ gì con muốn dựa trên một bộ luật được quy định trong thế giới hình tướng. Con có thấy chăng là quy luật được định ra bởi một cái gì có hình tướng, và một khi con chấp nhận chúng là quy luật, con không thể thay đổi hình tướng đó? Hình tướng bị giam trong một khuôn đúc, và khi con còn tin vào quy luật thì con không thể thăng vượt nó. Nhưng Tánh linh không được tạo ra để bị giam trong hình tướng. Tánh linh được tạo ra để sáng tạo hình tướng, và nó luôn luôn tạo hình tướng hơn những gì nó sáng tạo trước đó, bằng cách học hỏi từ những sáng tạo này.

Con có thấy chăng là sự sáng tạo – động lực sáng tạo của Tánh linh – tạo ra hình tướng nhưng nó không bị giam lâu trong hình tướng, mà dùng kinh nghiệm sáng tạo hình tướng đó để tạo ra một hình tướng hơn trước đó? Khi con theo tiến trình này – sáng tạo, học hỏi và sau đó sáng tạo cái hơn nữa – con tăng trưởng sự tự nhận biết của mình. Đây là mục đích sự sống. Đây là cách sự sống tiến bộ: qua tiến trình sáng tạo.

Các thày giả đã khiến con người tin rằng họ phải giết động lực sáng tạo của họ. Khi con tìm cách tuân theo quy luật thì con ngừng sáng tạo. Con không thể nào sáng tạo bằng cách tuân theo quy luật được quy định dựa trên hình tướng vì như vậy con không thể thăng vượt hình tướng. Và làm sao con sáng tạo được nếu con không thăng vượt hình tướng đang hiện hữu? Điều này không thể xảy ra. Đó không phải là sáng tạo

Các thày giả đã tạo ra một tiêu chuẩn giả – một niềm tin giả – cho rằng nếu con muốn lên thiên đàng thì con phải tuân theo một bộ luật được quy định bởi một thẩm quyền tối hậu, chẳng hạn như vị thượng đế giận dữ ở trên trời, mà ba tôn giáo đơn thần đã tôn vinh từ mấy ngàn năm nay. Khoa học duy vật cũng đề cao một hình ảnh tương tự khi chủ trương có những quy luật thiên nhiên bất biến.

Đúng thực là có quy luật thiên nhiên. Đấng Sáng tạo đã sử dụng một số nguyên tắc sáng tạo. Nhưng con có thể học cách sử dụng những nguyên tắc này một cách càng ngày càng sáng tạo hơn để nâng cao toàn thể. Đây là sáng tạo, trong khi định nghĩa quy luật thiên nhiên và quy luật Thượng đế như một chiếc áo khóa tay giam chặt sự sáng tạo, thì không phải là sáng tạo. Đây là tâm thức chết mà Giê-su đã nói tới. Nó không phải là tâm thức Sống, tâm thức Ki-tô tìm cách nâng cao mọi sự sống.

9.8. Sử dụng quy luật thiên nhiên một cách sáng tạo

Làm sao con nâng cao mọi sự sống? Con hãy nhìn vấn đề với lý luận đường thẳng. Ta hãy lấy thí dụ vấn đề nghèo đói trên trái đất. Nếu con dùng lý luận đường thẳng, phiến diện thì con có thể nói có nghèo đói vì thiếu tiền. Do đó, nếu có thêm tiền thì mọi người sẽ có đủ tiền để mua những gì họ cần. Nhưng làm sao gia tăng số lượng tiền tệ? Con có thể làm chuyện này một cách giả tạo, như một số quốc gia và cơ quan đã định làm. Nhưng hậu quả không tránh được là cái được gọi là lạm phát, và giá trị đồng tiền sẽ giảm đi. Do đó, tuy con có thêm tiền, nhưng con không thể mua thêm hàng hóa với tiền đó.

Đâu là cách đúng để giải quyết nạn nghèo đói? Giải pháp đúng là gia tăng sự dồi dào trên trái đất. Nhưng dồi dào không phải là tiền. Sự dồi dào không có được bằng cách in thêm tiền. Sự dồi dào có được nhờ óc sáng tạo, nhờ đó con học cách sử dụng tài nguyên thiên nhiên và quy luật thiên nhiên tốt hơn.

Ở đầu bài thày có đề cập tới quy luật trọng lực và nói rằng nếu con từ trên một tòa nhà cao bước ra ngoài khoảng không thì con sẽ rơi xuống đất. Và điều này đúng. Con thấy là trong mấy ngàn năm, con người nghĩ rằng bay như chim là điều không tưởng. Nhưng con cũng thấy là con người đã học cách sử dụng quy luật thiên nhiên để vô hiệu hóa trọng lực, và do đó con có thể dùng máy bay để bay trong không khí. Và con thấy là phát minh sáng tạo này – cách sử dụng quy luật thiên nhiên một cách sáng tạo – đã mở ra cả một nên công nghệ tạo nên sự giàu có, sự dồi dào.

Thành quả trên được thành hình nhờ áp dụng quy luật thiên nhiên một cách sáng tạo, chứ không phải bằng cách mù quáng tuân theo luật lệ. Vì nếu không ai dám nghĩ một cách sáng tạo thì con người sẽ vẫn chỉ đi bộ dưới đất, và thèm thuồng ngẩng nhìn chim bay, nghĩ rằng bay trên trời là một giấc mơ ngoài tầm với.

9.9. Tách sáng tạo khỏi kết quả vật lý

Con yêu dấu, khi đệ tử lần đầu tới khóa nhập thất của thày, thì thách đố lớn nhất của thày là đưa họ tới chỗ chấp nhận để thày dẫn họ vượt lên trên tiêu chuẩn hiện nay của họ. Vì con có thấy chăng là tiêu chuẩn mà con đã chấp nhận trên trái đất này chỉ có một mục đích duy nhất, đó là giới hạn sự sáng tạo của con để con không dùng sự sáng tạo của mình để vươn lên tầng tâm thức cao hơn?

Con yêu dấu, điều quan trọng không phải là con dùng khả năng sáng tạo để tạo ra kết quả nào đó trên trái đất. Các thày là chân sư thăng thiên quả thật có ý muốn giúp con người dùng óc sáng tạo để nâng xã hội lên cao hơn, như các thày đã từng làm qua khoa học kỹ thuật và một số cách khác. Nhưng quan tâm chính của các thày, như thày đã có nói, không phải là kết quả vỏ ngoài. Quan tâm chính của các thày là con học cách sử dụng khả năng sáng tạo để vươn lên tầng tâm thức kế tiếp. Các thày không có mục đích thay đổi chuyện vỏ ngoài. Các thày muốn con thay đổi ý niệm bản ngã vì chỉ khi nào con thay đổi ý niệm bản ngã, con mới từ tầng tâm thức 49 vươn lên tầng 50 được.

Con có thấy điều này chăng? Con không cần tạo ra kết quả vỏ ngoài nào cả để vươn lên tầng cao hơn. Nhưng con có cần thay đổi ý niệm bản ngã của mình. Con không thể làm điều này bằng cách tuân theo quy luật của tiêu chuẩn hiện nay của con, vì tiêu chuẩn này sẽ giữ ý niệm bản ngã của con ở cùng tầng tâm thức. Do đó, cách duy nhất để tái tạo ý niệm bản ngã của con là sử dụng khả năng sáng tạo của mình.

Khi đệ tử lần đầu tới khóa nhập thất của thày, công việc đầu của thày là khiến họ bỏ qua một bên tiêu chuẩn của họ – những quy luật của họ – để nối kết lại với khả năng sáng tạo của mình. Thày có thể bảo đảm với con là không ai trên trái đất hoàn toàn nối kết với khả năng sáng tạo của mình. Và chắc chắn là không có một đệ tử nào tới khóa nhập thất của thày mà nhận biết hoàn toàn khả năng sáng tạo của mình. Do đó, công việc của thày là giúp đệ tử bắt đầu nối kết với khả năng sáng tạo của họ để hiểu rằng có cái gì cao hơn tầng tâm thức hiện nay của họ, và họ có tiềm năng vươn lên tầng này. Không phải do thày làm thay họ, nhưng bằng cách họ dùng khả năng sẵn có trong họ, khả năng sáng tạo của chính họ.

Con có thấy chăng là có nhiều người tâm linh hay ngoan đạo đã chấp nhận một tiêu chuẩn cho rằng họ cần một vị thày hay một vị cứu tinh bên ngoài làm điều gì đó giúp họ? Do đó, họ đã tới khóa nhập thất của thày, và nghĩ rằng thày, Chân sư MORE, sẽ cho họ một liều thần dược hay một công thức thần diệu giúp họ đột nhiên lên tầng tâm thức cao hơn.

9.10. Chôn khả năng xuống đất

Có một điểm vi tế mà con có thể nhận ra bằng cách dùng khả năng lý luận của con. Vì quả thực là con cần một cái gì bên ngoài tầng tâm thức hiện nay của con. Con cần sợi dây treo từ trên xuống mà con có thể nắm và kéo mình ra khỏi bãi cát lún. Do đó, đúng là con cần một vị thày ở tầng tâm thức cao hơn con, có thể cho con một khung tham chiếu cao hơn tầng tâm thức hiện nay của con. Nhưng điều này không có nghĩa là vị thày sẽ làm công việc hộ con. Vị thày sẽ cho con điều con cần, nhưng con phải thể nhập nó. Như Giê-su có giảng trong bài ẩn dụ, con phải tăng trưởng các đồng tiền mà con nhận được thay vì chôn nó xuống đất.

Chôn đồng tiền xuống đất có nghĩa gì? Nó có nghĩa lấy giáo lý mà thày dạy con rồi ép nó phải thuận theo tiêu chuẩn hiện nay của con, những quy luật hiện nay của con. Qua đó, con sẽ biến giáo lý của thày thành một quy luật khác, nghĩ rằng nếu con làm điều này và tránh làm điều kia, thì chắc chắn con sẽ lên tầng cao hơn.

Nhưng con có thấy chăng, thày không dạy con giáo lý để con biến nó thành một quy luật. Thày dạy con giáo lý để chất vấn một quy luật nào đó và giải thoát khả năng sáng tạo của con. Con sẽ không lên thiên đường bằng cách tuân theo quy luật – đây là một hiểu lầm tai hại của đa số tôn giáo cũng như là một số giáo lý tâm linh. Con chỉ lên được thiên đường bằng cách đồng-sáng tạo một ý niệm bản ngã cao hơn và bỏ đi hồn ma cuối cùng của tự ngã đang trói buộc con vào thân thể vật lý.

9.11. Phương trình tình thương và sợ hãi 

Con hãy để thày cho con một cách nhìn khác. Ở phần trên thày có nói tới các nhà độc tài có quyền lực tuyệt đối và trên mặt hành động, có thể làm bất cứ gì họ muốn. Nhưng nếu con theo lời dạy của Giê-su: “Hãy làm cho người khác những gì con muốn họ làm cho mình”, thì ý nghĩa sâu của lời giảng này là gì? Ý nghĩa sâu của nguyên tắc này là gì? Ý nghĩa giản dị là: những gì con làm cho người khác, con đã làm cho chính mình trong tâm thức mình.

Làm sao con có thể ép buộc một người khác? Con chỉ có thể ép buộc người khác khi con đã ép buộc mình phải tuân theo một tiêu chuẩn trong tâm mình. Do đó, con có thấy chăng là một nhà độc tài không thể nô lệ hóa người khác mà không tự nô lệ hóa mình. Y có thể không bị nô lệ trên mặt vật lý, như những người dân, nhưng y bị nô lệ một cách dũng mãnh hơn nhiều, vì y bị nô lệ trong ba tầng cao của tâm. Y bị nô lệ trong cảm xúc, tư tưởng, và ý niệm bản ngã.

Thày có thể nói với con là nô lệ tinh thần mãnh liệt hơn nô lệ thể xác. Vì khi con bị nô lệ thể xác, con biết con đang bị nô lệ và con ao ước được tự do. Nhưng khi tâm con bị nô lệ, con bị tiêu chuẩn làm mù quáng đến độ không biết có một cách sống khác, bên ngoài tiêu chuẩn. Do đó con không ao ước tự do một cách ý thức, tuy rằng có một phần của con ao ước tự do. Cuối cùng thì con có thể hòa điệu với phần này của con, và nhận ra rằng con là Tánh linh đang bị giam trong tâm phàm. Sau đó, con có thể hòa điệu với Tánh linh.

Thày sẽ cho con một tiêu chuẩn giản dị. Thày có nói về việc hòa điệu với trái tim và nhận ra là một chuyện gì đó nâng năng lượng lên hay hạ năng lượng xuống. Nay thày thêm một khía cạnh nữa. Năng lượng lên hay xuống thực sự có nghĩa gì? Cái nâng năng lượng là tình thương, cái hạ năng lượng là sợ hãi.

Do đó, con có một thước đo giản dị để đánh giá mọi chuyện trong cuộc đời. Con hãy nhìn lại chính mình và xem con nhìn đời như thế nào; con cảm thấy gì trước một số hoàn cảnh trong cuộc đời. Con hãy nhận ra bất kỳ điều kiện nào hạn chế con đều có một nguyên nhân. Con quen nghĩ rằng điều kiện bên ngoài là nguyên nhân và cảm nhận bên trong là hậu quả. Nhưng, như các thày đã cố giảng nhiều lần, sự thực ngược lại. Chính cảm nhận bên trong là nguyên nhân nguyên thủy và điều kiện bên ngoài chỉ giản dị là hình ảnh phóng chiếu của cái gì xảy ra trong tâm thức.

Điều khó khăn là con không có ý thức những gì xảy ra ở các tầng xúc cảm, lý trí và bản sắc của tâm, vì vậy con không thấy được là tâm thái nơi ba tầng cao của tâm đã tạo ra hoàn cảnh bên ngoài. Do đó, con không thấy rằng khi con phản ứng lại hoàn cảnh bên ngoài, con đang phản ứng lại cái gì con đã tạo ra. Cái tiêu chuẩn – và thày dùng chữ “tiêu chuẩn” để làm con giật mình, vì nay thày muốn con phận biệt tiêu chuẩn thấp, vỏ ngoài, và cây gậy chỉ đường cao, tuyệt đối – mà thày muốn con chấp nhận là bất kỳ cái gì hạn chế con đều do con tạo ra khi con sử dụng khả năng sáng tạo qua sự sợ hãi.

Con thực sự có nhiều cách biểu lộ khả năng sáng tạo. Nhưng ngoài các hình thức biểu lộ cá biệt, thì đặc tính chung là: con đang biểu lộ khả năng sáng tạo với thái độ thương yêu hay với thái độ sợ hãi? Con có thấy chăng, khi con nhìn vào hình thức cá biệt thì có thể kết quả bên ngoài không khác nhau mấy. Tỷ dụ, con có thể nhìn hai người vẽ tranh và không thấy khác biệt trong cách họ vẽ, nhưng một người đang vẽ trong trạng thái sợ hãi trong khi người kia thì vẽ trong trạng thái thương yêu. Tất cả mọi sinh hoạt trên trái đất đều như thế.

Khi con bắt đầu hòa điệu với đề tài này thì con sẽ thấy là có nhiều sinh hoạt trên trái đất bắt nguồn từ sợ hãi. Và con có thể phân biện điều này bằng cách tự hỏi: “Chuyện này nâng năng lượng của tôi lên hay hạ năng lượng xuống?” Khi con nhìn một sinh hoạt trên trái đất thì con biết, con cảm nhận, là nó đang hạ năng lượng của con xuống. Sau đó, con có thể lý luận là sinh hoạt đó dựa trên sợ hãi.

9.12. Sáng tạo vượt lên trên sợ hãi

Đây là bước tới mà con cần thấy. Sợ hãi là bạn đồng hành không thể tránh của việc áp dụng một tiêu chuẩn khi con dùng khả năng sáng tạo của mình. Ngay lúc con chấp nhận tiêu chuẩn, với cái nhìn nhị nguyên, con lượng định xem mình đang tuân thủ hay vi phạm tiêu chuẩn. Tác dụng chung là tạo nơi con nỗi sợ không thể tránh, sợ vi phạm tiêu chuẩn và sợ những hậu quả nghiêm trọng quy định bởi tiêu chuẩn. Vì tiêu chuẩn không chỉ nói: “Làm điều này, đừng làm điều kia.” Tiêu chuẩn luôn luôn có hai mặt: phần thưởng khi tuân theo nó và hình phạt khi vi phạm nó.

Con yêu dấu, con có thấy chăng? Trong kịch bản lý tưởng, khi một dòng sống mới xuống đầu thai, thì không có tiêu chuẩn nhị nguyên. Dòng sống được quyền tự do tuyệt đối làm gì nó muốn, sau đó nó được sự hướng dẫn và tình thương của một chân sư thăng thiên giúp nó thấy hậu quả của hành động, nỗ lực sáng tạo, của nó. Sau đó nó đánh giá những hậu quả này và nói: “Tôi không muốn cái này, tôi muốn cái kia nhiều hơn.” Và nó điều chỉnh cách nó sử dụng khả năng sáng tạo. Trong tiến trình này không có sợ hãi. Làm sao lại có sợ hãi khi mình biết mình có thể thăng vượt bất kỳ quyết định nào trước đó của mình? Con hãy nghe câu này một lần nữa: “Làm sao lại có sợ hãi khi mình biết mình có thể thăng vượt bất kỳ quyết định nào trước đó của mình và thay bằng một quyết định tốt hơn?

Đây là chuyện xảy ra trong Trường Bí giáo. Đây là chuyện xảy ra khi con đi theo con Đường Bảy Tia sáng mà không có tiêu chuẩn giả của các thày giả. Con có thể đi từ tầng 48 lên tầng 96 mà không sợ hãi. Dĩ nhiên là chúng ta không có kịch bản lý tưởng trên trái đất, do đó con có sợ hãi và con phải đối phó với tiêu chuẩn.

Đó là lý do vì sao, khi đệ tử tới khóa nhập thất của thày, điều đầu tiên thày phải làm là giúp họ chất vấn tiêu chuẩn của họ. Thày phải giúp họ đứng ra ngoài tiêu chuẩn của họ, nhìn nó từ bên ngoài, và nhận ra rằng mặc dù tiêu chuẩn này cho tự ngã họ một số điều thuận lợi – bằng cách khiến tự ngã cảm thấy được an toàn – họ cảm thấy bị giam cầm trong tiêu chuẩn đó. Cái Ta Biết của họ, Tánh linh, cảm thấy bị giam cầm trong tiêu chuẩn đó.

Đó là lúc con bắt đầu thấy là nếu con có thể bỏ lại đằng sau tầng tự ngã đó, con có thể vươn lên một tầng tâm thức mới nơi con thoát khỏi tiêu chuẩn cũ của con. Con có thể vẫn còn một tiêu chuẩn nào đó, nhưng ít ra, con thoát khỏi một số hạn chế đã giam cầm mình.

9.13. Tiêu chuẩn giả nhị nguyên

Con có thấy chăng là tiêu chuẩn của tâm thức nhị nguyên, tâm thức rắn, áp đặt lời dối trá tinh vi là con bị giới hạn – bị giam hãm – bởi các lựa chọn quá khứ của mình. Việc tạo ra một tiêu chuẩn ngụ ý rằng một số chọn lựa của con đã sai lầm theo nghĩa tối hậu. Các chọn lựa này vi phạm tiêu chuẩn, do đó chính việc con dùng quyền tự quyết một cách sáng tạo đã khiến con vi phạm tiêu chuẩn.

Đây là lời dối trá do rắn áp đặt. Do đó, lời hứa ngầm là nếu con ngưng dùng quyền tự quyết của mình một cách sáng tạo – và thay vào đó giam quyền tự quyết vào một tiêu chuẩn vỏ ngoài – thì con sẽ được bảo đảm lên thiên đàng. Vì Thượng đế phải chấp nhận con khi con sống theo tiêu chuẩn do rắn quy định trên trái đất.

Đây là lời dối trá tiềm ẩn đằng sau con đường giả. Họ nói: Bạn sai lầm – bạn đã phạm một lỗi lầm – khi bạn dùng khả năng sáng tạo của mình. Do đó, cách duy nhất tránh xuống địa ngục là ngừng sáng tạo và làm theo quy luật sẽ đưa bạn lên thiên đàng. Nhưng con yêu dấu, con có thấy đây là lời dối trá chăng?

Con có bắt đầu thoáng thấy chăng là toàn bộ mục đích cuộc đời là để con học cách dùng khả năng sáng tạo của mình để tự thăng vượt liên tục và trở nên hơn nữa? Con có thấy chăng là rắn nói là con không thể tự thăng vượt, con không thể thăng vượt chọn lựa cũ của mình? Do đó, rắn nói rằng con có thể vào thiên đàng bằng cách tuân theo quy luật thay vì thăng vượt ý niệm bản ngã của mình. Rắn nói rằng con có thể kiện toàn ý niệm bản ngã hiện nay của mình bằng cách tuân theo quy luật vỏ ngoài.

Cách duy nhất để vào thiên đàng là thăng vượt ý niệm bản ngã hiện nay của mình, và cách duy nhất để thăng vượt ý niệm bản ngã hiện nay của mình là dùng khả năng sáng tạo để tái tạo một ý niệm bản ngã mới, một ý niệm bản ngã cao hơn. Con làm điều này bằng cách học hỏi từ chọn lựa quá khứ và sau đó chọn lựa tốt hơn. Con không làm điều này bằng cách từ chối chọn lựa, từ chối học hỏi, hay nghĩ rằng con có thể tuân theo một tiêu chuẩn vỏ ngoài. Con có thể dùng lý luận để hiểu ra sự thực này. Thày nói với con một cách cả quyết tuyệt đối. Thày là Chân sư MORE. Thày đã thấy hàng triệu đệ tử tới khóa nhập thất của thày. Và thày biết là con không thể tới khóa nhập thất của thày nếu con không có khả năng lý luận mà thày đề cập. Do đó, con có thể bắt đầu tiến trình thay đổi toàn diện cái nhìn của mình về cuộc đời và nhận ra con không tăng triển – con không lên thiên đàng, con không thăng thiên – bằng sợ hãi, mà chỉ tăng triển bằng tình thương. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên của con – nhiệm vụ chính yếu của con – lúc này là giải thoát khả năng sáng tạo của mình để con có thể sử dụng nó trong tình thương thay vì sợ hãi.

9.14. Sáng tạo trong tình thương 

Tiêu chuẩn vỏ ngoài đã khiến rất nhiều người sử dụng khả năng sáng tạo của họ trong sợ hãi vì lúc nào họ cũng phản ứng lại tiêu chuẩn. Họ tìm cách né tránh điều gì hoặc bù đắp cho một hành động quá khứ.

Nhưng con không cần bù đắp cho những chọn lựa quá khứ. Con cần học hỏi từ những chọn lựa này và thăng vượt tầng tâm thức lúc ấy. Có gì cần bù đắp đâu trong bãi chơi cát trên trái đất? Con cần thăng vượt ý niệm bản ngã thay vì tiếp tục đồng-sáng tạo qua bản ngã đó. Đây là điều một đệ tử tâm linh cần làm.

Một lần nữa, con hãy dùng khả năng cảm nhận điều gì nâng cao hay hạ thấp năng lượng. Con hãy bắt đầu áp dụng nó vào cách con nhìn cuộc đời và tiêu chuẩn của con. Và con hãy nhận ra là tiêu chuẩn của mình – ít ra là một số khía cạnh của nó mà con có thể thấy – dựa trên sợ hãi. Con hãy bắt đầu xem xét con sợ điều gì. Con hãy tiếp cận nỗi sợ này. Con hãy cảm nhận là chỉ nghĩ về nó thôi cũng đã hạ năng lượng của mình. Sau đó, con hãy nhận ra là bất kỳ điều gì hạ năng lượng đều đến từ sợ hãi, và bất kỳ điều gì đến từ sợ hãi cản trở, giới hạn, giết chết sự sáng tạo.

Thày là Chân sư MORE, thày là Thượng sư của Tia thứ Nhất. Tia này đã được gọi là tia của uy lực và ý chí, nhưng cái mà con thấy trên trái đất là sự lạm dụng quyền lực dựa trên một tiêu chuẩn, một tiêu chuẩn hai hàng có một bộ luật cho nhóm thượng lưu và một bộ luật cho người thường.

Dĩ nhiên là cũng có khái niệm ý muốn của Thượng đế, mà nhiều người cho là cái áo khoá tay. Vì khi con tuân theo ý muốn của Thượng đế, con phải từ bỏ quyền tự quyết của mình. Nhưng con yêu dấu, ý muốn của Thượng đế là con có quyền tự quyết! Quyền này được cho không! Thượng đế cho con quyền tự quyết và ý muốn của Thượng đế là con được tự do dùng nó.

Nhưng thực thi quyền tự quyết có nghĩa giản dị là con nhìn vào kết quả của lựa chọn quá khứ của mình. Và sau đó con đánh giá: Tôi muốn nhiều thêm kết quả này hay tôi muốn điều gì cao hơn kết quả này? Và nếu con muốn điều gì cao hơn, thì con dùng chọn lựa quá khứ của mình để học hỏi cách tái tạo chính mình và đồng-sáng tạo cái hơn nữa. Đây là cách con dần dần nâng cao quyền tự quyết của mình để nó thực sự tự do. Vì con biết bất kể điều gì con đã chọn trước đây, con có thể thăng vượt mức tâm thức đó và chọn cái gì cao hơn. Con không bị ràng buộc bởi chọn lựa quá khứ của mình. Con không bị ràng buộc bởi quy luật. Con không bị ràng buộc bởi một tiêu chuẩn vỏ ngoài trên trái đất.

Thày mong rằng khi con học xong các bài giảng này, con sẽ bắt đầu hiểu quyền tự quyết là gì. Bây giờ thì thày đã cho con đủ và có thể quá những gì con hấp thụ được, do đó thày sẽ niêm bài giảng này cho tới khi thày dạy bài tới. Ngay bây giờ thì con hãy xem xét các nỗi sợ của mình, và nhận ra rằng chìa khóa để tiến bộ trên con đường tâm linh là tránh xa sợ hãi và tiến vào tình thương. Không thể có cách nào khác hơn. Vì phải chăng là Giê-su đã nói là quy luật quan trọng nhất là yêu Thượng đế với tất cả trí óc, trái tim và linh hồn? Và làm sao con có thể yêu Thượng đế nếu con nghĩ đây là một bạo chúa chỉ muốn hạn chế ý chí mà y đã ban cho con?

Con không thể thương yêu một thượng đế mà con sợ. Con chỉ có thể yêu Thượng đế bằng cách thăng vượt và tới chỗ trong tâm thức con chỉ còn tình thương. Vì ông hoàng của thế gian sẽ tới và sẽ không tìm ra nỗi sợ nào trong con khiến y có thể nắm lấy và bắt con phải tuân theo tiêu chuẩn của rắn. Vì con chỉ có tình thương của sự hiểu biết là con có thể thăng vượt mọi chọn lựa quá khứ. Và do đó con có tự do – lúc nào cũng tự do là hơn nữa.

Uy lực và minh triết

Bài giảng của chân sư thăng thiên More qua trung gian Kim Michaels, ngày 3/2/2013.

TA LÀ Chân sư MORE. Và thày là chân sư của uy lực. Do đó, trong bài giảng này, thày sẽ nói về cách sử dụng uy lực và cách sử dụng uy lực đúng. Khó khăn mà con gặp phải là trong cuộc sống trên trái đất này, con đã gặp nhiều trường hợp lạm dụng uy lực và rất ít khi thấy uy lực sử dụng đúng. Do đó, con đã tới chỗ chấp nhận khung tham chiếu giả cho rằng trên trái đất này, sự thành công hay uy lực được đánh giá qua kết quả hay hậu quả vật lý mà nó tạo ra.

Người ta cho rằng người có uy lực là người làm được việc, bất kể những tổn hại và hậu quả khác trên người khác. Tỷ dụ, con có thể coi một vị tướng đánh bại quân địch là người có uy lực, tuy nhiều người bị thiệt mạng hay chịu đau khổ. Hay con cũng có thể coi một nguyên thủ quốc gia thực hiện được một số chuyện vỏ ngoài là có uy lực, nhưng không biết cái giá mà người dân nước đó hay nước khác phải trả.

Con biết chăng, thày là Thượng sư của Uy lực nhưng thày không đánh giá uy lực dựa trên kết quả vật lý trên trái đất. Đối với thày, kết quả vật lý không quan trọng chút nào. Câu này có thể khiến nhiều đệ tử tâm linh kinh ngạc. Đó là vì họ nhìn Tia thứ Nhất của uy lực xuyên qua phin lọc của tiêu chuẩn thế gian, tiêu chuẩn giả về uy lực.

7.1. Mục đích cuộc đời là sự tăng triển của con 

Các thày đã nói điều gì nhiều lần? Vũ trụ vật chất là một lớp học, một môi trường học hỏi. Vũ trụ là một tấm gương toàn vũ. Những gì con phóng ra ngoài sẽ được phản chiếu lại dưới dạng hoàn cảnh vật lý. Nhưng tại sao lại phản chiếu lại con những gì con phóng ra? Mục đích giản dị là để phơi bày một cách không thể chối cãi những gì con không thấy được trong tiềm thức hay tâm ý thức của mình. Và vì sao vũ trụ lại làm vậy? Vì mục đích cuộc sống là tăng triển tâm thức con người.

Con có thể so sánh với một công nghệ là kính thực tại ảo (virtual reality goggles). Con đeo một cặp kính thực tại ảo vào và không còn thấy căn phòng chung quanh con nữa. Con chỉ còn thấy cái gì được chiếu trước mắt con trên màn ảnh bên trong cặp kính. Cái con thấy không phải là môi trường thực, mà chỉ là một môi trường tạo ra bởi một máy điện toán – tức là một môi trường ảo, giả. Thày có thể bảo đảm với con là nếu con có thể thấy như thày thấy, thì con sẽ thấy môi trường vật lý trên hành tinh trái đất cũng giả như môi trường trong cặp kính thực tại ảo.

7.2. Kết quả vỏ ngoài không có ý nghĩa

Hành tinh trái đất chỉ giản dị là một phóng chiếu của tâm thức. Các thày đã nói về các bầu cõi chưa thăng thiên, nhưng con đang sống trong bầu cõi chưa thăng thiên cuối. Trong một bầu cõi chưa thăng thiên, không có gì thật một cách tối hậu, không có gì trường tồn, vì đây chỉ là một môi trường thử nghiệm. Do vậy, không có gì trường tồn – không có gì trở nên thực tại tối hậu – cho tới khi bầu cõi thăng thiên. Vì con đang sống trong một môi trường không có thực tính tối hậu, thì tại sao thày, hay tất cả các sinh thể thăng thiên khác, lại quan tâm đến kết quả vật lý mà con tạo ra hay không tạo ra? Điều này hoàn toàn vô nghĩa với các thày.

Con có thấy chăng là các thày đã nhất quán giảng là con đường bên ngoài là con đường giả không đưa tới cứu rỗi và con đường bên trong mới là con đường thực? Trong hình thức thô sơ của con đường vỏ ngoài, con nghĩ là con chắc chắn được cứu rỗi vì con là một thành viên của một tôn giáo vỏ ngoài. Trong hình thức tinh vi hơn, con nghĩ là con chắc chắn được cứu rỗi vì con là đệ tử chân sư thăng thiên, đã làm hết những chuyện vỏ ngoài và đạt được một số kết quả vỏ ngoài.

Nhưng các thày đã lặp lại nhiều lần là trạng thái tâm thức của con sẽ quyết định con có được cứu rỗi hay không, con có thăng thiên hay không, con có vào cõi tâm linh hay không. Con sẽ không vào cõi tâm linh cho tới khi con đạt tầng tâm thức 144. Con sẽ không đạt tầng này nếu con nghĩ chỉ cần tạo ra một số kết quả bên ngoài nào đó. Sư thực là con sẽ không từ tầng 48 lên tấng 49 nếu con nghĩ chỉ có kết quả bên ngoài là quan trọng.

7.3. Hậu quả của sự lạm dụng uy lực 

Thày muốn con nhận ra là cách duy nhất để đi xuống thấp hơn tầng tâm thức 48 là con bắt đầu lạm dụng quyền lực. Con bắt đầu lạm dụng quyền lực khi con dùng động lượng của mình, những thành tựu trên bảy tia sáng để khởi lên ý định hung hãn muốn tạo ra một kết quả bên ngoài bằng cách kiểm soát hay áp lực người khác. Đó là cách khiến con đi xuống dưới tầng tâm thức 48.

Dù con sa ngã ở tầng 48 hay cao hơn, thì cách duy nhất khiến tâm thức sa ngã là con dính mắc vào một kết quả bên ngoài nào đó đến độ con sẵn sàng dùng sức mạnh – thày cũng coi lừa dối là dùng sức mạnh – để khiến người khác tuân theo cái nhìn của mình về chuyện gì phải xảy ra hay không xảy ra. Đó là lý do vì sao các sinh thể sa ngã lần đầu ở bầu cõi thứ tư. Đó là lý do vì sao một số tiếp tục sa ngã ở bầu cõi thứ năm, thứ sáu và nay ở bầu cõi thứ bảy này.

Đó là lý do vì sao họ đã lôi kéo được nhiều người đầu thai lần đầu vào bầu cõi thứ bảy bước vào vòng xoáy đi xuống của họ, khiến những người này theo họ vào tâm thức sa ngã.

Bản chất của tâm thức sa ngã là sự lạm dụng quyền lực để khiến người khác dùng quyền tự quyết của họ làm theo cái nhìn của mình – dù rằng đó không phải là cái nhìn của họ. Hoặc con có thể tìm cách ép họ phải chấp nhận cái nhìn của con và bỏ đi cái nhìn của cá tính thiêng liêng của họ. Đó là tâm thức sa ngã. Không có cách nào mô tả nó khác hơn.

7.4. Biết là mình thuộc một tổng thể

Con là một sinh thể cá biệt. Con đã được ban cho quyền tự quyết cá nhân. Con có quyền thử nghiệm quyền tự quyết này và khả năng sáng tạo của mình. Như thày đã giảng trong hai bài đầu, ở tầng 48 con đúng lý phải thử nghiệm khả năng sáng tạo của mình. Nhưng các con có thấy chăng, thử nghiệm quyền năng sáng tạo không có nghĩa là làm bất cứ điều gì mình muốn, vì có một điểm vi tế mà ta phải xem xét.

Con thấy chăng, tuy con là một sinh thể cá biệt có quyền tự quyết, nhưng con không được sinh ra như một sinh thể cá biệt sống một mình trong môi trường. Lúc nào con cũng hiện hữu chung và chia sẻ môi trường với những sinh thể cá biệt có tự nhận biết khác. Do đó, con không bao giờ ở trong hoàn cảnh có thể làm bất cứ cái gì mình muốn mà không cần quan tâm đến hậu quả.

Khi thày nói điều này thì thày biết là những đệ tử đã bị tâm thức nhị nguyên ảnh hưởng quá nhiều sẽ không hiểu ngay được điều thày nói. Vì trong kịch bản lý tưởng, khi một sinh thể lần đầu xuống một hành tinh như trái đất ở tầng tâm thức 48, thì nó là một sinh thể cá biệt, nhưng nó không tự coi nó như là một sinh thể tách biệt. Con biết con liên hệ với cái gì lớn hơn mình. Con biết là có những sinh thể khác trong môi trường, và con cũng cảm thấy mình có liên hệ với họ. Do đó, con là một phần của tổng thể, và bất cứ điều gì con làm ảnh hưởng đến tổng thể – và ngược lại tổng thể cũng ảnh hưởng đến con. Do đó, bất cứ điều gì con làm cũng ảnh hưởng chính mình.

Khi con xuống ở tầng 48, con không thấy điều này hạn chế quyền tự quyết hay quyền năng sáng tạo của mình. Con coi như điều đương nhiên là con sống trong một môi trường và con biểu lộ quyền năng sáng tạo của mình trong môi trường đó – không phải như một sinh thể tách biệt có thể làm bất cứ gì mình muốn. Trong bài giảng trước thày gọi đây là sự ngây thơ thiêng liêng, khiến con có trực giác mình thuộc một tổng thể. Bất cứ điều gì con làm ảnh hưởng đến tổng thể và mỗi người trong tổng thể, kể cả chính mình. Vì con thấy mình là một biểu hiện của tổng thể.

7.5. Nhìn mình như một sinh thể tách biệt

Có một khác biệt căn bản giữa kịch bản lý tưởng và thái độ của các đệ tử khi họ đến khóa nhập thất của thày ở Darjeeling và ghi danh học khai ngộ của Tia thứ Nhất. Vì khi con đầu thai vào một hành tinh như trái đất nơi tâm thức con người đã xuống dưới kịch bản lý tưởng, con không thấy mình là một sinh thể nối kết với sinh thể khác. Con thấy mình là một sinh thể tách biệt. Như một sinh thể tách biệt, con nghĩ con có thể tách nguyên nhân ra khỏi hậu quả. Con nghĩ con có thể hành động mà không ảnh hưởng đến chính mình.

Con nghĩ có thể làm một điều mà con thấy có ảnh hưởng rõ trên người khác và môi trường, nhưng con lại nghĩ nó sẽ không ảnh hưởng đến chính mình. Đây chính là bản chất của ảo tưởng tách biệt. Cái mà các thày gọi là tâm thức nhị nguyên biện minh cho ảo tưởng này, từ đó nó biện minh cho những hành động dựa trên ảo tưởng này. Như thày đã nói trước đây, ảo tưởng là tin rằng mình có quyền áp lực người khác nhân danh một đại nghĩa nào đó – tỷ dụ như cứu rỗi thế giới hay truyền bá một ý thức hệ.

Nhưng con thấy chăng, cái sai lầm trong lý luận này là khái niệm có “người khác”. Vì khi con xuống trong sự ngây thơ thiêng liêng, con không thấy những sinh thể có tự nhận biết khác trong môi trường là người khác, theo nghĩa họ tách biệt với mình. Con thấy mọi người là một phần của tổng thể và con là một phần của tổng thể. Con thấy như điều hiển nhiên là những gì con làm ảnh hưởng đến người khác và tuy con có quyền ảnh hưởng người khác, nhưng con không có quyền áp lực họ.

Khi thày nói “có quyền”, thày muốn nói tới quy luật toàn vũ mà Giê-su đã khai bày: Hãy làm cho người khác những gì con muốn họ làm cho con. Quy luật này giản dị như sau: Cái gì tốt nhất cho con và cho người khác là cái gì tốt nhất cho tổng thể. Tuy nhiên, có khác biệt tinh tế là ở tầng 48 – khi con xuống như một người đồng-sáng tạo mới – con không có kinh nghiệm về quyền năng sáng tạo của mình. Vậy làm sao con có được kinh nghiệm này? Con chỉ có được kinh nghiệm bằng cách thử nghiệm, và đó là lý do vì sao các sinh thể mới đi xuống trong một môi trường được bảo bọc, mà các thày gọi là Trường Bí giáo.

7.6. Mục đích của Trường Bí giáo 

Trường Bí giáo do một vị chân sư thăng thiên giám sát. Chắc con cũng biết là truyền thuyết Vườn Địa đàng trong Sáng-thế Ký (Genesis) là biểu tượng của một Trường Bí giáo. Con chắc cũng biết là Trường Bí giáo được gọi là Địa đàng do một chân sư thăng thiên là thày Maitreya giám sát. Điều thày muốn nói là: trong Trường Bí Giáo, trong môi trường được bảo bọc đó, con có thể làm tuyệt đối bất kỳ điều gì với quyền năng sáng tạo của mình. Con có thể tự do thử nghiệm vì các chân sư giám sát Trường Bí Giáo đã tạo ra một môi trường ảo nằm bên trong môi trường ảo vĩ đại của vũ trụ vật chất.

Trong môi trường đó con có thể làm bất kỳ điều gì con muốn mà không tạo ra hậu quả lâu dài, không tạo ra nghiệp quả lâu dài cho mình. Đó là vì vị chân sư của Trường Bí Giáo cho con một môi trường an toàn giống như một bãi cát nơi đó con có thể làm bất kỳ điều gì con muốn. Con không thể đả thương cát, con không thể đả thương chính mình, con không thể đả thương những trẻ em khác đang chơi trong bãi cát.

Nơi đó con có thể học hỏi mà không tạo hậu quả lâu dài cho chính mình. Con học hỏi mà không tạo nghiệp quả sẽ trở ngược về và đả thương con. Lý do là vì con học dưới sự hướng dẫn trực tiếp của vị thày thăng thiên. Và lý do mà vị thày đó xóa được nghiệp quả mỗi cuối ngày là vì thày giúp con nhìn kết quả của hành động sáng tạo của mình và ngay lúc đó học bài học của ngày sáng tạo đó. Vì một khi con đã học xong bài học, thì đâu có lý do gì nữa để con phải chịu nghiệp quả quay về ám ảnh con? Vì dĩ nhiên mục đích của nghiệp quả, giống như mọi chuyện khác, là giúp con học hỏi.

7.7. Mục đích của nghiệp quả 

Nghiệp quả chỉ cần thiết khi con không chịu nhìn hậu quả của hành động của mình vào cuối ngày học dưới sự hướng dẫn của vị thày. Do đó, con không tạo nghiệp trong Trường Bí giáo. Nhưng một khi các đệ tử quyết định không cho phép vị thày cho xem hậu quả của những nỗ lực sáng tạo của mình – thay vào đó họ che giấu vị thày – thì họ không thể ở lại trong Trường Bí giáo. Khi đó, làm sao họ học được liệu hành động của họ có hậu quả hay không? Tuy thế nếu hành động của họ có hậu quả tức khắc, thì làm sao họ học được vì trong nhiều trường hợp họ sẽ tự hủy hoại tức khắc? Đó là lý do vũ trụ được thiết lập khiến cho khi con hành động, hành động này có hậu quả vật lý tức khắc trên môi trường và người khác; nhưng nó có thể không có hậu quả vật lý tức khắc trên con. Thay vào đó, con phóng ra một xung lực nghiệp, một xung lực năng lượng, đi vào các tầng cao của vũ trụ vật chất là cõi bản sắc, lý trí và tình cảm. Xung lực đi qua ba tầng này, trước khi chúng trở về con ở tầng vật lý, biểu hiện như một hoàn cảnh vật lý.

Lý do có sự trì hoãn này là để con có cơ hội nâng cao tâm thức mình trong khoảng cách thời gian trước khi nghiệp báo trở về con. Khi nghiệp báo trở về, con có thể làm điều mà thày giảng trong bài trước: con có thể đáp ứng với một mức tâm thức cao hơn tâm thức khi con phóng xung lực ra ngoài. Bằng cách này, phản ứng của con với nghiệp báo sẽ ở tầng cao hơn, có nghĩa là bây giờ con tạo ra một xung lực nghiệp mới ở một tầng cao hơn. Khi xung lực kế tiếp quay trở về, con ở tầng cao hơn lúc đầu. Do đó, con vẫn tiến bộ, dù rất chậm và khó khăn, và thường với nhiều đau khổ. Tuy thế chính con đã lựa chọn rời khỏi Trường Bí giáo.

7.8. Trở lại Trường Bí giáo của Maitreya

Hầu hết mọi người trên trái đất đã rời Trường Bí giáo. Điều con đang làm bây giờ – khi con tới đây ghi danh với Thượng sư Tia thứ Nhất – là con ghi danh trở lại Trường Bí giáo của thày Maitreya. Nhưng để con có thể trở lại trường, để con hội đủ điều kiện trở lại Trường Bí giáo của thày Maitreya, con phải gom đủ điều kiện bằng cách đi trên con Đường Bảy bức Màn, con Đường bảy Tia sáng dưới sự hướng dẫn của bảy Thượng sư. Lúc đó, khi con tới tầng 96, con sẽ ghi danh với Đại thượng sư, Và khi con đạt được khai ngộ này thì con vào trở lại Trường Bí giáo của thày Maitreya, và thày sẽ dẫn con đi đoạn đường cuối tới tầng tâm thức 144.

Dĩ nhiên là nếu con muốn đạt được khai ngộ ở tầng 96 và trên nữa thì con phải chấp nhận không che giấu bất cứ gì với vị thày. Vì nếu con tìm cách che giấu thì con sẽ sa ngã một lần nữa. Khi đó con sẽ phải trở lại từ đầu, theo học Trường đời Cay đắng cho tới khi con trở lại tầng 48 và ghi danh với Thượng sư Tia thứ Nhất và từ đó đi trở lên.

Có một số dòng sống đã làm điều này nhiều lần. Họ sa ngã xuống tầng tâm thức thấp nhất hay gần đó. Vòng xoắn đi xuống mà họ tạo ra trở nên càng ngày càng mạnh khiến họ rốt cuộc không chịu nổi nữa. Lúc đó, họ bắt đầu nâng tâm thức cho tới khi họ tới tầng 48. Sau đó họ ghi danh với các Thượng sư và dần dần tiến lên dưới bảy tia sáng. Khi họ tới chỗ phải ngưng giấu giếm vị thày, thì lại có điều gì đó mà họ không chịu phơi bày với vị thày. Do đó, họ lại sa ngã và bắt đầu lại từ đầu.

Điều thày không muốn thấy là các con là những người đã ghi danh vào khóa học này – mà các thày đã công bố lần đầu trong cõi vật lý khi cho xuất bản bộ sách này – bị rơi vào khuôn nếp đó. Thầy muốn thấy con phá vỡ khuôn nếp nếu con đã bị ở trong đó, hay không bị nó hút vào nếu con chưa ở trong đó, và con sẽ tới tầng 96 và hoàn toàn sẵn sàng để đạt khai ngộ. Đó là lý do thày cho con lời hướng dẫn này. Thật ra đa số đệ tử sẽ thấy lời hướng dẫn này quá tầng tâm thức của họ. Tuy thế, những điều quá tầng tâm thức trên mặt thực hành vẫn có thể hiểu được, suy luận được.

7.9. Trực giác đi đôi với suy luận

Mặc dù các thày thường xuyên khuyên các con nên tập để trực giác – là cảm giác nội tâm, cũng là sự thơ ngây – bén nhạy hơn, nhưng trực giác đi đôi với lý luận. Lý luận không phải là kẻ thù của tăng trưởng tâm linh; vì nếu con không biết lý luận, thì cách tăng trưởng duy nhất là trải nghiệm tất cả mọi việc. Các con yêu dấu, khi con nhìn cuộc đời hiện đang biểu lộ trên trái đất, chắc con cũng thấy là có một số hành động không có tính cách tâm linh và không giúp con người phát triển tâm linh? Nhưng con làm sao biết được là một hành động gây tổn hại cho sự phát triển tâm linh của con?

Trong bài giảng trước, thày dạy con một thước đo giản dị: “Sinh hoạt này nâng năng lượng của tôi lên hay hạ năng lượng của tôi xuống?” Đây là một khả năng trực giác, một khả năng trải nghiệm. Con phải sống trong hoàn cảnh thì mới biết là nó hạ thấp hay nâng cao năng lượng của mình. Như vậy có nghĩa là nếu con muốn biết, tỷ dụ, là ăn cắp của người khác nâng hay hạ năng lượng, thì con phải thử mới biết được. Con sẽ phải thử nghiệm chiến tranh và bị mạng vong. Con sẽ phải thử giết người. Con sẽ phải thử nghiệm tất cả mọi sinh hoạt có thể có trên trái đất. Và con có biết là con cần bao nhiêu kiếp để trải nghiệm tất cả những chuyện có thể làm trên trái đất?

Dĩ nhiên là con người càng ngày càng chế thêm nhiều sinh hoạt. Con có thể thấy là hiện nay có không biết bao nhiêu sinh hoạt không thể tưởng tượng được một thế kỷ trước đây, tỷ dụ như trong lãnh vực công nghệ điện toán. Con có thể thấy là con cần vô vàn kiếp sống để trải nghiệm hết mọi chuyện. Do đó, cách duy nhất để không phải trải nghiệm mọi hoàn cảnh là sử dụng khả năng lý luận cao. Đây chính là phương pháp mà vị anh em lẫy lừng của thày là Saint Germain đã đem xuống hành tinh này, tỷ dụ như trong kiếp đầu thai như Francis Bacon là người đã thiết lập nền tảng của phương pháp khoa học. Phương pháp này chủ trương rằng khi con đã làm một số thí nghiệm đưa tới cùng kết quả, con có thể suy luận là điều này sẽ xảy ra trong tất cả hoàn cảnh tương tự. Tỷ dụ, nếu con đã có một hay nhiều kiếp đầu thai như một người nghèo phải ăn cắp để sống, sau khi con đã đầu thai ở hai hay ba nước khác nhau, con có thể suy luận là con không cần phải đầu thai ở tất cả mọi nước trên trái đất, nhưng có thể nói rằng: “Đầu thai vào một môi trường như vậy không giúp tôi phát triển tâm linh, và tôi không cần trải nghiệm tất cả các môi trường này. Tôi có thể suy luận rằng: thế này là quá đủ rồi. Do đó, tôi muốn rời bỏ tầng tâm thức này.”

Bây giờ chúng ta hãy bước thêm một bước nữa và xem xét trường hợp một người có thể đầu thai vào mấy chục ngàn hoàn cảnh trên trái đất mà vẫn ở cùng tầng tâm thức 48. Nhưng con có thực sự cần đầu thai mấy chục ngàn kiếp để nhận ra rằng con không muốn ở tầng tâm thức 48 nữa, mà muốn lên tầng 49? Không, con không cần làm vậy nếu con dùng khả năng suy luận cao của tâm Ki-tô. Lúc đó, con có thể nói: “Thế này là quá đủ rồi. Tôi nay đã biết đủ về tầng tâm thức 48 rồi. Tôi đã khám phá đủ tầng này của tòa nhà rồi. Tôi sẵn sàng tìm ra cầu thang để đi lên tầng trên, nơi tôi có cái nhìn bao quát hơn về môi trường chung quanh và nhiều tự do hơn để sáng tạo.”

Về chuyện quyền lực và lạm dụng quyền lực, con có cần trải nghiệm mọi hình thức lạm dụng quyền lực – trong cương vị hung thủ hay nạn nhân? Hay con dùng khả năng lý luận để nói: “Thưa Chân sư MORE, xin thày chỉ cho con quyền lực được lạm dụng như thế nào. Xin thày chỉ cho con thấy lạm dụng quyền lực vận hành như thế nào để con vượt lên trên nó và vươn lên tầng kế tiếp.”

7.10. Học hỏi khi ở dưới tầng 48

Điều mà thày cho con ở đây giản dị là một khung tham chiếu. Trên trái đất này, con được phép lạm dụng quyền lực bằng cách ép buộc người khác phải phản ứng. Trong Trường đời Cay đắng, con có quyền làm điều này. Con có hiểu chăng?

Các thày là chân sư thăng thiên không áp dụng những quy tắc luân thường đạo lý thông thường của xã hội. Các thày không nói rằng giết người là hợp luân thường đạo lý, nhưng các thày nói rằng với những người ở dưới tầng tâm thức 48, đưa ra một tiêu chuẩn đạo đức cao là điều vô nghĩa.

Nếu con muốn áp dụng thành công tiêu chuẩn này, thì con cần dùng khả năng suy luận. Và nhiều người ở dưới tầng tâm thức 48 không biết dùng khả năng suy luận cao. Họ chỉ thấy những gì có lợi cho họ, nhìn từ góc độ tâm thức hiện tại của họ. Họ không thể tự hỏi có cái gì tốt cho họ dựa trên một quan điểm cao hơn mức tâm thức hiện tại của họ.

Điều mà thày muốn giải thích là: khi một người chưa có hay chưa tác động được khả năng suy luận cao, thì nói với y chuyện phải trái, chuyện phải làm, chuyện phải tránh, là điều vô nghĩa. Điều duy nhất mà chúng ta cần quan tâm là: làm sao y sẽ học hỏi khi ở tầng tâm thức hiện tại? Và điều thày muốn nói là: nếu y không dùng khả năng suy luận – mà mọi người đều có, ngay khi ở tầng tâm thức thấp – thì y chỉ có thể học bằng một cách duy nhất. Cách đó là để y làm bất cứ gì y muốn, dựa trên tầng tâm thưc hiện tại của y, và trải nghiệm nghiệp báo vật lý trở ngược về từ tấm gương vũ trụ.

Nếu một người ở một tầng tâm thức thấp đến độ y nghĩ có quyền giết một người khác để tước đoạt tiền hay tài sản của người đó, và lúc đó có một người tới xua tay nói: “Ngươi không được phép làm chuyện này”, thì con có thấy chăng là điều này không ích lợi gì? Người đang muốn giết người sẽ không chịu học hỏi, vì y không có khả năng suy luận. Do đó, y chỉ có thể học bằng một cách duy nhất, đó là giết người và sau đó chịu nghiệp báo.

Con có thấy chăng tuy hành động giết người là điều sai theo quan điểm cao, nhưng ở tầng tâm thức nào đó, chỉ có cách đó con người mới học hỏi? Thày có thể bảo đảm với con là luật nhân quả áp dụng rất chính xác, do đó nếu một người bị một người ở, tỷ dụ, tầng tâm thức thứ 10 giết, thì người bị giết cũng ở một tầng tâm thức rất thấp. Người đó đã giết người trong một kiếp trước và chuyện xảy ra bây giờ là kết quả của nghiệp báo. Con có thấy chăng: cả người giết lẫn người bị giết đang giản dị học bằng cách duy nhất họ có thể học, đó là thấy nghiệp báo của trạng thái tâm thức của họ?

Đó là lý do vì sao con thấy nhiều người trên trái đất bị giam trong những khuôn nếp cứ lặp đi lặp lại. Họ không tác động khả năng suy luận có thể giúp họ nói: “Tôi chán sống thế này quá rồi. Nhất định phải có một cách sống tốt hơn. Cuộc đời phải có gì hơn nữa. Nhất định phải có một cách học hỏi cao hơn.” Lúc đó, họ có thể dùng khả năng suy luận để tìm ra một giáo lý giúp họ hiểu là có một phản ứng cao hơn phản ứng do tầng tâm thức hiện tại và phàm linh ở tầng đó sai khiến, vì phàm linh này chỉ biết phản ứng một cách mà thôi.

7.11. Phàm linh con tạo ra không thể tự thăng vượt

Con có thấy chăng, như thày đã từng giảng, là khi con xuống dưới tầng 48, những gì tiên đoán về con sẽ trở thành sự thật, vì tâm con là một hệ thống đóng. Con phóng ra một xung lực, và khi tấm gương vũ trụ phản chiếu nó trở về, con phản ứng lại với cùng tầng tâm thức, tạo nên một xung lực khác – và cứ tiếp tục như thế. Đó là vì con tạo ra xung lực qua một phàm linh, và con phản ứng lại xung lực quay trở về với cùng phàm linh đó. Phàm linh này không thể thăng vượt chính nó.

Đây là một điểm rất quan trọng, rất cơ yếu, mà Đại thượng sư đã giảng trong quyển sách của thày (Tự do khỏi Phàm linh Nội tại). Phàm linh mà con tạo ra không thể thăng vượt chính nó vì nó không có khả năng lý luận vượt quá tầng tâm thức của nó và khuôn đúc quy định ra nó. Nhưng con, cái Ta Biết, có khả năng lý luận vượt lên trên phàm linh. Do đó, cho dù con đang ở một tầng tâm thức nào – tỷ dụ tầng tâm thức thấp nhất – con vẫn giữ được khả năng rút mình ra khỏi phàm linh đang điều khiển cách con nhìn cuộc đời.

Do đó, tuy con không nhất thiết nối kết được với biểu hiện cao nhất của tâm Ki-tô, nhưng con có thể nối kết với tâm Ki-tô ở trên tầng tâm thức hiện tại của con và nhận ra có tầng tâm thức cao hơn. Nếu con nhìn nhận điều này, nếu con hành động theo đó, thì con có thể dần dần phá vỡ vòng vây của phàm linh đang kềm giữ tầm nhìn và sự chú ý của con, giúp con vươn lên tầng kế tiếp. Đây là một khả năng cơ yếu, một cứu tinh giúp con thoát vòng xoáy đi xuống mà con đã tạo ta khi con lạm dụng quyền lực ở bất cứ tầng nào.

Con có thể lý luận rằng cách con dùng quyền lực đã đưa con tới tình trạng hiện nay. Và điều duy nhất giúp con thoát khỏi tình trạng hiện nay là học dùng quyền lực một cách cao. Điều này sẽ giúp con lên tầng kế tiếp. Sau đó, con lại dùng khả năng lý luận để tiến thêm bước nữa, sau khi đã trải nghiệm việc dùng quyền lực ở tầng cao hơn này.

Con sẽ tới điểm trở lại tầng 48. Lúc đó, con có thể hòa điệu với thày và học dùng quyền lực cùng với khả năng suy luận, bằng cách nghe thày giảng về cách dùng quyền lực đúng và sai. Và đây dĩ nhiên là một phần lý do vì sao thày giảng loạt bài này.

Thày chấm dứt bài gỉảng này và xin con khởi động khả năng nhận diện năng lượng đang lên hay xuống trong con. Con hãy bỏ chút thì giờ xem xét chuyện xảy ra trên thế giới, tỷ dụ như đọc sách về một giai đoạn sôi động của lịch sử, như giai đoạn chiến tranh hay cách mạng và những lạm dụng quyền lực lúc đó. Sau đó, con hãy xem xét: năng lượng nơi tim con lên hay xuống khi con xem xét một hình thức biểu lộ quyền lực nào đó? Khi con nhìn vào cách các nhân vật như Hitler, Napoleon hay một số nhân vật nổi danh khác biểu lộ quyền lực, thì chuyện gì xảy ra với năng lượng nơi tim mình? Năng lượng lên hay xuống? Điều này sẽ giúp con đo lường, và chuẩn bị con cho bài giảng tới của thày.

Uy lực và Ý chí

Bài giảng của chân sư thăng thiên More qua trung gian Kim Michaels, ngày 2/2/2013.

TA LÀ Hơn Nữa (More). TA LÀ chân sư. Do đó TA LÀ chân sư của Hơn Nữa. Và thày tới đây để cho con thấy làm sao trở nên hơn nữa với Tia sáng thứ Nhất. Thày sẽ bắt đầu với một khái quát. Các con dĩ nhiên là quen thuộc với giáo lý có 144 tầng tâm thức. Con biết rằng mục đích của loạt bài giảng này, và mục đích của bộ sách mà các thày cho ra mắt, là để chỉ cho con cách đi từ tầng 48 lên tới tầng 96 bằng cách điều ngự các khai ngộ của bảy tia sáng.

Chúng ta hãy xem xét chuyện gì xảy ra khi các con xuống trái đất lần đầu. Như các thày đã nói, khi con xuống trái đất lần đầu tiên, con xuống ở tầng tâm thức 48, nếu con là một dòng sống mới. Trong kịch bản lý tưởng, chuyện gì xảy ra với dòng sống đó? Dòng sống đó xuống với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm và ý niệm là nó nối kết với một cái gì lớn hơn – dù nó không thấy rõ ràng Hiện diện TA LÀ của nó – và nó xuống với mong muốn thử nghiệm các khả năng sáng tạo của nó.

Do đó, ở tầng 48, khả năng quan trọng nhất mà con có một cách tự nhiên, trong kịch bản lý tưởng, là ý chí muốn thử nghiệm. Đó là ý chí muốn thử cái gì mới, và nhìn xem vũ trụ vật chất – mà ta có thể coi là một máy phản hồi vĩ đại – đáp ứng ra sao. Bất cứ cái gì con gửi ra sẽ được tấm gương vũ trụ phản chiếu lại con.

Nếu con nhìn ý chí muốn thử nghiệm dưới một góc độ hơi khác, thì trạng thái tâm thức đó là gì? Đó phần nào là cái mà đức Phật gọi là “sơ tâm” (beginner’s mind). Đó là cái tâm mà Giê-su nói tới khi thày nói rằng trừ phi con trở thành trẻ thơ, con không thể bước vào vương quốc. Trạng thái tâm của con ở tầng 48 là sự ngây thơ, một sự ngây thơ thiêng liêng.

5.1. Tầm quan trọng của sự ngây thơ 

Trong kịch bản lý tưởng, con tiến lên qua các bước khai ngộ của bảy tia sáng mà không mất đi sự ngây thơ này. Dĩ nhiên là con sẽ có thêm kinh nghiệm, nhưng điều này không khiến con mất đi sự ngây thơ, tuy con chắc chắn trưởng thành hơn và khôn ngoan hơn trên một số phương diện. Nhưng con vẫn còn ngây thơ, theo nghĩa con không có những ý định không trong sạch, ích kỷ muốn hạ thấp sự sống khác. Và con cũng không phải tiếp xúc các dòng sống khác có ý muốn chê bai con và các nỗ lực sáng tạo của con.

Con có thấy chăng là trong kịch bản lý tưởng, con có thể mở rộng khả năng sáng tạo của mình, tăng trưởng nhận biết về khả năng sáng tạo của mình, mà không bao giờ phải gặp tư duy – tức là tâm thức – muốn chê bai và phê phán con dựa trên một tiêu chuẩn tương đối, nhị nguyên, theo đó con phải hoặc đúng hoặc sai? Và khi con làm điều gì sai thì có nghĩa là con có cái gì sai.

Dĩ nhiên là con đã tiếp cận với chính trạng thái tâm thức đó trong kiếp này và, thày bảo đảm với con, trong nhiều kiếp trước trên hành tinh này. Con chỉ cần nhìn lại quá trình của trái đất để thấy rằng tâm thức phán xét, đánh giá, chê bai đã thấm đẫm sự sống trên hành tinh này từ khi có lịch sử con người – và thày có thể bảo đảm với con là rất lâu trước đó nữa.

Như các thày đã nói, trái đất hiện nay không theo kịch bản lý tưởng. Ý mà thày muốn gieo như hạt mầm vào tâm trí con là mục đích của con Đường Bảy bức Màn không phải là để tâm đạt được một số khả năng tinh vi làm chủ vật chất qua đó con có thể tạo ra những hiện tượng khác thường nhìn thấy được, khiến người khác nể phục. Mục đích cũng không phải là đạt được sự minh triết đặc biệt nào hay sự tinh xảo đặc biệt nào khi làm việc này hay việc kia. Mục đích chính của con đường của bảy tia sáng trong tình trạng hiện nay của trái đất chính thực là: lấy lại sự ngây thơ và biểu lộ các năng lượng sáng tạo của bảy tia sáng trong sự ngây thơ hoàn toàn.

Đây dĩ nhiên là một ngã rẽ mới mà nhiều đệ tử tâm linh không nhận ra. Từ hơn một trăm năm nay các thày đã công khai truyền dạy giáo lý của các chân sư thăng thiên qua trung gian nhiều sứ giả và tổ chức. Nhưng ít ai nhận ra là mục đích thật của con đường tu là lấy lại sự ngây thơ đã bị đánh mất, sự ngây thơ thực sự là thiên đàng trên trái đất.

5.2. Thiên đàng bị đánh mất

Làm sao con biểu hiện thiên đàng trên trái đất? Phải chăng là Giê-su có nói là Nước Trời ở trong con? Như vậy phải chăng điều hợp lý là cách biểu hiện thiên đàng trên trái đất là đạt được một trạng thái tâm thức nào đó? Và tâm thức ở Vườn Địa đàng là tâm thức gì? Trước khi con ăn trái cấm và tự đưa mình ra khỏi thiên đàng là Trường Bí giáo của thày Maitreya, con ở trong trạng thái ngây thơ. Đó là một trạng thái ngây thơ thiêng liêng trong đó con tự do thử nghiệm khả năng sáng tạo của mình mà không đánh giá chúng dựa trên một tiêu chuẩn do tâm thức tách biệt nhị nguyên tạo ra.

Con thấy chăng, cái con gặp khi con xuống trái đất là tiêu chuẩn do sa nhân tạo ra, được đặc biệt tạo ra để phá tan sự ngây thơ của những kẻ ngây thơ thiêng liêng. Nó được tạo ra để đảm bảo rằng một khi con đánh mất sự ngây thơ ấy, con sẽ khó lòng lấy lại được.

Con có thấy chăng là lấy lại sự ngây thơ trong môi trường hiện tại trên trái đất, khi con bị tấn công không ngừng bởi người khác hay tà lực tăm tối, là điều rất khó khăn? Hay con bị tấn công bởi đám phàm linh mà thày Đại thượng sư đã phơi bày, đang lởn vởn trong tâm thức tập thể, lúc nào cũng chực dụ dỗ con tham gia vào một cuộc đấu tranh, một trò chơi nào đó để chứng minh điều gì đó đúng hay người khác sai.

Con yêu dấu, hãy nhìn cuộc đời. Con có nhận ra tâm thức này và thấy là nó đã thấm đẫm mọi khía cạnh của xã hội, của sự tương tác giữa con người, và chính con cũng đã gặp nó? Vậy con hãy nghe thày nói là tình trạng của con ngày nay ngược lại với kịch bản nguyên thủy. Trong kịch bản lý tưởng, con khởi đầu với sự ngây thơ, sau đó con tăng trưởng và duy trì sự ngây thơ, đồng thời trở nên trưởng thành và khôn ngoan hơn. Nhưng bây giờ, khi con tới với thày và mong muốn được khai ngộ với Tia thứ Nhất, thì mình có tình trạng gần như đối ngược. Bây giờ con khôn ngoan và trưởng thành, theo nghĩa là con biết nhiều chuyện và có nhiều kinh nghiệm sống trên trái đất, nhưng con đã đánh mất sự ngây thơ.

Con không nên chờ đợi thày có thể giúp con lấy lại sự ngây thơ ở tầng 48, ở khai ngộ đầu tiên. Thày, như Thượng sư đầu tiên, thực sự không thể làm được chuyện này. Con chỉ có cơ hội lấy lại sự ngây thơ của mình khi con đi qua cả bảy tia sáng và đạt tới tầng 96, là nơi con hoàn toàn lấy lại sự ngây thơ khi con xuống trái đất lần đầu.

Đó là lý do vì sao con có thể đạt sự khai ngộ ở tầng 96 mà không dùng những khả năng sáng tạo của mình một cách ích kỷ, hay tệ hơn là một cách hung hãn, với mục đích kiểm soát người khác hay đấu tranh cho một lý tưởng cuồng đại nào đó. Điều này giúp con có một viễn quan dài hạn. Và con cần ghi nhớ một điều quan trọng, đó là – khi con đi trên con Đường Bảy bức Màn – mỗi bước con đi trên con đường tu, con tiến lại gần hơn sự ngây thơ. Con cần suy xét: “Cái gì ngay bây giờ đang lấy đi sự ngây thơ của mình, ở tầng tâm thức hiện tại của mình?”

5.3. Học hỏi ngoài hành động vật lý

Đây quả thực là một điều quan trọng mà con cần ghi nhớ. Có thể là ngay bây giờ con không có một ý niệm rõ ràng, có ý thức, về trạng thái ngây thơ. Có thể là con không thể trải nghiệm, dù chỉ một thoáng, điều mà thày muốn nói khi thày nói tới sự ngây thơ thiêng liêng. Đó là vì tâm con quá đầy những phàm linh đang liên tục hú hét như sài lang, tìm cách kéo con ra khỏi sự ngây thơ. Và cũng có phàm linh khác nói năng với miệng lưỡi tinh vi của rắn, tìm cách dụ dỗ con rơi vào những khuôn nếp cũ, cũng kéo con ra khỏi sự ngây thơ thiêng liêng là quyền bẩm sinh của con.

Tuy nhiên, trong bài giảng này thày sẽ dẫn con đi bước đầu. Con có nhớ là các thày có nói về Trường đời Cay đắng. Và tuy các thày là chân sư thăng thiên có thể giúp đôi chút những người đang ở dưới tầng 48 bằng cách cho họ vài chỉ thị, nhưng thực sự là họ đang ở trong Trường đời Cay đắng cho tới khi họ tới tầng 48. Chỉ khi nào họ từ tầng 47 bước lên tầng 48 thì họ mới hoàn toàn xong xuôi với Trường đời Cay đắng và ghi danh vào con Đường Bảy bức Màn. Đó là lúc họ có thể tham dự các khóa nhập thất trên cõi bản sắc của các thày, và qua đó đạt được cái biết nội tâm vì họ ghi nhớ nội dung bài học, tuy họ không nhớ được chi tiết các chỉ thị.

Lúc đó họ có thể tỉnh giấc với một cái biết nội tâm, tuy họ không nhớ vị thày đã nói gì và dạy điều gì. Nhưng họ biết là có cái gì đó thật, biết có cái gì đó đúng và muốn áp dụng nó vào đời mình. Lúc đó, tâm thức họ chuyển dời và họ ý thức được điều đó.  

Điều thày muốn nói rất giản dị. Trong Trường đời Cay đắng, con chủ yếu học qua hành động. Con hành động và thấy hậu quả – hay ít nhất là con gặp một kết quả vật lý – và sau đó con có cơ hội học hỏi hay không học hỏi bằng cách lượng định kết quả. Nhưng khi con lên đến tầng 48, con không còn chủ yếu học hỏi qua hành động vật lý bên ngoài. Tiến trình học hỏi của con lúc đó xảy ra bên trong – trong tâm con – bằng cách con lượng định những gì xảy ra trong tư tưởng và cảm xúc của con, hơn là hành động vật lý, tuy con dĩ nhiên vẫn sống trong cuộc đời. Quan tâm chính lúc đó là học hỏi bằng những cách khác hơn là hành động vật lý.

Chắc con cũng thấy là học hỏi qua hành động vật lý là một cách học rất khổ nhọc. Vì con gửi đi một xung lực tới tấm gương vũ trụ, và sẽ có một khoảng thời gian trước khi xung lực trở ngược về con dưới hình dạng một cảnh ngộ vật lý. Nếu con không nhớ xung lực mà con đã gửi đi thì con không nhận ra sự liên hệ giữa xung lực này và nghiệp quả vật lý đang quay ngược trở lại. Và do đó con không dễ nhận ra là con cần thay đổi tâm thức như thế nào để tránh không bị nghiệp quả từ vũ trụ quay ngược về mình. Vậy chuyện gì xảy ra khi con tốt nghiệp Trường đời Cay đắng và vào Trường Chỉ đạo Nội tâm? Lúc đó con bắt đầu có cái biết nội tâm khiến con không cần phải có nhiều hành động vật lý. Vì con có thể nhận ra và tỉnh ngộ: “À há, cái này không đưa tới kết quả tốt, cái này không dẫn tôi tới nơi tôi muốn đến trong cuộc đời này.” Tại đây, thày muốn con nhận ra khai ngộ đầu tiên mà con sẽ gặp ở tầng tâm thức 48.

5.4. Khai ngộ đầu tiên ở tầng 48

Chắc con có nghe nói là Tia thứ Nhất hay được gọi là tia sáng của uy lực và ý chí. Con có thể thấy là khi con xuống trái đất ở tầng 48 như một dòng sống mới, thì dĩ nhiên là con phải thí nghiệm. Con phải tạo một viễn quan, sau đó con phải dùng ý chí phóng chiếu hình ảnh đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật để tạo ra một phản hồi nào đó từ Ánh sáng Mẫu-Vật.

Con cảm thấy con cần biểu lộ uy lực khi con là một đệ tử mới. Nhưng khi con không ở trong kịch bản lý tưởng, thì thực sự là con cần kềm lại sự biểu lộ uy lực của mình và cân nhắc trước khi con biểu lộ điều gì. Con dĩ nhiên cũng biết là Tia thứ Nhất, giống như các tia khác, tương ứng với một luân xa. Và luân xa tương ứng với Tia thứ Nhất là luân xa cổ họng, nằm ở trên trung tâm phát âm.

Do đó, một trong những cách chủ yếu để biểu lộ uy lực là bằng giọng nói, và đặc biệt là bằng lời nói. Dưới tầng 48, con chủ yếu học hỏi qua hành động vật lý, nhưng ở tầng 48 và bảy tầng trên đó, con cần chú tâm đến cách con biểu lộ uy lực qua luân xa cổ họng và lời nói. Như Giê-su có nói: “Qua lời nói con sẽ được minh chính; qua lời nói con sẽ bị lên án”. Đây là một nguyên tắc quan trọng mà con cần ghi nhớ – tuy không có ai ngồi đây để lên án con cả. Thày là chân sư More, thày không lên án con. Thày muốn con nhận biết có ý thức một khả năng mà con đã có và đã sử dụng, để con tới mức mở tâm đón nhận lời chỉ dạy của thày. Đó là khả năng cảm nhận năng lượng nơi luân xa trái tim của con.

Nếu con chú tâm vào luân xa tim của con, con sẽ có thể cảm nhận có ý thức là năng lượng đang dâng lên hay hạ xuống. Con cũng có thể cảm nhận điều này khi con nghe bài truyền đọc này, tức là con cảm thấy năng lượng dâng lên cao hơn bình thường. Con cảm được một dòng chảy đi lên, một chuyển động đi lên. Con cũng có thể cảm thấy nó như một vòng xoắn ốc đang lên dần từ khi con bắt đầu nghe hoặc đọc bài giảng này. Con dĩ nhiên sẽ nhận ra là tác dụng mạnh nhất xảy ra khi con nghe lời giảng, nhưng ngay cả khi con đọc hay chú tâm, con cũng cảm được là năng lượng đang dâng lên hay hạ xuống. 

Đây là một khả năng mà con đã sử dụng nhiều lần trong đời, nhưng có thể con không biết đến nó một cách ý thức. Dù vậy, nó là một thước đo cơ yếu giúp con đi từ tầng 48 lên tầng 96: con chỉ cần giản dị cảm nhận điều gì đang nâng lên hay hạ xuống năng lượng nơi tim con.

5.5. Cách con sử dụng lời nói 

Điều thày muốn con làm là có ý thức hơn khi con áp dụng khả năng này vào việc phát ngôn, tức là nội dung lời nói và cách con nói. Con dĩ nhiên đã nhận ra là con biết ngay khi người khác nói với một giọng khiến con phản ứng và cảm thấy năng lượng xuống thấp, có thể khiến con cảm thấy giận hay bực bội. Con đôi khi cũng cảm thấy được là điều người khác nói khiến con cảm thấy xuống tinh thần, chán chường hay không xứng đáng.

Con biết là điều đang xảy ra rất giản dị. Những người này đang phóng một làn sóng năng lượng tới con, và khi nó vào trường năng lượng của con, nó tức khắc có tác dụng nâng lên hay hạ xuống năng lượng của con. Sau đó, con có thể làm ngược lại và nhận ra là cách con nói với người khác cũng phóng một xung lực năng lượng vào trường năng lượng của họ và gây một tác dụng.

Dĩ nhiên là có nhiều tác dụng vi tế xảy ra, nhưng ở đây thày chỉ muốn con chú tâm vào một lượng định giản dị: năng lượng của con đang dâng lên hay hạ xuống? Điều mà con có thể nhận ra, khi con nghĩ và hòa điệu với việc này, là điều con nói với người khác cũng có một tác dụng tức khắc trên con. Lời nói của con không chỉ ảnh hưởng người khác; nó ảnh hưởng luôn cả chính con. Đây là khai ngộ đầu ở tầng thứ 48. Con hãy nhận ra cách con dùng lời nói và giọng nói như một phương tiện chuyên chở năng lượng, một máy phát sóng năng lượng gửi tới người khác và có thể tới toàn vũ trụ.

Dĩ nhiên là các thày cũng đã giảng về tầm quan trọng của việc thỉnh cầu năng lượng tâm linh qua luân xa cổ họng, là luân xa uy lực, khi con đọc các bài chú và bài thỉnh. Một lợi ích lớn khi con đọc bài chú bài thỉnh – và khi con biết đọc cách nào hữu hiệu nhất – là con sản xuất và phóng đi làn sóng năng lượng có tác dụng nâng mọi sự sống lên. Và nó cũng có tác dụng nâng chính con lên.

Do đó, khi con đọc bài chú bài thỉnh, con tự tạo một khung tham chiếu giúp con biết khi nào giọng nói của con nâng cao năng lượng hay ngược lại. Có nghĩa là con dùng những gì con cảm thấy trên chính con khi con đọc bài chú bài thỉnh như một khung tham chiếu rất hữu hiệu để lượng định cách con dùng trung tâm uy lực trong các hoàn cảnh sống khác.

Con sẽ bắt đầu cảm thấy tức khắc là điều con nói và giọng nói có thể hạ năng lượng con xuống tức khắc. Và đây là lúc con cần nhận ra điều này một cách ý thức. Như thày đã nói trong bài giảng đầu, sẽ có một lúc con cần lấy một quyết định có ý thức: “Điều này có đưa tôi đến nơi tôi muốn tới không, hay sẽ cản trở sự tiến bộ của tôi?” Dĩ nhiên là điều gì hạ năng lượng của con, hay phóng ra một xung lực năng lượng hạ năng lượng của người khác, sẽ không đưa con tới chỗ con muốn tới – nếu con muốn đi từ tầng 48 lên tầng 96.

5.6. Mô thức luẩn quẩn hành động-phản ứng

Nếu con muốn thăng vượt tâm thức hiện tại của con thì con không muốn ở trong Trường đời Cay đắng là nơi con học bằng cách phóng tâm thức hiện tại của con về phía tấm gương vũ trụ và thấy cái gì quay ngược về con. Con muốn đi theo một vòng xoắn tích cực trong đó con bắt đầu hành động và phản ứng dựa trên một tâm thức cao hơn tâm thức hiện thời của con.

Con có thấy một quy luật tự nhiên giản dị chăng? Vũ trụ là một tấm gương. Nếu con gửi ra một xung lực năng lượng ở một tần số rung động tương ứng với một tầng tâm thức nào đó, thì cái gì sẽ quay ngược về con? Đó là một phản ứng cùng tần số rung động. Và điều gì sẽ xảy ra khi phản ứng từ vũ trụ quay ngược trở về con? Con sẽ phản ứng lại phản ứng này với tâm thức của con lúc đó, có nghĩa là con lại tạo một xung lực ở cùng tầng tâm thức. Tới bao giờ con mới thoát cỗ máy lôi cuốn khiến con liên tục phản ứng lại một phản ứng của một phản ứng của một phản ứng – có thể đã bắt đầu từ rất lâu trước đó như một hành động. Nhưng sau đó thì chỉ toàn là phản ứng.  

Con phải tìm ra một cách để phá vỡ cái vòng phản ứng này, nhưng con làm sao đây? Con phải làm chủ tâm mình một cách ý thức, để lần sau khi tấm gương vũ trụ gửi trả điều gì, con sẽ không phản ứng với cùng tầng tâm thức đã tạo ra xung lực. Trái lại, con có thể phản ứng ở tầng cao hơn, có nghĩa là con tạo ra một xung lực ở tầng tâm thức cao hơn – và đây là điều con gửi ra ngoài, như vậy điều được trả về cũng cao hơn. Đâu có cách nào khác để phá vỡ vòng tròn luẩn quẩn của phản ứng lại phản ứng, phải không con?

Con thấy chăng, để thay đổi phản ứng, con phải ngừng không phản ứng nữa và thay vào đó, hành động ở tầng cao hơn. Nhưng con chỉ làm được điều này khi con vươn lên một tầng tâm thức cao hơn. Và bước đầu trong tiến trình này là gì? Như thày đã nói, đó là thẩm định mọi thứ con gửi ra, đặc biệt là lời nói, và cân nhắc: câu này nâng năng lượng lên hay hạ xuống?

Đây là chỗ chúng ta phải bắt đầu khi con tới và ghi danh vào khóa nhập thất của thày ở Darjeeling. Ở đó, thày quả thực có một căn phòng trong đó mình có khả năng thấy được xung lực năng lượng mà con gửi ra qua giọng nói. Chắc chắn là con cũng đã thấy trên trái đất ứng dụng trên máy điện toán vẽ ra hình nhiều màu trên màn ảnh khi con chơi nhạc. 

Thày có một căn phòng hình cầu, và nửa quả cầu đó là một màn ảnh vĩ đại chiếu lên những hình ảnh dựa trên những âm thanh mà con gửi đi về phía màn ảnh. Qua đó, con có thể thấy tác dụng của âm thanh mà con gửi đi với giọng nói của mình. Cách giảng huấn này rất có hiệu quả với những người chưa bao giờ nghĩ tới điều này và tác hại mà lời nói con người có thể gây ra khi gửi đi những xung lực trái điệu và chát chúa làm xáo trộn tất cả mọi sự sống.

5.7. Uy lực của giọng nói con người

Chắc hẳn con có nghe tới những nghiên cứu khoa học về ảnh hưởng của một số loại nhạc trên cây cỏ, khả năng học hỏi của trẻ em, hay hình kỷ hà trên mặt nước. Con biết là âm thanh có uy lực, và cách dũng mãnh nhất mà con tạo âm thanh là bằng giọng nói.

Dĩ nhiên là con không để ý đến những chuyện này. Con dùng lời nói suốt ngày, và con nghĩ tác dụng duy nhất là những gì có thể thấy và nghe được. Lời con nói có tác dụng trực tiếp gì trên người khác chăng, có ảnh hưởng cách họ phản ứng và trả lời lại con chăng? Nhưng con hãy nghĩ xem, một xung lực năng lượng được gửi đi sẽ lan ra như những vòng trên mặt nước, và sẽ đi rất rất xa khắp vũ trụ, tạo ra nhiều tác dụng rất sâu xa.  

Nếu con có thể cùng thày bay lên trên bầu khí quyển của trái đất, và nếu con có thể thấy, như thày có thể thấy, những làn sóng âm thanh do con người tạo ra, thì con sẽ thấy một hình ảnh khá giống hình ảnh địa cầu ban đêm chụp từ vệ tinh cho thấy các khu vực, đặc biệt chung quanh các thành phố lớn, giống như mạng ánh sáng tinh vi. Con sẽ thấy là các làn sóng âm thanh do nhân loại tạo ra cũng hợp thành những hình kỷ hà tinh vi, dĩ nhiên là tập trung vào các thành phố lớn nơi nhiều người tụ tập.

Nếu con có thể thấy hình dạng và màu sắc của các làn sóng âm thanh đó, con sẽ thấy tác dụng tai hại mà con người tạo ra hàng ngày bằng lời nói. Con sẽ rất kinh ngạc. Và nếu con có thể thấy tác dụng này, thì con sẽ nhận ra là con sống trong một nồi cháo năng lượng được liên tục tạo ra và củng cố bởi lời nói con người.

Con sẽ nhận ra là có những cách nói tạo ra vòng xoắn năng lượng đi xuống, nhập vào các vòng xoắn năng lượng tiêu cực của hành tinh. Do đó các vòng xoắn này trở thành đường hai chiều, vì người nói không chỉ gửi đi năng lượng mà còn nhận ngược lại năng lượng từ các vòng xoắn của tâm thức tập thể. Do đó mở đường cho các phàm linh trong tâm thức tập thể xâm nhập trường năng lượng của mình.

Con có đã từng trải nghiệm nơi chính mình, hay thấy nơi người khác, là có lúc con bị giam hãm trong một khuôn nếp khiến con không thể ngừng nói về một số đề tài? Giống như là họ không tự kềm chế được; họ phải nói cái gì đó; họ phải nói về đề tài đó. Và mỗi ngày họ lại phải nói thêm về đề tài đó, và phải tiếp tục cũng cố nó tuy họ không có gì mới để nói. Họ cứ phải lặp đi lặp lại hoài chuyện đó vì nó khuấy động năng lượng.

5.8. Ảnh hưởng của phàm linh hung hãn

Thày có thể bảo đảm với con là mỗi khi – và thày muốn nói thực sự là mỗi khi – con cảm thấy bắt buộc phải nói một số chuyện, đặc biệt là chuyện không tích cực, thì đó là vì trường năng lượng của con đã bị một phàm linh hung hãn xâm nhập. Nó muốn con nói chuyện này vì như vậy nó được năng lượng. Đây là một điều mà con sẽ học nhận ra, bằng cách thẩm định năng lượng lên hay xuống nơi tim. Mỗi khi năng lượng xuống, thì con biết là năng lượng đó đi đâu. Và con sẽ học nhận ra là khi năng lượng bị hút ra khỏi tim, thì có một phàm linh hung hãn đang hút năng lượng ra khỏi trường năng lượng của con.

Đó là lý do vì sao con có thể nhận ra mô thức là khi con nói điều gì hay với người nào một cách giận dữ hay khinh miệt, con cảm thấy mình tạm thời có thêm uy lực, giống như là cơn giận hay sự khích động cho con thêm uy lực, cho giọng nói nhiều sức mạnh hơn thường ngày. Nhưng cái giá con phải trả là khi sự bùng nổ hết thì cảm giác xung khởi – một sự xung khởi giả tạo – cũng biến mất. Khi đó, giống như với tất cả mọi xung khởi giả tạo, con sẽ cảm thấy xuống tinh thần. Con có thể học nhận ra mô thức xung khởi và xuống tinh thần này và nhận ra trạng thái gọi là xung khởi – và ngay cả khi con nói với sức mạnh của phàm linh hung hãn – không thực sự nâng năng lượng của con lên. Con có thể học nhận ra rằng tuy có sức mạnh nào đó tuôn chảy qua con, đó không phải là năng lượng cao. Do đó, tuy con phóng ra nhiều dung lượng hơn, nhiều năng lượng hung hãn hơn, nhưng nó không nâng năng lượng nơi tim con lên – và nó cũng không nâng độ rung của năng lượng.

Con yêu dấu, con sẽ thấy có sự khác biệt giữa tần số và âm lượng của sóng âm thanh. Một âm thanh thấp có tần số thấp vẫn có thể nghe to. Nhưng tần số không cao hơn khi con nâng âm lượng lên.

5.9. Tự nhận biết nhưng không cảm thấy tội lỗi

Thày cần con bắt đầu xem một cách nhẹ nhàng cách mình nói, xem cách con dùng giọng nói, và nhận ra là nó nâng cao hay hạ thấp năng lượng của mình. Nhưng thày không cần con – thày không muốn con – lên án, chỉ trích, hay trừng phạt mình. Con yêu dấu, con có hiểu chăng là các thày là thày tâm linh cần giữ một thăng bằng tế nhị? Các thày không thể giúp con nếu không chỉ cho con thấy những điều con cần sửa. Nhưng khi con mới bắt đầu nhận chỉ thị của các thày, có thể là khi các thày chỉ cho con thấy điều con cần sửa, thì con kết nối với một số mô thức tâm lý trong tâm mình. Như thày đã nói, con không thể sống trên hành tinh này mà không tiếp xúc với cái năng lượng rất hung hãn và lên án này.

Khi thày nói với con về nhu cầu thẩm định cách con dùng giọng nói, có thể là con có khuôn nếp trong trường năng lượng khiến con nhận ra là con đã không dùng giọng nói của mình một cách cao nhất. Điều này có thể nối kết với những vết thương xúc cảm khiến con nghĩ con phải cảm thấy tội lỗi, phải lên án mình, phải cảm thấy giận mình, phải sợ chuyện gì sẽ xảy ra, có thể là thày, Chân sư More, sẽ lên án con. Nhưng thày không lên án con. Thày không phán xét con. Thày không có nhu cầu phán xét con. Đây không phải là đức tính của Tia thứ Nhất hay các tia khác.

Thày chỉ tìm cách giúp con ý thức rõ hơn, để con quyết định con muốn tiếp tục khuôn nếp cũ hay thăng vượt nó một cách ý thức, bằng cách nhận ra rằng: “Cái này không phù hợp với tôi nữa. Nó không biểu hiện con người tôi nữa. Nó không phản ánh hình ảnh tôi có về mình nữa. Vì tôi đã trải nghiệm sự hiện diện của Chân sư MORE, và tôi biết Chân sư MORE không lên án, chỉ trích hay chê bai tôi.”

Con yêu dấu, con có thấy chăng là thày chỉ muốn nâng con lên. Thày là một chân sư thăng thiên. Thày không muốn hạ thấp bất cứ sự sống nào. Thày chỉ mong muốn nâng mọi sự sống lên. Con xứng đáng để được nâng lên. Con đã sẵn sàng để được nâng lên vì nếu không, con đã không đọc hay nghe bài giảng này. Chuyện giản dị như vậy đó.

5.10. Phương trình của sự xứng đáng

Con có hiểu chăng phương trình rất giản dị? Nếu con đã sẵn sàng nghe lời thày dạy, thì con đã xứng đáng thăng vượt, con có khả năng thăng vượt tầm tâm thức hiện tại của mình. Do đó chỉ còn một câu hỏi mà thôi. Con có muốn thăng vượt tầng tâm thức hiện tại của con không? Thày cho con biết giải đáp giản dị là gì. Nếu con muốn nghe bài giảng này thì con cũng có uy lực để thực thi nó. Con chỉ cần muốn một cách ý thức thực thi lời thày giảng và bỏ lại đằng sau ý niệm bản ngã cũ, phàm linh cũ, ở tầng tâm thức hiện tại của con.

Thày không chờ đợi là đa số người đọc hay nghe bài giảng này có thể bỏ lại đằng sau phàm linh của họ. Những chữ thày nói ở đây chỉ có mục đích giúp con hòa điệu tâm thức của con với Hiện diện của thày, giúp con có thể ban đêm tham dự nhập thất của thày. Vì chính nơi đó là nơi thày giúp con thấy được phàm linh, và sau đó tách mình ra khỏi nó. Vì, con yêu dấu, chắc con đã nhận ra là thăng vượt phàm linh không khó. Con chỉ cần nhìn thấy nó từ bên ngoài, như vậy con thấy nó không phải là con. Và khi con biết phàm linh không phải là con, thì con có thể cho nó chết đi mà con không chết. Con sẽ tái sinh với một ý niệm bản ngã cao hơn.

Thày có rất nhiều kinh nghiệm với tiến trình này. Thày có nhiều kinh nghiêm giúp đệ tử trải qua tiến trình này. Có thể là con không ý thức là con đang theo tiến trình này, nhưng thày bảo đảm với con là khi con ghi danh theo học với thày – bằng cách đọc các bài thỉnh trong quyển sách này và xin được dẫn tới khóa nhập thất ở Darjeeling ban đêm – thì con sẽ đi theo tiến trình này.

Thày sẽ giúp con. Thày đang giúp con. Thày đã giúp con. Vì nếu không làm sao con có thể hòa điệu với bài giảng này bằng tâm vỏ ngoài của con? Nguyên nhân dẫn tới hậu quả. Nếu con chưa sẵn sàng ở các tầng cao của tâm con – ở các tầng bản sắc, lý trí và tình cảm – thì con đã không thể tìm ra và học giáo lý này ở tầng ý thức.

Con chỉ cần hòa điệu với sự sẵn sàng và ý muốn đã có mặt nơi các tầng cao của tâm con, và nhận ra rằng, như thày đã nói trước đây, khi đệ tử sẵn sàng thì vị thày xuất hiện. Có nghĩa là vì thày đã xuất hiện trước mắt con ở tầng ý thức, thì con biết là thày đã làm việc với con ở ba tầng cao một thời gian rồi, trước khi con có thể nhận ra thày. Do đó, con đã sẵn sàng đem những thành đạt ở ba tầng cao hơn xuống tâm ý thức của con và nhận ra con là đệ tử của Chân sư MORE.

Con xứng đáng là đệ tử của thày. Con đã xứng đáng rồi, bằng không con đã không nhận được bài giảng này. Vậy con hãy bỏ đi nhu cầu chỉ trích hay chê bai mình. Con hãy áp dụng phương pháp thiết thực và tự hỏi: Làm thế này thành công hay không thành công? Chuyện này nâng cao hay hạ thấp năng lượng? Lời nói của tôi có đưa tôi đến nơi tôi muốn tới hay không?

Nếu con thấy khuôn nếp nói năng nào không đưa con tới chỗ con muốn tới, thì con hãy xin thày – với tâm ý thức của con – dẫn con tới khóa nhập thất Darjeeling và giúp con vượt qua chúng. Con sẽ ngạc nhiên – nếu con chịu đọc lời cầu nguyện đơn giản và bài thỉnh – thấy rằng con sẽ dễ dàng buông bỏ những khuôn nếp cũ, và con sẽ bắt đầu chuyển hóa cách nói chuyện của mình sau một thời gian ngắn. Thực sự là có lý do tại sao các thày tâm linh rất ít nói. Vì thực sự là không có nhiều điều đáng nói.

Thày không muốn nói là thày muốn các đệ tử của thày im lặng. Nhưng những điều cần nói ít hơn những điều được nói ra hàng ngày rất nhiều. Vì nhiều điều được nói ra không phải là từ hai con người đối thoại với nhau; đó là phàm linh hung hãn nói với nhau qua trung gian con người. Và thày tin rằng đây là một trò chơi mà con không còn muốn chơi nữa.

Thày là một chân sư có thể giúp con phá tan vòng xoắn cũ, để con xây dựng một vòng xoắn tích cực trong đó giọng nói của con chỉ nâng cao năng lượng của mình và của mọi sự sống chung quanh con. Giọng nói con sẽ đột nhiên trở thành cánh cửa mở để năng lượng của bảy tia sáng biểu lộ trong cõi vật chất. Năng lượng này sẽ gia tốc độ rung của mọi năng lượng trong cõi vật chất. Con sẽ trở thành thiện nghệ trong việc này.

Con có thể sử dụng giọng nói như một sức mạnh nâng mọi thứ lên, một sức mạnh hơn tất cả những gì mà nhân loại đã từng có. Sức mạnh này sẽ giúp lan tỏa ánh sáng, chuyển hóa địa cầu và thị hiện ở cõi vật lý Thời Hoàng kim của Saint Germain, vị anh em lừng lẫy của thày. Đúng vậy, đây là tiềm năng cao nhất của giọng nói con người. Con có tiềm năng này, và thày LÀ vị chân sư có thể dạy con thực hiện tiềm năng, nếu con sẵn sàng. Và thày tin là con sẽ sẵn sàng khi con bắt đầu nhận ra uy lực thực của giọng nói con người, thực sự là cánh cửa mở đón nhận giọng nói của Thượng đế, khiến con sẽ nói: “Vì miệng của Thượng đế đã nói điều này, Amen.”

Uy lực của cái Ta – Chương 7 – Điều ngự phản ứng của bạn

Ta hãy nhìn vào cuộc sống của bạn như bạn đang trải nghiệm nó ngay bây giờ. Giả dụ như bạn đang trải qua những hoàn cảnh sống làm cho bạn cảm thấy mình bị hạn chế, vì có vẻ như những hoàn cảnh này có ảnh hưởng lớn trên bạn. Vậy thì câu hỏi cần đặt ra là: “Làm sao tôi có thể vượt lên trên những hoàn cảnh này đây?”

Sự khôn ngoan thường tình và kinh nghiệm chung nói với ta là cách duy nhất để vượt lên trên một sự giới hạn là thay đổi chính cái hoàn cảnh bên ngoài đang giới hạn mình. Nói cách khác, cách duy nhất để ta thay đổi Kinh nghiệm Sống của mình là thay đổi cái gì đó bên ngoài chúng ta.

Vấn đề với giải pháp này là có rất nhiều hoàn cảnh bên ngoài mà ta có rất ít quyền lực để thay đổi thậm chí chẳng có quyền lực gì cả để thay đổi. Nói cách khác, bí mật của cuộc sống là ở đây: Làm sao ta thay đổi được Kinh nghiệm Sống của mình trong khi mình không có quyền lực trên các hoàn cảnh bên ngoài mà chúng ta nghĩ rằng đang khống chế Kinh nghiệm  Sống của chúng ta?

Làm sao ta có thể thoát ra khỏi ngã bí này? Hay là ta thử hỏi câu hỏi kiểu khác: “Có thật sự là các chuyện bên ngoài có quyền lực trên Kinh nghiệm Sống của ta chăng, hay chúng chỉ có quyền lực mà ta trao cho chúng?”. Nói cách khác, trung tâm quyền lực nằm ở đâu đây? Nó ở ngoài ta (như vậy có nghĩa là ta không thể làm được gì cả), hay nó ở trong chính tâm của ta, có nghĩa là ta có thể làm được cái gì đó?

Như đã nói ở trước, không phải ai ai cũng sẵn sàng đón nhận giáo lý của các chân sư. Thế nào là sẵn sàng? Bạn sẵn sàng khi bạn đã bước qua lằn ranh mà bạn nhận ra rằng bạn thật sự có thể thay đổi hoàn cảnh bên ngoài bằng cách thay đổi hoàn cảnh bên trong mình. Vậy thì bạn phải làm gì để thay đổi hoàn cảnh bên trong của bạn? Bạn phải thay đổi sự Trải nghiệm cuộc Sống của bạn.

Các chân sư thăng thiên dạy rằng có một sự khác biệt quan trọng giữa hoàn cảnh bên ngoài và bên trong; có sự khác biệt giữa cuộc sống của bạn và Kinh nghiệm Sống của bạn. Các thầy dạy rằng chìa khóa để thay đổi hoàn cảnh bên ngoài của bạn bắt đầu bằng cách thay đổi cái gì đang diễn ra trong tâm của bạn. Lý do là cái gì thật sự quan trọng không phải là chuyện gì xảy ra bên ngoài mà là phản ứng tâm của bạn đối với những sự việc bên ngoài đó. Phản ứng của bạn xảy ra trong chính tâm của bạn. Phản ứng đó do những yếu tố trong tâm của bạn tạo ra, có nghĩa là bạn có thể điều khiển những yếu tố đó.

Kinh nghiệm Sống của bạn  KHÔNG phải do sự việc bên ngoài tạo ra mà nó là PHẢN ỨNG của bạn trước sự việc này

Các chân sư thăng thiên dạy rằng chìa khóa để khai mở uy lực của cái Ta là làm chủ được phản ứng của bạn trước bất cứ chuyện gì trong thế giới vật chất. Các thầy dạy rằng một khi bạn điều ngự được phản ứng của mình, bạn thật sự có quyền lực thay đổi nhiều hoàn cảnh bên ngoài của mình. Hạn chế duy nhất là Quy luật Tự quyết, có nghĩa là khi bạn đã điều ngự được chính mình, bạn sẽ không muốn can thiệp chút nào vào quyền tự quyết của người khác. Như vậy bạn không muốn thay đổi hoàn cảnh bên ngoài đi ngược lại ý muốn của họ.

Theo các chân sư thăng thiên, tất cả chúng ta đã bị tẩy não, bị lập trình để tin vào một ý tưởng gian dối vĩ đại. Sự gian dối này có hai vế. Vế đầu là bạn phải phản ứng lại các hoàn cảnh của thế giới vật chất. Vế kia là sự phản ứng của bạn tùy theo hoàn cảnh bên ngoài. Các thầy dạy rằng chân lý sâu xa là bạn là một sinh thể tâm linh. Như bạn sẽ nhận ra khi đọc chương kế tiếp, không có chuyện gì trong thế giới vật chất này có thể ảnh hưởng tới cốt lõi của bản thể của bạn. Như vậy chẳng có quy luật tự nhiên nào nói rằng bạn phải phản ứng với sự việc xảy ra trong thế giới này. Cũng chẳng có quy luật nào nói rằng bạn phải phản ứng tùy theo những hoàn cảnh bạn đang gặp.

Giê-su đã cho chúng ta lời dạy tuyệt vời nhất về điểm này, nhưng tiếc thay đại đa số tín đồ Thiên Chúa giáo không nhìn thấy ý nghĩa thật của lời thầy dạy. Bạn nghĩ đi về ý niệm chìa má bên kia này. Giả dụ có người kia tới gần bạn và tát mạnh vào một má của bạn. Phản ứng “bình thường” là gì? Nó sẽ là “phản ứng đánh hay chạy”, có nghĩa là bạn sợ quá và chạy hay bạn giận lên và đánh lại. Bây giờ như Giê su nói, làm sao bạn có thể bình tĩnh đứng yên ở đó và cho phép người kia tiếp tục tát bạn vào má còn lại. Bạn chỉ làm được điều này khi bạn đã hoàn toàn làm chủ được phản ứng của bạn với mọi hoàn cảnh.

Bạn không phản ứng giống như đại đa số khi bạn vượt được lên trên khuynh hướng tấn công hay tháo chạy của người thường. Bạn phải làm chủ tâm của bạn mạnh đến độ bạn chẳng có phản ứng gì cả, ít nhất là phản ứng của con người thường, khi bạn bị tát vào má. Bạn phải làm chủ tâm của bạn mạnh đến độ bạn không cho phép bất cứ ai áp lực được bạn phải rơi vào trạng thái tấn công hay tháo chạy. Bạn không cho phép bất cứ điều gì thuộc thế gian vật chất này quyết định được chuyện gì xảy ra bên trong tâm của bạn. Đây là chìa khóa chính yếu của sự tự điều ngự, và trải qua bao nhiêu thời đại các vị thầy thần bí đã dạy điều này. Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn điều này.

7.1. Chìa khóa thiết yếu cho sự tự điều ngự

Bạn là một sinh thể tâm linh. Như đã nói, tiềm năng cao nhất của bạn là khi tâm bạn trở thành cánh cửa mở cho năng lượng của cõi tâm linh. Bây giờ chúng ta hãy quay trở lại những điều được nói trong các chương trước và xem xét kỹ hơn uy lực là gì. Bởi vì chúng ta sống trong thế giới mà mọi thứ đều là năng lượng, lẽ dĩ nhiên uy lực là năng lượng. Để thể hiện bất cứ uy lực nào ta cần có năng lượng làm động lực. Nhưng chúng ta có thể nói tới hai loại năng lượng: tâm linh và vật chất.

Như chúng ta đã thảo luận ở trên, uy quyền tối hậu của cái Ta là năng lượng tâm linh đến từ các chân sư. Nhưng đây là điểm khác biệt quan trọng giữa đa số các tôn giáo và giáo lý của các chân sư. Đa số các tôn giáo mô tả bạn như những con người trên cơ bản là bất lực, do đó cần một vị cứu tinh từ bên ngoài đi xuống và làm cái gì đó giúp bạn. Thiên chúa giáo là một ví dụ điển hình đã biến Giê-su thành một trộn lộn lạ lùng của ông Già Nô-en cộng với siêu nhân Superman. Nếu bạn tốt lành, bạn sẽ nhận được quà trên thế gian này, và rốt cuộc thầy sẽ ôm bạn trong cánh tay thầy và đưa bạn bay lên thiên đàng. Thực ra, Giê-su xuống đây để cho chúng ta một tấm gương về tiềm năng mà tất cả chúng ta đều có, khi chúng ta khai mở được uy lực của cái Ta.

Vậy thì đây là chìa khóa mà bạn cần nhận ra: uy quyền thực không đến từ bên ngoài của bạn. Các chân sư thăng thiên không phải là những vị thầy làm phép lạ, sẽ làm bất cứ điều gì cho bạn. Ngược lại, các chân sư thăng thiên sẽ cho bạn quyền lực tâm linh để bạn làm cái gì đó cho chính bạn. Điểm tinh tế phải nhận ra là quyền lực mà bạn nhận được từ các chân sư sẽ không đến từ bên ngoài và không thể nào đến từ bên ngoài của bạn. Nó đến từ bên trong của bạn, nó phải đến từ bên trong và sẽ đến từ bên trong của bạn. Điều này có nghĩa là bạn không thể nào nhận được quyền lực này khi bạn còn đi tìm kiếm nó ở bên ngoài của bạn.

Uy quyền thực không đến từ bên ngoài của bạn. Các chân sư thăng thiên không phải là những vị thầy làm phép lạ, sẽ làm bất cứ điều gì cho bạn. Ngược lại, các chân sư thăng thiên sẽ cho bạn quyền lực tâm linh để bạn làm cái gì đó cho chính bạn.

Bạn hãy thử nghĩ theo một kiểu khác nhé. Chúng ta biết là tiềm năng cao nhất của bạn là trở thành cánh cửa mở cho quyền lực đến từ cõi tâm linh. Nhưng làm sao bạn trở thành cánh cửa mở được đây? Bằng cách bạn vượt lên trên thói quen phản ứng với mọi chuyện trên thế gian này và cho phép chuyện trên thế gian định đoạt phản ứng của bạn.

Bây giờ, mình trở lại chuyện có người tát vào một bên má của mình. Nếu bạn phản ứng với sự giận dữ hay sợ hãi là bạn đã đóng cửa lại với uy lực cao của mình. Giống như bạn nói: “Tôi biết rồi. Tôi biết cách giải quyết chuyện này một mình tôi, như vậy tôi không cần uy lực của mấy người ở trên nữa đâu.” Điều mà Giê-su thực sự nói với chúng ta là khi chúng ta vượt lên trên những khuôn nếp phản ứng của người phàm này, chúng ta tránh không phản ứng theo cách thấp kém. Ngược lại chúng ta giữ mình trong trạng thái trung dung, không dính mắc, cởi mở. Chính nhờ sự cởi mở này mà uy lực tâm linh sẽ tuôn chảy xuống chúng ta.

Bạn có thể nghĩ rằng chìa má bên kia ra là một hành động hoàn toàn thụ động, nhưng thực ra đấy là hành động mạnh mẽ nhất mà bạn có thể làm được. Bạn hãy coi đây là một sự trao đổi năng lượng. Lẽ dĩ nhiên là người đánh bạn đang ở trong trạng thái tâm rất là phàm phu, anh ta đang phóng năng lượng thấp kém tới bạn, tức là năng lượng đã có sẵn trong quang phổ vật chất. Nếu bạn phản ứng với hành động tấn công hay tháo chạy là bạn trả đũa lại với chính năng lượng vật chất của mình. Như vậy vấn đề là coi xem ai là người mạnh nhất trong việc phóng ra ngoài năng lượng vật chất. Nhưng nếu bạn bình thản thì bạn lại cho phép uy lực tâm linh tuôn chảy xuống bạn, như vậy là năng lượng vật chất của anh sẽ gặp phải một năng lượng tâm linh mãnh liệt hơn rất nhiều. Bạn nghĩ coi, ai là người vượt lên trên trong sự trao đổi năng lượng này? Giê-su đã trao chìa khóa cho chúng ta 2,000 năm trước đây. Thầy nói, “Chính cá nhân ta chẳng làm nên việc gì,” có nghĩa là thầy hiểu ra rằng nếu thầy đồng hóa mình là một sinh thể tách biệt, thì thầy chẳng có uy lực gì cả. Thầy cũng nói rằng chính đấng cha bên trong thầy làm mọi chuyện, có nghĩa là thầy nhận ra rằng uy lực đến từ một nguồn gốc cao, nhưng cánh cửa mở cho uy lực đó chảy xuống nằm bên trong mình.

Giê-su cũng nói câu thật là sâu sắc sau đây: “Nước Chúa Trời ở trong con.” Nếu bạn thực sự hiểu câu này, bạn có thể khai mở toàn bộ uy lực của cái Ta. Để hiểu được hết ý của Giê-su, bạn cần biết cái ta là gì và nó có những phần nào. Chúng ta sẽ xem xét đề tài này trong các chương kế. Một khi bạn thấy cái ta là gì, bạn sẽ thấy cách khai mở uy lực thật của nó.

HẾT CHƯƠNG

Uy lực của cái Ta – Chương 6 – Làm cách nào neo chặt mình vào con đường tâm linh

Như đã nói ở trên, nhiều chân sư thăng thiên đã từng đầu thai trên địa cầu nên hiểu rõ địa cầu là một hành tinh phức tạp với một tâm thức đại chúng khá thô đặc. Dù các thày nhất quyết giúp tất cả mọi người trên thế gian, nhưng các thày cũng biết là nhân loại có nhiều trình độ tâm thức, do đó không thể dùng cùng một cách để dạy mọi người. Đúng ra là các thày biết là có một số người các thày không thể dạy trực tiếp được.

Nếu ta quan sát nhân loại thì sẽ thấy có một số người có trạng thái tâm cho rằng họ là nạn nhân và lúc nào cũng phải chống lại người nào khác. Những người này không sẵn sàng đón nhận các chân sư thăng thiên và giáo lý của các thày, do đó họ phải học hỏi bằng cách nhìn tấm gương vũ trụ phản chiếu lại những gì tâm họ phóng ra. Các chân sư thăng thiên gọi cách học này là học qua “trường đời cay đắng”.

Ta cũng thấy có nhiều người cởi mở với lời dạy của tôn giáo nhưng họ chưa sẵn sàng theo con đường thần bí, tức là con đường đi vào nội tâm để thực chứng tâm linh. Các chân sư có thể hướng dẫn các vị này với giáo lý bên ngoài, nhưng thông thường họ sẽ biến giáo lý này thành một loại tôn giáo nghi thức và khép kín, khác xa con đường tự vượt thăng của các thày. Một tôn giáo như vậy thường hứa hẹn là ta sẽ được cứu rỗi nếu ta tuân theo một số đòi hỏi vỏ ngoài, chẳng hạn như gia nhập một giáo hội, hay tôn thờ Giê-su là chúa hay đấng cứu thế. Nhưng, chỉ khi nào ta chán ngán tôn giáo vỏ ngoài và muốn đi xa thêm nữa thì các chân sự mới có thể dạy ta trực tiếp.

Ở đây chúng tôi không có ý định phân biệt cao thấp và nói rằng có những người tiến bộ hơn người khác. Tuy thế ta cũng phải nhận thấy là có người sẵn sàng liên hệ trực tiếp với các chân sư, và cũng có người chưa sẵn sàng. Đường ranh ở đâu? Ta phải tới điểm nhận ra một sự thực giản dị: “Nếu tôi muốn thay đổi hoàn cảnh bên ngoài, thì tôi phải khởi sự bằng cách thay đổi hoàn cảnh nội tâm của tôi. Nếu tôi muốn thay đổi thế giới, thì tôi phải bắt đầu bằng cách thay đổi chính mình.” 

Muốn tới được điểm đó thì ta phải lấy trách nhiệm làm chủ phát triển tâm linh của mình, ngay cả sự cứu rỗi của mình. Ta phải nhìn nhận một sự thực mà Giê-su có giảng, nhưng đa số tín đồ Thiên chúa đã “lờ” đi. Như chúng ta đã thấy, con đường thần bí là tiến trình vượt qua ảo tưởng mình tách biệt khỏi nguồn cội của mình. Đó là tiến trình nhập một với một cái gì lớn hơn mình. Chìa khóa để thành tựu tiến trình này là chuyển đổi quan niệm về ta, tức là chuyển đổi tâm thức. Ta phải thăng vượt cái ngã đang coi nó là một sinh thể tách biệt để được tái sinh như một Chân ngã coi mình như là phần nối dài của một đấng cao hơn.

Nói ngắn gọn là hoàn cảnh trên địa cầu phản ảnh trạng thái tâm thức của ta. Chìa khóa giúp thay đổi hoàn cảnh của ta là thay đổi trạng thái tâm thức của mình. Chìa khóa lối ra khỏi mê cung và thăng thiên khỏi địa cầu là thay đổi trạng thái tâm thức. Một khi ta chấp nhận điều này thì ta đã sẵn sàng được các chân sư dạy trực tiếp. Nếu bạn chưa tới điểm này, thì có lẽ bạn chưa tìm ra quyển sách này, và chắc chắn là bạn không thể tiếp tục đọc đến trang này. Vậy chúng ta hãy nhìn nhận điều này, và tiếp tục xem cách nào bạn có thể neo chặt mình vào con đường tâm linh do các chân sư thăng thiên vạch ra.

6.1. Giai đoạn thử thách đầu

Như đã nói ở trên, bạn cần phải sẵn sàng thay đổi chính mình, tức là trạng thái tâm thức của mình. Dĩ nhiên là sẵn sàng để thay đổi không có nghĩa là đã thay đổi. Các chân sư thăng thiên là các thày giáo, do đó các thày không đòi hỏi học sinh phải vẹn toàn mà chỉ cần chúng ta sẵn sàng học hỏi. Điểm quan trọng ở đây là khi chúng ta nghe nói về các chân sư thăng thiên thì chúng ta đã tới một trình độ trưởng thành nào đó, nhưng chúng ta cũng lê theo một số hành lý từ kiếp này hay các kiếp trước. Do đó, chúng ta cần trải qua một giai đoạn đầu qua đó chúng ta nỗ lực vứt bỏ các hành lý này.

Do đó, việc chúng ta cần phải giải quyết một vài vấn đề lúc ban đầu là điều tự nhiên. Có thể có vài điểm nơi giáo lý các chân sư mà chúng ta thấy khó chấp nhận, có thể có vài điều các thày khuyên răn mà chúng ta thấy khó thi hành, và cũng có thể có vài hành xử hay thói quen mà chúng ta cảm thấy khó rũ bỏ. Tuy nhiên, nếu chúng ta theo con đường các chân sư vạch ra thì sẽ cảm thấy – thường chỉ sau một thời gian ngắn ban đầu – là dầu chúng ta chưa về đến nhà nhưng chúng ta đã tự neo mình chặt chẽ vào một con đường hướng thượng. Chúng ta sẽ có một viễn kiến rõ ràng về mục đích và cách nào để tới đó, và chúng ta biết là nếu chúng ta kiên trì thì sẽ tới mục đích. Vậy ta cần làm gì để đến mức đó?

6.2. Hai “chân” của con đường

Như đã thấy ở trên, tất cả mọi thứ trong thế giới chúng ta sống đều được tạo thành từ năng lượng được nhào nặn thành hình tướng. Do đó, tiềm năng cao nhất của ta, trạng thái tự nhiên của ta, là tâm hay cái ngã của ta là một cánh cửa mở đón nhận ánh sáng từ cõi cao. Ta thực thi uy lực của Chân ngã bằng cách tạo một hình tư tưởng của cái gì ta muốn tạo ra và gán nó lên luồng ánh sáng chảy vào tâm ta. Như vậy, ta càng có nhiều ánh sáng chảy vào tâm thì khả năng sáng tạo của ta càng cao. Tuy nhiên, muốn mở tâm đón nhận thêm ánh sáng thì ta cần phải tảy sạch các chất đang chặn không cho ánh sáng rọi vào.

Có hai thứ chặn không cho dòng ánh sáng chảy vào tâm ta. Đó là các tin tưởng gây hạn chế nằm ở bốn từng của tâm, và các năng lượng bị tha hóa đã tồn đọng trong bốn từng của trường năng lượng. Do đó, hai chân của con đường tu tập là học hỏi giáo lý thích ứng (như về tâm linh, tâm lý, tự giúp v.v…) để nhận ra các tin tưởng gây hạn chế, và thực tập kỹ thuật tâm linh để giải trừ năng lượng tồn đọng. Tuy nhiên, mọi chuyện không quá dễ dàng như vậy.

Học hỏi một giáo lý tâm linh không giống như đi học tại trường đại học. Các chân sư thăng thiên không muốn bạn trở thành một học sinh ưu tú có khả năng học thuộc và trả bài trôi chảy. Các chân sư muốn bạn có kinh nghiện thần bí, tức là kinh nghiệm ngộ khiến bạn thực sự chuyển đổi tâm thức. Bạn có thể học giáo lý của các chân sư thăng thiên hàng chục năm mà không có một kinh nghiệm như thế. Các đệ tử rơi vào tình trạng này thường là các vị có một cái hiểu từ chương rộng lớn về giáo lý khiến họ cảm thấy hãnh diện về kiến thức của mình. Chính lòng hãnh diện này ngăn chặn kinh nghiệm ngộ, và do đó ngăn bước tiến.

Có hai thứ chặn không cho dòng ánh sáng chảy vào tâm ta. Đó là các tin tưởng gây hạn chế và các năng lượng bị tha hóa đã tồn đọng trong trường năng lượng của ta

Do đó, điều quan trọng khi ta học giáo lý là biết mục đích của giáo lý là để giúp ta kinh nghiệm ngộ. Có nghĩa là ta phải cố gắng nhận ra các thành kiến, các tin tưởng mà tự ngã không muốn ta tra vấn. Vấn đề rất giản dị. Tia lóe sáng giúp ta chuyển dời tâm thức không thể tìm thấy trong hộp tư tưởng do các tin tưởng hiện tại tạo ra – vì nếu vậy thì tâm thức của ta đã chuyển dời rồi. Do đó, ta chỉ có thể tìm thấy tia lóe sáng từ bên ngoài cái hộp do các tin tưởng hiện tại tạo ra. Có nghĩa là ta phải chịu mở tâm đón nhận những ý kiến thách đố hay vượt lên trên các niệm tin hiện tại của ta.

Nếu bạn học giáo lý của các chân sư thăng thiên với mục đích xác nhận các tin tưởng của bạn thì bạn sẽ không thể nào có kinh nghiệm ngộ. Và như thế có nghĩa là học giáo lý hoàn toàn vô ích. Nghĩa là bạn phải thử làm gì khác thay vì tiếp tục học hỏi.

6.3. Tầm quan trọng của thỉnh ánh sáng

Có hàng triệu người trong thế giới hiện đại đã học một giáo lý tâm linh nào đó. Có hàng triệu người đã thực tập một kỹ thuật tâm linh nào đó. Những người này sẽ được lợi lạc gì khi theo học giáo lý của các chân sư? Giáo lý của các chân sư khác gì những giáo lý khác?

Hiện nay, nhiều kỹ thuật thực hành tâm linh phát xuất từ phương Đông, thường là dưới dạng thiền, yoga hay niệm chú. Các chân sư thăng thiên không coi rẻ giá trị của các pháp tu này, nhưng các thày cũng gợi ý là nhiều người trong xã hội hiện đại sẽ đạt được rất nhiều lợi lạc hơn khi thực hành một kỹ thuật do các thày sáng chế ra. Kỹ thuật này dựa trên việc thỉnh ánh sáng tâm linh bằng cách dùng sức mạnh của ngôi Lời, của lời nói.

Bảy vị Elohim dùng âm thanh có nhịp điệu để khiến Ánh sáng Mẫu-Vật khoác những hình tướng trên địa cầu.

Chúng tôi có nói ở trên là bảy vị Elohim dùng âm thanh có nhịp điệu để khiến Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lên những hình tướng trên địa cầu. Chúng ta đều được sinh ra để thành những đấng đồng sáng tạo với các Elohim, vậy làm sao chúng ta hoàn thành được nhiệm vụ này nếu chúng ta không dùng kỹ thuật mà các Elohim đã dùng để tạo nên địa cầu?

Dĩ nhiên là ta có thể khiến Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lên một hình tướng bằng sức mạnh tư tưởng. Tuy nhiên, trong thế giới hiện đại, có quá nhiều năng lượng đã bị tha hóa và quá nhiều ý kiến gây giới hạn, do đó một đệ tử chỉ tập thiền thì rất khó đạt được tâm sáng suốt. Sự thực là đối với nhiều người Tây phương, nếu họ tìm cách dừng tâm lại thì họ có thể bị các năng lực tha hóa và ý tưởng bợn nhơ từ tâm thức đại chúng nhập vào tâm họ. Đó là lý do tại sao có nhiều người có những trải nghiệm rất tốt trong thời gian đầu tập thiền, nhưng sau đó không tiến bộ nữa và không đạt kết quả tốt nữa, và có khi còn bị hậu quả xấu.

Các chân sư thăng thiên giải thích là trong tình trạng năng lượng rất mạnh mẽ hiện nay, điều rất quan trọng là ta dùng kỹ thuật mạnh nhất mà ta có, đó là giọng nói của ta, tức lời nói. Khi chúng ta bị năng lực thấp vây quanh, thì việc đầu tiên ta phải làm là tạo một cái bầu che chở chung quanh tâm và trường năng lượng của ta, để không bị năng lực bên ngoài áp đảo. Và thực sự là không có cách nào hữu hiệu bằng cách dùng lời nói qua các bài chú và thỉnh mà các chân sư thăng thiên đã tận tay cung cấp cho chúng ta.

6.4. Tâm thức đại chúng

Cho tới đây chúng tôi chưa nói gì nhiều về tâm thức đại chúng, nhưng chúng ta đã thấy là mọi sự sống đều đan kết với nhau. Mối đan kết này dĩ nhiên là do tâm thức nối kết nhau. Chúng ta cũng đã thấy là khi chúng ta đi vào các lớp sâu của thế giới hạ nguyên tử, thì chúng ta gặp một trường tâm thức. Do đó, chúng ta có thể dễ hình dung là con người liên hệ với nhau qua một tâm thức đại chúng, là một trường năng lượng tập thể. Khi ta nhớ tới lịch sử đẫm máu của nhân loại – dù chỉ là trong giai đoạn rất ngắn được gọi là lịch sử được ghi chép – thì ta thấy là có thể có  – chắc chắn phải có – rất nhiều năng lượng tha hóa tồn đọng trong tâm thức đại chúng đó.

Trong trường năng lượng tập thể cũng có tất cả các ảo tưởng do tâm thức tách biệt nhị nguyên tạo ra. Và nếu ta đồng ý với một trong các ảo tưởng này – là một chuyện hầu như không thể tránh được – thì chúng sẽ mở một cánh cửa trong trường năng lượng của ta qua đó các năng lượng tha hóa từ trường tập thể có thể xông vào.

Ảnh hường của tâm thức tập thể có thể giải thích nhiều chuyện xảy ra trong đời sống chúng ta. Tại sao có ngày chúng ta cảm thấy chán nản, xuống tinh thần mà không biết vì lý do gì? Có thể chăng là những ngày đó chúng ta bị một xung kích mạnh mẽ hơn của tâm thức đại chúng tấn công? Có thể chăng là chính năng lượng của tâm thức đại chúng đã là sức mạnh áp đảo tâm con người và tạo ra các bệnh trầm cảm, nghiện ngập và các bệnh tâm thần khác? Có thể chăng là các năng lượng này đã khiến con người chán nản, khiến họ từ bỏ con đường tâm linh, có khi từ bỏ cả cuộc đời?

Các chân sư thăng thiên dạy rằng các người tâm linh đa số rất nhạy cảm. Đó là lý do vì sao chúng ta dễ đón nhận khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Nhưng cũng vì vậy mà chúng ta cũng dễ bị các năng lượng của tâm thức đại chúng xâm nhập. Nếu ta không có được cái mà các chân sư gọi là sự phân biện, thì tâm ta sẽ mở cửa đón các năng lượng tích cực lẫn tiêu cực  – vì nhạy cảm là nhạy cảm với tất cả. Do đó, điều rất quan trọng là ta dùng một kỹ thuật tâm linh thích hợp để niêm phong trường năng lượng của mình khỏi tâm thức đại chúng, như vậy sẽ giúp ta tạo một cái bầu bảo vệ khiến ta nghe được tư tưởng của mình thay vì các âm thanh lạc sóng do tâm thức đại chúng gây ra. Nhiều người đã kinh nghiệm là cách tốt nhất để thiết lập bầu bảo vệ tâm linh chính là bằng lời nói. Những người tâm linh sẽ nhận ra một hay nhiều triệu chứng sau đây:

  • Ta cảm thấy nội tâm rối loạn, tâm trí bối rối bất an đến độ không thể thư giãn hay được chút bình an nào.
  • Ta cảm thấy chán nản, có khi đến độ trầm cảm, vì cảm thấy những gì mình làm không có kết quả gì hay không có mục đích cao cả gì.
  • Ta cảm thấy bối rối, không có viễn kiến hay cảm nhận rõ ràng mục đích đời mình là gì.
  • Ta cảm thấy có lực bên ngoài đang muốn xâm chiếm tâm mình, muốn làm chủ tư tưởng và tình cảm của mình.
  • Ta cảm thấy như có ai đang muốn điều khiển mình, và mình cảm thấy bất lực không cưỡng lại họ được. Hoặc là ta cảm thấy lúc nào cũng cần tốn nhiều năng lượng để bảo vệ mình.

Bây giờ bạn hãy nghĩ là các hiện tượng này – và nhiều hiện tượng tuong tự – có thể có cùng một nguyên do: đó là trường năng lượng của bạn không được bảo vệ khỏi năng lượng đến từ người khác hay tâm thức đại chúng. Chính năng lượng bên ngoài này khiến bạn cảm thấy bất an, choáng ngợp hay trầm cảm. Do đó, một chuyện có thể giúp bạn có hướng đi mới trong đời là học cách thực hiện hai chuyện:

  • Niêm phong trường năng lượng của mình khỏi trường năng lượng của người khác và của tâm thức đại chúng.
  • Loại bỏ các năng lượng tha hóa đã tồn đọng trong từ trường của mình.

Ta có thể coi đây là làm vệ sinh năng lượng. Với nhiều đệ tử của các chân sư thăng thiên, thì thỉnh ánh sáng tâm linh để bảo vệ và chuyển hóa năng lượng tồn đọng đã trở thành một thói quen thường nhật, một phần quan trọng và tự nhiên như là tắm rửa. Ta chăm sóc thể năng lượng của mình giống như thân thể, chỉ có khác là ta dùng kỹ thuật khác nhau để chăm sóc các thể khác nhau. Ta dùng một số dạng ánh sáng để thỉnh một áo giáp chung quanh thể năng lượng của mình, và ta dùng dạng năng lượng khác để tắm gội trong ánh lửa tím.

6.5. Hiểu các tà lực

Dù cuốn sách này không nói sâu về các tà lực, nhưng bạn cần hiểu rằng ngoài tâm thức đại chúng, còn có những lực trên hành tinh này tìm cách ảnh hưởng và kiểm soát bạn một cách hung hãn. Các chân sư nói chúng ta không nên sợ các tà lực, nhưng mặt khác đừng che mắt mình và tưởng rằng chúng không hiện diện. Các chân sư đề cập tới hai loại tà lực:

  • Ở các đoạn đầu, chúng ta có nói đến sự kiện là bắt đầu từ bầu cõi thứ tư, một số sinh thể sa ngã vào tâm thức nhị nguyên. Một số các sinh thể này đã được cho phép đầu thai xuống trái đất và một số khác vẫn có liên hệ với trái đất nhưng họ ở các cõi cảm xúc, lý trí và phần thấp của cõi bản sắc.
  • Có những tà lực được tạo ra ở cõi vật chất bằng cách tập trung năng lượng tiêu cực tới độ nó biến thành một dạng tâm thức thô sơ.

Có hai lý do quan trọng khiến chúng ta cần biết tới sự hiện hữu của các tà lực có ý đồ hung hãn. Lý do đầu tiên là chúng ta hiểu được tại sao người ta có thể có những hành vi bất nhân và tàn bạo mà chúng ta thấy xảy ra trong lịch sử và ngay cả trong thế giới hiện đại. Ví dụ, một thanh niên đi vào trường học và bắt đầu nã súng vào người khác chắc chắn là không cư xử trong trạng thái tâm thức bình thường. Tâm của em đã bị tà lực xâm nhập và khống chế. Mục đích của tà lực là ăn cắp ánh sáng của tất cả những nạn nhân trong thảm họa dã man này.

Tà lực không thể nào ảnh hưởng người khác đi ngược lại quyền tự quyết của họ. Do đó, tà lực phải tìm cách lừa gạt để chúng ta mời họ vào trong trường năng lượng của chúng ta.

Nói vậy nhưng chúng ta cần hiểu rằng tà lực không thể nào ảnh hưởng người khác đi ngược lại quyền tự quyết của họ. Do đó, tà lực phải tìm cách lừa gạt để chúng ta mời họ vào trong trường năng lượng của chúng ta. Nhiều người làm chuyện này mà không biết mình đang làm như thế, nhưng bạn là một học trò tâm linh thì lẽ dĩ nhiên bạn phải biết là có tà lực hiện hữu để bạn có thể bảo vệ mình không bị chúng ảnh hưởng.

Ngoài ra, ta cần biết đến tà lực vì sự hiểu biết này giúp ta thỉnh ánh sáng tâm linh để niêm chặt trường năng lượng của ta không bị các tà lực này hay năng lượng của họ phóng chiếu vào. Ta cũng có thể thỉnh ánh sáng tâm linh để cắt đứt ta thoát khỏi những tà lực đã xâm nhập vào trong tâm và trường năng lượng của ta. Các bạn có thể có thêm nhiều thông tin về các tà lực này trên các trang mạng của tôi và trong một số sách khác của tôi. Điểm quan trọng trong cuốn sách này là cho bạn thêm một cái nhìn mới là bạn có thể thỉnh ánh sáng tâm linh để vừa bảo vệ bạn, vừa cắt đứt bạn thoát khỏi ảnh hưởng của các tà lực muốn ảnh hưởng bạn một cách hung hãn.

6.6. Bài thỉnh và bài chú

Các chân sư thăng thiên đã cống hiến hai phương tiện chính để thỉnh ánh sáng tâm linh, đó là các bài thỉnh và chú. Một bài chú là một lời khẳng định có nhịp điệu gồm một số đoạn thơ thường có vần. Thông thường một bài chú cần đọc nhiều lần. Một bài thỉnh là một nghi lễ dài hơn gồm một số lời khẳng định xen kẽ với các đoạn thơ được lặp đi lặp lại nhiều lần. Trong một số trường hợp, bài thỉnh được cấu trúc bằng cách thêm lời khẳng định vào các đọan thơ trong bài chú.

Ta có thể nói là khác biệt giữa bài thỉnh và chú là bài chú là phương tiện hữu hiệu nhất giúp ta thỉnh cầu năng lượng từ một trong bảy tia ánh sáng tâm linh, trong khi bài thỉnh có hai mục đích thỉnh cầu ánh sáng đồng thời giúp ta giải trừ các tin tưởng gây hạn chế. Thường một bài chú được đọc một cách mạnh mẽ và cũng có thể đọc rất nhanh. Như thế sẽ tạo ra một tác dụng mạnh giúp ta thỉnh được một lượng ánh sáng cao. Một bài thỉnh thường được đọc chậm hơn, để ta hiểu các lời khẳng định và vì sao chúng thách đố các tin tưởng hạn chế ta, và từ đó giúp ta đón nhận các tin tưởng trao quyền cho ta. Một bài chú nhằm thỉnh cầu ánh sáng từ một tia ánh sáng trong khi một bài thỉnh nhằm giúp ta vượt qua một trở ngại, tỷ dụ như vượt qua một khủng hoảng tâm linh, hay muốn được trù phú hơn, muốn tảy sạch bốn thể phàm, rũ bỏ quá khứ, thương yêu chính mình và nhiều đề tài khác nữa.

Điểm chung của bài chú và thỉnh là ta đọc ra tiếng, và đối với một số người tâm linh thì cần phải làm quen với chuyện này. Nhiều người trong chúng ta đã quen bỏ nhiều thời gian tập thiền và sống trong yên lặng trong kiếp này cũng như các kiếp trước. Chúng ta thoải mái quay trở về nội tâm trong khi nói ra lời là một hành động hướng ra ngoài. Lúc đầu, ta hơi cưỡng chống chuyện phải nói ra tiếng, một phần vì chưa quen và phần khác vì tự ngã sẽ tìm cách ngăn cản không cho ta thỉnh ánh sáng tâm linh. Tự ngã biết là nó chỉ có thể sống trong bóng tối của tâm, do đó khi ta thỉnh cầu được thêm ánh sáng, tâm ta bớt bóng tối và tự ngã không còn bao nhiêu chỗ để núp trốn nữa.

Điểm chính ở đây là đối với nhiều người, việc đọc bài chú là cái mắt xích cho tới bây giờ vẫn thiếu sót trong đường thăng tiến tâm linh. Ta có thể dùng lời nói để cắt đứt những sợi dây trói buộc ta vào một tầng mức nào đó trên con đường tâm linh. Nhưng điều ta phải nhận ra rằng chính những sợi dây đó sẽ cưỡng chống lại việc ta dùng lời nói. Như vậy ta phải quyết tâm vượt qua sự dè dặt ban đầu. Một khi ta đã vượt qua sự cưỡng chống ban đầu này, ta sẽ nhận ra rằng dòng ánh sáng ta nhận được sẽ giúp cho tâm ta thấy mọi chuyện sáng tỏ hơn, có nhiều năng lượng hơn và cuối cùng cảm thấy ngay cả sự an lạc và tĩnh lặng nội tâm. Nghe qua thì thấy thật là ngược đời: làm một việc rất năng động mà lại là chìa khóa của tĩnh lặng nội tâm, nhưng khi ta hiểu rằng chính năng lượng hỗn loạn trong trường năng lực của ta đã cướp đi sự an lạc nội tâm, thì ta thấy được tại sao bài chú thực sự là một phương tiện quý giá để thỉnh cầu ánh sáng từ trên xuống.

Ta có thể dùng lời nói để cắt đứt những sợi dây trói buộc ta vào một tầng mức nào đó trên con đường tâm linh. Nhưng điều ta phải nhận ra rằng chính những sợi dây đó sẽ cưỡng chống lại việc ta dùng lời nói.

Ta bắt đầu dùng lời nói như thế nào đây? Giản dị lắm, ta chỉ cần lên trang mạng www.transcendencetoolbox.com . Nơi đây, ta tìm thấy rất nhiều các bài chú và thỉnh cùng với lời hướng dẫn và băng thu âm, chỉ ta cách dùng các bài này.

Tuy nhiên có một điều nên cẩn trọng. Như ta đã biết, có tất cả bảy tia ánh sáng tâm linh. Có ba vị chân sư phục vụ cho mỗi tia ánh sáng với những trách vụ đặc thù. Có tầng lớp các vị Elohim là các chân sư đã tạo ra cõi vật chất, kể cả hành tinh này. Rồi có tầng lớp các Đại thiên thần cho chúng ta những đặc tính tâm linh đặc biệt, chẳng hạn như các vị này có thể bảo vệ chúng ta. Sau đó có tầng lớp các Thượng sư là vị thày giáo chính của mỗi tia sáng.

Như vậy là có tất cả là 21 vị chân sư mà ta có thể thỉnh cho cả bảy tia sáng. Ban đầu ta có thể choáng váng với con số này. Để bớt bối rối, đây là một lời khuyên giản dị. Khi mới bắt đầu, ta cần thỉnh ba dạng ánh sáng tâm linh:

  • Ta cần tia sánh sáng thứ nhất để được bảo vệ, và tốt nhất là dùng bài chú Đại thiên thần Michael hay bài thỉnh Đại thiên thần Michael
  • Ta cần tia sáng thứ tư để cắt đứt các dây trói buộc ta với tâm thức đại chúng hay tà lực. Để đạt được mục đích này, bài chú Elohim Astrea là mãnh lực nhất.
  • Ta cũng cần thỉnh ngọn lửa tím để chuyển hóa năng lượng tha hóa đã xâm nhập vào trường năng lượng của ta. Để đạt mục đích này, ta có thể dùng bất cứ bài chú nào của tia sáng thứ bảy, ví dụ như bài chú thày Saint Germain. Hay ta có thể dùng một trong các bài thỉnh chú trọng vào một vấn đề đặc biệt như tha thứ, biết ơn hay vượt lên trên quá khứ.

Chỉ cần làm theo một chương trình giản dị là thỉnh tia sáng thứ nhất, thứ tư và thứ bảy, tùy vào thời gian ta bỏ vô đó, tương đối không lâu sau ta sẽ cảm thấy mình không còn chìm đắm trong năng lượng tiêu cực nữa. Bây giờ, đầu của ta đã ngoi lên khỏi mặt nước. Ta bắt đầu nhìn được chung quanh, hay nói đúng hơn ta có thể nhìn vào nội tâm. Lúc này ta nhận được rõ ràng hơn chỉ thị của chân ngã hay của vị chân sư đang làm việc riêng với ta. Và chính những giáo huấn nội tâm này sẽ giúp ta bước lên một mức cao hơn trên con đường tâm linh.

Thật ra ta vẫn nhận được những giáo huấn nội tâm này; nhưng vấn đề là trường năng lượng của ta có đủ yên lặng không để ta nhận được chúng trong tâm ý thức của ta. Một trong những lợi lạc chính yếu của lời nói khi ta đọc bài chú và thỉnh là nó giúp ta ngay đúng vào trọng điểm này. Nó giúp cho các giáo huấn nội tâm dễ dàng đi xuyên qua năng lượng của vô thức để tới được phần tâm ý thức của ta. Nó thật sự giúp cho cuộc sống của ta đi vào một vòng xoáy lên cao.

6.7. Một chương trình thiết thực 

Con đường tâm linh thật sự rất cá biệt. Hoàn cảnh mỗi người độc nhất vô nhị cho nên rất khó đưa ra một lời khuyên thích ứng với mọi người đọc. Một số hành giả sẽ biết ngay là phương pháp thỉnh ánh sáng đúng là điều họ cần và họ sẽ dùng phương pháp này với sự quyết tâm lớn. Cá nhân tôi đã làm như thế cách đây gần 30 năm khi tôi được nghe về các bài chú này lần đầu.

Lúc đầu tôi có do dự vì trước đó tôi đã tập thiền nhiều năm. Nhưng sau khi tôi vượt qua sự cưỡng chống ban đầu, rất mau chóng sau đó, tôi cảm thấy thời giờ tôi bỏ ra để thỉnh ánh sáng đã đem lại cho tôi lợi nhuận vĩ đại. Tôi có thể chia ra làm 3 loại tác dụng khác nhau:

  • Tôi cảm thấy được là thỉnh sự bảo vệ tâm linh của Đại thiên thần Michael có tác dụng niêm phong trường năng lượng của tôi không bị sự xâm nhập của năng lượng tiêu cực. Tôi bắt đầu cảm thấy mình bình an hơn, tôi vượt qua được tâm xáo trộn, lo lắng và căng thẳng. Tôi cảm thấy tư tưởng của tôi là của tôi, chúng nó không còn khuynh hướng chạy loanh quanh, tìm cách giải quyết chuyện này hay chuyện kia.
  • Tôi cảm thấy là thỉnh ánh sáng của Elohim Astrea giúp tôi cắt bỏ những sợi dây ràng buộc tôi với năng lượng thấp kém hay ngay cả tà lực. Tôi cảm thấy bình an hơn một cách chung chung, nhưng tác dụng kỳ diệu nhất là nó giúp tôi ngủ nhanh. Phần lớn cuộc đời của tôi, tôi ngủ rất khó, vì cái trí tôi nó cứ làm việc không ngừng. Do đó tôi cứ lăn qua lăn lại 2, 3 giờ đồng hồ trên giường cho tới khi kiệt sức thì lăn ra ngủ. Hậu quả là tôi không nghỉ ngơi đủ và buồn ngủ trong ngày. Sau khi tôi bắt đầu đọc bài chú Astrea một cách nghiêm chỉnh, chỉ hai ba tuần lễ sau là tôi đi vào giấc ngủ trong vòng 15 phút. Kết quả thật lớn lao trên cuộc sống của tôi.
  • Khi tôi thỉnh năng lượng của tia sáng thứ bảy là ngọn lửa tím, tôi cảm thấy những vết thương lòng trong quá khứ của tôi bắt đầu tan đi. Có vài ba hoàn cảnh trong thời niên thiếu của tôi lâu lâu hiện về trong tâm. Lúc ấy tôi cảm thấy đau điếng vì mãnh lực của cơn đau nguyên thủy vẫn còn trọn vẹn như xưa. Vậy mà chỉ sau vài tuần thỉnh ngọn lửa tím với tất cả sự chân thành, một hôm kia tôi khám phá ra rằng tôi có thể nhớ lại những hoàn cảnh này mà không cảm thấy đau lòng. Bởi vì tôi không có làm gì đặc biệt để tạo ra sự thay đổi này, cách giải thích lô-gíc nhất là ngọn lửa tím đã chuyển hóa năng lượng tồn trữ trong thể cảm xúc của tôi. Do đó, khi tôi nghĩ đến những hoàn cảnh xưa, chẳng còn cái bình chứa những năng lượng tha hóa có thể tràn ngập và khuấy động cảm xúc của tôi nữa.

Dựa trên kinh nghiệm cá nhân, tôi xin đề nghị một chương trình giản dị nhưng hữu hiệu cho những ai muốn bắt đầu một cách vững vàng trên con đường thỉnh ánh sáng tâm linh. Dưới đây, có ba bài chú mà tôi đã nhận được thẳng từ các chân sư thăng thiên. Có bài chú Đại thiên thần Michael để xin được bảo vệ, bài chú Elohim Astrea để cắt đứt dây trói buộc ta với tâm thức đại chúng và bài chú thày Saint Germain để chuyển hóa năng lượng tha hóa.

Tôi đề nghị bạn tự hứa với mình với tâm kiên cường là bạn sẽ đọc các bài chú này trong ba tháng và sau đó lượng định kết quả. Tôi đề nghị bạn đọc bài chú Đại thiên thần Michael trong 15 phút buổi sáng, sau đó đọc bài chú Saint Germain 15 phút. Buổi tối, bạn đọc bài chú Astrea 15 phút, sau đó đọc bài chú Saint Germain 15 phút. Tôi biết rằng đối với nhiều người bỏ ra một giờ đồng hồ mỗi ngày có vẻ rất là nhiều, nhưng nếu bạn làm thử với tất cả tấm lòng chân thành, tôi tin chắc rằng bạn sẽ gặt hái kết quả lớn lao đến độ bạn muốn tiếp tục làm hoài. Thật sự, đây là phương pháp hữu hiệu nhất mà tôi biết được để gia tốc sự phát triển tâm linh của bạn và neo bạn lại vững chắc trên con đường tâm linh mà các chân sư đã tặng cho bạn.

Tôi khuyến khích bạn thăm viếng trang mạng www.transcendencetoolbox.com

Nơi đây bạn có thể nghe bản thu âm đọc bài chú. Điều này quan trọng vì bạn sẽ học được cách phát âm và dùng nhịp điệu đúng đắn. Bạn cũng tìm thấy ở đây thông tin để vào cửa hàng trên mạng của chúng tôi để mua và tải xuống các bài thu âm đọc bài chú nhiều lần bằng anh ngữ. Đọc bài chú theo bản thu thanh là cách hay nhất để học cách kiện toàn nghệ thuật dùng âm thanh thiêng liêng. Tôi cho rằng đây là một trong những đầu tư tốt nhất vào sự phát triển tâm linh của bạn mà bạn làm được từ trước tới giờ.

Xin lưu ý là tôi không có ý nói rằng chương trình tôi đề nghị ở trên là tất cả mọi thứ bạn cần. Chương trình này là một bước khởi đầu rất tốt để bạn thông sạch những khối chướng ngại tệ hại nhất che lấp cái nhìn tâm linh của bạn và làm nghẽn dòng chảy năng lượng. Khi có thêm kinh nghiệm, bạn sẽ muốn thử nghiệm một số bài thỉnh chất vấn các tin tưởng hạn chế bạn và cùng lúc thỉnh ánh sáng. Và lẽ dĩ nhiên, bạn cũng muốn học giáo lý của các chân sư thăng hoa. Bạn tìm thấy được rất nhiều các bài giáo lý này trên các trang mạng của tôi.

Tôi mạnh mẽ khuyên bạn nên bắt đầu đọc ngay các bài chú trong khi bạn tiếp tục đọc cuốn sách này. Như tôi đã nói nhiều lần, chỉ học thôi thì không đủ đâu. Trừ khi bạn bắt đầu thỉnh ảnh sáng, cuốn sách này cũng chỉ là một hoạt động trí năng khác sẽ không nâng cao tâm thức bạn và không cho bạn những kết quả mà bạn mong muốn. Bạn hãy nhớ, hai chân của tinh tấn là học hỏi và thỉnh ánh sáng tâm linh.

(tiếp theo là các bài cầu chú 1.02, 4.01 và , 7.02, và 7.07)

HẾT CHƯƠNG

Uy lực của cái Ta – Chương 5 – Những câu hỏi căn bản về cái ta

Nếu tâm bạn cởi mở khi đọc cuốn sách này, bạn sẽ được coi là người đang đi tìm hoặc người đi tìm tâm linh. Tôi nhớ rằng, ngay cả khi còn nhỏ, tôi luôn muốn có câu trả lời cho những câu hỏi lớn của cuộc đời. Tôi muốn biết thế giới thực sự vận hành như thế nào và tôi muốn biết tại sao tôi ở đây. Giản dị là tôi không thể sống mà không có câu trả lời cho những câu hỏi này, vì vậy tôi đã tiếp tục tìm kiếm cho đến khi tôi tìm thấy giáo lý của các chân sư thăng thiên – và tôi vẫn luôn mở lòng cho những câu trả lời sâu sắc hơn. Bạn có thể đã trải qua cuộc hành trình của chính mình đã dẫn bạn đến điểm này.

Những gì tôi sẽ làm trong chương này là xem xét những câu trả lời của các chân sư thăng thiên cho những câu hỏi lớn trong cuộc sống, thường được gọi là những câu hỏi căn bản. Tôi không nói rằng đây sẽ là câu trả lời cuối cùng, vì các chương sắp tới sẽ tiết lộ các tầng lớp và sắc thái sâu hơn. Nhưng chúng tôi vẫn có thể gợi ý những câu trả lời vượt xa những gì chúng ta tìm thấy được trong hầu hết các giáo lý của tôn giáo hoặc tâm linh.

5.1. Tôi là ai? Cái ta là gì?

Như chúng ta đã thấy, khoa học đã tiết lộ rằng năng lượng là một tầng thực tế sâu hơn vật chất. Các thiên hà và lò nướng bánh đều được tạo ra từ các nguyên tử. Tuy nhiên, các thiên hà và lò nướng bánh mì không tạo ra nguyên tử; chính các nguyên tử tạo ra các thiên hà và lò nướng bánh. Nguyên tử được tạo ra từ các hạt cơ bản, và các hạt này được tạo ra từ các sóng năng lượng. Nói cách khác, vật chất không tạo ra năng lượng; mà chính năng lượng tạo ra vật chất.

Chúng ta đều biết rằng bộ não của chúng ta được tạo ra từ vật chất và suy nghĩ của chúng ta rõ ràng được tạo ra từ các sóng năng lượng. Vì vậy, nếu cho rằng chất xám giữa hai tai của chúng ta lại có thể tạo ra ý thức thì không hợp lý chút nào. Ý thức có thể được xem như một dòng chảy đi vào thế giới vật chất từ một cõi cao hơn. Tâm của chúng ta – không ít thì nhiều – đều là cánh cửa mở cho dòng ý thức tuôn chảy vào. Rõ ràng, bộ não vật lý của chúng ta thực sự có thể thay đổi trạng thái ý thức của chúng ta, và bộ não thực sự tạo ra nhiều thứ mà chúng ta thường gọi là suy nghĩ. Tuy nhiên, tác động của bộ não giống như các miếng phin lọc màu mà bạn đặt trước ánh đèn sân khấu. Chúng không tạo ra ánh sáng trắng; chúng chỉ thay đổi màu sắc.

Các chân sư thăng thiên phân biệt giữa tâm hay ý thức và những suy nghĩ và cảm xúc. Tâm là hộp chứa và tư tưởng là vật chứa trong hộp. Bộ não thực sự có thể ảnh hưởng đến suy nghĩ của chúng ta, thậm chí tạo ra một số suy nghĩ, nhưng bộ não không tạo ra ý thức. Bạn không phải là suy nghĩ của bạn; bạn là tâm của bạn, là hộp chứa đựng cái ta của bạn.

Vì vậy, bạn không phải là một sinh thể vật chất và sự tự nhân biết của bạn không phải là sản phẩm của vật chất trong bộ não của bạn. Thay vào đó, bạn là một sinh thể phi vật chất chỉ sử dụng cơ thể và bộ não với hai mục đích, đó là trải nghiệm thế giới vật chất từ bên trong và thể hiện khả năng sáng tạo của bạn trong thế giới này.

5.2. Cái ta đến từ đâu?

Các chân sư thăng thiên nói rằng chúng ta là những sinh thể tâm linh đã xuống cơ thể vật chất của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta không phải là những sinh thể tách biệt; chúng ta là phần nối dài của các sinh thể ở trong cõi tâm linh. Những sinh thể này đã tạo ra thế giới vật chất và những cấu trúc cơ bản trong thế giới này. Tuy nhiên, họ đã sáng tạo từ bên ngoài. Sau đó, chúng ta được cử đến đây để tiếp tục quá trình sáng tạo từ bên trong – chúng ta được tạo ra để thành người đồng sáng tạo với cha mẹ tâm linh của chúng ta.

Bản sắc khiến bạn là một cá thể độc đáo là sự nối dài của cái ta cao hơn hay cái ta tâm linh của bạn.. Chúng ta sẽ xem xét kỹ hơn cái ta tâm linh này trong chương sau. Tất nhiên, cha mẹ tâm linh của chúng ta là những đứa con hoặc phần nối dài của các sinh thể tâm linh ở một bầu cõi cao hơn, và Chuỗi Sinh thể này đi ngược trở lên tới Đấng Sáng tạo.

Bản sắc khiến bạn là một cá thể độc đáo là sự nối dài của cái ta cao hơn hay cái ta tâm linh của bạn.

Các chân sư thăng thiên nói lên điều mà một số nhà thần bí đã nói từ hàng ngàn năm qua, đó là thực sự chỉ có một cái Ta, cái Ta của Đấng Sáng tạo. Mọi thứ đều được tạo ra từ cái Ta duy nhất hay cái tâm duy nhất này, và do đó không có gì thực sự tách rời khỏi cái tâm duy nhất đó. Chúng ta đã được ban cho một phần hay một đốm sáng của cái tâm duy nhất này, và đây là điều cho chúng ta sự tự nhận biết. Chúng ta có tiềm năng mở rộng sự tự nhận biết này trong khi vẫn giữ được cá thể của mình, nhưng chúng ta không thể làm điều đó với tư cách là những sinh thể tách biệt. Chúng ta chỉ có thể làm điều này bằng cách xem mình là một phần của tổng thể vĩ đại hơn –  của tâm duy nhất.

Ở cấp độ tổng thể, bạn được tạo ra như một phần nối dài của Bản thể của Đấng sáng tạo nhưng bạn có cá thể riêng. Bạn được tạo ra với một tự nhận biết có tính cách cục bộ, hạn hẹp như một điểm và mục đích của bạn là mở rộng sự tự nhận biết này, cho đến khi bạn đạt đến mức độ nhận biết giống như Đấng Sáng tạo đã tạo ra bạn. Lúc đó, bạn có thể bước vào cái Tất cả, hoặc bạn có thể trở thành một Đấng sáng tạo, tạo ra một thế giới hình tướng riêng của bạn. Đây là câu trả lời, một cách tổng quát, tại sao bạn hiện hữu như một cá thể có tự nhận biết.

Ở một cấp độ khác, chúng ta có thể xem xét lý do tại sao bạn ở trong thế giới vật chất này và mục đích của bạn khi đến đây là gì. Ở cấp độ này, bạn là một phần nối dài của cái ta tâm linh của bạn. Bạn được tạo ra để phục vụ như một người đồng sáng tạo với cái ta tâm linh của bạn và cha mẹ tâm linh của bạn. Bạn có sứ mệnh giúp nâng cao sự rung động của cõi vật chất, cho đến khi toàn cõi có thể thăng hoa và trở thành một phần của cõi tâm linh.

Tuy nhiên, mục đích thực sự chính là sự phát triển sự tự nhận biết của bạn. Thế giới vật chất chỉ đơn giản là một môi trường được thiết kế như một sân khấu hoặc phòng thí nghiệm, trong đó những sinh thể tự nhận biết có thể tăng trưởng ý niệm bản ngã của mình. Cha mẹ tâm linh của chúng ta đã sắp đặt một môi trường bên ngoài, và chờ đợi chúng ta dùng môi trường này để mở rộng nhận thức về khả năng sáng tạo, hay đúng hơn là đồng sáng tạo của mình.

Sau đó, chúng ta có thể dần dần làm chủ được môi trường của mình, và như vậy chúng ta tiếp tục xây dựng trên nền tảng đã được cha mẹ tâm linh của chúng ta định ra. Khi chúng ta đạt được khả năng làm chủ này, thì tâm chúng ta sẽ làm chủ vật chất, và khi quá trình này hoàn tất, chúng ta có thể thăng lên cõi tâm linh và trở thành những chân sư thăng thiên. Từ đó, chúng ta có thể chọn chuyển sang các cõi học tập khác, hoặc chúng ta có thể ở lại với trái đất để giúp những sinh thể chưa thăng thiên phát triển.

5.3 Ta liên hệ với Thượng đế ra sao?

Như đã nói rõ, các chân sư thăng thiên nói rằng có một Thượng đế, nhưng Thượng đế của các chân sư thăng thiên rất khác với hình ảnh Thượng đế truyền thống của Cơ đốc giáo. Đấng Sáng tạo không giống chút nào vị Thượng đế xa cách, giận dữ và hay phán xét, sẽ tống chúng ta xuống địa ngục nếu bị chúng ta làm phật lòng. Tuy rằng các chân sư thăng thiên ít khi đề cập tới Cựu Ước kinh, họ nói rằng hai điều răn đầu tiên trong số mười điều răn cho chúng ta một gợi ý quan trọng về một cái nhìn đúng hơn về Thượng đế.

Điều răn thứ nhất nói: “Trước mặt ta, ngươi không được có thần nào khác”, có nghĩa là chúng ta không bao giờ cho phép bất kỳ “thần” (hay tôn giáo) do con người tạo ra đứng giữa chúng ta và trải nghiệm trực tiếp, thần bí về đấng Thượng đế tối thượng. Điều này gắn liền với điều răn thứ hai, có nội dung: “Ngươi không được mang vào mình bất kỳ hình tượng khô chết nào.” Các chân sư nói rằng điều này không chỉ đề cập đến các thần tượng làm bằng gỗ, đá hoặc vàng. Ý nghĩa sâu xa hơn là bất kỳ hình ảnh tâm linh nào mô tả hình tướng của Thượng đế. Theo các chân sư thăng thiên, Đấng Sáng tạo là nguồn gốc của mọi hình tướng, nhưng như vậy, Đấng Sáng tạo hoàn toàn vượt ra ngoài mọi hình tướng.

Con người chúng ta có khuynh hướng sử dụng những gì chúng ta thấy được trong thế giới hữu hình để suy luận về những điều trong thế giới vô hình. Điều này đặc biệt không hữu ích khi nói đến Thượng đế. Theo nghĩa đen, không có gì – không có “vật” nào – trong thế giới hình tướng có thể mô tả chính xác Đấng Sáng tạo vượt ra ngoài hình tướng. Tuy nhiên, nếu tâm của chúng ta dính chặt vào một hình ảnh tư tưởng nào đó về Thượng đế, thì điều này sẽ khiến tâm chúng ta không có được một trải nghiệm thần bí về Đấng Sáng tạo thật. Bản chất của một trải nghiệm thần bí là nó đưa chúng ta vượt ra khỏi cái hộp tư duy hiện tại của chúng ta. Vì vậy, nếu chúng ta chỉ muốn một trải nghiệm thần bí phù hợp với những hình ảnh và niềm tin bên trong cái hộp tư duy của chúng ta, thì tâm của chúng ta không có tự do để có một trải nghiệm bên ngoài chiếc hộp.

Đấng Sáng tạo là nguồn gốc của mọi hình tướng, nhưng như vậy, Đấng Sáng tạo hoàn toàn vượt ra ngoài mọi hình tướng.

Quả thực con người có thể kinh nghiệm Bản thể của đấng Đấng Sáng tạo. Tuy nhiên, một khi đã có kinh nghiệm này, hiển nhiên việc tìm cách mô tả Đấng Sáng tạo qua lời nói hoặc hình ảnh của thế gian là điều hoàn toàn vô nghĩa.

Mối quan hệ của bạn với Đấng sáng tạo là gì? Bạn là một phần nối dài của Đấng Sáng tạo, do đó bạn là một phần của toàn bộ Bản thể của Đấng Sáng tạo. Điều này có nghĩa là Thượng đế thật không phán xét bạn. Đấng Sáng tạo đã ban cho bạn một phần của Bản thể của chính ngài, và sau đó ngài đã cho bạn hoàn toàn tự do để làm gì bạn muốn với phần đó. Một vị Thượng đế đầy tính phán xét và kiểm soát sẽ không bao giờ cho bạn tự do như thế. Vì vậy, Thượng đế thật thương yêu bạn với một tình thương hoàn toàn vượt lên trên tình thương có điều kiện mà hầu hết chúng ta chỉ biết đến trên trái đất này. Một Đấng Sáng tạo vượt lên trên hình tướng, thương yêu bạn với một tình thương vô điều kiện, phải chăng đây là một điều hoàn toàn hợp lý?

5.4 Ta sẽ đi về đâu; chuyện gì xảy ra sau khi ta chết?

Một lần nữa, câu hỏi này có thể được trả lời ở nhiều mức độ. Trong cái nhìn rộng lớn, bạn là một đấng sáng tạo đang thành. Do đó, bạn đang ở trong tiến trình mở rộng tự nhận biết của mình, cho đến khi bạn đạt đến mức độ của một đấng Sáng tạo.

Tuy nhiên, ở mức độ trước mắt hơn, nhiệm vụ của bạn là làm chủ được môi trường vũ trụ vật chất, cụ thể là hành tinh trái đất. Một khi bạn làm chủ được rồi, bạn có thể thăng lên cõi tâm linh và trở thành một chân sư thăng thiên. Vì vậy, mối quan tâm trước mắt là làm thế nào  làm chủ khả năng đồng sáng tạo của bạn và hội đủ điều kiện để thăng thiên, điều mà chúng tôi sẽ đề cập trong các chương tới.

Làm chủ môi trường thực sự có nghĩa là gì? Các chân sư thăng thiên nói rằng Giê-su, và nhiều vị thầy tâm linh khác, đã đầu thai để chứng minh tiềm năng mà tất cả chúng ta đều có. Cái gọi là phép lạ của Giê-su hoàn toàn không phải là phép lạ. Chúng là những minh chứng về khả năng tâm làm chủ vật chất mà tất cả chúng ta đều có thể đạt được, khi chúng ta đi trên con đường tâm linh đưa tới thăng thiên. Đó là lý do tại sao Giê-su nói rằng những ai tin thầy sẽ làm những việc mà thầy đã làm, mà còn làm giỏi hơn nữa.

Dựa trên điều này, hầu hết chúng ta có thể nhìn vào cuộc sống của chính mình và nói: “Chà, tôi vẫn chưa tới mức đó đâu.” Và như thế chúng ta tự hỏi chuyện gì xảy ra cho mình sau khi cơ thể chúng ta chết đi. Các chân sư thăng thiên nói rằng tất nhiên chúng ta không chết khi cơ thể chúng ta chết. Chúng ta, với tư cách là những sinh thể tự nhận biết, chắc chắn tồn tại sau cái chết của thân xác và bước vào một cõi khác. Điều này dẫn đến câu hỏi: “Nếu bạn chưa sẵn sàng thăng thiên khi cơ thể bạn chết, thì điều gì sẽ xảy ra?”

Các chân sư thăng thiên trả lời rằng bạn sẽ được cơ hội quay trở lại trong một cơ thể vật chất khác, và quá trình này sẽ tiếp tục trong nhiều kiếp nếu cần thiết, cho đến khi bạn đủ điều kiện để thăng thiên. Đây là quá trình thường được gọi là luân hồi.

Các chân sư nói rằng khi trái đất lần đầu tiên được tạo ra, nó ở trạng thái cao hơn và thuần khiết hơn ngày nay. Những làn sóng sinh thể đầu tiên trên trái đất đã xuống đầu thai trong trạng thái tâm thức cao hơn những gì được coi là “bình thường” ngày nay. Kết quả là họ chỉ cần một kiếp để đủ điều kiện thăng thiên.

Sau khi đa số cư dân trên trái đất rơi xuống trạng thái tâm thức thấp hơn mà chúng ta thấy ngày nay, sự mất cân bằng hiện ra dưới nhiều dạng, và kết quả là con người không thể duy trì một cơ thể vật lý cho suốt quãng đời khởi thủy của mình. Vì lý do này và vì  tâm thức thấp kém khiến cho việc hội đủ điều kiện thăng thiên khó khăn hơn, hầu hết chúng sinh không thể thăng thiên trong một kiếp nữa. Như vậy, luân hồi trở thành một điều tất yếu.

5.5. Tại sao luân hồi quan trọng

Một lý do khiến luân hồi quan trọng là vì nó trả lời một số câu hỏi khó trả lời nếu không có luân hồi. Hầu hết những người quan tâm đến tâm linh có lẽ đều biết rằng tâm lý con người rất phức tạp, nhưng sự phức tạp này từ đâu đến?

Theo triết học duy vật thì trước cơ thể vật chất không có gì c, vì vậy cách giải thích phổ thông là linh hồn chúng ta là sự kết hợp của những đặc tính di truyền và những ảnh hưởng từ môi trường. Tuy nhiên, điều này không giải thích được tại sao một số người có tâm lý phức tạp hơn nhiều so với người khác hoặc lại có một số người ác hơn nhiều so với những người khác?

Ví dụ, hãy nhìn vào một số người ác độc nhất trong lịch sử. Nhiều người trong số họ không có cha mẹ ác độc và họ không trải qua những chấn thương tâm lý lớn trong thời thơ ấu. Một lời giải thích hiển nhiên là những người này là tái sinh của những sinh thể già hơn đã phát triển các vấn đề tâm lý trong nhiều kiếp trước đó. Điều này cũng giải thích tại sao bất kỳ người nào bắt đầu làm việc với tâm lý của mình sẽ khám phá ra một sự phức tạp sâu rộng, với nhiều tầng của vô thức.

Đối với những người chân thành tìm kiếm con đường dẫn tới trạng thái ý thức cao hơn, sự tu tập của chúng ta sẽ dễ dàng hơn nếu chúng ta thừa nhận rằng mình là những sinh thể rất phức tạp bởi vì chúng ta đã tiến hóa qua nhiều kiếp sống. Vì vậy, chúng ta không thể chờ đợi rằng mình có thể tiến bộ trên con đường tu mà không cần phải đối mặt với nhiều tầng lớp của tâm lý mình. Và điều này giúp chúng ta phát triển một cách tu tập thiết thực và dài hạn, thay vì trở thành con mồi ngon cho những phương pháp tu nhanh chóng có trên thị trường tâm linh. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này sau, khi xem xét kỹ hơn con đường tâm linh, nhưng điều quan trọng là phải nhận thức rằng có luân hồi khi chúng ta bắt đầu nghiên cứu các khía cạnh thiết thực của con đường tâm linh.

HẾT CHƯƠNG

Uy lực của cái Ta – Chương 4 – Thế giới hình tướng được sáng tạo như thế nào?

Trong chương này chúng ta sẽ xem xét cái nhìn cơ bản về vũ trụ học của các chân sư thăng thiên, nghĩa là vũ trụ này được sáng tạo như thế nào, tại sao nó được sáng tạo và nó vận hành theo các quy luật cơ bản nào. Tôi biết rằng đề tài này có vẻ lý thuyết và trừu tượng cho một số độc giả, nhưng nó sẽ cho ta một nền móng giúp ta giải thích bản chất thật của cái ta và tiềm năng của cái ta là cánh cửa mở cho một uy lực cao hơn. Nó cũng sẽ giúp ta hiểu rõ hơn con đường tu thực tế được vạch ra trong phần sau.

4.1. Cấu trúc thứ bậc của vũ trụ

Khoa học đã cho ta thấy là vũ trụ có một cấu trúc thứ bậc. Tất cả mọi thứ ở cấp vĩ mô đều được cấu tạo bằng các phân tử, và do đó chúng chỉ có thể  được sáng tạo trong cái khung của các quy luật  điều hành chức năng của các phân tử. Tuy nhiên phân tử lại được làm bằng các nguyên tử, và như vậy chịu ảnh hưởng của những quy luật điều hành sự vận hành của các nguyên tử và tiếp tục như thế ở các tầng cấp sâu hơn. Các chân sư thăng thiên đồng ý với cấu trúc thứ bậc mà khoa học khám phá thấy, nhưng họ đi xa hơn thế rất nhiều, và rốt cuộc đi tới đấng Sáng tạo, chính là đỉnh của kim tự tháp thứ bậc.

Tuy nhiên, Đấng Sáng tạo được mô tả bởi các thầy thăng thiên rất khác với hình ảnh truyền thống của Thuợng đế. Nó đặc biệt khác với hình ảnh độc thần của một vị Thượng đế toàn nam, ngồi trên ngai vàng lớn màu trắng và phán xét loài người, đưa một số người đến sự đày đọa vĩnh viễn trong địa ngục.

Các thầy thăng thiên phân biệt giữa thế giới mà chúng ta đang sống và thế giới vượt lên trên thế giới đó. Họ nói rằng thế giới của chúng ta là “thế giới của hình tướng”, bởi vì mọi thứ trong đó đều có hình tướng làm cho nó khác biệt với các hình tướng khác. Đây là điều khiến chúng ta có thể bắt đầu với một sự tự nhận biết hạn chế và sau đó phát triển lên mức độ tự nhận biết cao hơn. Nó thậm chí khiến chúng ta có thể tin rằng chúng ta là những sinh thể riêng biệt, có nghĩa là chúng ta tách biệt khỏi Thượng đế, khỏi thế giới vật chất và khỏi những người khác.

Tuy nhiên, ngay cả điều này cũng có thể giúp chúng ta tăng trưởng sự tự nhận biết. Lý do là chúng ta phát triển sự tự nhận biết bằng cách nhận ra một cách ý thức là chúng ta đang ở trong một trạng thái hạn chế, rằng chúng ta hơn trạng thái đó, và sau đó có một lựa chọn ý thức muốn vươn lên một trạng thái cao hơn. Vì vậy, cho dù trạng thái hiện tại của chúng ta có hạn chế đến đâu, nó vẫn có thể là nền tảng cho sự phát triển của chúng ta.

4.2. Cái vượt lên trên thế giới hình tướng

Một trong những vấn đề cơ bản đối với các chân sư thăng thiên là con người chúng ta đã quá quen với cách nhìn cuộc sống dựa trên thế giới hình tướng – cụ thể là vũ trụ vật chất – và chúng ta đã quá quen với việc giao tiếp bằng lời nói. Rõ ràng từ ngữ được phát triển dựa trên một thế giới của các hình tướng riêng biệt và chúng phù hợp nhất để mô tả các hình tướng tách biệt rõ ràng với các hình tướng khác. Vì các giác quan của chúng ta được thiết kế để hoạt động với sự tương phản, vì vậy từ ngữ được tạo ra và rất phù hợp để mô tả sự khác biệt được xác định rõ ràng hoặc sự khác biệt theo cái nhìn đường thẳng.

Thật khó dùng từ ngữ để mô tả phần thực tại nằm vượt lên trên thế giới hình tướng của chúng ta. Do đó, các thầy đã ít nói về nó, nhưng họ đã đặt cho nó một cái tên: “Tất cả”. Tâm đường thẳng ngay lập tức muốn hỏi thế giới này đến từ đâu, nó được tạo ra khi nào, ai đã tạo ra nó và tại sao. Tuy nhiên, đây là những câu hỏi chỉ có ý nghĩa trong một thế giới có nhiều hình tướng khác nhau, vì chỉ trong một thế giới như vậy, người ta mới có thể tạo ra một dòng thời gian theo đường thẳng. Cái Tất Cả luôn hiện hữu và do đó không có bắt đầu hay kết thúc. Đó là một thế giới không theo đường thẳng, và do đó rất khó hiểu đối với những sinh thể trong một thế giới đường thẳng.

Hình 5 – Khoảng trống không thuộc đường thẳng

Điều quan trọng cần biết là trong Tất Cả không thể có các hình tướng tách biệt. Vì vậy, trong Tất Cả không thể làm những gì chúng ta đang làm bây giờ, cụ thể là bắt đầu với một nhận biết hạn chế và sau đó phát triển tới một trạng thái tâm thức rộng lớn hơn. Do đó, đấng tạo ra thế giới hình tướng của chúng ta đã chọn tạo ra thế giới của chúng ta như một cách để chính ngài phát triển và như một cách để chúng ta phát triển. Để làm được điều này, trước tiên, Đấng Sáng tạo của chúng ta phải tạo ra một bầu cõi có các đặc điểm hơi khác với cái Tất Cả.

4.3. Thế giới của chúng ta được sáng tạo như thế nào

Mỗi thế giới hình tướng được tạo ra bởi một sinh thể, có mức độ tâm thức của một Đấng Sáng tạo. Một đấng Sáng tạo bắt đầu quá trình tạo ra một thế giới hình tướng bằng cách đặt mình ra khỏi Tất cả. Vì chúng ta phải sử dụng các từ ngữ và khái niệm đường thẳng, chúng ta có thể nói rằng đấng Sáng tạo xác định một ranh giới bầu cõi chung quanh chính người. Người tạo ra một bầu cõi tồn tại bên trong Tất Cả, nhưng không có cùng mức độ rung động như Tất Cả. Nó được đặt riêng biệt khỏi toàn bộ.

Hình 6 – Điểm dị thường

Bước tiếp theo, đấng Sáng tạo tự rút lui khỏi không gian bên trong ranh giới này. Đấng Sáng tạo tự rút mình vào một điểm dị thường, và phần còn lại của bầu cõi trở thành một khoảng trống. Một lần nữa, chúng ta có thể nói theo từ ngữ đường thẳng rằng Tất Cả chứa đầy một dạng năng lượng rất cao, điều này không thể tạo ra sự phân chia hoặc tạo ra ấn tượng rằng một thứ gì đó tách rời khỏi Tất Cả. Để tạo ra một thế giới với các hình tướng dường như riêng biệt, trước tiên đấng Sáng tạo phải tạo ra một khoảng không không có năng lượng và không có hình tướng. Nó trống không.

Bước tiếp theo, Đấng Sáng tạo tạo ra năng lượng cơ bản sẽ được sử dụng để xây dựng thế giới hình tướng. Các chân sư gọi nó là ánh sáng Mẫu-Vật hay ánh sáng Mẹ. Sở dĩ gọi nó với cái tên nghe có vẻ nữ tính là vì để tạo ra một thế giới với những hình tướng riêng biệt, Đấng Sáng tạo phải xác định hai lực hoặc nguyên tố riêng biệt.

Đối với bất cứ thứ gì được tạo ra, cần phải có một lực lan ra hoặc bành trướng. Đây là lực mà Đấng Sáng tạo sử dụng để phóng chiếu ra thứ gì đó từ điểm dị thường ở trung tâm của khoảng trống không. Tuy nhiên, nếu lực lan ra này không được cân bằng với lực co lại, thì không có hình tướng nào có thể được tạo ra hoặc duy trì.

Để hiểu điều này, hãy nhìn vào khái niệm về Vụ nổ lớn. Các nhà khoa học nói rằng việc tạo ra vũ trụ vật chất bắt đầu khi tất cả năng lượng bị nén vào một điểm dị thường và sau đó được giải phóng trong một vụ nổ khổng lồ. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, một vụ nổ là một lực lan ra ngoài dẫn đến sự bành trướng mà không hình thành các cấu trúc có tổ chức. Vì vậy, mô hình Vụ nổ lớn chỉ có ý nghĩa nếu có một lực co lại để cân bằng với lực lan tỏa ra. Chỉ bằng cách cân bằng sự lan tỏa, một hình tướng đặc thù mới có thể được tạo ra và duy trì theo thời gian.

Hình 7 – Bầu cõi đầu tiên trong trống không

Các thầy nói rằng Đấng Sáng tạo đã định ra một phần nối dài của Bản thể của mình, cụ thể là năng lượng vũ trụ cơ bản sẽ được sử dụng làm vật liệu xây dựng cho thế giới hình tướng. Điều này đã tạo ra cực đầu tiên, cụ thể là cực giữa Đấng Sáng tạo, đại diện cho yếu tố nam tính, lan tỏa và ánh sáng Mẫu-Vật, đại diện cho yếu tố nữ tính, co lại. Điều này hơi giống với các khái niệm được tìm thấy trong một số tôn giáo, chẳng hạn như các khái niệm của Lão giáo về Âm và Dương.

Một cách khác để nói điều này là lực lan ra đại diện cho ý thức. Một sinh thể tự nhận biết có thể hình thành một hình tư tưởng về hình tướng mà y muốn tạo ra. Sau đó, y có thể gán hoặc phóng chiếu hình tư tưởng này lên ánh sáng Mẫu-Vật, ánh sáng này sau đó khoác lên cái khuôn đúc của hình tướng được hình dung. Do đó, chúng ta có thể nói rằng yếu tố tích cực của sự sáng tạo là ý thức, nó làm cho yếu tố thụ động là năng lượng, khoác lên những hình tướng đặc thù.

Sau khi đã định ra ánh sáng Mẫu-Vật, Đấng Sáng tạo phóng chiếu ánh sáng Mẫu-Vật ra khỏi điểm dị thường, và ngài tạo ra bầu cõi đầu tiên trong khoảng không. Khoảng không trống rỗng, nhưng bầu cõi đầu tiên chứa năng lượng rung động trong một quang phổ nhất định.

4.4. Sự sáng tạo các sinh thể có tự nhận biết

Sau khi đã tạo ra bầu cõi đầu tiên này, đấng Sáng tạo sau đó xác định một số cấu trúc trong bầu cõi. Ngài đã làm như vậy bằng cách hình thành một hình ảnh trong tâm ngài và phóng chiếu hoặc gán nó lên trên ánh sáng Mẫu-Vật. Nói một cách sơ sài, chúng ta có thể so sánh ánh sáng Mẫu-Vật với một màn hình phim. Bản thân nó không có hình ảnh, nhưng nó có khả năng phản chiếu bất kỳ hình ảnh nào được phóng chiếu lên nó.

Bước tiếp theo, Đấng Sáng tạo đã tạo ra một số sinh thể có sự tự nhận biết và gửi hoặc phóng chiếu họ vào bầu cõi đầu tiên. Những sinh thể này được tạo ra từ Bản thể của chính Đấng Sáng tạo, đó là lý do tại sao họ có khả năng tự nhận biết. Tuy nhiên, sự tự nhận biết của họ không phải là sự nhận biết toàn diện của Đấng Sáng tạo; đó là một sự tự nhận biết cục bộ. Những sinh thể đầu tiên này coi bản thân là những cá nhân, điều này cho họ cơ hội bắt đầu với sự tự nhận biết cục bộ và dần dần mở rộng nó, cho đến khi họ đạt đến mức độ của Đấng Sáng tạo trong khi vẫn còn là những sinh thể có cá thể. Mục đích của Đấng Sáng tạo khi tạo ra một thế giới có hình tướng là tạo thêm nhiều người Sáng tạo hơn, điều này cũng khiến đấng Sáng tạo phát triển.

Những sinh thể đầu tiên bắt đầu với ý niệm bản sắc cục bộ, tập trung vào môi trường nơi họ sống, một môi trường mà đấng Sáng tạo đã tạo ra cho họ. Nếu phải bắt đầu trong một khoảng trống không thì sẽ rất đáng sợ cho một sinh thể mới. Một người mới được tạo ra làm sao có thể tưởng tượng được các cấu trúc và tự tạo ra chúng? Vì vậy, một sinh thể mới được bắt đầu sống trong một môi trường được xác định trước, và sau đó y dần dần học về khả năng sáng tạo của chính mình trong môi trường đó. Khi sinh thể này biết hơn về khả năng sáng tạo của mình, thậm chí y có thể bắt đầu thay đổi môi trường của mình theo viễn quan của chính mình. 

Đây là một nguyên tắc áp dụng cho tất cả những sinh thể tự nhận biết trong một thế giới có hình tướng, bao gồm chính chúng ta. Tất cả các sinh thể này đều bắt đầu với một sự nhận biết cục bộ về bản sắc, và họ bắt đầu trong một môi trường được xác định trước. Bằng cách đáp ứng với môi trường của họ, họ dần dần học được khả năng sáng tạo của mình. Tất cả những sinh thể tự nhận biết đều có những khả năng sáng tạo cơ bản giống như Đấng Sáng tạo – nhưng không ở cùng một mức độ. Họ có khả năng hình thành một hình tư tưởng và sau đó phóng chiếu hình ảnh đó lên ánh sáng Mẫu-Vật, làm cho ánh sáng mang hình tướng thực hoặc vật lý của hình ảnh.

Tất cả những sinh thể tự nhận biết cũng có ý chí tự do hoàn toàn, có nghĩa là họ có khả năng hình thành bất kỳ hình tư tưởng nào mà họ có thể tưởng tượng được. Họ cũng có khả năng và quyền phóng chiếu bất kỳ hình ảnh nào họ có thể tưởng tượng được lên ánh sáng Mẫu-Vật. Tuy nhiên, bởi vì họ sống bên trong một môi trường nhất định, chắc chắn họ phải trải nghiệm những hình ảnh mà họ phóng chiếu lên ánh sáng Mẫu-Vật như là một phần của môi trường vật chất của họ. Chính qua tiến trình hình thành hình ảnh, lấy quyết định phóng chiếu hình ảnh nào lên ánh sáng Mẫu-Vật, và sau đó trải nghiệm hậu quả của quá trình này mà chúng ta phát triển sự tự nhận biết của mình.

4.5. Sự tiếp nối của các bầu cõi

Chúng ta hãy quay trở lại bầu cõi đầu tiên. Những sinh thể trong bầu cõi này bắt đầu bằng cách khám phá khả năng sáng tạo của mình, dần dần làm chủ được môi trường của mình và bắt đầu xác định môi trường của chính mình. Tuy nhiên, khi họ làm điều này, họ cũng cảm nhận được từ bên trong là họ là một phần nối dài của một Thực tại vĩ đại hơn. Khi nhận biết rõ hơn về mối liên hệ của mình với Đấng Sáng tạo, họ bắt đầu xây dựng cảm nhận mình là một với Đấng Sáng tạo.

Khi mỗi cá nhân đạt được sự hợp nhất này, họ nhận thức được rằng “Nếu Đấng Sáng tạo là nguồn gốc của tôi, thì tất cả những sinh thể khác trong bầu cõi của tôi phải đến từ cùng một nguồn gốc.” Do đó, tính hợp nhất theo chiều dọc trở thành tính hợp nhất theo chiều ngang, và tất cả các sinh thể trong bầu cõi đầu tiên bắt đầu cảm thấy đồng nhất với nhau, trong khi vẫn giữ được cá thể riêng của họ (thật ra là họ đạt được tính cá nhân thực sự như là một phần của một tổng thể lớn hơn).

Khi những sinh thể trong bầu cõi đầu tiên đạt được sự duy nhất này, họ có thể gia tốc năng lượng được sử dụng để xây dựng bầu cõi đầu tiên (nâng cao độ rung của nó). Đây là một quá trình theo đó toàn bộ bầu cõi thăng thiên lên một trạng thái cao hơn, và thấy được rõ ràng bầu cõi được tạo ra từ Bản thể của Đấng Sáng tạo. Vì vậy, trong khi các sinh thể vẫn xem mình là những sinh thể có cá thể riêng, họ không còn có thể tin rằng họ tách rời khỏi Đấng Sáng tạo hoặc tách rời khỏi nhau. Và không ai còn có thể tin rằng bầu cõi đầu tiên được tạo ra từ một chất bị tách ra khỏi Đấng Sáng tạo hoặc có sự tồn tại của chính nó. Bầu cõi đầu tiên sau đó đã trở thành một phần vĩnh viễn của cái mà chúng ta, theo quan điểm của chúng ta, gọi là thế giới tâm linh.

Sau khi những sinh thể trong bầu cõi đầu tiên làm cho bầu cõi của họ thăng thiên, họ đã đạt được mức độ điều ngự. Họ không ở cùng mức độ tự nhận biết như Đấng Sáng tạo, nhưng họ đã vượt xa mức tâm thức khi họ bắt đầu. Để cho những sinh thể này có cơ hội phát triển khả năng điều ngự của mình, Đấng Sáng tạo sau đó đã xác định một bầu cõi thứ hai trong khoảng không.

Tuy nhiên, thay vì tạo ra các cấu trúc trong bầu cõi thứ hai, Đấng Sáng tạo đã cho phép các chân sư thăng thiên từ bầu cõi đầu tiên tạo ra các cấu trúc trong bầu cõi thứ hai. Và thay vì gửi phần nối dài của chính mình vào bầu cõi thứ hai, đấng Sáng tạo cho phép các chân sư từ bầu cõi đầu tiên tạo ra phần nối dài của bản thể của họ, rồi gửi chúng vào môi trường mà họ đã tạo ra trong bầu cõi thứ hai. Như vậy, các chân sư từ bầu cõi thứ nhất đã trở thành “thượng đế” hay cha mẹ tâm linh cho sinh thể trong bầu cõi thứ hai.

Quá trình tạo một bầu cõi mới khi bầu cõi trước đó đã thăng thiên vẫn tiếp tục. Các thầy nói rằng vũ trụ vật chất là bầu cõi thứ bảy của những bầu cõi này. Điều quan trọng cần hiểu là mỗi lần một bầu cõi mới được thành lập, năng lượng cơ bản của bầu cõi đó dày đặc hơn so với năng lượng cơ bản của bầu cõi trước đó. Điều này, có nghĩa là các sinh thể trong bầu cõi dày đặc dễ cảm thấy là bầu cõi mình bị tách khỏi Đấng Sáng tạo và tự tồn tại một mình. Điều này giải thích tại sao hiện nay con người có thể tin vào hai ảo tưởng cổ điển mà nhân loại đã tin:

• Tôn giáo truyền thống, nói rằng có một vị Thượng đế, nhưng ngài là một vị Thượng đế xa xôi ngồi cao trên trời. Thế giới vật chất bị ngăn cách với vương quốc của Thượng đế bởi một rào cản, và chúng ta chỉ có thể vượt qua nó với sự trợ giúp của một số yếu tố ngoại lai được kiểm soát bởi tôn giáo vỏ ngoài.

• Chủ nghĩa duy vật, cho rằng không có Thượng đế và vật chất có thể tự tồn tại, nghĩa là nó không cần gì ngoài bản thân để tồn tại. Vì vậy, vũ trụ vật chất không được tạo ra bởi một sinh thể thông minh theo một kế hoạch đã được hình thành từ trước. Nó ra đời thông qua một quá trình hoàn toàn duy vật, được thúc đẩy bởi các sự kiện ngẫu nhiên và một tập hợp các quy luật tự nhiên mà không ai định nghĩa.

Cả hai ảo tưởng này đều được xây dựng trên ảo tưởng sâu hơn gây ra bởi phạm vi giới hạn của các giác quan vật lý của chúng ta. Chúng ta chỉ có thể phát hiện những rung động trong quang phổ tạo nên vật chất. Chúng ta không thể trực tiếp thấy rằng vật chất là một phần của chuỗi rung động liên tục lớn hơn, khiến chúng ta dễ lầm tưởng rằng chỉ có vật chất mà thôi, vật chất tồn tại tự nó hoặc vật chất tách rời khỏi Tánh linh. Con đường của nhà thần bí là một quá trình nâng cao tâm thức, cho đến khi chúng ta có những trải nghiệm trực tiếp, thần bí phá tan cái ảo tưởng nguyên thủy này của con người. 

4.6. Giới thiệu các tia sáng tâm linh

Chúng ta đã thấy rằng chúng ta có thể lấy công thức nổi tiếng của Einstein và áp dụng một phép toán đơn giản, nhờ đó chúng ta có được công thức mới này:

Như đã đề cập, công thức này cho chúng ta thấy rằng vũ trụ vật chất được tạo ra từ năng lượng của một rung động cao hơn, và năng lượng này sau đó bị giảm đi bởi một tỷ lệ nào đó. Tuy nhiên, những gì Einstein đã định nghĩa là c2 chỉ là yếu tố cuối cùng trong số những yếu tố giảm thiểu như vậy.

Các thầy thăng thiên dạy rằng bầu cõi mà chúng ta đang sống được tạo ra từ ánh sáng tâm linh đã được giảm độ rung bởi bảy yếu tố giảm thiểu. Những yếu tố này cũng có thể được mô tả như bảy loại năng lượng tâm linh, và chính sự kết hợp của bảy loại năng lượng này tạo nên quang phổ tần số vật chất.

Bảy loại năng lượng này được các thầy thăng thiên gọi là bảy tia. Các thầy dạy rằng mọi thứ trong vũ trụ vật chất đều được tạo ra từ sự kết hợp của cả bảy tia. Ví dụ, hành tinh trái đất được tạo ra bởi bảy sinh thể tâm linh, được gọi là Elohim. Những sinh thể này đến với nhau trong bầu cõi tâm linh và kết hợp những nỗ lực sáng tạo của họ để xác định một bản mẫu tinh thần cho hành tinh của chúng ta. Khi bản mẫu đã được xác định, họ bắt đầu quá trình dần dần gán bản mẫu lên trên ánh sáng Mẫu-Vật. Và động lực chủ yếu trong quá trình này là năng lượng và phẩm chất của bảy tia. Điều này xảy ra một phần nhờ sức mạnh của âm thanh, khi các  Elohim sử dụng những âm thanh đặc thù để tạo ra những rung động nhịp nhàng, điều này dần dần khiến năng lượng khoác lên hình tướng của bản mẫu của họ. (Ban đầu là Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Thượng đế và Ngôi Lời là Thượng đế.)

Mặc dù điều này nghe có vẻ giống như một quá trình đường thẳng, nhưng trên thực tế, nó phức tạp hơn nhiều. Tuy nhiên, điều quan trọng đối với chúng ta là bảy tia có thể được coi là tạo thành bảy lớp rung động “tách biệt” năng lượng của thế giới vật chất khỏi cõi tâm linh. Vì vậy, khi chúng ta cố gắng nhìn vào thế giới tâm linh, nó như thể có bảy bức màn ngăn cách chúng ta không nhìn được rõ ràng cõi tâm linh, giống như chúng ta đang nhìn qua bảy tấm kính màu. Chừng nào tâm thức của chúng ta còn chịu ảnh hưởng của ảo tưởng tách biệt, chúng ta không thể nhìn thấu qua năng lượng của bảy tia, có nghĩa là chúng ta không thể nhìn thấy rõ ràng cõi tâm linh. Chúng ta chỉ nhìn thấy những mảnh kính màu trong kính vạn hoa của cái Ta.

Điều này có nghĩa là con đường nâng cao tâm thức của chúng ta để làm chủ cái Ta là một quá trình tu tập thông qua bảy tia, bắt đầu với tia đầu tiên và kết thúc với tia thứ bảy.

Qua tiến trình ngộ mỗi tia sáng, chúng ta thực sự hòa điệu tâm của mình với tia sáng đó và trở thành một với sự rung động của nó.

Khi chúng ta khai ngộ được tia đầu tiên, chúng ta thực sự hòa điệu tâm của mình với tia đầu tiên và trở thành một với sự rung động của nó (hoặc chúng ta cũng có thể nói rằng tâm của chúng ta bắt đầu rung động đồng bộ với tia đầu tiên). Khi sự hòa điều này xảy ra, tia sáng đầu tiên sẽ không còn tạo thành một bức màn che khuất tầm nhìn của chúng ta. Thay vào đó, chúng ta sẽ có thể nhìn thấu năng lượng của tia sáng đầu tiên và có được tầm nhìn rõ ràng hơn về khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Chúng ta cũng sẽ trở thành một cánh cửa rộng mở cho những năng lượng của tia sáng đầu tiên truyền qua cái Ta, có nghĩa là chúng ta sẽ gia tăng uy lực của cái Ta.

Quá trình này sau đó có thể tiếp tục qua tất cả bảy tia, cho đến khi chúng ta bắt đầu thấy được sự duy nhất đằng sau tất cả các hiện tượng nhìn thấy được. Bây giờ chúng ta có thể nhìn xuyên qua các bức màn, và do đó chúng ta thấy được sự duy nhất đằng sau sự đa dạng. Đây là cái mà các thầy thăng thiên gọi là tâm thức Ki-tô. Quá trình này dần dần sẽ giúp chúng ta hoàn toàn làm chủ được cõi vật chất, nghĩa là chúng ta thực sự có thể làm những việc mà Giê-su đã làm. Chúng ta có thể tạo hình ảnh tinh khiết hơn và gán chúng lên trên ánh sáng Mẫu vật, nhờ đó chúng ta có thể ghi đè lên trên các hình ảnh không tinh khiết hiện đang hạn chế trái đất, chẳng hạn như dịch bệnh hoặc tài nguyên hạn chế.

Con đường khai ngộ bảy tia sáng nằm dưới sự dẫn dắt của các chân sư thăng thiên đặc biệt là các vị Thượng sư hay Chohans. Thượng sư là một vị chân sư,  “vị thày trưởng nhiệm” cho một tia đặc biệt. Trong một phần kế tiếp, chúng ta sẽ xem xét kỹ hơn về các tia sáng và con đường khai ngộ, Con đường của Bảy Tấm màn che.

4.7. Bốn tầng của thế giới

Để tạo nền tảng tốt hơn cho các chương sắp tới, chúng tôi sẽ thêm một lớp thông tin phức tạp nữa. Như đã được giải thích, một bầu cõi mới được tạo ra từ năng lượng ở một mức độ rung động nào đó. Khi các sinh thể tự nhận biết sống trong bầu cõi nâng cao tâm thức của họ, họ cũng nâng cao độ rung của bầu cõi của mình, cho đến khi nó thăng thiên và trở thành một phần của thế giới tâm linh.

Nói cách khác, khi một bầu cõi được tạo ra, một năng lượng cơ bản được xác định. Đây là năng lượng thấp nhất hoặc dày đặc nhất được tìm thấy trong bầu cõi đó. Như đã nói, đối với mỗi bầu cõi mới, năng lượng cơ bản dày đặc hơn so với bầu cõi trước đó. Điều này có nghĩa là đối với bầu cõi của chúng ta, có một khoảng cách khá lớn giữa năng lượng cơ bản và năng lượng của thế giới tâm linh.

Thực tế là không thể nào hạ thấp ngay lập tức năng lượng có mức rung rất cao của cõi tâm linh xuống mức rung thấp của năng lượng cơ bản của chúng ta. Hơn nữa, ngay cả khi làm được, các sinh thể trong cõi vật chất không thể thăng hoa lên cõi tinh thần được nếu họ phải vượt qua một khoảng cách rung động quá lớn như vậy. Do đó, quá trình hạ độ rung xuống được thực hiện trong bốn giai đoạn. Điều này có nghĩa là có bốn tầng, đôi khi được gọi là “quãng tám,” trong cõi vật chất. Hãy để chúng tôi mô tả sơ sài về bốn tầng này bằng cách so sánh chúng với việc xây dựng một tòa nhà.

4 TẦNG CỦA VŨ TRỤ VẬT CHẤT
1.Tầng ether hay bản sắcĐây là tầng cao nhất, nơi bạn tìm thấy các bản mẫu tinh thần cho tất cả các hình tướng trong cõi vật chất. Bạn có thể so sánh nó với tầng cấp của một kiến trúc sư, người nắm giữ viễn quan về bản mẫu tổng thể của tòa nhà.  
2.Tầng lý tríĐây là nơi bạn tìm thấy các kế hoạch cụ thể hơn để thực hiện thành sự thật bản vẽ mẫu của các kiến trúc sư. Hãy so sánh đây với tầng cấp của các kỹ sư, những người lập kế hoạch cụ thể và chi tiết hơn về cách thực sự xây dựng tòa nhà.
3.Tầng cảm xúcĐây là nơi bạn có kế hoạch của những người hỗ trợ tài chính và chủ sở hữu của tòa nhà. Họ đưa ra quyết định bắt đầu quá trình xây dựng, do đó kích động cho mọi sự chuyển động.  
4.Tầng vật lýĐây là nơi bạn tìm thấy các kế hoạch làm việc liên quan tới công việc lao động thực sự để xây dựng tòa nhà.  

Lời giải thích ngắn gọn là bốn tầng của cõi vật chất tương ứng với bốn tầng của tâm bạn: tầng bản sắc, tầng lý trí, tầng cảm xúc và tầng vật lý. Để khai mở toàn bộ uy lực của cái Ta, bạn phải thanh lọc bốn tầng này của tâm, loại bỏ các yếu tố lãm nghẽn không cho ánh sáng tâm linh tuôn chảy thông suốt qua tâm bạn. Tôi sẽ mô tả cách thực hiện điều này trong một phần kế tiếp.

4.8. Chúng ta là những nối dài của các chân sư

Chúng ta được thiết kế để trở thành người đồng sáng tạo. Thế giới của chúng ta được các chân sư thăng thiên sáng tạo ra. Họ ở cõi tâm linh ngay trên chúng ta. Chúng ta là phần nối dài của các thầy, và chúng ta được gửi đến đây để đồng sáng tạo thế giới của chúng ta từ bên trong, cuối cùng nâng nó trở thành một phần của thế giới tâm linh. Do đó, tâm của chúng ta có khả năng để hoàn thành sứ mệnh này.

Chúng ta đồng sáng tạo bằng cách sử dụng những năng lượng cơ bản của bảy tia sáng tâm linh. Theo con đường do các chân sư thăng thiên vạch ra, mỗi tia tạo nên một bức màn che. Khi chúng ta leo lên trên con đường tu, chúng ta sẽ làm chủ được tia này đến tia khác. Chúng ta học cách sử dụng năng lượng sáng tạo của tia sáng đó, và chúng ta hòa điệu tâm của mình với sự rung động của tia. Khi chúng ta đã đi qua tất cả bảy tia sáng, chúng ta đã khai mở toàn bộ uy lực của cái Ta.

Điều phức tạp của bức tranh là có một khoảng cách rất lớn về rung động giữa thế giới tâm linh và vật chất. Như vậy, quá trình hạ thấp năng lượng tâm linh xuống tầng cấp vật chất được thực hiện trong bốn giai đoạn. Kết quả là, chúng ta có các lớp trong tâm, tương ứng với bốn tầng: bản sắc, lý trí, cảm xúc và vật lý. Đối với hầu hết mọi người, các tầng cao hơn của tâm nằm ngoài ý thức. Chính trong những tầng vô thức này, chúng ta đã tích lũy những khối làm nghẽn sức mạnh sáng tạo của chúng ta – những mảnh thủy tinh trong kính vạn hoa của cái ta.

Khi chúng ta đi trên con đường của bảy tia sáng, chúng ta xóa sạch các khối nghẽn trong bốn lớp của tâm. Vì vậy, bước đi trên con đường tu của các chân sư thăng thiên là một quá trình hai việc, xóa bỏ các khối nghẽn trong bốn tầng của tâm trong khi điều ngự được bảy tia tâm linh. Khi chúng ta hoàn thành quá trình này, chúng ta sẽ khai mở quyền uy tự nhiên của cái Ta. Sau đó, chúng ta có thể hoàn thành sứ mệnh mà chúng ta chọn khi xuống thế gian này, cụ thể là để giúp đồng sáng tạo một thế giới vượt xa những gì chúng ta đang thấy trên trái đất.

HẾT CHƯƠNG

Uy lực của cái Ta – Chương 3 – Các chân sư thăng thiên có thật hay không?

Làm sao bạn biết được các chân sư thật sự hiện hữu? Nếu nhìn vào lịch sử, có hai cách để người ta trả lời câu hỏi: cái gì thực và cái gì không thực. Một cách là cách của các tôn giáo chính mạch, và họ tự cho mình cái thẩm quyền tuyệt đối và không một ai được quyền chất vấn họ. Cách thứ nhì là cách của khoa học duy vật phán rằng chỉ những gì nghiên cứu được và đo đạc được bằng dụng cụ khoa học mới có thực.

Cả hai cách này đều không áp dụng được để chứng minh các chân sư thăng thiên có hiện hữu hay không. Các chân sư không nói rằng họ có thẩm quyền dựa trên truyền thống hay dựa trên một tổ chức trong thế gian này. Thật ra, họ từ chối và không để họ bị giới hạn bởi bất cứ thẩm quyền hay tổ chức nào trên thế gian. Mặt khác, sự hiện hữu của họ không thể chứng minh được qua phương pháp khoa học (ít ra là ở thời điểm này). Vậy thì chúng ta làm sao đây, có cách gì ngoài hai cách kể trên không? Vâng, có một cách, đó là khả năng biết từ bên trong cái Ta của chúng ta.

Từ trước tới nay, cách này được gọi là cách tiếp cận trực giác hay thần bí. Nhìn lại lịch sử, cách tiếp cận thần bí là một cách khác, đứng ra ngoài thẩm quyền của tôn giáo và bằng chứng duy vật của khoa học. Đai đa số các tôn giáo chính mạch đều có một nhánh thần bí. Thật ra, chính các vị thành lập các tôn giáo này là những vị thần bí.

Bạn có thể thắc mắc tại sao mình chưa bao giờ nghe tới chữ thần bí. Nó có hai lý do. Lý do đầu tiên là cả hai tôn giáo chính mạch và khoa học duy vật đều không công nhận khoa thần bí. Lý do thứ nhì, là khoa thần bí chẳng bao giờ quảng cáo về mình, vì các nhà thần bí biết rằng con người phải đạt tới một mức độ trưởng thành tâm linh nào đó mới có thể sẵn sàng bước chân vào con đường thần bí.

Chìa khóa để có được sự khách quan thật sự là ta phải hiểu rõ về bản chất của tâm.

Con đường tu thần bí là gì? Nói một cách cơ bản, khoa thần bí nói rằng có một cách biết được thực tại vượt lên trên bất cứ thẩm quyền nào trên thế gian này, kể cả thẩm quyền của bằng chứng duy vật. Cách này là cách của nội tâm, là cách chúng ta có được trải nghiệm trực giác và thần bí. Bạn không tin những gì thẩm quyền tôn giáo hay chính trị nói, và bạn cũng không tin những gì thẩm quyền khoa học nói. Bạn chỉ chấp nhận điều đã được công nhận bởi kinh nghiệm nội tâm và trực tiếp của chính bạn.

Lẽ dĩ nhiên, các nhân vật thẩm quyền trên thế gian này sẽ nói rằng trải nghiệm cá nhân của bạn hoàn toàn chủ quan. Họ nói vậy vì họ không hiểu được bản chất của trải nghiệm thần bí, điều này có nghĩa là họ chưa bao giờ trải qua một trải nghiệm thần bí mạnh mẽ. Đúng thật là nhiều tin tưởng của con người mang tính chủ quan, nhưng đây không phải là sự thật trọn vẹn, và chính khoa học đã khám phá ra bằng chứng rõ nhất của điều này. Khoa vật lý lượng tử đã phá vỡ quan điểm duy vật cho rằng ta có thể đạt được tính khách quan bằng cách bỏ cái tâm qua một bên. Ngược lại, khoa vật lý lượng tử chứng minh cho thấy là chìa khóa của sự khách quan thật sự nằm trong sự hiểu biết về bản chất của tâm. Chính thế, từ mấy ngày năm nay, các nhà thần bí đã cầu tìm sự hiểu biết về cái tâm.

3.1. Khách quan theo cách tiếp cận thần bí

Các chân sư thăng thiên và khoa thần bí nói chung nói gì về vấn đề khách quan? Nhiều ngàn năm qua, các nhà thần bí đã nói rằng tâm con người có thể ở trong hai trạng thái tâm thức khác nhau. Trong một trạng thái thì mọi điều chúng ta nhìn thấy đều bị pha màu bởi một phin lọc, có nghĩa là kinh nghiệm của ta về thế giới hoàn toàn chủ quan. Nhưng trong trạng thái khác, ta đạt được cái thấy trong suốt và không pha màu, ta thấy mọi vật như là nó là, có nghĩa là ta có cái nhìn hoàn toàn khách quan về thế giới.

Lẽ dĩ nhiên, có một giai đoạn thứ ba, lúc ấy chúng ta bắt đầu có một cái nhìn thoáng qua của trạng thái tâm khách quan, nhưng ở mức độ nhiều hay ít, vẫn có thể xảy ra là hai người đều có kinh nghiệm thần bí thực nhưng họ lại diễn dịch nó ra ý nghĩa khác nhau. Giả dụ như một người Thiên Chúa Giáo và một người Hồi Giáo đều tin chắc là kinh nghiệm thần bí của họ xác nhận giá trị của tôn giáo của họ.

Con đường tu được các chân sư thăng thiên vạch ra là một tiến trình và lúc đầu ta sẽ có cái nhìn thoáng qua về một trạng thái tâm thức cao hơn. Dần dà ta trong lọc tâm mình và vứt đi những yếu tố chủ quan cho tới khi ta đạt được một cái nhìn trong sáng. Trạng thái tâm thức cao này có thể được gọi bằng nhiều tên như ngộ, nhận thức biết trần trụi hay tâm Ki-tô. Giáo lý của các thày thăng thiên được đề ra để giúp ta đi trọn hành trình tiến tới trạng thái tâm thức cao hơn này.

Bạn sẽ chưa thật sự nhận ra được sự hiện hữu của các chân sư cho tới ngày bạn có một trải nghiệm thần bí.

Trong thời đại này, ai cũng có thể tìm thấy được giáo lý của các chân sư trong sách và trên trang mạng miễn phí. Như vậy nhiều người có thể tìm thấy các giáo lý này mà không trải qua một kinh nghiệm trực giác. Có người có thể nhận ra giá trị của giáo lý dựa trên lý luận của lý trí vì giáo lý quả thật có thể trả lời rất nhiều câu hỏi. Nhưng để có thể giải đáp một cách thấu triệt câu hỏi rằng các chân sư có thật hay không, bạn cần phải trải qua một kinh nghiệm nội tâm. Kinh nghiệm không cho bạn cái mà chúng ta thường gọi là bằng chứng; nó cho bạn một cái “biết nội tâm” vi tế khiến bạn nhận ra rằng đương nhiên là các chân sư có thật.

Nói điều này xong thì chúng ta vẫn phải nhìn nhận là chúng ta phải cẩn thận khi nói đến kinh nghiệm cá nhân. Chúng ta có thể gặp nhiều người trong đó có nhiều người đi tìm tâm linh, đã tin những điều khó có thể tin được nhất. Ví dụ như hàng năm có những người thăm viếng Jerusalem và đi theo bước chân Giê-su, và sau đó họ tin chắc rằng họ là Ki-tô tái sinh và họ có sứ mạng cứu rỗi thế giới. Khi bạn hiểu kinh nghiệm thần bí là gì, bạn nhận ra rằng có một cách đặc biệt để tiếp cận các kinh nghiệm này.

3.2. Tâm là cái kính vạn hoa

Các chân sư thăng thiên có những lời dạy rất sâu sắc về trực giác. Các thày so sánh tâm con người với cái kính vạn hoa. Bạn biết là kính vạn hoa là một cái ống, bên trong nó có nhiều phiến phân cách, giữa các phiến này có những lớp thủy tinh nhiều màu sắc. Khi ta xoay cái ống, các miếng thủy tinh đổi chỗ và tạo thành những mô hình với nhiều màu sắc khác nhau.

Các miếng thủy tinh này giống như các ý tưởng và tin tưởng chúng ta có trong tâm ý thức và vô thức của mình. Khi chúng ta gặp một hoàn cảnh sống nào đó, cái kính vạn hoa của tâm mình xoay một vòng và tạo ra một mô hình màu sắc nào đó, đấy chính là kinh nghiệm chúng ta ý thức được về hoàn cảnh đó. Hệ quả sâu sắc là kinh nghiệm mà chúng ta có về cuộc sống của mình, gọi là Kinh nghiệm Sống của chúng ta bị ấn định bởi những ý tưởng mà chúng ta có trong tâm mình khi chúng được sắp xếp theo một cách nào đó trong mỗi hoàn cảnh riêng biệt.

Các thày dạy rằng đại đa số mọi người sống một cách thiếu tỉnh thức. Gặp chuyện là phản ứng một cách tự động máy móc và chọn lựa của họ hoàn toàn chịu sự ảnh hưởng của các miếng kính trong cái kính vạn hoa của tâm. Họ phản ứng mà không hiểu tại sao họ lại phản ứng như thế, họ thường nghĩ rằng đây là cách duy nhất phải phản ứng trong hoàn cảnh đó. Những người như thế thật sự không làm chủ phản ứng của họ, bởi vì họ chưa có quán xét những ý tưởng nằm trong tâm ý thức và vô thức của họ. Họ chưa sẵn sàng để nhìn thấy cái đà trong chính mắt của họ.

Ngược lại, các chân sư tặng cho chúng ta một con đường tu tập tự điều ngự, khi ấy chúng ta sẽ từ từ đạt được sự điều ngự các phản ứng của mình trước những hoàn cảnh gặp trong cuộc sống thế gian. Chúng ta sẽ học cách lấy những chọn lựa tự do và khách quan, thay vì để cho những khuôn nếp cũ trong tâm vô thức quyết định những phản ứng của chúng ta. Tuy nhiên con đường này bắt đầu với một nhận thức cơ bản. 

Các chân sư tặng cho chúng ta một con đường tu tập tự điều ngự, khi ấy chúng ta sẽ từ từ đạt được sự điều ngự các phản ứng của mình trước các hoàn cảnh gặp trong cuộc sống.

Khi bạn nhiều vào ống kính vạn hoa, sự chú ý của bạn dễ bị thu hút vào các mô hình màu sắc phong phú, và đây là điều đại đa số người đều làm. Khi nghĩ đến tâm của mình, mình thường chú tâm tới các tư tưởng đầy ắp trong đó. Đại đa số không nhìn thấy được gì khác vượt lên trên nội dung ở trong tâm của mình. Nhưng bây giờ bạn hãy tự hỏi một câu hỏi giản dị: “Làm sao tôi thấy được các mô hình nhiều màu sắc trong kính vạn hoa vậy?” Câu trả lời là nhờ có ánh sáng đi vào từ đầu bên kia của kính, và ánh sáng này – không giống như các mô hình nhiều màu sắc – KHÔNG được tạo ra bởi kính vạn hoa. Hiểu ra điều này rất là sâu sắc nếu ta áp dụng vào tâm của mình.

Từ lâu nay các nhà thần bí đã nói rằng sự kiện chúng ta có ý thức, có sự tự nhận biết chứng minh là có một dòng năng lượng và tâm thức tâm linh đã đi vào được tâm của chúng ta từ một nguồn cao cả. Như chúng ta đã thấy, điều này hoàn toàn phù hợp với vật lý lượng tử. Chúng ta biết rằng tâm chúng ta có thể tương tác được với cấp của các hạt hạ nguyên tử, do đó lẽ dĩ nhiên là tâm chúng ta có thể là một phương tiện hay một chén thánh đón nhận dòng năng lượng tâm linh cao hơn.

Đại đa số không ý thức về dòng năng lượng này, bởi vì họ tập trung vào nội dung trong tâm thức thay vì tập trung vào chính tâm thức biết. Họ chỉ thấy những mô hình nhiều màu sắc trong kính vạn hoa, mà không chú ý tới chính cái ánh sáng đã tạo ra chúng. Khi bạn có một kinh nghiệm thần bí, đó là vì bạn đã ngẫu nhiên chú tâm tới dòng ánh sáng đằng sau các mô hình nhiều màu sắc. Bạn trải nghiệm cái biết trong một dạng thuần khiết hơn.

Tuy nhiên, đây là điểm quan trọng. Tất cả mọi người đều có khả năng có một kinh nghiệm thần bí và nhiều người đã trải qua kinh nghiệm như thế. Tuy thế biết được rằng các mô hình sặc sỡ trong tâm được tạo ra nhờ có ánh sáng từ một nguồn gốc cao rọi xuống không giống với trực nghiệm thuần khiết về ánh sáng này.

Có một điểm rất quan trọng bạn phải biết là có một dạng nhận thức vượt lên trên những mô hình sặc sỡ của các tư tưởng hàng ngày, nhưng đây cũng chỉ là bước đầu tiên của một tiến trình tuần tự. Bởi vì khi mà ta còn tìm ánh sáng qua các tin tưởng và tư tưởng mà ta đang có, thì ánh sáng đó sẽ bị pha màu bởi nội dung có trong tâm ta. Có nghĩa là ta sẽ không thấy được thực tại như là nó là.

3.3. Tinh túy của khoa thần bí

Con đường tu tập thần bí là một tiến trình, ta dần dần trong lọc tâm ta qua việc buông bỏ tất cả những ý tưởng, tin tưởng, mô hình lý thuyết và giả định hạn chế tâm và đến từ thế giới vật chất. Nói cách khác, ta từ từ vứt đi một số các miếng kính sặc sỡ, và một ngày kia ta sẽ thấy ánh sáng đi vào tâm mình mà không bị pha màu gì cả. Ta có thể gọi đây là một trải nghiệm thần bí thuần khiết, một kinh nghiệm về sự nhận biết thuần khiết. Tuy nhiên vẫn có thể còn lại một số tin tưởng hạn chế tàn dư trong tâm, và nhà thần bí chân chính sẽ tiếp tục tiến trình thanh lọc cho tới khi tâm hoàn toàn sạch trong không còn ý tưởng hạn chế nào cả.

Tại sao điều này quan trọng? Các chân sư nói rằng bạn không thể thật sự biết được là các chân sư hiện hữu cho tới khi nào bạn trải qua một kinh nghiệm thần bí. Trước đó, bạn có thể nhận biết các chân sư qua trí năng và hiểu được giá trị của giáo lý của các thày một cách hoàn toàn qua lý trí. Nhưng chỉ khi nào bạn có được một kinh nghiệm nội tâm trực tiếp, thì lúc đó bạn thực sự thấy được là các chân sư có thật, và chỉ khi đó bạn mới nhận ra giá trị lớn lao của giáo lý của các thày đối với chúng ta và thế giới này.

Điểm quan trọng hơn cả là khi ta có kinh nghiệm thần bí lần đầu, tâm của ta vẫn còn sót lại nhiều miếng kính màu. Do đó, các tin tưởng này sẽ pha màu kinh nghiệm của ta, và như vậy có nguy cơ là kinh nghiệm thần bí được dùng để công nhận giá trị của một số tin tưởng của ta.

Một nhà thần bí chân chính nhận ra rằng một kinh nghiệm thần bí thật sự có giá trị. Nhưng giá trị của nó không phải để chứng minh một tin tưởng nào đó. Giá trị của kinh nghiệm thần bí là nó chứng minh cho ta thấy là có một trạng thái tâm thức vượt lên trên TẤT CẢ tin tưởng có trên trái đất này. Giá trị của kinh nghiệm thần bí là nó chứng minh rằng có một nguồn ánh sáng ở bên ngoài cái ống kính vạn hoa eo hẹp. Và nhà thần bí coi chuyện trải nghiệm ánh sáng này không có phin lọc là ưu tiên hàng đầu.

3.4. Tại sao cách tiếp cận thần bị lại rất quan trọng?

Các chân sư thăng thiên là những nhà thần bí chân chính của mọi thời đại. Trước khi thăng thiên, họ đã liên tục chất vấn các tin tưởng cưng của họ, cho tới khi họ có càng ngày càng nhiều kinh nghiệm thần bí. Thay vì dùng những kinh nghiệm thần bí này làm bằng chứng củng cố một hệ thống tin tưởng trần thế, họ dùng những kinh nghiệm này để chứng minh nhu cầu cần phải luôn luôn nhìn vượt lên trên mọi vỏ ngoài, luôn luôn đi tìm kinh nghiệm thuần khiết, không bị pha màu của ánh sáng tâm linh. Họ xem ánh sáng là sợi dây cứu rỗi dẫn tới nguồn cội của họ, và họ cứ đi theo sợi dây cứu rỗi này cho tới khi họ thể nhập làm một với nguồn cội của họ trong nghi lễ thăng thiên.

Các chân sư chỉ có một thông điệp cơ bản: “Cái gì một người làm được, tất cả đều có thể làm được.” Các thày đã chứng minh là chúng ta có thể vượt thăng mọi hạn chế của con người, và họ muốn chúng ta biết là chúng ta cũng có thể làm được như vậy. Nhưng muốn làm được vậy, chúng ta phải liên tục vượt thăng tất cả những tin tưởng hạn chế, cho tới khi nào chúng ta đạt được trạng thái nhận biết thuần khiết giúp cho chúng ta kinh nghiệm thực tại như là nó là, mà không có phin lọc và không có cảm nhận xa cách hay tách biệt. Giá trị của tiến trình vượt thăng mọi tin tưởng hạn chế đã được liên tiếp chứng minh qua mọi thời đại.

Tại sao điều này quan trọng? Bởi vì, trên thực tế, ánh sáng tâm linh muốn tuôn chảy vào thế giới này. Các chân sư thăng thiên biết rằng chìa khóa để thật sự thay đổi trái đất là làm sao cho có nhiều ánh sáng hơn tuôn chảy vào thế giới này, bởi vì khi con người thấy rõ hơn thì đương nhiên họ sẽ có những chọn lựa tốt đẹp hơn. Các chân sư lúc nào cũng sẵn sàng tuôn rải ánh sáng xuống thế gian này, vậy thì tại sao các thày không làm được chuyện giản dị ấy, cứ tuôn rải ánh sáng tràn ngập cho tới khi không còn chút bóng đen nào nữa?

Câu trả lời là Quy Luật của Quyền Tự Quyết, cho phép người dân cư trên trái đất được quyền có những kinh nghiệm mà họ muốn. Ngay bây giờ, đại đa số người dân trên trái đất đã chọn muốn có kinh nghiệm sống tách biệt khỏi Thượng đế. Kinh nghiệm này chỉ có được vì thế giới không tràn ngập ánh sáng tâm linh. Vậy thì làm sao cho có nhiều ánh sáng hơn đi vào quang phổ vật chất? Ánh sáng chỉ có thể đến qua trung gian tâm của những người đang đầu thai trên trái đất như tôi và các bạn. Chúng ta có quyền chọn để đem ánh sáng xuống qua tâm của chúng ta, dù rằng đa số mọi người vẫn còn muốn sống trong bóng tối.

Chìa khóa chân chính để khai mở ra uy lực của cái Ta không phải là một công thức thần tiên áp lực cho áng sáng đi xuống. Chìa khóa là ta phải vứt bỏ ra khỏi tâm những yếu tố đang ngăn chặn không cho dòng ánh sáng tuôn chảy.

Vậy thì tâm phải như thế nào để trở thành cánh cửa mở cho ánh sáng tâm linh? Ánh sáng đến từ các chân sư thăng thiên, ở một tầng cấp cao hơn chúng ta trong chuỗi các sinh thể. Do đó, cách duy nhất để ta nhận được ánh sáng từ các chân sư là ta phải hòa điệu tâm của mình với các chân sư. Và rốt cuộc có nghĩa là ta phải đi theo con đường thần bí nhập làm một với tầng cấp thực tại ngay ở bên trên chúng ta. Chúng ta đều có tiềm năng hòa điệu tâm mình với tâm của một chân sư thăng thiên, và ngay cả cuối cùng đạt đến sự hợp nhất là một với chân sư này. Đây là con đường các sinh thể nay đã thăng thiên đã đi trước chúng ta, và chúng ta hoàn toàn có khả năng đi theo con đường này.

Tuy nhiên tiến trình hòa điệu dẫn tới sự hợp nhất là một với chân sư xảy ra trong tâm chúng ta. Bạn có bắt đầu nhận ra tại sao nó quan trọng không? Có những sách tâm linh hay sách tự giúp mình nói với bạn rằng bạn cần một loại công thức bí mật nào đó để có được sức mạnh giúp thay đổi cuộc đời của bạn. Nhưng sự thật sâu sắc là sức mạnh thật sự của cái Ta nằm trong dòng ánh sáng tâm linh tuôn chảy xuyên qua tâm của bạn. Đây là một tiến trình hoàn toàn tự nhiên. Ánh sáng muốn tuôn chảy, và chắc chắn nó sẽ tuôn chảy qua một lỗ trống nào đó trong tấm màn “chia cách” cõi tâm linh và cõi vật chất.

Như vậy chìa khóa chân chính để khai mở uy lực của cái Ta KHÔNG nằm trong một công thức thần tiên áp lực cho dòng ánh sáng phải chảy xuống. Chìa khóa là bạn phải vút bỏ ra khỏi tâm những yếu tố ngăn chặn dòng chảy của ánh sáng. Khi tâm bạn được trong lọc, ánh sáng sẽ tuôn chảy một cách tự nhiên. Nhưng mọi chướng ngại cá nhân của bạn đều nằm trong tâm bạn, và bạn chỉ có thể giải quyết chúng ở bên trong tâm của bạn. Bạn chỉ có thể giải quyết chúng với những lựa chọn ý thức, khi bạn thấy được những tin tưởng đã hạn chế bạn và bạn quyết định chấp nhận một thực tại cao hơn đến từ một cái nhìn thần bí.

Các chân sư thăng thiên có một công tác khó khăn và tế nhị. Các thày có thể cho ta giáo lý vỏ ngoài, nhưng giáo lý vỏ ngoài không thể thay đổi bạn được. Giá trị duy nhất của giáo lý vỏ ngoài là bạn dùng nó như một chất xúc tác để đạt được một kinh nghiệm thần bí, trực giác. Và khi bạn có kinh nghiệm này, tâm thức của bạn sẽ chuyển hóa. Như vậy câu hỏi kế tiếp là bạn trong lọc tâm mình như thế nào đây, và chúng ta sẽ xem xét đề tài này trong một chương kế tiếp. Nhưng trước đó, ta cần phác thảo vũ trụ quan của các chân sư thăng thiên. Có một cái nhìn tổng thể rộng lớn rất hữu ích cho chúng ta trước khi chúng ta bị lôi cuốn vào chi tiết.

HẾT CHƯƠNG

Uy lực của cái Ta – Chương 2 – Các chân sư thăng thiên giúp được bạn như thế nào

Trong chương trước chúng tôi bắt đầu với khoa học. Đây là một ví dụ tốt cho thấy con người chúng ta có thể khởi đầu với những gì chúng ta thấy từ bên trong hộp tư duy của mình, rồi từ từ mở rộng tầm nhìn và hiểu thêm. Tuy nhiên, vật lý lượng tử giờ đây chứng minh cho chúng ta thấy là chắc chắn có cái gì khác vượt lên trên vũ trụ vật chất này. Và cái gì đó phải có một dạng tâm thức tinh vi hơn là tâm của chúng ta. Khoa học hiện nay chỉ dẫn chúng ta được tới điểm này; nếu chúng ta còn nhìn từ bên trong cái hộp tư duy thì chúng ta chỉ nhìn được tới đó mà thôi.

Vậy thì bây giờ chúng ta hãy hỏi một câu hỏi hợp lý: nếu có những sinh thể ở ngoài vũ trụ vật chất, nếu những sinh thể này đã sáng tạo ra vũ trụ và các đấng này đã gửi chúng ta xuống dưới đây để đồng sáng tạo thế giới này chung với họ, có lý chăng là các thày bỏ mặc chúng ta một mình sao? Và nếu các thày đã không bỏ mặc chúng ta một mình, có thể nào các thày đã cho chúng ta những giáo lý để nói cho chúng ta biết những điều mà chúng ta không thể thấy được từ bên trong cái hộp của chúng ta? Và phải chăng các giáo lý này có thể giúp chúng ta khơi mở được uy lực của cái Ta và cuối cùng thì chúng ta sẽ thăng thiên vĩnh viễn vượt qua cái hộp tư duy của con người và vũ trụ vật chất này? Nói cách khác, sẽ tới lúc trên con đường tu tập của bạn, bạn phải xét xem bạn muốn một vị thày loại nào: một vị thày nằm trong cái hộp tư duy của con người hay ở ngoài cái hộp này?

2.1 Bạn muốn một vị thày loại nào

Như chúng ta đã thấy, ngay bây giờ bạn đang nhìn đời qua một ý niệm bản sắc đặc biệt nào đó. Chúng ta có thể nói rằng bản sắc này tạo một cái hộp tư duy chung quanh con người thật của bạn, và hộp tư duy này pha màu bất cứ điều gì bạn thấy kể cả bạn thấy bạn như thế nào. Như vậy chìa khóa chính yếu để thay đổi Kinh nghiệm Sống của bạn là vượt lên trên cái hộp tư duy, để có thể nhìn lên trên những giới hạn mà mình tưởng là rất thật. Nhưng bạn không thể nào đạt được điều này nếu bạn dùng những ý tưởng, tin tưởng, kinh nghiệm và nhận thức đã có sẵn trong cái hộp.

Tại sao không được? Bởi vì tất cả những gì bạn nhìn thấy từ bên trong cái hộp nhìn ra chỉ công nhận thực tại của cái hộp. Cách duy nhất để thoát ra khỏi mê hồn trận của cái hộp là bạn phải vươn lên cao hơn để tìm một cái gì có thể chất vấn cái hộp, một khung tham chiếu vượt lên trên cái hộp. Bạn tìm đâu ra khung tham chiếu này? Câu trả lời giản dị là bạn cần một vị thày không nằm ở trong cái hộp tư duy cá nhân của bạn. Hãy để tôi giải thích điều này với một ví dụ.

Hồi nhỏ, chắc là bạn đã chơi một trong những trò đố mà bạn phải vẽ một đường xuyên qua mê cung để tới nơi có kho tàng ở giữa mê cung. Đây là một thí dụ giản dị.

Hình 3 – Mê cung

Có khi bạn đã từng thăm viếng một mê cung thật làm bằng những hàng cây cao dày đặc trồng quanh co theo một mô thức phức tạp. Một khi bạn ở trong một mê cung như thế, tầm nhìn của bạn bị giới hạn rất nhiều. Bạn chỉ còn thấy được những bức tường xanh rì tạo thành một hành lang eo hẹp. Khi bạn đi theo hành lang, bạn đụng phải một bức tường, nhưng quay qua một bên thì có lối đi tiếp. Nếu bạn quẹo, bạn lại rơi vào một hành lang khác, hành lang này lại dẫn tới hành lang khác. Đôi khi bạn tới được một chỗ có được hai hay nhiều lối ra hơn. Bạn chọn một lối, nhưng nó lại dẫn tới ngõ cụt, và bây giờ thì bạn phải đi ngược trở lại chỗ cũ của bạn. Lúc ấy bạn có thể chọn một đường khác với hy vọng nó dẫn bạn đi xa hơn.

Bạn có thấy ẩn dụ này giống như cuộc đời mình khi mình mới bắt đầu không? Chúng ta có một cái nhìn rất hạn chế về cuộc sống và chúng ta chỉ thấy được môi trường nhỏ chung quanh mình. Chúng ta không hiểu tại sao mình lại rơi vào cảnh huống rối beng này và cũng không biết nó dẫn mình đi tới ngõ cụt hay tới đâu nữa. Và vấn đề chính là khi chúng ta ở trong mê cung, chúng ta không có bản đồ, thì làm sao chúng ta biết mình đang ở đâu và tìm thấy lối ra?

Bây giờ bạn hãy tưởng tượng là trong khi bạn đang mò mẫm tìm đường thì bạn gặp một người nói với bạn rằng bà đã tìm thấy một khoảng thoáng rộng tuyệt vời trong mê cung nơi đó có một vòi nước mát. Bà chỉ lối cho bạn và sau khi quẹo chỗ này chỗ kia, bạn tìm ra nơi đó. Bạn vui sướng được ở nơi không gian mở và dòng nước thì mát rượi, nhưng được một lúc, bạn nhận ra rằng bạn vẫn còn đang bị kẹt trong mê cung và bạn vẫn không biết lối ra ở đâu, bạn còn không biết là có lối ra nữa hay không.

Người bạn đã gặp biểu trưng cho những người đã tìm thấy cái mà chính bạn chưa tìm thấy. Vì vậy họ có thể cho bạn lời hướng dẫn có giá trị. Nhưng họ vẫn còn bị kẹt trong mê cung như chính bạn. Giờ đây, hãy tưởng tượng là bạn nhận ra rằng bạn thực sự chán ngán quá cái chuyện cứ phải đi vòng vo như kẻ mù lòa. Bạn muốn một cái gì khác. Bạn muốn lời hướng dẫn của một người nào đã tìm ra giải đáp và đã tìm ra lối thoát khỏi mê cung. Bạn muốn lời hướng dẫn của một người đã tìm ra bản đồ và có thể giúp bạn vạch ra một con đường dẫn bạn thoát ra khỏi mê cung. 

Lúc đó bạn tìm ra một nơi thoáng rộng có một băng ghế. Bạn ngồi xuống và tựa lưng. Bất thình lình, bạn nhìn lên và thấy có một tòa tháp cao vươn lên từ trong mê cung. Tút trên cao của tòa tháp có một mặt phẳng tròn trên đó có nhiều người đang đứng để hướng dẫn những người đang đi lạc dưới mê cung. Bạn hiểu ra rằng vì những người đứng ở trên đó thấy được mê cung từ trên cao, họ có thể thấy được chính xác vị trí của bạn nằm ở đâu so với lối ra. Bạn liền leo lên băng ghế và bắt đầu khoa tay để tạo sự chú ý của một trong những người đang ở trên tòa tháp. Một trong những người này trông thấy bạn và hỏi bạn muốn gì. Bạn nói bạn muốn thoát ra khỏi mê cung và ông ta nói với bạn: “Hãy bắt đầu bước đi!” 

Khi bạn bắt đầu tuân theo lời hướng dẫn của người chỉ đường ở trên cao, bạn khám phá là ông có một cách hướng dẫn độc đáo. Ông không quyết định hộ cho bạn, nhưng ông ám chỉ đủ để bạn tự biết phải quyết định ra sao. Sau một lúc thì bạn cũng hiểu rằng tuy ông hướng dẫn bạn đi tới lối ra, ông không chỉ cho bạn con đường ngắn nhất. Lý do là ông biết bạn cần trải qua một số kinh nghiệm trước khi bạn sẵn sàng từ bỏ mê cung. Và ông rất khéo léo hướng dẫn bạn tới chỗ bạn cần tới để bạn có thể đi bước kế tiếp. 

2.2 Các vị thày toàn vũ của chúng ta

Cuốn sách này sẽ phác họa một con đường có hệ thống giúp bạn xây dựng mối quan hệ cá nhân với các vị thày tâm linh thăng thiên và với cái ta cao của bạn. Những người hướng dẫn đứng trên tháp cao trong mê cung giả tưởng ở trên là một biểu tượng về các vị thày này. Các thày đã từng đầu thai như chúng ta cho nên các thày hiểu chúng ta đang trải qua những gì. Nhưng các thày đã giải quyết được bí ẩn của cuộc đời con người và đã tìm được lối thoát khỏi mê cung. Vì vậy các thày có thể cho chúng ta một cái nhìn mà chúng ta là những người đang kẹt trong mê cung không thể có được. 

Chúng ta ai cũng có một vị thày như thế được chỉ định cho chúng ta và thày đã hướng dẫn chúng ta trên hành trình riêng của chúng ta những lúc chúng ta nghe được thày và vâng lời thày. Mục đích của cuốn sách này là giúp cho bạn biết một cách ý thức về các vị thày tâm linh của bạn. Như vậy bạn có thể bắt đầu nghe theo lời các thày hướng dẫn một cách tỉnh thức và chủ động hơn. Nếu được như vậy lẽ dĩ nhiên là bạn sẽ tiến bộ nhanh gấp bội.

Nếu bạn áp dụng các lời dạy và các phương pháp tu trong cuốn sách này, bạn sẽ không còn cảm thấy là mình đang lạc lối trong một môi trường thù địch và cũng chẳng đi tới đâu cả. Ngược lại bạn sẽ cảm thấy mình đang đi và trước kia cũng đã đi đúng trên con đường mà bạn cần đi để tới nơi mà bạn muốn tới trong cuộc sống. Có nghĩa là bạn sẽ tới được những nơi bạn cần thăm viếng trong mê cung trong khi bạn đang tiến gần hơn tới lối ra. Lối ra này là cánh cửa dẫn bạn vào một tầng mức thực tại rộng lớn hơn hẳn.

2.3 Bạn sẵn sàng nhận một giáo lý cao hơn

Như đã đề cấp, châm ngôn căn bản của các thày tâm linh là : “Khi người trò sẵn sàng, người thày sẽ xuất hiện.” Bạn đã tìm ra cuốn sách này, có nghĩa là ở một mức nào đó trong con người bạn, bạn đã sẵn sàng để đón nhận giáo lý và phương pháp tu do các chân sư thăng thiên đem lại. Tuy nhiên bạn nghĩ trở lại ẩn dụ mê cung. Sự thật là mỗi người chúng ta có một mê cung riêng mà chúng ta phải tìm đường đi ra để tìm thấy hướng đi trong cuộc sống của mình. Mê cung đó hiện hữu trong tâm của chính mình. 

Chìa khóa giúp bạn gia tăng sự nhận biết của cái Ta là trau dồi thói quen quan sát chính mình.

Mê cung riêng của bạn được tạo ra bởi những tin tưởng và kinh nghiệm mà bạn có trong suốt hành trình bạn trải qua trong vũ trụ vật chất này. Dù rằng chắc chắn là bạn sẵn sàng để học cuốn sách này ờ tầng mức sâu thẳm của con người bạn, vẫn có thể là bạn cần vượt qua một số chướng ngại trước khi bạn có thể sử dụng tối đa cuốn sách này. Bạn có thể vẫn còn những tin tưởng hay thành kiến ngăn cản không cho bạn chấp nhận những điều dạy trong sách. Hoặc chúng cũng có thể ngăn cản không cho bạn dùng những phương pháp tu mà bạn sẽ nhận được. 

Chúng ta chỉ cần hiểu một chân lý giản dị là giải quyết được vấn đề. Chìa khóa chính yếu để mở ra uy lực của cái Ta là chúng ta nhận biết được rõ hơn cái Ta đó. Chìa khóa giúp chúng ta gia tăng sự nhận biết cái Ta là trau dồi thói quen quan sát chính mình. Hãy để tôi giải thích theo một lối khác. Muốn mở ra uy lực của cái Ta thì chúng ta phải tìm đường trở về trung tâm của mê cung riêng của mình. Trung tâm này là căn phòng bí mật. Nhưng mê cung của bạn lại rất là lươn lẹo vì không có một con đường nào dẫn thẳng tới trung tâm. Bạn nhìn kỹ đi mê cung trên Hình 3. 

Các tin tưởng và thành kiến hạn chế của bạn tạo ra những bức tường trong mê cung của bạn. Chúng giống như những hàng rào cây dày đặc trong một mê cung thật ngoài đời. 

Hình 3 – Mê cung

Như vậy vấn đề không phải là tìm ra một con đường mở rộng, vì không có con đường đó. Tất cả các lối đã bị các quan niệm cưng của bạn làm nghẽn mất rồi.

Làm sao bạn phá vỡ bí ẩn này đây, làm sao bạn tới được trung tâm của cái Ta đây? Khi bạn gặp ngõ cụt, bạn phải đổi cách ứng phó. Ngõ cụt ngăn chặn bạn lại chính vì bạn có một quan niệm hay một tin tưởng mà bạn chưa bao giờ thật sự nhìn nó, vì từ trước tới nay bạn cứ đinh ninh nó đương nhiên là như vậy. Vậy thì bây giờ bạn phải lùi lại, nhìn nó và chất vấn nó. Bạn phải tự hỏi mình tại sao bạn tin điều này, và bạn phải thấy được tại sao nó ngăn cản không cho bạn tiến bộ thêm. Sau đó bạn phải quyết định đi xuyên qua nó thì lúc đó bạn sẽ thấy hiện ra con đường trước kia bị ẩn dấu đằng sau cái tin tưởng mà bạn chưa chất vấn.

Ngõ cụt chặn sự phát triển cá nhân của bạn là một quan niệm hay một tin tưởng mà bạn chưa bao giờ thật sự nhìn nó, vì từ trước tới nay bạn cứ đinh ninh nó đương nhiên là như vậy.

Hãy tưởng tượng bạn đang ở trong một mê cung thật, và sau khi đi lòng vòng một thời gian dài, bạn nhận ra rằng không có con đường nào dẫn tới trung tâm. Nhưng khi bạn xem xét kỹ, bạn nhận ra rằng giữa các cây tạo nên hàng rào có những khe hở nhỏ. Do đó, thay vì đi bên ngoài các bức tường cây, bạn phải đối phó kiểu mới và đi xuyên qua các bức tường cây. Và chỉ bằng cách này bạn mới tiến gần tới căn phòng riêng mang kho tàng của bạn.

2.4 Chân sư thăng thiên là ai?

Như chúng ta đã thấy, thế giới vật chất và tâm linh được làm bằng cùng  một chất, điểm khác biệt là tần số rung động của chất này được giảm xuống rất nhiều cho thế giới vật chất so với thế giới tâm linh. Điều này có nghĩa là không có hàng rào cản giữa thế giới tâm linh và thế giới của chúng ta. Thế giới vật chất nằm trong trường năng lượng rộng lớn của cõi tâm linh. Thế giới tâm linh bao bọc ngay chung quanh chúng ta; chỉ vì nó rung động ở một tần số cao hơn nên chúng ta không thể thấy nó. Nhưng chúng ta có thể cảm nhận được nó qua trực giác. Chúng tôi sẽ đề cập sau tới chuyện này. 

Hình 4 – Thế giới Tâm linh ở chung quanh chúng ta

Chúng ta cũng đã thấy là tâm thức của chúng ta có thể tương tác với chất lượng tử, bởi vì có một dạng tâm thức có mặt ở tầng lớp lượng tử. Tâm thức này là một số các sinh thể có khả năng tự nhận biết và chính là những vị đã tạo ra thế giới vật chất này. Có thể gọi các sinh thể này là sinh thể sáng tạo, sinh thể lượng tử hay các vị chân sư thăng thiên hay thày tâm linh của chúng ta. Riêng tôi thì thích gọi các vị đó là chân sư thăng thiên. Từ ngữ “chân sư thăng thiên” chỉ một cái gì quan trọng. Một sinh thể thăng thiên trước kia đã từng ở trong một cõi dày đặc hơn, giống như chúng ta, và sinh thể đó đã thăng thiên khỏi cõi này. Chân sư thăng thiên xứng đáng thăng thiên vì tâm của người đã làm chủ vật chất, nhờ vậy người khai mở được tiềm năng sáng tạo của mình và làm chủ được môi trường. Qua khả năng làm chủ này, người hội đủ điều kiện để thăng thiên và trở thành một chân sư thăng thiên. Xin ghi nhớ là không phải tất cả chân sư thăng thiên đều thăng thiên từ trái đất, nhưng các vị đó đã thăng thiên từ một môi trường tương tự như của chúng ta. 

Tiến trình mà tất cả các chân sư thăng thiên đi qua chính là tiến trình mà chúng ta đang đi qua ngay bây giờ. Chúng ta đều là những chân sư thăng thiên sẽ thành. Có nghĩa là các chân sư biết rõ qua kinh nghiệm của họ những gì chúng ta đang trải qua. Các thày bắt đầu với một trạng thái tâm thức giới hạn, giống như chúng ta ngay bây giờ. Sau đó, các thày từ từ leo lên cao hơn và làm chủ nhiều hơn cho tới khi đạt tới sự làm chủ trọn vẹn và đây cũng chính là tiềm năng rất thật của chúng ta. Điều này có nghĩa là các chân sư thăng thiên là những vị thày hoàn hảo cho chúng ta. Các thày không phải là những nhân vật giống như thần thánh dũng mãnh ngồi cao chót vót trên đám mây hồng mà không chịu nhúng ta vào việc trần thế. Các thày hiểu rất rõ tâm trạng của người bị giam cầm trong thế giới vĩ mô này, nhưng mặt khác các thày cũng biết cách leo ra khỏi nhà tù này một cách có hệ thống để đạt được tâm điều ngự vật chất.

Các chân sư không có thân xác như chúng ta, vì vậy các thày không nhận thức thế giới này qua các giác quan giới hạn của thân xác. Điều này có nghĩa là các thày thấy được nhiều hơn là chúng ta thấy; các thày biết thế giới này vận hành ra sao và có cái nhìn về thế giới này rộng lớn hơn và đầy đủ hơn chúng ta. Đây lại là thêm một lý do nữa khiến cho các thày hữu ích cho chúng ta là những người đang đi tìm một sự hiểu biết cao.

2.5 Tại sao bạn chưa bao giờ nghe nói tới các chân sư thăng thiên?

Tại sao chưa có ai nói cho bạn biết về các chân sư thăng thiên từ trước tới giờ? Một phần là vì từ ngữ này mới được dùng trong vòng hơn một thế kỷ qua, nhưng trải qua lịch sử bạn đã từng nghe tới ảnh hưởng của những vị thày tâm linh toàn vũ.

Các thày tâm linh của chúng ta chỉ có một mục đích duy nhất là giúp chúng ta nâng cao tâm thức. Các thày không tìm cách – xin nhắc lại, không tìm cách – đạt mục đích này bằng cách xây dựng một tôn giáo hay hệ thống tư tưởng tối hậu. Thay vào đó, các thày làm việc với mọi người ở trình độ của mọi người và giúp cho mọi người tiến lên mức kế tiếp của mình. Các thày làm việc với một nền văn minh với thế giới quan họ hiện có, và các thày đem vào một số ý tưởng mà mọi người dễ chấp nhận nhưng các ý tưởng này giúp họ vượt cao hơn thế giới quan hiện thời của họ. Cho nên, thường khi là các thày làm việc ẩn danh bằng cách truyền tư tưởng xuống những người dưới thế gian này và những người này không biết rằng những ý tưởng xuất sắc mà họ có được thật sự đến từ các thày.

Thời đại nào cũng đã có các chân sư toàn vũ muốn giúp đỡ những ai có tâm cởi mở. Trải qua các thời đại, các thày đã tìm cách làm việc với nhiều cá nhân khác nhau để truyền xuống những ý tưởng mới, có thể giúp nhân loại ở một mức văn hóa và tâm thức nào đó tiến lên một mức cao hơn. Các thày đã truyền cảm hứng để tạo ra tất cả các tôn giáo chính của nhân loại và các tôn giáo được biết đến ít hơn. Các thày đã truyền cảm hứng cho nhiều ý tưởng triết học. Các thày đã truyền cảm hứng trong các ngành văn chương, âm nhạc, kịch nghệ và các sinh hoạt văn hóa khác. Các thày đã truyền cảm hứng cho nhiều ngành khoa học và kỹ thuật, nhờ vậy mà chúng ta có được tự do để theo đuổi sự phát triển cá nhân thay vì phải nai lưng đổ mồ hôi làm việc. 

Nhưng các thày cũng muốn cho những ai có tâm cởi mở nhận được một tổng hợp mạch lạc các ý tưởng toàn vũ. Cuốn sách này sẽ trình bày cho các bạn những ý tưởng đó. Đọc xong thì các bạn có thể đánh giá xem chúng có giúp bạn trả lời những câu hỏi cơ bản của cuộc sống.

2.6 Vì sao không có bằng chứng các chân sư có thật?

Nếu các chân sư thăng thiên đã có bên cạnh chúng ta suốt lịch sử nhân loại, tại sao sự hiện diện của các thày không được chấp nhận rộng rãi? Lý do cơ bản nhất là vì trên trái đất phải tuân theo Luật Tự Quyết. Có nghĩa là nguyên tắc có thể phủ nhận chân sư phải được duy trì, và do đó các chân sư không thể cho chúng ta bằng chứng không thể chối cãi của sự hiện hữu của họ.

Các chân sư thăng thiên dạy rằng có rất nhiều hành tinh trong vũ trụ có những sinh thể có tự nhận biết như chúng ta. Một hành tinh giống như là một lớp học cho cư dân, do đó ta có thể thẩm định một hành tinh dựa trên mức độ mà các cư dân đã phát triển khả năng sáng tạo của họ. Tâm thức đại chúng đang ở mức mẫu giáo hay là các cư dân đã lên tới mức đại học?

Trái đất hiện nay có một trình độ phát triển khá thấp, có nghĩa là đa số cư dân ở dưới một trình độ nhận biết nào đó. Đó là trình độ nơi con người muốn cảm thấy mình là sinh thể tách biệt sống trong một thế giới tách biệt. Cách duy nhất để chúng ta có kinh nghiệm này là do vật chất trên trái đất thô đặc đến độ nó che lấp sự việc nó được tạo ra từ một chất tinh tế hơn. Nói cách khác, khi chúng ta nhìn vật chất qua giác quan của mình thì ta thấy vật chất có vẻ rắn chắc và có vẻ hiện hữu riêng biệt. Vật chất không có vẻ được cấu tạo bởi năng lượng tâm linh, và đó là lý do vì sao chúng ta tin rằng thế giới vật chất tách biệt khỏi Thượng đế hoặc có tính cách tự lập.

Trái đất hiện nay đang trong giai đoạn chuyển tiếp trong đó chúng ta đang lên một trình độ nhận biết tập thể cao hơn. Nhưng cho tới thời diểm này, Luật Tự Quyết ấn định là con người phải có quyền chối bỏ sự hiện hữu của Thượng đế hay các chân sư thăng thiên. Con người phải được quyền duy trì ảo tưởng họ là sinh thể tách biệt sống trong một thế giới tách biệt. Do đó, trong tương lai gần sẽ không có bằng chứng không chối cãi được là Thượng đế hay các chân sư thăng thiên có thực. Có nghĩa là ta chỉ có thể chứng minh sự hiện hữu của các chân sư ở mức độ cá nhân mà thôi, đó là điều chúng ta sẽ nói tới trong chương sau.

Đó cũng là lý do giải thích phương cách trao truyền giáo lý trong quyển sách này. Vì nhu cầu có thể phủ nhận chân sư, các chân sư không thể để giáo lý rơi từ trời xuống. Do đó, các thày đã trao truyền giáo lý qua trung gian những người đã nâng cao tâm thức của họ lên mức họ có thể liên lạc trực tiếp với các chân sư và do đó nhận được ý tưởng và có khi cả lời nói từ các chân sư. Làm cách này thì một số người có thể dễ dàng chối bỏ và dán nhãn các chân sư và giáo lý của các thày cho phù hợp với hệ thống tín điều của họ.

Chúng ta cũng có thể thấy một lý do khác vì sao các bạn chưa bao giờ nghe tới các chân sư thăng thiên. Khi người đệ tử sẵn sàng, thì vị thày thăng thiên sẽ xuất hiện. Bạn không thể thực sự nhìn nhận sự hiện hữu của các chân sư nếu bạn chưa sẵn sàng đón nhận giáo lý của các thày. Vì bạn đang đọc quyển sách này,  chắc chắn là bạn đã sẵn sàng để nhìn kỹ các chân sư và giáo lý của họ.

2.7 Vì sao các chân sư quan trọng?

Vì sao mở lòng đón nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên là một việc quan trọng? Lý do gần nhất là có những giải đáp mà chúng ta không thể có được qua phương tiện vật chất hay ngay cả với một trình độ tâm thức nào đó. Nếu bạn muốn một giải đáp vượt trên trình độ tâm thức của bạn, thì bạn cần phải tìm giải đáp này từ một nguồn bên trên trình độ của bạn. Sau đó, bạn có thể từ từ nâng tâm thức của mình lên tới mức đó, là nơi bạn có thể kiểm chứng trực tiếp các ý kiến từ bên trong cái Ta của mình.

Các bạn hãy suy ngẫm một sự kiện mà nền văn minh hiện đại đã bỏ qua, đó là việc tâm con người có thể trở thành một hệ thống khép kín. Các bạn hãy nhớ lại thời Trung cổ, khi giáo hội đã đề xướng chủ thuyết cho rằng quả đất là trung tâm vũ trụ. Thêm vào đó, giáo hội nói rằng nếu bạn chất vấn hay nhìn vượt lên chủ thuyết này thì bạn sẽ bị thiêu vĩnh viễn trong địa ngục. Nếu bạn chấp nhận ý kiến của giáo hội, thì không có cách gì để bạn chất vấn thế giới quan Trung cổ này.

Khi chúng ta lớn lên, chúng ta được dạy rằng khoa học đã tháo gỡ cái gông mà giáo hội đã quàng vào cổ nhân gian, nhưng sư thực là gì? Có thể nào là sự thực sâu xa hơn là một số các nhà khoa học ban đầu đã là những người tự coi mình là người tâm linh sâu xa, đã có khả năng hòa điệu tâm họ với các chân sư thăng thiên? Và qua sự hòa điệu đó, các nhà khai phóng tiên phong này đã nhận được cảm hứng và tuệ giác hướng dẫn họ làm sao đưa nhân loại lên mức tiến hóa kế tiếp.

Các chân sư thăng thiên dạy rằng sự phát triển của hiểu biết con người không chỉ xảy ra qua việc gom hiểu biết theo chiều ngang. Nó cũng xảy ra qua khả năng của cái Ta gom hiểu biết theo chiều dọc, tức là bằng cách hòa điệu với một nguồn cao hơn. Nguồn cao hơn đó là các chân sư thăng thiên.

Như đã trình bày, nhiều chân sư thăng thiên đã từng đầu thai làm người trên địa cầu, và do đó các thày hiểu rất rõ các thách đố mà chúng ta chạm trán khi nhìn thế giới qua màn phin lọc của hộp tư duy mà ta đang có. Và đó cũng chính là lý do vì sao các thày đã xả thân giúp chúng ta vượt lên trên nhận thức giới hạn của chúng ta để chúng ta biết cái Ta nhưng thêm nữa để chúng ta tháo mở tiềm năng tiềm tàng của cái Ta. Vì sao các các thày lại làm chuyện này? Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn trong các phần kế tiếp.

2.8 Vì sao các chân sư thăng thiện lại quan tâm đến chúng ta?

Nếu các chân sư thăng thiên sống ở một cõi cao vượt lên trên các giới hạn của thế giới vật chất, thì vì sao các thày lại quan tâm đến chúng ta? Nếu cõi tâm linh tốt hơn nhiều thế giới này, thì vì sao các thày lại không chỉ vui sống trên đó và để mặc chúng ta tự lo liệu cho mình? Các thày muốn được gì nơi chúng ta, các thày có ý đồ gì chăng?

Các chân sư dạy rằng đa số chúng ta nhìn cuộc đời với tâm thức tách biệt. Bởi vì chúng ta chú tâm vào vỏ ngoài của hình tướng nên chúng ta chú tâm vào những khác biệt giữa các vật. Kết quả là chúng ta thấy mình tách biệt khỏi Thượng đế và cõi tâm linh, ta thấy mình tách biệt khỏi người khác, và ta thấy mình tách biệt khỏi môi sinh, tức là trái đất nơi chúng ta sống. Chúng ta bị một màn ảo tưởng che mờ, đó là ảo tưởng tách biệt.

Đa số chúng ta nhìn cuộc đời qua tâm thức tách biệt, vì chúng ta chú tâm vào vỏ ngoài của hình tướng.

Khác với kiến quan của chúng ta, các chân sư thăng thiên không bị màn tách biệt che mờ. Các thày nhìn thế giới rất rõ ràng, giống như những gì chúng ta có thể thấy nếu dựa trên thuyết tương đối và vật lý lượng tử. Các chân sư thấy rằng, tuy có một số sự chia cách trong thế giới, nhưng không có các rào cản không thể vượt qua được.

Mọi vật được cấu tạo từ cùng một chất cơ bản đã mang nhiều hình tướng. Các chân sư dạy rằng mọi vật trong cả cõi tâm linh và cõi vật chất đều được cấu tạo bằng một chất cơ bản, mà các thày gọi là ánh sáng Mẫu-Vật hay là Ánh sáng Mẹ. Chất này tự nó không có hình tướng, và đó là lý do vì sao các dụng cụ vật chất không phát hiện được nó. Tuy nhiên, nó có khả năng khoác bất cứ hình tướng nào, và trong những phần sau chúng ta sẽ xem xét cách Ánh sáng Mẹ khoác hình tướng.

Các chân sư thăng thiên thấy tách biệt là một ảo tưởng chỉ có vẻ hợp lý khi ta nhìn thế giới qua phin lọc của một trạng thái tâm thức nào đó. Đó là tâm thức nhị nguyên, đã lọc đi thực tại tối hậu là mọi vật đều được cấu tạo bằng cùng một chất và đều sinh ra từ cùng một cội nguồn.

Các chân sư thăng thiên không tự coi họ tách biệt với chúng ta. Các chân sư tự coi mình là các phần nối dài của các sinh thể ở cõi cao hơn, và các thày coi “chuỗi sinh thể” này đi ngược lên đến tận đấng Sáng tạo. Các thày cũng coi chúng ta là các phần nối dài cuối của chuỗi sinh thể, và do đó các thày coi chúng ta như là em của mình. Các thày thấy là chúng ta chỉ giản dị bị giam đằng sau tấm màn nhị nguyên, cũng được gọi là tấm màn năng lượng. Các thày thấy rõ là ảo tưởng tách biệt đã tạo ra mọi xung đột và khổ đau trên trái đất, và do đó các thày không có ước vọng hay ý đồ gì ngoài việc cống hiến chúng ta phương tiện để chúng ta nâng tâm thức mình lên, và từ đó nhìn vượt lên trên bức màn và biết mình thực sự là ai.

2.9 Mục đích của thế giới hình tướng

Các chân sư dạy rằng mục đích của thế giới hình tướng là cung cấp một môi trường trong đó các sinh thể có tự nhận biết khởi đầu với một sự tự nhận biết rất thu hẹp, và sau đó từ từ mở rộng dần sự tự nhận biết đó. Các chân sư dạy rằng Thượng đế là một đấng không khác chúng ta trên căn bản. Đấng Sáng tạo là một Sinh thể có trình độ tự nhận biết cao nhất, nhưng vì chúng ta được cấu tạo từ bản chất đấng Sáng tạo, nên chúng ta có tiềm năng mở rộng sự tự nhận biết của mình tới cùng trình độ với đấng Sáng tạo.

Các chân sư thăng thiên không coi chúng ta khác hay thấp hơn chính họ. Các thày coi chúng ta như sinh thể chưa đạt tới trình độ tự nhận biết của mình, và các thày đã tình nguyện làm công việc hướng dẫn hay giáo huấn chúng ta. Mục đích chung của các thày là giúp chúng ta nâng tâm thức của mình, nhưng mục đích rõ rệt của các thày là giúp chúng ta nâng tâm thức của mình tới mức hoàn toàn giải thoát khỏi ảo tưởng nhị nguyên.

Một khi chúng ta thoát được ảo tưởng đó thì chúng ta thấy mọi sự sống là một, và đó là lúc chúng ta đã đỗ kỳ thi cuối của “Trường Địa Cầu”, có nghĩa là chúng ta có thể vĩnh viễn tiến lên các cõi năng lượng cao hơn. Các chân sư thăng thiên gọi đây là tiến trình thăng thiên. Tuy Thiên chúa giáo có nói đến việc Giê-su thăng thiên, nhưng có nhiều điểm khác biệt quan trọng giữa tín điều Thiên chúa giáo và giáo lý của các chân sư thăng thiên. Thiên chúa giáo dạy rằng Giê-su là người duy nhất thăng thiên, và ngay mẹ của thày cũng chỉ được “coi là” đã nhập thiên đàng. Thiên chúa giáo cũng coi tiến trình này là tiến trình vật lý nâng thân thể Giê-su lên cõi thiên đàng.

Các chân sư thăng thiên dạy là chúng ta đều có tiềm năng thăng thiên. Nhưng đây không phải là một tiến trình vật lý; đây là tiến trình qua đó chúng ta nâng tâm thức mình cho tới khi chúng ta bỏ lại thân thể vật lý và tiến lên một mức tự nhận biết cao hơn, nơi đó ta không cần một thân thể vật lý. Ngược lại, chúng ta khoác vào một thể tâm linh, tức là một thể được cấu tạo bằng năng lượng với tần số cao hơn là tần số của cõi tâm linh. Bởi vì các chân sư thăng thiên đã chạm trán cùng những thách đố như chúng ta ngày nay, nên các thày biết rất rõ làm cách nào giúp chúng ta vượt qua mọi thách đố và đạt được khả năng làm chủ chính mình.

2.10 Các chân sư thăng thiên và uy lực của cái Ta

Ở phần trên bài này chúng ta được biết là toàn thể vũ trụ vật chất được cấu tạo bằng năng lượng tâm linh mà độ rung được giảm xuống quang phổ của tần số rung của vật chất. Dòng năng lượng này chính là chủ lực sáng tạo và duy trì vũ trụ. Như vậy khi các phương pháp tự giúp hay các giáo lý tâm linh nói rằng bạn có thể thay đổi hoàn cảnh sống của bạn bằng cách thay đổi tâm của bạn, chân lý sâu sắc đằng sau lời tuyên bố này là gì?

Chúng ta hãy nhìn vào sự kiện là mọi thứ ở tầng cấp vĩ mô này thật sự đều được cấu tạo bằng năng lượng. Làm sao bạn có thể thay đổi một tình trạng vật chất, tỷ dụ như một căn bệnh trong cơ thể bạn đây? Vâng, cách hay nhất để tạo thay đổi là tác động ở tầng lớp năng lượng, vì đây mới là tầng lớp nguyên nhân thay vì tác động ở tầng lớp hậu quả. Vậy thì tại sao cơ thể bạn bị bệnh? Chính vì các tế bào của bạn đã nhận quá nhiều năng lượng rung động ở tần số thấp cho nên chúng không thể hoạt động bình thường nữa. Vậy thì cách hợp lý để chữa lành cơ thể là gì? Là giải thoát các tế bào khỏi gánh nặng của năng lượng này, nhờ vậy chúng có thể hoạt động một cách bình thường trở lại.

Các nhà khoa học đã cho chúng ta thấy là khi hai sóng năng lượng gặp nhau, chúng tạo ra một mô thức giao thoa. Một dòng sóng có tần số cao có thể nâng cao độ rung của dòng sóng có tần số thấp. Bạn hãy xem xét chuyện Giê-su đã làm những chuyện có vẻ giống như phép lạ khi thày chữa cho người bệnh được lành bệnh. Có thể nào đây không phải là phép lạ, mà Giê-su đã học được cách sử dụng trọn vẹn khả năng sáng tạo của tâm và sự chữa lành bệnh này là kết quả của khả năng đó? Có thể nào Giê-su làm chuyện này để chứng minh cho chúng ta thấy chúng ta cũng có tiềm năng này?

Một lần nữa, mọi thứ trong vũ trụ vật chất này đều được tạo ra từ các sóng năng lượng mà độ rung được hạ thấp xuống một mức nào đó. Làm sao bạn có thể thay đổi những điều kiện vật chất này? Bằng cách nâng cao độ rung của các sóng năng lượng đã tạo ra các điều kiện này. Đây không phải là lý thuyết xa vời. Đây là khoa học chắc nịch được áp dụng vào phương pháp tự giúp.

Như vật lý lượng tử đã chứng minh, có một cõi cao hơn cõi vật chất và tâm chúng ta có thể tương tác với cõi này. Sự thật sâu sắc hơn là chúng ta đã được sáng tạo để là những người đồng-sáng tạo với những sinh thể thông minh đã sáng tạo thế giới vật chất này. Chúng ta đồng-sáng tạo như thế nào? Vâng, một khía cạnh là tâm của chúng ta đã được tạo ra để trở thành cánh cửa mở, truyền các năng lượng tâm linh cao xuống quang phổ vật chất này. Ngay bây giờ thì tâm của chúng đã trở thành những cánh cửa đóng bởi vì có cái gì đó ngăn chặn lại dòng chảy tự nhiên của năng lượng sáng tạo. Chìa khóa để khơi mở uy lực của cái Ta là khôi phục lại dòng sáng tạo. 

Chúng ta đồng-sáng tạo bằng cách trở nên những cánh cửa mở cho năng lượng tâm linh được truyền xuống quang phổ vật chất.

Nhưng hãy nhớ là dòng sáng tạo từ đâu tới? Các chân sư thăng thiên dạy rằng dòng sáng tạo bắt nguồn từ đấng Sáng Tạo. Năng lượng rất cao của đấng Sáng tạo được hạ độ rung xuống nhiều lần khi đi xuyên qua nhiều tầng cấp của thế giới tâm linh. Ai đã hạ thấp độ rung của năng lượng sáng tạo? Đó là các chân sư thăng thiên đã tạo ra một chuỗi sinh thể bắt đầu từ đấng Sáng tạo trải dài tới tầng cấp của chúng ta. Khi chúng ta khai mở uy lực của cái Ta, chúng ta sẽ hoàn thành đúng vai trò của mình là khoen nối kết sau cùng trong chuỗi sinh thể này. Chúng ta tìm thấy chỗ đứng của mình trong dòng sáng tạo mà các chân sư gọi là Dòng sông của sự Sống. 

Vậy thì khi chúng ta tìm ra chỗ đứng này, chúng ta lấy năng lượng sáng tạo từ đâu? Chúng ta lấy nó từ khoen nối kết ở ngay trên chúng ta trong chuỗi sinh thể. Và khoen này là các chân sư thăng thiên đang làm việc mật thiết với trái đất. Như vậy kết luận của chương này là chúng ta cần biết đến các chân sư thăng thiên bởi vì chìa khóa khai mở quyền uy của cái Ta đòi hỏi chúng ta phải làm việc với các chân sư ở ngay trên chúng ta. Chúng ta phải nhận được trực tiếp ánh sáng của các thày thì chúng ta mới khai mở được toàn bộ quyền năng sáng tạo của cái Ta. 

2.11 Hai cách thay đổi đời sống của mình

Khi chúng ta xem xét cách thay đổi hoàn cảnh vật chất của mình, thì chúng ta có hai chọn lựa. Chọn lựa đầu là chúng ta dùng năng lượng đã có sẵn trong quang phổ vật chất. Đó chính là chủ trương của phương pháp tự giúp, và một số tôn giáo và triết học tâm linh cũng giảng dạy như thế. Tuy nhiên, có ba vấn đề với chủ trương này:

  • Chỉ có mộ số lượng năng lượng hạn định trong quang phổ vật chất. Do đó, ngay từ bước đầu khả năng sáng tạo của chúng ta đã bị giới hạn.
  • Năng lượng này đã được hạ giảm xuống một mức nào đó, có nghĩa là khả năng sáng tạo của nó hạn hẹp. Ta không thể giải quyết một vấn đề do năng lượng vật chất tạo nên bằng một hình thức khác của năng lượng vật chất. Ta cần một dạng năng lượng cao hơn để thực sự thay đổi một điều kiện vật chất.
  • Có bảy tỷ người trên trái đất đang tranh giành một phần của số lượng năng lượng vật chất hữu hạn. Do đó, nếu ta muốn thay đổi đời sống bằng cách sử dụng năng lượng vật chất, thì ta phải lấy năng lượng đó từ một người nào khác. Có nghĩa là ta bị dính vào một cuộc đấu tranh trường cửu chống lại người khác, đó là điều mà ta đã chứng kiến trong suốt lịch sử nhân loại.

Chọn lựa thứ nhì là ta nhận ra rằng tâm của mình có khả năng nhận năng lượng sáng tạo từ cõi cao. Và khi chúng ta sử dụng khả năng này, thì khả năng sáng tạo của chúng ta vượt xa những gì ta có thể làm được với năng lượng vật chất. Cách để chúng ta nhận được năng lượng này là chúng ta làm việc với các đấng trên cõi cao, tức là các chân sư thăng thiên. Tuy nhiên, trước khi chúng ta tìm hiểu  thực hiện việc này như thế nào, thì chúng ta hãy tự hỏi làm sao mình biết được là các chân sư thăng thiên có thật hay không. Qua đó, ta cũng sẽ thấy tầm quan trọng của việc học cách làm việc với các chân sự thăng thiên ở mức độ cá nhân.

HẾT CHƯƠNG

Uy lực của cái Ta – Chương 1 – Khoa học và uy lực của cái Ta

Đương nhiên là hiện nay bạn chưa biểu lộ được uy lực của cái Ta, vì nếu bạn làm được thì bạn đang vui sống một cuộc đời mới thay vì đọc quyển sách này. Kết luận là uy lực của bạn đang bị ngăn chặn, không phải bởi giới hạn từ bên ngoài mà do cách bạn nhận thức cuộc đời. Nhận thức đó khiến bạn coi một số giới hạn như thật, nhưng thực ra chúng chỉ giản dị là hậu quả của cách bạn coi mình là ai.

Như vậy chìa khóa khai mở uy lực của cái Ta là bạn chuyển đổi nhận thức bạn là ai bằng cách thách đố quan niệm về đời sống của bạn. Quan niệm này là hậu quả của cái nhìn ta là ai của bạn. Và chìa khóa để thách đố cái hộp tư duy mà bạn hiện có là tìm một điểm mốc bên ngoài cái hộp đó. Bạn cần một cái nhìn khác để chất vấn thế giới quan mà bạn có qua phin lọc nhận thức của mình. Vậy câu hỏi trở thành: bạn muốn ra ngoài hộp tư duy bao xa?

Sự thực là đa số chúng ta đã chấp nhận một thế giới quan lấy đi uy lực của mình khiến chúng ta khóa lại hầu hết uy lực của cái Ta. Muốn khai mở hoàn toàn uy lực của cái Ta thì ta phải chuyển đổi sâu rộng thế giới quan và quan niệm ta là ai. Không ai có thể thay đổi lớn như vậy qua một bước nhảy vọt, do đó ta cần phải tiến hành tuần tự.

Quyển sách này sẽ giới thiệu một điểm mốc có thể kéo bạn hoàn toàn ra ngoài hộp tư duy con người. Tuy nhiên, nhằm mục đích giúp bạn bắt đầu thoải mái, tôi xin giải quyết trước vấn đề được coi là căn bản của tiến trình tự giúp. Chủ trương cơ bản của tiến trình tự giúp là ta có thể thay đổi đời mình bằng cách thay đổi thái độ hay trạng thái tâm của mình. Nhưng chúng ta lớn lên đều hấp thụ một thế giới quan khiến chủ trương này không khả thi. Thật vậy, giác quan và kinh nghiệm bình thường – và có lẽ ngay cả hệ thống niềm tin của ta – đều cho ta biết là tâm không thể điều khiển được vật chất.

Do đó, trong chương này tôi sẽ xem xét một số khám phá khoa học giúp chúng ta thách đố quan điểm tâm và vật chất không liên hệ với nhau.

1.1. Đi tìm những nguyên do tiềm ẩn

Chúng ta hãy thử lấy một thí dụ giản dị. Bạn hãy hình dung mình đang ngồi bên cái bàn và trên bàn có một quả banh. Làm cách nào bạn có thể dời quả banh đó từ điểm A sang điểm B? Bạn có thể nào trực tiếp điều khiển quả banh lăn đi bằng sức mạnh của tâm mình chăng? Hay là bạn phải dùng sức mạnh gián tiếp, tức là dùng tâm để di động bàn tay, để rồi bàn tay vật chất di động vật thể vật chất là quả banh?

Nếu bạn nghĩ thêm về vấn đề này thì bạn sẽ thấy là cách bạn nhìn vấn đề tùy thuộc cách bạn trả lời một câu hỏi khác: “Quả banh và tâm tách biệt với nhau, hay cả hai có liên hệ với nhau?”  Nếu bạn tin rằng quả banh và tâm tách biệt và không liên hệ với nhau, thì dĩ nhiên là tâm bạn không thể nào trực tiếp di động được quả banh. Nếu tâm làm bằng một chất và quả banh làm bằng một chất khác, thì chất của tâm không thể thay đổi chất của vật chất.

Nhưng khoa học hiện đại nghĩ gì về vấn đề này? Bạn cũng biết là khoa học bắt đầu vào thời Trung Cổ, khi đại đa số tin rằng quả đất là trung tâm vũ trụ. Bằng cách quan sát các thiên thể vận hành, các nhà khoa học khám phá quả đất đi vòng quanh mặt trời. Vậy chúng ta hãy xem xét một số quan sát khoa học khác để xem chúng nói gì về sự liên hệ giữa tâm và vật chất.

Để bắt đầu, chúng ta hãy nhìn nhận rằng quan niệm quả đất là trung tâm vũ trụ là một quan niệm rất phải chăng nếu ta dựa vào tri giác giác quan. Mắt ta thấy là mặt trời di động trên bầu trời, vì giác quan của ta không thể thấy là quả đất xoay chung quanh trục của nó. Tại sao giác quan của ta lại không thấy được điều này? Đó là vì chúng ta di động cùng với quả đất, do đó giác quan của ta không có điểm mốc bên ngoài quả đất. Do đó, bài học đầu tiên mà khoa học dạy ta là ta không thể tin vào giác quan mình, nghĩa là ta phải vươn tới cái gì bên ngoài phin lọc nhận thức do giác quan tạo ra.

Khoa học cũng cho ta thấy là thế giới này có nhiều lớp hay từng cấp. Cái gì ta thấy qua giác quan chỉ là lớp bên ngoài của thế giới, cũng được các nhà khoa học gọi là cấp vĩ mô. Nhưng khoa học cũng đã chứng mình rất rõ ràng là có nhiều thứ vượt lên trên cấp vĩ mô. Những gì ta nhìn thấy như thân thể con người, quả núi hay máy nướng bánh mì thật ra được cấu tạo bởi nhiều thành phần nhỏ hơn gọi là phân tử. Và phân tử lại được cấu tạo bởi thành phần nhỏ hơn nữa gọi là nguyên tử, và nguyên tử lại được cấu tạo bởi thành phần nhỏ hơn nữa gọi là hạt cơ bản.

Một cái nhìn sâu sắc khác mà khoa học cống hiến là ý niệm về nguyên nhân và hậu quả. Có trường hợp tương quan nhân-quả rất đương nhiên ở cấp vĩ mô. Tỷ dụ, nếu bàn tay ta đẩy quả banh, thì dĩ nhiên đó là nguyên nhân khiến quả banh lăn đi. Nhưng có nhiều khi ta chỉ có thể hiểu nguyên nhân của một hiện tượng mà ta trông thấy bằng cách nhìn vào từng cấp sâu hơn hay cao hơn của thế giới. Ta thấy nhiều vật khác nhau trên quả đất, nhưng ở cấp sâu chúng đều được cấu tạo bởi nguyên tử. Do đó hình tướng các vật và cách chúng vận hành có nguyên nhân ở cấp nguyên tử. Như ta sẽ thấy trong phần sau, có những từng cấp sâu hơn cấp nguyên tử trong thế giới này.  

Một điều quan trọng khác mà khoa học đã chứng minh là những gì giác quan ta thấy như một thế giới đa dạng phức tạp thực ra chỉ là dáng vẻ bề ngoài. Khi ta đi xuống dưới cấp vĩ mô, thì càng đi sâu hay càng lên cao, càng ít đa dạng. Có hàng triệu vật trên quả đất, nhưng chúng đều được cấu tạo từ 108 nguyên tử. Và các nguyên tử đều được cấu tạo bằng cách phối hợp ba hạt cơ bản mà thôi.

1.2. Tâm điều ngự vật chất

Tất cả các điều chúng tôi mới nói trên đây đều là lẽ thường tình mà ta có thể suy diễn từ những gì ta học ở trường trung học. Chúng chỉ chứng tỏ là ta cần nhìn vượt lên trên phin lọc nhận thức của thế giới quan vĩ mô do giác quan tạo nên. Nhưng khoa học cũng có thể giúp ta vượt quá hộp tư duy đó hơn nữa.

Thế giới quan vĩ mô bị thách đố một cách chấn động lần đầu vào năm 1905 khi ông Albert Einstein công bố thuyết tương đối. Khi tôi học trung học thì vị thày vật lý của tôi dạy rằng thế giới này gồm hai nguyên tố: vật chất và năng lượng. Tôi có nghe nói về thuyết tương đối, nhưng những gì tôi được dạy vẫn dựa trên quan niệm nhị nguyên phân chia thế giới ra hai nguyên tố.  Chẳng hạn, tôi được dạy là phương trình E=mc2 của Einstein giải thích làm sao ta có thể chuyển vật chất thành năng lượng bằng cách tách nguyên tử. Tôi đoán là các bạn cũng được dạy một cái gì tương tự.

Chỉ khi tôi lớn khôn hơn thì mới hiểu phương trình của Einstein thực sự dạy ta điều gì. Bạn có thể bắt đầu hiểu bằng cách tự hỏi tại sao lại có thể chuyển vật chất thành năng lượng? Tại sao, khi ta tách nguyên tử thì có năng lượng vĩ đại phát ra? Giải đáp đơn giản là khi tách nguyên tử ta không sản xuất năng lượng trước đó không có – ta chỉ giải thoát năng lượng vốn đã có sẵn bên trong nguyên tử. Vậy, tại sao lại có năng lượng bên trong nguyên tử? Đó chính là vì thuyết của Einstein thực sự cho thấy là mọi thứ đều được cấu tạo bằng năng lượng.

Kể từ năm 1905 chúng ta đã biết là thế giới quan vĩ mô dựa trên giác quan không giải thích được thực tại. Cái gì giác quan chúng ta phát hiện như vật thể rắn chắc thật ra không rắn chắc chút nào. Vật chất được cấu tạo bằng năng lượng, và năng lượng là một loại rung động, tức là một làn sóng dao động không ngừng. Cái gì ta thấy như vật chất rắn chắc và bất biến thực ra chỉ là làn sóng năng lượng được giam trong một cái khuôn bất động. Nhưng, như các lò nguyên tử đã chứng minh, vật chất rắn chắc có thể chuyển trở lại thành năng lượng lỏng.

Quan trọng hơn nữa, năng lượng có khả năng thay đổi vô biên. Một làn sóng năng lượng có thể chuyển thành bất cứ làn sóng năng lượng nào khác khi nó thay đổi đặc tính rung động của nó. Như thế có nghĩa là thuyết Einstein đã phá vỡ bức tường chia cắt tâm và vật chất. Vật chất được cấu tạo bởi làn sóng năng lượng, và tư tưởng cũng vậy. Dựa trên thuyết tương đối, thì chuyện tâm con người có thể tạo ra một làn sóng năng lượng mạnh đến độ có thể ảnh hưởng các làn sóng năng lượng đang cấu tạo vật chất “rắn chắc” là điều hòan toàn khả thi.  

Cái gì ta thấy như vật chất rắn chắc và bất biến thực ra chỉ là làn sóng năng lượng được giam trong một cái khuôn bất động

Nói cách khác là tiến trình tự giúp – tức là tiềm năng thay đổi hoàn cảnh vật chất bằng sức mạnh của tâm – đã có tính cách khoa học từ năm 1905. Nhân loại đã hiển nhiên coi đó là một tiềm năng thực từ lâu hơn thế nhiều. Nhưng khoa học cũng có khả năng giúp ta vượt quá hộp tư duy thông thường nhiều hơn nữa.

1.3. Một thế giới vượt quá vật chất

Sau khi Einstein công bố thuyết tương đối thì một số nhà vật lý học rất hứng khởi và quyết định nghiên cứu thế giới bên trong nguyên tử dựa trên các khám phá của Einstein. Trong mấy thập niên sau đó, họ triển khai môt ngành khoa học mới, gọi là cơ học lượng tử, với nhiều khám phá cực kỳ chấn động.

Khám phá đầu mà chúng ta sẽ xem xét được gọi là tính chất lưỡng cực sóng-hạt. Nếu ta chỉ dựa trên giác quan thì một vật phải là sóng hoặc là hạt. Nhưng các nhà vật lý học đã chứng minh là một “vật” hạ nguyên tử có khi có đặc tính của hạt và có khi có đặt tính của sóng. Tôi cho rằng đây là một chỉ dấu rõ ràng là ta cần phải nhìn vượt lên trên cái phin lọc nhận thức của quan niệm vĩ mô.

Một cách đơn giản để giải thích mâu thuẫn này là một vật hạ nguyên tử là một cái gì căn bản hơn là sóng hoặc hạt. Nhưng vì các nhà vật lý học đã cố gán ép phin lọc nhận thức sóng-hoặc-hạt vào thế giới hạ nguyên tử nên họ phát hiện đôi khi tính chất sóng và đôi khi tính chất hạt nơi các vật hạ nguyên tử . Đây cũng giống như câu chuyện ông vua không mặc quần áo, tức là các nhà vật lý học bị phin lọc nhận thức làm mù quáng nên không nhận ra được thực chất của hạt hạ nguyên tử.

Đây cũng là chỉ dấu là khi các nhà vật lý học nghiên cứu thế giới hạ nguyên tử, họ đã nghiên cứu lằn ranh giữa thế giới vất chất và một thế giới rộng lớn hơn vượt quá vật chất. Những “thứ” trong thế giới rộng lớn này chưa có hình tướng, hiểu theo quan niệm bình thường về hình tướng. Nó chưa bị khóa vào quan niệm sóng hay hạt. Nó có tiềm năng khoác hình tướng của sóng hay của hạt, và dường như là hình tướng mà nó khoác bị ảnh hưởng bởi hành động con người. Nếu ta tìm một hạt, thì cái “chất lượng tử” sẽ cư xử như một hạt, và nếu ta tìm một sóng, thì nó sẽ cư xử như một sóng.

Ta đi đến kết luận là thế giới này không được cấu tạo bởi những hạt rắn chắc và bất biến. Chúng ta sống trong một thế giới lỏng và dễ uốn nắn hơn ta nghĩ. Thế giới có vẻ được cấu tạo bởi chất lượng tử không có hình tướng nhất định nhưng có thể lấy bất cứ hình tướng nào. Cũng có vẻ là tâm ta có thể ảnh hưởng hình tướng mà chất lượng tử khoác vào.

1.4. Bí ẩn của vấn đề đo lường trong thế giới lượng tử

Khi các nhà vật lý học bắt đầu nghiên cứu thế giới hạ nguyên tử thì họ chờ đợi là họ có thể làm giống như các khoa học gia nghiên cứu thế giới vĩ mô, tức là họ là người quan sát khách quan các vật thể biệt lập. Nhưng họ mau chóng nhận ra rằng trong thế giới lượng tử không có người quan sát khách quan – vì không có vật thể biệt lập. Khi một nhà vật lý học dùng máy gia tốc hạt để nghiên cứu một hạt hạ nguyên tử, thì kết quả không biệt lập với tâm nhà vật lý học. Trái lại, kết quả cuộc thí nghiệm phối hợp ba yếu tố là máy gia tốc hạt, hạt hạ nguyên tử và tâm nhà khoa học. Trong thế giới hạ nguyên tử, không thể có một người quan sát khách quan. Trong thế giới hạ nguyên tử, mọi chuyện đều liên kết, và tâm khoa học gia có ảnh hưởng cơ bản và không thể tránh trên kết quả thí nghiệm.

Thêm thế nữa, các nhà vật lý học cũng khám phá là trong thế giới hạ nguyên tử, các quy luật thiên nhiên đã giải thích rất xác đáng thế giới vĩ mô, không còn ứng dụng nữa. Trong thế giới hạ nguyên tử, các quy luật thiên nhiên trở nên vô hiệu lực. Ta có thể tính một cách tuyệt đối chính xác đường bay của một hỏa tiễn phóng lên Hỏa Tinh, nhưng ta không thể tiên đoán sự vận hành của một hạt điện tử (hạt electron) chung quanh hạch nguyên tử. Làm sao giải thích được điều này?

Vì tôi không phải là một khoa học gia mà cũng không phải là người duy vật nên tôi có thể thấy một giải đáp đơn giản. Để trình bày câu giải đáp của tôi, tôi xin trở lại phương trình E=mc2 của Einstein và sự việc vật chất chỉ là một dạng năng lượng. Vật chất là năng lượng đã được giam trong một cái khuôn, do đó thay vì cư xử như một làn sóng không vị trí thì nay nó cư xử như một “hạt” có vị trí.

Một khi năng lượng đã vượt qua ngưỡng cửa đó thì nó tạo ra các hạt, được phối hợp thành các vật mà ta có thể phát hiện bằng giác quan và các dụng cụ khoa học. Đó là thế giới vĩ mô, và thế giới này quả thật tuân theo cái được gọi là quy luật thiên nhiên. Trong thế giới vĩ mô có những thứ không do tâm con người tạo ra, và do đó đúng là tâm con người không ảnh hưởng trực tiếp trên những vật đó và quy luật thiên nhiên.

Vậy quan niệm này phù hợp ra sao với khoa vật lý lượng tử? Giải thích của tôi là các khoa học gia đã chứng minh là chúng ta sống trong một thế giới có nhiều tầng lớp. Trước khi khoa vật lý lượng tử xuất hiện thì các khoa học gia chỉ biết đến một tầng lớp, một góc túi, của thế giới toàn diện, đó là thế giới vĩ mô. Thế giới lượng tử không chỉ là một phần của thế giới vĩ mô, nó là một tầng lớp cơ bản hơn nữa. Đó là lý do vì sao các quy luật thiên nhiên không hiệu lực trong thế giới lượng tử. Đó là lý do vì sao không có hạt tách biệt trong thế giới lượng tử. Và đó cũng là lý do vì sao trong thế giới lượng tử có liên hệ giữa tâm con người và cái gọi là hạt hạ nguyên tử. Các nhà vật lý cổ điển coi thế giới như là một cái máy khổng lồ trong đó mọi chuyện đều có thể tiên đoán được. Quan niệm này quả thực không áp dụng nơi tầng cấp lượng tử.

Có một số khoa học gia tiên phong đã quan niệm là thế giới giống như một cái tâm vĩ đại thay vì một cái máy vĩ đại. Điều này có nghĩa là nếu ta thực sự chấp nhận những điều mà khoa vật lý lượng tử đã chứng minh, thì ta đi tới kết luận là khoa học không thể chối bỏ ảnh hưởng của tâm con người. Biên giới tối hậu không phải là không gian, vì biên giới tối hậu là tâm thức. Dĩ nhiên, phương pháp tự giúp và các thày tâm linh đã nói điều này từ lâu nay rồi.

1.5. Không có vật gì tách biệt cả

Khi biết rằng khoa vật lý lượng tử đã chứng minh nguyên tắc không vị trí đã mấy chục năm nay, vậy tại sao thế giới quan của chúng ta không điều chỉnh theo? Ta hãy suy gẫm thêm một chút về những gì các khoa học gia đã nói. Vũ trụ được thành lập qua Vụ Nổ Lớn xảy ra cách đây khoảng 15 tỷ năm. Trong mấy phần ngàn của giây đầu, các quy luật thiên nhiên hiện hành lúc đó chưa có. Những “vật” đầu tiên xuất hiện là những gì chúng ta gọi là hạt hạ nguyên tử, vậy những vật này đã hiện diện từ lâu lắm rồi. Sau đó trải qua thêm 15 tỷ năm nữa thì con người xuất hiện, và chúng ta là những sinh thể đầu tiên có tâm thức tinh vi. Như vậy, khoảng cách giữa lúc hạt hạ nguyên tử và tâm thức con người xuất hiện là một khoảng cách tiến hóa 15 tỷ năm  – chắc bạn đồng ý đây là một khoảng cách lớn.

Khoa vật lý lượng tử đã có bằng chứng không thể chối cãi là tâm thức con người tương tác với hạt hạ nguyên tử.

Vậy mà hiện nay khoa vật lý lượng tử đã có bằng chứng không thể chối cãi là tâm thức con người tương tác với hạt hạ nguyên tử, có nghĩa là tâm thức rất trẻ của con người có thể tương tác với những “vật” già hơn 15 tỷ năm. Làm sao chúng ta giải thích chuyện này?  Theo tôi thì giải thích đơn giản là vũ trụ không được cấu tạo bằng vật chất hay năng lượng. Thực tại nền của vũ trụ là tâm thức.

Có một dạng tâm thức đã có mặt khi hạt hạ nguyên tử được cấu tạo, và đó là lý do vì sao tâm chúng ta tuy rất trẻ nhưng cũng tương tác được với các “hạt” này. Nhưng chúng ta tương tác với các hạt tách biệt hay chúng ta tương tác với tâm thức đã tạo ra và duy trì chúng?

Xin các bạn ghi nhận là ở đây tôi không chủ trương trở về chấp nhận quan niệm Do-thái-Ki-tô-giáo cho rằng vũ trụ được tạo thành bởi một Thượng đế đàn ông trong vòng 7 ngày. Tôi chỉ muốn nói là cách giải thích đơn giản nhất các khám phá của khoa vật lý lượng tử là chấp nhận là Vụ Nổ Lớn được lên kế hoạch và thi hành bởi một tâm thức lớn hơn tâm thức con người. Từ lúc đó tới ngày nay đã có một tiến trình tiến hóa tuần tự, nhưng đây không phải là một tiến trình ngẫu nhiên và vô ý thức như khoa học duy vật đề xướng. Tiến trình này đã được hướng dẫn một phần bởi một hay nhiều tâm thức lớn hơn, một phần – ít ra là ở cấp vĩ mô – bởi các quy luật thiên nhiên, và một phần bởi một yếu tố thứ ba. Yếu tố bí ẩn này là gì? Nếu tâm tức con người có khả năng tương tác và ảnh hưởng hạt hạ nguyên tử, vậy ta nghĩ gì về chuyện tâm con người có khả năng ảnh hưởng thế giới vĩ mô? Ta nghĩ gì về lý do tại sao con người lại có mặt nơi đây?

1.6. Thuyết bất định khó hiểu

Khoa vật lý học cổ điển coi vũ trụ như một cái máy, như một chiếc đồng hồ khổng lồ. Tất cả mọi vật được cấu tạo qua sự liên kết của các đòn bẩy và bánh răng cưa, và mọi chuyện vận hành theo một số quy luật bất biến. Thuyết này hàm ý ta có thể dự đoán vũ trụ vận hành ra sao. Nếu ta biết khởi điểm của vũ trụ và các quy luật thiên nhiên, ta có thể tính ra một cách chắc chắn tuyệt đối tất cả mọi chuyện sẽ xảy ra – cho tới khi vũ trụ chấm dứt.

Khi các nhà vật lý bắt đầu nghiên cứu thế giới lượng tử thì họ chờ đợi sẽ tìm thấy các hạt riêng biệt vận hành theo một số quy luật bất biến, giống như banh bi-da tí hon lăn trên mặt bàn bi-da. Nghĩa là nếu ta hiểu đủ về một hạt thì ta có thể dự đoán cách nó vận hành một cách chắc chắn. Nhưng những gì họ khám phá là một bí ẩn khác nữa không thể hình dung được nếu ta suy nghĩ theo hộp tư duy truyền thống.

Trong thế giới lượng tử, trên căn bản không thể đoán được sự vận hành của một hạt, tỷ dụ như một hạt điện tử. Lý do không phải vì ta không biết đủ về hạt điện tử, nhưng là vì thế giới lượng tử theo một nguyên tắc bất định căn bản. Thế giới lượng tử, thay vì vận hành theo một số quy luật bất biến, thì trên căn bản có tính chất bất định. Ta không thể biết được vị trí của một hạt điện tử cho tới khi ta đo nó. Nhưng lúc đó, cái gì ta đo không phải là một hạt điện tử độc lập. Khi ta đo thì ta thực sự tạo ra một hạt điện tử ở vị trí đó. Cái mà ta đo không có mặt trước khi ta quan sát nó.

Có một dạng tâm thức trong thế giới lượng tử. Điều này giải thích tại sao tâm con người lại đồng sáng tạo những hạt mà ta quan sát.

Dựa trên những gì tôi trình bày ở trên, thì một lần nữa ta có thể gợi ý một giải thích đơn giản. Khoa học đã chứng minh là phải có một dạng tâm thức trong thế giới lượng tử. Đó là cách duy nhất giải thích tại sao tâm con người lại tương tác với thực tại lượng tử và đồng sáng tạo những hạt mà ta quan sát. Mà đặc tính chính của tâm thức là gì, khi áp dụng cho các sinh thể tự nhận biết? Chính là nó không tuân theo quy luật máy móc. Nó có khả năng sáng tạo, làm một chuyện mà chưa tâm nào từng làm trước đó. Nhưng nền tảng của sáng tạo là gì? Đó là quyền tự quyết; là khả năng tưởng tượng ra việc gì chưa từng được làm trước đó và quyết định làm chuyện này lần đầu. Bây giờ nền móng đã đặt xong, vậy tôi xin các bạn cho tôi phác họa một thế giới quan có thể giúp bạn khai mở uy lực của cái Ta.

1.7. Một thế giới quan trao quyền cho ta 

Những người trong chúng ta lớn lên trong xã hội tân thời thấm nhuần một thế giới quan là một sự pha trộn lạ lùng các khái niệm tín ngưỡng thời Trung cổ, quan sát khoa học, khái niệm do khoa học duy vật đề xướng, và những gì mình quan sát bằng giác quan. Kết quả là ta có một thế giới quan gồm những điểm sau đây:

  • Chúng ta sống trong một thế giới vật chất
  • Vật chất “rắn chắc”, nghĩa là nó có chất lượng và tính chất liên tục.
  • Vật chất khó thay đổi.
  • Những vật ta thấy trong thế giới vĩ mô đều được cấu tạo bằng vật chất, và các vật này hiện hữu riêng biệt. Trái đất nơi ta sống cũng là một vật như vậy. Nó chịu ảnh hưởng của mặt trời, nhưng nó được bao quanh bởi không gian trống không khiến nó đứng riêng ra. Thân thể chúng ta cũng vậy, nó là một vật riêng biệt.
  • Vật chất và tâm đứng riêng nhau.
  • Tâm của ta không có khả năng trực tiếp thay đổi vật chất. Ta chỉ có thể thay đổi vật chất qua thân thể vật chất của mình, và qua phương tiện kỹ thuật cũng dựa trên vật chất.
  • Thế giới vật chất có quyền lực trên tâm chúng ta và giới hạn khả năng sáng tạo của ta.

Tất cả các điểm nêu trên không cho con người nhiều quyền lực lắm, vì chúng mô tả chúng ta như những sinh thể thụ động hứng chịu những gì thế giới vật chất quyết định thảy vào chúng ta. Nhưng, dựa trên các khám phá của khoa vật lý lượng tử, ta có thể thách đố tất cả các điểm trên. Thách đố cơ bản là các điểm trên đều đúng, nhưng chúng chỉ áp dụng vào thế giới vĩ mô. Và thế giới này chỉ là lớp vỏ bên ngoài nhất của thế giới rộng lớn hơn, là nơi ta đang sống.

Chúng ta hãy xem trở lại phương trình của Einstein, E=mc2. Như đã trình bày ở trên, phương trình này cho thấy là vật chất chỉ là năng lượng bị giam trong một cái khuôn không lỏng bằng. Nhưng, nếu chúng ta nói một cách khiêu khích hơn một chút, thì ta có thể nói phương trình này thực sự chúng minh vật chất không có, nó chỉ có trong trí tưởng tượng của ta mà thôi. Tôi không muốn nói là thế giới mà ta biết qua giác quan không có thật và không hiện hữu. Tôi không muốn nói là con người đã tạo ra vũ trụ trong tâm mình và do đó có thể dùng tâm thay đổi nó. Điều tôi muốn nói là vật chất không hiện hữu như những gì ta thấy biết qua giác quan, và khoa vật lý lượng tử đã chứng minh điều này. Chúng ta hãy lần lượt xem qua những điểm nêu ở trên:

  • Chúng ta sống trong một thế giới vật chất. Thực ra, chúng ta sống trong một thế giới năng lượng đã khoác một hình tướng, và ta gọi hình tướng này là “vật chất”.
  • Vật chất “rắn chắc”, nghĩa là nó có chất lượng và tính chất liên tục. Thực ra, vật chất không rắn chắc chút nào. Nó được cấu tạo bằng năng lượng, và năng lượng là một dạng rung động.
  • Vật chất khó thay đổi. Thực ra, thay đổi tính chất sóng năng lượng là chuyện rất dễ. Cái chúng ta gọi là vật chất chỉ là sóng năng lượng bị giam trong cái khuôn. Nhưng nó vẫn là sóng, do đó rất dễ thay đổi.
  • Những vật ta thấy trong thế giới vĩ mô đều được cấu tạo bằng vật chất, và các vật này hiện hữu riêng biệt. Thật ra, không có “vật” gì tách biệt cả. Các vật chỉ có vẻ tách biệt khi nhìn dưới góc độ vĩ mô. Khi nhìn dưới góc độ sâu sắc hơn của vật lý lượng tử, mọi vật đều liên kết với nhau vì vị trí là một ảo tưởng.
  • Vật chất và tâm đứng riêng nhau. Thực ra, ở cấp lượng tử, tâm và vật chất liên kết trực tiếp với nhau. Vì tất cả mọi vật trong thế giới vĩ mô đều được cấu tạo bởi “chất” lượng tử, do đó tâm con người có tiềm năng ảnh hưởng ngay cả thế giới vĩ mô.
  • Tâm của ta không có khả năng thay đổi trực tiếp vật chất. Thực ra, vì tâm con người có thể thay đổi chất lượng tử và vì mọi vật đều được cấu tạo bằng chất lượng tử, ta có thể thay đổi vật chất. Ta hiện nay không biết dùng khả năng này, nhưng nó vẫn có đó như tiềm năng cao của con người.
  • Thế giới vật chất có quyền lực trên tâm chúng ta. Thực ra, vật chất không có quyền uy trên tâm chúng ta nhiều hơn những gì ta đã cho nó vì ta không biết đến thực tại lượng tử. Nếu ta nhìn đời qua phin lọc của hộp tư duy vĩ mô, thì vật chất có quyền uy trêm tâm chúng ta. Nhưng ta có tiềm năng bước ra ngoài hộp tư duy đó và thấy thế giới như nó thực sự là.

1.8. Một tổng thể đan kết

Dựa trên những điểm nêu trên, tôi sẽ phác họa một thế giới quan mới giải thích ta là ai, tại sao ta lại có mặt nơi đây, và tiềm năng đích thật của ta là gì. Để bắt bầu, chúng ta hãy nhìn nhận là chúng ta không sống trong một thế giới tách biệt, cô lập. Thế giới nơi ta sống là một tổng thể đan kết. Cách giải thích dễ nhất là thấy rằng thế giới vĩ mô không được cấu tạo bởi vật chất, mà được cấu tạo bởi năng lựơng. Năng lượng là một dạng rung động, và có nhiều tầng cấp rung động. Thí dụ, ta được học ở nhà trường là con mắt ta chỉ có thể nhìn thấy được một loại ánh sáng nào đó.

Có những dạng ánh sáng mà con mắt ta không nhìn được, tỷ dụ như tia hồng ngoại và tia cực tím, như trên hình 1 dưới đây:

Hình 1 – Quang phổ điện từ của ánh sáng

Khác biệt giữa ánh sáng tím nhìn thấy được và tia cực tím không nhìn thấy được là gì? Tia cực tím có một độ rung cao hơn ánh sáng nhìn thấy một chút. Ngoài điều này thì không có gì khác biệt giữa hai làn sóng, như vậy có nghĩa là không có hàng rào kiên cố nào ngăn cách ánh sáng tím và cực tím. Theo thuyết tương đối, thì ta có thể giảm độ rung của ánh sáng cực tím và biến nó thành ánh sáng tím. Phương trình của Einstein còn cho thấy đó chính là cách vũ trụ vật chất được tạo lập.

Ta đã học ở nhà trường là ta có thể lấy một phương trình toán học và chia hai vế hai bên dấu bằng bởi cùng một hệ số. Nếu ta áp dụng định lý này với phương trình của Einstein thì ta có:

Bây giờ thì ta có c2 ở trên và dưới lằn phân số bên phía phải. Vì chúng loại lẫn nhau nên ta có phương trình mới như sau:

Phương trình mới này chứng minh điều gì? Nó cho ta biết là thế giới vật chất được cấu tạo bởi một chất không phải là vật chất mà là một dạng năng lượng thuần túy. Năng lượng E này rung động ở một mức vượt quá rất nhiều những gì ta thường gọi là năng lượng, tỷ dụ như ánh sáng mặt trời hay điện năng. Nó vẫn được tạo ta từ sóng, nhưng nó rung động ở mức cao hơn tất cả những gì có trong thế giới vật chất. Do đó, để tạo ra thế giới vật chất, độ rung của năng lượng lượng tử này phải được giảm xuống một quang phổ nào đó. Theo phương trình Einstein thì hệ số giảm là bình phương của vận tốc ánh sáng.

Như các bạn cũng biết, vận tốc ánh sáng là một con số rất lớn, vậy thì bình phương của nó là một con số cực kỳ vĩ đại. Như thế có nghĩa là năng lượng nguyên thủy, E, phải được giảm bởi một hệ số vĩ đại mới trở thành năng lượng vật chất. Một khi độ giảm này được thực hiện, thì năng lượng vật chất có thể được giam trong những khuôn khiến nó hiện ra như hạt rắn chắc và có vị trí. Những hạt này sau đó được dùng để cấu tạo nên cấu trúc có vị trí khác như nguyên tử, phân tử, hành tinh, máy pha cà-phê, thiên hà và cơ thể con người.

Như vậy chúng ta thấy là chúng ta sống trong một thế giới gồm một chuỗi rung động liên tục.

Hình 2 – Một chuỗi rung động liên tục

Trên lý thuyết, ta có thể có những rung động cao tới bất tận, nhưng ít nhất ta có thể nói là có những dạng rung động cao hơn rất nhiều so với bất kể mọi thứ trong quang phổ vật chất. Đó là lý do vì sao ta không thể phát hiện những gì vượt quá thế giới vật chất khi ta dùng giác quan hay dụng cụ khoa học. Vì chúng ta sống trong quang phổ vật chất, ta chỉ có thể nhìn thấy những gì bên này chân trời quan sát. Tuy thế, dường như là các nhà vật lý lượng tử đã bắt đầu thấy những gì ngoài quang phổ vật chất. Và có thể là tâm con người, một khi được phát triển, cũng có khả năng này.

1.9. Làm sao năng lượng thuần túy trở thành vật chất

Vụ Nổ Lớn thường được mô tả như là một vụ nổ vĩ đại qua đó năng lượng và vật chất cần thiết để tạo dựng vũ trụ được phóng mạnh ra ngoài một cách ngẫu nhiên và hỗn loạn. Dựa trên những gì đã nói ở trên, ta có thể nói là Vụ Nổ Lớn thực ra đã xảy ra khi một số lượng lớn chất lượng tử được giảm độ rung cho tới khi xuống tới quang phổ vật chất. Chính việc giảm năng lượng này đã gây nên Vụ Nổ Lớn, và đó cũng là động cơ khiến vũ trụ tiếp tục bành trướng. 

Như ta đã thấy, ban đầu chất lượng tử được giảm cho tới khi nó mang một dạng mà ta gọi là năng lượng, nghĩa là giống ánh sáng, điện năng, từ tính v.v. Sau đó, những sóng năng lượng vật chất này được giam vào khuôn, cho tới khi nó trở thành hạt hạ nguyên tử. Những hạt này sau đó được kết hợp thành nguyên tử, nguyên tử được kết hợp thành phân tử, là thành phần cấu tạo các “vật” mà ta nhìn thấy được. Cái gì khiến chất lượng tử kết hợp thành cấu trúc, và cái gì quyết định hình tướng của các cấu trúc đó? Vì sao vũ trụ có cấu trúc lại có mặt, và tại sao nó lại có hình tướng mà nó hiện có?

Để giải thích vấn đề rõ hơn, chúng ta hãy xem xét giả thuyết Vụ Nổ Lớn là một một vụ nổ vĩ đại. Có lẽ bạn đã thấy trên truyền hình hình ảnh các tòa nhà bị phá nổ. Bạn có lẽ đã thấy phim chiếu chậm và thấy và sức nổ rất hỗn loạn và dường như là ngẫu nhiên. Tòa nhà bắt đầu như một cấu trúc lớp lang, nhưng sau khi bị phá nổ thì nó chỉ còn là những mảnh vụn hỗn độn rời rạc. Bạn có lẽ cũng đã xem phim chiếu ngược cảnh này, tức là từ những mảnh vụn, như một phép lạ, tự nhiên kết hợp trở lại thành một tòa nhà nguyên vẹn.

Khi năng lượng nguyên thủy giảm độ rung thì nó trở thành năng lượng vật chất có thể được giam trong những khuôn khiến nó hiện ra như hạt rắn chắc và có vị trí.

Dĩ nhiên là ta biết phim chiếu ngược này đi ngược quy luật thế giới thực. Ta không thể phá nổ một tòa nhà chung cư cũ và khiến các mảnh vụn kết hợp tự nhiên trở lại thành một số biệt thự xinh đẹp. Thực tại không xảy ra như vậy; một vụ nổ lúc nào cũng đưa tới hỗn loạn, không bao giờ tạo ra cấu trúc ngay ngắn. Tuy thế, đó chính là điều một số người cho rằng Vụ Nổ Lớn đã tạo ra – qua một tiến trình tự phát, ngẫu nhiên, không ý thức – tức là tạo nên cấu trúc cực kỳ phức tạp nhưng rất trật tự mà chúng ta gọi là vũ trụ. Ai dàn dựng chuyện này?

1.10. Vũ trụ sau Vụ Nổ Lớn

Lời giải thích là con người chúng ta không phải là sinh thể tự nhận biết duy nhất trong thế giới rộng lớn này. Bên ngoài quang phổ vật chất, có những sinh thể tự nhận biết khác. Các đấng này có khả năng sáng tạo, khiến họ có khả năng giảm độ rung của chất lượng tử xuống quang phổ thấp hơn. Đã có một nhóm các đấng đó giảm độ rung của chất lượng tử xuống quang phổ vật chất, và do đó tạo nên Vụ Nổ Lớn.

Nhưng thêm nữa, sau Vụ Nổ Lớn các đấng này không để cho vũ trụ tiến hóa một cách ngẫu nhiên. Họ đã dùng quyền năng sáng tạo của mình để hướng dẫn sự tiến hóa đó, nghĩa là chính họ đã khiến năng lượng mang hình tướng và tạo ra cấu trúc rất phức tạp. Nhưng không có nghĩa là các đấng này quản lý vi mô và điều khiển từng chi tiết nhỏ. Sau khi đã mang đủ năng lượng xuống quang phổ vật chất, họ đã quy định một số quy luật hướng dẫn sự tiến hóa của thế giới vật chất. Tuy thế, các quy luật này không giải thích được hoàn toàn tiến trình tiến hóa của vũ trụ. Ở một số thời điểm quan trọng, họ đã nhúng tay vào để đẩy tiến trình tiến hóa lên một mức độ mới.

Một trong những thời điểm đó là khi tiến trình tiến hóa đã tới mức có những thân thể có não bộ và hệ thần kinh phức tạp. Lúc đó, các đấng sáng tạo gửi những nối dài của tâm họ xuống các thân thể đó. Chúng ta chính là các nối dài đó, có nghĩa là chúng ta có cùng khả năng sáng tạo cơ bản của các “cha mẹ lượng tử” của mình. Chỉ duy có điều là chúng ta chưa phát triển được đúng mức các khả năng này.

Điều này có nghĩa là chúng ta được tạo ra để làm công việc đồng sáng tạo với các đấng ở các cõi cao hơn. Các đấng thăng thiên đó đã tạo ra thế giới vật chất từ bên ngoài, nhưng chúng ta cũng được sinh ra để đồng sáng tạo từ bên trong. Sứ mạng của chúng ta là xây dựng – hay phá vỡ đi, tùy theo ta chọn lựa ra sao – trên nền móng mà các đấng sáng tạo đã tạo ra.

1.11. Tiềm năng cao và thấp của chúng ta

Trong phần dẫn nhập, tôi có nói là chúng ta hiện nay bị giam trong một hộp tư duy hoạt động như một màn lọc ngăn cản không cho chúng ta thấy toàn bộ sự vận hành của thế giới. Trong các phần sau, chúng ta sẽ xem xét kỹ hơn cái hộp tư duy này và lý do vì sao chúng ta bị giam trong đó, nhưng ở đây tôi muốn nêu lên là hộp tư duy này khiến ta nghĩ ta là những sinh thể tách biệt. Chúng ta tách biệt với cội nguồn tâm linh của mình – có người còn cho rằng cội nguồn này không có thật. Chúng ta tách biệt với các người khác – và đây là lý do giải thích vì sao con người xung đột. Và chúng ta tách biệt với vũ trụ vật chất – và đây là lý do giải thích vì sao ta có vấn đề môi sinh.

Nhưng vấn đề chính do hộp tư duy tạo ra là nó khiến ta mù quáng không thấy được tiềm năng cao của mình. Kết quả là chúng ta sinh hoạt ở một mức rất thấp, nơi đó ta nghĩ rằng mình bị thế giới vĩ mô giam hãm và giới hạn. Và đây là điều mấu chốt mà ta nên chứng ngộ: ở mức độ tâm thức hiện tại của chúng ta, chúng ta quả thật phải khuất phục các quy luật thiên nhiên vận hành ở cấp vĩ mô. Chúng ta có quyền tự quyết, có nghĩa là trong thực tế ta là gì ta nghĩ ta là. Chúng ta hiện đang nghĩ mình là con người giới hạn, và do đó ta chính là con người giới hạn.

Nhưng thực tại cao hơn là tâm chúng ta có khả năng với cao hơn tầng lớp vĩ mô. Tâm chúng ta quả thật có khả năng với tới thế giới lượng tử, và ở cấp này nó có thể tương tác với cái chất đã tạo nên thế giới vĩ mô. Và khi chúng ta học được cách dùng khả năng sáng tạo của mình để tạo thay đổi ở cấp lượng tử, thì ta sẽ tạo nên xung lực sẽ đưa đến thay đổi ở cấp vĩ mô. Các nhà vật lý học đã nhận ra rằng quy luật lượng tử phủ định quy luật thiên nhiên. Thí dụ, nếu bạn ném một trái banh chơi quần vợt vào tường thật lâu, thì sẽ có một hiệu ứng lượng tử đào hầm có tiềm năng khiến trái banh đi xuyên qua tường. Hiện nay, các nhà vật lý học cho rằng những hiện tượng lượng tử đó rất hiếm. Tuy thế, có thể chăng là ta có tiềm năng cao tạo theo ý muốn những hiện tượng phủ định quy luật vĩ mô?

1.12. Thế giới được hình thành ra sao

Bây giờ tôi sẽ trình bày thế giới được hình thành ra sao. Thế giới được cấu tạo bởi một chất cơ bản mà trong bài này tôi đã gọi là chất lượng tử. Chất này là một dạng năng lượng có độ rung rất cao. Khi nó ở độ rung cao nhất thì nó không mang hình tướng, nhưng khi độ rung giảm xuống thì nó như là đất sét có thể nhào nặn thành mọi hình tướng khác nhau. Do đó, thế giới vật chất được hình thành bằng cách mang tới rất nhiều chất lượng tử và giảm độ rung của nó cho tới khi nó rung động ở cấp mà ta gọi là năng lượng. Sau đó, một phần năng lượng đó tạo nên cái mà ta gọi là hạt hạ nguyên tử, và từ các hạt này các cơ cấu phức tạp hơn được hình thành, từ nguyên tử đến thiên hà.

Vậy ta có thể nói là chất căn bản tạo nên thế giới là một chất không hình tướng có khả năng mang mọi hình tướng. Tuy nhiên chất này tự nó không tự tạo hình tướng được. Chất lượng tử chỉ có thể mang hình tướng khi được một sinh thể có tự nhận biết ảnh hưởng. Vì sao đấng sáng tạo này lại cần thiết? Bởi vì chỉ khi có tự nhận biết thì một sinh thể mới có trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Trí tưởng tượng cho ta khả năng thấy ra một hình tướng chưa hiện có. Và quyền tự quyết cho ta khả năng phóng chiếu hình tư tưởng đó lên chất lượng tử.

Có một số sinh thể sáng tạo hiện hữu ở một độ rung bên ngoài quang phổ vật chất. Họ có khả năng giảm độ rung của chất lượng tử, có nghĩa là họ có khả năng đem thêm năng lượng vào quang phổ vật chất. Họ cũng có khả năng tạo hình tư tưởng và gán chúng lên trên năng lượng vật chất và qua đó tạo nên các hình tướng mà ta thấy trong thế giới vĩ mô. Chính những đấng này đã tạo nên thế giới vĩ mô, và họ vẫn đang phụng sự công việc duy trì và hướng dẫn sự tiến hóa của nó.

Tuy nhiên, khi thế giới vĩ mô đã đạt tới một trình độ phức tạp nào đó, thì các đấng sáng tạo gửi phần nối dài của mình vào đó. Chúng ta chính là các phần nối dài này, và chúng ta đã được ban cho cùng khả năng năng sáng tạo cơ bản của các “cha mẹ” lượng tử của mình. Hiện nay, đa số chúng ta chưa phát huy hoàn toàn khả năng sáng tạo này; chúng ta còn không biết mình có nó. Tuy nhiên, tiềm năng cao nhất của chúng ta là hoàn toàn ý thức mình là ai, làm chủ tâm mình và làm chủ khả năng đồng sáng tạo thế giới vĩ mô của mình.

Như vậy có nghĩa là chúng ta có hai chọn lựa trong đời. Ta có thể sinh hoạt ở mức độ hiện thời, có nghĩa là ta chịu khuất phục quy luật thiên nhiên và nhiều giới hạn vật chất khác. Ở mức độ này, cách duy nhất thay đổi đời sống là ta dùng cơ thể vật lý hoặc kỹ thuật có khả năng thay đổi thế giới vật chất.

Chọn lựa thứ nhì là ta thăng hoa tâm thức một cách căn bản giúp ta nhận ra mình là ai và khai mở tiềm năng sáng tạo thực của mình. Việc này sẽ cho ta quyền năng dùng tâm mình để đem chất lượng tử xuống thế giới vật chất, có nghĩa là ta có khả năng sáng tạo vượt lên trên thân thể và kỹ thuật vật chất. Nó cũng cho ta quyền năng dùng tâm mình để thay đổi ngay từng lớp lượng tử, có nghĩa là ta có thể tạo những thay đổi ở từng lớp vĩ mô mà hiện nay ta không nghĩ có thể làm được.

HẾT CHƯƠNG

Uy lực của cái Ta – Chương 10 – Cái “ta” được tạo ra trong thế giới vật chất

Có một số chữ được nhiều người dùng với ý nghĩa rất khác nhau và do đó trở thành hầu như vô dụng. Một thí dụ là chữ “linh hồn”. Chữ này đã được dùng từ nhiều thế kỷ bởi nhiều tôn giáo và giáo lý tâm linh với ý nghĩa khác nhau. Và nó cũng hay được dùng mà không được định nghĩa rõ ràng vì coi là mọi người đã rõ nghĩa của nó rồi. Các chân sư thăng thiên cho chúng ta một hiểu biết tinh tế hơn bằng cách phân chia linh hồn, hay là con người phàm, ra nhiều thành phần.

Như đã nói ở các chương trước, nhiều người tâm linh chấp nhận thuyết luân hồi, và nhiều người thường cho rằng, chính linh hồn đầu thai trở lại. Điều này cũng đưa tới quan niệm phổ thông là linh hồn được tạo ra ở cõi cao và đi xuống cõi vật chất. Như vậy cũng có nghĩa là linh hồn sẽ thăng lên và trở về cõi tâm linh. Từ đó dẫn đến hai ý niệm phổ thông về những gì bạn cần làm để linh hồn hội đủ điều kiện vào cõi tâm linh.

  • Linh hồn đã “sa xuống” và xuống một trạng thái thấp hơn, và do đó nó không còn hội đủ điều kiện để lên thiên đàng. Do đó, bạn cần đền bù những lỗi lầm đã phạm và trong lọc hay nâng cao linh hồn.
  • Linh hồn cần được kiện toàn, do đó công việc của bạn là nâng linh hồn lên một trạng thái toàn hảo (bất kể toàn hảo được định nghĩa ra sao).

Quan niệm cái Ta Biết có thể làm đảo lộn cách bạn hiểu về linh hồn. Điểm cốt lõi là cái Ta Biết chính là cái đã từ trên đi xuống và khởi sự tiến trình đầu thai vào thế giới vật chất. Do đó, cũng chính cái Ta Biết có tiềm năng thăng thiên trở về cõi tâm linh.

Nhưng tiến trình thăng thiên KHÔNG do cái Ta Biết bù đắp một trạng thái bất toàn hay tìm cách đạt được sự toàn hảo dựa theo tiêu chuẩn thế gian do con người đặt ra. Trái lại, cái Ta Biết CHỈ CÓ THỂ thăng thiên khi nó hoàn thành tiềm năng cao nhất của nó, tức là nó ở trong trạng thái nhận biết thuần khiết và đảm trách chức năng cánh cửa mở cho Hiện diện. Điểm này có hai khía cạnh:

  • Hiện diện TA LÀ có thể tự biểu lộ qua cánh cửa mở của cái Ta Biết, bằng cách để ánh sáng và cá thể của nó tuôn chảy xuống cõi vật chất.
  • Hiện diện có thể trải nghiệm thế giới vật chất qua cái Ta Biết, lúc đó là tấm kính trong không có phin lọc nhận thức.

Nói cách khác, trong trạng thái cao nhất của nó cái Ta Biết không tự coi mình là một sinh thể tách biệt. Nó tự coi nó như là cánh cửa mở, không hơn không kém, để Hiện diện tự biểu lộ trong thế giới này, và như tấm kính trong giúp Hiện diện trải nghiệm thế giới. Trong trạng thái này, cái Ta Biết tự coi mình như là sắc thái Ta Sẽ Là của Hiện diện TA LÀ.

Trong trạng thái cao nhất của nó, cái Ta Biết không có phin lọc nhận thức. Do đó nó không ngăn chặn hay giữ lại bất cứ biểu lộ nào phát xuất từ Hiện Diện, và nó không ngăn chặn bất cứ kinh nghiệm nào của nó được chuyển về Hiện diện. Cái Ta Biết không phán xét dựa trên hình tướng, nhưng cho phép Hiện diện thẩm định kinh nghiệm, và như vậy học hỏi từ chúng và tồn trữ kết quả vào căn thể (từ này sẽ được giải thích sau). Bạn hãy thử so sánh với việc mình hay đánh giá trực giác của mình để xem nó có thích hợp hay không đựa trên tiêu chuẩn thế gian. Sau đó, bạn hãy thử xem mình có hay dấu Thượng đế điều gì đó chăng. Bây giờ, chúng ta cần hiểu là cái Ta Biết ban đầu không đi xuống với trạng thái nhận biết thuần khiết. Chúng ta hãy xem vì sao.

10.1 Cái Ta Biết đi xuống như thế nào

Thế giới vật chất được cấu tạo bởi ánh sáng tâm linh đã có độ rung được giảm xuống theo các tỷ số đặc trưng của bảy tia sáng. Như thế có nghĩa là thế giới vật chất ban đầu có mức độ rung động nào đó, tức là nó được cấu tạo với năng lượng thô đặc hơn cõi tâm linh. Đó là lý do vì sao chúng ta không thấy được cõi tâm linh với giác quan của chúng ta. Giác quan của chúng ta được hòa điệu với những rung động trong quang phổ vật chất, và những rung động này hiện nay thấp hơn rung động tâm linh rất nhiều. Do đó, giác quan chúng ta không thể vượt qua hố ngăn cách để “thấy” được cõi tâm linh (nhiều người tâm linh cảm và trải nghiệm được năng lượng tâm linh bằng trực giác, nhưng thường là không qua giác quan vật lý).

Cái Ta Biết đuợc cấu tạo với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm mà nó có tiềm năng nâng cao qua nhiều mức, cho đến khi nó đạt được ý niệm bản ngã tòan khắp giống như đấng Sáng tạo.

Mục đích thế giới vật chất được tạo ra với độ thô đặc cao là để giúp những sinh thể tự nhận biết – chúng ta – phát triển. Khi chúng ta xuống một cõi trong đó ta không trực tiếp thấy được thế giới tâm linh, ta có cơ hội nâng dần tâm thức của mình lên, cho tới khi ta có thể làm công việc là cánh cửa mở giữa hai cõi tâm linh và vật chất. Khi chúng ta đi theo tiến trình này thì chúng ta cũng giúp nâng độ rung của cõi vật chất lên, cho tới khi nó bằng độ rung của cõi tâm linh.

Điểm quan trọng liên quan đến đề tài chúng ta đang thảo luận là cái Ta Biết không xuống với mức tự nhận biết cao nhất của nó. Cái Ta Biết được cấu tạo với một ý niệm bản ngã nhỏ như một chấm mà nó có tiềm năng nâng cao qua nhiều mức, cho đến khi nó đạt được ý niệm bản ngã tòan khắp giống như đấng Sáng tạo. Xin các bạn ghi nhận điều vừa nói. Công việc của cái Ta Biết KHÔNG phải là xây dựng cái ta toàn hảo trên thế gian này. Công việc của cái Ta Biết là nới rộng phạm vi nhận biết của nó. Nó làm việc này bằng cách khoác lên một cái ta hạn hẹp và vượt thăng cái ta này bằng cách nhận ra rằng: “Ta hơn cái ta này”. Mỗi lần cái Ta Biết đi qua tiến trình quên và ngộ thì nó nới rộng phạm vi nhận biết của nó. 

Để xuống tới những độ rung thô đặc của vũ trụ vật chất, cái Ta Biết cần một phương tiện, tức là một ý niệm bản ngã được cấu tạo bởi cùng độ rung với cõi vật chất. Đây là một điểm quan trọng mà bạn cần nhận ra: cái Ta Biết dùng phương tiện, nhưng nó KHÔNG trở thành phương tiện đó. Trong tiến trình này, cái Ta Biết KHÔNG bị thay đổi; chỉ có ý niệm bản ngã của nó – tức là nhận thức của nó – thay đổi mà thôi. Việc này cũng giống như người diễn viên khoác lên một trang phục và hóa trang để thủ một vai trò trên sân khấu kịch nghệ – tức là người diễn viên có thể cởi trang phục ra dễ dàng như khi khoác nó vào.

Lúc ban đầu cái Ta Biết xuống với một ý niệm bản ngã được cấu tạo bởi cùng những rung động cơ bản đã tạo ra vũ trụ vật chất. Cái ta này, phương tiện này, là cái gì chúng ta – từ một viễn quan cao – có thể gọi là linh hồn.

Nhưng các bạn cũng nên ghi nhận là linh hồn KHÔNG được cấu tạo trên cõi tâm linh, và nó cũng không được cấu tạo với những rung động của thế giới tâm linh. Như kinh Sáng-thế Ký (Genesis) đã nói, nó được cấu tạo từ tro bụi, có nghĩa là rung động vật chất.  Do đó, linh hồn – theo định nghĩa này – không đi xuống từ cõi tâm linh và do đó không thể thăng thiên. Cái Ta Biết sẽ thăng thiên, nhưng nó chỉ thăng thiên được khi nó ngưng không tự đồng hóa với linh hồn, mà trái lại đạt được tiềm năng cao nhất của nó – là trạng thái nhận biết thuần khiết qua đó nó thấy nó là một với Hiện diện.

Xin các bạn ghi nhận một điểm có thể gây ngộ nhận. Linh hồn xuống xác thân vật lý khi bạn đầu thai, và đúng là trong nhiều trường hợp nó tới từ một cõi cao hơn. Đó là vì linh hồn không bị chết khi xác thân chết đi và cái Ta Biết mang linh hồn theo sang kiếp đầu thai tới. Tùy theo trình độ tâm thức của bạn, giữa hai kiếp đầu thai linh hồn có thể lên tới những tầng cao của thế giới vật chất – chúng tôi có nói đến bốn tầng của thế giới vật chất – và sau đó nó từ đó xuống đầu thai. Tuy nhiên, những tầng này không thuộc cõi tâm linh, và do đó linh hồn vẫn không thể thăng thiên và trở thành một sinh thể tâm linh.

10.2 Vì sao linh hồn không thể thăng thiên

Có một phân biệt vi tế mà ta cần biết. Linh hồn có một tính chất mà đa số gọi là cá thể hay cá tính. Nhưng cá thể hay cá tính này được cấu tạo theo những điều kiện có mặt ở vũ trụ vật chất khi cái Ta Biết xuống lúc ban đầu.  Cá tính hay cá thể mà bạn hiện có là sản phẩm của những trải nghiệm của bạn khi bạn sống trong thế giới vật chất. Nhiều thành phần của nó có lẽ đã được thêm vào linh hồn nguyên thủy khi cái Ta Biết đi xuống.

Hình 10 – Linh hồn chứa đầy năng lượng thô đặc

Nhưng cái cá thể hay cá tính vỏ ngoài này KHÔNG phải là bạn. Thực sự bạn là cá thể được neo chặt trong Hiện diện TA LÀ. Cá thể này có thể được biểu lộ qua cái Ta Biết, nhưng cái cá tính vỏ ngoài, mà bạn đã tạo ra khi phản ứng lại điều kiện trong thế giới vật chất, sẽ ngăn chặn hoặc tô màu sự biểu lộ này.

Để thăng thiên, bạn KHÔNG cần kiện toàn cái cá tính vỏ ngoài, bạn phải vượt thăng nó. Linh hồn được cấu tạo với một số niềm tin, và chúng pha màu năng lượng tâm linh với độ rung thấp của chúng. Bạn có thể nói là những ý niệm và niềm tin quy định linh hồn của bạn đã tạo ra một khuôn đúc hay lưới thép, và năng lượng mà bạn đã pha màu qua các niềm tin đó đã lấp đầy cái “lồng” đó với độ thô đặc càng ngày càng cao. Năng lượng càng thô đặc thì cái Ta Biết càng tự đồng hóa với linh hồn, và bạn càng khó thoát ra sự tự đồng hóa đó. Đơn giản là  bạn  không thể thấy được bất cứ gì ngoài năng lượng và niềm tin của linh hồn, vì các năng lượng này tạo ra một từ trường hút sự chú ý của bạn vào cái ta thấp.

Chìa khóa để đạt tiến bộ tâm linh là bắt đầu nâng độ rung của năng lượng tồn trữ trong linh hồn. Khi độ thô đặc giảm đi, cái Ta Biết sẽ bắt đầu thoáng thấy một trạng thái nhận biết cao hơn. Lúc đầu sẽ chỉ là những tia chớp trực giác hay cảm nhận là đời sống phải có gì hơn nữa. Sau đó tới cảm nhận là mình dính liền với một cái gì cao hơn. Sau cùng bạn sẽ có những thoáng nhận biết thuần khiết là những lúc bạn trải nghiệm trực tiếp là cái Ta Biết HƠN cái cá thể thấp của bạn.

Cái Ta Biết cần một phương tiện – là linh hồn – tức là một ý niệm bản ngã được cấu tạo bởi cùng rung động với rung động của cõi vật chất, là nơi nó xuống.

Đó là lúc bạn có thể bắt đầu chất vấn nghiêm tức những niềm tin đã tạo nên linh hồn bạn, qua đó bạn dần dần nâng ý niệm bản ngã của mình lên, cho tới khi bạn cảm được mình là một với Hiện diện của bạn. Trong tiến trình này, bạn cũng giúp nâng độ rung của vũ trụ vật chất lên và bạn giúp chất vấn những niềm tin của tâm thức đại chúng, giúp cho người khác dễ nâng tâm thức của họ lên hơn. Khi đủ số người làm được điều này thì rốt cuộc cả hành tinh sẽ được nâng lên một mức cao hơn, lúc đó đa số sẽ thấy rằng cuộc sống hiển nhiên có một khía cạnh tâm linh.

Chúng ta hãy trở lại trọng điểm. Đó là cái cá tính hay cá thể vỏ ngoài – tức là cái ta vỏ ngoài – mà bạn hiện có đã được hình thành qua nhiều kiếp sống như một phản ứng trước những điều kiện bất toàn trong thế giới vật chất. Do đó, nó KHÔNG THỂ NÀO được kiện toàn để có thể thăng thiên lên cõi tâm linh. Chỉ có cái Ta Biết là có thể thăng thiên, đó là cái Ta đi xuống lúc ban đầu. Nhưng cái Ta Biết chỉ có thể thăng thiên khi nó ngưng không tự đồng hóa với cái ta vỏ ngoài nữa.

Nó làm chuyện này bằng cách vượt thăng các niềm tin gây giới hạn và nâng lên các năng lượng tạo nên linh hồn. Do đó, ta có thể nói là linh hồn được nâng lên, nhưng nó không được nâng lên như một cái ta tách biệt. Các niềm tin gây giới hạn bị tan biến đi và các năng lượng thấp được gia tốc thành rung động cao hơn. Nếu bạn để một nồi nước lên lò lửa và để nó sôi cho tới khi hết nước, thì bạn có thể nói là nồi nước được nâng lên cõi cao hay chăng? Dĩ nhiên là không, vì chính là nước đã được nâng lên và cái nồi ở lại.

Điểm quan trọng là đa số chúng ta đã bị lừa để theo một con đường vỏ ngoài, qua đó ta dùng giáo lý tâm linh để kiện toàn linh hồn theo một tiêu chuẩn nào đó. Nhưng linh hồn không thể nào kiện toàn được; ta phải để cho nó chết dần đi. Thánh Phao-lô nói: “Ta chết mỗi ngày”, có nghĩa là mỗi ngày một phần linh hồn thày chết đi vì thày rũ bỏ vài niềm tin gây giới hạn. Giê-su cho phép mình bị đóng đinh để minh họa là cái Ta Biết bị đóng đinh (tức bị tê liệt hóa) bởi nó tự đồng hóa với cái ta vỏ ngoài hay linh hồn. Hành động cuối cùng của Giê-su trên cây thập tự là “dứt bỏ hồn ma”, là biểu tượng của tàn dư cuối cùng của linh hồn/cái ta vỏ ngoài của thày.

Chìa khóa để đạt tiến bộ tâm linh là bắt đầu nâng độ rung của năng lượng tồn trữ trong linh hồn. Khi độ thô đặc giảm đi, cái Ta Biết sẽ bắt đầu thoáng thấy trạng thái nhận biết cao hơn.

Đó là điều Giê-su đã nói: “Chưa hề có người lên trời, trừ ra hắn từ trời xuống”. Và “người” đã từ trời xuống là cái Ta Biết, sẽ thăng thiên khi nó nhận ra cái bản sắc thật của nó – là sắc thái Ta Sẽ Là của Hiện diện TA LÀ. Nói cách khác, “linh hồn” KHÔNG xuống đầu thai lúc ban đầu. Nó là cái gì đã được tạo ra và thêm vào qua nhiều kiếp sống. Do đó, cái gì tái sinh là cả hai: cái Ta Biết và linh hồn. Nhưng chỉ có cái Ta Biết là đã xuống trần lúc ban đầu mà thôi.

Trong những trang kế tiếp, chúng tôi sẽ xem xét một số khía cạnh khác của tâm phàm, trong đó có những phần thuộc linh hồn. 

10.3. Bình chứa cái ta và bốn thể phàm

Một số giáo lý tâm linh liên kết Tánh linh hay cõi tâm linh với hình tròn là biểu tượng của cái duy nhất. Đồng thời liên kết cõi vật chất với hình vuông. Từ đó có câu nói là cõi vật chất được tạo thành bằng cách “biến hình tròn thành hình vuông”. Có giáo lý thần bí khác lại liên kết hình vuông với nền kim tự tháp. Do đó, khi ta điều ngự được bốn yếu tố của cõi vật chất, ta sẽ dần dần lên cao hơn, cho tới khi ta tới đỉnh kim tự tháp, là điểm dị thường là ngưỡng cửa nối liền cõi vật chất và cõi tâm linh. Điểm đó tương xứng với điểm kết nối ở giữa hình số tám trong hình dưới đây. Khi bạn tiến cao hơn trên con đường tâm linh thì cái Ta Biết sẽ chiếm địa vị chính đáng của nó ở đỉnh kim tự tháp của cái ta.

Hình 11 – Cái Ta Biết ở điểm kết nối giữa hình số tám
 của dòng chảy giữa cõi tâm linh và cõi vật chất

Bốn cạnh của hình vuông hay bốn yếu tố, tương ứng với những gì chúng tôi đã đề cập ở trên, tức là vũ trụ vật chất gồm bốn cõi hay bốn bát cung. Phàm ngã – là cái phương tiện mà cái Ta Biết dùng để tự biệu lộ trong cõi vật chất – cũng có bốn “thể” hay bốn từng của tâm. Đây là bốn thể năng lượng đan kết vào nhau và có mặt trong cùng một không gian vì chúng rung động ở các tần số khác nhau. Bốn thể này là:

  • Thể bản sắc, cũng được gọi là thể ê-the. Nội dung trong thể bản sắc quy định ý niệm bản sắc của bạn. Bạn nhìn mình ra sao, bạn nhìn Thượng đế ra sao, bạn nhìn thế giới ra sao, và bạn nhìn tương tác giữa bạn, Thượng đế, và thế giới ra sao? Bạn nhìn mình như một sinh thể tâm linh xuống đây để cai quản trái đất, và do đó đủ quyền năng để làm công việc này? Hay bạn nhìn mình như một sinh thể vật chất, một sản phẩm của trái đất với khả năng thay đổi hoàn cảnh hạn hẹp.
  • Thể lý trí gồm các tư tưởng của bạn. Đây là nơi bạn lập ra hình tư tưởng của những gì bạn muốn làm trong cõi vật chất và cách thực hiện chúng. Các hình tư tưởng này dựa trên ý niệm bản sắc của bạn, là nơi quy định những tham số điều khiển ý niệm bạn làm được gì và không làm được gì. Do đó, nếu bạn tự đồng hóa mình với một con người phàm thì bạn sẽ giới hạn những gì bạn nghĩ bạn có thể làm được.
  • Thể cảm xúc đương nhiên là định khu các cảm xúc của bạn. Cảm xúc có nghĩa là năng lượng chuyển động. Tư tưởng của bạn là hình tư tưởng, nhưng muốn chúng trở thành hành động hay hình tướng thể hiện, thì chúng phải được chuyển động, và việc này xảy ra nơi thể cảm xúc. Tuy nhiên, thể cảm xúc cũng chứa các ham muốn của bạn, và chúng có thể mâu thuẫn với các mục đích cao của bạn. Trong tình trạng lý tưởng thì cảm xúc phản ảnh tư tưởng, tư tưởng phản ảnh ý niệm bản sắc, và ý niệm bản sắc phản ảnh cá thể Thiêng liêng của bạn. Nhưng chuyện xảy ra khá thông thường là cảm xúc tự nó vận hành và tìm cách điều khiển đời bạn, thay vì bị cai quản bởi tư tưởng.
  • Bộ óc vật lý và “tâm thể”. Nhiều khoa học gia duy vật tin rằng mọi tư tưởng và cảm xúc của con người là sản phẩm của bộ óc vật lý. Điều này không đúng, nhưng quả thật bộ óc là một “máy điện toán” rất phức tạp có khả năng tạo ra nhiều tư tưởng và cảm giác của con người. Tuy nhiên bộ óc chỉ là phần cứng của một phần tâm con người mà các chân sư thăng thiên gọi là “tâm của thân”. Đây là cái tâm lo chu toàn các nhu cầu của cơ thể vật lý, tỷ dụ như các nhu cầu an toàn, ăn uống và sinh sản.

Câu hỏi thiết yếu bây giờ trở nên: tâm  ý thức của bạn sẽ trụ ở thể nào trong bốn thể phàm?

Với một phần lớn nhân loại thì cái biết ý thức của họ trụ vào thể vật lý và cõi vật chất. Như vậy có nghĩa là nhiều tư tưởng và cảm xúc của họ là sản phẩm của bộ óc và tâm của thân. Thí dụ, nhiều người chú tâm vào những nhu cầu cơ bản của thể xác như an toàn, thực phẩm, quần áo và sinh dục. Đa số các người tâm linh đã nới rộng cái biết ý thức của họ để bao gồm ít nhất là một phần của ba thể cao. Tiếp tục nới rộng cái biết ý thức này là chìa khóa điều ngự bốn thể phàm, khiến chúng trở thành phương tiện giúp bạn hoàn thành sứ mệnh tâm linh của bạn trong thế gian này.

10.4. Làm sao bạn mất liên lạc với cái ta tâm linh của bạn

Quan niệm thiết yếu là bốn thể phàm tạo nên một phin lọc pha màu ánh sáng tuôn từ Hiện diện TA LÀ xuống các thể phàm. Mọi thứ đều là năng lượng, mọi thứ đều được tạo ra từ Ánh sáng Mẫu-Vật. Cái gì đem lại sự sống cho bạn và cho bạn khả năng hành động trong thế giới vật chất là dòng năng lượng chảy từ Hiện diện TA LÀ xuống bốn thể phàm.

Trong tình trạng lý tưởng thì bạn cho nguồn năng lượng này rung động cao – nâng chính mình và tất cả mọi sự sống lên – và điều này khiến nó chảy ngược trở về cái ta tâm linh của bạn.  Lúc đó nó sẽ được tăng lên theo cấp số nhân và bạn nhận được thêm năng lượng, và như vậy gia tăng quyền năng sáng tạo của bạn. Tiến trình này khiến cuộc đời bạn theo một vòng xoáy đi lên, cho bạn thêm quyền để thực hiện lẽ sống của bạn và cai quản hoàn cảnh vật chất của bạn.

Dòng năng lượng này có thể so sánh với ánh sáng chiếu ra từ bóng đèn của máy chiếu phim. Khi ánh sáng chiếu qua bốn thể phàm thì nó bị pha màu bởi nội dung (hình ảnh, niềm tin và năng lượng) của các thể đó. Điều này giống như ánh sáng từ máy chiếu phim được pha màu bởi hình ảnh trên cuộn phim – duy có điều khác là bạn có bốn cuộn phim.

Nếu các niềm tin và hình ảnh trong bốn thể phàm của bạn không hòa hợp với con người cao của bạn – đặc biệt khi bạn có niềm tin hướng về cái ta và ham muốn vị kỷ – thì bạn sẽ áp đặt hình ảnh bất toàn lên ánh sáng tâm linh. Điều này dẫn tới hành động bất quân bình sẽ gây ra khổ đau trong đời bạn, và cũng có thể tạo ra một vòng xoáy đi xuống gây ra càng ngày càng nhiều đau khổ.

Cái gì đem lại sự sống cho bạn và cho bạn khả năng hành động trong thế giới vật chất là dòng năng lượng chảy từ Hiện diện TA LÀ xuống bốn thể phàm.

Khi ta áp đặt một hình ảnh bất toàn lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì ta tạo năng lượng có độ rung động thấp. Năng lượng đã bị tha hóa này không thể chảy trở về cái ta tâm linh và trở thành kho báu giữ trên Thiên đàng – nó không thể nhập vào rung động cao của cõi tâm linh. Do đó, hành động vị kỷ cắt đứt dòng chảy số tám và năng lượng tha hóa không có chỗ để chảy đi. Năng lượng tha hóa mà bạn tạo ra sẽ vĩnh viễn ở lại tầng rung động đó. Năng lượng này không biến đi nhưng sẽ tồn trữ trong bốn thể phàm của bạn.

Năng lượng này sẽ tạo ra một phin lọc hay một tấm màn ngăn cản bạn không tiếp xúc được cái ta tâm linh của bạn. Điều này dần dần sẽ khiến viễn quan của bạn trở nên mờ tối, cho tới khi bạn nghĩ bạn là một con người phàm bị giới hạn trong vũ trụ vật chất và không có gì ở trên vũ trụ vật chất này. Nó cũng giảm thiểu quyền năng sáng tạo của bạn, cho tới khi bạn nghĩ là cách duy nhất để làm bất cứ việc gì trên trái đất này là dùng xác thân vật lý. Năng lượng tồn đọng đã cướp đi quyền năng tinh thần của bạn.

Bạn hãy ghi nhận là năng lượng tha hóa sẽ tích lũy trong bốn thể phàm của bạn. Và khi càng có nhiều năng lượng tích lũy trong một thể nào đó, thì sự chú tâm của bạn sẽ càng bị thu hút về thể đó. Do đó, nhiều người có quá nhiều năng lượng tha hóa ở tầng vật lý nên sự chú tâm của họ thực sự bị giam trong xác thân vật lý. Có người khác sống cuộc đời họ qua cảm xúc của họ, và có những người khác nữa suốt đời chỉ chú tâm vào trí năng.

Khi bạn hiểu ra rằng những gì mà ta biết có ý thức – kể cả những hoàn cảnh vỏ ngoài của bạn – chỉ là những hình ảnh phóng chiếu lên màn ảnh của tâm bạn và của Ánh sáng Mẫu-Vật, thì bạn nhận ra rằng nếu bạn muốn thay đổi những gì được chiếu trên màn ảnh cuộc đời thì bạn phải bước vào phòng chiếu và thay các cuộn phim trong bốn thể phàm của bạn. Cuộc sống ở mức biết ý thức có thể so sánh với màn ảnh chiếu phim. Nếu bạn không thích cuộn phim được chiếu trên màn ảnh, bạn sẽ thay đổi được bao nhiêu nếu bạn chỉ tác động lên màn ảnh? Bạn sẽ thành công hơn nếu bạn đi về nguồn của hình ảnh và thay đổi các hình ảnh trên cuộn phim, tức là nội dung của bốn thể phàm của bạn. Khi bạn hiểu được sự vận hành này thì bạn sẽ thấy rõ có hai yếu tố cốt yếu giúp bạn tiến bộ trên con đường tâm linh:

  • Trong lọc mọi tầng của tâm – bốn thể phàm của bạn – khỏi những niềm tin bất toàn đã khiến bạn tha hóa năng lượng tâm linh và đáp ứng với cuộc đời với niềm tin và cảm xúc gây giới han.
  • Trong lọc –  chuyển hóa – các năng lượng tha hóa tồn trữ trong bốn thể phàm của bạn. Bạn cần bỏ bớt hành lý trước khi bạn trèo lên núi cao. Đó là lý do tại sao bạn rất cần đọc bài chú bài thỉnh, vì các bài này có khả năng thỉnh ánh sáng tâm linh xuống để chuyển hóa năng lượng trong bốn thể phàm của bạn. Chỉ khi nào bạn giảm được sức hút thì bạn mới giải thoát cái biết ý thức của bạn để nó hướng về một trong các thể cao của bạn. Chỉ khi nào bạn trong lọc được bốn thể phàm của mình thì bạn mới giải thoát được sự chú tâm của mình và hướng nó về Hiện diện TA LÀ của mình. Như tôi có trình bày, chính tôi đã đọc các bài chú từ rất lâu nay, và tôi cảm thấy là bài chú là một sức mạnh vững chắc và đều đặn đẩy tôi tiến lên trên con đường tâm linh. Tôi không nói là chỉ đọc bài chú là đủ để giúp bạn tiến bộ, vì đương nhiên là bạn cũng cần xem xét những niềm tin đang giới hạn bạn. Tuy nhiên, bài chú giống như bộ máy trong chiếc xe, và khi bạn đọc chú bạn sẽ có được sức đẩy tới. Sau đó, bạn cần lái chiếc xe để nó đưa bạn tới nơi bạn muốn đến.

HẾT CHƯƠNG

Uy lực của cái Ta – Chương 9 – Cái Ta đi xuống thế giới vật chất

Chúng ta đã thấy là các chân sư thăng thiên sáng tạo Hiện diện TA LÀ như một kho lưu trữ cá thể độc nhất (unique individuality) của bạn. Các thầy làm vậy để bảo đảm là cá thể của bạn không bao giờ bị phá hủy hay bóp méo bởi những gì bạn kinh nghiệm trong thế giới vật chất. Nhưng vì vậy Hiện diện TA LÀ không thể nào đi xuống và đi vào một cơ thể vật lý, và do đó nó phải gửi xuống một phần nối dài của chính nó. Trong chương này chúng ta sẽ xem xét phần nối dài này. Chúng ta hãy bắt đầu hiểu xem Hiện diện TA LÀ nhìn tiến trình gửi phần nối dài của nó xuống hiện thân (into embodiment) như thế nào. Hiện diện có hai mục đích khi làm vậy:

  • Nó muốn tăng triển sự tự nhận biết
  • Nó muốn nâng cao bầu cõi cuối cùng cho tới khi bầu cõi này thăng thiên và trở thành một phần của cõi tâm linh

Làm sao Hiện diện chu toàn được các mục đích trên? Nó có hai mục tiêu chính: 

  • Nó muốn kinh nghiệm thế giới vật chất từ bên trong. Lẽ dĩ nhiên là có sự khác biệt giữa nhìn thế giới này như một sinh thể tâm linh đang ngự ở cõi cao và nhìn thế giới với cái nhìn của một sinh thể đang sống trong đó và phần nào chịu sự giới hạn của thế giới đó. Hiện diện TA LÀ muốn có cái nhìn từ bên trong này và khi nhìn như thế và vượt thăng được giới hạn thì chuyện đó sẽ giúp Hiện diện mở rộng ý niệm bản ngã của mình.
  • Hiện diện muốn biểu lộ tiềm năng sáng tạo của nó trong thế giới này. Việc này có hai phần: một là biểu lộ ánh sáng tâm linh qua cá thể độc đáo của nó, và hai là đem lại nhãn quan tâm linh của Hiện diện qua lăng kính của cá thể của nó. Để minh họa điều này một cách thô thiển, chúng ta có thể nói một bầu cõi chưa thăng chỉ có một lượng ít ỏi ánh sáng, so với một căn phòng tối. Một bầu cõi sẽ đến gần mức thăng thiên khi Hiện diện TA LÀ chiếu sáng ánh sáng tâm linh của nó vào bầu cõi. Chuyện này chỉ làm được nếu Hiện diện có sự chú tâm ở bên trong bầu cõi và khi cái ta chú tâm đó tự coi mình là cánh cửa mở cho Hiện diện.

9.1. Sáng tạo một cái Ta không thể nào mất đi được

Như đã biết, các mục đích ở trên chỉ có thể đạt được qua việc Hiện diện TA LÀ tạo ra một phần nối dài của chính nó và gửi xuống thế giới vật chất. Mặt khác chúng ta cũng lo lắng là cần làm sao cho cái Ta đi xuống này không bị mắc kẹt mãi mãi trong thế giới này. Tới đây thì là một điểm vi tế khó mà hiểu được với cái trí phân tích đường thẳng. Một cách để giải thích là Hiện diện TA LÀ có hai khía cạnh:

  • Biết, tự nhận biết hay Hiện diện. Khía cạnh này không có hình tướng.
  • Cá thể. Khía cạnh này có hình tướng và muốn biểu thị trong thế giới hình tướng. Như chúng ta đã thảo luần ở các phần trước, một số nhà khoa học bắt đầu nhận ra rằng cả vũ trụ này giống như một cái tâm vĩ đại. Các nhà thần bí từ lâu nay đã nói là chỉ có một cái tâm, là tâm của đấng Sáng tạo, nhưng cái tâm duy nhất này có thể tự biểu lộ như nhiều sinh thể cá biệt. Điều quan trọng cần hiểu là Hiện diện TA LÀ tạo ra một nối dài của khía cạnh Biết. Nó tạo ra một phần nối dài của sự tự nhận biết của nó, và chính phần nối dài này đi xuống vũ trụ vật chất, trong khi cá thể thì ở lại an toàn và không đụng tới nó được nơi cõi tâm linh.

Chúng ta cũng có thể nói tự nhận biết thực sự vượt lên trên thế giới hình tướng. Nó không có hình tướng, nó không có đặc tính nào có thể bị ảnh hưởng bởi bất cứ hình tướng nào. Nhưng cá thể thì có hình tướng, và do đó nó có thể bị ảnh hưởng bởi các hình tướng khác, và đó là cách bạn tăng trưởng sự tự nhận biết. Điểm ở đây là cá thể của bạn không đi xuống nhưng ở lại an toàn nơi cõi tâm linh. Cái phần đi xuống là phần nối dài của sự tự nhận biết thuần khiết của bạn. Do đó cái Ta này không có cá thể nội tại; nó chỉ là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ.

Để minh họa một cách thô thiển, hãy mường tượng các toán cảnh sát có một cái ống mềm với một thấu kính ở cuối và họ có thể đặt cái ống này trong một căn phòng. Ống này được nối với một máy quay phim và như vậy họ có thể thấy được chuyện gì xảy ra trong phòng. Tiếp tục minh họa thô thiển này, Hiện diện TA LÀ kéo một “ống ánh sáng” đưa xuống vũ trụ vật chất và cuối ống này là một thấu kính trong veo. Thấu kính này làm việc hai chiều. Hiện diện TA LÀ có thể gửi ánh sáng xuống thế giới vật chất qua thấu kính, và nó cũng có thể trải nghiệm thế giới vật chất từ bên trong bằng cách nhìn qua thấu kính. Thấu kính chỉ giản dị là sự biết thuần khiết, và như vậy nó không thể nào bị lạc mất hay bị bóp méo bởi bất cứ cái gì nó gặp trong thế giới vật chất. Nhưng thấu kính có thể mở rộng ra và chuyện này xảy ra khi bạn tiến lên các trạng thái tâm thức cao hơn. Bạn vừa là cánh cửa mở vừa là cánh cửa rộng hơn.

9.2. Biết qua một kinh nghiệm thần bí: khai ngộ

Các chân sư thăng thiên nhận ra rằng bạn chỉ có thể biết thực tại của giáo lý này khi mà bạn có trải nghiệm thần bí mà thôi. Bình thường thì tâm con người hoàn toàn bị chú tâm hay đắm chìm trong những suy nghĩ cụ thể, những suy nghĩ có một hình tướng nào đó. Có thể so sánh các suy nghĩ này giống như đồ đạc bên trong cái bình chứa nhưng cái bình chứa là gì? Cái bình chứa là cái biết trong dạng thuần khiết của nó. Các nhà thần bí từ bao nhiêu thời đại đã nói rằng nếu chúng ta làm cho cái tâm mình lắng yên xuống được, nếu chúng ta vượt lên trên sự chìm đắm trong suy nghĩ, ta có thể kinh nghiệm được cái biết trong dạng thuần khiết của nó. Triết gia Rene Descartes có câu nói nổi tiếng: “Tôi nghĩ, do đó tôi là.” Nhà thần bí sẽ bước một bước xa hơn thế và nói: “Vâng, nhưng cái gì đã giúp cho bạn có thể nghĩ được? Đó là vì bạn Hiện diện, Có mặt, có sự tự nhận biết.” Do đó, chúng ta cũng có thể nói: “TA LÀ, do đó ta có tự nhận biết và nhờ vậy ta suy nghĩ được.”

Các chân sư thăng thiên biết rằng đối với nhiều người, ý niệm một cái Ta không có cá thể hay hình tướng đi ngược lại với tất cả những gì mọi người được dạy và tin. Do thế, những người này có thể tranh cãi ủng hộ hay chống lại ý niệm cái Ta này bằng cách dùng trí phân tích. Nhưng các chân sư cũng dạy rằng cái trí phân tích có một số giới hạn, nó chỉ có thể xử lý cái gì có hình tướng.

Chính đặc tính này của cái trí phân tích đã khiến cho chúng ta có thể tin rằng chúng ta là những sinh thể vật chất không thể thăng vượt một số giới hạn. Cái trí phân tích luôn luôn phải so sánh tất cả mọi thứ với những gì nó đã biết và cất giữ trong cơ sở dữ liệu của nó. Nhưng làm sao bạn có thể thăng vượt cái đã biết bằng cách dùng cái đã biết? Như Albert Einstein từng nói: “Bạn không thể giải quyết một vấn đề bằng cách dùng chính cái trạng thái tâm thức đã tạo ra vấn đề.”

Như chúng ta sẽ cùng thảo luận kế tiếp vô chi tiết hơn, chúng ta có thể tạo ra một cái ta được xác định dựa trên những giới hạn của thế giới vật chất. Một khi cái Ta đi xuống đã bắt đầu đồng hóa nó với một cái ta tách biệt như thế, tất cả những gì nó thấy đều bị pha màu bởi sự giới hạn, và như vậy trông dường như giới hạn là thật. Đây là một cách khác để mô tả tình thế khó xử của con người, một tình thế tiến thoái lưỡng nan.

Cách thoát ra duy nhất là có được một trải nghiệm trực tiếp làm cho bạn thấy bạn là hơn cái tự ngã thế tục và tách biệt này. Và chuyện này chỉ xảy ra khi bạn trải nghiệm được là bạn vượt lên trên các suy nghĩ bình thường của bạn trong khi bạn còn tỉnh thức và đang sống. Bạn tỉnh thức nhưng bạn không đồng hóa mình với cái ý niệm bản ngã bình thường của mình, và bạn cũng không ý thức cái ý niệm bản ngã đó. Chính kinh nghiệm thần bí này là nền tảng để bạn bắt đầu tiến trình mà bạn từ từ không đồng hóa mình với cái ngã tách biệt nữa. Như thế, cái Ta đi xuống có thể trở về trạng thái nguyên thủy của nó. Trong trạng thái này, nó nhận ra nó là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ, không hơn không kém.

Nhiều người tâm linh đã có kinh nghiệm thần bí như thế, và bạn có thể là một trong những người này. Có bao giờ bạn có cảm nhận bạn có sự nối kết với cái gì đó lớn hơn, bạn hợp nhất với một thực tại lớn hơn, hay bạn hợp nhất với tất cả và ngay cả với Thượng đế? Có bao giờ bạn tỉnh thức mà bạn không biết tới môi trường chung quanh hay các tư tưởng thường đầy trong đầu của bạn? Có bao giờ bạn có hình ảnh về một thế giới hay một tầng mức thực tại vượt lên trên thế giới vật chất không? Có bao giờ bạn có cảm nhận “bạn” to lớn hơn cái thân xác của mình, hoặc bạn là một tế bào trong một cơ thể rộng lớn hơn? Có nhiều loại trải nghiệm thần bí như thế và chúng có những mức độ thuần khiết khác nhau. Nhưng điều quan trọng là bất cứ trải nghiệm nào vượt lên trên cái mà chúng ta gọi là cái biết “bình thường” của con người, cho bạn thấy là cái cốt lõi của bạn, cái Ta đi xuống, quả thật là một dạng biết thuần khiết.

Khi tâm của bạn đã được trong lọc khỏi các năng lượng tha hóa, bạn sẽ bắt đầu có trải nghiệm thần bí một cách tự nhiên và dễ dàng.

Nếu bạn chưa có các trải nghiệm này, xin đừng tuyệt vọng. Như chúng ta đã thảo luận, các chân sư thăng thiên đã cho chúng ta nhiều dụng cụ tâm linh để giúp chúng ta có những trải nghiệm về trạng thái tâm thức cao. Khi bạn trong lọc bốn tầng của tâm khỏi các năng lượng tha hóa, bạn sẽ bắt đầu có trải nghiệm thần bí một cách tự nhiên và dễ dàng. Lý do là đối với cái Ta đi xuống, nhận biết thuần khiết là trạng thái tự nhiên của nó.

Điểm quan trọng bạn cần nghiền ngẫm là cái Ta đi xuống là cái nhận biết thuần khiết, có nghĩa là nó không có hình tướng. Như vậy nó không thể nào bị phá hủy hay bị giết bởi bất cứ cái gì trong thế giới vật chất. Nó không thể bị mắc kẹt hay bị hạn chế mãi mãi trong bất cứ hình tướng nào. Và dù bây giờ bạn đang có bất cứ ý niệm bản ngã nào, cái Ta thuần khiết mà bạn thật sự là, có tiềm năng thăng vượt mọi khía cạnh của cái bản ngã đó. Dù bạn đã kinh nghiệm điều gì bây giờ hay trong quá khứ, bạn có tiềm năng tái tạo lại ý niệm bản ngã của mình, để bạn trở thành cánh cửa mở, qua đó cá thể thật của bạn có thể tự do biểu hiện qua thấu kính của cái Ta đang ở trong thế giới này.

Lẽ dĩ nhiên chúng ta vẫn còn thắc mắc tại sao mình quên mình là một sinh thể tâm linh và chúng ta sẽ thảo luận đề tài này trong phần còn lại của chương. Nhưng trước tiên, chúng ta hãy cho cái “Ta đi xuống” một cái tên thực tiễn hơn. Dù là có thể dùng nhiều tên khác, các chân sư thăng thiên đã chọn cái tên “cái Ta biết” vì nhờ có cái Ta này mà bạn có ý thức, mà bạn biết hay nhận biết. Bạn đạt được cái biết này khi bạn biết bạn là Hiện diện TA SẼ LÀ trong khi bạn vẫn nhận biết thế giới vật chất và tiềm năng đồng sáng tạo một hình thái cao hơn của thế giới này của bạn.

9.3. Cái Ta tự biểu hiện như thế nào?

Một lần nữa, cái Ta Biết được tạo ra để giảm thiểu nguy cơ nó có thể bị lạc lối trong thế gian này. Do sự khác biệt lớn giữa độ rung của cõi tâm linh và thế giới vật chất, điều này có nghĩa là cái Ta Biết không thể trực tiếp tương tác với thân xác vật lý. Để có thể hiện thân trong thế giới này, cái Ta Biết trước tiên phải phóng chiếu nó vào một ý niệm bản ngã được cấu tạo bởi những năng lượng và hình tướng hiện có trên trái đất. Sau đó cái ta này sẽ tương tác với thân xác vật lý.

Cấu trúc này sáng suốt ở điểm nếu cái ta vật chất bị tổn thương hay hủy diệt, thì cái Ta Biết vẫn không hề hấn gì. Điều giản dị là năng lượng thấp của thế giới vật chất không thể ảnh hưởng sự nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết. Điều này hình dung không khó nếu bạn chấp nhận thuyết luân hồi. Bạn biết là linh hồn (soul) không bị hủy diệt khi xác thân vật lý chết đi. Giống như vậy, cái Ta Biết không bị hủy diệt nếu cái ta vỏ ngoài chết đi.

Tiến trình đầu thai rất phức tạp, và do đó tại đây chúng ta chỉ xem xét vấn đề một cách giản lược. Trong thiết kế nguyên thủy, chúng ta khởi đầu bằng cách xuống một môi trường được bảo vệ mà ở trên chúng tôi đã gọi là cõi bản sắc, là cõi cao nhất trong bốn cõi thuộc vũ trụ vật chất. Tại đó, chúng ta sẽ ở trong một môi trường học hỏi tâm linh một thời gian, môi trường này gọi là một trường bí giáo.

Nơi đó, chúng ta khởi sự với việc học cách khoác lên và vượt thăng một cái ta vật chất nhưng không tự đồng hóa với nó. Khi ta không tự đồng hóa mình với cái ta vật chất thì ta có thể vượt thăng cái ta đó, và chính tiến trình khoác lên và vượt thăng một cái ta sẽ khiến ta tăng trưởng mức độ tự nhận biết. Một khi ta có thêm kinh nghiệm thì ta có thể quy định các cái ta của mình, lúc đó sẽ là căn bản để chúng ta xuống một xác thân vật lý.

Một lần nữa, có khác biệt lớn giữa độ rung của cõi bản sắc và cõi vật lý. Cõi vật lý thô đặc hơn nhiều, do đó khi chúng ta bước xuống một xác thân vật lý, viễn quan của ta thay đổi hoàn toàn. Cơ thể con người đương nhiên bị nhiều điều kiện vật chất giới hạn, có nghĩa là nếu ta tự đồng hóa mình với xác thân, thì ta sẽ tin rằng các điều kiện vật chất khống chế chúng ta. 

9.4. Vì sao cái Ta lại quên nó là ai?

Bây giờ chúng ta thấy là để bước xuống mức độ dày đặc của thế giới vật chất, cái Ta Biết đã khoác lấy một cái ta được hình thành với các hình tướng và năng lượng của thế giới vật chất. Cái ta này giống như một phin lọc nhận thức mà ta có thể so sánh với một cặp kính màu. Bạn hãy thử nghĩ nếu có ai gắn vào mắt bạn một cặp kính áp tròng màu đỏ ngay từ thuở bạn mới sinh. Bạn sẽ lớn lên tin chắc là bàu trời màu tím và không thể có cách gì khác trải nghiệm bàu trời.

Bây giờ chúng ta thấy sở dĩ điều kiện bên ngoài có sức mạnh trên chúng ta, đó là vì ta tin rằng những gì ta nhìn qua phin lọc là thực tại, và tin rằng thực tại đó độc lập với cách ta nhận thức nó. Đó là gì chúng tôi đã mô tả ở các chương trước khi chúng tôi so sánh tâm con người với cái kính vạn hoa. Những mảnh kính màu trong kính vạn hoa giống như các niềm tin mà ta có trong tâm mình, và các niềm tin này khiến ta tin rằng ta là một sinh thể giới hạn, và thế giới vật chất khống chế chúng ta.

Một khi bạn nhận ra rằng cách mình nhìn cuộc đời là sản phẩm của một cái ta nào đó, một phin lọc nhận thưc nào đó, thì một triển vọng nhiều hứa hẹn hiện ra. Bạn bây giờ có thể nêu ra một câu hỏi có tiềm năng thay đổi đời bạn: “Cái ta mà ta đang hiện có, có phải là cách duy nhất nhìn thế gian chăng, hay là có cách khác ˗ một cách có thể giúp ta vượt thăng những điều đang giới hạn ta hiện nay?”

Vấn đề mấu chốt của kiếp sống con người là: Ta trải nghiệm cuộc đời qua một phin lọc nhận thức, nhưng ta không nhận ra được là nó chỉ là một trong nhiều phin lọc.

Đương nhiên là chúng ta đều thấy được là có nhiều người không nhìn cuộc đời giống như ta. Giải thích hợp lý là họ đang trải nghiệm cuộc đời qua những cái ta khác nhau, những phin lọc nhận thức khác nhau. Ý niệm này giải thích vì sao ta rất khó đồng ý với người khác, ngay cả giao tiếp cũng khó. Một người đang đeo kính màu vàng và một người đang đeo kính màu đỏ sẽ khó đồng ý bàu trời màu gì, vì cái gì họ nhìn thấy khác nhau.

Vậy ta phải làm gì? Ta có thể bắt đầu tiến trình cải thiện và nới rộng phin lọc nhận thức bằng cách gia tăng hiểu biết của mình về cuộc đời và các đề tài tâm linh. Đó là điều nhiều người trong chúng ta đã làm qua việc học hỏi các giáo lý tâm linh và phương pháp tự giúp. Ta hiểu sâu hơn khía cạnh tâm linh của cuộc sống, và qua đó ta cũng chuyển đổi được cách ta nhìn cuộc đời.

Tuy nhiên ta cũng nhận được ra rằng phương pháp này có giới hạn. Thí dụ, nhiều người tâm linh vẫn còn một số cá tính hay thói quen mà họ không thăng vượt được. Cũng có người đã lấy giáo lý tâm linh để tự tạo cho mình một phin lọc nhận thức mới, cũng giới hạn họ không kém cái phin lọc mà họ có trước khi bước vào con đường tâm linh. Nhiều người tâm linh bị dính vào cố gắng thuyết phục người khác là: “Phin lọc nhận thức của tôi đúng và phin lọc của bạn sai”. Đây là một cuộc vật lộn đã kéo dài rất lâu trên trái đất này rồi. Cũng có người có mặc cảm tự tôn, cho rằng vị thày hay giáo lý của họ giúp họ có nhận thức vượt trội hơn tất cả các nhận thức khác.  

Chúng tôi không muốn nói là ta không nên học một giáo lý tâm linh, cũng không muốn nói là ta không nên nới rộng phin lọc nhận thức của mình. Nhưng các chân sư thăng thiên cũng nói đây chỉ là một giai đoạn, và có một mức độ cao hơn trên con đường tâm linh. Mức độ này là gì?

Ta có nên tự đặt câu hỏi này chăng: “Có thể nào trải nghiệm cuộc sống mà không có bất cứ phin lọc nhận thức nào chăng?” Nói cách khác, có cách nào vượt thăng tất cả các phin lọc nhận thức thay vì chỉ nới rộng chúng thôi? Như chúng ta đã thấy, cái Ta Biết được tạo ra như là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ. Là cánh cửa mở có nghĩa là ta không có phin lọc nhận thức; có nghĩa là ta nhìn thế giới vật chất không qua các phin lọc được cấu tạo với các năng lượng và hình tướng được của thế gian này. Thay vào đó, ta nhìn thế giới vật chất như Hiện diện TA LÀ thấy nó; ta nhìn thấy nó với một nhận thức thuần khiết.

Đây là một quan niệm mà ta tìm thấy được trong nhiều giáo lý thần bí. Thí dụ, Padma Sambhava, người sáng lập Phật Giáo Tây Tạng, gọi nó là “nhận biết thuần khiết”, hay “nhận biết trần trụi” (naked awareness). Thiền Phật giáo gọi là “tâm ban sơ” (beginner’s mind), và Giê-su nói là chúng ta phải trở thành trẻ thơ mới vào được nước Trời. Nếu ta nhìn thế gian với nhận thức thuần khiết, ta cũng nhận ra rằng tất cả mọi thứ trong cõi đời được cấu tạo bởi một dạng năng lượng thấp hơn năng lượng từ Hiện diện TA LÀ tuôn xuống. Do đó, ta cũng trực nghiệm rằng “với Thượng đế mọi chuyện đều có thể làm được”. Năng lượng chỉ đơn giản là sóng, và một sóng có độ rung thấp sẽ thay đổi khi tiếp cận với một sóng có độ rung cao hơn. Do đó, với những ai là cánh cửa mở cho năng lượng tâm linh, thì thật sự là mọi chuyện đều có thể làm được.

9.5. Chất vấn phin lọc nhận thức

Bây giờ thì ta thấy là quan niệm tăng trưởng tâm linh lên một trạng thái tâm thức cao hơn quả thật là một tiến trình qua đó ta tháo gỡ các phin lọc nhận thức mà ta đã khoác lên. Khi bạn nhìn cuộc đời với phin lọc nhận thức đang quy định quan niệm bản ngã của bạn, thì bạn không thể nào chất vấn niềm tin là điều kiện vật chất có thật và khống chế bạn. Cách DUY NHẤT giúp bạn vượt thăng được các điều kiện này là bạn phải chất vấn chính cái phin lọc nhận thức đã khiến bạn tưởng chúng là thật. Nhưng bạn không thể làm được điều này nếu bạn nhìn cuộc đời từ bên trong phin lọc nhận thức. Đây là điều mà trong các chương trước chúng tôi đã gọi là bí ẩn về con người, là thế tiến thoái lưỡng nan của cuộc sống con người. Cái Ta Biết không chất vấn được nhận thức của nó khi nó tiếp tục nhìn chính nó qua phin lọc nhận thức của cái ta vật chất.

Là cánh của mở có nghĩa là bạn không có phin lọc nhận thức. Bạn nhìn thế giới vật chất như Hiện diện TA LÀ thấy nó.

Cách duy nhất giúp bạn thoát khỏi tình trạng này là qua một trải nghiệm thần bí, qua đó bạn nhận ra rằng bạn không phải là ý niệm bản ngã hiện hành của mình. Trái lại, bạn là một sinh thể từ cõi tâm linh xuống, và vì vậy bạn không thể bị ảnh hưởng vĩnh viễn bởi bất cứ điều gì xảy ra trên trái đất. Sinh thể này chỉ khoác lên một cái ta hạn hẹp, và nếu bạn nhìn mình qua phin lọc của cái ta đó thì bạn sẽ nghĩ mình là cái ta hạn hẹp đó. Tuy nhiên, bất kể nhận thức hiện hành của bạn ra sao, bạn vẫn là sinh thể đã từ cõi cao xuống.

Để minh họa bằng hình ảnh, bạn hãy tưởng tượng bạn được tặng một ống nhòm. Những gì bạn nhìn qua ống nhòm, bạn thấy rõ ràng hơn là với mắt trần. Nhưng giá bạn phải trả là tầm nhìn của bạn bị thu hẹp rất nhiều. Do đó, nếu bạn muốn thấy đầy đủ viễn cảnh thì bạn phải bỏ ống nhòm ra và nhìn thế giới với mắt trần. Giống vậy, bạn có thể dần dần rút cái Ta Biết ra khỏi ống nhòm của cái ta vỏ ngoài. Sau đó, bạn sẽ cần tìm hiểu làm sao cái Ta Biết đã khoác lên cái ta hiện hành của nó. Nó đã làm việc này bằng cách phóng chiếu nó vào cái ta đó, giống như một diễn viên khoác một trang phục và hóa trang để đóng một vai tuồng trên sân khấu hay phim ảnh. Cái ta hiện hành của bạn chỉ giản dị là một vai tuồng mà bạn đã chọn trong tấn tuồng cuộc đời. Nhưng nếu bạn đã chán không còn muốn thủ vai tuồng này nữa thì bạn có thể bắt đầu trút cái trang phục đó ra.

Làm sao bạn vượt thăng cái ta hiện hành của bạn? Bạn chỉ cần nhận ra rằng cái Ta Biết đã phóng chiếu nó vào cái ta đó, và như vậy nó có tiềm năng rút nó ra khỏi cái ta đó. Cách làm điều này là nhận ra rằng cái Ta Biết có tiềm năng đạt được trạng thái nhận biết thuần khiết, có nghĩa là bạn KHÔNG có phin lọc nhận thức nào. Bạn chỉ giản dị quan sát các điều kiện trên cõi vật chất mà không dán nhãn hay phán xét chúng. Dán nhãn hay phán xét là sản phẩm của phin lọc nhận thức của bạn.

Một khi bạn nhận ra rằng cái ta vỏ ngoài của bạn chỉ là một phin lọc nhận thức và không có gì bạn nhìn qua nó có thực tại tối hậu, thì bạn sẽ dễ dàng ngưng không đồng hóa mình với nó nữa. Một khi bạn đã trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết thì bạn sẽ không bao giờ hoàn toàn đồng hóa mình với cái ta vỏ ngoài nữa, tuy rằng bạn sẽ cần thêm thời gian để hoàn toàn khắc phục ý niệm đồng hóa đó.

Điều cốt yếu là bạn phải nhận ra là cái Ta Biết không bị thay đổi vĩnh viễn bởi cái ta hiện hành của bạn ˗ giống như khi bạn đeo kính màu vàng thì mắt bạn không bị thay đổi. Cái Ta Biết hoàn toàn có khả năng đạt được trạng thái nhận biết thuần khiết, là khi bạn không có bất cứ phin lọc nhận thức nào của thế gian này. Bạn nhìn thấy mọi việc như chúng thực sự là.

Đó là ý của Giê-su khi thày nói: “Khi con mắt của ngươi là một thì toàn thân ngươi sẽ tràn đầy ánh sáng.” Các bạn hãy suy ngẫm câu nói này. Khi cái nhìn của bạn là “một”, có nghĩa là không bị phân chia bởi bất cứ phin lọc nhận thức nào, thì bạn sẽ thấy là mọi thứ trong vũ trụ vật chất đều được cấu tạo bởi ánh sáng tâm linh. Làm sao điều này lại giúp bạn vượt thăng các giới hạn của bạn?

9.6. Phá tan các phin lọc nhận thức

Như đã giải thích trong các chương trước, mọi vật trong vũ trụ vật chất đều được cấu tạo bởi ánh sáng tâm linh đã khoác lên một hình tướng tạm thời. Nhưng nếu bạn nhìn thế gian qua phin lọc nhận thức của cái ta vật chất, thì bạn sẽ tưởng các hình tướng tạm thời đó là thực.

Đây là một nguyên lý quan trọng mà ta cần hiểu. Phin lọc nhận thức của ta không có quyền hạn gì trên chúng ta cả; nhưng nó có thể tước đi quyền lực của ta, vì ta không còn khung tham chiếu (frame of reference) nào ngoài phin lọc nhận thức. Vì sao người thời Trung cổ tin rằng giáo lý Công giáo không thể sai lầm và do đó tin rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ? Chính là vì họ không có khung tham chiếu mà các nhà thiên văn học đầu tiên cống hiến, khi họ nói: “Xin lỗi quý vị, các vật thể trên bầu trời không vận hành theo giáo lý của quý vị, vậy tại sao chúng tôi lại phải làm như vậy?”

Khi cái nhìn của bạn là “một”, có nghĩa là không bị phân chia bởi bất cứ phin lọc nhận thức nào, thì bạn sẽ thấy là mọi thứ trong vũ trụ vật chất đều được làm bởi ánh sáng tâm linh.

Một lần nữa, chúng ta hãy nhìn vào thí dụ một mê cung được bao bọc bởi hàng rào cây cao. Đi vào mê cung giống như mang phin lọc nhận thức, vì tất cả những gì bạn thấy là những bức tường xanh và bạn không biết được mê cung như thế nào nếu nhìn từ trên cao. Bạn không thể biết vị trí của bạn ở đâu so với lối ra mê cung.

Vậy bạn phải làm gì? Bạn có thể quờ quạng bước tới với hy vọng là sẽ may mắn tìm thấy lối ra. Hoặc bạn có thể dùng khả năng của tâm trí để bước ra ngoài tình huống, quan sát bước đi của mình và tưởng tượng ra bản đồ mê cung dựa trên những gì bạn thấy quanh mình. Nhưng có cách thứ ba là bạn nhận thấy có những sợi dây thừng từ trên thả xuống, và nếu bạn leo lên một sợi dây này thì bạn sẽ thấy được mê cung từ trên cao. Leo lên sợi dây thừng tương đương với dùng khả năng bước ra ngoài phin lọc nhận thức của cái Ta Biết.

Nguyên tắc rất giản dị. Nhận thức của ta khiến ta mù lòa không thấy được thực tại; nó cho ta một cái nhìn méo mó và sai lạc về thực tại. Nhưng nếu ta cứ nhìn qua phin lọc thì không có cách chi ta nhận ra là cái nhìn của mình bị méo mó. Để tự giải thoát khỏi phin lọc, ta cần một khung tham chiếu cho ta thấy có thực tại bên ngoài phin lọc.

Nếu bạn nhìn vào lịch sử thì sẽ thấy tất cả các tôn giáo đáng lý phải cho ta một khung tham chiếu bên ngoài phin lọc nhận thức. Cả Giê-su lẫn đức Phật đã tìm cách thách đố quan niệm con người tự coi mình bất lực. Nhưng tiếc thay con người có khả năng dùng tôn giáo để xác nhận nhận thức hiện hành của mình là đúng, và đó là lý do vì sao nhiều tôn giáo đã dìm con người sâu hơn vào quan niệm mình bất lực và cần sự trợ giúp từ bên ngoài.

Nhận thức của ta khiến ta mù lòa không thấy thực tại; nó cho ta một cái nhìn méo mó về thực tại. Nhưng nếu ta cứ nhìn qua phin lọc thì không có cách chi ta nhận ra là cái nhìn của mình bị méo mó.

Trong thời Trung cổ, con người bị giam chặt trong phin lọc nhận thức do giáo hội Công giáo tạo ra. Khoa học đã là khung tham chiếu giúp con người thấy là có thực tại bên ngoài giáo điều. Và khoa học vẫn tiếp tục đảm nhận chức năng này, nhưng ngày nay khuynh hướng duy vật đã giảm thiểu sức mạnh khai phóng của nó. Đó là lý do vì sao ngày nay nhiều người đi tìm tâm linh và thần bí, là những khuynh hướng nhìn nhận uy lực nội tại của tâm con người. Uy lực này là gì?

Nếu ta lấy khái niệm cái Ta Biết, thì sức mạnh thật của nó là ý niệm con người là một sinh thể tâm linh đã phóng chiếu mình lên cái ta hiện hành. Và chính khả năng phóng chiếu mình vào cái phin lọc nhận thức hiện hành cũng có thể được dùng để rút ra khỏi cái phin lọc nhận thức đó. Chúng tôi có nói ở trên là cách duy nhất để biết xem các chân sư thăng thiên có thật hay không là qua một trải nghiệm trực tiếp, thần bí. Trải nghiệm này là sản phẩm của cái Ta Biết phóng chiếu nó ra khỏi cái phin lọc nhận thức hiện hành của bạn.

Như đã nói ở trên, các trải nghiệm thần bí đã trực tiếp chứng minh là cái Ta Biết hơn cái ta hiện hành của bạn. Các trải nghiệm này xảy ra khi cái Ta Biết ngưng không tự đồng hóa với cái ta vỏ ngoài và trải nghiệm một cái nhìn chợt thoáng nó thực sự là gì. Khi bạn đi theo con đường tâm linh thì bạn sẽ có thêm những trải nghiệm như vậy, và chúng sẽ càng ngày càng rõ hơn. Rốt cuộc bạn sẽ bắt đầu trải nghiệm trạng thái nhận biết thuần khiết, khi bạn không có tư tưởng hay phán xét. Bạn giản dị trải nghiệm thế gian không qua phin lọc nhận thức nào.  Và trải nghiệm này là bằng chứng tối hậu là cái gì cái Ta Biết tự phóng chiếu vào không thể nào ảnh hưởng vĩnh viễn cái Ta.

Đây là lúc bạn thực sự tin tưởng thông điệp chính của các chân sư thăng thiên: cái Ta bị rơi vào đâu thì nó cũng có khả năng thoát ra khỏi nơi đó. Và bạn không cần tìm một đấng cứu tinh từ bên ngoài làm hộ bạn công việc đó. Bạn chỉ cần đơn giản sử dụng một cách có ý thức các khả năng đã giúp bạn nhập vào ý niệm bản ngã hiện hành của bạn. Các chân sư thăng thiên không bao giờ hứa hẹn sẽ cứu rỗi chúng ta, và cũng không làm gì hộ ta. Điều các thày nhất định sẽ làm là giúp ta khám phá ra uy lực mà ta vẫn sẵn có: đó là uy lực của cái Ta. Uy lực này đương nhiên bị che khuất bởi phin lọc nhận thức cho rằng các điều kiện vật chất khống chế được chúng ta. Do đó, khi ta vượt thăng các phin lọc nhận thức này, ta sẽ là cánh cửa mở để toàn bộ uy lực của cái ta cao chảy vào.

9.7. Làm thế nào chúng ta tạo ra một cái ta hạn chế trên Trái đất này?

Như chúng ta đã biết, hành tinh trái đất hiện nay có những sự biểu hiện không phải là cao nhất. Con người cư xử bất nhân với con người thật sự là một trong những tình trạng mà tất cả chúng ta phải vật vã ở trong đó. Hậu quả là khi chúng ta đầu thai lần đầu, tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng bởi tình trạng ô uế trên hành tinh này, và đại đa số chúng ta đã tạo ra một cái ngã mới để phản ứng lại hoàn cảnh mà chúng ta đã kinh nghiệm. Lẽ dĩ nhiên cái ngã này dựa trên một nhãn quan hạn chế mà chúng ta có lúc chúng ta đầu thai. Trong nhiều trường hợp, chúng ta chỉ giản dị khoác vào mình một cái ngã đã được định nghĩa sẵn để chịu đựng được tình trạng lúc đó của trái đất.

Hãy so sánh chuyện này với chuyện xảy ra trên một sân khấu. Hãy tưởng tượng một diễn viên mới bị đẩy ra đứng trên một sân khấu trống không giữa một buổi đại hội và được nói là anh ta phải tự chọn một vai tuồng cho mình. Lẽ dĩ nhiên anh phải hoảng sợ, do đó dễ nhất cho một diễn viên mới là anh chọn một vai tuồng nhỏ và trốn đằng sau trang phục và son phấn tô điểm mặt mày. Khi diễn viên dần dà tự tin hơn, anh có thể nhận lãnh những vai tuồng phức tạp hơn. Và trong một số trường hợp, một diễn viên còn có thể có can đảm bước ra sân khấu mà không cần đóng một vai tuồng nhất định.

Khi cái Ta Biết lần đầu tiên đầu thai, bạn khoác lên một trong những vai tuồng đã được xác định sẵn trên sân khấu của trái đất. Thế nhưng hiện nay trái đất ở trong trạng thái thấp hơn nhiều so với lúc nó được sáng tạo bởi các sinh thể thăng thiên. Gần như hầu hết giáo lý của các tôn giáo hay phong trào tâm linh đều nói tới một trạng thái cao hơn trong quá khứ và con người chúng ta đã xuống thấp hơn xưa. Vì lý do đó mà hiện nay có rất nhiều vai tuồng không hiện hữu ở trong bản mẫu nguyên thủy.

Các chân sư thăng thiên dạy rằng sự “sa ngã” này xảy ra bởi vì có một số người lựa chọn tạo ra những cái ngã dựa trên ảo tưởng tách biệt. Khi làm thế thì bạn có thể hành động như một sinh thể tách biệt mà không quan tâm tới hậu quả đối với người khác, đối với toàn thể hay đối với chính mình trong dài hạn. Hiện nay, đai đa số con người trên trái đất hành động như vậy, dựa trên một cái ngã tách biệt, và đó là lý do tại sao có rất nhiều xung đột. Có hai lý do khiến con người khoác lên một cái ngã tách biệt:

  • Trong quá khứ, bạn quyết định bạn muốn thử kinh nghiệm thế giới xuyên qua một cái ngã hạn chế và muốn làm những chuyện chỉ làm được khi bạn nghĩ bạn là một sinh thể tách biệt. Và tuy rằng chuyện này hoàn toàn được luật Tự quyết cho phép làm, một khi bạn khoác vào một vai tuồng dựa trên ảo tưởng tách biệt, bạn quên mất bạn là cái Ta Biết, là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ. Và như vậy cái phin lọc nhận thức thấy mình tách biệt có vẻ thật hơn là nhận thức mình là một sinh thể kết nối với người khác và với mọi sự sống.
  • Cũng có thể là bạn đầu thai không phải vì bạn muốn khoác vào vai tuồng mình là một sinh thể tách biệt. Có thể là bạn chịu khoác vào một cái ngã hạn chế để chứng minh cho người khác thấy rằng chúng ta là nhiều hơn một con người phàm và chúng ta không cần phải chịu sự hạn chế của các điều kiện vật chất. Ngược lại chúng ta có thể thăng vượt bất cứ ý niệm bản ngã nào và đóng góp vào sự đồng sáng tạo một thế giới mới vượt lên trên những hạn chế hiện nay.

Bất cứ bạn có lý do gì để khoác lên một cái ngã tách biệt, giáo lý của các chân sư thăng thiên chỉ cho bạn cách vượt lên trên phin lọc nhận thức hiện tại của bạn và đạt được trạng thái nhận biết thuần khiết là tiềm năng cao nhất của bạn. Lúc đó, bạn hoàn thành được lý do tại sao bạn đầu thai : là để trở thành cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của bạn.

Bây giờ thì chúng ta thấy được thách đố lớn nhất trên con đường tu tâm linh. Đó là chúng ta phải từ bỏ tất cả những định kiến, tin tưởng và phin lọc nhận thức. Biết bao nhiêu người trong chúng ta trải qua giai đoạn cảm thấy mình đã tìm ra một giáo lý tâm linh chân chính, và bây giờ thì chúng ta không cần thăng vượt một số tin tưởng bởi vì chắc chắn chúng là đúng khi chúng ta được lên thiên đàng. Nhưng bất kỳ giáo lý nào được diễn đạt bằng ngôn từ đều kém hơn là thực tại tâm linh. Cho nên, thách đố thật sự là phải buông bỏ tất cả, đặc biệt là buông bỏ những điều mà mình tin là mình không cần phải chất vấn.

Bạn sẽ không thăng thiên được đâu khi bạn nắm giữ bất cứ cái gì, hay nói theo người Phật tử, khi bạn nắm chặt ý kiến của mình. Bạn chỉ thăng thiên được khi bạn buông bỏ tất cả mọi thứ và đạt tới trạng thái nhận biết thuần khiết, trần trụi trong đó không có sự phán xét giá trị theo con người phàm, không có phê phán theo ngoại hình. Chỉ khi nào bạn không còn phê phán theo ngoại hình của thế gian nữa thì các ngoại hình hiện thời trên trái đất mới không còn quyền lực trên bạn nữa.

HẾT CHƯƠNG

Uy lực của cái Ta – Chương 8 – Cái Ta trong cõi tâm linh

Chúng ta hãy tóm tắt những gì đã nói về sự sáng tạo thế giới hình tướng. Các chân sư thăng thiên dạy rằng vũ trụ vật chất là vũ trụ cuối trong một loạt các bầu cõi được sáng tạo từ khoảng không nguyên thủy. Mỗi bầu cõi được sáng tạo lại có rung động dày đặc hơn bầu cõi được sáng tạo trước đó, có nghĩa là chúng ta đang sống trong bầu cõi dày đặc nhất từ trước tới nay. Hậu quả là khi các sinh thể tâm linh khoác vào thân xác trên trái đất này, sự nhận thức của chúng ta về thế giới bao quanh trải qua một sự thay đổi lớn lao.

Ví dụ là đại đa số chúng ta đều thấy là chúng ta sống trong một thế giới có vật chất cứng đặc. Như đã nói ở các phần trước, vật chất không cứng đặc chút nào; nó được cấu tạo bằng năng lượng đang rung động. Tuy thế, bộ máy giác quan nhận thức của chúng ta không thể nào “nhìn” thấy được các rung động này, do đó “vật chất” có vẻ như là cứng đặc và khó thay đổi.

Như đã nói ở trước, chúng ta xuống đây để nâng cao sự rung động của bầu cõi chúng ta, cho tới khi nào nó trở thành một phần của cõi tâm linh. Khi bầu cõi được nâng lên cao, sự rung động của “vật chất” sẽ bớt dày đặc, có nghĩa là vật chất sẽ bớt cứng đặc, và nhìn thấy thanh tao hơn. Ngay bây giờ hành tinh trái đất có độ rung khá thấp, nhưng một khi nó được nâng cao, ta có thể thấy, ngay cả với giác quan của thân thể, là vật chất không tự nó hiện hữu được. Nó được cấu tạo bằng năng lượng thanh tao hơn, có nghĩa là thế giới này là sự nối dài của một thế giới cao hơn và nó không phải là một đơn vị đứng độc lập một mình.

Khi ta nhập vào một thân xác, ta “quên” đi mất mình thực sự là những sinh thể tâm linh. Điều này không có gì sai trái hay xấu vì nó nằm trong dự tính. Như ta đã biết ở các đoạn trước, thế giới hình tướng được tạo ra để giúp các sinh thể là nối dài của đấng Sáng tạo phát triển khả năng tự nhận biết. Chúng ta phát triển bằng cách bắt đầu với một ý niệm hạn chế về cái Ta và dần dần phát triển nó rộng lớn hơn.

Khi ta nhập vào một thân xác, ta “quên” đi mất mình thực sự là những sinh thể tâm linh.

Thật ra, đi xuống thế giới vật chất dày đặc này là một cơ hội lớn cho sự phát triển. Kế hoạch là chúng ta xuống đây và sẽ quên mình là sinh thể tâm linh. Tuy nhiên, trong kịch bản lý tưởng, chúng ta không bao giờ quên là mình kết nối với một cái gì bên ngoài cái ta của mình. Mình không bao giờ quên được là mình là sự nối dài của cái gì lớn hơn, và mình sẽ luôn luôn khao khát được trở về với cái bản sắc rộng lớn mà mình là trước khi mình xuống đây.

Đi xuống thế gian này và khoác lên một ý niệm ta hạn chế thật sự là một cơ hội để mở rộng cái Ta lớn hơn. Khi chúng ta đi xuống, chúng ta khoác vào một ý niệm ta phù hợp với hoàn cảnh của thế giới lúc đó. Như đã đề cập ở trên, các giác quan của thân thể vật lý khiến cho vật chất có vẻ rắn đặc và khó thay đổi, và khiến chúng ta dễ lầm tin rằng chúng ta chịu sự hạn chế của hoàn cảnh trong thế giới vật chất. Chúng ta dần dần tỉnh ngộ thoát ra khỏi ý niệm ta hạn chế này và chúng ta làm chủ được cõi vật chất, nhờ vậy chúng ta phát triển khả năng tự nhận biết.

Sau này chúng tôi sẽ giải thích chi tiết hơn, sự phát triển khả năng tự nhận biết chỉ làm được nhờ có quyền tự quyết. Cái Ta đi xuống thế giới vật chất này thật sự có quyền tự quyết. Khi ta dùng quyền tự quyết này, ta dựa vào nhận thức mà mình có ở thời điểm đó. Như vậy, một khi chúng ta đã đi xuống cõi vật chất, chúng ta bắt đầu quyết định dựa trên ý niệm ta của mình và nhận thức mà mình có trong thế giới này – không giống như nhận thức rộng lớn hơn nhiều mà chúng ta có như những sinh thể tâm linh. 

Như vậy sẽ có dễ xảy ra là chúng ta lấy quyết định dựa trên nhận thức hay niềm tin là vật chất thật sự có quyền lực trên ta. Dần dà chúng ta tạo nên một ý niệm bản sắc quên đi mình nối kết với một cái gì lớn hơn. Dần dà mình quên không còn khao khát tới một cõi khác vượt lên trên cõi vật chất, thậm chí mình cũng có thể chối bỏ mình là sinh thể tâm linh, và chấp nhận một ý niệm bản sắc thiếu quyền lực, coi mình là những kẻ mang tội hay mình là những con khỉ tiến hóa. Chúng ta còn có thể bắt đầu tin rằng chúng ta không thể vượt lên trên thế giới này bằng uy lực của cái Ta, chúng ta chẳng có uy lực của cái Ta, bởi vì chúng ta là sản phẩm của thế giới vật chất và do đó chẳng có quyền lực gì trên nó cả.

8.1. Yếu tố rủi ro cố hữu

Phương trình rất giản dị: Đi xuống thể xác trên trái đất này có cái rủi của nó. Có nguy cơ là sinh thể đi xuống bị lạc lối và bị kẹt trong một ý niệm bản sắc khiến cho y không vượt qua được những hạn chế và không trở về cõi tâm linh được.

Như đã nói, mọi sự trong thế giới hình tướng được các sinh thể tâm linh trong cõi cao hơn sáng tạo ra. Sinh thể mà bạn là, sinh thể mang cá tính độc đáo khiến bạn là bạn, cũng là sự nối dài của các chân sư thăng thiên trên cõi tâm linh. Các chân sư thăng thiên đã đi qua tiến trình đi xuống bầu cõi dày đặc và sau đó vượt lên trên được mọi ý niệm bản sắc hạn chế. Như vậy chính các thầy đã trải qua và hiểu nó khó khăn như thế nào một khi mình ở bên trong cái phin lọc nhận thức của một bầu cõi chưa thăng thiên. Lẽ dĩ nhiên, khi một chân sư thăng thiên sáng tạo ra một sự nối dài của mình, thầy sẽ đem kinh nghiệm này vào bản mẫu của thầy.

Tất cả chúng ta đều ý thức rằng khi mình gửi các con mình đi học và gia nhập cuộc sống của người trưởng thành, các cháu sẽ phải đối diện với những rủi ro nào đó của cuộc đời. Nếu làm được, chắc chắn chúng ta sẽ tìm cách bảo vệ các con mình để không có điều gì quá xấu xảy ra cho các cháu và như vậy mình giảm thiểu được rủi ro. Khi các chân sư thăng thiên sáng tạo ra các phần nối dài của chính các thầy, các thầy lấy một phần bản thể mình ra để sáng tạo. Việc sáng tạo một sinh thể cá biệt là cả một công trình phức tạp vừa là một sự tính toán rất khoa học vừa là một tác phẩm nghệ thuật. Cho nên nếu các chân sư chỉ sáng tạo các sinh thể và gửi các sinh thể này đầu thai trong cõi vật chất, sẽ có rủi ro thật sự là các sinh thể này bị lạc lối và như vậy các chân sư mất đi một phần của chính mình.

Để giảm thiểu rủi ro, các chân sư nghĩ ra một thiết kế tài tình. Khi sáng tạo một sinh thể cá biệt, trước hết các thầy tạo ra một cái ta luôn luôn an trụ ở cõi tâm linh. Chúng ta có thể gọi nó là cái ta tâm linh, nhưng các chân sư thường gọi nó là “Hiện diện TA LÀ.” Hiện diện TA LÀ của bạn chứa trong nó bản thiết kế rất phức tạp và tỉ mỉ đem lại cho bạn cái cá thể khiến bạn khác với cá thể của bảy tỷ người khác trên trái đất. Nó còn khác luôn cả tất cả hằng ha sa số sinh thể khác ở trên nhiều tầng lớp của cõi tâm linh.

Hiện diện TA LÀ của bạn chứa trong nó bản thiết kế rất phức tạp và tỉ mỉ đem lại cho bạn cái cá thể hoàn toàn độc đáo khiến bạn khác với mọi cá thể khác.

Hiện diện TA LÀ đích thực là một sinh thể ý thức, nó cũng hút năng lượng vào nó là Ánh sáng Mẫu-Vật. Tuy nhiên, ánh sáng của Hiện diện TA LÀ có độ rung cao hơn bất cứ cái gì tìm thấy trong vũ trụ vật chất. Điều này có nghĩa là Hiện diện TA LÀ của bạn không thể nào bị ảnh hưởng bởi các năng lượng ở trên trái dất. Bất cứ chuyện gì có thể xảy ra cho bạn trên trái đất không mảy may ảnh hưởng được tới Hiện diện TA LÀ. Như vậy là các thầy đã hoàn toàn loại bỏ được rủi ro là cái phần căn nguyên của bản thể của bạn có thể bị mất đi, thay đổi hay tàn phá bởi bất cứ chuyện gì có thể xảy ra cho bạn trên trái đất.

Lẽ dĩ nhiên điều này chỉ làm được vì Hiện diện TA LÀ được cấu tạo bởi năng lượng cao, và điều đó cũng có nghĩa là Hiện diện TA LÀ không thể đi xuống một thân thể vật lý ở trên một hành tinh dày đặc như trái đất. Hiện diện TA LÀ vẫn có thể phát triển khi trụ ở cõi tâm linh như nhiều Hiện diện TA LÀ đã làm. Tuy nhiên Hiện diện TA LÀ có thể đạt được sự phát triển tối đa khi tự mình lấy quyết định gửi một phần nối dài của mình xuống một bầu cõi chưa thăng. Do đó, Hiện diện TA LÀ cần tạo ra một nối dài của chính mình rồi gửi nó đi xuống. Chuyện này xảy ra như thế nào sẽ được nói tới trong chương kế tiếp. Phần còn lại trong chương này, chúng ta sẽ nói tới một số đặc tính của Hiện diện TA LÀ. Sự quan hệ giữa Hiện diện TA LÀ và sinh thể đi xuống được mô tả trong hình ảnh sau đây.

8.2. Hiểu cái Ta Cao của bạn

Hình 8 – Hiện diện TA LÀ và cái ta Ki-tô của bạn

Hiện diện TA LÀ là quả cầu nội tâm ở trên bạn, chung quanh nó là những vòng tròn nhiều màu biểu trưng cho căn thể của bạn (sẽ được giải thích sau). Sinh thể đi xuống là hình ở dưới, và bạn nối kết với Hiện diện TA LÀ bởi một ống ánh sáng hay sợi dây pha lê. Giữa hai thể là cái ta Ki-tô (sẽ được giải thích sau), là cái trung gian, dây nối kết giữa Hiện diện và thể thấp của bạn.

Điều quan trọng cần biết là hình này là một trong nhiều cách để minh họa Hiện diện TA LÀ của bạn và nó khá có tính chất đường thẳng. Lẽ dĩ nhiên bạn có thể thấy được là nó theo cái nhìn truyền thống là cõi trời hay cõi tâm linh ở trên bạn.

Thời Trung Cổ, người Thiên Chúa giáo tin rằng nếu bạn đi lên cao khỏi trái đất, bạn sẽ đâm thủng qua một tấm màn và đi vào cõi của Chúa. Hỏa tiễn hiện đã chứng minh điều này sai, như vậy chúng ta nên có cái nhìn rộng hơn về Hiện diện. Dưới đây là một minh họa khác để tượng trưng cho quan hệ giữa bạn và Hiện diện TA LÀ, tuy nhiên nó vẫn còn là cái nhìn đường thẳng.

Hình này cho thấy Hiện diện TA LÀ và căn thể ở ngay chung quanh bạn, có nghĩa không cách chia bạn trong không gian. Hình này dựa trên sự hiểu biết của chúng ta là thế giới hình tướng có một cấu trúc tầng lớp.

Hình 9 – Là cánh cửa mở cho năng lượng từ Hiện diện TA LÀ

Như đã giải thích ở trên, đấng Sáng tạo tạo ra bầu cõi đầu tiên từ chính Bản thể của ngài, có nghĩa là Bản thể của Thượng đế có mặt trong mọi thứ. Sau khi bầu cõi đầu tiên thăng thiên, các sinh thể của bầu cõi này sáng tạo bầu cõi thứ hai từ bản thể của họ. Tiến trình này đã tiếp tục cho tới bầu cõi hiện thời, và vũ trụ vật chất là một phần của bầu cõi đó. Nói cách khác, ý niệm truyền thống về một vị Thượng đế ở trên cao tít thật sự không đúng chút nào. Có một chuỗi thứ bậc những sinh thể tâm linh bắt đầu từ đấng Sáng tạo xuống bảy tầng cấp. Mỗi tầng không tách biệt khỏi tầng ngay trên nó; thật ra nó là sự nối dài của tầng ngay trước nó. Mỗi tầng mới được làm bằng “chất” của tầng ở trước nó, và độ rung của chất này đã được hạ giảm xuống. Không có một hàng rào cản không vượt qua được, giữa hai bên chỉ là một sự khác biệt dần dần về độ rung.

Như vậy có nghĩa là thật sự không có tách biệt. Hiện diện TA LÀ của bạn là sự nối dài của một sinh thể trong cõi tâm linh, và cái Ta đi xuống của bạn cũng là sự nối dài của Hiện diện TA LÀ của bạn. Như thế, bạn không thật sự tách biệt khỏi Hiện diện của bạn. Bạn đang hiện hữu trong không gian, trong bầu không gian của Hiện diện của bạn.

Tách biệt là hậu quả của phin lọc nhận thức hiện tại của bạn. Nếu bạn tin rằng phin lọc nhận thức của bạn cho bạn thấy thực tế, thì lúc đó bạn sẽ tự nhận mình là một sinh thể tách biệt, y như bạn thấy qua phin lọc nhận thức của mình. Nhưng khi bạn vượt thăng lên trên phin lọc nhận thức này (cũng là ý niệm về ta của bạn), bạn sẽ đạt được trạng thái nhận biết thuần khiết. Lúc đó bạn sẽ trải nghiệm một sự hợp nhất thâm sâu với Hiện diện TA LÀ của bạn, cho tới khi bạn có thể nói cùng với Giê-su: “Ta và Cha ta là một.” Lúc đó, bạn cũng hoàn thành một điều khác mà Giê-su nói, “Ta là cánh cửa mở mà không ai đóng được.” Bây giờ bạn là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của bạn và nó có thể hoàn toàn tự do thể hiện chính nó trong thế giới này. Ngày nào bạn còn coi mình là cái ta vỏ ngoài của bạn, phin lọc nhận thức của bạn sẽ chặn lại (hay lọc bớt) một phần nào dòng chảy của Hiện diện của bạn.

Tách biệt là hậu quả của phin lọc nhận thức hiện tại của bạn. Nếu bạn tin rằng phin lọc nhận thức của bạn cho bạn thấy thực tế, thì lúc đó bạn sẽ tự nhận mình là một sinh thể tách biệt,

Điểm chính là bạn thật sự không tách biệt khỏi Hiện diện của bạn, do đó không cần phải vượt qua một hàng rào cản nào hết. Hiện diện của bạn ở ngay đây với bạn, và do đó bạn chỉ cần hòa điệu cái Ta của mình với mức rung động của Hiện diện của bạn.

Như vậy quan hệ của bạn với Hiện diện của bạn có nhiều giai đoạn, từ thấp lên cao:

Giai đoạn 1: Bạn không có một kết nối ý thức nào với Hiện diện của bạn. Bạn chẳng biết gì về nó, hay nó chỉ là một ý niệm lý thuyết và bạn không có một sự kết nối nội tâm hay trực giác gì với nó.

Giai đoạn 2: Bạn có được một sự kết nối nào đó với Hiện diện của bạn, tuy nhiên bạn vẫn thấy là nó bị ngăn cách với bạn bởi khoảng cách hay một rào cản. Bạn đang tu tập để củng cố sự nối kết, nhưng khi bạn nghĩ rằng bạn nối kết hai phần với nhau lẽ đương nhiên cách suy nghĩ này ngụ ý rằng hai phần này bị ngăn cách bởi không gian. Ở giai đoạn này, mình thường có trực giác, kinh nghiệm thần bí hay một cảm nhận là mình nối kết với một cái gì lớn hơn – và những điều này mở tâm mình ra với con đường tâm linh. Tuy thế, phin lọc nhận thức của mình vẫn còn hạn chế sự tiến bộ trên con đường tu của mình.

Giai đoạn 3: Bạn nhận ra nhu cầu gỡ mình ra khỏi phin lọc nhận thức của mình để đạt một trạng thái nhận biết thuần khiết. Cho nên, bạn bắt đầu chất vấn một cách hệ thống phin lọc nhận thức của bạn. Bạn cố gắng nhìn thế giới không xuyên qua bất cứ phin lọc nhận thức nào. Bạn bắt đầu nhận ra rằng không gian không thể ngăn cách bạn khỏi Hiện diện của bạn; cảm nhận tách biệt chỉ có trong tưởng tượng của bạn.

Giải đoạn 4: Bạn thể nhập làm một với Hiện diện của bạn, bạn là phần nối dài của Hiện diện. Điều này có nghĩa là bạn biết bạn không phải là thể thấp của bạn, không phải là thân xác của bạn, dù là bạn vẫn còn dùng thân xác như một phương tiện để thể hiện mình trong cõi vật chất. Bạn biết bạn không phải là cá tính vỏ ngoài, tự ngã hay cái ta tách biệt. Bạn chỉ là cánh cửa mở, là miếng kính trong suốt.

8.3. Hai khía cạnh của Hiện diện TA LÀ của bạn 

Một trong những giáo lý nền tảng của các chân sư thăng thiên là mọi vật trong thế giới hình tướng này đều là biểu hiện của đấng Sáng tạo duy nhất, không thể chia cắt. Tuy thế để sáng tạo một thế giới có những hình tướng khác biệt, đấng Sáng tao biểu hiện mình thành hai cực bổ sung nhau. Có thể gọi hai cực này là Âm và Dương, nam và nữ, lực lan ra và co lại, Alpha và Omega.

Môi hình tướng bền vững đều được tạo ra từ sự phối hợp quân bằng của hai lực này. Do đó, trong tất cả những hình tướng được sáng tạo qua cái duy nhất của hàng ngũ tâm linh đều có cả hai khía cạnh này. Như vậy có nghĩa là Hiện diện của bạn cũng có hai khía cạnh căn bản này.

“Hiện diện TA LÀ là cái tên mà Thượng đế nói cho Moses. Đại đa số Kinh Thánh dịch ra là “TA LÀ CÁI TA LÀ.” Tuy nhiên một số học giả Kinh Thánh biết rằng cách dịch đúng hơn từ Do thái Hebrew này là “TA SẼ LÀ CÁI TA SẼ LÀ.” Hiện diện của bạn có cả hai khía cạnh:

  • TA LÀ CÁI TA LÀ là khía cạnh Alpha của Hiện diện của bạn. Nó là cái trung tâm bất biến, đứng yên, kết nối bạn với hàng ngũ tâm linh và cuối cùng là với cái TA LÀ CÁI TA LÀ của đấng Sáng tạo
  • TA SẼ LÀ CÁI TA SẼ LÀ là khía cạnh giúp cho Hiện diện của bạn có động lực để thể hiện bản thận trong thế giới vật chất. Có nghĩa là nó đến từ khía cạnh TA SẼ LÀ mà từ đó bạn đi xuống.

Điểm quan trọng bạn cần suy ngẫm ở đây là khía cạnh TA LÀ  là trung tâm bất biến của Hiện diện của bạn, trong khi khía cạnh TA SẼ LÀ luôn luôn thay đổi hay nói đúng hơn luôn luôn vượt thăng chính nó. Hiểu như thế thì bạn biết rằng bạn có thể vượt thăng lên bất cứ sự hạn chế nào trong thế giới vật chất và vượt thăng lên bất cứ “sai lầm” nào trong quá khứ.

Cách để vượt thăng là hòa mình với dòng chảy không ngừng của khía cạnh TA SẼ LÀ. Nhờ vậy bạn không rơi vào cái bẫy gian dối của tự ngã và các thầy giả của thế gian này. Cái bẫy ấy nói rằng bạn bị các điều kiện vật chất trói buộc và bạn không bao giờ thoát khỏi những sai lầm bạn đã làm trong quá khứ. Như Giê-su đã nói đây là ý muốn của “ông Hoàng thế gian” muốn bạn là một Tánh linh bị trói buộc bởi điều kiện trong thế giới này hay bởi các sai lầm của bạn. Cái Ta xuống đây là một phần nối dài của khía cạnh TA SẼ LÀ của Hiện diện của bạn, và một khi bạn chấp nhận sự thật này, bạn có thể vượt thăng bất cứ điều kiện nào.

Tuy nhiên hoàng thân thế gian này là một sự lập trình rất mạnh mẽ và vi tế đã thấm đậm vào tâm thức tập thể trong một thời gian rất dài và tất cả chúng ta đều bị nó ảnh hưởng. Cách duy nhất để vượt lên trên là  nhận ra rằng Tánh linh không bao giờ bị trói buộc bởi bất cứ cái gì trên thế gian này và bất cứ lúc nào nó cũng có thể biểu hiện nó theo ý nó muốn.

TA LÀ CÁI TA LÀ là khía cạnh Alpha của Hiện diện TA LÀ của bạn. Nó là trung tâm bất di dịch nối kết bạn với đấng Sáng tạo.

TA SẼ LÀ CÁI TA SẼ LÀ là khía cạnh cho Hiện diện của bạn động lực để biểu hiện chính nó trong thế giới vật chất.

Đây không phải là động lực ích kỷ muốn làm gì thì làm mà không chịu đối mặt hậu quả. Đây là ý muốn của Tánh linh muốn thay đổi điều kiện hạn chế của thế giới này thành tiềm năng cao nhất. Và bạn không thể nào thay đổi thế giới này nếu bạn nghĩ sự biểu hiện của bạn phải chịu sự trói buộc của điều kiện hiện hành. Do đó, chỉ khi nào cái Ta trở thành cánh cửa mở, bạn mới có thể thực sự tuôn chảy theo dòng sáng tạo vô điều kiện và do đó vô giới hạn của Hiện diện TA SẼ LÀ của bạn.

Bạn có thể nhìn nó như thế này. Khía cạnh Hiện diện TA LÀ của bạn sẽ không thay đổi, trong khi khía cạnh Ta Sẽ Là được thiết kế để tuôn chảy theo dòng sống luôn luôn thăng vượt lên trên mình. Do đó cái Ta đi xuống có quyền tự quyết nhập vào bất cứ điều kiện nào, kinh nghiệm nào hay ý niệm bản sắc nào có thể có được trên trái đất, nhưng nó không thể bị mắc kẹt trong chúng mãi mãi. Không có cái gì mà bạn không vượt thăng lên trên được, không có hoàn cảnh nào có thể làm bạn bị mắc kẹt mãi mãi được. Tuy nhiên bởi vì cái Ta có quyền tự quyết, bạn có thể tin rằng bạn đang bị mắc kẹt trong điều kiện vật chất hay trong lỗi lầm qua khứ. Và trong tâm của bạn, bạn sẽ cứ tiếp tục bị mắc kẹt như thế cho tới ngày nào bạn kết nối lại với khía cạnh Ta Sẽ Là của bạn và quyết định mình sẽ vượt thăng lên trên các giới hạn của mình

Thật ra cái Ta không bao giờ nên nghĩ hay nói “Ta là” bất cứ điều kiện nào trong thế giới vật chất. Khi nào bạn nghĩ “Ta là cái ta thấp này” thì lúc ấy bạn đã bỏ mất quyền năng thăng vượt cái ta của mình và thăng vượt những điều kiện vật chất định nghĩa cái ta đó. Thay vào đó, cái Ta nên luôn luôn nghĩ “Ta sẽ là.” Nếu bạn nghĩ “Ta là cái ta hạn chế này,” lựa chọn duy nhất để thoát khỏi cái ta đó là thay đổi nó thành cái gì khác. Nếu bạn nghĩ, “Ta sẽ là,” bạn không phải thay đổi cái ta, bạn chỉ cần nói “Ta sẽ hơn cái ta này” hoặc “bây giờ ta là cái ta mới mà ta đang hình dung thấy.” Ở chương kế đây, chúng ta sẽ xem xét rõ hơn về cái Ta đi xuống đầu thai.

HẾT CHƯƠNG

Uy lực của cái Ta – Chương 14 – Quan điểm của chân sư thăng thiên về nghiệp quả

Đại đa số tôn giáo phương Đông có dạy về ý niệm nghiệp quả, cũng hơi giống ý niệm tội lỗi trong Thiên Chúa giáo. Nhiều người tâm linh hiện đại cũng quen thuộc với ý niệm này, nhưng các chân sư đã thăng thiên nói gì về nghiệp quả? Có phải con đường tâm linh là con đường cân bằng nghiệp quả của mình không?

Chắc chắn là các chân sư nhìn nhận nghiệp quả là có thật, nhưng các thày cũng dạy rằng ta có thể hiểu về nghiệp quả ở nhiều trình độ. Đây cũng chính là một khái niệm hữu ích mà chúng ta nên hiểu. Các chân sư dạy rằng con người ở những mức tâm thức khác nhau, do đó giáo lý ở một mức độ nào đó không thể lôi cuốn được tất cả mọi người. Vì vậy các chân sư đã tiết lộ những giáo lý khác nhau thích hợp với từng trình độ tâm thức. Chúng ta hãy cùng nhau xem chuyện này áp dụng ra sao với chủ đề nghiệp quả.

Một số tôn giáo phương Đông trình bày rằng nghiệp quả liên quan tới hành động của bạn. Nếu bạn có hành động chẳng hạn như giết người thì bạn tạo nghiệp xấu. Và nếu bạn có những hành động khác, bạn tạo nghiệp tốt. Để nhập Niết Bàn, được cứu rỗi hay được thăng thiên, bạn phải cân bằng hết tất cả nghiệp bạn đã tạo ra trong kiếp này và các kiếp trước. Một cách để cân bằng nghiệp xấu, là bạn gặp chuyện xấu xảy ra cho bạn, ví dụ như bạn bị tai nạn, bị bệnh hay bị giết chết. Một cách khác để bù đắp là bạn tạo nghiệp tốt, ví dụ như bạn phụng sự hay làm việc từ thiện. Đại đa số tôn giáo phương Đông cũng nói rằng có những cách khác để cân bằng nghiệp quả. Bạn có thể dùng những bài tập tâm linh khác nhau để hóa giải nghiệp xấu và như vậy bạn sẽ mau chóng hội đủ điều kiện để nhập vào cõi cao hơn.

Các chân sư không chối bỏ những lời dạy này về nghiệp quả và hành động. Vào thập niên 1930, một vị chân sư là Saint Germain giới thiệu ngọn lửa tím. Đây là một năng lượng tâm linh rất thích hợp để hóa giải nghiệp. Như đã nói ở trên, thày Saint Germain cũng ban xuống một số bài cầu chú để thỉnh cầu năng lượng của ngọn lửa tím.

Tuy nhiên, bạn nên chú ý là giáo lý dạy nghiệp quả liên quan tới hành động chưa đưa ra một định nghĩa thật chính xác về nghiệp quả. Cũng giống như chữ “linh hồn”, nhiều giáo lý tâm linh dùng nó mà không định nghĩa rõ ràng. Giống như với ý niệm linh hồn, các chân sư thăng thiên cho chúng ta sự hiểu biết tinh vi hơn và nhiều lớp hơn về nghiệp quả.

Thật ra các thày nói rằng nhân loại tiến hóa và trải qua những giai đoạn khác nhau. Trong giai đoạn của Cựu Ước kinh, chúng ta phải học bài học về cải tạo hành động bên ngoài của mình. Do đó, mới có giáo lý dạy rằng nghiệp quả là hành động. Theo giáo lý này, bạn sẽ được cứu rỗi nếu bạn né tránh hành động tạo nghiệp xấu và cùng lúc bạn phải có hành động tốt tạo nghiệp tốt. Điều này được thể hiện trong Mười Điều Răn của Cựu Ước kinh như, “Con không được làm điều này, điều kia và con không được tạo nghiệp xấu.” Cũng có ý niệm “con mắt trả cho con mắt, cái răng trả cho cái răng,” câu này dựa trên ý cho rằng nếu mình giết một người, thì mình đáng bị giết trở lại để hóa giải cái nghiệp mà chính mình đã tạo ra.

Các chân sư dạy rằng giáo lý này có giá trị đối với một tầng mức tâm thức nào đó, vì ở mức tâm thức này, những người này chỉ có thể hiểu tới đó mà thôi. Những người này cần thay đổi hành động bên ngoài của họ để bớt tạo nghiệp xấu, và cách duy nhất để động viên họ là làm cho họ sợ những điều xấu sẽ xảy ra cho họ nếu họ không thay đổi hành động. Như vậy giáo lý dạy nghiệp quả là hành động có giá trị nhưng nó không đầy đủ.

Nhân loại cần được hiểu biết cao hơn về nghiệp quả vào thời đại do Giê-su khai mạc. Bạn để ý rằng Giê-su đi xa hơn nguyên lý “con mắt trả cho con mắt” trong Cựu Ước kinh khi Giê-su dạy “hãy chìa má bên kia ra” và tha thứ “bảy mươi bảy lần.” Giê-su cũng nói với chúng ta là “cõi Trời ở trong con”. Câu này có ý nghĩa rất sâu sắc. Như đã nói trước đây, ẩn ý là “cõi Trời” là một ẩn dụ chỉ tới một trạng thái tâm thức. Điều này có nghĩa rằng mình đi vào cõi Trời không phải bằng cách làm một số hành động bên ngoài mà hơn thế nữa mình cần phải chuyển đổi tâm thức. Nói cách khác, Giê-su xuống cõi trần để dạy chúng ta là muốn cân bằng nghiệp quả không phải là chuyện giản dị cải tạo hành động bên ngoài, mà chúng ta cũng còn phải cải tạo trạng thái tâm của mình.

Với hiểu biết chúng ta có hiện nay, chúng ta có thể bước xa hơn nữa. Dựa trên những gì chúng ta đã thảo luận trước đây, chúng ta có thể thấy rằng hành động của chúng ta đến từ điều kiện trong tâm ý thức và tiềm thức của chúng ta. Nói cách khác, ta có thể có một hành động dựa trên một quyết định từ tâm ý thức. Nhưng quyết định không phải là một quyết định tự do vì nó dựa trên cái nhìn của ta. Mà ta lại không nhìn thấy như thật, cái mà ta nhìn thấy là một hình tư tưởng mà tâm ta đã tạo ra. Nó là sản phẩm của những năng lượng và tin tưởng nằm ở trong cái kính vạn hoa của tâm ta. Dựa trên điều này ta có thể nói là có ba loại nghiệp quả.

14.1 Nghiệp quả vật lý

Bây giờ chúng ta đã biết là mọi sự đều là năng lượng cho nên chúng ta phải tiến lên một bước và vượt lên trên cái nhìn cho rằng chỉ có hành động tạo ra nghiệp quả. Nếu mọi sự đều là năng lượng, điều đó có nghĩa là tất cả mọi việc chúng ta làm cũng được làm bằng năng lượng. Nói cách khác, khi chúng ta có một hành động, điều mà chúng ta làm thật sự là tạo ra một xung lực năng lượng và phóng nó ra ngoài từ bên trong của chúng ta. Chúng ta gửi xung lực đó ra vũ trụ.

Albert Einstein nói rằng vũ trụ này được tạo ra từ cái “không gian-thời gian liên tục”. Ông cũng nói rằng cái trường liên tục này có thể tạo ra một vòng đóng lại. Einstein suy luận rằng nếu bạn du hành xa ra khỏi trái đất trên một phi thuyền không gian và bạn cứ tiếp tục đi theo một hướng, rốt cuộc bạn sẽ quay trở về điểm khởi hành từ hướng đối diện. Đó là bởi vì bạn nằm trong một cái vòng của không gian-thời gian, và bạn không thoát ra khỏi nó được.

Hình ảnh này có thể giúp chúng ta hiểu được nghiệp quả vận hành như thế nào. Hành tinh trái đất chỉ là phần thấy được của một trường năng lượng rộng lớn, hay trường năng lượng liên tục. Như đã giải thích, trường liên tục này có bốn tầng, tầng ether, lý trí, cảm xúc và vật lý. Bây giờ hãy giả dụ là bạn có một hành động giết người. Hành động này tạo ra một xung lực năng lượng được gửi vào vòng năng lượng mà bạn sống trong đó. Nó sẽ đi qua cả bốn tầng, và tới một lúc nào đó, từ hướng đối diện, nó sẽ trở về điểm khởi đầu là thế giới vật chất.

Khi năng lượng nghiệp quả trở lại, nó có thể tạo ra một số sự việc trong đời sống bạn, như tai nạn, bệnh tật hay bị giết. Nếu bạn không tin vào nghiệp quả thì khó mà giải thích tại sao các sự việc này xảy ra. Nếu bạn theo đạo Ki-tô, bạn có thể nói là Thượng đế trừng phạt bạn vì tội tổ tông, nhưng đại đa số người tâm linh thì không toại nguyện với lời giải thích như vậy. Nếu bạn là người theo chủ nghĩa duy vật, bạn chỉ có thể nói rằng đây là chuyện ngẫu nhiên. Trong cả hai trường hợp, bạn yên tâm vì bạn làm được gì đây để né tránh các sự việc này? Nhưng khi bạn chấp nhận là có nghiệp quả, bạn có thêm sức mạnh, vì bây giờ thì bạn có thể làm được một số điều để né tránh những sự việc này.

Một khi bạn hiểu rằng nghệp quả là một xung lực năng lượng mà trong một kiếp trước bạn đã phóng ra vòng vũ trụ, bạn thấy được rằng bạn có thể làm một cái gì đó để hóa giải nó trước khi nó đi một vòng và quay trở về với bạn và tạo ra sự việc khó chịu trong cuộc đời bạn. Bạn làm được gì đây? Bạn có thể dùng khả năng đồng sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho bạn để hóa giải năng lượng có tần số thấp.

Khoa học dạy rằng năng lượng là một dạng rung động di chuyển như một làn sóng. Lấy ví dụ một làn sóng thần. Nó là một làn sóng di động trên đại dương. Nếu bạn tạo ra được một làn sóng khác đi ngược lại, hai làn sóng sẽ gặp nhau và hóa giải lẫn nhau. Khi hai làn sóng gặp nhau chúng tạo ra một hiện tượng mà các nhà khoa học gọi là một dạng giao thoa. Và nếu bạn chọn một làn sóng tương ưng ngược lại với rung động của làn sóng kia, kết quả giao thoa có thể là sự yên bình hoàn toàn, có nghĩa là một làn sóng đã hóa giải được làn sóng kia.

Đây là căn bản cho ý niệm dùng các bài tập tâm linh để cân bằng nghiệp quả. Các bài tập này tạo ra được một dòng sóng năng lượng có tần số cao mà bạn gửi vào bốn tầng của vũ trụ. Khi nó đi ra ngoài, nó gặp dòng sóng đang đi ngược trở về của nghiệp quả từ một kiếp trước. Nếu bạn đã gởi ra đủ năng lượng có tần số cao, dòng sóng năng lượng nghiệp quả đang quay ngược trở về bạn có thể bị hóa giải trước khi nó có thể tạo ra một sự việc trên cõi vật lý. Bạn có thể hóa giải dòng nhiệp quả đang quay về ở các cõi bản sắc, lý trí và cảm xúc trước khi nó xuống tới cõi vật lý.

Nghiệp quả là một xung lực năng lượng, mà bạn có thể hóa giải được trước khi nó đi vòng và trở về với bạn, trước khi nó tạo ra những sự việc khó chịu trong cuộc đời bạn.

Lẽ dĩ nhiên, chúng ta thấy giáo lý này tuyệt vời quá. Bây giờ chúng ta chỉ cần làm mấy bài thực tập tâm linh – ví dụ như kêu gọi ngọn lửa tím – vậy là chúng ta thoát ra khỏi các nghiệp xấu từ quá khứ. Rồi sau đó, chúng ta sẽ được sống vui vẻ thoải mái, phải thế không ạ? Thưa các bạn đừng vội phóng nhanh như thế.

14.2 Tâm nghiệp

Các chân sư dạy rằng tuy nghiệp quả có một phần vật lý, có nghĩa nó là một xung lực năng lượng được gởi ra ngoài vũ trụ, ý nghĩa của nghiệp quả nhiều hơn là vậy. Nghiệp cũng có phần tâm và chúng ta không thể nào giải thoát khỏi nghiệp nếu không giải quyết phần tâm. Lý do là mình không thoát được tác động nếu mình không thay đổi nguyên nhân. Vậy thì cái gì sanh ra cái xung lực nghiệp quả được gửi ra trong một kiếp trước? Đó chính là trạng thái tâm thức của mình trong kiếp đó. Như vậy câu hỏi thật sự về nghiệp quả là: “Tôi đã vượt được lên trên cái trạng thái tâm thức đã khiến tôi gửi ra xung lực nghiệp chưa?”

Như vậy nghiệp là gì? Bên phương Tây nhiều người tâm linh chấp nhận có nghiệp quả, nhưng vì đạo Ki-tô nói về tội lỗi, chúng ta có khuynh hướng xem nghiệp quả xấu là một hình thức bị trừng phạt. Các chân sư có cái nhìn rất khác về nghiệp quả, vì các thày biết rằng chẳng có ai trên cõi tâm linh có ý muốn trừng phạt con người. Các chân sư biết rằng Thượng đế không có nhu cầu trừng phạt loài người vì Thượng đế đã ban cho con người quyền tự quyết.

Thượng đế không có ý kiến gì về cách bạn hành xử quyền tự quyết của bạn, vì giản dị là Thượng đế chỉ muốn bạn học hỏi, và Thượng đế cũng biết rằng vũ trụ này được thiết kế để thế nào bạn cũng học được từ cách bạn dùng quyền tự quyết của mình. Chuyện này xảy ra như thế nào? Nó xảy ra qua việc Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ mang vào hình tướng tương ưng với hình tư tưởng được phóng chiếu lên nó. Như vậy, bạn sẽ kinh nghiệm kết quả của những chọn lựa của mình.

Thế giới này được thành lập để cho chúng ta một môi trường giúp chúng ta mở rộng khả năng tự nhận biết. Chúng ta tiến bộ khi chúng ta dùng khả năng đồng sáng tạo của mình.Chúng ta dùng khả năng này bằng cách tạo ra một hình tư tưởng, rồi cho nó sức mạnh của cảm xúc và gửi nó ra ngoài vũ trụ hay là phóng chiếu nó lên trên ánh sáng Mẫu-Vật. Nếu chúng ta làm vậy mà kết quả chẳng có gì khác biệt thì làm sao chúng ta học hỏi được? Chúng ta học được vì ánh sáng Mẫu-Vật sẽ biểu hiện những hình tư tưởng của chúng ta thành những sự việc trong đời sống chúng ta hay những thể dạng vật lý. Nói cách khác, nghiệp quả không phải là hình phạt. Nghiệp quả là một cơ hội học hỏi.

Bạn tạo nên một hình tư tưởng dựa trên nội dung trong tâm bản sắc và lý trí của mình. Bạn tẩm ướp nó với năng lượng từ tâm cảm xúc của mình, rồi bạn phóng nó ra ngoài, như là một hành động hay một dạng xung lực tâm thuần túy. Khi ánh sáng Mẫu-Vật gửi ngược trở lại cho bạn những hoàn cảnh sống phản ánh lại cái gì bạn đã gửi ra ngoài, bạn có cơ hội để nghiền ngẫm và lượng định. Nếu cái quay trở về không dễ chịu thì giản dị lắm, bạn chỉ việc thay đổi cái bạn gửi ra ngoài. Và lúc đó, tấm gương vũ trụ sẽ đương nhiên phản ánh lại cho bạn những hoàn cảnh sống biểu hiện cái hình tư tưởng mới mà bạn gửi cho tấm gương.

Bây giờ thì bạn đã hiểu tại sao Thượng đế hay các chân sư thăng hoa không cần phải phán xét hay trừng phạt bạn? Tự bạn phạt mình bằng cách cứ tiếp tục gửi ra ngoài những hình tư tưởng đem lại hoàn cảnh sống khó chịu. Tuy vậy các chân sư không lên án bạn về chuyện này. Các thày sẽ mãi mãi sẵn sàng đợi để giúp bạn tạo ra hoàn cảnh sống tốt đẹp hơn. Điểm gút mắc ở đây là các thày không giúp được bạn cho tới khi nào bạn bước qua một lằn ranh tâm thức, khi tâm bạn cởi mở đủ để ít nhất chấp nhận là bạn phải thay đổi cái gì bạn phóng từ tâm mình ra ngoài thì mới thay đổi được cái gì quay trở về với bạn. Các thày không bảo vệ bạn tránh hậu quả của hành động của bạn; các thày sẽ giúp bạn thay đổi hành động mình và lẽ dĩ nhiên hậu quả sẽ thay đổi theo.

14.3 Leo ra khỏi hố nghiệp quả

Lẽ dĩ nhiên vấn đề là bạn đã tạo nghiệp xấu trong nhiều kiếp và bạn không thể nào chờ đợi là bạn sẽ có thể giải nghiệp trong năm phút. Hơn nữa, làm sao bạn có sức thay đổi tâm của bạn trong khi bạn bị đè bẹp bới những hoàn cảnh sống đang dồn dập đổ lên bạn từ những nhân mà bạn đã gây ra trong quá khứ? Làm sao bạn có tâm trí để nghĩ tới chuyện tiến bộ tâm linh khi bạn đang rơi xuống cái hố nghiệp và đang vật lộn với những hoàn cảnh sống đầy hỗn loạn?

Các thày thấu hiểu điều này. Đó là lý do tại sao thày Saint Germain đã xin được đặc miễn để truyền xuống hiểu biết về ngọn lửa tím. Thày suy luận rằng nếu con người đang phải oằn lưng ra gánh nghiệp của mình thì còn đâu tâm trí để chú ý đến việc chuyển hóa tâm thức mình, cái tâm thức đã khiến họ cứ tiếp tục tạo thêm nghiệp mới hoài hoài.

Saint Germain thấy có nhiều người bị rơi vào vòng xoáy nghiệp và kẹt trong đó không nó lối ra. Trong các kiếp trước, họ đã phóng ra ngoài xung lực nghiệp và kiếp này chúng trở ngược về với họ. Nghiệp quả trở về này tạo ra những sự việc trong cuộc sống họ, nhưng buồn thay họ lại phản ứng lại với chính cái tâm thức cũ mà đã gây ra nghiệp quả đó. Giả dụ người kia đã giết người trong một kiếp trước. Trong kiếp này, nghiệp quả quay trở về qua sự việc họ bị đe dọa sẽ bị giết. Người này phản ứng lại bằng cách chống chọi lại những người đe dọa giết mình. Và như thế, cái vòng xoáy nghiệp quả lại tiếp tục vận hành.

Saint Germain suy luận rằng nếu con người được vơi bớt vòng nghiệp quả quay trở về này, họ sẽ có được đủ tâm trí để chú ý tới việc quán sát và thay đổi tâm thức của mình. Lẽ dĩ nhiên, đâu có gì bảo đảm là họ sẽ dùng cơ hội vơi bớt nghiệp này để quán tâm, vì họ cũng có thể quyết định vui hưởng thời gian tự do mới tìm lại được này. Đây là lý do tại sao Saint Germain đã xin hội đồng vũ trụ đặc miễn cho phép thày truyền xuống hiểu biết về ngọn lửa tím. Nghiệp quả cũng có khía cạnh nội tại vì mình có thể tạo ra nghiệp quả đối với chính mình.

14.4 Nguyên nhân gây nghiệp

Chỉ có một cách duy nhất có thể làm cho bạn giết người là bạn bị ảo tưởng tách biệt làm bạn mù quáng, khiến cho bạn tin rằng bạn tách biệt với người kia và người kia tách biệt khỏi bạn. Và như vậy bạn thấy rằng bạn có thể giết người đó mà chính bạn thì không bị ảnh hưởng gì.

Nhưng trước khi bạn có thể tin điều này, bạn phải chấp nhận một hình ảnh nào đó về mình. Một khi bạn đã nhìn qua tấm phin lọc nhận thức của cái ngã tách biệt, bạn sẽ dùng nó để luôn luôn phóng chiếu lên bản thân hình ảnh tương ứng. Như thế bạn phóng chiếu không ngừng bạn là một người tách biệt và như vậy cũng đồng nghĩa là bạn đơn độc, đã bị Thượng đế bỏ rơi, có quyền năng hạn chế và bạn cũng là nạn nhân của hoàn cảnh bên ngoài. Bạn cảm thấy rằng lúc nào cũng có cái gì ở “ngoài kia” đang kiểm soát đời bạn.

 Bây giờ thì chúng ta hiểu ra rằng nghiệp quả được gây ra bởi những người nhìn cuộc đời qua phin lọc nhận thức cho rằng mình là một người tách biệt. Qua cái ngã tách biệt này, bạn tạo ra một số hình tư tưởng, và bạn chuyển chúng thành những xung lực năng lượng qua sức mạnh tâm của bạn. Một số xung lực này được gửi ra ngoài đến người hay đến thế giới. Một số lại được gửi về bên trong và phóng chiếu lên chính bạn. Nó trở thành nghiệp quả nội tại, nghiệp quả ở lại trong tâm bạn.

Một khi bạn hiểu được điều này, việc dùng một kỹ thuật tâm linh để hóa giải nghiệp đang quay trở về chỉ là một giai đoạn trên con đường tu hướng đến tự do tâm linh. Muốn thực sự tự do, giải thoát khỏi nghiệp quả đang quay trở về vẫn không đủ. Bạn cần phải giải thoát bạn khỏi chính cái phin lọc nhận thức đã tạo ra xung lực nghiệp từ lúc đầu. Nếu bạn không vượt thăng lên trên cái ngã tách biệt, bạn sẽ cứ tiếp tục tạo ra nghiệp mới và không cách chi bạn có thể vượt thoát vòng sinh tử.

Nó giống như người đang trả nợ mà cứ tiêu sài tiền nhiều hơn số tiền mình kiếm được. Nếu tiền ra nhiều hơn tiền vô thì bao giờ bạn mới trả xong nợ? Bạn chỉ thật sự cân bằng được nghiệp quả khi bạn ngừng tạo nghiệp. Bạn chỉ đạt được điều này khi bạn giải thoát mình khỏi ảo tưởng mình là người tách biệt, tách ra khỏi nguồn gốc của mình.

14.5 Không  thể cân bằng nghiệp quả một cách máy móc tự động

Bạn hãy nhớ chân lý vi tế này mà ít người hiểu được. Con đường thật sự dẫn tới tự do tâm linh là phải vượt thăng lên trên ảo tưởng tách biệt. Chấp nhận giáo lý tâm linh và thực tập một kỹ thuật tâm linh không giúp bạn đạt được điều này một cách tự động đâu. Đây là một tiến trình mà bạn phải đi qua bằng cách mở rộng sự nhận biết của bạn và lấy những quyết định ý thức. Đến đây thì chúng ta có thể phác họa ra ba giai đoạn trên con đường tâm linh:

  • Mức thấp nhất là mình cải tạo hành động vì mình sợ những nghiệp quả xảy ra cho mình nếu mình có hành động nào đó. Đây là trình độ của Cựu Ước kinh: “Con không được làm điều này” và “con mắt trả cho con mắt”.
  • Mức kế tiếp là lúc bạn nhận ra rằng không những bạn phải kềm mình không được hành động tiêu cực mà bạn phải trở nên một người tốt hơn. Đây là trình độ của Tân Ước kinh, thường được gọi là Thời đại Song ngư. Vấn đề là nó có thể dẫn tới ngõ cụt khi bạn cho rằng tất cả những gì bạn cần làm là trở nên một người tốt dựa theo tiêu chuẩn do một tôn giáo hay pháp tâm linh vỏ ngoài ấn định. Ví dụ như bạn cho rằng chỉ cần làm việc tốt, việc thiện là hóa giải được nghiệp quả xấu.
  • Mức kế tiếp là mức của thời đại Bảo bình sắp tới. Bạn nhận ra là bạn cần thay đổi tâm thức bạn một cách cơ bản và vứt bỏ ảo tưởng tách biệt. Bạn bắt đầu nhận biết là vấn đề thật sự chính là cái ngã tách biệt. Ảo tưởng mình là cái ngã tách biệt là nguyên nhân khiến bạn tạo ra nghiệp xấu, như khi bạn giết người. Nhiều người tâm linh đã tìm cách bù đắp bằng cách biến cái ngã tách biệt thành một nhân vật tâm linh không bao giờ có hành động xấu. Nhưng thực chất là bạn đang dùng cái ngã tách biệt để bù đắp cho những hành động xấu mà cái ngã tách biệt đã làm trong quá khứ. Và điều này sẽ không thành công được. Cái ngã tách biệt không thể nào thăng thiên được.

Muốn thực sự tự do, chuyện giải thoát bạn khỏi nghiệp quả đang quay trở về vẫn không đủ. Bạn cần phải giải thoát bạn khỏi chính cái phin lọc nhận thức đã tạo ra xung lực nghiệp quả từ lúc đầu.

Như vậy việc cần làm ở đây không phải là làm cho cái ngã tách biệt có dáng vẻ tốt đúng theo tiêu chuẩn của một giáo lý vỏ ngoài. Việc cần làm là vượt thăng lên khỏi cái ngã tách biệt, cho nó chết đi, để cho cái Ta thật trở về với cái biết thuần tịnh mà nó là khi nó xuống cõi trần. Chỉ khi sống với cái biết thuần tịnh này bạn mới không tạo ra nghiệp quả – tốt hay xấu.

Khi bạn bắt đầu hiểu những ý này, bạn có thể hiểu cao hơn về nghiệp quả. Nghiệp quả là bất cứ xung lực nào mà bạn phóng chiếu ra từ cái ngã tách biệt. Không cần biết là xung lực đó tốt hay xấu dựa theo một tiêu chuẩn ngoài đời. Thực ra, ngay cả ý niệm tốt và xấu là sản phẩm của cái ngã tách biệt và cách suy nghĩ nhị nguyên của nó. Có một mức trên con đường tu tâm linh mà bạn cần tin rằng bạn phải tránh nghiệp xấu và tạo nghiệp tốt để được cứu rỗi. Nhưng mức kế tiếp thì bạn nhận ra rằng ngay cả nghiệp tốt cũng cản không cho bạn thăng thiên, đặc biệt là khi bạn cảm thấy mình tốt hơn người khác vì bạn tạo nghiệp tốt.

Tất cả mọi thứ đến từ cái ngã tách biệt đều tạo ra nghiệp. Tuy thế, khi bạn vượt thăng lên trên cái ngã tách biệt, hành động của bạn không tạo ra nghiệp – tốt hay xấu. Và đây là tự do tâm linh. Bây giờ thì bạn đã thấy cái nhìn cao về nghiệp quả. Trong các kiếp trước bạn đã tạo những xung lực nghiệp, và rốt cuộc thì chúng cũng sẽ quay ngược trở về bạn. Bạn có thể dùng các kỹ thuật tâm linh để tiêu trừ các xung lực nghiệp quả này trước khi nó thể hiện thành những sự việc vật lý.

Nhưng bạn cũng cần giải thoát tâm bạn khỏi những ảo tưởng sinh ra từ tâm thức tách biệt. Các ảo tưởng này là những mảnh kính màu trong ống kính vạn hoa của tâm bạn. Nếu chúng vẫn còn nằm trong đó, ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ sẽ bị pha màu. Như vậy có nghĩa là bạn cứ tiếp tục phóng ra ngoài xung lực năng lượng đã bị pha màu bởi nội dung của bốn tầng tâm của bạn.

Nói cách khác, bạn sẽ tiếp tục tạo nghiệp cho tới ngày nào bốn tầng tâm của bạn sạch trong không có ảo tưởng nữa. Con đường tu của các chân sư giúp cho bạn vượt lên trên mọi nghiệp quá khứ và hiện tại. Con đường này giải thoát bạn khỏi các vòng xoáy nghiệp quả của chính bạn, và như thế chúng không tiếp tục tự duy trì nữa.

14.6 Nghiệp quả và bảy tia ánh sáng

Như đã thấy ở trên, ta tạo nghiệp khi ta phóng ra một xung lực năng lượng, nhưng ta không tạo ra xung lực này. Ta không có khả năng tạo năng lượng, nhưng điều ta làm được là biến chế năng lượng mà ta nhận được từ Hiện diện TA LÀ của ta, là năng lượng đến từ các chân sư đã thăng thiên ở cõi cao. Năng lượng này tới ta dưới dạng bảy tia sáng tâm linh.

Mỗi tia sáng có một dạng năng lượng hay rung động riêng. Nhưng nó cũng có đặc tính khác, tỷ dụ như uy lực, minh triết, hay tình thương. Tạo nghiệp có hai khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất là ta lấy năng lượng của một trong bảy tia sáng và hạ độ rung của nó xuống dưới một mức đáng kể. Nhưng ta làm sao hạ độ rung của năng lượng? Ta làm điều này bằng cách tạo một hình tư tưởng, giống như là một khúc phim trong tâm mình. Khi năng lượng thuần khiết chiếu xuyên qua khúc phim đó thì nó bị nhuộm màu và do đó độ rung bị giảm đi.

Bạn làm cách nào để tạo ra khúc phim? Bạn làm việc này khi chấp nhận một số ảo tưởng, và những niềm tin này là sự tha hóa của đặc tính thuần khiết của một một trong bảy tia sáng. Tỷ dụ, một đặc tính của tia sáng thứ nhất là uy lực. Đây là uy lực sáng tạo thuần khiết nhằm nâng mọi sự sống lên. Nhưng khi ta quan sát đời sống trên trái đất thì ta thấy là nhiều người đã tha hóa uy lực thuần khiết này. Có người dùng quyền lực để tiêu diệt hoặc điều khiển sự sống khác. Hoặc họ dùng quyền lực để nâng họ lên và dìm người khác xuống.

Như vậy, ta tạo nghiệp khi chấp nhận một số ảo tưởng, được tạo ra khi ta tha hóa đặc tính của bảy tia sáng. Như thế có nghĩa là nếu muốn cân bằng nghiệp được tạo trong quá khứ, và ngừng tạo thêm nghiệp mới, ta cần vượt qua các ảo tưởng này, để nhận ra và ứng dụng những đặc tính thuần khiết của bảy tia sáng.

14.7 Sứ vụ Thiêng liêng của bạn

Mục tiêu tối hậu của con đường tâm linh mà các chân sư thăng thiên cống hiến là giúp ta hội đủ điều kiện để thăng thiên, có nghĩa là ta không còn đầu thai trở lại trên địa cầu. Một trong những yêu cầu của sự thăng thiên là ta cân bằng nghiệp. Tuy nhiên, bạn cần nhận ra rằng khi Hiện diện TA LÀ của bạn quyết định gửi cái Ta-Ý-Thức đầu thai vào cõi vật chất này, thì nó có một mục đích tích cực. Bạn không chỉ tới đây để tạo nghiệp, cân bằng nghiệp rồi bỏ đi. Bạn tới đây để đem lại ánh sáng tâm linh của mình như một món quà tặng, việc này sẽ giúp nâng trái đất và cả vũ trụ vật chất lên. Do đó, bạn thực sự chỉ muốn thăng thiên khi mục đích này được thành tựu.

Các chân sư dạy rằng mỗi chúng ta có nhiều chân sư thăng thiên làm phận sự tư vấn riêng cho mình. Trước khi chúng ta đầu thai, chúng ta gặp các vị tư vấn này để hoạch định một kế hoạch rõ ràng cho kiếp đầu thai sắp tới. Kế hoạch này được gọi là Sứ Vụ Thiêng Liêng của bạn. Kế hoạch này rất rõ ràng, nó phác họa nơi bạn sinh ra, ai là cha mẹ bạn, ai là con của bạn, bạn sẽ cưới ai và cộng sự với ai, bạn sẽ theo học môn gì và theo đuổi sinh hoạt tâm linh nào.

Sứ vụ Thiêng liêng dĩ nhiên chỉ là một phác thảo, và nó rất tùy thuộc quyền tự quyết của ta. Nó cũng dựa trên thực tế là ta sẽ quên nó và do đó sẽ cần khám phá nó trở lại. Tuy nhiên, nhiều người tâm linh có trực giác mục đích cuộc sống này của mình là gì, có một số chuyện mình cần làm, có một số người mình cần gặp, và một số bài học mình cần học. Chúng ta càng gia tăng khả năng trực giác (bằng cách thông sạch bốn từng của tâm mình) thì chúng ta càng nhận rõ hơn Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Điều quan trọng mà ta cần biết là mỗi người có một Sứ vụ Thiêng liêng riêng. Do đó, một người tâm linh không nên khuyên người khác phải sống cuộc đời của họ ra sao, vì như vậy không hữu dụng. Bạn thực sự không thể dùng trí vỏ ngoài để biết được Sứ vụ Thiêng liêng của người khác. Lý do là không ai có thể cho ta biết Sư vụ Thiêng liêng của ta – bạn thực sự phải khám phá ra từ bên trong. Đó cũng là một lý do tại sao Giê-su dạy ta đừng nên phán xét qua bề ngoài. Đôi lúc ta có cảm tưởng là người khác đang làm một số việc không phải, nhưng nhiều khi đó là vì họ có trực giác việc này thuộc Sứ vụ Thiêng liêng của họ, và do đó người ngoài nhìn các việc này ra sao không quan trọng. Chúng ta hãy xem xét một vài thí dụ.

Sứ vụ Thiêng liêng vạch ra chủ điểm của toàn kiếp sống này, và nó tùy thuộc vị trí của riêng bạn trên con đường dẫn tới thăng thiên. Đây là một vài trường hợp tiêu biểu:

  • Có người còn quá nhiều nghiệp quả nên thực tế là họ không hội đủ điều kiện để thăng thiên trong kiếp này. Do đó chủ điểm của họ có thể là cân bằng nghiệp, có nghĩa là họ không cần tham dự vào sinh hoạt và  giáo lý tâm linh. Điều quan trọng hơn với họ có thể là gặp những người mà họ có duyên nghiệp. Thoạt trông, những người này có thể không giống người tâm linh, cũng có thể họ hay xung đột với người khác, nhưng họ đang làm thật đúng những gì họ cần làm theo Sứ vụ Thiêng liêng của họ.
  • Có người có thể gần đủ điều kiện để thăng thiên, tuy nhiên họ cần cân bằng rất nhiều nghiệp. Do đó, chủ điểm của họ là cân băng nghiệp càng nhanh càng tốt. Họ có khuynh hướng thích học giáo lý và kỹ thuật tâm linh, và họ hay cảm thấy có gì thúc đẩy họ thực hành kỹ thuật tâm linh một cách rất miên mật. Điều tốt nhất cho những người này có thể là rút lui khỏi xã hội và sống ẩn tu, ít ra là trong một thời gian. Nhưng cũng có khi những người cần cân bằng nghiệp sống cuộc đời thoạt trông rất hỗn loạn. Họ có thể có nhiều phối ngẫu, hay thay đổi việc hay ngành làm việc, hay thay đổi nơi sống, có khi sống ở nhiều nước. Điều họ đang làm là gặp tối đa các liên hệ nghiệp quả của họ.
  • Có người có thể gần đủ điều kiện để thăng thiên, nhưng để hoàn thành việc này, việc chính mà họ cần làm không phải là cân bằng nghiệp mà là biểu lộ tài năng độc đáo của họ. Với những người này, rút lui khỏi xã hội không phải là nếp sống hữu dụng nhất. Họ cần liên hệ với người khác và xã hội để có thể biểu lộ ánh sáng và tài năng. Một số người trong nhóm này cũng có thể sẽ tìm đến tâm linh nhưng cũng có nhiều người không tham gia các phong trào tâm linh. Tuy thế họ đang làm rất đúng những gì họ cần làm để cống hiến tài năng của họ cho xã hội.
  • Có người chưa sẵn sàng để thăng thiên, nhưng trên con đường tâm linh họ đã sẵn sàng đi xa hơn tôn giáo truyền thống. Do đó chủ điểm của những người này là học giáo lý để thêm hiểu biết về tâm linh.
  • Có người có thể đã gần thăng thiên, nhưng khả năng thăng thiên ở cuối kiếp sống này tùy thuộc vào kết quả giải quyết những vướng mắc tâm lý. Do đó, chủ điểm của họ không phải là học giáo lý mà là giải quyết tâm lý. Họ có thể học giáo lý và kỹ thuật thực hành, nhưng cũng có thể tham gia vào các phương pháp trị liệu. Chính họ cũng có thể trở thành nhà trị liệu hay người chữa lành, vì giúp chữa lành người khác là một cách để tự chữa lành cho mình. Những người này tìm cách giải quyết từng lớp vỏ tâm lý của họ, cho tới khi họ khám phá ra ảo tưởng tối hậu ở đáy tự ngã tách biệt của họ. Lúc đó, họ sẽ trải nghiệm một chuyển hóa lớn, và sau đó thì họ được giải thoát và có thể chú tâm vào việc cống hiến tài năng của mình.

Trên đây chỉ là một vài trường hợp trong rất nhiều trường hợp có thể xảy ra, nhưng chúng cho thấy là ta không thể phán xét người khác, và cũng không nên phán xét chính mình. Nhiều người tâm linh có tiềm năng tiến triển nhiều trong kiếp sống này, nhưng ai cũng cần qua nhiều giai đoạn. Tỷ dụ, nhiều người ở đầu đời thì dính dấp đến các tình huống do nghiệp đưa đến. Sau một thời gian họ mới tìm được con đường tâm linh, và ban đầu điều tốt nhất cho họ là xếp mọi chuyện qua một bên và chú tâm học hỏi giáo lý và kỹ thuật thực hành. Nói cách khác, điều tốt nhất cho họ là tạm thời rút lui khỏi xã hội.

Nhưng sau khi bạn đã cân bằng một phần nghiệp và giải quyết một số điều kiện tâm lý, thì điều tốt nhất là bạn nên đi ra ngoài xã hội. Lúc đó bạn đã sẵn sàng biểu lộ tài năng của mình để cống hiến, và bạn không thể làm chuyện này nếu bạn tiếp tục rút lui khỏi xã hội.

Nhiều người tâm linh đã quyết định giải quyết nghiệp và các vết thương tâm lý càng nhanh càng tốt. Đó là lý do tại sao chúng ta hay có đời sống khác thường và có vẻ hỗn loạn. Chúng ta nhiều khi không thể giải thích một cách hợp lý tại sao chúng ta lại có hành động mà thân nhân coi là điên rồ. Lý do sâu là chúng ta cần làm những việc này để cân bằng nghiệp hoặc để khiến mình phải trực diện một số vướng mắc tâm lý.

Khi bạn theo con đường mà các chân sư thăng thiên cống hiến thì bạn có thể mau chóng cân băng nghiệp, học bài học và giải quyết tâm lý. Nghĩa là sẽ có lúc bạn nhìn lại cuộc đời mình và nhận ra rằng bạn đã làm thật đúng những gì cần làm để hoàn thành Sứ vụ Thiêng Liêng của mình. Lúc đó bạn sẵn sàng tiến lên một mức sẽ đem đến cho bạn nhiều thỏa mãn và vui sướng.

Kết luận là Sứ vụ Thiêng liêng giống như một dòng sông. Nó không bao giờ đứng yên, và nếu bạn muốn hoàn thành tiềm năng cao nhất của mình, thì bạn phải sẵn sàng trôi theo dòng sông luân lưu chảy cho tới biển cả của cái ta.

14.8 Thăng thiên: mục đích tối hậu

Như đã nói ở trên, thăng thiên là mục đích tối hậu của con người trên con đường tâm linh. Tuy nhiên để hội đủ điều kiện thăng thiên, chúng ta cần đáp ứng một số yêu cầu. Thứ nhất là nghiệp. Các chân sư có nói rằng, trong những thời đại trước, con người cần cân bằng 100% nghiệp mới có thể thăng thiên. Tuy nhiên, một đặc miễn đã được ban ra, và nay chúng ta có thể thăng thiên khi cân bằng hơn 51% nghiệp. Có một số lý do tại sao đặc miễn này được ban ra.

Để hiểu rõ vấn đề, chúng ta cần biết rằng trái đất hiện đang ở lúc giao thoa giữa hai giai đoạn hay thời đại tâm linh. Như đã nói ở trên, 2000 năm vừa qua là Thời Đại Song Ngư và giai đoạn 2000 sắp tới được gọi là Thời Đại Bảo Bình. Các thời đại này có liên hệ đến chu kỳ thay đổi tiết xuân phân và thu phân, nhưng lằn ranh chính xác phân chia các thời đại không thể chỉ do sự vận hành của các tinh tú chỉ định. Đó là vì mọi chuyện trên trái đất đều tùy thuộc quyền tự quyết, do đó nhân loại chỉ chuyển qua môt thời đại mới khi có đủ số người đã chuyển hóa tâm thức của mình sang một tư duy mới, và do đó khiến tâm thức đại chúng chuyển hóa lên một mức cao hơn.

Một lý do vì sao đặc miễn cho phép thăng thiên dễ hơn được ban ra là để giúp chuyển hóa tâm thức đại chúng lên một mức cao hơn. Khi một người đủ điều kiện thăng thiên, thì việc này tạo một từ lực kéo cả tâm thức đại chúng lên. Giê-su có nói đến việc này như sau: “Và nếu ta được kéo lên khỏi trái đất, thì ta sẽ kéo theo nhiều người với ta”.

Một lý do khác là ở giai đoạn cuối của một thời đại, có một số người đáng lý đã phải thăng thiên trong thời đại trước. Nhưng nếu các vị này chưa cân bằng 100% nghiệp, thì đặc miễn cho phép thăng thiên khi cân bằng hơn 51% nghiệp dĩ nhiên là đường thực tiễn duy nhất giúp họ có thể thăng thiên. Như đã nói ở trên, tốt nhất cho những người này là họ chú tâm vào mục tiêu và làm mọi việc cần thiết để đạt mục tiêu cân bằng hơn 51% nghiệp của họ. 

Nhưng không có nghĩa là mọi người tâm linh đều phải chú tâm làm việc này. Có người chưa tới lúc thăng thiên, hoặc họ cần cân bằng 100% nghiệp trước khi thăng thiên. Các chân sư dạy rằng tuy ta có thể thăng thiên khi cân bằng hơn 51% nghiệp, ta vẫn phải cân bằng tất cả nghiệp. Và cân bằng nghiệp ở cõi tâm linh khó hơn là cân bằng nghiệp ở trần gian. Cũng có thể là bạn cần chú tâm vào một số yêu cầu thăng thiên khác, thay vì chỉ nghĩ tới việc cân bằng nghiệp.

Như đã nói ở trên, bạn không xuống đây để tạo nghiệp, cân bằng nghiệp rồi thăng thiên. Bạn đến đây để học hỏi và để biểu lộ  và cống hiến các tài năng thiêng liêng của mình. Do đó, trừ phi bạn đã thực sự đến lúc thăng thiên trong giai đoạn chuyển tiếp từ Song Ngư sang Bảo Bình này, thì bạn sẽ không muốn thăng thiên cho tới khi bạn đã học xong những gì cần học và cống hiến món quà mà bạn đem đến đây.

Bạn không thể nào thăng thiên nếu bạn muốn bỏ chạy khỏi tất cả mọi thứ trên trái đất.

Sư kiện đơn giản khác là mặc dù bạn có thể liệt kê một số yêu cầu vỏ ngoài của thăng thiên – tỷ dụ như cân bằng nghiệp và cống hiến quà tặng – nhưng cũng có yêu cầu bên trong. Ta hãy hình dung bạn đã hoàn thành tất cả các yêu cầu vỏ ngoài và đang đứng trước ngưỡng cửa dẫn tới thế giới thăng thiên. Nếu bạn có thể bước qua ngưỡng cửa là bạn thăng thiên, nhưng trước khi bước qua ngưỡng cửa, bạn phải lấy một quyết định. Và một phần quyết định đó là bạn phải muốn rời bỏ trái đất – và tất cả những gì và những ai trên trái đất – một cách vĩnh viễn.

Vậy câu hỏi là: bạn đã sẵn sàng rời bỏ trái đất vĩnh viễn hay chưa, hay là còn có cái gì đó mà bạn còn muốn làm hay trải nghiệm trên trái đất này? Một lần nữa, không có ai muốn và có thể buộc bạn phải thăng thiên. Đó là quyết định của bạn, và bạn chỉ có thể lấy quyết định này khi bạn đã chán tất cả những gì đời sống trên trái đất này có thể cống hiến bạn.

Không có nghĩa thăng thiên là một hình thức bỏ chạy. Bạn không thể thăng thiên nếu bạn muốn bỏ chạy khỏi tất cả mọi thứ trên trái đất. Do đó, bạn phải tới điểm mà tâm bạn đã làm hòa với cuộc đời trên hành tinh này. Bạn không bỏ chạy cái gì hết, bạn mở tay chào đón sự sống một cách tích cực. Tuy thế, bạn cũng cảm thấy là bạn đã trải nghiệm tất cả những gì bạn muốn trải nghiệm, và do đó bạn thực sự sẵn sàng để tiến lên một mức cao hơn.

Kết luận là mục đích thực sự của con đường tâm linh là đưa tới điểm đó, là điểm bạn làm hòa với đời sống trên trái đất, làm hòa với ước muốn trải nghiệm hay hoàn tất việc gì trên hành tinh này. Bạn không còn muốn trải nghiệm gì nữa hết, và bạn không muốn thay đổi gì nữa hết. Bạn nhìn lại quá trình sống trên trái đất này mà tâm hoàn toàn an bình, bạn rời bỏ nó với đầy tình thương, và mở tay chào đón một đời sống cao hơn với cùng tình thương đó. Do đó, an bình nội tâm có thể coi là mục đích chân thật của con đường mà các chân sư thăng thiên cống hiến.

HẾT CHƯƠNG

Đồng-sáng tạo một cách có ý thức

Bài giảng của chân sư thăng thiên Đại thượng sư qua trung gian Kim Michaels, ngày 9/12/2012.

TA LÀ Đại thượng sư. Chúng ta hãy tóm lược thông điệp mà thày muốn trình bày trong quyển sách này.

Lẽ đương nhiên, thông điệp chính là con là một người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Con được thiết kế để đồng-sáng tạo. Và con đồng-sáng tạo như thế nào? Con đồng-sáng tạo vì con có tự nhận biết. Nhờ có tự nhận biết, con có khả năng hình thành một hình ảnh trong tâm – hình ảnh về một cái gì mà con không kinh nghiệm qua giác quan vật lý và tâm thức vỏ ngoài. Nói cách khác, con có thể hình thành một hình tư tưởng, một khuôn đúc tư tưởng của một cái gì chưa hiện hữu như một biểu hiện vật lý.

Lẽ đương nhiên, hình tư tưởng mà con hình thành bị hạn chế bởi trí tưởng tượng của con. Và trí tưởng tượng của nhiều người bị hạn chế bởi những gì họ thấy, những gì họ kinh nghiệm qua giác quan vật lý và tâm vỏ ngoài của họ. Tuy thế, con là một sinh thể tự nhận biết, và con có tiềm năng hình thành bất cứ hình tư tưởng nào, bất cứ khuôn đúc tư tưởng nào, có thể hình dung được và có được.

Thượng đế đã không quy định bất cứ hạn chế nào cho sự tự nhận biết và trí tưởng tượng của con. Chúng hoàn toàn tự do, chúng vô tận và chúng không có giới hạn. Điều duy nhất có thể hạn chế trí tưởng tượng của con là những giới hạn mà con cho phép có mặt trong bầu tâm thức của con.

Như vậy, con đồng-sáng tạo bằng cách hình thành một hình tư tưởng và sau đó dùng sự tự nhận biết của mình để phóng chiếu hình này lên ánh sáng Mẫu-Vật. Khi sự phóng chiếu này đi xuyên qua cả bốn tầng của vũ trụ vật chất – tầng bản sắc, lý trí, tình cảm và vật lý – thì con đồng-sáng tạo một hình tướng vật lý. Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ khoác lên hình tướng vật lý đó, và con thấy được nó qua giác quan và tâm thức vỏ ngoài của con.

Tuy nhiên, bất cứ khi nào con bắt đầu tiến trình đồng-sáng tạo, thì con tạo ra một cái gì đó. Nếu con tạo trong thể bản sắc của mình một hình tư tưởng mình là ai, thì con không tránh được là sự tự nhận biết của con – dòng tâm thức chảy xuyên qua con – sẽ chảy qua khuôn đúc này. Và do đó, nó sẽ được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật trong cõi bản sắc. Lẽ đương nhiên, điều tương tự cũng áp dụng cho cõi lý trí và cõi tình cảm.

19.1. Con không thể ngừng đồng-sáng tạo

Điều thày muốn con nhận ra là lúc nào con cũng đang đồng-sáng tạo. Có thể nói là cái giá mà con phải trả như một người đồng-sáng tạo có tự nhận biết, là con không thể ngưng đồng-sáng tạo vì con không thể ngưng có ý thức. Lẽ đương nhiên, con có thể nhìn vào hành tinh trái đất và thấy là nhiều người đã dùng nhiều cách, trong đó có hóa chất, để khiến mình mất ý thức hay thay đổi trạng thái tâm thức, và như vậy họ không thật sự có ý thức.

Tuy nhiên, dù con đang ngủ hay đang không có ý thức vật lý, nhưng tâm tình cảm, lý trí và bản sắc của con không ngủ và không mất ý thức. Con lúc nào cũng tạo ra hình tư tưởng ở một tầng nào đó của bản thể của con, và dòng chảy tâm thức từ Hiện diện TA LÀ sẽ chảy xuyên qua các hình ảnh này, và do đó chúng được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-vật ở tầng này. Do đó, dù con đang không sáng tạo một cấu trúc vật lý có thể thấy được bằng giác quan, nhưng con vẫn đang đồng-sáng tạo một cấu trúc tình cảm, một cấu trúc tư tưởng, hay một cấu trúc bản sắc hay ether.

Điểm mà thày muốn giảng trong quyển sách này là tất cả những gì con đồng-sáng tạo ở các tầng bản sắc, lý trí và tình cảm tạo ra cái mà thày gọi là phàm linh. Các phàm linh này trở thành một phần của bản thể toàn bộ của con, một phần của phần thấp của bản thể mà nhiều người gọi là hồn (soul).

Do đó, khi con tạo ra một phàm linh như thế, thì ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ – dòng tâm thức từ Hiện diện TA LÀ của con – sẽ chảy xuyên qua nó, và do đó con sẽ không ngừng đồng-sáng tạo xuyên qua phàm linh này. Điều này không có nghĩa là mỗi lúc con đều đồng-sáng tạo một phàm linh mới, nhưng có nghĩa là khi dòng nhận biết của con chảy xuyên qua một phàm linh nào đó, con sẽ củng cố phàm linh này và do đó nó trở nên càng ngày càng mạnh mẽ hơn.

Và do đó, giá trị của giáo lý này là nó giúp con làm điều mà thày đã giảng trong các bài trước, tức là đi trên con đường tâm linh một cách có ý thức hơn nhiều. Trong hầu hết những giáo lý đã được trao truyền xuống hành tinh này trước đây, con người chỉ được giảng một phần thực chất của con đường tâm linh. Và do đó, họ không có được khái niệm mà thày đã trao cho con, là con đã tạo ra trong quá khứ các phàm linh này và chúng đã trở thành một phần của bản thể con, và nếu con đồng hóa với chúng thì con không thể tự giải thoát khỏi chúng.

Vì khi con còn đồng hóa với một phàm linh nào đó, thì tâm thức con sẽ chảy xuyên qua nó. Điều này sẽ có hai tác dụng. Khi dòng tâm thức của con chảy xuyên qua một phàm linh, con không thể đồng thời thấy nó là một phàm linh và nhìn nó từ bên ngoài. Nhưng nếu con không thấy nó thì con không thể tự giải thoát khỏi nó. Cùng một lúc, khi dòng tâm thức của con chảy xuyên qua phàm linh, thì năng lượng của con bị hút vào nó và con củng cố nó, do đó con khó rút tâm thức mình ra khỏi nó và nhìn thấy nó từ bên ngoài.

19.2. Con không phải là phàm linh

Trong kịch bản này, điều cứu chúng ta, như thày đã giải thích nhiều lần, là cái Ta Biết thật sự có khả năng phóng chiếu nó vào bất cứ chỗ nào nó muốn. Có nghĩa là bất cứ lúc nào con cũng có thể phóng chiếu mình ra khỏi một phàm linh nào đó, hoặc con có thể rút mình ra khỏi một phàm linh nào đó, để sự tự nhận biết của con không tập trung vào phàm linh và dòng tâm thức của con không chảy xuyên qua phàm linh đó.

Bây giờ khi thày nói với con điều này, thì lẽ đương nhiên con vẫn còn phàm linh trong bầu bản thể của con, bầu tâm thức của con. Con sẽ tự động rút con ra khỏi chúng chỉ vì con nghe hay đọc những dòng chữ này. Nhưng điều thày muốn nói với con là khi con có khái niệm này trong tâm và chấp nhận nó, con có thể nâng con đường tu của mình lên một mức hoàn toàn mới. Một khi con ý thức sự kiện có các phàm linh hiện hữu trong bầu tâm thức của con, thì con có thể quyết định một cách có ý thức là con sẽ bắt đầu tiến trình rút mình cho không đồng hóa với các phàm linh, nhờ vậy con có thể thấy được phàm linh từ bên ngoài.

Bây giờ thày có thể đảm bảo với con là nếu con đã sẵn sàng nhận giáo lý này thì con đã khởi sự làm chuyện này rồi. Con đã sẵn sàng phần nào chịu nhìn vào cái đà trong chính mắt mình. Điều này có nghĩa là trong kiếp này, và có lẽ trong các kiếp trước, con đã có những trường hợp qua đó con bất thình lình nhận ra một phàm linh. Có thể là con không nhận diện đó là một phàm linh giống như thày giảng ở đây, tuy nhiên con cũng đã bỗng nhiên chuyển vọt. Con đã nhìn vào chính mình và nói: “Tôi không muốn như thế này nữa. Tôi không muốn tiếp tục lặp đi lặp lại các khuôn nếp cũ này nữa. Tôi muốn thay đổi. Tôi muốn hơn thế này.”

Và cũng có thể, con nhận ra là con đã trải nghiệm điều này trong kiếp này – khi con thấy điều gì đó một cách có ý thức – và có lẽ con đã trải nghiệm là khi con ý thức thấy có cái gì đó không phải là mình, thì gần như ngay tức khắc con có thể xoay chuyển ra khỏi nó, và nhờ vậy con không còn tự đồng hóa với nó nữa. Và lẽ đương nhiên, bước cốt yếu để tiến lên một tầng cao hơn trên con đường tâm linh là tới được điểm con không còn tự đồng hóa với phàm linh chính đại diện cho tầng tâm thức hiện tại của con.

19.3. Củng cố một phàm linh giả

Như thày đã giải thích, có 144 tầng tâm thức trên trái đất, và con có thể hình dung chúng như một cầu thang hình xoắn ốc, với mỗi bậc thang là một bậc tâm thức. Để có thể tiến cao hơn trên con đường tu, con phải đi từ bậc này lên bậc kia trên cầu thang này. Và cách duy nhất để đi từ bậc này lên bậc trên là con ngưng không tự đồng hóa với phàm linh ở bậc đó.

Như vậy, mục đích của thày khi trao truyền quyển sách này chính là để dạy con giáo lý này, để con có thể bắt đầu bước đi một cách có ý thức trên con đường rút ý niệm bản sắc của mình ra khỏi các phàm linh. Vì chỉ làm vậy con mới thực sự tiến bộ.

Thày có thể nói với con rằng có nhiều triệu người trên trái đất này đã tìm hiểu tâm linh trong một thời gian dài, có thể là trong nhiều thập niên hay trong nhiều kiếp. Có thể họ đã học giáo lý tâm linh hay thực hành kỹ thuật tâm linh. Nhưng thày có thể nói với con là có một số trong những người này chưa đi qua tiến trình mà thày vừa mô tả.

Quả thật là có nhiều người tâm linh đã đi qua tiến trình ngưng tự đồng hóa mình với một phàm linh – buông bỏ phàm linh này – và vượt lên nó. Nhưng quả thật cũng có nhiều người đang đi trên con đường tâm linh hay đang tham gia vào các phong trào tôn giáo, họ đã học một giáo lý, đã thực tập một kỹ thuật hay nghi thức tôn giáo nào đó, nhưng họ chưa tới chỗ tự giải thoát mình khỏi phàm linh. Và do đó, một chuyện rất đơn giản đã xảy ra. Thay vì thăng vượt phàm linh, tất cả những nỗ lực mà họ đã bỏ ra để học và thực hành tâm linh thực sự đã củng cố phàm linh ở tầng đó của đường tu và tầng đó của tâm thức.

Như vậy, con có thể thấy một người, giả dụ là người đó tìm thấy con đường tâm linh ở tầng tâm thức 56. Người đó có thể đã thực tập chuyên cần một kỹ thuật nào đó và đã học giáo lý tâm linh trong nhiều năm. Nhưng người đó chưa thực sự thăng vượt phàm linh, chưa buông bỏ phàm linh của tầng tâm thức 56. Thay vào đó, người đó đã hướng sự nhận biết của mình xuyên qua phàm linh này. Và điều này có nghĩa là khi người đó tập trung sự nhận biết của mình trên con đường tâm linh và trên giáo lý tâm linh, thì người đó đã thực sự dạy dỗ phàm linh ở tầng 56 để nó có vẻ trở nên tâm linh hơn. Điều này cho người đó cảm tưởng là đã tiến bộ trên con đường tâm linh, nhưng thật ra không phải cái Ta Biết của người đó tiến bộ; mà chỉ là phàm linh của người đó tiến bộ mà thôi. Như thày đã cố giải thích, phàm linh không cần tiến bộ tâm linh, vì nó không bao giờ lên được Thiên đàng. Chỉ có cái Ta Biết mới lên được Thiên đàng, và con chỉ lên được cõi tâm linh khi con ngưng tự đồng hóa mình với bất kỳ phàm linh nào thuộc cõi vật lý, hay đúng hơn, thuộc cõi vật chất, bao gồm các cõi bản sắc, lý trí, tình cảm và vật lý.

Như vậy con thấy là con có thể đi trên con đường tu giả trong một thời gian dài và bị các thày giả – và chính tự ngã và các phàm linh của con – lừa gạt, khiến con thực sự nghĩ rằng con đang tiến triển về hướng mục đích tối hậu của sự tìm cầu tâm linh của con. Nhưng trên thực tế, con đang không tiến triển gì cả. Con, cái Ta Biết của con, đang đứng yên tại chỗ, vì con vẫn còn tự đồng hóa với một phàm linh.

19.4. Cảm xúc tiêu cực xuất phát từ phàm linh

Bây giờ, điều này không có nghĩa là con cần cảm thấy chán nản và nghĩ rằng con đã uổng phí nỗ lực của mình. Vì khi con ngưng tự đồng hóa với phàm linh này, thì lúc đó con có thể tiến nhanh lên tầng cao hơn nhờ những nỗ lực mà con đã bỏ ra. Tuy nhiên chuyện này chỉ xảy ra khi con ngưng tự đồng hóa với phàm linh mà con đã dạy dỗ và sẵn sàng rũ bỏ nó. Nếu con không chịu rũ bỏ nó và cho nó chết đi, thì con sẽ tiếp tục củng cố nó, và cái Ta Biết mà con là sẽ không thể tiến lên cao hơn trên con đường tu chân chính dẫn tới thăng thiên.

Như vậy, đây quả thực là một đề tài hệ trọng mà tất cả những người tìm cầu tâm linh cần suy ngẫm nếu họ muốn đạt kết quả tốt. Nhưng một lần nữa, các thày là chân sư thăng thiên không muốn con xem bất cứ điều gì hệ trọng đến độ cảm thấy nặng chĩu. Thày không dạy con bài này để khiến con cảm thấy nặng nề. Thày không dạy con bài này để khiến con sợ là con đã làm điều gì sai hoặc cảm thấy xấu hổ vì đã không tiến bộ nhiều hơn. Thày dạy con bài này để giúp con tự giải thoát khỏi tất cả những cảm xúc này. Vì những cảm xúc này từ đâu đến? Chúng đến từ một phàm linh nào đó trong trường năng lượng của con, trong tâm con. Cái Ta Biết không cảm thấy sợ hãi, chán nản, xấu hổ, hãnh diện hay hơn người khác. Đó chỉ có thể là cảm xúc của một phàm linh, và phàm linh này đã được lập trình với một khuôn đúc tư tưởng khiến nó cảm xúc như vậy.

19.5. Tại sao con nhất thời cần một phàm linh

Một trong những điều mà các thày đã giảng một cách nhất quán là Hiện diện TA LÀ đã gửi cái Ta Biết xuống đầu thai trên trái đất vì nó muốn trải nghiệm thế giới vật chất từ bên trong. Và khi con bắt đầu con đường tâm linh ở tầng 48, thì con chưa biết mình là cái Ta Biết, và con chưa có khả năng để giản dị là cánh cửa mở, là tấm kính trong suốt không có cá tính hay cá thể vỏ ngoài. Do đó, con cần một cái ta để có thể biểu lộ chính mình, để hòa hợp và tương tác với thân thể vật lý. Và khi con tạo ra và khoác lên cái ta này, thì con thật sự đã tạo ra một phàm linh.

Điều này không thể tránh được, đây chỉ giản dị là tiến trình đầu thai. Con không thể đầu thai như một dòng sống mới mà không tạo ra một, hay đúng hơn là nhiều phàm linh. Chuyện này hoàn toàn tự nhiên và phải phép. Nhưng chuyện có thể xảy ra là con bị mắc kẹt vào sự đồng hóa với các phàm linh đó, thay vì đi theo tiến trình cho phép một phàm linh chết đi, thăng vượt lên tầng tâm thức kế tiếp, và sau đó lại cho phép phàm linh ở tầng tâm thức này chết đi, và thăng vượt lên tầng kế tiếp và cứ tiếp tục như thế.

Nói cách khác, thay vì tiến một cách liên tục và có ý thức lên các tầng tâm thức cao hơn, thì bây giờ con lại bị mắc kẹt vào việc củng cố một phàm linh nào đó, dựa trên ảo tưởng rằng con có thể bằng cách nào đó phát triển hay kiện toàn phàm linh đó cho tới khi nó được Thượng đế chấp nhận. Và như vậy, con có ảo tưởng là con có thể nhập vào trạng thái thăng thiên mà vẫn còn tự đồng hóa với phàm linh đó, thay vì đi vào trạng thái thăng thiên bằng cách từ bỏ hồn ma cuối cùng của bất cứ phàm linh nào trong phàm ngã của con.

Như vậy, con thấy sự khác biệt cơ bản giữa con đường tu nội tâm chân chính tự thăng vượt và con đường tu giả vỏ ngoài tìm cách kiện toàn một phàm linh nào đó. Phàm linh này không phải là một linh thể có tự nhận biết đã từ trên đi xuống, mà là một phàm linh không có tự nhận biết được tạo ra ở dưới này. Và như thày đã giảng, điều này không có nghĩa là phàm linh đó không có đôi chút tâm thức, nhưng nó không có sự tự nhận biết, và đây là lý do vì sao nó không thể tự thăng vượt một cách có ý thức. Đây là khả năng cốt yếu của cái Ta Biết: khả năng tự thăng vượt một cách có ý thức.

Nhưng lẽ đương nhiên, con không thể thăng vượt ý niệm bản ngã của mình nếu con không thấy là ý niệm bản ngã này chỉ là một cái ngã, một phàm linh, nó không phải là con. Như vậy, chìa khóa mở mọi khóa là khả năng rút mình ra khỏi ý niệm bản ngã hiện tại của mình. Con đã có khả năng này rồi, nhưng con không dùng nó một cách có ý thức. Và đây thực sự là chìa khóa đưa sự tu tập của con lên một mức cao hơn, và gia tốc nó vượt quá bất cứ những gì con mơ ước trước đây. Vậy thì bây giờ con hãy để thày cho con vài hướng dẫn.

19.6. Phàm linh điều khiển tình hình thế giới như thế nào

Nếu con chấp nhận bài giảng của thày về sự hiện hữu của rất nhiều phàm linh trên trái đất, thì con có được một tầm nhìn mới về lịch sử thế giới cũng như về sự tương tác giữa con người. Hãy để thày đưa ra một ví dụ điển hình. Nếu con nhìn vào vùng Trung đông, con sẽ thấy ở đó có những người tự đồng hóa rất chặt chẽ với một chủng tộc hay nhóm sắc tộc. Con cũng biết là trong một thời gian dài có sự xung đột giữa người Do thái và Ả rập. Và cũng có xung đột giữa nhiều nhóm Ả rập, hoặc giữa người Do thái và người Palestine trong quốc gia Do thái. Nhưng nếu con nhìn vào lịch sử thì con có thể thấy xung đột này đã kéo dài từ rất, rất lâu. Sự thực là nó đã diễn ra từ khi có lịch sử được ghi chép, vì nó đã được đề cập tới trong Cựu ước kinh, có ghi lại những tranh chấp giữa các bộ tộc khác nhau.

Như vậy con có thể thấy chăng là chuyện xảy ra tại Trung đông là những người đã và đang gây chiến với nhau đã tạo ra nhiều phàm linh tập thể? Và trải qua thời gian nhiều ngàn năm, họ đã nuôi béo những phàm linh này bằng sự chú ý và năng lượng tâm lý-tâm linh của họ, khiến các phàm linh này càng ngày càng lớn mạnh tới mức chúng có thể hoàn toàn khống chế cá tính của một người trung bình.

Nếu con nhìn vào những người đã lớn lên trong một môi trường như thế, con sẽ thấy có nhiều người thật ra không có đời sống cá nhân. Đúng là họ có một số đặc tính cá biệt, nhưng họ tự đồng hóa rất mạnh mẽ với cái mà họ nghĩ là chủng tộc, tôn giáo, hay nhóm sắc tộc của họ. Nhưng thực sự họ đã tự đồng hóa với phàm linh tập thể đã được tạo ra từ rất lâu nay và được củng cố suốt mấy ngàn năm qua. Và khi họ tự đồng hóa hoàn toàn với phàm linh này thì có nghĩa là phàm linh khống chế họ tới mức họ không thể nào tưởng tượng là họ có thể bước ra ngoài vòng đai được quy định bởi cái mà họ nghĩ là tôn giáo hay nền văn hóa của họ. Do đó, họ không thể tưởng tượng là họ có thể khác – hoặc hơn – hình ảnh con người mà xã hội đã gán cho họ từ khi họ lớn lên.

Và như vậy, con có thể thấy là những người này có thể sống cả cuộc đời mà không thực sự làm một chọn lựa thực sự tự do hay một hành động cá nhân tự do. Họ sống cả đời bị không chế bởi phàm linh tập thể đến độ họ quả thực là những con bò sữa bị vắt năng lượng, và năng lượng này dùng để nuôi dưỡng và củng cố phàm linh đó. Một số phàm linh này đã trở nên dũng mãnh đến độ chúng nhìn nhân loại như bò sữa để vắt năng lượng. Và đó là lý do vì sao chúng khuấy động xúc cảm của con người, khiến họ xung đột với những nhóm khác và qua đó – qua lòng giận dữ và thù hận – họ đem năng lượng nuôi béo con quái thể, con phàm linh.

19.7. Nhận ra những phàm linh vi tế hơn

Bây giờ, lẽ đương nhiên thày nói với con điều này vì một lý do rất giản dị. Con không đang bị phàm linh tập thể khống chế đến độ không còn có được quyết định cá biệt hay hành động cá biệt. Nếu con đã bị một phàm linh như vậy khống chế – và lẽ đương nhiên, chúng có mặt ở khắp mọi nơi trên thế giới – thì con đã không thể cầm đọc quyển sách này. Quả thật là giản dị như vậy. Và con nên cảm thấy khích lệ vì điều này cho thấy là con đã khám phá ra tiến trình ngưng tự đồng hóa mình với phàm linh và nâng mình lên trên nó một cách có ý thức.

Vì sao thày lại có thể nói như vậy? Vì chắc chắn là con đã lớn lên ở một nơi có phàm linh tập thể. Có thể con có người trong gia đình hoàn toàn tự đồng hóa với nó. Có thể đa số người trong thành phố, quốc gia, nền văn hóa nơi con sống hoàn toàn tự đồng hóa với phàm linh tập thể đó. Nhưng nếu con cũng đã tự đồng hóa với nó thì con đã không là một người tâm linh, con đã không thể mở quyển sách này và không thể đi theo con đường tâm linh. 

Do đó, điều thày muốn nói là con đã bắt đầu tiến trình này, nhưng khi con có ý thức về nó, thì con có thể gia tốc hơn rất nhiều. Và lẽ đương nhiên đây chính là mục đích của thày khi thày cho ra mắt quyển sách này.

Dù thày có nói là con không bị phàm linh tập thể trong khu vực con sống hoàn toàn khống chế, nhưng con không nên hiểu là con không bị ảnh hưởng bởi bất cứ phàm linh nào. Trái lại, con nên cẩn thận nhận ra một khác biệt. Vì con là một người tâm linh, con không bị các phàm linh tập thể thông thường trên trái đất khống chế. Con không hoàn toàn tự đồng hóa với phàm linh tập thể chế ngự nền văn hóa nơi con lớn lên.

Tuy nhiên, có những phàm linh tập thể khác không dễ nhận diện qua các đặc tính bề ngoài như chủng tộc, tôn giáo, nhóm sắc tộc, quốc gia, phái tính vân vân. Những phàm linh này đã tìm được cách lẩn trốn hầu hết mọi người vì họ không nhận ra chúng là phàm linh. Thày đã mô tả một trong những phàm linh này, đó là phàm linh rất hung hãn muốn chứng minh người khác sai và mình đúng. Nhưng có nhiều phàm linh tương tự. Người ta không nhận ra chúng vì chúng không liên kết với đặc tính vật lý, nhưng với những đặc tính vi tế hơn trên mặt tình cảm và lý trí mà hầu hết mọi người không nhận ra vào lúc này.

Tuy nhiên, như một người tâm linh, con có thể đã bị ảnh hưởng bởi một hay nhiều phàm linh loại này. Sự thực là nhiều người đã bị ảnh hưởng – hay bị ảnh hưởng nhiều hơn – bởi các phàm linh đó khi họ tham gia những nhóm tâm linh. Vì đúng thực là có nhiều nhóm tâm linh, tôn giáo hay Thời đại Mới đang hoạt động hiện nay bị dính liền với một loại phàm linh tập thể. Do đó rất có thể là có nhiều người đã bị trói buộc nhiều hơn với một phàm linh tập thể khi họ theo học một giáo lý tâm linh hay tham gia một tổ chức tâm linh.

Tuy nhiên, ngoài các phàm linh tập thể, lẽ đương nhiên là cũng có những phàm linh cá biệt mà con đã tạo ra. Và tuy con có thể đã thăng vượt một số phàm linh này, nhưng dĩ nhiên là vẫn còn các phàm linh khác đang ảnh hưởng con.

Vì sao thày lại có thể nói chắc như vậy? Thày nói vậy vì con đang đầu thai trên trái đất và đang đọc quyển sách này. Nếu con không bị phàm linh nào ảnh hưởng thì con đã thăng thiên, thày với con đã đối mặt nói chuyện với nhau và thày không có nhu cầu giảng cho con bài này.

19.8. Tự giải thoát mình khỏi phàm linh 

Con có thấy chăng là lúc nào con cũng phải đối phó với một phàm linh nào đó cho tới khi con dứt bỏ hồn ma cuối cùng và thăng thiên? Đây giản dị là thực tế của con đường tâm linh trên trái đất. Một lần nữa, không có lý do gì để con cảm thấy chán nản, sợ hãi hay xấu hổ về chuyện này. Con chấp nhận nó là như vậy, và con quyết định sẽ mài sắc khả năng nhìn thấu suốt phàm linh càng nhanh càng tốt và nhờ vậy tự giải thoát khỏi chúng.

Dĩ nhiên đây không phải là một tiến trình mà con chỉ cần được chỉ dạy là xong. Các thày là Thượng sư có nhiều cách giúp con. Các sách mà các thày sắp công bố sẽ giúp con, cũng như các bài giảng trước của các thày. Tuy nhiên, tiến trình này có một sắc thái cá nhân, vì con phải là người thấy được nó trong tâm thức mình.

Dĩ nhiên, con có thể nghe giảng từ bên ngoài về một phàm linh chung nào đó. Con cũng có thể có – nếu con tiếp xúc trực tiếp với một vị thày tâm linh hiện sống hay với một chân sư thăng thiên bằng trực giác – một hình ảnh mô tả làm sao phàm linh đó đã khoác lên một hình tướng cá biệt trong con. Qua đó, con biết được là con đang bị một phàm linh ảnh hưởng, và con biết đặc tính của phàm linh đó. Nhưng đây chưa phải là sự xoay chuyển tâm thức khi con rút cái Ta Biết ra khỏi phàm linh. Lúc đó con thấy được phàm linh từ bên ngoài, và con thấy được nó không phải là con. Các thày có thể mô tả cho con tiến trình này, nhưng thực sự là nó không thể dạy được. Có thể nói là nó đã được cài đặt vào cái Ta Biết của con, nhưng con phải tự mình khám phá ra nó qua sự trải nghiệm. Và chỉ khi nào con trải nghiệm nó một lần đầu – một cách hoàn toàn có ý thức – thì con mới thực sự hiểu những gì thày nói.

Có thể là con đã hiểu những điều thày nói rồi, nhưng cũng có thể con chưa hiểu. Nếu con chưa hiểu thì con không nên chán nản. Con cứ tiếp tục suy ngẫm đề tài này và dùng các dụng cụ mà các thày đã công bố và sẽ tiếp tục công bố, như vậy con càng lúc càng tiến gần chỗ con giảm thiểu lực hút từ tính (magnetic pull) của phàm linh đó. Lúc đó, cái Ta Biết sẽ tự rút nó ra khỏi phàm linh một cách tự nhiên, nhẹ nhàng và tưởng như tự phát.

Các con có thấy điều thày nói chăng? Sự việc cái Ta Biết chuyển động không ngừng và nhìn cuộc sống một cách có ý thức dưới nhiều góc độ khác nhau là điều tự nhiên. Đó là lý do vì sao con đã đi tìm con đường tâm linh. Đó là lý do vì sao con đã tìm ra quyển sách này. Đó là vì cái Ta Biết lúc nào cũng đi tìm một cái gì khác – một cái gì mới – dù nó không biết nó tìm cái gì.

Đây là một điều tự nhiên vì, như các thày đã giảng, cái Ta Biết là khía cạnh TA SẼ LÀ của Hiện diện TA LÀ, nó là khía cạnh nói rằng: “Ta sẽ là điều này”. Nhưng một khi nó đã trải nhiệm điều này là thế nào, thì nó sẽ nói: “Ta sẽ là điều kia”, và nó sẽ dời qua cái gì khác để trải nghiệm cái kia đó. Đây là lý do vì sao chuyện tự nhiên là con tự đồng hóa với một phàm linh nào đó và trải nghiệm cuộc sống xuyên qua phin lọc nhận thức của phàm linh đó trong một thời gian. Nhưng chuyện tự nhiên khác là con không ở lại với phàm linh đó mà con xoay chuyển sang một tầm nhìn khác.

19.9. Bắt phàm linh phải lộ diện 

Chỉ khi nào phàm linh thu được đủ động lượng (momentum) thì nó mới có thể tạo một lực hút từ tính trên sự chú ý của con để ép con chú tâm xuyên qua nó trong một thời gian. Đó là cách duy nhất nó có thể làm để giam con ở tầng đó trong một thời gian. Đó là lý do vì sao con thấy một phàm linh hung hãn sẽ tìm cách giữ con ở lại tầng đó một cách hung hãn. Khi con đã bắt đầu nhận ra điều này, con sẽ thực sự cảm nhận được lực hung hãn đó. Thày đoán là đa số các con, là người đang đọc quyển sách này, đã cảm thấy điều này một số lần trong đời mình.

Các con hãy nhìn lại quá khứ và sẽ dễ dàng nhận ra những lúc con cảm thấy có cái gì đang kéo con hay đẩy con về một hướng nào đó. Cái đó đang tìm cách ép con hay thuyết phục con làm điều gì mà con cảm thấy không phải – một điều mà con thực sự không cảm thấy là mình. Con sẽ thấy là con đã bị lực này ảnh hưởng con suốt cuộc đời, và con đã nhận ra nó. Vậy thì con chỉ giản dị có ý thức hơn về nó, và mỗi khi con cảm thấy sự hung hãn đó thì con biết là có một phàm linh đang ảnh hưởng con.

Nhưng thay vì con làm những chuyện mà con đã làm cho tới lúc này, tức là chạy xa khỏi nó, kháng cự lại nó hay ngay cả đánh nhau với nó, thì nay thày muốn con làm một chuyện khác. Thày muốn con chỉ giản dị nói với chính mình: “À, đây là một phàm linh đang lẩn trốn tôi. Tôi sẽ bắt nó phải lộ diện để tôi có thể thấy nó và như vậy tôi ngưng không đồng hóa với nó, để nó không còn quyền lực trên tôi nữa. Tôi sẽ dùng những dụng cụ mà Đại thượng sư và bảy vị Thượng sư đã cho tôi, để tôi có thể lôi những phàm linh đó ra khỏi nơi ẩn náu, và tôi có thể thấy chúng không phải là tôi và nhờ vậy tôi giải thoát mình khỏi ảnh hưởng của chúng.”

Đây là tiềm năng mà con có được khi con thực sự thể nhập các bài giảng của thày trong quyển sách này và áp dụng nó cùng với giáo lý mà con sẽ nhận được từ bảy vị Thượng sư trong những quyển sách tới. Điều thày muốn cho con ở đây là một khai thị tổng quát, và thày cũng sẽ cho con một dụng cụ tổng quát mà con có thể dùng khi con đi trên con đường từ Tia thứ Nhất qua hết bảy tia sáng cho đến khi con tới tầng tâm thức 96. Con thực sự cũng có thể dùng khai thị và dụng cụ này quá tầng 96.

19.10. Phàm linh và tự ngã

Bây giờ, trước khi thày chấm dứt bài giảng này thì có một chủ đề mà thày muốn bình luận ngắn. Khi con đọc quyển sách này, trong tâm con có thể dấy lên một câu hỏi: Những phàm linh mà thày nói ở đây có phải chăng chính là tự ngã (ego)? Phàm linh và tự ngã liện hệ ra sao?

Câu trả lời tùy thuộc vào tầng tâm thức của con. Ở các tầng tâm thức thấp, khi con hoàn toàn tự đồng hóa với một phàm linh, thì không có sự khác biệt đáng kể nào giữa tự ngã và phàm linh chủ yếu đang khống chế con. Nếu xét trên mặt thực tiễn thì chúng là một.

Tuy nhiên, khi con thăng vượt một phàm linh nào đó thì con bỏ phàm linh đó lại. Khi năng lượng đã bị phàm linh đó tha hóa được chuyển hóa, và khi khuôn đúc tư tưởng đã bị con phá tan, thì phàm linh đó không còn nữa. Nó thực sự là đã chết. Nhưng sự sai lầm là khi con nghĩ bởi vì con đã vượt qua một phàm linh nào đó và con đã giải thoát mình khỏi phàm linh đó, thì giờ đây con được giải thoát khỏi tự ngã. Vì tự ngã không phải là phàm linh; nó hơn phàm linh.

Điều mà thày cố giảng trong quyển sách này là khi con đi trên con đường tâm linh về hướng tầng tâm thức 144, thì sẽ có một phàm linh ở mỗi tầng. Có nghĩa là khi con thắng được một phàm linh ở tầng nào đó, con sẽ chuyển lên nhìn cuộc sống xuyên qua phàm linh ở tầng kế tiếp. Thách đố lúc đó là con có thấy nhu cầu giải thoát mình khỏi phàm linh đó luôn không? Hay con lại bắt đầu quy trình củng cố phàm linh đó qua sự chú ý của con?

Nhưng dù sao chăng nữa thì cũng có một phàm linh, và điều này có nghĩa là con sẽ không hoàn toàn giải phóng khỏi phàm linh cho tới khi con tới tầng 144, đúng hơn là khi con vượt thăng tầng đó. Lý do là để con có thể dính liền với một thân thể thì con cần một loại phàm linh có khả năng hội nhập với thân thể vật lý.

Con có thể đang cảm thấy điều thày muốn giảng ở đây hơi bí ẩn hay trừu tượng. Nhưng con có thể thấy được là có nhiều phàm linh và khi con thăng vượt một phàm linh thì phàm linh đó chết đi. Nhưng con vẫn chưa là một sinh thể thăng thiên, có nghĩa là con vẫn còn tự ngã. Ta có thể định nghĩa tự ngã là cái giữ con hiện thân và giữ con không đi vào trạng thái thăng thiên.

19.11. Các tầng của tự ngã

Bây giờ, có nhiều cách để định nghĩa tự ngã, nhưng ở đây thày không muốn bàn nhiều về từ ngữ và định nghĩa. Điều thày muốn nói là có nhiều tầng của tự ngã. Cái được nhiều người gọi là tự ngã – có nhiều thày tâm linh và tâm lý gia cũng coi đây là tự ngã – là cái mà thày gọi là tự ngã thấp, tức là tự ngã ở dưới tầng 48, tự ngã đó hung hãn và muốn kiểm soát người khác. Nhưng cũng có một tự ngã ở giữa tầng 48 và 96, và tự ngã đó chú tâm vào việc nâng nó và con lên như một sinh thể cá biệt. Sau đó cũng có tự ngã ở giữa tầng 96 và 144, tự ngã này chú tâm vào việc phụng sự người khác, nâng cao tổng thể, nhưng nó vẫn chưa làm những chuyện này hoàn toàn với sự nhận biết của một chân sư thăng thiên.

Con có thể khó nhận ra điều này. Nhiều người tâm linh đã nhận ra được tự ngã thấp, là tự ngã hung hãn, và nghĩ rằng khi họ không còn những khuynh hướng đó nữa thì họ đã giải thoát khỏi tự ngã. Cũng có người đã tới điểm nhận ra tự ngã cá biệt, và họ nghĩ rằng là khi họ vượt lên trên tự ngã này, thì họ đã giải thoát khỏi tự ngã và đã giác ngộ.

Nhưng những đệ tử có minh triết thực sự thì nhận ra là ta chưa hoàn toàn giải thoát khỏi tự ngã cho tới khi ta thăng thiên, vì cần có cái gì buộc ta lại cõi vật lý và thân thể vật lý. Nói cách khác, khi con không còn tự ngã thì con không thể duy trì mình trong một thân thể vật lý; con trở thành một chân sư thăng thiên.

Thày không muốn đi sâu hơn vào đề tài này, vì các thày sẽ có những bài giảng khi thời gian và chu kỳ thuận tiện. Nhưng thày muốn con lấy ra được một điểm này: thay vì con nhìn cuộc sống hay con đường tâm linh như một tiến trình có một mức đến tối hậu trên trái đất – con có thể gọi đây là giác ngộ hay tên gì khác – thì con chuyển sang nhìn con đường tâm linh như một tiến trình liên tục.

Con đường tâm linh quả thực có một mục đích, mà chúng ta đã định nghĩa là điểm thăng thiên, nhìn từ tầm nhìn chưa thăng thiên. Nhưng khi con chưa bước vào cõi thăng thiên thì con theo một tiến trình trong đó con cần tự vượt thăng không ngừng. Có nghĩa là con thăng vượt một phàm linh nào đó và chiến thắng tầng tự ngã ở đó.

Do đó, nếu con coi là con chưa thoát khỏi tự ngã cho tới khi thăng thiên, thì điều này sẽ giúp con trên con đường tu. Đó là cách duy nhất để con không bị mắc bẫy những khía cạnh vi tế của tự ngã tương ứng với những tầng tâm thức cao. Các thày thực sự mong muốn các đệ tử đã nhìn nhận pháp của các thày tránh được tình trạng đã xảy ra cho một số người tâm linh, kể cả những người đã tự cho mình là đạo sư tâm linh. Vì họ đã lên tới một tầng tâm thức cao trong số 144 tầng tâm thức, nhưng họ bị ngưng ở tầng đó vì họ tưởng là họ đã đạt được trạng thái tối hậu, nơi mà họ không còn cần tự thăng vượt nữa.

Các con yêu dấu, lúc nào cũng có nhu cầu tự thăng vượt, vì tự thăng vượt là sự sống. Tự thăng vượt là Thánh linh. Và TA LÀ sự sống. TA LÀ Thánh Linh. TA LÀ Đại thượng sư.

19.12. Một dụng cụ để đối phó với phàm linh

Dụng cụ tâm linh mà thày cung cấp trong quyển sách này tương đối giản dị. Con có thể dùng nó như một lời cầu nguyện đơn giản, mà con có thể nói thầm hay nói ra tiếng. Con có thể dùng từ ngữ của riêng con hay dùng những câu sau đây:

Ôi Đại thượng sư, xin thày chỉ cho con thấy phàm linh đang kềm giữ con ngay lúc này và quyết định nào của con đã tạo ra nó.

Ôi Đại thiên thần Michael, xin thày trói chặt phàm linh này, để nó không ảnh hưởng con hay bất cứ phần nào của sự sống.

Hiện diện TA LÀ hùng mạnh, xin phá tan khuôn đúc tư tưởng đằng sau phàm linh này.

Ôi Mẹ Mary, xin giúp con hoàn toàn xuôi theo Dòng sông sự Sống.

Tự điều ngự không ngừng

Bài giảng của chân sư thăng thiên Đại thượng sư qua trung gian Kim Michaels, ngày 8/12/2012.

TA LÀ Đại thượng sư. Thày đến đây để cho các con thêm một gợi ý nữa sẽ giúp con đi theo cầu thang vòng xoắn ốc của bảy tia sáng dưới sự chỉ dạy của bảy vị Thượng sư.

Thày đã nói là trước mặt con là một hành trình trong đó con chạm trán và vượt thăng các phàm linh mà con đã tạo ra, hoặc đã do tâm thức đại chúng tạo ra khi nhân loại lạm dụng bảy tia sáng. Do đó, hôm nay thày muốn các con chú ý đến hai điểm: thứ nhất, thày muốn củng cố những điều mà thày đã giảng về bản chất của Thánh linh, tức là nó luôn luôn tuôn chảy, nó là một dòng suối. Nó không phải là một linh thể đứng yên. Nó là một Tánh linh luôn luôn tuôn chảy, tự thăng vượt, nó không bao giờ y nguyên dù chỉ trong một tích tắc.

Điểm thứ hai mà các con cần ghi nhớ là con cần khắc phục các phàm linh tách biệt đó. Như thày đã giảng, điều này có nghĩa là con sẽ phải tạo ra một cái ta mới, một phàm linh mới. Giữa tầng 48 và 96, con nhất định phải làm điều này vì đó chính là nhiệm vụ của con: thử nghiệm khả năng đồng-sáng tạo của mình, thử nghiệm với bảy tia sáng, và xây dựng một cái ta có một số khả năng điều ngự bảy tia sáng. Tuy nhiên, điều mà thày muốn các con ghi nhớ là con không tạo ra một cái ta đứng yên. Con tạo ra một cái ta có thể tuôn chảy với Thánh linh.

17.1. Kiện toàn phàm linh

Con thấy chăng, các thày giả trên trái đất đã tìm cách bày ra nhiều mưu đồ tinh xảo để dụ người tìm đạo chân thật – những người đã lên trên tầng 48, những người đã không đi vào nhị nguyên – đi vào một ngõ bí khiến họ ngừng tăng triển hoặc có thể càng ngày càng rơi sâu vào tách biệt. Một trong những mưu đồ chính của họ là lời dụ dỗ, được trình bày dưới nhiều dạng khác nhau vi tế, cho rằng con có thể tạo ra một cái ngã tách biệt, một phàm linh có thể đi lên cõi tâm linh. 

Nếu con nhớ lại những gì thày giảng trong các bài trước, thì con sẽ thấy đây dĩ nhiên là giấc mơ tối hậu của tự ngã, của các sa nhân và các phàm linh tách biệt. Theo định nghĩa, một phàm linh tách biệt phải chịu luật sinh diệt, nhưng nó mơ được bất tử. Nó mơ hội đủ điều kiện nào đó giúp nó được Thượng đế chấp nhận và được phép tham dự tiệc cưới với Ki-tô.

Nhưng như Giê-su đã nói: “Không ai có thể lên thiên đàng mà không từ thiên đàng xuống”. Sinh thể duy nhất có thể lên thiên đàng là cái Ta Biết, và nó chỉ làm được điều này khi nó đã lột bỏ hết tất cả các lớp da rắn của các phàm linh tách biệt. Những phàm linh giả này giống như những con rắn bò dưới đất và đưa ra lý luận gian dối vi tế, dụ dỗ con nghĩ rằng con sẽ trở thành giống một thần nhân có thể lên thiên đàng. Nếu con nhớ sự tích thần linh cổ Hy lạp trên đỉnh Olympus, thì con thấy là họ không cao thượng lắm, họ hay tranh giành và bày ra nhiều mưu mô. Đó chính là biểu tượng của những cái ngã tách biệt mà sa nhân tìm cách tạo ra và cho rằng có thể trở nên bất tử. Nhưng không có gì có thể lên Thiên đàng ngoại trừ những gì đã từ Thiên đàng xuống, đó là nhận biết thuần khiết. Do đó, con sẽ không bao giờ có thể đem những phàm linh tách biệt này theo con lên thiên đàng, cho dù chúng có vẻ rất hoàn hảo dựa trên tiêu chuẩn thế gian nào đó.

17.2. Một cái nhìn giả về sự hoàn hảo

Con có thấy chăng vấn đề của cái ngã tách biệt? Một phàm linh tách biệt có thể nhất thời tăng triển. Con hãy suy nghĩ kỹ điểm này. Một phàm linh tách biệt có thể được thiết kế để tăng triển và nới rộng, con có thể xem đây là nó tự kiện toàn. Do đó, con có thể đến với một tôn giáo hay một giáo lý tâm linh và tạo ra một lý tưởng trong tâm con cho rằng nếu con cứ tiếp tục áp dụng giáo lý này, con sẽ tới chỗ đạt được một trạng thái hoàn hảo, một trạng thái tối hậu nào đó, và sau đó con sẽ được phép vào thiên đàng. Hoặc là con sẽ đạt được giác ngộ, hoặc bất cứ mục đích nào của tôn giáo đó.

Nhưng con ơi, con sẽ không được cứu rỗi, con sẽ không đạt được giác ngộ, con sẽ không thăng thiên, bằng cách tạo ra một cái ngã cố định và hoàn hảo. Sự hoàn hảo trên Thiên đàng không giống những gì mà hầu hết mọi người coi là hoàn hảo. Vì con người có khuynh hướng xem sự hoàn hảo là một cái gì cố định. Vì nếu một cái gì đó hoàn hảo, thì làm sao nó có thể cải thiện được? Nếu nó có thể cải thiện được, thì nó không thể hoàn hảo – đây là lối lý luận của tâm thức rắn.

Nhưng các thày là những người đã thoát khỏi tâm thức rắn, các thày biết sự hoàn hảo thực sự là tuôn chảy với Tánh linh. Trạng thái tối hậu duy nhất là trạng thái tự nhận biết của đấng Sáng tạo, nhưng con sẽ không thể đạt được trạng thái này khi còn đầu thai trên trái đất. Con cũng không thể đạt được nó cho tới khi con thành tựu tất cả các khai ngộ của tất cả các bầu cõi ở trên bầu cõi của con hiện nay. Do đó, đạt được mức tự nhận biết của đấng Sáng tạo không phải là điều con cần quan tâm đến lúc này. Vì ngay cả tâm thức của đấng Sáng tạo, dĩ nhiên cũng không đứng yên. Bởi vì, nếu nó đứng yên, thì tại sao nó lại sáng tạo ra thế giới hình tướng từ Bản thể của nó?

Con thấy chăng, không có gì đứng yên cả. Hoàn hảo là thăng vượt liên tục. Đây là định nghĩa thực của sự hoàn hảo. Đó là lý do vì sao Thánh linh hoàn hảo. Vì nó không có mục đích đạt được một trạng thái cố định tối hậu. Mục đích của nó là tự thăng vượt liên tục và bất tận. Do đó, nó không bao giờ tìm cách giữ chặt cái cũ, vì nó luôn luôn sẵn sàng lột bỏ da rắn cũ và thăng vượt lên một trạng thái mới.

Đây là điều thày khẩn thiết khuyên con nên suy ngẫm. Vì có một khác biệt rất cơ bản giữa việc đi theo con Đường của Bảy Tia sáng với mục đích tạo ra một cái ta hoàn hảo, dựa trên một định nghĩa cố định của sự hoàn hảo, và mục đích khác là tạo ra một cái ta uyển chuyển có thể luôn luôn và dễ dàng tuôn chảy với Thánh linh bằng cách tự thăng vượt liên tục quá tầng 96.

17.3. Giữ chặt cái ta tách biệt

Trong một bài trước thày có giảng về tâm thức chết, và nói đến trường hợp những người đã tới tầng 96 mà không chịu buông bỏ phàm ngã mà họ đã tạo ra. Họ nghĩ rằng họ sẽ chết nếu họ buông bỏ nó, vì họ đã quá tự đồng hóa với nó. Nhưng con thấy chăng, đó là vì họ đã có mục đích tạo ra cái ngã cố định muốn đạt được một tiêu chuẩn hoàn hảo nào đó. Và khi họ nhận ra là cái ngã mà họ đã tạo ra sẽ không thể vào thiên đàng, và họ phải để cho nó chết đi, để có thể vượt thăng và vào thiên đàng như trạng thái nhận biết thuần khiết, thì họ khởi lên lòng oán giận.

Họ muốn nắm giữ cái ngã tách biệt và biểu lộ quyền năng qua cái ngã đó. Đó là lúc họ bắt đầu muốn áp chế người khác với quyền năng mà họ đã đạt được với bảy tia sáng. Và dĩ nhiên đó là lòng kiêu hãnh dẫn tới sa ngã. Và sa ngã xảy ra ngay tức khắc.

Vậy con nên cẩn thận suy ngẫm điều này. Con cần có mục đích khi con đi trên con Đường của Bảy Tia sáng. Nhưng con đừng để các thày giả trên trái đất lường gạt con để con quy định một mục đích cố định, dựa trên một tiêu chuẩn nào đó do họ thiết lập – một tiêu chuẩn mà họ đã thiết kế và quy định dựa trên tâm thức tách biệt và nhị nguyên lúc nào cũng so sánh mọi chuyện với con mắt phán xét giá trị nhị nguyên.

Nếu con cố gắng đi trên con Đường của Bảy Tia sáng để trở nên giỏi hơn người khác dựa trên một phán xét giá trị nhị nguyên nào đó thì con sẽ tạo khó khăn cho mình. Con có thể có động cơ lớn thúc đẩy con đi trên đường tu, giống như một số đệ tử. Con có thể sẵn sàng hy sinh nhiều chuyện để đạt được ý niệm hơn người đó. Nhưng khi đến lúc phải buông bỏ cái ngã mà con đã tạo ra thì con sẽ phải đương đầu với toàn thể sức mạnh của tâm thức chết. Bởi vì lúc đó con phải đối diện cái gì? Con phải đối diện sự kiện là trong tâm thức tập thể, một tập đoàn khổng lồ các phàm linh tách biệt đó đã được tạo ra, và chúng đều không muốn chết. 

Do đó, nếu con đã tạo ra một phàm linh tách biệt khi con đi trên con Đường của Bảy Tia sáng, thì con sẽ tự buộc mình vào nỗi sợ chết đó. Do đó, con sẽ phải khắc phục toàn bộ động lực của cái chết mới buông bỏ được ngã tách biệt. Điều này dĩ nhiên là có thể làm được, vì khi con biết con là nhận biết thuần khiết thì con có thể buông bỏ bất cứ ngã nào, nhưng thày phải nói với con là rất hiếm đệ tử làm được điều này. Các đệ tử nào đã học cách buông bỏ phàm linh tách biệt tại mỗi tầng trên con đường tu sẽ dễ thành công hơn nhiều. Nhờ vậy khi họ lên tới tầng 96, họ không phải đối đầu với động lực chết của toàn hành tinh, mà chỉ đối đầu với động lực ở tầng đó mà thôi. Đây là một bước nhỏ hơn nhiều, và do đó họ sẽ dễ dàng tuôn chảy qua nó.

Và họ sẽ tiếp tục tuôn chảy qua tầng 96, lên tầng 97, 98, và cao hơn nữa cho tới khi bỗng nhiên họ tới tầng 144. Lúc đó, buông bỏ cái ngã, cái hồn ma cuối cùng, cũng sẽ không phải là một thay đổi lớn, và con có thể dễ dàng tuôn chảy vào vòng xoắn thăng thiên, đi qua cổng ngọc trai để vào trạng thái thăng thiên. Con thấy chăng, buông bỏ mọi chuyện cùng một lúc là điều rất khó. Buông bỏ từng chút một ở mỗi cấp dễ hơn nhiều.

17.4. Luôn luôn sợ mình sai

Do đó, thày chúc con thuận buồm xuôi gió trên con đường của bảy vị Thượng sư. Thày hy vọng là thày đã giúp con đặt nền móng giúp con đi con đường tu này dễ dàng hơn. Đúng thực là chỉ có cái ngã tách biệt mới đánh giá theo thang điểm đúng sai. Con có hiểu là khi con tạo ra một cái ngã tách biệt từ tâm thức nhị nguyên, con đã tạo ra một cái ngã tin rằng nó chỉ có thể được Thượng đế chấp nhận khi nó đạt được một tiêu chuẩn hoàn hảo và không bao giờ sai trái dựa trên tiêu chuẩn đó? Có nghĩa là cái ngã tách biệt đó lúc nào cũng sợ mình sai.

Các con có biết là có những dòng sống đã tới chỗ bắt đầu quay trở lại, họ có ước muốn lên cao hơn, họ có khao khát gặp được một vị thày chân chính. Nhưng khi họ gặp vị Thượng sư đầu tiên là Chân sư MORE – hay El Morya là tên trước đây của thày – thì họ giản dị không thi hành nổi những chỉ thị của Chân sư MORE. Họ còn không thực sự thấy được Chân sư MORE. Do đó họ phải dán lên Chân sư MORE hình ảnh một vị thày rất nghiêm khắc trọng kỷ luật. Vì họ quá sợ vị thày nghiêm khắc với cái nhìn thấu suốt này chứng minh họ sai nên thay vì chào đón giáo lý và sự giúp đỡ của thày, họ lại tìm cách lẩn trốn thày.

Vậy các thày đã phải làm gì trong quá khứ? Các thày đã phải cho các đệ tử này một vị thày vỏ ngoài, kể cả một tổ chức vỏ ngoài để họ có thể tiếp tục tin rằng họ là đệ tử của El Morya, nhưng thực sự họ chưa bao giờ thấy được vị Morya thực, Chân sư MORE thực, vì họ chỉ có thể nhìn thày như một hình ảnh cứng ngắc. Họ không thể thấy được là thày hơn rất nhiều hình ảnh cứng ngắc do tâm thức thấp tạo ra.

Con thấy chăng, chân sư MORE không phán xét con dựa trên thang điểm đúng và sai. Chân sư MORE không hề mong muốn chứng minh con sai. Thày cũng không hề mong muốn thấy con chứng minh mình đúng. Chân sư MORE, giống như tất cả các Thượng sư khác, chỉ quan tâm một chuyện: là con sẵn sàng thăng vượt tầng tâm thức hiện tại của con, thăng vượt ý niệm bản ngã hiện tại của con, cho phép phàm linh hiện tại của con chết đi và tuôn chảy vào một ý niệm bản ngã khác, cao hơn.

17.5. Một tầng hiểm nghèo trên đường tu 

Phàm linh tách biệt được tạo ra từ tiêu chuẩn nhị nguyên. Trong nó, trong chính mẫu đồ thiết kế ra nó, có sự phân chia giữa đúng sai. Nó tin rằng nếu nó bị chứng minh là nó sai thì một tai họa nào đó sẽ xảy ra. Nhưng nếu nó được chứng minh là nó đúng thì một điều tốt lành nào đó sẽ phải xảy ra. Do đó, nó tin rằng nó có thể ép Thượng đế phải chấp nhận nó khi nó chứng minh nó đúng. Và nó tìm cách chứng minh nó đúng bằng cách duy nhất mà nó biết: bằng cách so sánh nó với người khác dựa trên tiêu chuẩn đã tạo ra nó. Do đó, nó tìm cách chứng minh nó đúng bằng cách chứng minh người khác sai, bằng cách kéo người khác xuống. Lý luận cơ bản trong tiềm thức của phàm linh tách biệt là: “Nếu tôi có thể chứng minh là tất cả các phàm linh khác đều sai, thì tôi chắc chắn phải đúng và Thượng đế sẽ phải chấp nhận tôi.” Nhưng dĩ nhiên không phải vậy. Do đó, con đừng đến với các Thượng sư với ước mong chứng minh con đúng. Và con nên đặc biệt cảnh giác khi con có mong muốn chứng minh người khác sai. 

Nhưng thày muốn nói con điều này: có một điểm thấp hơn trên con đường tu, nơi con chú tâm vào việc chứng minh người khác sai và lúc nào cũng đấu đá với người khác. Tuy đây chắc chắn là một điểm thấp hơn trên con đường tu và không thể dẫn con tới trạng thái thăng thiên – không thể dẫn con quá tầng 96, và thực sự không thể dẫn con tới gần tầng 96, vì nó không thể dẫn con quá tầng 48 bao xa – nhưng đó không phải là tầng hiểm nghèo nhất trên con đường tu. Tầng nguy hiểm nhất trên con đường tu là khi con tới gần tầng 96, nhưng vẫn còn mắc kẹt trong mong muốn chứng minh mình đúng dựa trên một tiêu chuẩn nào đó.

Thày thực sự nói với con là, nếu con nhìn vào những người ở dưới tầng tâm thức 48, thì con thấy là những người ở những tầng thấp nhất không phải là những người có thể được coi là thô sơ nhất, nhìn theo một góc độ nào đó. Họ chính thực là những người tinh tế khôn ngoan nhất, vì họ là những người tin chắc rằng họ đúng và tiêu chuẩn của họ đúng.

Do đó, con cũng thấy có những đệ tử đã đi quá tầng 48 và tiến gần tới tầng 96, nhưng họ bắt đầu tự đồng hóa với phàm ngã tách biệt mà họ đã tạo ra, và tin rằng cái ngã tách biệt đó đúng, theo tiêu chuẩn mà họ không chịu từ bỏ. Vì họ chưa nhìn thấu bản chất thật của tiêu chuẩn đó. Các thày rất khó tiếp cận các đệ tử này.

Họ thường là đệ tử rất sốt sắng, sẵn sàng hy sinh và chịu khó để tiến lên tầng kế tiếp. Và con phần nào có thể làm như vậy giữa tầng 48 và 96, vì ở các tầng này con đang tìm cách đạt được sự điều ngự bảy tia sáng. Khi con làm điều này, con tạo ra một cái ngã tách biệt, một phàm linh tách biệt, hay ít nhất là một phàm linh cá biệt, một cái ngã cá biệt.

17.6. Tiêu chuẩn giả được tạo ra như thế nào

Các đệ tử mà các Thượng sư khó tiếp cận nhất là những người đã xây dựng lòng kiêu hãnh mà họ không thấy vì họ nghĩ họ đúng. Và họ không chịu chấp nhận một trong những tỉnh ngộ quan trọng nhất trên con đường tu, đó là không có tiêu chuẩn nào quy định trên trái đất có thể đưa con lên thiên đàng. Vì những tiêu chuẩn nhị nguyên tách biệt này không thể nào hiện hữu trên thiên đàng.

Do đó, con đang không chứng minh con đúng dưới mắt các Thượng sư vì các thày không ở trong tâm thức nhị nguyên. Con chỉ đang chứng minh con đúng dưới mắt phàm linh tách biệt mà con đã tạo ra – phàm linh được tạo ra dựa trên một tiêu chuẩn đặc trưng của con. Do đó, phàm linh này không thể thấy bất cứ cái gì vượt lên trên tiêu chuẩn. Nó không bao giờ thấy là tiêu chuẩn có điều gì sai. Nó không bao giờ thấy là tiêu chuẩn có bất cứ hạn chế nào. Nó không bao giờ thấy là tiêu chuẩn được tạo ra bằng cách loại trừ một số thành phần của bức tranh thực tại rộng lớn hơn.

Con hãy để thày so sánh với một hình ảnh mà con quen thuộc. Con biết cái la bàn, và con biết là nếu con đứng ở trung tâm la bàn, con có thể chia chu vi la bàn ra thành 360 góc độ, giống như con có thể chia chu vi vòng tròn thành 360 độ. Khi con đứng ở trung tâm chiếc la bàn cá nhân của con và có thể nhìn tất cả 360 độ mà không đặc biệt chú tâm vào bất cứ góc độ nào, và không có nhu cầu loại trừ góc độ nào, thì con đạt được giác ngộ, con sẵn sàng thăng thiên.

Nhưng này các con, điều xảy ra cho các phàm linh thấp là chúng định ra một tiêu chuẩn. Và chúng định tiêu chuẩn bằng cách nào? Bằng cách loại trừ, ngăn chặn một số góc độ bằng cách dán nhãn chúng là sai, giả hay xấu ác trên phương diện nào đó. Do đó, chúng tạo ra một tiêu chuẩn bằng cách loại trừ một hoặc nhiều trong số 360 góc độ của chu vi là những gì có thể nhìn thấy trên trái đất.

Và khi con quy định một số góc độ nào đó là sai, và do đó không chịu nhìn chúng, thì theo định nghĩa con sẽ có một cái nhìn hạn chế, chọn lọc, chủ quan, thiên lệch, và thiếu sót về sự sống. Nhưng xa hơn nữa, con cũng sẽ luôn luôn có thể chứng minh là cái ngã tách biệt – phàm linh tách biệt – của con đúng. Vì con thấy chăng là khi con chấp nhận định nghĩa một số góc độ sai và không được nhìn tới, thì đương nhiên là con sẽ không thể nhận ra là phàm linh, phin lọc nhận thức, mà xuyên qua đó con nhìn thực tế, có giới hạn và đang cho con cái nhìn hạn chế và méo mó về tổng thể sự sống.

17.7. Chứng minh mình “đúng”

Con có thấy chăng là, nếu con sẵn sàng loại bỏ một số góc độ trên chu vi của vòng tròn sự sống, thì con luôn luôn có thể chứng minh là cái ngã, vốn chỉ bao hàm những góc độ còn lại, là đúng. Nhưng con có bắt đầu thấy chăng là, khi con chưa thấy được toàn bộ chu vi của tâm thức có thể có được trên trái đất, thì con chưa giác ngộ, và con chưa sẵn sàng thăng thiên?

Vậy làm sao con thấy được toàn bộ chu vi? Bằng cách nhận ra con là cái Ta Biết, và cái Ta Biết không có tính cá biệt nào trụ trong nó khiến nó cần loại bỏ một số góc độ. Do đó, con là nhận biết thuần khiết. Và khi con là nhận biết thuần khiết, thì con có thể nhìn bất cứ cái gì và tất cả mọi thứ. Con không cần loại bỏ bất cứ cái gì. Con không cần phán xét bất cứ cái gì.

Và khi con sẵn sàng nhìn bất cứ cái gì thì không có cái gì có quyền lực trên con. Vì dĩ nhiên là khi con quy định cái gì đó là sai và không chịu nhìn nó, thì cái mà con không chịu nhìn có quyền lực trên con. Nó quy định con, vì con nghĩ rằng nếu con nhìn vào nó, hoặc con có những đặc tính của nó, thì con sẽ sai theo nghĩa tối hậu.

Do đó, cách duy nhất để vượt qua nỗi sợ bị sai là nhìn vào đáy sâu của nỗi sợ, và nhận ra nó chỉ là một góc độ khác trên chu vi của la bàn sự sống. Do đó, thay vì chú tâm vào một tiêu chuẩn, con để cho kim của la bàn xoay một cách tự do.

Nhưng con có thấy chăng là khi con chặn một số góc độ trên la bàn, thì mũi kim của la bàn không thể xoay tự do được? Và như vậy thì con đang làm gì? Con đang ngăn chặn không để cái Ta Biết thể hiện tiềm năng lớn nhất của nó. Vì tiềm năng lớn nhất của cái Ta Biết là trở nên mũi kim la bàn luôn luôn chỉ hướng Bắc. Nó luôn luôn chỉ ngôi sao bắc đẩu là Hiện diện TA LÀ. 

Con làm cách nào để giống như Odysseus, phải bôn ba khắp bốn biển đầy hiểm nghèo nhưng vẫn trở về nhà được? Anh ta đã làm gì? Anh đã đi tới những điểm trên la bàn cá nhân của anh nơi anh đã loại bỏ một số góc độ trên chu vi. Anh đã diệt trừ các ác thú, các phàm linh, các sinh vật thần thoại, và nhờ vậy anh mở rộng chu vi, khiến cho mũi kim la bàn có thể xoay tự do. Và khi anh đả thông được cả chu vi thì kim la bàn có thể xoay đủ vòng tròn. Lúc đó, sau khi đã xoay một lúc, thì một cách tự nhiên nó tìm ra vị trí lý tưởng của nó là chỉ thẳng về hướng Bắc.

17.8. Sử dụng một la bàn giả

Khi con có một la bàn tốt có kim chỉ đúng hướng Bắc, thì con dễ tìm đường về nhà hơn. Nhưng nếu con có một la bàn mà kim không thể xoay tự do và do đó không chỉ đúng hướng Bắc, thì làm sao con tránh không bị lạc trên biển cả? Con yêu dấu, con có thấy chăng là khi con có gì ngăn chặn trên chu vi của la bàn, thì kim la bàn chỉ xoay được tới chỗ nào đó mà thôi? Lúc đó, vì con thấy kim la bàn đã ngừng lại, nên con tưởng là nó đã chỉ con về hướng Bắc. Con liền lái thuyền về hướng đó, con hướng hành trình đời con về hướng đó. Nhưng nếu kim la bàn không chỉ đúng hướng Bắc, thì làm sao con có thể đi đúng hướng được?

Lúc đó, con sẽ đi về đâu? Con không đi về hướng sao bắc đẩu của bản thể, của Hiện diện TA LÀ của con. Con sẽ đi đúng về hướng các khu mà con đã ngăn chặn trên chu vi, là những gì con không chịu nhìn tới. Do đó, con sẽ đi về hướng các phàm linh tách biệt mà con đã tạo ra, chúng đang nằm yên chờ phục kích con, giống như những tiên chim trong thần thoại Hy lạp có tiếng hát quyến rũ hớp hồn. Và chẳng bao lâu thì thuyền con sẽ đắm vì chạm vào vách đá.

Và sau khi con đã bị đắm thuyền nhiều lần, thì con rốt cuộc tới chỗ nhận ra là có thể có điều gì mà con không thấy, có lẽ tiêu chuẩn của con có điều gì sai – chứ không phải có điều gì sai với những người không theo đúng tiêu chuẩn.

Điều thày muốn nói là các thày là các Thượng sư không muốn con phải làm cuộc hành trình hỗn loạn trong đó con cứ bị đắm thuyền liên miên. Các thày muốn cho con một con đường suôn sẻ qua đó các thày hướng dẫn con nhìn vào chu vi của la bàn cá nhân của con. Nhưng các thày sẽ giúp con nhìn khi còn sớm sủa, để con không bị đâm vào vách đá và đắm thuyền, và ngược lại vượt qua được các bước khai ngộ.

Do đó, thay vì con đi trên một con đường tu trúc trắc dẫn con từ khủng hoảng này sang khủng hoảng khác, từ lần đắm thuyền này sang lần đắm thuyền khác, thì con đường tu của con trở thành vòng xoắn ốc suôn sẻ đi lên. Con đi lên từng bậc nhỏ của cầu thang xoắn ốc và con không phải té xuống nhiều bậc. Thay vào đó, con có thể tiếp tục vững chãi đi lên đều đặn. 

Đó là viễn quan về đường tu của con mà các thày giữ trong tâm các thày, khi con tới với các thày và quyết định ghi danh vào, không phải là Trường đời Cay đắng, mà là Trường của Bảy bức Màn, Trường của Bảy Tia sáng, trường của Bảy Thượng sư. Và trường này dĩ nhiên do thày giám sát, vì thày là Thượng sư thứ tám, thày LÀ Đại thượng sư.

Vượt lên trên ý định hung hãn

Bài giảng của chân sư thăng thiên Đại thượng sư qua trung gian Kim Michaels, ngày 7/12/2012.

TA LÀ Đại thượng sư. Thày đến đây để tiếp tục bằng cách xây dựng tiếp trên nền tảng của các bài giảng trước. Thày đã giảng là có một khuynh hướng hình thành một ý định hung hãn tìm cách thay đổi người khác. Đây là một khuynh hướng đã bắt đầu với những sa nhân đầu tiên và họ, cùng những người đã bị mắc bẫy họ và tham gia vào vòng xoáy hướng hạ, đã duy trì khuynh hướng này trong các bầu cõi trước và trong bầu cõi này.

Mưu đồ của các sa nhân này là gì? Họ chỉ giản dị muốn lôi kéo càng nhiều người và càng nhiều dòng sống vào vòng xoáy hướng hạ của họ. Nếu có thể, họ sẽ lôi kéo tất cả mọi sinh thể có tự nhận biết vào vòng xoáy hướng hạ. Lẽ dĩ nhiên điều này không thể làm được, vì có rất nhiều sinh thể trong bầu cõi này đã gia nhập vòng xoáy hướng thượng, vòng xoáy thăng thiên chính là Thánh linh.

Tuy nhiên, các sa nhân chỉ được phép đầu thai vào một số hành tinh tương đối ít. Đây là một hành động nhân từ đối với họ và một hành động thử thách những dòng sống cần loại thử thách này. Sa nhân có thể duy trì ảo tưởng sẽ có một ngày họ thành công và chứng minh là Thượng đế sai bằng cách khiến tất cả các sinh thể có tự nhận biết sa ngã. Và như thế, Thượng đế sẽ bắt buộc phải thay đổi cách ngài đã thiết kế kế hoạch nâng cao nhận biết và tự nhận biết. Do đó, khi con là một đệ tử tâm linh trên con đường tu, con cần thấy cách hành xử của sa nhân.

15.1. Khuynh hướng phớt lờ tà lực

Như thày có giảng, trong kịch bản lý tưởng con có thể đi theo con Đường của Bảy bức Màn giữa tầng tâm thức 48 và 96 mà không phải đối phó với tâm thức sa ngã, không phải đối phó với bất cứ ai đang tìm cách ảnh hưởng con một cách hung hãn. Mọi chuyện chỉ xảy ra giữa con và vị thày tâm linh. Nhưng vì hành tinh trái đất không là kịch bản hay môi trường lý tưởng, con sẽ phải nhận ra – và trong tư thế một đệ tử tâm linh con cần nhận ra – là con sẽ phải đối phó với tâm thức sa ngã ở mỗi tầng cho tới tầng 96 và ngay cả trên đó nữa, nhưng sau tầng 96 thì con đối phó với nó một cách khác.

Bây giờ thày muốn con nhìn vào nhiều phong trào tâm linh có mặt trên hành tinh này, và con quả thực sẽ thấy nhiều nhóm không dạy về sa nhân và tà lực. Con sẽ thấy là nhiều người tâm linh muốn phớt lờ những chủ đề này và còn khó chịu khi phải đối mặt với sự kiện tà lực có tiềm năng hiện hữu.

Có người nói rằng con phải chú tâm vào những điều tích cực mà thôi, vì nếu con chú tâm vào những điều tiêu cực, thì con cho chúng thêm sức mạnh. Con yêu dấu, con không nhất thiết cho tà lực thêm sức mạnh khi con nhận biết chúng. Con cho chúng thêm sức mạnh nếu con sợ hay tìm cách đánh nhau với chúng. Nhưng thày có thể nói với con một cách tuyệt đối chắc chắn là con cũng cho chúng sức mạnh khi con phớt lờ hay phủ nhận chúng.

Vì con thấy chăng, hành động phớt lờ một cái gì và phủ nhận nó hiện hữu không có tính chất thụ động. Đây là một hành động tích cực vì một lý do giản dị: đó là vì tà lực hung hãn. Chúng tìm cách ảnh hưởng bất cứ ai trên hành tinh này. Do đó, con không thể sống trên hành tinh này mà không bị một lực hung hãn phóng vào con.

Và làm sao con có thể phớt lờ hay phủ nhận lực này? Con chỉ có một cách là hướng một lực ngược lại khiến con mù quáng không thấy cái gì đang phóng tới con. Con có thể hiểu điều này giản dị qua sự vận hành của sóng, cùng với hiểu biết cơ bản rằng mọi thứ đều là năng lượng và năng lượng chuyển động như làn sóng. Và khi hai làn sóng gặp nhau, chúng tạo ra một mô thức giao thoa (interference). Điều này có nghĩa là một làn sóng có thể xóa bỏ hay thay đổi sự rung động của một làn sóng khác.

Cái đang phóng tới con từ các sa nhân và tâm thức tập thể là một dòng sóng năng lượng. Nếu con giữ tâm trung dung và chăm chú, con sẽ nhận ra năng lượng này. Do đó con chỉ có thể phớt lờ hay phủ nhận nó bằng cách phóng ra một dòng năng lượng ngược lại. Dòng năng lượng này sẽ không vô hiệu hóa dòng năng lượng tiêu cực, mà chỉ vô hiệu hóa nó ở mức tâm ý thức của con, khiến con không ý thức về nó. Và như vậy con có thể phớt lờ hay phủ nhận tà lực.

Tuy nhiên chúng vẫn ảnh hưởng tiềm thức của con. Và thày có thể nói với con một cách hoàn toàn chân thực rằng thày có khả năng nhìn vào hàng triệu người đang chân thành đi tìm tâm linh trên hành tinh này, và thày có thể bảo đảm với con rằng khi họ không ý thức về tà lực, thì họ thật sự đang bị tà lực đó ảnh hưởng.

15.2. Trái đất là một trong những hành tinh thấp

Lẽ dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là họ cảm nhận được ảnh hưởng này vì nhiều người không cảm nhận được. Và lý do một phần là như thày đã giàng, họ đã phóng ra một năng lượng ngăn chặn tâm ý thức của họ nhận ra sự tấn công của các tà lực. Nhưng lý do khác là một khi tà lực đã đưa con vào con đường giả, con đường không thể dẫn con tới tâm thức Ki-tô và sự thăng thiên, thì chúng sẽ không nhất thiết để con yên, nhưng sẽ khiến con tiếp tục ở trong ảo tưởng là con đang đi đúng đường.

Đó là lý do tại sao con có thể thấy là ở thế giới Tây phương, nhiều người theo Cơ đốc giáo hoàn toàn tin chắc rằng Chúa Giê-su sẽ đến và cứu rỗi họ vì họ là những người được tuyển chọn vì thuộc một giáo hội nào đó hay vì đã tuyên bố Giê-su là Chúa và đấng Cứu thế của họ. Tương tự như vậy, con có thể thấy nhiều người tâm linh tin rằng nếu họ nhân từ và thương yêu tất cả mọi người và không chú tâm tới bất cứ những gì tiêu cực, thì chắc chắn sẽ có một ngày họ đạt được giác ngộ.

Tất cả đều là một sự gian dối mà sa nhân đã tạo ra để đặc biệt gài bẫy những người đã bắt đầu thức tỉnh, nhưng chưa nhận ra sự thực tuyệt đối rằng con đường tâm linh, con đường dẫn tới giác ngộ hay thăng thiên, là một con đường có ý thức. Con không thể đi trên con đường này mà không có ý thức. Con không thể đi trên con đường tu mà tiếp tục phớt lờ hay phủ nhận bất cứ điều gì.

Và con yêu dấu, con không thể đi trên con đường tâm linh trên hành tinh trái đất mà không thấy và nhìn nhận rằng hành tinh nơi con đang sống là loại hành tinh nào. Trái đất không phải là một hành tinh lý tưởng. Nó là một hành tinh nhiều hiểm nguy. Nó là một trong những hành tinh thấp trong vũ trụ vật chất, không phải là hành tinh thấp nhất, nhưng là một trong những hành tinh thấp. Và con cần thấy điều này, con cần nhận ra điều này. Thày không nói là con cần phải sợ tà lực. Thày không nói là con cần đánh nhau với chúng. Nhưng con cần nhận ra chúng vì chỉ như vậy con mới đáp ứng được lời kêu gọi của Giê-su: “Các con hãy khôn ngoan như rắn và vô hại như bồ câu.”

Có nhiều người tâm linh nghĩ rằng họ vô hại như bồ câu, nhưng con không thể vô hại như bồ câu nếu con không khôn ngoan như rắn, và nhìn thấu những con rắn đang tìm cách dẫn con vào ngõ bí không đưa tới sự tự vượt thăng thật sự. Ngõ bí này dẫn vào con đường tự động trong đó con nghĩ rằng vì con làm theo một số yêu cầu vỏ ngoài, nên con không cần nhìn vào cái đà trong chính mắt mình, và con có thể được cứu rỗi một cách tự động bằng cách là thành viên của giáo phái này hay giáo phái nọ, vì con theo vị đạo sư này hay vị đạo sư nọ, hay vì con tập theo kỹ thuật này hay kỹ thuật nọ. Chuyện đơn giản là con đường tu không phải như thế.

15.3. Tại sao tà lực tấn công con

Bây giờ ta hãy trở lại mưu đồ của sa nhân, và thấy là nó gồm hai phần. Mục đích đầu của sa nhân là tấn công mọi dòng sống trên trái đất với một lực hung hãn. Bằng sức mạnh vật lý nếu có thể, nhưng trong thế giới hiện nay họ không dễ hành hung con người bằng vũ lực được, ít nhất là tại một số nơi trên thế giới. Và do đó, họ dùng các phương tiện tâm lý để tấn công các thể lý trí, tình cảm và lẽ dĩ nhiên thể bản sắc của con.

Vậy họ tấn công với mục đích gì? Họ không muốn tiêu diệt con. Mục đích của họ là khiến con phản ứng lại sự tấn công. Đây là mục đích đầu tiên của họ. Họ không muốn gì hơn là lôi kéo con vào trò chơi hành động và phản ứng, trong đó họ hành động và con phản ứng lại, và sau đó lại có hành động và phản ứng khác. Và chẳng bao lâu con sẽ rơi vào vòng xoáy hướng hạ, quên đi mục đích tâm linh của mình khi con quyết định xuống đây. Đây là cách chính yếu mà sa nhân dùng để lôi kéo con xuống dưới tầng tâm thức 48, xuống trạng thái tâm thức hung hãn mà thày đã đề cập tới, khi con lúc nào cũng cảm thấy mình đang bị tấn công và cần chống trả lại.

Bây giờ, nếu sa nhân không lôi kéo được con vào trò chơi này, hay không giữ được con tiếp tục chơi trò chơi đó vì con không chịu tham gia những trò chơi hung hãn đó, thì kế hoạch thứ nhì của họ là đưa con tới một mức khiến con cảm thấy thoải mái, cảm thấy mình là người tâm linh hay ngoan đạo, cảm thấy mình sẽ được cứu rỗi và đang làm điều đúng. Và sau đó họ muốn giữ con ở đó mãi mãi.

Con thấy không, thày đã giảng gì về Thánh linh? Thày đã giảng gì về con đường tu chân chính? Đó là Dòng sông sự Sống lúc nào cũng thăng vượt chính nó, liên tục và mãi mãi. Do đó nếu con đứng yên ở một tầng nào đó, thì con có thể cảm thấy mình được cứu rỗi và là người tâm linh. Nhưng con sẽ không tăng triển nếu con không tự thăng vượt mình và do đó con không tiến gần tới điểm thăng thiên và bị kẹt trong thế giới vật chất. Nếu sa nhân không khiến con đi xuống được thì ít nhất họ muốn con bị mắc kẹt. Lúc đó họ cảm thấy đang kiểm soát được con, và họ quả thật đang kiểm soát được con.

Bây giờ chúng ta hãy trở về sự kiện là khi con cho phép mình bị thu hút vào trò chơi hành động-phản ứng khi con phản ứng lại ý định hung hãn của sa nhân, đây là lúc con xuống dưới tầng tâm thức 48. Bài giảng này của thày có mục đích hướng tới những ai đã xuống dưới tầng 48, cũng như là những ai đang bắt đầu trèo từ tầng 48 lên tầng 96.

15.4. Khi phàm linh phản ứng lại phàm linh khác

Bây giờ, nếu con nhớ lại những gì thày giảng lúc trước, con sẽ thấy một sự kiện đơn giản. Sa nhân làm gì khi họ tấn công con với một lực hung hãn? Lực đó là gì? Đó chính là cái mà thày đã giảng trong đoạn trước: đó là một phàm linh. Sa nhân đã tạo ra một phàm linh xông tới tấn công con. Nhưng khi con phản ứng lại sự tấn công này, bằng cách tháo chạy hay tấn công lại, thì con tạo ra cái gì? Ấy, con cũng tạo ra một phàm linh. Con tạo ra một phàm linh của riêng mình. Và mỗi bước con đi xuống dưới tầng 48, con tạo ra một phàm linh mới.

Chuyện gì xảy ra khi một người xuống tới tận đáy vực thẳm và kêu lên: “Không, tôi không thể tiếp tục sống như thế này nữa?” Đó là lúc con quyết định không tạo thêm một phàm linh khác nữa, và ngừng không nuôi dưỡng những phàm linh mà con đã tạo ra. Con có thể không ý thức điều này, nhưng thực sự đó chính là chuyện xảy ra.

Vậy con cần làm gì để leo trở lên cầu thang xoáy ốc dẫn tới tầng tâm thức 96? Con phải đi theo hành trình đối đầu các phàm linh mà con đã tạo ra và diệt trừ chúng, giống như thánh George diệt trừ con rồng.

Một số các con biết là Đại thượng sư trong một kiếp trước đã hiện thân như thi sĩ Homer, người viết kịch bản Hy lạp Iliad và Odyssey. Truyện Odyssey là gì? Đó là một thông điệp ẩn dụ, một biểu tượng của hành trình mà mọi linh hồn phải đi qua. Odysseus giản dị là biểu tượng của mọi dòng sống, phải rời nhà đi nơi xa cho đến khi gặp gỡ, đối đầu và khắc phục từng phàm linh mà chính mình đã tạo ra. Và chỉ khi đó, con mới có thể về nhà, bằng cách tiếp xúc trực tiếp bằng nội tâm với Hiện diện TA LÀ và cái Ta Ki-tô của mình, với các chân sư thăng thiên. Chỉ khi đó thì cuộc hành trình của con mới tới khúc quanh nơi con biết là con đã thăng vượt tâm thức xem mình là một sinh thể tách biệt và mất liên lạc, bị những sinh thể tách biệt và mất liên lạc khác chống đối.

Con thấy chăng, phần nào trong con đang cảm thấy bị các tà linh đen tối do sa nhân tạo ra chống đối? Ấy, đó chỉ là những phàm linh mà con đã tạo ra. Vì chỉ phàm linh tách biệt mới cảm thấy bị phàm linh tách biệt khác chống lại. Tánh linh Duy nhất (the One Spirit), Tánh linh không phân chia, Tánh linh không thể phân chia, Thánh linh (Holy Spirit), không cảm thấy bị các phàm linh tách biệt chống đối, bởi vì nó biết nó vượt lên trên chúng, nó ngoài tầm với của chúng. Bởi vì ngay khi nó cảm nhận sự tấn công thì nó làm gì? Nó không phủ nhận chuyện đó. Nó không đánh lại. Nó chỉ giản dị thăng vượt chính nó để trở thành trong suốt đối với lực đang phóng tới.

15.5. Bắt đầu con đường tu chân chính

Giờ đây, mục đích của thày khi cho ra cuốn sách này là chuẩn bị cho con nhận sự khai ngộ của bảy vị Thượng sư, để con có thể bắt đầu con Đường của Bảy bức Màn leo từ tầng tâm thức 48 lên tầng 96. Vậy thì con cần gì để bắt đầu con đường này? Con đang sống trong bát cung vật lý (physical octave) của hành tinh trái đất. Các thày, những chân sư thăng thiên, đã trao truyền một số giáo lý có thể đọc được trong sách và trên mạng Internet. Con có thể tìm thấy các giáo lý này. Bình thường thì con sẽ không tìm gặp được giáo lý cho tới khi con xuống tận đáy vực thẳm và quyết định quay đầu và mong muốn cái gì hơn những vật lộn. Tuy nhiên, con có thể tìm thấy giáo lý khi con chưa tới tầng tâm thức 48 vì lẽ dĩ nhiên, làm sao con có thể leo trở lên tầng tâm thức 48 nếu con không có một khung tham chiếu nào đó?

Do đó điều mà thày đang cố giải thích ở đây là: trước khi con có thể tiến lên trên tầng 48, con phải tiêu trừ những phàm linh mà con đã tạo ra ở dưới tầng này. Nhưng ngoài các phàm linh của riêng con, có một phàm linh khác mà con cần tiêu trừ, đó là phàm linh mà thày có mô tả ở phần trên, là phàm linh cảm thấy bị đe đọa, cảm thấy cần phóng chiếu vào tâm người khác và muốn thay đổi người khác thay vì thay đổi chính mình.

Con hãy lắng nghe điều thày đang nói – không phải chỉ đọc các giòng chữ, mà lắng nghe những gì thì thày muốn nói giữa hai giòng chữ, giữa các chữ. Có ba giai đoạn trong số 144 tầng tâm thức, nhưng có hai giai đoạn chính: dưới tầng 48 và trên tầng 96. Sự khác biệt tuyệt đối là trước khi con tới tầng 96, con leo con đường tu như một sinh thể cá biệt. Điều này có ý nghĩa giản dị là: con cần hoàn toàn chú tâm vào việc thay đổi chính mình và không tìm cách thay đổi bất kỳ ai khác.

Con cần chú tâm vào lý tưởng mà Giê-su đã đề ra cách đây 2000 năm, là cái giằm trong mắt người anh em con cũng không quan tâm tới, vì con đang tập trung mọi sự chú ý vào cái đà trong chính mắt mình. Sau khi con đi qua tầng 96 thì con bước sang một giai đoạn khác trong đó con không cần nâng cái ngã cá biệt lên nữa. Sự thực là con cần khả năng và quyết tâm hy sinh mạng sống, hy sinh cái ngã cá biệt, những thành quả cá biệt, để nâng tất cả sự sống lên. Nhưng đây là một sự chuyển dời mà con chỉ có thể thực hiện ở tầng 96 và cao hơn.

15.6. Biện minh cho các phàm linh thấp

Vậy chuyện gì xảy ra dưới tầng 48? Đó là khi con tha hóa các tầng tâm thức cao, các tầng trên tầng 96, bằng cách phóng ra một phàm linh hung hãn. Con bắt đầu tạo ra những phàm linh hung hãn có mục đích điều khiển tâm người khác. Nhưng con không những chỉ làm thế mà con còn biện minh là mình làm vì một đại nghĩa cao cả, rằng con làm điều đó để đóng góp vào sự nghiệp của Thượng đế, chớ không phải vì lý do ích kỷ. Đây chính là phàm linh con cần tiêu trừ trước khi con có thể vươn lên trên tầng 48. Đó là lý do vì sao thày nói với con, một cách rõ ràng nhất có thể diễn đạt được bằng lời: “Nếu con muốn lên tới tầng tâm thức 96, nếu con muốn theo con đường tu tâm linh chân chính, nếu con muốn hội đủ điều kiện để đạt khai ngộ dưới sự hướng dẫn của bảy vị Thượng sư, thì con phải hội đủ một điều kiện này: con hãy ngưng chú tâm vào việc thay đổi người khác hay thay đổi thế giới! Con hãy rút lại mọi chú tâm muốn thay đổi bất cứ gì bên ngoài con. Thay vào đó, con hãy tập trung hết sự chú ý vào việc thay đổi trạng thái tâm thức của chính mình, tiêu trừ những phàm linh mà con đã tạo ra và thể hiện những bài học tích cực của bảy tia sáng, ngõ hầu xây dựng cái ta cá biệt.”

Con sẽ không thể lên tới tầng 96 bằng cách thay đổi thế giới hay người khác. Con sẽ chỉ lên tới đó như một cá nhân. Sau đó ở tầng 96, có một sự chuyển đổi. Nhưng con không cần quan tâm điều này trong lúc này, vì lý do giản dị là nếu con đang đọc hay nghe những lời giảng này, thì bước kế tiếp trên con đường tu cá nhân của con là con tập trung vào các khai ngộ của bảy vị Thượng sư. Con đừng đánh lừa mình và cho rằng con không cần được bảy vị Thượng sư khai ngộ.

Thày đã nói là có thể con đã ở trên tầng tâm thức 48, và do đó con có thể tiến nhanh. Nhưng con vẫn cần đủ khiêm nhường, thực tiễn và trung thực để bắt đầu ở mức khởi đầu, bắt đầu với vị Thượng sư của Tia thứ Nhất và dần dần học lên cao hơn, như vậy con không nhảy bước và bỏ sót bất cứ phàm linh nào còn lởn vởn trong tiềm thức của mình, vì nếu không sau này chúng sẽ xuất hiện và tìm cách nuốt chửng con, vì quả thực chúng tăng trưởng khi có thể ẩn núp.

Con thấy chăng, hậu quả của lời thày dạy trong phần trước giản dị là, dù con có phớt lờ hay phủ nhận sự hiện hữu của những tà linh đen tối hay những phàm linh mà con đã tạo ra, chúng vẫn phóng năng lượng vào tiềm thức của con, và điều này có nghĩa là những phàm linh nào đang lởn vởn trong đó sẽ tiếp tục tăng trưởng trong những nơi ẩn nấu được duy trì vì con không chịu nhìn vào chính mình.

Không chịu nhìn vào tâm thức và tiềm thức của mình, là cách chắc chắn nhất để nuôi dưỡng những phàm linh trong đó. Và chúng sẽ tiếp tục tăng trưởng cho tới khi con quyết định ngưng cố ý phớt lờ và soi rọi ánh sáng của Hiện diện TA LÀ, ánh sáng của bảy tia sáng, vào những hang động trong tiềm thức, xối rửa những phàm linh này ra ánh sáng để con nhìn thấy chúng. Và sau đó, dưới sự hướng dẫn thiện nghệ của bảy vị Thượng sư, con sẽ tiêu trừ từng phàm linh một.

15.7. Con không đơn độc một mình

Con không cần phải sợ chuyện này, vì con sẽ không phải đối đầu với tất cả phàm linh cùng một lượt, và con sẽ không phải đối đầu với bất cứ phàm linh nào cho tới khi con sẵn sàng tiêu trừ nó. Và con cũng không phải đối đầu nó một mình. Con đang đi trên con đường tu của bảy vị Thượng sư. Đây là điều các thày cống hiến con trong cuốn sách này và các cuốn sách tới, và các thày đã đưa con vào con đường này qua cuốn đầu của bộ sách này.

Do đó, con thấy chăng, con không đi một mình. Con sẽ không phải đối đầu các phàm linh một mình. Con sẽ có một vị Thượng sư ở bên con. Con cũng sẽ có vị Đại thiên thần và Elohim của tia sáng đó bên con. Như vậy, nếu con sẵn sàng, con sẽ có mọi sự hướng dẫn, mọi dụng cụ và kiến thức cần thiết để nhìn thấu các phàm linh và tiêu trừ chúng từng con một.

Tuy nhiên con không thể bắt đầu con đường tu cho tới khi con ít nhất nhìn nhận một phàm linh khiến con hướng sự chú tâm của mình ra bên ngoài. Đây là yêu cầu duy nhất. Bởi vì, con yêu dấu, đây là một sự thật giản dị. Các thày, bảy vị Thượng sư, và thày là người thứ tám, các thày là những vị thày tâm linh chân chính của nhân loại. Các thày được chưởng giáo đoàn hoàn vũ giao cho nhiệm vụ nâng cao các dòng sống trên trái đất. Nhưng các thày tìm cách nâng cao cái gì? Các thày tìm cách nâng cao cái mà Giê-su đã nói tới, khi thày nói với Nicodemus rằng không có ai có thể thăng thiên trở về thiên đàng mà không từ thiên đàng đi xuống trước đó. Và cái đi xuống từ thiên đàng chính là cái Ta Biết, là trạng thái nhận biết thuần khiết. Cái mà con đã tạo ra sau đó là cái ngã tách biệt, là một ý niệm bản sắc tách biệt gồm nhiều phàm linh đơn lẻ. Các thày, các Thượng sư, không có trách vụ nâng cao các phàm linh đó. Đây không phải là công việc của các thày, và các thày sẽ không làm sai thiên chức của mình.

Các thày sẽ không giúp con nâng cao cái ngã tách biệt. Do đó, nếu con chưa nhận ra mục tiêu thật của con đường tu là nâng cao cái ta chân chính, thì các thày chưa thể khởi sự giúp con. Và yêu cầu duy nhất để con nhận ra điều này, là con nhìn nhận sự kiện là con ở đây để nâng mình lên tới tầng 96. Và điều này đòi hỏi con ngưng chú tâm vào việc thay đổi bất cứ ai và bất cứ điều gì ở bên ngoài con. Điều này đã bắt đầu rõ ràng đối với con chưa?

Thày hy vọng là nó đã rõ cho những ai đã sẵn sàng. Và với những ai chưa sẵn sàng, thì vị thày chưa thật sự hiện ra với họ, phải không con? Vì con không thấy được thày. Con không nghe được thày. Con không thật sự nhận ra thông điệp đang tuôn chảy từ đây.

Con vẫn còn quá tự đồng hóa với một trong những phàm linh tách biệt mà con đã tạo ra, nên con đã đến với con đường tâm linh và nghĩ rằng con sẽ được trợ giúp để nâng cao và kiện toàn phàm linh đó, cho tới khi nó được Thượng đế chấp nhận và được cho phép vào thiên đàng. Nhưng, như Giê-su đã nói, con sẽ không vào được tiệc cưới nếu không mặc áo tiệc cưới. Và áo tiệc cưới là chiếc áo con dệt khi con đi tới tầng tâm thức 96 và cao hơn nữa. Và điều này, thày bảo đảm với con, là một tiến trình mà không ai gian lận được.

15.8. Công nhận giá trị của phàm linh

Thày hiểu rất rõ là khi con nhìn thế giới và chính con xuyên qua phin lọc của một phàm linh tách biệt, thì con nghĩ rằng con có thể khiến thế giới tuân theo con. Khi con tìm cách thay đổi thế giới hay người khác thì mục đích của con là gì? Con đang tìm cách khiến thế giới hay người khác công nhận giá trị của cái ngã tách biệt của con, phàm linh tách biệt của con. Vì con nghĩ rằng – hay đúng hơn, cái ngã tách biệt và tự ngã nghĩ rằng – nếu toàn thể thế giới công nhận sự toàn hảo của phàm linh của con, thì Thượng đế sẽ phải cho phép nó vào Thiên đàng. Nhưng con thấy chăng, đây là ảo tưởng chủ yếu trên con đường tu.

Khi con quá đồng hóa với phàm linh tách biệt và bị nó làm mù quáng, thì con nghĩ rằng phàm linh này có thể lừa Thượng đế. Con nghĩ rằng con có thể khiến Thượng đế, các chân sư thăng thiên, trong đó có các vị Thượng sư, nhìn đời xuyên qua phin lọc nhận thức của phàm linh, nhưng chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra, con yêu dấu. Các thày sẽ không bao giờ công nhận phin lọc nhận thức của con là sự thật. Và các thày cũng sẽ không bao giờ cho phép phàm linh tách biệt được vào cõi cao của các trường bí giáo và các khóa nhập thất ở cõi bản sắc của các thày .

Các thày không ở đây để nâng cao phàm linh tách biệt. Các thày không ở đây để nâng cao cái ngã không thật của con. Các thày ở đây để nâng cao cái ta thật của con. Đây là công việc của các thày. Đây là tình thương của các thày. Các thày có tình thương vô tận và vô điều kiện cho cái ta thật của con.

Các thày cũng có tình thương vô tận và vô điều kiện cho cái ngã không thật của con, và đó là lý do vì sao các thày nhìn thấu tất cả những ảo tưởng của nó. Do đó, các thày sẽ không cho phép các phàm linh tách biệt đem điều kiện của chúng vào cõi tâm linh, cõi của vô điều kiện và vô tận.

Con có thấy chăng, con có thấy chăng đây là cái thật; cái thật mà TA LÀ? Vì TA LÀ Đại thượng sư.

Bị ảnh hưởng bởi tâm thức chết

Bài giảng của chân sư thăng thiên Đại thượng sư qua trung gian Kim Michaels, ngày 6/12/2012.

TA LÀ Đại thượng sư. Trong bài này chúng ta hãy tìm hiểu thêm về tâm thức chết. Thầy cần con nhìn lại cuộc đời mình. Thầy cần con bắt đầu nhận ra là tâm thức chết đã ảnh hưởng con bằng nhiều cách, có khi hiển nhiên, có khi không hiển nhiên. Con có thể nghĩ – và đây là một chuyện thông thường nơi con người trên trái đất, ngay cả những người tâm linh – là tâm thức chết có tính chất thụ động. Con có thể đã tin rằng không còn gì nữa sau khi chết. Chết giống như một giấc ngủ ngàn thu, như quả thực nhiều khoa học gia duy vật đã nói.

Tuy nhiên thày có thể bảo đảm với con là tâm thức chết không phải là một lực thụ động. Nó là một lực cực kỳ hung hãn, nhưng nó thực sự có khả năng ngụy trang, cho nên hầu hết mọi người không nhận ra là họ bị nó tấn công 24 tiếng mỗi ngày, 7 ngày mỗi tuần, 365 ngày mỗi năm trong suốt cả đời họ. Và ngay cả trong tất cả mọi kiếp đầu thai của họ trên hành tinh này, là nơi tâm thức chết ảnh hưởng tất cả mọi thứ, đến độ rất khó tìm được một điều gì không bị nó ảnh hưởng. Do đó, dĩ nhiên là hậu quả sâu sắc và vi tế nhất của tâm thức chết là khi mọi người bị nó bao trùm trong một thời gian quá dài như vậy thì họ không còn một khung tham chiếu (frame of reference) nào cho họ biết là có một cái gì bên ngoài tâm thức chết. Và họ cũng không thấy được cái đó, không kinh nghiệm được nó trong đời sống hàng ngày của họ.

13.1. Kinh nghiệm nội tại về Thánh linh

Đây dĩ nhiên là một chức năng chủ yếu của tôn giáo, hay đúng hơn, của tâm linh. Đó là dẫn con người tới chỗ trải nghiệm trực tiếp Thánh linh (Holy Spirit) từ trong nội tâm, trải nghiệm tâm thức của sự sống, Dòng sông sự Sống. Để con người không những biết bằng trí năng là có cái gì ở ngoài tâm thức chết nhưng thực sự trải nghiệm điều đó. Chỉ khi nào con trải nghiêm có cái gì ở ngoài tâm thức chết, thì con mới thực sự có được một khung tham chiếu. Hiểu biết trí thức không thể chuyển đổi tâm thức của con; con chỉ chuyển đổi tâm thức khi con có kinh nghiệm nội tại trực tiếp là có cái gì vượt quá tâm thức chết.

Do đó, điều đáng lý xảy ra là tất cả các tôn giáo thật phải dẫn con người đi trên một con đường giúp họ tuần tự nâng cao tâm thức qua nhiều mức độ. Trên con đường đó, họ sẽ vứt bỏ một số ảo tưởng của tâm thức chết, cho tới khi rốt cuộc họ trải qua một buổi lễ hay một nghi thức và có kinh nghiệm thoát khỏi trạng thái tâm thức bình thường bị tâm thức chết ảnh hưởng rất nặng, và trải nghiệm cái gì hơn nữa.

Cái hơn nữa này, con cũng có thể nghe thấy trong giọng nói của thày, hay con “nghe” thấy giữa hai giòng chữ khi con đọc bài giảng này. Và con biết qua lời thày giảng là có cái gì hơn nữa, là thày LÀ HƠN NỮA. Con biết là thày hơn tâm thức chết, và vì thày không ở trong tâm thức chết, nên thày không bị bó buộc phài tuân theo nó. Thày hoàn toàn không có ý định tuân theo nó, và thày sẽ không tuân theo nó. Do đó, nếu con có những kỳ vọng mà con phóng chiếu lên thày và bảy vị Thượng sư, là các vị thày tâm linh, thì các thày sẽ không giúp được con, trừ phi con chịu xét lại những kỳ vọng này. Và trừ phi con chịu, như một hành động tiên quyết trong khóa học này, để cho các thày phá tan các kỳ vọng của con bằng cách không làm theo chúng, thách đố chúng, và cố ý vượt lên trên chúng. Con có thấy chăng đây là một điều cơ yếu, một điều hoàn toàn cơ yếu, trên con đường tâm linh? Con không thể tự mình thoát khỏi tâm thức chết một khi con đã bị bao trùm trong nó. Tâm con đã trở thành một hệ thống đóng. Vì tác dụng tối hậu của tâm thức chết là nó là một hệ thống đóng cắt đứt khỏi năng lực ban sự sống của Dòng sông sự Sống, của Thánh linh.

13.2. Từ tách biệt đến duy nhất

Tâm thức chết bao gồm vô số phàm linh giả, vô số phàm linh tách biệt, và chúng không thể nhìn thấy Thánh linh. Nếu chúng thấy và nhìn nhận Thánh linh, thì ngay tức khắc chúng sẽ không còn tồn tại như phàm linh tách biệt. Con yêu dấu, con có thấy điều này chăng? Con có ít nhất thoáng thấy điều này chăng? Con không thể cùng một lúc vừa tách biệt vừa hợp nhất được. Con không thể nào vừa có ổ bánh vừa ăn nó.

Đây là một bước ngoặt cơ yếu trên con đường tâm linh khi con nhận ra là nếu con muốn một cái gì hơn cái con hiện có, thì con không thể tiếp tục ở trong trạng thái tâm thức hiện tại của mình. Con không thể tiếp tục thoải mái nếu con muốn tăng triển tâm linh. Vì tâm thức chết quả thực có thể khiến con người thoải mái đến độ họ tin chắc rằng nếu họ tiếp tục làm những gì họ đang làm ngay lúc này – và tiếp tục tin những gì họ đang tin ngay lúc này, và tiếp tục đi nhà thờ mỗi chủ nhật – thì Thượng đế sẽ giản dị phải cứu rỗi họ và đưa họ lên thiên đàng.

Tuy nhiên, tâm thức chết cũng có thể, lẽ dĩ nhiên, khiến con người vô cùng bất an. Và điều này sẽ xảy ra do định luật thứ nhì của nhiệt động học, chính là vòng xoắn ốc tự củng cố qua đó mọi sự sẽ tự củng cố, cho dù đó là lực tách ra hay bên ngoài cái Duy nhất. Do đó, tâm thức chết sẽ phải trở nên càng ngày càng cực đoan cho tới khi nó khiến con càng ngày càng cảm thấy bất an.

Tuy thế, điều gì cũng có hai mặt alpha và omega, và có người sẽ thoải mái trong khi người khác sẽ trở nên vô cùng bất an. Và dĩ nhiên là những người đang thoải mái sẽ không muốn thay đổi, phải không con? Vì tại sao họ lại phải thay đổi, khi họ đang thoải mái nghĩ rằng một ngày nào đó Giê-su sẽ từ trên trời hiện xuống và cứu rỗi họ? Hoặc là một vị cứu tinh nào khác sẽ tới làm công việc của họ thay cho họ.

13.3. Một phương cách khác với vật lộn

Do đó, sau khi con người đã thoải mái trong một thời gian, thì tất nhiên là sau đó họ sẽ bắt đầu bị cuốn vào vòng xoắn hướng hạ, và vòng xoắn này sẽ gia tăng cường độ cho tới khi họ không còn chịu nổi nữa và nhận ra rằng: “Tôi không thể tiếp tục như thế này, chuyện gì đó phải thay đổi!” Sau đó, họ bắt đầu nhìn sự việc một cách thiết thực, và nói: “Tôi có thể thử kiểm soát thế giới chung quanh tôi, nhưng phải chăng là tôi đã làm chuyện này rồi và chẳng được kết quả gì, chỉ bị kẹt cứng như hiện nay. Tôi cảm thấy chẳng đi được đâu hết và cuộc đời của tôi là một sự vật lộn không ngừng, vì tôi lúc nào cũng phấn đấu chống lại cái gì đó bên trong tôi.” 

Sau đó họ tỉnh ngộ và nói: “Có phương cách nào khác vật lộn này chăng? Có lối sống nào khác việc tìm cách thay đổi một người hay một chuyện bên ngoài mình? À, quả thực là có. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi quyết định nhìn vào tấm gương và lấy cái đà ra khỏi mắt mình và thay đổi tâm thức của mình?”

Khi con tới điểm đó thì con nhận ra là con không thể thay đổi tâm thức của mình mà vẫn thoải mái và tiếp tục tin những gì con đang tin ngay lúc này.  Bất kể những niềm tin và mong đợi mà con có về cuộc đời, về tâm linh, về tăng triển tâm linh, và về các chân sư thăng thiên, con không thể tiếp tục duy trì chúng và đồng thời tiến bộ trên con đường tu. Con có hiểu điều thày đang nói chăng?

Có nhiều người đã biết đến các chân sư thăng thiên từ mấy chục năm nay, đã học giáo lý và thực hành các nghi thức. Nhưng nhiều người trong số đó chưa bước lên con đường tu thực sự vì họ vẫn quan niệm con đường tu của các chân sư thăng thiên là một con đường vỏ ngoài, tức là họ làm một số chuyện vỏ ngoài và học giáo lý vỏ ngoài nhưng không cần nhìn vào chính họ. Họ cho rằng họ không cần thực sự thay đổi tâm thức của họ. Và do đó, đây vẫn là tâm thức chết. Con có thể biết các chân sư thăng thiên, con có thể học giáo lý của các thày và thực tập các nghi thức của các thày, nhưng con vẫn ở trong tâm thức chết.

13.4. Hạt Ngọc trai Quý giá

Con có thể nghĩ mình đã đi trên con đường tu hàng mấy chục năm, nhưng con vẫn có thể ở trong tâm thức chết. Và con sẽ tiếp tục ở trong tâm thức chết cho tới khi con làm điều mà thày đã nói trong các bài giảng trước, và nhận ra rằng con đang nhìn mọi chuyện xuyên qua một phin lọc nhận thức và phin lọc nhận thức này bị ảnh hưởng bởi tâm thức chết. Và cách duy nhất để con tăng triển vượt qua mức tâm thức hiện tại của mình là con sẵn sàng để cho một vị thày tâm linh chất vấn phin lọc nhận thức đó. Vị thày này không ở trong hộp tư duy của con và cũng không ở trong tâm thức chết. 

Đây là điều mà các thày, các Thượng sư của bảy tia sáng, có thể cống hiến cho con. Các thày có thể cho con một khung tham chiếu. Các thày có thể hứa với con là các thày sẽ chất vấn một cách có hệ thống những kỳ vọng của con. Các thày sẽ chất vấn sự thoải mái của con. Các thày sẽ chất vấn tâm thức chết. Và nếu con sẵn sàng gắng chịu được chuyện này thì các thày có thể giúp con. Và nếu con không sẵn sàng gắng chịu được chuyện này, các thày sẽ không thể giúp con. Nếu con không sẵn sàng chịu đựng thì các thày sẽ không giúp được con. Lúc đó con sẽ phải đi nơi khác. Hoặc con tiếp tục ở lại chỗ cũ, và hoàn toàn tin tưởng là con đang tu đúng và một ngày nào đó – bỗng nhiên – con sẽ thăng thiên.  

Nhưng thày có thể cho con biết là có người đã trong nhiều kiếp chờ đợi giây phút bỗng nhiên đó mà vẫn chưa thăng thiên. Và do đó, lý do các thày đã thăng thiên chính là vì các thày đã ngừng không chờ đợi giây phút bỗng nhiên đó, các thày đã ngừng không đi tìm cây gậy thần và thay vào đó bắt đầu nhìn vào chính mình. Khi con sẵn sàng thì các vị thày thật trong số các chân sư thăng thiên sẽ hiện ra trong đời con dưới hình thức này hay hình thức khác – có thể bắt đầu bằng một quyển sách, hay một giáo lý vỏ ngoài – nhưng sau đó sẽ trực tiếp ở trong tim con. Lúc đó con sẽ nghe tiếng các thày, cảm nhận các thày, cảm nhận sự hiện diện của các thày, cảm nhận sự rung động của các thày.

Và khi con cảm nhận sự rung động của một vị chân sư thăng thiên là lúc con đạt được một khung tham chiếu vượt lên trên ngôn từ và vượt lên trên mọi chuyện có thể viết vào một quyển sách. Đó thực sự là một cơ hội vô giá, là Hạt Ngọc trai Quý giá, giúp con vươn lên cao hơn và hòa điệu tâm thức của mình với rung động của các thày. Và qua đó con cho phép các thày nâng con lên, để con có thể vươn lên trên tâm thức chết. 

13.5. Tâm thức chết là một lực hung hãn

Nếu con nhìn lại cuộc đời mình thì con sẽ thấy là tâm thức chết đã ảnh hưởng con bằng nhiều cách. Con hãy nhìn hình thức rõ rệt nhất là hành động vật lý bên ngoài. Khi con là một trẻ thơ, có phải chăng là con có từng bị các trẻ em khác trêu ghẹo? Có phải chăng là con có từng bị bao vây? Có phải chăng là con có từng bị trẻ em khác tìm cách dọa nạt con hay tấn công con? Đó là những thí dụ của sự hung hãn của tâm thức chết.

Lẽ dĩ nhiên con cũng có thể thấy điều này trên bình diện rộng lớn hơn. Tội ác, tỷ dụ như có ai muốn chiếm đoạt tài sản hay giết hại con, đều là biểu hiện của tâm thức chết. Trên bình diện lớn hơn nữa là các nhà cầm quyền muốn đàn áp chính dân mình hay chinh phục các nước khác. Cả nền văn hóa chiến tranh đã có mặt trên hành tinh từ rất lâu cũng vậy.  Tại sao con phải lớn lên lo sợ là có hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử do ai đó bấm nút phóng lên và bay tới tiêu diệt con và toàn thể quốc gia của con? Đó là biểu hiện của tâm thức chết. Nỗi sợ hãi chiến tranh, sợ hãi tai ương, là biểu hiện của tâm thức chết.

Do đó, con biết là suốt đời con, con đã bị tâm thức chết ảnh hưởng dưới nhiều hình thức. Nếu con lớn lên ở các nước Tây phương – là một phần tân tiến hơn, văn minh hơn, giàu có hơn của thế giới – thì có thể con không tiếp cận những biểu hiện thấp của tâm thức chết, nhưng chắc chắn là con cũng biết đến chúng. Và con biết đó là tâm thức chết vì nó hiển nhiên là một lực hung hãn. Và điều thày muốn nói với con là quả thực tâm thức chết là một lực hung hãn.

13.6. Cảm thấy mình hơn người khác

Như vậy, con sẽ thấy ở đây một điều rất giản dị. Thày đã giảng về 144 tầng tâm thức. Thày có nói là giữa tầng 48 và 96, con đi theo con Đường của Bảy Tia sáng, con Đường của Bảy bức Màn. Thày cũng có giảng là con có thể đi xuống dưới tầng 48, xuống tầng 47 và dưới hơn, bằng cách tha hóa bảy tia sáng.

Khi con nhìn vào những người đã đi vào tiến trình tha hóa này, thì con thấy ở các tầng cao nhất, ở tầng 47 hay dưới hơn, những người đó đã tha hóa Tia thứ Nhất. Ở các tầng kế tiếp con có những người đã tha hóa Tía thứ Nhất và Tia thứ Hai. Và dĩ nhiên là ở các tầng thấp nhất là những người đã tha hóa tất cả bảy tia sáng. Đó là những người đã trở nên càng ngày càng hung hãn, càng ngày càng tự tin là họ đúng, càng ngày càng sẵn sàng đàn áp và kiểm soát người khác bằng nhiều cách.

Điểm tương đồng nơi những người ở dưới tầng tâm thức 48 là họ có khuynh hướng tách mình ra khỏi người khác. Họ thích tự đặt mình vào một thành phần riêng biệt, đặc biệt hơn và cao cấp hơn người khác. Con có thể thấy nhiều khía cạnh của khuynh hướng này.

Con có thể thấy điều này nơi một số phong trào chính trị, tỷ dụ những người trong Liên bang Sô viết đã lớn lên tin rằng họ hơn những người sống ở các nước không cộng sản. Con có thể thấy cùng hiện tượng với chế độ Đức Quốc xã. Con cũng có thể thấy điều này nơi nhiều tôn giáo.

Có bao nhiêu người trong số người con biết tin rằng họ hơn người khác vì họ thuộc vào tôn giáo này hay tôn giáo nọ? Hay ngay cả vì họ thuộc vào phong trào tâm linh này hay phong trào nọ, hay ngay cả vì họ biết giáo lý của chân sư thăng thiên mà không ai khác biết đến, và do đó họ hơn những ai không thuộc vào phong trào hay không biết đến giáo lý đó.

Nhưng đó chính là tâm thức chết. Đó là mức độ thấp của tâm thức chết. Đó là chỗ con nghĩ rằng con hơn người khác vì một đặc tính thế gian nào đó. Trong Dòng sông sự Sống con còn không có thì giờ để xem xét người này giỏi hơn người kia vì chuyện này hoàn toàn vô nghĩa. Con luôn luôn chú tâm thăng vượt chính mình và giúp mọi sự sống khác tự thăng vượt.

13.7. Con phải trả giá khi cho mình hơn người khác

So sánh có lợi ích gì đâu? Trong Dòng sông sự Sống không có sự so sánh. Ngay cả ý tưởng điều này tốt hơn hay xấu hơn, cao hơn hay thấp hơn, cũng không có. Làm sao có thể có được khi con biết mọi người đều là một và tất cả đều là biểu hiện của cái Một. Và con quả thực có thể thấy là khi con rơi vào tâm thức nghĩ mình hơn người khác, thì tự động con sẽ phải trả một cái giá, như với mọi thành phần khác của tâm thức chết. Bởi vì khi con đi vào tâm thức chết thì con phải trả một cái giá, con phải gánh chịu hậu quả của việc mình làm. Và cái giá con phải trả là sẽ luôn luôn có điều gì đó mà con phải bù đắp.

Vì con thấy được sự thực vi tế này: cái Ta Biết xuất phát từ bản thể của chính đấng Sáng tạo. Nó biết nó xuất phát từ cái Một, và do đó nếu nó muốn đi vào tách biệt thì nó phải biện minh và giải thích. Đây là cái giá mà con phải trả. Con lúc nào cũng phải duy trì sự biện minh này và khi con đi vào tâm thức muốn mình hơn người khác, thì lẽ dĩ nhiên ngay lập tức con sẽ cảm thấy bị đe dọa bởi những người khác mình, những người có vẻ hơn mình, xét theo một thước đo nào đó mà con đã thiết lập.

Đã có một thời nhiều người ở Hoa Kỳ coi người có nước da màu đen thấp kém hơn người da trắng trên mọi phương diện. Sau đó, khi người da đen bắt đầu tham dự các môn thể thao và chơi giỏi hơn người da trắng thì người da trắng cảm thấy bị đe dọa. Nhưng lẽ dĩ nhiên tâm thức chết lúc nào cũng tìm ra một lối thoát. Nó có thể tạo ra tiêu chuẩn mới để con có thể tiếp tục cảm thấy mình vẫn hơn người khác.

Tuy nhiên, chắc con cũng thấy điều thày muốn nói: đó là con luôn luôn cảm thấy bị đe dọa. Và con phải làm gì để tránh mối đe đọa này? Con phải khóa chặt vào lực hung hãn – đã có mặt trên trái đất từ khi các sa nhân đầu tiên xuống đây – luôn luôn tìm cách phóng chiếu ra ngoài, tìm cách kiểm soát người khác và kềm giữ họ lại bằng cách nào đó. 

Cách thấp nhất để làm việc này dĩ nhiên là dùng vũ lực, kềm tỏa người khác bằng phương tiện vật lý, như con đã thấy nơi các chính quyền độc tài từ thời đế quốc La mã cho tới sau này – và ngay cả trước đó nữa – khi họ tìm cách đàn áp con người bằng vũ lực. Tuy nhiên, những người tâm linh, đa số những người đã mở tâm ra đón nhận bài giảng này, thì đã thăng vượt nhu cầu và ham muốn đàn áp người khác bằng vũ lực.

Nhưng con có thể vẫn còn vài tàn dư của tâm thức đó. Thí dụ, vẫn có người tin rằng cần phải duy trì một quân đội mạnh, như nhiều người dân Hoa Kỳ có khuynh hướng tâm linh nhưng lại tin rằng Hoa Kỳ cần duy trì một quân đội vượt trội đủ sức đi tới bất cứ đâu trên thế giới và chiến đấu cho bất kỳ ý tưởng nào được đề cao. Nhưng con yêu dấu, những điều này cần phải bỏ đi khi con tiến gần hơn tới cái Một. Đúng thực là trên Thiên đường không có quân đội, bất kể những gì đã được ghi trong kinh Khải huyền hay các kinh sách khác cho rằng có một lực hung hãn trên đó. Trên đó chỉ có, như Đại thiên thần Michael đã nói, sự bất di dịch của những người đứng trên Tảng đá của Ki-tô và không thể bị tâm thức phản-Ki-tô lay chuyển.

13.8. Tùng phục tâm thức chết

Điều thày muốn nói là như sau. Các con là những người đã mở tâm ra chịu nghe bài giảng này thì không còn muốn đàn áp hay kiểm soát người khác bằng vũ lực. Các con đã tự nâng mình lên trên nhu cầu dùng vũ lực như là một cái gì chính đáng, ít nhất trên phương diện cá nhân. Tuy nhiên con vẫn có thể còn sót lại một tàn dư tiêu biểu của khía cạnh thấp hơn của tâm thức chết, đó là mong muốn chứng minh người khác sai, muốn chứng minh một số ý kiến sai, muốn thấy người khác bị hạ nhục, vạch trần, hạ bệ hay bị phán xét.

Tâm thức chết là một lực rất, rất hung hãn, và thày muốn con nhìn lại đời mình và nhận ra là ngoài những lực vật lý trực tiếp, thấy rõ, con đã tiếp cận một lực hung hãn vi tế hơn ngay khi con nhập vào tử cung của mẹ con, đã ảnh hưởng xúc cảm và tư tưởng của con. Đó là một phóng chiếu liên tục lên thể tình cảm của con, tìm cách khuấy động và kích động con rơi vào những cảm xúc thấp dựa trên sợ hãi chứ không dựa trên tình thương.

Và cao hơn nữa là một phóng chiếu liên tục lên thể lý trí của con, khiến con rơi vào những suy nghĩ, những khuôn nếp suy nghĩ tạo thành các vòng khép kín khiến tâm của con chạy loanh quanh vì con lúc nào cũng phóng chiếu là sự thay đổi cần phải xảy ra ở ngoài kia, những người khác là người cần thay đổi, ngõ hầu mục tiêu cao cả của con, bất kể con định nghĩa nó thế nào, được hoàn thành.

Đó chính là điều mà thày cần con bắt đầu nhận ra, là con đã tiếp cận lực này trong nhiều nhiều kiếp trên hành tinh này. Con yêu dấu, nó đã tấn công con không ngừng nghỉ. Trong suốt tất cả các kiếp đầu thai của con, nó đã đập vào con, đập vào các luân xa của con, đập vào tiềm thức của con. Cho tới khi, như trường hợp của tất cả chúng ta đã đầu thai vào hành tinh này, con chịu tùng phục nó, con chịu thua, và nói: “Thôi được rồi, tôi chịu đầu hàng để tôi có được chút yên ổn cho phần còn lại của kiếp sống này.” 

Con có nghĩ là các thày là chân sư thăng thiên đã không chịu ảnh hưởng của lực này và đã không tùng phục nó vào lúc nào đó? Con để ý thấy là có một số chân sư đã có những kiếp đầu thai như những nhân vật lịch sử nổi danh và có thể được coi là người xuất sắc hơn người thường. Nhưng con cũng để ý thấy là dù các thày đã có một số kiếp đầu thai như vậy nhưng cũng đã có – nếu con nhìn dòng thời gian một cách đường thẳng và lô-gíc – những lúc đầu thai không nổi danh chút nào.

Nhưng điều đó không có nghĩa là các thày đã không đầu thai. Tất cả các thày đã có rất nhiều kiếp đầu thai như những người hay được coi là bình thường, không có gì đặc biệt. Và thày có thể nói chắc với con là tất cả các thày, trong các kiếp sống đó, đã có lúc phải chịu tùng phục tâm thức chết và lực hung hãn đó. Thày nói điều này vì thày muốn con hiểu là các thày đã trải qua những gì con đã trải qua. Các thày đều hiểu rõ là lực này hung hãn như thế nào, và các thày biết rất khó không tùng phục nó. Thày muốn con hiểu điều này vì thày muốn con nhận ra là các thày hoàn toàn không phê phán hay lên án con.

13.9. Giác ngộ mà không cảm thấy tội lỗi

Các thày hiểu là ở chỗ này lúc nào cũng có một nguy cơ, một nguy cơ cho người thày tâm linh. Cho tới lúc này, con có thể đã sống cả cuộc đời mà không nhận ra các vấn đề mà thày đang nêu ra. Do đó, chuyện gì sẽ xảy ra khi thày nêu lên là con có trong tâm thức con một thành phần của tâm thức chết? Con có thể nhìn vào gương và thấy: “Ồ, tôi đã ở trong tâm thức này, tôi đã bị tâm thức này ảnh hưởng”. Con cũng có thể thấy là con đã cho phép mình trở nên một biểu hiện của tâm thức đó, làm cho người khác một số điều mà họ đã làm cho mình. 

Do đó, điều lúc nào cũng xảy ra là: có một số đệ tử tâm linh thấy ra điều này nhưng ngay tức khắc phủ nhận nó. Và điều này sẽ cản trở sự tiến bộ của họ. Có một số khác chịu nhìn vào những khuyết điểm của mình, nhưng lại quá sốt sắng khiến họ tự lên án mình và cảm thấy tội lỗi. Điều này cũng sẽ cản trở sự tiến bộ của họ.

Con có thấy điều thày muốn nói chăng? Tâm thức chết tìm cách tạo ra thế kẹt cứng khiến các thày, là các vị thày tâm linh chân chính, không thể nâng con lên được. Khi các thày giúp con nhận ra tâm thức chết, thì tâm thức chết sẽ dùng điều đó để kềm con lại trên con đường tu, để hạ thấp con xuống, hay dụ dỗ con phủ nhận, để rồi con không thực sự vượt lên trên tâm thức chết được.

Và đây dĩ nhiên không phải là điều mà thày và các Thượng sư mong muốn. Các thày muốn con nhìn nhận một cách công khai, tự do và có ý thức là có tâm thức chết trên hành tinh này. Nhưng các thày không muốn con phủ nhận nó hay cảm thấy tội lỗi, vì điều đó sẽ cản trở sự tiến bộ của con. Vì quả thực cả hai thái độ phủ nhận lẫn cảm thấy tội lỗi đều là biểu hiện của tâm thức chết. Con không thể vượt qua tâm thức chết bằng cách dùng tâm thức chết. Thày hy vọng là điều này đã hiển nhiên cho những ai đã mở tâm đón nhận các bài giảng này của thày.

Vậy con đừng có thái độ phủ nhận. Con cũng đừng cảm thấy tội lỗi và lên án mình. Con không tệ hơn bất cứ ai khác đã từng đầu thai trên hành tinh này. Hành tinh này là một hành tinh đen tối nơi tâm thức chết rất mạnh. Và điều giản dị là không thể đầu thai trên hành tinh này mà không tùng phục hay thỏa hiệp với tâm thức chết một cách nào đó. Chưa từng có ai đầu thai ở đây mà không bị ảnh hưởng bởi tâm thức chết. Con có thể nghĩ, tùy theo truyền thống tôn giáo của con, là Giê-su, Phật hay Krishna không tùng phục tâm thức chết. Nhưng thày nói con, ba vị này đều đã từng có những tiền kiếp trong đó họ tùng phục tâm thức chết. 

13.10. Vượt lên trên tâm thức chết

Con có hiểu chăng là con giản dị không thể nào đầu thai ở đây mà không tùng phục tâm thức chết một cách nào đó, vì nếu không thì dòng sống của con, cái Ta Biết của con, không thể nhập vào một thân thể vật lý trên một hành tinh như trái đất này? Điều này không thể xảy ra được.

Vậy điều thày nói ở đây là: con hãy quên đi sự kiện là con đã vào tâm thức chết. Con đừng cảm thấy tội lỗi. Con đừng phủ nhận điều đó. Nó không quan trọng. Đó là một sự kiện. Con không thể nào nhảy vào biển mà không bị ướt. Con đừng vì thế mà cảm thấy tội lỗi. Con đừng bơi trong biển và nói: “Tôi không bị ướt, tôi không bị ướt!” Con hãy chấp nhận sự kiện con đã chịu tùng phục tâm thức chết và mọi người đều đã làm như thế, nhưng bây giờ đã đến lúc con quay lại và nói:

“Con đồng ý rồi, con thấy rồi, con chấp nhận rồi, bây giờ làm sao con vượt qua nó? Đại thượng sư, bảy vị Thượng sư, các thày hãy chỉ đường cho con. Con sẵn sàng vươn lên trên tâm thức chết. Con nhận ra rằng ngay bây giờ con không thấy được con đã bị tâm thức chết ảnh hưởng như thế nào. Con muốn thày dạy con. Con muốn thày chỉ cho con thấy. Con muốn lên cao hơn. Và con sẵn sàng nhìn vào chính mình và nhìn vào những kỳ vọng, những hình tư tưởng và phin lọc nhận thức của con. Và con sẵn sàng để thày chất vấn chúng. Có thể là con chưa đủ sức để thày chất vấn chúng cùng một lúc, nhưng con sẵn sàng để thày chất vấn từng mảnh một, để con có thể dần dần lên cao hơn trong khi vẫn giữ được sự liên tục của ý niệm mình là ai.”

Con yêu dấu, con đang đọc hay nghe bài giảng của thày. Con đang trải nghiệm bài giảng của thày xuyên qua phin lọc nhận thức mà con đang có ngay bây giờ. Thày biết điều này. Thày thấy điều này. Thày không ở trong phin lọc nhận thức của con. Thày không có một phin lọc nhận thức dựa trên tâm thức chết. Đó là lý do vì sao thày là một chân sư thăng thiên.

Do đó, thày thấy rất rõ những khó khăn mà con phải đương đầu. Thày không chờ đợi con tỉnh giác và đập tan phin lọc nhận thức trong một khoảnh khắc. Bởi vì tất cả chúng ta, khi còn đang đầu thai, đã tạo nên một cái ta cho chúng ta, không những một ý niệm bản sắc mà còn một ý niệm liên tục. Do đó, nếu con đột nhiên rũ bỏ ý niệm bản ngã đó, con sẽ bị khủng hoảng trầm trọng vì không biết mình là ai nữa, và sẽ gần như chắc chắn phải vào bệnh viện tâm thần vì con không còn biết sinh hoạt trong đời nữa. Và lẽ dĩ nhiên các thày không muốn thấy đệ tử phải vào bệnh viện tâm thần, hay quyết định rút lui khỏi thế gian vì không còn khả năng sinh hoạt trong đời.

13.11. Tâm linh trong Thời đại Bảo bình 

Con thấy chăng, các chân sư thăng thiên không khuyến khích các đệ tử rút lui khỏi thế gian, rút lui khỏi đời sống năng động. Các thày khuyến khích các con vừa đi trên con đường tâm linh vừa gia nhập cuộc sống trên hành tinh này. Các thày muốn con chứng minh lối sống này, vì đây là đặc tính tâm linh của Thời đại Hoàng kim của Saint Germain. Trong Thời đại Song ngư, một mẫu đồ khả thi là có một số người rút lui khỏi thế gian, sống ẩn tu trong hoang vu như Giê-su đã làm, hay trong hang động Hi Mã Lạp Sơn, và chú tâm trở về nội tâm và thiền quán về Thượng đế, vì như vậy họ có thể giữ cán cân tâm linh cho đa số. Nhưng mẫu đồ tu này không còn áp dụng trong Thời đại Bảo bình. Thời đại Bảo bình là thời đại của Thánh linh, và Thánh linh tuôn chảy xuyên qua nhiều người. Đây cũng là thời đại của cộng đồng trong đó con tham gia vào đời sống.

Và khi các con nghe nói là thời Hoàng kim là thời đại của cộng đồng thì con đừng hiểu lầm. Các thày không nói tới việc tạo dựng một tôn giáo mới sẽ là tôn giáo uy thế nhất trong Thời Hoàng kim. Đây không phải là viễn quan của các chân sư thăng thiên, vì các con đã thấy là trong Thời đại Song ngư đã có các tôn giáo giành độc quyền: “Chúng tôi là tôn giáo chân chính duy nhất. Chúng tôi là tôn giáo duy nhất có thể đưa quý vị lên Thiên đàng”. Do đó, họ tìm cách kéo mọi người vào tôn giáo của họ, và họ tìm cách mô tả tất cả các tôn giáo khác là giả. Các con có thấy chăng đó chỉ là một biểu hiện của tâm thức chết mà thày đã nói tới, nó muốn con cảm thấy mình hơn người khác? Đây không phải là mẫu đồ của Thời đại Bảo bình. 

Cộng đồng có nghĩa là tụ họp trong tình thần hợp nhất. Làm sao con có thể hòa hợp trong hợp nhất khi con muốn đứng riêng ra? Con có thể nghĩ là mình đang hòa hợp với một nhóm nhỏ. Nhưng cái giá con phải trả là con sẽ tách mình rất xa khỏi người khác. Và thày có thể nói một cách chắc chắn tuyệt đối là trong những tôn giáo hay phong trào tâm linh có tâm thức này – tự cho mình là tôn giáo chân chính duy nhất và do đó hơn tất cả các tôn giáo khác – ngay cả tín đồ của họ cũng không thể hòa hợp được. Làm sao họ có thể hòa hợp khi văn hóa cơ bản của phong trào dựa trên sự chia rẽ? Làm sao con có thể làm vậy được?

Con cũng có thể, nếu con xem xét một cách trung thực, nhìn vào các phong trào chân sư thăng thiên và đệ tử chân sư thăng thiên và thấy là các đệ tử đã không hòa hợp được. Đó chính là vì tổ chức hay văn hóa, giống như biết bao nhiêu tôn giáo và phong trào tâm linh khác, đã dựa trên tinh thần tách mình ra khỏi người khác. Vì vậy điều các thày mong muốn trong Thời đại Bảo bình là các đệ tử hòa hợp trong hợp nhất với cộng đồng rộng của toàn thể nhân loại bằng cách đóng vai trò tích cực trong xã hội, đồng thời chứng minh tính chất tâm linh của mình.

13.12. Tách ra khỏi tâm thức chết

Do đó, con có thấy chăng đây lại là một thách đố tinh vi của tâm thức chết? Thày cần các con nhận ra là mình đã tiếp cận tâm thức chết. Thày cần các con quyết định là con muốn tách ra khỏi tâm thức chết. Trong tiến trình này, con sẽ trải qua một giai đoạn con phải tách mình ra khỏi những người đang ở trong tâm thức đại chúng. Khi đi qua tiến trình này, con sẽ phải trải qua một giai đoạn mà con phải tách mình ra khỏi tất cả những người đang ở trong tâm thức đại chúng. Giống như câu của Thánh kinh: “Tách riêng ra và trở thành một nhóm người tách biệt và được chọn lựa, đã chọn Thượng đế”. Bởi vì các con đã chọn vươn lên một lý tưởng cao hơn những gì người trong tâm thức đại chúng có thể thấy.

Do đó, con cần tách riêng ra để có thể lên cao hơn. Nhưng thày muốn con biết ngay từ khởi đầu là mục đích tối hậu không phải là con tiếp tục tách mình riêng ra. Nhưng con sẽ tới một điểm khi con đã tách mình đủ ra khỏi tâm thức chết và không còn bị nó kéo xuống hay làm mù quáng. Đó là lúc con không còn ở trong hang núi nữa mà bước ra ngoài xã hội, tích tực tham gia vào xã hội và thể hiện tâm thức sống. Và có thể con đã tới chỗ con có thể sống một đời sống tích cực mà vẫn biểu lộ được tâm linh của mình.

Cái mà thày đề nghị giản dị là giúp con tự giải thoát thêm khỏi tâm thức chết để con có thể biểu lộ tâm linh của mình rõ hơn nữa. Với những ai chưa tới chỗ này thì thày đề nghị con tách ra, đứng qua một bên; không phải là tự xé banh mình ra – tuy rằng tự ngã của con sẽ cảm thấy nó đang bị xé banh ra, đang bị phá vỡ ra từng mảnh. Bởi vì các thày là thày tâm linh có thể làm gì được khi tự ngã tin rằng nó biết tất cả và nó nắm tất cả trong tầm kiểm soát của nó dựa trên hệ thống niềm tin này hay hệ thống niềm tin nọ? Các thày phải phá vỡ nó, các thày cần phá vỡ nó từng mảnh một, bởi vì con không thể chế ngự toàn thể nó cùng một lúc. 

Do đó, con cần thấy được là: “À, đây là một mảnh của nó. Hôm nay tôi thấy được mảnh này. Hôm nay tôi có thể chế ngự phần này. Tôi không cần quan tâm đến phần còn lại ngay bây giờ, bởi vì tôi biết mình đã tiếp cận được với một vị thày tâm linh thật, vị này thấy được toàn bộ và có thể dẫn tôi đi từng bước một, theo các nấc thang vòng xoắn ốc của con đường tâm linh cho cá nhân tôi.”

Điều thày muốn nói trong bài giảng này là: con hãy bắt đầu suy ngẫm về việc con đã tiếp cận tâm thức chết là một lực hung hãn tấn công những cảm xúc và tư tưởng của con, tạo ra những vòng luẩn quẩn, hay đúng hơn là những vòng xoắn đi xuống, hút tư tưởng, cảm xúc, năng lượng tâm lý của con vào những khuôn nếp tưởng chừng không thoát ra được. Thày cần con bắt đầu nhận ra một số các khuôn nếp mà con nhìn thấy được, và sau đó, khi thày và các Thượng sư dẫn con đi lên các nấc thang của bảy bức màn, bảy tia sáng, các thày sẽ giúp con thấy thêm nữa.

Nhưng ngay lúc này thì thày cần con nhận ra một khuôn nếp. Con có nhận ra trong con có sự mong muốn tách mình ra khỏi người khác và mong muốn cảm thấy mình hơn người bằng cách thấy người khác bị chứng minh là sai, hay những gì họ tin bị chứng minh là sai? Con có thấy điều này không? Con có thấy là con đã bị nó ảnh hưởng chăng? Con có thấy là con đã tự mình tham dự vào việc này bằng cách nào đó? Và nếu con có làm, thì con hãy nhìn nhận điều đó. Con hãy tìm cách có ý thức hơn về nó, và thày sẽ khai triển thêm trong bài giảng tới của thày.

Tâm thức chết

Bài giảng của chân sư thăng thiên Đại thượng sư qua trung gian Kim Michaels, ngày 5/12/2012.

TA LÀ Đại thượng sư, và hôm nay thày đến đây để cho các con một bài giảng về tâm thức chết, và làm sao con có thể bắt đầu tạo nên một phương cách tốt hơn để phản ứng lại nó, hay đúng hơn, để ngưng không phản ứng lại nó. Vì dĩ nhiên điều mà tâm thức chết mong muốn nhất là dụ con phản ứng, tương tác với nó, và thậm chí là đánh nhau với nó hay tìm cách diệt trừ nó.

Điều này dĩ nhiên hoàn toàn trái ngược với Thánh linh, là Tánh linh của sự Sống, không muốn con đánh nhau, không muốn con chống đối, không muốn con tiêu diệt bất cứ ai, bất cứ vật gì hay coi rẻ bất cứ phần nào của sự sống. Thánh linh muốn con tuôn chảy với Tánh linh, tuôn chảy với sự sống, vì Tánh linh chính là sự sống. 

Vì như thày đã giảng, quả thực là trong tất cả các bầu cõi trước – và trong thời gian rất dài từ lúc bầu cõi của con được thành hình – nỗ lực gộp chung của tất cả các sinh thể có tự nhận biết đã thăng vượt chính họ và trở nên hơn nữa, đã tạo thành dòng chảy hướng thượng của Thánh linh. Đó chính là Dòng sông sự Sống kéo mọi thứ theo nó. Và quả thực là cả trái đất cũng được kéo theo dòng chảy của Thánh linh.

11.1. Dòng sông sự Sống không bao giờ đứng yên

Chắc con cũng biết, nếu con suy nghĩ sâu về vấn đề này, là trái đất không chỉ đi vòng quanh mặt trời theo một quỹ đạo hình bầu dục, và do đó trở lại điểm khởi đầu mỗi khi nó đi xong một vòng quay. Vì con phải biết là toàn thể vũ trụ đang nới rộng ra và các thiên hà mỗi ngày tách xa nhau hơn. Điều này có nghĩa là mặt trời của các con không đứng yên trong vũ trụ. Mặt trời di động theo một đường, và đường này không phải là đường thẳng.

Như thế có nghĩa là mặt trời di động và kéo theo các hành tinh với nó, quả đất đang di động theo một quỹ đạo hình bầu dục chung quanh mặt trời, thì quả đất không đứng yên trên quỹ đạo, và quỹ đạo không đứng yên. Mặt trời di động, vì vậy quả đất di động trong không gian theo một con đường giống như một vòng xoắn, một vòng xoắn rất phức tạp, nhưng tuy vậy vẫn có thể mô tả được bằng toán học. Trong một thời gian không xa nữa, con đường này sẽ được mô tả bằng toán học. Điều này sẽ mở ra thêm nhiều khám phá khoa học quan trọng mới, nhưng đây không phải là đề tài của bài giảng này.

Điều con cần nhận ra giản dị là: Dòng sông sự Sống là một dòng chảy liên tục, lúc nào cũng tuôn chảy. Không có gì trong Dòng sông sự Sống đứng yên. Nhưng con cũng nên để ý là Dòng sông sự Sống không chỉ đơn giản chuyển động theo quan niệm chuyển động mà con có khi con quan sát vũ trụ vĩ mô qua giác quan. Theo quan niệm này con có thể dời từ một điểm này sang một điểm khác, nhưng con vẫn giống như trước. Nhưng đây không phải là loại chuyển động con tìm thấy trong Dòng sông sự Sống. Vì với Dòng sông sự Sống, sự chuyển động luôn thăng vượt chính nó.

Nó không phải chỉ di động theo đường ngang và vẫn giống y nguyên như cũ. Trong Dòng sông sự Sống con thăng vượt, con tăng triển, con gia tốc, con nhân gấp bội năng khiếu của mình và con trở nên hơn nữa. Và đây là tinh túy của tâm thức sống, tâm thức của sự sống, Dòng sông sự Sống.

11.2. Tâm thức chết là gì?

Bây giờ, con giữ ý niệm này trong đầu và nghe thày cho con một bài giảng cô đọng về tâm thức chết:

(15 giây im lặng)

Vậy là con vừa nếm được thế nào là tâm thức chết. Vì tâm thức chết là điều con trải nghiệm trong khoảng yên lặng đó. Vì dĩ nhiên, khi con đang đọc hay nghe bài giảng này, sau câu mở đầu của thày, con chờ đợi có cái gì đó tiếp theo, một lời giảng, một hình ảnh, một mô tả nào đó về tâm thức chết. Do đó, khi sự chờ đợi của con không được đáp ứng vì có khoảng yên lặng, con có một phản ứng trong tâm, phải không con?

Phản ứng đó, nếu con xem xét nó, nếu con quan sát nó, thì con sẽ thấy nó thuộc về tâm thức chết. Bởi vì, con chờ đợi gì? Con đang hòa điệu cùng nhịp giảng của thày và thày cho con hiểu là thày sắp mô tả tâm thức chết. Do đó, trong tâm con có một sự chờ đợi. Nếu con suy nghĩ kỹ, con có thể thấy là tâm thức chết có hai khía cạnh.

Thứ nhất là có cái biết đằng sau tâm thức chết là cuộc sống là một tiến trình liên tục không ngừng. Sâu thẳm trong bản thể của con, con biết ý nghĩa của sự sống là Dòng sông sự Sống không ngừng thăng vượt chính nó. Đây là một cái biết nội tại đến từ sự kiện cái Ta Biết là một nối dài của Hiện diện TA LÀ, là một nối dài của các chân sư thăng thiên, đi ngược trở lên tới tận đấng Sáng tạo.

Đấng Sáng tạo đã tạo ta các phần nối dài của ngài chính là để cho chúng cơ hội gia tốc ý niệm tự nhận biết của chúng. Vì vậy, đó chính là mục đích cao nhất của sự có mặt của con: gia tốc sự tự nhận biết của mình và tuôn chảy với Dòng sông sự Sống. Do đó, con không thể – dù con có thể làm mờ nhạt khả năng ý thức của mình – con không thể trốn tránh cái biết nội tâm là cuộc sống là một tiến trình liên tục, cuộc sống được tạo ra như một tiến trình liên tục.

Do đó tâm thức chết không thể nào hoàn toàn vứt bỏ cái biết nội tâm này. Nó có thể che phủ nó, nó có thể ngụy trang nó, nó có thể làm lệch hướng nó. Nhưng nó không thể hoàn toàn dập tắt tiếng nói của cái biết nội tâm là cuộc sống được tạo ra như một tiến trình liên tục không ngừng.

Nhưng bây giờ tâm thức chết có thể làm gì? Nó có thể khiến con tạo ra sự chờ đợi là tiến trình này phải như thế nào, bước kế tiếp phải đi tới chỗ nào, và đi tới mục đích tối hậu nào. Tâm thức chết có thể làm điều này, nhưng nó làm bằng cách nào? 

11.3. Bị lệch hướng bởi cái chết

Tâm thức chết chỉ làm được điều này vì nó chính là sự kháng cự chống lại cái liên tục không ngừng của Dòng sông sự Sống. Khi con kháng cự cái liên tục không ngừng của Dòng sông sự Sống, thì con tạo ra một khoảng cách, một khoảng không, giữa điểm con đang ở và điểm con ở nếu con theo Dòng sông sự Sống. Trong khoảng cách, khoảng không đó có chỗ trống để con tạo nên sự chờ đợi là sự sống phải như thế nào và phải đi về đâu. Để minh họa điều này bằng một thí dụ từ đời sống hàng ngày trên trái đất, con hãy hình dung những người đi xem một trận đấu thể thao mỗi ngày Thứ Bảy, một trận đá banh hay môn gì khác. Trước khi con đi dự trận đấu, con có một sự chờ đợi, một hy vọng là chuyện gì sẽ xảy ra và chuyện gì sẽ không xảy ra. Con muốn đội của con thắng. Đó là mục đích tối hậu mà con muốn đạt được. Trong thời gian trước trận đấu, con khấp khởi chờ trận đấu bắt đầu, và nói: “Bây giờ tôi phải làm chuyện này để sẵn sàng, bây giờ tôi phải làm chuyện kia để sẵn sàng, bây giờ tôi phải tới chỗ này để đậu xe và đi vào cầu trường, vân vân và vân vân.”

Do đó, lúc nào cũng có khoảng cách giữa con và trận đấu, con cố gắng đoán trước chuyện sắp xảy ra, con chờ đợi chuyện gì con muốn xảy ra và chuyện con hy vọng sẽ không xảy ra. Rất có thể con ngồi xem trận đấu mà vẫn bị quá vướng bận bởi sự chờ đợi của mình và không còn thưởng thức trận đấu nữa, cho tới khi nó chấm dứt và con biết là đội của con đã thắng hay không. Rất có thể là con ngồi nhìn từng pha của trận đấu, hy vọng đội kia không làm bàn, hy vọng đội nhà làm bàn.

Nhưng điều thày muốn chỉ cho con thấy là cũng có những lúc, khi người khán giả chỉ giản dị xem trận đấu và bị hoàn toàn thu hút bởi trận đấu, thì họ có thể tuôn chảy với trận đấu. Và lúc đó họ quên đi sự chờ đợi là chuyện gì phải xảy ra hay không được xảy ra. Cũng có thể là họ quên không nghĩ tới mục đích tối hậu là ai thắng, vì họ thưởng thức tiến trình của trận đấu.

Quả thực đây là dịp để nhiều người, mỗi ngày Thứ Bảy, được thoáng thấy Thánh linh khi họ bị thu hút bởi một trận tranh tài thể thao, tuy bình thường họ không thể nào hòa điệu được với Thánh linh. Dĩ nhiên, đây không phải là cách cao nhất để hòa điệu với Thánh linh. Nhưng khi con bị thu hút vào một việc gì, thay vì đứng tách rời ra và nghĩ về nó – tức là trải nghiệm nó xuyên qua cái trí, phin lọc của cái trí, và các sinh hoạt, chờ đợi và hình tư tưởng của cái trí – thì đó cũng phần nào là hòa điệu với Thánh linh.

Bởi vì khi con tuôn chảy với Dòng sông sự Sống, trong kinh nghiệm sống của con đâu là chỗ để con đút vào những chờ mong, sợ hãi, lo lắng, quan tâm và phê phán muốn chuyện này phải xảy ra và chuyện kia không xảy ra? Con yêu dấu, không có chỗ trống đó vì con đang tuôn chảy theo Dòng sông sự Sống.

11.4. Vượt lên trên nhu cầu phán xét

Phải, thày cũng hiểu là có khi con cần lên kế hoạch và tiên đoán chuyện sắp xảy ra. Nhưng đây là chuyện khác. Có một sự khác biệt tinh tế giữa việc tiên đoán chuyện sắp xảy ra, lấy quyết định tỉnh trí và hợp lý và việc ngồi yên đánh giá mọi sự dựa trên một thang giá trị về điều gì phải xảy ra hay không được xảy ra, về điều gì đúng hay không đúng, về điều gì tốt hay xấu – và những quan tâm khác mà con người có trong tâm mình.

Con yêu dấu, thày muốn con lưu ý một khía cạnh của tâm thức chết, đó là khuynh hướng cho rằng con phải phán xét, phân tích và đánh giá tất cả mọi chuyện đang xảy ra chung quanh mình – người khác đang làm gì và nói gì, chuyện gì đang xảy ra trên thế giới, người này hay người kia đang làm gì, những người nổi danh đang làm gì hay đang không làm gì, họ cưới ai hay không cưới ai, và những chuyện tương tự.

Thày không muốn nói là con không nên theo dõi những chuyện xảy ra chung quanh mình. Nhưng một lần nữa, có sự khác biệt tinh tế giữa nhận biết mà không phán xét, và trạng thái lúc nào cũng phán xét, chỉ trích, đánh giá điều này tốt điều kia xấu. Sau đó coi rẻ những gì được coi là xấu vì tự ngã thích cảm giác nó không thể nào xấu như các người xấu nếu nó không làm những gì người xấu đang làm.

Nhưng con thấy chăng, đây không phải là Dòng sông sự Sống. Bởi vì lúc đó con ở trong một khoảng cách, và trong khoảng cách đó có đủ loại ý kiến, phán xét, đánh giá đúng sai, mong chờ. Điều này khiến con xa rời sự sống. Con không còn hoàn toàn tiếp cận tiến trình sự sống. Con không còn thực sự vui hưởng cuộc sống, vui hưởng nhìn nó trải bày ra. Và đây không phải là tiềm năng cao nhất của con.

Vì làm sao con có thể hoàn toàn sáng tạo, nếu con không theo lời gọi của Giê-su là hãy trở nên trẻ thơ vì chúng có thể vào nước Trời, vì nước Trời là trạng thái tâm thức khi con trôi theo dòng chảy của sự sống. Con có thấy là tâm thức chết muốn con lúc nào cũng đang phê phán chính mình và hành vi của mình, dáng vẻ mình ra sao, mặc quần áo trông thế nào, và những thứ tương tự.

11.5. Tiêu chuẩn chết

Điều tâm thức chết đã làm là dựng lên một tiêu chuẩn thế gian cho rằng làm người thì phải như thế nào. Ngay từ khi con còn trong bụng mẹ, con đã bị lập trình để sống một cách vô thức (và sau này có ý thức) theo bất kỳ tiêu chuẩn nào đã được nền văn hóa của con quy định. Con đã tới chỗ nghĩ rằng muốn trở thành một người tốt thì con phải đạt được tiêu chuẩn đó.

Do đó khi con tìm ra con đường tâm linh và giáo pháp của các chân sư thăng thiên, con lại đem – một cách vô thức – lối suy nghĩ đó áp dụng lên giáo lý của các thày. Con nghĩ rằng cách con tuân thủ giáo lý của các chân sư thăng thiên, cách con tới gần sự thăng thiên, là con phải trở nên một người tâm linh tốt sống theo một tiêu chuẩn nào đó. Tiêu chuẩn này có thể không giống y hệt tiêu chuẩn của gia đình hay xã hội của con, nhưng nó vẫn là một tiêu chuẩn vỏ ngoài mà con đã đem vào trong tâm vỏ ngoài của con. Và con dùng cái trí vỏ ngoài để đánh giá liên tục mọi hành động của mình: “Điều này có đúng không? Tôi sống như vậy có được không? Tôi có thực sự là người tâm linh nếu tôi làm điều này chăng? Nếu tôi nói điều này, mọi người có sẽ phê phán tôi là người không tâm linh chăng?”

Con có thấy chăng là trong tâm con có một khoảng cách nơi đó có một quan tòa đang ngồi và phán xử mọi hành động, lời nói và ngay cả suy nghĩ và cảm xúc của con. Con yêu dấu, quan tòa đang ngồi phán xử các ý tưởng và cảm xúc sâu kín nhất của con là ai vậy?

Ấy, nhiều người tin đạo phóng chiếu quan tòa đó hoặc là ác quỷ hoặc là Thượng đế. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên lại phóng chiếu đó là các chân sư thăng thiên. Nhưng con ơi, chỉ có một người biết các ý tưởng sâu kín nhất của con, đó chính là con.

Thày là Đại thượng sư. Thày là một chân sư thăng thiên, thày có tự do của Thượng đế. Thày không ngồi trên đây xem xét những ý tưởng và cảm xúc sâu kín của mỗi người trong 7 tỷ người sống trên trái đất. Và Chân sư MORE hay thày Saint Germain cũng vậy. Họ chú tâm vào cái họ là, tuôn chảy theo Dòng sông sự Sống và trải bày dòng sống của họ. Họ chú tâm vào các mục tiêu của thời hoàng kim. Nhưng đây không phải là các mục tiêu mà họ có trong tâm vỏ ngoài, thích chỉ trích và lúc nào cũng đánh giá mọi thứ. Họ, các Thượng sư, không ngồi trên đây nhìn xuống các con, phán xét con dựa theo tiêu chuẩn nào đó và chỉ trích con khi con làm điều gì sai. Đó không phải là cách các thày làm việc. Đó không phải là lối các thày suy nghĩ.

Con có thấy chăng đây là một cấu trúc hoàn toàn do con người tạo ra, và các thày đã thăng thiên vì các thày đã gia tốc vượt lên trên tâm thức đó? Và điều duy nhất mà các thày mong muốn cho con là con thấy được trạng thái tâm thức đó như nó là, như là tâm thức chết tách biệt khỏi Dòng sông sự Sống. Nó hiện hữu trong khoảng cách giữa cái Ta Biết và Dòng sông sự Sống.

11.6. Vượt lên trên tâm thức chết

Khi con thấy điều này thì con có thể làm điều mà các thày đã làm: gia tốc mình để vượt lên trên nó. Niềm vui của các thày, mong muốn của các thày, là thấy con tới chỗ nhận ra nhu cầu gia tốc để vượt quá tâm thức chết, lúc đó con sẽ nói với các thày, các Thượng sư:

“Xin thày chỉ đường cho con! Con sẵn sàng đi theo con đường mà các thày đã đi và đã chứng minh. Con sẵn sàng đi theo con Đường của Bảy bức Màn, con Đường của Bảy Tia sáng. Xin thày hãy chỉ cho con đường đi, con sẽ đặt một bàn chân trước bàn chân kia và làm theo mỗi lời hướng dẫn mà con nhận được, dù rằng con không thấy nó sẽ dẫn con tới đâu, dù rằng nó không hoàn toàn tương ứng với mong đợi của con. Vì con bắt đầu nhận ra rằng mong đợi của con rất hạn hẹp.”

“Nền văn hóa của con, cách con nhìn cuộc đời bị hạn chế và ảnh hưởng bởi tâm thức chết một cách vi tế. Con không nhận ra tất cả các lối mà tâm thức chết đã ảnh hưởng tâm thức con, nhưng con bắt đầu nhận ra là tâm thức của con bị ảnh hưởng bởi tâm thức chết và con muốn thoát khỏi ảnh hưởng này. Và con biết con chỉ thoát được nếu con có một khung tham chiếu từ các sinh thể đã gia tốc chính họ vượt lên trên tâm thức chết. Đó là lý do tại sao con sẵn sàng đi theo các thày, các Thượng sư. Xin thày chỉ cho con bước kế tiếp, và con sẽ đi bước kế tiếp đó”. 

Đó là lúc con sẵn sàng học với các Thượng sư, với các chân sư thăng thiên, chứ không phải các chân sư giả danh, các vị thày tâm linh giả danh, hay thiên thần nào đó từ một thái dương hệ hay thiên hà hay phi thuyền nào đó xuống trái đất để hướng dẫn nhân loại.

11.7. Tâm thức chết và nhu cầu kiểm soát

Con có biết chăng là trong vũ trụ này có những sinh thể đã thể nhập tâm thức chết đến độ họ đã nhận ra một số giới hạn của tâm thức chết? Và do đó, họ đã nhất quyết dùng những giới hạn này để nô lệ hóa và kiểm soát tất cả những sinh thể có tự nhận biết khác. Con đã bắt đầu thấy chăng là những kẻ lừa đảo thuộc chưởng giáo đoàn giả này sẽ dùng tâm thức chết với tất cả sự tinh vi của nó để trói buộc con? 

Khi con là một người tâm linh bắt đầu khao khát một cái gì vượt lên trên những gì thế giới vật chất có thể cống hiến, thì các thày giả sẽ tới và chỉ cho con một con đường tu giả khiến con chờ đợi, một chờ đợi rất đơn giản, là nếu con đi theo con đường tu ấy, thì một ngày kia như một phép lạ con sẽ bỗng nhiên chuyển hóa thành một sinh thể toàn hảo. Con sẽ đạt được giác ngộ, đạt được tâm thức toàn vũ, hay con sẽ thăng thiên. Hoặc là con sẽ chuyển dời sang chiều kích thứ 5 hay thứ 27.

Con có thể thấy là trong khoảng cách đó, các thày giả có thể xây dựng đủ loại tôn giáo giả và giáo lý tâm linh giả. Họ rất giỏi tạo ra kỳ vọng là họ sẽ đưa con tới đích. Nhưng con có biết chăng tại sao họ sẽ không bao giờ đưa con tới đích? Con có bắt đầu thấy được tại sao họ sẽ không bao giờ đưa con tới đích? Bởi vì cái được tạo ra trong khoảng cách giữa con và Dòng sông sự Sống không thể giúp con thăng vượt khoảng cách đó và trở về Dòng sông sự Sống.

Điều mà các thày giả đã làm là tạo ra cảm tưởng có cái gì sai trái trong vũ trụ, và đó là lý do tại sao con tách biệt khỏi Dòng sông sự Sống. Con thấy chăng, họ tạo ra cảm tưởng là có cái gì sai trái bên ngoài con và đó là lý do tại sao con bị tách biệt khỏi Dòng sông sự Sống.

Tại sao con lại bị họ lừa? Con đã bắt đầu tỉnh ngộ và nhận ra lòng khao khát trở về Dòng sông sự Sống. Con có thể không hiểu là con muốn trở về Dòng sông sự Sống, nhưng con khao khát một cái gì vượt lên trên cái ngã vỏ ngoài của con. Con biết là chắc hẳn phải có cái gì đó, và con khao khát nó. Lúc đó, các thày giả không còn khả năng giữ con chú tâm vào trái đất và thế gian nữa, do đó họ tìm cách làm lệch hướng sự khao khát của con. Nhưng con chưa tới chỗ thấy rõ ràng cái mà mình muốn tìm. Con chưa hiểu hay thấy là chính cảm giác tuôn chảy theo Dòng sông sự Sống là điều con đang khao khát. Và đấy chính là thiên đàng, thiên đàng bị đánh mất.

11.8. Con đường tu giả vỏ ngoài

Vì con không nhìn ra điều đó, nên các thày giả khiến con tin rằng có cái gì sai trái ở bên ngoài con. Có vấn đề nào đó trong thế giới này, trong vũ trụ này, cần phải giải quyết – đó có thể là kế họach của Thượng đế bị trục trặc gì đó, khiến thuyền bị vỡ và thiên thần sa xuống, hay bất cứ vấn đề gì khác, như tội tổ tông hay lý thuyết nào khác. Các thày giả tìm cách kéo con gia nhập nỗ lực giải quyết vấn đề đó bằng cách thay đổi người khác, hoặc họ tìm cách thu hút con vào ý nghĩ con chỉ cần đi theo con đường tu nào đó, thực tập một lối nào đó, tiếp tục đi theo vị thày vỏ ngoài nào đó, thì sẽ có một ngày con tự động đạt được mục đích.

Nhưng con có thấy chăng là họ hứa hẹn sẽ có một ngày con lấp được khoảng cách nhờ một phép kỳ diệu nào đó xảy ra ở bên ngoài con? Con hãy nhìn phong trào điên rồ đang diễn ra cho tới lúc này về đề tài năm 2012. Ồ, trái đất sẽ chuyển vọt vào chiều kích thứ 5, và tâm thức mọi người sẽ được nâng lên và mọi vấn đề sẽ được giải quyết. Đúng là trái đất có thể sẽ chuyển vọt sang một chiều kích khác vào một thời điểm nào đó, nhưng vì sao sự chuyển vọt này lại xảy ra? Có phải chăng vì có người hành tinh khác đáp phi thuyền xuống đây và gia tốc hành tinh này?

Không phải đâu con, chuyện này chỉ có thể xảy ra khi con người trên hành tinh này gia tốc tâm thức của mình, và điều này thì mỗi người phải tự làm. Và điều này phải được làm không phải “ngoài kia”, mà “trong này”. Vấn đề trong vũ trụ là con đã tạo ra một khoảng cách giữa tâm thức con đang hiện có và trạng thái mà con muốn là, nếu con tuôn chảy theo Dòng sông sự Sống.

Vấn đề đối với riêng con là con muốn lấp đầy khoảng trống đó và khoảng trống chỉ hiện hữu ở một nơi mà thôi: đó là trong tâm con. Bởi vì con không hề tách biệt khỏi Dòng sông sự Sống, con chỉ nghĩ là con đang tách biệt. Con chỉ tự tách biệt mình trong tâm của mình mà thôi. Và do đó, nơi duy nhất mà con có thể lấp đầy khoảng trống là nơi mà con đã tạo ra khoảng trống: đó là trong tâm của con.

Không có vấn đề nào trong vũ trụ này mà con cần giải quyết và sau đó mọi vấn đề sẽ biến mất. Ta có thể nói vấn đề duy nhất cần giải quyết là các con, mỗi người, cần lấp khoảng trống để các con có thể tuôn chảy với Dòng sông sự Sống. Có nghĩa là việc đầu tiên con cần làm là thấy đây là mục đích thật của con. Đây chính là điều con khao khát. Con chỉ giản dị khao khát tuôn chảy theo Dòng sông sự Sống, thay vì đứng bên ngoài nó và nhìn nó chảy qua cạnh bên mình. Và sau đó, con phải bắt đầu tiến trình tháo gỡ những hình tư tưởng và những mong đợi đã tạo nên khoảng cách và cho con cảm tưởng là con tách biệt khỏi Dòng sông sự Sống.

11.9. Hãy nhìn vào bên trong cái Ta của con

Và bước đầu tiên mà con cần làm để khởi sự tiến trình thu hẹp khoảng cách và phá tan bức màn ngăn cách con khỏi Dòng sông là gì? Bước đầu tiên con cần làm là: con phải ngưng không chú ý tới việc thay đổi cái gì xảy ra bên ngoài con, và thay vào đó chú ý tới chuyện gì đang xảy ra bên trong con. Con phải, như Giê-su đã nói 2,000 năm trước đây: “Vì sao con nhìn vào cái giằm trong mắt người anh em mà không nhìn vào cái đà trong mắt mình?”

Rất có thể là người anh em con có một khoảng cách giữa tâm thức của y và Dòng sông sự Sống. Rất có thể là y có rất nhiều thứ khiến y ngăn cách khỏi Dòng sông sự Sống. Nhưng con có thấy chăng là đa số con người trên trái đất không nhìn người anh em của họ như vậy. Họ nhìn người anh em họ và nói rằng y có điều gì sai trái dựa trên một tiêu chuẩn thế gian.

Và con thấy chăng, cho dù con sống đúng theo tiêu chuẩn thế gian của chính con một cách tuyệt đối toàn hảo, con vẫn không ở trong Dòng sông sự Sống. Con vẫn  tách rời khỏi Dòng sông sự Sống vì chính tiêu chuẩn đã tách con ra. Vậy làm sao con có thể giúp người anh em của con bằng cách ép buộc y sống theo tiêu chuẩn của con, khi tiêu chuẩn này không phải là tiêu chuẩn của y và không cần phải là tiêu chuẩn của y?

Bởi vì mọi người đều có quyền tự quyết. Và vì có luật tự quyết nên mỗi người trong chúng con, cả 7 tỷ người chúng con, đã tạo ra một tiêu chuẩn riêng cho mình. Dĩ nhiên là có nhiều điểm tương đồng giữa các tiêu chuẩn của những người sống trong cùng xã hội hay nền văn hóa. Tuy nhiên mỗi người trong chúng con có phin lọc nhận thức của riêng mình, qua đó con nhìn cuộc đời và qua đó con phán xét và đánh giá mọi thứ kể cả chính mình. Con có quyền tạo ra phin lọc này vì nó cho con một kinh nghiệm Sống độc đáo.

Ngay lúc này, con đã tạo ra một phin lọc nhận thức đã tách con ra khỏi Dòng sông sự Sống. Điều này hoàn toàn khế hợp với Luật Tự quyết. Thày không có vấn đề gì cả với chuyện này. Thày sẽ không hăm dọa bỏ con vào lửa và lưu huỳnh của địa ngục nếu con không nghe lời thày. Nếu con không nghe lời thày thì con sẽ tiếp tục ở lại với phin lọc nhận thức hiện tại của mình và sẽ tiếp tục tách khỏi Dòng sông sự Sống. Nếu đó là điều con mong muốn trải nghiệm trong kiếp này hay trong 10,000 kiếp nữa hay trong 2 triệu năm nữa, thì thày sẽ vẫn ở đây khi con sẵn sàng trở về con Đường của Hợp nhất.

11.10. Áp đặt một tiêu chuẩn lên vị thày

Nhưng nếu ngay bây giờ con đã sẵn sàng đi theo con đường đó, thì con hãy lắng nghe những gì thày nói và ngưng phê phán những gì thày nói dựa trên một tiêu chuẩn đang ngăn cản không cho con làm theo những điều thày nói. Hoàn toàn không có ích lợi gì nếu con đến với một vị thày tâm linh, nhưng lại muốn áp đặt tiêu chuẩn của con lên vị thày và giáo lý của thày.

Bởi vì mục đích có một vị thày tâm linh, ít ra là một vị thày tâm linh chân chính, là để giúp mình thăng vượt tiêu chuẩn của mình. Làm sao vị thày làm được điều này nếu con áp đặt tiêu chuẩn của mình lên vị thày hay trên giáo lý của thày, và như thế con không nghe được lời giảng của thày, mà chỉ nghe một phiên bản được lọc lựa cho phù hợp với tiêu chuẩn của con? Điều này hoàn toàn vô lý, nếu con cho mình là một đệ tử tâm linh chân chính muốn tiến lên trên con đường tu.

Nếu con muốn tìm tâm linh như một trò tiêu khiển giải trí thì có vô số thày tâm linh giả sẽ cho con cái này, suốt ngày đêm, và bao lâu mà con muốn. Một lần nữa, thày không có vấn đề gì với chuyện này. Nhưng thày muốn nói rõ ở đây là các thày là 8 vị Thượng sư không phải là đạo sư dạy tâm linh tiêu khiển. Nếu con muốn môn tâm linh giúp con có cảm giác thoải mái thì con phải đi nơi khác. Các thày sẽ không giúp được con cho tới khi con sẵn sàng thăng vượt tâm thức của mình, thăng vượt chính mình để lấp khoảng trống và trở về với Dòng sông sự Sống. 

Nếu con đã sẵn sàng thì thày sẽ mở vòng tay hân hoan chào đón con. Nếu con chưa sẵn sàng thì thày không có một tiêu chuẩn theo đó thày đánh giá con. Thày chỉ giản dị chấp nhận sự kiện là con muốn kinh qua trải nghiệm đó trong một thời gian, và thày giữ trong tim sự sẵn sàng chào đón con trở lại, bất cứ khi nào con quyết định là con sẵn sàng và con muốn HƠN NỮA, con muốn một kinh nghiệm sống sâu sắc và phong phú hơn những gì con đang có với tiêu chuẩn hiện tại của con.

Và như vậy thày sẽ coi là những ai trong chúng con đi tiếp và học các bài giảng tới của thày là đã lấy quyết định muốn hơn cái tiêu chuẩn của mình, và do đó muốn tìm một đạo sư, một vị thày tâm linh có thể giúp mình vượt lên trên tiêu chuẩn đó. Và vị thày đó cũng có thể giúp con thu hẹp khoảng trống và tiến tới càng ngày càng gần mục đích mà các con nay đã thấy được, đó là tuôn chảy với Dòng sông sự Sống.

Kịch bản tâm linh trên trái đất

Bài giảng của chân sư thăng thiên Đại thượng sư qua trung gian Kim Michaels, ngày 4/12/2012.

TA LÀ Đại thượng sư. Trong bài giảng này chúng ta sẽ nhìn vào sự tương phản giữa kịch bản lý tưởng về sự tăng triển của một người đồng-sáng tạo mới, và kịch bản hiện đang là thực tại trên hành tinh trái đất.

Như các thày đã giảng, một người đồng-sáng tạo mới, ban đầu xuống ở tầng tâm thức thứ 48. Ở tầng này, con có một ý niệm nội tại, một trực giác là con nối kết với một cái gì lớn hơn mình. Và cái lớn hơn này, dĩ nhiên, là Hiện diện TA LÀ của con. Con cũng được một vị thày tâm linh hướng dẫn – dĩ nhiên, đây là trong kịch bản lý tưởng. Do đó, con tiếp cận một cách ý thức với vị thày tâm linh, và vị này sẽ hướng dẫn con đi trên Tia sáng thứ Nhất, và sau đó trên các Tia sáng kế tiếp khi con tiếp tục tiến lên.

Chuyện xảy ra trong kịch bản lý tưởng là con tiến từ tầng tâm thức 48 lên tầng 49. Khi con tiến lên thì con tạo ra một phàm linh. Sau đó con cho phép phàm linh này tái sinh thành phàm linh cao hơn và điều này cho phép con tiến lên tầng tâm thức kế tiếp. Con hãy ghi nhận là trong kịch bản lý tưởng này, không có khái niệm mà ngày nay trên trái đất con gọi là cái chết. Con thực sự không cần cho phàm linh cũ chết đi, hiểu theo nghĩa chết của trái đất.

9.1. Một cái nhìn tâm linh về cái chết

Con thấy chăng, con đã nhìn cái chết như một cái gì kết thúc vĩnh viễn cuộc sống, phá vỡ nó, ngưng nó lại. Con đã coi cái chết như một cái gì do một lực bên ngoài áp đặt lên con.

Tuy nhiên, trong kịch bản lý tưởng con không cần trải qua tiến trình cho phép phàm linh cũ chết đi, theo nghĩa sự tồn tại của nó bị chấm dứt, đây là một sự áp đặt lên con và là một mất mát hay một sự dứt đoạn tâm thức. Thay vào đó, con nhận ra là con chỉ giản dị cho phép mình tái sinh vào một ý niệm bản ngã cao hơn.

Do đó, ta có thể nói là từ tầng tâm thức 48 tới tầng 96, con rất suôn sẻ cho phép một phàm linh thăng vượt thành phàm linh kế tiếp – và kế tiếp, và kế tiếp, và kế tiếp. Tiến trình này không đưa tới một sự ngưng lại đột ngột, giống như khi con liên tưởng tới cái chết ngày nay. Con chỉ giản dị chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn tới và con, như một người đồng-sáng tạo, dễ dàng thấy được là có sự liên tục giữa phàm linh ở tầng tâm thức này và phàm linh ở tầng tâm thức kế tiếp.

Như thày đã nói trước đây, điều này giúp con thấy được là con đang xây dựng một phàm linh liên tục thay vì đi từ phàm linh này sang phàm linh kế tiếp. Cùng lúc, nếu con tiếp cận một vị thày tâm linh, thì vị ấy sẽ chuẩn bị con để con biết rằng khi con tới tầng 96, con phải trải qua một sự thay đổi đột ngột. Vì ở tầng này con thực sự phải “hy sinh mạng sống mình cho một người bạn” như Giê-su đã nói. 

Con cần phải có tình thương lớn hơn khiến con muốn hy sinh phàm linh mà con đã tạo ra trong 48 tầng tâm thức đầu tiên. Vì phàm linh này không thể đưa con quá tầng 96, vì nó là một phàm linh chú tâm vào việc nâng cao chính nó như là một linh thể cá biệt. Nếu con muốn thăng vượt và đi xa hơn tầng 96, con cần bắt đầu tạo ra một phàm linh mới có mục đích lớn hơn là chỉ nâng cao cá nhân mình, mà có mục đích nâng cao tổng thể.

Trong kịch bản lý tưởng, sự thay đổi này đột ngột hơn những gì con trải nghiệm trước đó, nhưng nó vẫn không giống những gì con hình dung về cái chết hiện nay. Vì thực sự, đây không phải là một sự mất mát đối với cái Ta Biết. Vì nhận thức của con càng ngày càng mở rộng khi con tiến gần tới tầng 96, nên con cũng ý thức sự kiện con sẽ không chết khi phàm linh chết vì con hơn phàm linh. Phàm linh không phải là con. Con đã không tạo ra một cái “ta”, con cũng đã không tái tạo mình thành phàm linh. 

Con ý thức sự kiện phàm linh chỉ là một cỗ xe mà con dùng để biểu hiện mình trong thế giới vật chất. Do đó, con biết là dù phàm linh này có chết đi, con vẫn không chết. Ngay cả sự chấm dứt tâm thức cũng không có. Sẽ không có một thay đổi hay mất mát đột ngột. Có nghĩa là con có thể, khi con nhận ra điều này, buông bỏ cái cũ một cách suôn sẻ. Con có thể hy sinh mạng sống của mình cho một cứu cánh lớn hơn việc nâng cao cá nhân mình. Do đó, con có thể chuyển tiếp qua giai đoạn kế tiếp một cách suôn sẻ.

9.2. So sánh kịch bản lý tưởng và kịch bản hiện hành

Bây giờ chúng ta sẽ xem xét kịch bản mà con phải đối mặt hiện nay, khi con bắt đầu theo con đường tâm linh một cách có ý thức hơn trước đó. Điều con có trên trái đất hiện nay chắc chắn không phải là kịch bản lý tưởng. Nó khác rất xa kịch bản lý tưởng. Dĩ nhiên là lý do thày cho ra quyển sách này trước khi thày cho phép bảy vị Thượng sư ra sách cho mỗi tia sáng là để sửa soạn con, để con dễ thành công hơn khi con gặp bảy tia sáng và các khai ngộ của bảy tia sáng.

Quả thực là trong kịch bản lý tưởng, con không phải đương đầu với những gì mà trong bài giảng trước thày đã gọi là phàm linh hung hãn. Trong kịch bản lý tưởng, con liên tiếp tạo ra một số phàm linh khi con tăng triển từ tầng 48 đến tầng 96. Nhưng các phàm linh này có hai đặc tính đáng chú ý. Thứ nhất là chúng biết là con có thể lấy xuống đủ năng lượng từ bên trong chính con để thúc đẩy nỗ lực sáng tạo. Do đó, con không cần lấy bất cứ gì từ bên ngoài con, từ các dòng sống khác, có nghĩa là loại phàm linh này không có gì hung hãn. Thêm vào đó, các phàm linh mà con tạo ra đều có mục đích chung là tăng triển tới một trạng thái tâm thức cao hơn. Con không tạo ra một phàm linh đứng yên; con tạo ra một phàm linh muốn tăng triển và muốn chuyển tiếp sang một giai đoạn cao hơn.

Điều này khác xa tình trạng khi con rơi vào tâm thức nhị nguyên, khi con bắt đầu thấy mình là một sinh thể tách biệt. Để hiểu rõ hơn tiến trình này, con cần nhận ra một cơ chế tâm lý vi tế. Trước khi con rơi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, con có ý niệm nội tại là con nối kết với cái gì lớn hơn bản thân con. Có nghĩa là để có thể xuống tâm thức tách biệt qua đó con thấy mình là sinh thể tách biệt, thì con phải chối bỏ là con có nối kết với cái gì lớn hơn bản thân mình.

Nhưng cái Ta Biết được tạo ra như một nối dài của Hiện diện TA LÀ, một nối dài của các chân sư thăng thiên và tối hậu là một nối dài của Bản thể của đấng Sáng tạo. Do đó con phải cố ý chối bỏ sự nối kết với cái gì lớn hơn bản thân mình. Và để làm được điều này, con cần phải biện minh cho sự chối bỏ này. Con phải tìm ra một cách để biện minh với chính mình tại sao con rời bỏ con đường đưa tới sự hợp nhất càng ngày càng sâu với cái gì lớn hơn, và thay vào đó quẹo sang con đường đưa tới sự tách biệt càng ngày càng sâu. Đó là chỗ con tìm cách nâng cao cái ngã tách biệt – không phải như một sinh thể nối kết có quyền năng sáng tạo càng ngày càng cao – nhưng là một sinh thể tách biệt với quyền năng càng ngày càng mạnh để kiểm soát bằng vũ lực môi trường của mình.

9.3. Làm sao con tạo ra một phàm linh hung hãn

Khi con đi vào tách biệt và chối bỏ sự nối kết với cái gì lớn hơn chính mình, thì chuyện gì sẽ xảy ra? Nếu con chối bỏ là con nối kết với cái gì lớn hơn chính mình thì con sẽ lấy năng lượng từ đâu để thúc đẩy nỗ lực sáng tạo của mình? Con không thể lấy từ cái gì lớn hơn chính mình khi con đã chối bỏ là con nối kết với nó. Có nghĩa là con đã khóa sự nối kết và dòng năng lượng chảy xuyên qua nó, như vậy có nghĩa là con phải lấy năng lượng từ một nguồn khác.

Dĩ nhiên là con vẫn cần năng lượng để làm bất cứ việc gì, và như vậy có nghĩa là bây giờ con cần lấy năng lượng từ nơi con đang chú tâm, tức là cõi vật chất. Điều này có nghĩa là con cần lấy năng lượng từ các dòng sống khác vẫn còn nối kết với cội nguồn của họ. Do đó con phải tìm cách dùng vũ lực hay lừa đảo để các dòng sống này cho con năng lượng của họ. Điều này có nghĩa là lúc đó con tạo ra một loại phàm linh mới không chú tâm vào việc lấy năng lượng từ bên trong và cũng không chú tâm vào việc tăng triển lên một tầng cao hơn tầng hiện tại của nó.

Trái lại, con tạo ra một phàm linh chú tâm vào việc lấy năng lượng từ thế giới chung quanh nó, và nó cũng chú tâm vào việc khuếch trương nó thành một sinh thể quyền uy trong thế gian. Nói cách khác, thay vì con tìm cách trở nên hơn cái con đang là, thì nay con có một phàm linh tìm cách trở nên nhiều hơn cái nó đã là rồi – nó muốn có nhiều quyền uy hơn để làm những gì con có thể làm trong cõi vật chất.

Điều mà con có thể thấy là sau lần sa ngã đầu tiên, những sinh thể sa ngã vào tâm thức tách biệt đã tạo ra vô số phàm linh dựa trên ảo tưởng tách biệt. Đây là những phàm linh tách biệt tìm cách ảnh hưởng các dòng sống khác một cách hung hãn. Cách chúng hành xử, ý đồ của chúng hoàn toàn nhằm vào việc lấy năng lượng từ người khác một cách hung hãn. Một số làm chuyện này bằng vũ lực rõ rệt, một số dùng sự sợ hãi và một số thì dùng sự lừa đảo. Nhưng chúng đều nhắm tới cùng một mục đích: đó là phóng chiếu khuôn đúc của chúng một cách hung hãn, cái khuôn đúc tư tưởng đã tạo ra chúng, phóng lên các dòng sống khác với mục tiêu kiểm soát họ.

9.4. Khắc phục phàm linh giả

Con thấy là trong kịch bản lý tưởng con có 48 tầng khi con đi theo con Đường của Bảy Tia sáng. Ở mỗi tầng có một phàm linh. Để tiến từ một tầng lên tầng kế tiếp, con cần phải bỏ phàm linh đó lại và đón nhận phàm linh ở tầng kế tiếp. Nhưng những phàm linh đó không muốn kiểm soát tâm con một cách hung hãn, do đó tiến trình này dễ thực hiện – trong kịch bản lý tưởng.

Nhưng trên trái đất ngày nay con không có kịch bản lý tưởng. Trong kịch bản hiện nay con có những phàm linh giả được tạo ra ở mỗi tầng tâm thức từ 48 lên 96.

Nói cách khác, cứ mỗi bước con tiến lên trên con Đường của Bảy Tia sáng đều có một phàm linh giả. Và phàm linh giả này sẽ hung hãn tìm cách ngăn chặn không cho con đi bước kế tiếp trên đường tu. Nó sẽ tìm cách giữ con ở mức hiện thời của con và giữ con ở đó vĩnh viễn.

Thêm vào đó có nhiều sinh thể đã đi xuống dưới tầng tâm thức 48, và đây là một điều mà con không cần phải đối phó trong kịch bản lý tưởng. Nhưng điều con có hiện nay trên trái đất là có nhiều sinh thể đã xuống dưới tầng 48, và dĩ nhiên là họ cũng đã tạo ra phàm linh giả, hung hãn, ở mỗi tầng từ tầng 48 xuống tới tầng thứ nhất là tầng tâm thức thấp nhất.

Điều con có hiện nay là sự tương tác đáng chú ý giữa các phàm linh giả ở trên tầng 48 và các phàm linh hung hãn ở dưới tầng này. Hiện nay, để có thể đi từ một tầng tâm thức lên tầng kế tiếp, không những con phải đối phó với phàm linh mà con đã tự tạo ra ở tầng tâm thức hiện tại của con, mà con cũng phải đối phó với phàm linh giả ở tầng này, cộng thêm phàm linh hung hãn ở tầng tương ứng dưới tầng tâm thức 48.

Tỷ dụ, nếu con đang ở 10 tầng trên tầng 48, thì nơi đó có một phàm linh mà ta có thể gọi là phàm linh thật của tầng đó, đó là phàm linh mà con dùng như cỗ xe để lên tầng kế tiếp. Nhưng cũng có một phàm linh giả muốn biện minh tại sao con không nên tiến lên tầng kế tiếp. Ngoài ra lại có một phàm linh hung hãn ở 10 tầng dưới tầng 48, phàm linh này muốn hung hãn lôi kéo con vào khuôn đúc của nó.

9.5. Phàm linh giả và phàm linh hung hãn

Đây là sự khác biệt. Phàm linh giả ở 10 tầng trên tầng 48 có mục đích biện minh cho con thấy tại sao con không cần lên cao hơn tầng tâm thức đó. Nhưng phàm linh hung hãn thì có mục đích lôi kéo con vào một trận chiến nhị nguyên với một đối thủ nào đó.

Phàm linh giả ở tầng 48 tới 96 vẫn chú tâm vào con như một dòng sống cá biệt vì con đang trong tiến trình tăng triển như một dòng sống cá biệt. Do đó, phàm linh giả này sẽ nói với con: “Bạn không cần tăng triển vượt quá tầng này, đây là tất cả những lý do tại sao bạn không nên tăng triển. Bạn phải ở lại đây và vui hưởng tầng này và mở rộng nhận biết của bạn ở tầng này mà thôi.” Nó vẫn không nhắm vào điều gì bên ngoài con; nó chỉ nhắm vào con mà thôi.

Nhưng phàm linh hung hãn tương ứng ở dưới tầng tâm thức 48 thì lại bị giam hãm trong tâm thức nhị nguyên. Nó thấy nó bị một kẻ thù bên ngoài chống lại nó, và do đó nó thấy nó lúc nào cũng đang trong một trận chiến liên tục với kẻ thù bên ngoài này. Khi con đi từ tầng 48 xuống các tầng tâm thức thấp nhất, thì con sẽ càng tìm thấy những phàm linh bị kẹt trong tâm thức mà các thày đã gọi là tâm thức cuồng đại (epic mindset). Đây là quan niệm cho rằng có một cuộc chiến giữa các lực tối hậu của thiện và ác, tỷ dụ như quan niệm truyền thống coi Thượng đế như một vị thần, và quan niệm coi ác quỷ là một vị thần đối nghịch lại Thượng đế. Vậy con thấy được sự khác biệt.

Vẫn có một phàm linh giả chú tâm vào con như một dòng sống cá biệt, nhưng lại có một phàm linh hung hãn khiến con không chú tâm vào mình nữa mà chú tâm vào chuyện đối phó với một đối thủ bên ngoài. Ở một mức nào đó, thì đối thủ này là người khác, ở mức khác thì nó là một tà lực đen tối nào đó, nhưng ở mức thấp nhất, đối thủ của con thực sự là Thượng đế. Vì lúc đó con nghĩ rằng – giống như các sa nhân đã sa vào ảo tưởng nguyên thủy – Thượng đế đã sai lầm và đã tạo ra một thiết kế sai cho vũ trụ. Và con nghĩ công việc của con là cải sửa sai lầm của Thượng đế và làm lại cho đúng, bằng cách ép buộc người khác phải theo viễn quan cứu rỗi của con.

9.6. Sự tăng triển của tổng thể 

Con có thể thấy là ở các tầng dưới tầng 48, có một hình ảnh đối ngược của các tầng tâm thức từ 96 đến 144. Khi con tiến từ tầng 96 lên tầng 144, con phải khắc phục và đối phó với các phàm linh hung hãn đó. Và con không những phải khắc phục chúng trong tâm mình mà thôi, nhưng con cũng phải góp công vào việc tiêu trừ các phàm linh này – trói buộc chúng, xét xử chúng và tối hậu là đập tan khuôn đúc của chúng – khi con tiến lên tâm thức cao hơn.

Do đó, sự tăng triển cá nhân của con từ một tầng lên tầng kế tiếp tạo sự dễ dàng cho các dòng sống khác tăng triển vượt quá phàm linh hung hãn và các ảo tưởng đằng sau nó. Do đó, con giúp toàn bầu cõi của hành tinh trái đất tăng triển để sau cùng tới một điểm, như các thày đã giảng, khi mức độ của cả 144 tầng tâm thức đều được nâng lên, lúc đó mức thấp nhất hiện nay sẽ không còn được phép có mặt trên trái đất nữa. Lúc đó, các sinh thể ở mức đó sẽ phải đi nơi khác và qua đó trái đất sẽ được giải thoát khỏi lực hút xuống của các dòng sống đó. Tuy nhiên, chúng ta hãy không nên bàn quá xa về chuyện này, vì chủ điểm của bộ bài giảng này là giúp con tăng triển từ tầng 48 đến tầng 96.

9.7. Theo đường tu một cách có ý thức

Thày sẽ nói một cách khác. Dĩ nhiên là con đã có nhiều kiếp sống. Trong những kiếp đó, con đã theo con đường tâm linh bằng cách này hay cách khác, tuy con có thể ý thức hay không ý thức điều này. Do đó, rất có thể là trong các kiếp trước, con đã lên tới các tầng tâm thức giữa tầng 48 và 96. Tuy vậy, con đã tìm ra quyển sách này và đang đọc nó, như vậy có nghĩa là con đã tới điểm trên con đường tu cá nhân của con khi con sẵn sàng không còn bước đi một cách hầu như hoàn toàn vô ý thức nữa mà là bước đi một cách có ý thức và chủ ý.

Như vậy có nghĩa là dù con đang ở, tỷ dụ, tầng tâm thức thứ 72, con không thể nhảy một cách có ý thức vào tầng này và bắt đầu con đường tu ở đó. Thay vào đó, thái độ xây dựng nhất là có sự khiêm nhường và óc thực tế để nhận biết rằng con cần bắt đầu ở mức cơ bản. Con cần bắt đầu với khai ngộ đầu tiên mà một dòng sống mới xuống nhận được ở tầng 48. Đó là điểm con được khai ngộ ở Tia thứ Nhất, với tia này gồm cả hai khía cạnh alpha và omega của sự khai ngộ. Khi con qua được thử thách này, con sẽ lên tầng 49, ở đó Tia thứ Nhất vẫn là khía cạnh alpha nhưng Tia thứ Hai là khía cạnh omega. Dĩ nhiên là sau đó con tiến tới nơi Tia thứ Nhất là alpha và Tia thứ Ba là omega, và cứ tiếp tục như vậy.

Khi con sẵn sàng đi qua tiến trình học hỏi này với mỗi vị trong bảy vị Thượng sư mà không lo lắng mình đang ở tầng nào, thì con sẽ đi qua các bước này một cách ý thức. Điều này sẽ có hai tác dụng. Tác dụng đầu tiên là con ý thức nhiều hơn về sự khai ngộ và sự khai ngộ này được neo chặt vào mọi tầng của bản thể con. Những gì con đã đạt được trong các kiếp trước được neo chặt vào ba thể cao của con – thể bản sắc, thể tư tưởng và thể cảm xúc – nhưng không nhất thiết trong thể vật lý của con, bằng không con đã có ý thức về chúng ngay lúc này. Con cần đem những thành tựu mà con đã đạt được trong quá khứ xuống tầng ý thức để con có thể sử dụng chúng một cách ý thức. Và đây là điều con sẽ đạt được khi con đi qua các tầng đó.

Khía cạnh quan trọng khác của việc con bắt đầu ở tầng 48 với Tia thứ Nhất, là con sẽ giúp người khác đi qua tiến trình này dễ dàng hơn. Đó là vì con đóng góp vào động lực đi qua con Đường của Bảy Tia sáng và đây là một phần của động lực của Thánh linh cho trái đất. Con quả thực sẽ giúp người khác hòa điệu với Thánh linh dễ dàng hơn, và như thế giúp họ thăng vượt tầng tâm thức hiện thời của họ, bằng cách hòa điệu với động lực do con và tất cả những sinh thể khác trên trái đất tạo ra khi trải qua các khai ngộ của bảy tia sáng.

9.8 Hai mức động cơ thúc đẩy

Điều này không có nghĩa là các thành tựu và động lực mà con đã gặt hái trong các kiếp trước không có lợi ích gì cho con, cho tới khi con đạt tới tầng tâm thức mà con đã đạt được trong các kiếp trước. Nếu con đã có động lực, tỷ dụ ở tầng 72, thì con sẽ dễ dàng đạt được các khai ngộ ở dưới tầng đó. Do đó, con sẽ đi nhanh hơn một người bắt đầu ở tầng 48 hay ở một tầng dưới đó.

Điều mà các thày đề nghị trong quyển sách này, và sau đó trong sách của mỗi vị Thượng sư, là phác họa một con đường mà ai ai trên trái đất đều có thể đi theo, bất kể họ đang ở tầng tâm thức nào. Nói cách khác, một người ở tầng tâm thức thấp nhất cũng có thể bắt đầu với những khai ngộ mà các thày đang và sẽ mô tả ở Tia thứ Nhất, và sau đó có thể tăng triển thêm từ đó. Dĩ nhiên các thày chỉ có thể làm một chuyện là phác họa ra con đường, những bước mà con phải theo, và thứ tự của những bước này.

Nhưng các thày không thể cung cấp ý muốn đi theo con đường tu. Đó là trách nhiệm của con, trách nhiệm của một mình con. Do đó, các thày dự trù sẽ có hai mức động cơ thúc đẩy. Khi con xuống dưới tầng 48, con đi vào – hay đúng hơn là con tạo ra – một vòng xoắn hướng hạ. Dĩ nhiên là đã có nhiều sinh thể khác đã tạo ra vòng xoắn hướng hạ trên trái đất, và do đó khi con xuống dưới tầng 48, con sẽ bị buộc vào các vòng xoắn đó. Con sẽ bị chúng hút vào, và như vậy vòng xoắn của riêng con sẽ gia tốc. Tuy nhiên, con vẫn phải lấy quyết định ở mỗi bước là con muốn đi xuống, do đó tuy có từ lực (magnetic force) kéo con xuống, con vẫn phải quyết định đi xuống.

Dĩ nhiên là như vậy cũng có nghĩa là để đảo ngược tiến trình và bắt đầu đi trở lên thì con cũng phải lấy quyết định đi trở lên. Điều gì sẽ khiến con lấy quyết định này? Nếu con đã xuống dưới tầng 48, thì thông thường con sẽ tới một điểm mà có người gọi là “xuống tới đáy vực”. Đây là lúc mọi chuyện tới cường độ khiến con không còn chịu nổi nữa; con không thể sống với chính mình, con không thể sống với những điều kiện mà con phải đối đầu trong thế giới vật chất. 

9.9. Vượt quá hoàn cảnh bất toại nguyện

Tình trạng trên đưa đến cái mà ta có thể gọi là động cơ thúc đẩy tiêu cực vì con cảm thấy bị hoàn cảnh bên ngoài ép con vào một tình trạng mà con không thể chịu nổi nữa. Tuy các thày gọi đây là động cơ thúc đẩy tiêu cực nhưng nó cũng vẫn là một động cơ thúc đẩy – nếu con chịu làm một điều. Nếu con chịu nhìn vào chính mình và nói: “Cái ta không chịu nổi hoàn cảnh hiện tại nữa là ai? Ai không chịu nổi nữa? Có thể nào có nhiều hơn một cái ta ở đây?”

Nói cách khác, có sự khác biệt giữa cái ta thật của con và cái ta đang kinh nghiệm nó không chịu nổi hoàn cảnh hiện tại. Nếu con chịu tự đặt câu hỏi này thì con có thể mở tâm đón nhận lời dạy của thày. Nghĩa là, ở tầng tâm thức hiện tại của con, bất kể tầng đó là tầng nào, con đã tạo ra một phàm linh. Phàm linh đó không phải là con vì con vẫn là cái Ta Biết, là nhận biết thuần khiết. Con đã không trở thành phàm linh đó. Con chỉ đang nhìn – đang nhận thức – cuộc đời xuyên qua phin lọc nhận thức của phàm linh đó. Do đó, không phải là con không chịu nổi hoàn cảnh, mà là phàm linh không chịu nổi hoàn cảnh.

Tại vì nó đã tự đưa nó vào ngõ bí – một tình trạng mắc kẹt vì mâu thuẫn nội tại (catch-22) – mà có vẻ không có lối thoát dù rằng nó nhìn đủ mọi hướng. Và quả đúng là nếu con nhìn hoàn cảnh qua phin lọc nhận thức của phàm linh, thì con không thể thoát được – thật sự là không có lối thoát. Nhưng có một lối thoát, đó là con nhận ra rằng: “Con không phải là phàm linh, con Hơn phàm linh”. Và điều này có nghĩa là con có tiềm năng tiến lên tầng tâm thức cao hơn, nhưng làm sao con làm được điều này?

Con chỉ có một cách để làm được điều này: con phải để cho phàm linh hiện tại của con chết đi! Con hãy tin lời thày: vì phàm linh này là một phàm linh hung hãn, nó sẽ trải nghiệm chuyện này như một cái chết, như con hiểu cái chết trên trái đất – nơi mà mọi hệ thống tư tưởng, mọi triết lý, mọi tôn giáo, ngay cả hầu hết các giáo lý tâm linh đều bị ảnh hưởng bởi tâm thức chết, tâm thức của tách biệt và nhị nguyên.

Đó là lý do vì sao con phải nhìn nhận một sự kiện đơn giản. Trong kịch bản không lý tưởng hiện nay – dù con ở dưới tầng 48 hay giữa tầng 48 và 96 – cách duy nhất giúp con tăng triển lên tầng kế tiếp của con đường tu là con phải đối phó với phàm linh tiêu cực và hung hãn tương ứng với tầng hiện tại của con. Nếu con muốn giải thoát khỏi lực kéo xuống của phàm linh này, con phải nhìn vào phàm linh của con, con phải thấy là phàm linh này khác với cái Ta Biết của con, khác với con người thật của con. Con phải cố ý và có ý thức nói với phàm linh này: “Tôi không phải là bạn, tôi không muốn nhìn đời xuyên qua phin lọc mà bạn là. Tôi nhìn nhận là bạn không thật, và tôi sẵn sàng cho bạn chết đi để tôi được tự do tiến lên tầng cao hơn.”

Đây là cách duy nhất giúp con thực sự bỏ lại đằng sau tầng tâm thức thấp hơn và tiến lên tầng kế tiếp. Con nên nhớ đây không phải là cách làm trong kịch bản lý tưởng, nhưng con không đang ở trong kịch bản lý tưởng, con không đang ở trong một môi trường lý tưởng. Con đang ở trong một môi trường đầy hiểm nghèo thấm đẫm nặng nề bởi tâm thức chết. Làm sao con đối phó với tâm thức chết là đề tài của bài giảng tới của thày, nhưng bây giờ thì thày đã cho con nhiều chuyện để con suy ngẫm lắm rồi.

Hãy để các phàm linh cũ chết đi

Bài giảng của chân sư thăng thiên Đại thượng sư qua trung gian Kim Michaels, ngày 3/12/2012.

TA là Đại thượng sư. Trong bài giảng này, chúng ta lại xem xét câu hỏi: “Thánh linh (Holy Spirit) là gì?” Chúng ta xem xét chủ đề và tìm giải đáp một cách tuần tự để các con hiểu rõ hơn chủ đề rất quan trọng này.

Chúng ta hãy trở lại khái niệm 144 tầng tâm thức và sự kiện một người đồng-sáng tạo mới sẽ bắt đầu ở tầng thứ 48. Sau đó, nếu vị ấy quyết định nâng tâm thức mình lên và đi theo con Đường Bảy bức Màn, con Đường của Bảy Tia sáng, thì vị ấy sẽ tuần tự theo bảy tia sáng tiến dần tới tầng 96.

7.1 Phàm linh và bảy tia sáng 

Như thày đã giảng, mọi việc con làm đều làm với năng lượng. Mọi việc con làm đều làm bằng tâm thức. Khía cạnh năng lượng là cái mà các thày đã gọi là ánh sáng Mẫu-Vật. Con hình thành một khuôn đúc trong tâm của con, và sau đó con cho phép dòng tâm thức của con chảy xuyên qua khuôn đúc và như vậy con phóng chiếu khuôn đúc này lên trên ánh sáng Mẫu-Vật, sau đó ánh sáng sẽ khoác lên hình tướng.

Bất cứ mọi thứ có tâm thức chảy xuyên qua nó đều được tâm thức khiến trở nên sinh động. Điều con thực sự đang làm là sáng tạo một phàm linh. Các thày đã có mấy bài giảng về đề tài này rồi. Các thày đã giảng là một người đồng-sáng tạo mới thường mang cái mà các thày gọi là một vai tuồng đã được định sẵn để làm nền tảng bắt đầu nỗ lực sáng tạo của mình. Tuy nhiên, khi con tiếp tục đồng-sáng tạo xuyên qua vai tuồng này, con dần dần bắt đầu tạo ra một phàm linh. Phàm linh này không có tự nhận biết như con, nhưng nó vẫn là một linh thể. Nó là một sinh thể có một ý niệm nhận biết nào đó, một loại bản năng sinh tồn, và do đó tự trong nó có ham muốn tăng triển.

Điều xảy ra là khi con tiến lên qua ba tia sáng đầu thì con giản dị chỉ thử nghiệm khả năng sáng tạo của mình. Ở Tia sáng thứ Nhất, con có niềm vui thử nghiệm. Ở Tia sáng thứ Nhì, con có ý muốn thẩm định kết quả mà con tạo ra có đúng như điều con mong muốn hay không. Ở Tia sáng thứ Ba, con có tình thương, tình thương này có thể đơn thuần là lòng yêu thích sáng tạo nhưng rốt cuộc sẽ trở nên lòng yêu thích sáng tạo cho một mục đích cao hơn.

Từ đó con tiến tới điểm gia tốc ở Tia sáng thứ Tư và bắt đầu thẩm định những gì con đã đồng-sáng tạo dựa trên một tiêu chuẩn bên ngoài con. Vì con đang cố gắng hoàn thành một mục đích cao hơn, một điều gì có ảnh hưởng tích cực trên sự sống bên ngoài phạm vi của cái ta. Tiến trình này tiếp tục ở các Tia sáng thứ Năm, thứ Sáu và thứ Bảy, đưa con tới tầng tâm thức thứ 95-96. Đây là chỗ con đối diện một khai ngộ: con có muốn nhảy một bước vĩ đại – một bước tiến nhảy vọt – hay là con muốn tiếp tục củng cố những gì con đã tạo ra trước đó.

7.2 Con không phải là phàm linh con đã tạo ra

Nhưng con đã tạo ra cái gì? Con đã tạo ra một cái ngã vỏ ngoài, và đó là một phàm linh. Nhưng một điểm cực kỳ quan trọng trong quan niệm cái Ta Biết là, tuy chính cái Ta Biết đã tạo ra phàm linh vỏ ngoài, nhưng cái Ta Biết không phải là phàm linh đó. Cái Ta Biết không trở thành phàm linh và không bị thay đổi bởi phàm linh. Cái Ta Biết được tạo ra như cánh cửa mở và nó vẫn luôn luôn là cánh cửa mở, không hơn không kém.

Thử thách của con lúc đó – khi con đã hoàn thành các khai ngộ của bảy tia sáng – giản dị là: con có chấp nhận để phàm linh mà con đã tạo ra chết đi, để con có thể tái sinh với một ý niệm bản ngã cao hơn? Đó là điều mà Giê-su đã hàm ý một cách ẩn dụ khi thày nói với Nicodemus là chỉ có người xuống từ Thiên đường mới có thể trở lên Thiên đường. Người xuống từ Thiên đường là cái Ta Biết. Chỉ có cái Ta Biết mới có thể thăng thiên trở về cõi tâm linh.

Phàm linh mà con đã tạo ra, mà nhiều người gọi là linh hồn (soul), không thể thăng thiên. Con yêu dấu, nó không thể thăng thiên. Cái có thể thăng thiên là những kinh nghiệm tích cực mà con đã có được xuyên qua phàm linh này và các kinh nghiệm trở nên một phần của căn thể (causal body) của con (xem quyển Uy lực của cái ta). Nhưng chính phàm linh thì không thể thăng thiên; con phải cho nó chết đi thì cái Ta Biết mới lên được một mức cao hơn, vượt quá tầng 96 để hướng tới tầng 144.

Điều cần xảy ra ở tầng 96 là con phải cho phép phàm linh mà con đã tạo ra chết đi, nhờ vậy mà con có thể – như Giê-su đã nói – tái sinh, tái sinh từ nước. Khi con tái sinh từ nước, con mang vào một cái ngã mới, cái ngã này dĩ nhiên không hoàn toàn khác biệt cái ngã cũ. Nhưng nó rõ ràng là một cái ngã mới và con có ý thức nó là một cái ngã mới.

Sau đó con bắt đầu phát triển về hướng tầng 144. Lúc đó, con lại tạo nên một cái ngã, một phàm linh. Khi con tới tầng 144, giống như Giê-su đã chứng minh trên thập tự giá, con bị tê liệt, con bị đóng đinh, và con nhận ra là con đã bị đóng đinh bởi chính tạo vật của mình. Do đó, khi con đang treo lơ lửng trên cây thập tự, thì con nhận ra là không có ai sẽ tới và cứu con khỏi chính tạo vật của mình và giải thoát con khỏi phàm linh mà con đã tạo ra. Chính con là người phải dứt bỏ hồn ma và để cho phàm linh này chết thêm lần nữa, nhờ vậy con được tái sinh, tái sinh từ lửa trong nghi thức của Ngọn lửa Thăng thiên gia tốc bản thể con bằng cách phá tan khuôn đúc của phàm linh đã dẫn con tới điểm đó.

7.3 Thánh linh được tạo ra như thế nào

Khi thày mô tả tiến trình mà con trải qua như một người đồng-sáng tạo trên trái đất, thì con thấy đây cũng là tiến trình đã lặp đi lặp lại trong các bầu cõi trước. Giống như con, các sinh thể có tự nhận biết bắt đầu với một ý niệm tự nhận biết nhỏ như cái chấm. Sau đó họ dần dần mở rộng ý niệm tự nhận biết đó ra bằng cách tạo ra một phàm linh. Phàm linh này không nhất thiết là một phàm linh đen tối hay tà ác; nó có thể là một phàm linh đẹp và sáng được tạo ra từ động lực tích cực do các dòng sống đó đã xây dựng được. Tuy thế nó vẫn là một phàm linh mà con phải để cho chết đi hầu cái Ta Biết có thể vươn lên cao hơn và tiến gần hơn tới sự hợp nhất tối hậu với đấng sáng tạo ra nó, với cội nguồn của nó. Trong trường hợp của con là người đang sống trong cõi vật chất, cội nguồn này là Hiện diện TA LÀ của con.

Tất cả các sinh thể trong tất cả các bầu cõi trước đều đã đi qua tiến trình này: bắt đầu bằng cách tạo ra một phàm linh từ bảy tia sáng, rồi cho phép nó chết đi, tái sinh, rồi bắt đầu làm việc với các tia sáng cao hơn – mà các thày trước đây đã gọi là các tia sáng bí mật – cho tới khi tạo nên một phàm linh khác. Sau đó, cho phép phàm linh này chết đi và tái sinh từ lửa của Ngọn lửa Thăng thiên. Cuối cùng là gia tốc thành những dòng sống bất tử trong cõi tâm linh, là cõi thăng thiên, thay vì cõi chưa thăng thiên. Toàn bộ tiến trình này là một phần của tiến trình tạo nên Thánh linh (Holy Spirit).

Ngay khi con đang tạo ra phàm linh trước khi thăng thiên, thì con đã đóng góp vào sự tăng triển của bầu cõi của con. Con đem xuống ánh sáng vào bầu cõi. Lúc đầu, cho tới tầng thứ 96, con đem xuống ánh sáng của bảy tia sáng, và sau đó là ánh sáng của các tia sáng cao hơn. Con đang đóng góp vào việc xây dựng và nâng cao bầu cõi của con, xây dựng động lực thăng thiên của bầu cõi của con. Cái thực sự làm cho tánh linh thiêng liêng, cái đóng góp vào Thánh linh, là khi con thấy một cách có ý thức phàm linh con đã tạo ra và con ý thức chọn lựa cho nó chết đi để con được tái sinh.

Đó là lúc con đóng góp vào Thánh linh (Holy Spirit), vào Tánh linh Duy nhất (One Spirit), vì khi con để phàm linh cũ chết đi, con đã bước gần hơn tới cái duy nhất. Đóng góp cuối cùng của con vào Thánh linh là lúc con cho phép hồn ma cuối cùng chết đi và con gia tốc vào Ngọn lửa Thăng thiên. Tuy nhiên, mỗi lần con rút cái Ta Biết ra khỏi một phàm linh, nhìn thấy phàm linh từ bên ngoài – thấy nó không phải là cái ta thực của mình – và cho phép nó chết đi một cách ý thức, thì con đóng góp vào động lực hướng thượng qua đó các Đốm sáng Tánh linh tách biệt, là các phần cá biệt của đấng Sáng tạo, bước một bước gần hơn tới sự hợp nhất với đấng Sáng tạo. Và con bắt đầu thấy đó chính là Thánh linh.

7.4 Con có động lực bẩm sinh muốn Hơn nữa 

Đấng Sáng tạo quyết định tạo ra những phần nối dài riêng biệt của Bản thể của ngài, gửi chúng xuống với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm, khác xa ý niệm cái Ta toàn khắp, quả cầu, không theo đường thẳng, của đấng Sáng tạo. Đấng Sáng tạo biết là các Đốm sáng Tánh linh này có thể bị lạc trong chính những tạo vật của chúng. Chúng có thể tự đồng hóa với tạo vật của chúng và như vậy ở trong đó mãi mãi nếu không có một cơ chế nào khiến chúng luôn luôn tăng trưởng, luôn luôn tìm cách trở về nguồn. Mục đích của sự sáng tạo chính là để các Đốm sáng Tánh linh này đi ra và sau đó trở về nguồn. Không phải là trở về thành hư vô mà trở về Hơn khi chúng đi ra. Và đây là cách khiến sự sáng tạo mở rộng và cách khiến Thượng đế được khuếch đại.

Ý muốn trở nên Hơn nữa, ý muốn mở rộng hơn, đã có sẵn trong dòng sống của con. Đó chính là ý muốn đã thúc đẩy đấng Sáng tạo sáng tạo lúc khởi thủy, tạo ra một thế giới hình tướng, tạo ra những đốm sáng cá biệt của Bản thể của ngài, để chúng trở thành Hơn nữa trong tiến trình đi ra và trở về nguồn, nhưng trở về Hơn khi đi ra.

Bên trong con có động lực muốn trở nên Hơn nữa và đó là lý do vì sao con đồng-sáng tạo. Đó là lý do vì sao con hình thành một hình ảnh và thấm đẫm nó với tâm thức, thấm đẫm nó với Tánh linh. Đó cũng là lý do vì sao bất cứ phàm linh nào con tạo ra đều có động lực muốn trở nên Hơn nữa, muốn mở rộng, muốn tăng trưởng và muốn thêm cường độ.

Điều này trở nên quan trọng khi con nhìn lại tiến trình qua đó quyền tự quyết tự trải bày. Con bây giờ bắt đầu nhận ra là khi con bắt đầu ở tầng tâm thức thứ 48 và quyết định đi lên, thì con quả thực đã tạo ra một phàm linh có ý muốn mở rộng và tăng trưởng.

Nhưng con cũng nên ghi nhận một điểm quan trọng. Khi con theo tiến trình khai ngộ với bảy vị Thượng sư, thì khả năng cơ yếu mà con học được là gì? Đó là khả năng rút ánh sáng của bảy tia sáng từ bên trong con – hay đúng hơn là từ Hiện diện TA LÀ của con – qua cánh cửa mở của cái Ta Biết và đem tới cái ngã vỏ ngoài, là phàm linh mà con đang sáng tạo. Khi con tạo ra phàm linh giữa tầng 48 và 96 thì phàm linh biết là nó có thể lấy được ánh sáng, nó có thể lấy được động lực giúp nó tăng triển, từ bên trong nó. Đây là một tiến trình sáng tạo, vì con không cần lấy bất cứ gì từ các dòng sống khác hay từ thế giới vật chất để thúc đẩy nỗ lực sáng tạo của mình. Con biết là con có thể lấy ánh sáng từ bên trong, qua động lực mà con tạo ra khi con dùng bảy tia sáng.

7.5 Để phàm linh chết đi một cách ý thức  

Khi con tiến dần về hướng tầng 96 thì phàm linh mà con tạo ra đó càng ngày càng trở nên hùng mạnh trong việc sử dụng bảy tia sáng. Nếu con theo đúng các chỉ dẫn của các vị Thượng sư thì con càng ngày càng không dính mắc vào phàm linh mà con tạo ra, con biết rằng nó chỉ là một cỗ xe, biết rằng nó là một đày tớ mà con tạo ra và con – tức là cái Ta Biết – là người chỉ huy.

Con không cho phép phàm linh này mang một tự ngã riêng của nó. Con dần dần tới điểm, khi con tới gần tầng 96, con càng ngày càng nhận ra rằng mỗi lần con bước lên một tầng tâm thức cao hơn, con làm được việc này bằng cách cho phàm linh cũ chết đi và con tái sinh với một phàm linh mới cao hơn phàm linh cũ vì nó được tái sinh từ nước.

Khi con tới tầng 96 thì con đã quen thuộc với tiến trình cho cái cũ chết đi mà không nắm giữ nó vì con biết rằng con sẽ được tái sinh Hơn thế nữa. Do đó, ở tầng 96 con có thể khá dễ dàng buông bỏ hoàn toàn động lực mà con có với bảy tia sáng, và con nhận ra rằng con muốn cái gì cao hơn, chính là các tia sáng bí mật. Các tia sáng cao không nhằm mục đích sáng tạo hình tướng vật chất, nhưng có mục đích sáng tạo cái gì vượt lên trên hình tướng vật chất và như thế góp phần vào việc nâng cao tâm thức tập thể, thay vì tạo ra những biểu hiện vật lý thấy được qua giác quan. Điều đáng tiếc là có thể có dòng sống không nhận ra tiến trình cho cái cũ chết đi, và vẫn chú tâm vào việc nới rộng và khuếch đại phàm linh khiến nó càng ngày càng tạo thêm biểu hiện vật lý. Dòng sống đó không thấy một cách ý thức là nó phải để cho cái cũ chết đi.

Do đó, khi dòng sống đó tới tầng 96 và phải đối diện nhu cầu cho cái cũ chết đi thì nó bị một cú sốc và có thể lấy quyết định không để cho cái cũ chết đi. Nó không chịu dứt bỏ hồn ma đó, nó muốn giữ nó lại. Nó muốn dùng động lực đã gặt hái được để chứng minh khả năng tâm làm chủ vật chất và tạo ra những hiện tượng làm choáng mắt những người mới tu. Do đó, một dòng sống có thể trở nên dính mắc vào phàm linh và quyết định không chịu buông bỏ nó, và điều này khiến dòng sống đó sa ngã.

7.6 Chuyện gì xảy ra khi sinh thể sa ngã

Khi con sa ngã ở tầng 96 thì con sa xuống mức thấp nhất, nhưng không có nghĩa là con không có động lực. Con thực sự có rất nhiều động lực trong việc sử dụng bảy tia sáng, nhưng nay con đã tha hóa động lực đó và dùng nó với mục đích hoàn toàn vị kỷ vì con không dùng nó để tăng triển từ bên trong. Con tìm cách nắm giữ những gì con có, và do đó đột nhiên con cảm thấy bị đe dọa. Lúc đó, con nghĩ con phải dùng quyền năng của mình để chế ngự môi trường, chế ngự các dòng sống khác, chế ngự ngay cả Mẹ Thiên nhiên. Lúc đó, con trở nên người mà Giê-su đề cập tới khi thày nói: “Nếu ánh sáng trong vị đó là bóng tối, thì bóng tối này lớn biết bao.”

Đột nhiên, ánh sáng mà con gặt hái được trên con Đường Bảy Tia Sáng đã trở thành bóng tối và con không còn đi trên con đường tự thăng vượt nữa. Con đi trên con đường tà đạo tìm cách tạo hiện tượng vỏ ngoài và nắm giữ các hiện tượng đó. Do đó, ánh sáng mà con gặt hái được trở thành bóng tối, và con lúc đó trở thành một thày phù thủy tà đạo sử dụng năng khiếu, động lực của mình với mục đích hoàn toàn vị kỷ. Do đó con bị cắt đứt khỏi dòng chảy của Tánh linh, là dòng chảy của tinh thần tự thăng vượt, là Thánh linh.

Điều này có nghĩa là lúc đó con không còn nhận được ánh sáng từ bảy tia sáng. Vậy con phải làm gì? Hoặc con phải chịu quy luật thứ hai của nhiệt động học (thermodynamics) và dần dần trở về điểm số không, nơi không có năng lượng để làm bất cứ việc gì. Hoặc con phải đi theo con đường của các thày phù thủy tà đạo, ăn cắp ánh sáng từ cõi vật chất. Có nghĩa là ăn cắp ánh sáng từ những dòng sống khác, từ những ai vẫn còn nhận được ánh sáng từ bên trong họ.

Lẽ dĩ nhiên con cũng có thể sa ngã ở bất cứ tầng nào giữa tầng 48 và tầng 96. Do đó có nhiều sinh thể có động lực khác nhau cho ngã tách biệt của họ. Điều con cần hiểu là khi con xuống dưới tầng nhận biết thứ 48, bất kể ở tầng nào, thì phàm linh mà con đã tạo ra cho tới điểm đó bây giờ trở thành một phàm linh không còn thấy được là nó có thể nhận năng lượng từ bên trong chính nó.

Phàm linh đó ngay tức khắc trở ngược thành, hoặc bị chuyển hóa thành, một phàm linh biết nó phải lấy ánh sáng từ bên ngoài nó. Tuy thế nó vẫn còn động lực cơ bản của mọi sự sống, động lực có thể nói là của chính tâm thức, là động lực muốn gia tăng, động lực muốn Hơn nữa.

7.7 Vì sao phàm linh trở nên hung hãn

Bây giờ thì ta có một phàm linh có động lực muốn trở nên Hơn nữa, nhưng không thể trở nên Hơn nữa bằng cách lấy năng lượng từ bảy tia sáng từ bên trong nó. Vậy phàm linh này phải làm gì? Nó phải tìm cách trở nên Hơn nữa bằng cách lấy năng lượng ở tầng nó đang sống trong cõi vật chất. Bây giờ nó trở thành một phàm linh có bản chất hung hãn phải lấy, và sẽ lấy, ánh sáng từ các phàm linh khác. 

Đó là lý do vì sao lúc đó ta có một phàm linh không thể sống và để yên cho người khác sống. Tự nó không có sự sống, sự sống của Tánh linh. Nó đã trở thành loại người mà Giê-su đã đề cập khi thày nói tới những người đã chết theo nghĩa tâm linh: “Hãy để cho người chết chôn người chết của họ”.

Đó là những người không còn đi trên con đường tự thăng vượt từ bên trong, nhưng đang đi theo con đường tà đạo muốn lấy từ bên ngoài. Và lẽ dĩ nhiên, họ phải lấy ánh sáng bằng lừa đảo hay bằng vũ lực. Đó là lý do vì sao ta có, như các thày đã nói trước đây, hai loại sa nhân:

1. Sa nhân dùng vũ lực trắng trợn để lấy ánh sáng từ người khác.

2. Sa nhân dùng lừa đảo để khiến người khác tự nguyện dâng cho họ năng lượng của mình.

Bây giờ thì các con hiểu được giáo lý cơ bản là Thánh linh chính là Tánh linh của sự tự thăng vượt bằng cách lấy năng lượng từ cõi tâm linh và nhân lên vốn liếng đó, do đó không cần lấy gì từ tầng mình đang sống, và chỉ cống hiến năng lượng cho tầng đó. Ta cũng có linh thể chết, linh thể không có sự sống. Linh thể chết muốn lấy năng lượng từ tầng nó đang sống, vì nó không thể lấy được từ bên trong nó; nó cũng không thể lấy được từ cõi cao hơn vì nó không còn là cánh cửa mở.

Do đó, chỉ có một Thánh linh duy nhất luôn luôn tiến gần hơn tới cái một. Trong khi đó thì có rất nhiều phàm linh tách biệt, thực sự là linh thể chết càng ngày càng tách xa khỏi cái một khi chúng càng lấy thêm quyền năng về chúng. Mỗi lần chúng lấy từ một người, chúng tách xa hơn sự hợp nhất với người đó. Vì làm sao con có thể dùng vũ lực hay lừa đảo để lấy từ người khác mà lại tiến gần hơn tới hợp nhất với người đó? Điều này giản dị là không thể có được. Các con đã bắt đầu thấy điều này chưa?

Bài giảng này là nền tảng cho những gì thày sẽ giảng trong các bài tới. Thày để con suy ngẫm bài giảng này vì nó có thể khiến nhiều người sững sờ, trong đó có những người đã lớn lên trong khung cảnh các tôn giáo truyền thống, và ngay cả những người quen thuộc với nhiều triết lý tâm linh hay thuộc khuynh hướng được gọi là Thời đại Mới; và ngay cả nhiều người có biết tới giáo lý chân sư thăng thiên. Thày để con suy ngẫm bài giảng này, và thày sẽ trở lại với bài giảng tới khi thời gian sẵn sàng. 

Hai loại linh thể

Bài giảng của chân sư thăng thiên Đại thượng sư qua trung gian Kim Michaels, ngày 2/12/2012.

TA LÀ Đại thượng sư. Trong bài này chúng ta sẽ xem xét câu hỏi: Thánh linh (Holy Spirit), Tánh linh Duy nhất (the One Spirit), Dòng sông sự Sống là gì?

Các con đã có bài giảng của các thày (xem quyển Uy lực của cái ta) mô tả cách đấng Sáng tạo ban đầu tạo ra một khoảng hư không bằng cách tự rút mình vào một điểm dị thường, và sau đó tự phóng chiếu ra thành bầu cõi thứ nhất. Sau khi bầu cõi thứ nhất thăng thiên, thì nó trở nên nền tảng để tạo ra bầu cõi thứ hai, và cứ như vậy cho đến bầu cõi mà các con đang sống, trong đó có vũ trụ vật chất. Điều mà con cần hiểu là: Thượng đế đã không một mình tạo ra thế giới hình tướng.

Đấng Sáng tạo đã không ngồi trên như một đấng Sáng tạo toàn năng và xa cách, và tạo ra thế giới hình tướng từ bên ngoài. Tiến trình sáng tạo gồm hai phần; trong tiến trình này đấng Sáng tạo Duy nhất tạo ra các phần nối dài của chính mình, cá biệt và có tự nhận biết, gửi chúng xuống bầu cõi mới nhất, và sau đó họ đồng-sáng tạo thế giới hình tướng từ bên trong, tạo nên dòng chảy hình số tám với đấng Sáng tạo.

Do đó, chúng ta thấy là các nối dài có tự nhận biết của đấng Sáng tạo, trên căn bản cũng sáng tạo giống như đấng Sáng tạo đã làm. Vì đấng Sáng tạo đã tạo ra gì khi ngài tạo ra những nối dài của chính mình? Đấng Sáng tạo là gì?

5.1 Tánh linh sáng tạo như thế nào?

Đấng Sáng tạo là một Tánh linh (Spirit). Tánh linh sáng tạo như thế nào? Con quen nhìn tiến trình này từ góc độ thế giới vật chất trong đó – vì nhiều lý do mà ở đây chúng ta không cần khai triển – con đã bị điều kiện hóa, bị lập trình để nhìn vũ trụ vật chất như cái gì tách biệt khỏi Tánh linh. Trong tâm con, con có hình ảnh vi tế Thượng đế là một Tánh linh, nhưng Thượng đế đã sáng tạo một thế giới hình tướng không phải là Tánh linh, và thế giới này tách biệt với Tánh linh.

Quan niệm này rất sai sự thực và nó không giúp con phát triển tâm linh. Các thày là chân sư thăng thiên hiểu rất rõ là có nhiều trình độ tâm thức, và nếu con đang ở một tầng tâm thức nào đó thì con sẽ không hiểu được sự thực mà thày trao truyền ở đây. Do đó các thày hiểu rằng có một số người cần giữ chặt hình ảnh vật chất và Tánh linh tách biệt với nhau. Vì chỉ qua cách đó thì họ mới trải nghiệm được điều họ muốn; tức là trải nghiệm mình là một sinh thể tách biệt, tách rời khỏi các sinh thể khác. Lẽ đương nhiên, Luật Tự quyết phải được phép trải bày ra, để những người đó trải nghiệm được điều họ muốn cho tới khi họ chán ngán không còn muốn nữa.

Tuy nhiên sự thật sâu sắc mà thày muốn tiết lộ cho những ai đã sẵn sàng, những ai có tai để nghe có mắt để thấy, là Tánh linh không thể sáng tạo cái gì tách biệt khỏi Tánh linh. Tánh linh không thể nào sáng tạo cái không phải là Tánh linh. Vậy, Tánh linh sáng tạo như thế nào? Tánh linh (Spirit) sáng tạo bằng cách tạo ra các linh thể (spirit) khác.

Đấng Sáng tạo vượt lên trên mọi hình tướng, hiểu theo nghĩa hình tướng nhìn từ bên trong thế giới hình tướng. Tuy nhiên, để sáng tạo thế giới hình tướng, đấng Sáng tạo không tạo ra một hình tướng tách biệt với chính ngài. Đấng Sáng tạo là một Tánh linh (Spirit), và chỉ có thể tạo hình tướng bằng một cách là tạo ra một linh thể (spirit). Linh thể này được tạo ra qua hai giai đoạn.

Đầu tiên, đấng Sáng tạo phải mường tượng một khuôn đúc, một hình kỷ hà, mà thày Saint Germain cũng gọi là một biểu tượng. Sau đó, đấng Sáng tạo cho phép dòng sống của chính Bản thể ngài, tâm thức ngài và Tánh linh của ngài chảy qua khuôn đúc này. Khuôn đúc trở nên sống động nhờ Tánh linh của đấng Sáng tạo và do đó nó trở thành một linh thể có hình tướng khác biệt. Linh thể này bây giờ có trách nhiệm duy trì hình tướng đó.

5.2 Linh thể và tự nhận biết

Khi con nhìn đời từ bên trong bầu cõi vật chất thì con hay chia ra vật chất vô tri giác và các sự sống sinh động. Điều này tương tự – tuy ta đừng nên theo quá sát nghĩa – với những gì đấng Sáng tạo làm. Đấng Sáng tạo tạo ra các hình thể vô tri giác được một linh thể duy trì, linh thể này có tâm thức (consciousness) nhưng không có tự nhận biết (self-awareness). Sau đó, đấng Sáng tạo tạo ra những sinh thể đồng-sáng tạo, có hình tướng và như vậy họ bắt đầu như một khuôn đúc trong tâm của đấng Sáng tạo, được ngài phú cho một Tánh linh, nhưng phần Tánh linh này cô đặc và có cường độ cao đến độ họ có tự nhận biết. Vậy bây giờ chúng ta có những linh thể có nhận biết nhưng không có tự nhận biết, và những Tánh linh có tự nhận biết. 

Do đó, con có thể thấy một khác biệt quan trọng. Một linh thể “vô tri giác”, theo lối nói thông thường, không thể thăng vượt khuôn đúc cơ bản từ đó nó được tạo ra. Nó không thể nào, một cách cố ý và có ý thức, thăng vượt chính nó, tái tạo chính nó, hay tự quy định lại chính nó. Điều này không có nghĩa là linh thể đó không thể tiến hóa; nó quả thực có thể tiến hóa theo quan niệm luật tiến hóa trong thiên nhiên. Nó có thể tiến hóa trong phạm vi các thông số đã được quy định bởi khuôn đúc ban đầu của nó, có nghĩa là nó có thể trở thành hơn khuôn đúc này. Nó có thể thu thập năng lượng, ngay cả tâm thức và do đó nó có thể có thêm quyền lực, và độ tinh xảo. Nhưng nó không thể thay đổi chính nó một cách cố ý và có ý thức.

Ta có thể nói là nó không thể trở thành một cái gì mới một cách cách mạng và siêu vượt. Nhưng một Tánh linh có tự nhận biết và có “tri giác”, một sinh thể đồng-sáng tạo, thì có khả năng bước lùi lại, nhìn chính mình và quyết định nó muốn hơn cái gì nó đang là lúc đó. Và vì vậy, nó có thể làm lại chính nó, tái tạo chính nó và thăng vượt chính nó.

Điều này có ý nghĩa rất sâu sắc. Tánh linh đồng-sáng tạo có cùng khả năng như đấng Sáng tạo, tức là nó có thể tạo ra một khuôn đúc trong tâm của nó và hướng dòng tâm thức của nó chảy xuyên qua khuôn đúc. Như thế, một Tánh linh đồng-sáng tạo có thể tạo ra hình tướng, ngay cả một hình tướng mới chưa từng thấy. Linh thể vô tri giác không có khả năng hình dung hay tưởng tượng một cái gì vượt quá khuôn đúc của nó. Nó có đủ tâm thức để biết là nó hiện hữu, nó muốn sinh tồn và muốn tăng trưởng bằng cách thu thập thêm năng lượng, thêm tâm thức, và nó cũng có thể tăng trưởng trong khuôn khổ khuôn đúc đã định ra nó.

Một Tánh linh đồng-sáng tạo có thể hình dung, tưởng tượng một khuôn đúc mới. Nhưng dĩ nhiên là khả năng hình dung của một Tánh linh đồng-sáng tạo cũng có giới hạn, và những giới hạn này được ấn định bởi khuôn đúc đã định ra nó. Do đó, con có thể thấy là có hai giai đoạn trong sự tiến hóa, sự tăng trưởng của một Tánh linh đồng-sáng tạo. Trong giai đoạn đầu nó chú tâm vào việc sáng tạo hình tướng, trong giai đoạn nhì nó nhận ra rằng muốn tạo ra hình tướng hoàn toàn mới thì nó phải tái tạo chính nó. 

5.3 Tự tái tạo như một Tánh linh

Điều thày vừa giảng có liên hệ tới giáo lý của các thày về 144 tầng tâm thức có thể có trên trái đất (xem quyển Uy lực của cái ta). Các thày đã giảng là khi một dòng sống mới  – đồng nghĩa với gì thày gọi là Tánh linh đồng-sáng tạo  – xuống đầu thai lần đầu trên trái đất, thì nó bắt đầu ở tầng tâm thức thứ 48. Sau đó dòng sống này kinh qua tiến trình mà các thày gọi là Con Đường Bảy bức Màn qua đó nó học hỏi về khả năng đồng-sáng tạo của mình và tăng trưởng khả năng đó bằng cách dùng bảy tia sáng tâm linh, với kết quả là nó vươn lên tới tầng nhận biết thứ 96.

Đó là giai đoạn con khám phá khả năng đồng-sáng tạo của mình, khả năng tạo ra hình thể. Khi con làm vậy thì con cũng mở rộng sự tự nhận biết của mình, nhưng thông thường thì con không làm điều này một cách có ý thức. Sự tự nhận biết của con, ý niệm bản ngã của con được mở rộng qua các kinh nghiệm mà con có khi con tương tác với vũ trụ vật chất, khi con đồng-sáng tạo – khi con định ra một khuôn đúc trong tâm, làm cho nó trở nên sinh động với tâm thức, gửi nó đi, phóng chiếu nó ra, và nhìn thấy ánh sáng Mẫu-Vật khoác lên hình tướng của hình ảnh.  

Nhưng sẽ tới một lúc, khi con tới tầng 96, thì điều cốt yếu mà con cần làm, nếu con muốn vượt quá mức đó, là con phải bước lui lại, nhìn vào chính mình và nhận ra một điều cơ yếu. Cho tới điểm đó, con đã đồng-sáng tạo và làm thật đúng những gì chờ đợi nơi con. Con đã đồng-sáng tạo trong phạm vi các tham số được ấn định bởi khuôn đúc ban đầu, đã được quy định bởi cha mẹ tâm linh của con và ghi lại trong Hiện diện TA LÀ của con. Nhưng nay đã tới lúc con hòa điệu hoàn toàn tâm mình vào khuôn đúc nhưng đồng thời cũng nhận ra là bước tới trên con đường tu của con là mở rộng và tái tạo khuôn đúc một cách cố ý và có ý thức. Vì đây chính thực là ý nghĩa của Con Đường của Quả vị Ki-tô.

5.4 Cái Ta sẵn sàng thăng thiên

Thày giảng bài này vì thời nay có nhiều người đã trải qua các giai đoạn học hỏi cách dùng khả năng đồng-sáng tạo với bảy tia sáng. Họ đã làm việc này trong các kiếp trước và đã thu thập được nhiều động lực, động lực đồng-sáng tạo, trên bảy tia sáng. Con có thể thấy là mục đích của các thày hiện nay là cho các con một bộ sách, mỗi quyển do một vị Thượng sư, nhằm giúp các người đồng-sáng tạo học dùng các đức tính của bảy tia sáng một cách cố ý và có ý thức.

Một khía cạnh của mục đích của các thày khi phát hành bộ sách này là giúp các người đồng-sáng tạo theo đuổi tiến trình tăng trưởng từ tầng tâm thức 48 đến tầng 96. Một mục đích khác của các thày là giúp những ai đã xuống dưới tầng 48 đi trở lên tầng 48 là nơi họ đã rơi xuống, để nay tiếp tục tiến trình dang dở và như vậy mau chóng trở lại tầng 96.

Nhưng lý do vì sao thày giảng bài này ở đầu bộ sách chính là để cho những ai đã trải qua tiến trình học hỏi về bảy tia sáng trong các kiếp trước, có thể theo học với các vị Thượng sư, nhưng theo học ở một mức cao hơn những người vẫn còn ở dưới tầng tâm thức thứ 96. Con có thể nhận ra là mục đích của mình không phải chỉ là đồng-sáng tạo với bảy tia sáng nhưng thực ra là đồng-sáng tạo cái khuôn đúc đã định ra cái “ta” của mình, ý niệm bản ngã của mình, và làm việc này một cách cố ý và có ý thức. Tức là con không chú tâm quá đáng vào việc tạo ra hình thể, nhưng chú tâm vào việc tạo ra một cái Ta sẵn sàng để thăng thiên.  Nhưng trước khi con thăng thiên, con sẵn sàng biểu lộ chính mình trong cõi vật chất mà không chú tâm vào việc tạo hình thể hoặc tạo trải nghiệm đặc thù cho cái Ta. Nhưng ngược lại, chú tâm vào việc nâng tâm thức – nâng sự nhận biết của tổng thể, nâng tâm thức đại chúng – bằng cách thách đố các linh thể, các phàm linh đã tạo nên tâm thức đại chúng. Vì sao các phàm linh lại tạo nên tâm thức đại chúng sẽ chính là đề tài của bài giảng tới của thày.

Con hơn tâm của con

Bài giảng của chân sư thăng thiên Đại thượng sư qua trung gian Kim Michaels, ngày 1/12/2012.

TA LÀ Đại thượng sư. Đại thượng sư là chức của thày, là trách vụ mà thày đảm trách. Đây không phải là tên của thày như là một sinh thể cá biệt có tánh Tự do của Thượng đế, nhưng tên của thày không quan trọng, vì bản sắc của thày – cá tính, đặc tính của thày – không quan trọng đối với trách vụ mà thày đảm trách.

Quả thực là khi con nắm giữ trách vụ đó, con đã vượt lên trên cá thể và cá tính, theo nhãn quan của một người đang đầu thai trên trái đất. Con đã buông bỏ cái ngã tách biệt, cái phàm ngã. Con đã phối hợp bảy tia sáng tâm linh đến độ đề cập đến cá thể không còn ý nghĩa gì nữa, khi con nói với hay nói cho những người đang hiện thân.

Các con quả thực có thể biết thày như một sinh thể cá biệt. Thày đương nhiên có đặc tính cá biệt, nhưng con không thể biết chúng qua phin lọc nhận thức của cái ngã tách biệt của con. Con chỉ biết chúng khi con vượt thăng phin lọc đó và nhập một với thày. Và dĩ nhiên, điều này cũng áp dụng cho các vị Thượng sư của bảy tia sáng.

3.1. Làm sao thực sự biết được một tia sáng tâm linh

Làm sao con biết được một vị Thượng sư? Làm sao con biết được một tia sáng tâm linh? Đúng là các thày có cho con một số đặc tính, nhưng nếu con chú tâm vào các đặc tính đó thì chúng sẽ trở thành một chướng ngại khiến con không biết được tia sáng đó. Bởi vì một tia sáng không thể bị giới hạn bởi đặc tính vỏ ngoài.

Con chỉ biết được một tia sáng khi con nhập một với nó, nhập một với vị Thượng sư, Đại thiên thần hay Elohim của tia sáng đó. Khi con đã nhập một thì con không nhìn tia sáng như con nhìn một vật trên trái đất, tức là con không nhìn nó như một chủ thể tách biệt tìm hiểu từ bên ngoài một khách thể tách biệt, tìm hiểu các đặc tính của nó từ bên ngoài.

Trái lại, con sử dụng khả năng cơ bản nhất mà con có, là khả năng của cái Ta Biết có thể rút ra không đồng hóa với phàm ngã và thay vào đó nhập một với cái gì cao hơn phàm ngã. Và lẽ dĩ nhiên là khi con nhập một với một tia sáng tâm linh hay vị Thượng sư của tia sáng đó, thì con không nhìn tia sáng đó từ bên ngoài. Con không nhìn nó như một vật mà con tìm hiểu.

Con quên mình là một chủ thể tách biệt đang tìm hiểu một vật bên ngoài con, tách biệt khỏi con, đứng riêng khỏi con. Trái lại con hòa tâm thức của con vào tâm thức của vị Thượng sư. Do đó con không nhìn tia sáng từ bên ngoài; con nhìn nó từ bên trong. Con nhìn sự sống từ góc nhìn của tia sáng đó.

Đó là cách làm sao con biết được tia sáng. Đó là cách con biết cuộc sống như thế nào qua cái nhìn của tia sáng. Khi con hòa nhập với Tia sáng thứ Nhất, thì Tia sáng thứ Nhất không còn là một tấm màn. Con có thấy chăng là khi con còn nhìn Tia sáng thứ Nhất như một chủ thể tách biệt tìm hiểu một khách thể bên ngoài, thì con không thể nhìn xuyên qua ánh sáng của tia sáng đó? Nó trở thành một tấm màn và con không thể nhìn xuyên qua tấm màn; do đó, con không nhìn thấy cõi tâm linh, con chỉ nhìn thấy cõi vật chất.

3.2. Áp dụng các tia sáng 

Tuy cõi vật chất được tạo bằng năng lượng của bảy tia sáng, nhưng độ rung của các năng lượng đó đã được hạ xuống và chúng khoác vào một độ dày đặc che giấu chúng là biểu hiện của bảy tia sáng. Do đó, con có thể nhìn một tảng đá hay một quả núi và không thấy được là chất liệu trông rắn đặc thực ra được tạo nên bởi ánh sáng. Và không phải chỉ một loại ánh sáng, mà là một pha trộn của cả bảy tia sáng. Và do đó, quả núi trông đồ sộ, rắn đặc và nó che mờ viễn quan của con.

Cũng tương tự, khi con biết là có bảy tia sáng, lúc ban đầu chúng sẽ giống như vật xa cách để con tìm hiểu. Tìm hiểu các tia sáng không có gì sai trái. Tuy nhiên, như thày đã nói, một đệ tử tâm linh có thể chú tâm quá nhiều vào việc tìm hiểu các đặc tính vỏ ngoài của các tia sáng và không nhìn ra chính ánh sáng. Con không nhập một được với ánh sáng vì con quá chú tâm vào việc tìm hiểu các đặc tính vỏ ngoài.

Con có thấy chăng là khi con nhìn các tia sáng dưới góc nhìn của một người chưa sáng ngộ thì con sẽ thấy chúng như bảy chiếc màn ngăn con không nhìn được vào cõi tâm linh. Con có thể nhận ra – ngay cả con trải nghiệm được bằng trực giác – là có những năng lượng vượt quá các chất liệu vật chất mà con phát hiện bằng giác quan. Nhưng khi con tìm cách nhìn quá tấm màn của vật chất, thì con lại thấy một tấm màn nữa, tạo nên bởi bảy tia sáng. Do đó, con rất có thể quá chú tâm vào việc tìm hiểu các tia sáng và đặc tính của chúng, học giáo lý vỏ ngoài, tới độ con không nhìn ra tia sáng, hoặc con quên không vượt quá sự tìm hiểu để đạt được chứng ngộ (gnosis), có nghĩa là “nhập một với”. 

3.3. So sánh Hiểu biết và Chứng ngộ

Đa số con người trên trái đất nhìn xuyên qua phin lọc của cái ngã vỏ ngoài được hình thành dựa trên ảo tưởng tách biệt và các đối cực nhị nguyên nảy sinh khi họ tách ra khỏi cội nguồn của họ. Khi họ tìm hiểu về một vật, thì thực sự họ phóng chiếu những hình ảnh định sẵn, các niềm tin, quan điểm – tức là biểu tượng đã định sẵn – lên vật họ đang tìm hiểu. Đây là điều các nhà vật lý khoa học lượng tử đã nhận ra.

Khi con nhìn sự vật qua phin lọc đó, thì con không thấy nó với hình tướng thuần khiết của nó. Cái con nhìn thấy là rung động của vật phối hợp với các rung động trong tâm con – là phin lọc nhận thức của con. Con đã phóng chiếu phin lọc nhận thức lên vật đó. Khi con phóng chiếu bất cứ hình tư tưởng nào lên một vật thì con không thực sự thấy vật đó. Cái con thấy là một ảo tưởng – một hình ảnh được tạo ra bởi mô thức giao thoa (interference) giữa cái con phóng chiếu và tâm thức đằng sau vật mà con tìm hiểu.

Đây là điều mà thế gian gọi là “hiểu biết” (knowledge), hiểu biết đường thẳng và dựa trên phân tích. Đó không phải là minh triết, không phải là chứng ngộ. Cái con biết chỉ là cách tâm con tương tác với vật. Ta có thể kết luận là tâm của con, tâm con người, có thể trở thành một hệ thống đóng kín vì con không thể nhìn thấy quá những gì con phóng chiếu. Những phóng chiếu của con đã tạo nên một tấm màn dày đặc, một hộp tư duy dày đặc đến độ con không thấy được bất cứ điều gì ngoài hộp đó. Con theo quan điểm thế gian và tưởng là con đã đạt được hiểu biết tối hậu vì con nghĩ là con đã nhét được cả vũ trụ vào hệ thống tư tưởng của con, hệ thống niềm tin của con, hộp tư duy của con.

3.4. Tâm bị che mờ bởi hình ảnh

Đây chính là tình trạng của tất cả mọi người khi họ tới học với Đại thượng sư và bảy vị Thượng sư. Các con không đến với các thày với tâm tự do, vì nếu tâm con đã tự do thì con đâu cần đến các thày, phải vậy không con?

Con đến với các thày với tâm bị che mờ bởi các hình ảnh được tạo nên bởi quan niệm của con về thế giới, Thượng đế, và chính con. Câu hỏi cần được đặt ra là con sẵn sàng tới mức nào để các thày, các Thượng sư, thách đố các hình ảnh, niềm tin, và lý thuyết cưng yêu của con về cuộc đời. Khi đệ tử sẵn sàng thì vị thày xuất hiện. Đây là một quy luật hoàn vũ hướng dẫn sự tương tác giữa các vị thày tâm linh, các vị thày thực sự, và đệ tử đang đầu thai. Nhưng chính con sẵn sàng tới mức nào? Đó là câu hỏi mà ta cần suy ngẫm.

Con thấy chăng là khoa học đã khám phá ra một quy luật giản dị, gọi là quy luật thứ nhì của nhiệt động học (thermodynamics), nói rằng trong một hệ thống đóng kín, các lực đối chọi nhau sẽ mạnh tới độ tất cả cơ cấu của hệ thống đó rút cuộc sẽ bị tan vỡ, cho đến khi không còn gì tồn tại. Vì vậy, khi tâm con trở thành một hệ thống đóng kín thì con sẽ chịu quy luật thứ nhì của nhiệt động học, mà các thày cũng gọi là Trường đời Cay đắng. Khi tâm con còn đóng kín thì con không sẵn sàng đón nhận vị thày tâm linh, và không vị nào trong bảy vị Thượng sư sẽ có thể giúp được con.

Con có thể thu hút một vị thày tâm linh trên trái đất tuyên bố rằng vị ấy có thể giúp con. Con cũng có thể thu hút một vị thày bên ngoài cõi vật lý ở một trong những cõi thấp – hoặc là cõi tình cảm hay cõi lý trí – tuyên bố rằng vị ấy có thể giúp con. Một số vị đó cũng có thể giả danh là chân sư thăng thiên, nhưng các con ơi, sự thực thâm sâu là không có vị thày nào có thể làm gì thay con được. Vị thày chỉ có thể cho con cảm hứng để con tự mình làm một điều gì đó, vì lý do giản dị là con đường tu chân chính là con đường tự điều ngự (self-mastery). Do đó con phải là người chủ động. Thày không thể điều ngự tâm con thay con được! Chỉ có con mới có thể điều ngự tâm con.

3.5. Làm sao con trở thành học viên mà các thày có thể dạy được?

Khi con còn tin rằng con có thể nhét vũ trụ hay các chân sư thăng thiên hay Thượng đế vào trong hộp tư duy của con, thì các thày không tới con được, con là học viên mà các Thượng sư không thể dạy được. Lúc đó, thì các thày chỉ có thể khoanh tay đứng bên ngoài và nhìn con học trong Trường đời Cay Đắng, nơi con sẽ theo các thày giả cho tới khi con chán ngán. Hoặc là con chịu sự hạn chế của cõi vật chất và con học bằng cách thấy những hình tư tưởng của mình được phóng chiếu thành hoàn cảnh sống của mình. Con có thể đi vào một vòng xoắn càng ngày càng hạn chế tự do sáng tạo của mình, cho tới khi con cảm thấy mình không còn cựa quậy được nữa và cuối cùng thì con kêu gào lên để tìm đường thoát, kêu gào rằng cuộc sống này phải có cái gì hơn nữa, phải có một cách sống khác.

Con thấy chăng, ngay cả khi con đã kêu gào tìm đường thoát, thì không nhất thiết là các Thượng sư có thể giúp con. Yếu tố thiết yếu, đặc tính thiết yếu của một người sẵn sàng theo học các Thượng sư là con nhận ra rằng con phải chất vấn chính nhận thức của mình, con phải chất vấn cách con nhìn cuộc đời.

Do đó, ta có thể nói rằng bước đầu tiên trên con đường tu học theo các Thượng sư là con nhìn nhận là mình vô minh. Con thật sự nhìn nhận rằng dù con có một bồ kiến thức to lớn theo quan điểm thế gian nhưng kiến thức này đang tạo một nhà tù xung quanh tâm con và kềm giữ con lại. Quan niệm bình thường trong thế gian về vô minh là có điều gì con không biết. Định nghĩa này có phần đúng, có cái gì đó con không biết, nhưng tại sao con không biết điều đó?

Thật ra không phải vì bình chứa tâm con trống trơn mà con không biết cái gì con không biết. Đó chính là vì bình chứa tâm con quá đầy, khiến con không thể nhìn thấy những gì ngoài nội dung tâm con. Vậy trước khi con tới được điểm mà các Thượng sư có thể làm bất cứ điều gì để giúp con, thì ít nhất con cần phải có một cảm nhận vi tế là con cần chất vấn nội dung của bình chứa tâm của con hoặc con cần nhìn vượt lên trên nội dung đó. Ít nhất con cần phải có can đảm chất vấn một số những lý thuyết cưng yêu của mình, một số niềm tin sâu thẳm của con, một số điều mà con coi là đương nhiên.

Các Thượng sư chúng tôi hiểu rằng khi con tới điểm này lần đầu, con chưa sẵn sàng chất vấn tất cả mọi niềm tin của con. Nếu con chất vấn tất cả các niềm tin cùng một lúc, con sẽ rơi vào một cuộc khủng hoảng bản sắc, con sẽ cảm thấy như không biết mình là ai nữa. Lẽ dĩ nhiên, đó là vì con đã tạo ra một ý niệm bản sắc dựa trên những niềm tin đó.

3.6. Giữ chặt các ý tưởng của mình

Các thày không đòi hỏi con vứt bỏ tất cả các niềm tin cùng một lúc. Nhưng các thày yêu cầu con sẵn sàng nhìn vào một số niềm tin, và sẵn sàng để cho từng vị Thượng sư chất vấn một số niềm tin của con. Nếu con không chịu làm như thế, thì các thày không thể giúp con. Nhưng nếu con khư khư ôm chặt các ý tưởng của con, nói theo ngôn từ của Thiền Phật giáo thì các thày phải để con ngồi đó ôm chặt ý tưởng của mình, cho tới khi tâm con mở ra một chút để con chịu nhìn vượt lên trên một số ý tưởng của mình. Lúc đó, các thày có thể bắt đầu làm việc với con, các Thượng sư có thể nhập cuộc và nói: “Con hãy chất vấn ý tưởng này đi.” Và các thày dùng điểm đó như điểm khởi đầu. Bất cứ điều gì mà con chịu chất vấn, các thày sẽ dùng nó như điểm khởi đầu, cho tới khi con chất vấn xong xuôi ý tưởng đó và mở tâm chịu chất vấn một ý tưởng khác. Rồi dần dần, các thày sẽ dẫn con tiến thêm bước nữa và bước nữa, cho tới khi con tới những ý tưởng then chốt quy định ý niệm bản sắc của con. Những ý tưởng này không phải là nội dung trong bình chứa cái ta mà chính là thành của bình chứa cái ta. Đó là lúc con bắt đầu ngưng không tự đồng hóa với các niềm tin của mình. Con bắt đầu nhận ra con không phải là các niềm tin của mình; con hơn các niềm tin của mình.

Đây là lúc con mở tâm đón nhận ý tưởng cái “ta” mà con là không phải là cái ta vỏ ngoài được quy định bởi các niềm tin và kinh nghiệm sống trong thế gian này. Con vượt quá cái ta vỏ ngoài đó, con vượt quá các hình tướng thế gian, con vượt quá các hoàn cảnh thế gian. Đây là lúc con bắt đầu nhận ra con có khả năng đứng ra ngoài phàm ngã của mình. Dù là lúc đầu con chỉ trải nghiệm trong một thoáng giây, nhưng con có thể trải nghiệm một trạng thái tâm thức trong đó con nhìn một vật không qua phin lọc nhận thức của cái ngã tách biệt. Và như thế con không phóng chiếu gì hết lên vật đó.

Con đột nhiên có một thoáng biết, dù là một thoáng biết ngắn ngủi, là con đang trải nghiệm vật đó như nó là. Đó là lúc con thật sự bắt đầu tiến trình thật của hiểu biết, tiến trình thật của chứng ngộ. Khi con còn nhìn một vật qua phin lọc nhận thức của cái ngã tách biệt, thì con sẽ phải thấy là vật đó tách biệt khỏi con, và con không thể nhập một với nó hay tâm thức đằng sau nó. Con không thể nhập một với Thượng sư của một tia sáng khi con còn nhìn và thấy tia sáng, qua phin lọc nhận thức. Chỉ khi nào con bước ra ngoài phin lọc nhận thức – và thoáng nhận ra Thượng sư thật sự là ai, và không nhìn Thượng sư qua phin lọc nữa – thì lúc đó con mới thực sự biết tia sáng đó. Lúc đó, con có thể tiến thêm bước nữa, con có thể nhân lên những khả năng mà con đã được phú cho và con dần dần nhập một với tia sáng. Khi con nhập một với Tia sáng thứ Nhất và Thượng sư là Chân sư More thì tia sáng này không còn tạo ra tấm màn che mờ nhãn quan của con về cõi tâm linh. Bấy giờ, khi con là một với Tia sáng thứ Nhất, nó không che mờ nhãn quan của con, vì con nhìn xuyên qua nó.

Và như vậy, con tiến một bước gần hơn tới thiên đàng bằng cách nhập một với một trong bảy tia sáng thiêng liêng.

3.7. Một dòng suối róc rách

Khi con đi xa hơn trên đường tu qua bảy tia sáng, con có cái nhìn càng ngày càng rõ hơn về cõi tâm linh, về thực tại tâm linh. Sau đó con bắt đầu bước vào sự hợp nhất sẽ dẫn con tới tầng tâm thức thứ 96. Đó là lúc con phải chọn lựa, hoặc là con tiếp tục nâng cao cái ngã tách biệt – ngay cả dùng hiểu biết mà con gặt hái đuợc với bảy tia sáng để làm chuyện này – hoặc là con bước lên một viễn quan cao hơn qua đó con tìm cách nâng cao mọi sự sống vì con bắt đầu nhận ra rằng mọi sự sống là bản thể thật của mình.

Chỉ có một cái ta. Chỉ có một cái tâm; chỉ có một tâm thức. Chỉ có một Tánh linh (Spirit), và đó là Thánh Linh (Holy Spirit) đang nâng cao tất cả mọi sự sống, đang kéo mọi sự sống theo nó, giống như một dòng sông chảy về biển cả vô tận.

Thày sẽ chấm dứt bài giảng này bằng cách gợi ý là nếu con muốn biết Thánh linh là gì ­– Tánh linh Duy nhất, Tánh linh Sáng tạo, Dòng sông sự Sống – thì con hãy chiêm nghiệm hình ảnh một dòng suối róc rách. Nếu gần nơi con ở có một dòng suối thì con hãy ra đó. Con hãy ngả lưng bên bờ suối và lắng nghe. Nếu không thì thày biết chắc là con có thể tìm được một băng thâu thanh tiếng róc rách của một dòng suối. Con hãy cho phép mình tĩnh lặng, con hãy cho phép mình lắng nghe âm thanh của dòng suối.

Có hai khía cạnh thày muốn con chú tâm tới. Khía cạnh thứ nhất là dòng suối luôn luôn tuôn chảy. Con hãy chiêm nghiệm sự kiện con không thể ngưng không cho dòng sông tuôn chảy. Con không thể ngưng dòng nước chảy; nó mãi mãi chảy, tiếp tục chảy và không bao giờ ngừng.

Con có thể nghĩ rằng cái trí của con có thể nghĩ ra một kế hoạch đắp đập ngăn sông, nhưng nước sẽ tiếp tục dâng lên cho đến khi nó tràn qua đập. Không có đập nào vươn được tới trời, nhưng nước thì sẽ dâng lên mãi. Do đó, bất kể con người cố làm cách gì để đắp đập Dòng sông sự Sống – đây là điều mà hầu hết các hệ thống tư tưởng thế gian đều muốn làm – sẽ có một lúc nước tràn qua đập.

Khi con chiêm nghiệm là dòng sông chảy liên lục, thì con có thể nhận ra, con có thể nhìn thấy và trải nghiệm, sự vô ích tuyệt đối – sự phù phiếm tuyệt đối – của ý tưởng cho rằng con có thể ngăn dòng chảy, con có thể đắp đập dòng sông, con có thể ép nó vào một khuôn đúc bắt nó đứng yên. Tánh linh Duy nhất, Thánh linh, sẽ không bao giờ khép mình vào bất kỳ khuôn đúc nào do tâm tách biệt tạo ra! Nó sẽ mãi mãi tiến tới, nó sẽ mãi mãi thăng vượt, và nó sẽ mãi mãi tuôn chảy.

Nếu con muốn tiến tới, nếu con muốn thoát ra khỏi ngục tù do con tự dựng lên, thì con phải sẵn sàng tuôn chảy. Các Thượng sư chúng tôi đang có mặt để giúp con tuôn chảy. Các thày không có mặt để cho con kiến thức cố định về mỗi tia sáng, để rồi con có thể ngồi đó và cảm thấy mình khôn hơn, giỏi hơn người khác vì con có hiểu biết về các tia sáng tâm linh trong khi họ không có. Nếu đó là cách con nhìn bảy tia sáng, thì con đã hiểu sai về bảy tia và về con đường tu tập.

3.8. Sóng gió trong cuộc đời con

Các thày không mong muốn học viên trở nên kiêu ngạo, hãnh diện cho rằng họ cao hơn những ai không biết đến các chân sư thăng thiên. Điều này không quan trọng với các thày vì các thày là những người đã thoát khỏi tâm thức nhị nguyên của tự ngã và không hề mong muốn tách mình ra khỏi người khác hoặc muốn mình giỏi hơn người khác. Nếu con muốn biết các thày, thì con phải sẵn sàng tuôn chảy với các thày, vì các thày lúc nào cũng đang tuôn chảy. Các thày không đứng yên một chỗ, vậy con nên chiêm nghiệm sắc thái này của dòng sông, sự liên tục, sự lao tới phía trước không ngừng của dòng sông về hướng mục tiêu tối hậu là hợp nhất với đại dương của cái ta. Sau đó con hãy bước sang sắc thái kế tiếp.

Con hãy chiêm nghiệm tại sao dòng sông lại róc rách. Đó là vì dòng sông, nước của dòng sông đang chảy qua những hòn đá nằm dưới lòng sông. Khi nước chảy qua các hòn đá, nó tạo một xoáy rối và xoáy rối tạo nên âm thanh róc rách.

Những hòn đá trong dòng sông là biểu tượng của những niềm tin trong bình chứa cái ta, những niềm tin dựa trên nhị nguyên, những hình tư tưởng thấy mình là một chủ thể tách biệt đang tìm hiểu một đối tượng tách biệt.

Con cần vứt các niềm tin này. Con cần sẵn sàng để cho các Thượng sư giúp con nhìn mỗi hòn đá trong dòng tâm thức của mình, nhận ra nó thực sự là gì, nhận ra ảo tưởng nhị nguyên đằng sau nó. Sau đó, con lấy nó ra, vứt nó đi và nói: “Tôi không cần cái này trong dòng tâm thức của tôi nữa.”

Sau đó, khi con tiến bước qua bảy tia sáng, đi từ tầng tâm thức 48 lên tới tầng 96, thì con càng ngày càng vứt thêm nhiều hòn đá, và chuyện gì sẽ xảy ra? Chuyện sẽ xảy ra là dòng tâm thức của con càng ngày càng yên lặng. Và không còn tiếng ồn ào của các xoáy rối trong tâm con nữa.

Ta có thể nói là Dòng sông sự Sống đang tuôn chảy xuyên qua tâm con – vì nếu không thì con không thể đang sống. Nhưng con đang kháng cự lại dòng chảy và đó là lý do vì sao con không thấy. Con không thấy được quá các xoáy rối được tạo nên khi dòng nước của sự sống chảy qua các hòn đá. Và tâm của con quá hỗn loạn, quá tràn đầy tiếng ồn ào của lý trí và cảm xúc nên con không thấy được gì quá tiếng ồn ào được tạo ra trong tâm con.

Khi con vứt đi hết hòn đá này tới hòn đá kia, thì các xoáy rối không còn nữa. Sẽ tới một lúc con an trụ vào sự tĩnh lặng đằng sau tiếng róc rách của dòng suối, tiếng róc rách trong tâm, tiếng lảm nhảm liên tục không ngừng của tự ngã. Như thày đã nói, đó là lúc con bắt đầu thấy mà không thấy xuyên qua phin lọc nhận thức của cái ngã tách biệt. Đây là cái thấy thuần khiết, thấy như thật, nhận thức trần trụi, nhận thức thuần khiết.

3.9. Lắng tâm xuống

Mục tiêu đầu tiên thày muốn con nhắm tới là con khiến tâm mình lắng yên xuống, để con có thể thấy mọi vật như chúng là. Để con có thể thấy bảy tia sáng như chúng thật sự là và các Thượng sư như các thày thật sự là; mà không phóng chiếu hình tư tưởng nào lên những gì con muốn biết. Xa hơn nữa là mục đích rộng lớn hơn là nhập một, thay vì nhìn mọi thứ từ một khoảng cách. Đây là phần giáo lý đầu tiên mà thày muốn trao cho con. Có nhiều điều con cần chiêm nghiệm trong phần này, nhưng cũng sẽ còn rất nhiều điều khác nữa trong những phần tới.

Thày cảm ơn con đã chú tâm tới điểm này trên dòng sông, nhưng con hãy nhận ra rằng ngay lúc con chú tâm tới một điểm trên dòng sông thì điểm này đã di động. Dòng nước sự sống sẽ tiếp tục tuôn chảy. Hòn đá thì đứng tại chỗ, do đó nếu con chú tâm vào hòn đá, thì con sẽ là một vật đứng yên. Và con sẽ cảm thấy cuộc đời tuôn chảy bên mình, giống như dòng nước sự sống đang tuôn tràn qua đầu con. Nhưng con sẽ tới điểm con có thể bỏ không ôm hòn đá nữa và tuôn chảy theo dòng nước, và lúc đó con sẽ không còn cảm thấy mình bị cho ra rìa hay bị cuộc đời bỏ lại đằng sau.

Nếu con sẵn sàng tuôn chảy theo cuộc sống, thì đâu thể nào con bị bỏ lại đằng sau? Chỉ cái gì đứng yên mới có thể bị bỏ lại đằng sau.

TA LÀ Đại thượng sư, và thày luôn luôn chuyển động, luôn luôn thăng vượt, luôn luôn trở nên HƠN NỮA. Thày không chỉ ở trong Dòng sông sự Sống; THÀY LÀ Dòng sông sự Sống cho hành tinh trái đất.

10 | Con thỉnh cầu viễn quan của Sứ vụ Thiêng liêng của con

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng và Cha Thiêng liêng, đặc biệt là Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, Nữ thần Tự do và Mẹ Mary, hãy giúp con khắc phục mọi sự thiếu khả năng hay thiếu sẵn sàng thấy và làm hòa với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Xin các thày giúp con chấp nhận uy lực sáng tạo của con và thấy những yếu tố ngăn cản dòng chảy của sự sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con, kể cả …

[Đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Con có viễn quan về sư vụ thiêng liêng của con

1.1. Trước khi con xuống hiện thân trong kiếp này, con đã gặp các vị thày tâm linh của con và thảo ra một kế hoạch rất chi tiết về những gì con muốn học, những gì con muốn trải nghiệm và phần nào nghiệp quá khứ con cần khắc phục trong kiếp này.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nay con biết,
Cả thế gian chỉ là cõi huyễn ảo,
Trong tim con cảm nhận rõ làm sao,
Không có gì ngoài Tánh linh là thật. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.2. Con thanh tẩy trí thể của con để nhìn quá tất cả những chờ đợi con đã xây đắp trong kiếp này và mọi chờ đợi bất toàn, nhị nguyên vẫn còn tồn tại trong tâm dài hạn của con. Con có cái nhìn sáng rõ về sứ vụ thiêng liêng của con, cả sứ vụ dài hạn lẫn kế hoạch cụ thể cho kiếp này.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, giúp con nhìn, 
Con muốn sống trong viễn kiến quang minh,
Con đã thấy được Sứ vụ Thiêng liêng,
Hiểu kế sách độc đáo của chính mình. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.3. Con có viễn quan sáng rõ của Ngọn lửa Thượng đế của con và cách đem ánh sáng và đặc tính của Ngọn lửa Thượng đế của con để đảy lui bóng tối trên trái đất.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, cho con thấy, 
Những trò chơi uẩn khúc của ngã này,
Giúp con thoát lồng giam của tự ngã,
Để đem lại một thời mới thăng hoa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.4. Con có viễn quan sáng rõ của tầng mức cụ thể hơn của sứ vụ thiêng liêng của con, những mục tiêu đặc thù của kiếp sống này.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nhập với thày, 
Viễn quan con là một, chẳng còn hai,
Thày xua tan tấm màn của nghiệp quả,
Nguyên vũ trụ hiện ra sao mới quá. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.5. Mẹ Mary, xin thày giúp con thấy mọi chờ đợi trong tâm vỏ ngoài đi ngược lại sứ vụ thiêng liêng của con. Con buông bỏ các dính mắc vào các chờ đợi bên ngoài này, và tâm ý thức của con quả thực muốn thấy sứ vụ thiêng liêng.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con không quản,   
Chén con ngập điện từ với ánh sáng,
Thày tiêu hủy hồn bóng của dĩ vãng,
Và cho con tầm nhìn rất bạo dạn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.6. Con sẵn lòng làm mọi chỉnh đổi trong nếp sống vỏ ngoài để thực thi sứ vụ thiêng liêng của con. Con sẵn lòng buông bỏ các chờ đợi nhị nguyên, tạm bợ và mọi dính mắc tình cảm muốn thỏa mãn những ham muốn và chờ đợi này.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, tim chân thành, 
Con bắt tay làm phần vụ thần thánh.
Con thấy rồi, thày ơi, trong phút ngẫu,
Sứ vụ con sẽ dẫn tới nơi đâu. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.7. Con làm hòa với sứ vụ thiêng liêng của con. Con với lên trên những ham muốn và chờ đợi hữu diệt là cuộc đời của mình phải như thế nào. Con sẵn sàng “mất cuộc sống”, mất những dính mắc vào các chờ đợi nhị nguyên của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con ân huệ, 
Thấy vai trò mình trong công cuộc lớn,
Và cũng thấy ngọn lửa của cá thể,
Nét độc đáo của con do Thượng đế. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.8. Con nhìn quá những ham muốn và chờ đợi ngắn hạn của con. Con vứt bỏ lập trình của thế gian bảo con là ai và phải sống cuộc đời mình ra sao. Con buông bỏ những hình ảnh ngăn cản con thấy được sứ vụ thiêng liêng của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, mắt đơn nhất, 
Thấy TA LÀ chính Mặt trời Thượng đế.
Khi thày ban chỉ đạo Thiêng liêng nhất,
Con cũng tỏa ánh sáng thật tràn trề. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

1.9. Con có viễn quan sáng rõ về những gì con cần làm, và con có viễn quan sáng rõ và cân bằng về cách thực hiện. Con có tầm nhìn cân bằng của trung đạo và con buông bỏ những chờ đợi và ham muốn nhị nguyên đã đi vào cả hai tâm dài hạn và ngắn hạn của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ôi hân hạnh, 
Được đóng góp cho Tánh linh cất cánh,
Nâng loài người ra khỏi đêm cùng quạnh,
Để tắm nắng trong tình yêu Linh thánh. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

2. Mọi chuyện đều là cơ hội tăng triển

2.1. Con nhìn ra cách sống một đời sống cân bằng và  kết hợp tâm linh với đời sống hàng ngày. Con thấm đẫm mọi khía cạnh cuộc đời con với các niềm tin tâm linh. Cuộc đời con biểu hiện con người mà con là như một sinh thể tâm linh.

Ôi Mẹ Tự do, cho con thoát khỏi
lời nguyền của rắn muốn con đói nghèo.
Con không trách mẹ vì đời còm cõi,
ôi Mẹ Chân phước, con xin về theo.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.2. Con thấy là sứ vụ thiêng liêng của con được thiết kế để giúp con khắc phục nghiệp quá khứ và chuyện con đã tự đồng hóa với tâm thức nhị nguyên. Con đã thấy cách khắc phục nghiệp trước khi nó trở thành vật lý và học những bài học con cần học để khắc phục các tin tưởng nhị nguyên.

Ôi Mẹ Tự do, từ xa không ngại,
con xuống nơi đây, muốn tiến Hơn hoài.
Con thấy trù phú là dòng nước thánh,
tâm thức dồi dào, con tăng triển nhanh.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.3. Con nhìn ra cách khắc phục nghiệp từ những kiếp trước với cha mẹ, anh chị em, người phối ngẫu, con cái và những người mà con gặp. Con tạo mối quan hệ thương yêu giúp con vượt lên trên nghiệp đó.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày gian dối,
mọi điều giới hạn không buộc con nổi.
Ánh sáng Mẫu-Vật không chống lại con,
nó ban trù phú rất thật viên tròn.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.4. Con thấy liệu có phần sứ vụ thiêng liêng quy định con cần ở trong hoàn cảnh không được dồi dào vật chất. Con chú tâm học bài học mà con cần học. Con thăng vượt nhu cầu phải ở trong hoàn cảnh thiếu thốn.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày mưu dối,
sa nhân phóng chiếu từ tâm tăm tối.
Ôi Mẹ Hoàn vũ, nay con nhìn rõ,
Mẹ không chống con, cho con ấm no.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.5. Con chuyển đổi cách con nhìn đời, thái độ của con trước cuộc sống, cách con tiếp cận cuộc sống. Con chấp nhận thực tại là mọi chuyện xảy ra trong đời mình đều là cơ hội tăng triển.

Ôi Mẹ Tự do, mắt con mở to,
dối gian của rắn, con nay bác bỏ.
Cõi của Mẹ đây, con ôm hoài hoài,
hòa cùng với Mẹ, Cha cầm bánh lái.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.6. Con đã chọn hoàn cảnh hiện tại vì chúng cho con một cơ hội độc đáo để vượt lên trên các niềm tin nhị nguyên và nghiệp của con. Dù con gặp hoàn cảnh nào chăng nữa, con biết nó thuộc sứ vụ thiêng liêng của con.

Ôi Mẹ Tự do, bốn thể phàm con
là chén thánh nhận ánh sáng sạch trong.
Mẹ gửi qua con giai điệu ngàn thu,
quà tặng thiêng liêng Tự do Hoàn vũ.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.7. Mục đích của sứ vụ thiêng liêng là đặt con trong những hoàn cảnh cho con cơ hội tốt nhất để con vươn lên cao hơn bằng cách khắc phục một số niềm tin nhị nguyên trong một trong bốn thể phàm của con.

Ôi Mẹ Tự do, cánh cửa mở ra,
giai điệu Hơn Nữa, con theo thiết tha.
Mẹ ban ánh sáng, luân xa con mới,
dòng thác tình yêu tuôn chảy đời đời.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.8. Con là một người lúc nào cũng đang tham dự vào tiến trình học hỏi những bài học trong cuộc sống. Mọi hoàn cảnh con gặp đều là một bàn đạp để con tăng triển. Con buông bỏ mong chờ cuộc đời phải dễ dàng hay phải phù hợp với một tiêu chuẩn toàn hảo nào đó do con người đặt ra. Cuộc đời là một cơ hội tăng triển và cuộc đời phải đặt con vào hoàn cảnh bắt con phải khắc phục một số giới hạn.

Ôi Mẹ Tự do, dòng chảy ngọt ngào,
mẹ ban tất cả đời sống dồi dào.
Con dang vòng tay đón nhận quà mẹ,
Áo Vàng mẹ dệt, tình mẹ chở che.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

2.9. Tất cả những trải nghiệm con có trong kiếp sống này là những cơ hội độc đáo để con học một bài học cụ thể, khắc phục một số chờ đợi nhị nguyên và tiến một bước gần hơn đời sống dồi dào. Con tự do khỏi dính mắc tình cảm với một hoàn cảnh đặc thù. Con xin cái ta Ki-tô giúp con học bài học đằng sau hoàn cảnh bên ngoài. xxx

Ôi Mẹ Tự do, thuốc mẹ ban ra,
giải phóng người nghèo mệt nhoài vật vã.
Đám người nằm rúc, mẹ giải thoát qua
Bài Hát Tự do, tình mẹ chan hòa.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

3. Con giải thoát khỏi niềm tin giới hạn

3.1. Con biết là nếu con cứ thu hút cùng một hoàn cảnh tái diễn hoài hoài, thì đó là vì con chưa học xong một bài học đặc thù. Con xin chỉ đạo từ cái Ta Ki-tô của con, và con biết con sẽ nhận được câu trả lời. Khi con học xong bài học, thì hoàn cảnh bên ngoài sẽ thay đổi.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nay con biết,
Cả thế gian chỉ là cõi huyễn ảo,
Trong tim con cảm nhận rõ làm sao,
Không có gì ngoài Tánh linh là thật. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.2. Con buông bỏ mọi cảm giác cuộc đời con là một thất bại. Con không phác họa sứ vụ thiêng liêng của con theo những chờ đợi nhân phàm. Rất có thể những gì được coi là thất bại theo chờ đợi thế tục lại là một chiến thắng theo sứ vụ thiêng liêng của con.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, giúp con nhìn, 
Con muốn sống trong viễn kiến quang minh,
Con đã thấy được Sứ vụ Thiêng liêng,
Hiểu kế sách độc đáo của chính mình. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.3. Dù cuộc đời con có bất toàn tới đâu, con vẫn dùng mọi lầm lỗi như một cơ hội để nhìn thấu suốt một ảo tưởng nhị nguyên và do đó bước lên bực thang kế tiếp của cầu thang xoáy ốc. Khi con tăng triển tâm linh thì đời con không uổng phí, dù những chờ đợi thế tục có nói gì chăng nữa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, cho con thấy, 
Những trò chơi uẩn khúc của ngã này,
Giúp con thoát lồng giam của tự ngã,
Để đem lại một thời mới thăng hoa.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.4. Một phần của sứ vụ thiêng liêng của con là khắc phục những giới hạn nhân phàm. Để khắc phục một giới hạn nào đó, con phải làm một điều mà hiện nay con nghĩ con không thể làm được. Niềm tin có chuyện gì bất khả thi giữ con bị kẹt trong giới hạn đó.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, nhập với thày, 
Viễn quan con là một, chẳng còn hai,
Thày xua tan tấm màn của nghiệp quả,
Nguyên vũ trụ hiện ra sao mới quá. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.5. Đằng sau mọi giới hạn là niềm tin nhị nguyên khiến con nghĩ có một số chuyện con không thể làm. Con thăng vượt nhận thức có một số chuyện không thể xảy ra. Con phá vỡ lập trình của ngã hữu diệt, và con biết là với Thượng đế mọi chuyện đều làm được.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con không quản,   
Chén con ngập điện từ với ánh sáng,
Thày tiêu hủy hồn bóng của dĩ vãng,
Và cho con tầm nhìn rất bạo dạn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.6. Con có thể khắc phục mọi giới hạn mà con gặp nếu con chịu thăng vượt tầng nhận biết hiện thời của con. Sứ vụ thiêng liêng của con được thiết kế dựa trên thẩm định thực tế về tầng nhận biết tâm linh hiện tại của con. Con có thể khắc phục bất cứ thách đố nào và học bài học bằng cách vươn lên một tầng nhận biết cao hơn.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, tim chân thành, 
Con bắt tay làm phần vụ thần thánh.
Con thấy rồi, thày ơi, trong phút ngẫu,
Sứ vụ con sẽ dẫn tới nơi đâu. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.7. Cảm giác có cái gì đó không thể làm được chính là vấn đề mà con cần khắc phục. Chìa khóa để cải thiện hoàn cảnh cá nhân của con là con phải thay đổi. Con nhìn vào trong tâm mình và khám phá ra bài học. Khi con học xong bài học, hoàn cảnh bên ngoài sẽ thay đổi một cách mầu nhiệm.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con ân huệ, 
Thấy vai trò mình trong công cuộc lớn,
Và cũng thấy ngọn lửa của cá thể,
Nét độc đáo của con do Thượng đế. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.8. Con nhìn quá hoàn cảnh bên ngoài và thấy bài học ẩn giấu đằng sau. Lý do vì sao con nghĩ con không thể khắc phục một vấn đề là vì có một bài học con chưa học xong.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, mắt đơn nhất, 
Thấy TA LÀ chính Mặt trời Thượng đế.
Khi thày ban chỉ đạo Thiêng liêng nhất,
Con cũng tỏa ánh sáng thật tràn trề. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

3.9. Có nhiều chuyện trên thế gian mà con không thể làm được với quyền năng của tâm ý thức của con. Nhưng khi con có quyền năng của Thượng đế thì mọi việc đều làm được. Con giải thoát khỏi những giới hạn nhân phàm bằng cách khắc phục những tin tưởng nhị nguyên đang ngăn cản ánh sáng Thượng đế thị hiện sự dồi dào mà Thượng đế muốn con có.

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ôi hân hạnh, 
Được đóng góp cho Tánh linh cất cánh,
Nâng loài người ra khỏi đêm cùng quạnh,
Để tắm nắng trong tình yêu Linh thánh. 

Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, ánh sáng tỏa, 
Cho cái nhìn trong con hết mù lòa.
Nhìn thanh khiết cũng là nhìn tự do.
Thày dẫn dắt và luôn luôn ở đó. 

4. Con nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng của hành tinh

4.1. Con xem xét liệu con có đã tình nguyện nhận lãnh một lượng năng lượng, hay nghiệp, trong tâm thức tập thể. Con xem xét liệu việc này đã biểu lộ thành hoàn cảnh sống giới hạn trong cuộc đời con, tỷ dụ như bệnh tật hay thiếu dồi dào.

Ôi Mẹ Tự do, cho con thoát khỏi
lời nguyền của rắn muốn con đói nghèo.
Con không trách mẹ vì đời còm cõi,
ôi Mẹ Chân phước, con xin về theo.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.2. Con mang năng lượng hay nghiệp đó để minh chứng cho người khác là có thể khắc phục những gánh nặng này khi tiếp cận đời sống một cách tâm linh. Con nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng của con và con hoàn toàn bình an, dù đang kinh qua một số giới hạn và gánh nặng bên ngoài.

Ôi Mẹ Tự do, từ xa không ngại,
con xuống nơi đây, muốn tiến Hơn hoài.
Con thấy trù phú là dòng nước thánh,
tâm thức dồi dào, con tăng triển nhanh.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.3. Con thấy là con đã mang những gánh nặng này vì một mục đích lớn hơn và dù chúng gây khó chịu cho con trong kiếp này, con nhận ra kiếp sống này chỉ vỏn vẹn là một khoảng khắc rất ngắn trong cái miên viễn của Dòng sông sự Sống. Qua việc chịu gánh nặng thay cho người khác, con đang tích lũy báu vật cho chính mình trên thiên đàng. Con sẽ nhận phần thưởng xứng đáng trong kiếp tới hay khi con thăng lên cõi tâm linh.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày gian dối,
mọi điều giới hạn không buộc con nổi.
Ánh sáng Mẫu-Vật không chống lại con,
nó ban trù phú rất thật viên tròn.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.4. Thay vì cam chịu những gánh nặng hiện nay của con, con dùng những dụng cụ để cầu thỉnh năng lượng tâm linh và tiêu trừ năng lượng tha hóa để con không còn phải mang gánh nặng vật lý.

Ôi Mẹ Tự do, phơi bày mưu dối,
sa nhân phóng chiếu từ tâm tăm tối.
Ôi Mẹ Hoàn vũ, nay con nhìn rõ,
Mẹ không chống con, cho con ấm no.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.5. Con xem xét liệu con có đã tình nguyện mang một số điều kiện giới hạn để nêu gương cho người khác thấy là có thể vượt lên trên bất kỳ điều kiện vật lý nào và biểu đạt một lối sống tâm linh hơn. Con xem xét liệu mục đích của con là gỡ bỏ những giới hạn vật lý hay có thể sống với những điều kiện này mà không để chúng ngăn cản con là người con là và làm công việc con tới đây để làm.

Ôi Mẹ Tự do, mắt con mở to,
dối gian của rắn, con nay bác bỏ.
Cõi của Mẹ đây, con ôm hoài hoài,
hòa cùng với Mẹ, Cha cầm bánh lái.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.6. Con hòa điệu với những cách cụ thể khắc phục nhũng giới hạn mà con đối diện. Thượng đế không bao giờ đòi hỏi con phải đối diện một giới hạn mà con không thể khắc phục – nếu con sẵn lòng vượt thăng chính mình. Con thăng vượt niềm tin nhị nguyên cho rằng không thể thăng vượt giới hạn.

Ôi Mẹ Tự do, bốn thể phàm con
là chén thánh nhận ánh sáng sạch trong.
Mẹ gửi qua con giai điệu ngàn thu,
quà tặng thiêng liêng Tự do Hoàn vũ.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.7. Khi con khắc phục một tin tưởng nhị nguyên đặc thù, con mở một con đường xuyên qua rừng rậm của tâm thức tập thể. Con xẻ một con đường và người khác có thể đi theo con đường này. Con là nguòi khai phá chứng minh cách khắc phục giới hạn cụ thể đó.

Ôi Mẹ Tự do, cánh cửa mở ra,
giai điệu Hơn Nữa, con theo thiết tha.
Mẹ ban ánh sáng, luân xa con mới,
dòng thác tình yêu tuôn chảy đời đời.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.8. Con thanh tẩy trí thể và nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng của con, và kế hoạch lớn hơn cho hành tinh. Con biết con có thể đóng góp phần việc cá nhân của con như thế nào, và việc này sẽ cho con quyền năng để khám phá những sáng ngộ mà con cần để khắc phục những tin tưởng nhị nguyên là nguyên nhân ẩn tàng đằng sau những giới hạn hiện nay của con.

Ôi Mẹ Tự do, dòng chảy ngọt ngào,
mẹ ban tất cả đời sống dồi dào.
Con dang vòng tay đón nhận quà mẹ,
Áo Vàng mẹ dệt, tình mẹ chở che.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

4.9. Con hiểu ra mục đích thật của sự sống và mục đích cụ thể của kiếp sống này của con. Con cảm thấy niềm vui khi con biết con đang vượt lên trên toàn bộ tâm thức giới hạn, tâm thức nhị nguyên, tâm thức Ma-môn và đem vương quốc Thượng đế vào đời sống hàng ngày của con.

Ôi Mẹ Tự do, thuốc mẹ ban ra,
giải phóng người nghèo mệt nhoài vật vã.
Đám người nằm rúc, mẹ giải thoát qua
Bài Hát Tự do, tình mẹ chan hòa.

Ôi Mẹ Tự do, mẹ yêu Hoàn vũ,
điều khiển khúc Nhạc Giao hưởng Trù phú.
Phụng sự tối cao của con, con thấy,
dồi dào rất thật, đời con tràn đầy.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, Nữ thần Tự do và Mẹ Mary hãy niêm con và tất cả những  người trong vòng ảnh hưởng của con trong dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả đại diện Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó con chấp nhận chuyện này đã hoàn toàn thể hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà CON LÀ, đã nói ra nó. Amen.

25 | Con có chọn lựa: gia tăng kháng cự hay gia tăng thăng vượt

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 1 tháng 1, 2011.

Phật TA LÀ. Gautama là danh tính mà trong hơn 2500 năm qua người ta đã gắn liền với dòng sống mà thày là. Con yêu dấu, 2500 năm có vẻ là một thời gian rất dài nhưng đối với Phật, có ý nghĩa gì mà nói về thời gian? Bởi vì đây là ảo tưởng vĩ đại phát sinh từ tâm thức tách biệt cho rằng người ta có thể chia dòng chảy của sự sống thành nhiều khúc, rồi dán nhãn là quá khứ, hiện tại với tương lai. Hay đúng hơn chúng ta phải nói: dán nhãn như là quá khứ và tương lai thôi, vì quả thực những ai bị mù quáng bởi tâm thức nhị nguyên không bao giờ có thể sống trong hiện tại. Họ sống trong quá khứ hay trong tương lai vì họ không bao giờ hướng chú ý vào bên trong để mà thực sự trải nghiệm khoảnh khắc hiện tại, và như vậy trải nghiệm khoảnh khắc hiện tại chính là hiện tại vĩnh cửu. Hiện tại này vượt khỏi quá khứ, vượt khỏi tương lai – bởi vì nó chuyển động khi con chuyển động xuyên qua không gian của Phật.

Con thấy đó, ảo tưởng do tâm thức nhị nguyên tạo ra là có một sự chuyển động xuyên qua thời gian. Nhưng sự thật nhìn từ góc độ của Phật là: thời gian không có. Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa không gian là tất cả cái gì có đó để con chuyển động xuyên qua. Con không chuyển động trong thời gian mà con đang chuyển động trong không gian, là không gian cung cấp khoảng trống cho đủ loại hình tướng có chỗ tồn tại. Là không gian cho phép con di chuyển từ khởi điểm của con đến một điểm không phải là kết thúc, mà là sự hợp nhất với cội nguồn của con, với Đấng Sáng tạo của con, với tất cả những gì hiện hữu.

25.1. Ảo tưởng vật chất tách biệt với Tánh linh

Như con cũng biết – nếu con nghĩ về những gì các nhà vũ trụ học đã nói với con – trái đất đang chuyển động theo một quỹ đạo hình bầu dục quanh mặt trời. Nhưng có bao nhiêu người nghĩ đến sự kiện mặt trời cũng đang chuyển động trong không gian? Và do đó, mặt trời đang đi theo một quỹ đạo lớn hơn nhiều quanh trọng tâm của nó so với trái đất. Và như vậy nếu con nhìn quỹ đạo của trái đất trong không gian thực tế, con sẽ thấy là quỹ đạo này không bầu dục mà tương tự như một hình xoắn ốc đi theo một hướng rõ rệt. Tất nhiên, nếu con lùi lại xa hơn nữa và nhìn quỹ đạo thực của mặt trời, con sẽ thấy là mặc dù mặt trời di chuyển xung quanh một trọng tâm, nhưng trọng tâm này cũng đang di chuyển xuyên qua không gian. Và như thế ngay cả quỹ đạo của mặt trời cũng theo một hình xoắn ốc.

Nghĩa là không có gì đứng yên một chỗ, không có gì đi theo vòng tròn, không có vòng tròn nào là khép kín vì toàn bộ vũ trụ đang giãn nở. Và đó là tại sao thời gian không thực. Thời gian là ảo ảnh, là trò bịp của tâm bị mù quáng bởi Maya, bởi ảo tưởng rằng vật chất là thực, bởi ảo tưởng rằng tự thân Đấng Mẹ là thực, tồn tại độc lập với Đấng Cha.

Và con thấy đó – như thày đã trình bày năm ngoái cũng vào thời điểm Tân niên – năm của Đấng Con đã là thử thách để học cách phân biện từ góc nhìn của Ki-tô giữa cái không thực và cái thực. Nhưng trong năm nay, năm của Đấng Mẹ, sự phân biện này cần được đưa vào sâu hơn nếu nhân loại muốn vượt qua các cuộc điểm đạo mà năm nay biểu tượng.

Bởi vì thật vậy, khả năng phân biện mà con cần thu hoạch trong năm sắp tới, trong chu kỳ khai ngộ sắp tới, là học cách nhìn xuyên thấu ảo tưởng cho rằng Đấng Mẹ, năng lượng của vật chất, tách biệt khỏi nguồn cội của nó – tức là, tất nhiên, Đấng Cha hay Tánh linh. Con hãy nhìn hành tinh này, nhìn xem biết bao người bị đui mù trong ảo tưởng rằng họ sống trong một thế giới tách khỏi nguồn cội của nó, tách khỏi Tánh linh. Nhìn xem biết bao người bị đui mù trong ảo tưởng rằng Tánh linh không có, rằng ngoài thế giới vật chất ra thì không có gì. Nhìn xem biết bao người phủ nhận bản chất tâm linh của họ, phủ nhận thực tế họ là những sinh thể tâm linh chỉ tạm thời cư ngụ trong một thế giới vật chất.

Nhưng đây có phải là một thế giới của vật chất, hay có một thực tại thâm sâu hơn rằng con là một sinh thể tâm linh đang ngụ trong một thế giới của Tánh linh? Bởi vì khi con là biểu hiện của Tánh linh thì mọi thứ khác trong thế giới vật chất cũng là một biểu hiện của Tánh linh. “Không có ngài thì không có tạo vật nào được tạo thành,” như Kính thánh đạo Cơ đốc đã nói. Và con cũng tìm thấy cùng khái niệm này trong đạo Phật, đạo Ấn, đạo Lão, đạo Hồi và hầu hết các truyền thống tôn giáo hay tâm linh khác.

Tuy nhiên mặc dù các giáo lý đó được dành cho những ai có mắt để nhìn, hầu hết mọi người lại không có mắt để mà nhìn. Hầu hết đều đi theo một tôn giáo và họ có thể học hỏi giáo lý của tôn giáo đó, họ có thể tin theo nghĩa lý bên ngoài, nhưng họ không tin theo nghĩa là họ trải nghiệm, họ chứng nghiệm trong nội tâm những gì giáo lý dạy. Và như vậy, họ có thể đọc đi đọc lại kinh sách mà không thực sự trải nghiệm được sự thật thâm sâu vượt khỏi chữ nghĩa, sự thật không thể nào tóm bắt bởi ngôn từ, không thể nào gói ghém trong cỗ xe bất toàn của ngôn từ.

Vì làm thế nào ngôn từ có thể chứa đựng Tánh linh – ngoại trừ tất nhiên khi ngôn từ được diễn giải bởi một sinh thể biết rõ bản chất tâm linh nội tại của mình và vì vậy có khả năng phú cho ngôn từ một ý nghĩa sâu sắc hơn, một năng lượng tinh tế hơn? Cho nên con có thể dùng từ ngữ như những viên đá lót đường để băng qua dòng sông tâm thức hầu sang được bờ bên kia, nơi có Tánh linh chờ đón để cho con sự chứng nghiệm về chính nó, để cho con một hé thoáng rằng vượt khỏi tâm màn của vật chất chỉ có một thực tại duy nhất. Vượt khỏi hằng hà sa số hình tướng khác nhau đang kích thích giác quan của con, đang níu kéo sự chú ý của con, chỉ có một thực tại duy nhất, một Tánh linh duy nhất.

25.2. Thấy dòng chảy tâm thức đằng sau mọi hình tướng

Khi con thấy được điều này cho dù chỉ trong một thoáng, con có thể bắt đầu vén tấm màn lên để con không phải băng qua dòng sông nữa. Vì bây giờ con thấy rõ, thật không đúng mà bảo rằng Tánh linh ở bên kia bờ sông và vật chất thì tách khỏi Tánh linh. Con thấy Tánh linh cũng chính là dòng sông, và Tánh linh cũng là vật chất. Con khởi sự khi con thấy Tánh linh là một dòng chảy tâm thức chứ không phải là Thượng đế bất biến được mô tả sai lầm bởi nhiều tôn giáo vỏ ngoài – hay đúng hơn, được mô tả bởi các nhà thuyết pháp giả hiệu của các tôn giáo vỏ ngoài đó, khi họ dựng lên đủ loại giáo điều và cách diễn giải khác xa kinh sách và nội dung tâm truyền của kinh sách. Và con phải tự hỏi làm thế nào người ta có thể tiếp tục tin vào những cách diễn giải này, được quảng bá liên tục bởi những kẻ xưng mình có quyền điều khiển quần chúng qua việc củng cố ảo tưởng rằng con người bị tách khỏi nguồn cội của mình, tách khỏi Thượng đế của mình. Và do đó, người ta mới cần đến các nhà thuyết pháp giả hiệu kia, lớp thượng tôn quyền lực kia, để đến gần Thượng đế vì họ không thể tự mình tìm thấy Thượng đế.

Thực tại sâu hơn là quả thực Thượng đế là Thượng đế hằng sống. Thượng đế là một dòng tâm thức, và khi con bắt đầu thấy Thượng đế là một dòng tâm thức thì con có thể dần dần nhận ra chính mình cũng là một dòng tâm thức. Xong con có thể vượt xa hơn và thấy ngay cả thế giới vật chất cũng là một dòng tâm thức. Đó là khi con bắt đầu ngộ ra Thượng đế Cha là một dòng tâm thức đã tự biểu lộ dưới dạng các hình thể vật chất. Và mặc dù các hình thể này có vẻ tách biệt – chúng có vẻ riêng biệt, tách rời khỏi Tánh linh và tách rời lẫn nhau – nhưng chúng không thực sự tách biệt. Mặc dù chúng có vẻ phần nào liên tục, thậm chí phần nào thường tồn, chúng vẫn chỉ là những dòng tâm thức.

Sự kiện mà các nhà khoa học đã quan sát chính xác rằng toàn bộ vũ trụ vật chất đang giãn nở, quả là một bằng chứng cho thấy đó là một dòng tâm thức. Bởi vì con yêu dấu, con hãy thử nhìn vào huyền thoại khoa học – con hãy lưu ý thày nói rõ “huyền thoại” – về vụ Nổ Lớn (Big Bang), và con thử xem xét khái niệm này. Ở một thời điểm xa xôi, toàn bộ vũ trụ vật chất mà con biết từng bị dồn nén vào một điểm độc nhất, một điểm dị biệt. Thế rồi, tất cả những gì đã từng hiện hữu và sẽ hiện hữu – dưới dạng vật chất và năng lượng – đã bị ném tung ra mọi phía trong một vụ nổ khổng lồ.

À, nếu thật sự đúng như vậy thì làm sao con có thể giải thích là vũ trụ vật chất không chỉ đang giãn nở mà lại còn giãn nở với tốc độ càng ngày càng nhanh? Con không có cách nào giải thích là năng lượng ban đầu của vụ nổ Big Bang lại có thể khiến cho vũ trụ giãn nở ngày càng nhanh hơn. Bởi vì năng lượng tạo sự gia tốc sẽ đến từ đâu? Nó không thể đến từ vụ nổ nguyên thủy, vì hiển nhiên lô-gic sẽ bảo con rằng nếu toàn bộ lực đẩy đã được phóng ra ngay từ đầu, thì vũ trụ đã phải ngừng gia tốc ỏ nhịp độ đó và cuối cùng đã phải bắt đầu co lại. Thế nhưng quan sát và đo đạc chứng minh là điều này đã không xảy ra, vì vũ trụ vẫn đang giãn nở ngày càng nhanh hơn. Cho nên câu hỏi đặt ra là: “Cái gì đang thôi thúc sự gia tốc?” Đó không thể là một lực vật chất bởi vì một lực như vậy không có. Cho nên cách giải thích lô-gic, hợp lý duy nhất về lực đang thực sự thôi thúc vũ trụ chính là sự kiện vũ trụ là một dòng tâm thức.

25.3. Độ gia tốc của vũ trụ

Và điều này – con yêu dấu, con hãy chú ý ở đây – là đặc tính thiết yếu của tâm thức. Tâm thức có khả năng làm những gì mà vật chất không thể làm như một thực thể tách biệt, nếu con hình dung như vậy. Vật chất không thể tự thăng vượt, vật chất không thể vượt quá trạng thái mà nó đã được sinh tạo. Nhưng tâm thức thì có khả năng đó. Tâm thức có thể tái sáng tạo chính nó, tâm thức có thể thăng vượt chính nó, tâm thức có thể chọn để cho cái cũ chết đi và được tái sinh, được phục sinh vào một trạng thái cao hơn.

Đây là điều đã thôi thúc Đấng Sáng tạo sáng tạo, và đây cũng là điều đang thôi thúc tạo vật của Đấng Sáng tạo giãn nở ngày càng nhanh hơn. Và giống như toàn bộ vũ trụ vật chất giãn nở ngày càng nhanh hơn, thì con như một sinh thể cá biệt tự nhận biết cũng đang bị chính sức mạnh này của sự sống bắt buộc phải mở rộng tâm thức của mình hầu theo kịp những gì xảy ra trong vũ trụ. Và tất nhiên, đây chính là yếu tố đang phóng trái đất xuyên qua không gian.

Vậy thì điều gì sinh ra cái mà thày vừa gọi là ảo tưởng thời gian? Đó chính là sự kiện các cư dân trên trái đất đang không mở rộng tâm thức của mình theo cùng nhịp độ mà trái đất đang được kéo đi xuyên qua không gian bởi lực giãn nở của toàn bộ vũ trụ vật chất, cũng như của toàn bộ bầu cõi chưa thăng thiên nơi con hiện hữu. Con không đơn độc trong vũ trụ này. Con người trên địa cầu không phải là sinh thể tự nhận biết độc nhất trong vũ trụ vật chất. Có vô số, vô số hành tinh khác với nhiều dạng sống trí năng, và tuyệt đại đa số những hành tinh này đều đang ở trong một vòng xoắn ốc gia tốc, tức là các cư dân ở đó đều đang gia tốc tâm thức của mình. Đây là điều đã tạo ra hiện tượng tương đương với cái mà các nhà khoa học gọi là bức xạ nền vũ trụ (cosmic background radiation). Có một lực nền vũ trụ lan ra – mà theo truyền thống đạo Cơ đốc gọi là Thánh linh – được tạo ra bởi tất cả các sinh thể tự nhận biết trong vũ trụ vật chất đang mở rộng và thăng vượt trạng thái tâm thức của mình.

Đây chính là nhịp độ gia tốc của toàn bộ vũ trụ vật chất. Sự mở rộng tâm thức này là yếu tố thôi thúc vũ trụ vật chất cùng các hành tinh và dải thiên hà vật lý dời xa nhau ngày càng xa hơn với tốc độ ngày càng nhanh hơn. Đó là, nếu có thể gọi như vậy, độ tăng trưởng nền của vũ trụ nơi con sinh sống. Các cư dân trên trái đất không đang mở rộng trạng thái tâm thức của mình ở mức độ đó mà ở một mức chậm hơn. Và điều này có nghĩa là trong không gian tuyệt đối, trái đất đang tụt hậu so với vị trí mà đúng lý nó phải ở, nếu nó đã phát triển đồng nhịp với toàn thể vũ trụ.

Sự chậm trễ này tạo ra ảo tưởng thời gian. Chậm trễ tạo ra sự cọ sát là nguyên nhân của biết bao vấn nạn trên trái đất dường như không có giải pháp. Thực tế là trái đất đang bị lực nền lan ra của vũ trụ kéo theo xuyên qua không gian với một tốc độ không ngừng gia tăng. Một hành tinh cần gì để di chuyển trong không gian với tốc độ không ngừng gia tăng? À, con nhìn xem chuyện gì xảy ra cho một vật trên trái đất, chẳng hạn một chiếc xe, khi con gia tăng tốc độ. Lực cản của không khí sẽ tăng lên, sự cọ sát cũng tăng lên, và con cần nhiều sức mạnh hơn để khắc phục. Cho nên để trái đất tăng trưởng, có vẻ như con cần một sức mạnh luôn luôn lớn hơn – và đây là điều xảy ra hiện nay.

Nhưng kịch bản này có một giải pháp khác, vì con chỉ cần sức mạnh lớn hơn để đẩy một vật thể có tỉ trọng không thay đổi. Nhưng nếu trái đất ngày càng ít dày đặc thì khi nó được đẩy tới nhanh hơn, sự cọ sát sẽ ít hơn và lực cưỡng lại cũng ít hơn. Và như thế trái đất có thể di chuyển trong không gian với tốc độ gia tăng mà không cần sức mạnh gia tăng.

25.4. Lực đẩy vũ trụ là sự thăng vượt tâm thức

Thật vậy, điều sẽ khiến cho chuyện này khả thi là sự thăng vượt tâm thức, sự gia tốc tâm thức, qua đó con buông bỏ ý niệm bản sắc cũ vốn có một độ dày đặc nào đó. Và khi điều này xảy ra ở quy mô tập thể – qua việc nhân loại nâng cao tâm thức tập thể – thì toàn bộ hành tinh sẽ trở nên bớt dày đặc. Và do đó nó có khả năng di chuyển trong không gian ngày càng nhanh hơn mà không cần lực lớn hơn.

Điều này sẽ đem đến một cuộc cách mạng, không chỉ trong tư tưởng con người mà còn trong toàn xã hội. Khi đó con sẽ thấy là con không cần đến sức mạnh đó – sức mạnh vật lý, tình cảm, lý trí đó – để duy trì các cấu trúc cũ. Chúng sẽ được thay thế, không phải bởi những cấu trúc mới mà bởi sự sẵn lòng xuôi chảy với dòng chảy sự sống. Con không còn tìm cách giam giữ, đóng hộp dòng ánh sáng trong cấu trúc của con hầu tạo cho mình một cảm giác trường tồn, liên tục. Con không phải rút tỉa ý niệm bản sắc của mình từ cấu trúc nữa, mà con đạt được ý niệm bản sắc của mình bằng cách nhìn vượt quá cấu trúc, vượt cả cấu trúc của chính địa cầu.

Bởi vì giờ đây con thấy mình chính là sự biểu hiện của dòng tâm thức. Con đang trôi theo dòng tâm thức này, và khi con không còn cảm thấy mình bị chết đuối trong dòng chảy thì đâu cần gì phải bám vào một cấu trúc nữa? Tại sao con phải bám vào bờ sông hay nắm lấy thắt lưng an toàn nếu con không sợ chết chìm?

Vì con biết đó, niềm vui lớn nhất là xuôi chảy với Dòng sông sự Sống, là trôi theo chính dòng chảy. Con chỉ buông mình, và con an bình với dòng chảy cuộc sống thay vì chống cự lại, ép uổng nó vào những hộp tư duy của mình, cố nhét nó vào cái hộp tư duy mà nhận thức của con đã bày ra. Nhận thức này phát xuất từ tự ngã, từ ngã tách biệt, luôn luôn lo sợ sẽ đến lúc nó không còn tồn tại nữa. Thật vậy, đây là cái giá mà con phải trả khi con bị chậm trễ so với độ gia tốc của vũ trụ. Ngay khi con bắt đầu tụt hậu đằng sau phần còn lại của vũ trụ thì một khoảng cách được tạo ra, và từ khoảng cách này nảy sinh nỗi sợ chết, là nỗi sợ rằng sẽ đến lúc con không còn hiện hữu như một sinh thể tự nhận biết.

Nhưng nỗi sợ này chỉ có thể tồn tại vì sinh thể tự nhận biết mà con là giờ đây cảm nhận cuộc sống xuyên qua phin lọc – xuyên qua cấu trúc, nhận thức – của tự ngã, thay vì cảm nhận cuộc sống qua sự nhận biết thuần khiết mà con đạt được khi con nhận diện mình là cái Ta Biết, là một biểu hiện của chính Bản thể Đấng Sáng tạo. Như cái Ta Biết, con thấy mình là cánh cửa mở, là tấm kính trong suốt như Giê-su vừa giải thích thật cặn kẽ. Và con biết rằng dòng chảy sự sống, dòng chảy tâm thức mà Hiện diện TA LÀ của con vốn là, có thể xuôi chảy không cản trở, không cố gắng. Con không cần dùng đến sức mạnh để cố duy trì sự tồn tại hư ảo của ngã tách biệt, mà con có thể xuôi chảy không chút nỗ lực theo dòng tâm thức đang muốn biểu hiện qua con, là chính Hiện diện TA LÀ của con.

25.5. Không còn kháng cự

Tại sao con lại cần sức mạnh, tại sao con lại cần kháng cự một khi con nhận diện mình là ai, một cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ? Con chấp nhận điều này, và con xuôi chảy với dòng tâm thức là chính Hiện diện đang chảy xuyên qua bản thể con. Và thay vì nghe thấy tiếng gầm của dòng nước và tưởng đó là mối đe dọa – rằng một ngày kia dòng nước sẽ ập tới và nhận con chìm – thì giờ đây con chỉ trôi theo dòng chảy.  Và con nghe thấy không phải một tiếng gầm rú hăm dọa hủy diệt, mà tiếng róc rách êm ả của dòng suối an lạc mà Đấng Sáng tạo đang biểu lộ qua con.

Con sẽ trải nghiệm niềm an lạc này khi con giản dị buông bỏ cảm giác là con cần cưỡng lại bất cứ gì, con cần bám giữ bất cứ gì, con cần tiêu diệt bất cứ gì. Đó chính là cảm giác rằng vật chất có thực thể, vật chất có thường tồn, vật chất khiến con vấp ngã, ngăn con trôi theo dòng chảy. Con cho rằng con cần phải chấp nhận vật chất là thường tồn trong dạng hiện thời của nó, và vì vậy nó có quyền lực trên con. Hay con phải chấp nhận rằng vật chất trong dạng hiện thời là chuyện sai trái, cho nên con phải thay đổi hay hủy diệt nó. Vì vậy con đang ở đây để cứu nguy thế giới hay để tiêu diệt cái ác, và trong cả hai trường hợp con vẫn phải thay đổi một điều gì đó bên ngoài chính con. Và từ đó mới nảy sinh những tấn tuồng cuộc đời, nảy sinh tư duy cuồng đại mà các thày đã nói đến suốt hai năm qua.

Nói về thời gian thì hai năm là một thời gian đủ dài để con bắt đầu nhận ra lời dạy sâu hơn đằng sau lời nói. Chắc chắn con có thể trốn tránh bằng cách biện bác lời nói của thày ở mức ngôn từ, nhưng khi làm vậy con sẽ hụt mất cốt lõi. Tất nhiên đó là quyền của con – nếu con muốn tụt hậu thêm nữa và trải nghiệm lực kháng cự ngày càng lớn hơn, lực đối chọi ngày càng mãnh liệt chống lại bản thể con, ngăn cản dòng chảy, niềm vui và hạnh phúc của con.

Con có thể cưỡng lại nếu con muốn, nhưng khi vũ trụ cứ thế bước tới, càng ngày con người sẽ càng khó lòng cưỡng lại Dòng sông sự Sống, dòng chảy của thay đổi, dòng chảy của gia tốc sẽ thôi thúc hành tinh này thực hiện một bước nhảy lượng tử vĩ đại hầu cố bắt kịp, cố thu hẹp khoảng cách giữa điểm nơi hành tinh đang đứng với điểm mà đúng lý nó phải đứng nếu như cư dân ở đây đã đồng hành với độ gia tốc nền của toàn bộ vũ trụ.

Khoảng cách này phải được khép lại trước khi năm 2012 kết thúc để các chu kỳ có thể thay đổi. Không cứ là cần khép lại hoàn toàn, nhưng phải thu hẹp đáng kể. Bởi vì nếu không, sự kháng cự sẽ càng mạnh mẽ sau khi chu kỳ được đánh dấu bởi năm 2012 xoay chuyển. Và hệ quả sẽ là những biến cố vật lý, không hẳn ở tầm kích mà một số người đã tiên đoán, nhưng chắc chắn sẽ lớn hơn những gì con đã chứng kiến cho tới giờ.

25.6. Người tâm linh có cơ hội thay đổi hành tinh

Những người tâm linh trên trái đất có một cơ hội vô cùng quan trọng để tác động tích cực đến xã hội trên bình diện toàn cầu. Con hãy lưu ý điều thày vừa nói. Con sẽ không có một tác động tích cực nếu con bị mắc kẹt trong tư duy cuồng đại, nếu con cho rằng con phải xông ra ngoài kia thay đổi người khác hay thay đổi xã hội dựa trên nhận thức nhị nguyên rằng có gì đó đã trật đường rày và phải được sửa chữa.

Đây không phải là chuyện chỉ ra một con dê tế thần, chỉ tay vào người khác và tìm cách ép buộc họ phải thay đổi, mà là chuyện chính con nhận lãnh trách nhiệm về trạng thái tâm thức của mình. Con gia tốc trạng thái tâm thức này, và như một cách biểu lộ tự nhiên khi con đã gia tốc, con chia sẻ sự Hiện diện của con, chia sẻ niềm vui, chia sẻ sáng ngộ của con với người khác và ngay cả trên bình diện rộng lớn với xã hội.

Con yêu dấu, nhiều các con đã tu tập theo giáo lý mà các thày đã trao truyền qua trung gian sứ giả này từ nhiều năm qua. Các con đã học hỏi trang mạng này được nhiều năm. Các con đã tiếp nhận, đã thể nhập, đã đọc thỉnh đọc chú, và tất cả những việc này đều rất tốt. Nhưng thày muốn nói là trong thời gian tới, việc này tự nó vẫn không đủ. Nếu con muốn vượt qua khai ngộ và đón nhận cơ hội sắp đến, con cần bắt đầu biểu lộ, cho đi, chia sẻ. Con chia sẻ Hiện diện của mình, con cho phép Hiện diện tỏa rạng xuyên qua con và nâng mọi người lên theo. Không phải là con sẽ bảo họ có gì sai trái, hay xã hội, hay vũ trụ, hay kế hoạch của Thượng đế có gì sai trái, mà con chỉ giản dị chia sẻ những điều mình đã ngộ ra, chia sẻ niềm vui, chia sẻ sự gia tốc của con.

Con chứng tỏ cho họ thấy những gì họ có thể thực hiện thay vì chê trách là họ không đang thực hiện. Đây là sự khác biệt cơ yếu giữa những ai hòa điệu với Dòng sông sự Sống – với các chân sư thăng thiên, với nhịp chuyển động của Thánh linh, với độ gia tốc nền của vũ trụ – và những ai đã lạc điệu với bước tiến của toàn thể, cứ tưởng rằng mình đang giúp cứu nguy thế giới. Kỳ thực họ chỉ đang tiếp tục trò chơi muôn thủơ mà sa nhân đã bày ra ở một bầu cõi xa xôi, là tìm cách ép buộc vũ trụ phải chui vào hộp tư duy của mình.

Nếu con đi theo con đường đó – vì tất nhiên con có quyền tự quyết làm như vậy – thì con sẽ tìm ra là trong thời gian sắp tới, con sẽ càng ngày càng khó lòng duy trì ảo tưởng rằng hộp tư duy của con là thực và con có thể ép vũ trụ phải tuân theo. Điều này con cũng sẽ nhận thấy trên quy mô hành tinh.

25.7. Chất vấn ảo tưởng vật chất

Dù sao đi nữa, con sẽ thấy là trong thời gian tới sẽ có sự gia tốc lên một tầng mức cao hơn nữa, qua đó con người – nếu có thể nói như vậy – bị sự gia tốc “ép buộc” phải chất vấn rất nhiều thứ mà cho tới giờ họ chưa bắt đầu chất vấn. Đây không chỉ là chuyện chất vấn tầng lớp thượng tôn quyền lực hay chất vấn giới thẩm quyền. Không, đây là việc chất vấn chính ảo tưởng mà vật chất đã tạo ra, hay đúng hơn được tạo ra bởi sự kiện là từ góc nhìn của tâm thức nhị nguyên, vật chất có vẻ rắn đặc, vật chất có vẻ có thật, vật chất có vẻ liên tục, thậm chí vật chất mang cả dáng vẻ thường tồn.

Đây là những ảo tưởng sẽ bắt đầu bị đe dọa trong thời gian tới. Những ngôi nhà mỏng mảnh xây bằng lá bài sẽ bắt đầu sụp đổ. Điều này sẽ xảy ra trong nhiều lãnh vực xã hội, kể cả thế giới tài chánh. Con cũng sẽ thấy nhu cầu chất vấn rất nhiều thể chế của xã hội chưa từng bị chất vấn, kể cả liệu thể chế dân chủ có đang thực sự vận hành trong tiềm năng cao nhất của nó hay không. Hay là dân chủ cần được nâng lên cao hơn, thay vì cứ cho rằng các nền dân chủ Tây phương đã đạt tới trình độ không thể nào vượt mặt.

Đây sẽ là một thách đố đặc biệt cho quốc gia Hoa Kỳ vẫn tự xem mình là cái nôi của nền dân chủ hiện đại, là dạng dân chủ tiên tiến nhất thế giới – một ảo tưởng sẽ được, và cần phải được, chất vấn trong những năm sắp tới. Bởi vì thật vậy, nước Mỹ đã tụt hậu rất xa so với viễn quan nguyên thủy của các nhà lập quốc, đặc biệt viễn quan của Saint Germain. Và tất nhiên từ ngày sáng lập nước Mỹ, Saint Germain đã không đứng yên ở cùng mức đó, và vì vậy ngày nay thày có một viễn quan còn rộng lớn hơn những gì thày đã có thể truyền đạt cho các nhà lập quốc thời bấy giờ.

Nhưng xa hơn nữa, con sẽ nhận thấy sự cần thiết chất vấn xem vật chất có thực hay không. Hiện đã có một phong trào từ khá lâu nay với nhiều người bắt đầu nhìn vào các khám phá của khoa học, mà chúng ta đã mô tả thỏa đáng qua vật lý lượng tử và nhiều hơn vậy. Những người này đã nắm lấy phát hiện của khoa học và bắt đầu chất vấn, liệu vật chất có sự tồn tại tách biệt hay không, hay liệu thực tại tiềm ẩn có phải là tâm thức.

Phong trào này, sự sẵn lòng chất vấn này, sẽ được gia tốc trong thời gian tới cho đến khi nó trở nên mạnh mẽ đến độ đa số mọi ngươi trên trái đất sẽ không thể làm ngơ được nữa. Khi ấy sẽ có một sự xoay chuyển, qua đó họ sẽ không muốn làm ngơ nữa vì họ thấy đó không phải là một đe dọa cho lối sống hay thế giới quan của họ. Kỳ thực đó sẽ là một cơ hội tuyệt vời để khuếch trương lối sống và thế giới quan của mình, đưa nó lên cao hơn một bực và mở ra những vận hội mới khó lòng nào có thể mơ ước trước đó.

25.8. Hình tư tưởng Bánh xe Chuyển pháp luân

Vậy hình tư tưởng thày muốn trao truyền năm nay là gì? À, đây là khái niệm bánh xe của Phật, Bánh xe Chuyển pháp luân, Bánh xe của Pháp, là biểu tượng truyền thống của đạo Phật. Năm ngoái thày đã cho con hình tư tưởng Thanh gươm Ki-tô chặt phăng những tấm màn che đậy ảo tưởng. Nhưng năm nay thày muốn trao cho con hình tư tưởng Bánh xe Chuyển pháp luân đang cuộn lại tấm màn của Maya, tấm màn tạo ra dáng vẻ rằng vật chất là thực, vật chất tách biệt khỏi Tánh linh, và vật chất có một độ dày đặc có thể che phủ Tánh linh mà từ đó nó đã đi ra.

Con hãy hình dung – trong đời con cũng như trên bình diện hành tinh – tấm màn này cuộn tròn lại như một cuộn giấy, để thực tại thâm sâu được phơi bày cho thấy vật chất, thế giới vật chất, cõi của Mẹ, là sự biểu hiện của Tánh linh, và Tánh linh là thực tại Một đằng sau mọi hình tướng mà con nhìn thấy.

Đây là một hình tư tưởng dũng mãnh, và con sẽ được hưởng lợi rất nhiều khi con sử dụng trong cuộc sống cá nhân của mình. Vì các con là những người đi tiên phong trong tiến trình nâng cao tâm thức, các con phải đối mặt với khai ngộ mà nhân loại sẽ đối mặt. Con sẽ đối mặt với nó trong đời sống riêng tư, con sẽ bị thách thức bằng nhiều cách bởi các điều kiện trong đời mình có vẻ như vượt quá khả năng thay đổi của mình, có vẻ như rất thực, có vẻ như có quyền lực trên mình. Có những chuyện con phải làm, có những chuyện con phải thích nghi, và con cảm thấy mình bị hạn chế. Vì vậy con cần hình dung Bánh xe Chuyển pháp luân, Bánh xe của Pháp, và con hình dung thày đây, Phật Gautama, đang tung bánh xe này – nếu con cho phép thày – vào cuộc sống cá nhân của con để cuộn lại tấm màn ảo tưởng.

Điều này tất nhiên chỉ hiệu nghiệm trọn vẹn nếu con sẵn lòng chất vấn các cấu trúc mà có thể con chưa từng chất vấn trước đây. Con có thấy chăng tại sao việc chất vấn các cấu trúc của mình quan trọng đến vậy? Con buông bỏ các cấu trúc và do đó con trở thành một cánh cửa mở. Nhưng nếu con chưa bỏ hết được mọi cấu trúc thì con cũng đừng tuyệt vọng. Trái lại, con sẵn lòng bước lên cao hơn và sẵn lòng chất vấn. Và khi con chạm trán chướng ngại đó, lực kháng cự đó, thì con lui lại và nói: “Có điều gì tôi chưa nhìn thấy? Hỡi Hiện diện TA LÀ dũng mãnh, hãy chỉ cho ta thấy cái cấu trúc, cái ảo tưởng. Phật Gautama, hãy tung ra Bánh xe Chuyển pháp luân để cuộn tấm màn lại, hầu con có thể thấy điều gì ngăn cản con. Hầu con có thể trở thành cánh cửa mở và xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Hầu Dòng sông sự Sống của Hiện diện TA LÀ có thể chảy xối vào tình huống này, cuộn tròn lại lực kháng cự và làm tan biến mọi trở ngại. Hầu Tánh linh của con được giải phóng để có thể biểu đạt trong thế giới, trong hoàn cảnh này. Hầu con không chỉ được tự do mà con còn là nguồn cảm hứng cho người khác tìm được tự do của họ.”

Và đó là hình tư tưởng. Con cũng hãy dùng nó trong đời mình để suy ngẫm về ảo tưởng thời gian, suy ngẫm về những gì thày vừa cho con trong bài giảng này. Con hãy vượt quá ngôn từ, hãy thỉnh cầu sự hướng dẫn từ thày, từ Mẹ Mary sẽ con thêm lời dạy về vấn đề này, và tất nhiên từ chính Hiện diện TA LÀ của con. Con hãy thỉnh sự hướng dẫn và sẵn lòng suy ngẫm về bí ẩn của thời gian.

25.9. Phá vỡ hàng rào giữa hoạt động tâm linh và thế tục

Thật vậy, tất cả các con sẽ bị thời gian thách đố. Con sẽ cảm thấy trong những năm tới như thể mình ít thời gian hơn bao giờ hết. Đặc biệt con sẽ cảm thấy là càng ngày con càng khó lòng tìm ra thời gian để làm những gì mà cho đến nay con đã xem là hoạt động tâm linh. Con sẽ cảm thấy những hoạt động gọi là thường nhật hay thế tục sẽ lôi kéo sự chú ý của con, sẽ đòi hỏi con chú ý và bỏ thời gian vào đó.

Vậy thì đây là thử thách dành cho hầu hết những người tâm linh đã cất bước trên con đường quả vị Ki-tô đến độ họ bắt đầu hé thấy con đường quả vị Phật. Thử thách cho con là như sau: Liệu con sẽ duy trì ảo tưởng về một sự phân chia giữa các hoạt động mà con gọi là tâm linh và các hoạt động con gọi là thế tục? Bởi vì con chẳng bắt đầu nhận ra đây là một sự phân chia giả tạo hay sao?

Nếu mọi sự đều là biểu hiện của thực tại Một của Đấng Sáng tạo, nếu mọi sự là một dòng tâm thức, làm sao con có thể bảo hoạt động này là tâm linh và hoạt động kia thì không? Thực tại sâu hơn là mọi chuyện đều có thể được xem là hoạt động tâm linh, và thật sự không có phân chia nào giữa hoạt động tâm linh với thế tục. Con cần buông bỏ tấm màn mà con đã dựng lên trong tâm khi con khoác vào ảo tưởng của sa nhân bảo rằng thế gian tách biệt khỏi Tánh linh, và vì vậy thế gian sẽ kéo con ra khỏi hợp nhất với Tánh linh. Con cần buông bỏ ảo tưởng rằng con cần rút lui khỏi thế gian vào tu trong thiền viện, hay con cần đi lễ nhà thờ mỗi chủ nhật nơi con sẽ cảm thấy mình thật tâm linh khi mình bước vào căn nhà của Thượng đế, nhưng trong những ngày còn lại trong tuần thì con không thể là người tâm linh do các hoạt động thế tục của mình.

Con hãy sẵn sàng bước tới thật mạnh dạn trong tâm con, sẵn sàng hình dung Bánh xe Chuyển pháp luân đang đi khắp thế giới đập vỡ tan tất cả những nhà thờ, đền đài và nơi thờ cúng – con đập cho chúng vỡ tan, không theo nghĩa vật lý mà trong chính tâm con. Mục đích là để tâm con không còn một nơi thờ phượng nào đặc biệt, hầu con có thể xem mọi nơi đều là nơi đặc biệt, mọi hoạt động đều là hoạt động đặc biệt, mọi thời điểm đều là thời điểm đặc biệt. Bởi vì khoảnh khắc hiện tại là tất cả cái gì đang có, và chính trong khoảnh khắc hiện tại mà con phải là người tâm linh, con phải là cánh cửa mở cho Tánh linh biểu đạt ra ngoài. Con không thể là cánh cửa mờ trong quá khứ, con không thể là cánh cửa mở trong tương lai, mà con chỉ có thể là cánh cửa mở trong HIỆN TẠI.

Vì vậy, con đừng trì hoãn sự sống tâm linh trong con để mà có thể nói: “Ồ, chủ nhật tới tôi sẽ làm chuyện đó, hay năm tới, hay khi nào tôi vượt qua được thử thách này cái đã, hay khi nào tôi đạt được mức tâm thức kia, hay khi nào tôi đọc xong những bài thỉnh nọ, hay khi nào tôi lạy đủ một vạn lạy trên sàn nhà, hay điều này điều nọ.” Thay vào đó, con hãy nhận chân thực tế là con có khả năng là người tâm linh ngay bây giờ, rằng đây là giây phút hiện tại mà tôi là người tâm linh, tôi là cánh cửa mở.

25.10. Ngộ ra thực tại của thời gian và không gian

Thời gian là gì? Thời gian đã làm gì? Tấm màn của vật chất đã làm gì? Tấm màn của Maya đã làm gì? Như Giê-su có giải thích trong bài giảng vừa rồi, tất cả – tất cả – đều tuân theo Luật Tự quyết. Các sa nhân đã nói gì khi họ nổi loạn chống lại Thượng đế? Họ đã nói: “Chúng tôi đòi hỏi có một nơi mà ở đó chúng tôi có thể cảm thấy tách biệt khỏi Thượng đế và dòng tâm thức là chính Thượng đế, là phần còn lại của bầu cõi chúng tôi.” Và như vậy để ban cho họ nơi đó, một thế giới đã phải được dựng lên mang ảo tưởng rằng vật chất là thực, rằng vật chất che phủ Tánh linh và có thời gian hiện hữu. Nơi đó người ta có thể trì hoãn sự tự thăng vượt của mình và bám giữ ý niệm bản ngã của mình trong một thời gian.

Khi con tách ra khỏi đạo sư của con, khi con từ chối xác định vai trò của mình, khi con trốn tránh Maitreya, thì con đã đòi hỏi cùng cái đó giống như sa nhân: một nơi con có thể tin rằng mình tách biệt khỏi vị thày, tách biệt khỏi nguồn cội của mình. Một nơi con có thể tin rằng con có thể bám giữ ý niệm bản ngã của mình trong một thời gian. Đây là điều con đã yêu cầu – một cách không ý thức, nhưng để lấy những chọn lựa mà con đã lấy thì con đã yêu cầu điều này trong tiềm thức.

Nếu đây là cách con muốn tiếp tục tồn tại thì thày, Phật Gautama cũng như tất cả các chân sư thăng thiên, sẽ cúi đầu trước chọn lựa tự quyết của con. Thày chấp nhận chọn lựa này nhưng thày cũng sẽ nói: “Nếu vậy thì con chưa sẵn sàng gia nhập Tăng đoàn của Phật. Và như vậy thày không có gì khác để cống hiến cho con.”

Thày chỉ có gì cống hiến cho những ai đạt tới điểm sẵn lòng chất vấn các chọn lựa cũ của mình, chất vấn ý niệm bản sắc và nhận thức hiện thời của mình. Đó là những người sẵn sàng nói: “Tôi không còn muốn khoảng không gian này nơi tôi có thể tin là mình tách biệt. Tôi không còn muốn bám giữ bản sắc hiện thời của tôi trong một thời gian tương lai. Tôi muốn thăng vượt ý niệm bản sắc hiện thời và bước đến gần hơn sự hợp nhất với nguồn cội của tôi. Đây là mong muốn của tôi, đây là chọn lựa của tôi, và tôi sẵn sàng nhận lấy trách nhiệm về sự kiện tôi chính là người phải chọn lựa. Và tôi là người phải sẵn sàng cho phép Bánh xe Chuyển pháp luân cuộn lại tấm màn ảo tưởng đã cho phép tôi cầm giữ ý niệm tách biệt này, ý niệm của một cái ta tách biệt có thể tồn tại trong thời gian, hay ngay cả chỉ tồn tại mà thôi.”

Thời gian là Mẹ, không gian là Phật. Con thấy chăng là Mẹ trong tình thương của Mẹ đã cho phép những đứa con của mình bám giữ ảo tưởng rằng chúng có thể tạo ra gì đó – một cái ta tách biệt, một dạng sống trên một hành tinh – và cái đó có thể tồn tại trong chiều dài thời gian? Thậm chí cả ảo tưởng rằng cái ta tách biệt có thể đạt được một cảm giác thường tồn nào đó, hay một sự bất diệt, hay được chấp nhận vào vương quốc Thượng đế. Đây chính là ảo tưởng mà Mẹ cho phép con cầm giữ hầu con có được trải nghiệm đó, cho đến khi con chán chê trải nghiệm và sẵn sàng quyết định thăng vượt nó.

Thế nhưng ở một tầng sâu hơn, làm thế nào con có thể có được ảo tưởng rằng thế giới vật chất tách biệt khỏi Tánh linh, hay rằng Tánh linh không có? Điều gì cho phép ảo tưởng này tồn tại? Đó là sự kiện Phật cầm giữ sự cân bằng cho con. Phật cầm giữ cân bằng cho không gian, là không gian trải ra giữa nơi con đang đứng bây giờ và nơi đúng lý con sẽ đứng nếu con theo kịp độ gia tốc nền của thế giới nơi con sống. Chính tâm thức của Phật cho phép điều này xảy ra – một lần nữa, để con có thể trải nghiệm trạng thái tách biệt cho đến khi con chán ngán. Khi đó, con mong muốn và quyết định là con sẵn lòng để cho nó chết, để cho cái ý niệm bản ngã hư ảo chết đi, hầu con có thể bắt kịp lại nơi đáng lẽ con đã đến nếu con chịu gia tốc đồng hành với phần còn lại của vũ trụ – y như Phật đã từng làm.

Nhưng Phật thì đã cho phép mình bị đặt vào giữa, hầu lấp đầy khoảng không gian giữa nơi con đứng và nơi con đã có thể đứng. Chỉ có tình yêu của Phật mới cho phép khoảng không gian này hiện hữu. Nếu khỏng có khoảng không gian này thì hoặc con phải đi theo độ gia tốc, hoặc con không còn hiện hữu nữa trong cái chết thứ nhì. Và như thế, việc Phật tạo ra không gian đã thiết lập cái nền để Mẹ có thể cho con ảo tưởng thời gian. Kỳ thực thời gian không có.

Không gian không thực, theo nghĩa là khoảng không gian giữa nơi con đang đứng và nơi con đã có thể đứng, không thực. Nhưng thực tại sâu hơn là không gian cũng có thực, vì đó là điều cho phép các hình tướng hiện hữu. Đó cũng là điều cho phép các hình tướng này thăng vượt để càng ngày càng bắt kịp độ gia tốc tối hậu và trở thành một phần thường hằng của cõi tâm linh.

Vì thế mặc dù thày, Phật Gautama, không hiện hữu trong thời gian, nhưng thày cũng nhìn nhận là thày đã nói chuyện suốt một thời gian mà đối với một số người có vẻ rất dài, vì họ đã không sẵn lòng gia tốc tâm thức của họ trong lúc bài giảng này diễn ra. Cho nên đã tới một điểm họ bắt đầu cảm thấy một khoảng cách giữa trạng thái tâm thức của họ với trạng thái của thày – trạng thái đồng hành với thày khi thày truyền đọc.

Điểm này có thể khiến con dừng lại suy nghĩ, nếu con chưa bao giờ trụ vào trạng thái tâm thức của thày và độ gia tốc của thày, hay nếu con bắt đầu rớt lại phía sau khi con cảm thấy: “Khi nào thày mới ngừng nói đây nhỉ, vì tôi không thể chịu được nữa, thật là quá sức rồi.”

Lý do nó quá sức chịu đựng của con là vì con đã không sẵn lòng xuôi chảy với thày và thăng vượt trạng thái tâm thức cũ của con. Cho nên đây có thể là một chỉ dấu cho con thấy là con vẫn còn công việc phải làm. Con cần bước lùi lại và nhìn vào bản thân, nhìn xem tại sao con không thể giữ vững nhận biết của mình về Phật chỉ trong khoảng thời gian một giờ. Con thử nghĩ bao nhiêu lần con đã ngồi xem một bộ phim hơn một tiếng đồng hồ, và con thử tự hỏi: “Nếu tôi đã có thể bị cuốn hút vào một bộ phim, tại sao tôi lại không thể bị cuốn hút – ở cùng mức độ hay nhiều hơn – vào bài truyền đọc của Phật?” Lý do là vì một bộ phim thường thường không đòi hỏi con phải thăng vượt mức tâm thức của con. Nó cứ loanh quanh ở một mức nhất định và vì vậy nó chạy vòng tròn. Nhưng bài giảng của thày là một vòng xoắn ốc đi lên, là sự gia tốc mà trái đất này đang theo xuyên qua không gian tuyệt đối.

Vì vậy nếu con muốn chạy lòng vòng trong khoảng không gian tạm thời của riêng mình thay vì đi theo vòng ốc xoắn hướng thượng xuyên qua không gian tuyệt đối – là không gian sâu hơn của Phật – thì con sẽ không thể theo kịp thày dù chỉ là một giờ. Nếu vậy thì làm sao con có thể đồng hành với độ gia tốc hướng thượng trong những năm sắp tới?  Làm sao con có thể thăng vượt lực kháng cự sẽ gia tăng? Con thấy đó, chuyện này thật đơn giản: hoặc con sẽ trải nghiệm một sự kháng cự gia tăng, hoặc con sẽ trải nghiệm một sự thăng vượt gia tăng. Con chọn đi!

21 | Thỉnh cầu tự do khỏi nỗi giận chính mình (5 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả mọi đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Chân sư MORE, hãy giúp con khắc phục mọi nỗi giận chính mình. Xin các thày giúp con tách mình ra khỏi mọi ngã giận dữ để con có thể làm lỏng các ngã đó và nâng mình lên khỏi những cái ngã mà con đã tạo ra trong quá khứ, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy mọi nỗi giận ở tầng lý trí và bản sắc hướng về chính con. Xin thày giúp con thấy liệu con có giận mình vì đã chọn lựa tới hành tinh này.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy mọi nỗi giận cõi Mẹ vì Ánh sáng Mẫu-Vật đã biểu hiện những điều kiện vật lý tạo ra sự đau khổ cùng cực.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.3. Chân sư More, xin thày giúp con thấy liệu con đã đi vào tư duy cho rằng một người tâm linh không được cảm thấy giận dữ.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.4. Chân sư MORE, con sẵn sàng nói ra lời nỗi giận của mình bằng cách nói lên điều đầu tiên khởi lên trong tâm con: “Tôi đang giận vì …”

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.5. Chân sư MORE, con sẵn sàng nói ra lời con gì. “Tôi là …”

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.6. Chân sư MORE, con nhận ra ngoài một số điều hời hợt, con rất khó nói rõ ra lời con thực sự gì. Lý do là cái con thực sự là là sự cá biệt neo trong Hiện diện TA LÀ của con, và sự cá biệt này hoàn toàn vượt lên trên ngôn từ.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.7. Chân sư MORE, con nhận ra là nỗi giận của con có thể được diễn tả bằng lời nói nhưng Bản thể thực của con không thể được diễn tả bằng lời. Xin thày giúp con xoay chuyển tầm nhìn và nhận ra rằng nỗi giận của con không phải là nỗi giận của Bản thể thực của con – nó không phải là nỗi giận của con. Nó chỉ là một điều mà con đã lấy vào ở đây trong bát cung vật lý của trái đất.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là con không thể tránh cảm thấy giận dữ vì những trải nghiệm của con trên hành tinh này. Con không thể là một sinh thể có tự nhận biết và sáng tạo nếu con không cảm thấy gì, bởi vì chính qua cảm thể mà con đem các tạo vật của con xuống cõi vật lý.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

1.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là con đã không tới đây nếu con không có lòng từ bi đối với những người sống trên trái đất. Khi con tới đây và trải nghiệm sự đau khổ cùng cực của những người ở đây, thì làm sao con không phản ứng một cách giận dữ?

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 2

2.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra con là một sinh thể tâm linh. Xin thày giúp con nhìn vào nỗi giận của con và nói: “Đúng rồi, tôi đã làm chuyện này, tôi đã cảm thấy thế này, tôi đã nghĩ những điều này, nhưng đây chỉ là những điều tôi đã lấy vào khi tôi phản ứng lại hành tinh rất khó khăn này.”

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con bước lui lại và nói: “Có điều gì trên hành tinh này mà tôi coi là quan trọng, có điều gì mà tôi cảm thấy có quyền lực trên tôi như một sinh thể tâm linh?”

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhìn những sinh hoạt mà con người đang tham gia, và nhận ra: “Tôi có coi những chuyện này quan trọng không? Chúng có níu kéo tôi chăng? Chúng có quyền lực trên tôi chăng?”

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là có nhiều chuyện trên thế gian con không coi là quan trọng. Con đã thăng vượt chúng, chúng không còn níu kéo con ở thể tình cảm, lý trí hay bản sắc. Con có thể nhìn chúng và nói: “Rồi sao, chuyện này không có nghĩa lý gì đối với tôi.”

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy vì sao con lại coi chúng quan trọng, vì sao con cảm thấy giận điều gì, vì sao con phản ứng với tình cảm tiêu cực. Tại sao con lại thấy chúng quan trọng?

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy vì sao con lại quá khe khắt với mình, trong khi con là một người tâm linh thực sự không hung hãn.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy vì sao khuynh hướng tự nhiên và chính đáng xem xét chính mình lại thường đi đôi với cảm giác hổ thẹn khi con làm một lỗi lầm, khi con làm một điều mà con nghĩ một người tâm linh không được làm.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy phản ứng ở thể lý trí và thể bản sắc của con cho rằng con không được nổi giận, con không được làm điều mà người thường vẫn làm, con đáng lẽ phải đứng bên trên phản ứng đó. Xin thày giúp con thấy tại sao con lại có phán xét giá trị đặt lên trên việc lượng định tự nhiên và xây dựng.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

2.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy liệu con có biến giáo lý tâm linh thành một cách khác để lên án mình và cảm thấy là mình không làm tròn bổn phận.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 3

3.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy khuynh hướng tự lên án mình một phần do sa nhân gài vào. Họ đã đề ra những lý thuyết cầu kỳ cho rằng một người tâm linh không được nổi giận. Họ nói nếu con nổi giận thì con phải cảm thấy rất hổ thẹn.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là ý tưởng này do sa nhân tạo ra. Nó không phải do chân sư thăng thiên tạo ra. Các thày không muốn các con phán xét mình kiểu đó.  

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là cơ chế khiến con cảm thấy hổ thẹn với chính mình là do con giận chính mình.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là trong rất nhiều kiếp con đã hướng nỗi giận tới chính mình vì con cảm thấy là cách mọi chuyện đang trải bày trên trái đất không phải là cách duy nhất mà chúng có thể là.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là con có ý niệm là con không được nổi giận. Vì con có khuynh hướng lượng định chính mình, nên con đã giận mình là đã nổi giận trước những điều kiện trên trái đất.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là điều này tạo nên một vòng xoáy và cơn giận chính mình đã tích lũy trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc thấp của con. Con cảm thấy giận mình vì đã nổi giận, và vòng xoáy cứ mạnh thêm và mạnh thêm.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là thày không có ý định khiến con cảm thấy xốn xang hơn vì có vòng xoáy đó. Thày muốn con nhận ra là con có vòng xoáy đó và đã đến lúc vượt thăng nó.

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra rằng nó không phải là nỗi giận của con. Con không có nỗi giận chính mình khi con đến đây. Đây là một cái gì con đã lấy vào khi gặp những điều kiện trên trái đất.

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

3.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhìn các điều kiện trên trái đất và thấy là chúng không còn níu kéo con nữa. Vì sao con lại giận mình vì đã nổi giận trước những điều kiện này?

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 4

4.1. Chân sư MORE, con nói: “Chúng ta hãy cùng nhau suy luận về nỗi giận của con.” Xin thày giúp con nhận ra là nỗi giận không phải là một cảm xúc hay mô thức tư tưởng có thể tự nó hiện hữu. Nó bắt buộc phải có một đối tượng. Con giận một cái gì đó.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con tới điểm thấy đối tượng nguyên thủy đã khiến con giận hành tinh này. Xin thày giúp con thấy là điều đó không còn quan trọng đối với con như lúc ban đầu.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con nối kết lại với sự việc nguyên thủy đã khiến con giận trái đất và thấy là nó không còn quan trọng đối với con như lúc đầu nữa. Xin thày giúp con tới điểm con nói: “Đúng rồi, tôi có thể buông bỏ nó. Tôi không còn thấy giận chuyện này nữa.”

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là nếu con giận chính mình, thì con đã biến mình thành một vật thể. Con chỉ có thể giận một vật thể, tỷ dụ như con giận một số điều kiện trên trái đất hay con giận sa nhân. Nếu con giận chính mình, thì có nghĩa là có một vật thể mà con giận.

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.5. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là vật thể đó là một cái ngã tách biệt. Cái ngã đó bắn một mũi tên vào thể cảm xúc của con và khiến con cảm thấy không thoải mái. Bởi vì cái ngã đó khiến con cảm thấy không thoải mái, nên con cảm thấy giận cái ngã đó.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra đối tượng của nỗi giận chính mình thực ra không phải là con, mà là một cái ngã không phải là con. Nó chỉ là một cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra để phản ứng lại các điều kiện trên trái đất.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con tách mình ra khỏi nỗi giận và nói: “Nhưng nếu có một số điều kiện trên trái đất mà tôi không còn cảm thấy giận nữa, thì tại sao tôi lại cảm thấy giận cái ngã đó? Tôi thấy cái ngã đó không thực, nó không thực sự là tôi, vậy tại sao tôi lại giận cái ngã đó?”

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là cái ngã mà con giận tách biệt với con. Xin thày giúp con nhìn vào nỗi giận chính mình (cái ngã tách biệt) và con nói: “Đúng rồi, nhưng bây giờ tôi không muốn hướng nỗi giận về phía cái ngã tách biệt nữa, bây giờ tôi muốn hướng nó về phía cái ta thật của tôi. Vậy cái ta thật của tôi là gì, cái ta thật của tôi ở đâu?”

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

4.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là con không thể hướng nỗi giận về phía cái ta thật vì con không thể tạo một hình tư tưởng hay một hình ảnh ngôn từ về cái ta thật của con. Cái ta thật của con vượt ra ngoài những gì con có thể hình dung hay tưởng tượng với tâm vỏ ngoài của con.

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Phần 5

5.1. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhận ra là vì con không tìm ra cái ta thật để chĩa nỗi giận tới, thì không phải cái ta thật đang giận dữ. Cái ta thật còn không giận cái ta tách biệt đã khiến con không cảm thấy thoải mái. Cái giận cái ta tách biệt là một cái ngã tách biệt khác.

Ôi chân sư MORE, xin thày hãy đến,
Để con hấp thụ lửa thày NHIỀU HƠN,
Ôi chân sư MORE, chí con dũng mãnh,
Trong ca khúc ấy, luân xa trong lành.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.2. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là con có một cái ngã tách biệt khiến con cảm thấy không thoải mái và một cái ngã tách biệt khác khiến con giận cái ngã tách biệt đầu. Khi con thấy điều này thì con thấy đây là một trò hề.

Ôi chân sư MORE, minh triết xuôi chảy,
Cho sự hòa điệu tăng lên mãi mãi.
Ôi chân sư MORE, chúng ta kết nối,
Giúp con nhìn thấu khi rắn nuốt lời.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.3. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy nhân vật giống như một anh lùn giữ cửa (gnome) đang có vẻ bị gánh nặng quá tải và bất lực, đang phóng chiếu không ngừng là con phải hổ thẹn vì không toàn hảo. Xin thày giúp con thấy cái ngã nhăn nhó khác đang phóng chiếu là con phải giận cái ngã đầu.

Ôi chân sư MORE, tình yêu màu hồng,
Không có tình yêu tinh khiết nào hơn.
Ôi chân sư MORE, thày sẽ giải phóng
Tất cả điều kiện giam giữ chúng con.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.4. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là các ngã đó có mặt, nhưng chúng không phải là con. Chúng ở trong bốn thể phàm của con và con đã tạo ra chúng, nhưng chúng không phải là con. Bây giờ con nói: “Tại sao tôi lại muốn kéo lê các ngã này theo tôi?”

Ôi chân sư MORE, chúng con chịu nhận
Kỷ luật của thày để được sạch trong.
Ôi chân sư MORE, với ý thực chân,
Chúng con là một với thày luôn luôn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.5. Chân sư MORE, con muốn được giải thoát khỏi các ngã đó. Con bây giờ lấy quyết định là con sẵn sàng để cho các ngã này chết đi.

Ôi chân sư MORE, viễn kiến con nâng,
Ý muốn Thượng đế con luôn ca tụng.
Ôi chân sư MORE, ý chí sáng tạo
Nâng mọi sự sống ngày càng lên cao.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.6. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là con không có mặt trên trái đất để đem lại thay đổi vật lý đặc trưng. Do đó hoàn toàn không có lý do gì để con tiếc nuối những gì con đã làm hay đã không làm trong kiếp này hay các kiếp trước. Xin thày giúp con vượt qua cảm nhận đã đánh mất cơ hội.

Ôi chân sư MORE, bình an dũng mãnh,
Sẽ đem nuốt trọn quỷ dữ chiến tranh.
Ôi chân sư MORE, phụng sự tất cả,
Lửa đang thiêu đốt chiến tranh ác tà.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.7. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy là con tới đây để chứng tỏ là một người trong quá khứ không tâm linh nay đã thức tỉnh. Xin thày giúp con thấy là sự thức tỉnh có thể xảy ra bây giờ, khi con sẵn sàng xoay chuyển tầm nhìn, nhìn vào cái ngã giận dữ và nói: “Đây không phải là tôi, tôi sẵn sàng để cho nó chết đi.”

Ôi chân sư MORE, con quá tự do,
Sợi dây với thày chúng con hằng có.
Ôi chân sư MORE, tái sinh là đó:
Trong dòng của thày niềm vui muôn thuở.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.8. Chân sư MORE, xin thày giúp con nhìn vào bất cứ ngã nào đang ngăn trở con và nói: “Tôi thấy đây không phải là tôi, tôi sẵn sàng cho ngã này chết đi.”

Ôi chân sư MORE, thày sẽ quân bình
Cả bảy tia sáng khi con cầu thỉnh.
Ôi chân sư MORE, vĩnh viễn NHIỀU HƠN,
Chúng con là cửa Tánh linh mở lớn.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

5.9. Chân sư MORE, xin thày giúp con thấy những chuyện nào trên trái đất mà con coi là quan trọng. Xin thày giúp con tới điểm con có thể nhìn vào chúng và con không coi chúng quan trọng, chúng không níu kéo được con. Con có thể nói: “Ấy, rồi sao, chuyện này không có nghĩa lý gì với tôi, tôi đã thăng vượt nó. Trong quá khứ nó có nghĩa lý với tôi, nhưng nay tôi đã giải thoát khỏi nó.”

Ôi chân sư MORE, thày đang Hiện diện,
Đổ cho ngập hết cả bầu nội tâm,
Bây giờ cuộc sống là dòng thánh thiện,
Uy lực Thượng đế chúng con rải truyền.

Ôi chân sư MORE, Trái tim Thánh thượng,
Thày ban Ý chí như hạt Kim cương,
Vì con mãi mãi xuôi theo dòng chảy,
Con không bao giờ xa cách một giây.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

16 | Thỉnh cầu viễn quan về quả vị Ki-tô cá nhân

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Giê-su, hãy giúp con khắc phục các ảo tưởng ngăn cản con chấp nhận và biểu lộ quả vị Ki-tô của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Giê-su, hãy giúp con thấy là các tà lực cực kỳ không muốn con vươn tới mức nhìn nhận một cách ý thức là mình có một mức độ quả vị Ki-tô, và vì vậy con có cơ hội và thẩm quyền để thách thức sa nhân và sự hiện diện của chúng trên trái đất.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.2. Giê-su, hãy giúp con thấy là tà lực sợ điều đó tột độ, vì chúng thừa biết là một khi con lên tới mức đó thì chúng sẽ không thể cản bước con. Chúng biết là nếu chúng cố ngăn chặn con thì sẽ dẫn đến việc chúng bị phán xử.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.3. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu khía cạnh cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của con là đem lại phán xử Ki-tô trên sa nhân cùng tâm thức của sa nhân. Hãy giúp con nhìn ra việc đối đầu với sa nhân, như thày từng làm, có nghĩa gì đối với con ngày hôm nay.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.4. Giê-su, hãy giúp con nhìn nhận đó là một phần của Sứ vụ của con. Hãy giúp con thấy đó không là một quyết định với tâm vỏ ngoài. Nó phải đến từ bên trong, và nó sẽ chỉ đến khi nào con giải quyết chấn thương nhập đời mà sa nhân đã dùng để làm con tê liệt, để ngăn cản con là người mà con là trên hành tinh này.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.5. Giê-su, hãy giúp con thấy có một cơ chế có thể khiến con cho rằng con chỉ cần đạt được càng nhiều hiểu biết hơn về đường tu tâm linh. Hãy giúp con nhìn ra liệu con đã tạo ra một cái ngã nghĩ rằng con đang tiến bộ, nhưng đồng thời sự đột phá tối hậu vẫn nằm ở đâu đó trong tương lai.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.6. Giê-su, hãy giúp con xoay chuyển cách mạng và nhận diện chấn thương nhập đời là điều đang quy định con như một sinh thể đầu thai trên địa cầu. Nó đã quy định con từ kiếp đầu thai đầu tiên.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.7. Giê-su, hãy giúp con xoay chuyển và nhận ra, sẽ đến lúc con biết từ bên trong rằng bước kế tiếp là con nhìn trực diện vào chấn thương nhập đời đó. Con lấy quyết định ý thức là con sẽ đối đầu với nó, đâm thẳng vào nó, và phát hiện ra làm thế nào sa nhân khiến con tê liệt.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.8. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra cảnh huống cá nhân đã gây ra chấn thương nhập đời cho con, hầu con phơi bày sự phân rẽ do sa nhân tạo ra trong bản thể con. Hãy giúp con thấy cốt lõi của phân rẽ này là lòng ngờ vực mà sa nhân đã cài đặt.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.9. Giê-su, hãy giúp con thấy ý định tốt đẹp nhất của con đã bị sa nhân lợi dụng để gây chấn thương khiến con nghi ngờ: “Tôi có nên đến đây chăng? Tôi có quyền đến đây chăng? Người ta có đón nhận tôi ở đây chăng? Tôi có thể là chính mình và biểu đạt chính mình trên hành tinh này chăng? Tôi có cần trở thành một người khác để người ta chấp nhận tôi chăng?”

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 2

2.1. Giê-su, hãy giúp con thấy những khi con nhanh chóng ngờ vực chính mình. Hãy giúp con nhận diện xem con có xu hướng ngờ vực chính mình khi con ở gần những người có tính tình áp đảo luôn tin chắc là họ đúng.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.2. Giê-su, hãy giúp con thấy khi nào con rơi vào một vòng luẩn quẩn do tâm đường thẳng tạo ra, vì tâm này luôn luôn có thể nghĩ ra những luận cứ chống lại hay thuận theo bất kỳ quan điểm nào. Nó có thể tranh luận từ cả hai phe về một vấn đề.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.3. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra khi con có xu hướng nghi ngờ như vậy, tâm phân tích luôn luôn có khả năng đưa ra luận cứ tại sao con có thể sai lầm, tại sao con không nên lên tiếng hay thách thức người kia.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.4. Giê-su, hãy giúp con thấy rằng, vì mối lo sợ lớn nhất của sa nhân là có Ki-tô Hằng sống trong hiện thân sẽ thách thức chúng, cho nên với mỗi avatar đến địa cầu này, chúng đã toan cài đặt một yếu tố ngờ vực hầu con không dám thách thức chúng.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.5. Giê-su, hãy giúp con thấy điều sa nhân tuyệt đối không muốn là con đạt được một mức quả vị Ki-tô rồi thách thức chúng. Chúng đã làm hết sức để ngăn cản chuyện này, và công cụ chủ yếu của chúng là yếu tố ngờ vực chúng đã cài đặt trong con.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.6. Giê-su, hãy giúp con thấy là chỉ khi nào con nhìn một cách ý thức vào chấn thương nhập đời thì con mới phát hiện những nghi ngờ của con về quyền con được ở đây, quyền con là Ki-tô Hằng sống trong hiện thân, quyền thách thức sa nhân, quyền biểu đạt con người mà con là, quyền biểu đạt bản sắc tâm linh cao hơn của con.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.7. Giê-su, hãy giúp con xem xét nỗi nghi ngờ và thấy được là sa nhân đã dùng một quan điểm nhất định, một tin tưởng nhất định, để cài đặt nghi ngờ đó trong con. Tin tưởng này là một ảo tưởng vì nó nhị nguyên.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.8. Giê-su, hãy giúp con thấy quan điểm nhị nguyên có nghĩa là khi con xem xét niềm tin đó riêng rẽ thì nó có vẻ chính đáng. Hãy giúp con bước lui lại và nhận ra là trong nhị nguyên, bất kỳ quan điểm nào cũng có đối cực ngược lại. Con thấy cả đối cực đã gây ra ngờ vực trong con, lẫn đối cực ngược lại. Có nghĩa là cả hai không là thực tại tối hậu.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.9. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là trong chấn thương nhập đời, con đã khoác vào một niềm tin nhất định khiến con ngờ vực là con có quyền ở đây. Hãy giúp con thấy là nó có một đối cực ngược lại và con có thể tranh luận thuận hay chống mãi mãi.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 3

3.1. Giê-su, hãy giúp con lui lại và nói: “Tôi chán ngán chuyện tranh luận quá rồi. Tôi để cho ngã gốc này chết đi. Đơn giản tôi sẽ lựa bỏ sự ngờ vực ra khỏi bản thể tôi.” Hãy giúp con lựa bỏ sự ngờ vực hiện sinh (existential) về quyền con có mặt ở đây.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.2. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu sa nhân đã khiến con nghĩ rằng vì con đã làm hay đã nói một điều gì bất toàn trên địa cầu, cho nên con không có quyền thách thức sa nhân. Hãy giúp con thấy liệu con có nghĩ mình phải toàn hảo, cho nên nếu con không toàn hảo thì con không được thách thức chúng.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.3. Giê-su, hãy giúp con thấy là trong bản thể con không có xấu ác – chưa bao giờ có. Ngay cả với tất cả những chấn thương mà con đã trải qua trên hành tinh này, con đã không cho phép một yếu tố xấu ác nào xâm nhập vào bản thể con.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.4. Giê-su, hãy giúp con thấy con không giống như sa nhân, cho nên mặc dù con có thể không toàn hảo theo một chuẩn mực nhân thế, nhưng con có quyền thách thức sa nhân.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.5. Giê-su, hãy giúp con thấy điều này không có nghĩa là con buộc tội sa nhân sai trái theo chuẩn mực của chúng, mà có nghĩa là con nói: “Có một cách nhìn khác hơn là cách bạn nhìn cuộc sống. Có một cách nhìn khác hơn là cách bạn nhìn mọi chuyện! Có một giải pháp thay thế. Có một mức tâm thức khác hơn là tâm thức bạn đang có.”

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.6. Giê-su, hãy giúp con phát triển sự phân biện dựa trên khả năng đọc độ rung, và nhận diện: “Đây là một ý tưởng nhị nguyên. Đây là một quan điểm thiếu quân bình.” Hãy giúp con nói lên đó không phải là quan điểm cao nhất, mà có một giải pháp thay thế.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.7. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu con đã chọn có sa nhân trong gia đình hay quan hệ của con. Hãy giúp con khoác vào tư duy là con không thách thức các sinh thể sa ngã, mà con thách thức tâm thức sa ngã, hầu con có thể giữ chuyện này ở một mức phi cá nhân.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.8. Giê-su, hãy giúp con thấy là khi sa nhân cảm thấy bị thách thức, bản năng sẽ khiến chúng buộc tội và tấn công con một cách cá nhân. Hãy giúp con thấy là trước tấn công cá nhân đó, việc ứng phó sẽ khó khăn khi nào con còn mang ngờ vực trong bản thể con.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.9. Giê-su, hãy giúp con nhận ra là con có quyền ở đây, và trong bản thể con không có gì xấu ác, cho nên con không thách thức để hạ thấp hay chỉ trích, mà con có quyền biểu lộ con người mà con là.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 4

4.1. Giê-su, hãy giúp con đạt tới điểm con không thách thức tâm thức sa ngã với ý định vỏ ngoài sẽ thách thức tâm thức sa ngã. Con không cố tình đi tìm những điều sai trái, mà con chỉ đơn giản là chính mình và biểu lộ chính mình.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.2. Giê-su, hãy giúp con thấy là sa nhân sẽ cảm thấy bị con tấn công cá nhân vì chúng luôn luôn xem mọi chuyện là cá nhân. Cách ứng phó duy nhất là con không xem cách phản ứng của chúng nhắm vào cá nhân con, vì con không làm do một thâm ý cá nhân.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.3. Giê-su, hãy giúp con khắc phục cơ chế bày tỏ quan điểm mà cứ muốn người khác đồng ý với mình để cảm thấy mình được xác chứng. Nếu người ta bất đồng với con, vết thương mà con mang bên trong sẽ khơi dậy, xong con sẽ đau lòng.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.4. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu con có mang thâm ý cá nhân muốn người khác đồng ý với mình hầu con tránh bị đau lòng và bù đắp cho vết thương của chính mình.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.5. Giê-su, hãy giúp con chữa lành vết thương và khắc phục thái độ mình phải thay đổi một điều gì đó trên trái đất. Hãy giúp con là chính con, đang tỏa rạng những gì đến với con từ bản thể cao hơn của con, và con thách thức sa nhân theo cách đó.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.6. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu con có mang một ngã tách biệt nghĩ rằng con không được thách thức, không được trực diện, không được nhẫn tâm. Hãy giúp con nhìn ra liệu con đã sẵn sàng biểu lộ quả vị Ki-tô của mình và thách thức các ý tưởng sa ngã, nhưng lại có ngã tách biệt đang chặn con lại vì con nghĩ mình không được làm vậy.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.7. Giê-su, con sẵn lòng nhìn vào ngã tách biệt đó và nói: “Đâu là cách biểu đạt quả vị Ki-tô mà tôi đã thấy được khi tôi ở mức nhận biết cao nhất của mình? Đâu là điều tôi đã quyết định muốn biểu hiện?”

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.8. Giê-su, hãy giúp con nhìn vào ngã đó và bảo: “Tôi sẽ không cho phép ngã này đứng chắn đường tôi đi. Tôi sẽ để cho nó chết, và tôi sẽ làm cuộc xoay chuyển cách mạng ý thức trong tâm rằng tôi sẵn lòng là Ki-tô Hằng sống trong hành động. Tôi sẵn sàng biểu đạt bất cứ gì đến từ Hiện diện TA LÀ của tôi, ngay cả khi nó thách thức hay làm phật lòng người khác.”

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.9. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận quả vị Ki-tô không phải là chuyện thi đua để được lòng mọi người, hay để khiến cho ai nấy ưa mình hay mình cảm thấy thoải mái.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 5

5.1. Giê-su, hãy giúp con nhìn nhận là khi con có càng nhiều ánh sáng thì một số người sẽ càng cảm thấy xốn xang khi họ gặp ánh sáng. Hãy giúp con tránh không dùng phản ứng của người khác để nói: “Ồ, tôi đã làm gì sai trái? Có điều gì không ổn với tôi? Tôi đã không nên làm chuyện này hay chăng?”

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.2. Giê-su, hãy giúp con đạt tới điểm con chấp nhận quyền tự quyết. Con xoay chuyển một cách ý thức là con chấp nhận quyền tự quyết. Con chấp nhận con có quyền là người mà con là. Con chấp nhận người khác có quyền phản ứng theo mức tâm thức của họ. Con có quyền tiếp tục là người mà con là, bất kể phản ứng của họ là gì vì đó là kết quả những chọn lựa của chính họ.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.3. Giê-su, hãy giúp con thấy là người khác đã có những chọn lựa dẫn họ đến mức nhận biết hiện tại của họ. Cách họ phản ứng với con là kết quả những chọn lựa đó. Con không có thẩm quyền trên quyền tự quyết của họ, cho nên con không trách nhiệm về chọn lựa của họ hay hậu quả của chọn lựa đó.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.4. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu con đã đến đây như một avatar do lòng trắc ẩn đối với những người đau khổ. Hãy giúp con nhìn ra là như một avatar, con chưa ở trong tâm thức thăng thiên khi con quyết định đến địa cầu. Con vẫn mang một điều gì chưa giải quyết vì con chưa học được bản chất tuyệt đối của quyền tự quyết.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.5. Giê-su, hãy giúp con thấy là khi con nhìn xuống trái đất và thấy con người đau khổ, con chỉ có thể lý luận có gì đó đã bị lệch lạc do họ chọn lựa sai lầm. Và nhiệm vụ mà con đã tự giao phó là con sẽ đi xuống giúp họ chọn lựa đúng hơn, con sẽ làm gì đó để sửa đổi chọn lựa của họ.    

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.6. Giê-su, hãy giúp con hoàn toàn chấp nhận là theo Định luật Tự quyết, đó không phải là nhiệm vụ của con. Hãy giúp con nhìn ra sự khác biệt cơ bản giữa tư duy là con cần làm gì đó để thay đổi người khác, và tư duy là con ở đây để trưng ra cho họ thấy một giải pháp thay thế cho trạng thái tâm thức hiện tại của họ.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.7. Giê-su, con thỉnh sự hướng dẫn nội tâm của thày để con tới mức thực hiện được cuộc xoay chuyển cách mạng, là ngộ ra sự khác biệt đó cơ yếu đến chừng nào.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.8. Giê-su, con sẵn lòng nhìn nhận là con đã sai lầm. Không phải con đã sai lầm khi đến địa cầu. Con nhìn nhận thái độ đã đưa con đến địa cầu cần phải ra đi. Thái độ đó không quân bình. Nó bất toàn. Nó không là tối hậu. Nó không là tâm thức Ki-tô. Con sẵn lòng nhìn nhận điều này, vì cho tới khi con nhìn nhận điều đó như một avatar thì con sẽ không thể rời nơi đây.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.9. Giê-su, hãy giúp con thấy là chừng nào con còn nghĩ lý do mình đến địa cầu là để thay đổi một ai khác, con sẽ không thể buông hành tinh này ra. Sẽ có thêm nhiệm vụ khác mà con phải làm, một vấn đề khác mà con phải giải quyết, một cuộc tranh đấu cuồng đại khác mà con phải hoàn tất, và nó có thể cứ tiếp diễn mãi mãi.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 6

6.1. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu trong Sứ vụ Thiêng liêng có việc con thăng thiên sau kiếp này hay không. Hãy giúp con nhìn ra là để thăng thiên, con sẽ phải tới mức có thể nhìn lại địa cầu, duyệt lại bản thể của mình và nói: “Có còn gì trên trái đất mà tôi không thể bỏ lại chăng?”

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.2. Giê-su, hãy giúp con thấy, chỉ khi nào con nhận ra là không gì trong bản thể mình còn níu kéo mình ở lại trái đất, thì con mới có thể quay gót và chọn lựa: “Tôi rời bỏ hành tinh này vĩnh viễn. Tôi buông bỏ khả năng ảnh hường hành tinh này, một khả năng mà tôi chỉ có được khi tôi hiện thân trong vật lý. Tôi buông bỏ nó! Tôi lựa bỏ nó ra!”

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.3. Giê-su, hãy giúp con thấy thăng thiên là một chọn lựa, và đó phải là một chọn lựa hoàn toàn ý thức. Không thể có bất cứ gì trong bản thể con mà con chưa nhìn vào, bởi vì khi đó, ông hoàng của thế gian này sẽ nắm được cái đó nơi con và y sẽ lôi con trở lại.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.4. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu việc thăng thiên sau kiếp này không nằm trong Sứ vụ của con, vì con muốn đầu thai liên tục hầu giúp thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain, hay thậm chí còn được trải nghiệm Thời Hoàng kim.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.5. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra do cường độ và nỗi đau của chấn thương nhập đời, liệu con có mong muốn thoát khỏi nơi đây vì con nghĩ con sẽ tránh xa khỏi chấn thương đó. Hãy giúp con chấp nhận là con sẽ không thăng thiên cho tới khi con đã nhìn sâu vào chấn thương và trực diện với nó.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.6. Giê-su, hãy giúp con thấy điều sẽ cho phép con góp phần vào việc thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain là con giải quyết chấn thương nhập đời của con. Một khi con giải quyết chấn thương, con sẽ có thể thực sự vui hưởng đầu thai trên địa cầu.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.7. Giê-su, hãy giúp con thấy là cho dù con hội đủ tư cách để thăng thiên, con vẫn có quyền định đoạt tuyệt đối: “Tôi muốn ở lại trong hiện thân và giúp đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain.”

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.8. Giê-su, hãy giúp con tránh không dồn hết tâm trí vào ý nghĩ: “Tôi phải thăng thiên sau kiếp này.” Không có gì mà con phải làm cả. Con có thể phụng sự đời sống, phụng sự địa cầu, phụng sự Saint Germain bằng cách ở lại trong hiện thân sau khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời và có khả năng làm cánh cửa mở.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.9. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận quyền tự quyết là tuyệt đối, cho nên trong cõi tự quyết không thể có bất cứ gì tuyệt đối mà con phải làm hay không được làm. Hãy giúp con khắc phục ý niệm có điều gì ép buộc lên con, hầu con có thể hoàn thành tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của mình.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 7

7.1. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu con có một cái ngã tách biệt đã nghe nói về khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng, nhưng vẫn cảm thấy Sứ vụ đã bị ép buộc lên con, thậm chí có thể chính con đã tự ép buộc Sứ vụ lên bản thân mình.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.2. Giê-su, hãy giúp con nhận diện liệu con có mang khuynh hướng đó hay không, xong con xem xét nó và nói: “Tôi không cần ngã này nữa. Tôi để cho nó chết đi.”

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.3. Giê-su, hãy giúp con khắc phục cảm nhận là mình đã có những chọn lựa trước khi đầu thai, nhưng bây giờ khi ở đây và thấy rõ mọi chuyện khó khăn đến chừng nào, con đâm ra nghi ngờ mình có thể đương nổi các chọn lựa đó.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.4. Giê-su, hãy giúp con nhìn xem con có không chắc chắn là con sẵn lòng thực hiện các chọn lựa đó vì trong con có một sự xung đột. Hãy giúp con nhìn xem con có là “một ngôi nhà bị phân rẽ chống lại chính nó” liên quan đến Sứ vụ của con.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.5. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu bên trong con có sự phân rẽ, một đằng là nội dung của Sứ vụ mà chính con đã chọn đặt vào đó, và đằng khác một cái ngã tách biệt với ý chí khác hơn.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.6. Giê-su, hãy giúp con làm cuộc xoay chuyển cách mạng là nhìn vào ngã đó và nói: “Được rồi, tôi sẵn sàng xem xét cái này, tôi sẵn sàng bước sâu vào nó, tôi sẵn lòng trải nghiệm niềm tin đứng đằng sau nó.”

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.7. Giê-su, hãy giúp con thấy tính không thực của lý do và nói: “Không, đây không thực là chọn lựa của tôi. Đây có thể là chọn lựa của ngã tách biệt. Tôi thấy đúng là vậy vì tất cả những gì đã tạo ra ngã tách biệt. Nhưng bây giờ tôi chọn để cho nó chết đi. Xong tôi chọn ôm lấy những gì tôi đã thực sự đặt vào Sứ vụ, vì tôi sẵn sàng vươn lên mức tâm thức mà tôi đã có khi tôi đặt những điều đó vào Sứ vụ.”

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.8. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là con có tiềm năng bước lên cao hơn, khắc phục sự phân rẽ đó trong chính mình và ôm lấy Sứ vụ của mình một cách trọn vẹn.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.9. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là thày muốn con biểu hiện một mức quả vị Ki-tô cao hơn thày 2000 năm trước đây. Thày muốn con làm những việc lớn hơn thày trước đây. Sẽ là niềm vui tột cùng cho thày khi chứng kiến nhiều người biểu hiện một mức quả vị Ki-tô cao hơn những gì thày đã có thể cách đây 2000 năm, bằng cách biểu lộ quả vị Ki-tô của mình qua một lối sống phần nào “bình thường”.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

20 | Thỉnh cầu Minh triết Thành tựu Tất cả (73 đoạn)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Amogasiddhi, hãy giúp con hòa điệu với Minh triết Thành tựu Tất cả của thày và khắc phục các chất độc, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là nguyên lý căn bản của sự đồng-sáng tạo là con sáng tạo xuyên qua ý niệm bản ngã đương thời của con. Con trải nghiệm sự trải bày vật lý của sự sáng tạo đó và cải thiện ý niệm bản ngã của mình.

OM AMOGASIDDHI AH

2. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết tiến trình đồng-sáng tạo đòi hỏi con để cho ngã trước chết đi. Nếu con không chịu làm điều này thì con rơi vào tâm thái tìm cách duy trì hoặc ngã cũ hoặc trạng thái mà con đã đạt được trong cõi vật lý.

OM AMOGASIDDHI AH

3. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là khi con tìm cách duy trì một cái gì thì con không thể đồng thời sáng tạo. Điều này khiến con tạo khe mở trong bản thể con để nhận vào sự ghen tỵ những người vẫn còn sáng tạo.

OM AMOGASIDDHI AH

4. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là lòng ghen tỵ bắt nguồn từ sa nhân vì sau khi họ sa ngã, họ nhận được ít ánh sáng hơn những người vẫn còn khả năng sáng tạo.

OM AMOGASIDDHI AH

5. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là nếu con không còn khả năng sáng tạo, thì con dễ bị cám dỗ mưu tìm địa vị bằng cách kiểm soát thay vì sáng tạo.

OM AMOGASIDDHI AH

6. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là sa nhân đưa vào tâm thức nhị nguyên và tạo ra phán xét giá trị giữa những người đúng, những nguời sai, những người cao cả hơn, những người thấp kém hơn.

OM AMOGASIDDHI AH

7. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là sa nhân đã tìm cách xuất cảng chất độc tới tất cả mọi người trên trái đất và đặt mọi người vào tâm thái so sánh.

OM AMOGASIDDHI AH

8. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là con chỉ có lòng ghen tị khi con ở trong tâm thức nhị nguyên và có tâm phán xét giá trị khiến con so sánh mọi thứ dựa trên thang điểm có hai đối cực, trong đó một bên tốt hơn bên kia.

OM AMOGASIDDHI AH

9. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là cốt lõi ý tưởng có một điều gì tốt hơn điều khác bắt nguồn từ tâm thức nhị nguyên và chất độc ghen tị.

OM AMOGASIDDHI AH

10. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là minh triết của thày sẽ không cho con quyền năng có được bất cứ điều gì con mong muốn trên trái đất.

OM AMOGASIDDHI AH

11. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là khi con cảm thấy ghen tị, thì con đang không cảm thấy ghen tị mà là một ngã tách biệt đang cảm thấy ghen tị.

OM AMOGASIDDHI AH

12. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là ngã tách biệt phóng chiếu là có một vấn đề cần giải quyết. Có một điều kiện cần được hoàn thành và sau đó con sẽ không cảm thấy ghen tị nữa.

OM AMOGASIDDHI AH

13. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết cái ngã phóng chiếu là nếu con có được điều con thèm muốn, thì con sẽ không cảm thấy ghen tị nữa.

OM AMOGASIDDHI AH

14. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là các ngã đó sẽ nói: “Hãy xin thày Amogasiddhi và được Minh triết Thành tựu Tất cả để ta có được điều kiện mà ta mong muốn, lúc đó bạn sẽ không cảm thấy ghen tị nữa. Bạn sẽ không cảm thấy ghen tị nữa khi ta, ngã tách biệt, có được điều ta mong muốn.”

OM AMOGASIDDHI AH

15. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết cho phép con, như cái Ta Biết, bước ra ngoài ngã đó và thấy là điều ngã đó muốn lại là một thí dụ khác của mục tiêu bất khả thi, ước muốn bất khả thi.

OM AMOGASIDDHI AH

16. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là ngay cả khi con có được điều mà ngã phóng chiếu là con phải có, thì con vẫn không khắc phục được chất độc ghen tị vì chính chất độc là chất độc.

OM AMOGASIDDHI AH

17. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là niềm tin con thèm muốn điều gì và con cần phải có điều gì chỉ là một ảo tưởng mà chất độc ẩn núp đằng sau.

OM AMOGASIDDHI AH

18. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là nếu con ghen tị người có địa vị hay danh dự nào đó trong xã hội, thì ngã phóng chiếu là con cần danh dự đó, và sau đó con sẽ được bình an.

OM AMOGASIDDHI AH

19. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết không phải sự thiếu danh dự khiến con bất an. Đó là lý do vì sao có được danh dự không chấm dứt lòng ghen tị. Chỉ khi con vứt bỏ chất độc thì con mới chấm dứt được sự bất an.

OM AMOGASIDDHI AH

20. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là con loại bỏ chất độc bằng cách thấy nó và hiểu chất độc là gì.

OM AMOGASIDDHI AH

21. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là có một ngã tách biệt đang dùng chất độc để phóng chiếu là con cần làm một điều gì.

OM AMOGASIDDHI AH

22. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết giúp con tách mình ra khỏi ngã đó và buông bỏ nó.

OM AMOGASIDDHI AH

23. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là con cũng cần đem thuốc giải vào bản thể mình, thuốc giải này có khả năng tiêu trừ, xua đuổi, làm tan biến chất độc.

OM AMOGASIDDHI AH

24. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết giúp con hòa điệu với Bản thể của thày, và mở tâm, mở bốn thể phàm để đón nhận một dòng thuốc giải sẽ tiêu trừ chất độc.

OM AMOGASIDDHI AH

25. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết giúp con thấy một số chuyện, nhận ra một số chuyện, bằng cách dùng các giáo lý về ngã gốc và  ngã tách biệt.

OM AMOGASIDDHI AH

26. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là một số avatar đã có quan hệ với một số sa nhân – nảy sinh sự tương kính, ngưỡng mộ khả năng làm chủ vật chất của sa nhân.

OM AMOGASIDDHI AH

27. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là một số avatar có lòng ghen tị sa nhân vì sa nhân có tài kiểm soát vật chất bằng vũ lực.

OM AMOGASIDDHI AH

28. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết giúp con thấy là kiểm soát vật chất không phải là một thành tựu cao. Nó chắc chắn không phải là một thành đạt thành tựu tất cả, cho dù những gì sa nhân có thể làm được trên một hành tinh như trái đất trông có vẻ vĩ đại.

OM AMOGASIDDHI AH

29. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là những gì con có thể thành tựu qua tư duy kiểm soát, tư duy sa ngã, tư duy nhị nguyên, có giới hạn.

OM AMOGASIDDHI AH

30. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là tất cả những gì con sáng tạo – phản-sáng tạo  – xuyên qua tư duy sa ngã sẽ chịu định luật thứ nhì của nhiệt động học. Nó sẽ có một đối cực, sẽ có sự căng thẳng giữa hai cực đó, và rốt cuộc chúng sẽ tiêu hủy lẫn nhau.

OM AMOGASIDDHI AH

31. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là một sa nhân càng có nhiều uy quyền, thì uy quyền này sẽ tạo sự chống đối càng lớn. Rốt cuộc sẽ tới điểm các thành tựu của hai bên sẽ tiêu trừ lẫn nhau.

OM AMOGASIDDHI AH

32. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là thành tựu thực sự đạt được qua tiến trình đồng-sáng tạo qua đó con đồng-sáng tạo xuyên qua ngã hiện tại của con, dùng phản hồi để nới rộng ý niệm bản ngã và sau đó đồng-sáng tạo cái gì hơn nữa. Con có thể tiếp tục tiến trình này mãi mãi vì con không tạo ra sự đối kháng chống lại tạo vật của con.

OM AMOGASIDDHI AH

33. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết sự khác biệt giữa phản-sáng tạo và đồng-sáng tạo.

OM AMOGASIDDHI AH

34. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là, như một avatar, con có ước muốn chân thực muốn cải thiện chính mình, muốn tăng trưởng ý niệm bản ngã, muốn gia tăng các thành tựu, nhưng điều này chỉ có thể tác thành qua sự đồng-sáng tạo, chứ không phải qua sự phản-sáng tạo.

OM AMOGASIDDHI AH

35. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là cảm giác thành tựu thật mà con có thể có là nhận ra con không thể tự mình làm gì cả (bằng ngã vỏ ngoài, ngã hạn hẹp mà con khoác vào khi ở trên trái đất). Chỉ khi con nối kết với cái ta cao của con, với Hiện diện TA LÀ của con, thì con mới thật sự đồng-sáng tạo.

OM AMOGASIDDHI AH

36. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là có một số avatar có lòng ghen tị các avatar khác, như Giê-su, đức Phật hay một số người khác được công chúng biết đến.

OM AMOGASIDDHI AH

37. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết giúp con thấy liệu con có cảm giác: “Tại sao Giê-su lại được nâng lên địa vị khuôn mặt tâm linh cơ yếu của thời Song ngư? Tại sao là Giê-su mà không phải là tôi?”

OM AMOGASIDDHI AH

38. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là con có thể cảm thấy như vậy ở một tầng nào đó của bản thể của con. Con nhận ra mình là một avatar, Giê-su cũng là một avatar, và do đó con có tiềm năng đảm trách địa vị mà Giê-su đã đảm trách.

OM AMOGASIDDHI AH

39. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết giúp con thấy liệu con có cảm giác nội tại là Giê-su đã nói sự thật khi thày nói là con có thể làm công việc mà thày đã làm.

OM AMOGASIDDHI AH

40. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết giúp con thấy liệu điều này có khiến con, vì con bị chấn thương nhập đời, muốn nâng mình lên và chứng minh vì sao việc con tới trái đất là đúng. Các ý tưởng đó có thể khiến con dấy lên lòng ghen tị Giê-su.

OM AMOGASIDDHI AH

41. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là có một thực tại thực tiễn trên trái đất. Có trình tự các chu kỳ nối tiếp nhau. Khi Thời đại Song ngư khai mở, cần có một người hiện thân các khai ngộ của thời đại đó.

OM AMOGASIDDHI AH

42. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là chúng ta bây giờ đang bước vào Thời đại Bảo bình, được gọi là thời đại cộng đồng. Không có nhu cầu có một người là tấm gương cao cả, nhưng cần có nhiều người nêu gương thế nào là Ki-tô trong Thời đại Bảo bình.

OM AMOGASIDDHI AH

43. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết thực tại thực tiễn đó, và giúp con nhìn xa hơn và thấy là các thành đạt của Giê-su không làm giảm đi những thành đạt của chính con.

OM AMOGASIDDHI AH

44. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết con là một thành viên của mạn đà la các avatar đã tới hành tinh này.

OM AMOGASIDDHI AH

45. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết mạn đà la đó dựa trên cái Một và điều một thành viên của mạn đà la đạt được sẽ nâng tất cả lên.

OM AMOGASIDDHI AH

46. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là không có lý do gì để con ghen tị những thành đạt của Giê-su vì con đã dự phần vào thành đạt đó – nếu con chấp nhận mình thuộc mạn đà la đó.

OM AMOGASIDDHI AH

47. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là không có lý do gì để con ghen tị bất cứ ai khác.

OM AMOGASIDDHI AH

48. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là lòng ghen tị đó đến từ một ngã tách biệt mà con đã tạo ra vì con cần bù đắp cảm giác mất mát khi con tới trái đất.

OM AMOGASIDDHI AH

49. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là nếu con đối mặt ngã đó và khắc phục nó, thì con sẽ khắc phục được lòng ghen tị bất cứ ai khác.

OM AMOGASIDDHI AH

50. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là con thuộc mạn đà la và do đó con có một món quà độc đáo mà con có thể mang lại trong Thời đại Bảo bình.

OM AMOGASIDDHI AH

51. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là điều con thật sự tới đây để hoàn thành không phải là mục tiêu đã được quy định bởi các ngã tách biệt phát xuất từ ngã gốc. Các mục tiêu đó đều là mục tiêu giả sẽ không giúp con cảm thấy mình đã hoàn thành lý do vì sao mình tới trái đất.

OM AMOGASIDDHI AH

52. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết giúp con nhìn vào động cơ thúc đẩy mình tới đây và nhận ra nó không nhất thiết là động cơ cao nhất đã thúc đẩy con khi con tới trái đất.

OM AMOGASIDDHI AH

53. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là lý do omega đưa con tới trái đất là tăng triển sự tự nhận biết của mình.

OM AMOGASIDDHI AH

54. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là lý do alpha là con tới trái đất để là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con, qua đó con có thể mang vào bát cung vật lý món quà độc đáo của con.

OM AMOGASIDDHI AH

55. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là sự thành tựu tất cả của con là mang lại món quà độc đáo của mình. Tuyệt đối không có lý do gì để con ghen tị người khác khi người đó đang biểu lộ món quà độc đáo của họ.

OM AMOGASIDDHI AH

56. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là con có tiềm năng đem lại cho hành tinh này một món quà tuyệt đối độc đáo.

OM AMOGASIDDHI AH

57. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là trong cái độc đáo không thể có so sánh, và khi không có so sánh thì không thể có ghen tị.

OM AMOGASIDDHI AH

58. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là những gì Giê-su đã làm không tốt hơn hay quan trọng hơn những gì con có thể đem tới. Món quà của Giê-su và của con đều quan trọng như nhau.

OM AMOGASIDDHI AH

59. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là Thượng đế không phân biệt và đặt phán xét giá trị lên các người đồng-sáng tạo đang là biểu hiện của Tâm Một.

OM AMOGASIDDHI AH

60. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là một Hiện diện TA LÀ không hơn một Hiện diện TA LÀ khác. Không có phán xét giá trị nào áp dụng cho các Hiện diện TA LÀ. Mỗi Hiện diện đều độc đáo.

OM AMOGASIDDHI AH

61. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết câu hỏi duy nhất có thể đặt ra cho con là: “Cánh cửa của tôi mở đến độ nào cho Hiện điện TA LÀ của tôi?”

OM AMOGASIDDHI AH

62. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là nếu con thấy một người khác là cánh cửa rộng mở hơn, thì lúc đó thay vì khởi lên lòng ghen tị, con nói: “Nhưng tôi chỉ cần nhìn vào các ngã tách biệt mà tôi có đang ngăn chặn tôi là cánh cửa mở.”

OM AMOGASIDDHI AH

63. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là khi tôi loại trừ các ngã đó thì tôi đạt được thành tựu tất cả là cánh cửa hoàn toàn mở cho Hiện diện TA LÀ của tôi. Và đây là điều cho tôi ý niệm thành đạt tối hậu trên trái đất.

OM AMOGASIDDHI AH

64. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là tất cả những mục tiêu kém hơn do các ngã tách biệt quy định đều là mục tiêu giả. Chúng sẽ không cho con cảm giác thành đạt tối hậu, cảm giác mãn nguyện tối hậu, cảm giác an bình tối hậu với việc mình ở trên trái đất.

OM AMOGASIDDHI AH

65. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là con quả thực có thể thành tựu mọi điều trên trái đất, không phải tất cả những điều mà các ngã tách biệt của con mong muốn, hay người khác mong muốn, hay sa nhân đã phóng chiếu là con phải mong muốn.

OM AMOGASIDDHI AH

66. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là con có thể hoàn thành tất cả những điều mà Hiện diện TA LÀ của con mong muốn hoàn thành xuyên qua con, và con, như cái Ta Biết, mong muốn hoàn thành.

OM AMOGASIDDHI AH

67. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết con là một sinh thể vô hình tướng và con không đồng hóa với các ngã tách biệt – con để chúng chết đi.

OM AMOGASIDDHI AH

68. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là cái Ta Biết, khi nó là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ, không trở thành một người máy, một con rối bị giựt dây.

OM AMOGASIDDHI AH

69. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là con, như cái Ta Biết, con chọn lựa những gì con muốn hoàn thành, những gì con muốn trải nghiệm, những gì con muốn vui hưởng.

OM AMOGASIDDHI AH

70. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là con không lấy những chọn lựa này xuyên qua sự đồng hóa với một ngã tách biệt. Con lấy chọn lựa tự do trong cương vị một sinh thể vô hình tướng về những gì con muốn hoàn thành trong hình tướng, những gì con muốn vui hưởng khi vẫn còn trong xác thân vật lý.

OM AMOGASIDDHI AH

71. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết đây là những chọn lựa tự do và là những ước muốn chính đáng.

OM AMOGASIDDHI AH

72. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết là không có gì sai trái khi một cái Ta Biết có ước muốn trải nghiệm một sắc thái nào đó của đời sống trên trái đất, muốn hoàn thành cái gì đó trên trái đất, muốn vui hưởng cái gì đó khi còn hiện thân trong cõi vật lý.

OM AMOGASIDDHI AH

73. Amogasiddhi, xin thày rải truyền Minh triết Thành tựu Tất cả để cho con nhận biết đây là một chọn lựa tự do mà con lấy, không phải là một chọn lựa mà con bị một ngã tách biệt bắt buộc phải lấy và không bao giờ đem lại cho con cảm giác thành đạt, vui sướng và an bình khi sống ở đây.

OM AMOGASIDDHI AH

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

Thỉnh cầu sự thị hiện qua buông bỏ

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời thỉnh này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi Saint Germain hãy giúp con trải nghiệm được cách thị hiện qua sự buông bỏ. Hãy giúp con vượt qua mọi mong muốn sở hữu trong thế gian này, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Con làm hòa với sự kiện là chừng nào con còn ở lại trong hiện thân, thì con sẽ vẫn còn một số yếu tố của ngã vỏ ngoài.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.2. Con từ bỏ giấc mộng một ngày kia con sẽ đạt đến tâm thức mình “thoát được về nhà”, hay mình chứng đạt một trình độ tâm linh tối thượng.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.3. Con nhìn nhận là chừng nào con còn đầu thai, con sẽ còn mang một yếu tố ngã vỏ ngoài trong con. Con chấp nhận điều này và làm hòa với nó.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.4. Vì con không hoàn toàn đồng hóa với ngã vỏ ngoài, nên nó không còn thật sự quan trọng nữa. Nó không còn điều khiển đời con, cho nên nó chẳng quan trọng gì nữa.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.5. Ngã vỏ ngoài còn sót lại trong con không thật sự ngăn cản con thực hiện các mục tiêu con đã định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng. Con có thể biểu lộ một số mong muốn của ngã vỏ ngoài mà không bị trệch hướng khỏi Sứ vụ Thiêng liêng.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.6. Con thấy được một số mong muốn và trải nghiệm mà con muốn có, và cảm thấy mình vẫn chưa thỏa nguyện. Con hoàn toàn có thể tiến bước trên đường tu mà vẫn tìm cách toại nguyện những mong muốn đó, nhưng con làm vậy một cách quân bình, hầu không gây xáo trộn cho sự tiến hành của Sứ vụ Thiêng liêng.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.7. Con làm hòa với thực tế là con có một ngã vỏ ngoài, nó có thể ảnh hưởng cách con nhìn cuộc sống, và nó có thể kéo con vào việc toại nguyện một số ham muốn. Con biết là chuyện đó không sao cả, miễn là nó không làm xáo trộn sự tiến hành của Sứ vụ Thiêng liêng.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.8. Con chấp nhận là mình có một ngã vỏ ngoài, nhưng con không chấp nhận là điều này sẽ không bao giờ thay đổi. Con liên tục theo dõi chính mình cũng như cách phản ứng của mình. Con nhận ra là cho mỗi tầng tâm thức, con sẽ phải nhìn ra một ảo tưởng đặc thù của ngã vỏ ngoài, và con buông nó ra.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

1.9. Có một phàm linh nội tại, một cái ngã mà con cần để cho chết đi. Con theo dõi chuyện này liên tục – không phải một cách mất quân bình, mà đơn giản là con tỉnh thức. Con giám sát phản ứng của mình nhưng con không bị nó làm bận tâm.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 2

2.1. Con không cảm thấy là mình bất toàn hay không đủ tốt do mình mang ngã vỏ ngoài đó. Con chấp nhận con người mà con là, ngay trong lúc này. Con chấp nhận con đang ở một mức nào đó trên đường tu, và việc có ngã vỏ ngoài là hoàn toàn tự nhiên, tất phải như vậy.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.2. Con sẽ không rơi vào trạng thái phủ nhận và tin mình không còn tự ngã hay ngã vỏ ngoài nữa. Con chấp nhận là con có một ngã vỏ ngoài, và con sẽ mang một ngã vỏ ngoài với con cho đến khi con thăng thiên.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.3. Bằng cách chấp nhận, con cũng làm hòa với thực tế đó. Con làm hòa với bản thân con là một đệ tử hoàn toàn xứng đáng của chân sư thăng thiên, cho dù mình vẫn còn một ngã vỏ ngoài.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.4. Khi con làm hòa với sự kiện con không cần toàn hảo để được các chân sư chấp nhận, con cũng xoay chuyển và nhận ra là trái đất, hay cõi vật chất, không cần phải toàn hảo để con cảm thấy an bình khi mình hiện diện nơi đây.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.5. Con nhận ra là tình trạng của địa cầu có tiềm năng cao hơn hiện tại, nhưng con không cưỡng lại tình trạng hiện tại của địa cầu.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.6. Nếu con cưỡng lại những gì đang ở đây ngay bây giờ, thì con đang nói trong tiềm thức: “Tôi không thể là Ki-tô chừng nào hành tinh còn dày đặc như thế này. Tôi không thể biểu đạt tiềm năng tâm linh của mình chừng nào trên hành tinh còn những biểu hiện khủng khiếp như thế này.”

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.7. Đó chính là ảo tưởng của sự trụ tâm vào những thứ vỏ ngoài. Nó đã khiến cho biết bao đệ tử tâm linh đi lạc vào con đường quanh co, tìm cách dùng vũ lực để thay đổi người khác hay các điều kiện vỏ ngoài.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.8. Con nhận chân địa cầu là một hành tinh đang ở một độ dày đặc nào đó. Tâm thức tập thể đang ở một độ dày đặc nào đó. Con chấp nhận đây là hiện trạng. Con không chấp nhận là nó sẽ vĩnh viễn và cứ giữ mãi như vậy, nhưng con làm hòa với các điều kiện hiện hữu.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

2.9. Con chấp nhận là không những các điều kiện này sẽ cho phép con biểu đạt quả vị Ki-tô, mà nó còn là điều kiện lý tưởng để con biểu đạt quả vị Ki-tô của con, vì quả vị Ki-tô là khi mình thách thức hiện trạng.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 3

3.1. Con chấp nhận là mặc dù địa cầu đang rất dày đặc, con vẫn có khả năng hoàn thành những mục tiêu con đã đề ra trong Sứ vụ của mình, bởi vì các mục tiêu đó được đề ra trong sự nhận biết về độ dày đặc hiện tại của vật chất.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.2. Con đã không định ra một mục tiêu thiếu thực tế cho bản thân, mà con đã định ra một mục tiêu thực tế. Để thị hiện mục tiêu thực tế này, con chấp nhận việc thị hiện là chuyện khả dĩ, ngay cả trong những điều kiện hiện tại.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.3. Con xem xét các mong muốn, kỳ vọng vỏ ngoài của mình. Con nhận chân rất nhiều mong muốn vỏ ngoài đó không thực tế. Chúng dựa trên giấc mơ “thoát về nhà” khi phần nào con tìm ra một cách để có mặt trên trái đất mà không bị những gì xảy ra trên trái đất chạm vào mình. Con nhận diện một số mong muốn đó là thiếu thực tế, và con để chúng ra đi.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.4. Cản trở lớn nhất cho việc thị hiện mục tiêu trong Sứ vụ Thiêng liêng là các kỳ vọng của con – kỳ vọng rằng mọi chuyện phải như thế nào.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.5. Nếu con có một kỳ vọng do ngã vỏ ngoài dựng lên và nếu nó trái ngược với các mục tiêu trong Sứ vụ Thiêng liêng, thì chừng nào con còn giữ chặt kỳ vọng đó trong tâm ý thức, nó sẽ chặn đứng không cho Sứ vụ của con thị hiện.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.6. Nếu vậy, con sẽ không thể chấp nhận để cho các mục tiêu trong Sứ vụ đi xuống tầng vật lý. Con sẽ ngăn chúng lại trong tiềm thức.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.7. Con xoay chuyển trong tâm và làm cho tâm mình lỏng đi. Con khiến cho kỳ vọng của mình lỏng đi.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.8. Khi con xem xét mục tiêu của mình và cảm thấy một phản ứng gần như không cưỡng nổi, một cảm giác hoảng sợ rằng các mục tiêu đó không thể thị hiện, thì con biết các mục tiêu và kỳ vọng đó xuất phát từ ngã vỏ ngoài. Chúng đến từ cái ngã vỏ ngoài không ứng phó nổi với mất mát.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

3.9. Khi con nhận diện phản ứng này nơi con, con biết là nó đến từ ngã vỏ ngoài. Con thấy đó là một phàm linh hay một ngã vỏ ngoài đặc trưng đang bám chặt lấy mục tiêu đó. Con để cho ngã đó ra đi. Con sẽ chỉ tự do khi con để cho phàm linh đó chết đi và con làm lỏng kỳ vọng của mình.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 4

4.1. Con nhận ra là con đã vươn tới một mức tâm thức nào đó, con đã đạt được một số khả năng của tâm, và con có thể dùng những kỹ thuật vỏ ngoài này để thị hiện một số điều con muốn.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.2. Thay vì thị hiện những mong muốn, kỳ vọng và mục tiêu vỏ ngoài đó, con sẽ tập trung thị hiện những gì nằm trong Sứ vụ của con. Con từ bỏ các kỳ vọng và mục tiêu vỏ ngoài đó. Con quy hàng và buông bỏ chúng.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.3. Con sẽ không đạt được an bình bằng cách tiếp tục dùng sức mạnh ý chí để cưỡng ép cho mục tiêu trở thành hiện thực. Chừng nào con còn dùng vũ lực thì con sẽ không thể an bình. Không thể nào vừa dùng vũ lực mà vừa an bình được.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.4. Làm thế nào con có thể an bình? Con không thể an bình qua vũ lực. Con CHỈ có thể an bình qua buông bỏ.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.5. Con sẽ thôi thị hiện xuyên qua ngã vỏ ngoài cũng như viễn quan của ngã vỏ ngoài. Con sẽ thôi lấy năng lượng từ Hiện diện TA LÀ của con và sử dụng để thị hiện các mục tiêu của ngã vỏ ngoài. Con chối từ con đường tay trái.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.6. Con không muốn thị hiện bất cứ gì qua ngã vỏ ngoài. Con cố tình buông bỏ các mục tiêu, mong muốn và kỳ vọng của ngã vỏ ngoài. Con từ bỏ các mục tiêu của ngã vỏ ngoài luôn luôn nhằm đạt tới một trạng thái tối hậu nào đó.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.7. Con nhận diện những mục tiêu đó và con buông chúng. Chìa khóa để tiến bước cao hơn là quy hàng, là buông bỏ – buông bỏ, buông bỏ, buông bỏ.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.8. Mặc dù con có khả năng thị hiện một số mong muốn qua ngã vỏ ngoài, nhưng con không muốn làm vậy. Con chọn buông bỏ giấc mơ của ngã vỏ ngoài.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

4.9. Con phân biện rõ hơn là mình nên sử dụng thời gian và năng lực như thế nào để không dành ra quá nhiều cho các nhu cầu của ngã vỏ ngoài, đến độ nó kéo con ra khỏi việc thực hiện Sứ vụ của con.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 5

5.1. Con không muốn làm bất cứ gì do ngã của mình. Chính Hiện diện TA LÀ và viễn quan cao hơn của Sứ vụ của con đang quyết định những gì thị hiện ra trong đời con.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.2. Con không muốn ý chí của ngã vỏ ngoài quyết định những gì sẽ thị hiện trong đời con. Con muốn một ý chí cao hơn – Sứ vụ Thiêng liêng của con, những chọn lựa mà con đã lấy khi thảo ra Sứ vụ – định đoạt những gì sẽ thị hiện trong đời con.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.3. Con quy hàng trước ý chí cao hơn đó, và giống như Giê-su, con nói: “Xin ý của Cha được thành, chứ không phải ý của con.” Con không quy phục một ý chí ở ngoài con. Khi con thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng, con đã sử dụng ý chí ở bên trong chính con.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.4. Ngã vỏ ngoài sẽ bảo là con quy phục một ý chí bên ngoài, vì đối với nó, ý chí cao hơn của con nằm bên ngoài. Nhưng đối với con trong cương vị cái Ta Biết, ý chí của ngã vỏ ngoài mới nằm bên ngoài.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.5. Ngã vỏ ngoài tìm cách cưỡng ép ý chí của nó lên con, ngược với những gì con đã chọn lựa khi con ở trong trạng thái cao hơn, trạng thái minh mẫn để thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.6. Loại trải nghiệm mà con mong muốn cho phần đời còn lại của con là được giải thoát khỏi nhu cầu sở hữu xuất phát từ ngã vỏ ngoài.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.7. Nơi đây không phải là một hành tinh nơi con muốn tìm mọi cách để sở hữu. Thật là thiếu khôn ngoan nếu con bước vào tâm trạng tham vọng sở hữu một cái gì.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.8. Con có thể sở hữu đồ vật trên địa cầu nhưng luôn luôn sẽ có một cái giá phải trả. Nó đòi hỏi ở con sự chú ý, và để bảo toàn những gì con sở hữu, con cũng phải bỏ ra nhiều chú ý.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

5.9. Con không muốn trải nghiệm việc sở hữu một đồ vật. Con muốn trải nghiệm sự tăng triển tâm linh. Sở hữu đứng yên một chỗ, nhưng tăng triển là chuyển động.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 6

6.1. Con không xuôi chảy theo Dòng sông sự Sống bằng cách sở hữu một cái gì. Con có thể vừa sở hữu vừa xuôi chảy với Dòng sông sự Sống – nhưng chỉ khi nào cái con sở hữu không sở hữu con.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.2. Chừng nào con còn mong muốn sở hữu thì con sẽ không an bình được trên một hành tinh như địa cầu – chuyện đó không thể. Luôn luôn sẽ có những mối đe dọa có thể cướp mất sở hữu đó khỏi tay con.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.3. Con nhận ra mong muốn sở hữu đến từ một ngã vỏ ngoài vô cùng mạnh mẽ trong tâm thức tập thể. Nhưng con đến đây là để vươn mình lên khỏi tâm thức tập thể, và như vậy góp phần nâng cao tâm thức tập thể.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.4. Ở tầng khai ngộ này, con có khả năng rũ bỏ ngã này. Con không muốn thị hiện các mục tiêu của ngã vỏ ngoài, và con cũng không muốn thị hiện bất cứ gì xuyên qua nó. Con không muốn thị hiện bất cứ gì qua vũ lực.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.5. Con chuyển chú tâm ra khỏi ngã vỏ ngoài và con hòa điệu với Sứ vụ Thiêng liêng. Con làm lỏng tâm con, làm lỏng các kỳ vọng của con. Con sẵn lòng để cho mọi chuyện nổi trôi, như thể không định hướng trên mặt nước, và con để cho dòng nước cuốn con trôi đi.

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.6. Có một cách để lấy quyết định buông bỏ mong muốn vỏ ngoài và bước vào trạng thái mà Giê-su mô tả là: “Xin ý của Cha được thành, chứ không phải ý của con.”

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.7. Con không bảo là con không muốn thị hiện bất cứ gì trong đời con, mà con nói là con không muốn ý chí của ngã vỏ ngoài thị hiện. Con muốn ý chí cao hơn mà chính con đã định ra khi con thảo Sứ vụ Thiêng liêng.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.8. Con sẵn lòng chờ cho điều đó xảy ra. Con sẵn lòng để cho nó xảy ra, để cho nó trải bày ra. Con sẵn lòng bước vào một trạng thái của tâm nơi con không cưỡng ép bất cứ gì thị hiện, mà con để yên cho nó rơi vào thị hiện.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

6.9. Con bước vào trạng thái tâm nơi con không tìm cách ép buộc Ánh sáng Mẫu-Vật phải cho con những gì ngã vỏ ngoài mong muốn. Con trao cho Ánh sáng Mẫu-Vật khoảng trống để nó thị hiện điều mà chính con, qua ý chí cao hơn của con, đã quyết định mong muốn.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Phần 7

7.1. Con cho phép các mong muốn cao hơn của con đi xuống thị hiện vật lý, thay vì ngăn chặn chúng với tất cả những kỳ vọng vỏ ngoài kia. Đây không là một cách thụ động. Con kết nối lại với Sứ vụ Thiêng liêng và cho phép tự nó thị hiện ra.

Ôi Saint Germain, ôi nguồn linh hứng,
Con nâng cao mãi một viễn quan cao,   
Số tám thiêng liêng, cùng thày con đứng
Thời đại Hoàng kim, cùng thày con tạo.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.2. Con buông tất cả mọi thứ vỏ ngoài, và con sẵn lòng để cho mình nổi trôi, xuôi chảy theo Dòng sông sự Sống, và để yên cho sự sống cuốn con theo bất cứ hướng nào mà nó muốn. Con với lên những gì con đã định ra trong Sứ vụ của mình.

Ôi Saint Germain, Lửa của Tự do,
Khi đọc tên thày, lửa thêm lan tỏa,
Quà tặng của thày, vượt thăng giục giã,
Cả địa cầu này cũng sẽ thăng hoa.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.3. Con né tránh được lực kháng cự đến từ ngã vỏ ngoài ở các thể tình cảm, lý trí và bản sắc thấp của con. Con đi thẳng tới nguồn cội của những gì con đã thảo ra trước khi con đầu thai trong kiếp này.

Ôi Saint Germain, nhân danh tình thương,
Chúng con đem xuống lửa tím thiên đường,
Từ cao ánh thày tuôn xuống chúng con,
Ánh sáng chuyển hóa, tự do viên tròn.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.4. Con kết nối với cái đó, và sẵn lòng để yên cho nó thị hiện ra cho dù con chưa thấy được nó là gì, cho dù nó có thể không đồng thuận với các kỳ vọng vỏ ngoài mà con đã vun trồng.

Ôi Saint Germain, con thương thày hoài,
Hào quang của con toàn một màu tím,
Luân xa của con tràn ngọn lửa tím,
Con là chiếc loa của thày mãi mãi.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.5. Con sẵn lòng buông bỏ các kỳ vọng đó và nói: “Xin ý chí cao hơn của con được hoàn thành cho dù nó có là gì, chứ không phải ý chí vỏ ngoài của con. Dù bất cứ gì xảy ra, con cũng sẽ chấp nhận, con sẽ đón nhận, và con sẽ biết ơn tất cả những gì con được nhận.”

Ôi Saint Germain, nay con thoát được,
Lửa tím của thày, con dùng làm thuốc,
Dính mắc trong con đều chuyển hóa dần,
Con được an bình tràn khắp tâm thân.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.6. Con sẵn sàng trở nên mềm lỏng, sẵn sàng buông bỏ mọi hình ảnh cố định về đời mình phải trải ra như thế nào. Con kết nối lại với ý chí cao hơn là ý chí đích thực mà con đã có khi con không nhìn mọi chuyện xuyên qua lăng kính dày đặc của bốn thể phàm.

Ôi Saint Germain, thân con thanh khiết,
Lửa tím của thày, chữa lành đốt thiêu
Căn nguyên mọi bệnh đều cũng phải tiêu
Đời sống của con nay sao dễ chịu.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.7. Đây là một hành động buông bỏ sẽ đưa con đến một trạng thái an bình. Con chấp nhận khía cạnh omega của sự thị hiện trên địa cầu, nghĩa là địa cầu có một độ dày đặc sẽ giới hạn những gì con có thể thị hiện. Nhưng con luôn luôn thị hiện được những gì sẽ giúp con tăng triển lên một tâm thức cao hơn.

Ôi Saint Germain, con hết nghiệp quả,
Quá khứ không còn tạo muôn gánh nặng,
Vận hội mới mở ôi sao mới quá,
Nhập một Ki-tô, tâm con im lặng.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.8. Khía cạnh alpha là con vượt ra khỏi các ham muốn của ngã vỏ ngoài. Con tái nối kết với các mong muốn cao hơn mà chính con đã từng có trước khi hiện thân. Con cho phép những mong muốn này thị hiện và con chấp nhận như vậy là tốt đủ, đó là cơ hội mà con muốn, và con sẽ ôm lấy nó. Con sẽ tận dụng nó một cách tối hảo và đặt trọng tâm vào việc tăng triển thay vì sở hữu.

Ôi Saint Germain, ta nay một tim,
Cho thày con xin là mặt trời tím,
Chuyển hóa địa cầu, thày con cùng tìm,
Thai nghén sinh nở một Thời Hoàng kim.

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

7.9. Con làm hòa với thực tế là chừng nào con còn ở trong hiện thân vật lý, con sẽ không đạt đến một trạng thái giác ngộ tối thượng nào đó. Con sẽ vẫn cần soi mình trong gương, vẫn cần tăng triển, vẫn cần vượt qua và buông bỏ nhiều thứ, và chừng nào con còn đầu thai, con vẫn cần để cho chúng chết đi. Đó là cách duy nhất để con leo đến tầng 144 và thăng thiên.

Ôi Saint Germain, địa cầu thoát ảo,
Hết gánh nặng rồi, ám ảnh nhị nguyên,
Trong tâm duy nhất, con dâng tối hảo,
Thời đại Hoàng Kim huy hoàng lộ diện. 

Ôi Saint Germain, tình yêu thiện phúc
Vật chất hát vang, tình ca rộn rã,
Lửa tím của thày đem theo hồi phục,
Chúng sinh khai mở, tâm thức HƠN xa.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Dòng Sông sự Sống, để dòng sông phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

23 | Sẵn lòng chất vấn nhận thức của mình

Chương này là phần hai của bài truyền đọc “Khắc phục các tấn tuồng bằng cách chuyển từ phản ứng sang hành động” của chân sư thăng thiên Phật Gautama ngày 31/12/2009 qua trung gian Kim Michaels. Phần một của bài này là chương 21, “Cái ngộ then chốt để khởi sự tăng trưởng tâm linh”.

Cho nên đâu là chìa khóa để thăng vượt tâm thức phản ứng này? Đó là nhận ra rằng phản ứng của con phát xuất từ cách con nhận thức tình huống. Phản ứng là kết quả, là hậu quả, của nhận thức. Và như vậy khi con nhìn nhận tất cả đều là biểu hiện của tâm thức, con cũng nhìn nhận phản ứng của con đối với tình huống là sản phẩm của cách con nhận thức tình huống. Nhận thức ở đây, tất nhiên, đi xa hơn là nhận biết của giác quan, vì nó đi sâu vào phản ứng của cảm xúc, vào cách con suy nghĩ về tình huống, và vì vậy nó đi xa hơn thế nữa, tuốt vào bên trong cách con nhìn cuộc đời nói chung, cái tư duy vi tế, cái thế giới quan được lưu trữ trong thể bản sắc của con.

Cho nên cách đây 2500 năm, thày đã nói thế này ngay đoạn mở đầu của Kinh Pháp cú:

Preceded by perception are mental states.
For them is perception supreme.
If with perception polluted one thinks or acts,
suffering follows.

Nhận thức đi trước, các trạng thái của tâm đi sau.
Đối với chúng, nhận thức là tối cao.
Nếu nói hoặc làm vời nhận thức ô nhiễm,
đau khổ sẽ theo sau.

Nhận biết ô nhiễm với nhận biết thuần khiết khác nhau thế nào? Phải, thày vừa gợi ý cho con đó. Bất cứ khi nào con phản ứng trước một tình huống, con biết là con đang nhận thức tình huống đó với nhận biết ô nhiễm. Nhưng làm thế nào vượt qua được nhận biết ô nhiễm để có nhận biết thuần khiết? Bằng cách con nhận ra bất kỳ nhận biết nào khởi lên từ nhị nguyên thì nó vốn đã ô nhiễm trong bản chất. Điều này tất nhiên thật là khó. Bởi vì hầu hết mọi dòng sống trên địa cầu đã ngụ trong tâm thức nhị nguyên từ quá lâu đến độ họ mất hết mọi ý niệm về nhận biết thuần khiết. Nhưng như thày đã giải thích nhiều lần, cốt lõi của Bản thể con chính là trạng thái tâm thức thuần khiết đó. Suốt bao nhiêu thời đại, tâm thuần khiết này đã được mọi truyền thống thần bí và tâm linh giảng dạy, xưa hơn cả kinh Veda, trở ngược về thời Atlantis và Lemuria, thậm chí cả những nền văn minh xưa cổ hơn nữa.

Các nhà thần bí mọi thời đều biết khi con vượt ngoài nhận biết giác quan – sự nhận biết đến từ tâm vỏ ngoài do cảm xúc chi phối, sự nhận biết ở mức ý tưởng, ngay cả sự nhận biết đến từ ý niệm bản sắc là mình sống trong thế gian này – khi con vượt qua tất cả những thứ đó thì con chứng nghiệm nhận biết thuần khiết. Con có thể gọi đó là cái ta ý thức, cái Ta Biết, hay bất cứ tên gọi nào con muốn. Nhưng thực tế là khi con vượt khỏi mọi ý niệm bản ngã thì đó là nhận biết thuần khiết.

Nhận biết thuần khiết này không thể bị bất cứ gì trong cõi nhị nguyên, bất cứ gì trong thế giới hình tướng làm ô nhiễm. Và như vậy con có khả năng hòa điệu với cốt lõi của bản thể con. Và khi con chiêm nghiệm nhận biết thuần khiết và biết con là nhiều hơn cái ta vỏ ngoài chỉ biết nhận thức thế gian theo một cách nào đó, thì con sẽ bắt đầu neo trụ nhiều hơn vào nhận biết thuần khiết. Và khi đó con cũng bắt đầu nhận thức thế gian mà không rời nhận biết thuần khiết của con.

23.1. Duy trì sự nhận biết thuần khiết

Con không thấy hay sao, nhiều người chỉ kinh nghiệm được nhận biết thuần khiết trong một hé thoáng ngắn ngủi, xong ngay sau đó, có khi chỉ ít hơn một giây, họ lại trở về nhận thức thế giới qua nhân cách vỏ ngoài? Trong nhiều trường hợp, họ còn áp chồng các niềm tin tôn giáo của họ lên trên nhận thức thuần khiết, cứ đinh ninh rằng kinh nghiệm ngắn ngủi kia xác nhận điều này hay điều nọ trong giáo lý hay giáo điều của tôn giáo họ. Con thấy có những nhà thần bí đạo Cơ đốc sau khi trải nghiệm nhận biết thuần khiết, lại cắt nghĩa kinh nghiệm này trong cái nhìn cố hữu của tín điều đạo Cơ đốc mà chính họ chưa thăng vượt được. Con cũng thấy những sự kiện tương tự trong đạo Phật, đạo Ấn, đạo Hồi và tất cả mọi nơi khác. Thậm chí con còn thấy những người tự nhận là vô thần trải qua một kinh nghiệm nhận biết thuần khiết xong cố cắt nghĩa từ một quan điểm khoa học nào đó rằng đấy chỉ là trò ảo thuật của bộ não, hay là một phản ứng hoá học hay điện từ hên xui may rủi.

Nhưng khi con sẵn lòng tra vấn nhận thức hiện thời của mình, sẵn lòng nhận ra là có nhiều cách để nhìn một tình huống hay nhìn thế giới, khi con sẵn lòng nhận ra là các chân sư thăng thiên có nhận biết thuần khiết, con sẵn lòng kêu gọi các thày giúp đỡ, thì các thày chắc chắn sẽ giúp con phơi bày bợn nhơ nơi nhận thức của con. Và khi con sẵn lòng nhìn thẳng vào những bợn nhơ này và thăng vượt chúng, sẵn lòng đi muốt tiến trình mà chân sư đã mô tả là con đường tâm linh chân chính, thì con sẽ lần hồi đến được một điểm nơi con có thể duy trì nhận biết thuần khiết mà không bị lập tức rơi trở lại nhận thức vỏ ngoài.

Và điều này có nghĩa là bây giờ con có thể bắt đầu nhìn vào chính mình, cơ thể mình, tình cảnh riêng của mình và thậm chí cả thế giới, qua nhận biết thuần khiết. Con bắt đầu thấy có một cách khác để nhìn cuộc sống, khác hẳn cái nhìn của ngã vỏ ngoài, của nhân cách vỏ ngoài, của phin lọc nhận thức vỏ ngoài, của nhận thức ô nhiễm. Lúc đầu, đó sẽ là một tiến trình dường như phân liệt (schizophrenic) vì có lúc con có cái nhìn thăng vượt rồi chỉ lúc sau con lại trở về cái nhìn vỏ ngoài, khiến con nghi ngờ những gì con thấy. Cái này có thật không? Liệu thực tại của chân sư thăng thiên có khác hẳn những gì mình đã được nuôi dạy để tin tưởng, những gì mình đã nhìn thấy từ bao năm, thậm chí cả những gì mình tin là chân lý của một tôn giáo hay lời dạy công truyền?

Con thấy đó, con yêu dấu, có nhiều người tự xem mình là học trò của chân sư thăng thiên nhưng trong suốt bao nhiêu thập niên đã chỉ học những giáo lý công truyền vỏ ngoài, họ không có khả năng hay mong muốn đi xa hơn để chiêm nghiệm nhận biết thuần khiết. Họ đã dùng giáo lý vỏ ngoài đó để tạo ra một hộp tư duy mới, một thế quân bình mới như Giê-su đã giải thích tường tận. Và bây giờ khi họ chiêm nghiệm nhận biết thuần khiết, họ phải đối diện với thực tế là cái nhìn của các chân sư thăng thiên khác xa cái nhìn cố hữu của họ dựa trên một giáo lý bên ngoài mà chính các chân sư đã ban ra.

Tuy nhiên họ chưa hề đi xa hơn giáo lý! Họ đã không vươn lên cao hơn trạng thái tâm thức của họ, đã không chất vấn nhận thức của họ. Cho nên họ đã hình thành một nhận thức dựa trên giáo lý công truyền thay vì Tánh linh vượt trên mọi chữ nghĩa vỏ ngoài. Và do đó, bây giờ họ mới nhận ra là các thày không nhìn như cách họ đã học nhìn. Và họ phải đối mặt với thử thách – liệu họ sẽ chất vấn, không cứ là giáo lý công truyền, nhưng chất vấn cả nhận thức của họ về giáo lý công truyền? Liệu họ sẽ sẵn lòng từng bước đạt tới nhận biết thuần khiết hầu vượt xa hơn cái nhận thức về giáo lý công truyền mà họ đã dần dà xem là chân lý tuyệt đối không thể nào sai sót?

Đó là làm thế nào ngay cả giáo lý của chân sư cũng có thể trở thành một cái bẫy cho những học trò nào không sẵn lòng liên tục chất vấn nhận thức của mình. Vì con thấy đó, con có thể là thành viên của một tổ chức hay giáo lý bên ngoài mà không cần chất vấn nhận thức của mình – như con bắt buộc phải làm trước khi được gia nhập tăng đoàn của Phật, hay trước khi con được bước vào lớp nhập thất của Đại đoàn Chưởng giáo như các thày đã mô tả nhiều lần.

23.2. Làm thế nào người ta bị kẹt trong nhận thức

Nếu con không chịu tra vấn nhận thức thì hiển nhiên con tin rằng nhận thức của mình hoàn toàn chính xác, hoàn toàn thực. Con đâu làm gì khác được? Thày tin cậy hầu hết các con đều thấy được điều này. Nếu con không chất vấn nhận thức, con sẽ tin là nhận thức hiện thời của con về cuộc sống – hay về một tình huống cụ thể nào đó – là thực, trọn vẹn, chính xác. Thày tin cậy con cũng phải thấy được là nếu con không chất vấn nhận thức thì con không thể vượt lên trên nhận thức đó. Mà nếu con không vượt lên trên nhận thức thì làm sao con nhận ra sự thật mà thày đã bày tỏ trong Kinh Pháp cú 2500 năm về trước – rằng nhận thức xuất phát từ một trạng thái của tâm sâu xa hơn nữa, thể bản sắc, là cái nhìn của con nơi tầng bản sắc về chính mình và cuộc sống?

Chính nhận thức sâu xa này nơi bản sắc đã nhào nặn cách con tiếp cận cuộc sống qua lý trí và cảm xúc. Cách tiếp cận qua lý trí và cảm xúc này khiến con nhìn các tình huống một cách nào đó, và điều này khiến con bước vào một trạng thái tâm nào đó, chẳng hạn con cảm thấy mình bị kết án bất công, cảm thấy mình cần phải phê phán người khác, cần phải phản ứng giận dữ khi tình thế không đúng ý hay bất cứ trạng thái tâm nào khác. Và khi con ở trong một trạng thái tâm thấp như vậy, nếu con không chịu chất vấn nhận thức của mình thì đối với trạng thái tâm đó, nhận thức của con là tối cao.

Và nếu nhận thức của con tối cao, con sẽ không thể lên cao hơn nhận thức của con, con không thể vượt lên trên trạng thái tâm thấp đó. Con không thể phát hiện cái trạng thái cao hơn kia để nhận ra chính nó đã làm ô nhiễm nhận thức của con và nó đã khiến con nhìn cuộc đời với nhận thức ô nhiễm. Và nhận thức ô nhiễm này thì lại sản xuất trạng thái tâm thấp kém nơi con bị kẹt. Thế là trạng thái tâm này trở thành một hệ thống khép kín, một vòng phản ứng luẩn quẩn nơi con không ngừng phản ứng lại với cuộc đời.

Như thày đã nói ở phần đầu, con đang phản ứng lại những gì con phóng ra tấm gương vũ trụ. Con phản ứng lại những phản ứng của chính con do cái nhìn của con về cuộc đời tạo ra. Cho nên con bị kẹt trong một vòng xoắn ốc bất tận, phản ứng lại phản ứng của con lẫn phản ứng của người khác. Tất cả đều là phản ứng của nhau. Làm sao con bao giờ thoát ra khỏi tình trạng này? Làm sao CON bao giờ thoát khỏi vòng xoáy phản ứng của CON?

Con sẽ chỉ tự do khi nào con ngừng nhìn vào người khác hầu tìm cách thay đổi tâm thức họ, và nhìn nhận rằng chìa khóa cho tự do của CON là thay đổi tâm thức của CON. Và chìa khóa để thay đổi tâm thức của con là chất vấn nhận thức của con – là đi sâu vào tầng mức của nguyên nhân và nhìn xa hơn tầng mức của kết quả, đi vào tầng mức của hành động và nhìn vượt khỏi tầng mức của phản ứng. Bởi vì con sẽ không thể thay đổi phản ứng cho đến khi con thay đổi hành động. Có thể nói phản ứng là nhận thức ô nhiễm và trạng thái tâm phát xuất từ nhận thức mà con có ở tầng cảm xúc lẫn lý trí. Đó là phản ứng.

Còn tầng mức của hành động là thể bản sắc của con, là cách con nhìn cuộc đời và chính con, là quan hệ của con với cuộc sống, quan hệ của con với mọi người, quan hệ của con với Ánh sáng Mẫu-Vật, quan hệ của con với Thượng đế. Đây là nhận thức sâu sắc của con, là cái khiến con hành động bằng cách phóng ra một hình ảnh vào tấm gương vũ trụ ở ngoài tầng cảm xúc, ở ngoài tầng tư tưởng – tức là ở ngoài tầm mức mà hầu hết mọi người có thể nhận biết y thức. Và làm sao con có thể nhận biết ý thức những gì nằm ngoài cảm xúc và tư tưởng nếu con không bắt đầu chất vấn nhận thức của mình? Chuyện này giản dị không thể làm được, và đó là tại sao cái bẫy thật trọn vẹn.

Những kẻ cáo buộc người anh em biết rõ là một khi chúng có thể ép buộc mọi người, ép buộc các dòng sống bước vào chu kỳ phản ứng bất tận này, thì họ sẽ không bao giờ thoát ra được – trừ khi họ chịu chất vấn nhận thức của họ. Và bằng cách khiến cho mọi người luôn luôn bận rộn lo phản ứng lại cuộc đời, chúng có thể tạo ra một vòng xoáy hướng hạ vũ bão đến độ hầu hết mọi người không bao giờ có được phương tiện để chất vấn nhận thức của mình, do mình quá chắc chắn nhận thức này đúng đắn và không cần chất vấn. Vả lại ai ai cũng đều có cùng cái nhìn như thế.

Cho nên một khi phần lớn dân cư trên một hành tinh xem cuộc đời là sự vật lộn không ngừng thì làm sao có ai sẽ bước lui lại để chất vấn cách nhận thức này? Có ai sẽ đứng ra đặt câu hỏi: “Cuộc đời có thật là vật lộn không? Cuộc đời có bắt buộc phải như thế không? Hay chỉ nhận thức của chúng ta về vật lộn đã tạo ra vật lộn, bằng cách phóng chiếu hình ảnh cuộc đời vật lộn ra tấm gương vũ trụ?”

23.3. Nhận thức thuần khiết là gì?

Hẳn con đã nghe truyện kể rằng xưa kia thày là con vua, lớn lên trong một khung cảnh bảo bọc nơi thày không có dịp nhận thức về bệnh và chết. Cho nên thày lớn lên với một nhận thức hạn hẹp, một chiều, có thể gọi là trong lành hơn nhận thức của hầu hết mọi người trên địa cầu. Con đã nghe là nhận thức của thày về một cụ già đã khiến thày ngộ ra là nhận thức cố hữu của mình thật giới hạn. Và tuy rằng nhận thức đó thuần khiết hơn một người trung bình, cuối cùng thi nó không thuần khiết lắm vì giản dị thày đã bỏ qua không biết đến một số thực tế tạm thời của hành tinh. Đó không thật sự là nhận thức thuần khiết.

Nhận thức thật sự thuần khiết không đạt được bằng cách gạt bỏ những bất toàn, mà nhìn xuyên qua bất toàn, nhìn xa hơn bất toàn, và nhìn xem có gì vượt cả sự nhận thức – ngay cả nhận thức rằng cuộc đời là sự vật lộn. Con cũng biết là sau khi nhận ra điều này, thày đã rút vào rừng, sống một cuộc đời khổ hạnh, hành hạ thân tâm, tìm cách rèn luyện tâm. Cho tới khi thày ngộ ra rằng ngay cả những thứ đó cũng sẽ không dẫn thày đến nhận thức thuần khiết.

Điều gì đã khiến thày vượt xa hơn mức đó và chứng đạt quả vị Phật? Đó là vì thày đã tới điểm sẵn sàng chất vấn TỪNG khía cạnh của nhận thức – nhận thức mà thày đã có khi lớn lên, nhận thức về lối sống và triết lý khổ hạnh. Thày sẵn lòng đặt lại vấn đề tất cả mọi thứ, và khi thày bắt đầu đặt lại vấn đề mọi thứ, thày cũng bắt đầu nhận ra những mô thức vận hành khiến cho nhận thức ô nhiễm trở thành một chu kỳ bất tận không dẫn tới đâu. Đó là lúc thày bắt đầu chiêm nghiệm tâm thức thuần khiết mà trong đạo Phật gọi là Samadhi, hay Nirvana. Rồi nhờ thế thày lần hồi duy trì được sự nhận biết thuần khiết cho dù mình vẫn làm lụng công việc hàng ngày, và như vậy thày có thể nhận thức thế gian từ tầng mức của nhận biết thuần khiết.

Cho nên thày nhìn thấy, thày bắt đầu nhìn thấy rằng nhận thức ô nhiễm chính là nhận thức nhị nguyên khi có hai đối cực phải hiện diện. Trông ra thì tưởng chừng chúng hoàn toàn có thực, cái đối cực này không thể hiện hữu mà không có cái kia. Và do đó theo một nghĩa nào đó, cái này cũng thực như cái kia, tạo ra cảm tưởng là cái ác cũng thực như Thượng đế, rằng ác quỷ có quyền năng – nó có thường hằng, nó có thực thể. Và như vậy, thày bắt đầu nhìn vượt lên trên nhận thức nhị nguyên. Thày bắt đầu thấy được là có một cách tham gia vào cuộc sống – ngay cả cuộc sống năng động trong một thế gian tràn đầy bất toàn – mà vẫn không bị cuốn hút vào nhận thức nhị nguyên nơi người ta phải dán nhãn cho mọi thứ theo một thang điểm nhị nguyên tương đối với hai đối cực – một cái là thiện, cái kia là ác; cái này là đúng, cái kia là sai; cái này là thật, cái kia không thật hoặc giả; cái này là đẹp, cái kia là xấu; cái này dễ chịu, cái kia khó chịu.

Điều xảy ra là thày bắt đầu thấy được có gì vượt ngoài nhận thức nhị nguyên, và nhận thức nhị nguyên là nhận thức ô nhiễm khi người ta nhận biết một cái gì nhưng không thật nhận biết vì sự nhận thức đã bị ô nhiễm. Và do đó, người ta không thể tách rời hành động nhận thức với hành động dán nhãn, lượng định, phê phán. “Hãy đừng xét đoán để mình khỏi bị xét đoán, vì con đo lường người ta với thước đo nào thì con cũng bị đo lường thế nấy”. Con có thấy chăng là con sẽ bị chính con xét đoán qua tâm thức của con? Và như vậy, cách con xét đoán người khác khi con đang đầu thai trên địa cầu cũng là cách con sẽ xét đoán chính mình khi con bước ra khỏi kiếp đầu thai và duyệt lại đời mình – là khi con nhìn vào chính mình qua cái tâm thức mà con đã nhìn người khác. 

Thày bắt đầu nhìn ra là vượt lên trên cách nhận thức này – cái nhận thức khiến mình như phải phê phán, dán nhãn và đánh giá tất cả – có nhận thức thuần khiết, một cách nhận thức mà qua đó thày không gạt bỏ những bất toàn trên địa cầu, không gạt bỏ tính không thực trên trái đất, nhưng thày không phán xét nó, không dán nhãn nó. Và như vậy, thày không phản ứng lại nó trong sự cảm xúc, như cảm thấy bị đe dọa, cảm thấy khó chịu hay ghê tởm, hay cảm thấy nó không được có mặt ở đó. Thực sự, thày nhìn vượt khỏi nó. Và vượt khỏi hình tướng bên ngoài, thày nhìn thấy Phật tánh, Ánh sáng Mẫu-Vật, sự THANH TỊNH, thực tại rằng tất cả được sinh tạo từ ánh sáng của Thượng đế. Và vì vậy nó có tiềm năng rũ bỏ hình ảnh ô uế, hình tướng ô uế, để được gia tốc vào thuần khiết – là thuần khiết của tâm thức Ki-tô, thuần khiết của tâm thức Phật, thuần khiết của tâm thức Thượng đế.

Và như vậy, thày đến được một điểm của tâm thức Phật nơi thày có thể duy trì Nirvana, duy trì Samadhi, cho dù thày đang tham gia vào mọi sinh hoạt đời sống. Con không cần phải ngồi đó thiền định với mắt nhắm chặt để trụ trong Samadhi hay Nirvana. Con luôn mang nó theo con, và con nhìn tất cả xuyên qua tâm thức thuần khiết. Con vẫn thấy mọi bất toàn của thế gian, nhưng con không dán nhãn chúng, con không phê phán chúng, con không phản ứng lai chúng. Con chỉ nhìn thấy chúng, nhưng con thấy chúng là tạm thời, con thấy chúng là không thực. Và con không phản ứng lại cái không thực, cái bất toàn. Thay vào đó, con HÀNH ĐỘNG dựa trên sự chứng ngộ là mỗi bất toàn có thể được gia tốc vào thuần khiết, vào một trạng thái cao hơn. Khi đó, con có thể bước ra ngoài và hành động để nâng cao mọi sự sống, thay vì tìm cách kết án một sắc thái nào đó của sự sống rồi tìm cách tiêu diệt nó đi.

23.4. Sự lừa dối đằng sau mọi tấn tuồng

Con có thấy đây là sự lừa dối của kẻ cáo buộc người anh em hay không? Đây là sự lừa dối nền tảng đằng sau tất cả những tấn tuồng cuồng đại mà cho tới nay các thày đã phơi bày một cách rất cẩn trọng. Tấn tuồng cuồng đại khiến con tin rằng có cái gì đó xấu xa hay ác hại, và cái đó cần bị triệt tiêu. Nhưng khi con muốn triệt tiêu xấu ác thì con đã khởi đầu một phản ứng chống lại xấu ác – và điều này sẽ không thể xóa bỏ khổ đau trên địa cầu mà sẽ chỉ gia tăng khổ đau. Và vì vậy, cách duy nhất để “xóa bỏ xấu ác” là thăng vượt tâm thức nhị nguyên hầu con có thể hành động trong tâm thức bất nhị, và do đó con tìm cách gia tốc các điều kiện mà người ta gọi là xấu ác, gia tốc nó vào thanh tịnh bằng cách nâng cao mọi sự sống thay vì lên án, chê trách, miệt thị, tiêu diệt.

Đây là sự khác biệt giữa những ai đã thăng thiên và những ai chưa thăng thiên. Là sự khác biệt giữa những ai đi theo con đường của tình thương và những ai còn bị mắc kẹt trong cái nhìn sợ hãi khi họ cảm thấy nhu cầu phải phê phán, kết tội, bài bác, tiêu diệt.

Làm thế nào con thăng thiên? Bằng cách tự gia tốc và tới điểm con có thể nói cùng với Giê-su: “Còn ta, khi ta thăng lên khỏi địa cầu, ta sẽ kéo mọi người lên cùng ta.” Thế Giê-su có nói, ta sẽ chỉ kéo những người tốt lên với ta và đuổi người xấu xuống địa ngục? Không, Giê-su không nói vậy, mà thày nói: “Ta sẵn lòng gia tốc để nâng cao mọi sự sống”, và đó là tại sao thày đã có thể thăng thiên. Vì thày đã tự gia tốc khỏi tâm thức cáo buộc vốn phân chia cái không hề phân chia – sự duy nhất bất khả phân chia của Thượng đế – thành hai đối cực rồi dán nhãn cho một đối cực là tốt, được vào Nước Trời, còn đối cực kia là xấu, không được vào Nước Trời và do đó phải bị tiêu diệt bởi những ai muốn vào Nước Trời. Bởi vì khi tiêu diệt xấu ác, con tưởng là con sẽ đủ tư cách để vào Nước Trời. Đó chính là sự lừa dối của các tấn tuồng cuồng đại. Có quá nhiều người đã từng tin vào và vẫn tin vào lời dối gạt đó. Họ vẫn tin là họ có thể tìm đường để được chấp nhận vào Nước Trời bằng cách khăng khăng giữ lấy tâm thức nhị nguyên – nghĩa là họ từ chối khoác vào cái áo cưới nơi họ hoàn toàn không bạo động, không nhị nguyên, không phê phán, không lên án, không hạ thấp, mà chỉ cố gia tốc mọi sự sống vào thanh tịnh.

Con thấy chăng là thày không yêu cầu con trở nên đui mù? Thày không yêu cầu con nhắm mắt phớt lờ những bất toàn đầy rẫy trong thế gian, nhưng thày yêu cầu con đừng khiến chúng trở thành trường tồn trong tâm con. Bởi vì khi con phản ứng lại chúng thì con làm gì? Phải, nếu con biết cái gì đó là không thực và con là thực, tại sao con lại có nhu cầu phản ứng hay chống đối lại? Tại sao con có nhu cầu phản ứng lại một cái gì không thực? Cho nên con không phản ứng với cảm giác mình bị đe dọa, tức giận, sợ hãi hay bất kỳ cảm xúc tiêu cực nào khác. Con chỉ đơn giản nhìn nó, và con hành động – bằng hành động không dựa trên dáng vẻ bề ngoài hay hình tướng vỏ ngoài, mà dựa trên nguồn sáng tạo nội tâm tự phát từ cái ta cao của con, từ Hiện diện TA LÀ của con, từ tất cả mọi tầng của chuỗi sinh thể tâm linh ở ngay trên con cho tới Đấng Sáng tạo.

Thay vì phản ứng, con hành động trong một hành động được tưới bởi nguồn suối sáng tạo đó. Và vì con không phản ứng lại hình tướng, cho nên con không ban cho nó sự trường tồn, con không ban cho nó thực chất. Và như vậy hành động của con không nhằm triệt hạ hay hủy diệt, mà chỉ nhằm gia tốc vào sự thuần khiết mà con thấy vượt khỏi hình tướng. Đây là nhận thức thuần khiết. Con nhìn gì đó và thấy cái đó là một biểu hiện không thực, nhưng con không bị lôi cuốn vào phản ứng muốn dán nhãn nó là xấu, dở hay ác – như người đời thường làm.

Con yêu dấu, các thày đã cho con nhiều lời dạy để giúp con vươn lên khỏi tâm thức cáo buộc, tâm thức của những tấn tuồng cuồng đại. Đúng một năm trước đây, các thày đưa ra khái niệm về những tấn tuồng và chỉ ra sự cần thiết phải thăng vượt chúng nếu con muốn bước lên cao hơn, nếu quả thật con mong muốn trở thành một sức mạnh gia tốc địa cầu vào vòng xoắn ốc thăng thiên vào năm 2012 và xa hơn nữa. Nếu con thực sự muốn hình thành tăng đoàn của Phật, con cần phải thăng vượt các tấn tuồng của con, như thày và các chân sư khác đã chỉ ra rõ ràng, và cả Saint Germain nữa trong bài giảng quan trọng của thày. Đối với các con tha thiết muốn vượt qua tấn tuồng của mình, rất có thể con sẽ có lý do để học lại bài đó một lần nữa.

Bởi vì dĩ nhiên các thày nhận thấy trong số các con có những người không sẵn lòng khắc phục tấn tuồng của mình và thậm chí đã bác bỏ toàn bộ khái niệm đó, bác bỏ nhu cầu phải vượt qua tấn tuồng, hay từ chối nhìn nhận là mình có những tấn tuồng cần vượt qua. Tất nhiên theo Luật Tự quyết, điều này các thày hoàn toàn chấp nhận được. Nhưng các thày chỉ muốn nói: Nếu thế thì các thày không thể nhận con vào tăng đoàn mà các thày đang thiết lập. Khi cách đây 2500 năm học trò xin gia nhập tăng đoàn của thày, họ phải khảo thí, tức là có một quá trình lựa lọc, phân loại giữa những người sẵn sàng chất vấn nhận thức và tấn tuồng của mình, với những người không sẵn sàng. Những người không sẵn sàng phải đứng lại bên ngoài. Họ đã phản ứng bằng nhiều cách, một số cảm thấy mình bị hất hủi, một số khác thì công kích Phật cùng các đệ tử của Phật bằng đủ mọi cách mà kinh sách Phật giáo không ghi lại cho nên người đời sau không biết rõ.

Nhưng thày có thể cam đoan với con yêu dấu, tất cả mọi việc thày làm hay những lời thày nói vào thời đó đã không được các Bà la môn trong đạo Ấn chấp nhận hay chấp thuận. Họ cảm thấy bị đe dọa bởi thày, hay bởi những người trong số đệ tử của họ không chịu chất vấn nhận thức của mình. Đã có rất nhiều cãi vã, công kích, buộc tội đối với thày, đối với sinh mạng của thày và các đệ tử của thày. Có rất nhiều chuyện xảy ra, như con thấy với Giê-su cũng từng bị công kích, lên án. Bởi vì như thày đã nói, tâm thức này đã có từ ngàn xưa. Con đừng nghĩ là thày đã tránh né được nó, bởi vì nó có mặt. Nhưng tất nhiên thày không bận tâm vì nó, thày không dính mắc với nó, cho nên thày không phản ứng lại nó. Thày chỉ đơn giản giảng dạy để cố giúp những ai chịu thăng vượt tầng mức tâm thức đó, và thày đặt trọng tâm giúp đỡ những ai thày có thể giúp bởi vì họ sẵn lòng tự giúp họ. Họ sẵn lòng nhìn vào chính họ, tra vấn nhận thức của họ thay vì coi đó là tối cao, vượt ngoài mọi chất vấn.

23.5. Hình tư tưởng tia chớp từ Đông sang Tây

Và bây giờ như thông lệ, thày sẽ kết thúc bài giảng hôm nay bằng một hình tư tưởng có thể giúp con có một vai trò đắc lực hầu đưa nhân loại qua cuộc điểm đạo của Ngôi Con, Tâm thức Ki-tô – là tâm thức phân biện giữa chân và bất chân, và tất nhiên điều này đòi hỏi con có nhận thức thuần khiết không dán nhãn và không phê phán mà thày vừa trình bày ban nãy.

Thày mong muốn con hình dung Ki-tô đang bước vào thế gian này như Giê-su đã nói – tựa như tia chớp từ Đông sang Tây. Và tia chớp phóng vào thế giới như một thanh gươm hai lưỡi chém xuyên qua những tấm màn ảo ảnh, tấm màn của Maya. Những tấm màn này có thể xem là những tấm rèm mà các thày giả và sa nhân đã treo lên để chúng có thể ẩn nấp đằng sau. Có những tấm rèm cứng đặc đến độ không thể nhìn xuyên qua, và cũng có những tấm khác đã trở nên phần nào trong suốt khiến con có thể nhìn thấy những cái bóng đang di chuyển đằng sau.

Con hãy hình dung Thanh gươm của Ki-tô, Lời Hằng sống, sẽ phóng ra và chặt đứt những sợi dây dùng để treo rèm, và những tấm rèm rơi xuống, để lộ những gì đằng sau. Phơi bày tầng lớp thượng tôn quyền lực, phơi bày những kẻ đang khuynh loát bằng đủ mọi cách, vì chúng đã có thể giấu mặt khỏi loài người thì nay chúng sẽ bị phơi trần. Tấm rèm sẽ rơi xuống và mọi người sẽ thức tỉnh và nói, “Nhìn kìa, hoàng đế không mặc quần áo gì hết. Bây giờ chúng ta thấy rõ y rồi – y không còn trùm trong tấm màn ảo ảnh của y được nữa, trong hỏa mù của Maya, của gian trá và lừa gạt.”

Con hãy giữ hình tư tưởng này, con yêu dấu! Con hãy nhớ đến nó mỗi khi con gặp một tình huống mà con biết có sự lừa dối. Và con hãy gọi lên một lời gọi ngắn gọn do con nghĩ ra, gửi về Ki-tô và Phật. Con hãy thỉnh Thanh gươm của Ki-tô sẽ tách chân ra khỏi bất chân, sẽ cắt những tấm màn để chúng rơi xuống, và mọi người thấy phơi ra cái thực và cái không thực – và như vậy, cái không thực sẽ đứng đó trần truồng cho cả thế giới được thấy. Thày khuyên con hãy hình dung như vậy.

Và với lòng biết ơn đối với các con đã kiên trì giữ vững sự quân bình cho bài giảng này, thày nói: “Tốt lắm, những con người phụng sự tốt lành và trung thực, các con đã trung thực trong một số công việc, thì thày sẽ nỗ lực cho con cai quản nhiều điều trong những năm tới.” Và như vậy, hãy được niêm phong trong nhận thức thuần khiết vô biên bất nhị của Phật. Hãy gọi thày để thày ban cho con nhận thức thuần khiết của Tâm Phật, là tâm biết tất cả đều là Phật tánh và do đó thấy được sự khác biệt giữa sự thực thuần khiết của Phật tánh và sự không thực của các ảo tưởng Maya luôn đến cám dỗ con – cám dỗ con làm điều gì? Cám dỗ con phản ứng lại cái không thực bằng đủ cách! Bởi vì bất kỳ phản ứng nào cũng khiến con kẹt lại trong vòng xoắn ốc của không thực. Cho nên con hãy là Phật – nhất định không phản ứng, nhất định bước vào con đường tâm linh hầu thày có thể dạy con cách HÀNH ĐỘNG, HÀNH ĐỘNG, HÀNH ĐỘNG từ nhận thức thuần khiết.

Vậy hãy được niêm phong trong an bình của thày, trong sự an bình không hề thụ động, và không là cái an bình mà nhiều người cho là an bình, mà là an bình năng động, vô hạn, không để cho mọi sự đứng yên, không để cho con người bị kẹt trong vòng xoắn ốc nơi họ nghĩ cuộc đời là đau khổ. Và đó là lý do thày đã bước ra khỏi Nirvana – để giảng dạy cho loài người là có một chọn lựa khác hơn là khổ đau. Và thày khuyên CON hãy làm tương tự. Hãy dạy dỗ họ, hãy chứng tỏ cho họ là có một chọn lựa khác hơn khổ đau. Các con đều có khả năng đạt được thanh thản trong tâm, khả năng nhìn cuộc sống với một niềm vui vô biên, bất tận! Hãy được niêm phong trong niềm vui của Phật. Vì khi con thấy được Phật tánh, làm sao con không vui được? Cho nên TA LÀ Niềm vui Bất tận.

21 | Cái ngộ then chốt để khởi sự tăng trưởng tâm linh

Chương này là phần đầu của bài truyền đọc “Khắc phục các tấn tuồng bằng cách chuyển từ phản ứng sang hành động” của chân sư thăng thiên Phật Gautama ngày 31/12/2009 qua trung gian Kim Michaels. Phần thứ hai của bài này là chương 23, “Sẵn lòng chất vấn nhận thức của mình”.

Phật TA LÀ. Gautama TA LÀ và TA LÀ tỉnh thức. Thày đến để nói với con rằng, con cũng vậy, tốt hơn là con nên tỉnh thức nếu con muốn vượt qua những cuộc điểm đạo của năm 2010 này, mà như thày đã trình bày năm ngoái vào ngày đầu năm, sẽ là Năm của Ngôi Con. Là năm mà nhân loại phải đối mặt với điểm đạo của Ngôi Con – tức Tâm thức Ki-tô – và do đó phải đối mặt với điểm đạo về sự cần thiết đạt được Tâm thức Ki-tô hầu phân biện giữa chân và bất chân.

Con để ý thày không nói “thật và giả”, bởi vì thật và giả là từ ngữ mà loài người đã sử dụng từ bao lâu nay để chỉ những thứ trong cõi nhị nguyên. Và tất nhiên, trong năm tới, điều cần thiết là mỗi người cần bước lên khỏi nhị nguyên và, trên hết, học cách phân biện là có một cái gì vượt khỏi nhị nguyên, có một mức tâm thức có thực – và nó không ở trong cõi luôn luôn có hai đối cực chống đối lẫn nhau.

Và như thế, tâm thức bất nhị này không có đối cực, bởi vì Thượng đế không có đối cực, Phật không có đối cực. Không hề có gì có thể gọi là phản Thượng đế tuy rằng dĩ nhiên con có thể nghĩ ra từ này. Cũng vậy, không hề có phản Phật cho dù con cũng có thể nghĩ ra từ đó. Vì con thấy không, cái gì không phải là Phật chỉ đơn giản không là Phật. Cái gì không phải là Thượng đế thì không là Thượng đế, có nghĩa cái đó bị tách biệt khỏi Thượng đế, tách biệt khỏi Phật. Thế nhưng khi Thượng đế ở mọi nơi và khi tất cả đều là Phật tánh, làm sao có gì thực sự tách biệt khỏi Phật? Làm sao có gì thực sự tách biệt khỏi Thượng đế?

Điều này tất nhiên không thể xảy ra trên thực tế, nó chỉ có thể xảy ra trong cõi nhị nguyên, nơi con có thể định nghĩa hai đối cực rồi bảo rằng Thượng đế là một đối cực, và ác quỷ – hay phản Thượng đế hay bất kỳ con muốn gọi là gì, thậm chí gọi là vật chất – là đối cực kia, và do đó là chống đối, tách biệt khỏi Thượng đế. Nhưng ảo tưởng này tất nhiên tự thân nó không hiện hữu. Nó chỉ hiện hữu trong tâm của những ai đã quyết định bước vào cõi của nhị nguyên. Và tại sao lại có những dòng sống muốn bước vào cõi này?

21.1. Con luôn luôn có thể thay đổi phản ứng của mình

Như Giê-su, như Đại chỉ đạo Thiêng liêng, như Astrea và như Serapis Bey gần đây có giải thích thật cặn kẽ, họ làm vậy vì họ không sẵn sàng nhận lấy trách nhiệm về bản thân họ. Thế nào là nhận lấy trách nhiệm về bản thân? Đơn giản có nghĩa là con sẵn sàng nhận diện và nhìn nhận một cách ý thức một sự thật duy nhất, là nền tảng cho sự tăng triển của con trên con đường tâm linh bước vào vòng xoắn ốc thăng thiên. Đây là sự thật khiến cho các chân sư thăng thiên có thể làm việc với con trên một căn bản cá nhân thay vì con ở lại trong Trường đời Cay đắng, hay ở lại trường học của giáo lý công truyền, của những tổ chức và đạo sư công truyền nơi con có thể tìm thấy một đạo sư chân chính hay không chân chính, nhưng trong mọi trường hợp, nơi con sẽ bị hấp dẫn bởi loại đạo sư hay giáo lý cộng hưởng với tầng tâm thức hiện thời của con.

Vì con thấy đó, khi con chưa nhận trách nhiệm về mình thì con chưa sẵn sàng tra vấn tâm thức hiện thời, nhận thức hiện thời của con. Và như vậy làm sao con có thể thu hút một đạo sư vượt lên trên tầng tâm thức đó? Chuyện này không thể làm được. Đây là một trong những sự thật quá hiển nhiên, nó đáng lý phải hiển nhiên nhưng lại không hiển nhiên chút nào cho những ai chưa chịu nhận lãnh trách nhiệm và do đó còn nhìn tất cả mọi thứ với nhận thức ô nhiễm.

Vậy thì điều gì là điều con bắt buộc phải nhận ra trước khi con có thể là học trò cá nhân của các chân sư thâng thiên? Đó chính là: Mọi thứ trong thế giới hình tướng đều là sự biểu hiện của tâm thức, là một tạo vật của tâm thức. Không có gì – thày nhắc lại, không có gì – trong thế giới hình tướng, dù là trong cõi tâm linh hay vũ trụ vật chất, mà có sự hiện hữu độc lập hay khách quan. Không có gì đã đi vào hiện hữu mà không được sinh tạo bởi một sinh thể đồng-sáng tạo với khả năng tự nhận biết. Vị này trước tiên hình dung ra một hình tư tưởng, rồi sử dụng khả năng đồng-sáng tạo của mình để áp chồng hình tư tưởng này lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và ánh sáng này khoác lấy hình dạng của hình tư tưởng.

Không có cách nào khác để sáng tạo. Ngay cả Đấng Sáng tạo cũng sáng tạo cách này, như mọi vị đồng sáng tạo khác từ mọi thời – trong bầu cõi này hay trong những bầu cõi trước cho tới lần sáng tạo đầu tiên. Không có cách nào khác để sáng tạo. Và như vậy, con đường tâm linh khởi sự khi con đạt tới điểm sẵn sàng chất vấn nhận thức cho rằng những gì mình nhận biết trong vũ trụ vật chất là thực – là có sự hiện hữu độc lập, nghĩa là hiện hữu một cách độc lập khỏi tâm thức – và như vậy nó trường tồn hay bất biến, hay chỉ thay đổi rất chậm do một tiến trình vượt ngoài tầm kiểm soát của con, cho dù tiến trình này là Thượng đế hay thiên thần trên trời, hay định luật tự nhiên, hay quy trình tiến hóa, hay bất kỳ huyền thoại nào khác mà con người đã nghĩ ra để giải thích mọi sự ở chung quanh mà qua đó con người thấy cả dáng vẻ của trường tồn lẫn dáng vẻ hiển nhiên của biến đổi.

Tuy nhiên, vì không chịu nhận trách nhiệm về bản thân, con người phải phóng chiếu ra là mọi thứ đều trường tồn và hiện hữu độc lập. Và cùng lúc, họ cũng phải phóng chiếu là những thay đổi mà họ không thể chối cãi phải đến từ một tiến trình nào đó ở bên ngoài họ mà họ không thể kiểm soát. Nhưng thực sự, liệu có gì trong thế giới của họ – trong thế giới cá nhân của họ – mà họ hoàn toàn không thể kiểm soát được không? Có, có chứ – nhưng chỉ ở mức tâm thức hiện thời của họ mà thôi. Nhưng nếu con sẵn sàng thăng vượt mức tâm thức hiện thời của con, thăng vượt nhận thức hiện thời của con, thăng vượt cái hộp tư duy hiện thời của con, thì tuyệt đối sẽ không có gì trong thế giới của con mà con không thể gia tốc lên một tầng cao hơn bằng cách sẵn lòng gia tốc chính tâm thức của con.

Con có thể nhìn vào thế giới chung quanh, nhìn vào hoàn cảnh cá nhân, và con cỏ thể thấy nhiều điều trong đời mình mà dường như con không có quyền năng ảnh hưởng hay thay đổi, do chúng tùy thuộc vào những định luật tự nhiên mà hình như con không thể thay đổi. Hoặc chúng tùy thuộc vào người khác và những chọn lựa tự quyết của họ. Nhưng con thấy đó, con vẫn có quyền năng thay đổi một thứ. Con có quyền năng thay đổi cách con phản ứng trước tình huống ngoại cảnh, trước cách cư xử của người khác.

21.2. Khởi đầu của con đường tâm linh

Và con khởi đầu nơi con đang đứng bằng cách tự hỏi: “Làm thế nào tôi có thể gia tốc phản ứng của mình để tôi không bị những hoàn cảnh, hành động hay lời nói của người khác buộc tôi phải phản ứng tiêu cực? Làm thế nào gia tốc ra khỏi khuôn nếp phản ứng cũ? Làm thế nào ra khỏi cách vận hành cố hữu của tâm thức phản ứng?” Khi con bắt đầu đặt ra những câu hỏi này, đó là lúc con có thể khởi sự con đường tâm linh.

Ban đầu, có vẻ như con chỉ thay đổi được cách phản ứng đối với hoàn cảnh hay người khác, nhưng thày cam đoan với con là các thày – các chân sư thăng thiên đã từng trải qua cùng tiến trình như con, đã khởi đầu ở một trạng thái tâm thức vô cùng nhị nguyên rồi đã tự gia tốc vào Xoáy ốc Thăng thiên – các thày đã chứng minh, chứng minh nhiều lần và thêm nhiều lần rằng khi con gia tốc phản ứng của con, con sẽ đạt tới điểm không còn gặp phải một số tình huống hay một số loại người nữa. Và con yêu dấu, có thật là khó hiểu lắm không khi con đã nhận được rất nhiều lời dạy của các thày về sự kiện vũ trụ này là một tấm gương phản chiếu lại cho con những gì con gửi ra ngoài?

Nếu con gửi ra ngoài ý tưởng là con luôn bị người ta đổ tội oan ức, thì dựa trên hình tư tưởng mà con có trong tâm, vũ trụ sẽ suy ra điều gì? Đúng vậy, vũ trụ sẽ suy ra là con muốn kinh nghiệm một tình huống có ai đó buộc tội con. Và như thế, vũ trụ sẽ chiều theo và gửi đến con loại người buộc tội đó. Và con có thể rơi vào vòng xoáy ốc muôn thuở là tìm cách tự minh oan trước lời buộc tội của họ, hay tìm cách bác bỏ họ, hay tự bào chữa, hay thậm chí tìm cách thay đổi tâm họ. Nhưng con vẫn đang phản ứng đó con.

Con có thấy chăng là những gì khiến con phản ứng không phải là tình huống bên ngoài độc lập với trạng thái tâm thức của con? Con đang phản ứng lại sự phản ứng của tấm gương vũ trụ đối với những hình ảnh mà con đã gửi ra. Hẳn con có biết về luật nhân quả, còn gọi là luật của hành động và phản ứng. Vậy thì con biết phản ứng luôn đi theo sau hành động. Thế nhưng khi con không nhận trách nhiệm về mình, con không thấy được là cái chuỗi sự kiện đó đã khởi sự với một hành động của con, tức là những hình tư tưởng mà con cho phép hiện hữu nơi thể bản sắc của con, rồi con phóng nó vào tấm gương vũ trụ, và những gì trở ngược lại con chính là sự phản ứng do hành động của con.

Khi con không nhìn nhận điều này, con sẽ chỉ nhìn vào những gì xảy ra bên ngoài con, rồi con cho rằng cách người khác đối xử với mình là hành động của họ. Rồi con cho rằng hành động của họ bắt buộc con phải phản ứng một cách nào đó, thường thường nó bắt con phản ứng một cách nhất định bất kể động lượng cá nhân của con là gì, chẳng hạn con phải tự biện minh hay buộc ngược lại người ta. Và con cho rằng vì con không thể thay đổi hành động của họ, con sẽ không có cách nào thăng vượt hoàn cảnh của con. Nhưng con có thấy là lý do con cảm thấy bất lực là vì con đã lẫn lộn hành động với phản ứng? Con nghĩ con phản ứng lại hành động của họ, nhưng sự thật ở đây – sự thật nói lên khác biệt giữa những học trò đích thực của chân sư thăng thiên với những ai không phải là học trò đích thực, cho dù họ có thể tự nhận hoặc tin chắc thế nào đi nữa – là ngộ ra một điều mà thôi, đó là khi con nhận trọn vẹn trách nhiệm về bản thân thì con sẽ KHÔNG BAO GIỜ phản ứng lại bất cứ gì!

Khi con nhận hoàn toàn trách nhiệm về tình trạng tâm mình, con thấy rằng Thượng đế đã ban cho con quyền tự quyết. Và dù điều gì xảy ra cho con trên địa cầu, con có tự do chọn lựa những gì xảy ra trong tâm con – bất kể những gì xảy ra bên ngoài thân con và tâm con. Và như vậy khi con trách nhiệm bản thân con, con ngộ ra là con tuyệt đối không có nhu cầu phản ứng lại bất cứ gì. Không có định luật tự nhiên nào bắt con phải phản ứng lại những tình huống mà con gặp trong vũ trụ vật chất, bởi vì con có tiềm năng gia tốc vào một trạng thái tâm thức cao hơn nơi con không phản ứng mà con hành động. Bởi vì dù chuyện gì xảy ra bên ngoài, con vẫn chọn lựa được trạng thái tâm thức của mình. Và con chọn hành động dựa theo trạng thái tâm thức của con, chứ KHÔNG dựa theo tâm thức người khác. Và đó là tại sao con sẽ không bao giờ bị giới hạn bởi tâm thức và các chọn lựa tự quyết của người khác, vì CHÍNH CON, trong mọi tình huống con phải đương đầu và bất kể chọn lựa của người khác, con tự do chọn lựa hành động của mình, trạng thái tâm thức của mình.

21.3. Giành lại thế chủ động

Không ai cấm con nhìn vào chính con rồi tự hỏi: “Tại sao tôi cứ gặp hoài những loại người này? Có điều gì trong tôi mà tôi chưa nhìn thấy cứ khiến mình phải gặp lại họ hoài hoài? Có bài học nào mà mình chưa hấp thụ khiến mình cứ phải đi thi lại dài dài cho đến khi mình thuộc bài?” Lúc đó con có thể nhìn vào chính mình, làm sáng tỏ cái đó là gì – có thể là một vết thương từ quá khứ, có thể là một tin tưởng nào đó – xong con có thể thăng vượt nó, con có thể tự gia tốc vượt khỏi nó. Và khi con làm được vậy, con sẽ không còn nhu cầu phản ứng nữa, thế là con tự do chọn lựa một hành động. Thậm chí khi con gặp lại người kia cư xử y hệt như trước, như họ buộc tội con hay làm bất cứ gì khác, con sẽ không phản ứng lại họ. Con chọn! Và vì vậy con HÀNH ĐỘNG. 

Và bây giờ họ không là người nắm chủ động nữa, vì con đã giành lại thế chủ động khỏi tay họ qua hành động của con – là những hành động không hề bị điều chỉnh cho phù hợp với tâm thức hay hành động của họ, mà là hành động xuất phát từ sự sáng tạo nội tại mà con vốn có, từ nguồn sáng tạo trong Hiện diện TA LÀ của con – và bây giờ con có khả năng khởi lên những cách ứng đối sẽ khiến họ hoàn toàn bối rối, y như Giê-su đã khiến cho các thày thông giáo và người Pha-ri-si bị bối rối, hay nếu con có học đạo Phật kỹ lưỡng, tương tự như thày đã khiến người Bà-la-môn trong đạo Ấn bị bối rối vào thời của thày. Họ tưởng họ đã tìm ra tất cả, tưởng chỉ có họ mới hiểu đúng kinh cổ, mới tuân thủ nghi lễ và truyền thống, nhưng họ chỉ làm cho Lời Hằng Sống bị vô hiệu hóa, như Giê-su đã chỉ ra sau này.

Tâm thức cáo buộc người anh em đã có từ lâu trước khi bầu cõi này được tạo lập, trước cả khi vũ trụ vật chất được sáng tạo. Nó đã hiện diện trên địa cầu, không ngay từ đầu nhưng suốt một thời gian rất dài. Đó chỉ đơn giản là một khai ngộ thuộc về các bầu cõi tiếp theo sau bầu cõi có các sinh thể sa ngã đầu tiên quyết định dấn thân vào năng lượng cáo buộc hầu kéo mọi người đi xuống với chúng. Có thể nói đó là phần nào những khai ngộ của trường đời cay đắng, và cũng vậy nhưng theo một cách khác, đó là phần nào những khai ngộ của trường chân sư thăng thiên. Bởi vì tất nhiên các thày sẽ làm việc với con để giúp con nhìn thấu những điểm tinh tế của năng lượng cáo buộc, nhưng các thày chỉ có thể giúp con được nếu con đã tới mức sẵn sàng nhìn nhận tất cả đều là tạo vật của tâm thức.

Và khi đó, con sẽ nhìn ra một sự thật rất giản dị sẽ giúp con vươn lên trên năng lượng cáo buộc vì chính tâm con sẽ không bắt đầu suy nghĩ về chuyện cáo buộc. Con có thấy cách thức nó diễn ra thế nào không: có ai đó nóng giận tiến về phía con, họ buộc tội con đã làm gì đó. Con lập tức phản ứng lại năng lượng cáo buộc bằng cách đóng tâm con lại, đóng các luân xa lại và không muốn nhận vào năng lượng. Ngay sau đó, tâm con bắt đầu duyệt qua nội dung của lời buộc tội. “Có gì thực trong lời này? Có thật là tôi đã làm chuyện đó không? Hay tôi không làm? Không, tôi đã không làm, tôi sẽ bào chữa thế nào đây? Làm sao để người ta tin tôi? Chuyện này sẽ hại đến danh giá của tôi như thế nào?” Và tất cả những câu hỏi như thế mà con có thể nghĩ ra cứ lặp đi lặp lại trong con.

Một khi tâm con vùi đầu vào chi tiết lời buộc tội, con đã dấn sâu vào vòng xoắn ốc hướng hạ – và kẻ buộc tội đã đặt con vào đúng vị thế mà họ muốn. Nhưng khi con ngộ ra là mọi sự đều do tâm thức tạo dựng – và do đó mọi sự có mặt trên địa cầu là sự biểu hiện thành hình tướng của một trạng thái tâm thức nào đó – thì con sẽ nhìn những lời đó từ một góc độ khác, có đúng thế không? Vì bây giờ con nhận ra là lời buộc tội của người kia rất có thể không liên quan gì tới con, tới hành vi của con hay trạng thái tâm thức của con. Nó có thể chỉ là sản phẩm của tâm thức người đó và vì vậy không có chút thực thể nào. Và tất nhiên ở đây, chúng ta cần xem đến một điều tinh tế đã cho phép kẻ cáo buộc cứ quay tiếp vòng xoáy cáo buộc rồi đánh bẫy mọi người vào đó hết lần này tới lần nọ.

Vì con thấy không, một khi con đã bước vào nhị nguyên, con sẽ có một số tin tưởng, cảm xúc hay động lực, một số hành vi không mấy cao đẹp – và người kia sẽ dùng những điều này để buộc tội con. Và bây giờ con cảm thấy nếu những chuyện đó có thật – bởi vì con đã làm những chuyện đó, đã có những ý nghĩ, tình cảm hay động lực đó – thì con không thể đơn giản làm ngơ lời cáo buộc. Và tất nhiên điều này chính xác. Con không thể làm ngơ, nhưng có một điều con có thể làm được là tự nhủ: “Tôi sẽ không phản ứng lại lời buộc tội bằng sự biện minh. Tôi sẽ tự xét mình một cách trung thực. Nếu tôi thấy tôi đã có những hành vi, động lực, tình cảm, ý nghĩ hay quan điểm không trong sáng, không tối ưu, thì tôi sẽ tự tu sửa lấy mình. Nhưng tôi sẽ hoàn toàn làm ngơ người tố cáo. Tôi sẽ không bào chữa. Tôi sẽ không buộc ngược lại. Tôi sẽ nhìn vào chính mình, tôi sẽ tách ra khỏi người tố cáo vì lời buộc và năng lượng của họ sẽ không giúp tôi nhìn vào bên trong và tiếp xúc với các vị thày tâm linh của tôi hầu nhận được sự hướng dẫn nội tâm sẽ giúp tôi nhìn thấy cái xà trong mắt mình.”

“Như vậy tôi sẽ tách mình ra khỏi năng lượng và tâm thức của người buộc tội. Tôi sẽ làm việc với các thày tâm linh của tôi. Tôi sẽ tìm xem có điều gì trong tâm thức mình cần thay đổi. Và tôi sẽ thay đổi nó. Và tôi sẽ tự gia tốc để vượt lên trên nó. Và tôi sẽ nhìn lại người kia và xem họ còn buộc tôi nữa không, và nếu họ còn, tôi sẽ giải quyết chuyện này ở tầng tâm thức cao hơn mà tôi vừa vươn tới, là tầng tâm thức nơi người kia không còn lý do nào để buộc tôi nữa.”

Con yêu dấu, con có thấy cái cạm bẫy mà bao lần con đã rơi vào khi con bị buộc tội là con có một trạng thái tâm thức nào đó, con đã đáp lại ở cùng tầng tâm thức đó hay không? Và con bị vướng kẹt, con mắc vào bẫy của phản ứng nhị nguyên chỉ có thể tạo ra một vòng xoáy hướng hạ. Điều thày muốn nói với con ở đây là con không chỉ làm ngơ trước những điều người ta nói, nhưng con phải trung thực và nhìn xem có điều gì đúng trong lời đó hay không. Và con ngừng phản ứng ở tầng tâm thức đó, mà ngược lại con hãy rút về, đứng sang một bên, làm việc trên chính mình, nhìn vào chính mình, làm việc với các thày tâm linh. Và khi con thấy lời buộc tội có điều gì đúng đắn thì con hãy bỏ công ra cho tới khi con tự gia tốc vượt lên trên. Và sau đó nếu cần thiết, con có thể trở lại giải quyết với người đã buộc con.

Nhưng cũng có thể con nhận ra là chuyện giải quyết với người kia sẽ chẳng đem lại được gì xây dựng bởi vì con đã thăng vượt tâm thức đó rồi. Có khi, vì con đã thăng vượt tâm thức, con có thể trở lại người cáo buộc để khiến họ nhận ra con đã thăng vượt trạng thái tâm thức cũ của con. Và trong một số trường hợp, có thể điều này sẽ khiến người kia cũng sẵn lòng thăng vượt tâm thức của họ. Con và họ có thể bắt đầu một quan hệ mới ở một cấp độ mới. Nhưng nếu con tìm ra là họ vẫn không sẵn lòng thăng vượt tâm thức cáo buộc, thì trong rất nhiều trường hợp, chẳng có ích gì mà con cố bác bỏ lập luận của họ, hay tự biện bạch, hay thay đổi tâm họ.

21.4. Quả vị Ki-tô và quả vị Phật

Bởi vì nếu người buộc tội không sẵn sàng làm điều con vừa làm, làm sao con sẽ đạt được điều gì xây dựng đây? Con thấy không, một người buộc tội con có thể đã chỉ ra điều gì đó không ổn trong con và như thế con có thể nắm lấy cơ hội mà học hỏi. Nhưng con cũng cần biết, dù người kia nhìn thấy điều dở trong con, có thể họ chưa có được trạng thái tâm thức nhìn nhận mọi sự là biểu hiện của tâm thức. Và con thấy một sự thật giản dị ở đây. Người ta bảo rằng nếu con thấy thói xấu nơi người khác thì chính con cũng có thói xấu đó. Câu này không hoàn toàn đúng với mọi người, bởi vì một khi con ở trong tâm thức Ki-tô, con có thể thấy thói xấu hay cái giằm trong mắt người anh em mà nhận xét của con vẫn đúng – nó sẽ đúng khi con ở trong tâm thức Ki-tô.

Dẫu sao trong tâm thức Ki-tô, con không bao giờ cáo buộc một ai, bởi vì con đã thăng vượt năng lượng cáo buộc sinh ra từ nhị nguyên – và vì thế Ki-tô không cáo buộc. Có một sự khác biệt quan trọng nhưng vi tế giữa việc chỉ ra một điều cần chỉnh đốn và làm cùng như vậy với một năng lượng cáo buộc nhằm hạ thấp đối tượng. Ki-tô chỉ có một mục đích mà thôi là nâng người kia lên. Và như vậy khi con chỉ ra một điều gì cần sửa đổi, con làm vậy một cách xây dựng vì con muốn giúp người kia thăng vượt nó.

Kẻ buộc tội thì không muốn đối tượng của họ thăng vượt. Họ chỉ muốn kéo người kia xuống, và đó là động lực, là ý định của họ, đó là năng lượng mà họ phóng vào người khác. Cho nên con yêu dấu, khi con đã giải thoát khỏi những bợn nhơ trong tâm thức, con sẽ tới điểm nhìn thấy rõ hơn. Như Giê-su có nói, khi con đã gỡ được cái xà trong mắt mình thì con sẽ thấy rõ những gì diễn ra trong tâm thức người khác. Và nếu con thấy một người sẵn sàng để cho con làm việc với họ thì con hãy hết sức giúp họ. Nhưng nếu con thấy người đó chưa tới mức chấp nhận được tất cả đều là biểu hiện của tâm thức, thì có những trường hợp con có thể lấy biện pháp khác hơn – như khi Giê-su thách đố các thày thông giáo và người Pha-ri-si, hay lật đổ bàn ghế của bọn đổi tiền – hoặc con cũng có thể để mặc cho người ta yên thân. Không có cách đúng hay sai bởi vì trên đường tu có nhiều giai đoạn khác nhau.

Có giai đoạn gọi là giai đoạn của Ki-tô, con đường quả vị Ki-tô, khi bình thường con sẽ đi ra thế gian và hoặc con tìm cách giúp đỡ người khác, hoặc con đặt vấn đề với những ai không chịu tiến lên cao hơn. Nhưng sau giai đoạn này là giai đoạn của quả vị Phật, như khi con thấy thày đây đã không tích cực đi ra ngoài, thày lánh xa xã hội và thiết lập một đạo tràng sống biệt lập. Khi thày để cho học trò tự nguyện đến với thày, thày được lợi điểm là có thể từ khước những ai chưa sẵn sàng, là những người chưa chứng ngộ được một điều – chìa khóa thiết yếu để gia nhập đạo tràng của thày – là sẵn sàng nhận ra mọi thứ là sự biểu hiện của tâm thức. Và như vậy, con yêu dấu, con hãy lắng nghe: Chìa khóa cho sự tiến bộ cá nhân của con có thể tìm thấy trong tâm thức của con.

Con có thấy là ngày nay trên thế giới, ngay cả những người tâm linh cũng bị mắc kẹt trong tâm thức mà kẻ cáo buộc người anh em đã tạo ra, cái vòng xoắn ốc hướng hạ nơi họ luôn luôn chú tâm vào người khác, chú tâm vào việc cải sửa người khác? Họ tưởng là họ phải cải tổ thế giới và con người, thậm chí phải đưa ra lời phán xét hay lên án hay phơi bày người khác. Và như vậy, họ luôn luôn ở trong tâm trạng muốn thay đổi tâm thức người khác thay vì sẵn lòng thay đổi tâm thức của mình.

Điều này tất nhiên cũng tốt thôi. Con có quyền tự quyết, con có quyền ở trong trạng thái tâm thức đó và nếm mùi những trải nghiệm mà con cần trong tâm thức đó. Nhưng thày với tư cách là Phật, có quyền định ra một tăng đoàn đứng biệt lập khỏi tâm thức cáo buộc, và do đó thày có quyền định ra một điều kiện gia nhập mà qua đó những ai không sẵn sàng thừa nhận họ cần thay đổi tâm thức của chính họ – thay vì cố thay đổi tâm thức người khác – sẽ không đủ tư cách, không đủ sẵn sàng để gia nhập tăng đoàn của Phật và nhận được giáo huấn trực tiếp của thày.

Như vậy họ có thể đứng ngoài và tiếp nhận những hình thức giáo huấn khác, chẳng hạn giáo huấn mà con có thể nhận được ngày nay từ tôn giáo công truyền đạo Phật hoặc các giáo lý tôn giáo hay tâm linh công truyền nào khác. Nhưng con sẽ thấy, ngay cả thời nay trong truyền thống đạo Phật cũng có những đạo sư chân chính đã chứng đạt tâm thức cao hơn, và mỗi vị đó đều có những tiêu chuẩn cá nhân cho những ai được phép gia nhập vòng đệ tử riêng, vòng đệ tử điểm đạo.

Và tất nhiên giống như Phật, con không bắt buộc phải làm việc với bất cứ ai đến gõ cửa nhà con. Con yêu dấu, cái đó chính là sự điểm đạo của Ki-tô, khi với tư cách Ki-tô con làm giống như Giê-su đã làm, là tiếp nhận bất cứ ai bất kể trạng thái tâm thức của họ. Con tiếp nhận người hủi lở, con tiếp nhận người có đủ loại tật nguyền, con tiếp nhận người bị quỷ ám – đủ mọi loại người bị kẹt trong đủ loại niềm tin. Ki-tô đi ra ngoài thế gian và bất cứ ai Ki-tô gặp, Ki-tô cũng sẽ ứng xử tùy theo khả năng sáng tạo bên trong, khả năng phân biện nội tâm và trình độ quả vị Ki-tô của người đó. Điều này hoàn toàn chấp nhận được vì đó là lý do Ki-tô đi ra ngoài thế gian.

Nhưng ở mức của Phật thì Phật đã lập ra một tăng đoàn đứng biệt lập, và do đó học trò phải trải qua một số điểm đạo trước khi được phép gia nhập. Điều cốt yếu ở đây là để được cứu xét là học trò của Phật, người muốn đạt quả vị Phật phải trước tiên chấp nhận rằng mọi thứ trong thế giới hình tướng đều là biểu hiện của tâm thức. Và do đó mọi thứ mà CON gặp trong thế giới hình tướng là một biểu hiện của tâm thức con – nếu con phản ứng lại.

21.5. Hành động và phản ứng

Cho nên khi nào con thấy con còn phản ứng lại bất cứ điều gì trong thế gian này, con cần biết rằng trong tâm thức con vẫn còn gì đó chưa buông bỏ, chưa chữa lành hay chưa thanh lọc – và đó là tại sao con mới phản ứng. Chỉ giản dị vậy thôi! Bởi vì nếu trong con không có gì tương ứng thì con sẽ không phản ứng. Con sẽ hành động, nhưng con sẽ không vướng mắc vào hành động. Và đây là sự khác biệt giữa hành động và phản ứng. Khi con phản ứng, con có sự vướng mắc vào một thành quả. Và nếu thành quả này không đạt được, con sẽ có một phản ứng vừa cảm xúc vừa lý trí, tiêu cực, bất an, không quân bình, không thương yêu.

Nhưng khi con hành động, con không vướng mắc vào thành quả. Và do đó hành động mang sẵn chiến thắng của nó, sự hoàn thành trọn vẹn của nó, thành công của nó, niềm vui của nó. Con thấy đó khi con phản ứng, con nghĩ sự thành công hay thất bại của phản ứng tùy thuộc vào những gì xảy ra trong thế gian. Nhưng khi con thăng vượt tâm thức phản ứng và vươn lên tâm thức hành động từ bên trong, con ngộ ra là hành động để biểu thị những gì con biểu thị tự nó đã là chiến thắng. Không cần bất cứ gì khác, không cần thành quả nào trong tâm của người khác, trong hành động của người khác, trong hành động của xã hội hay trong thế giới rộng lớn, không gì là cần thiết nữa.

Con giống như mặt trời cảm thấy vui mừng tỏa chiếu ánh sáng. Mặt trời không nhìn xuống trái đất để tìm xem có ai đang phải che chắn ánh nắng, ai đang trốn tránh tìm bóng rợp, ai đang đeo kính râm hay bôi kem chống nắng hay đang làm bất cứ gì. Mặt trời không quan tâm đến phản ứng, nó tiếp tục tỏa sáng vì niềm vui tỏa sáng. Và đó là tâm thức của hành động, ngược với tâm thức phản ứng khi con không vui trong việc làm mà chỉ chờ thành quả, chờ phản ứng của người khác trước khi con định đoạt là con nên vui hay buồn.

7 | Tia thứ 14 của sự chia sẻ Hiện diện (và tia thứ 15)

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Sanat Kumara qua trung gian Kim Michaels, ngày 10 tháng 5, 2009, trong loạt bài về các tia sáng bí mật.

Sanat Kumara TA LÀ. Thày đã không khỏi buồn cười khi quan sát một số đệ tử – một số thành viên của phong trào này cũng như những đợt truyền pháp trước – đã dần dà gán cho tên thày một địa vị cao cả nào đó, nghĩ rằng thày có gì đặc biệt hơn các chân sư thăng thiên khác. Sứ giả này đã rất ngạc nhiên khi ông gặp phản ứng như vậy ở Lourdes. Và thành thật mà nói, con yêu dấu, chính thày đây cũng ngạc nhiên. Trên cõi thăng thiên, tất cả các thày đều là một. Các thày giữ những trách vụ khác nhau trong đoàn chưởng giáo nhưng không hề có địa vị. Không hề có ý niệm giá trị là có gì cao trội hay quan trọng hơn những thứ khác.

Thật sự thày không quan trọng đến như vậy. Vì thày là gì? Thày là ông thợ chuyên môn sửa đồ cho vũ trụ. Thày là sinh thể chịu đi xuống hành tinh thấp nhất và giữ quân bình ở đó cho đến khi có ai khác làm được việc này. Đây không phải là điều con có thể gọi là một công việc cao lắm. Theo một nghĩa nào đó, thày là người thợ tân trang vũ trụ, con yêu dấu.

Chắc chắn trên thiên đàng có những sinh thể, chẳng hạn như chính Lucifer, đã không chịu bẩn tay làm những loại công việc mà thày đã và đang làm từ hàng bao nhiêu thiên niên kỷ, tính theo thời gian của loài người. Và như vậy một lần nữa, con thấy “Ai muốn là người cao nhất trong số các con, hãy để y làm đầy tớ cho mọi người.”

7.1. Vượt lên khỏi địa vị

Bởi vì sẽ đến một điểm khi con vượt khỏi sự tìm kiếm địa vị, tìm kiếm vị thế. Như Saint Germain đã trình bày, con vượt khỏi ảo tưởng cho rằng bằng cách đạt được một địa vị tối thượng nào đó – do thành tích đã qua hay do minh triết của mình trên đường tâm linh – thì con được đảm bảo bước vào vương quốc. Nhưng con thấy đó, vương quốc chỉ mở ra cho những ai đã vượt khỏi nhị nguyên. Và khi con vượt khỏi nhị nguyên thì không thể có phán xét giá trị, không thể có bất cứ địa vị nào.

Và như vậy, thày đến đây để trình bày với con về tia sáng thứ 14. Đây là một tia sáng vô cùng khó hiểu đối với tâm đường thẳng, còn đối với tự ngã thì không làm sao thấu triệt được.

Tất nhiên các thày phải dùng từ ngữ để giao tiếp theo hình thức này. Cho nên từ ngữ mà thày mong muốn con quán chiếu liên quan đến tia này là “Chia sẻ sự Hiện diện của mình,” chia sẻ Hiện diện Thiêng liêng của con.

Khi thày xuống trái đất, con yêu dấu, trái đất còn ở một mức thấp kém đến độ không có cả một nền văn minh như con thấy ngày nay. Không có phương tiện truyền đạt mà chỉ có những sinh thể mặc dù mang tiềm năng con người, nhưng lại sống như loài vượn tinh khôn, con yêu dấu. Thày có thể giảng dạy được gì? Không có tôn giáo nào trước đó mà thày có thể viện vào, chẳng hạn như Giê-su còn tìm cách đổi mới đạo Do Thái hay như Phật tìm cách đổi mới đạo Hindu. Hoàn toàn không có gì, tuyệt đối không có gì mà thày có thể viện vào. Không có bất cứ nền tảng nào để dựa vào đó mà giảng dạy tâm linh, bởi vì con không thể giảng dạy cho những sinh thể không có chút ý niệm nào về khía cạnh tinh thần của đời sống, thậm chí không có cả khái niệm về Thượng đế hay một đấng cao cả siêu việt.

Vậy thì thày có thể làm gì đây trên trái đất? À, thày có thể chia sẻ sự Hiện diện của thày, sự Hiện diện Thiêng liêng, qua đó thày cho phép các sinh thể mà thày gặp được trải nghiệm là có gì đó vượt khỏi trạng thái tâm thức hiện thời của họ.

7.2. Cái bẫy của hành động

Vì vậy khi con leo con đường tâm linh, vượt qua khai ngộ của các tia sáng kia, con dần dà thu hoạch được một tầm hiểu sâu xa hơn, một minh triết rộng lớn hơn. Tuy vậy, tầm hiểu lớn hơn này có thể trở thành một cái gông buộc quanh cổ, một gánh nặng đè con xuống, tạo nên những rào cản trong tâm con, qua đó con bắt đầu nghĩ là để đánh thức nhân loại – để đem lại minh triết Thượng đế hay Thời Hoàng kim của Saint Germain vào thị hiện – con phải xông ra ngoài trao cho mọi người những lời dạy phức tạp tinh xảo. Và lời dạy càng tinh xảo bao nhiêu thì con sẽ là một vị thày cao siêu bấy nhiêu. Đây chẳng phải là sự hiểu lầm rất phổ biến hay sao?

Nhưng thực tế ngày nay vẫn giống hệt thời ban sơ đó. Điều sẽ thực sự tạo khác biệt cho mọi người là họ trải nghiệm được Hiện diện Thiêng liêng. Con không thể trao món quà nào khác cho nhân loại – cho người khác, cho đề án của Saint Germain – ngoài việc chia sẻ Hiện diện Thiêng liêng của con.

Nhưng rất nhiều khi, con yêu dấu, vấn đề là tâm đường thẳng chứ không nhất thiết là tự ngã của con. Bởi vì khi con lên đến những tầng cao hơn, không cứ là tự ngã sẽ ngăn cản con mà là sự kiện cái ta ý thức của con vẫn chưa thăng vượt được tâm đường thẳng. Và vì vậy với tâm đường thẳng này, con bị ám ảnh quá đỗi bởi một lời dạy vỏ ngoài và tưởng rằng con phải xông ra ngoài rao truyền chân lý – một chân lý đặc thù nào đó – để khiến mọi người cải theo một giáo lý, một tổ chức hay một đạo sư đặc thù.

Và con thấy chuyện này xảy ra khắp thế giới – những người có thiện ý đã đạt được một mức trưởng thành nào đó trên đường tu tâm linh nhưng vẫn bị kẹt trong tư duy là họ phải thuyết giảng một cách biểu lộ sự thật như là sự thật cao nhất, như là giải pháp cho mọi vấn đề. Và khi họ xông ra ngoài và bị ám ảnh như vậy thì, như Gautama đã nói, họ quá chú tâm vào việc thay đổi người khác đến độ họ quên mất tầm quan trọng của việc LÀ chính mình. Họ quên chia sẻ con người mà họ là, không phải như một ngã tách biệt mà như cái ta Thiêng liêng, như Hiện diện Thiêng liêng.

Con yêu dấu, chắc chắn tâm vỏ ngoài có thể chụp lấy điều Giê-su đã nói về việc thách thức những kẻ nói dối và lời nói dối – thách thức các thày giả, thách thức bọn đổi tiền. Và tâm vỏ ngoài có thể hiểu điều này có nghĩa là con phải phản bác lời dối đó bằng một lời dạy đối chọi lại lời dối, tức là lời thật. Nhưng như các thày đã dạy, lời nói là lời nói. Lời nói chỉ tương đối. Con không có cách chi diễn đạt một sự thật tuyệt đối bằng lời nói.

Con hãy lắng nghe điều thày vừa nói. Không có cách chi diễn đạt một sự thật tuyệt đối bằng lời nói. Bất kỳ lời nói nào cũng có thể được diễn giải theo nhiều hơn một cách. Nếu thày nói ra điều gì đó và có mười người ngồi nghe, thì họ sẽ có mười trải nghiệm khác nhau về ý nghĩa câu nói.

7.3. Sự cần thiết của chứng ngộ

Đó là lý do tại sao, như các thày đã giải thích trong các bài giảng trước, sự chứng ngộ (gnosis) mới thật cần thiết, qua đó người nhận biết trở thành một với cái được nhận biết. Nếu con thực sự muốn hiểu – nắm bắt, rõ biết – những gì thày đang diễn tả, con phải vượt xa hơn ngôn từ và hòa điệu với Hiện diện của thày. Nếu con muốn một người khác hiểu được – nắm bắt được, rõ biết được – sự thật mà con đã ngộ ra, thì thật không đủ nếu con chỉ cho họ những chữ nghĩa, những lời dạy hay những kỹ thuật. Con phải chia sẻ Hiện diện Thiêng liêng của con.

Thày không bảo là con không thể cho họ chữ nghĩa, nhưng chữ nghĩa này không thể bị thấm đẫm với tâm đường thẳng muốn thay đổi họ. Chữ nghĩa phải được thấm đẫm với Hiện diện Thiêng liêng của con, với con người mà con thực là trong Bản thể cao của con đang tỏa rạng xuyên qua hình dạng thấp kém này. Và như vậy nó đánh động sâu thẳm trong tim họ một ký ức mờ nhạt là chính họ cũng đến từ một nơi vượt khỏi thế gian. Và bằng cách trải nghiệm sự chia sẻ Hiện diện vượt khỏi thế gian, trong họ bắt đầu khuấy lên một sự thức tỉnh, một sự hồi tưởng rằng chính họ cũng là nhiều hơn thế gian này.

Con yêu dấu, thật chẳng ích gì mà con xông ra ngoài với tầm hiểu biết mà con có, rồi tìm cách thách thức những người có một hiểu biết khác, hay một hiểu biết thấp hơn, hay một hiểu biết lầm lạc – nếu con chỉ làm vậy từ trình độ của tâm vỏ ngoài, thậm chí từ trình độ của tự ngã và sự phán xét giá trị của nó. Con sẽ chỉ cố xác định một sự thật tương đối như là cao hơn một sự thật tương đối khác, hay thậm chí cao hơn tất cả mọi sự thật tương đối khác. Làm vậy sẽ không giảm bớt mà sẽ chỉ gia tăng tình trạng tranh đấu nhị nguyên.

Thế nhưng nếu con trình bày sự thật của con được thấm đẫm với Hiện diện Thiêng liêng của con, thì quả thực con có thể đánh thức người khác. Con cho họ thấy là có một cách sống khác hơn cuộc tranh đấu nhị nguyên, cuộc tranh đấu muốn nâng một sự thật lên cao hơn mọi sự thật khác.

Con yêu dấu, con hãy sẵn lòng học hỏi từ tấm gương của thày. Đừng phán đoán ai là người sẵn sàng và ai chưa, ai là người xứng đáng và ai không. Đừng đặt ra những tiêu chuẩn hay điều kiện mà người ta phải hội đủ trước khi con chia sẻ sự thật của con với họ. Hãy sẵn lòng chia sẻ Hiện diện của con với tất cả mọi người. 

Sẽ có những người, con yêu dấu, ở trong một trạng thái tâm thức khiến họ chưa sẵn sàng – hay có lẽ tạm thời chưa sẵn sàng – để nhận một lời dạy tâm linh tinh xảo nào đó. Nhưng dù họ ở trong trạng thái tâm thức nào đi nữa – tạm thời hay dài hạn – họ vẫn luôn luôn sẵn sàng nhận lấy Hiện diện Thiêng liêng của con khi con chia sẻ.

7.4. Chia sẻ Hiện diện không bao giờ uổng phí

Việc làm này không bao giờ uổng phí, con yêu dấu. Không bao giờ có thể uổng phí dù người đó là ai. Con đã quá quen nhìn người khác và đánh giá xem họ có tâm linh hay không. Thói quen này đến từ đâu? Nó đến từ sự kiện suốt nhiều kiếp sống, con đã bị chối bỏ bởi những người không chỉ không tâm linh mà lại còn phản tâm linh. Cho nên con đã cho phép các thày giả và học trò của chúng bẻ cong nhận thức của con về lý do tại sao con ở đây. Và cảm xúc của con bị bóp méo đến độ con sợ bị bác bỏ, con sợ ném ngọc trai của mình cho lợn ăn, và con luôn luôn cố lượng định xem người kia có sẵn sàng hay chưa trước khi con mở miệng giao tiếp với họ.

Thày không bảo là con cần không lượng định. Bởi vì như thày đã nói, nếu một người chưa sẵn sàng nhận một lời dạy tâm linh cao siêu thì thật chẳng ích gì mà trao lời dạy này cho họ. Nhưng con luôn luôn có thể cho họ một ly nước lạnh nhân danh Ki-tô qua việc chia sẻ ly nước Hiện diện Thiêng liêng của con. Một số có thể từ chối, một số có thể lên án hay phán xét con. Điều này không can hệ gì đến con, bởi vì chiến thắng nằm ở chỗ con đã chia sẻ Hiện diện của mình chứ không phải là kết quả.

Thế giới này vẫn chưa thăng thiên. Yếu tố sẽ đưa thế giới này gần hơn với điểm thăng thiên là có một số người đang hiện thân trở thành cánh cửa mở cho ánh sáng của Hiện diện Thiêng liêng chiếu xuyên qua hình dạng vỏ ngoài của họ, đi vào thế giới.

Thật không quan trọng gì nếu người kia không nhận, vì chỉ sự kiện ánh sáng đi vào thế giới thì thế giới đã thay đổi được một chút. Thế giới sáng hơn một chút. Và cuối cùng, nhiều ly ánh sáng nhỏ sẽ tạo được sự thay đổi lớn hơn.

Không một hành động chia sẻ Hiện diện Thiêng liêng nào sẽ uổng phí, bởi vì mục đích không cứ là để thay đổi một con người đặc thù – vì chúng ta phải luôn luôn tôn trọng quyền tự quyết. Nhưng quyền tự quyết không có nghĩa là người ta có thể ở lại trong bóng tối. Cho nên con có quyền hiện diện trong thế giới này để là cánh cửa mở cho ánh sáng, và cuối cùng thì ánh sáng sẽ soi sáng mọi thứ, kể cả tâm thức tập thể, hầu mọi người có thể bắt đầu nhìn ra những gì đã bị che giấu trước đó. Mọi người có thể bắt đầu xoay chuyển tâm thức của mình và có những chọn lựa tốt hơn, những chọn lựa sáng ngộ hơn.

7.5. Một dụng cụ để tâm tĩnh lặng

Vậy con thử nghĩ xem, nếu con thực sự muốn đem lại phụng sự cao nhất mà con có khả năng đem lại, thì con phải đạt tới mức sẵn lòng học hỏi trong tia thứ 14. Và làm thế nào con đạt tới đó? À, như Saint Germain đã nói, con phải chịu chất vấn mọi thứ, ngay cả giáo lý mà con đã thu hoạch qua một hành trình gian nan trên đường tâm linh, một giáo lý mà con cảm nhận là chân thực, tường tận và cao siêu hơn một số khác. Con thấy không, con phải đạt tới mức nhận ra là ngay cả giáo lý cao nhất cũng có thể không là giải pháp cho mọi vấn đề, không là giáo lý thích hợp cho mọi người.

Không có một giáo lý độc nhất nào sẽ tự động đánh thức mọi người. Tuy nhiên có một yếu tố có thể chạm được hầu hết mọi người theo một cách nào đó, đó là sự chia sẻ Hiện diện Thiêng liêng của con.

Con hãy xem xét kỹ lưỡng khái niệm này. Một số các con chưa sẵn sàng chấp nhận nó, nhưng nhiều người trong các con quả thật đã sẵn sàng – nếu con sẵn lòng kinh qua tiến trình tái sinh, là chấp nhận mình đã sẵn sàng chia sẻ phần nào Hiện diện Thiêng liêng của mình. Con đã làm vậy rồi nhưng con có thể làm nhiều hơn nữa bằng cách trở nên ý thức về tiến trình này, và do đó con hòa điệu với Hiện diện Thiêng liêng, thay vì chỉ thỏa mãn với tâm đường thẳng luôn luôn suy nghĩ mình phải nói gì, phải phát biểu những gì cho người khác.

Thay vào đó, con hãy nghe lời Phật, đi vào bên trong và khiến cho tâm tĩnh lặng. Vậy con yêu dấu, thày sẽ cố gắng cho con một phương pháp đơn giản nhưng hữu hiệu để con trải nghiệm sự tĩnh lặng đó. Con có thể áp dụng phương pháp này bằng nhiều cách. Nhưng ý chung chung là con dành một chút thời gian mỗi ngày, hay ít nhất càng thường xuyên càng tốt. Con hãy đi vào một căn phòng yên tĩnh. Ngồi xuống ghế thoải mái và giữ sống lưng tương đối thẳng. Sau đó, con hướng chú ý vào bên trong.

Không thể tránh được có tư tưởng khởi lên. Con đừng rơi vào bẫy cho rằng để tâm tĩnh lặng thì con cần chống lại tư tưởng, ngăn không cho chúng khởi lên. Vì khi con làm vậy thì con gây căng thẳng trong tâm. Và làm sao con có thể an định tâm khi con khiến nó thêm căng thẳng?

Nhiều người đã lãng phí không biết bao nhiêu thời gian cố gắng an định tâm khi thiền định, và qua đó họ chỉ gia tăng sự vật lộn và xáo trộn trong tâm. Thay vào đó, phương pháp thiền này rất giản dị. Con biết là đằng sau mọi hình tướng vỏ ngoài có một thực tại sâu hơn. Nếu con nhìn thân thể vật lý của con thì con biết là bên dưới lớp da mà mắt con nhìn thấy, có nội tạng và xương cốt. Nhưng nội tạng và xương cốt được cấu tạo bởi tế bào. Tế bào được cấu tạo bởi phân tử. Phân tứ được cấu tạo bởi nguyên tử. Nguyên tử giống như thái dương hệ tí hon có hạt electron bay quanh một cái lõi. Nhưng giữa electron và lõi là khoảng trống không.

Như vậy, khi con đi ra sau hình dạng vỏ ngoài càng ngày càng sâu, thì rốt cuộc con sẽ tới cái gì trống không. Trống không. Không có gì ở đó. Không có electron, không có neutron, không có proton. Không có phân tử. Không có “vật” gì.

Con có thể dùng một số cách hình dung khác nhau, có lẽ chính hình dung thày vừa cho con. Con cũng có thể hình dung một dòng sông luôn luôn cuộn chảy, tuy nhiên giữa các phân tử nước là khoảng trống không. Đằng sau dòng nước chảy là sự tĩnh lặng làm nền cho sự chuyển động.

Bởi vì sự chuyển dộng phải chuyển động tương đối với một cái gì, như con cũng biết là giác quan của con không thể phát hiện một chuyển động rất chậm khi không có gì làm mốc so sánh. Cho nên nói cho cùng, mọi chuyển động chỉ có thể có được do có một cái nền tĩnh lặng đằng sau.

Vậy con có thể thiền quán về một dòng sông. Khi tư tưởng khởi lên trong tâm con, con thấy chúng như xoáy nước trong dòng sông. Nhưng khi con đi sâu vào chúng và vượt quá chúng, rốt cuộc con sẽ tới tĩnh lặng. Điều quan trọng mà thày muốn nói là khi tư tưởng khởi lên, con đừng tìm cách đánh đuổi nó. Nhưng con cũng đừng tuôn chảy theo nó. Con đi thẳng vào nó. Con đi xuyên qua nó. Và con tìm cái gì đằng sau nó.

Một tư tưởng khác có thể sẽ khởi lên. Con lại đi vào nó, đi xuyên qua nó, tìm cái gì đằng sau nó. Nếu một tư tưởng khác khởi lên nữa thì con lại đi vào nó, đi xuyên qua nó, tìm cái gì đằng sau nó. Con yêu dấu, con cứ tiếp tục làm vậy thì rốt cuộc con sẽ đạt được một độ tĩnh lặng nào đó.

7.6. Dành thời gian trong tĩnh lặng

Con hãy cứ thực hành thiền quán này mỗi ngày thì con sẽ tới điểm có thể nhanh chóng đi vào tĩnh lặng và trải nghiệm là đằng sau, vượt quá dòng tư tưởng, có sự tĩnh lặng – một sự Hiện diện chính là ý niệm con là ai, ý niệm con đang Là, ý niệm “TA LÀ”. Và chính vì con có ý niệm “TA LÀ” này mà có thể có tư tưởng khởi lên trong tâm con, trong con người con. Do đó khi con vượt quá từng tư tưởng, từng cảm xúc, từng cảm nhận trong tâm, thì con tới cái nền của sự Là, chính là Hiện diện cốt lõi của con, Hiện diện TA LÀ của con.

Khi đó, con hãy trụ trong sự tĩnh lặng đó – không cố gắng, không mong cầu, không cầu xin, không cầu nguyện bất cứ gì. Con yêu dấu, hãy cảm thấy thật đủ khi con giản dị trải nghiệm Hiện diện. Và khi con cảm thấy đã đến lúc ra khỏi thiền, con hãy từ từ và nhẹ nhàng trở về trạng thái tâm thức bình thường của con.

Bài tập thiền này không cần lâu. Khi con đã quen thuộc thì con chỉ cần bỏ ra vài phút mỗi ngày. Sau đó, con giản dị bước ra khỏi thiền và làm công việc hàng ngày của mình, không chờ đợi, không cầu mong, không đòi hỏi gì. Nhưng con sẽ ngạc nhiên nhận ra là việc tiếp cận Hiện diện có thể là chất xúc tác để mang lại ý tưởng mới, tầm nhìn mới, sáng kiến mới khởi lên trong tâm vỏ ngoài của con. Những ý tưởng mà con biết không thuộc về tiếng ồn ào tạp nhạp trong bầu khí quyển của trái đất do tâm thức tập thể tạo ra, mà đến từ một cõi cao hơn, có một tính chất vô biên nào đó – và như vậy con cho phép mình nhập vào dòng chảy sáng tạo đem lại những giải pháp mới, tầm nhìn mới.

Rồi khi con hòa điệu với Hiện diện đó, con cũng có thể mang theo cảm giác tĩnh lặng này với con. Con sẽ tới điểm có thể bắt đầu phát biểu trong tĩnh lặng, để lời nói của con không tuôn ra từ tiếng ồn ào trong tâm con hay trong tâm thức tập thể đang tìm cách chống lại một hình thức ồn ào khác. Thay vào đó, lời nói của con chảy ra từ một tầng thâm sâu hơn, nó được thấm đẫm một cái gì đó. Nó được thấm đẫm với Hiện diện, nó chạm được người kia ở một tầng sâu hơn vì nó đánh động tim họ và giúp họ nhìn vượt lên.

Đôi khi việc thách thức người khác một cách thẳng thắn và đối đầu là một phương thức chính đáng. Đối với một số các con, đây là cách phát biểu tự nhiên, ít nhất ở tầng tâm thức hiện tại của con. Thày không muốn nói là tất cả các con phải tự biểu lộ theo cùng một cách. Thày chỉ giản dị nói rằng tất cả các con đều có tiềm năng chia sẻ Hiện diện của mình một cách nào đó, để lời nói của con có gì hơn ngôn từ và tâm đường thẳng, để nó được thấm đẫm bởi một cái gì chân thực, con yêu dấu.

7.7. Thày kêu gọi sự thực lòng khi biểu hiện tâm linh

Con thử nhìn những người tâm linh và người mộ đạo trên hành tinh này mà xem. Hãy bật tivi vào ngày chủ nhật khi các nhà giảng đạo đang phát sóng. Hãy chú ý khi con nghe những người tâm linh khác nói chuyện về tâm linh và nhìn xem họ phát biểu từ tầng mức nông cạn đó thường xuyên đến chừng nào – từ tâm đường thẳng – hay thậm chí từ tự ngã với tất cả những nỗi sợ hay ham muốn kiểm soát của tự ngã. Xong con hãy nhận ra là để có được một sự thức tỉnh tâm linh mới trong thời đại hôm nay, điều này sẽ không đến từ những kẻ thuyết giảng từ tâm vỏ ngoài. Nó sẽ chỉ đến khi có những người làm cánh cửa mở cho một cái gì thâm sâu hơn, một cái gì chân thực chạm được con tim.

Xong con nhìn nhận đây có lẽ là nhu cầu to lớn nhất mà con có thể đáp ứng trong thời đại này – trở thành một người được biết đến như là người nói chuyện thực lòng về đời sống tâm linh của mình. Con đem lại một tiếng nói mới lạ vào cuộc đối thoại về tâm linh, vào lãnh vực tâm linh và tôn giáo, qua đó con không chỉ đứng về một phe và bênh vực một tôn giáo nào đó, hay đứng về phe kia và tấn công mọi tôn giáo từ một nhãn quan khoa học duy vật, mà con vượt hẳn kiểu tranh luận đó. Con tìm được con đường Trung đạo làm một người chân thực. 

Bởi vì con phát biểu từ tĩnh lặng. Con thấm đẫm lời nói của con với sự Hiện diện mà con là. Bởi vì con biết con là Hiện diện đó. Bởi vì con đã tái sinh vào sự chấp nhận rằng con là một biểu đạt của Hiện diện.

Và như thế, khi con biết mình là ai, làm sao con lại không thể biểu lộ cái đó trong mọi lời mình nói, trong mọi việc mình làm, trong mọi tư tưởng và cảm xúc mình có? Bởi vì đó là điều sẽ cho con niềm vui và sự toại nguyện lớn nhất.

Con yêu dấu, tự ngã tìm sự thỏa mãn nào đó khi nó thuyết phục người khác là nó đúng. Nhưng có một niềm vui sâu hơn gấp bội khi con cảm được dòng chảy của Hiện diện mình xuyên qua con người vỏ ngoài, khi con cảm rõ sự biểu lộ đó, khi con trải nghiệm dòng chảy sáng tạo đó. Và cũng vậy khi đôi khi con thấy người khác hồi đáp với con như thế nào, họ ngạc nhiên như thế nào, vì họ thấy đây là một người nói chuyện tâm linh mà không theo kiểu thông thường. Đây là một tiếng nói khác hẳn.

Và thoạt tiên, họ có thể không biết xử sự làm sao. Nhưng con sẽ thấy là nhiều người đáp ứng theo một cách mới, sâu sắc hơn. Họ sẽ được đánh thức – do con chia sẻ Hiện diện của con – để họ hòa điệu với chính Hiện diện của họ. Và họ sẽ cất bước trên cuộc hành trình, cho đến khi họ cũng đạt tới điểm có thể chia sẻ Hiện diện của họ. Và khi điều này lan rộng như những vòng tròn trên mặt nước, sẽ có nguyên một phong trào tâm linh chỉ giản dị chia sẻ Hiện diện, con yêu dấu. Người ta biểu lộ Hiện diện này mà không chờ đợi kết quả cụ thể nào, mà chỉ mong muốn chia sẻ con người mà mình là, chia sẻ Hiện diện của mình.

7.8. Phần thưởng của phụng sự là phụng sự HƠN NỮA

Vậy thì đây là tinh túy của tia sáng thứ 14. Thày, Sanat Kumara, đã nguyện làm đại diện cho tia này cho các dòng sống trên trái đất. Thày đã nguyện phụng sự để cho con các khai ngộ của tia này.

Nay con đã nhận được, con yêu dấu, một lời dạy vượt hẳn những gì đã được trao truyền trong các đợt truyền pháp trước. Đừng để điều này trở thành một lý do kiêu hãnh hay cao ngạo. Đây là một lời dạy không được trao truyền vì con cao trội mà vì con đã chịu hạ mình xuống, tìm cái xà trong mắt mình, nhìn vượt quá tâm thức nhị nguyên và do đó cũng vượt khỏi mọi ý niệm tự hào, cao cả lẫn vượt trội.

Con đã sẵn lòng dùng bản thân mình giống như thày, Sanat Kumara, đã dùng bản thân thày khi đến trái đất – bước sâu vào vùng dày đặc mà không ngại lấm bẩn tay chân. Và như vậy, con đã xứng đáng nhận được đặc ân là một lời dạy có khả năng đưa con vượt cao hơn, để con trở thành một người phụng sự giỏi hơn nữa cho Đại đoàn Thăng thiên và Saint Germain, cho Giê-su và Phật cùng với nhiều vị khác ở cõi thăng thiên. Phần thường của việc phung sự là phụng sự HƠN NỮA. Và vì vậy mới có lời dạy này về cách phụng sự cao hơn.

Như vậy có bảy tia sáng đã được sử dụng để thị hiện cõi vật chất. Có một tia là tia thứ tám, nằm ở điểm eo nối kết của dòng chảy hình số 8, và có bảy tia đầu hình thành phần dưới của hình số 8. Sự đối xứng, tất nhiên, là đặc tính cố hữu của sáng tạo, cho nên cũng có bảy tia khác hình thành phần trên. Thày vừa giảng về tia thứ 14, nhưng có một tia thứ 15, hoàn tất tấm hình bảy trên, bảy dưới với một ở ngay eo.

Tia thứ 15 là một tia sáng mà tâm đường thẳng không thể nào nắm bắt, dù dưới dạng nào hay trong điều kiện nào. Nó không thể được mô tả bằng ngôn từ. Nhưng thày muốn con biết là nó có thật, và thày sẽ cho con cái gì đó để con quán chiếu. Vậy con hãy quán chiếu sự vô điều kiện. Và vượt cả sự vô điều kiện là sự vô hạn. Vô hạn.

Vô hạn.

Bởi vì ở ngay đỉnh hình số 8 là điểm dị biệt, là chính Đấng Sáng tạo. Đấng Sáng tạo vô hạn, không có điều kiện, không có hình tướng nào mà ngôn ngữ hay hình ảnh có thể tóm bắt. Tuy vậy, vì cái ta ý thức của con là một phần nối dài của Đấng Sáng tạo, cho nên con có khả năng trải nghiệm Hiện diện của Đấng Sáng tạo bằng cách vượt lên khỏi mọi điều kiện.

Bởi vì tương tự như vậy, Đấng Sáng tạo cũng mong muốn chia sẻ Hiện diện của ngài. Và đây là tại sao con hiện hữu, tại sao thế giới hình tướng hiện hữu. Giản dị chỉ là Đấng Sáng tạo đang chia sẻ Hiện diện của mình. Và con có thể dự phần vào đó, nhưng cách hay nhất để dự phần vào Hiện diện của Đấng Sáng tạo – Hiện diện Vô hạn của Đấng Sáng tạo – là con chia sẻ Hiện diện của con, dù có hạn nhưng thiêng liêng, với người khác.

Chính khi con cho đi mà con nhận được. Khi con để cho ánh sáng chảy vào người khác thì con mới trải nghiệm được ánh sáng này đến từ đâu. Khi người khác trải nghiệm ánh sáng đi xuyên qua con, thì con cũng trải nghiệm nguồn gốc tận cùng của ánh sáng – là điểm dị biệt của tâm vô hạn, Tâm Một.

Vì vậy với niềm vui rất lớn, thày niêm phong các bài giảng này đã khởi sự từ hội nghị Tân niên và bây giờ đạt đến một điểm hoàn tất nào đó, nơi con có thể đặt tất cả các bài giảng thành một tổng thể mạch lạc có khả năng giúp mọi người biểu hiện sự chữa lành cá nhân, sự trọn vẹn cá nhân của mình.

Bởi vì đây thực sự là những chìa khóa chủ yếu, con yêu dấu, dành cho những ai có tai để mà nghe – những ai không tìm cách diễn giải qua tâm đường thẳng mà sẵn lòng với vào trải nghiệm nội tâm đó, sự chứng ngộ đó trong Tánh linh là nguồn cội của ngôn từ – để họ có thể trải nghiệm Hiện diện vượt khỏi mọi cách diễn đạt.

Các thày rất biết ơn tất cả các con đã tham gia vào phong trào này và cho các thày một nền tảng để truyền rải lời dạy này.

6 | Tia thứ 13 của dòng chảy sáng tạo

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 10 tháng 5, 2009, trong loạt bài về các tia sáng bí mật.

Saint Germain TA LÀ. Và thày cũng đến trong sự Hiện diện của quả vị Phật mà thày vừa chứng ngộ. Nhưng vì thày chứng ngộ không lâu như Giê-su cho nên thày sẽ đứng. Bởi vì thày thật chưa sẵn sàng ngồi xuống, con yêu dấu, khi thày mang nhiệm vụ trưởng giáo cho Thời đại Bảo bình.

Không phải là thày muốn đổ tội cho bào huynh yêu dấu của thày, Giê-su, là đã ngồi chơi trong công việc, nhưng dẫu sao thày cũng cảm thấy là Hiện diện của thày có thể được biểu đạt tốt hơn qua việc sứ giả này đứng dậy. Và như vậy con có thể nói đùa là có những vị Phật ngồi và có những vị Phật đứng, tuy nhiên các thày vẫn đều là Phật.

Và tất nhiên, đây là một điểm cốt yếu. Bởi vì con đừng rơi vào bẫy mà nghĩ rằng con có thể áp đặt bất cứ hình tư tưởng nào lên Phật cũng như sự biểu hiện quả vị Phật, con yêu dấu. Tất nhiên đây là cái bẫy của tâm đường thẳng, cái bẫy của ngã tách biệt, của tâm thức nhị nguyên và các thày giả. Ngay khi các thày đưa ra một khái niệm, ngay khi các thày trao truyền một lời dạy, ngay khi các thày gửi xuống một người sẽ biểu hiện tâm thức cao hơn, thì chúng sẽ muôn kéo nó xuống tầm mức của tương đối, rồi tầm mức của nhị nguyên và áp đặt một hình tượng khắc lên đó. Đó chính là tại sao khi Môi-se lên núi, hai điều răn đầu tiên mà ông nhận được là: “Con không được có Thượng đế nào trước ta. Con không được làm tượng khắc nào cho mình.”

6.1. Khác biệt giữa sáng tạo và luật lệ

Con thấy đó, con yêu dấu, các điều răn nguyên thủy được trao cho Môi-se là những điều răn sáng tạo, nhưng khi ông xuống núi và nhận thấy mọi người không thể giữ tâm thức mình ở một tầng cao trong khi ông vắng mặt thể xác, thì ông ngộ ra là họ chưa sẵn sàng cho những lời răn này. Vì vậy ông phải lên núi trở lại, nhận một bộ lời răn mới, thô thiển hơn, tương đối hơn theo kiểu “phải làm cái này, không được làm cái kia.”

Con yêu dấu, đến một điểm trên đường tu tâm linh con phải vứt bỏ tất cả mọi luật lệ, mọi quy định, mọi giá trị “phải hay không được,” “được làm hay không được làm”. Và điểm này xuất hiện khi con vươn tới mức của tia sáng thứ 13, chính xác là tia của dòng chảy sáng tạo.

Sáng tạo, con yêu dấu, chỉ có thể được diễn tả như một dòng chảy. Nó không thể đứng yên. Nó là một chuyển động thăng vượt không ngừng. Nó thực sự là dòng chảy của sự sống.

Nếu nó dừng lại thì sự sống cũng dừng lại. Bởi vì điều gì nằm sau dòng chảy sáng tạo? À, đúng vậy, đó là Đấng Sáng tạo đang hướng chú ý của mình vào thế giới hình tướng – trong tư cách là Đấng Sáng tạo và đồng thời cũng qua trung gian những phần nối dài tự nhận biết của ngài. Tất cả mọi người, tất cả mọi sinh thể tự nhận biết ở bất cứ nơi đâu trong thế giới hình tướng chỉ có thể có được khả năng tự nhận biết là do có một dòng chảy chú ý liên tục của Đấng Sáng tạo xuyên qua bản thể họ.

Nhưng nếu con không nhận biết điều này thì thật ra con không có khả năng tự nhận biết đích thực, và vì vậy con không thể nói cùng với Giê-su: “Ta và Cha ta là một. Cha ta đã làm cho đến nay và ta cũng làm.”

Con nghĩ mình là một sinh thể tách biệt. Tuy nhiên vẫn có một dòng chảy chú ý nào đó từ Đấng Sáng tạo, vì nếu không thì giản dị con đã không tự nhận biết. Cho nên khi con vươn lên cao hơn trạng thái mê ngủ này, mà Giê-su gọi là chết, và nhận ra là mình đang sống – con là một sinh thể sống vì con là sự biểu hiện của chính nguồn sống, ngọn suối của sự sống – thì tất nhiên con có thể là cánh cửa mở cho một lưu lượng lớn hơn của dòng chảy đó. Và con sẽ có thể biểu đạt dòng chảy sáng tạo ngay cả trong vũ trụ vật chất dày đặc này, ngay cả trên hành tinh trái đất dày đặc này. Và do đó con có thể chứng minh rằng việc vượt qua mọi hạn chế và mọi vấn đề bằng cách liên tục sáng tạo cái HƠN NỮA, là chuyện khả dĩ.

6.2. Từ bỏ những định kiến lớn

Như các thày đã nói nhiều lần, con không thể giải quyết vấn đề bằng trạng thái tâm thức đã tạo ra vấn đề, chính vì khi con làm vậy, con chỉ buộc mình chặt hơn vào cuộc giao tranh nhị nguyên. Con bảo là vấn đề do một đối cực nhị nguyên gây ra, cho nên con phải đi vào đối cực nhị nguyên ngược lại và dùng cái này để hủy diệt đối cực đầu. Nhưng tất nhiên, cả hai đối cực nhị nguyên xuất hiện cùng một lúc, vì đó là cách duy nhất cái vô hạn có thể phân chia để tạo ra ảo tưởng tách biệt.

Và vì vậy, con yêu dấu, con không thể nào dùng một đối cực nhị nguyên để hủy diệt đối cực kia. Cái gì tùy thuộc vào cái khác thì không thể hủy diệt cái khác đó. Hai cái sai không thành một cái đúng. Hai cái tiêu cực không thể tiêu trừ lẫn nhau.

Đó là tại sao giải pháp duy nhất cho bất kỳ vấn đề nào là phải với ra khỏi trạng thái tâm thức đang trải bày điều kiện mà con cố thay đổi. Xong con đưa ra một giải pháp, một nhãn quan HƠN NỮA – một sự biểu đạt sáng tạo vượt ra ngoài cách biểu hiện cũ và trạng thái tâm thức cũ.

Đấy thật sự là uy lực của tia sáng thứ 13. Nó vượt ra khỏi cả bảy tia sáng đầu mặc dù có một số điểm tương đồng. Nhưng con thấy đó, để thực sự vượt qua các khai ngộ của tia thứ 13, con phải thực sự vứt bỏ mọi quy luật, mọi thành kiến, mọi ý tưởng sẵn có.

Hôm qua thày đã truyền cảm hứng cho sứ giả này tìm kiếm gì đó trên internet, và ông đã đọc được câu trích dẫn như sau: “Giải pháp cho những vấn đề lớn đòi hỏi sự từ bỏ những định kiến lớn.”

Vì con thấy đó, con yêu dấu, vấn đề được tạo ra từ một định kiến đã giới hạn tâm thức của con người, do đó hạn chế sự biểu đạt sáng tạo của họ. Cho nên trừ khi họ sẵn lòng từ bỏ định kiến, từ bỏ giới hạn cùng tin tưởng nhị nguyên đã tạo ra vấn đề, thì làm sao họ có thể mở tâm ra để nhận được giải pháp? Mỗi vấn đề đều sinh ra từ việc chặn nghẽn luồng sáng tạo, từ nỗ lực tóm bắt luồng sáng tạo trong một hình tướng xong duy trì hình tướng này.

Con yêu dấu, con nhìn trái đất và có thể thấy một số biểu hiện mà con sẽ dán nhãn là xấu xa, nhưng cũng có những biểu hiện khác con dán nhãn là tốt đẹp hay con không chất vấn là cần thay đổi. Nhưng cuộc sống là một tiến trình tụ thăng vượt không ngừng. Mức thành đạt của ngày hôm qua sẽ không đủ cho ngày hôm nay, bởi vì nếu một biểu đạt không thăng vượt thì con sẽ chặn nghẽn dòng chảy sáng tạo – vốn luôn thăng vượt bất kỳ biểu đạt nào để trở nên HƠN NỮA. Vì vậy khi con tìm cách bám giữ một hình tướng nhất định và hưởng thụ nó một thời gian, đó là lúc con chặn đứng dòng chảy sáng tạo. Đó là lúc con bước ra ngoài dòng chảy sáng tạo.

6.3. Dòng chày sáng tạo và thời gian

Bây giờ con cần hiểu là con đã được ban cho quyền tự quyết. Trong tư cách một người đồng-sáng tạo, con có quyền tạo ra một hình tướng nào đó và bảo: “Hình tướng này thật tuyệt vời. Tôi muốn tận hưởng nó trong hình dạng này thêm một chút nữa. Tôi muốn tận hưởng nó một thời gian.” Phải, con có quyền quyết định như thế, nhưng khi con làm vậy, không những con sẽ đem sáng tạo của con mà cả ý niệm cái ta của con vào cõi thời gian. Bởi vì trong dòng chảy sáng tạo, không có thời gian.

Thời gian không ý nghĩa gì trong dòng chảy sáng tạo, bởi vì trong cốt tủy, thời gian là khi con lấy một dòng đang chảy và chia nó thành nhiều khúc nhất định. Nhưng cái vô hạn không thể chia thành từng khúc, con yêu dấu. Đó là một dòng chảy không bao giờ ngừng chảy, cho nên thời gian hoàn toàn không mang cùng ý nghĩa khi con xuôi theo dòng chảy sáng tạo. Bởi vì con không tìm cách đứng yên một chỗ, con không tìm cách giữ nguyên một hình dạng nhất định dù là một khoảnh khắc. Tức khắc con cho phép hình dạng này thăng vượt, con tự cho phép mình thăng vượt hầu tạo ra một hình tướng cao hơn.

Chuyện này cũng giống như khi ở tuổi 11, con bỗng nhiên quyết định là con không muốn thân thể mình phát triển quá tuổi đó, vì vậy con gắng sức chặn đứng không cho nó lớn lên. Đấy, hiển nhiên chuyện này không thể làm được.

Bởi vì một lần nữa, có một vẻ đẹp nào đó khi con dõi nhìn sự phát triển của mọi thứ đang trải bày ra. Điều này không có nghĩa là những gì được tạo ra sẽ bị mất đi ngay lập tức, mà chỉ có nghĩa là nó nở ra như một đóa hoa đang nở. Nó sẽ không dừng lại giữa chừng. Không phải giống như mặt trời mọc lên vào buổi sáng bất thình lình quyết định ngừng lại khi đang nửa chừng trồi lên khỏi chân trời. Tất cả mọi thứ đều chuyển động trong dòng chảy sáng tạo và trở nên HƠN NỮA. Cho nên con xuôi chảy theo dòng trải nghiệm liên tục cái HƠN NỮA, thay vì tìm cách nắm lấy một trải nghiệm nào đó, ngừng dòng chảy, để mà có thể hưởng thụ trải nghiệm này một thời gian. Khi làm vậy thì con cũng tự đặt mình ra ngoài dòng chảy, con tạo ra một sự tách biệt, một khoảng cách giữa nơi con đang đứng trong tâm thức với nơi đáng lẽ con sẽ tới nếu con đã tiếp tục xuổi chảy theo Dòng sông sự Sống. Chính điều này tạo ra ảo tưởng thời gian.

Con yêu dấu, đây là điều mà đấng Mẹ đã nguyện cho phép con làm. Phật ban cho con không gian để con thử nghiệm với quyền tự quyết, còn Mẹ thì cho phép con thể hiện một hính tướng cụ thể, nhưng Mẹ cũng cho phép con quyết định liệu con có muốn duy trì hình tướng này trong một thời gian. Tất nhiên, Mẹ cũng đã gài sẵn lực co lại trong bản thể Mẹ, là lực sẽ rốt cuộc làm tan vỡ bất kỳ hình tướng nào mà con cố duy trì. Nhưng điều này cho con thời gian để mà trải nghiệm một hình tướng đặc thù cho đến khi con quyết định là con đã chán nó, con yêu dấu.

Đây là sự trải bày của Luật Tự quyết. Toàn bộ vũ trụ vật chất, ở mức tiến hóa hoàn vũ hiện thời, cho phép điều này xảy ra, tức là các sinh thể tự nhận biết có thể bước ra ngoài dòng chảy và mưu cầu sự duy trì hình tướng trong một thời gian, thay vì cứ liên tục thăng vượt hình tướng đó, thăng vượt ý niệm cái ta.

6.4. Ngã tách biệt không thể đưa con xa hơn bảy tia sáng

 Vì vậy một lần nữa, các thày ủng hộ quyền tự quyết như Phật đã giải thích. Khi con đi qua các khai ngộ của bảy tia sáng, con vẫn có thể duy trì một khía cạnh nào đó của ngã tách biệt. Và con có thể làm vậy bao nhiêu lâu con muốn. Nhưng một khi con bước vào cái mà trước kia gọi là tia bí mật, con không thể tìm cách duy trì ngã này được nữa mà đồng thời vượt qua khai ngộ của các tia bí mật. Con không thể ăn hết bánh mà vẫn còn bánh. Con phải sẵn lòng làm như câu nói: “Đứng dậy Peter, hãy giết và ăn.” Con phải giết chết cái ta cũ và trầm mình vào Dòng sông sự Sống, xuôi chảy với nó, và mỗi giây cho phép mình trở nên HƠN NỮA.

Con yêu dấu, con có thể nghĩ là sẽ nhàm chán biết mấy nếu cứ phải kinh qua cùng một trải nghiệm hết lần đến lần khác. Nhưng con hãy nhìn hành tinh này đi, nhìn xem biết bao người đã giữ cùng một việc làm suốt 30, 40 năm trời, mỗi ngày theo cùng một thông lệ, sáng thức dậy uống tách cá phê, xem tin tức hay đọc báo, đi làm cùng một công việc, chuyện trò với cùng những người đó, nói cùng những lời lẽ, trở về nhà ăn cùng một bữa cơm, bàn cùng một chuyện với người phối ngẫu, xem cùng một chương trình TV rồi đi ngủ. Và hôm sau lại lặp lại y như thế.

Làm đúng như vậy suốt mấy chục năm trời, con có thể nghĩ là họ sẽ chán ngấy. Nhưng con thấy không, họ không chán ngấy vì tự ngã của họ đã đặt họ vào đúng nơi nó muốn. Và chính họ cũng đang ở đúng nơi họ muốn, theo nghĩa là họ muốn trải nghiệm cảm nhận an toàn thoải mái kia. Tất nhiên theo quyền tự quyết, đây là quyền của họ.

Nhưng thày đang ở đây để nói với con là quả thật có một niềm vui lớn hơn rất nhiều khi con lại trầm mình vào Dòng sông sự Sống, quay trở về dòng chảy sáng tạo và cho phép mình trở nên HƠN NỮA. Con trải nghiệm là sự sống dồi dào chỉ có được khi con ở trong dòng chảy sáng tạo đó nơi tất cả mọi thứ đều trở nên HƠN NỮA. Bởi vì dồi dào là gì chứ? Là cái HƠN NỮA! Khi một điều gì dừng lại ở một mức nào đó thì nó hết là dồi dào, nó chỉ là một khối của cải nhất định hay là sự thiếu thốn của cải.

Dồi dào là một dòng chảy, dồi dào là sự lưu chuyển. Nếu ngừng lại, nó sẽ bắt đầu chết đi tức thì. Không có cách nào khác. Đây là định luật thứ hai của nhiệt động học, là lực co lại của Mẹ, là lực của Shiva làm tan vỡ tất cả những gì đứng yên và do đó đã chết về mặt tâm linh.

Con thấy đó, con yêu dấu, thật không có gì sai trái khi con muốn trải nghiệm một hình tướng nào đó trong một thời gian. Như thày đã nói, đó là quyền của con vì con có tự quyết. Nhưng vấn đề là để trải nghiệm một hình tướng trong bất kỳ khoảng thời gian nào, con sẽ phải chấp nhận hay tự xem mình là một bản sắc đặc thù, một cái ta đặc thù trong khoảng thời gian đó. Và tất nhiên ý niệm cái ta này phải được định nghĩa trong cõi tách biệt, tức là cõi của các đối cực nhị nguyên.

6.5. Tại sao trong thời gian luôn luôn có đối chọi

Cho nên luôn luôn sẽ có gì đó chống lại ý niệm cái ta của con, chống lại sự duy trì hình tướng, chống lại cảm nhận an toàn và thoải mái của con, con yêu dấu. Tại sao con thấy cuộc khủng hoảng tài chánh xảy ra gần đây? Bởi vì có quá nhiều người trở nên thoải mái quá đỗi với tình trạng tài chánh của họ, tưởng rằng mọi chuyện sẽ tiếp diễn như vậy mãi mãi. Và rồi phải đến một điểm khi lực co lại đập đổ các tòa tháp Babel đã được dựng lên trong nền kinh tế, thì bỗng chốc người ta mới bắt đầu cảm thấy là có lẽ tương lai kinh tế của mình không an toàn như mình nghĩ, có lẽ tương lai hưu trí của mình không đảm bảo như mình tưởng. Thế là đùng một cái, lựa chọn của họ là gì?

À, hoặc họ có thể bó tay và trông cậy vào chính phủ, hoặc họ có thể trở nên sáng tạo và nhờ vậy thị hiện sự dồi dào mà họ mong muốn. Cho nên con thấy đó, như luôn luôn, sự thoải mái, sự bằng lòng tự mãn chính là kẻ thù lớn nhất của tăng trưởng. Con có thể nghĩ kẻ thù lớn nhất của tăng trưởng là tà lực và ác quỷ, nhưng kỳ thực sự thoải mái – sự bằng lòng tự mãn, cảm nhận yên ổn cho rằng mọi chuyện như thế này đã tốt đủ – đây mới là kẻ thù lớn nhất của tăng trưởng.

Những ai quá hài lòng sẽ không thấy nhu cầu thăng vượt, do đó họ không thể tăng trưởng và được tự do. Vì họ bị giam trong mong muốn giữ nguyên một trạng thái nhất định, cho nên chú ý của họ, năng lượng sống của họ bị cuốn hút vào việc duy trì cái không thể duy trì. Bởi vì cái đó sẽ bị phá vỡ bởi chính sức mạnh của sự sống, nó sẽ bị đe dọa bởi một đối lực nhị nguyên.

Con thấy đó không phải là tự do, con yêu dấu. Họ có thể cảm thấy mãn nguyện vì tự ngã không ngừng dội bom vào lòng họ niềm tin rằng cuộc sống đang xảy ra đúng như nó phải xảy ra và họ phải bằng lòng. Nhưng tánh linh của họ thì vô hạn, nó không thể nào thực sự bằng lòng. Cho nên họ có thể tạm thời bỏ qua tiếng kêu của tánh linh vô hạn muốn trở nên HƠN NỮA, nhưng họ không thể làm vậy mãi mãi. Tới một điểm sẽ có một điều gì lay họ, đánh thức họ dậy khỏi cảm giác bằng lòng đó, thế là họ quyết định tăng trưởng, họ quyết định với lên cao hơn, với lên một cái gì sáng tạo hơn. Và đây, tất nhiên, là toàn bộ mục đích của tia thứ 13.

Tia thứ 13 nhằm trợ giúp những ai đã sẵn sàng, đã sẵn lòng bước trở lại vào dòng chảy sáng tạo, vứt bỏ những xiềng xích cuối cùng còn ngăn cách họ khỏi dòng chảy, con yêu dấu. Theo một nghĩa nào đó, con vẫn đang vứt bỏ xiềng xích khi con leo qua tất cả mọi tia sáng, kể cả bảy tia đầu, nhưng chắc chắn sẽ tới một điểm khi – như thày vừa nói – tất cả mọi luật lệ, mọi quy định, mọi mong muốn ngăn nắp trật tự phải được cho phép trôi đi.

Nói cho cùng, con không thể sáng tạo nếu con nghĩ là trong thế gian có bất cứ luật lệ nào hay điều kiện nào sẽ giới hạn sự biểu đạt sáng tạo của con. Không có cách chi con có thể xuôi theo Dòng sông sự Sống một cách trọn vẹn mà lại nghĩ rằng sự biểu đạt của mình phải được quy định bởi các điều kiện hiện hành trong vũ trụ vật chất. Bởi vì như thày đã nói, các điều kiện hiện hành trong vũ trụ này được quy định bởi sự kiện có quá nhiều người đồng-sáng tạo quyết định bước ra ngoài Dòng sông sự Sống, tìm cách ngăn chặn Dòng sông sự Sống, tìm cách tạo dựng một hình tướng cố định và duy trì hình tướng này trong chiều dài thời gian.

Và như vậy thì họ đứng ra ngoài dòng chảy sáng tạo. Thành quả biểu đạt của họ – tức là các điều kiện hiện hành – không phải là biểu đạt của dòng chảy sáng tạo mà của tâm thức nhị nguyên, của tư duy phản sáng tạo. Do đó nếu con nghĩ sự sáng tạo đích thực sẽ thích nghi được với phản sáng tạo, thì con không thể trầm mình vào sáng tạo đích thực. Con không thể nhập một với dòng chảy sáng tạo. Con yêu dấu, chuyện này không thể.

Cho nên con phải đạt tới điểm sẵn lòng vứt bỏ tất cả mọi thứ mà con nghĩ đã cho con một nền tảng vững vàng, kể cả cái nhìn của con về con đường tâm linh, về ý nghĩa của con đường tâm linh đối với con, về thế nào là thiên đàng, thế nào là Thượng đế.

6.6. “Đêm đen của linh hồn”

Con yêu dấu, có người đã nói đến đêm đen của linh hồn (dark night of the soul), đêm đen của tánh linh. Nhưng đêm đen là kết quả khi con đạt tới mức phải chất vấn những niềm tin thiêng liêng nhất của mình, những điều con xem là đương nhiên không cần tra vấn. Nếu con bám giữ những thứ này thì Tánh linh của con sẽ kéo con buông chúng ra. Nhưng nếu tâm vỏ ngoài của con không chịu buông thì con sẽ bị xé thành từng mảnh bởi những lực đối lập trong bản thể con.

Ý niệm cái ta, sự nhận biết ý thức của con sẽ có cảm giác bị giằng co theo hai hướng, tuy nhiên nó không thể động đậy, nó bị tê liệt. Và con sẽ không thể chuyển động chừng nào con còn nghĩ mình phải làm gì đó, bởi vì điều con cần làm là buông bỏ, con phải nhả cho nó ra đi. Con đơn giản phải sẵn lòng được tái sinh, và khi con tái sinh, khi con chấp nhận một ý niệm cái ta mới, thì con cũng chấp nhận đây là một cái ta đang chảy theo dòng sáng tạo và đang biểu lộ dòng sáng tạo – cho nên cái ta này đang ở đây để đem lại những giải pháp mới mẻ.

Giê-su có nói về mong muốn của thày cho những ai đạt đến một mức quả vị Ki-tô nào đó là họ có thể bước ra ngoài và thách thức các ảo tưởng của tâm thức nhị nguyên và các thày giả. Đó quả là một việc phụng sự và một khai ngộ vứa chính đáng vừa cần thiết. Nhưng có một công việc khác – không cứ là cao hơn mà đi song song – là thay vì con chỉ thách thức ảo tưởng và lời dối bằng cách chỉ ra tính không thực của nó, con đem lại một giải pháp sáng tạo cũng sẽ thách thức lời dối. Nhưng con đưa ra một cái gì vượt xa hơn hẳn – bởi vì mọi lời dối chẳng phải là một hạn chế, một điều được xem là đương nhiên không thể chất vấn, một sự giới hạn cho tư tưởng và sáng tạo hay sao?

Vì vậy khi con cho phép mình nhập vào dòng chảy, con có khả năng đem lại những góc nhìn mới, những giải pháp mới, những sáng chế mới sẽ thách thức cách người ta vốn làm mọi chuyện.

Con yêu dấu, không nhất thiết đó phải là một công trình gì hoành tráng. Thày muốn lưu ý con là khoảng hơn một thế kỷ trước, có hai anh em – sống không xa đây lắm – ngồi trong căn chòi gỗ thô sơ, thử nghiệm một số hình dạng cánh máy bay khác nhau trong đường hầm gió mà họ đã tự tay xây dựng. Họ muốn tìm xem hình dạng nào cho họ đủ lực nâng sẽ cho phép họ chế tạo một cỗ máy biết bay.

Con yêu dấu, hai anh em nhà Wright không phải là những người mà bình thường con sẽ gọi là anh hùng hay vĩ nhân. Trước khi họ cất cánh, họ chẳng được ai công nhận mà chỉ có vẻ là hai kẻ tầm thường sống trong những điều kiện khá thô sơ. Nhưng họ mang niềm khao khát muốn đập tan một trong những giới hạn lâu đời của loài người để khởi đầu một kỷ nguyên hoàn toàn mới cho công nghệ máy bay. Đối với con đã lớn lên xem máy bay là chuyện hiển nhiên, con không thể thực sự tưởng tượng được sự xoay chuyển to lớn xảy ra trong tâm thức tập thể khi ai nấy nghe tin có người vừa chế ra một cỗ máy biết bay. Nó giống như một làn sóng chấn động chạy xuyên qua tâm thức tập thể, con yêu dấu.

Nó đã tạo ra một cuộc xoay chuyển địa chấn trong tâm thức tập thể vì bỗng nhiên, chỉ do sự kiện đơn giản là có người đã chứng minh được một chuyện mà mọi người bảo là bất khả thi, thì người ta bắt buộc phải tự nhìn mình một cách khác. Con thử nghĩ xem người ta thường nói: “Nếu Thượng đế muốn chúng ta bay thì ngài đã ban cho chúng ta đôi cánh rồi.” Không, con yêu dấu, ngài đã ban cho con một tâm trí có khả năng sử dụng dòng chảy sáng tạo. Nếu con dùng được tâm này thì sẽ không có giới hạn nào cho những gì có thể xảy ra. Kỷ nguyên của máy bay có thể đã đem lại nhiều thay đổi lớn lao, tuy nhiên nền công nghệ hiện hành để thực hiện chuyến bay vẫn còn vô cùng thô sơ so với những gì thày đã thiết kế trong phòng thí nghiệm của cõi ê-the. Công nghệ này tiên tiến hơn rất nhiều những gì con đang có, sẵn sàng để được trao cho nhân loại. Một vài chi tiết lẻ tẻ đã được tiết lộ nhưng chưa hoàn toàn bắt rễ.

6.7. Sáng tạo không có giới hạn

Và một lần nữa, dòng chảy sáng tạo có mặt ở đó, như một tiềm năng đằng sau mọi thứ. Không có giới hạn trong những giải pháp có thể được đưa ra, là những giải pháp sẽ không chỉ triệt tiêu một vấn đề cụ thể, mà còn cho phép nhân loại thăng vượt chính tầng mức đã sinh ra vấn đề.

Tương tự như vậy, con yêu đấu, cũng có một số loại công nghệ có khả năng cách mạng hóa lãnh vực chữa bệnh. Nhưng những loại công nghệ này không thể được rải truyền cho đến khi có một số lượng tới hạn những người sẵn lòng nhìn vào sự thật rằng một căn bệnh vật lý là cách biểu hiện của một trạng thái tâm thức, và vì vậy sự chữa lành không thể hoàn tất – tình trạng trọn vẹn không thể hồi phục – cho đến khi có sự thay đổi trong tâm thức. Và sự thay đổi tâm thức này không thể, không bao giờ có thể được chế tạo bằng một thiết bị máy móc. Không một công nghệ nào, một công nghệ máy móc nào có thể chế tạo một sự xoay chuyển tâm thức, bởi vì đây là một tiến trình sáng tạo, con yêu dấu.

Nhưng có một số loại công nghệ có thể được truyền rải – và đã từng được truyền rải trong các Thời Hoàng kim đã qua – đem lại khả năng tạo ra sự rung động thích hợp để loại trừ nguyên nhân của nhiều bệnh tật, ít ra là nguyên nhân vật lý. Tuy vậy, trừ khi một người thay đổi tâm thức của mình thì, đấy, cơ thể vật lý sẽ lại trải bày ra một dạng bệnh khác, con yêu dấu, ngay cả khi con dùng một thiết bị máy móc để tiêu trừ các triệu chứng của một căn bệnh. Việc tiêu trừ triệu chứng qua máy có thể tạm thời đem lại khuây khỏa và lành lặn, nhưng nếu con không lợi dụng sự khuây khỏa này để thay đổi tâm thức thì con đã không thực sự loại bỏ nguyên nhân của căn bệnh. Nguyên nhân này nằm trong tâm thức.

Cho nên con thấy là cho tới khi có một số lượng quần chúng tới hạn, và một sự nhận biết tới hạn, về nhu cầu chữa lành không chỉ cơ thể mà cả tâm nữa, thì các thày sẽ không truyền rải loại công nghệ sẽ đưa lãnh vực chữa lành và ngành y khoa lên một tầng mức cao hẳn một bực. Tương tự như vậy với nhiều loại cộng nghệ khác, phải có một sự tăng trưởng về nhận biết, qua đó con nhận ra – nhân loại cần bắt đầu nhận ra – rằng thế giới nơi con sinh sống không máy móc chút nào.

Thế giới không phải là một cỗ máy, không phải là một cỗ máy tinh xảo, mà là một sự biểu đạt của tâm thức, bao gồm cả chính trạng thái tâm thức của con. Chỉ khi đó thì loài người mới có chọn lựa, hoặc họ sẽ kéo dài tình trạng khốn khổ hiện tại, hoặc họ sẽ mở ra cho dòng chảy sáng tạo ngay trong họ, và như vậy gia tốc địa cầu vượt ra khỏi tình trạng hiện nay của khốn khổ, bất bình đẳng, vật lộn và đau đớn.

6.8. Khai ngộ của tia thứ 13

Chính thày, Saint Germain, đã đề xướng lời dạy này. Thày đã bảo trợ cho việc đề xướng lời dạy này về tia thứ 13 của dòng chảy sáng tạo, con yêu dấu. Con có thể thỉnh thày để học những gì con cần học hầu chứng ngộ tia thứ 13.

Con hãy để ý thày được biết đến như là Chân sư của Tự do. Con hãy để ý thày đã nói gì về việc từ bỏ các luật lệ, các quy định, các thành kiến của con. Con hãy sẵn lòng chất vấn tất cả mọi thứ.

Thày là một chân sư bận rộn. Là chủ xướng Thời đại Bảo bình hầu đem lại Thời Hoàng kim, thày lại còn làm việc với các đệ tử tâm linh. Cho nên thày không có thì giờ làm việc với những đệ tử nào vẫn còn đủ loại hộp tư duy trong tâm mà họ không chịu vượt qua, khiến họ không chịu chất vấn tất cả mọi thứ. Có những chân sư khác sẽ sẵn lòng làm việc với con nếu con vẫn ở mức mang theo một hộp tư duy mà con không chịu tra vấn. Nhưng thày, Saint Germain, thì không mong muốn, thày không sẵn lòng làm như vậy – vì thày sử dụng quyền tự do chọn lựa của mình để quyết định là thày không sẵn lòng làm việc với những đệ tử không sẵn lòng chất vấn mọi thứ. Thày sẽ không làm việc với những đệ tử mà, khi thày đến nói với họ “Con hãy xem xét chuyện này” thì họ phản ứng: “Ồ không được, tại sao con phải làm chuyện này chứ? Con không muốn suy nghĩ kiểu đó, vì trong một đợt truyền giáo trước có dạy rằng con không cần chất vấn niềm tin đó!”

Thái độ này, con yêu dấu, không đáp ứng yêu cầu của thày về một người làm đệ tử của thày. Thày không lên án con có thái độ đó, mà thày chỉ giản dị bảo con nên tìm một chân sư khác sẵn lòng làm việc với con – vì thày thì không. Đây là sự chọn lựa tự quyết của thày. Thày nói rõ thày là ai và thày chọn gì. Con hãy đến với thày khi nào con chịu chất vấn mọi thứ, còn nếu không, con hãy tìm một chân sư khác. Có những vị sẽ chịu làm việc với con, mặc dù khả năng của họ làm việc với con sẽ bị hạn chế bởi chính những điều con không chịu chất vấn.

6.9. Lucifer như đại thiên thần của tia thứ 13

Vậy thì con yêu dấu, bây giờ hãy để thày trình bày theo một hướng hơi khác là sự kiện Lucifer đã được gọi là đại thiên thần thứ 13. Thật vậy trong một bầu cõi cao hơn, Lucifer đã từng là một đại diện của tia thứ 13. Lucifer đã sa ngã qua một sự tha hóa của tia thứ 13, tia của tự do sáng tạo, của dòng chảy sáng tạo.

Có thể cần đến mấy tha hóa vi tế – rất vi tế – để đến mức đó. Nhưng một tha hóa vi tế là ý tưởng bảo rằng: “Nếu tôi có tự do sáng tạo hoàn toàn thì tại sao tôi lại không thể tạo ra một hình tướng xong duy trì hình tướng đó?” Như các thày có nói, con có quyền tìm cách duy trì một hình tướng, nhưng con không thể làm vậy trong dòng chảy sáng tạo. Bởi vì khi con ngừng lại ở một hình tướng nhất định, con không đang xuôi chảy nữa và do đó con phải tách mình ra khỏi dòng chảy.

Tha hóa kia, tất nhiên, là ý tưởng cho rằng quyết định của Thượng đế ban quyền tự do cho con người không thể nào dẫn đến kết quả chung cuộc là sự thị hiện của vương quốc Thượng đế. Bởi vì người ta sẽ lạm dụng quyền tự do này để làm bất cứ gì, kế cả chuyện chống đối lẫn nhau. Vì vậy tự do cần phải hạn chế, tự do cần phải ép buộc. Con người phải bị ép vào một khuôn khổ, nơi ác quỷ nghĩ là y có thể đảm bảo sự cứu rỗi của họ nếu họ cứ tuân theo con đường cứu rỗi đích thực độc nhất mà y đã vạch ra. Nhưng đây là con đường tách biệt, con yêu dấu.

Con đường chân chính dẫn đến cứu rỗi, con đường chân chính dẫn đến sự thị hiện của vương quốc Thượng đế trong bầu cõi thấp, quả thực là dòng chảy sáng tạo đem lại những giải pháp cao hơn.

Con thấy đó, con yêu dấu, thật không quan trọng nếu một bầu cõi thấp kém, dày đặc đến đâu khi nó được tạo dựng lần đầu. Nếu các sinh thể tự nhận biết trong bầu cõi này sẵn lòng tự thăng vượt không ngừng, thì cuối cùng họ sẽ đưa bầu cõi của họ lên cao. Không thể nào khác được.

Tự thăng vượt sẽ dẫn đến sự biểu hiện của vương quốc Thượng đế. Luôn luôn đã từng như vậy và sẽ mãi mãi như vậy. Đó là cách duy nhất để thị hiện vương quốc Thượng đế khi con nhận ra rằng Thượng đế chính là Thượng đế Hằng sống đang tự thăng vượt chính mình.

Sẽ đến một điểm, con yêu dấu, con cần nhập vào dòng chảy sáng tạo đó khi con nói: “Tôi sẽ là cái tôi sẽ là!” có nghĩa là con sẽ, trong mọi lúc, là nhiều hơn cái con vừa là trước đó. Tha hóa là khi con nói: “Tôi sẽ là cái tôi đang là, tôi sẽ ở lại nơi tôi đang ở ngay bây giờ. Tôi sẽ ở lại đây một thời gian.” Khi đó con đã tách mình ra khỏi dòng chảy.

Và điều này phù hợp với những gì Phật đã nói, bởi vì một lần nữa, chính Lucifer đã được yêu cầu vượt qua khai ngộ mà Phật đã có nhắc đến, tức là khai ngộ khi con đang ở một bầu cõi cao hơn và phải bỏ lại đời sống của mình cùng thành đạt của mình cho những sinh thể ở bầu cõi kế tiếp. Nhưng Lucifer thì không muốn làm vậy, bảo rằng: “Tôi muốn ở lại trong địa vị cao trội này, nơi tôi được người cấp dưới ngưỡng mộ. Tôi không muốn xuống thấp, hy sinh đời sống cho những người chưa đạt đến trình độ có thể công nhận thành đạt của tôi.”

Và như vậy con thấy ý muốn chặn đứng dòng chảy sáng tạo, bước ra ngoài và giữ nguyên một vị thế nào đó. Bởi vì một lần nữa, con không thể giữ nguyên một vị thế trong dòng chảy, con yêu dấu.

6.10. Không có chuyện đứng yên trong dòng chảy sự sống

Bản thân Đấng Sáng tạo đã sẵn lòng để cho bản thể của mình bị “nhốt” trong thế giới hình tướng, để các sinh thể tự nhận biết có thể làm bất cứ gì họ muốn với bản thể của ngài. Cho nên đây chính là cốt lõi của dòng chảy sáng tạo, và con cũng phải sẵn lòng làm điều tương tự.

Không có vị thế nào, không có ý niệm cái ta cố định nào mà có bất cứ giá trị tối hậu nào, hay thậm chí có thể sống còn, con yêu dấu. Bất cứ lúc nào con cũng là con người mà con nghĩ con là, và bất cứ lúc nào con cũng có thể thay đổi con người mà con nghĩ con là.

Lời dối gạt là bảo rằng con người mà con là trong lúc này phải tùy thuộc vào con người mà con đã là trong quá khứ. Đây là lời dối gạt mà Lucifer đã truyền bá lúc đầu và được các thày giả truyền bá tiếp từ đó trở đi. Đây là lời dối của tự ngã. Đây là lời dối mà Peter đã trình bày với Giê-su khiến Giê-su quở mắng: “Hỡi Satan, hãy lui ra sau ta!” qua đó Peter bảo Ki-tô phải thích nghi với sự chờ đợi, hay với các luật lệ, các điều kiện sẵn có trong thế gian, thay vì biểu hiện tính siêu việt. Đây chính là sự tha hóa của dòng chảy sáng tạo.

Dòng chảy sáng tạo chỉ chảy thôi. Nó chảy. Nó chảy. Thày đã nói điều này bao nhiêu lần rồi? Thày cần nói thêm bao nhiêu lần nữa trước khi có gì đó trong tâm con ngộ được? Và con nhận ra bản chất của tâm thức tách biệt chính là một cố gắng chặn đứng dòng chảy, hầu bám lấy một trải nghiệm, một trạng thái tâm thức, một điều kiện vật chất nhất định. Đó là chết!

Sống là chảy. Sống là chuyển động. Sống là tiến lên. Sống là thăng vượt. Con yêu dấu, nếu con thành thật, nếu con chịu nhìn thật sâu vào chính mình và quán chiếu điều này, con sẽ phát hiện những lớp sâu thẳm vô cùng tinh tế của tự ngã đang muốn duy trì một điều gì đó, muốn ôm giữ những gì nó cảm thấy con đã đạt được. Thậm chí có cả cảm nhận vi tế là những gì con đã trải nghiệm và kinh qua trên con đường tâm linh sẽ cho con một loại địa vị nào đó. Và khi con đạt được một địa vị đủ cao thì bỗng nhiên, thiên thần thổi kèn sẽ xuất hiện và cổng ngọc sẽ mở ra, và con sẽ được chào đón vào vương quốc thiên đàng nhờ địa vị của con. Nhưng Giê-su đã chẳng nói hay sao, trừ khi con trở thành giống như trẻ nhỏ thì con không thể bước vào vương quốc. Trẻ nhỏ có gì đáng nói?

Đối với trẻ nhỏ, tất cả mọi chuyện đều mới. Con có thấy không? Trong dòng chảy sáng tạo, mỗi ngày là một ngày mới, một khởi đầu mới. Không phải lả sự tiếp nối của ngày hôm qua mà là một ngày mới.

Nó có thể có một số yếu tố của ngày hôm qua nhưng nó mới. Nó tươi. Nó sống động. Và trừ khi con sẵn lòng chảy xuôi theo thì con sẽ không thể bước vào vương quốc. Con sẽ buộc mình phải đứng bên ngoài, nơi con tìm cách bảo vệ một vị thế nào đó, tưởng rằng nếu con đạt được một địa vị tối thượng trong thế giới này thì con sẽ được bảo đảm bước vào thế giới kia.

Nhưng con không thể bước vào thế giới kia chừng nào con còn cầm giữ trạng thái tâm thức của thế giơi này, thế giới của tách biệt. Không thể nào được!

Các thày đã nói điều này quá nhiều lần, con yêu dấu. Nhưng các thày vẫn tiếp tục nói vì các thày biết là mỗi lần nói lên như vậy, một số người sẽ hiểu ra. Nhưng người khác thì sẽ vẫn mang rào cản trong tâm ngăn họ nhìn thấy, ngăn họ trải nghiệm được thật sự. Cho nên các thày lại cố thêm một lần. Các thày cố thêm một lần vì các thày đang thăng vượt chính mình, luôn luôn tìm những cách diễn tả mới hơn – nói lên cùng một chuyện nhưng trong những bối cảnh khác nhau cho những người khác nhau ở những mức tâm thức khác nhau.

Cho nên một lần nữa, con hãy xét thật kỹ lưỡng sự sống là một dòng chảy liên tục. Không phải là một kết quả chung cuộc. Cứu rỗi không là một kết quả chung cuộc. Thăng thiên không là một kết quả chung cuộc. Quả vị Ki-tô không là một kết quả chung cuộc. Quả vị Phật không là một kết quả chung cuộc. Vì một khi con đạt đến kết quả chung cuộc thì mọi chuyện sẽ đứng im. Nhưng không phải vậy.

Bởi vì Đấng Sáng tạo không đứng im. Cho nên khi con là một với Dòng sông sự Sống thì có nghĩa là con cũng không đứng im. Đây là tại sao con sẵn lòng trở nên HƠN NỮA bằng cách chất vấn điều con đã nghĩ là cách biểu đạt cao nhất của sáng tạo. Bởi vì nếu con không chịu chất vấn cái đang là, làm sao con có thể mở cửa cho cái HƠN NỮA? Làm sao con có thể cởi mở với cái mới nếu con không đặt vấn đề cái cũ?

Sự tăng triển bắt đầu với một câu hỏi. Thày là chân sư của tự do, và vì thế, một lần nữa thày nói rõ là thày đón chào tất cả những đệ tử nào sẵn lòng chất vấn tất cả!

5 | Tia thứ 12 của tái sinh

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 10 tháng 5, 2009, trong loạt bài về các tia sáng bí mật.

Thày là Giê-su. Thày đến đây đàm đạo với con như một khách mời trong loạt bài giảng này của Phật Gautama. Thày không đến như nhân vật Giê-su được hình dung trong thế giới Cơ đốc mà trong bản thể trọn vẹn mà thày LÀ ngày hôm nay, như một sinh thể đã đạt quả vị Phật sau khi thày thăng thiên. Và như vậy, thày đến để giảng cho con về tia sáng thứ 12 – tia thứ 12 của sự tái sinh.

Tái sinh, con yêu dấu.

Vì như con đã nghe, tia thứ 11 là tia khai ngộ về sự buông bỏ, sẵn lòng buông bỏ cái cũ – thăng vượt. Con thấy đó, con yêu dấu, buông bỏ mà không biết có gì theo sau là một sự khai ngộ cần thiết. Nhưng điều này không có nghĩa là nếu con buông bỏ thì tự động một cái ta mới sẽ xuất hiện. Bởi vì sau khi con từ bỏ cái cũ, điều cần xảy ra là con – cái ta ý thức, ý niệm cái ta của con – được tái sinh.

Và điều này xảy ra như thế nào? Nó xảy ra khi con, cái ta ý thức, chấp nhận là chính nó được tái sinh, chấp nhận chính nó như một bản sắc mới, con yêu dấu. Và đây có thể là một bước khó khăn cho nhiều người đã đi trên con đường tâm linh từ lâu năm. Bởi vì con đã quá quen nhìn vào chính mình, nhìn vào cái xà trong mắt mình, tìm kiếm xem có gì cần buông bỏ, có gì cần hàng phục. Tất nhiên đây là một điều cần thiết, một bước cần thiết trên đường tu, con yêu dấu, vì nếu con nhìn nhiều người trên thế giới, con sẽ thấy là họ bị quá đồng hóa với tự ngã của họ, quá cả tin vào lời dối của tự ngã, đến độ họ thấy không cần phải buông bỏ bất cứ thành phần nào của bản sắc giả hiệu của mình. Họ chỉ cần đi theo con đường vỏ ngoài, con đường tự động, thì họ sẽ đảm bảo được cứu rỗi.

Nhưng con là người tâm linh, con đã vươn lên cao hơn mức tâm thức này. Con không phủ nhận trong mắt mình có cái xà, có gì đó phải được phát hiện, phải được hàng phục, phải được từ bỏ trước khi con có thể thoát khỏi nó. Con không phủ nhận là con có quyền tự quyết – con đã dùng ý chí tự quyết của mình để chấp nhận một số ảo tưởng nhị nguyên, thì như vậy con là người phải nhìn xuyên thấu chúng và buông bỏ chúng. Nhưng một số các con vẫn thấy khó lòng chấp nhận là sau khi đã buông bỏ một thành phần của cái không-ta, thì con, cái ta ý thức, được tái sinh vào một ý niệm bản sắc cao hơn. Con không thể chấp nhận là con được tái sinh, giờ đây con là một sinh thể khác.

5.1. Trở thành một sinh thể mới trong Ki-tô

Và điều khiến con vấp ngã trong nhiều trường hợp lại chính là sự sẵn lòng tìm kiếm cái xà trong mắt mình, sự sẵn lòng nhìn nhận là có gì đó phải được buông bỏ. Do đó con chú tâm vào việc nhìn thấy vấn đề, khắc phục vấn đề và suy nghĩ như thể mọi chuyện đều là vấn đề, đến độ con không thể buông được ký ức mình đã từng là ai trong quá khứ, mình đã từng bất toàn và mình đã phải từ bỏ nhiều đến chừng nào. Cho nên con không thể luôn luôn chấp nhận là bây giờ sau khi đã từ bỏ tất cả những thứ đó, con không còn là sinh thể với những vấn đề đó nữa.

Con có thấy không, con yêu dấu? Khi con tái sinh, con trở thành một người mới, một sinh thể mới trong Ki-tô. Nhưng con có quyền tự quyết. Con không thể chấp nhận con là một sinh thể mới – con không thể chấp nhận điều này trong tâm ý thức của con – trừ khi con sẵn lòng nhìn nhận con không là con người đã phạm phải lỗi lầm kia, hay đã có niềm tin kia mà con phát hiện hôm qua và đã buông bỏ.

Con yêu dấu, nếu con nhìn đời thày trong tư cách Giê-su, thày đã vượt qua mấy cuộc khai ngộ khi thày phải chấp nhận một bản sắc cao hơn. Con có thể đọc được điều này giữa các hàng chữ trong kinh thánh chính thức. mặc dù một số chi tiết trong đó đã bị cắt bỏ, và một số khác thì không được ghi lại vì các tác giả phúc âm không có sự hiểu biết đầy đủ về bản thể của thày, về con đường dẫn tới quả vị Ki-tô cũng như các khai ngộ mà thày đã đi qua. Dẫu vậy, sự thật là thày đã trải qua mấy cuộc điểm đạo qua đó thày đã phải nhận lấy một ý niệm bản sắc cao hơn hầu đưa sứ vụ của mình lên tầm mức kế tiếp.

Nếu thày không sẵn lòng làm vậy thì sứ vụ của thày đã bị trì trệ ở một mức nhất định. Và thày cũng đã không đi muốt tới điểm rốt cuộc bị treo trên thập tự giá và bỏ lại hồn ma của những hạn chế cuối cùng – và nhờ vậy được phục sinh. Cho nên con thấy đó, con yêu dấu, đây là khai ngộ mà tất cả chúng ta phải đối mặt khi bước chân trên con đường đạt đến điểm thăng thiên.

5.2. Sự thăng thiên không tự động

Thăng thiên là gì, con yêu dấu? Thế nào là quá trình thăng thiên? À, đó là con phải chấp nhận mình không còn là một con người hữu diệt nữa, mà giờ đây con là một sinh thể tâm linh bất diệt. Nếu con không chấp nhận được điều này thì con không thể thăng thiên.

Có thể con đã quen suy nghĩ – dựa trên lời dạy mà các thày đã trao truyền trong các đợt truyền pháp trước – rằng thăng thiên là việc đáp ứng một số đòi hỏi nhất định, và một khi con hội đủ các yêu cầu này thì đùng một cái, một ngày kia con được thăng thiên. Không phải vậy đâu, con ạ. Có những yêu cầu phải đáp ứng, chắc chắn điều này cũng đúng. Nhưng thăng thiên không phải là một quá trình tự động, máy móc, mà là một tiến trình sáng tạo. Có nghĩa là nó bao hàm một số chọn lựa mà con phải lấy.

Và đâu là những chọn lựa mà con phải lấy? Ý của thày là gì khi thày nói “Hãy chọn sự sống thay vì sự chết?” À, chọn sự sống có nghĩa là con chọn chấp nhận một bản sắc mới. một ý niệm cái ta mới, và cái ta này thì NHIỀU HƠN cái ta mà con đã có trước đó, thậm chí chỉ một giây trước đó.

Cho nên con thấy đó, con yêu dấu, tự ngã muốn tha hóa toàn bộ khái niệm đường tu tâm linh để con nghĩ rằng con phải bước chân trên một con đường thật dài về hướng một mục tiêu chót cùng. Tự ngã đạt được hai lợi điểm khi nó làm vậy. Bằng cách khiến con chấp nhận là con đang bước trên một con đường dài, nó cũng khiến con chấp nhận là mục tiêu chót cùng nằm ở xa tuốt trong tương lai – giống  như rất nhiều đệ tử trước đây của chân sư thăng thiên quả thực đã tin là họ sẽ thăng thiên, họ sẽ trở thành Ki-tô, nhưng chỉ trong một tương lai xa tít. Chắc chắn không phải bây giờ, và nhất định không phải là ngay bây giờ và ngay ở đây. Con thấy đó, đây chính là tự ngã đang cố khiến cho cái ta ý thức tin rằng nó không có khả năng chỉ giản dị xoay chuyển ý niệm bản sắc của mình trong một khoảnh khắc và là Ki-tô trong một khoảnh khắc.

Và lợi điểm thứ nhì mà các thày giả cùng tự ngã có được nhờ cách suy nghĩ này là ý tưởng về một giai đoạn tối hậu, về một khai ngộ tối thượng nào đó mà con sẽ đi qua. Và khi đó con sẽ đạt được một trạng thái trường cửu bất biến nào đó.

5.3. Ở cõi thăng thiên vẫn có tăng triển

Con yêu dấu, khi sứ giả này lần đầu tiên nghe nói về khái niệm chân sư thăng thiên, ông đã tỏ ra rất nghi ngờ, vì khái niệm này lúc đầu được trình bày với ông như thể chân sư thằng thiên là những sinh thể toàn hảo, và trên cõi tâm linh không có tăng trưởng gì nữa. Trong bản thể thâm sâu của ông, ông bác bỏ khái niệm này, ông biết rõ là đơn giản nó không đúng. Vì vậy chỉ khi ông dần dần hiểu ra là ngay cả các chân sư thăng thiên cũng tăng triển và thăng vượt ý niệm cái ta của mình, thì ông mới có thể chấp nhận đây có thể là một con đường chính đáng do các chân sư đưa ra sẽ dẫn đến thăng thiên.

Như vậy con có thể thấy là thày đây đã thăng thiên ở một trình độ chứng ngộ Ki-tô nào đó. Giờ đây thày đã đạt được chứng ngộ Phật, cao hơn chứng ngộ Ki-tô, vì từ khi thăng thiên thày đã không đứng yên một chỗ. Thày đã tiếp tục nhân thêm ta-lăng cùng vốn liếng của mình và tiến tới, con yêu dấu.

Nhưng thày đã làm vậy như thế nào? Bằng cách cho phép ý niệm cái ta của mình tái sinh rất nhiều lần. Vì thày nói với con, để đi từ mức chứng ngộ Ki-tô lên mức chứng ngộ Phật, một sinh thể phải tái sinh ít nhất một vạn lần. Cho nên con có thể nghiệm xem cũng tương tự như thế, để đi từ mức tâm thức của đại đa số con người trên hành tinh này đến trạng thái thăng thiên, con sẽ phải tái sinh rất rất nhiều lần. Thật ra Saint Germain có nói là để hội đủ tư cách thăng thiên, thày đã phải lấy một triệu quyết định đúng đắn. Thế nào là một quyết định đúng đắn? Đó là một quyết định thuận theo SỰ SỐNG, qua đó con chấp nhận con đang được tái sinh vào một ý niệm cái ta cao hơn.

Vì vậy con yêu dấu, liệu con có thể bằng một bước nhảy độc nhất vượt qua khoảng cách giữa trạng thái tâm thức nơi nhân loại đang đứng và tâm thức Ki-tô hay không? Không, không thể nào. Trong quá khứ đã không thể và trong tương lai cũng sẽ không thể. Nhưng dẫu vậy, cái ta ý thức của con bất cứ lúc nào cũng có khả năng xoay chuyển ý niệm bản sắc của mình lên một ý niệm bản sắc cao hơn, một ý niệm cái ta cao hơn, và quả thực đây chính là tiến trình con đi qua.

Con yêu dấu, cách đây 2000 năm [thánh] Paul có nói: “Tôi chết mỗi ngày,” có nghĩa là mỗi ngày ông đã để cho một phần của cái ta hữu diệt của ông chết đi và được tái sinh vào một ý niệm cái ta cao hơn. Nhưng thày nói với con này, mặc dù việc chết đi mỗi ngày như thế rất tốt, sẽ tốt hơn gấp bội nếu con chết đi nhiều lần mỗi ngày để gia tốc bước tiến của mình.

5.4. Từ bỏ giấc mộng về một khai ngộ tối hậu

Con yêu dấu, con hãy từ bỏ ý tưởng là có một cuộc khai ngộ tối hậu nào đó, một mục tiêu tối thượng nào đó trong tương lai xa tít. Thay vào đó, con hãy chấp nhận thực tế rằng Dòng sông sự Sống là một tiến trình, một dòng chảy luôn luôn chuyển động của sự tự thăng vượt liên tục, không ngưng nghỉ, bất tuyệt. Như Phật đã giải thích, chính nỗ lực bám vào một ý niệm cái ta nhất định mới đem con vào tâm thức chết, tâm thức nhị nguyên.

Trong trạng thái thăng thiên, con không có một ý niệm bản sắc trường tồn bất biến, mà con thăng lên không ngừng. Thật ra, con yêu đấu, sẽ xây dựng biết bao nếu thay vì xem các thày là chân sư đã thăng thiên, con xem các thày là chân sư đang thăng lên. Bởi vì các thày không ngừng thăng lên, các thày không ngừng tái sinh vào một ý niệm cái ta cao hơn. Thật vậy, đây chính là nguyên lý mà thày tượng trưng cho trái đất sau khi nhận trách vụ đại diện cho tia sáng thứ 12 của tái sinh. Đây là điều thày đã đến 2000 năm về trước để đem lại cho địa cầu, và bây giờ trong sự trọn vẹn của cái thày LÀ, thày đã nhận lãnh trách vụ đại diện cho sự tái sinh này. Quả thật đây là cơ hội tuyệt hảo cho người tìm kiếm tâm linh trưởng thành có thể gia tốc bản thể của mình vượt quá một trình độ nhất định, qua đó họ trút bỏ lớp da rắn của bản sắc cũ và được tái sinh vào một ý niệm cái ta mới.

Nhưng con yêu dấu, để có thể tái sinh hoàn toàn, con phải chấp nhận là giờ đây con chính là cái ta mới này. Cái ta mới này không phải là một khái niệm lý thuyết ở xa tuốt ngoài kia mà một ngày nào đó con có thể khoác vào. Không, nó ở ngay đây. Nó ở đây ngay bây giờ. Nó chính là con. Đây chính là cái tôi là.

Có thể hôm qua con đã làm lỗi, nhưng nếu con thấy lỗi lầm đó, con thấy cái tâm thức đằng sau lỗi lầm và con để nó ra đi, thì con được tái sinh vào một cái ta mới. Và cái ta mà con là hôm nay không phải là cùng cái ta đã lầm lỗi hôm qua hay mười ngàn kiếp trước. Do đó con không cần phải bám giữ những cảm xúc mà con từng có trong cái ta cũ. Kỳ thực, con không cần bám giữ ngay cả ký ức về chuyện đó.

5.5. Cảm giác tội lỗi không có chức năng xây dựng

Và đây là điểm nhiều các con bị vấp ngã. Bởi vì tất nhiên, con có thể nhớ được ngày hôm qua con là ai và ngày hôm qua con làm gì. Thậm chí một số các con còn nhớ được mình đã làm gì hàng mấy kiếp trước. Nhưng con thấy không, con yêu dấu, con không còn là con người đó nữa một khi con đã từ bỏ tâm thức đã khiến con hành xử như vậy trong quá khứ. Và vì vậy con phải đi qua một giai đoạn – như sứ giả này đã di qua, là khi khi tự ngã của ông và các thày giả phóng chiếu ký ức về một lỗi lầm vào tâm ông, thì ông nói một cách ý thức: “Nhưng tôi không còn là cái ta đã làm chuyện đó. Tôi đã không làm chuyện đó. Cái ta mà tôi là ngay bây giờ đã không phạm lỗi đó, vì vậy tôi không cần phải cảm thấy tội lỗi về việc đó.”

Thật không khác gì khi con nghĩ lại thời con mới tập đi. Liệu con phải cảm thấy tội lỗi vì mình đã loạng choạng té ngã khi mình là đứa bé mấy tháng mới tập đi? Tại sao con phải cảm thấy tội lỗi kia chứ? Vậy thì tại sao con lại cảm thấy tội lỗi về những lỗi lầm con đã mắc phải như một người lớn hay trong tiền kiếp?

Thật không có mục đích xây dựng nào trong cảm giác tội lỗi. Đó là một rung động thấp, một rung động của phãn tình thương. Đó là một phóng chiếu của sa nhân và của chính tự ngã của con khi chúng tìm cách ngăn cản con chấp nhận con đã tái sinh vào một ý niệm bản sắc mới. Nó không mang chức năng nào có tính xây dựng.

Con chỉ BUÔNG-NÓ-RA, CON-YÊU-DẤU! Bởi vì con là nhiều hơn thế.

Không có thế lực nào trên thiên đàng muốn giữ con lại trong một ý niệm cái ta cũ kỹ. Do đó bất kỳ toan tính nào nhằm giữ con lại như vậy chỉ có thể đến từ dưới thấp, từ các thày giả, từ sa nhân, từ tự ngã của con, từ tâm thức đại chúng, từ người khác. Nhưng dù đến từ đâu thì nó cũng không thực. Và cái gì không thực thì không thể ảnh hưởng cái thực – cái ta ý thức của con.

Chắc chắn các thày đều hiểu, đây không nhất thiết là một sự xoay chuyển dễ dàng. Thày có thể nói với con điều này, thày có thể nói với con bằng lửa để lay con ra khỏi trạng thái tâm thức cũ, nhưng thày nhìn nhận là mặc dù con có thể được ngọn lửa của thày nâng lên, con vẫn có thể dễ dàng rơi xuống trở lại khuôn nếp cũ khi bước khỏi môi trường này. Và sau đó, điều gì xảy ra khi con rơi trở lại khuôn nếp cũ? Liệu con sẽ nghĩ lại và bảo: “Ồ, tôi vừa làm một chuyện mà Giê-su bảo tôi đừng làm. Tôi phải cảm thấy tội lỗi là mình đã không làm theo chỉ dẫn của Giê-su.” Thấy không? Con vừa quay trở về khuôn nếp cũ rồi đó.

5.6. Tự ngã cần một ý niệm bản sắc cố định

Con thấy đó, con yêu dấu, thực tế ở đây là như sau: Tự ngã của con không thể xuôi chảy với Dòng sông sự Sống vì nó không thể sống – nó không thể tồn tại, không thể duy trì một ý niệm cái ta, một cảm nhận liên tục – mà không có một bản sắc cố định. Tự ngã không thể hiện hữu khi con cứ không ngừng thăng vượt chính con. Và đây là điểm thày yêu cầu con lưu tâm. Chắc chắn khi con bước ra ngoài, con sẽ chạm trán với một động lượng cũ. Con hãy giản dị buông nó ra và chấp nhận là con được tái sinh.

Bất cứ gì quay trở lại với con, con hãy buông nó ra. Hãy chấp nhận là con được tái sinh. Bất cứ khi nào có sự phóng chiếu từ một trạng thái tâm thức thấp hơn, con hãy nhìn nó nếu con cần phát hiện một lời dối trá, nhưng con đừng đắm chìm vào trong đó. Đừng chui vào trong đó mà phân tích quá đáng. Con chỉ nhìn và thấy – bởi vì trong nhiều trường hợp, con yêu dấu, con đã nhìn thấu sự dối trá rồi.

Con phải hiểu là mặc dù cái ta ý thức của con có thể đã nhin thấu lời dối trá, nhưng con vẫn phải chạm trán với cái trớn hay ngay cả sự phóng chiếu từ tâm thức đại chúng. Cho nên có thể con sẽ tự nhủ: “Nhưng tôi tưởng là tôi đã buông bỏ chuyện này rồi, thế mà bây giờ tôi lại trải nghiệm nó nữa. Chuyện gì xảy ra vậy?”

À, thực tế là chừng nào con còn đầu thai, chừng nào con còn bước chân trong những bầu cõi dày đặc này, thì con sẽ phải đương đầu với cái trớn và sự phóng chiếu từ tâm thức đại chúng. Nhưng một khi con đã nhìn thấu lời dối, con cần nhận ra một cách ý thức là sự phóng chiếu này đang nhắm vào con, xong con chỉ đơn giản buông nó ra và chấp nhận là mình đã tái sinh, rằng cái đó không phải là mình vì mình là hơn vậy. Con thấy không, nếu mỗi lần tự ngã phóng chiếu điều gì vào con và con dùng chính điều này để tái sinh và đón nhận một ý niệm bản sắc cao hơn, thì cuối cùng tự ngã sẽ bị phân tán – nó sẽ bực bội, nản chí và tan vỡ trước sự tự thăng vượt bất tận này – đến độ nó không thể tiếp tục bám víu vào “thực tại” được nữa, nó không thể duy trì một ý niệm bản sắc liên tục được nữa.

Và như vậy thật đơn giản, con gia tốc vượt khỏi tầm tay của nó. Có thể sẽ vẫn còn chút tàn dư của ngã tách biệt, bởi vì chừng nào con còn hiện thân thì một số tàn dư sẽ vẫn còn. Nhưng cái ta ý thức của con không còn đồng hóa với nó nữa, vì cái ta ý thức không còn mang một ý niệm bản sắc trường tồn bất biến dựa trên những thứ của thế gian.

Con ngộ ra con là một sinh thể tâm linh. Và con ngộ ra là một sinh thể tâm linh không mang bản sắc cố định nào, mà trái lại không ngừng xuôi theo Dòng sông sự Sống, không ngừng thăng vượt ý niệm cái ta của mình. Và vì thế, con không cần đến cái ý niệm bản sắc cố định kia, dù trường tồn hay bán trường tồn, dựa trên những thứ của thế gian. Con thấy mình là HƠN NỮA và con không ngừng xuôi chảy với cái HƠN NỮA – con không bám vào cái ta đó nữa. Bất cứ khi nào con nhận thấy một sự hạn chế trong ý niệm cái ta hiện thời của mình thì con chỉ việc buông ra và được tái sinh. Con chấp nhận mình được tái sinh như là HƠN NỮA. Và như vậy, giản dị là tự ngã sẽ không thể theo kịp con nữa, ông hoàng của thế gian sẽ không thể bắt kịp được con, con yêu dấu.

5.7. Ông hoàng của thế gian là một sinh thể hữu hạn

Con có thấy chăng ông hoàng của thế gian không phải là một sinh thể vô hạn? Y là một sinh thể hữu hạn, có nghĩa là mặc dù có người cho rằng ác quỷ có quyền năng to lớn, nhưng y chỉ có sức mạnh giới hạn, vì y chỉ có một ý niệm cái ta hữu hạn và do đó một nhận thức hữu hạn.

Con có thấy chăng, con yêu dấu, điều ác quỷ mong muốn là y có thể đến với con, khiến con nhận lấy một ý niệm bản sắc cố định sẽ giam con lại ở một mức nào đó, để y có thể chạy ra nơi khác vận dụng người khác hầu khiến họ cũng chấp nhận một bản sắc cố định? Và y muốn là khi y đi hết một vòng và quay trở về con thì con vẫn đứng nguyên ở bản sắc cố định cũ.

Nhưng con thấy không, nếu con đã thăng vượt bản sắc này rồi thì khi y quay trở lại, y sẽ bị cú sốc: “Ủa, anh chàng này không còn đây nữa, anh ta đi đâu rồi?” Thế là y phải cố đuổi bắt con trong bản sắc mới của con để cố biến bản sắc này thành một bản sắc cố định. Và điều này khiến y bị chia trí, không tập trung vào mọi người khác mà y phải đánh bẫy. Và bỗng nhiên, khi có đủ số người thăng vượt cái ta cũ của mình thì ác quỷ sẽ bị phân tán quá mỏng, ông hoàng của thế gian sẽ trở nên quá bối rối đến độ y không còn giữ cảm giác chủ động được nữa. Và như vậy một cách nào đó, ngay cả ông hoàng của thế gian cũng phải thăng vượt bản sắc cũ của mình hầu theo kịp mọi người khi ai nấy đều cứ gia tốc, con yêu dấu. Và con thấy không, thế là tất cả đều được kéo lên cao hơn.

“Nếu ta được thăng lên thì ta sẽ kéo mọi người lên với ta.” Câu này cũng có nghĩa là kéo tâm thức đại chúng đi lên – vì tâm thức đại chúng chỉ là một trong nhiều cách diễn tả cái thường được gọi là ác quỷ. Bởi vì như Gautama đã giải thích năm ngoái trong bài giảng đầu năm của thày, khi con đi vào đền thờ của chúa tể bóng tối, con tìm ra là ở đó không hề có chúa tể bóng tối, mà chỉ có một cái vỏ rỗng, một cái vỏ không chút hiện thực tối hậu nào cả.

Nhưng con có thấy sự tự thăng vượt liên tục là bí quyết để con gia tốc, kéo mình ra khỏi trọng lực của tâm thức đại chúng hay không? Mục đích là cho dù chúng có phóng gì vào con thì con cũng có thể dùng chính cái đó để thăng vượt ý niệm bản sắc của con, để tái sinh. Con chấp nhận là mình được tái sinh, và như vậy con là một sinh thể mới trong Ki-tô. Và tự ngã của con, các thày giả, hay tâm thức đại chúng, hay người khác, sẽ phải mất thì giờ đuổi bắt con. Và khi cuối cùng chúng bắt kịp – một điều có thể xảy ra trong khi con còn hiện thân trong một cơ thể vật lý – thì con chỉ lập tức cho phép mình tái sinh thêm lần nữa. Và chúng sẽ lại phải chơi tiếp trò chơi đuổi bắt.

Cho nên con đạt tới mức khiến chúng luôn luôn phải chạy theo con, con yêu dấu. Bởi vì giờ đây con đã lật bàn của bọn đổi tiền, khiến chúng trở thành những kẻ phải đuổi theo con. Con không còn cho phép mình ở lại trong ý niệm bản sắc cố định kia nơi chúng nghĩ là chúng kiểm soát được con.

Và như vậy con thấy đó, chuyện này trở thành một trò mèo đuổi chuột, mà thậm chí trong một thời gian con còn có thể cảm thấy vui thú khi con nhận ra là mình không còn chơi trò nhị nguyên tìm cách tiêu diệt đối cực ngược lại nữa, mà con chơi một loại phiên bản cao hơn, là dùng mưu chước để qua mặt, bỏ xa, thăng vượt các thế lực của thế gian, ông hoàng của thế gian.

Và con có thể làm vậy rất dễ dàng một khi con neo trụ thật sự vào tiến trình tái sinh. Tất nhiên, rốt cuộc con sẽ được tái sinh tới một mức con không còn cảm thấy vui thú là mình cao trí hơn ông hoàng của thế gian, bởi vì rõ ràng y đã trở nên vô nghĩa đối với ý niệm cái ta của con. Và giờ đây con tập trung vào nhiều chuyện khác, con chú tâm vào việc nâng cao mọi người, đánh thức mọi người để họ thoát khỏi tâm thức chết. Bằng cách chứng tỏ cho họ thấy tái sinh là một việc khả dĩ, con dạy họ là chính họ cũng có thể được tái sinh khi họ thách thức ý niệm cái ta hiện thời của họ.

5.8. Các khai ngộ của tia thứ 12

Vậy con thấy, con yêu dấu, đó là các khai ngộ của tia thứ 12, là con không nghĩ tằng việc tái sinh là một chuyện chỉ xảy ra đúng một lần rồi sau đó con sẽ ở trong một bản sắc cố định mãi mãi. Trái lại, con ngộ ra tái sinh là một tiến trình không ngưng nghỉ, con yêu dấu.

Như các thày đã nói, thế giới được tạo ra bởi một hình tư tưởng phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Và các thày đã so sánh hình tư tưởng này với một bộ phim được trình chiếu lên màn hình qua rất nhiều hình ảnh đơn lẻ được chiếu lên màn hình mỗi giây, khiến giác quan vật lý của con không thể theo dõi mỗi chuyển động đơn lẻ. À, con có thể đạt tới điểm khi ý niệm cái ta của con được tái sinh đến mức con nhận ra là toàn bộ hành tinh trái đất – trong tình trạng mất cân bằng, thiếu thốn và nghèo khó hiện thời của nó – chỉ đơn giản là một hình tư tưởng. Và nếu hình tư tưởng này thay đổi, trái đất sẽ lập tức trình chiếu ra một thực tại cao hơn.

Tuy nhiên con yêu dấu, điều này không có nghĩa là trái đất sẽ tức khắc xoay chuyển và biểu hiện vương quốc Thượng đế, bởi vì nếu chuyện này xảy ra, quá nhiều người sẽ thấy ý niệm bản sắc của mình tan vỡ. Họ không thể thích nghi với sự biến đổi và sẽ trải qua một cuộc khủng hoảng bản sắc trầm trọng. Và đây là tại sao trái đất phải xoay chuyển từ từ và được nâng lên lần hồi.

Con yêu dấu, con thấy chăng là các thày, các chân sư thăng thiên, quả thực có đủ uy lực – các Elohim có đủ uy lực vì đã tạo dựng trái đất – để lập tức gửi nhiều ánh sáng vào trái đất đến độ ánh sáng này sẽ phá tan bóng tối, phá tan các hình ảnh và năng lượng bất toàn, và trái đất sẽ tức thì thoát xác trở về độ tinh khiết của thiết kế nguyên thủy. Nhưng nếu các thày làm vậy thì hầu hết những ai trên hành tinh này đã bước xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, sẽ không thể thích ứng và do đó bị loại khỏi địa cầu. Họ sẽ chết theo nghĩa đen, họ sẽ chết vật lý, vì ý niệm cái ta của họ không thể thích nghi với sự biến đổi, và như vậy họ sẽ phải dời đến một hành tinh khác. Nhưng bởi vì trái đất đã được tạo ra như một phương tiện để loài người tăng trưởng, các thày không thấy ích lợi gì nâng cao tự thân trái đất, mà trái lại cần nâng cao tâm thức của các cư dân trên trái đất. Và đó là tại sao sự thay đổi phải xảy ra lần hồi.

Cho nên con thấy đó, các thày phải tìm được một thế cân bằng rất tinh vi, qua đó các thày có thể truyền rải một lượng ánh sáng nào đó nhưng không truyền rải quá nhiều đến độ làm tan vỡ ý niệm cái ta của quá nhiều người trên địa cầu. Và đây chính là lý do các thày cần đến các con, những người đang hiện thân, để con hòa điệu với tía thứ 12 và vượt qua khai ngộ của tia này, để con cho phép mình được tái sinh liên tục, được tái sinh mỗi ngày, mỗi giây mỗi phút. Mỗi khi con nhận được sự phóng chiếu từ một cái ta thấp hơn, từ một rung động thấp hơn, con hãy đơn giản nhận ra nó đúng là như vậy, và con cho phép mình tái sinh như một sinh thể không còn bị tác động bởi trạng thái tâm thức thấp đó.

5.9. Những gì một người đã làm, mọi người đều làm được

Khi con chứng tỏ điều này cho người khác, ngay cả chứng tỏ là con có thể cho phép mình, cho phép ý niệm cái ta của mình được tái sinh – như khi con không còn là người mắc phải một chứng bệnh thể xác nào đó, hay một bệnh trạng tình cảm hoặc lý trí, dù là phân rẽ thế này hay thế kia trong nhân cách – thì con có thể chứng tỏ, con yêu dấu, rằng những gì con làm được thì chính họ cũng có khả năng làm được.

Bởi vì phương châm của các chân sư thăng thiên từ lâu đã là: “Việc gì một người làm được thì mọi người đều có khả năng làm được.” Và câu này phải được chứng minh, nhưng trong thời đại hôm nay, thật không đủ chỉ có một người chứng minh như trường hợp của thày 2000 năm về trước. Chúng ta cần có đông người chứng minh, để ai ai cũng thấy là những gì nhiều người đã làm được thì chính mình cũng làm được. Và đây là điều cần xảy ra trên ngưỡng cửa của giai đoạn chuyển tiếp vào tâm thức Thời đại Bảo bình – thời đại của tự do, con yêu dấu, và cũng thật sự là thời đại của tự do sáng tạo.

Đây là tự do tái sáng tạo, không chỉ tái sáng tạo ý niệm cái ta – nói chung là điều con làm khi con tái sinh, con tái sáng tạo ý niệm cái ta – mà còn là tự do tái tạo môi trường của con, thậm chí tái tạo môi trường vật lý của hành tinh này, mà cho tới giờ đối với quá nhiều người dường như vẫn do những thế lực vượt khỏi tầm kiểm soát của họ tạo ra. Và do đó, họ không có uy lực – nhân loại không có uy lực như một tập thể – để cùng nhau tái tạo lại, con yêu dấu.

Cho nên con sẽ thấy là cả tôn giáo truyền thống (khi tôn giáo củng cố hình ảnh là con tách biệt khỏi Thượng đế, con cần đến một vị cứu tinh từ ngoài hay một tôn giáo vỏ ngoài để được cứu rỗi) lẫn nền khoa học duy vật truyền thống (khi khoa học quả quyết con chỉ là một con thú thông minh), cả hai phong trào này đều củng cố cho hình ảnh rằng loài người không có sức mạnh tập thể để thay đổi môi trường vật lý của mình, ngoài những gì mình có thể làm với cơ thể của mình.

5.10. Ý niệm cái ta của nhân loại phải được tái sinh

Con có thấy chăng, con yêu dấu, ý niệm cái ta của nhân loại có thể được tái sinh. Quả thực điều này đã xảy ra rất nhiều lần suốt chiều dài lịch sử, như con xem xã hội thời Trung cổ ở châu Âu khi người ta tin là trái đất phẳng. Phải mất một thời gian để thay đổi cái nhìn này. Không phải là một buổi sáng đẹp trời mọi người thức dậy thốt lên: “Ừ nhỉ, bây giờ tôi thấy trái đất tròn.” Không, chuyện này đã mất thời gian. Sự thật là một số người đã phải chết đi rồi tái đầu thai trong một môi trường mới trước khi họ có thể chấp nhận trái đất tròn.

Nhưng dẫu vậy, điều xảy ra là ý niệm cái ta tập thể dựa trên một trái đất phẳng, đã phải chết đi để cái ta của nhân loại được tái sinh trên căn bản một nhận thức mới về trái đất tròn. Cho nên con sẽ thấy nhiều cuộc xoay chuyển như thế, con yêu dấu. Thời Phục hưng là một giai đoạn với nhiều xoay chuyển như vậy. Cuộc cách mạng công nghiệp và cách mạng khoa học đã đem lại nhiều xoay chuyển tương tự. Và ngày nay khoa học, ở một mức độ nào đó, vẫn tiếp tục giữ vai trò đem lại xoay chuyển mặc dù khoa học cũng lại rơi vào vị thế mà Giáo hội Công giáo đã nắm giữ vào thời Trung cổ, là kềm hãm con người trong một tư duy chủ nghĩa duy vật.

Tuy nhiên con sẽ thấy trong những thập kỷ sắp tới, chính khoa học sẽ được đẩy mạnh để vượt ra khỏi chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa này không thể duy trì mãi mãi sự thống trị trên khoa học, y như tư duy cũ chỉ có thể duy trì trong một thời gian sự thống trị trên tôn giáo và người tâm linh. Như con thấy, biết bao người tâm linh ngày nay đã vượt xa lối suy nghĩ đã từng giam giữ người dân châu Âu vào thời Trung cổ trong vòng kiềm tỏa của Giáo hội Công giáo.

5.11. Ý định nguyên thủy của phong trào Ki-tô

Ngay cả Giáo hội Công giáo cũng đã được tái sinh vào một ý niệm cái ta cao hơn, tuy vẫn còn rất xa tầm mức khả dĩ đại diện chính đáng cho Ki-tô trên trái đất. Nhưng thực tế là sẽ không bao giờ có một tổ chức nào có thể đại diện được cho Ki-tô. Bởi vì Ki-tô là gì? Là tiến trình tái sinh không ngừng! Một cơ quan hay một tổ chức nhất thiết phải có một sự liên tục nào đó, nếu không thì đã không là một tổ chức. Vì vậy con thấy chính ý tưởng cho rằng Ki-tô và các lời dạy cũa Ki-tô có thể được thể chế hóa, đơn giản chỉ là một sáng chế nhị nguyên mà thôi. Kỳ thực ý tưởng này xuất phát từ tâm phản Ki-tô, bởi vì Ki-tô không ngừng chuyển động.

Chẳng phải là thày đã nói là thày sẽ cho con một Đấng an ủi khác, rằng thày sẽ cầu nguyện để Cha gửi xuống cho con một Đấng an ủi khác là Thánh linh hay sao? À, Thánh linh thổi nơi nào nó muốn. Và cách đây 2000 năm thày đã đến để khởi xướng một phong trào sẽ được tái sinh liên tục, sẽ tự đổi mới liên tục, con yêu dấu.

Tuy nhiên như luôn luôn, những ai đã đồng hóa với tự ngã của mình sẽ không thể xử lý trạng thái dường như hỗn loạn của sự tái sinh liên tục này, và họ cũng không thể xử lý những điều dường như mâu thuẫn mà một số giáo lý gnostic đưa ra. Trong số đó có những giáo lý không đồng điệu với Đại đoàn Thăng thiên mà lại đồng điệu với các linh thể thấp hơn, giống như con thấy nơi những nhà đồng cốt tân thời. Dẫu vậy, đạo Ki-tô vẫn có tiềm năng trở thành một phong trào sinh động, năng nổ, không ngừng thăng vượt chính mình bằng cách giữ cho Thánh linh tuôn chảy – mà thời nay chúng ta sẽ gọi là tiến trình tiết lộ tuần tự.

Và thật vậy, có tiềm năng và có nhu cầu thật sự là đạo Ki-tô có thể được tái sinh thành một tôn giáo đầy sinh khí, tương tự như đạo Phật có thể được tái sinh, bởi vì Phật cũng đã đến để khởi xướng hay duy trì một sự biểu đạt không ngừng mới mẻ trong lời dạy cùng như trong nhận biết, con yêu dấu. Con có thấy chăng sự mỉa mai khi các Phật tử tân thời vẫn còn học những bản văn đã được đưa vào cõi vật lý cách đây 2500 năm, hay hơn 2000 năm về trước? Con chẳng thấy điều này trớ trêu hay sao, con yêu dấu? Con chẳng thấy sự trớ trêu khi các tín đồ Hồi giáo cứ ngoái nhìn về kinh Qur’an, được đưa ra từ nhiều thế kỷ trước, trong khi lại chối bỏ truyền thống Sufi – tức đạo Hồi thần bí – vốn đem lại một cái hiểu không ngừng đổi mới về các bí ẩn thâm sâu. Con nhìn thấy sự thể này trong mỗi tôn giáo, con nhìn thấy nó trong khoa học, con nhìn thấy nó khắp mọi nơi – sự từ chối không muốn tái sinh, sự bám víu vào bản sắc cũ.

5.12. Con có sẵn lòng tái sinh?

Nhưng con yêu dấu, con là người tâm linh, con thấy nó quá rõ khắp thế giới – vậy bây giờ con hãy quay lại, con hãy soi gương, con hãy nhìn vào chính mình, nhìn xem đôi khi con có bám víu vào ý niệm bản sắc cũ đó hay không? “Dễ gì mà tôi có thể tái sinh, để hôm nay tôi hết là con người tồi tệ mà tôi đã là hôm qua? Làm sao chuyện này xảy ra dễ dàng được như vậy?” Thế là con rơi vào lối suy luận vi tế của ông hoàng thế gian và của tự ngã, qua đó tự ngã sẽ bảo, như các thày đã giải thích qua các bài giảng trước trong loạt bài này: “Ồ, bạn không thể chỉ giản dị bước xa khỏi tôi, bạn không thể nào bỏ tôi một mình, bạn không thể nào từ bỏ tất cả.” Nhưng con thấy đó, con yêu dấu, con có thể.   

Con có thể. Mỗi khi tự ngã đến gặp con với một ý niệm cái ta thấp kém nào đó, con có thể nhìn nó và bảo: “Ta bỏ mi đây. Ta buông mi rồi đây. Và ta chấp nhận TA LÀ, ta được tái sinh!” Và nếu con cứ làm như vậy một cách liên tục, nếu con xây dựng một thói quen và một động lượng hàng phục và chấp nhận sự tái sinh của con, thì con sẽ, như thày vừa nói, bước nhanh hơn tự ngã và ông hoàng thế gian. Bởi vì chúng không thể theo kịp sự tái sinh không ngừng. Chúng không thể bắt kịp, con yêu dấu. Cho nên con sẽ được gia tốc vượt khỏi chúng. Con sẽ, theo nghĩa đen, gia tốc ý niệm cái ta của mình vượt khỏi tầm tay của tự ngã, và con sẽ ngừng nuôi ánh sáng của con cho nó. Thế thì nó sẽ chết và bị tiêu hủy. Giông như khi con đọc bài thỉnh, con cũng không ngừng thỉnh cầu ánh sáng để tiêu hủy tự ngã cùng với năng lượng đang nuôi dưỡng nó.

Cho nên bằng cách loại trừ tự ngã cá nhân của con ra khỏi phương trình của trái đất, con cũng sẽ nâng cao tâm thức đại chúng. Và bằng cách chứng tỏ cho người khác thấy là họ có thể làm giống như vậy, con sẽ góp phần vào một nhận thức mới – một sự thức tỉnh mới, con yêu dấu – rằng con người có khả năng vươn lên trên quá khứ và chấp nhận không những chính mình được tái sinh, mà nhân loại được tái sinh, xã hội được tái sinh. Hành tinh trái đất được tái sinh. Và thực sự chúng ta có thể tái sinh khỏi ý niệm bàn sắc cũ đã gây ra, đã biểu hiện ra, đã trình chiếu ra, sự mất cân bằng và nghèo đói hiện thời, tất cả mọi bệnh tật của cơ thể vật lý cùng tất cả mọi giới hạn khác, chẳng hạn như chiến tranh, xung đột và tranh chấp.

5.13. Ngừng nuôi dưỡng vấn đề

Con yêu dấu, như Phật đã giải thích, con không thể gỡ bỏ tâm thức nhị nguyên bằng chính tâm thức nhị nguyên. Con không thể giải quyết một vấn đề bằng cách nghĩ rằng con có thể phân tích nó và khắc phục nó. Con chỉ khắc phục được nó bằng cách tái sinh, hầu vấn đề không còn chạm tới con được nữa. Bởi vì vấn đề đã được tạo ra từ một trạng thái tâm thức nào đó, cho nên khi con được tái sinh ra khỏi trạng thái tâm thức này thì con cũng dứng cao hơn vấn đề. Và như vậy, vấn đề không được con cung cấp thêm thức ăn nữa.

Và khi càng ngày càng có nhiều người từ chối cung cấp ánh sáng của mình cho trạng thái tâm thức này, rốt cuộc nó sẽ biến thành một vỏ rỗng. Tới một điểm một sinh thể Ki-tô sẽ xuất hiện – vì giờ đây đã có đủ túc số, có đủ số người tới hạn đã từ bỏ trạng thái tâm thức này – và một sinh thể Ki-tô sẽ xuất hiện, sẽ thách tức nó công khai. Nó sẽ sụp đổ và không còn quyền lực gì trên tâm con người, vì bây giờ mọi người đã thức tỉnh và ngộ ra: “Ồ, chuyện này sao quá hiển nhiên.”

Thực tế ở đây là gì? Hiển nhiên cách nhìn cũ là một dối trá. Ngày nay sự kiện trái đất tròn thật là hiển nhiên vì đã có một sinh thể ở một mức chứng đạt Ki-tô nào đó cả gan trang bị ba con tàu vượt đại dương rồi trở về tuyên bố: “Tôi đã khám phá ra vùng đất mới, tôi đã chứng minh là trái đất tròn.” Và cũng vậy, con thấy nhiều người như thế suốt lịch sử đã xuất hiện dưới một hình thức cải trang nào đó, thường với một số nhược điểm con người khiến cho việc nhận ra họ là sinh thể Ki-tô khá khó khăn. Tuy vậy, họ đã đạt được một mức chứng ngộ Ki-tô nào đó, và như vậy họ trở thành những công cụ để thách thức một ảo tưởng đặc thù trong tâm thức đại chúng.

Do việc đánh động công khai và thẳng thắn như vậy mà nhiều người khác đã tỉnh ngộ để nhìn ra ảo tưởng, con yêu dấu, chẳng hạn như con thấy William Wilberforce ở Anh đã thách thức ảo tưởng về chế độ nô lệ, và ông đã tiếp tục làm vậy trong nhiều năm trời cho đến khi có sự đột phá. Ngày nay người dân nước Anh nhìn lại và nói: “Ủa làm sao chuyện bãi bỏ nô lệ lại có thể là một vấn đề to lớn đến vậy khi hiển nhiên chuyện đó không phải?” Nhưng con thấy không, chuyện đó không có vẻ gì sai trái cho tới khi có một người với chứng ngộ Ki-tô đập vỡ ảo tưởng, lật bàn của bọn đổi tiền, để nhiều người hơn có thể nhìn thấy vấn đề với tâm vỏ ngoài, rồi đột nhiên họ chấp nhận xoay chuyển – một cuộc xoay chuyển địa chấn trong tâm thức nơi mọi thứ đều mới và tầm nhìn cũng mới.

5.14. Giúp người khác thấy những gì họ không thể thấy

Bởi vì tầm nhìn đã đổi khác và giờ đây người ta thấy được những gì không thể nhìn thấy trước đó. Và điều này thì quá hiển nhiên, mặc dù trước đó người ta không có khả năng nhìn ra. Cũng vậy, đây là con người mà con có thể trở thành khi con kinh qua trải nghiệm này trong chính bản thể con.

Và thật vậy con yêu dấu, nhiều người trong các con đã bước vào hiện thân này, đã chuốc lấy một số bệnh tật trong thể xác mình, để chứng tỏ là con có thể vượt lên trên. Con chẳng thấy hay sao là đã có một thời điểm không xa lắm, bệnh ung thư được xem là một bản án tử hình mà gần như không có ai sống sót? Nhưng bây giờ đã có một nhận thức mới và nhiều người chấp nhận việc qua khỏi bệnh ung thư là một điều khả dĩ. Và con chẳng thấy hay sao là cuối cùng đã có một sự xoay chuyển tâm thức, và xoay chuyển này sẽ tới mức người ta xem ung thư chỉ là một chứng bệnh có thể chữa lành y như mọi bệnh khác. Con có biết, con yêu dấu, là trước khi thuốc penicillin được phát hiện, bệnh viêm phổi được xem là bệnh hiểm nghèo mà rất ít người sống sót? Nhưng một lần nữa, một sự xoay chuyển đã xảy ra trong tâm thức tập thể dẫn đến việc tìm ra phương cách chữa trị, và ngày nay người ta xem đó là một chứng bệnh thông thường mà hầu hết mọi người đều khỏi.

Đây là điều xảy ra với bất kỳ điều kiện gây giới hạn nào, kể cả các điều kiện giới hạn tâm con. Kể cả những lời dối của tôn giáo truyền thống bảo rằng con là một kẻ có tội và con cần đến một vị cứu tinh bên ngoài đến cứu con, bởi vì con không thể chạm được vương quốc Thượng đề ở trong con – cho dù Ki-tô đã nói rõ như vậy rất nhiều thế kỷ trước đây.

Có quá nhiều ảo tưởng như vậy cần được thách thức, con yêu dấu. Và con nên nhìn lại chình bản thân mình và bắt đầu tự hỏi một cách nghiêm túc liệu con đã tình nguyện, như một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình, bước vào hiện thân để làm sao thách thức một trong những ảo tưởng đó đang kềm hãm con người.

Sau đó con cần nghiêm túc đạt tới điểm có thể chấp nhận là giờ đây mình đã tái sinh, chấp nhận là giờ đây mình đã có mức quả vị Ki-tô cần thiết để thách thức một ảo tưởng đặc thù. Và do đó, con sẽ không cứ đứng đó mà phân vân bất tận liệu mình sẽ lên tiếng về vấn đề này hay không. Bởi vì con sẽ được thôi thúc bởi ngọn lửa nội tâm đến độ lời nói và hành động sẽ tự nhiên tuôn ra từ bên trong. Con không phân tích: “Tôi có nên làm chuyện này không, tôi có quyền làm chuyện này không, tôi có đủ chứng đạt để làm chuyện này không?” Không, con chỉ làm mà thôi.

Con chỉ đơn giản đặt thân mình ra đó, và con tuôn chảy với ngọn lửa từ bên trong bản thể mình, ngọn lửa luôn luôn ở đó nhưng không sao chảy được cho đến khi con chấp nhận là con đã tái sinh vào ý niệm bản sắc cao hơn đó, rằng con có quyền bước vào các đền thờ của thế gian và lật bàn của bọn đổi tiền, nói thẳng tận mặt là họ không có quyền chiếm giữ vị trí đó trong đền. “Đền” ở đây là biểu tượng cho tâm con người cũng như tâm tập thể của tâm thức đại chúng.  

Họ không có quyền ngồi đó kềm giữ mọi người ở lại trình độ cũ, và vì vậy con lật đổ bàn ghế của họ, con thách thức họ và nói: “Hỡi Satan, hãy lui ra sau ta, vì đối với ta ngươi là một sự xúc phạm. Ngươi không thích những thứ của Thượng đế mà thích những thứ của người phàm. Nhưng ta thì vui sướng trong những gì thuộc về Thương đế, cho nên ta tuyên bố là ngươi không thực. Người không có quyền ở trên hành tinh này, bởi vì ta có quyền khẳng định và đòi lại hành tinh này như là vương quốc Thượng đế.”

5.15. Hãy làm những công việc thày đã làm

Trong cốt yếu đó là mục đích sứ mệnh của thày – là chứng minh sự dối trá, thách thức sự dối trá, chứng tỏ là con có khả năng vượt lên trên dối trá. Và khi thày nói là những ai tin thày, những ai bước theo con đường mà thày đã theo, thì họ cũng sẽ làm những việc mà thày đã làm, thậm chí những việc còn lớn hơn nữa, thì đó chính là viễn quan cao nhất mà thày có trong tâm. Không phải là con sẽ thực hiện một số phép lạ không còn thích hợp trong thời đại khoa học tiến bộ hôm nay, mà điều thày cần con làm là thách thức bọn đổi tiền của thời hiện đại, những kẻ đang kềm hãm loài người, những thày tế trong đền thờ, những kẻ đang giam giữ con người trong sự dối trá, giữ họ xa rời khỏi Thượng đế, giữ họ bên ngoài vương quốc Thượng đế ở ngay trong họ.

Và con, ngày nay, có thể làm công việc này ở một mức độ vượt hẳn những gì thày đã có thể làm 2000 năm về trước. Bởi vì nhân loại đã tiến bộ về nhận thức lẫn hiểu biết, cho nên một giáo lý tinh vi gấp bội có thể được trao truyền hôm nay. Con có khả năng phơi bày nhiều dối trá hơn, là sự đánh lừa trong tâm lý khi chính tự ngã trở thành con đường xâm nhập cho ông hoàng của thế gian cùng các thế lực bên ngoài bước vào kiểm soát con người qua kẻ thù bên trong. Con có nhiều dụng cụ hơn hẳn, nhiều cơ hội hơn hẳn để phơi trần gian dối này.

Tất cả các con đều có tiềm năng thực hiện điều này. Nhưng con cần chấp nhận là con đã tái sinh vào một trình độ Ki-tô mới, con có khả năng thách thức một lời dối đặc thù, bước ra ngoài đời và chứng tỏ – trước hết cho một nhóm nhỏ nhưng có thể sau đó cho những nhòm lớn hơn – rằng lời dối đó không thực. Đó là một sự lừa dối, và con chứng tỏ là con đã tái sinh, đã gia tốc vượt khỏi tâm thức của lừa dối. Đó chỉ là tâm thức khởi lên từ cái không thực, cho nên nó không có sự sống trong nó. Ngay từ đầu nó đã dựa trên một sự dối trá.

Vì vậy đây là viễn quan mà thày giữ cho con. Thày xem con đã tái sinh rồi. Liệu con sẽ xem mình đã tái sinh chưa? Liệu con sẽ chấp nhận như vậy và sau đó biểu hiện sự tái sinh của mình trong hành động? Đó là câu hỏi mà thày sẽ để yên cho con suy ngẫm, con yêu dấu.

Bởi vì thày, Giê-su, chấp nhận con như con là ngay bây giờ. Nhưng thày cũng chấp nhận con như cái HƠN NỮA mà thày có thể thấy được, cái HƠN NỮA mà con đã vốn là ở Trên. Nếu con có thể chấp nhận nó ở dưới này, thì con có thể là dưới này tất cả những gì con là ở Trên.

Suy ngẫm đi con, con yêu dấu, con hãy suy ngẫm điều này. Cho tới khi con cho phép mình tái sinh, con chấp nhận bản sắc mới này mà giờ đây con là. Và con chấp nhận là không ích gì mà quay trở lại cái cũ hay tái tạo lại cái cũ. Bởi vì con là một sinh thể mới trong Ki-tô.

4 | Tia thứ 11 của thăng vượt

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 9 tháng 5, 2009, trong loạt bài về các tia sáng bí mật.

Thăng vượt là từ mấu chốt cho tia thứ 11. Thăng vượt điều gì? Thăng vượt ý niệm cái ta hiện thời của con. Bất kể ý niệm cái ta này là gì, con luôn luôn có thể thăng vượt và trở nên HƠN NỮA, như ngay cả Đấng Sáng tạo của con cũng trở nên HƠN NỮA qua việc tạo ra con.

Cho nên con thấy đó, một lần nữa thăng vượt là một khái niệm mà tâm đường thẳng không thể làm sao phân loại và đặt vào một hộp tư duy, vì nó muốn đi đến cùng cực và bảo: “Phải đến một điểm không thể thăng vượt thêm được nữa. Phải đến một điểm kết thúc khi người ta đạt tới một trạng thái toàn hảo không thể nào vượt hơn được nữa.”

Thật vậy sao, con yêu dấu? Tâm đường thẳng không thể thấu suốt là sự tự thăng vượt không bao giờ có kết thúc. Và đây chính là tại sao tâm đường thẳng phải được bỏ lại đằng sau bởi người đệ tử đã đạt tới mức muốn HƠN NỮA, muốn nhiều “cái ta” hơn là những gì mình đã trải nghiệm cho tới giờ.

Trên cõi tâm linh không hề có tuyến tính đường thẳng mà có một thực tại quả cầu. Và một khi con bước ra khỏi tâm đường thẳng, một khi con thăng vượt nó, thì việc liên tục tự thăng vượt trở thành một hiện thực sống. Con không lo lắng chuyện gì có thể xảy đến trong tương lai mà con xuôi chảy với Dòng sống sự Sống, con hiện hữu trong Hiện tại vĩnh cửu – tức là liên tục tự thăng vượt. Con không phóng chiếu vào tương lai điều gì phải xảy ra hay không được xảy ra. Con không phân tích quá khứ để xem chuyện gì đã phải xảy ra hay đã không nên xảy ra. Con chỉ đơn giản trôi theo Dòng sông sự Sống, và đây là điều tự ngã không thể làm được vì nó muốn sở hữu và nắm giữ.

Cho nên câu hỏi trở thành: “Con có vẫn muốn trải nghiệm việc sở hữu một vật gì, sở hữu một trải nghiệm, một ý niệm cái ta đặc thù hay không?” Khi làm vậy, con cũng sẽ bị sở hữu bởi tạo vật của ngã tách biệt đó, và sẽ đến lượt ngã tách biệt muốn sở hữu con – nó muốn con, trong tư cách một sinh thể tâm linh vô biên và vô hạn, tự giới hạn cái ta của con, giới hạn ý niệm bản ngã của con, ý niệm bản sắc của con trong cái tin tưởng giới hạn đặc thù mà từ đó tự ngã đã sinh ra.

4.1. Rơi xuống nhị nguyên

Con yêu dấu, cuộc sa ngã xuống nhị nguyên đã khởi sự như thế nào? Như Maitreya có giải thích, sa ngã đã khởi sự khi một bầu cõi đạt tới điểm thăng thiên, qua đó nó có thể thăng thiên và trở thành một phần của cõi tâm linh. Nó đã đạt được cường độ ánh sáng tới hạn cho phép toàn bộ bầu cõi gia tốc vào các rung động cao hơn của cõi tâm linh, rung động của tình thương, rung động của sự vô điều kiện. Tuy nhiên, để việc gia tốc này hiện thực thì cần đến điều kiện gì? Con thấy không, con yêu dấu, có một số lớn sinh thể đã cần mẫn tập trung nỗ lực để nâng cao bầu cõi của mình cho đến mức này. Họ đã cố gắng vượt bực. Họ đã tận tụy làm việc một cách bất vụ lợi để nâng cao tất cả mọi sinh thể trong bầu cõi cho đến mức này.

Nhưng ngay cả khi làm vậy, một số vẫn còn giữ lại tàn tích của ngã tách biệt. Họ nghĩ khi mình đã nỗ lực khó nhọc như thế để nâng cao bầu cõi của mình, họ sẽ nhận được điều mà họ xem là phần thưởng tối hậu của Thượng đế cho công lao của họ. Cho nên, thật là một cú sốc to lớn khi tất cả các sinh thể đã đi tiên phong trong công cuộc nâng cao bầu cõi được triệu tập, thì họ được chỉ ra là bước lô-gíc kế tiếp của họ không phải là được vào cõi tâm linh như một loại siêu anh hùng, mà thay vào đó, là họ phải hy sinh đời sống, thành đạt và tự nhận biết của mình. Họ phải hiến tặng nguyên động lượng, thành đạt và tự nhận biết này để đặt nền tảng tạo lập bầu cõi sắp tới, và bầu cõi này thì sẽ khởi sự như một bầu cõi vô minh, được cư ngụ bởi những sinh thể với một khả năng tự nhận biết hạn chế. Nghĩa là các sinh thể thật tinh xảo của bầu cõi đang thăng thiên sẽ phải – nếu có thể nói như vậy – cho phép bản thể mình tụt hậu. Và giờ đây họ trở thành những kẻ cho cư dân của bầu cõi mới toàn quyền sử dụng ánh sáng của họ.

Đây là một bước lô-gíc vì chính bầu cõi đang thăng thiên đã được sinh tạo từ bản thể của những sinh thể trong một bầu cõi cao hơn, và do đó những ai đang đứng đầu bầu cõi đang thăng thiên chỉ giản dị được yêu cầu làm cho người khác những gì người khác đã làm cho họ. Rất nhiều người đang sẵn sàng thăng thiên – để rũ bỏ tàn dư cuối cùng của ngã tách biệt – đã hoan hỉ đón nhận cơ hội này. Và đây là tại sao bầu cõi kế tiếp đã được sinh tạo, dẫn đến bầu cõi của con. Con sẽ không có mặt ở đây nếu không có ai tình nguyện từ bỏ mạng sống của mình để cho con cơ hội có một bầu cõi nơi con có thể tăng triển tự nhận biết. Cho nên chỉ thật hữu lý khi con đã tận dụng cơ hội này thì con được yêu cầu mở rộng cơ hội đó cho người khác, con yêu dấu.

Thế nhưng có một số ít trong số những người có cơ hội thăng thiên đã không muốn từ bỏ tàn dư cuối cùng của ngã tách biệt, cho nên họ đã chống đối kế hoạch của Thượng đế. Họ muốn tiếp tục nắm giữ điều họ xem là địa vị cao trọng trong bầu cõi của họ, một địa vị mà họ tin là mình xứng đáng, mình có quyền hưởng thêm một thời gian nữa. Vì vậy trong khi bầu cõi của họ thăng thiên thì họ đòi hỏi được miễn trừ, được đứng riêng ra. Và tất nhiên khi làm vậy thì họ tự động rơi xuống bầu cõi kế tiếp được sinh tạo, bởi vì họ không thể duy trì hiện hữu của mình trong bầu cõi thăng thiên mà chỉ có thể đi vào một bầu cõi chưa thăng thiên nơi còn có chỗ cho ngã tách biệt tiếp tục tồn tại.

Tuy nhiên các sinh thể này vẫn không bị tước mất thành tựu của mình. Cho nên thật vậy, họ đã bước vào bầu cõi tiếp theo với một mức thành tựu và nhận biết cao hơn hẳn những sinh thể mới khởi sự lần đầu trong bầu cõi. Lẽ tự nhiên, họ tự xưng mình là kẻ lãnh đạo, đúng như điều Giê-su đã gọi là kẻ mù lãnh đạo những người mù theo chân. Trong những người theo chân này có một số đã đi theo họ từ bầu cõi thăng thiên nơi họ đã giữ nhiều chức vụ chỉ đạo, và như vậy, những người không chịu buông bỏ khuôn nếp tuân hành cấp trên cũng đã phải sa ngã giống như họ.

4.2. Các khai ngộ của tia thứ 11

Cho nên khi con đến tia thứ 11, thử thách mà con đối mặt chính là thăng vượt, là buông bỏ những tàn dư cuối cùng của ngã tách biệt, để con đạt đến điều chúng ta có thể gọi là một cảm nhận thực tế tối hậu, hiện thực tối hậu, biết rõ ngã tách biệt là không thực. Và chỉ khi nào con biết ngã tách biệt của con là không thực, chỉ khi con nhìn thấy điều này từ trong quả cầu cái ta của con, thì con mới có thể nhìn ra là mọi thứ sinh ra từ nhị nguyên cũng không thực như thế.

Vậy đây là trạng thái thực tế, trạng thái hiện thực, khi con tự hỏi: “Tại sao tôi lại ở đây?” Cho tới giờ, đặc biệt trong các khai ngộ của bảy tia đầu, có thể con cũng đã tự hỏi câu này nhiều lần rồi, chẳng hạn như: “Tại sao tôi lại đến địa cầu? Tại sao tôi đã tình nguyện xuống đây? Tại sao tôi đã trở lại địa cầu?” Và câu trả lời đã luôn luôn là con ở đây để làm gì đó, để đem lại gì đó, để đạt được một kết quả nào đó. Nhưng con thấy không, khi con đến tia thứ 11, con cần thăng vượt chính khái niệm rằng con đang ở đây để thực hiện bất cứ kết quả cụ thể nào.

Đây sẽ là một chấn động cho tự ngã, một chấn động cho tàn tích của ngã tách biệt. Và đây chính là tại sao thày trao cho con lời dạy này theo cách sẽ gây sốc cho ngã tách biệt để khiến nó phản đối lời dạy, và nhờ vậy con có cơ hội nhìn ra những tàn tích đó của ngã tách biệt.

Con thử nghĩ xem, đã mấy lần rồi các thày đã nói là những gì đã đưa con đến một điểm nào đó sẽ không đưa con xa hơn. Vậy thì con không thể vươn cao hơn thử thách của tia thứ mười trừ khi con sẵn lòng xem xét câu hỏi “Tại sao tôi lại ở đây?” từ một tầm nhìn hoàn toàn mới. Con cần tự hỏi, không phải “Tại sao tôi ở đây,” mà “Cái tôi đang ở đây là gì?”

Liệu có phải đó là cái tôi đang thấy nó tách biệt với nguồn cội của nó, tách biệt với những sinh thể tự nhận biết khác? Liệu con có đang nghĩ mình ở đây để làm gì cho Thượng đế, hay cho các chân sư thăng thiên, hay ngay cả cho người khác – cứu độ họ, giải thoát họ, đánh thức họ hay bất cứ gì khác? Tại sao con cần xem xét điều này, con yêu dấu? Bởi vì chỉ có ngã tách biệt mới mang ý niệm là nó đang làm gì đó ảnh hưởng đến người khác.

Con có thấy điểm vi tế ở đây chăng? Biết bao người tâm linh có thiện ý tin rằng họ ở đây để đem lại sự thay đổi tích cực cho hành tinh này. Biết bao người mộ đạo tin rằng mục đích của họ là cải đạo người khác theo tôn giáo của họ. Nhưng ngay cả những ai đã thăng vượt nhu cầu cải đạo người khác theo một tôn giáo vỏ ngoài cũng có thể bị cuốn hút vào ý muốn đánh thức người khác vào con đường tâm linh, ý muốn thay đổi họ, ý muốn thay đổi xã hội, ý muốn thay đổi cả trái đất cùng với nhân loại.

Nhưng con thấy đó, con yêu dấu, tại sao thế giới cần thay đổi chứ? Tại sao người ta cần được cứu rỗi? Họ cần được cứu rỗi vì họ bị kẹt trong ý niệm bản ngã tách biệt. Thế giới cần thay đổi vì loài người đã đồng-sáng tạo vô số vấn nạn xuyên qua ý niệm bản ngã tách biệt, và như vậy họ củng cố cho ảo tưởng là ngã tách biệt có một thực thể nào đó, một sự trường tồn nào đó, một sự sống thực nào đó. Vậy con có thấy chăng là đến một điểm trên đường tu khi con bước vào các tia sáng bí mật, thì con cần ngộ ra, con cần đạt được một cảm nhận hiện thực tối hậu, rằng con không thể hoàn thành mục tiêu đích thực nhằm nâng cao bầu cõi của con chừng nào con còn duy trì một tàn dư – cho dù mờ nhạt, cho dù chỉ là cái bóng – của ngã tách biệt? Con sẽ không thể làm vậy chừng nào con nghĩ là con, như một ngã tách biệt, đang ở đây để tạo tác một thay đổi nào đó trên ngã tách biệt của người khác.

4.3. Thời Hoàng kim sẽ thật sự như thế nào?

Con có thấy cái bẫy không? Khi con vẫn còn tàn tích của ngã tách biệt, con nghĩ là ngã tách biệt của con có lý và biết hết mọi chuyện, và do đó nó cũng biết điều gì nên xảy ra trên hành tinh, kế hoạch của các chân sư thăng thiên là gì. Con nghĩ là con biết Thời Hoàng kim của Saint Germain sẽ ra sao, ý định của Thượng đế là gì, vương quốc của Thượng đế cho trái đất là gì. Và như vậy con cho là con cần xông ra ngoài kia, khiến cho người khác phải công nhận tính ưu việt của quan điểm này, để họ có thể xác nhận và đồng ý với nó, thậm chí còn nâng con lên một chức vụ lãnh đạo. Hoặc nữa, công nhận con là một bậc thày tâm linh với nhiều trí tuệ hơn bình thường.

Nhưng con thấy đó, vấn đề nằm ở ngã tách biệt cùng tất cả những tà thể đã được tạo ra xuyên qua các ngã tách biệt của loài người. Những ngã tách biệt này sẽ không bao giờ công nhận thực tế là chúng không thực. Vì vậy chúng sẽ không bao giờ công nhận một vị thày chân chính phát biểu từ thực tại lớn hơn. Đó là tại sao biết bao người đã không nhận ra Phật, đã không nhận ra Ki-tô, nhưng lại xem Phật và Ki-tô là mối đe dọa cho cảm giác thoải mái của mình. Vậy nếu con vẫn còn ước mơ đạt được một sự công nhận nào đó, một sự công nhận rộng rãi từ quần chúng về thế giới quan tâm linh hay về giáo lý của mình, thì giấc mơ này chỉ có thể là một tàn tích của ngã tách biệt mà thôi. Và như vậy, con đang hành xử một cách mất cân bằng, con đang bồi thêm cho cuộc tranh đấu và những năng lượng nuôi dưỡng tranh đấu.

Con hãy lưu ý một sự khác biệt vi tế. Con đang ở đây để giúp mục đích thật sự của Thượng đế, cụ thể là nâng cao bầu cõi này cho đến khi nó thăng thiên và trở thành một phần của cõi tâm linh, nhưng thử thách là thấy được con không thể hoàn thành mục tiêu này bằng cách hành xử như một ngã tách biệt đang cố thay đổi những ngã tách biệt của người khác. Con chỉ có thể nâng cao bầu cõi này bằng cách khiến cho một số lượng người tới hạn thức tỉnh để vượt khỏi ngã tách biệt. Và làm thế nào con có thể giúp người khác thức tỉnh? Chỉ bằng cách trước tiên con cũng thức tỉnh.

Bởi vì khi con bước vào cõi của các tia bí mật, không có chuyện lẩn trốn. Làm sao con có thể lẩn trốn trong sự trong suốt? Cho nên con nói thế nào thì con phải làm thế nấy. Con phải trở thành những gì con nói. Hay đúng hơn, lời nói của con phải trở thành sự thể hiện của Bản thể chân thực của con, chứ không phải một giáo lý vỏ ngoài con đã vay mượn và tìm cách ép uổng lên người khác.

Điều gì cuối cùng sẽ thay đổi được thế giới? Không phải là thật nhiều giáo lý được trao qua một ngã tách biệt cho những ngã tách biệt khác. Điều rốt cuộc sẽ thay đổi thế giới là sự đem lại ánh sáng, và điều này chỉ có thể xảy ra khi con người phàm của con trở thành một cánh cửa mở trong suốt, hầu ánh sáng chiếu xuyên qua trong dạng thuần khiết đến độ cái ta ý thức của người khác có thể thấy được. Họ thấy ánh sáng này vượt quá tất cả những gì họ có thể nhìn thấy xuyên qua ngã tách biệt của họ, và như vậy họ thức tỉnh với tiềm năng trở nên HƠN NỮA.

4.4. Cẩn thận ham muốn được người khác công nhận

Con hãy kiểm lại chính mình, kiểm lại các ý định, các động lực của mình. Con có mong muốn được người khác công nhận chăng? Con có sợ bị người khác chế giễu hay làm ngơ? Con có sợ hành tinh này sẽ phải gánh chịu một tai họa tột cùng trừ khi ai nấy công nhận thế giới quan của con, giáo lý của con?

Chỉ có ngã tách biệt mới có thể sợ hãi. Chỉ có ngã tách biệt mới mong muốn, đòi hỏi gì đó từ những ngã tách biệt khác. Cho nên nếu con thấy bất kỳ yếu tố nào của những rung động này trong bản thể con, thì con biết là chúng phải được thăng vượt hầu con có thể vượt qua khai ngộ của tia thứ 11.

Nhưng điều thực sự phải được thăng vượt là ý niệm cái ta. Tất nhiên, điều này một lần nữa là một bước khổng lồ cho những ai đã đi trên con đường tâm linh suốt nhiều năm hay nhiều kiếp, đã xây dựng một cái trớn và nghĩ rằng mình đã thu hoạch rất nhiều kiến thức và minh triết. Bây giờ bỗng nhiên, hình như tất cả là… con số không hay sao? Con có thể cảm thấy như vậy vì giờ đây con được yêu cầu từ bỏ tất cả. Nhưng con thấy đó, không phải là không được gì đâu. Bất cứ gì con đã học hỏi và đã trải nghiệm đều đã đưa con đến mức tâm thức hiện tại của con. Không có gì sai trái trong chuyện này vì đây chỉ là sự trải bày của con đường cá nhân của con khi con, vì nhiều lý do khác nhau, đã mong muốn một số trải nghiệm nhất định nào đó.

Con toàn quyền, con yêu dấu, tiếp tục có một số trải nghiệm như một đệ tử tâm linh ở một địa vị nào đó – có lẽ ngay cả một sự cao trội nào đó – bao lâu con muốn. Nhưng thày không ở đây để nói với con là những gì con đã làm là sai trái hay vô giá trị. Đây là con đường con đã chọn, và thày ủng hộ quyền tự quyết của con. Thày chỉ ở đây để nói rằng nếu con muốn vượt qua khai ngộ của tia thứ 11 thì con cần thăng vượt. Con cần sẵn lòng từ bỏ cuộc sống của mình để vươn lên cao hơn, vì con không thể vươn lên cao hơn trong ý niệm cái ta hiện thời của con cho dù nó là gì.

4.5. Sự hàng phục vô điều kiện

Cho nên ở tia thứ 11, con cần suy ngẫm thật nghiêm túc liệu có còn tàn dư nào của ngã tách biệt đang muốn con hoàn thành một điều gì trong thế giới này nữa không, trước khi con cảm thấy mình có thể bỏ thế giới này lại đằng sau. Đây là khai ngộ mà sứ giả này đã vượt qua mà ông đã mô tả, là ông tới điểm cảm thấy nếu mình qua đời ngay lúc này thì mình có thể bỏ trái đất lại đằng sau mà không hề luyến tiếc hay còn sót lại việc gì chưa xong.

Đối với tự ngã, đó là sự mất mát tột cùng. Nhưng đối với cái ta ý thức, đó là cơ hội tột cùng. Liệu sứ giả này có cảm thấy ông đã mất gì trong trải nghiệm hàng phục toàn diện và trọn vẹn đó không? Không, ông đã thu hoạch một cái gì đó lớn hơn gấp bội những gì ngã tách biệt của ông có thể hình dung. Cho nên con thấy là nhiều người trong các con đã đến một điểm trên đường tu nơi con sẵn sàng bước lên cao hơn trong việc phụng sự cuộc sống, nhưng con không thấy được việc phụng sự này là gì với cái ta hiện thời của con. Và để vượt quá ý niệm cái ta này, con phải buông bỏ nó mà không biết trong nhận biết vỏ ngoài những gì sẽ hiện ra thay thế.

Con thấy không, con yêu dấu, tia thứ 11 tượng trưng cho một khúc rẽ cốt yếu là con phải từ bỏ – sẵn lòng từ bỏ – mà không thấy rõ cái gì sẽ ở đó, cái ta nào sẽ ở đó sau khi con từ bỏ cái ta hiện tại. Nếu con biết cái gì sẽ ở đó thì con đã không cảm nhận mình từ bỏ gì, phải không con? Khi con đi mua một vé số với giá một đô-la thì con từ bỏ một đô-la. Nhưng nếu con biết chắc tuyệt đối là con sẽ trúng lô độc đắc thì con sẽ không có cảm giác là mình đã từ bỏ bất cứ gì.

Vì vậy, tia thứ 11 của sự thăng vượt tượng trưng cho trải nghiệm từ bỏ mà không biết chuyện gì sẽ tiếp nối theo, trải nghiệm từ bỏ như là sự biểu đạt tối hậu của tình thương, là tình thương vô điều kiện hoàn toàn không dính mắc. Ở điểm này của đường tu, con yêu dấu, con đã bắt đầu nhìn thấy con là nhiều hơn ngã tách biệt. Con đã nhìn thoáng được cái nhiều hơn đó là gì. Nếu con lấy một người mới khởi sự trên đường tu tâm linh và yêu cầu họ đi qua khai ngộ của tia thứ 11, họ sẽ bị sốc hoàn toàn – và đó là tại sao con đã không được yêu cầu khởi sự với khai ngộ này.

Nhưng khi con đến một điểm thích hợp trên con đường cá nhân của mình, con biết là qua việc từ bỏ tất cả, con sẽ không chỉ còn hai bàn tay trắng. Khi con từ bỏ mọi ý niệm cái ta, con sẽ không mất hết ý niệm cái ta, bởi vì có một phần của cái ta của con là thực. Và phần thực này sẽ trở về với con. Cái con từ bỏ là phần không thực che khuất cái thực.

Con có thấy chăng, chừng nào con còn dính mắc với tàn dư của ngã tách biệt và mong muốn hoàn thành điều gì đó xuyên qua ngã tách biệt, con sẽ không thể nhìn thấy thực tại cao hơn mà con là, cũng như tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con không thể thấy được. Bởi vì tàn dư của ngã tách biệt và giấc mơ thành tựu hình thành một hàng rào không trong suốt, nó không cho phép con thấy và nó cũng không cho phép ánh sáng chiếu xuyên qua con người vỏ ngoài của con. Do đó, con không thể thấy gì trước khi con từ bỏ.

Đó là nguyên tắc cốt yếu mà con phải dần dần nhận ra để vượt khai ngộ của tia thứ 11. Con phải sẵn lòng buông bỏ hồn ma trong khi mình con treo trên cây thập tự, không biết liệu mình sẽ được phục sinh hay không như cái ta thực mà con là. Nhưng con không thể thấy cái ta thực là gì, cho nên con phải sẵn lòng từ bỏ nó, ngay cả khi điều này có nghĩa là con sẽ biến mất khỏi trái đất và hoàn toàn không thành tựu được gì trên hành tinh này.

4.6. Hiểu nguyên tắc của sự hàng phục

Chắc chắn con có thể thấy là các chân sư thăng thiên không muốn con rời hành tinh này mà không thành tựu được gì. Nhưng các thày muốn con thành tựu tiềm năng cao nhất của con, và điều này đòi hỏi con từ bỏ tiềm năng thấp của mình. Có thể có một phần trong tâm con sẽ nói: “Nhưng tôi đã học hỏi giáo lý của chân sư thăng thiên hàng chục năm trời, tất cả không thể chỉ là ảo ảnh. Tôi phải biết khi điều gì là thực. Tôi đã có những khải tượng, tôi đã có những trải nghiệm cao, tôi đã nhận được chỉ dẫn từ nguồn này hay nguồn nọ, thậm chí trực tiếp từ bên trong, hay trực tiếp từ các chân sư. Phải có gì thực trong đó chứ.” Và đúng vậy.  

Nhưng khi con tập trung chú ý vào ý niệm cái ta và viễn quan con đang có ngay bây giờ, con đang tập trung chú ý vào mức này mà thôi. Nhưng trong Sứ vụ Thiêng liêng của con có nhiều thứ hơn là những gì con đang thấy. Và nếu con muốn thấy những thứ đó và biểu hiện ra ngoài, con phải từ bỏ tầm nhìn hiện thời của mình, ý niệm cái ta hiện thời của mình. Cái này cần được bỏ lại trước khi cái mới có thể xuất hiện.

Tự ngã sẽ không bao giờ, không bao giờ hiểu được nguyên tắc này. Tâm đường thẳng cũng khó lòng nào thấu triệt được nguyên tắc này. Nhưng con, cái ta ý thức, có khả năng đạt tới điểm biết được đây chính là bước hợp lý kế tiếp. Và nó có khả năng đạt tới điểm khi nó chỉ giản dị buông ra, buông ra tất cả. Buông tất cả mọi chờ đợi, mọi mong muốn.

Buông.

Sự buông bỏ tối hậu.

Làm thế nào con có thể hoàn tất Sứ vụ Thiêng liêng của con? Chỉ bằng cách trở nên hoàn toàn không dính mắc với chuyện hoàn thành bất cứ gì. Bởi vì chỉ trong sự không dính mắc toàn diện con mới có thể buông bỏ tàn dư của ngã tách biệt, cái ngã không thể nào từ bỏ mong muốn hoàn thành một điều gì. Vì vậy, nó phải được phơi bày để con nhìn thấy nó và buông nó, bởi vì giờ đây con thấy là nó không thực.

Đó, đây là khai ngộ ở tia thứ 11. Không phải là một khai ngộ dễ dàng cho bất cứ ai. Thế nhưng tất cả các thày đã thăng thiên đều đã kinh qua khai ngộ này. Các thày có thể nhìn lại – đặc biệt một số đồng môn của chính thày đây đã nhìn lại – và thấy là mình đã chần chứ như thế nào trước khai ngộ này, đã đắn đo và do dự có khi hàng mấy kiếp về sự cần thiết phải làm như vậy, đã suy luận và tranh luận với tâm đường thẳng về lý do tại sao chuyện này lại có thể cần thiết trong khi thế giới ở trong tình trạng ngặt nghèo với quá nhiều công việc phải làm như vậy.

Con có thấy khi con là một đệ tử của chân sư thăng thiên, con thật dễ rơi vào tâm trạng này không? Con cho rằng có quá nhiều việc phải làm để cứu nguy thế giới và đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain. “Tôi phải năng nổ. Tôi không thể ngồi không như thế này, suy tư về chuyện từ bỏ tất cả. Làm vậy sẽ hoàn tất được gì đây?” Nhưng con thấy đó, làm vậy sẽ hoàn tất được kết quả tối hậu là con là cánh cửa mở, con trong suốt, để ánh sáng Thượng đế có thể đi vào cõi vật chất và làm công việc của nó.

Điều con từ bỏ là gì? Con từ bỏ ý niệm là con, như một ngã tách biệt, đang hoàn thành hay đóng góp cho công việc của Thượng đế. Nhưng như thày đã nói, vấn đề là cảm nhận tách biệt. Làm sao ngã tách biệt có thể làm công việc của Thượng đế khi công việc thực sự của Thượng đế là đánh thức con người khỏi ảo tưởng tách biệt?

Do đó con chỉ có thể làm công việc của Thượng đế bằng cách thăng vượt ngã tách biệt – thấy mình là một với cái Tất Cả, và toàn bộ mục đích của mình khi đến trái đất là không cho ngã tách biệt chút cảm nhận thành tựu nào, ngay cả thành tựu tối hậu là cảm thấy mình đã làm công việc của Thượng đế. Không, mục đích thật sự của con đến đây là để nâng cao cái Tất Cả, tức là cái Ta thực của con. Bởi vì chỉ có một cái Ta với nhiều biểu hiện cá nhân khác nhau. Và cách duy nhất để nâng cái Ta này lên là nâng cái Tất Cả.

Vì vậy chừng nào còn có những thành phần của cái Ta bị kẹt trong nhị nguyên thì vẫn có những thành phần của cái ta của con bị kẹt trong nhị nguyên. Con mong muốn đánh thức họ, không phải bằng cách tạo thay đổi trong ngã tách biệt của họ, mà bằng cách là con người mà con là, là cái Ta Một trong hiện thân. Con biết nó, con chứng tỏ nó, con để cho nó tỏa rạng xuyên qua mọi lời nói và hành động của mình, để họ thấy là có gì nhiều hơn ngã tách biệt. Bởi vì con có hạnh phúc, con có niềm vui và tâm an bình đích thực đến từ sự trong suốt, và không gì trong thế gian có thể kéo con ra khỏi trạng thái này an lạc xuôi chảy với Dòng sông sự Sống.

4.7. Không có lối tắt

Con yêu dấu, con có thể nghĩ là các thày, các chân sư thăng thiên, phải có khả năng nghĩ ra một con đường tắt sẽ giúp con vượt qua khai ngộ này của tia thứ 11. Nhưng không có lối tắt, con ạ.

Đây là điểm trên đường tu con phải đối mặt với chính con quỷ của mình – những ma quỷ, những tà thể mà con đã tạo ra khi con trao lực sống cho một số hình ảnh không khởi lên từ hợp nhất mà từ tách biệt. Con phải đối mặt với chúng. Chính con đã tạo ra chúng.

Con phải đương đầu với những gì con đã tạo ra, và con phải tách rời cái ta thực của con ra khỏi tạo vật của chính mình lẫn của người khác. Có thể con sẽ nghĩ việc phải từ bỏ ngã tách biệt nghe sao có vẻ phi lý, vì đồng thời thày cũng nói đến việc tách rời khỏi tâm thức đại chúng. Nhưng cả hai là cùng một công việc. Con tách rời khỏi tâm thức đại chúng bằng cách từ bỏ ngã tách biệt. Đó là cách duy nhất để con tách rời, vì chính ngã tách biệt đang kéo con vào tâm thức đại chúng.

Vì vậy mà ở các tầng thấp hơn của đường tu, con đã xây dựng động lượng hướng thượng đó qua việc bám giữ một phần của ngã tách biệt, thậm chí còn biến nó thành một nhân cách tâm linh, khoác vào những đức tính mà môi trường tâm linh của con đòi hỏi. Nhưng cái phần đó phải ra đi, phần đó phải được bỏ lại đằng sau nếu con muốn tự do, tự do biểu hiện Bản thể cao hơn của con, tức là sinh thể mà con thực sự là. Cho nên không có đường tắt. Con phải vật lộn với điều này cho đến khi con không còn vật lộn với lũ ma quỷ trong tâm con, vì con nhìn xuyên thấu ảo tưởng đã tạo ra chúng. Và con chỉ đơn giản để ảo tưởng ra đi, để nó rụng xuống khỏi chính con.

Thày đang nói về chuyện gì ở đây? Con yêu dấu, có nhiều ma quỷ, nhiều tà thể đã được tạo ra, và con như một đệ tử của chân sư thăng thiên, có thể đã nghĩ là chúng có hình dạng xấu xa hay đen tối. Nhưng đã đến lúc con phải đối mặt với thực tế là cũng có loại ma quỷ và tà thể đội lốt tốt thiện, tâm linh, sùng đạo. Cái con đã tạo ra khi bước chân trên đường tu cho tới điểm này, là một tà thể. Ngã tách biệt là vậy đó, một tà thể mang những đặc tính tâm linh, tìm cách tỏ ra tốt đẹp đến độ Thượng đế phải nhận nó vào vương quốc của ngài.

Nhưng nó không thể được nhận vào. Chỉ có con, cái ta thực của con, mới có thể được nhận vào. Không người nào đã thăng lên được thiên đàng ngoại trừ người đã đi xuống từ thiên đàng. Cái đi xuống từ thiên đàng là cái ta ý thức, và chỉ cái ta ý thức mới có thể thăng lên trở lại. Nhưng nó không thăng lên trở lại y như cái đã đi xuống, mà như sinh thể lớn hơn mà nó đã trở thành qua những trải nghiệm mà nó đã có trong thế gian này. Sinh thể lớn hơn này mà nó đã trở thành, không phải là ngã tách biệt, mà là sinh thể đã thăng vượt sự tách biệt bằng cách nhìn xuyên thấu tách biệt, và nhờ vậy có được một tầm nhìn khác về hợp nhất. Tầm nhìn này, con không thể có được nếu con chưa bao giờ ở ngoài hợp nhất.

4.8. Buông bỏ mọi ý niệm cái ta

Và như vậy, con hãy suy ngẫm về sự cần thiết thăng vượt bất kỳ ý niệm cái ta nào mà con đang có ngay bây giờ, bởi vì sự thật muôn đời là con chỉ tăng trưởng bằng cách thăng vượt ý niệm cái ta.

Và con có khả năng đến được điểm đó, con yêu dấu, khi con nhận ra là một đằng có cái ta, và đằng khác có những đối tượng, những khách thể, những đặc tính mà cái ta khoác vào. Ngay bây giờ hầu hết các con chưa có một ý niệm rõ ràng về cái ta như một trạng thái nhận biết thuần khiết. Con tự đồng hóa với – tự đồng hóa như – các đặc tính, các khách thể.

Chúng ta có thể nói là cái ta của con là một bình chứa, và qua hành trình của mình trong cõi vật chất, con đã đổ đầy bình chứa này với một số khách thể, và con tự đồng hóa với và như các đối tượng. Nhưng con thực là cái ta. Và một khi con buông bỏ những tàn dư kia của ngã tách biệt thì con neo trụ vào cái ta này. Và con thấy cái ta là nhiều hơn các khách thể và đặc tính trong đó.

Cái ta là một dòng tâm thức hằng chảy, hằng thăng vượt, cho nên nó không bao giờ đồng hóa với bất kỳ đặc tính nào, không bao giờ tìm cách sở hữu hay nắm giữ, không bao giờ tìm cách đứng yên ở một mức nào đó. Nó tìm thấy niềm vui và toại nguyện bằng cách liên tục thăng vượt sự biểu đạt sáng tạo của nó, trở nên NHIỀU HƠN những gì nó đã là ngay một giây trước. Nó không tìm cách lặp lại một trải nghiệm, tìm cách bước vào cùng một dòng sông hai lần. Thay vào đó, nó luôn luôn tìm kiếm cái mới trong biểu đạt, cái mới trong dòng chảy sáng tạo nơi tách biệt không hiện hữu.

Cho nên không hề có mong muốn hoàn thành bất cứ gì hầu khắc phục một thiếu thốn. Không có cảm nhận thiếu thốn nào, mà chỉ có sự tràn đầy cùng với ý muốn biểu đạt sự tràn đầy này nhiều hơn. Và đây là lúc con trải nghiệm niềm vui, niềm vui siêu việt vô điều kiện không bao giờ có thể được trải nghiệm qua phin lọc của ngã tách biệt. Và như vậy khi con vượt khai ngộ của tia thứ 11, đây sẽ là niềm vui của con. Và niềm vui của con sẽ trọn vẹn.

3 | Tia thứ mười của trong suốt

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 9 tháng 5, 2009, trong loạt bài về các tia sáng bí mật.

Vậy thày lại đến giảng về tia sáng tiếp theo, tia thứ mười. Nhưng con hãy lưu ý là các thày đánh số vì một số lý do thực tiễn. Con đừng quá dính mắc với tâm đường thẳng – như thày đã cố giải thích cho con theo nhiều cách – để cho rằng các tia bí mật cũng mang tính đường thẳng như bảy tia đầu. Không đâu, con yêu dấu.

Không phải là con phải đi từ số 8 lên số 9 rồi số 10 và cứ tiếp tục như vậy. Khi con vượt qua khai ngộ của tia thứ tám, con bước vào cõi của các tia bí mật, và cõi này thì mang tính quả cầu chứ không đường thẳng. Cho nên theo một nghĩa, chúng ta có thể nói là con kinh qua các khai ngộ của tất cả tia bí mật cùng một lượt. Nhưng có thể đôi khi con cần tập trung vào một tia đặc thù nhiều hơn là tia khác, và điều này tùy con đường cá nhân của con. Con không nên cảm thấy là con phải ép mình đi theo một con đường tuyến tính xuyên qua các tia bí mật, mà con hãy hòa điệu vào trong tim và cảm nhận tia nào là tia con cần chú tâm ngay lúc này.

3.1. Tự ngã không thể thấu rõ tính trong suốt

Tia kế tiếp là tia thứ mười, là tia của sự trong suốt. Một lần nữa, đây là một khái niệm mà tâm đường thẳng cảm thấy khó khăn, và tất nhiên tự ngã thì cảm thấy hoàn toàn bất khả thi, không làm sao xử lý được. Bởi vì làm thế nào tự ngã có thể sống sót trong sự trong suốt hoàn toàn? Như đã được giải thích trong kinh Sáng thế, sau khi Adam và Eva ăn trái cấm của tâm thức nhị nguyên, cả hai đã tìm cách lẩn trốn khỏi Thượng đế. À con yêu dấu, làm sao có thể tin được là con thật sự có thể lẩn trốn?  

Hiển nhiên về mặt lô-gíc thì hoàn toàn vô lý là con có thể lẩn trốn khỏi Thượng đế, vì Thượng đế ở mọi nơi và trong mọi thứ. Cho nên để có thể tin vào khái niệm lẩn trốn, con phải bước vào trạng thái tách biệt, trạng thái nhị nguyên, nơi đó có một khoảng cách giữa con và Thượng đế. Bấy giờ con có thể dựng lên niềm tin là có gì đó không trong suốt, và như vậy con có thể lẩn trốn đằng sau cái đó.

Ví dụ, con hãy tưởng tượng có ai đó đang chơi trốn tìm với một nhóm trẻ con và tất cả bọn trẻ đều đi trốn. Một đứa trốn sau nhà, một đứa sau bụi cây, nhưng có một đứa cố trốn đằng sau một tấm kính trong. À, chắc chắn đứa này không trốn giỏi lắm, phải không? Và đây là điều con nhận ra khi có trong suốt: không gì có thể được che giấu. Mà tự ngã thì chỉ có thể tồn tại khi có ảo tưởng là có điều gì được che giấu – có một khoảng cách với cái Một của Thượng đế. Và tất nhiên, điều gì có thể được che giấu, điều gì có thể tách riêng khỏi cái Một?

Đây là sự kiện đã xảy ra như Maitreya đã giải thích, sau khi những sinh thể đồng-sáng tạo của Thượng đế tách mình ra khỏi vị thày tâm linh của họ – bởi  vì chừng nào họ còn liên hệ trực tiếp với vị thày tâm linh thì họ không thể quên được họ là HƠN NỮA, họ đến từ một nguồn cội lớn hơn. Ngay cả nếu họ chưa có một cái hiểu trọn vẹn về nguồn cội này và chưa trải nghiệm trực tiếp sự hợp nhất với nguồn cội của họ, ít ra họ cũng có chút hiểu biết về điều này. Do đó họ không thể hoàn toàn chìm đắm trong tâm thức nhị nguyên, tin chắc là không có Thượng đế, hay tin rằng ngài là một sinh thể ở xa tuốt trên trời chứ không ở đây trên trái đất, và chính họ là những kẻ có tội chỉ vì họ đang sống. Tất cả những tin tưởng này chỉ có thể hiện hữu khi có gì đó che mờ sự trong suốt vốn là thực tại tiềm ẩn của vạn vật. Có ai đó đã ném bùn vào tấm kính của tâm thức nhân loại cũng như vào tấm kính cá nhân trong tâm thức mỗi người.

3.2. Điều gì che mờ sự trong suốt?

Vậy thì điều gì che mờ sự trong suốt? Để hiểu được trọn vẹn vấn đề này ngoài những gì đã được các thày truyền giảng về Ánh sáng Mẫu-Vật và các hình ảnh phóng chiếu lên đó, con cần hiểu một khái niệm một lần nữa sẽ rất khó khăn cho tâm đường thẳng – và tự ngã thì, một lần nữa, sẽ nổi loạn chống lại. Sự thật là mọi thứ đều là tâm thức, mọi thứ đều là nhận biết. Con là một người đồng-sáng tạo cùng với Thượng đế. Con là một sinh thể tự nhận biết. Nhưng làm thế nào con đồng-sáng tạo? Con đồng-sáng tạo bằng cách sử dụng thực tế duy nhất có mặt, cụ thể là điều các thày đã gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật. Các thày cũng đã giải thích là Ánh sáng Mẫu-Vật có tâm thức, mặc dù rất ít các con đã thực sự suy ngẫm điều này. Có nghĩa chính xác là gì, con yêu đấu? Có nghĩa là bất cứ gì được tạo ra, bất cứ gì được hình dung, bất cứ gì được tưởng tượng, cũng được thực hiện với tâm thức cơ bản này của Ánh sáng Mẫu-Vật.

Tâm thức này của Ánh sáng Mẫu-Vật khoác vào một hình tướng đặc thù. Tuy nhiên vì hình tướng này có ý thức, cho nên con có khả năng tạo ra đủ cường độ để cuối cùng cái có ý thức đó trở nên đậm đặc đến mức nó phát triển một dạng tự nhận biết thô sơ. Và như vậy, cái được tạo ra là một thể sống, đặc thù, nhận biết ý thức.

Con đã quen lớn lên trong một xã hội xem mọi thứ trong thế giới vật chất là những đồ vật và hình dạng vô tri vô giác. Tất nhiên đây là một cái nhìn thiếu chính xác đến độ, như thày đã có giải thích trước đây, ngay cả nền vật lý lượng tử cũng được chứng minh là không đầy đủ. Tâm thức là thực tại cơ bản bên dưới, con yêu dấu. Cho nên khi con, như một người đồng-sáng tạo tự nhận biết, áp chồng một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật, con không chỉ phóng chiếu một hình ảnh lên một vật vô tri vô giác là màn hình chiếu phim, mà con đang phóng chiếu lên sự nhận biết cơ bản của ánh sáng Mẹ.

Và khi con thấm đẫm hình ảnh này với đủ lực sống xuyên qua chú ý của con, qua nhận biết của con, thì hình ảnh sẽ đạt đến cường độ đó, độ phúc tạp đó, để giờ đây nó bắt đầu có cuộc sống riêng của nó. Cũng phần nào giống như giấc mơ muôn đời khi người ta tin có thể tạo ra sự sống, chẳng hạn như trong phim Frankenstein, có ông bác sĩ kia lấy nhiều bộ phận cơ thể, khâu chúng lại với nhau, thấm đẫm chúng với một sinh lực cao hơn, và bỗng nhiên nó sống dậy.

Trong cốt lõi đây là điều mà tất cả các con đều làm khi các con đồng-sáng tạo, vì đây chính là quyền năng của tâm thức của con. Con có quyền năng, xuyên qua khả năng tự nhận biết của mình, áp chồng sự tự nhận biết này, lực sống này, lên Ánh sáng Mẫu-Vật, cho đến khi nó hấp thụ đủ lực sống để hình ảnh mà con áp chồng trở nên sống động. Gần giống như con thấy trong phim hoạt họa, mặc dù mỗi hình vẽ là một hình chết, nhưng khi biểu diễn theo trình tự thì dường như các nhân vật trở nên sống động.

3.3. Đồng-sáng tạo từ hợp nhất

Vậy bây giờ câu hỏi trở thành, con dùng quyền năng đồng-sáng tạo của mình như thế nào? Liệu con sẽ đồng-sáng tạo xuyên qua trạng thái bất nhị hay trạng thái nhị nguyên? Con thấy đó, khi con dùng quyền năng đồng-sáng tạo từ trạng thái quân bình – trạng thái hợp nhất, nhận biết sự hợp nhất của mọi sự sống – con có thể sáng tạo những dạng sống riêng biệt, khoác lấy một đời sống, nhưng không phải một đời sống tách biệt, mất kết nối. Những dạng sống này trở thành một phần của Dòng sông sự Sống, vốn được tạo ra từ lực đẩy cùng Bản thể của tất cả những vị đồng-sáng tạo tự nhận biết đã đi trước con trong nhiều bầu cõi khác nhau, như Maitreya có giải thích. Cho nên khi nào con là một với Dòng sông sự Sống đó, bất cứ gì con sáng tạo cũng đều trở thành một phần của Dòng sông sự Sống. Trong khuôn khổ bài thảo luận này về sự trong suốt, chúng ta có thể nói là bất cứ gì con sáng tạo từ trạng thái hợp nhất đều mang tính trong suốt, có nghĩa là ánh sáng thuần khiết của Thượng đế có thể chiếu xuyên qua.

Con nghĩ xem con nhìn cửa sổ một căn nhà như thế nào. Nếu cửa sổ không trong suốt thì nó có giá trị gì không? Hiển nhiên là không, vì con muốn ánh sáng chiếu xuyên qua. Và đây chính là điều xảy ra khi con sáng tạo từ hợp nhất. Con tạo ra một dạng sống có thể khoác lấy đời sống riêng biệt, nhưng nó không tách biệt, mất kết nối. Và con thấy dạng sống này mang ơn sự hiện hữu, mang ơn đời sống của nó từ dòng chảy hằng sống đến từ một nguồn cội cao hơn, và mặc dù nó đến xuyên qua tâm thức của con, nó đến từ một nguồn cội cao hơn. Vì vậy, con nhận ra con là một người đồng-sáng tạo: “Ta không thể tự mình làm nổi việc gì. Cha ở trong ta mới làm.”

Bởi vì con đang sử dụng ánh sáng, lực sống của Thượng đế tuôn chảy qua tâm con. Con không thể sản xuất ra ánh sáng này từ cái ta ý thức hay từ tâm phàm của con. Con chỉ có thể nhận nó từ một nguồn cao hơn, từ Hiện diện TA LÀ của con cũng như từ đại đoàn ánh sáng có nhiều thứ bậc lên tuốt Đấng Sáng tạo. “Lên tuốt” tất nhiên hàm ý một khoảng cách to lớn, và điều này tuy không là thực tế nhưng vẫn có một thực tế nào đó do sự khác biệt về độ rung và tần số.

Giờ đây, miễn là con sáng tạo từ hợp nhất thì những gì con sáng tạo sẽ trong suốt. Có nghĩa là không ai có thể nhìn vào kết quả đồng-sáng tạo của con mà lại nghĩ rằng nó có thể tự thân nó hiện hữu. Con biết rõ không gì có thể hiện hữu mà không có nguồn cội, rằng mọi thứ đều có đời sống và hiện hữu của mình nhờ nguồn cội vượt khỏi mình. Và như vậy, không ai có thể bị kẹt vào một thế giới hình tướng đặc thù vì người ta sẽ biết là luôn luôn có gì cao hơn – bởi vì rõ ràng có ánh sáng đang chiếu xuyên qua.

3.4. Đồng-sáng tạo từ nhị nguyên

Vậy thì chuyện gì xảy ra khi con bắt đầu đồng-sáng tạo từ trạng thái tách biệt, từ ảo tưởng nhị nguyên? À, chuyện xảy ra là cái con tạo ra cũng là một dạng sống khoác vào một đời sống riêng biệt, nhưng trong trường hợp này, một đời sống tách biệt. Có lẽ con đã nghe nói từ nhiều giáo lý tâm linh về các tà thể, quỷ dữ và đủ loại sinh thể bóng tối. Đấy, con yêu dấu, những sinh thể như vậy được tạo ra qua tâm thức nhị nguyên. Nhưng con đừng ngây thơ mà nghĩ rằng những gì được tạo ra qua tâm thức nhị nguyên chỉ có thể mang hình dạng đen tối hay đáng sợ. Thực tế là con người đã tạo ra nhiều sinh thể, nhiều tà thể có vẻ tốt lành, mà họ tin là tốt lành, hay cần thiết, hay hữu ích, hay thậm chì còn phục vụ mục đích của Thượng đế. Thế nhưng chúng đều dựa trên cảm nhận tách biệt, ảo tưởng tách biệt.

Con thấy đó, ảo tưởng tách biệt là gì chứ? Như các thày đã giảng, Thượng đế ở khắp mọi nơi và trong mọi thứ. Con không thể tách khỏi Thượng đế – chuyện này không thể xảy ra. Cũng giống như giọt nước trong đại dương tuyên bố là nó tách biệt khỏi đại dương. Tuy nhiên do quyền tự quyết, con có thể tạo ra một dáng vẻ, một ảo tưởng là con tách biệt. Làm sao con làm được vậy? Con làm được vậy vì con sống trong một vũ trụ, trong một bầu cõi mà như Maitreya giải thích chưa đạt đến cường độ ánh sáng tới hạn. Nếu vũ trụ của con đã đạt đến cường độ ánh sáng này thì ánh sáng đã mãnh liệt đến độ nó có thể chiếu xuyên qua mọi thứ. Và như vậy, mọi thứ sẽ trong suốt, không gì có thể cản được ánh sáng, và ảo tưởng tách biệt không thể tồn tại.

Nhưng vì cường độ ánh sáng trong vũ trụ vật chất vẫn còn thấp hơn mức tới hạn – ít ra nơi một số khu vực của vũ trụ này, chẳng hạn như thái dương hệ của con – thì người ta có thể dùng quyền năng đồng-sáng tạo của tâm mình để bước vào một rung động thấp hơn, một rung động nằm dưới tần số của tình thương, và sử dụng một trong những rung động thấp này, cho dù là sợ hãi, tức giận, hận thù, phán xét, chỉ trích hay bất cứ gì, để đồng-sáng tạo một cái gì đó. Và cái này như thể trở nên dày đặc đến độ ánh sáng không thể chiếu xuyên qua. Thực tế là nó trở nên dày đặc đến nỗi khi con nhìn qua tấm màn đó thì con không thể thấy ánh sáng.

Ánh sáng vẫn còn đó. Ánh sáng vẫn còn ở khắp mọi nơi trong vũ trụ vật chất. Nhưng khi con, cái ta ý thức, chui vào một môi trường được tạo thành từ các tần số thấp hơn một mức nào đó, thì cái ta ý thức không thể thấy ánh sáng. Bởi vì con đã dùng quyền tự quyết của mình để tạo ra một quả cầu – quả cầu này không có thực thể mà nó chỉ hiện hữu trong tâm con, cho nên nó hình thành một tấm màn mà con phải nhìn qua. Giống như con dán một tấm giấy màu lên cửa sổ, nó làm giảm cường độ ánh sáng có thể chiếu qua, và nó cũng nhuộm ánh sáng một màu sắc nhất định. Và nếu con cứ tiếp tục dán thêm giấy lên cửa sổ, đến một mức con sẽ hoàn toàn chặn hết ánh sáng.

Tuy nhiên con hãy lưu ý điều thày vừa nói. Con đồng-sáng tạo bằng cách điều hướng lực sống chảy xuyên qua con. Khi con phóng chiếu nó lên Ánh sáng Mẫu-Vật, con có quyền, theo Luật Tự quyết, áp chồng bất cứ hình ảnh nào, bất cứ tâm ảnh nào lên ánh sáng đó. Nếu con muốn liên kết với những gì thày đã nói trong bài giảng trước, con có thể nói là Ánh sáng Mẫu-Vật tượng trưng cho khía cạnh Mẹ của sáng tạo. Còn lực lan ra là khía cạnh Cha tuôn chảy xuyên qua tâm thức của con, hướng vào Ánh sáng Mẫu-Vật, nơi nó khiến cho Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lấy hình ảnh mà con giữ trong tâm con khi ánh sáng chảy xuyên qua.

3.5. Con có quyền năng tạo ra một sinh thể

Nhưng bởi vì tất cả mọi thứ đều là tâm thức, cho nên điều con sáng tạo không chỉ là một hình dạng vô tri vô giác, không chỉ là một hình dạng chết. Cuối cùng nó sẽ bắt đầu khoác vào một đời sống, và nó càng thấm đẫm lực sống xuyên qua chú ý của con thì nó sẽ càng hấp thụ nhiều sự sống hơn, và bản năng sinh tồn của nó càng bắt đầu phát triển. Đó là tại sao con có một tự ngã, tự ngã này có một bản năng sinh tồn, và trong tư cách đó nó sẽ tìm cách kiểm soát cái Ta Biết của con. Và cũng vậy, có thể có những tà thể đại chúng có đủ bản năng sinh tồn để tìm cách kiểm soát quần chúng, lôi kéo mọi người vào một chứng nghiện như hút thuốc chẳng hạn, sai khiến ánh sáng của họ để tà thể có dịp hút lấy và sử dụng ánh sáng hầu sống còn, thậm chí còn gia tăng cường độ.

Kề từ khi các sinh thể đầu tiên ở một bầu cõi trước rơi xuống nhị nguyên – do họ không chịu tự thăng vượt – họ đã dùng khả năng đồng-sáng tạo của họ để đồng-sáng tạo xuyên qua ảo tưởng, hay phin lọc, hay maya, của tâm thức nhị nguyên. Nhưng điều họ đã tạo ra là những tà thể, những sinh thể không có tự nhận biết như con – vì con là một phần nối dài của Đấng Sáng tạo – nhưng chúng có đủ nhận biết là chúng hiện hữu và chúng sẽ cần gì đó để tiếp tục hiện hữu. Chúng giống như một dạng động vật, tuy không có một khả năng tự nhận biết tinh xảo như con thấy nơi loài người, nhưng ít ra có một khả năng tự nhận biết thô sơ khiến chúng tìm cách kiểm soát bất cứ ai có thể bị tần số đặc thù của chúng kiểm soát. Tất cả các tà thể được tạo ra như vậy được Giê-su gộp chung lại trong từ “ông hoàng của thế gian.”

Và nếu chúng có thể nắm được gì trong con, chúng sẽ lôi kéo cái đó để ép buộc con đặt chú ý vào một số khuôn nếp, một số hình ảnh, hầu khiến con tha hóa ánh sáng và tiếp tục cung cấp lực sống cho chúng nắm giữ con. Nói chung, chúng sẽ vắt sữa con như thể con là một con bò sẵn sàng bị vắt sữa hai lần một ngày mỗi khi con bước vào một trạng thái tâm thức nhất định. Đây là sự thể con chứng kiến, không chỉ với các chứng nghiện vật lý, mà với quá nhiều người trở nên tức giận, hay sợ hãi, hay phán xét, hay chỉ trích – luôn luôn phê bình, phán đoán, phân tích mọi người và mọi chuyện, không những bằng tâm phân tích mà cả sự phán xét giá trị của tự ngã được áp đặt lên đó. Và điều này khiến cho ánh sáng bị tha hóa, và ánh sáng chuốc lấy một tần số thấp hơn dựa trên sự phán xét giá trị nhị nguyên xem mọi sự có tốt có xấu. Nhưng trong sự trong suốt thì khác, trong sự thuần khiết của trong suốt, mọi sự đều là sự biểu đạt của cái Một, cho nên không gì có thể tốt tương đối với xấu. Nó chỉ đơn giản LÀ.

3.6. Khai ngộ của tia thứ mười

Khi con đến tia thứ mười và khai ngộ của tia thứ mười, con cần nhận biết điều này. Đây là một chủ đề mà nhiều người, ngay cả nhiều người tâm linh, thà không muốn biết đến, không muốn nghĩ đến, không muốn nói đến. Bởi vì thật không yên lòng chút nào khi phải nhìn nhận là có lẽ mình đã dùng khả năng đồng-sáng tạo của mình để tạo ra một cái gì đã khoác lấy một đời sống riêng biệt mà giờ đây lại mưu toan kiểm soát mình cũng như kiểm soát người khác. Và rất có thể mỉnh cũng bị kiểm soát bởi một tà thể đại chúng mà loài người đã tạo ra suốt hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu năm trời, và tà thể đại chúng này đã trở nên dũng mãnh đến độ một cá nhân sẽ khó lòng nào cưỡng nổi lực kéo của nó.

Và đó chính là lý do tại sao khi con đi qua các khai ngộ của bảy tia sáng, con cần gây dựng một động lượng giúp con vượt ra khỏi lực kéo hướng hạ của tâm thức đại chúng. Nhưng đây cũng là tại sao con cần quay trở lại, như Mẹ Mary đã giải thích, để giải cứu bất kỳ khía cạnh nào của bản thể con còn kẹt lại trong trạng thái thấp này. Nhưng trong hầu hết trường hợp, con không thể giải cứu hoàn toàn cho đến khi con vượt quá bảy tia, bước vào tia thứ tám, bước vào tia thứ chín để đạt được sự quân bình đó, bởi vì quân bình chính là nền tảng. Khi con biết có sự quân bình vượt khỏi đấu tranh thì con có nền tảng để nhìn đấu tranh kỹ hơn, và đó là lúc con có thể ngộ ra là cuộc đấu tranh không giống những gì nó có vẻ từ một nhận thức phiếm diện.

Kỳ thực đó là một cuộc giao chiến giữa những uy quyền và thế lực mà giác quan lẫn tâm vỏ ngoài không thể nhìn thấy, một cuộc giao chiến giữa tất cả những tà thể đã được tạo ra như nói ở trên. Chính do chúng được tạo ra từ tâm thức nhị nguyên mà chúng phải “khóa sừng” với nhau trong cuộc giao chiến. Ánh sáng thuần khiết của Thượng đế vẫn trong suốt, vẫn rung động ở tần số của tình thương, vẫn vô hạn, nhưng khi ánh sáng chuốc lấy một rung động thấp hơn tình thương thì nó trở nên hữu hạn, nó bị giới hạn. Vì thế mà hiện nay, mặc dù sáu tỷ người trên hành tinh không ngừng tha hóa ánh sáng, nhưng vẫn chỉ có một lượng hữu hạn mà thôi. Có nghĩa là tất cả các tà thể kia cư ngụ trong trường lực, trong trường năng lượng của trái đất, bắt buộc phải chiến đấu giành giựt nhau. Giống như con thấy trên vùng thảo nguyên châu Phi, khi có một con vật bị chết thì lập tức bọn linh cẩu và kền kền sẽ táp tới tranh xé xác chết. Bởi vì chúng biết cái xác này chỉ tồn tại ngắn ngủi, và nếu chúng không nhanh chân thì những con khác sẽ giành mất. Và đây là nguyên nhân thực sự của đấu tranh.

3.9. Tại sao người ta tranh đấu

Có thể con nhìn người ta và tự hỏi: “Tại sao họ lại tranh đấu như thế nhỉ?” Và con có thể nhìn vào điều mà rất nhiều người thiện ý đã làm, đó là cố tìm ra một nguyên nhân tâm lý khi xem xét từng cá nhân, xem xét từng nhóm người, xem xét các tin tưởng của con người. Chẳng hạn con sẽ thấy hàng loạt người đi đến kết luận rằng nguyên nhân thật sự của mọi cuộc chiến là tôn giáo, là các tín ngưỡng tôn giáo. Và họ nghĩ, nếu như mình có thể loại bỏ tôn giáo và khiến cho mọi người chối bỏ niềm tin vào tôn giáo thì mình sẽ có hòa bình. Nhưng họ đã không nhận ra là không phải tôn giáo là nguyên nhân của chiến tranh, mà tôn giáo chỉ được sử dụng như một công cụ để kích động quần chúng khiến họ tha hóa ánh sáng của họ. Kỳ thực, nguyên nhân của tranh đấu và chiến tranh là sự kiện có những tà thể vượt khỏi cõi vật lý phải cần đến sự tha hóa không ngừng của ánh sáng để mà sống sót. Và nếu mọi người không tha hóa ánh sáng thì, đúng vậy, chúng sẽ tàn lụi.

Đó là tại sao chúng phải tiếp tục giữ chặt mọi người trong vòng kềm tỏa của chúng, để ai nấy cứ mãi đánh nhau trong một cuộc chiến điên rồ như con thấy ở vùng Trung Đông hay nhiều nơi khác. Chắc chắn con không thể bảo đó là ý muốn của Thượng đế đích thực, mà chỉ là ý muốn của một hình khắc về Thượng đế được phóng chiếu lên Thượng đế xuyên qua tâm thức nhị nguyên. Một lần nữa, có vô số tà thể như vậy được sinh tạo từ một hình ảnh nào đó về Thượng đế, một hình ảnh khởi lên từ nhị nguyên. Và nguy hại nhất trong số đó chính là những tà thể dính liền với một hình khắc về Thượng đế, bởi vì đó là các tà thể mà con người khó lòng từ bỏ nhất.

Con có thể lấy một tà thể, như tà thể thuốc lá chẳng hạn, và thấy hiển nhiên là nó rất nguy hiểm cho những người nghiện hút thuốc. Nhưng trong thế giới hiện đại, càng ngày người ta càng dễ thấy sự nguy hại của việc hút thuốc, và đây là lý do càng ngày càng có nhiều người bỏ được thói ghiền này sau khi nhận ra là nó hủy hoại cơ thể mình, thậm chí còn đem lại nhiều hậu quả tâm linh tiêu cực. Thế nhưng con hãy nhìn xem có bao nhiêu người vẫn còn mắc kẹt trong niềm tin là phải có một tôn giáo cao trội vả tôn giáo này do chính Thượng đế ban xuống? Nó là trát lệnh của Thượng đế, nó phải ngự trị khắp thế giới, bởi vì đó là cách duy nhất để cứu độ con người. Tất cả những kẻ thiếu đức tin kia sẽ không được cứu rỗi mà còn bị kết án sống đời đời dưới địa ngục.

Con hãy suy ngẫm xem người ta khó từ bỏ niềm tin này, ảo tưởng này, đến chừng nào để mà có thể ngừng cung cấp ánh sáng cho tà thể đại chúng đó – cho dù là tà thể đại chúng của đạo Cơ đốc, tà thể đại chúng của đạo Hồi, thậm chí cả tà thể đại chúng của đạo Phật. Bởi vì mỗi tôn giáo, mỗi hệ thống tín ngưỡng, đã tạo ra một tà thể đại chúng như vậy giao tranh với tà thể đại chúng của các tôn giáo khác – thậm chí còn nuôi béo cái tà thể lớn hơn là tà thể ăn bám vào chính việc tranh đấu, cho nên nó sẽ làm bất cứ gì để gây ra tranh đấu. Chắc chắn nền khoa học duy vật cũng đã tạo ra một tà thể đại chúng như vậy, cố tăng cường sức mạnh để chiếm đoạt, thậm chí cướp đoạt, ánh sáng của tà thể tôn giáo bằng cách khiến cho mọi người nghi ngờ tôn giáo và từ bỏ niềm tin tôn giáo của mình.

Cho nên có những nhà khoa học tin rằng họ làm việc cho một đại nghĩa cao cả thật ra chỉ đang phục vụ cho cùng một mục tiêu mà họ thấy người sùng đạo phục vụ. Họ thấy sự sai lầm của những người sùng đạo cứ nuôi ánh sáng cho con quái vật kia, nhưng họ không thấy là chính họ cũng đang làm cùng chuyện này – họ chỉ đang nuôi một con quái vật khác mà thôi. Và cũng vậy, họ tin chắc vào tính ưu việt của thế giới quan của họ cũng như ý đồ áp đặt, cưỡng bách thế giới quan này lên người khác. Chuyện này không thể đến từ Thượng đế.

3.10. Làm thế nào tạo sự kết hợp giữa con người

Tại sao chuyện này không thể đến từ Thượng đế? Tại sao không thể nói được là Thượng đế duy nhất đã tạo ra tôn giáo chân chính duy nhất và muốn mọi người gia nhập tôn giáo này? À, bởi vì Thượng đế đích thực, Thượng đế Hằng sống, đã ban quyền tự quyết toàn diện cho tất cả các phần nối dài của ngài. Và vì vậy, Thượng đế đích thực không muốn mọi người kết hợp do bị buộc phải tuân theo một hệ thống tin tưởng vỏ ngoài. Chỉ có một cách để tạo sự kết hợp và hợp nhất đích thực giữa con người là gia tăng sự trong suốt, hầu càng ngày càng có nhiều người bắt đầu nhận ra là mình đến từ một nguồn cao hơn. Và khi con thấy con đến từ một nguồn cao hơn thì con cũng thấy mọi người khác phải đến từ cùng nguồn cội đó, và như vậy, đây chính là sự kết hợp đích thực dựa trên trong suốt.

Khi tâm thức được nâng cao, ánh sáng sẽ chiếu xuyên qua tấm màn của tâm thức con người. Và khi càng ngày càng có nhiều ánh sáng chiếu qua thì chính ánh sáng là yếu tố kết hợp. Không phải một tôn giáo, không phải một ý thức hệ chính trị, không phải một thế giới quan khoa học – hay đúng hơn, một hệ tín ngưỡng khoa học – mà ánh sáng là yếu tố kết hợp duy nhất. Ánh sáng phơi bày bản chất của bóng tối: không thực, tạm thời, vô thường.

Bởi vì khi con thấy ánh sáng, con sẽ thấy chỉ có ánh sáng mới thực, và chỉ có cái thực mới có thể thường hằng. Trong khi đó mọi thứ khác bắt buộc phải phù du, một hình ảnh thoáng qua được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Hình ảnh này chỉ được duy trì cho đến khi còn có những sinh thể tự nhận biết nuôi giữ nó qua sự chú ý của họ, qua sự đồng hóa với nó, xem nó là một phần của bản sắc họ, thay vì nhìn thấy thực tại trong suốt rằng họ là nhiều hơn bất cứ gì trên trái đất – bởi vì họ là những sinh thể tâm linh – và họ có khả năng lập tức rút khỏi các khuôn nếp không thực này. Họ có khả năng lập tức vươn lên cao hơn khuôn nếp, bước xa khỏi chúng và từ chối nuôi dưỡng chúng qua ánh sáng của họ.

3.11. Lời dối bảo rằng con không thể thăng vượt

Con có thấy làm cách nào ông hoàng của thế gian đã cố tạo niềm tin rằng một khi con đã tạo ra tà thể đó thì con không thể đơn giản bước xa khỏi nó? Nhưng con có thể, con yêu dấu. Làm gì có cách nào khác để ngừng nuôi ánh sáng cho nó đâu? Con hãy xem lại bài giảng trước của thày về hành động. Con làm một hành động mất cân bằng, làm sao con gỡ bỏ nó đây? Con không thể gỡ bỏ nó bằng một hành động mất cân bằng khác. Con có thể có một hành động dựa trên một đối cực nhị nguyên, nhưng con không thể gỡ bỏ nó bằng một hành động dựa trên đối cực nhị nguyên ngược lại. Con chỉ gỡ nó được bằng cách vươn lên cao hơn nhị nguyên để con không còn nuôi dưỡng nó qua sự chú ý của con. Con không nuôi tà thể nhị nguyên này và cũng không nuôi tà thể nhị nguyên kia. Con chỉ đơn giản thăng vượt nó. Xong con để yên cho định luật thứ nhì của nhiệt động học, hay thịnh nộ của Kali, hay điệu múa của Shiva, tiêu hủy nó đi.

Đấng Sáng tạo của con không ngu đâu. Đây là một trong những cạm bẫy lớn nhất của tâm thức nhị nguyên. Nó tạo ra một thế giới quan, nó tin thế giới quan này là hoàn toàn hợp lý, xong nó tin là nó khôn hơn Thượng đế, vì ngay cả Thượng đế cũng không thể đoán trước được thế giới quan tinh xảo này. Nhưng Thượng đế đã thấy trước một cách chính xác những gì sẽ xảy ra khi ngài ban quyền tự quyết cho các sinh thể tự nhận biết, rằng một số sẽ bước vào tâm thức nhị nguyên và bị kẹt lại ở đó. Cho nên ngài đã thiết lập một hệ thống toàn hảo để đảm bảo một sinh thể khó lòng nào bị kẹt quá lâu trong nhị nguyên để mà rốt cuộc phải đối mặt với cái chết thứ hai. Vì vậy ngài ban cho con người tối đa cơ hội để bất cứ ai muốn thăng vượt cũng có thể quay trở lại với thực tại hợp nhất. Và quả thật, đó là tại sao hệ thống này được thiết kế, để khi con bước vào một trạng thái mất cân bằng thì con sẽ tạo ngay sự giao tranh. Con sẽ sáng tạo từ một cõi nơi giao tranh không thể nào tránh được, và vì vậy tạo vật của con sẽ bị hư hại, sẽ bị đe dọa, sẽ bị người ta chống đối, và con không bao giờ có thể có được thường hằng trong tạo vật đó.

3.12. Con không thể bước vào cùng dòng sông hai lần

Nhưng bây giờ chúng ta hãy tiến thêm một bước và xét xem tại sao con lại muốn thường hằng? Vì như các thày có nói, tự ngã được tạo ra vì cái ta ý thức nhận thấy tự ngã có thể cho nó một số lợi điểm. Con thử ngẫm câu này: “Bạn không thể bước vào cùng một dòng sông hai lần.” Bởi vì thế nào là một dòng sông? Đó là một dòng nước không bao giờ ngừng chuyển động. Và khi con bước vào sông, con cũng đang bước vào một số phân từ nước. Nếu con bước ra khỏi sông xong bước vào lại, có những phân tử khác đã chiếm chỗ của những phân tử trước, và vì thế về mặt kỹ thuật cũng như trên thực tế, con không đang bước vào cùng một dòng sông.

Dòng sông sự Sống cũng như vậy đó, con yêu dấu. Dòng sông sự Sống luôn luôn chuyển động. Nó được thiết kế để những ai sẵn lòng nhập vào dòng tiến lên đó cũng không ngừng trở nên HƠN NỮA thay vì đứng yên hay trở nên kém hơn. Tại sao như vậy? Là vì tất nhiên, mục đích của một sinh thể tự nhận biết là khởi đầu với một khả năng tự nhận biết giới hạn, cục bộ, rồi khuếch trương cho tới mức Đấng Sáng tạo. Chúng ta có thể nói qua một hình ảnh mà con quen thuộc, rằng Thượng đế nghĩ con có thể bị nhàm chán nếu con cứ là cùng một người trong một thời gian quá dài, cho nên ngài đã cho con chọn lựa trôi theo Dòng sông sự Sống nơi tất cả đều luôn luôn mới.

Mặc dù Thượng đế đã cho con quyền được tạo ra bất kỳ trải nghiệm nào con muốn, khi con ở trong Dòng sông sự Sống thì mỗi trải nghiệm đều mới. Có tăng trưởng, có thăng vượt. Và do đó có thể có người không thể hoàn toàn chấp nhận hay thích ứng với dòng chảy không ngừng này, dòng thăng vượt không ngừng này. Họ muốn sở hữu gì đó, họ muốn chiếm hữu một trải nghiệm và giữ nó lại một thời gian thay vì thăng vượt nó. Nơi duy nhất mà con có thể sỡ hữu cái gì là trong cõi – trong bầu cõi, trong ảo tưởng – của tách biệt, nơi mọi thứ có thể được nhận thức là đứng yên một chỗ. Nhưng tất nhiên, sự thật là không gì có thể đứng yên, dù trong cõi hợp nhất hay trong cõi tách biệt. Trong cõi hợp nhất thì có động lực liên tục muốn trở nên HƠN NỮA, muốn thăng vượt, và trong cõi tách biệt thì có lực co lại của Mẹ – định luật thứ nhì của nhiệt động học, uy lực của Shiva – sẽ làm tan rã mọi vật.

Con có thể hoặc thăng vượt, tức là sống, hoặc cố đứng yên, tức là chết. Không có chọn lựa nào khác. “Hôm nay con hãy chọn phục vụ cho ai.” Con hãy chọn sự sống! Bởi vì trừ khi con chọn sự sống thì con sẽ chọn sự chết. Và con sẽ bị mất mát, con sẽ là ít hơn, cho đến khi cuối cùng con sẽ quên mất mình là ai và con tin con là một sinh thế kém cỏi hơn, dù là một người có tội hay một con vượn thông minh.

3.13. Cái con nghĩ con sở hữu sẽ sở hữu con

Mong muốn sở hữu có thể rất vi tế. Đó là điều thày đã gọi là dính mắc khi thày còn bước chân trên mặt đất. Đó là mong muốn sở hữu cái gì đó, kéo nó ra khỏi sự tự thăng vượt liên tục của Dòng sông sự Sống. Và con có thể tạo ra ảo tưởng là con đang sở hữu nó, nhưng cái con sở hữu chính là một tà thể được tạo ra qua sức mạnh chú ý của con. Và tà thể này bây giờ muốn sống còn. Làm thế nào nó có thể sống còn? Chỉ bằng cách con tiếp tục cung cấp ánh sáng của con cho nó, và điều này có nghĩa là nó muốn sở hữu con. Và chừng nào con còn tin là nó thực, chừng nào con cho phép nó ở trong quả cầu bản sắc của con, thì đúng là nó sở hữu con. Cái gì con tạo ra trong tách biệt sẽ sở hữu con. Con có thể nghĩ là con sở hữu nó nhưng sự thật thì ngược lại.

Đâu là khởi đầu của con đường tâm linh? Là khi một người đạt tới điểm – dù là có ý thức hay không – nhưng người đó đạt tới điểm quyết định: “Tôi không thể làm tiếp thế này được nữa. Phải có một cách nào hay hơn. Cuôc sống phải là hơn thế này.” Y sẽ nói, trên cơ bản: “Tôi không muốn bị sở hữu bởi chính tạo vật lầm lạc của tôi nữa. Tôi muốn tự do. Tôi muốn là hơn thế này.” Và như vậy y cất bước leo núi, lần lần rũ bỏ các lớp da rắn của bản sắc kém cỏi này, cho đến khi y có thể đứng thẳng tự do và nhận diện: “TA LÀ một sinh thể tâm linh. Ta là một sinh thể đồng-sáng tạo cùng với Thượng đế của ta.”

3.14. Tà thể và bệnh tật

Thày đã có giải thích cho con là mọi bệnh tật của cơ thể vật lý có thể được truy ngược về một trong những dạng tha hóa của bảy tia sáng. Con tạo ra điều gì thông qua các dạng tha hóa này mỗi khi con lấy một trong bảy tia sáng, trộn nó thành một đối cực nhị nguyên xong đồng-sáng tạo xuyên qua phin lọc này? À, con tạo ra một tà thể, một tà thể tách biệt sẽ bắt đầu sỡ hữu con.

Cho nên con sẽ thấy là cho mỗi chứng bệnh mà loài người biết đến, có một tà thể đặc thù đang hút đi ánh sáng, hút đi nguồn sống ra khỏi con người thông qua những đau đớn, khó chịu và tật nguyền của thể xác. Chú ý của con bị ép buộc phải tập trung vào cơ thể vật lý, thậm chí trong nhiều trường hợp, nó khiến con tin là do các hạn chế này của cơ thể mà con cũng bị hạn chế trong những gì con có thể thực hiện trong đời hay cách con sống cuộc đời của con. Trong nhiều trường hợp, nhiều người tin rằng mình không thể có được hạnh phúc hay an bình thật sự khi cơ thể của mình không ở trong một trạng thái toàn hảo nào đó.

Nhưng con nghĩ xem, có bao giờ cơ thể vật lý của con ở trong trạng thái toàn hảo hay không? Bởi vì khi con lớn lên, con muốn cơ thể mình mau mau trưởng thành để mình có thể làm tất cả những việc người lớn có thể làm. Nhưng đến khi chính con trở thành người lớn, lập tức con bắt đầu lo mình thêm tuổi, và cơ thể không còn xinh đẹp, dẻo dai hay mạnh mẽ như trước nữa. Nếu vậy thì có lúc nào cơ thể ở trong trạng thái toàn hảo hay không? Nếu hạnh phúc và sự an bình nội tâm của con tùy thuộc vào bất cứ gì trong cơ thể, thì xác suất sẽ rất cao là con không thể nào đạt được an bình đó. Cho nên con, như một người tâm linh, con đã đến đây để chứng tỏ rằng một người có khả năng vượt lên trên các giới hạn của thân xác, ngay cả bệnh tật của thân xác, mà vẫn tìm được sự an lạc, tâm an bình cùng với hạnh phúc.

Đối với một số các con, Sứ vụ Thiêng liêng của con không trù liệu con phải khắc phục một hạn chế hay một chứng bệnh đặc thù, mà Sứ vụ Thiêng liêng trù liệu con biểu hiện tâm an bình của con bất chấp hạn chế đó. Con có thể đạt tới điểm, một khi con đã chứng tỏ đầy đủ điều này thì con có thể chọn vứt bỏ nó đi và vươn lên cao hơn. Nhưng con cần biết là một số các con khi chiến đấu với bệnh tật, kỳ thực con đang chiến đấu với chính mình, chiến đấu chống lại Sứ vụ Thiêng liêng của mình đang muốn biểu hiện tâm an bình bất chấp điều kiện vật lý. Và điều kiện vật lý này có thể không chỉ là bệnh tật.

3.15. Hiểu sự trọn vẹn là gì

Do đó thày nói với con: “Hãy tìm kiếm trước hết vương quốc Thượng đế và sự công chính của ngài, thì tất cả những thứ kia sẽ được bồi thêm cho con.” Con hãy tìm kiếm trước nhất sự trong suốt, qua đó con nhìn vượt khỏi các điều kiện vật lý của con. Con nhìn vượt khỏi thành phần đó của con người con – tâm phàm muốn thoát khỏi cơn đau, hay sự khó chịu, hay những khó khăn – xong con nói: “Mục đích chủ yếu của tôi là sự trọn vẹn. Trọn vẹn là một điều kiện bên trong. Đó là một trạng thái tâm. Luôn luôn sẽ có một điều kiện vật chất nào đó sẽ chống lại sự trọn vẹn của tôi trong hiện thân này. Cho dù đó là một chứng bệnh thể xác hay những giới hạn vật lý, hay đó là người khác, luôn luôn sẽ có những điều kiện chống lại sự trọn vẹn, cho nên cách duy nhất để đạt trọn vẹn là tôi đạt trọn vẹn bất chấp mọi điều kiện vật lý.”

Bởi vì thật sự, sự trọn vẹn tâm linh không liên quan gì đến các điều kiện vật lý. Đó là một điều kiện tâm linh vượt trên mọi hoàn cảnh vật chất. Cho nên khi con đến tia thứ mười, con sẽ thấy – khi con neo trụ vào Hiện diện Trong suốt – là có gì đó vượt khỏi điều kiện vật lý. Và như vậy điều kiện vật lý không thể sở hữu con được nữa, nó không thể sở hữu Tánh linh của con, cái ta ý thức của con.

Con không còn đồng hóa với nó nữa, và như vậy con thấy con là HƠN NỮA nhiều quá đỗi. Và bằng cách đem cái HƠN NỮA này vào nhận biết ý thức của mình, con tự đồng hóa với cái HƠN NỮA bất chấp các điều kiện vỏ ngoài, vì con thấy thực tế là con luôn luôn sẽ bị hạn chế bởi cơ thể vật lý. Đây không phải là chuyện tìm kiếm một điều kiện toàn hảo nào đó để Tánh linh có thể biểu đạt qua cơ thể và mọi chuyện sẽ tuyệt hảo. Mà thực tế là mọi chuyện sẽ không bao giờ toàn hảo bởi vì sự toàn hảo không hề có.

Toàn bộ mục đích là sự biểu đạt bản thể tâm linh của con cho dù điều kiện bên ngoài có là gì. Đó là quả vị Ki-tô, đó là quả vị Phật, đó là tâm linh đích thực. Đó là khi con nhìn vượt trên hoàn cảnh bên ngoài và hoàn cảnh trở nên trong suốt đối với con, cho nên con nhìn thấy thực tại ẩn tàng bên dưới về con người mà con là, thực tại ẩn tàng của sự hợp nhất với nguồn cội của con, hợp nhất với mọi sự sống. Và đó là khi bằng cách tìm thấy an bình này, con chứng tỏ cho người khác làm thế nào họ cũng có thể tìm thấy an bình đó và nhờ vậy nâng cao toàn bộ Thân thể của Thượng đế. Thế là con trở thành cánh cửa mở.  

3.16. Trở thành một sứ giả

Là cánh cửa mở có nghĩa là gì nếu không phải là trở nên trong suốt? Làm thế nào một người có thể phụng sự như một sứ giả? Con cần nỗ lực đạt đức tính gì để trở thành một sứ giả? À, để thày nói cho con. Cho đến khi con đạt được một mức độ điều ngự nào đó trên tia thứ mười của trong suốt, thì con không thể trở thành một sứ giả.

Bởi vì con sẽ làm gì nếu con không trong suốt? À, con có thể cho phép một luồng tâm thức và ánh sáng đi xuyên qua tâm vỏ ngoài của con, nhưng con sẽ áp đặt hình ảnh lên đó, là những hình ảnh con cầm giữ trong tâm con. Và như vậy, những gì đi xuyên qua con và biểu hiện ra thành từ ngữ sẽ không còn thuần khiết. Và thật vậy, nó có thể bị nhuộm màu đến mức nó che khuất thông điệp nguyên thủy.

Giê-su đã giải thích làm thế nào một số người có khả năng nhận được Thánh linh thuần khiết xối xuống, tuy nhiên lại nhuộm màu trải nghiệm này bằng những hình ảnh có mặt trong tâm vỏ ngoài, đến mức nó không còn đủ trong suốt để có thể giúp người khác tìm ngược lại nguồn gốc của ánh sáng. Trải nghiệm đã không mở lối mà còn trở thành mục tiêu, qua đó sứ giả đặt mình vào một địa vị có tín đồ đi theo, mong muốn tín đồ phải ở lại với mình và họ phải tùy thuộc vào mình để nhận được ánh sáng, thay vì nếu họ thấy một nét tâm linh nơi một người thì họ phải có thể dùng cái đó như là bàn đạp hầu ngộ ra thực tại tâm linh trong chính họ. Như thày có nói trong bài giảng mở đầu, việc tôn thờ đức Phật là sự mỉa mai cùng cực, vì mục đích của Phật đến đây là để giúp mọi người ngộ được Phật trong chính họ.

Trừ khi con đạt được sự trong suốt này – không cần hoàn toàn trong suốt mà chỉ cần đủ trong suốt để nhận ra là con không giữ độc quyền ánh sáng, con không giữ độc quyền các chân sư thăng thiên, mà con chỉ đơn giản là một cánh cửa mở để giúp người khác giải thoát – cho đến khi con nhìn nhận điều này thì con không thể là một sứ giả chân chính, con không thể đưa ra thông điệp giải thoát, con không thể trao tặng món quà sự sống sẽ đánh thức con người vào thực tại của sự sống bên trong họ. Họ sẽ tìm thực tại này nơi một con người vỏ ngoài hay một vị thần vỏ ngoài sau khi đã tạo ra thần tượng. Và một lần nữa, thần tượng làm gì chứ? Thần tượng che mờ sự trong suốt rằng ánh sáng ở trong tất cả và do đó cũng ở ngay trong họ. Thần tượng khiến họ tưởng ánh sáng chỉ có trong thần tượng, và họ chỉ có thể nhận được ánh sáng xuyên qua thần tượng. Nếu vậy thì đây là một sứ giả giả hiệu, vì y không phục vụ để giải phóng con người mà để giam chặt con người trong một hộp tư duy nào đó.

Cho nên con sẽ thấy – nếu con nhìn trung thực nhiều tổ chức tâm linh và tôn giáo – con sẽ thấy từ một tầm nhìn cao hơn là có nhiều người đã là sứ giả giả hiệu. Điều này không có nghĩa là họ không làm được gì ích lợi – và thày không muốn con áp đặt một sự phán xét đường thẳng ở đây – nhưng từ một tầm nhìn cao hơn và một hiểu biết về trong suốt, con thấy là nếu con áp chồng một hình ảnh như vậy lên việc rải truyền ánh sáng từ các chân sư thăng thiên, thì hình ảnh này sẽ che khuất thực tế của ánh sáng trong mỗi người. Và nếu vậy thì con không đang giúp người đó tăng triển quá một mức nào đó.

Một người có thể là một sứ giả chân chính cho bảy tia đầu nhưng không có sự nhận biết cùng tâm thức để phụng sự như một sứ giả cho các tia bí mật, vì người đó đã không sẵn lòng đạt đủ trong suốt trong tâm thức của mình – biết rằng mình không cần ai theo, mình không tùy thuộc vào việc người ta theo mình. Khi con là cánh cửa mở, con tìm kiếm trước hết vương quốc của Thượng đế, thế rồi ngài – chứ không phải những người theo con – sẽ cho con tất cả những thứ kia mà con cần. Con không tùy thuộc vào người theo con khi con thấy sự trong suốt rằng Thượng đế là nguồn cội duy nhất. Con sẽ không nghĩ là con cần bất cứ gì từ thế gian, con sẽ không nghĩ là con cần sở hữu người khác hay giữ họ gần bên con. Con sẽ cho miễn phí những gì con nhận được miễn phí, và con để yên cho mọi người làm bất cứ gì họ muốn với món quà của con.

Và nếu đến một thời điểm con không còn đủ thành viên hỗ trợ con nữa, à, khi đó con sẽ làm những gì cần thiết. Nhưng con sẽ không tìm cách thao túng người khác để con ở lại nơi con cảm thấy thoải mái – trong địa vị một sứ giả, một linh mục, một giáo hoàng hay bất cứ khuôn mặt thẩm quyền nào mà con đang giữ. Giống như các tu sĩ trong đền thờ mà Giê-su đã thách đố bao nhiêu lần bởi vì họ quá thoải mái, hay giống như các nhà Ba la môn mà chính thày đã thách đố khi thày còn bước chân trên địa cầu bởi vì họ quá thoải mái, cứ tin rằng họ là người làm trung gian giữa Thượng đế với quần chúng. Nhưng không hề có trung gian nếu người trung gian lại mang một cảm nhận sở hữu. Chỉ có trung gian đích thực khi sinh thể này trong suốt – biết rằng mình không sở hữu gì hết, bởi vì con không thể sở hữu Thượng đế, con không thể sở hữu Dòng sông sự Sống, mà con chỉ có thể xuôi chảy với nó bằng cách không ngừng thăng vượt chính con.

Nếu con không ngừng tự thăng vượt thì làm sao con có thể sở hữu bất cứ gì? Không thể nào sở hữu được, vì con không cần sở hữu khi con liên tục thăng vượt và trở nên HƠN NỮA. Tại sao con lại muốn sở hữu một cái gì khi con có thể tự thăng vượt và trở nên nhiều hơn cái đó? Thật chẳng hợp lý chút nào, ngoại trừ đối với tự ngã thì chuyện này hoàn toàn hữu lý vì nó không thể xuôi theo Dòng sông sự Sống, Nó không thể tồn tại khi con xuôi theo Dòng sông sự Sống, và vì vậy nó phải khiến con bám chặt vào một gì đó mà con không chịu buông ra, một ảo tưởng nào đó, một tin tưởng nào đó, một ý niệm cái ta nào đó.

Con nghĩ là nếu con buông nó ra thì sẽ không còn gì sót lại trong bản sắc của mình, bởi vì con chưa trải nghiệm bản sắc đích thực của con là một bản sắc trong suốt nơi ánh sáng không ngừng chiếu xuyên qua. Không thể nào có một bản sắc đích thực mà lại che mờ ánh sáng. Cho nên con hãy suy ngẫm bí ẩn này – một bí ẩn cho tâm đường thẳng – rằng bản sắc thực của con vẫn là một cá thể, nhưng nó trong suốt, trong suốt cho ánh sáng, một ánh sáng có thể được truy ngược về nguồn cội là Đấng Sáng tạo của con. Và khi con trải nghiệm sự trong suốt toàn diện này đến từ sự hàng phục toàn diện, thì con sẽ an bình. Con sẽ an lạc. Con sẽ là một sứ giả đích thực, một cánh cửa mở đích thực cho ánh sáng. Bởi vì nếu một cánh cửa mở không trong suốt thì nó không mở, có phải vậy không con yêu dấu?

2 | Tia thứ chín của quân bình

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 9 tháng 5, 2009, trong loạt bài về các tia sáng bí mật.

Thày là Gautama. Thày đến đàm đạo với con về tia sáng thứ chín. Nhưng chúng ta hãy bắt đầu bằng cách xem lại các lời dạy về tia thứ tám – là tia hòa nhập những gì con đã đạt được khi vượt qua khai ngộ của bảy tia đầu.

Như thày có nói, con đã đến điểm cần bước lui lại và nhìn bức tranh rộng lớn. Điều này chính xác có nghĩa là gì về mặt chữa lành cá nhân? Có nghĩa, con yêu dấu, là con nhìn vượt quá chính cơ thể vật lý của con. Con thấy chữa lành là nhiều hơn sự chữa lành cơ thể vật lý. Chữa lành có nghĩa thực sự là sự trọn vẹn, đạt đến trọn vẹn. Và điều này có nghĩa, con yêu dấu, là một khi con đã đi qua khai ngộ của bảy tia đầu, con cần xoay chuyển sự tập trung để mục đích trên hết và trước hết của con – thật ra mục đích duy nhất từ điểm này trở đi – trở thành việc đạt đến sự trọn vẹn của toàn bộ bản thể con.

Như thày đã nói trong bài giảng trước, có những người đã đi qua các khai ngộ mà không chữa lành được một chứng bệnh vật lý nhất định hay không khắc phục được một hoàn cảnh nhất định nào đó. Cho nên bước kế tiếp là cần nhìn xem phải có điều gì chưa trọn vẹn trong các thể cao – không chỉ cảm thể, trí thể, bản sắc thể, mà ngay cả cách nhận thức của con về thế nào là một người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Và điều này không chỉ giản dị là thể bản sắc vỏ ngoài, mà là cốt lõi của thể bản sắc, các tầng cao của thể ê-the của con.

Do đó con cần tìm kiếm sự trọn vẹn này, con yêu dấu. Và đây là điều con tìm thấy khi con từ bỏ con đường vỏ ngoài và tìm cầu sự tiếp cận nội tâm. Bởi vì tại sao con lại nghĩ con đường vỏ ngoài có thể thích hợp với các tia bí mật được chứ? Như thày đã giải thích, các tia bí mật không những vượt khỏi tâm nhị nguyên mà còn vượt cả tâm đường thẳng vốn chỉ muốn phân tích và phân loại mọi chuyện.

Cho nên, con yêu dấu, con không thể hiểu được các tia bí mật, con không thể hiểu được bằng trí năng. Tất nhiên con có thể tạo ra một khái niệm trí thức, một hình tượng khắc mà con phóng chiếu lên khái niệm tia bí mật và một tia sáng nào đó. Nhưng con không thể thực sự hiểu được các tia bí mật qua tâm trí thức đường thẳng. Có nghĩa, một lần nữa, là các thày đã nhận một rủi ro có cân nhắc khi trao truyền bất cứ lời dạy nào về tia bí mật qua lời nói. Bởi vì luôn luôn sẽ có những người nhìn qua phin lọc của tâm đường thẳng, họ sẽ muốn phân tích nó, sẽ muốn nhét nó vào kho dữ liệu mà họ đã tạo dựng dựa trên các giáo lý tâm linh mà họ đã thực hành hay nghiên cứu cho tới điểm này.   

Nhưng dẫu vậy, các thày cũng biết là luôn luôn sẽ có những người đọc được giữa hai dòng chữ và nhận ra lời lẽ vỏ ngoài không thực sự quan trọng bằng ý nghĩa nội tâm được truyền tải qua lời lẽ. Vì vậy, đây thật không phải là vấn đề hiểu – hiểu tia sáng bí mật, hiểu đặc tính của tia sáng bí mật – mà là vấn đề hòa điệu với tia sáng, trải nghiệm trực tiếp sự rung động của tia sáng, thậm chí trở thành một với sự hiện diện, Hiện diện tâm linh, mà mỗi tia bí mật vốn là.

2.1. Thỉnh Đại thiên thần Uzziel

Làm thế nào thật sự qua được khai ngộ của tia thứ tám? Bằng cách trở thành một với Hiện diện tâm linh của tia thứ tám. Tất nhiên đó là Phật. Nhưng đối với nhiều người đây là một bước khó khăn, cho nên Đại thiên thần Uzziel có lời mời cho những ai muốn vượt qua khai ngộ của tia thứ tám có thể trở thành ngọn lửa song sinh của thày. Họ có thể được Đại thiên thần chỉ dạy ở mức nội tâm cho đến khi họ đạt tới điểm thấy mình là thái cực Omega trong vật chất của thái cực Alpha là chính Đại thiên thần ở cõi tâm linh. Họ cũng có thể xem mình là thái cực Omega của Hiện diện TA LÀ của mình.

Để vượt qua khai ngộ của tia thứ tám, con cần đi xa hơn tâm đường thẳng. Con cần trải nghiệm điều mà thời xưa được gọi là chứng ngộ (gnosis), là đi vào hợp nhất, là sự hợp nhất giữa người biết và cái được biết. Nhưng con có thấy chăng, con yêu dấu, tâm đường thẳng được sinh ra và tùy thuộc vào tương quan nhị nguyên giữa người biết và cái được biết, giữa người đang nhận thức và đối tượng được nhận thức?

Và điều này có nghĩa là khi con nhìn qua phin lọc của tâm đường thẳng, mỗi chủ đề nghiên cứu sẽ trở thành một đối tượng nhận thức, một đối tượng cho việc phân tích, phân loại, dán nhãn, phán xét. Có con ở một đằng, và đằng kia có một chủ đề không phải là con, tách biệt khỏi con, xa rời khỏi con, và con tìm hiểu nó từ một khoảng cách. Con yêu dấu, đây chính là Chén thánh của nền khoa học hiện đại mà họ gọi là tính khách quan, khi người quan sát không là một phần của kết quả quan sát mà lại đứng ở xa giống như một nhà thiên văn nhìn ngôi sao xuyên qua kính viễn vọng, đinh ninh rằng mình không ảnh hưởng gì đến ngôi sao mà chỉ là một người quan sát trung lập, khách quan.

Tuy nhiên khi con tới điểm này, khi con bắt đầu đi xa hơn bảy tia sáng và bước vào tia thứ tám, bắt đầu bước vào các tia cao hơn, thì con cần khắc phục ảo tưởng này, sự lừa dối này về một nhà quan sát trung lập, tách biệt, xa cách. Không có nhà khoa học nào đã từng thực hiện một quan sát thật sự khách quan, bởi vì nhà khoa học đó quan sát xuyên qua chính tâm thức của mình. Và chừng nào con còn cố quan sát, chừng nào con còn xem mình là một người quan sát đang xem xét một vật ở xa, thì con không thể nào khách quan.

Khách quan đích thực là gì? Đó là sự chứng ngộ, khi tính nhị đối giữa chủ thể và khách thể tan biến và con trải nghiệm sự hợp nhất với cái trước đó là một đối tượng xa cách. Làm thế nào điều này có thể xảy ra? Làm thế nào, chẳng hạn, con có thể thiền quán về một ngọn núi, về cái hồ hay về đại dương mà vượt khỏi vai trò của người quan sát đang thiền quán – rõ ràng không phải là con như một người, con như một thân xác, con như một sinh thể đang hiện thân? À con có thể làm được, con yêu dấu, khi con nhìn nhận một thực tế cơ bản, rất đơn giản, của mọi sự sống. Con thấy đó, khi thày bước ra khỏi Niết bàn như là Phật và có ngưới hỏi thày “Ông là gì?” thì thày đã trả lời “Ta tỉnh thức.”

2.2. Thực tại nằm bên dưới mọi hình dạng

Khi con tỉnh thức, con nhận ra thực tại cơ bản nằm ở bên dưới không phải là vật chất, không phải là năng lượng, mà là tâm thức. Tất cả mọi thứ đều là một biểu đạt của tâm thức. Không có gì trong thế giới vật chất chỉ tồn tại mà thôi. Đó là một phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và sự phóng chiếu này diễn ra xuyên qua một trạng thái tâm thức đặc thù nào đó. 

Cho nên nếu con cố nhận thức một vật cụ thể, chẳng hạn một ngôi sao ở xa kia, xuyên qua giác quan vật lý mà thôi – hay sự nối dài của giác quan mà các nhà khoa học đã xây dựng qua dụng cụ khoa học – thì con sẽ không thực sự biết được vật đó. Con sẽ biết các đặc tính vật chất của nó nhưng con sẽ không biết cái tâm thức đang phóng chiếu nó lên màn ảnh của Ánh sáng Mẫu-Vật. Và cho đến khi con biết được tâm thức này thì con vẫn chưa thực sự biết được một ngôi sao là gì, vẫn chưa thực sự biết được ngôi sao đặc thù này. Con sẽ không thực sự biết được ngôi sao của chính Mặt trời của con, cùng với tâm thức đặc thù của các sinh thể tâm linh đã phóng chiếu hình ảnh này lên Ánh sáng Mẫu-Vật và vẫn đang cầm giữ hình ảnh này trong tâm thức của họ.

Cho nên thày khuyên những ai mong muốn vượt xa hơn tia thứ tám để đi vào tia thứ chín, nên dành ra thời gian thiền quán về Mặt trời, Mặt trời của chính con trong thái dương hệ đặc thù này. Con đừng thiền quán về nó như một Mặt trời vật lý mà như một Mặt trời tâm linh, như sự biểu đạt của một sinh thể tâm linh, của một cặp sinh thể tâm linh – một thái cực Alpha-Omega. Xong con hãy cho phép tâm con hòa nhập với các sinh thể tâm linh đang trụ nơi không gian của Mặt trời của con, hiện có tên là Helios và Vesta. Con hãy hòa nhập với hai vị đó để con biết được sự rung động, biết được Hiện diện của hai vị.

Đây là cách duy nhất để biết, biết thực sự, các tia bí mật – và đó chính là tại sao các tia này được gọi là bí mật. Bởi vì những ai còn bị kẹt trong tâm đường thẳng, những ai cứ muốn vật thể hóa (objectify) mọi chuyện, sẽ không thể mở khóa bí ẩn của các tia cao hơn. Như thày đã có nói, không có gì để cho tự ngã phóng lớn. Không có gì để cho tự ngã sử dụng hầu xác nhận hay chứng thực thế giới quan của nó, hầu nó tâng nó lên cao hơn mọi người.

Con thấy đó con yêu dấu, như thày có giải thích, bảy tia đầu là những tia sáng đã được dùng để xây dựng vũ trụ vật chất. Và vì vậy, chúng có một sức mạnh biểu đạt nào đó. Và khi chúng bị tha hóa bởi tâm thức nhị nguyên, tự ngã có thể chụp lấy dạng tha hóa, mất cân bằng này, rồi sử dụng để xây dựng quyền năng của mình – hay nhảy sang đối cực nhị nguyên ngược lại là giảm thiểu quyền năng – nhưng dù thế nào thì điều này vẫn giữ cho tự ngã sống còn qua cuộc giao tranh nhị nguyên.

Tất nhiên, tự ngã có thể phóng chiếu một hình ảnh lên các tia bí mật để tạo ra một tượng khắc về chúng, và như vậy khiến chúng có vẻ nhị nguyên. Tuy vậy con cần hiểu là các tia bí mật đã không được dùng để xây dựng vũ trụ vật chất. Chúng là những biểu đạt cao hơn, vượt quá vật chất. Và đó là tại sao con phải đề phòng tâm đường thẳng vốn có xu hướng kéo thấp các tia bí mật xuống bầu cõi mà nó có khả năng xử lý, và như vậy nó có thể phân loại và phân tích theo quan điểm tương đối của nó về mọi chuyện.

2.3. Tâm tương đối và tâm nhị nguyên

Con yêu dấu, hãy để thày cho con thấy một nét khác biệt vi tế mà ít người hiểu. Chúng ta bàn về tâm nhị nguyên và chúng ta bàn về tâm đường thẳng phân tích. Đôi khi chúng ta dùng hai từ này một cách lẫn lộn, nhưng khi con đạt đến cái hiểu cao hơn thì con thấy một khác biệt vi tế. Khác biệt là tâm đường thẳng thì tương đối, trong khi tâm tự ngã thì nhị nguyên.

Tâm đường thẳng phân tích trong bản chất có tính cách trung lập. Đó là lý do tại sao các nhà khoa học vô cùng tập trung vào trí tuệ và tâm phân tích có thể tin được là họ có khả năng đạt được tính khách quan qua tâm phân tích. Con thấy đó, tâm phân tích sẽ phân loại mọi chuyện dựa trên một tiêu chuẩn tương đối, một tiêu chuẩn tương đối có hai đối cực ngược nhau. Nhưng điều mà tâm phân tích sẽ không làm là áp đặt một phán xét giá trị lên hai đối cực. Điều này tâm tự ngã sẽ làm. Tâm tự ngã dựa trên phán xét giá trị. Tâm đường thẳng có thể bảo là chuyện này như thế này hay chuyện kia như thế kia, nhưng nó sẽ không bảo là chuyện này tốt và chuyện kia xấu, bởi vì đây là tự ngã.

Vì vậy con thấy tâm phân tích không nhất thiết là kẻ thù của con – nó chỉ đơn giản là một công cụ. Chỉ khi nào tự ngã áp đặt một phán xét giá trị phủ lên tâm phân tích thì khi đó người ta mới rơi vào cạm bẫy của đấu tranh nhị nguyên, qua đó người ta nghĩ một cách tối hậu rằng một bên là thiện và bên kia là ác. Và vì vậy, họ phải đứng về phe thiện và tìm cách tiêu diệt phe ác.

Điều con có thể làm – khi con tách riêng tâm tự ngã và tâm phân tích – là kỳ thực, trong một số ranh giới nhất định, con có thể dùng tâm phân tích như một công cụ để phơi bày tự ngã. Tâm phân tích có thể được dùng để thấy rằng phán xét giá trị của tự ngã là mâu thuẫn, không hợp lý, và sẽ chỉ buộc con lại với cuộc vật lộn nhị nguyên. Cho nên ở một mức độ nào đó, cái ta ý thức có thể sử dụng tâm phân tích để vạch trần tự ngã, như một số các con đã làm rồi qua nhiều cách khác nhau.

Nhưng con cũng phải lưu ý là tâm phân tích không bao giờ có thể vượt quá tầng mức nơi mọi chuyện được nhìn một cách tương đối. Phải có hai đối cực, phải có sự căng thẳng giữa hai đối cực. Đối với tâm phân tích thì sự căng thẳng này không nhất thiết là giao tranh, vì giao tranh đến từ phán xét giá trị. Nhưng vẫn có một sự căng thẳng, và căng thẳng này thì không bao giờ có thể được giải quyết qua tâm đường thẳng phân tích. Ví dụ các thày có nói đến một Đấng Sáng tạo tự biểu hiện như hai thái cực đối lại với nhau, lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ. Đối với tâm đường thẳng phân tích, lan ra là một tiến trình hướng ra ngoài, và co lại là hướng ngược lại. Đấy, ngay đó đã cài sẵn một sự căng thẳng giữa cả hai. Tâm phân tích không thể giải quyết được chuyện này. Tâm đường thẳng không thể nghĩ ra một lập luận, một cách lý luận nào để giải quyết tình trạng phân đôi có vẻ như đang có mặt giữa hai lực sáng tạo cơ bản này. Tâm đường thẳng sẽ nhìn chúng như là đối nghịch.

Đây là tại sao để có thể vượt quá tia thứ tám và khởi sự tia thứ chín là tia đầu tiên trong các tia bí mật, con phải đạt tới điểm hiểu ra những hạn chế của tâm đường thẳng, và con nhận ra là con – như cái ta ý thức – là nhiều hơn tâm đường thẳng. Do đó con không phải trải nghiệm thế giới xuyên qua phin lọc của tâm đường thẳng, mà kỳ thực con có thể vượt xa hơn để có được một trải nghiệm trực giác, một trải nghiệm “à há” không thể nào diễn tả bằng ngôn từ. Nó vượt quá ngôn từ, vượt quá mọi khái niệm, nhưng con vẫn biết là mình vừa trải nghiệm một cái gì rất thực.

2.4. Các tính chất của tia thứ chín

Và điều này dẫn chúng ta đến tia thứ chín. Đâu là tính chất của tia thứ chín? À một lần nữa, khi thày dùng từ ngữ thì thày lại cung cấp thức ăn cho tâm đường thẳng, cho nên con hãy cẩn thận đừng bị lôi kéo vào đó, vì tâm đường thẳng sẽ làm chuyện nó vốn làm là tìm cách phân tích và phân loại. Tuy nhiên khi nhận rõ điều này rồi thì chúng ta vẫn phải dùng từ ngữ để giao tiếp.

Từ ngữ mà thày sẽ cho con để mô tả tia thứ chín là sự quân bình (equilibrium). Đây là một khái niệm mà tâm đường thẳng cảm thấy khó lòng xử lý. Đây là một khái niệm mà tự ngã không muốn đương đầu và cũng không muốn con đương đầu. Và nếu con theo dõi trạng thái nội tâm của mình, con có thể nhận ra là tự ngã sẽ nổi loạn chống lại, nó sẽ nghĩ ra đủ loại lập luận để bác bỏ chuyện này. “Làm sao vậy được? Đây không thể nào là bí mật vĩ đại mà các chân sư thăng thiên đã nói đến hàng bao năm trời. Phải có một quyền năng bí mật nào đó trong các tia bí mật chứ.” Hẳn là có quyền năng, nhưng không phải loại quyền năng mà tự ngã có thể nắm bắt. Bởi vì con thấy đó, tự ngã chỉ có thể hoạt động khi có sự mất quân bình, khi có căng thẳng. Tự ngã không thể làm việc trừ khi có căng thẳng, có sự chống đối giữa hai đối cực được tạo ra trong hành động tách khỏi hợp nhất. Tự ngã không thể dùng được hợp nhất, và do đó nó không thể dùng được quân bình cho bất cứ chuyện gì.

Và điều này dẫn chúng ta đến một khái niệm đã được biết đến từ hàng thế kỷ, hàng thiên niên kỷ, trong các tôn giáo phương Đông và cũng đang dần dần được biết đến nhiều hơn ở phương Tây, là khái niệm về nghiệp. Người ta thường nhìn nghiệp dưới mắt nhị nguyên, có nghiệp tốt và có nghiệp xấu. Đây là một khái niệm rất giống như khái niệm về tội lỗi của phương Tây, qua đó con phạm tội khi làm điều gì sai, xong một cách nào đó con phải trả món nợ, trả tội, trước khi con có thể tự do.

Con yêu dấu, thế là hàng tỷ người trên hành tinh tin vào khái niệm này dưới một dạng nào đó, tin rằng nếu họ làm gì sai trái dựa theo một tiêu chuẩn nào đó – cho dù là tiêu chuẩn của tôn giáo hay của gì khác – thì con sẽ phải đền lại qua một việc làm khác hơn.

Nhưng con thấy không, tạo nghiệp nghĩa là gì, làm tội nghĩa là gì? Có nghĩa là con làm một hành động mất quân bình. Này, con hãy nhận ra một điểm vi tế, một khác biệt vì tế ở đây. Con nhìn xem thày vừa nói gì về tâm đường thẳng, rằng nó tương đối nhưng không phán xét giá trị, xong tự ngã mới áp đặt một phán xét giá trị lên đó?

Nếu con loại tự ngã ra khỏi phương trình, tâm đường thẳng giản dị biến thành một công cụ để hành động trong thế giới vật chất. Một khi con nhìn nhận mình là nhiều hơn tâm đường thẳng, con có thể hành động xuyên qua tâm đường thẳng mà không tạo nghiệp, không làm tội. Nhưng khi tự ngã bước vào và xem con là một cá nhân tách biệt – qua đó con đánh mất cảm nhận hợp nhất với cái ta cao của mình, cảm nhận hợp nhất với mọi sự sống – thì bấy giờ con có tự ngã đang hành động. Nó vẫn hành động xuyên qua tâm đường thẳng nhưng nó lại áp đặt một phán xét giá trị về những gì sẽ tốt cho con như một cá nhân tách biệt. Con tìm cái tốt cho mình thay vì con đường cao hơn là chỉ tìm cách nâng cao cái Tất Cả qua việc biểu hiện các đức tính thiêng liêng của mình – một con đường không mất quân bình, không tạo nghiệp, không là tội lỗi, con yêu dấu. 

Đây là một điểm thật khó hiểu và không thể nào chấp nhận đối với tự ngã và tâm đường thẳng. Vì tâm đường thẳng sẽ nói: “Ừ nhưng nếu có hai người làm cùng một việc thì cả hai phải phạm tội chứ.” Nhưng không phải vậy, con yêu dấu. Hai người có thể làm cùng một việc vỏ ngoài, nhưng một người thì ở trong ảo tưởng nhị nguyên, ảo tưởng tách biệt, và do đó hành động của y sẽ mất quân bình, nhằm đưa ngã tách biệt lên cao. Trong khi đó người thứ hai có thể làm cùng việc đó, nhưng y vượt lên trên tâm nhị nguyên, cố nâng cao cái Tất Cả, vì vậy đây không phải là tội lỗi. Đây là một hành động cân bằng, một hành động khởi lên từ sự quân bình.

Cho nên con thấy có những hành động có thể được thực hiện từ một trạng thái không nhị nguyên, không phán xét. Qua ý định muốn nâng cao cái Tất Cả, không có sự mất quân bình nào trong hành động này. Thày không đang nói là điều này áp dụng cho mọi hành động, bởi vì rõ ràng khi con vượt lên trên tâm nhị nguyên thì có một số hành động mà con sẽ không bao giờ nghĩ tới chuyện thực hiện, con yêu dấu.

2.5. Không thể nào tránh hành động trong thế giới này

Tuy nhiên con nhìn nhận là mặc dù con đã đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn, nhưng chừng nào con còn ở trong hiện thân vật lý thì con phải hành động. Con không thể hiện thân mà không hành động theo cách này hay cách khác. Chắc chắn con có thể làm giống như nhiều người tâm linh đã từng làm trong qua khứ, là khi họ đạt được một trạng thái tâm thức nào đó – khi họ vượt quá tâm thức nhị nguyên đang giam hãm nhiều người – thì họ thấy được sự hư ảo, phù phiếm của tranh đấu nhị nguyên. Họ rút lui khỏi tranh đấu, vào sống trong tu viện hay lên núi sống trong hang động, hay một cách nào đó họ tự cô lập khỏi cuộc tranh đấu nhị nguyên, không dự phần vào đó, không bồi thêm cho nó, không nuôi cho nó lớn thêm. Và chắc chắn giải pháp này đã, và vẫn tiếp tục, phần nào chính đáng theo nghĩa là một số ít người có thể giữ cân bằng tâm linh cho số đông bằng cách trụ vững trong trạng thái tâm thức tinh khiết này.

Tuy vậy, việc giữ cân bằng tâm linh chỉ kéo dài thời gian, chứ không thực sự giúp đem vào thị hiện vương quốc của Thượng đế hay Thời Hoàng kim. Cho nên trong Thời đại Bảo bình, chúng ta không cần người tâm linh rút lui và cách ly khỏi xã hội. Ngược lại là đằng khác, chúng ta cần những người chịu tham gia tích cực vào xã hội, nhưng họ làm vậy từ một trạng thái quân bình, qua những hành động không mất quân bình. Và như vậy họ không bồi thêm cho mối căng thẳng, không tăng cường cho cuộc giao tranh, mà họ chứng tỏ là có một cách khác hơn việc giao tranh.

Đây là điều cần thiết trong thời đại hôm nay. Đây là điều mà nhiều người trong số các con đã bước vào đầu thai để biểu hiện, tức là khả năng tham gia tích cực vào xã hội mà vẫn ở ngoài nhị nguyên. Làm thế nào con có thể biểu hiện điều này? Con chỉ biểu hiện được một khi con học cách hành động mà không hành động một cách mất quân bình, bởi vì hiển nhiên, con không thể dấn thân vào xã hội mà không hành động.

Trên thực tế, con yêu dấu, ngay cả một người ngồi trong hang đá trên núi Himalaya cũng đang hành động, đang thực hiện những hành động trong cõi vật chất. Thường người đó sẽ cần ăn uống. Y có thể chỉ ăn trái cây, nhưng trái cây đó phải có ai hái, đem vào hang. Nếu trái cây không được hái thì chuyện gì xảy ra? Nó có thể được thú ăn, được người khác hay côn trùng ăn, hay nó có thể thối rữa và trở thành một phần tử trong chu kỳ tự nhiên. Cho nên qua việc ăn trái, uống nước, hít thở không khí, con đang hành động. Con đang ảnh hưởng môi trường. Có thể con chỉ có – như từ thông dụng – một vết chân khá nhỏ nhưng con vẫn đang hành động.

Vậy thì tại sao con không bước ra ngoài xã hội nơi hành động của mình có thể tạo cảm hứng cho người khác, khi con chứng tỏ là con đã vượt lên cao hơn trạng thái tâm thức của một người cần phải ở ẩn để tránh bị lôi kéo vao giao tranh nhị nguyên? Bởi vì thay vào đó, con đã đạt tới điểm có thể dự phần tích cực vào cuộc sống mà không bị hút vào giao tranh nhị nguyên – không cho phép thế gian lôi cuốn con vào giao tranh, vào Biển Luân hồi, vào biển khổ đau.

2.6. Suy ngẫm về sự kết hợp các lực cơ bản

Đây là điều con có thể đạt đến bằng cách suy ngẫm tia thứ chín của quân bình. Đại thiên thần của tia thứ chín là Uniel, có nghĩa là kết hợp, tính chất kết hợp của tia thứ chín, kết hợp lực lan ra và lực co lại bằng cách thấy chúng là những biểu hiện của cái Một, của điểm dị biệt.

Và giống như bảy tia sáng đã nảy ra từ điểm dị biệt, thì hai lực lan ra và co lại cũng y như thế. Và khi con thấy được điều này, con ngộ ra là hai lực lan ra và co lại không đối lập với nhau. Chúng không chống đối nhau mà chúng bổ sung cho nhau. Bởi vì nếu không có lực mang khả năng tương tác thì không một hình tướng riêng biệt nào có thể được sinh tạo. Đó là tại sao Thượng đế đã tự thị hiện như là lực lan ra và lực co lại. Phải có sự lan ra để một hình tướng có thể được phóng chiếu lên màn ảnh của Ánh sáng Mẫu-Vật.

Con hãy lấy khái niệm của khoa học về vụ Nổ Lớn (Big Bang). Trong một bùng nổ khổng lồ, tất cả mọi thứ bị văng ra ngoài. À, con yêu dấu, chuyện gì xảy ra khi con dùng chất nổ làm nổ tung một tòa nhà? Cấu trúc ngăn nắp của tòa nhà sẽ bị tan tành, văng ra thành rất nhiều mảnh nhỏ. Cho nên con thấy rõ là nếu chỉ có lực lan ra trong vụ Nổ Lớn thì không một hình tướng mạch lạc nào có thể được tạo dựng. Phải có gì đó cân bằng lại lực lan ra để một hình tướng bền vững có thể được tạo ra và duy trì trong một chiều dài thời gian.

Nếu vậy thì lực lan ra không phải là kẻ thù của lực co lại. Đó là yếu tố đã khởi sự tiến trình sáng tạo và vẫn tiếp tục thúc đẩy sự sáng tạo này tự thăng vượt. Bởi vì một lần nữa, nếu lực co lại được phép hành xử một cách mất quân bình, nó sẽ trở thành điều các thày đã nói đến là định luật thứ hai của nhiệt động học – tức là các cấu trúc sẽ bắt đầu tan vỡ, không phải bởi lực lan ra làm chúng nổ tung, mà vì chúng bị co lại quá đỗi đến độ chúng bị ghiền nát thành hư vô. Và như vậy thì một lần nữa, hình tướng không thể được duy trì.

Cho nên không có thường hằng ở bất cứ nơi đâu trong thế giới hình tướng. Và tất nhiên điều này, tự ngã rất khó lòng chấp nhận. Thật ra tâm đường thẳng phân tích cũng rất khó lòng chấp nhận, vì nó muốn phân loại mọi thứ, xếp mọi thứ vào một kho dữ liệu. Và ngay khi nó vừa làm vậy thì thực tại đã chuyển đổi, đã tự thăng vượt, đã vượt khỏi các quy tắc và luật lệ, thậm chí cả những định luật của tự nhiên mà trí tuệ con người cứ tưởng là rốt cuộc mình vừa khám phá ra. Nhưng sự thật là trí tuệ chỉ xác định được những quy luật không có giá trị gì trong dòng thăng vượt không ngừng của sự sống.

2.7. Bước vào quân bình

Vậy làm thế nào con bước vào quân bình? Đây là thử thách cho đệ tử tâm linh, và thường khi những đệ tử háo hức nhất trong việc áp dụng bảy tia sáng đầu và điều ngự các khai ngộ của bảy tia đầu, lại là người gặp khó khăn lớn nhất để chuyển vào khai ngộ của các tia bí mật. Tại sao vậy? Vì họ đã gây dựng một cái trớn đã đưa họ xa hơn hẳn trạng thái tâm thức trước của họ, vượt hơn hẳn lực kéo hướng hạ của tâm thức đại chúng. 

Con có thấy là để là một đệ tử tâm linh và vươn lên cao hơn tâm thức đại chúng, con phải có một lực đẩy hướng thượng, và đó là sự điều ngự bảy tia sáng đầu? Con có thấy là để các Elohim của bảy tia sáng thị hiện được vũ trụ vật chất, các thày phải có lực đẩy đó hầu phóng chiếu hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật và duy trì hình ảnh suốt một thời gian rất dài?

Cho nên đó là điều con xây dựng khi con điều ngự các khai ngộ trên bảy tia. Nhưng đồng thời cái con cũng xây dựng là cảm nhận rằng con cần phải hành động, con cần phải làm gì đó, thậm chí cả mong muốn đem lại cải tiến cho thế giới, tạo sự khác biệt dứt điểm để đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain, đem lại hòa bình thế giới, tiêu trừ bệnh tật, xây dựng hệ thống chính trị hoàn hảo, xóa sạch nạn nghèo đói hay bất kỳ mục tiêu nào khác trong những mục tiêu chính đáng và sáng giá mà người ta có thể có. Thày không đang bảo là các mục tiêu này không quan trọng, không chính đáng, mà thày bảo là chúng chỉ chính đáng ở một giai đoạn nào đó của đường tu, con yêu dấu.

Và khi con đạt đến mức tia thứ tám và thứ chín, con cần bước lui lại, nhìn bức tranh rộng lớn và thấy là mặc dù con đã gây dựng được một cái trớn hành động đúng đắn, con không thể vượt quá mức này bằng cách cứ tiếp tục hành động đúng đắn.

Con thử nhìn xem Bát chánh đạo – “chánh” cái này, “chánh” cái kia, “chánh” cái nọ. Ở một mức nào đó thì cũng ổn và tốt thôi. Nhưng con không tự động trở thành Phật bằng cách đi theo Bát chánh đạo như một con đường vỏ ngoài và cố tuân thủ một chuẩn mực nào đó. Con chỉ vượt xa hơn mức này khi con nhìn ra là con phải ngừng hành động từ bất kỳ cảm nhận tách biệt nào.

Nếu con nhìn các đệ tử của chân sư thăng thiên trong nhiều đợt truyền giáo một cách trung thực, con sẽ thấy là rất nhiều người vẫn còn bị kẹt trong thế giới quan nhị nguyên đó cho rằng họ phải hành động, họ phải quyết liệt, họ phải diệt trừ chủ nghĩa cộng sản, họ phải khắc phục bệnh tật, họ phải đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain bằng cách chiến đấu chống lại một loại điều kiện nào đó.

2.8. Thăng vượt nhị nguyên để khiến cái ác trở nên vô nghĩa

Nhưng làm vậy sẽ chỉ đưa con bao xa, nó sẽ không đưa con vào các tia sáng bí mật. Vì muốn bước vào tia sáng bí mật, con phải khởi sự ở tia thứ chín là nơi con phải khắc phục cảm nhận tách biệt, những tàn dư của nhị nguyên khiến con nghĩ con phải làm một hành động bù trừ cho hành động ngược lại – nghĩa là để khắc phục cái ác, con phải làm một việc thiện. Ở tia thứ tám, con phải đạt tới cái ngộ là để thực sự khắc phục cái ác, con phải khiến cho các ác trở nên vô nghĩa. Và con không khiến cho cái ác trở nên vô nghĩa bằng cách đánh nhau với nó, chinh phục nó, tiêu diệt nó.

Con chỉ làm cho nó trở nên vô nghĩa bằng cách thăng vượt tầng mức của nhị nguyên, hầu ông hoàng của thế gian có đến cũng không thể nắm được gì nơi con, y không thể kéo con ra khỏi an lạc, không thể kéo con ra khỏi quân bình. Vì vậy trước khi con điều ngự được các khai ngộ của bảy tia đầu, con đã nghĩ mục tiêu là nhằm gây dựng một cái trớn, một lực đẩy, để khi ông hoàng của thế gian đến thì y không thể ngăn cản bước tiến của con. Con yêu dấu, các thày đã cho con ẩn dụ là nếu con đặt một bánh xe trên mặt đất và đẩy nó sang bên, nó sẽ đổ. Nhưng nếu bánh xe đang lăn và con đẩy nó sang bên, nó sẽ chỉ đổi hướng mà thôi. Nó càng lăn nhanh bao nhiêu thì càng ít đổi hướng bấy nhiêu.

Và đây là điều con kinh qua trên bảy tia sáng – con xây dựng động lượng để không có gì trong thế gian có thể đẩy con ra khỏi hướng đi mà con nhìn thấy, là sự tăng triển tâm linh. Nhưng giờ đây con đến tia thứ tám và thứ chín, động lượng này sẽ không đưa con xa hơn, nó sẽ không đưa con vào các tia bí mật.

Thay vào đó, con cần thấy rằng quân bình (equilibrium) không phải là một trạng thái cân đối (balance) giữa hai đối cực nhị nguyên. Quân bình vượt quá tầng mức của nhị nguyên nơi có sự phán xét giá trị giữa thiện và ác, thậm chí có cả khả năng đối chọi. Quân bình thật ra không có nghĩa – trong ý nghĩa xác thực nhất – là con đã cân đối được các đối cực, mà có nghĩa là con đã thăng vượt toàn bộ cái tâm thức nơi sự đối lập có thể có mặt.

Một lần nữa, con có thấy là nếu con nhìn lực lan ra và co lại của Thượng đế – Cha và Mẹ – với tâm đường thẳng thì con sẽ thấy cả hai đối chọi nhau không? Khi áp đặt phán xét giá trị của tự ngã, thậm chí con sẽ nghĩ là một cái có thể tốt và cái kia có thể xấu. Và đây chính là tại sao nhiều người tâm linh cho rằng vật chất là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh của họ, rằng Đấng Mẹ là kẻ thù ngăn cản họ hợp nhất với Đấng Cha, và vì vậy họ kháng cự lại vật chất. Bằng đủ mọi cách họ cố rút lui khỏi đời sống vật chất, ngay cả xác thân. Nhưng đây không phải là một sự phát triển tâm linh quân bình.

Khi con vượt quá tầng mức này, con thấy các lực đích thực của sáng tạo như Đấng Sáng tạo đang thấy – không như đối lập, mà chỉ đơn giản là những cách biểu đạt khác nhau của cái Một. Cách biểu đạt khác nhau nhưng chỉ khác nhau vừa đủ để cho phép những hình tướng riêng biệt có thể xuất hiện từ cái Một – từ cái Một nơi không có gì phân chia.

2.9. Hành động từ sự quân bình

Thượng đế, như một Thượng đế không thể phân chia, không thể tạo ra một hình tướng riêng biệt từ chính mình. Để hình tướng có thể được tạo ra, Đấng Vô hạn phải cho phép mình thị hiện như sự tương tác hữu hạn giữa hai lực. Thế nhưng Đấng Vô hạn không bước vào bên này hay bên kia, thái cực này hay thái cực kia. Đấng Vô hạn trụ nơi sự quân bình mà từ đó hai lực kia đi ra và được biểu đạt. Và vì vậy, Đấng Vô hạn không bao giờ xem chúng là đối nghịch, không bao giờ đồng hóa mình như một đối nghịch phải chiến đấu với đối nghịch kia.

Và đây chính là trạng thái tâm mà cái ta ý thức của con có thể đạt đến, và nó phải đạt đến để có thể vượt qua các khai ngộ của tia thứ chín, tia sáng của quân bình, tia sáng của kết hợp – là tia sáng nơi con nhìn thấy sự hợp nhất đằng sau cái đa dạng, và nhìn thấy sự đa dạng như là một biểu hiện đằng sau hợp nhất. Cho nên con yêu dấu, con có thể hành động từ trạng thái hợp nhất này, từ trạng thái quân bình này, thay vì hành động từ trạng thái nhị nguyên vốn xem mọi chuyện là sự giao đấu giữa hai đối cực nhị nguyên, giữa hai đối nghịch nhị nguyên, mà cứ tưởng là một đối nghịch nhị nguyên phải bị tiêu trừ để vương quốc Thượng đế có thể thị hiện.

Con thấy đó, con yêu dấu, Thời Hoàng kim, vương quốc Thượng đế cho dù con muốn gọi là gì, sẽ không được thị hiện trên trái đất bởi những người hành động quyết liệt, dù hành động này là gì hay có vẻ tốt đẹp đến chừng nào, nếu họ vẫn ở trong trạng thái mất quân bình.

Không một khối lượng hành động mất quân bình nào có thể đem vương quốc Thượng đế đến trái đất. Nhưng đồng thời, vương quốc Thượng đế cũng sẽ không được đem lại bởi những người rút lui khỏi thực tế, ngồi thiền trong hang đá. Họ có thể giữ một sự cân bằng tâm linh giúp cho nhân loại có thời giờ nâng cao tâm thức, nhưng họ không thể đóng góp trực tiếp vào công cuộc đem lại vương quốc Thượng đế bằng cách ngồi trong hang. Con phải bước ra ngoài. Đến như Phật cũng từng bước ra ngoài giảng dạy cho đại chúng hay cho những ai sẵn sàng nhận lời dạy, cũng như con đã thấy Ki-tô đi ra chợ tiếp xúc với mọi người.

Cho nên thử thách ở đây là hành động mà không hành động. Làm mà không làm. Làm từ trạng thái quân bình đó. Và điều này ở mức độ cá nhân, con có thể bắt đầu hiểu được bằng cách xem xét ý định, xem xét động cơ. Trước hết, con có đang cố nâng cao người khác khi con tương tác với họ? Con có đang nâng họ lên để giúp họ thang vượt? Hay con tìm cách nhét họ vào kho dữ liệu của con dựa trên một số phán xét giá trị và dán nhãn họ là thế này thế kia?

Xong con cũng lượng định xem con có đang cho phép mình bị cuốn hút vào cuộc đấu tranh nhị nguyên? Con có bị dính mắc vào hành động và phản ứng của người khác? Con có muốn thấy họ thay đổi hay không? Con có muốn ép buộc họ thay đổi hay không, con yêu dấu? Bởi vì hiển nhiên, nếu con có những dính mắc như vậy thì chúng sẽ kéo con ra khỏi quân bình. Thế là con không còn hành động từ một trạng thái quân bình nữa – từ một trạng thái an bình – mà con hành động từ một trạng thái nhị nguyên. Và như thế, con đang tăng cường cho cuộc giao tranh thay vì chứng tỏ làm thế nào con có thể ở trong thế gian mà không thuộc về thế gian.

Vì vậy đây là những điều con cần suy ngẫm để neo chặt vào tia thứ chín. Nhưng như thày đã nói, con không thể neo trụ hoàn toàn vào đó qua một cái hiểu trí thức mà thôi. Con phải đạt tới điểm mở tâm ra, mở trái tim và mở cả con người của mình vào trải nghiệm chứng ngộ, trải nghiệm kết hợp với trạng thái quân bình này, là khi con nhận biết, con trải nghiệm sự quân bình. Và để điều này xảy ra, hầu hết các con sẽ phải làm gì đó khác hơn những gì con vẫn từng làm cho tới nay.

Con sẽ phải làm việc để cho tâm tĩnh lặng. Con sẽ phải tìm ra cách, con yêu dấu, dành riêng thời gian khi con không hành động – ngay cả không có những hành động như cầu nguyện, đọc chú hay thực tập pháp tu – mà con thiền định, không phải thiền định về một câu chú, một hình tư tưởng, một khái niệm, mà con thiền định về sự tĩnh lặng, con thiền định về sự quân bình, tức là những gì vượt khỏi mọi thế lực đang quyết liệt tranh đấu nhị nguyên để tìm cách kéo con theo hướng này hay hướng nọ.

Cho nên, con yêu đấu, đây là thử thách của tia thứ chín. Các thày sẽ trao cho con thêm lời dạy về các tia bí mật kia để giúp con đáp ứng thử thách này. Các thày sẽ cho con những dụng cụ để con có thể vượt xa hơn và tìm thấy sự tĩnh lặng bên trong, sự quân bình vượt khỏi mọi hành động kéo đẩy của thế gian.

Đến đây thì bài giảng này kết thúc với hơi thở ra của thày. Thày thở ra sự rung động của quân bình cho những ai sẵn sàng và sẵn lòng thu nhận nó [thở ra]. Hãy tĩnh lặng và biết rằng cái TA LÀ trong con chính là Thượng đế.

1 | Tia thứ tám của hòa nhập

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 5, 2009, trong loạt bài về các tia sáng bí mật.

Con hãy tưởng tượng, con yêu dấu, có rất đông người tụ họp để mừng ngày đản sinh của Phật, họ chờ đợi Phật sẽ xuất hiện một cách nào đó nhưng lại chẳng có gì xảy ra. Con có thấy chăng, con yêu dấu, là ngay trong từ ngữ, khái niệm Phật xuất hiện đã là một sự mâu thuẫn. Bởi vì tinh túy của lời dạy của Phật là tất cả mọi thứ đều là Phật tánh. Cho nên nếu Phật xuất hiện dưới một hình dạng cụ thể nào thì điều này sẽ chỉ củng cố cho cảm nhận tách biệt, cảm nhận rằng Phật đang ở kia chứ không ở đây.

Vì vậy khi con suy nghĩ về điểm này, con sẽ thấy là ngay việc thày đang nói chuyện thông qua một sứ giả hữu hình, đưa ra một thông điệp mà tai con nghe thấy – một thông điệp có thể nghe được, có thể đọc được và học hỏi sau này – đấy, ngay cả việc này cũng mang sẵn hiểm họa là người ta có thể cho rằng Phật chỉ có thể xuất hiện thông qua sứ giả này hay sứ giả khác hay dưới một hình dạng cụ thể nào đó, và Phật chỉ có thể nói chuyện qua cách này hay cách nọ.  

Và như vậy con cũng thấy là các thày trong Đại đoàn Thăng thiên khi truyền giảng qua một sứ giả vỏ ngoài để cố đánh thức loài người, quả thật đã chấp nhận một rủi ro có cân nhắc. Thật vậy, đây chính là thử thách mà thày đã phải đối mặt sau khi nhập Niết bàn và cảm được tiếng gọi là mình cần bước ra ngoài giảng dạy. Vì mặc dù các thày đã nói đến thử thách của giọng nói kia bảo rằng sẽ chẳng ai hiểu được lời dạy, nhưng tại sao lại có chuyện không ai hiểu được chứ? À, con yêu dấu, mối nguy lớn nhất là người ta sẽ nhận diện một người đặc thù – một con người hiện thân ở một thời điểm và địa điểm đặc thù – như là Phật, và do đó họ bắt đầu thờ Phật dưới hình dạng đó.

Con thấy chăng, con yêu dấu, chân lý mà thày đã ngộ được – mà thày đã nhập một khi vào Niết bàn – là sự kiện tất cả đều sẵn là Phật tánh. Phật tánh cũng giống như điều mà đạo Cơ đốc thần bí gọi là Lời (Logos). Ban đầu có Lời, và Lời ở cùng Thượng đế, và Lời chính là Thượng đế, và không có Lời thì không có gì được tạo thành.

Đó, Phật tánh cũng vậy, con yêu dấu. Đó chính là nền tảng cho việc sinh tạo thế giới hình tướng. Đó là cái gì cơ yếu mà nếu không có thì không một hình tướng nào có thể được tạo ra. Cho nên một khi thày đã ngộ được điều này – một khi thày đã nhập một với Phật tánh là sự hợp nhất với mọi hình tướng – thì thày cũng thấy được là khi thày quay trở lại thế giới hình tướng và nhận diện mình là bậc giác ngộ, quả thực có một mối nguy rất lớn là những ai sẵn lòng lắng nghe thông điệp của thày, đặc biệt trong nhiều thế kỷ về sau, sẽ bóp méo thông điệp này đi và bắt đầu xây dựng một sự tôn sùng thần tượng quanh hình tướng cụ thể mà thày đã khoác vào như bậc giác ngộ.   

Con yêu dấu, vì vậy mới có những người đạt được một tầm hiểu cao hơn về lời dạy của Phật đưa ra khái niệm: “Nếu gặp Phật trên đường thì hãy giết Phật.” Vì nếu con gặp ai đó mà con nhận diện là Phật bên ngoài con, chính điều này sẽ ngăn cản con ngộ ra là Phật cũng ở bên trong con. Và người kia mà con cho là đặc biệt, là người vượt trội hơn con một cách nào đó, thì chính người đó, thần tượng đó, đang đứng chặn đường dẫn con đến giác ngộ, đến sự tỉnh ngộ về sự thật rằng mọi sự sống là một – bởi vì tất cả đều đi ra từ cùng một tinh túy cho dù con có gọi đó là Phật tánh hay tâm thức Ki-tô hay là Lời.

1.1. Khái niệm tia bí mật nhằm thử thách đệ tử

Vì vậy con thấy đó, điều thày cố cho con qua bài giảng này là một cái hiểu tiếp nối theo những gì đã được các chân sư khác trên bảy tia đầu trao cho con, nó liên hệ thế nào với việc phục hồi sự chữa lành đích thực, và làm thế nào nó có thể cho con thêm một chìa khóa cho sự chữa lành cá nhân của con. Thật vậy trong bài này, thày đến thuyết giảng về tia sáng thứ tám, được gọi là tia của hòa nhập (integration). Nhưng tất nhiên đó là nhiều hơn vậy, bởi vì không tia sáng nào có thể được mô tả bằng một từ duy nhất.

Vậy con nhận ra là sau khi con đã vượt qua các khai ngộ của bảy tia đầu, con đạt đến một điểm mấu chốt khác, vì Mẹ Mary trong các bài giảng [ở Lourdes] đã đề cập đến hình số 8, nơi con khởi sự từ điểm đáy của phần dưới hình số 8 và lần lần bước lên xuyên qua ba tia sáng đầu để đến được điểm nối là tia thứ tư.  Xong thay vì cho rằng mình cần tiếp tục đẩy mạnh theo trớn cũ, con phải đi xuống trở lại, con yêu dấu, con phải đi xuống cứu gỡ những thành phần của chính con vẫn còn kẹt lại trong tâm thức nhị nguyên, kẹt sau tấm màn của Maya và ảo tưởng.

Tuy nhiên một khi con đã làm vậy xuyên qua các các khai ngộ ở tia thứ năm, thứ sáu và thứ bảy, thì một lần nữa con đạt đến một điểm nối khác. Và giờ đây có thể nói là có một hình số 8 khác mà phần dưới tượng trưng cho bảy tia đầu. Và điểm nối này chính là tia thứ tám. Còn phần trên của hình số 8 tượng trưng cho những tia từng được gọi là tia bí mật. Và như vậy trước khi con có thể bắt đầu hiểu được và neo trụ vào các tia bí mật này thì con cần đi qua điểm nối, điểm eo ở tia thứ tám.

Đối với hầu hết mọi người, việc đi qua khai ngộ của bảy tia đầu sẽ được cảm nhận như một quá trình đường thẳng. Thật vậy, đa số sẽ khởi sự với tia thứ nhất, vượt qua một số sáng ngộ ở tầng đó, rồi đi lên tia thứ hai và cứ tiếp tục như vậy. Tuy nhiên khi con đến tia thứ tám, con phải thăng vượt tiến trình đường thẳng này, bởi vì con sẽ không thể hiểu được, không thể hòa điệu được với các tia bí mật qua tâm đường thẳng.

Con yêu dấu, tại sao các thày trong Đại đoàn Thăng thiên lại dạy về sự hiện hữu của những tia gọi là bí mật? Vì nếu các thày thật sự muốn giữ bí mật thì tại sao không im hơi lặng tiếng?

Con thấy đó, các thày có một mục đích khi tiết lộ thông tin là có những tia bí mật vượt quá bảy tia đầu. Tất nhiên về mặt dài hạn, mục đích là các thày không có ý định giữ mãi các tia này bí mật, và lý do các thày vào thời điểm đó đã chưa trao lời dạy đầy đủ hơn là vì, một phần, nhân loại vẫn chưa sẵn sàng cho các khai ngộ của tia bí mật. Phần khác là vì các đệ tử của chân sư thăng thiên cũng chưa sẵn sàng cho việc truyền bá giáo lý về tia bí mật. Con thấy không, con yêu dấu, bằng cách đưa ra một lời bí hiểm, phần nào trêu chọc nếu có thể gọi như vậy, về sự hiện hữu của các tia bí mật – mà thày xin nói ngay là có nhiều hơn năm tia – thì qua lời này các thày đang thử đệ tử của mình.

Phản ứng của đệ tử chính xác là gì khi các thày truyền rải khái niệm về tia bí mật? Họ đáp ứng thế nào? Họ nhìn sự việc ra sao? Một số trở nên tò mò quá đỗi, gần như bị ám ảnh muốn biết tia bí mật là gì, vì họ nghĩ nếu có cách nào họ có thể moi ra bí mật này thì mọi vấn đề của họ sẽ được giải quyết. Họ sẽ nắm được công thức bí mật sẽ cho họ những khả năng trội hơn một đệ tử trung bình và nhờ vậy họ nhảy qua mặt mọi người. Nhưng ai là người, cái gì là cái muốn nhảy qua mặt mọi người chứ? À, chỉ có thể là tự ngã bị kẹt trong nhị nguyên cứ so sánh mình với người khác. 

Cho nên con có thấy sự thử thách cho đệ tử không? Vì thử thách là một quá trình không ngừng, và cũng là lý do tại sao Giê-su bảo rằng người đứng đầu sẽ trở thành người đứng chót và người đứng chót trở thành người đứng đầu. Những ai cho mình là đệ tử cao cấp, rằng mình có khả năng hòa điệu với các tia bí mật, thì họ nghĩ họ có thể biết được gì đó và hiểu được gì đó về các tia này. Và thật như thế, một số đã trở nên gần như ám ảnh về tia bí mật nhưng lại không chịu đi muốt các khai ngộ của bảy tia đầu. Trong khi đó, một số khác tuy nhận được thông tin về tia bí mật đã tập trung chú ý vào việc vượt qua khai ngộ của những tia đã được biết đến công khai, bởi vì suy cho cùng thì đây mới là công việc được đặt ra trước mọi người.

Không ai đã bảo là con phải bắt đầu với khai ngộ của tia bí mật trước khi con đi qua khai ngộ của bảy tia đầu. Và chắc chắn khi không có thông tin nào về tia bí mật được tiết lộ, thì đó phải là một chỉ dấu rõ ràng cho thấy là không một ai – dù mình nghĩ mình đã tiến cao đến chừng nào – đã sẵn sàng cho khai ngộ của tia bí mật. Và như vậy, con yêu dấu, những ai đã tập trung nỗ lực vào các khai ngộ được giao phó – đã đặt trọn tim mình, hồn mình và tâm mình vào công việc này – chính là những người đã vượt lên đầu, là những người sẽ nhận thêm giáo lý về tia bí mật, vì con đã sẵn lòng đương đầu với khái niệm tự ngã cũng như khái niệm khó hiểu và khó nắm bắt về tâm thức nhị nguyên.

1.2. Tự ngã có thể sống sót qua các khai ngộ của bảy tia

Con thấy đó, con rất có thể đi qua khai ngộ của bảy tia sáng mà vẫn chưa hoàn toàn buông bỏ được tâm thức nhị nguyên. Vẫn có thể còn một ngã tách biệt, một tự ngã, một nhân vật tâm linh đã xoay xở để ngụy trang và lẩn trốn, thích nghi với các điểm đạo của bảy tia đầu.

Chuyện này được phép xảy ra. Bởi vì các thày trong tư cách thày tâm linh, không thể đòi hỏi đệ tử của mình phải sạch hẳn tự ngã. Các thày không thể đòi hỏi một trạng thái toàn hảo, và các thày không đòi hỏi bất cứ trạng thái toàn hảo nào. Cho nên đúng vậy, con được hưởng một thời kỳ có thể gọi là đặc ân khi con đi qua các khai ngộ của bảy tia đầu, qua đó con có thể vẫn còn một yếu tố tự ngã, vẫn còn một vai trò mà con đang đóng. Thậm chí con có thể tạo hẳn một vai trò cho việc tham gia đường tu tâm linh, qua đó con cố tạo dựng một nhân vật toàn hảo, một bộ trang phục toàn hảo, một vai tuồng toàn hảo trong vở kịch ăn khớp hoàn toàn vói môi trường tâm linh đặc thù của con.

Cho nên điều này đã khiến cho một số đệ tử tin rằng họ thuộc về tia thứ năm chẳng hạn – hay “tôi thuộc tia thứ bảy,” “tôi thuộc tia thứ nhất,” hay “tôi là ngọn lửa xanh,” hay “tôi là tình thương” hay điều này điều nọ. Và như thế họ xây dựng một nhân cách tâm linh dường như rất mạnh mẽ trên một tia sáng nào đó, thậm chí có thể là một niềm tự hào rằng mình đang có những đặc tính đó của tia sáng đó.

Giờ đây đệ tử đạt tới mức cần phải bước lên cao hơn và khởi sự cuộc khai ngộ của tia thứ tám. Nhưng như Mẹ Mary có nói trong bài giảng của thày, những gì đã giúp con thành công trong khai ngộ của bốn tia đầu sẽ không đưa con lên tia thứ năm. Con phải từ bỏ cái trớn đó, sự xông lên đó, và hạ mình xuống, quay trở lại giải quyết cho xong mọi thiếu sót.

Đấy, khi con vượt qua khai ngộ ở tia thứ bảy của tự do cũng vậy, để có thể bước vào khai ngộ của tia thứ tám, con sẽ lại phải đi qua một sự hàng phục toàn diện và vô điều kiện. Con không thể chuyển vào khai ngộ của tia thứ tám nếu con còn nhận diện mình như thuộc về một tia nhất định trong số bảy tia đầu. Cho nên bất kể động lượng nào con nghĩ con đã đạt được trên một tia nào đó, thì động lượng này phải hàng phục. Con phải buông bỏ cuộc sống đó để leo lên cao hơn và bước vào khai ngộ của tia thứ tám.

Con yêu dấu, đây là một điều cần thiết tuyệt đối. Vì con thấy không, trong bảy tia đầu con có thể bước lên cao hơn trong khi vẫn còn sót một chút tự ngã mà dường như con có thể che giấu khỏi mắt thày. Tất nhiên, ngược với những gì người ta có thể nghĩ về đường tâm linh, không gì có thể ẩn giấu khỏi các vị thày chân chính. Các thày trong Đại đoàn Thăng thiên vượt cao hơn mọi khía cạnh của tâm thức nhị nguyên, và điều này nghĩa là gì? Có nghĩa là, con yêu dấu, sau khi đã nhìn xuyên thấu mọi khía cạnh của tâm thức nhị nguyên trong chính bản thể mình, tất nhiên các thày cũng có thể nhìn xuyên thấu nhị nguyên trong bản thể con.

Có rất nhiều đệ tử đã rơi vào ảo tưởng mà Giê-su nói đến: “Tại sao họ lại tin rằng những gì họ có thể giấu lẫn nhau cũng giấu được khỏi mắt Thượng đế?” Thậm chí có những người tiếp cận được một vị thày chân chính – dù là một sứ giả hay một đạo sư – nghĩ rằng họ đã giấu được gì đó khỏi mắt đạo sư. Trong một số trường hợp, họ giấu được như vậy là vì đạo sư không nhất thiết nhìn vào mọi chuyện xảy ra trong tâm thức họ, cho nên đệ tử có thể xây dựng một ý niệm tự ngã, một nhân cách nào đó, tưởng rằng nó có thể ăn gian mà vẫn vào được thiên đàng – một cách nào đó nó có thể lẻn vào tiệc cưới mà không mặc áo cưới. Nó tưởng là nó có thể ngụy trang tâm thức nhị nguyên để khoác vào một hình dạng toàn hảo, rập khuôn một số quy chuẩn tâm linh, đến độ Thượng đế phải cho nó vào vương quốc của ngài.

Nhưng con thấy đó, không phải vậy đâu. Tuyệt đối không phải vậy đâu. Con có thể bắt đầu một chu kỳ mới đi qua cả bảy tia sáng một lần nữa, và con vẫn có thể bước trên đường tu tâm linh khi con sẵn lòng đi qua các khai ngộ này. Nhưng có những người không chịu hạ mình xuống đi lại một lần nữa, cho rằng các khai ngộ này quá thấp đối với họ do tất cả những gì họ đã hoàn thành trong việc phụng sự vỏ ngoài, hay tất cả những khai ngộ nội tâm mà họ đã thực hiện trên bảy tia đầu. Và như thế họ bị kẹt lại trong vùng đất hoang nơi họ có thể phô trương đồ đẹp của họ, phô trường các “thành đạt” tâm linh của họ giống như một con công. Tuy nhiên, họ vẫn bị kẹt ở tầng mức đó và sẽ không lên được cao hơn cho đến khi họ chịu buông bỏ một cách vô điều kiện những thành tựu mà họ tưởng đã đạt được trên đường tu để bước vào khai ngộ của tia thứ tám.

1.3. Các khai ngộ của tia thứ tám

Tia thứ tám không dành cho kẻ nhát gan, vì ở tia thứ tám không gì có thể được che giấu. Ngay cả việc nhận biết tia thứ tám là gì, con cũng không thể làm được xuyên qua tâm thức nhị nguyên. Tất nhiên con có thể phóng chiếu một hình ảnh nhị nguyên lên các tia bí mật y như con có thể phóng chiếu một hình ảnh nhị nguyên lên bất cứ gì. Nhưng con sẽ không bắt gặp cho dù một hé thoáng về các tia bí mật xuyên qua phin lọc của tâm thức nhị nguyên. Con hãy lưu ý sự khác biệt vi tế ở đây – con có thể hé thấy bảy tia đầu mặc dù con vẫn còn một số yếu tố tâm thức nhị nguyên. Con có thể, trong một thoáng, nhìn xa hơn tâm thức đó và thấy được đặc tính đích thực của một tia sáng là gì, con có thể hòa điệu với nó. Nhưng con không thể làm chuyện này quá bảy tia, con không thể làm chuyện này với tia thứ tám và cao hơn.

Các tia bí mật có tên là bí mật chính vì đối với những ai trong tâm thức nhị nguyên, chúng sẽ mãi mãi bí mật. Đối với tự ngã, tia bí mật sẽ mãi mãi bí mật. Đối với ông hoàng của thế gian và các thày giả trên thế giới, tia bí mật sẽ mãi mãi bí mật.

Tại sao như vậy, con yêu dấu? À, nếu con vẫn còn một yếu tố tự ngã thì vì lý do gì con vẫn còn tự ngã đó chứ? Con đã bước chân trên đường tu tâm linh từ nhiều kiếp rồi. Suốt nhiều năm trong kiếp này, con đã học hỏi giáo lý, con đã thực hành nhiều pháp tu, con đã tiến bộ thật sự. Thế nhưng vẫn còn một yếu tố tự ngã.

Và tại sao con đã giữ tự ngã này với con? Con yêu dấu – và có thể con không thấy được chuyện này một cách ý thức – nhưng việc giữ tự ngã với con cho con một lợi thế mà con chưa sẵn sàng buông bỏ. Có một điểm lợi gì đó cho cái ta ý thức khi nó giữ tự ngã với nó. Có gì đó mà cái ta ý thức không cần phải làm. Có quyết định nào đó mà cái ta ý thức không cần phải lấy khi tự ngã vẫn còn đây – vì tự ngã sẽ lấy quyết định này giùm cái ta ý thức, hay nó sẽ giúp cái ta ý thức dễ biện minh hơn cho quyết định này. Và như vậy con thấy đó, trên bảy tia đầu có một số đặc tính của mỗi tia sáng mà tự ngã có thể nhận thức như một điểm lợi. Tự ngã có thể nhìn vào một tia đặc thù, phủ một lớp nhị nguyên lên đặc tính của tia sáng, và nó có thể thấy là nó dùng được lớp phủ này để cho nó một lợi thế nhất định.

1.4. Tự ngã nhìn bảy tia đầu như thế nào

Con yêu dấu, các thày đã cho con khái niệm về tâm thức nhị nguyên luôn luôn có hai đối cực nghịch nhau. Vậy hãy để thày cho con một tóm lược ngắn gọn về cách tâm thức nhị nguyên nhìn bảy tia đầu như thế nào.

Tia thứ nhất là tia của ý chí và uy lực. Hiển nhiên ở một đối cực nhị nguyên là những người có một ý chí rất mạnh. Tự ngã có thể thấy là bằng cách củng cố ý chí mạnh mẽ này nơi một đệ tử, nó có thể khiến y làm hầu như bất cứ gì nó muốn nhân danh một lợi ích cao cả nào đó. Do đó con thấy một số người trên đường tu có ý chí mãnh liệt, sẵn sàng bẻ cong ý chí của người khác phải đi theo mình. Họ gia nhập một tổ chức, nghĩ rằng họ biết rõ mọi chuyện phải được tổ chức ra sao, và họ bắt đầu bảo các thành viên kia, hay ngay cả những người lãnh đạo hay sứ giả, đáng lẽ phải làm thế nào trong quá khứ và sẽ phải làm thế nào từ giờ trở đi. Có những người luôn nghĩ là họ biết chuyện hơn, biết hơn cả chân sư thăng thiên, vì họ đã trói chặt vào tâm thức của các sa nhân nguyên thủy vốn nghĩ mình biết rõ hơn cả Thượng đế.

Ở đối cực bên kia là những người không có ý chí gì hết, không muốn lấy quyết định riêng, không muốn lên tiếng về bất cứ gì. Họ chỉ muốn xuôi theo dòng tâm thức đại chúng, kể cả tâm thức đại chúng trong một tổ chức tâm linh. Cho nên trong các tổ chức tâm linh có những người xem mình rất mạnh trên tia thứ nhất, và họ tin đây là một đức tính cần thiết, vì nói cho cùng, phải có người đứng ra lãnh đạo, chỉ thị những ai không muốn lấy quyết định cho riêng mình. Họ sử dụng quyền lực theo cách họ tin là chính đáng, nhưng họ không nhìn ra là họ hoàn toàn xa rời thực tế của tia thứ nhất – tức là có uy lực nhưng không bao giờ lạm dụng, tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết của người khác giống như các chân sư trên mọi tia sáng cũng tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết. Và như vậy, con thấy có mối quan hệ đồng phụ thuộc giữa những người đã tha hóa ý chí và khiến nó trở nên quá mạnh mẽ, với những người tha hóa ý chí bằng cách không muốn lấy bất cứ quyết định nào.

Tương tự như vậy ở tia thứ hai, có những người cho là họ biết mọi chuyện, hiểu mọi chuyện. Họ nghiên cứu học hỏi và có thể bàn hàng giờ về những chi tiết nhỏ nhặt nhất trên đường tu – như thày này nói thế này, thày kia nói thế kia, và mọi chuyện thật sự vận hành ra sao. Song song lại có những người không muốn học hỏi, không muốn hiểu, không muốn biết, nhưng muốn được chỉ bảo phải làm gì. Con tìm thấy những người này ngay cả trong các tổ chức của chân sư thăng thiên, và tất nhiên họ rất đông đảo trong các tôn giáo truyền thống. Họ muốn đi lễ nhà thờ mỗi chủ nhật và phải có mục sư hay linh mục giảng đạo cho họ từ trên bục cao, dạy dỗ họ như thể họ là trẻ con không biết gì.

Và cũng thế ở tia thứ ba của tình thương, có những người đưa tình yêu đến một cực đoan nhị nguyên là tình yêu chiếm hữu, kiểm soát. Họ cho rằng việc kiểm soát rất tốt cho người bị kiểm soát, vì họ biết rõ đâu là điều tốt nhất cho người đó, cho nên nhân danh tình yêu, họ phải kiểm soát người đó. Tất nhiên lại có những người tha hóa tình yêu đến độ họ không thương yêu được bất cứ gì. Và nếu con không yêu gì hết – kể cả chính mình – làm sao con có thể đứng lên bảo vệ bất cứ gì, làm sao con có thể lên tiếng bảo vệ mình?

Ở tia thứ tư của tinh khiết, có những người trở nên vô cùng phán xét. Họ bảo chỉ có những hoạt động này là trong sạch, và những ai kiêng khem không làm những chuyện ô uế kia mới là đệ tử chân chính. Nhưng ở đối cực ngược lại là những người bước vào tu duy mà Giê-su gọi là tư duy xám. Những người này nghĩ: “Ồ, chẳng có gì thật sự quan trọng, chẳng có gì thật sự xấu xa. Không có hình thức âm nhạc nào tệ hơn một hình thức âm nhạc khác. Không có thức ăn nào tệ hơn loại thức ăn khác. Tôi có thể làm bất cứ gì tôi muốn, thật chẳng hề chi.” Và như vậy họ cứ thỏa thích làm bất cứ gì tình cờ đi vào đời họ mà không có chuẩn mực nào hết. Cả hai cực đoan, tất nhiên, đều không nhìn ra sự thật trong lời dạy rằng đối với người trong sạch thì mọi chuyện đều trong sạch. Nhưng câu này không có nghĩa là người trong sạch sẽ buông thả làm bất cứ chuyện gì có mặt trên hành tinh. Họ chỉ không dính mắc thôi. Họ không dùng ý chí vỏ ngoài để dằn lòng kiêng khem các hoạt động đó. Họ không nhất thiết bị khó chịu khi bước vào một nơi công cộng đang chơi một loại nhạc nào đó, nhưng họ cũng không đặc biệt tìm kiếm loại nhạc này. Họ chỉ giản dị bước qua mà không để cho nó dính vào mình.

Xong tất nhiên ở tia thứ năm của sự thật, một lần nữa lại có những người đưa sự thật đến một cực đoan nhị nguyên khi họ tin rằng chỉ có một sự thật duy nhất, hay đúng hơn, chỉ có thể có một cách diễn đạt duy nhất về sự thật. Đây là điều con thấy nơi những ai tin rằng chỉ có một bộ kinh đặc biệt nào đó – cho dù là Kinh thánh, kinh Qur’an, kinh Vệ Đà hay bất cứ bộ kinh nào khác – mới nắm được chân lý. Thậm chí có những người theo giáo lý của chân sư thăng thiên mà tin rằng chỉ có một sứ giả chân chính độc nhất, chỉ có một tổ chức chân chính độc nhất, và có thể nhét các chân sư vào một cái hộp tư duy xinh xắn, và các chân sư đã không truyền giảng cho ai khác trước hay sau tổ chức này. Trong khi đó ở đối cực bên kia là sự tha hóa của sự thật khi người ta bảo: “Ồ, không có gì là sự thật, vì triết lý nào cũng hay ho như triết lý nào.” Hoặc người ta đưa ra quan điểm bất khả tri (agnostic): “Làm sao chúng ta có thể biết cái gì là thật? Không ai có thể chắc chắn được.” Và như vậy một lần nữa, tôn giáo nào cũng tốt như tôn giáo nào, hoặc nữa, tất cả tôn giáo đều sai hết, bởi vì tất cả đều cho mình là đúng và lời tuyên bố này không thể nào đúng cho mọi tôn giáo.

Ở tia thứ sáu của an bình, có những người đưa sự thật đến mức cực đoan, tin rằng an bình chỉ có thể đạt được bằng cách trấn áp mọi quan điểm bất đồng, khống chế mọi khác biệt và cưỡng ép mọi người phải tuân theo lý tưởng mà mình đeo đuổi. Và ở đối cực ngược lại là điều con đã chứng kiến nơi phong trào hippie vào những năm 60, cho rằng mọi thứ đều tốt, rằng chẳng có gì là thật sự quan trọng. Hay như một số người thường nói: “Mọi chuyện tốt hết.” Nhưng nghĩa là gì chứ, con yêu dấu? Mọi chuyện có thể nào tốt hết chăng khi 2/3 nhân loại đang sống dưới mức nghèo đói? Làm sao có thể xem đó là tốt được? Vân vân.

Ngay cả trên tia thứ bảy của tự do cũng có những người làm tha hóa tự do và tin rằng tự do là một điều cần được bảo vệ chống lại mọi kẻ thù của tự do. Tự do này chỉ có thể đảm bảo một khi con tiêu diệt kẻ thù của con, giống như chính quyền Mỹ vừa rồi – chính quyền Bush – tin rằng họ chỉ có thể đảm bảo tự do của nước Mỹ bằng cách tiêu diệt những ai họ dán nhãn là kẻ thù của tự do. Thế nhưng ở phía bên kia của thang điểm, lại có những người cho rằng bất cứ gì cũng ổn thỏa, bất cứ gì cũng tốt thôi. Con có thể làm bất cứ gì con muốn mà vẫn thoát trừng phạt, bởi vì nói cho cùng, sau cuộc đời này thì làm gì có cuộc đời nào khác. Người ta chỉ sống đúng một kiếp, cuộc sống không có mục đích nào cả, và con chỉ là một con thú thông minh. Con có quyền làm bất cứ gì con muốn khi con còn ở đây vì con chỉ có một cơ hội sống mà thôi.

1.5. Sự tha hóa các tia sáng liên hệ thế nào với chữa lành

Cho nên con yêu dấu, 14 dạng tha hóa vừa kể – hai tha hóa cho mỗi tia trong bảy tia sáng – đều có một chức năng đặc thù. Chức năng này chính xác là gì và nó liên quan thế nào với sự chữa lành cá nhân? Con yêu dấu, con thử nhìn chữ “bệnh tật” mà xem [disease trong tiếng Anh là dis-ease, nghĩa gốc là không an lạc, không thoải mái]. Bệnh tật là điều gì kéo con ra khỏi an lạc.

Các thày đã cho con khái niệm Dòng sông sự Sống. Khi con ở trong Dòng sông sự Sống, cuộc sống an lạc thoải mái. Con xuôi chảy theo Dòng sông sự Sống. Như Giê-su đã nói: “Cha rất vui lòng ban cho con vương quốc.” Khi con tự điều chỉnh để thuận theo sự thật ẩn giấu trong câu nói đó, con dễ dàng xuôi chảy với cuộc sống. Mọi chuyện đến với con một cách dễ dàng, và điều này nghĩa là gì? Nghĩa là con không phải vật lộn. Con không phải vật lộn để đạt được bất cứ gì con thật sự mong muốn, bất cứ gì con thật sự cần đến như một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con – dù rằng khó mà lòng nói là con cần bất cứ gì, vì Sứ vụ Thiêng liêng không tùy thuộc vào việc con cần gì mà việc con để cho xuôi chảy. 

Và như vậy, cái gì kéo con ra khỏi dòng chảy của Dòng sông sự Sống chính là nguyên nhân của bệnh tật. Cái đó cuối cùng sẽ rỉ xuyên qua ba thể cao của con – bản sắc thể, trí thể, cảm thể – xong nó bắt đầu trào xuống cơ thể vật lý nơi nó tác động đến chính các tế bào, các nguyên tử, thế là giờ đây cơ thể biểu hiện bệnh tật. Vì vậy các thày đã trao truyền một số lời dạy về mối liên hệ giữa các trạng thái tâm thức với bệnh tật. Nhưng con thấy không, nếu con thực sự đào sâu 14 dạng tha hóa mà thày vừa cho con, con sẽ thấy là mỗi chứng bệnh mà nhân loại biết đến dều có thể đặt ở đâu đó trên một trong những thang điểm, ở đâu đó giữa hai đối cực nhị nguyên là những dạng tha hóa của một tia sáng và các đặc tính của tia sáng này.

Tất cả mọi bệnh tật đều có thể đặt ở đâu đó trên dải quang phổ này. Và như vậy con thấy được là kỳ thực, bằng cách vượt qua các khai ngộ của bảy tia sáng đầu tiên – bằng cách thực sự giải quyết các bế tắc, các dính mắc, các tha hóa – thì con có thể chữa lành mọi bệnh tật mà con người biết đến. Như các thày đã nói trong bảy phần truyền giảng đầu, con làm vậy bằng cách thăng vượt chính tâm thức mà bệnh tật trình chiếu ra ngoài. Tuy nhiên, mục đích của thày khi đem lại cho con hiểu biết này là để giúp con nhận ra là các con, những người tâm linh, có thể không đang biểu hiện một chứng bệnh chỉ vì con bị kẹt trong một dạng tha hóa nhị nguyên của một tia sáng đặc thù.

Rất có thể con đang biểu hiện một chứng bệnh vì một lý do sâu xa hơn, cụ thể là để chứng tỏ cho mọi người trên thế giới thấy làm cách nào vượt lên trên, không chỉ một điều kiện nhất định nào đó, mà cả điều kiện rộng lớn của tâm thức nhị nguyên đã tạo ra sự vật lộn của cuộc sống. Điều thày đang giải thích ở đây có thể gọi là hai tầng mức khai ngộ khác nhau. Có rất nhiều người – hầu hết mọi người trên thế giới – vẫn còn ở  một mức tâm thức có thể gọi là học trò. Họ đang học hỏi, họ đang nỗ lực tiến tới xuyên qua khai ngộ bảy tia, và họ có thể mang đủ loại bệnh tật biểu hiện trong cơ thể họ do họ bị kẹt, trong kiếp này hay những kiếp trước, vào một dạng tha hóa đặc thù của một trong bảy tia sáng. Họ không sẵn lòng bước lên cao hơn, buông bỏ dạng tha hóa đó, lời dối đó, dính mắc đó – con muốn gọi là gì cũng được. Và rốt cuộc cái đó thể hiện ra như bệnh tật trong cơ thể vật lý.

Tuy nhiên các con là người tâm linh, các con không ở đây vì là học trò. Các con ở đây vì là thày giáo. Và các con đã đến đây để chứng tỏ cho người khác thấy làm cách nào mình có thể vượt lên trên các điều kiện gây giới hạn nói trên, kể cả bệnh tật vật lý nhưng còn hơn thế, tức là tâm thức đứng đằng sau chứng bệnh, và xa hơn nữa là chính tâm thức phải tranh đấu vật lộn. Cho nên điều con cần nhìn nhận ở đây là một số các con quả thật đã qua được các khai ngộ của bảy tia đầu, nhưng con vẫn biểu hiện một chứng bệnh vì con đã nhận lấy một trạng thái tâm thức cao hơn, là nhiệm vụ giúp mọi người nhìn xa hơn tâm thức nhị nguyên.

1.6. Con ở đây để dạy điều gì?

Vì vậy điều sẽ giúp con hoàn thành sứ vụ của mình chính là con ý thức được tia sáng thứ tám và các tia bí mật tiếp theo, hầu con nhận ra là điều kiện của con – dù là một chứng bệnh vật lý hay một loại hạn chế tâm lý nào đó – cũng nằm trong sứ vụ của con. Nó có thể nằm trong sứ vụ của con theo nhiều cách khác nhau. Ở một đầu, có thể con đã chuốc lấy một căn bệnh để chứng tỏ cách vượt lên trên nó. Nhưng ở đầu kia, có thể con đã chuốc lấy căn bệnh để chứng minh là một người có thể sống một cuộc đời trọn vẹn, hạnh phúc và an bình trong khi phải chịu một điều kiện tưởng chừng sẽ khiến mình mất khả năng sinh hoạt.

Vì xét cho cùng, cơ thể không thể nào hạn chế được Tánh linh trừ khi Tánh linh cho phép cơ thể làm vậy, hay trừ khi Tánh linh quyết định chấp nhận cơ thể như một giới hạn cho sự biểu đạt của mình. Cho nên đây là điểm nơi các con, những người tâm linh hơn – không phải những người bị kẹt trong niềm kiêu hãnh là mình biết hết mọi chuyện, mà ngược lại các con nhận ra là có nhiều điều hơn để biết, các con cảm thấy có gì mình chưa nắm bắt được, chưa nhìn thấy được mà lại rất mong mỏi nhìn thấy – à con yêu dấu, đây là điểm các con có thể được lợi lạc từ sự hiểu biết về tia thứ tám cùng các tia bí mật tiếp theo sau.

Đây chính là lý do tại sao các thày đã quyết định khởi sự tiết lộ thông tin về các tia này, hầu con có thể bắt đầu hòa điệu với chúng và đạt được một góc nhìn khác về đời mình, về sứ mạng của mình, về mục đích của mình khi ở đây – để con có thể đạt tới điểm khi chính con, tức là Tánh linh, được an lạc bất chấp những căn bệnh trong cơ thể muốn tước đi sự an lạc của mình.

1.7. Khai ngộ đặc thù của tia thứ tám

Vậy đâu là khai ngộ ở tia thứ tám? Đó là việc hòa nhập những hiểu biết mà con đã thu thập trên bảy tia đầu. Nhưng chính xác con sẽ hòa nhập những gì? Con đến một điểm eo, nhưng thế nào là một điểm eo, điểm nối?

Đó là điều các nhà khoa học của con gọi là điểm dị biệt. Một điểm dị biệt có thể được hình dung như một cái chấm cực kỳ nhỏ đến mức nó không có bề mặt trong không gian. Con cũng biết là một hình chụp in trên báo được tạo thành từ rất nhiều những cái chấm rất nhỏ, sát nhau đến độ mắt người không thể nhìn thấy. Rất có thể con đã thử nhìn hình chụp trên báo qua kính lúp để cố thấy được từng cái chấm riêng lẻ. Và điều con thấy là mỗi chấm có một diện tích trên mặt giấy – con có thể đo đường kính, chiều rộng của nó.

Nhưng một điểm dị biệt giống như một cái chấm nhỏ vô tận đến độ không có bề mặt. Nghĩa là gì? À con yêu dấu, không có bề mặt trong không gian nghĩa là không có gì để phân chia. Các thày đã cho con khái niệm là con có thể phân chia khoảng cách giữa số 0 và số 1 ra từng khoảng nhỏ càng ngày càng nhỏ hơn, và con có thể cứ tiếp tục chia mãi như vậy. Một điểm dị biệt không ăn nhập gì với khái niệm phân chia mãi mãi.

Một điểm dị biệt được tiếp cận qua một bước nhảy vọt lượng tử, khi con nhận ra là điểm dị biệt không hề có bề mặt cho nên cũng không thể được phân chia. Đối với bảy tia sáng, điều này có nghĩa gì? Có nghĩa là khi con bước theo khai ngộ của bảy tia, con vươn lên cao hơn trong phần dưới của hình số 8, xong con đến điểm eo và con thấy cả bảy tia đi ra từ một điểm dị biệt. Có nghĩa là mặc dù con đã có thể thấy chúng hoàn toàn riêng rẽ, nhất là ở các tầng thấp hơn trên đường tu, thì giờ đây con thấy chúng xuất phát từ cùng một nguồn. Chúng khởi lên từ một điểm dị biệt.

Ngay cả bảo rằng chúng xuất phát từ ánh sáng trắng cũng không đúng, như khi con thấy ánh sáng trắng được lăng kính chia ra thành nhiều màu sắc của cầu vồng. Bởi vì màu trắng vẫn là một màu. Không, con ạ, chúng xuất phát từ một điểm dị biệt không có đặc tính, không có hình tướng. Và điểm dị biệt này chính là Lời, là Phật tánh. Đó là một thứ không có bề mặt trong không gian và vì vậy không thể được phân chia. Vì không thể phân chia nên nó không thể mang vào một hình tướng hay những đặc tính phân biệt nó với một thứ khác. Chính vì vậy mà mọi thứ là Phật tánh. Chính vì vậy mà không có Lời thì chẳng có gì được tạo thành.

Đây là điểm xoay chuyển, là sự xoay chuyển tâm thức chấn động mà con đạt đến ở tia thứ tám, khi con nhìn nhận là cả bảy tia đi ra từ cùng một chất liệu – Phật tánh, Lời, tâm thức Ki-tô, con muôn gọi thế nào cũng được. Và như vậy thì ảo tưởng tách biệt là đúng vậy đó – một ảo tưởng. Và khi con nhận ra tất cả mọi thứ trong thế giới hình tướng được tạo thành từ sự tương tác giữa bảy tia, xong con thấy cả bảy tia đều đến từ một chất duy nhất, thì mọi thứ trong thế giới hình tướng phải đi ra từ một chất duy nhất. Và do đó ở cùng cực, mọi sự phân chia đều không thực.

Thế thì con bắt đầu nhìn thấy những gì Phật nhìn thấy. Không phải vì Phật thấy mọi chuyện là Phật tánh thì Phật sẽ nhìn thế gian và nói: “Mọi chuyện đều tốt hết.” Không đâu, Phật nhìn với con mắt phân biện biết rõ cái gì an lạc và cái gì không an lạc – bệnh tật. Vì bất cứ gì khởi lên từ ảo tưởng tách biệt, bất cứ gì có thể đặt lên cùng thang điểm với hai đối cực nhị nguyên, bất cứ gì tách biệt khỏi dòng chảy của Dòng sông sự Sống, thì cái đó là bệnh tật.

Khi con rơi vào trong đó thì nó chỉ có thể kéo con ra khỏi an lạc. Con được ban cho quyền tự quyết, như các thày đã giảng trong các bài trước. Con có quyền tuyệt đối tạo dựng cho mình bất cứ trải nghiệm nào con mong muốn. Và trong một khuôn khổ khá rộng rãi về thời gian lẫn không gian, con có thể tiếp tục có trải nghiệm này bao lâu cũng được cho đến khi con nhàm chán. Chỉ có con mới có thể quyết định khi nào đủ là đủ.

Nhưng cái bẫy, tất nhiên, là một khi con tạo ra một trải nghiệm dựa trên tâm thức nhị nguyên thì con cũng trải nghiệm điều kiện đó, hoàn cảnh đó, xuyên qua phin lọc của tâm thức nhị nguyên. Có nghĩa là con chỉ có thể thấy nó theo một cách nhị nguyên. Có nghĩa là sẽ có cái gì đó chống lại điều kiện của con, trạng thái tâm con, cho nên bắt buộc cuộc sống phải biến thành vật lộn. Đây chính là ý nghĩa đích thực về Tứ diệu đế cùng với khái niệm rằng cuộc sống là đau khổ. Cuộc sống được trải nghiệm qua phin lọc nhị nguyên là đau khổ, vì cài sẵn trong trạng thái tâm thức nhị nguyên là cuộc vật lộn không bao giờ ngưng nghỉ. Nó sẽ không bao giờ ngưng nghỉ chừng nào con còn nhìn thế giới, chừng nào con còn trải nghiệm thế giới, xuyên qua phin lọc đó.

1.8. Hãy biết con là HƠN NỮA

Vì vậy ở tia thứ tám, con phải đạt tới điểm nhìn thấy trọn vẹn con là nhiều hơn bất kỳ trải nghiệm nào mà con đã có hay có thể có trong thế giới hình tướng. Con là một Tánh linh bất diệt. Con là cái các thày đã gọi là cái ta ý thức, như một phần nối dài của Bản thể Đấng Sáng tạo.

Làm sao con sẽ có thể hòa nhập sự hiểu biết và thành tựu mà con đã thu hoạch trên bảy tia đầu nếu con không đạt tới điểm ngộ ra là cái ta thực của con, cốt lõi của bản sắc con, cái Ta Biết của con khởi lên từ điểm dị biệt đó, và nhờ vậy nó mang tiềm năng khuếch trương vượt xa tầm nhìn địa phương mà con đã có cho tới giờ?

Con sẽ học được gì ở tia thứ tám khi con hòa nhập bảy tia đầu? Con thấy đó, qua bảy tia đầu con đã nhìn cuộc sống xuyên qua lăng kính của một tia đặc thù và các đặc tính của nó. Nhưng ở tia thứ tám, con bước lui lại khỏi cả bảy và con nhìn thấy bức tranh rộng lớn. Viễn quan rộng lớn. Con thấy thực tại bao trùm toàn bộ tấm thảm của cuộc sống, của hơi thở vào và hơi thở ra của Thượng đế, của các chu kỳ vũ trụ, của mục đích cao rộng trong việc tăng trưởng tự nhận biết, là mục đích duy nhất đằng sau thế giới hình tướng.

Và giờ đây con thấy lý do thật sự tại sao con ở đây, trong tư cách một sinh thể trưởng thành về mặt tâm linh, là để giúp đánh thức loài người thức dậy trong viễn quan rộng lớn này. Giúp họ nhìn ra cuộc sống là nhiều hơn, rằng có một cách khác ngoài sự vật lộn, một trạng thái tâm thức khác hơn. Và giờ đây con có thể bắt đầu thấy được, theo cách Giê-su diễn tả, sự cần thiết từ bỏ đời sống của mình cho một người bạn. Bởi vì con mang trong con tình thương rộng lớn đã khiến con sẵn lòng bước vào hiện thân – hay có lẽ trở về hiện thân sau khi đã hội đủ điều kiện thăng thiên, và một phần của con đã thăng thiên nhưng con lại quay trở về như cái ta ý thức mà con là.

Và như vậy con đã đến đây để chứng tỏ qua tấm gương của mình làm cách nào để là HƠN NỮA, làm thế nào để an lạc trong Dòng sông sự Sống, làm thế nào để xuôi chảy thay vì chống cự ngược dòng. Có rất nhiều chứng bệnh khác nhau, nhưng vượt trên mọi chứng bệnh đặc thù là căn bệnh bao quát – sự không an lạc khi con nhìn cuộc sống như một cuộc giao tranh mà cứ đinh ninh là không thể có cách sống nào khác. Nếu ai ai cũng giao tranh thì làm sao biết được có một cách tốt hơn, làm sao biết được là có gì HƠN NỮA, trừ khi có ai đó bước vào hiện thân và chứng tỏ rằng HƠN NỮA là một con đường mà người ta không thể làm ngơ, không thể phủ nhận? Vì chính con đang chứng tỏ quá rõ ràng đến độ một số người sẽ hiểu.

Con yêu dấu, thày kết thúc bài giảng này ở đây, một bài giảng tiếp nối theo lời dạy của các thày về sự chữa lành. [Ở điểm này, Gautama trao một số lời dạy không liên hệ, sau đó thày kết luận] Với lời này, thày đã giảng xong, nhưng thày sẽ lại nói chuyện với con vào ngày mai, và chúng ta sẽ bắt đầu nói về tia sáng được biết đến trước đây như tia sáng bí mật thứ nhất, nhưng kể từ nay sẽ được biết đến như tia thứ chín, con yêu dấu. Thày chúc con một buổi tối an vui.

Tia thứ Ba: Con luôn luôn xứng đáng nhận tình thương

Bài truyền đọc do Đại thiên thần Charity cùng với Paul người Venice, ngày 18/4/2009, qua trung gian Kim Michaels.

“Và dù ta nói với giọng của con người và của thiên thần, nhưng nếu không có lòng từ thiện, thì ta không là gì cả.” Con yêu dấu, những lời trên đáng suy ngẫm. Các con mới nghe một bản nhạc truyền đạt sự hùng vĩ của sự rung động của đại thiên thần. TA LÀ Charity (Từ thiện). Các con yêu dấu, thày đến đây để cho các con ý niệm từ thiện thực sự là gì.

Thực sự thì từ thiện không hẳn là chữ đúng, nhưng vì ngôn ngữ có giới hạn nên không có một từ nào bày tỏ một cách đúng đắn rung động đằng sau nó. Các con, dùng ngôn ngữ và sự hiểu biết của mình, có thể tìm ra một từ thích hợp hơn, và đúng thực, đó là “vô điều kiện tánh”. Đây là sự rung động được bày tỏ qua Tia thứ Ba, bình thường được gọi là Tia thứ Ba của Tình thương.

Tình thương, như nhiều từ khác, với thời gian đã mang một lớp vỏ nhị nguyên khiến nó trở nên hầu như vô dụng. Do đó, tình thương vô điều kiện, lẽ dĩ nhiên là một khái niệm thích hợp hơn. Nhưng tại sao không chỉ giản dị gọi là vô điều kiện tánh?

Dòng Sông sự Sống là gì? Nó là sự biểu lộ vô điều kiện của bất cứ đặc tính nào của Thượng đế. Không ai có thể nào tiến xa hơn trên con đường tâm linh mà không thực sự hòa điệu với sự rung động của vô điều kiện tánh – giống như con đã nghe thày Lanto giảng, hòa điều với sự rung động của minh triết.

Có rất nhiều người trong các phong trào tâm linh và tôn giáo hiểu được nhu cầu vươn lên trên lòng ích kỷ, tính vị kỷ và các hình thức biểu lộ thấp khác. Điều mà họ tìm cầu là hòa điệu với sự rung động của tình thương, nhưng đó là tình thương nhị nguyên là đối cực của sợ hãi, giận dữ, hận thù. Lẽ đương nhiên tình thương, theo nghĩa thiêng liêng, không có đối cực vì nếu nó có đối cực thì nó đã không thiêng liêng.

Như Chân sư MORE đã nói, sa nhân có ảo tưởng vĩ đại là họ đang chống đối Thượng đế. Ta chỉ có thể chống đối cái gì thuộc cõi nhị nguyên, do đó họ chỉ chống đối một hình ảnh khô chết của Thượng đế. Nhiều người không chống đối gì cả nhưng họ muốn đi vào tình thương. Nhưng nếu con muốn hòa điệu với một hình ảnh khô chết, thì làm sao con có thể chạm được tình thương thật sự? Như thày Lanto đã giải thích, điều này không thể xảy ra được.

7.1. Con hãy suy ngẫm vô điều kiện tánh

Do đó, ta cần suy ngẫm về vô điều kiện tánh. Vô điều kiện tánh. Đó thực sự là lý do vì sao các thày đã trao truyền khái niệm rằng ở một mức nào đó của con đường tâm linh, con cần ngưng ý muốn thay đổi chính mình. Cách duy nhất để vượt qua ảo tưởng cuối cùng của cái ta tách biệt là chấp nhận chính mình – một cách vô điều kiện – như gì con là.

Khi các thày giảng về hai tia đầu, con đã nghe về nhu cầu làm bước chuyển vọt này. Thày, cùng với thày Paul người Venice, tới đây để cho con tầm nhìn của Tia thứ Ba.

Làm sao con có thể tiến lên Tia thứ Tư của tinh khiết nếu con không hòa điệu với vô điều kiện tánh? Phải chăng chính điều kiện đã biểu hiện bợn nhơ trong tâm và thân thể con – ngay cả trong thân vật lý của trái đất, mà ta có thể thấy qua bao nhiêu sự bất quân bằng và thiên tai trong môi trường thiên nhiên?

Một lần nữa, không có công thức bí mật hay thần bí nào có tác dụng tự động. Khái niệm con không thể và không xứng đáng biểu lộ tình thương, khái niệm đó chính là vấn đề.

Tình thương là một lực vô điều kiện muốn được biểu lộ. Con không cần làm gì để trở thành cánh cửa mở cho vô điều kiện tánh biểu lộ. Có điều kiện nào mà con cần hội đủ chăng để biểu lộ cái vô điều kiện – tình thương vô điều kiện tự nó tuôn chảy và tuôn chảy và thăng vượt và tăng triển và biểu lộ, bất kể điều kiện như thế nào?

Một lần nữa, con có thấy chăng là điều này không thể xảy ra, điều này hoàn toàn phi lý và chỉ có cái ta tách biệt mới có thể tin như vậy? Con hơn cái ta tách biệt. Khi con còn nắm chặt khái niệm là con cần tới một trạng thái toàn hảo nào đó – trước khi con xứng đáng và có khả năng nhận lãnh tình thương của Thượng đế tuôn chảy xuyên qua con – khi con còn thấy mình tách biệt với dòng chảy của tình thương, thì tình thương không thể tuôn chảy. Nó sẽ không chấp nhận bất cứ điều kiện nào.

Con có quyền chấp nhận điều kiện cho chính mình. Nhưng con đừng rơi vào cạm bẫy của tâm thức vi tế của những sinh thể đã hoàn toàn tự đồng hóa với tâm thức nhị nguyên, và do đó đã cao ngạo tin rằng họ đang là một đối cực chống lại Thượng đế. Con không thể hạn chế Thượng đế, con không thể hạn chế tình thương, con không thể hạn chế sự biểu hiện của tình thương.

Hoặc con để nó tuôn chảy, hay nó sẽ tuôn chảy vòng quanh con. Không thể có cái gì ở giữa. Con có thể nghĩ có cái gì ở giữa, vì con người từ rất lâu đã tạo ra hình ảnh nhị nguyên, tương đối của tình thương, như là đối cực của hận thù, giận dữ, sợ hãi v.v.. Một số người đã trở nên thiện nghệ trong việc tạo một bề ngoài thương yêu và nhân từ.

Con có thể thấy ở nhiều nơi, ngay cả ở trung tâm chữa lành này, là có một số người đã rất thiện nghệ trong việc tạo một hình ảnh, như người đại diện một tổ chức thế gian. Hoặc con có thể tìm tới những người khiêm tốn suốt ngày đứng giúp người khác bước qua vũng nước chữa lành, và con có thể tìm thấy nơi họ một biểu lộ tình thương không gượng dối, không điều kiện. Biểu lộ này được tảy rửa trong ước muốn giúp người khác.

7.2. Khắc phục nỗi sợ bị ruồng bỏ

Tình thương không muốn sở hữu. Khi nó không muốn sở hữu, thì cũng có nghĩa nó không cần được đền đáp. Con hãy xem xét nỗi sợ biểu lộ tình thương vì sợ bị ruồng bỏ. Khi con có nỗi sợ bị ruồng bỏ, thì con chưa hòa điệu với sự rung động của vô điều kiện tánh. Khi tình thương được biểu lộ vô điều kiện, thì làm sao con có thể sợ bị ruồng bỏ?

Làm sao tình thương vô điều kiện có thể bị ruồng bỏ? Tình thương vô điều kiện tự nó đầy đủ. Nó vui sướng khi chỉ đơn giản được biểu lộ, khi nó tự biểu lộ, khi nó tuôn chảy.

Khi con nghĩ con phải biểu lộ tình thương cho một người mà thôi – và con muốn tình thương đó được người đó đón nhận, ngay cả là được đón nhận một cách nào đó – thì con đang không ở trong dòng chảy của tình thương vô điều kiện. Con đang hòa điệu với rung động thấp của tình thương có điều kiện. Con vẫn có thể có tình thương đối với một người khác, con vẫn có ý muốn biểu lộ tình thương đó, nhưng con chưa đạt tới tiềm năng cao nhất. Con sợ bị ruồng bỏ, hay con muốn sở hữu, hay được đền đáp một cách nào đó.

Khi con nghĩ con cần điều gì từ một người khác hay từ nguồn nào đó trong vũ trụ vật chất, thì con cảm thấy thiếu thốn. Con có tâm thức thiếu hụt. Con nghĩ con thiếu điều gì, và người nào khác phải tới để lấp đi sự thiếu hụt đó, lấp đi lỗ hổng đó, để con có thể trọn vẹn. Đó là một ảo tưởng.

Ngay cả khái niệm ngọn lửa song sinh – tức là có một người là ngọn lửa song sinh của con và do đó ngọn lửa song sinh đó là tình thương toàn hảo có thể khiến con trọn vẹn – đó cũng không phải là mức hiểu biết cao nhất. Ngọn lửa song sinh tâm linh thực sự của con là cái ta cao của con, là Hiện diện TA LÀ của con. Chỉ khi nào con hợp nhất với thì con mới đầy đủ, mới trọn vẹn.

7.3. Vô điều kiện tánh và sự chữa lành

Những điều trên soi sáng ra sao khái niệm chữa lành? Nó có nghĩa là con không thể tự chữa lành khi còn trong tâm thức cho rằng mình cần chữa lành. Con không thể trở nên trọn vẹn với tâm thức thấy mình không trọn vẹn.

Cách duy nhất để thoát ra khỏi thế tiến thoái lưỡng nan này là thăng vượt ảo tưởng là con không trọn vẹn. Điều này thoạt nghe giống như một thế tiến thoái lưỡng nan khác. Làm sao con có thể thăng vượt ảo tưởng mình không trọn vẹn khi mình đang cảm thấy mình không trọn vẹn?

Nhưng sự thực là con có thể làm được – khi con nhận ra sự kiện con là ai. Con là một sinh thể có tự nhận biết, và như Chân sư MORE đã giảng, con đã được ban cho quyền tự quyết hoàn toàn. Con có tự do sáng tạo mọi trải nghiệm mà con mong muốn trải nghiệm. Làm sao con tạo ra một trải nghiệm? Bằng cách khoác vào một bộ y phục, một vai trò, và nghĩ: “Đây là người TA LÀ”. Như các thày đã giảng, dù con có đồng hóa mình với ý niệm bản sắc tách biệt đó biết bao nhiêu chăng nữa, thì con vẫn là gì con là.

Con có tiềm năng nhận ra và thừa nhận con là ai. Con có tiềm năng nói: “Không phải là một lực bên ngoài – đây có thể là rắn, hay lực bên ngoài nào khác, cũng có thể là Thượng đế vỏ ngoài muốn trừng phạt tôi – đã khiến tôi rơi vào cảm nhận mình không trọn vẹn. Đó là kết quả của một số chọn lựa mà tôi đã lấy.”

Khi con nhận ra chính con đã chọn lựa rơi vào cảm nhận không trọn vẹn, thì điều hợp lý là con có quyền năng thay đổi những chọn lựa đó. Con có thể thay đổi chúng bằng chọn lựa khác đem con trở lại với trọn vẹn, hay đúng hơn, mang con ra khỏi ảo tưởng là con đã tách biệt khỏi sự trọn vẹn. Vì đúng thực, làm sao con có thể tách biệt khỏi cái vô điều kiện?

“Vô điều kiện” có nghĩa là có mặt khắp nơi. Con không thể tìm ra một chỗ nơi đó tình thương vô điều kiện của Thượng đế vắng mặt. Điều này không thể có được.

Con giống như con cá chối bỏ nó đang ướt. Thày cũng biết là loài cá thường được coi là không thông minh, nhưng tuy thế, con cũng thấy nếu một con cá nghĩ như vậy thì thật là lếu láo.

Lẽ dĩ nhiên, con nhận ra là tự ngã không khôn ngoan lắm – tuy nó nghĩ nó khôn ngoan, tuy có người nghĩ nó khôn ngoan. Đúng thực là con có thể, như một số người đã làm, man trá tạo cho mình một đia vị khiến nhiều người trong thế gian coi tự ngã của con khôn ngoan hay xuất sắc một lối nào đó. Tuy thế, khi con có thể bắt đầu cười tự ngã, thì con đã bắt đầu tách ra khỏi nó.

7.4. Vô điều kiện tánh trong quan hệ con người

Đúng thực là có nhu cầu nhìn nhận tình thương không phải là tình yêu lứa đôi trịnh trọng mà con thấy mô tả trong phim, kịch, sách hay tranh vẽ. Con yêu dấu, ta không nên nhìn tình thương với thái độ trịnh trọng.

Nếu con coi tình thương trịnh trọng, thì đó chỉ có thể là tình thương có điều kiện. Khi con hòa điệu với tình thương vô điều kiện của Thượng đế, con chỉ đơn giản trôi theo Dòng Sông sự Sống. Do đó, con chỉ cảm thấy vui mừng.

Con hãy xem xét tình cảnh con nghĩ con thương yêu một người khác, nhưng con không cảm thấy vui mừng. Con cảm thấy căng thẳng, con sợ bị ruồng bỏ, hay con cảm thấy người kia phải thương con trở lại và phải cư xử một cách nào đó. Con thực sự đang tìm cách – nếu con thành thật với chính mình – giới hạn người kia thay vì cho người kia tự do. Con có thấy chăng là tình thương vô điều kiện không bao giờ tìm cách giới hạn ai cả, mà chỉ muốn tất cả mọi người trở nên HƠN NỮA, và tự do trôi theo Dòng Sông sự Sống? Vậy làm sao con có thể tạo trong tâm hình ảnh là chỉ có một người duy nhất trên trái đất xứng đáng được nhận lãnh tình yêu của con, và con nhất định tình yêu này phải được đáp trả? Nếu không được vậy thì con rơi vào trạng thái kịch cỡm mà con thấy trong các vở kịch là con muốn chết thay vì bị ruồng bỏ. Con có thấy sự hài hước trong đó chăng? Đây đúng là một màn trong một hài kịch thiêng liêng, như người xưa nói, tuy đây không phải là sự thiêng liêng thực sự mà chỉ là một hình ảnh của sự thiêng liêng do con người tạo ra.

Con hãy cười sự trịnh trọng của mình khi con nghĩ tới tình yêu. Con hãy trút bỏ bộ áo diễn kịch của vai trò người tình trịnh trọng. Con hãy đơn giản trút bỏ nó! Con hãy trở nên người tình vui vẻ vì con nhận ra con là người yêu dấu của một người tình vĩ đại, là Người Tình Thiêng liêng thương yêu con như người yêu dấu của ngài.

Đúng thực là cái ta cao của con, Hiện diện TA LÀ của con, chính là Người Tình Thiêng liêng của con, thương yêu con như người con yêu dấu duy nhất. Nếu con muốn nhận được tình yêu cho chính cá nhân mình, con đừng nên tìm nơi một người khác vì không ai cho con được. Con hãy tìm nơi cái ta cao của con. Con hãy đầy đủ trong tình yêu đó.

Lúc đó con có thể, khi con đã hoàn toàn chào đón và chấp nhận sự đầy đủ đó, tiến thêm bước nữa và nhập một với dòng chảy của tình thương. Qua đó, con trở thành một với Người Tình Thiêng liêng, và nay con trở thành Người Tình Thiêng liêng đang hiện thân – là cánh cửa mở cho dòng chảy của tình thương. Con là cánh cửa mở cho lực thương yêu mọi sự sống và tìm cách nâng cao mọi sự sống. Lúc đó làm sao con có thể rơi vào cạm bẫy của ảo tưởng cho rằng tình yêu của con phải chuyên chú vào một người mà thôi?

Có phải chăng là thày đang nói là con không thể có môt quan hệ thương yêu giữa một người nam và một người nữ? Không, thày không nói vậy. Thày chỉ nói là con sẽ không bao giờ có một quan hệ thành công, một quan hệ thể hiện được tiềm năng cao nhất của nó, nếu con không tự giải thoát khỏi lớp vỏ của điều kiện tánh – và qua đó con cũng giải thoát người bạn đường của con. Quan hệ của con trở nên một quan hệ vui vẻ, vui đùa, tuôn chảy không bị gò bó bởi giới hạn, điều kiện, mong chờ, lên án, và cảm nhận tình yêu không được đáp trả.

7.5. Vì sao con muốn lên thiên đàng?

Như Chân sư MORE có nói, nếu cách con sống đời tâm linh không dựa trên sự vui mừng, thì tâm linh đâu có nghĩa lý gì? Vì sao con muốn lên thiên đàng nếu con nghĩ thiên đàng sẽ khiến con khổ sở? Vì sao con lại muốn có một quan hệ tình yêu nếu con nghĩ nó sẽ khiến con khổ sở?

Con hãy thay đổi nhận thức của mình. Con hãy bước ra ngoài điều kiện tánh và chào đón vô điều kiện tánh. Con có cảm thấy là con không thể buông bỏ tình yêu đối với một người nào đó? Đó chính là một điều kiện. Nếu con còn bám chặt nó, thì con sẽ khổ sở và có thể con cũng khiến người kia khổ sở luôn.

Lẽ dĩ nhiên, thày là biểu hiện của tình thương vô điều kiện của Thượng đế và thày thương yêu con vô điều kiện – dù con chọn muốn mình khổ sở. Tình thương của thày không có điều kiện, và do đó con sẽ nhận tình thương đó bất kể con nghĩ gì về chính mình. Dù con có nghĩ – vì điều gì con đã làm hay đã không làm – là con không xứng đáng nhận tình thương của thày, nhưng không phải vậy.

Nếu con không thể buông bỏ cảm nhận mình không xứng đáng – nếu con đã học pháp, đã đọc các bài nguyện, hay đã thực tập thiền hay các hình thức thực tập tâm linh khác mà vẫn cảm thấy bị kẹt trong một điều kiện nào đó – thì con có một chọn lựa cuối. Con hãy ngưng tìm cách thoát ra khỏi điều kiện, con hãy chào đón nó.

Chuyện gì xảy ra khi con đi vào một trạng thái rung động thấp, khi con chấp nhận một điều kiện nào đó? Con chấp nhận rằng, vì điều kiện đó, con không thể để cho tình thương tuôn chảy tự do và vô điều kiện. Nó phải được biểu hiện hay không được biểu hiện tùy theo một tiêu chuẩn nào đó. Đó chính là điều khiến con cảm thấy không trọn vẹn. Con khóa dòng chảy từ thể cao của con, dòng chảy của vô điều kiện tánh chảy xuống từ Hiện diện TA LÀ của con đang tìm cách nâng mọi sự sống lên. Đó chính là lý do vì sao con cảm thấy khổ sở. Con cảm thấy, vì điều kiện này hay điều kiện kia, con không thể thương yêu.

Do đó, con hãy thương yêu điều kiện đang khiến con nghĩ con không thể thương yêu. Con hãy thương yêu cảm nhận mình đang khổ sở. Nếu con có thể thương yêu điều mà nhiều người cho là không thể thương yêu, thì con không còn tách biệt với dòng chảy của tình thương. Chắc hẳn là một ngày nào đó, con sẽ thức tỉnh và nói: “Hay quá, tôi không còn khổ sở nữa.” Lúc đó, con hãy đi theo niềm hân hoan của mình.

7.6. Hãy nghĩ tới việc sử dụng uy lực của âm nhạc

Các thày, là đại diện của Tia thứ Ba, muốn lưu ý con về uy lực của âm nhạc. Hầu hết các con đã nhận ra là, trong suốt cuộc đời mình, có những bản nhạc nâng cao tâm hồn mình và giúp mình hòa điệu. Có thể là con không nhận ra điều này với tâm vỏ ngoài, nhưng các bài nhạc đó đã giúp con hòa điệu với một rung động bên ngoài tâm thức bình thường của con, qua đó giúp con hoà điệu với một rung động vượt quá điều kiện của con. Nếu con cảm thấy tâm hồn bay bổng qua âm nhạc, thì con hãy dùng âm nhạc. Con hãy tìm loại nhạc nâng tâm hồn con lên vì nó biểu lộ dòng chảy của Dòng Sông sự Sống.

Con đừng chỉ nghe những khúc nhạc đó khi con lái xe, rửa chén hay làm những việc tay chân khác. Con hãy thỉnh thoảng vào một căn phòng nơi con có thể ở một mình và không bị quấy rầy. Con hãy bắt đầu bản nhạc, tắt đèn, nằm xuống giường sao cho chỉ có tối thiểu trọng lực kéo thân thể con xuống. Sau đó con cho phép âm nhạc đưa con theo dòng chảy của nó cho tới khi con nhận ra mình tới không gian thiêng liêng của vô điều kiện tánh. Con bỗng nhiên nghe thấy đằng sau bài nhạc âm thanh của chính sự sống. Con yêu dấu, khi con nghe âm thanh đó, tiếng ngân của vũ trụ, con sẽ có được, một lần nữa, một sự đồng-đo lường, một trải nghiệm của tình thương thực sự khi nó vô điều kiện.

Con có thể dùng trải nghiệm này để có một cái nhìn khác về cuộc đời và thấy là điều kiện tánh lấy đi cảm giác nổi lềnh bềnh khi không có điều gì lôi kéo con về một điều kiện nào đó, một vai trò và bộ y phục trong màn kịch của vũ trụ vật chất. Đây không phải là trốn tránh – khi con dùng nó không để trốn chạy các vấn đề mà con đang phải đương đầu. Con dùng nó để có một tầm nhìn khác về các vấn đề của mình, để con nhận ra con không một với vấn đề. Con hơn nữa, vì con đã trải nghiệm là con hơn nữa.

Con có nghĩ chăng là người yêu kịch nghệ mà thày nói tới có thể nổi lềnh bềnh trong không gian kỳ diệu? Không đâu, vì y quá chìm đắm trong chính mình và các điều kiện của y, và không thể buông bỏ chúng. Nhưng con thì con có thể! Cái ta thật của con có thể trải nghiệm vô điều kiện tánh. Chỉ khi nào con đã trải nghiệm , thì con mới thật sự biết là có cái gì bên ngoài thế giới điều kiện. Chỉ khi nào con biết nó, thì con mới có thể tiến lên bước tới là nhập một với nó. Lúc đó con thấy mình trước tiên là đối tượng của tình thương của Người Tình Thiêng liêng, sau đó con nhập một với Người Tình Thiêng liêng và con thấy – con là cánh cửa mở của – tình thương muốn được biểu lộ đối với mọi sự sống. Đây là chìa khóa để vượt qua ý niệm tình thương giả, tình thương có điều kiện.

7.7. Thân thể không phải là kẻ thù của con

Con không thể giản dị ép mình phải thương yêu một người hay thương yêu căn bệnh của mình, hay ép tình thương của mình biểu lộ cách nào khác. Con chỉ có thể hòa điệu với trạng thái vô điều kiện và để nó tuôn chảy – để nó tuôn chảy.

Con yêu dấu, điều này nghĩa là gì? Khi con nghĩ về nó một cách trung thực, con sẽ thấy là có rất nhiều chuyện trên thế gian mà con không muốn thấy, con co rút lại trước chúng, con rút lui khỏi chúng, con mong muốn chúng không hiện hữu. Chắc chắn đây là điều hiểu được, khi ta thấy tình trạng của thế giới.

Tuy nhiên, thực tế là khi có điều gì con không muốn thấy, thì con nghĩ, con cảm thấy, con có cảm giác là con không thể biểu lộ tình thương với cái đó. Con cảm thấy là cái đó không xứng đáng được thương yêu. Con phải là vị quan tòa và phải giữ lại tình thương để nó không tuôn chảy qua con tới điều kiện đó hay người đó hay nhóm người thuộc tôn giáo hay chủng tộc đó, hay bất cứ cái gì khác phân chia con người.

Khi con bắt đầu khóa dòng chảy của tình thương, thì chuyện gì đương nhiên sẽ xảy ra? Con người của con, thể thấp của con, trở thành một hệ thống khép kín. Khi đặc tính này lan qua bốn thể phàm của con và tới thể vật lý, thì con bị bệnh.

Lúc đó con nghĩ là thân thể của con đang chống đối lại con. Con sợ không dám nhìn vào tình trạng thân thể, con mong muốn không thấy nó, con muốn chạy trốn nó, như thày Lanto đã giảng. Con nghĩ con không thể nào thương yêu điều đang tàn phá thân thể của con.

Con đang làm gì trong tiến trình này? Con đang nói là những tế bào bị ung thư, con không thể thương yêu chúng. Nhưng các tế bào này đang làm gì? Chúng đang trải bày một trạng thái tâm thức đã khiến con khóa dòng chảy của tình thương. Khi con nói là con không thể thương yêu các tế bào đang trải bày tâm thức đó, thì làm sao các tế bào đó có thể giải thoát chúng khỏi bệnh trạng đó?

Con phải nhận ra là tế bào không có sự tự nhận biết giống như con. Chúng chỉ có thể trải bày những gì được phóng chiếu lên chúng. Khi con phóng chiếu một hình ảnh không thương yêu khiến chúng mang một bệnh – hoặc bệnh ung thư hay bệnh nào khác – và sau đó con củng cố thêm bằng cách phóng chiếu hình ảnh khác là các tế bào đó phải bị tiêu diệt và bứng ra khỏi thân thể con – vì con không thương yêu chúng, có thể con tức giận hay thù hận chúng – thì làm sao các tế bào đó thoát được hai gánh nặng mà con đặt lên chúng?

Con là người duy nhất có thể phá được vòng lẩn quẩn đó. Con làm điều này bằng cách nhận ra là chính sự thiếu thốn tình thương đã khiến các tế bào của con trải bày thành căn bệnh. Cách chữa lành thật sự duy nhất là tái lập dòng chảy của tình thương – và con phải là người làm công việc tái lập đó. Con yêu dấu, con không cần phải thương yêu căn bệnh. Nhưng con cần thương yêu các tế bào để con thương yêu chúng thoát căn bệnh – thoát để tự do phơi bày trạng thái cao hơn của sự duy nhất, của sự khỏe mạnh toàn hảo.

Như thày Lanto đã giảng, ta có thể thấy minh triết ở khắp nơi. Có minh triết trong các tế bào của con. Chúng không có tự nhận biết, nhưng chúng có minh triết của Mẹ Thiêng liêng biết cách thể hiện sức khỏe toàn hảo – nếu chúng được phép trải bày đặc tính bên trong chúng. Có phải chăng là Thượng đế đã viết luật của ngài lên tạng phủ của con? Khi con thương yêu các tế bào tự do, chúng sẽ biết cách rũ bỏ bệnh ung thư hay các chứng bệnh khác và trải bày tình trạng khỏe mạnh tự nhiên của chúng.

7.8. Tình thương của thày lúc nào cũng sẽ có mặt

Thày đang ngưng lại để ghi nhận dòng tâm thức trở ngược về từ các con – các sợ hãi và nghi ngờ những gì các thày đã nói với con trong bài này và các bài trước. Thày đang hấp thụ tâm thức đó. Sự kiện con nghi ngờ lời thày, con sợ không dám đem ra áp dụng, không có nghĩa là thày không thương yêu con. Thày thương yêu con bất kể con phản ứng ra sao hay không phản ứng lại lời nói và sự rung động của thày. Tình thương của thày vô điều kiện, vượt thời gian. Nếu con không thể chấp nhận nó lúc này, thì con đừng lo lắng. Con không cần chê trách mình vì con không thể tức khắc chấp nhận điều con nghe thấy.

Thày muốn con biết là thày sẽ luôn luôn có mặt. Tình thương của thày sẽ luôn luôn có mặt. Nếu con không thể chấp nhận nó lúc này, thì bất cứ lúc nào con có thể chấp nhận nó, con đừng rơi vào cạm bẫy của ảo tưởng cho rằng vì con không thể chấp nhận thày trong quá khứ, thì con cũng không thể chấp nhận thày bây giờ, vì con không xứng đáng. Con đừng nên tạo ra thêm những lớp ảo tưởng bên trên ảo tưởng.

Con hãy nhớ lời thày: tình thương của thày vô điều kiện. Con không cần hội đủ điều kiện nào để xứng đáng nhận lãnh nó. Con chỉ có hai chọn lựa: hoặc con chấp nhận, hoặc con chối bỏ. Tình thương thày vô điều kiện, do đó nếu con chối bỏ nó, thày không bị ảnh hưởng bởi sự chối bỏ đó.

Thày sẽ tiếp tục thương yêu con vô điều kiện. Bất kể con lúc này chối bỏ tình thương của thày mạnh mẽ như thế nào chăng nữa, bất cứ lúc nào trong tương lai khi con quyết định trút bỏ bộ y phục, thì tình thương của thày vẫn có đó để con chấp nhận. Tự ngã của con muốn con nghĩ là không thể như thế. Nhưng sự thực là như thế.

Trong quá khứ đã như thế.

Trong tương lai cũng sẽ như thế.

Đó là sự thực về tình thương. Đó là tình thương thực sự. Nếu con muốn tách ra khỏi tình thương của thày, nếu con muốn chối bỏ nó, thì thày vẫn thương yêu con vì con chối bỏ thày. Bất kể con cảm nhận ra sao, con nghĩ gì, thày vẫn thương yêu con.

Tình cảm và tư tưởng là hình ảnh phù du đi qua tâm con người. Con hãy ngưng máy chiếu phim thì con sẽ thấy là màn ảnh cuộc đời vẫn trắng, bất kể hình ảnh nào đã được phóng chiếu lên đó. Cốt lõi con người con, cái Ta Biết của con, là một tấm màn trắng, có nghĩa là dù con được tạo ra với cá thể, con không được tạo ra với điều kiện. Con yêu dấu, con đã không được tạo ra với bất cứ điều kiện nhị nguyên nào.

Con được tạo ra với đặc tính cá biệt vô điều kiện. Thày biết rõ là tâm đường thẳng của con không thể thấu hiểu khái niệm này. Nhưng phải có một cách diễn tả bằng lời khiến con suy nghiệm, cho tới khi con tới điểm chuyển đổi nhận thức. Con nhận ra vô điều kiện tánh có thật, và các điều kiện không có thật, các điều kiện này chỉ đang che khuất tấm màn trắng bằng cách khiến con chú tâm vào những hình ảnh phù du không thể nào thỏa mãn con người thật của con, lòng khát khao tình thương thật của con.

Làm sao bất cứ tình thương nào đến từ cõi vật chất có thể thỏa mãn lòng khao khát tình thương bẩm sinh của con? Lòng khao khát bẩm sinh của con là lòng khao khát nhập một với cái con là, cái ta cao của con. Đó là lòng khao khát trầm mình trong Dòng Sông sự Sống bằng cách thực thi vai trò mà cái ta cao đã tạo ra cho con – đó là một người đồng sáng tạo và thể hiện nước Trời trong vũ trụ vật chất.

7.9. Hãy hòa điệu với tình thương

Lời của thày đến với các con qua trung gian một người đang hiện thân trong cõi vật chất, và điều không thể tránh được khi con hiện thân, là khả năng thương yêu của con có giới hạn. Chắc chắn là không ai đang hiện thân có thể đồng thời ở trong sự viên mãn của tâm thức thăng thiên – cũng là sự viên mãn của vô điều kiện tánh. Con hãy đừng chú tâm vào người sứ giả bên ngoài. Con hãy vượt quá hình tướng bên ngoài, con hãy vượt quá âm thanh của lời nói, con hãy vượt quá ngôn từ.

Con hãy theo ngôn từ như theo một dòng tâm thức dẫn tới sinh thể thật mà TA LÀ. Thày là một với đẳng cấp Tình thương Thượng đế, tình thương vô điều kiện và tất cả các sinh thể đang biểu lộ vô điều kiện tánh đó. Con hãy theo dòng tâm thức đó và nhận ra là khả năng thương yêu của thày quả thật vô biên. Thày có thể nhận lãnh và tiêu trừ bất cứ điều kiện nào mà con muốn buông bỏ. Như phần kết của bài truyền đọc này, thày cho con cơ hội buông bỏ vào dòng tâm thức của thày mọi điều mà con muốn buông bỏ. Con đã nói, với Chân sư MORE: “Đủ rồi, như vậy là đủ rồi”. Do đó, thày sẽ để vị sứ giả đọc những câu sau đây trong lúc con buông bỏ.

[Sứ giả đọc những lời dâng lên từ bên trong;]

Tình thương là một dòng suối tuôn chảy, một suối nguồn của vô điều kiện tánh, giống như dòng nước cứ chảy, chảy qua các tảng đá – ngay cả loại đá cứng nhất – và soi mòn chúng, từng chút từng chút một. Nó mềm mại hơn tảng đá rất nhiều, và tâm đường thẳng không thể hình dung là nó có thể soi mòn tảng đá. Nhưng, tình thương chính như thế. Nó tuôn chảy vô điều kiện, và nếu nó có vẻ như đang không chảy về đâu, nếu có vẻ là con người không nhận nó và không thay đổi, nó vẫn không ngừng chảy. Qua nhiều ngàn năm, nó sẽ soi mòn tảng đá rắn chắc của cái ta tách biệt.

Quả thật Người Tình Thiêng liêng sẽ không bao giờ bỏ rơi người yêu dấu, sẽ không bao giờ ngưng tuôn chảy, sẽ không bao giờ ngưng cho ra. Rốt cuộc các điều kiện khó khăn nhất sẽ bị soi mòn bởi dòng chảy của tình thương, dòng chảy vĩnh hằng, không thể ngăn chặn, vô điều kiện của tình thương. Phải chăng là các điều kiện đều được cấu tạo bởi các thành phần nhỏ hơn, như con biết tảng đá được cấu tạo bởi phân tử và nguyên tử, và nhỏ hơn nữa, bởi các hạt hạ nguyên tử li ti cấu tạo nguyên tử. Tình thương tuôn chảy có thể chỉ bứng đi được một hạt hạ nguyên tử của tảng đá, nhưng tuy thế, đó vẫn là một sự thay đổi.

Tình thương tuôn chảy không nản chí nhưng luôn luôn được khích lệ và do đó cứ tuôn chảy mãi và bứng đi một nguyên tử, và một nguyên tử nữa, và một nữa, và một nữa. Chẳng bao lâu, Dòng Sông sự Sống đục được một khe núi trong nền đá của tâm thức con người. Tuôn chảy, tuôn chảy, tuôn chảy mãi mãi. Con hãy thấy là ngọn núi hùng vĩ nhất cũng bị soi mòn dần dần bởi nước mưa mềm mại từ trời đổ xuống, như giọt nước mưa mềm mại của tình thương rơi xuống người chính đạo và người bất chính, sự xấu xa và sự tốt lành.

Với tình thương, không có gì chính đạo hay bất chính, không có gì xấu xa hay tốt lành. Tình thương tuôn chảy không điều kiện, hoàn toàn không có điều kiện nào. Với tình thương, điều kiện không có thực chất và không thường hằng. Tình thương biết rằng nếu nó tiếp tục tuôn chảy, thì nó sẽ soi mòn những điều kiện khó khăn nhất. Ngay cả những trái tim khô cứng nhất cũng sẽ bị soi mòn bởi dòng chảy không thể ngăn chặn của tình thương.

Một ngày nào đó. trái tim đó sẽ nhìn lại chính nó và nói: “Tại sao tôi cứ tách mình ra khỏi dòng chảy của tình thương? Tôi đã chán ngán kinh nghiệm tách biệt. Bây giờ tôi hiếu kỳ muốn biết tôi sẽ cảm thấy thế nào khi ở trong dòng chảy của tình thương.” Bỗng nhiên nó buông mình vào dòng chảy như đập vỡ nước – và bỗng nhiên Dòng Sông sự Sống bị ngăn chặn từ bao nhiêu kiếp được thoát ra như một bộc phát mà không điều kiện nào, không tự ngã nào – dù là tự ngã cường tráng nhất – có thể ngăn được. Cái ta thực của con tuôn chảy với tình thương và cảm thấy biết bao hân hoan, biết bao tự do khi thoát khỏi điều kiện. Giải thoát hoàn toàn, vô điều kiện.

[Đại thiên thần Charity tiếp tục:]

Vậy các con hãy hít vào [cử tọa hít vào]. Hãy nhận biết điều kiện và trút bỏ nó khi con thở ra [cử tọa thở ra].

Bây giờ các con hãy hít vào và giữ hơi thở, và khi các con thở ra thày sẽ hít vào. Hãy thở ra [cử tọa thở ra trong khi sứ giả hít vào].

Khi thày trao tình thương vô điều kiện, các con hãy hít vào và hít vào tình thương đó [sứ giả thở ra, cử tọa hít vào].

Bây giờ các con hãy trút bỏ, và thày sẽ hít vào điều kiện [cử tọa thở ra trong khi sứ giả hít vào].

Hãy hít vào tình thương [sứ giả thở ra, cử tọa hít vào].

Hãy trút bỏ (cử tọa thở ra trong khi sứ giả hít vào].

Hãy hít vào [sứ giả thở ra, cử tọa hít vào].

Các con bây giờ đã trải nghiệm hơi hít vào và thở ra của tình thương. Tuy thế, TA LÀ không giới hạn bởi không gian và thời gian, và các con có thể lặp lại sự thực hành này bất cứ lúc nào, chẳng hạn như sau khi nghe một bản nhạc đánh thức lại cảm nhận tuôn chảy nơi con.

Các thày, là đại diện Tia thứ Ba, ngợi khen các con đã sẵn sàng đi vào Hiện diện của các thày, và qua đó, tuy có thể các con không nhận ra, các con đã đôi phần tách mình ra khỏi các nỗi sợ của mình. Các con không thể ở trong Hiện diện của Tình thương Vô điều kiện mà vẫn hoàn toàn đồng hóa với nỗi sợ. Sự kiện các con ở đây chứng minh là các con không còn hoàn toàn đồng hóa với cái ta tách biệt. Thày khuyến khích các con đón nhận cái ta mới đó, nó biết con hơn nữa, vì con đã trải nghiệm sự hợp nhất với cái Hơn Nữa.

Các con được niêm phong, nhưng một lần nữa chúng ta lại thấy giới hạn của ngôn từ. Làm sao các con có thể được niêm phong trong cái vô điều kiện? Các con yêu dấu, các con hãy vượt quá ý tưởng muốn được niêm phong, và chỉ trong dòng chảy của tình thương vô điều kiện.

Tia thứ Nhất: Một quan niệm không đường thẳng về nghiệp quả

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên More qua trung gian Kim Michaels, ngày 17/4/2009.

TA LÀ HƠN NỮA. Các con phải biết là thày tới mau chóng và ra đi cũng mau chóng. Khi thày đã nói những gì cần nói, thày không quan tâm các phép lịch sự thông thường đòi hỏi phải chấm dứt một cách nào đó. Khi chuyện đã quá đủ, thì thày chuyển sang chuyện khác.

Đây là một lời gợi ý cho tất cả các con. Khi đã quá đủ thì con hãy chuyển sang chuyện khác. Con hãy vứt bỏ cùm xích của bất cứ tâm thức nào mà con đã chấp nhận. Con có quyền có bất cứ trải nghiệm nào mà con muốn, nhưng con phải biết là khi con đã trải nghiệm đủ một kinh nghiệm nào đó, thì con thực sự có thể chuyển sang chuyện khác.

Đó là chìa khóa chủ yếu cho sự chữa lành. Đó là chìa khóa để phục hồi sự chữa lành thực sự. Con hãy nhìn xem con người tìm sự chữa lành như thế nào trên trái đất này. Các con hãy xem xét ngành y khoa mà các con có ngày hôm nay. Họ ngầm hứa hẹn điều gì? Họ hứa hẹn là khi cơ thể con có bệnh, họ có thể cho con một phương pháp máy móc để chữa lành. Con không cần giải quyết tâm thức đã kết đọng thành căn bệnh trong cơ thể. Con không cần xem xét cây đà trong chính mắt mình.

Đó là điều họ hứa hẹn. Có phải chăng đây cũng là điều mà nhiều tôn giáo đã hứa hẹn qua các thời đại? “Nếu quý vị theo tôn giáo của chúng tôi, nếu quý vị tuân theo các luật lệ và quy tắc mà chúng tôi đề ra, thì một ngày nào đó quý vị sẽ được vào nước Trời mà không cần xem xét cây đà trong chính mắt mình.”

Ấy, đó chính là lời hứa hẹn. Đã có bao nhiêu người tin lời hứa hẹn đó để rồi khám phá – sau kiếp sống này – là đây là một lời hứa giả và họ phải trở lại đầu thai trên trái đất? Họ càng ngày càng nghi ngờ các tôn giáo, vì họ thấy tính chất đạo đức giả của tôn giáo khi chính các giáo sĩ cũng tin rằng chỉ cần tuân theo các nghi thức bên ngoài. Họ nghĩ họ có thể làm bất cứ điều gì nếu họ không bị lộ tảy vì có thể trốn sau bình phong của giáo hội, tỷ dụ như trường hợp giáo hội Công giáo và nạn xâm phạm trẻ em tràn lan khắp giáo hội, quả đã xúc phạm những gì Giê-su chủ trương. Phải chăng là Giê-su có nói rằng tội tổn thương trẻ em nặng hơn tội bị đeo gông vào cổ và vứt xuống biển?

Con cũng thấy điều này nơi nhiều giáo hội khác, tỷ dụ như khi một mục sư trong một giáo hội cực chính thống đã bị lật tảy khi nói rằng: “Con có thể là một người của Thượng đế và vẫn có thể có các thú vui bên lề.” Quả là một sự đạo đức giả khi họ tuyên bố có thể đại điện Thượng đế đồng thời nghĩ rằng Thượng đế sẽ không thấy những gì họ che giấu khỏi con mắt người đời. Thượng đế không ở trên trời nhìn xuống con, nhưng Thượng đế bên trong con, đợi khi con tìm cầu Người Tình Thiêng liêng thương yêu con như là người con trai hay con gái yêu dấu.

5.1. Lòng chân thật là căn bản của sự chữa lành

Để phục hồi sự chữa lành thực sự, chúng ta cần bắt đầu với một nền móng vững chắc. Chúng ta cần bắt đầu với Tia thứ Nhất của ý chí của Thượng đế. Vậy, đặc tính của Tia thứ Nhất là gì? Con có thể nghĩ đó là ý chí của Thượng đế, con có thể nghĩ đó là uy lực của Thượng đế, nhưng ta có nên nghĩ tới đặc tính khác là sự chân thật chăng?

Con yêu dấu, phải chăng chân thật là một đặc tính của Tia thứ Nhất? Nó phải chăng là một biểu hiện của ý chí và uy lực cửa Thượng đế? Cốt lõi của lòng chân thật là gì? Phải chăng là sự nhập một với ý chí của Thượng đế? Thượng đế đúng thực là sinh thể chân thật tối hậu – vì Thượng đế không thể che giấu điều gì với chính mình.

Con có lẽ đã nghe người ta dùng lý trí đường thẳng hỏi câu này “Nếu Thượng đế toàn năng, thì Thượng đế có thể tạo chăng một tảng đá lớn đến độ chính ngài không thể nâng lên được?” Thượng đế là cái Một, do đó Thượng đế không thể tạo ra cái gì có thể che giấu khỏi mắt ngài – do đó ngài là tính chân thật. Con hãy xem xét cốt lõi của sự gian dối. Đó là niềm tin có thể che giấu một điều gì đó, có thể nói và làm một đàng và nghĩ một nẻo. Quả thực là khi con rắn nói chuyện với E-và, nó đã giả dạng là một người tới giải phóng, tới để giải thoát nàng khỏi cùm xích của vị thày tâm linh trong vườn địa đàng. Ngay nơi đó nó đã tạo nền móng của bệnh tật – với sự gian dối, với ảo tưởng là có thể che giấu một điều gì đó.

Con hãy xem xét lòng chân thật và luật tự quyết cho con quyền có bất cứ trải nghiệm nào mà con mong muốn, cho con quyền bước lên sân khấu cuộc đời và khoác vào bất cứ bộ áo tuồng nào mà con muốn trải nghiệm. Không có gì sai trái, không có gì tội lỗi – hay bất cứ danh từ nào khác mà người ta muốn dùng – khi con thử khoác vào nhiều bộ áo tuồng trên sân khấu cuộc đời. Thượng đế đã cho con quyền làm điều này.

Khi con bắt đầu tin rằng con bị kẹt trong một bộ áo tuồng nào đó và có một lực bên ngoài ngăn chặn không cho con chuyển sang chuyện khác, thì sự gian dối xuất hiện. Vì sao thày nói đây là sự gian dối? Bởi vì khi con nhìn sự việc một cách thiết thực, thì con nhận ra là Thượng đế đã cho con quyền tự do tuyệt đối thử bất cứ bộ áo tuồng nào mà con mong muốn. Thượng đế không ép con phải thử bất cứ bộ áo tuồng nào, và điều này có nghĩa gì? Điều này có nghĩa là chính con đã chọn lựa bộ áo tuồng mà con đã mặc vào.

Khi con xây dựng niềm tin là con đã không chọn lựa hoàn cảnh hiện tại của mình – nghĩa là hoàn cảnh hiện tại của con không phải là hậu quả của những chọn lựa trong hiện tại và quá khứ của con – thì con tự đặt mình vào thế kẹt mà các thày đã gọi là thế tiến thoái lưỡng nan. Nếu con nghĩ là có một lực bên ngoài đã đặt con vào hoàn cảnh hiện tại của mình, thì ai sẽ có thể giải thoát con ra khỏi hoàn cảnh đó? Theo đúng lý luận hợp lý thì phải nói đó là một lực bên ngoài, phải không con? Điều này có nghĩa là con đã trao đi quyền thay đổi hoàn cảnh của con. Con đã tự đặt mình vào thái độ tiêu cực chờ đợi một lực bên ngoài nào đó thay con hành sự. Con đã làm một điều mà con cũng có quyền làm – đó là trao cho một lực bên ngoài quyền tự quyết của mình.

Thày nhắc lại là Thượng đế đã cho con quyền tự quyết. Con có quyền làm điều trên. Như thày Maitreya đã giảng trong quyển sách của thày, con có quyền quyết định là con không muốn quyết định. Con có thể lấy quyết định là con không muốn quyết định nữa. Lúc đó, con tạo ra hình ảnh khô chết về một quyền lực bên ngoài điều khiển đời con.

5.2. Hãy thận trọng các điểm vi tế của luật tự quyết

Rắn sẽ rỉ vào tai con là con có quyền tạo ra vai tuồng đó, khoác vào bộ y phụ cáo tuồng đó để thử xem thế nào là cảm giác bất lực. Nếu con nhìn với lý trí đường thẳng, thì rắn có vẻ có lý. Nhưng điểm vi tế là một khi con trao đi uy lực của mình, thì làm sao con có thể rũ bỏ bộ áo tuồng? Làm sao con có thể giản dị bỏ nó lại phía sau và cất bước ra đi? Con có thấy điểm vi tế này chăng?

Nếu ta dùng lý luận đường thẳng, phân tích thì ta khó nói là rắn không có lý. Thượng đế đã cho con quyền tự do tuyệt đối và không giới hạn chọn lựa của con. Con có thể thử khoác vào bất cứ bộ áo tuồng nào, và bất kể bộ áo tuồng đó là gì, Thượng đế vẫn chấp nhận con như là sinh thể mà Thượng đế đã tạo ra như một sự nối dài của chính ngài. Bất cứ lúc nào con muốn bỏ đi con người cũ và khoác vào con người mới trong Ki-tô, con người mới trong cái Một, thì Thượng đế sẽ mở tay chào đón con. Thượng đế không giới hạn quyền tự do khoác vào một bộ áo tuồng và sau đó cởi nó ra.

Sự thực là lối lý luận của rắn giới hạn quyền tự do của con. Khi con chấp nhận lời gian dối, ảo tưởng cho rằng có một lực bên ngoài – tỷ dụ như vị Thượng đế giận dữ ở trên trời đã khiến con sinh ra trong tội lỗi – đã kết đọng hoàn cảnh hiện tại của con, thì con không thể giản dị tin rằng con có thể cởi bộ áo tuồng ra, từ bỏ con người cũ, và được tái sinh và trở nên một con người mới trong Ki-tô. Thượng đế đã cho con uy lực và quyền tự do để thực thi uy lực đó, nhưng rắn và tâm thức rắn tìm cách tước đi uy lực đó của con.

Thày, như là người đại diện của Ý chí của Thượng đế, tuyên bố rằng ý chí tối cao của Thượng đế là cho con quyền thực thi quyền tự quyết và tạo ra bất cứ trải nghiệm nào mà con mong muốn, vì như vậy con có cơ hội học hỏi. Đó là lý do vì sao con có thể tách mình ra khỏi cái một và tin vào sự dối trá của rắn và đi theo con đường giả, con đường hướng hạ, càng lúc càng tách mình ra khỏi cái một.

Con có quyền làm chuyện đó. Thày ủng hộ việc con có quyền đó. Nhưng điều thày muốn nói ở đây là ý chí của Thượng đế hoàn toàn không muốn con bị đau khổ vì bị giam cầm trong một ý niệm bản sắc hạn hẹp. Ý chí của Thượng đế không muốn con trở nên ít hơn, theo nghĩa con tự thấy mình ít hơn Sinh thể trong sáng mà Thượng đế đã tạo ra.

5.3. Khía cạnh Alpha và Omega của sự chữa lành

Khía cạnh Alpha của ý chí của Thượng đế cho con quyền tự do chọn lựa tuyệt đối. Khía cạnh Omega của ý chí của Thượng đế muốn con dùng quyền tự do chọn lựa để trở nên hơn nữa, chứ không ít hơn.

Bài học của sự chữa lành thực sự là gì? Sự chữa lành thực sự là gì? Đó là tự chữa lành!

Mục đích sự sống là gì? Đó là sự tăng trưởng cái ta, sự tăng trưởng sự tự nhận biết. Đó chính là toàn bộ mục đích của thế giới hình tướng là nơi con bắt đầu với một ý niệm bản sắc rất địa phương, con tự đồng hóa mình với một hình tướng vật chất, tỷ dụ như thân thể của mình. Ý niệm bản sắc đó có hạn hẹp đến đâu, con vẫn có tiềm năng tăng trưởng sự tự nhận biết cho đến khi con đạt được tâm thức của Đấng mà con là một phần của Đấng đó. Sự tăng trưởng đó là tự tăng trưởng. Thượng đế không áp đặt nó lên con, vì sự tự tăng trưởng không thể bị áp đặt.

Bước khởi đầu của sự tự chữa lành chính thực là con nhận ra con đã chọn lựa tách mình ra khỏi cái Một. Lý do vì sao thân thể hay tâm của con cần chữa lành là vì con đã lấy một số chọn lựa đã giới hạn mình, thay vì mở rộng ý niệm bản ngã của mình. Con bị giam trong một ảo tưởng qua đó con không còn thấy mình là một sinh thể tâm linh đang tạm thời khoác vào một vai tuồng và bộ áo tuồng trong màn kịch của vũ trụ vật chất. Thay vào đó, con nghĩ là con bị giam trong vũ trụ này, bị giam trong vai tuồng nào đó. Khi con làm vậy thì con trao đi quyền năng tự chữa lành của mình.

Làm sao con thực thi được quyền năng đó? Con yêu dấu, khi con đã thực sự hiểu luật tự quyết, thì con nhận ra con có quyền tự do, hoàn toàn tự do. Thượng đế đã cho con một ý chí hoàn toàn tự do. Điều này có nghĩa là, giống như con có quyền chọn khoác vào một bộ áo tuồng nào đó – bất kể bộ áo tuồng này là gì – thì bất cứ lúc nào, con có tự do tuyệt đối tách mình ra khỏi bộ áo tuồng – con chỉ giản dị cởi nó ra, bỏ nó xuống, để cho con người cũ chết đi và được tái sinh với một ý niệm bản ngã mới. Làm như thế là nhìn nhận quyền năng mà Thượng đế đã ban cho con. Chính tự ngã của con và các thày giả, những người có tâm thức rắn, đang tìm cách tước đoạt quyền năng của con bằng cách khiến con tin rằng hoặc con chính bộ áo tuồng hoặc con không thể giản dị cởi nó ra.

5.4. Mở tâm đón nhận một quan niệm mới về nghiệp quả

Khi con nhìn vào tập thể nhân loại, thì con có thể quan sát một lằn ranh phân chia. Nhiều người vẫn hoàn toàn tự đồng hóa với xác thân vật lý và với hoàn cảnh gia đình, văn hóa, quốc tịch, tôn giáo, sắc tộc, chủng tộc hay bất cứ sự phân chia nào khác của môi trường nơi họ lớn lên. Những người có tâm linh cao hơn đã bắt đầu tỉnh giấc khỏi ảo tưởng đó và nhận ra họ hơn những bản sắc vỏ ngoài, nhãn hiệu và phân chia. Tuy nhiên, khi con bắt đầu tỉnh giấc và nhận ra mình hơn nữa, con phải đối mặt với luận điệu gian dối là con không thể giản dị rũ bỏ cái bản sắc cũ. Luận điệu này cho rằng nếu con đã phạm lỗi lầm thì con đã có tội. Con phải đền tội, con phải cân bằng nghiệp quả.

Thày muốn mời con tham dự một cuộc thí nghiệm tư tưởng. Chúng ta hãy lấy một giáo lý được trao truyền ở phương Đông – đây cũng là một giáo lý mà các thày cảm thấy cần giảng dạy trong các đợt truyền giáo trước của giáo lý chân sư thăng thiên – là quan niệm coi nghiệp là một lực bên ngoài. Con đã phạm lỗi trong một kiếp trước và mang một món nợ với sự sống, và do đó cán cân phải được cân bằng lại. Năng lượng mà con đã tha hóa cần phải được cân bằng trở lại.

Quan niệm này không nhất thiết sai. Con có quyền tự quyết làm bất cứ điều gì con muốn. Nhưng cái gì cho con khả năng làm bất cứ điều gì trong thế giới vật chất này? Đó chính là vì con nhận một phần năng lượng tâm linh từ Hiện diện TA LÀ của con, và con biểu hiện nó qua bốn thể phàm của con. Lẽ đương nhiên con chịu trách nhiệm về cách con sử dụng năng lượng đó. Con không thể vĩnh viễn rời bỏ trái đất nếu con chưa nâng lên tất cả năng lượng mà con đã pha màu với rung động của phản tình thương đang giới hạn mọi sự sống.

Con phải tới điểm mà sự hiện diện của con trên trái đất ít nhất phải là một sự quân bằng – con không kéo sự sống xuống. Lẽ dĩ nhiên con không xuống đây để kéo sự sống xuống, và con cũng không xuống đây để vật lộn trong mấy trăm kiếp để rồi trở lại điểm thăng bằng và rời trái đất. Con tới đây để đem lại một món quà tích cực, để đem ánh sáng của mình chiếu vào sự tăm tối của vũ trụ vật chất với mục đích tối hậu là nâng cao toàn bầu cõi, như thày Maitreya có giảng, lên tới điểm nó có thể thăng thiên và thể hiện nước Trời. Chúng ta hãy xem xét sự việc con là một người đồng sáng tạo đã thử nghiệm với quyền tự quyết trong nhiều kiếp sống. Con đã khoác lên một số vai tuồng, con đã đồng hóa mình như một sinh thể tách biệt, và con đã dùng năng lượng mà Hiện diện TA LÀ đã ban cho con để sở hữu và chiếm hữu một số vật cho cái ta tách biệt đó. Có thể là con đã tìm cách nâng nó lên trên người khác, và qua đó đã đạt được chức vị nổi bật trong xã hội cho con cơ hội hạ thấp người khác và coi mình quan trọng hơn người khác.

Lẽ dĩ nhiên có nhiều cách để tạo nghiệp. Con hãy nhìn sự việc một cách thực tiễn và nhận ra rằng không có gì nói ra bằng lời mà không thể bị tâm thức rắn và lý luận rắn bẻ quẹo. Đó chính là bản chất của lý luận rắn, nghĩa là khi con đã ăn trái cấm, thì con sẽ “khôn ngoan như Thượng đế”, con trở thành như Thượng đế, “biết thiện và ác”. Có nghĩa là lúc đó con đi vào tâm thức nhị nguyên và nghĩ rằng – tự ngã con nghĩ rằng – nó có quyền định nghĩa thiện và ác một cách tối hậu.

Đó là lý do vì sao có những tôn giáo trên trái đất tự coi mình là tôn giáo thực duy nhất, và qua đó ấn định niềm tin tuyệt đối là những ai không theo tôn giáo đó sẽ phải bị thiêu đốt vĩnh viễn trong đia ngục. Có những người đã theo một triết lý chính trị và coi nó cao hơn tất cả mọi triết lý khác, và do đó tin rằng diệt trừ tất cả các triết lý khác và áp đặt thể chế của họ lên toàn thế giới là một điều chính đáng.

Tâm thức rắn giam con trong niềm tin là hình tướng mà con thấy trong thế giới vật chất có một thực tại tối hậu. Con không thể giản dị rời bỏ chúng. Con bị đóng đinh bởi hình tướng, bởi hình ảnh, bởi tâm thức. Như cuộc đời của Giê-su đã trải bày, con bước vào vở bi kịch của cuộc đời, và quả thực là chúng có thể “đóng đinh” con. Có vẻ, ngay cả với Giê-su, không thể làm gì khác ngoài thủ vai tuồng đó.

Con hãy nhìn hình ảnh những chặng đường thập tự của Giê-su như truyền thống Công giáo mô tả. Giê-su bị kết án tử hình. Giê-su nhận cây thập tự. Nhưng đây cũng là một hành động thụ động chấp nhận một vật mà người khác giao cho thày. Giê-su té ngã, ai đó giúp Giê-su khiêng cây thập tự, ai đó lau nước mắt của thày, ai đó tìm cách khuyên thày nên bỏ cuộc. Thày bị đóng đinh trên cây thập tự, thày chết, thân xác thày bị đem xuống, thân thày bị chôn xuống mồ. Con yêu dấu, tất cả đều có tính chất thụ động.

Điều gì thiếu sót trong hình ảnh các chặng đường thập tự? Nhiều điều lắm, nhưng đầu tiên là sự kiện Giê-su biết rất rõ chuyện gì có thể xảy ra khi thày chọn bước vào thành Jerusalem. Quan trọng hơn cả là khi thày bị treo trên cây thập tự, thày chọn dứt bỏ hồn ma, qua đó ngay tức khắc rũ bỏ ý niệm cái ta tách biệt và chứng minh rằng mọi người đều có tiềm năng để sinh thể cũ, cái ta cũ chết đi tức khắc. Khi làm vậy con không ngưng hiện hữu, như các thày giả và tự ngã muốn con nghĩ, nhưng con thật sự được tái sinh vào một ý niệm bản ngã cao hơn, cái ta mà con vẫn là trong mắt của Thượng đế.

5.5. Một quan niệm cách mạng về nghiệp quả

Có một thực tại sâu sắc hơn. Con hãy quay trở về quan niệm nghiệp quả, con có thấy ảo tưởng mà tâm thức rắn dán lên quan niệm này? Khi con hiểu là tâm rắn dựa trên sự tách biệt, và khi con tách rời khỏi nguồn cội của mình, thì con phải tin gì về uy lực của Thượng đế? Con phải tin rằng nó chỉ có thể phát xuất từ bên ngoài con.

Khi con xem mình là một sinh thể tách biệt, con không thể chấp nhận là uy lực của Thượng đế có thể đến từ bên trong con. Con dễ rơi vào niềm tin gồm hai cực điểm, một bên là con cần một đấng cứu rỗi bên ngoài, và bên kia là con cần làm điều gì đó trên thế gian này, với tư cách một cái ta tách biệt, để chuộc tội hay cân bằng nghiệp quả.

Con hãy chú ý nghe điều thày đang nói. Con hãy cảnh giác ngay bên giờ, có thể con nên bước lui lại và nhận ra là cái tâm vỏ ngoài, tâm phân tích của con đang đánh lừa con để hoặc con không nghe lời thày nói, hoặc con không nghe ý nghĩa thực của nó. Thày đã nói gì trước đây? Con đã chấp nhận là có điều gì sai trái với con, có vấn đề cá biệt nào đó đang ngăn chặn con bước vào nước Trời. Điều thật sự sai trái với con là khái niệm có điều gì đó sai trái.

Khái niệm này từ đâu tới? Nó tới từ ảo tưởng tách biệt, từ sự thành lập cái ta tách biệt! Ta có thể nói là quả thực có cái gì sai trái với cái ta tách biệt, nếu ta suy nghĩ theo lối nhị nguyên. Nhưng không có gì sai trái với con, sinh thể mà con thực sự là.

Nhìn một cách rộng rãi hơn, ta có thể nói là cũng không có gì sai trái với cái ta tách biệt, vì Thượng đế không có quan niệm đúng và sai. Thượng đế chỉ quan niệm cái gì thật và không thật. Chỉ những gì được tạo ra trong cái một, là biểu lộ của cái một, chỉ có những cái này là có thật. Tất cả những gì được tạo ra trong tâm thức tách biệt không có thật và do đó không thể ảnh hưởng đến phần thật của con người con. Chúng không thể giới hạn nó, không thể nhốt nó vào cái lồng do một vai tuồng, bộ áo tuồng, hình tướng hay ý niệm bản ngã nào đó tạo ra.

Con có bắt đầu thấy nghiệp quả thực sự là gì chăng? Con đã quá quen thuộc, quá bị điều kiện hóa bởi tâm nhị nguyên nên con đã tin rằng thực sự có hai đối cực – và một cực là Thượng đế và cực kia là phản-Thượng đế. Đây chính là sự cao ngạo và lòng kiêu hãnh tâm linh của sa nhân khi họ nghĩ rằng khi họ chống lại Thượng đế thì họ có thể ảnh hưởng Thượng đế hay các sinh thể tâm linh không tách biệt khỏi cái một. Thượng đế không phải là đối cực của sự tách biệt. Thượng đế là cái Một, không phân chia, không thể phân chia, không điều kiện. Làm sao một điều kiện lại có thể chống lại cái vô điều kiện?

Con có thấy chăng là trong cái một không thể có điều kiện? Làm sao con tách ra khỏi cái một? Bằng cách tạo ra điều kiện! Và làm sao con tạo ra điều kiện? Con phải tạo ra hai điều kiện, ít nhất là hai, chống đối lẫn nhau.

Nếu không có sự chống đối, thì con vẫn còn cái một và do đó không có tách biệt.

Thày là chân sư của Ý chí của Thượng đế. Thày có các người bạn yêu dấu ở sáu tia kia. Vậy có nghĩa chăng là thày chống đối thày Saint Germain, vì thày ở tia thứ nhất và thày Saint Germain ở tia thứ bảy, tức là hai cực điểm trên một nấc thang đường thẳng? Điều này làm sao xảy ra được? Có thể nào là Ý chí của Thượng đế chống lại Tự do của Thượng đế, khi ý muốn của Thượng đế là mọi sinh thể đều tự do – và con có tự do khi con nhập một với ý chí của Thượng đế muốn nâng mọi sự sống lên?

Con có thể nghĩ là trong một kiếp trước con đã tạo nghiệp xấu và nếu con muốn thăng thiên, con cần cân bằng nghiệp đó bằng cách tạo ra nghiệp tốt. Nhưng xấu và tốt là hai điều kiện nhị nguyên. Con không thể hóa giải, cân bằng hay phủ định một điều kiện nhị nguyên bằng cách thêm vào điều kiện đối nghịch. Con không thể khắc phục một vấn đề với cùng tâm thức đã tạo ra vấn đề.

Nghiệp quả là gì? Nó được tạo ra khi con dùng khả năng sáng tạo của mình qua phin lọc của cái ta tách biệt, nhị nguyên. Bất cứ điều gì con làm qua phin lọc đó tạo ra nghiệp khiến con tách biệt khỏi cái một. Chính vì con xem mình là một sinh thể tách biệt nên con chú tâm vào cái ta của mình, và do đó có thể đã có hành động vị kỷ hay ích kỷ theo định nghĩa thông thường – và do đó con tạo ra điều mà đa số gọi là nghiệp xấu. Chính ảo tưởng mình là một sinh thể tách biệt đã tạo ra nó.

Nếu vậy thì làm sao con có thể giải trừ bằng cách làm điều gì khác qua cái ta tách biệt? Con có thấy chăng là quan niệm con đã tạo nghiệp xấu với cái ta tách biệt, và nay con cân bằng nghiệp đó bằng cái ta tách biệt, là một điều phi lý, mâu thuẫn? Con càng nỗ lực cân bằng nghiệp do cái ta tách biệt tạo ra, thì con càng củng cố ảo tưởng con là một cái ta tách biệt.

5.6. Khi cân bằng nghiệp quả là một trở ngại cho sự thăng thiên

Con có thể nghĩ là thày nói đi nói lại cùng một chuyện – và thày quả đang làm vậy. Nhưng thày nói điều đó dưới những góc độ hơi khác nhau, vì thày đang cho con một hình tư tưởng kỷ hà. Nếu con không thấy nó từ một góc nhìn này, có thể con sẽ thấy nó từ một góc nhìn hơi khác. Ý chính là: con hãy nhận ra là quan niệm con cần cân bằng nghiệp quả đang củng cố ý niệm con là một sinh thể tách biệt. Phải chăng ngụ ý là con không thể thăng thiên – có nghĩa là, trên căn bản, trở về với cái một – nếu con chưa cân bằng nghiệp quả?

Trong tâm, con nói: “Tôi là một sinh thể tách biệt, và tôi phải tiếp tục là một sinh thể tách biệt, cho tới khi, trong tương lai nào đó, tôi cân bằng hết nghiệp quả như một sinh thể tách biệt và – “bụp” một cái – một ngày nào đó tôi sẽ thăng thiên mà không hiểu rõ vì sao.” Một số trong các con, đã quả thực nhận được từ những lần truyền giáo trước của chân sư thăng thiên một hình ảnh – hay cũng có thể nói là con đã chấp nhận một hình ảnh – là ngay tiến trình thăng thiên cũng có tính chất thụ động trong đó con cân bằng nghiệp quả và mọi chuyện còn lại sẽ tự động xảy ra.

Không phải vậy đâu! Làm sao con thăng thiên? Bằng cách lấy lại quyền năng của ý chí của con! Con có nghĩ chăng là thày, Chân sư MORE, đang đứng trên thiên đàng và tìm cách ép buộc người khác thăng thiên? Thày làm như vậy thì đạt được gì? Những người đó sẽ vào thiên đàng với cùng trạng thái tâm thức mà họ đang hiện có. Các thày không muốn thấy những khuôn mặt buồn bã hay những khuôn mặt kịch cỡm mà ta thấy trên trái đất. Các thày muốn con như con là – trong cái một.

Thày không nói là con trở về thiên đàng giống y như khi con từ thiên đàng xuống thế. Con học hỏi khi con sống trong các cõi dày đặc hơn, con mở rộng ý niệm bản ngã của mình vượt quá khi con được tạo ra. Nhưng vì con trở về trong cái một, con nhận ra là con và các thày không khác nhau. Con là một nối dài của chính Bản thể của các thày.

Điều thày đề nghị với con rất giản dị. Con hãy suy ngẫm là con, như một sinh thể tách biệt, đi tới kết luận là con là một sinh thể tâm linh từ thiên đàng xuống và muốn trở về thiên đàng. Để có thể trở về con phải cân bằng nghiệp quả, do đó con tiến hành công việc với cùng tâm thức tách biệt.

Con có thể tiến triển đôi chút nếu con làm như vậy. Con có thể cân bằng năng lượng. Con có khía cạnh Alpha của trạng thái tâm thức của con mà con dán lên năng lượng, Ánh sáng Mẫu-Vật. Khía cạnh Omega của Ánh sáng Mẫu-Vật mang vào độ rung thấp hơn vì nhận các hình ảnh dán lên nó. Con có thể phần nào làm công việc cân bằng, vì chắc chắn là một hành động vị tha sẽ cân bằng nghiệp quả, theo cách nói của con. Nhưng thày phải nói với con là con không thể hoàn thành tiến trình này nếu con vẫn còn nhìn mình như một cái ta tách biệt. Điều này không thể xảy ra.

Vì sao lại không thể xảy ra? Lý do là điều thày đã giảng – con chỉ có thể vào thiên đàng khi con trở thành một với uy lực của Thượng đế trong con. Con chỉ có thể trở thành một với cái đó khi con chiến thắng cái ta tách biệt.

Con phải chọn lựa thăng thiên. Thăng thiên không phải là chuyện thực thi một số yêu cầu vỏ ngoài rồi – “bụp” một cái – con ở trên cõi thăng thiên. Thăng thiên phải là một quyết định, một chọn lựa.

5.7. Một cách nhanh chóng hơn để vượt lên trên nghiệp quả

Tuy con có thể tiến triển đôi chút với tâm thức của cái ta tách biệt, con hãy xem xét một con đường khác. Con hãy suy ngẫm là thay vì chú tâm vào việc cân bằng nghiệp quả, hay một lực bên ngoài nào khác, con lắng nghe lời dạy của Ki-tô. Có phải chăng là thày đã nói: “Trước tiên hãy tìm cầu Nước Trời và sự công chính của Thượng đế, thì tất cả những thứ kia sẽ được ban thêm cho con.”

Nước Trời là gì? Nó thực là tâm thức Ki-tô dựa trên cái một nơi con có sự công chính – cách sử dụng đúng – của uy lực sáng tạo của mình. Con dùng nó để nâng cái Tất cả lên thay vì cái ta tách biệt. Con hãy suy ngẫm là thay vì chú tâm vào hành động cân bằng nghiệp quả là một hành động vỏ ngoài và có phần máy móc, con chú tâm vào việc chuyển đổi ý niệm bản sắc, hình ảnh về chính mình, cách nhìn cuộc đời. Con trải qua một chuyển đổi kinh thiên động địa vể bản sắc khi con không còn thấy tách biệt nhưng thấy cái một.

Chuyện gì sẽ xảy ra trong tiến trình này? Chuyện sẽ xảy ra là con lấy lại uy lực của mình, con kết nối trở lại với sinh thể cao mà con là và khi đó con có thể nói với Giê-su: “Ta và cha ta là một. Cha ta làm việc cho đến bây giờ, nay ta cũng làm việc như vậy.”

Khi con đi vào trạng thái một đó – ít nhất là một phần của trạng thái một tuy chưa hoàn toàn là quả vị Ki-tô – và con thấy con vẫn còn một ít nghiệp quả, thì con nghĩ công việc cân bằng nghiệp quả đó có khó chăng khi con có uy lực của Thượng đế chảy xuyên qua con và giúp con hoàn thành công việc? Đi con đường tâm linh dễ hơn nhiều khi ta khởi đầu bằng tìm cầu cái một, thay vì tìm cách thực thi một yêu cầu vỏ ngoài như cân bằng nghiệp quả và nghĩ rằng cái một sẽ tự động đến sau. Qua cách đó con giới hạn mình – có thể là trong suốt phần còn lại của kiếp sống này – vào việc sử dụng uy lực chảy xuyên qua cái ta tách biệt, thay vì uy lực của sinh thể cao mà con là.

Ảo tưởng, con yêu dấu – ảo tưởng! Lý luận của tâm rắn vi tế biết bao? Nó rất vi tế khi con nhìn nó từ bên trong cái ta tách biệt. Nó rất lộ liễu khi con vươn lên tâm Ki-tô và đạt được tầm nhìn vô điều kiện giúp con thấy chân lý không diễn tả bằng lời nói hay giáo lý. Con đã theo lời gọi của Ki-tô: “Thượng đế là Tánh linh, và những ai thờ kính ngài phải thờ kính trong Tánh linh và chân lý.”

Khi con biết Tánh linh của Chân lý, con nhận ra sự rung động của chân lý, và con có thước cùng-đo tối hậu, cây gậy chỉ đường tối hậu, cây gậy của Moses, có khả năng rẽ nước Biển Chết – là biểu tượng của tâm thức nhị nguyên. Lúc đó con có thể an toàn vượt qua biển nhưng, khi đoàn quân của cái chết tới sau con, thì nước của tâm thức nhị nguyên của chúng sẽ tràn lên chúng. Chúng bị cuốn đi trong sự náo loạn, trong khi con bước sang bờ bên kia, tới vùng đất của Do Thái, biểu tượng cho cái thật.

5.8. Một quan niệm không đường thẳng về luân hồi

Chắc con có nghe là El Morya, Chân sư MORE, có tiền kiếp là Thomas More, là Thomas Beckett, là vị Chân sư nào đó, hay một nhân vật lịch sử nào đó. Nếu con đi trở ngược dòng thời gian, thì thày có từng đầu thai như Abraham. Nhưng con thấy chăng, Thomas More đã chết, Abraham đã chết. Tuy rằng con có thể nghĩ thày đã từng đầu thai như Abraham, nhưng thày nói là không phải vậy. Vì trước khi có Abraham, TA LÀ.

Vậy phải chăng thày chối bỏ đã có một tiền thân là Abraham? Phải chăng thày chối bỏ giáo lý được trao truyền? Không, thày không chối bỏ. Thày muốn con tiến lên cao hơn và nhận ra là như một sinh thể thăng thiên, thày đã nhập một với Sinh thể cao, mà từ sinh thể đó đã đầu thai như Abraham. Ý niệm bản ngã đã đầu thai như Abraham và những nhân vật kia không còn nữa. Thày HƠN NỮA. Thày đã vươn lên trên mọi ý niệm bản ngã thế gian. Thày đã trút bỏ các bộ áo tuồng. Thay đã đứng trần truồng trước hồ nước chữa lành và đã bước đi qua bờ bên kia. TA LÀ một sinh thể tái sinh, như con cũng có thể tái sinh, con yêu dấu.

Con hãy đi theo niềm hân hoan của mình! Con hãy xem điều gì mang lại cho con niềm vui lớn nhất, vì con sẽ thấy là điều cho con niềm vui lớn nhất là ý niệm là một với cai Ta bên trong của con, với ngọn Lửa Thượng đế của con, với Bản thể tâm linh cao hơn mà từ đó con sinh ra. Con hãy dùng niềm vui đó như thước đo để quyết định làm điều này hay điều kia ở giai đoạn này của cuộc đời của con.

Điều cho con niềm vui lớn nhất là điều mang con đến gần hơn sự hợp nhất với Bản thể cao hơn của con. Nếu có điều gì hạ năng lượng của con xuống, lấy mất sự chú tâm của con, khiến con cảm thấy mình phải làm sao để xứng đáng với một hình ảnh nào đó, mình phải đóng một vai tuồng nào đó, thì con hãy bước lui lại và nói: “Việc này không phải là việc của tôi!”

Những người phái nữ hiện nay đang hòa điệu hơn với con người tâm linh và sứ vụ thiêng liêng của họ hơn là người phái nam. Con cảm nhận là khi một người nam tới gần con và có thể có nhiều thiện ý – nhưng trong tâm người đó có một hình ảnh là con phải như thế nào nếu con chấp nhận đề nghị của y – con cảm thấy là người đó đang tước đi niềm hân hoan của con.

Con hãy bước lui lại và tìm xem đâu là niềm hân hoan của con, và con hãy theo nó – như nhiều người trong các con đã làm. Thày chỉ đơn giản giúp con chú tâm có ý thức là con có thể nhận biết rõ hơn về điều đó, con có thể cảm nhận có ý thức trong tim đâu là niềm hân hoan, cái gì mở rộng bản thể mình, ý niệm bản thể của mình, niềm vui của mình.

Có nhiều cách để thực hiện điều này. Con có thể đạt được qua sự sùng kính, như nhiều người đã làm qua nhiều thời đại, sùng kính Thượng đế, Giê-su, Mẹ Mary, đức Phật, Khrisna hay những vị đại diện tâm linh chân chính khác. Như Ấn giáo mô tả, có nhiều đường dẫn tới Thượng đế, nhiều hình thức yoga. Con hãy theo phương pháp đem lại cho con niềm vui lớn nhất, và đừng xem những người đang theo niềm hân hoan của họ là sai.

Con yêu dấu, thày nói với con là thày là đại diện của Ý chí của Thượng đế vì thày sùng kính vô điều kiện Ý chí của Thượng đế. Thày thương yêu Ý chí của Thượng đế. Thày thương yêu Uy lực của Thượng đế, biểu lộ cùng với tình thương vô điều kiện muốn nâng mọi sự sống lên.

Làm sao con có thể nhập một cách tối hậu với ý chí và uy lực của Thượng đế? Con có thể nào chiếm uy lực của Thượng đế bằng vũ lực của cái ta tách biệt chăng? Không đâu, con chỉ có thể thương yêu ý chí và uy lực – ý chí muốn nâng mọi sự sống lên. Khi con không còn động cơ nào khác, thì uy lực của Thượng đế sẽ tuôn chảy xuyên qua con để nâng mọi sự sống lên.

Con yêu dấu, con hãy được niêm trong tình thương của thày – yêu Ý chí của Thượng đế và yêu con. Ý muốn của Thượng đế là con có quyền tự quyết, và con có thể nghĩ là nếu con lấy chọn lựa “sai” thì thày sẽ không thương yêu con. Nhưng Thượng đế đã cho con quyền tự quyết và do đó – bất kể chọn lựa nào con đã lấy – thày vẫn thương yêu con vô điều kiện.

Lẽ dĩ nhiên, tình thương của thày không ngăn thày là một vị thày nghiêm nghị, không tìm cách khiển trách con, nhưng muốn cho con một thước cùng-đo – mà tâm rắn không thể tranh cãi, bóp méo và bẻ quẹo. Tình thương của thày bất di dịch, như Tảng đá của Ki-tô. Khi con chân thật, con sẽ tìm sự bất di dịch của Tảng đá của Ki-tô để có thể phân biện đâu là thật đâu là giả.

Con yêu dấu, TA LÀ thật. Con có chịu nhìn nhận chăng là con cũng thật? Nếu vậy, con hãy được niêm trong Ngọn lửa của Thực tại.

Hãy để tình thương tuôn chảy!

Bài giảng của chân sư thăng thiên Elohim Heros và Amora qua trung gian Kim Michaels, ngày 2/1/2009. Bài này được xếp thành Chương 6 của quyển Làm sao giáo tiếp từ trái tim (How to Communicate from the Heart, Kim Michaels, 2014).

Các thày đến đây như một với cái Duy nhất, thày được gọi là Heros và Amora, là Elohim của Tia sáng Thứ ba, để cống hiến các con một chút hiểu biết và, nếu các con chấp nhận, kinh nghiệm trực tiếp tình thương liên hệ ra sao với giao tiếp từ trái tim.

Tại sao thày lại muốn con đọc bài thỉnh cầu Chiến thắng Quá khứ trước khi nghe bài truyền đọc về tình thương này? Con nhớ là trong bài thỉnh cầu đó con xác định lòng tha thứ triệt để, vô điều kiện, tha thứ mọi chuyện đã xảy ra trong quá khứ giữa con và người khác, giữa con và Thượng đế, và giữa con và Ánh sáng Mẫu-Vật. Khi con neo chặt trong tình thương vô điều kiện thì quá khứ không biến đi nhưng nó không còn ảnh hưởng hiện tại của con – và do đó nó không ành hưởng tương lai của con. Con yêu dấu, vì sao lại như vậy? Đó là vì khi con là Một với ngọn lửa, với Dòng Sông Sự Sống của tình thương vô điều kiện thì con biết là con hơn, hơn vô kể những gì con đã thể hiện trong quá khứ trên quả điạ cầu hạn hẹp này.

Con có thể bước ra ngoài và ngắm nhìn tia nắng phản chiếu trên vũng nước bên đường. Tia nắng đó không đồng hóa mình với vũng nước. Nó biết nó là một tia nắng. Dù con có thể nhìn tia nắng qua cửa sổ nhơ bẩn và thấy tia nắng bị nhuộm màu bởi cửa sổ, nhưng tia nắng chỉ bị nhuộm màu trong mắt của riêng con mà thôi, còn chính nó thì nó biết là nó là một phần của Mặt trời. Con cũng vậy đó, con là một phần nối dài của Mặt trời Hiện diện TA LÀ của con, và từ đó của Mặt trời đấng Sáng tạo ra con. Khi con tự cho phép kết nối lại với thực tại đó thì con sẽ cảm thấy tình thương vô điều kiện của đấng Sáng tạo tuôn chảy trong con. Khi đó thì làm sao con có thể đồng hóa mình với tình huống hay điều kiện đã xảy ra trong quá khứ trên địa cầu này? Con sẽ biết là con hơn thế rất nhiều. Con cũng sẽ biết là người khác cũng hơn các thể hiện mà con đã gặp trong quá khứ. Từ đó con sẽ vượt qua khuynh hướng thường gây xung đột nhất trên thế gian, là khuynh hướng giữ chặt hình ảnh về mình, về người khác, và ngay cả về thế gian và Thượng đế dựa trên quá khứ.

Quá khứ trở thành kho dữ liệu

Qua các bài giảng về tuệ giác và trí năng – trong đó các thày đã giảng là trí năng được tạo ra để hoạt động trong thế giới hình tướng bằng cách tìm ra và phân loại sự khác biệt và phân tích nguyên do trong thế giới hình tướng – con nhận ra chuyện đã xảy ra cho tất cả mọi người là họ tạo ra một kho dữ liệu trong tiềm thức của họ. Đa số không nhận ra sự kiện này, nhưng một số đã bắt đầu vén bức màn và nhận ra làm sao họ tạo những hình ảnh này trong quá khứ.

Một khi kho dữ liệu được thành lập thì một biến cố mới xảy ra sẽ ngay lập tức được so sánh với kho dữ liệu. Khi con gặp một người thì ngay lập tức tiềm thức của con dán cho người đó một nhãn hiệu để xếp họ vào thể loại hay ngăn tủ mà con đã thiết lập dựa trên quá khứ. Khi đó, con biết phải đối xử với người đó ra sao dựa trên cách mà con đã đối xử với người cùng thể loại trong quá khứ.

Con có thể nghĩ là khi một người mới gặp một người khác lần đầu, ít ra là trong kiếp sống này, thì họ sẽ nhìn người đó không định kiến và cho người đó cơ hội chứng tỏ con người thật của mình. Nhưng ít ai làm được chuyện này. Ngược lại, họ tức khắc và vô thức xếp người kia vào một thể loại gọn ghẽ nho nhỏ trong kho dữ liệu trong tiềm thức của họ. Một khi tiềm thức cảm thấy có đủ thông tin để xếp loại người khác thì mình không còn đối xử với người đó như một cá nhân duy nhất nữa. Mình sẽ đối xử với người đó như là mình muốn đối xử – thực ra là mình đã đối xử – với những người tượng tự trong quá khứ.

Căn bản xung đột

Hiện tượng trên, khi đi đến tột cùng, dĩ nhiên là lý do tạo xung đột giữa các nhóm người, tỷ dụ giữa người khác màu da, khác giòng giống, hay giữa nam nữ. Ta gặp một một người và tức khắc lượng định: “Đây là người nam hay nữ?” Nếu vậy thì ta cần phải cư xử một cách nào đó. Ta tự hỏi: “Người này da đen hay da trắng?” và liền quyết định phải cư xử một cách nào đó. “Người này là người Do Thái hay thuộc một chủng tộc mà ta đã từng biết?” Nếu vậy thì ta phải cư xử thích ứng.

Trí năng suy luận như sau: nếu người này thuộc nhóm mấy triệu người da đen hay mấy tỷ phụ nữ, thì chắc chắn họ phải cư xử giống như những người cùng nhóm. Như các thày đã giảng hôm qua, trí năng không có khả năng tiếp cận cái vô biên, cái vô điều kiện của Dòng Sông Sự Sống, nó chỉ hiểu được thế giới hình tướng hạn hẹp trong đó mọi thứ đều được phân loại dựa trên tính chất nào đó. Tính chất đó là gì?

Hãy dùng tuệ giác để nhận định người trí thức

Đây là lúc con cần dùng tuệ giác để nhận định những người trí thức trên thế gian này. Họ là những người thuộc chính quyền, tôn giáo hay khoa học tự cho mình có hiểu biết hơn người. Con hãy quan sát họ, và sau đó nghiên cứu kỹ hơn. Con sẽ thấy là nhiều người trí thức rất thông minh và có thiện ý, nhưng họ cũng hoàn toàn tin chắc, dựa trên trí năng suy luận, là khoa học là cách duy nhất để hiểu thực tại, không có gì ngoài thế giới vật chất, và tôn giáo chỉ là một cái gì không thực do trí tưởng tượng dựng nên.

Cũng giống vậy, con sẽ thấy là có người hoàn toàn tin chắc, dựa trên trí năng suy luận, là chỉ có ý thức hệ hay hệ thống chính trị của họ là có giá trị, và nó sẽ đem nước Trời hay một thiên đàng nào khác tới thế gian này. Dĩ nhiên là trong lãnh vực tôn giáo, con cũng sẽ tìm thấy các nhà thần học hoàn toàn tin chắc là chỉ có tôn giáo của họ là có giá trị, tất cả các tôn giáo khác đều sai, khoa học cũng sai, không có giá trị, vân vân và vân vân.

Khi con xem xét thì sẽ nhận ra rằng tất cả mọi người đều có một thế giới quan, một cách nhuộm màu định ra bộ màu của kho dữ liệu của họ. Ai ai đều tin chắc kho dữ liệu của mình không chủ quan, và nó là cách duy nhất nhìn đời đúng đắn. Do đó, họ không bao giờ tự hỏi quan niệm căn bản về cuộc đời của họ có đúng hay không. Quan niệm căn bản này chính là nền tảng của kho dữ liệu, nó nhuộm màu mọi thứ trong đó. 

Rơi vào phản tình thương

Khi một người chấp nhận cái nhìn hạn hẹp như vậy thì họ không tránh rơi vào rung động của phản thình thương. Khi con chấp nhận một cái nhìn hạn hẹp và coi nó là sự thực bất biến – và chỉ có nó là đúng –  thì con sẽ phải đối diện sự kiện có nhiều cái nhìn khác trên thế gian này. Do đó, con sẽ bị rơi vào tranh chấp nhị nguyên vì phải bảo vệ quan điểm của mình trước những quan điểm ngược hoặc khác quan điểm của con. Cũng có thể là con muốn đạp đổ những quan điểm đó, hay đi tới muốn đạp đổ hay giết những người chủ trương hay tin vào chúng.

Cảm xúc bị đe dọa bởi quan điểm khác – định kiến giới hạn khác, hay thế giới quan khác – là chỉ dấu phản thình thương. Đó là chỉ dấu con đã bị các thày giả chủ trương phản tình thương quyến rũ, bị cuốn hút bởi tâm thức phản tình thương, và đã để tâm thức này ảnh hưởng kho dữ liệu, có thể là đã cho nó làm nền tảng của kho dữ liệu của con. Nó đã nhuộm màu cốt lõi thế giới quan của con, cách con nhìn thế gian, Thượng đế và người khác. Nó nhuộm màu cách con nhìn chính mình và liên hệ với thế gian, người khác và Thượng đế, và ngay cả cách con liên hệ với chính mình tức là cách con tự đánh giá mình.

Điều mà thày cố trình bày ở đây là khi con rơi vào trạng thái tâm thức đó thì không thể giao tiếp từ trái tim. Như các thày đã nói trước đây, giao tiếp từ trái tim đặt căn bản trên quan niệm duy nhất, tức là cốt lõi con người mình là một với tất cả mọi sự sống. Nếu con muốn tiếp cận cái duy nhất đó – tức là chấp nhận cái duy nhất, cho nó tuôn chảy trong con và biểu lộ qua con – thì con phải chịu chất vấn kho dữ liệu, thế giới quan của con và tự hỏi: “Nó dựa trên tình thương hay phản tình thương?”. Các con yêu dấu, tình thương thật sự, tình thương chân chính, tình thương sống động, là tình thương vô điều kiện.

Vì sao tình thương bị hiểu lầm

Nếu con nhìn thế gian thì sẽ nhận ra là trong số các khả năng hay đặc tính thì tình thương có lẽ bị ngộ nhận nhất. Vần đề là vì con người muốn hiểu tình thương là gì. Con người xem thế nào là hiểu? Họ coi nó là một hoạt động của trí năng được thi hành bằng cách so sánh với những gì có trong kho dữ liệu. Do đó tình thương sẽ bị nhuộm màu bởi thế giới quan là nền tảng của kho dữ liệu. nhưng tình thương cũng bị nhuộm màu bởi các kinh nghiệm cũ về tình thương, hay là cái gì được coi là tình thương, trên địa cầu.

Thực tế là rất ít người trên địa cầu đã trải nghiệm tình thương vô điều kiện trong cõi vật chất.  Ta cũng có thể nói là hình thái trong sạch nhất của tình thương vô điều kiện không thể bộc lộ trên trái đất vì rung động của trái đất quá thô đặc. Tuy thế, ta vẫn có thể thấy vài hình thái – như là bóng dáng – của tình thương vô điều kiện. Đa số chưa trải nghiệm tình thương này, vì họ chỉ biết tình thương có điều kiện, tức là quan niệm trong kho dữ liệu là tình thương phải được bày tỏ như thế nào, được hình thành dựa trên thế giới quan và kinh nghiệm quá khứ của họ.

Khi một người tìm cách hiểu tình thương là gì, thì một cách đương nhiên và không ý thức, họ sẽ dựa trên kho dữ liệu của họ. Nhưng các con đã nhận ra ý của thày chưa? Kho dữ liệu được thiết kế và hình thành bởi trí năng, mà trí năng thì được thiết kế để giúp con người sống trong thế giới hình tướng trong đó mọi vật đều được phân biện do đặc tính và giới hạn của chúng.

Tình thương không có điều kiện.  Làm sao tình thương có thể bị giam vào kho dữ liệu, là cái gì được thiết kế để giúp con người sống trong thế giới vật chất? Các con có thấy chăng là không thể hiểu tình thương vô điều kiện bằng cách đó được. Hoặc là con người không hiểu tình thương là gì – và có nhiều người đã chịu thua không muốn hiểu – hoặc là họ tưởng họ hiểu tình thương là gì. Nhưng thực sự là họ chỉ hiểu một cái gì do kho dữ liệu chế ra và được họ phóng lên Thượng đế.

Hãy để tình thương tuôn chảy

Nếu con có một người trên địa cầu nhìn mặt trời qua cặp kính màu đỏ và tin chắc là mặt trời màu đỏ, trong khi con thì không đeo kính và thấy rõ mặt trời trên bàu trời như thế nào, thì dĩ nhiên là con thấy rõ người ấy buồn cười quá.  Con có thấy chăng là có rất nhiều người trên trái đất đang nhìn thế gian và tình thương qua kính màu? Họ khẳng định rằng tình thương là như vậy, sự sống là như vậy, Thượng đế là như vậy, người khác là như vậy. Những người này không để hòa điệu cùng tình thương vô điều kiện. Họ không thể nhận được nó, họ không thể kinh nghiệm nó.

Họ cũng không thể cho tình thương vô điều kiện, vì họ không thể để cho nó không có điều kiện, và để nó tuôn chảy và biểu lộ qua họ một cách vô điều kiện. Thày không muốn nói là tình thương vô điều kiện lúc nào cũng giống nhau, nhưng trong mọi hoàn cảnh, nó đều thể hiện qua hành động nâng cao người khác lên, tùy trình độ tâm thức của họ lúc đó.

Trong khi đó thì con người luôn luôn tìm cách biểu lộ tình thương theo hình ảnh mà họ có trong kho dữ liệu. Điều này dĩ nhiên có nghĩa là họ sẽ phải điều khiển tình thương. Và cũng có nghĩa là họ tự cắt rời khỏi Dòng Sông Sự Sống, là dòng tình thương vô điều kiện – là cái gì không điều khiển được, không thể điều khiển được, vì nếu như vậy thì nó đã không còn là vô điều kiện nữa.

Nếu con thực sự muốn giao tiếp từ trái tim, thì con hãy suy ngẫm về tình thương vô điều kiện và so sánh nó với ý kiến của con về tình thương. Con phải chịu chất vấn kho dữ liệu của con và nhận ra là nó đã nhuộm màu quan điểm của con về tình thương ra sao. Chính nó đã ngăn cản không cho con mở tâm đón nhận dòng tình thương vô điều kiện, và cũng không kinh nghiệm là con đang được thương vô điều kiện.

Những gì con làm cho người khác

Ki-tô có nói: “Con hãy làm cho người khác những gì con muốn họ làm cho mình”. Ý nghĩa thực sự của câu này là những gì con làm cho người cho thấy những gì con đã làm cho chính mình – một cách vô ý thức. Khi con thiết lập một kho dữ liệu và dùng nó để phán xét người khác, con có thấy điều đương nhiên là người đầu tiên bị bỏ vào kho dữ liệu chính là con?

Điều tự nhiên là con đã phán xét chính mình trước khi con bắt đầu phóng phán xét này tới người khác. Khi con phán xét người khác thì con đã nhốt mình vào một hộp tư tường khiến con không kinh nghiệm được tình thương vô điều kiện của Nguồn cội của mình. Do đó, con không kinh nghiệm được tình thương vô điều kiện và cứ luôn luôn cố biện minh cho tình thương có điều kiện của mình.

Làm sao vượt qua bế tắc này? Làm sao ngưng cái vòng luẩn quẩn này? Ta có thể bắt đầu bằng cách dùng tâm – không phải là dùng trí năng, nhưng dùng chân tâm – để hiểu vấn đề là gì và nhận ra nhu cầu vượt lên trên kho dữ liệu và tách ra khỏi các phin lọc. Sau đó con cứ tiếp tục tách ra cho tới khi con đứng xa đến độ con có thể nhìn quá các phin lọc, và bắt đầu thấy thế giới thoáng hiện đằng sau các phin lọc, đó chính là thế giới thực.

Lúc đó con sẽ thấy mặt trời như nó thực sự là, thấy chân tâm của con như nó thực sự là, và kinh nghiệm được tình thương vô điều kiện mà chân tâm dành cho con. Con sẽ chợt tỉnh ngộ và nhận ra sự thực tuyệt đối và kỳ diệu là Hiện diện TA LÀ của con không nhìn thế giới qua các phin lọc mà tâm phàm của con đã tạo ra. Đây là một điều không dễ nhận ra ngay, ngay cả khi đã trực diện những điều thày đang giảng. Một người thường cần nhiều năm, có khi là nhiều kiếp, mới có thể tách đủ ra khỏi tự ngã để cái Ta biết của người đó nhận ra là tự ngã không phải lúc nào cũng đúng.

Tự ngã không ảnh hửơng được thực tại

Con hãy nhìn những người đang bị chìm đắm vào một tranh chấp nào đó. Cái Ta biết của họ hoàn toàn đồng hóa với tự ngã và cách tự ngã nhìn cuộc đời. Đối với họ, bảo vệ tôn giáo hay ý thức hệ là một vấn đề sinh tử, và họ có thể đi tới giết người để làm chuyện này.

Con là những người tâm linh nên dĩ nhiên là con đã bắt đầu tách ra khỏi tự ngã, tức là con đã thấy là tự ngã không phải lúc nào cũng đúng. Nhưng con cũng nên thận trọng và nhận ra điểm tế nhị là các người tâm linh cần nhận ra – cần trải nghiệm – các giới hạn của tự ngã như một sự thực tuyệt đối, không thể chối cãi.

Các con hãy nhớ lại thời Trung cổ khi con người tin rằng vũ trụ rất nhỏ và quả đất là trung tâm vũ trụ. Và các con hãy nhìn lại thời nay khi mọi người từ khi bắt đầu khôn lớn đều biết rằng quả đất chỉ như là một hạt bụi nhỏ trong vũ trụ bao la gồm nhiều tỷ thiên hà. Bây giờ các con hãy thấy là hiện nay có nhiều tỷ người trên địa cầu vẫn bị chìm đắm trong niềm tin rằng nếu họ cầu Thượng đế hay làm một số nghi lễ nào đó, họ sẽ điều khiển được Thượng đế và khiến ngài cho họ gì họ muốn.

Đây chính là điều mà con cần nhận ra – đó là tự ngã hoàn toàn không có quyền gì trên thực tại cả. Tự ngã có thể cả quyết cách nó nhìn thế gian là đúng, nhưng đó vẫn chỉ là một ảo tưởng. Bên ngoài vũ trụ song hành mà tự ngã tự tạo ra có một vũ trụ thực hoàn toàn không bị chi phối bởi nó – giống như Mặt trời không bị ảnh hưởng bởi bất cứ chuyện gì xảy ra trên địa cầu. Con có nghĩ rằng Mặt trời bị ảnh hưởng bởi sự việc hôm nay là một ngày mây mù? Chắc hẳn là con cũng nhận ra là tuy chỗ con ở có vài đám mây, nhưng cũng có rất nhiều vùng đất rộng trên địa cầu đang không có mây.

Tình thương vô điều kiện không có điều kiện

Khi con bị chìm đắm vào thế giới quan của con – tức là khi con bị kẹt trong quan điểm tự ngã và kho dữ liệu bé nhỏ của con là trung tâm vũ trụ – thì con không thể trải nghiệm tình thương vô điều kiện. Con yêu dấu, tình thương vô điều kiện không có điều kiện nào hết – tức là nó tỏa xuống tất cả mọi người trên địa cầu 24 tiếng mỗi ngày.

Con thực sự không thể rút vào bất cứ bầu cõi nào – trong thế giới vật chất hay cõi nào khác – mà trong đó không có tình thương vô điều kiện của Thượng đế. Điều này không thể xảy ra được. Làm sao ngăn được cái gì vô điều kiện? Nó xuyên qua tất cả mọi điều kiện! Con có thể nghĩ là con đang tách ra khỏi nó, nhưng con chỉ tách ra vì con nhìn thế gian qua kho dữ liệu đang nói với con: “Tình thương là thế này thế kia, nó không là thế này thế khác.”

Khi con giao tiếp với người khác, lẽ dĩ nhiên là con giao tiếp qua kho dữ liệu của con. Và người kia giao tiếp với con qua kho dữ liệu của họ. Đó là lý do tại sao con thấy những người có kho dữ liệu hoàn toàn khác nhau hay xung đột với nhau. Đó là lý do tại sao con thấy con người hay tụ họp với những người có kho dữ liệu giống họ, đó là để tránh những xung đột tai hại nhất. Nhưng con cũng thấy là khi mình tụ họp với người có cùng ảo tưởng với mình thì mình khó vượt qua các ảo tưởng này. Khi các người tâm linh hay tôn giáo trên thế giới củng cố cho nhau ảo tưởng của họ thì họ ngăn trở tiến bộ tâm linh của họ – vì họ thuyết phục lẫn nhau là quan điểm của họ về thực tại là chân lý duy nhất.

Hãy đừng đứng tách ra

Các thày đã cố ý không muốn phong trào này có một hình ảnh đậm nét. Các thày không muốn các con cảm thấy mình khác các người tâm linh khác, và dĩ nhiên là sẽ nghĩ mình hơn người khác vì mình có một số giáo lý cao siêu. Các thày muốn các con giao tiếp từ trái tim bằng cách hòa điệu với chân ngã và để kinh nghiệm tình thương vô điều kiện biểu lộ, và sau đó trải nghiệm – không bằng trí năng suy luận mà qua kinh nghiệm trực tiếp – là con hơn cái thể hiện vật chất này.

Lúc đó, con sẽ có thể tạo cho mình thói quen, là mỗi khi con gặp người khác, con không phản ứng theo những gì họ nói, họ làm mà cũng không theo rung động bên ngoài hay trạng thái tâm thức của họ. Trái lại, con tạo thói quen hòa điệu với cái ta vô biên của mình. Con cũng có thể nhận ra rằng người kia – bất kể hình tướng bên ngoài và biểu hiện của họ ra sao – cũng có một cái ta vô biên.

Khi con cảm thấy có xung đột với người khác thì con có thể xin cái ta vô biên của mình giao tiếp với cái ta vô biên của họ, và đem tối đa cảm nhận hợp nhất xuống cái ta-ý-thức của họ. Con sẽ thấy là nhiều xung đột sẽ được giải quyết một sớm một chiều khi họ có tâm thức mới. Và dĩ nhiên cũng là vì chính con cũng có tâm thức mới hai bên không là đối thủ của nhau. Mọi người chắc chắn đều liên đới trong thế giới vô biên, dù rằng có vẻ rất tách biệt trong thế giới vật chất và ảo tưởng này.

Kho dữ liệu đánh bẫy con như thế nào

Tác dụng của kho dữ liệu là tâm vô thức của con lúc nào cũng nỗ lực so sánh mọi chuyện với những gì có trong kho dữ liệu. Những gì có trong kho dữ liệu là những gì đã xảy ra trong quá khứ. Do đó, con không kinh nghiệm giây phút hiện tại như nó đang là. Con không kinh nghiệm thực tại với tâm trẻ thơ, như Giê-su đã giảng. 

Con kinh nghiệm thực tại qua phin lọc của quá khứ chứ không kinh nghiệm giây phút hiện tại. Con phóng chiếu lên thực tại một hình ảnh dựa trên những gì có trong kho dữ liệu. Tất cả mọi thứ trong thế giới vật chất đều được tạo ra từ ánh sáng Mẫu-Vật, là một tấm gương vũ trụ phản chiếu những gì phóng chiếu tới nó. Nếu con cho phép quá khứ phóng chiếu tới giây phút hiện tại rằng thế giới có nhiều người không tốt đang muốn hại mình, thì con sẽ thu hút những người sẵn sàng đóng vai đó.

Người đó có thể có một nhu cầu được hình thành bởi quan điểm thế giới có nhiều người muốn làm nạn nhân, hoặc không muốn tự lấy quyết định và cần người khác lay chuyển và bảo phải làm gì. Đây là hiện tượng tương ứng tức là người có nhu cầu điều khiển người khác sẽ thu hút người có nhu cầu bị điều khiển, làm nạn nhân.

Khi nào thì con sẽ được tự do? Con sẽ được tự do khi con chịu nhìn vào kho dữ liệu và nhìn vào từng hồ sơ từng ngăn tủ trong tiềm thức của con. Con có thể vào đó và dọn dẹp, vứt đi các mảnh tài liệu cũ kỹ và nhận ra con không cần phải giữ tờ biên nhận của tiệm chạp phô 15 năm về trước.

Cũng vậy, quyết định mà con lấy dựa trên những gì xảy ra 15 kiếp về trước cũng không cần ở đó nữa.

Hãy sẵn sàng kinh nghiệm tình thương vô điều kiện

Điều cơ yếu mà thày muốn nói ở đây là con chỉ có thể giao tiếp từ trái tim khi con kinh nghiệm được tình thương vô điều kiện và con sẵn sàng gửi tình thương vô điều kiện đó tới người khác. Con sẵn sàng không phán xét họ, không dán nhãn họ, và cho phép họ là gì họ là ngay lúc này. Khi đó, như thày MORE đã giảng, con cũng sẽ cho phép con là gì con là bất kể người kia chọn lựa ra sao, vì con nhận ra mình có thể chọn phản ứng của mình bất kể trạng thái tâm thức của họ.

Nếu con không làm vậy thì con đã mặc nhiên cho phép tất cả các người đã đối xử với con một cách nào đó trong quá khứ quyết định phản ứng của con đối với người trước mặt đang có vẻ đối xử tương tự. Nhưng người này thực ra chỉ biểu lộ trạng thái tâm thức của mình không liên quan gì đến các người kia trong quá khứ. Người đang đứng trước mặt con không liên hệ gì đến những người mà con đã gặp trong quá khứ, quả thật là không có liên hệ khách quan nào. Các người này chỉ có liên hệ trong tâm con, vì con cứ thu hút một loại người vì con không giải quyết được phin lọc trong kho dữ liệu cho rằng thế giới toàn những người như vậy.

Giao tiếp từ trái tim là thể hiện tình thương vô điều kiện. Tình thương vô điều kiện có nghĩa không lệ thuộc quá khứ. Đây không có nghĩa là con không nhớ quá khứ, mà có nghĩa là con không mang vết thương vết thẹo tình cảm và các định kiến khiến con phản ứng một cách nào đó khi con gặp một người nhấn các nút được tạo ra trong quá khứ.

Hãy tiếp xúc hiện tại ngay lúc này

Con không có nút nào hết. Con có thể nói như sau: “Bất kể chuyện gì xảy ra trong quá khứ, ngay lúc này, tôi không sống lại quá khứ. Tôi sống giây phút hiện tại với tâm như một tấm bảng trắng, với tâm ngây thơ của đứa trẻ.” Khi con làm thế thì con tự giải thoát khỏi khuôn nếp phản ứng cũ và tìm ra một phản ứng cao hơn khi con gặp một hoàn cảnh giống như một hoàn cảnh con đã gặp trước đây. Khi con chứng tỏ con muốn chọn một phản ứng cao hơn thì con mở cửa để tình thương vô điều kiện tràn vào, vì con không tìm cách bảo vệ mình và ngăn chặn người khác. Ngược lại con đang tìm cách nâng người khác lên, và đó chính là điều kiện khiến tâm con mở ra đón nhận dòng chảy của tình thương vô điều kiện.

Con có thấy là những gì thày vừa nói có vẻ mâu thuẫn chăng? Thày nói là có một điều kiện để tâm con mở ra đón nhận dòng chảy của tình thương vô điều kiện. Nhưng điều kiện này là con không có điều kiện – tức là con để cho thình thương tuôn chảy và bày tỏ vô điều kiện. Khi con bị các điều kiện của kho dữ liệu và quá khứ giam hãm thì con muốn điều khiển cách tình thương thể hiện qua con. Đó chính là lúc con khóa dòng chảy vì con đã đặt điều kiện là tình thương phải thể hiện ra sao. Tình thương vô điều kiện sẽ rút lại và nói: “Tôi tôn trọng chọn lựa của bạn. Nhưng tôi sẽ có mặt ngay khi bạn quyết định thay đổi chọn lựa, và cho phép tôi tuôn chảy qua bạn.”

Con chỉ có thể có khi con cho

Con có thể phối hợp các điều thày giảng và rút ra hai kết luận quan trọng chăng? Tình thương vô điều kiện muốn được tuôn chảy để nâng mọi sự sống lên. Nếu con ra điều kiện trong tâm con và dùng để phán xét người khác, thì tức là con nói: “Tôi không thể bày tỏ tình thương với một người trừ khi người đó hội đủ một số tiêu chuẩn. Người nào không hội đủ tiêu chuẩn phải bị trừng phạt hay điều khiển.” Như vậy là con đã không cho tình thương một cách tự do và vô điều kiện, và khi con không cho người khác tình thương vô điều kiện, thì tình thương không thể tuôn chảy qua con – và do đó con không kinh nghiệm được tình thương vô điều kiện.

Con có thấy ý nghĩa ẩn dụ trong bài cầu thỉnh: “Vì những gì ta cho, ta chắc chắn sẽ nhận”? Nếu con muốn được tha thứ, hãy tha thứ người khác. Nếu con muốn được tình thương, hãy cho người khác tình thương – nhưng hãy cho vô điều kiện. Tha thứ người khác vô điều kiện thì mình sẽ được tha thứ vô điều kiện. Con có nghe Ki-tô nói: Chớ phán xét, vì mình sẽ bị phán xét. Vì những gì con làm cho người khác thì con sẽ hứng chịu, vì thế giới này chỉ là một tấm gương.

Con hãy sẵn sàng nhận ra là nếu con không kinh nghiệm tình thương vô điều kiện, đó là vì có điều kiện nào đó trong kho dữ liệu của con đang làm nghẽn dòng chảy của nó. Con đang tìm cách điều khiển dòng chảy vì con muốn kềm chế người khác để khiến họ phải quy phục thế giới quan của con, và như thế giúp con cảm thấy thế giới quan của mình không bị đe dọa. Con hãy sẵn sàng chất vấn thế giới quan của con, nhưng thêm nữa con hãy xét xem con có thể rũ bỏ nó luôn chăng. Con hãy quan sát những người đang chìm đắm trong hệ thống tín điều của họ.  Nhiều người không thể đột nhiên rũ bỏ nó, vì làm vậy thì họ sẽ bị khủng hoảng bản sắc, tức là không còn biết mình là ai nữa.

Tâm linh có thật

Ý nghĩa thật của con đường tâm linh là con sẽ dần dần tiến tới chỗ con có thể làm giống như Giê-su khi trên cây thập tự.  Giê-su đột nhiên bừng thấy là mặc dù thày đã đạt được tâm Ki-tô tới một mức cao trong kiếp sống này, nhưng thày vẫn còn chờ mong là mọi phải diễn tiến một cách nào đó. Chính những chờ mong này đã trói buộc thày vào địa cầu. Đó là lúc thày quyết định – đây là hành động buông bỏ tối hậu – để cho quá khứ hoàn toàn chết đi, và đó cũng là lúc thày được tái sinh.

Nếu lúc đó Giê-su không để cho quá khứ chết hết đi, thì con nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra? Thày sẽ phải đầu thai trở lại để vượt qua quá khứ đó, cho tới khi thày sẵn sàng chất vấn cách thày nhìn thế giới và nhận ra là nó không có thực.

Có người cho rằng Giê-su vốn là Thượng đế hay là con Thượng đế, và do đó thày được bảo đảm chiến thắng và thăng hoa. Nhưng không có gì bảo đảm cả trong thế giới tự quyết này. Giê-su khi trên thập tự có thể từ chối không rũ bỏ hết quá khứ, và nếu vậy không trở thành Giê-su Ki-tô, tức là tiếp tục là vị mà có người đã gọi là Giê-su người thợ một, tuy rằng thày có thể thổ lộ sự thực là trong kiếp đó Giê-su không hề làm nghề thợ mộc.

Cho mọi người chọn lựa thực

Ta có thể nói mục đích của con đường tâm linh là vượt qua các điều kiện nơi mình để rồi giản dị thấy thế giới như nó là, chấp nhận nó như nó là, chấp nhận là cái gì đang là thể hiện cái không thật, và cái không thật thì không bao giờ thường hằng. Do đó, mỗi lúc con đều cho phép tình thương vô điều kiện thể hiện để mọi người có thể chọn giữa tình thương và phản tình thương.

Con không đi vào rung động của phản tình thương và tìm cách buộc người khác phải chọn lựa một cách nào đó. Con cho họ cơ hội lựa chọn. Con sẵn sàng để tình thương phát biểu rất thẳng thắn – nếu cần – khiến họ phải trực diện chọn lựa đó bằng cách chứng minh rõ ràng  – nếu cần – là họ có thể có chọn lựa khác. Nhưng con không vượt qua lằn ranh và muốn ép buộc họ. Con giữ tự do của mình để con có thể ở trong tình thương vô điều kiện bất kể lựa chọn của họ.

Dĩ nhiên là con có thiện ý muốn giúp người khác –  và con có thể đã bỏ ra nhiều công sức giúp người đó nhận ra điều gì – nhưng nếu họ không chịu nhận ra thì con sẽ cảm thấy như thế nào? Nếu con có tình cảm tiêu cực hay dính mắc thì con đã không hoàn toàn ở trong tình thương vô điều kiện, và con cần làm việc chỉnh sửa tâm mình. Con cần phải xem lại kho dữ liệu của mình và nhận ra tại sao con đã tạo hình ảnh là người quanh mình – mà con biết là Thượng đế đã cho họ quyền tự quyết – phải phản ứng một cách nào đó, phải chọn lựa một cách nào đó khi con nói hay làm điều gì.  Vì sao con đã cho phép mình cất vào kho dữ liệu, vào thế giới quan của mình, các yếu tố phản tình thương này?

Nếu con không chờ mong thì con không thể bị thất vọng, bất kể người kia làm gì hay không làm. Con có thấy chăng là chỉ khi nào con không bị thất vọng hay bị ảnh hưởng một cách tiêu cực bởi người khác thì con mới thật sự có tự do. Chỉ khi đó con mới ở trong tình thương vô điều kiện. Con yêu dấu, làm sao con có tự do? Chỉ có cách duy nhất là ở trong tình thương vô điều kiện. Chỉ ở nơi không điều kiện thì con mới được thật sự tự do.

Hãy nhận Hiện diện của thày

Thêm vào lời nói, thày đã neo chặt Hiện diện của thày là hai yếu tố nam nữ, hai thể hiện nam nữ, của Tia sáng Thứ ba của Tình thương của Thượng đế. Con đã có cơ hội cảm nhận nó, nếu con chấp nhận nó. Nếu con không cảm nhận nó thì con nên biết là Hiện diện của thày vượt qua giới hạn của thế giới vật chất. Bất cứ lúc nào trong tương lai, con đều có thể cảm nhận Hiện diện của thày nếu con chịu mở tâm đón nhận. Nếu con chưa mở tâm được lúc này thì đừng nản chí, đừng để kho dữ liệu chế ra một phán xét. Con hãy nhìn nhận là con cần làm việc tảy rửa các điều kiện đang ngăn chặn con không nhận được tình thương vô điều kiện, và chấp nhận là con xứng đáng được nhận nó. Sau đó, con hãy ra sức làm việc, và nhận ra rằng khi con đã quét dọn đủ số các ngăn tài liệu thì Mặt trời của tình thương vô điều kiện sẽ chiếu sáng xuyên qua đám mây, và con sẽ cảm nhận được nó.

Con yêu dấu, thày LÀ một đấng vượt thời gian và không gian. Con cũng vậy, con vũng vượt thời gian và không gian. Con hiện đang chọn coi mình là một sinh thể bị thời gian và không gian giới hạn – và chọn lựa này hoàn toàn chấp nhận được – nhưng con nên biết đây không phải là chọn lựa duy nhất của con.

Thày niêm con trong ngọn lửa của Tình Thương Vô điều kiện của TA LÀ. Thày niêm các phong trào các người tâm linh đang đi tìm một trạng thái tâm thức cao hơn. Khi con tiếp tục hướng về tình thương vô điều kiện, thì ông hoàng thế gian sẽ tìm đến nhưng sẽ không nắm được gì nơi con. Mặc dù đại diện của hắn có thể gia nhập, nhưng họ sẽ không phá đổ được phong trào này. Họ sẽ ngừng được vòng xoắn đi lên đã hình thành và có tiềm năng gia tốc để trở thành vùng ánh sáng huy hoàng xóa tan màn đêm đang bao phủ quả đất. Đây là ánh sáng soi đường tới một thực tại mới, một cách hội tụ mới, một cách giao tiếp mới đựa trên tình thương vô điều kiện. Thày niêm các con trong tình thương đó.

Nhiều hơn là hiểu biết bằng trí năng

Bài giảng của chân sư thăng thiên Elohim Apollo qua trung gian Kim Michaels, ngày 1/1/2009. Bài này được xếp thành Chương 4 của quyển Làm sao giáo tiếp từ trái tim (How to Communicate from the Heart, Kim Michaels, 2014).

Tên ta là Apollo, TA LÀ và mọi người biết ta là Elohim của Tia Sáng thứ 2 của sự Minh Triết của Thượng đế. Ta đến đây để giúp các con hiểu ý nghĩa của Tia Sáng thứ 2 trong sự giao tế từ con tim.

Cái khó khăn con phải đương đầu là làm sao giữ được mình LÀ giữa cái tăm tối Không Là đầy dãy trên hành tinh này. Cái Không-Là này đã có mặt trên hành tinh này lâu đến độ các lực đằng sau nó tưởng rằng họ làm chủ hành tinh này và có quyền sở hữu luôn cả hành tinh này.

Họ không ngờ rằng đang có một nhóm người nhỏ vượt ra khỏi tầm kiểm soát của họ và chứng minh cho thế giới thấy rằng nhóm người này muốn là tình thương vô điều kiện dù hoàn cảnh bên ngoài có như thế nào chăng nữa.

Sự lạm dụng tôn giáo

Dù rằng con người sẽ đau đớn khi phải đối mặt với các vấn đề cá nhân của mình, con cần nhận ra rằng muốn cho nhân loại tiến lên và vượt qua các giới hạn, thì phải có những người chịu tiên phong làm mũi giáo dẫn đường và chứng minh rằng họ sẵn sàng giải quyết các vấn đề cá nhân của họ và như thế họ có thể tạo cảm hứng cho người khác làm theo.

Từ bấy lâu nay, các thầy đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần – trong những cảnh huống khác nhau và dùng những từ ngữ khác nhau – các thầy đã nói nhiều lần là trong một thời gian rất là dài những người thầy giả đã dùng tôn giáo để lừa dối con nghĩ rằng con có thể đi vào nước Trời mà không cần phải nhận ra cái xà nhà trong mắt con, không cần phải nhìn thẳng vào tự ngã của con.

Có nguyên cả một tâm thức như thế đè lên trên hành tinh này như một đám mây đen kịt. Có những người tâm linh hàng đầu cũng bị dụ dỗ tin rằng họ có thể tìm ra tôn giáo tối hậu hay người thầy tối hậu sẽ làm hết mọi việc cần làm dùm cho họ.

Hoặc họ tin rằng họ có thể tìm ra một công thức thần sầu giúp cho họ đi vào nước Trời mà không cần phải nhọc công làm cái công việc nhìn vào tự ngã của mình, vứt đi những quyết định cũ sai lầm, lấy những quyết định mới tốt hơn vì họ nhận ra được là những quyết định cũ của họ đã giới hạn họ – dù là chuyện nhận ra mình sai lầm cũng đã làm cho họ đau đớn.

Chỉ khi nào con chịu nhìn vào các lựa chọn cũ của mình trong thái độ trên thì con mới nhận ra được là con to lớn hơn cái bản sắc mà con đã tạo ra qua những lựa chọn cũ này. Con có thể vượt lên trên chúng, bỏ chúng lại đằng sau, vứt chúng vào đống lửa của cái Ta Là của con.

Trái tim đầy những gì?

Thày More đã xây một nền tảng vững chắc khi Thày nói tới ý chí của Thượng đế trong sự giao tiếp bằng trái tim. Thực ra có nhiều người trên thế gian này không muốn giao tiếp bằng trái tim. Ngay cả chuyện nối kết với cái Một của trái tim, họ còn không muốn nữa.

Chúng ta có thể mở rộng sự hiểu biết và nhớ lại lời dạy của Ki-tô. Thày nói rằng cái gì nó đầy ắp trong con tim sẽ tràn ra ngoài cửa miệng. Thật vậy, con tim có thể bị pha màu sắc của sự giận dữ hay tình cảm tiêu cực khác

Lẽ dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là con tim đã dính chặt với cảm xúc tiêu cực đó. Nên nhớ rằng con tim là cái cốt lõi của mình. Không có cái gì trên thế gian này chế ngự được cái cốt lõi. Điều này không có nghĩa là con cứ tiếp tục để cho luân xa trái tim của con bị nhét đầy cái nhìn tiêu cực và những rung động thấp kèm theo.

Con có thể thấy được những người trên thế gian này với con tim biểu lộ sắc thái phản-tình thương. Con tim họ mang cái nhìn cơ bản của họ về cuộc đời và thái độ cơ bản của họ đối với cuộc đời.

Họ có khuynh hướng phản ứng lại với cuộc đời một cách tiêu cực. Hoặc là họ phóng chiếu cái tiêu cực lên người khác. Đó là lúc cái miệng sẽ tuôn ra điều tiêu cực mỗi khi họ ở trong hoàn cảnh không đúng sự mong chờ của họ.

Lẽ dĩ nhiên là sự mong chờ này đến từ cái nhìn cuộc đời của họ. Họ đã chọn lựa nhìn cuộc đời như thế và họ cho rằng cách họ nhìn cuộc đời là sự thật tối hậu. Họ không thấy ra được là đây chỉ là một ảo tưởng không thật của tâm nhị nguyên mà họ tự nguyện cho đó là sự thật. Sau đó họ đã tự ý phóng chiếu cái ảo tưởng này lên trên ánh sáng Mẫu-Vật.

Một khi con tim đã bị pha màu sắc biểu lộ tiêu cực, những người này sẽ không chịu nhìn nhận là nó là ảo tưởng và không nhìn nhận rằng chính mình đã lựa chọn ôm lấy ảo tưởng này.

Ngược lại, họ sẽ phóng chiếu ra hình ảnh cho rằng mọi chuyện thật sự là như vậy. Bởi vì họ đang sống trong một thế giới song song của riêng họ với đầy sợ hãi, giận dữ hay bất cứ cảm xúc tiêu cực nào mà đã họ chọn làm thái độ căn bản của khi tiếp xúc với cuộc đời.

Hãy nhìn vào chính trái tim của con

Các con minh triết hơn vì các con đã bắt đầu trong lọc tim của mình. Các con đã bắt đầu vượt lên cao. Nhưng một số các con vẫn còn một phần nào yếu tố phản-tình thương trong luân xa trái tim khiến các con pha màu cái nhìn về cuộc đời của mình.

Điều Thày muốn giúp con hiểu ở đây là ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của con đầu tiên hết đi vào cái phòng bí mật trong tim của con rồi từ đó đi vào luân xa trái tim. Như vậy nếu trong luân xa tim của con có một yếu tố ảo tưởng không-thật, cái không-thật này sẽ pha màu ánh sáng ngay trong sự biểu hiện đầu tiên của nó trong con người thấp của con.

Đó là lý do tại sao rất khó mà thấy được những yếu tố ảo tưởng trong luân xa trái tim vì con cứ tin chắc rằng mọi chuyện nó phải là như vậy thôi. Con không muốn ngừng lại và nghĩ: “Có thể chăng, đây chỉ là một ảo tưởng?”

Con sẽ nghĩ là con không cần phải đặt vấn đề. Con cho rằng con đã giải quyết nhiều chuyện trong tâm lý của mình, con đã buông bỏ nhiều dính mắc, con đã buông bỏ nhiều ảo tưởng, cho nên cái yếu tố này trong con người con không cần phải tra vấn nó đâu.

Con cho rằng yếu tố này dựa trên sự thật. Con cho rằng trong nó có sự thật vì nó được thẩm thấu bởi ánh sáng đến từ Hiện diện TA LÀ. Con thấy được sức mạnh của ánh sáng nhưng lại không thấy được ánh sáng đã bị pha màu bởi cái ảo tưởng nhị nguyên mà con đã chấp nhận là sự thật.

Làm sao con có thể nhìn xuyên suốt và nhận ra được là chúng là những ảo tưởng cốt lõi trong con? Con nhận ra được sự thật khi con gặp một vị thầy sống. Ý của ta là người thày đó không nhất thiết phải là một vị có danh tiếng, chức tước, thẩm quyển hay học vấn cao.

Ý ta muốn nói là con gặp được một vị thày sống giả dạng dưới nhiều hình thái khác nhau. Thày More đã từng nói: “Nếu vị thày là một con kiến, thì hãy theo con kiến đó”, phải không con? Con còn nhớ câu chuyện cổ tích xưa về y trang mới của Hoàng đế trong đó đứa bé nhỏ xíu thốt lên: “Ủa sao hoàng đế đâu có mặc quần áo gì đâu?” 

Khiêm nhường là một đức tính cốt yếu trên con đường tu

“Con có sẵn sàng để cho người chung quanh con nói cho con biết điều mà con không thấy được?” Con có sẵn sàng để thấy một yếu tố ảo tưởng đã ăn sâu trong cốt lõi của con người thấp của con mà con không thấy nó là ảo tưởng và con nghĩ rằng con không cần phải đặt vấn đề với nó?

Những người đi tìm tâm linh muốn biểu hiện trọn vẹn tiềm năng của mình cần có can đảm phơi bày ra công chúng những dính mắc của mình và chứng minh cho mọi người thấy là họ sẵn sàng nhìn vào bất cứ khía cạnh nào của tự ngã của họ và họ sẵn sàng vượt lên trên chúng, vứt chúng lại đằng sau.

Làm như vậy sẽ tạo cảm hứng cho nhân loại tiến cao hơn. Họ sẽ thấy được rằng cái ảo tưởng cho rằng mình sẽ được cứu rỗi tự động mà không cần phải thấy cái xà nhà trong mắt của mình, cái ảo tưởng này quả thực chỉ là một ảo tưởng mà thôi. Đây là một sự dối trá, một con đường giả không đưa tới cứu rỗi, kéo họ ra khỏi con đường chân chính mà Ki-tô, Phật, Lão tử và bất cứ vị thày tâm linh khác đã chứng minh. Các vị thày này đã thật sự nối kết được và hiểu được mọi sự sống là một.

Nhận từ con tim

Khi con muốn người khác giúp con và nói cho con biết điều mà một mình con không thấy được, lúc ấy con cần bước lên bước kế tiếp. Con cần hiểu ra rằng chỉ có một cách giúp cho con nhìn thấy điều mà bây giờ con không thấy được là con phải vượt lên trên cái trí vỏ ngoài của con. Con phải cho phép người khác giao tiếp với con bằng con tim của họ và con cũng đón nhận họ từ con tim của mình. Giao tiếp là một tiến trình hai chiều, phải không con?

Ít ra thì phải hai chiều nếu muốn thành công. Thày muốn nói với con rằng giao tiếp bằng trái tim chỉ xảy ra nếu có dòng chảy từ Alpha tới Omega, dòng chảy của sự cho và nhận. Người kia  có thể đang muốn nói cho con một điều từ con tim của họ, khi họ đang kết nối với con tim của họ, nhưng nếu chính con không kết nối với trái tim mình và không chịu tiếp nhận từ trái tim mình, thì sự giao tiếp này không đem lại kết quả cho con thấy điều mà con không thấy được.

Lúc đó, con không lên cao được. Con sẽ đi xuống thấp hơn, con sẽ có phản ứng sợ hãi và tìm cách bênh vực cho cái mà mình không thấy được, bênh vực cái ảo tưởng mà mình tưởng là sự thật. Con đã từng thấy điều này lập đi lập lại ngoài đời khi người ta cứ khăng khăng bênh vực ảo tưởng của họ, tranh cãi là nó là sự thật hay cho rằng họ không có nhu cầu đặt vấn đề về các ảo tưởng này. Có khi họ còn đi tới cái cực đoan là tấn công những kia mà họ cho rằng đang tấn công họ hay tấn công ảo tưởng của họ, thế giới quan của họ, tôn giáo yêu dấu của họ hay ý thức hệ chính trị của họ.

Hãy khôn ngoan hơn tự ngã của con

Con cần khôn ngoan hơn. Con cần dùng sự minh triết của Tia sáng thứ 2 và nói: “Con sẽ cao hơn những người bênh vực ảo tưởng của họ. Con sẽ đi vào trái tim của mình. Con sẽ không đi vào cái trí phân tích và tìm cách bênh vực ảo tưởng của mình khi có người đang cố gắng nói cho con biết điều gì từ trái tim của họ.” Đôi khi có những người đang cố gắng nói một điều gì về con mà họ chưa hoàn toàn an trụ nơi trái tim họ. Họ có thể hơi bực bội, hay nóng giận vì họ đã phải chịu đựng con trong một thời gian nào đó. Họ đã chán quá rồi và bây giờ thị họ muốn nói ra. Vì họ bực bội hay nóng giận nên nhiều người vịn vào đó để không chịu lắng nghe họ.

Nhưng thày nói với con, nếu con khôn ngoan thì con sẽ nói, nếu có ai nói điều gì với con, con sẽ bỏ qua những thiếu sót của người đó. Con sẽ bỏ qua sự rung động của họ lúc đó. Con sẽ vượt lên trên các lời nói. Con sẽ đi vào trong tim mình và hỏi: “Có điểm gì trong đây là thật, là điều mình cần nhìn thấy? Người này nói có lý không? Người này có thấy được điều gì bên trong mình mà mình cần phải sửa đổi không, dù là cái thấy của người này không hoàn hảo?”

Con nên khôn ngoan mà nhìn ra một cái bẫy khác của tự ngã. Tự ngã có khuynh hướng dùng cái trí phân tích để tranh luận bênh vực hay chống lại các tin tưởng của con, để tranh luận bênh vực hay chống lại điều gì người khác nói. Con nên có sự minh triết và áp dụng những bài pháp mà các thày đã dạy con về tâm nhị nguyên [Xem các cuốn sách, Giải thoát khỏi Ảo tưởng của Tự ngã, Giải thoát khỏi Trò chơi của Tự ngã, Giải thoát khỏi Bi kịch của Tự ngã]. Con cần nhận ra rằng tâm nhị nguyên có thể chứng minh bất cứ cái gì là đúng. Bởi vì tâm nhị nguyên đặt nền tảng trên khả năng phân tích của trí, là cái trí năng.

Con phải nhận ra sự hạn chế của trí năng. Thày không có ý nói là trí năng là một cái gì xấu mà con phải né tránh. Nó là một phần cần thiết trong tâm con người. Nhưng nó được đặc biệt tạo dựng để xử lý thế giới hình tướng. Như các thày đã giảng dạy rất sâu sắc trong các cuốn sách của Mẹ Mary và Maitreya, thế giới hình tướng có đặc tính là mọi sự vật trông khác nhau, cái này nhìn khác hẳn cái kia khi so sánh chúng với nhau.

Cái trí phân tích được tạo dựng để xử lý những sự khác biệt này. Nó phân tích và phân loại những đặc tính khiến cho hình tướng này khác với hình tướng kia. Nó giúp cho con xét đoán để biết được cái gì tích cực hay không tích cực, cái gì giúp con và mọi sự sống mở rộng ra và cái gì hạn chế con và mọi sự sống. Cái trí có thể làm được một phần nào việc này, đặc biệt là khi nó nằm dưới sự hướng dẫn của con tim.

Lẽ dĩ nhiên, giống như trường hợp mọi khả năng khác, cái trí có thể cho mình là cứu cánh. Con đã từng thấy những người chưa bao giờ kết nối với trái tim của họ. Họ tin rằng cái trí cao cấp và không cần chịu sự điều khiển của trái tim vì cái trí hoàn toàn có khả năng biết được chân lý một mình nó. Như thày đã nói, cái trí được tạo dựng để giúp con phân biệt những vật trong thế giới hình tướng.

Cái trí không thể khám phá ra chân lý tối hậu, sự thật tối hậu. Nó còn không hiểu nổi các khái niệm này. Con đã từng thấy nhiều người bị giam hãm trong cái trí. Họ có thể tranh cãi hàng giờ đồng hồ về một ý tưởng hay thế giới quan, dù là sâu thẳm trong họ, họ biết là chẳng có chân lý tối hậu nào cả và cũng chẳng có một luận cứ tối hậu nào cả. Rốt cuộc thì họ cũng thấy rằng khi dùng cái trí, bất cứ ý kiến nào cũng có thể cãi ngược lại với một ý kiến khác và họ đi đến chỗ tin rằng chẳng có chân lý tối hậu nào cả.

Biết chân lý tối hậu

Làm sao con có thể kết nối được với chân lý tối hậu? Con yêu dấu, chỉ qua con tim của con mà thôi. Như thày More đã nói, chỉ có con tim mới kết nối được với sự thật tối hậu là mọi sự sống là một. Lẽ dĩ nhiên khi con nhận ra điều này, con đã có cái biểu lộ tối hậu của minh triết. Con thấy được là một mặt con có cái biết của cái trí, rất giỏi trông thấy các chi tiết nhưng rất dở không thấy được bức tranh tổng thể, vì chỉ có trái tim mới thấy được cái tổng thể. Lẽ dĩ nhiên là cái trí luôn luôn chú tâm vào những điểm khác biệt, nó đã được tạo dựng để phân tích và phân loại những điểm khác biệt. Do đó, nó không thể thấy, không thể nhìn sâu sắc để nhận ra sự thật bên dưới là mọi sự sống là một.

Những người bị giam hãm trong cái trí thấy họ tách biệt khỏi mọi người, tách biệt khỏi Thượng đế. Rồi thì, sự hiện hữu của Thượng đế và bản thể của Thượng đế trở thành một đề tài tranh luận của trí năng.

Thay vì tìm cách nối kết với Thượng đế, trải nghiệm trực tiếp Thượng đế trong tim mình, thì cái trí tranh cãi xem hình ảnh nào của Thượng đế là hình ảnh tối hậu của vị Thượng đế xa xăm ở bên ngoài con người. Đây là điều mà các nhà trí thức thần học đã làm trong mấy ngàn năm qua. Họ không bước được một bước nhỏ tới sự trải nghiệm trực tiếp về cái duy nhất của Cái Là của Thượng đế.

Vượt lên trên chờ đợi

Câu hỏi mấu chốt là: “Con có muốn giao tiếp với mọi người từ con tim hay không?” Câu trả lời của con sẽ đưa con tới mức minh triết tương ứng. Hoặc là con tiếp tục thấy mình tách biệt với người khác. Hoặc là con thấy hay bắt đầu thấy là bên dưới là mọi sự sống là một. Con có muốn nâng cao tự ngã của mình? Con có muốn bênh vực cho tự ngã tách biệt của mình? Con có muốn bảo vệ cho mình không bị tổn thương? Hay là trong mọi tình huống, con đều tìm cách nâng cao mọi sự sống?

Thày khuyên con nên đọc đi đọc lại nhiều lần những lời giảng của thày More bởi vì trong đó có những chìa khóa tâm linh mà ít ai nhận ra được lần đầu. Thày khuyên con quán các lời của thày More với trái tim của con cho tới khi con nhận ra sự thật bên dưới những lời nói của thày. Khi nào con thật sự trải nghiệm sự thật và sự minh triết của quyền tự quyết, thì con hiểu rằng không có bất cứ lý do gì, không có cái gì biện minh được cho sự chờ đợi rằng mọi sự phải xảy ra như thế này hay như thế kia trên trái đất này. Khi con có minh triết, con cũng hiểu rằng nói như trên không có nghĩa là con sống và nhắm mắt chấp nhận tất cả mọi thứ đang xảy ra mà không có sự phân biện tâm linh.

Thật vậy, làm sao mọi sự có thể thay đổi được nếu không có những người tiên phong muốn có cái gì cao hơn, muốn vượt lên trên những gì đang được biểu hiện ngay bây giờ? Con cần nhận ra rằng con không thể nào thay đổi được mọi chuyện trên trái đất này, nếu con có một chuẩn mực, rồi con so sánh người khác và hành động của họ với chuẩn mực của con, con phê phán họ với cái tâm phê phán phàm phu và con kết luận họ sai trái vì họ không đạt được tiêu chuẩn của con đặt ra cho họ. Những sinh thể sa ngã cũng đã muốn thay đổi trái đất, một số tin rằng họ sẽ cứu rỗi nhân loại qua sự kiểm soát, và áp lực mọi người phải hành động theo một hướng nào đó. Họ cho rằng nếu mọi người sống theo chuẩn mực bên ngoài, họ sẽ được vào cõi Trời.

Tạo cảm hứng thay vì áp lực

Lẽ dĩ nhiên sự thực là chỉ có một cách đi vào nước Trời là nhận ra rằng con chưa bao giờ tách biệt khỏi nước Trời vì mọi sự đều là nước Trời và chỉ có nước Trời mà thôi. Cách duy nhất để trái đất này thay đổi tốt lành hơn không thể dùng áp lực mà phải tạo cảm hứng cho mọi người lấy những quyết định tốt hơn. Những người cho mình là thày là những vị thày giả vì họ đã tách họ ra khỏi cái một của mọi sự sống.

Do đó, họ tìm cảch kiểm soát, áp lực người khác và tước đoạt quyền tự quyết của người khác. Con chỉ có thể bước vào nước Trời bằng sự tự quyết của con. Con chọn đi vào nước Trời, ngược lại với con chọn không muốn đi vào nước Trời. Con yêu dấu, con không thể nào áp lực người khác lấy chọn lựa đó. Con có thể áp lực người khác làm một hành động nào đó, con có thể áp lực họ chấp nhận một số tin tưởng nào đó. Nhưng con không thể áp lực họ là người như thế này hay người như thế kia.

Họ phải lấy quyết định tự do là họ muốn là người như thế đó. Nếu con nghĩ rằng con làm việc cho ánh sáng, cho các chân sư, làm việc để nâng cao toàn thể nhân loại, mà con có cái ý niệm vi tế muốn áp lực người khác chấp nhận một số tin tưởng, thậm chí áp lực họ đi theo một tôn giáo nào đó, thì thực ra con không làm việc cho ánh sáng, con đang chống lại ánh sáng.

Đây là trường hợp của nhiều người có ý hướng tốt trong thế giới tâm linh nhưng lại bị kẹt trong cái ảo tưởng về sự cứu rỗi tự động vỏ ngoài. Các con là những người có trí tuệ, các con phải giải thoát trái tim mình ra khỏi mọi yếu tố của ảo tưởng này để con không bao giờ tìm cách áp lực người khác. Ngược lại, con tìm cách cho họ cảm hứng để chọn lựa hay hơn.

Tại sao thế giới đang như thế này?

Tại sao thế giới đang như thế này? Thế giới này là kết quả của những chọn lựa của tập thể. Chọn lựa của từng cá nhân gộp chung lại với nhiều cá nhân thành chọn lựa tập thể đã tạo ra các điều kiện sống hiện nay. Làm sao thay đổi đây? Chỉ khi nào đủ túc số một nhóm đông đảo cá nhân chọn lựa khác đi vì họ có được sự minh triết lấy một chọn lựa mới tốt hơn. Tuy nhiên con không thể áp lực họ thấy được sự minh triết đó. Con chỉ có thể tạo cảm hứng cho họ qua sự truyền dạy của con. Con dạy như thế nào? Con dạy bằng gương sống của con, con là, con là một với sự minh triết đó.

Con dạy bằng cách con làm gương cho người khác thấy là con sẵn sàng nhìn vào các ảo tưởng, các ảo tưởng trong thế giới chung quanh con (điều này dễ làm và an toàn vì đây là ảo tưởng do người khác tạo ra) và các ảo tưởng bên trong con. Con nhận ra rằng con đã chấp nhận một số ảo tưởng từ bên ngoài tới nhưng chính con cũng đã tạo ra ảo tưởng.

Tại sao con tạo ra một số ảo tưởng? Con tạo ra chúng để con có cái cớ để không tiến lên cao hơn, cái cớ để kềm giữ ánh sáng của mình. Thật ra, con xuống thế gian này để là một ngôi Mặt Trời tỏa rạng ánh sáng đặc thù của con về tình thương vô điều kiện của Thượng đế. Khi tình thương của con cứ bị bác bỏ liên tục bởi những người đã quên mất là họ là những đứa con của tình thương, con mới quyết định kềm giữ lại ánh sáng của con đối với người phàm phu.

Con phải có lý do tại sao chuyện con kềm giữ ánh sáng là cần thiết và thích ứng. Để làm được chuyện này con đã tạo ra một số ảo tưởng nay đã thâm nhập cốt lõi của tâm phàm của con nơi luân xa trái tim. Như vậy nó đã pha màu cách con nhìn đời, và ngay cả cách con nhìn chính mình.

Không chịu cho

Nếu con ngần ngại và không chịu cho – ở đây thày nói tới tinh thần cho rộng rãi và vô điều kiện – thì con đã tạo ra một ảo tưởng biện minh tại sao con không cho, tại sao con không phải cho, tại sao không thể nào cho được, tại sao cho là không đúng.

Có hàng loạt những ảo tưởng như vậy, nhưng chúng là thế đấy: chúng là ảo tưởng, hỡi con yêu dấu. Con không xuống đây để kềm giữ ánh sáng của mình. Con xuống đây vì con thấy hành tinh này tăm tối bởi vì đa số đã kềm giữ ánh sáng của họ. Con xuống đây để tạo một sự thay đổi! Con không tạo sự thay đổi bằng cách làm y như mọi người là kềm giữ ánh sáng của mình. Thày tin rằng con thấy được điều này. Làm sao con tạo được sự thay đổi? Bằng cách làm điều mà người khác không làm.

Bằng cách con cho vô điều kiện, không có nghĩa là con cho một cách vô minh, mà con cho với sự minh triết. Con không cho người khác ánh sáng và năng lượng của con vì con thương cảm, để giúp người đó tiếp tục ở lại trong trạng thái tâm thức giới hạn của họ. Con cho để nâng cao người kia lên trên trạng thái tâm thức hiện thời của họ. Thậm chí có vài trường hợp trông có vẻ như con đang kềm giữ ánh sáng để tránh không khuyến khích người kia. Nhưng khi con quán chiếu lại với sự minh triết rộng lớn hơn, con hiểu rằng thực sự con đã không kềm giữ ánh sáng của mình.

Đây là trường hợp con định hướng ánh sáng của con, khi con cho, con dùng phương cách thích hợp để tạo cơ hội tối ưu để nâng người đó lên cao bằng cách con tạo cảm hứng cho người đó thấy được là cuộc đời của họ có thể tốt lành hơn, rộng lớn hơn hiện tại. Thực vậy, có những trường hợp con không hạ thấp con xuống cùng mức độ và tâm thức của người kia và đồng cảm với họ. Ngược lại con cho họ ánh sáng của con bằng cách làm gương cho họ thấy là có một trạng thái tâm thức cao hơn. Con sẽ không hạ thấp con xuống cùng mức tâm thức của họ, con nhất định không làm như vậy, dù là họ cố gắng kéo con xuống thấp để họ có cái cớ không phải thay đổi chính họ.

Cho trong minh triết

Có một sự khác biệt vi tế giữa giữ lại và cho trong minh triết mà thày sẽ cố giúp cho con thấy. Giữ lại có nghĩa là con ngừng dòng chảy. Cho trong minh triết nghĩa là con điều khiển dòng chảy theo hướng đem lại kết quả tốt nhất. Làm sao con biết chuyển hướng dòng chảy như thế nào? Nếu con dùng trí phân tích vỏ ngoài thì con không sao biết được. Con biết được khi con nối kết với trái tim và con để cho chân tâm của con điều khiển dòng ánh sáng xuyên qua con. Con yêu dấu đây là cách điều khiển dòng ánh sáng.

Con không tìm cách kiểm soát người khác, đó là điều mọi người làm khi họ sợ. Con luôn luôn tìm cách làm chủ và để cho Thượng đế làm chủ chính tâm của con. Như vậy trong mọi hoàn cảnh, con có thể chọn không phản ứng với một phản ứng lập trình có sẵn, giống như thày MORE đã nói. Con có thể chọn nối kết với trái tim mình và từ đó con đáp ứng với một đáp ứng cao hơn. Đáp ứng đó có mục đích nâng cao tâm thức người kia, dù là khi cần thiết, con cũng có thể chất vấn người đó để họ thấy được là họ cần thay đổi. Một lần nữa, con không xét đoán vấn đề với trí vỏ ngoài. Cái trí này có thể phê phán vi tế và từ đó ngăn chặn dòng chảy.

Đôi khi con nghĩ: “Người này phải thay đổi và người này phải thấy điều này ngay bây giờ và tôi phải cứng rắn với người này.” Những lúc khác, con lại nghĩ: “Ồ, người này đang buồn bực. Tôi không thể nào cứng rắn với người này lúc này. Tôi không thể nói cho họ biết sự thật. Tôi phải lui về và không làm gương cho họ thấy tôi ĐANG LÀ trong trạng thái tâm thức cao.” Con thấy không, một lần nữa, là trong nhị nguyên luôn luôn có hai phân cực ngược nhau và ngay cả cái ảo tưởng của lối suy nghĩ xám đứng giữa. Con phải minh triết thấy ra điều này và lùi về. Lần nữa, con không cần phân tích. Con chỉ nối kết với trái tim và để cho chân tâm biểu lộ xuyên qua con.

Mặt Trời nhiều hơn là một hiện tượng vật lý

Mặt Trời vật lý mà con thấy trên trời thật ra nhiều hơn là một hiện tượng vật lý. Nếu những nhà trí thức khoa học tin rằng họ biết hết mọi chuyện, hay ít ra họ cho rằng chẳng có gì khác ngoài vũ trụ vật chất này, nếu họ dùng khoa học để đo lường tổng số năng lượng phát ra từ Mặt Trời vật lý và sau đó đo lường tổng số những tiến trình nội tại xảy ra bên trong Mặt Trời, họ sẽ thấy giữa hai con số có sự thiếu hụt. Năng lượng sản xuất từ các tiến trình vật lý của Mặt Trời không đủ để giải thích tổng số năng lượng mà Mặt Trời phát ra. Thật ra, Mặt Trời vật lý giản dị chỉ là cánh cửa mở cho ánh sáng từ cõi tâm linh tuôn chảy xuống cõi vật chất. Con cũng vậy, con được tạo dựng ra để là cánh cửa mở như thế.

Con có thể điều khiển ánh sáng đến từ Hiện Diện TA LÀ. nhưng đừng rơi vào cái bẫy tìm cách điều khiển nó với trí phân tích vỏ ngoài, thường dễ rơi vào thói quen phán xét của tâm phàm phu. Ngược lại, con chú tâm vào việc nâng cao mọi sự sống thay vì phán xét là người này phải làm như thế này hay như thế kia. Hãy để ánh sáng tuôn chảy và quan sát xem nó tuôn chảy như thế nào. Hãy quan sát chính mình. “Tôi có đang buông bỏ không? Tôi có đang phán xét người kia một cách vi tế không và sự phán xét này đã ngăn cản không cho ánh sáng biểu lộ xuyên qua tôi với tiềm năng cao nhất của nó?” Rồi từ lần con minh triết hơn khi con vượt lên trên sự thông minh của cái trí và luôn cả sự thông minh của các người thày giả. Họ đã đầu độc mọi khía cạnh của cuộc sống trên trái đất này với lý luận nhị nguyên “tinh vi” của họ.

Con hãy vượt lên trên nhị nguyên – cái mà một số người còn lầm tưởng gọi là minh triết. Con hãy minh triết với sự minh triết của trái tim. Sự minh triết này tuôn chảy từ chân tâm cao của con mà cái Ta Biết của con hiểu được nhưng trí vỏ ngoài của con thì không thể hiểu được.

Kho dữ liệu của con

Nhiều lần những người bị kẹt trong cái trí thấp có thể nghĩ ra những luận cứ để bênh vực điều này hay kiều kia hay điều mới nào khác, những luận cứ mà họ cho rằng không thể nào đả phá nổi. Con có thể thấy chuyện này xảy ra với những thày thông giáo và Pha-ri-si chất vấn Ki-tô và những người Bà là môn chất vấn Phật. Vị nào đã đi vào trong tim và nối kết với cái duy nhất trong mọi sự sống có thể trả lời phá tan mọi luận cứ của những bộ óc ưu tú nhất trên hành tinh này, và không những thể còn làm chấn động luôn cái trí. Kết quả là nó mở trái tim ra để đón nhận một kinh nghiệm trực tiếp, vượt lên trên bất cứ cái gì mà cái trí có thể phân tích và phân loại.

Lấy trách nhiệm làm chủ tâm mình

Bài giảng của chân sư thăng thiên More qua trung gian Kim Michaels, ngày 31/12/2008. Bài này được xếp thành Chương 2 của quyển Làm sao giáo tiếp từ trái tim (How to Communicate from the Heart, Kim Michaels, 2014).

Thầy chào đón con trong ngọn lửa HƠN NỮA mà TA LÀ. Nhưng này hỡi con yêu dấu, tại sao Thầy lại là một với ngọn lửa đó? Bởi vì Thầy đã chọn trở thành một với ngọn lửa đó, Thầy đã chọn nhìn nhận TA LÀ ai. Con cũng vậy, con cũng đang lấy những lựa chọn, vì cuộc đời là một chuỗi lựa chọn.

Có người trên trái đất này phủ nhận họ có quyền tự quyết. Nhưng đây không phải là Chân Tâm của họ đã phủ nhận điều này đâu, mà chỉ là tự ngã của họ thôi. Tự ngã không muốn cái Ta Ý Thức của con – là Chân Tâm của con – lấy các quyết định. Tự ngã muốn tiếp tục điều khiển con, và do đó nó không muốn để cái ta ý thức của con quyết định là nó có quyền lựa chọn. Tự ngã không cho con lựa chọn là con có thể vượt quá các giới hạn của cơ thể, hoặc vượt lên trên niềm tin sai lệch là mình là cơ thể. Quá nhiều người vướng mắc tin rằng mình đồng hóa với cơ thể, tức là họ tin rằng họ chỉ là phần vật chất của con người họ.

Đây là sự khác biệt giữa những ai còn đang say ngủ và những ai đã bắt đầu thức tỉnh. Làm thế nào để thức tỉnh? Con thức tỉnh khi con nhận ra rằng mình có quyền lựa chọn – thay vì rơi vào cái khuôn nếp giống như nhiều người cứ lặp đi lặp lại: “Tôi không có quyền lựa chọn” hoặc “Tôi không có lựa chọn nào khác” ngoài hành động mà họ đã làm.

Lúc nào cũng có quyền lựa chọn

Khi con nghe người nào nói câu đó thì con biết ngay rằng họ không sẵn sàng nhận trách nhiệm làm chủ cuộc đời hay hoàn cảnh của mình. Vì một khi con nhận trách nhiệm đó thì con sẽ nhận ra rằng bất kể hoàn cảnh bên ngoài như thế nào, con luôn luôn có quyền lựa chọn trạng thái tâm của mình và chọn có một phản ứng khác hơn phản ứng thông thường của 99 phần trăm người trên hành tinh này. Phản ứng thông thường này cũng có thể đã được lập trình vào tâm con từ khi con còn nhỏ.

Con yêu dấu, có những người đã hiểu sai giáo lý của Đấng Ki-Tô đến độ không nhận ra rằng cốt lõi giáo lý của Giê-Su là con người có quyền lựa chọn. Phải chăng là Ki-Tô đã từng nói: “Đừng chống cự lại cái ác. Hãy chìa má bên kia”.

Có đúng chăng là hầu hết mọi người trên thế gian này đã bị lập trình để chống cự cái ác và ăn miếng trả miếng? Con có thấy chăng là cốt lõi giáo lý của Đấng Ki-Tô là con có tiềm năng và khả năng để chọn chìa má bên kia – ngay khi con vừa bị đánh vào má này?

Giao tiếp từ trái tim

Điều Thầy đang nói liên quan trực tiếp đến chủ đề quyển sách này. Tại sao Thầy lại nói bài mở cho quyển sách này? Đó là vì Thầy là thượng sư của Tia sáng Thứ nhất của Ý chí của Thượng đế. Làm thế nào để khởi sự giao tiếp từ trái tim? Trước hết, con phải quyết định rằng con muốn giao tiếp từ trái tim. Con phải lựa chọn, con phải lấy quyết định, là con muốn giao tiếp từ trái tim.

Nhiều người trong các con sẽ nói ngay là họ muốn giao tiếp từ trái tim. Nhưng chưa chắc con nhận ra rằng con đã bị lập trình từ nhiều kiếp để không giao tiếp từ trái tim. Con chưa nhận ra rằng rất là khó để rũ bỏ cái chương trình này và như thế giao tiếp được với người khác một cách sâu sắc hơn bằng trái tim.

Đây là thực tế mà chúng ta phải chịu khi chúng ta có xác thân vật chất này. Chúng ta chọn giao tiếp ở mức độ nào? Chúng ta có chọn phản ứng theo lập trình có sẵn chăng? Tức là chúng ta sẽ ăn miếng trả miếng hoặc tiếp tục và củng cố những lựa chọn mà ta đã lấy trước kia – trong thời thơ ấu hay trong các kiếp trước. Nếu như vậy thì chúng ta không thực sự lựa chọn có ý thức. Chúng ta chỉ để cho những lựa chọn cũ của mình lặp lại mà không thực sự đứng lên khẳng định mình là ai.

Con phải chọn giao tiếp bằng con người bên ngoài hay bằng con người bên trong. Con chỉ có thể giao tiếp bằng con người bên trong nếu con giao tiếp từ trái tim. Con không thể nào giao tiếp bằng con người bên trong mà chỉ dùng lý trí. Con có thể dùng lý trí để phát biểu những gì con cảm được trong tim nhưng con không thể giao tiếp bằng con người bên trong mà chỉ dùng lý trí.

Cái duy nhất có thực

Con không thể phân tích sự giao tiếp từ trái tim, chia nó ra thành phần nhỏ và bắt chiếc làm theo với cái trí vỏ ngoài luôn luôn phân tích và lý luận theo đường thẳng. Con yêu dấu, điều đó không thể làm được vì một lý do giản dị: đó là muốn giao tiếp từ trái tim thì phải nhận ra rằng cái duy nhất có thật. Muốn giao tiếp từ trái tim thì chỉ có cách là sống trong cái duy nhất, quy thuận cái duy nhất, phụng sự cái duy nhất trong Tất cả — qua đó con nhằm nâng cao Tất cả. Con không thể giao tiếp từ trái tim nếu con chưa quyết định rằng cái duy nhất quan trọng hơn sự tách biệt.

Khi con nhìn vào cuộc đời – khi con nhìn cách mọi người giao tiếp – thì con thấy ngay là khi họ giao tiếp họ không coi cái duy nhất là có thật. Ngược lại, khi giao tiếp họ tìm cách nâng mình lên trên người khác, hay tìm cách kiểm soát người khác, hay tìm cách tránh bị người khác làm tổn thương, hay tìm cách dìm người khác xuống bằng cách chỉ trích, phán xét, hay áp đặt một tiêu chuẩn. Các tiêu chuẩn này dựa trên quan niệm sai lầm rằng nếu ta sống theo một tiêu chuẩn vỏ ngoài của thế gian, thì chắc chắn ta sẽ được vào nước Trời. Nước Trời vượt lên trên thế gian, và dĩ nhiên chuyện này không thể xảy ra. Làm sao ta có thể vào nước Trời bằng cái gì tách biệt khỏi nước Trời? Các con yêu dấu, điều này đương nhiên là không thể xảy ra được.

Nền tảng của sự giao tiếp từ trái tim là nhận ra rằng mọi sự sống là một. Tức là mỗi khi con giao tiếp với một người khác, thì mục đích, mục tiêu, và ước mong của con là nâng người đó lên.

Tự nhận biết

Làm sao con tránh phán xét, làm sao con tránh chỉ trích, làm sao con tránh đổ thừa, làm sao con tránh so sánh người khác với một tiêu chuẩn mà con cho là tốt nhất cho họ? Con hãy suy ngẫm là Tia sáng Thứ nhất là tia sáng của Ý chí và Uy Lực của Thượng đế. Khi con quán sát ý chí của Thượng đế, thì con sẽ nhận ra rằng ý muốn tối hậu của Thượng đế là tạo ra những phần nối dài của Ngài có khả năng tự nhận biết. Nhưng tự nhận biết là gì? Con không thể có tự nhận biết mà không có quyền tự quyết.

Nếu một tự thể không có khả năng lựa chọn, thì nó không phải là một tự thể – nó không có đặc tính riêng biệt, nó không thể chọn nó sẽ là gì. Con chú ý rằng khi Moses gặp Thượng đế trên đỉnh núi và hỏi ngài cho biết tên, thì Thượng đế trả lời rằng: “Yod He Wav He – Ta Sẽ Là Cái Ta Sẽ Là.” Chứ không phải là “Ta Là Cái Ta Là”, như thường được dịch ra. Sự thực là Thượng đế đã không cho Moses tên mình vì Thượng đế là một đấng tự vượt thăng không ngừng. Tức là Thượng đế nói: “Ở mọi lúc, ta tự cho ta quyền trở thành cái gì ta muốn.”

Đó chính là bản chất của quyền tự quyết – tức là mình được chọn mình là ai ở bất cứ lúc nào. Con phải chọn điểm khởi đầu này khi con muốn giao tiếp từ trái tim – tức là con phải chọn lựa con là ai đối với người hoặc nhóm người mà con đang giao tiếp. Con có chọn để mình bị kẹt vào ảo tưởng mình là một cái ta riêng biệt – tức là con tách biệt với họ, con có thể phải đối chọi với họ, họ có thể làm hại con, họ có thể đe dọa con? Hay là con nghĩ là con cần kiểm soát họ để làm chuyện tốt cho chính họ – vì con biết rõ hơn họ cái gì tốt nhất cho họ?

Con thấy không, khi con chọn mình là cái ta tách biệt thì con không thể tôn trọng quyền tự quyết của người khác được. Ở đây khi Thầy dùng chữ “tôn trọng”, Thầy muốn nói chấp nhận hoàn toàn và vô điều kiện quyền tự quyết của người khác. Nếu con không tôn trọng quyền tự quyết thì con không thể thực sự trải nghiệm mình là một với người khác được. Cái duy nhất không thể bị gò ép.

Ta không thể là một với người khác bằng vũ lực hay kiểm soát. Muốn là một thì phải chấp nhận hoàn toàn và vô điều kiện là đấng Sáng tạo đã quyết định tạo ra các phần nối dài của chính mình và cho các phần này cá tính riêng biệt và quyền tự quyết. Do đó, các phần nối dài có khả năng lựa chọn – họ có thể chọn là hơn nữa, là kém hơn, là cái này, hay cái khác.

Tiềm năng cao nhất của con người

Đó là quyết định tuyệt vời – và tối thượng – của đấng đã sáng tạo ra con. Khi con hiểu và chấp nhận điều này một cách trọn vẹn và đầy đủ, thì con có thể hợp một với đấng Sáng tạo – hợp một với ý định và mục đích của đấng Sáng tạo là không ép buộc hay lập trình con người phải đạt một tiêu chuẩn nào đó. Thay vào đó, ngài cho phép con người quyền tự quyết và cơ hội để chọn mình là hơn nữa, chọn là một với người khác, là một với cội nguồn của mình.

Đó chính là kế hoạch cứu rỗi của Thượng đế trong con, của đấng Sáng tạo trong con. Nhưng cái gì đã xảy ra là đã có một số sinh thể đến từ một bầu cõi lúc đó chưa thăng nhưng nay đã thăng đã quyết định nổi loạn chống lại kế hoạch và quyết định của Thượng đế. Họ đã chọn sử dụng quyền tự quyết của họ để nổi loạn. Việc họ chọn tâm thức tách biệt là một chuyện có thể làm được vì họ có quyền tự quyết. Sau đó, họ đã chế ngự được tâm thức tập thể của những sinh thể đầu thai vào hành tinh này và một số hành tinh khác trong vũ trụ (nhưng con chỉ cần quan tâm đến hành tinh này mà thôi, vì con còn kẹt ở đây cho đến khi con học xong bài học và quyết định lấy lại quyền tự quyết của mình).

Nếu con muốn lấy lại quyền tự quyết của mình và thực thi tự do lựa chọn, thì con phải tôn trọng quyết định của đấng Sáng tạo, tức là sự lựa chọn của ngài cho quyền tự quyết cho con và mọi sinh thể có tự nhận biết. Chỉ khi nào con tôn trọng quyền tự quyết của người khác, thì con mới có thể thực sự chấp nhận là mình có quyền tự quyết và mình có quyền chọn là hơn nữa, cho dù hôm qua con có thể đã chọn mình là kém hơn.

Lời nói dối tối hậu của các thầy giả là một khi con đã chọn mình là một cái gì thấp hơn, thì con sẽ không thể từ bỏ cái bản sắc đó nữa, con không thể vứt bỏ nó, con không thể vượt lên trên nó. Khi con hiểu quyền tự quyết, thì con sẽ hiểu – con sẽ chấp nhận và kinh nghiệm – rằng con có quyền nói với Thượng đế nơi con: “Ta sẽ Là cái Ta sẽ Là.” Vì vậy, con có thể chọn từ bỏ cái bản sắc cũ, cho nó chết đi, cho nó biến đi, cho nó đi vào ngọn lửa mà con là.

Con yêu dấu, đó là tiềm năng cao nhất của con, là khả năng chọn mình hơn cái gì mình là một giây trước đây. Đây là cách duy nhất để vượt qua những chướng ngại trong việc giao tiếp, cách này coi mọi sự sống là một và tìm cách nâng mọi sự sống lên thay vì dìm xuống.

Tôn trọng quyền tự quyết của người khác và của chính mình

Khi con thực sự chấp nhận quyền tự quyết và nhận ra là đấng Sáng tạo đã lựa chọn thật sáng suốt, thì con sẽ nhận ra rằng Thượng đế đã ban cho mỗi người quyền được chọn mình là ai. Khi con gặp một người đã có xung đột với con trong quá khứ, nếu con chấp nhận quyền tự quyết của họ thì con chấp nhận họ được Thượng đế ban cho quyền tự do tuyệt đối có trạng thái tâm thức mà họ hiện đang có. Hỡi con yếu dấu, đó là quyền của họ. Thượng đế đã cho họ cái quyền đó.

Trừ phi con bị rơi vào ảo tưởng của các sa nhân – tức là tự cho mình khôn ngoan hơn Thượng đế – thì con nên chấp nhận rằng Thượng đế đã ban cho họ cái quyền đó. Con nên chấp nhận rằng khi họ ở bất kể trạng thái tâm thức nào, họ đang thực thi quyền tự quyết mà Thượng đế đã ban cho họ, tức là họ được quyền chọn là bất cứ cái gì họ muốn. Tuy nhiên, Thượng đế cũng đã sắp đặt vũ trụ vật chất này để khiến mỗi người phải thực sự trải nghiệm trạng thái tâm thức mà mình đã chọn, kể cả những thể hiện vật chất của trạng thái tâm thức đó, vì mọi vật thực sự đều là thể hiện của tâm thức.

Khi con đã hiểu và chấp nhận điều này, thì con sẽ không còn phán xét họ nữa. Con sẽ không cần có trong đầu một mẫu mực mà con nghĩ họ phải tuân theo. Con sẽ để cho họ tự do trở thành bất cứ ai họ muốn ngay lúc đó.

Con làm thế nào để cho họ quyền tự do đó? Con chỉ cần chấp nhận quyền tự quyết của họ y như con chấp nhận quyền tự quyết của con. Khi con chấp nhận rằng họ có quyền ở trong bất cứ trạng thái tâm thức nào, thì con cũng chấp nhận rằng con có quyền ở trong bất cứ trạng thái tâm thức nào mà con chọn. Trạng thái tâm thức mà con chọn hoàn toàn độc lập với lựa chọn của người khác, độc lập ngay cả với lựa chọn tập thể của tất cả mọi người trên trái đất này.

Đó chính là điều mà Giê-su đã chứng minh. Mặc dù tất cả những người ngài gặp trong kiếp sống đó đều chọn không ở trong tâm thức Ki-tô, nhưng ngài vẫn có thể chọn ở trong tâm thức Ki-tô, ngài chọn là Đấng Ki-tô và phô diễn điều đó.

Khi con hiểu rằng con không cần để lựa chọn của người khác ảnh hưởng đến lựa chọn của mình, thì con sẽ kết hợp được hai thái cực Alpha và Omega, tức là con sẽ cho người khác và cho chính mình đều được tự do. Có nghĩa là khi con tiếp xúc với người khác, thì con nên nhớ rằng lúc nào con cũng có thể lựa chọn trạng thái tâm thức của chính mình, cho dù trạng thái tâm thức của họ như thế nào. Con có thể giao tiếp với họ trên căn bản con có quyền tự do lựa chọn trạng thái tâm thức của chính mình – mà không phải cảm thấy rằng trạng thái tâm thức của họ, hay lời nói của họ, buộc con phải phản ứng một cách nào đó.

Nguyên do thông thường của xung đột

Đa số con người xung đột với nhau chính vì đa số tin rằng khi người khác không cư xử hay nói chuyện đúng như những gì mình chờ đợi, thì mình chỉ có một lựa chọn duy nhất là có tình cảm hay tư tưởng tiêu cực, tỷ dụ như sợ hãi, tức giận hay bất cứ cảm xúc tiêu cực nào khác. Phần thiêng liêng của tâm sẽ tức khắc cảm thấy bị mắc kẹt khi có phản ứng tiêu cực. Nhưng nếu con đổ lỗi là họ đã buộc con vào một trạng thái tiêu cực thì con đã không hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết của mình tức là nhận trách nhiệm làm chủ mình. Vì con phải nhìn nhận rằng chính con đã lựa chọn có trạng thái tiêu cực đó. Con phải nhìn nhận rằng con có thể dễ dàng chọn một phản ứng khác, một phản ứng cao hơn, một phản ứng dựa trên tình thương thay vì sợ hãi hoặc một trong những sắc thái của sợ hãi. Mọi phản ứng và cảm xúc tiêu cực chính thực đều bắt nguồn từ nỗi sợ đến từ sự tách biệt.

Chìa khóa để vượt qua tất cả những cảm xúc tiêu cực, để tránh bị mắc bẫy và rơi vào những cảm xúc này, là phải đứng lui ra và nói với chính mình: “Ta vẫn có thể chọn cái duy nhất dù họ chọn tách biệt! Nếu họ chọn tự coi họ tách biệt với ta, xem ta là kẻ thù, đối thủ, hay một mối đe dọa, thì ta không bắt buộc phải lấy một lựa chọn tương tự. Lúc nào ta cũng có thể chọn cái duy nhất! Trước hết, ta có thể chọn là một với nội tâm của mình, bằng cách đi trở vào bên trong, vào thánh địa bên trong của mình.”

Thánh địa bên trong của con người

Con yêu đấu, con nên biết về thánh địa bên trong này. Hạt ngọc trai quý giá này có thể xem như là căn phòng bí mật trong tim con, là cốt lõi của tim con. Khi thầy nói “trái tim”, thì con hiểu là thầy không nói tới bộ phận vật lý làm phận sự bơm máu, mà là luân xa tim và cái cốt lõi phía sau nó – là một điểm nhỏ đến mức ai muốn tìm xem nó ở đâu, dùng kính hiển vi tốt nhất mà khoa học chế tạo ra cũng sẽ không thể tìm ra nó được.

Con cần nhận ra điểm đó trong con, đó chính là nơi cõi vật chất và cõi tâm linh gặp gỡ nhau trong con người con. Nơi đó là cốt lõi con người, là nơi con lúc nào cũng có thể trở về để tái lập sự hợp nhất với bản thể cao của mình. Con không nên chỉ xem nó như một điểm nhỏ, mà nên tập để biến nó thành một quả cầu và sau đó tiếp tục nới rộng ra mãi, cho đến khi nó vượt quá phạm vi cơ thể và từ trường khiến con lúc nào cũng được bao bọc trong quả cầu đó và không có gì có thể nhập vào và ảnh hưởng ngoại tâm và ngay cả trí phân biện của con.

Một khi con đã rút vào thánh địa bên trong đó và dùng bản thể cao của con để kết nối với cái duy nhất và nhận ra con là ai, thì con sẽ có thể chọn một phản ứng khác phản ứng bình thường

Con không phải là một người máy

Hỡi con yêu dấu, con có nhớ lại những gì thầy nói ở đầu bài về những người đã chối bỏ họ có quyền tự quyết chăng? Hệ quả là gì? Một người không có quyền tự quyết chỉ là một người máy, một cỗ máy. Đặc tính của cỗ máy là gì? Là nếu con nhấn một nút, thì chắc chắn con nhận được từ cỗ máy một phản ứng nhất định nào đó. Nếu con không nhận được phản ứng đó thì cỗ máy không hoạt động hoàn chỉnh, tức là có điều gì không ổn, cần phải được sửa chữa.

Con là một sinh thể có sáng tạo. Nếu có ai nhấn nút thì con không bắt buộc phải phản ứng một cách tiêu cực, vì con có quyền chọn mình không là một máy điện toán. Con có thể chọn mình là một vị đồng sáng tạo với Thượng đế và con có thể đồng sáng tạo một phản ứng tốt đẹp hơn bằng cách kết nối với bản thể cao của con và nhận ra một cách rõ ràng là cái Hiện diện TA LÀ của con – là cái gì ở bên trên thế giới vật chất này – không thể bị ảnh hưởng bởi một người đang nổi cáu. Nó không bao giờ phản ứng tiêu cực với người khác, bất kể họ làm gì tới con.

Khi con hợp vào cái duy nhất đó, thì đó là nền tảng để con con đồng sáng tạo với bản thể cao của con một phản ứng tích cực, một phản ứng hứng khởi, một phản ứng nhằm nâng người khác lên thay vì chống đỡ, phản công và tìm cách dìm họ xuống, khóa miệng họ hoặc bất cứ phản ứng nào cứ được lặp đi lặp lại mãi.

Hơn nữa, hay không hơn nữa

Trong bất cứ hoàn cảnh nào, bất kể người khác làm hay nói gì, con nên hỏi mình: con muốn mình hơn nữa trong hoàn cảnh đó chăng? Hay là con muốn mình kém đi – có nghĩa là con để cho người kia, hay tự ngã của con hay tâm thức đại chúng điều khiển con và buộc con phải kém hơn con người thực của con, là một vị đồng sáng tạo đã được Thượng đế ban cho khả năng sáng tạo vô biên khi được ngài tạo ra. Đó chính là sự lựa chọn: ngay hôm nay con hãy chọn mình sẽ phục vụ cái gì. Con sẽ phục vụ cái kém hơn, hay con sẽ phục vụ cái hơn nữa?

Nếu con chọn phục vụ cái hơn nữa, thì con hãy tôn trọng quyền tự quyết mà Thượng đế đã cho con để chọn mình là hơn nữa trong mọi hoàn cảnh. Thực tế là khi đa số nhân loại chọn cái kém hơn, thì họ tạo nên một vòng xoáy đi xuống càng ngày càng mạnh khiến cả nhân loại đi vào một cuộc đại suy thoái, giống như chữ được dùng để chỉ nền kinh tế toàn cầu vào những năm 1930.

Con hãy nhận ra là về các mặt tâm lý, xúc cảm và tinh thần, nhân lọai đã ở trong một tình trạng đại suy thoái tâm linh. Nhân loại đã bị kẹt trong đó một thời gian rất dài rồi, khiến con người cảm thấy bất lực và không có khả năng vượt qua các giới hạn. Họ không nhận ra rằng thực sự mọi việc đều là sự thể hiện của tâm thức và chính con người lựa chọn tâm thức của mình. Mỗi người đều có quyền chọn đón nhận điều này điều kia vào tâm thức của mình, tức là để cho các thứ này trở thành một phần con người của mình. Tức là mình đã chọn để chúng quyết định mình là ai, và như vậy chấp nhận là mình không hơn cái bản sắc đang cảm thấy bị kẹt trong vũ trụ vật chất này.

Tiềm năng cao và thấp

Thầy muốn nói gì qua mấy lời bàn lan man này? Thầy đang tìm cách dẫn con tới chỗ nhận ra rằng quyển sách sách này, và cách con sử dụng nó, có một tiềm năng cao và một tiềm năng thấp. Nó có thể chỉ là một quyển sách về tâm linh như nhiều quyển khác mà sau khi đọc xong con cảm thấy thoải mái, nhẹ nhàng và nói: “Ồ, sách này hay quá” và sau đó ngay lập tức trở về với các thói quen và khuôn nếp cũ. Hoặc con có thể chọn biến quyển sách này thành một kinh nghiệm đổi đời, qua đó con tiến lên một mức cao hơn và sẽ không bao giờ trở về chỗ cũ nữa. Con đã đặt chân lên tảng đá của tánh Ki-tô trong nội tâm mình một cách vững chắc đến độ con không thể quay về những khuôn nếp và thói quen cũ nữa. Con có lựa chọn này mỗi khi con đọc một quyển sách tâm linh. Nhưng thầy muốn nói với con rằng ngay lúc này, hơn các lần khác trong quá khứ, con cần cân nhắc lựa chọn và tiềm năng đó.

Tất nhiên, thầy là một vị đã thăng hoa. Do đó thầy không bao giờ cảm thấy bị đe dọa bởi những lựa chọn của con, và thầy cũng không hề mong muốn điều khiển con. Thầy và các chân sư đã thăng hoa khác không cần điều gì nơi con cả, khác với các sinh thể trên cõi vô hình giao tiếp qua các đồng bóng. Các thầy không cần tiền bạc của các con, không cần sự chú ý, không cần năng lực, không cần sự phục tùng của các con, không cần các con tôn thờ.

Hỡi con yếu dấu, thầy có tự do như Thượng đế, và vì vậy, thầy có thể cho con quyền tự do trở thành bất cứ cái gì con chọn. Thầy không muốn ảnh hưởng sự lựa chọn của con, nhưng thầy cũng có quyền – một quyền do Thượng đế ban cho – giúp con nhận thức rõ ràng hơn là con có tiềm năng lấy một lựa chọn khác. Con cũng có quyền làm như vậy khi con tiếp xúc với bất cứ ai.

Phá vỡ khuôn nếp cũ

Thầy không có ý nói là ta nên khoan dung và chấp nhận để con người có một trạng thái tâm thức thấp hơn. Khi con nhận ra rằng con không cần phải xuống cùng mức tâm thức của người khác, thì con đã mặc nhiên cho họ thấy là có một lựa chọn cao hơn. Họ chờ đợi con có một phản ứng tiêu cực, và như vậy điều họ tin sẽ được củng cố, tỷ dụ như họ tin rằng họ có thể điều khiển con bằng cách làm cho con sợ hãi, hay tức giận khi họ khiêu khích con.

Khi con lựa chọn giống như các lần trước, bất kể lựa chọn này là gì, và đi theo khuôn nếp cũ, thì con đã củng cố nơi họ và nơi chính con hình ảnh con là một người kém hơn. Nhưng khi con chọn một phản ứng khác – một phản ứng cao hơn – thì con làm họ bị chấn động và nhận ra rằng có điều gì đang xảy ra mà chưa từng xảy ra trước đó, một điều gì mới lạ, khác thường.

Đây là mục đích chính của các thầy khi các thầy truyền đạt giáo lý qua sứ giả. Các thầy chỉ có mục đích đơn giản là giúp con người nhận thấy rằng có một trạng thái tâm thức cao hơn, rằng ai cũng có thể vượt lên trên tâm thức nhị nguyên, vượt lên trên tự ngã và tất cả các khuôn nếp cứ lặp đi lặp lại mãi.

Con lúc nào cũng có thể lấy một lựa chọn khác. Con có thể chọn là mình hơn một người phàm, hơn một người máy sinh học được lập trình sẵn – một máy điện toán sinh học chỉ có thể phản ứng một cách nhất định khi một số nút được nhấn. Con thực sự có thể chọn tuần tự loại bỏ những nút đó – tức là những chỗ nghẽn, những vết thương, dính mắc – đến độ con không còn nút nào để ông hoàng thế gian này có thể nhấn vào. Hắn không nắm được gì nơi con để hắn điều khiển được con.

Hỡi các con yêu dấu, đó chính là tự do – đó là cách duy nhất để có tự do trên quả địa cầu này. Đó là cách duy nhất để thoát khỏi quả địa cầu này và thăng hoa lên một cõi cao hơn.

Đệ tử giả

Có những người tự coi mình là đệ tử của các chân sư đã thăng hoa, họ đã theo học nhiều đợt truyền pháp của các thầy, họ đã học các bài giảng của các thầy, các bài giảng về hơn nữa, về lựa chọn tốt hơn, nhưng họ là đệ tử giả. Họ đã biến các lời giảng của các thầy thành một hệ thống tín điều tinh tế qua đó ta chỉ cần đáp ứng một số yêu cầu vỏ ngoài – tỷ dụ như đọc cầu chú, dự các buổi lễ, dự hội nghị, nghiên cứu sách, hoặc nói chuyện hay ăn mặc một cách nào đó, và không lái xe màu đỏ, và tất cả những thứ vỏ ngoài khác – thì họ sẽ chắc chắn được thăng hoa một ngày nào đó. Họ nghĩ rằng một ngày nào đó, không biết do đâu, như một phép lạ, thì bỗng nhiên họ sẽ thăng hoa, mà không cần phải đối mặt với tự ngã của mình và lựa chọn trở nên hơn nữa bằng cách chọn nhìn vào những ảo tưởng của tự ngã và tháo gỡ chúng bằng cách chọn thực tại Ki-tô thay vì ảo tưởng nhị nguyên.

Không có cách nào để tự động thăng hoa cả, vì thăng hoa là một sự lựa chọn! Có một sự lựa chọn cuối cùng, nhưng trước khi con tới mức có thể lấy lựa chọn thăng hoa, thì con sẽ phải lấy nhiều nhiều lựa chọn khác. Vị huynh đệ yêu dấu của thầy là ngài Saint Germain đã chẳng nói rằng sự thăng hoa của ngài là kết quả của hơn một triệu lựa chọn đúng, mỗi lựa chọn là một lựa chọn hơn nữa thay vì kém hơn? Câu này không có nghĩa là Saint Germain đã tham gia một cuộc thi đố, một cuộc khảo hạch nào đó, trên trái đất này. Không có bài kiểm tra trắc nghiệm nào có thể bảo đảm sự thăng hoa của con. Các lựa chọn mà thầy nói ở đây là các lựa chọn sáng tạo, mà sáng tạo là gì vậy? Đó chính là cái hơn nữa. Đây là định nghĩa đơn giản nhất của sự sáng tạo mà con có thể tìm thấy. Cái gì hơn nữađó chính là sự sáng tạo.

Sáng tạo thật sự

Con lấy một lựa chọn sáng tạo khi con chọn là hơn nữa – khi con chọn con hơn cái gì mà người khác muốn con là vì họ muốn con trở về các khuôn nếp cũ của cái kém hơn. Con chọn không chấp nhận điều đó và thay vào đó, con chọn là hơn nữa và thể hiện điều này bằng cách thực sự vượt lên trên và chứng minh rằng cuộc sống có cái gì hơn là cứ lặp đi lặp lại những thói quen cũ như thị phi, đấu khẩu và tranh cãi.

Mình phải tự hỏi tại sao một người có thể mãn nguyện hay hài lòng khi suốt đời họ lặp lại một cách máy móc những khuôn nếp cũ như một cái đĩa nhạc bị rè.

Con yêu dấu, hãy suy gẫm điều này! Con hãy nhớ lại cái đĩa nhạc rè mà con được biết khi còn nhỏ – tuy rằng trong số các con có lẽ có nhiều người đã lớn lên vào thời đại mà các đĩa nhạc đã bị xếp lên đầu tủ để gom bụi. Con hãy nhớ lại lúc mình đang chờ đợi bài hát tiếp tục thì nó lại lặp lại, con mất bao lâu để nhận ra rằng có cái gì không ổn? Con mất bao lâu để bắt đầu cảm thấy hơi căng thẳng và muốn bài hát tiếp tục?

Con có thấy chăng là tâm của con được tạo tác với khả năng sáng tạo, và do đó có một phần tâm con không hài lòng với một cuộc sống cứ lặp đi lặp lại như một cái đĩa nhạc rè – trừ phi con đã bị rơi vào một trong những vòng lẩn quẩn do các thầy giả dựng lên để làm điên đảo con người. Những người bị rơi vào các vòng lẩn quẩn này không còn ý muốn tiến hơn nữa và do đó không thoát ra được các khuôn nếp cứ lặp đi lặp lại mãi. Nhưng con thì có thể thoát ra được, vì nếu không con đã không có mặt nơi đây – thậm chí là không có khả năng nghe được các câu nói này của thầy. Và, con yêu dấu, trong tâm con con biết rõ điều đó.

Bước ngoặt và lựa chọn con là

Đó là lý do tại sao thầy nói lại một lần nữa: là con đã đến chỗ con có thể thực sự vươn lên một mức hoàn toàn khác và biến việc đọc quyển sách này thành một bước ngoặt quyết định trong đời con. Mọi chuyện đều đã được an bày. Mọi nhân duyên đều đã có mặt. Con chỉ cần lựa chọn đúng và tiếp tục củng cố lựa chọn này trong tương lai để bất kể chuyện gì xảy ra con cũng sẽ không chịu đi xuống ngay khi cả nhân loại bị vòng xoáy của sợ hãi cuốn xuống, do tình hình kinh tế hay chiến tranh hay bất cứ biến cố gì khác gây nên. Con đã tự đưa mình đến chỗ có thể vĩnh viễn thoát khỏi lực kéo xuống của tâm thức quần chúng. Bất kể điều gì xảy ra bên ngoài sẽ không khiến con bị cám dỗ đi theo vòng xoáy đi xuống, ngược lại con sẽ tiếp tục cứ lên cao và lên cao nữa, luôn luôn chọn mình là hơn nữa, bất kể tình cảnh lúc đó như thế nào – tình cảnh này ở phạm vi riêng con hay phạm vi toàn cầu.

Con đã tới thời điểm đó. Con đang ở thời điểm giống như khi Giê-su bước đến đám người và nói với họ: “Hãy bỏ lưới xuống và theo ta, ta sẽ biến các ngươi thành những tay đánh lưới người.” Con đã sẵn sàng bỏ lưới của con, và các thầy sẽ biến con thành một tay đánh lưới người có khả năng cho mọi người thấy rằng quả thực có hơn nữa.

Con hãy lựa chọn trong tự do. Con đừng lựa chọn vội vã với cái tâm vỏ ngoài. Con hãy dùng việc đọc quyển sách này để đi vào nội tâm, để tiếp xúc phần cốt lõi trong con. Nếu con dùng ngoại tâm để lựa chọn thì con sẽ phải đấu tranh với các thế lực thế gian chống lại lựa chọn của con.

Con hãy cho mình đủ thời gian để lựa chọn. Con hãy dành đủ thời gian để đi vào bên trong mình cho tới khi con tìm lại lúc chính con chọn đầu thai vào thế giới này để mang tới ánh sáng và tình thương vô điều kiện của Thượng đế. Đó là sự lựa chọn, một lựa chọn tự phát tự nguyện, hoàn toàn hợp nhất, vô điều kiện mà không gì trên thế gian này có thể cưỡng lại. Chỉ khi nào con chọn từ mức độ đó của tâm con, thì sự lựa chọn mới bền vững và vĩnh viễn. Chỉ khi đó con mới , con mới vượt lên trên cái phản-là.

Khi các thầy, là các chân sư đã thăng hoa, đỡ đầu một pháp giảng hay phong trào nào, thì sự đỡ đầu này không máy móc tự động, như một số đệ tử đã lầm tưởng, mà là một sự đỡ đầu sáng tạo. Các thầy sẽ không đỡ đầu hoặc củng cố những lựa chọn được làm với ngoại tâm. Các thầy sẽ không củng cố nỗ lực của con khi con chỉ muốn cho mình dáng vẻ người tâm linh bằng cách áp dụng các quy tắc vỏ ngoài một cách máy móc. Các thầy sẽ củng cố những lựa chọn sáng tạo của con, những lựa chọn được làm từ quan điểm nhất nguyên.

Đó là lời nguyện của thầy, đó là tặng vật của thầy cho con ngày hôm nay. Thầy cống hiến cho con sự tự do trọn vẹn của tình thương vô điều kiện của thầy để con chọn. Bất kể con chọn thế nào, con sẽ vẫn có tình thương vô điều kiện của thầy. Vì nếu không như thế, thì tình thương của thầy đâu có vô điều kiện, và như vậy thì thầy đâu phải là một chân sư đã thăng hoa. Một người thăng hoa là người hoàn toàn tự do, và con cũng được tự do khi con cho mọi sự sống được quyền tự do lựa chọn, vì đó là quyền mà Thượng đế đã ban cho họ.

Thầy cảm ơn con đã chú tâm đọc bài này, thầy cảm ơn con đã sẵn lòng làm cánh cửa rộng mở đón nhận đợt trao truyền này giúp nó đi sâu vào tâm thức đại chúng toàn cầu. Nó thực sự đã tạo nên những làn sóng kinh động các quan niệm chối bỏ quyền lựa chọn, không muốn lựa chọn, không muốn lấy một lựa chọn thực sự thay vì một phản ứng được lập trình. Đó chính là tâm thức mà thầy muốn phá vỡ. Một lần nữa, thầy cảm ơn con, và thầy niêm con yêu dấu của thầy trong ngọn lửa của Ý chí Thượng đế – cũng là ý chí của Thượng đế bên trong con, của Thượng đế mà con .

15 | Tha thứ vô điều kiện và niềm vui 

Bài truyền đọc của Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, ngày 26 tháng 11 năm 2006 

15.1. Động lực thăng tiến cơ bản của cuộc sống 

Con yêu dấu, nếu chuông điện thoại của con reo, con có nhấc máy lên nghe không? Khi con nhấc máy lên, con có nghe đủ lâu để ít nhất nhận biết rằng liệu người ở đầu dây bên kia có cho con biết một thông tin quan trọng hay họ đơn giản chỉ đang cố bán cho con một món hàng. Nếu con thật sự nhận ra người gọi cho con một thông điệp thì con có hết sức lắng nghe thông điệp đó và hiểu nó nói gì không? Chắc chắn rằng, con sẽ dành cho cái điện thoại và người gọi đến một sự tôn trọng nào đó. Vì vậy, thày muốn hỏi con: “Tại sao con lại không dành cho chính cuộc sống sự tôn trọng như vậy?”

À con yêu dấu, con sẽ trả lời rằng con chắc chắn tôn trọng cuộc sống, nhưng thày cũng xin hỏi con điều này có thật không. Con thấy không, bản thân cuộc sống cũng như một cái điện thoại. Mọi hoàn cảnh con gặp phải cũng giống như các cuộc gọi từ chính cuộc sống. Nhưng, có quá nhiều hoàn cảnh trong đời mà con không nhấc điện thoại lên để nghe xem hoàn cảnh đó có phải là một thông điệp quan trọng cho con không, một thông điệp có thể giúp con thăng vượt chính mình – hay thăng vượt giới hạn nào đó – để con có thể tự do và trở nên hơn nữa trong Dòng sông sự Sống. 

15.2. Tại sao con cứ gặp đi gặp lại cùng một vấn đề 

Hầu hết mọi người bị bịt mắt khi sống trong đời. Họ ngái ngủ, nửa tỉnh nửa mê với những gì đang diễn ra. Họ không nhận ra cuộc sống là một chuỗi những hoàn cảnh liên tục và mỗi hoàn cảnh đều mang một thông điệp giúp họ lên cao hơn và vượt qua những tin tưởng sai lầm, những nhận thức sai lầm đang giới hạn họ và giới hạn khả năng biểu hiện sự sống qua họ. Rất nhiều người trong các con gặp phải các hoàn cảnh xảy ra nhiều lần trong đời. Con thường gào lên: “Tại sao việc này cứ xảy đến với tôi? Tại sao Thượng đế cứ làm điều này với tôi? Tại sao người khác cứ làm điều này với tôi? Tại sao số phận hay may rủi cứ xảy đến với tôi?” Nhưng con lại không dành thời gian quay lại và nói: “Tại sao tôi làm điều này với chính mình?”. 

Mỗi một hoàn cảnh trong đời giống như một cuộc gọi điện thoại, và cuộc gọi đó gói ghém một thông điệp. Nhưng con thường không màng nhấc điện thoại lên để nghe thông điệp đó. Thậm chí những người nhấc điện thoại lên – những người quả thật cho rằng có lẽ họ cần học một điều gì đó từ những hoàn cảnh này – cũng thường không thật sự lắng nghe thông điệp đằng sau cuộc gọi. Họ không thật sự lắng nghe bằng tai nội tâm để cố gắng hiểu thông điệp, cố gắng hiểu cái mà họ không thể thấy bằng tâm vỏ ngoài. 

Họ lắng nghe thông điệp, họ đánh giá với tâm vỏ ngoài. Vì vậy, họ không thấy thông điệp, họ không nghe thông điệp, vì tâm vỏ ngoài không thấu hiểu được thông điệp đó. Nếu tâm vỏ ngoài của con đã hiểu được thông điệp mà cuộc sống đang cố trao cho con, thì tại sao cuộc sống cứ phải mất công gọi điện cho con bằng cách khiến con cứ phải trải nghiệm nhiều lần cùng một hoàn cảnh? 

15.3. Cuộc đời không trừng phạt con 

Cuộc đời đang cố trừng phạt con là một nhận thức hoàn toàn sai lầm của tâm thức con người và tự ngã. Thày có thể bảo đảm với con là chính cuộc sống – và cuộc sống do Thượng đế tạo ra, vì vậy chính Thượng đế – cũng không mong muốn trừng phạt con. Đây là quy luật tuyệt đối: một khi con đã học xong bài học mà con cần học từ một hoàn cảnh cụ thể thì con sẽ không gặp phải hoàn cảnh đó nữa. 

Khi con cứ gặp phải cùng một hoàn cảnh nhiều lần, đó là bởi vì con chưa học xong bài học. Đó là lý do vì sao cuộc sống cứ gọi và cho con nhiều lần cùng một hoàn cảnh để con có thêm các cơ hội – và thêm thêm nữa – học xong bài học. 

Con yêu dấu, thay vì cằn nhằn, thay vì than vãn tại sao chuyện này cứ xảy ra với con hết lần này đến lần khác, thày đề nghị con làm một việc đơn giản: Hãy nhấc điện thoại và lắng nghe thông điệp mà cuộc sống đang cố trao cho con. Sau đó hãy học bài học. Hãy giải quyết những tin tưởng mà con cần giải quyết để con bước lên cao hơn. Thày có thể đảm bảo với con – như thể bằng phép thuật – con sẽ không gặp phải hoàn cảnh đó lần nữa. 

Cuộc sống không quá phức tạp. Cuộc sống thật sự rất rất đơn giản. Thông điệp bên dưới mỗi hoàn cảnh con gặp phải trong cuộc đời giản dị là: “Vũ trụ vật chất là một tấm gương”. Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ khoác lấy những hình tướng tương ứng với những gì có trong tâm thức con. Chính trạng thái tâm thức của con đã phóng chiếu một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật không làm được gì khác ngoài việc phản chiếu lại hình ảnh đó cho con – cả hình ảnh trong tâm ý thức và hình ảnh ở những lớp tiềm thức của tâm con, của các thể tình cảm, lý trí và bản sắc.

Cuộc sống rất đơn giản. Chính cuộc sống là nguyên lý của sự tăng triển – của sự trở nên hơn nữa, của sự tự thăng vượt. Thông điệp mà cuộc sống đang cố trao cho con là con có thể trở nên hơn nữa. Bằng cách thấy các giới hạn, thấy các tin tưởng giới hạn của mình – về chính mình, về thế giới và về Thượng đế – con có thể vượt thăng giới hạn đó và lên cao hơn, trở nên hơn nữa trong Dòng sông sự Sống của Thượng đế. 

Rất nhiều người đã tự hỏi ý nghĩa của cuộc sống, mục đích của cuộc sống, bí mật của cuộc sống là gì. Rất nhiều người đã đi tìm hòn đá hóa kim thần diệu (philosopher’s stone), cây đũa thần, con đường tắt sẽ khiến họ đột ngột có được trạng thái hỷ lạc, hay một trạng thái họ nghĩ họ cần để được hạnh phúc. Nhưng con yêu dấu, bí mật của cuộc sống lại rất giản dị – đó là sự thăng vượt. Điều này không có nghĩa là con cần đạt được một trạng thái toàn hảo xa vời vượt quá tầm với của con. Chỉ đơn giản là mỗi lúc con thăng vượt chính mình, con đang trôi theo Dòng sông sự Sống. Con có tiềm năng trải nghiệm niềm vui, sự hỷ lạc, và đây thật sự Dòng sông sự Sống. 

Thông điệp mà cuộc sống đang cố trao cho con trong mỗi hoàn cảnh là khi con gặp một giới hạn, nếu con sẵn lòng nhìn vào chính mình và nhìn nhận những tin tưởng khiến con trải nghiệm hoàn cảnh đó như một giới hạn và sau đó buông bỏ tin tưởng đó đi, thì con sẽ vượt lên trên giới hạn đó và hoà vào niềm vui của Dòng sông sự Sống. 

15.4. Hãy thay đổi cách con nhìn quá khứ 

Thày hy vọng bằng việc trao cho con bài giảng này, thày có thể thay đổi cách con nhìn quá khứ của mình. Quá khứ không phải để trừng phạt con. Quá khứ không thật sự muốn nắm giữ con, mặc dù thày biết có nhiều khi quá khứ có vẻ như kiềm giữ con lại hay kéo con vào các khuôn nếp cũ lặp đi lặp lại nhiều lần trong một chu trình dường như vô tận. Sự thật là quá khứ của con, và các hồi ức của con đơn giản chỉ biểu lộ mong muốn của cuộc sống muốn con bước lên cao hơn. 

Bất cứ khi nào con bị kéo về quá khứ, thì con hãy xem đây – một lần nữa – như cuộc sống đang gọi điện cho con. Vì cuộc sống luôn gọi cho con chỉ với một mục đích duy nhất, đó là cho con thấy là một lần nữa con có thể vượt qua một giới hạn khác, con có thể thăng vượt nó, con có thể đơn giản buông bỏ và hoà vào Dòng sông sự Sống – và sau đó trở nên hơn nữa bằng cách thăng vượt ý niệm tự ngã cũ. 

Hoàn cảnh quá khứ cứ săn đuổi con là những hoàn cảnh trong đó con phản ứng lại hoàn cảnh bên ngoài theo cách con chấp nhận một tin tưởng giới hạn về chính mình. Tin tưởng này vẫn nằm trong tiềm thức của con, và đó là tại sao – khi con bị kéo về các hoàn cảnh quá khứ – con trải nghiệm sự khó chịu, sự hổ thẹn, hay tội lỗi hay những tình cảm tiêu cực khác gây cho con nỗi đau cảm xúc. Nỗi đau này thậm chí có thể xem như là một lời nhắc nhở. Nó nhắc con chưa học xong bài học của mình, nó nhắc con chưa vượt qua tin tưởng giới hạn của mình. 

Thậm chí nỗi đau còn là một ơn huệ. Nếu có ai đó đang cố gọi điện cho con và cho con thông điệp có thể cứu cuộc đời con thì con có muốn họ tăng âm lượng của máy điện thoại lên nếu họ làm vậy được? Giả sử con không thể nghe thấy điện thoại, nhưng ai đó có thể bấm nút trên điện thoại của họ và bật to âm lượng để con có thể nghe được, con hãy bắt điện thoại và cứu cuộc đời mình. 

Đây là điều chính yếu mà quá khứ làm cho con khi nó nhắc nhở con – hết lần này đến lần khác – về các hoàn cảnh trong đó con đã chấp nhận vài giới hạn. Nếu thoạt tiên con không nghe máy thì cuộc sống sẽ tiếp tục gọi con với âm lượng ngày càng tăng – và do đó nỗi đau cảm xúc cũng tăng dần vì nó cố gắng cuối cùng kéo cho bằng được sự chú ý của con. Thay vì chối bỏ và phủ nhận nỗi đau, con nói: “Được rồi, tôi thấy đủ đau rồi. Tôi sẽ xem xét vấn đề này và vượt qua giới hạn để tôi có thể một lần và mãi mãi vượt qua nỗi đau đó thay vì bị nó đè nặng hết lần này đến lần khác suốt phần đời còn lại hay thậm chí trong nhiều kiếp sống.” 

Thay vì phớt lờ quá khứ hay chối bỏ quá khứ hay tìm cách khiến mình bận rộn với hiện tại hoặc tương lai đến độ không còn thì giờ chú tâm vào quá khứ, quả thực sẽ khôn ngoan hơn nhiều nếu con đơn giản nhấc máy và lắng nghe thông điệp từ quá khứ. Nếu con lắng nghe thông điệp đó, con có thể nhanh chóng nhận ra rằng hoàn cảnh trong quá khứ cứ quay đi quay lại là hoàn cảnh trong đó con chưa nhìn thấu suốt một tin tưởng giới hạn và vì vậy con chưa buông bỏ tin tưởng đó. 

15.5. Quá khứ trở thành khởi đầu 

Vì con chưa buông bỏ tin tưởng đó nên con tiếp tục giữ chặt một tin tưởng bất toàn về chính mình, hay về cuộc đời, hay về Thượng đế, hay về người khác. Thông qua uy lực của tâm, con phóng chiếu tin tưởng giới hạn đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Tấm gương của Ánh sáng Mẫu-Vật có thể làm gì ngoại trừ phản chiếu lại những hoàn cảnh bên ngoài của con và hoàn cảnh này phản chiếu tình trạng tâm thức của con? 

Quá khứ của con trở thành khởi đầu cho hiện tại và tương lai của con. Những tin tưởng bất toàn mà con đã chấp nhận trong quá khứ đang liên tục được tiềm thức của con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật phải khoác lấy hình tướng của những tin tưởng này và gửi đến cho con những hoàn cảnh và tình huống vật lý phản ánh những tin tưởng đó. 

Ánh sáng Mẫu-Vật không muốn buộc con gặp phải những hoàn cảnh khiến con đau khổ. Ánh sáng Mẫu- Vật là tấm gương vì vậy nó có thể làm gì ngoài việc phản chiếu lại những gì con đã gửi vào nó? Chính năng lực của sự sống không muốn con tiếp tục phóng chiếu cùng những hình ảnh bất toàn lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Đó là lý do tại sao năng lực của sự sống đang cố giúp con thức tỉnh để con có thể thay đổi hình ảnh con giữ trong tâm – và từ đó thay đổi những gì con đang phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. 

Đúng vậy, con yêu dấu, cuộc sống thật sự chỉ giản dị như vậy – nếu con chịu chú ý, nếu con chịu nhấc điện thoại và lắng nghe thông điệp. Thật không may, thày biết vài người thật sự có nhấc điện thoại, nhưng con lại trả lời cùng một cách như khi con nghe đoạn thâu âm đang cố bán cho con một sản phẩm, quảng cáo một dịch vụ hay vận động cho một ứng cử viên chính trị. Ngay lập tức tâm con đóng cứng không nghe hoặc con cúp máy và không nghe nữa. 

Không phải quá khứ đang cố quấy rầy con bằng cách lặp lại cùng một thông điệp. Đơn giản đó chỉ là tấm gương, tấm gương vũ trụ, chỉ tiếp tục phản chiếu lại con cùng một hình ảnh mà con đang gửi ra ngoài. Không phải cuộc đời đang khiến con bực bội. Chính sự cứng ngắc của tâm con và sự không sẵn lòng nhìn vào các tin tưởng của mình để đánh giá liệu những tin tưởng này có hợp lý không và sau đó thay thế những tin tưởng không hợp lý bằng một sự hiểu biết cao hơn xuất phát từ tâm Ki-tô. 

Thày đang cố gắng thức tỉnh con khiến con thấy điều cực kỳ thiết yếu là con phải sẵn lòng nhìn vượt quá những hoàn cảnh bên ngoài trong quá khứ và đi tìm thông điệp nội tâm, bài học nội tâm con cần học từ những hoàn cảnh đó. Nếu con làm vậy một cách chân thật và cởi mở, con sẽ thấy bất cứ khi nào con gặp một hoàn cảnh khiến con đau khổ, đó là vì con đang nắm giữ một tin tưởng bất toàn về chính mình và về cuộc sống. Nếu con thấy được những bất toàn của tin tưởng đó và đạt được sự hiểu biết cao hơn của tâm Ki-tô thì con có thể thay thế tin tưởng giới hạn này bằng nhận biết thật sự con là ai. Điều này sẽ thay đổi hình ảnh con đang phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Và chắc chắn, điều này sẽ thay đổi những gì tấm gương vũ trụ phản chiếu lại con dưới dạng các hoàn cảnh bên ngoài. Những gì thày đang nói với con ở đây không phải là một giấc mơ ban ngày, một lời hứa thiếu thực tế. Những gì thày đang giải thích với con ở đây là quy luật cơ bản nhất của vũ trụ vật chất. Quy luật này Thánh Kinh có nói tới trong câu: gieo gió thì gặt bão. 

15.6. Có một cái gì khác hơn khổ đau 

Luật của Thượng đế rất giản dị. Con có quyền tự quyết làm bất kỳ điều gì con muốn. Con là người đồng sáng tạo với Thượng đế. Con ở đây để học cách sử dụng khả năng sáng tạo của con để tạo ra các hoàn cảnh mà con có thể sống trong đó được, các hoàn cảnh giúp con tăng triển. Con học bằng hai cách. Một là lắng nghe hướng dẫn nội tâm, từ cái ta cao, từ Hiện diện Ta Là, từ các vị thày tâm linh. Nếu con không lắng nghe sự hướng dẫn hay nếu con không dùng tâm lý luận để tìm hướng đi cho chính mình, thì con phải học bằng cách còn lại, đó là Trường đời Cay đắng trong đó con thấy Ánh sáng Mẫu-Vật phản chiếu lại con những hoàn cảnh vật lý biểu lộ những hoàn cảnh trong tâm con. 

Luật của Thượng đế là thế này: Con có quyền tạo ra bất cứ hình tư tưởng nào mà con muốn. Con có quyền phóng chiếu hình tư tưởng đó ra ngoài tâm con. Khi con làm vậy, con chắc chắn sẽ trải nghiệm những hoàn cảnh vật lý biểu lộ hình tư tưởng đó. Con sẽ trải nghiệm những gì con phóng chiếu lên cuộc sống. Con sẽ trải nghiệm những gì con đồng sáng tạo qua uy lực của tâm bằng cách phóng chiếu một hình tư tưởng lên Ánh sáng Mẫu-Vật. 

Thượng đế và chính thày và tất cả các thày tâm linh chắc chắn đều ủng hộ quyền đồng sáng tạo bất cứ hoàn cảnh nào mà con muốn. Nhưng các thày muốn con hiểu nếu con đồng sáng tạo những hoàn cảnh khiến con đau khổ, thì con có chọn lựa khác thay vì tiếp tục tạo ra những hoàn cảnh tương tự. Cách duy nhất để ngừng chu trình lặp đi lặp lại dẫn đến khổ đau là thay đổi nguyên nhân của hoàn cảnh bên ngoài. Thày biết rõ trong lịch sử con người đã ngụy biện đủ cách để làm ra vẻ như họ không thể kiểm soát được hoàn cảnh bên ngoài. Họ cho rằng họ đã không tạo ra hoàn cảnh đó mà Thượng đế, số phận, may rủi hay người khác đã tạo ra những hoàn cảnh này. Sự thật thẳng thắn là chính con đã đồng sáng tạo những hoàn cảnh của mình vì con đã hình thành những hình tư tưởng và đã phóng chiếu những hình tư tưởng này lên Ánh Sáng Mẫu-Vật. 

Cách duy nhất – cách duy nhất tuyệt đối – có thể thay đổi những hoàn cảnh bên ngoài đó là con hãy thay đổi nguyên nhân của hoàn cảnh. Con có đồng ý là nếu con muốn thay đổi kết quả thì con phải thay đổi nguyên nhân tạo ra kết quả đó? Những gì thày đang nói với con chính là hoàn cảnh bên ngoài của con là kết quả. Nguyên nhân của kết quả này là những hình tư tưởng con giữ trong tâm. Cách duy nhất để thay đổi hoàn cảnh bên ngoài là thay đổi các hình tư tưởng đó!

Bằng cách nào con thay đổi những hình tư tưởng trong tâm? À, không có cách nào khác ngoại trừ nhìn những hình tư tưởng này một cách ý thức – thấy chúng dựa trên tâm thức nhị nguyên, dựa trên ảo tưởng của tâm phản Ki-tô – rồi sau đó buông bỏ chúng một cách ý thức, thay thế những ảo tưởng này bằng sự thật Ki-tô. Con hãy chú ý những gì thày đang nói. Vấn đề ở đây không phải là tìm cách nào đó để biện minh cho những tin tưởng con đã chấp nhận trong quá khứ. 

Ồ con yêu dấu, nếu con thành thật nhìn vào điều này, con sẽ thấy có nhiều người khi đối mặt với khả năng họ có một tin tưởng bất toàn, họ sẽ rơi vào phản ứng tự vệ. Phản ứng tự vệ này là một phản ứng mặc định của tự ngã vì giản dị là nó không chịu nhìn nhận là nó có thể sai. Nó rơi vào phản ứng cố gắng bảo vệ hay biện minh cho những tin tưởng của nó. 

Thày hy vọng con có thể thấy nếu con tiếp tục biện minh cho một tin tưởng trong quá khứ, con sẽ đơn giản chỉ bồi đắp cho tin tưởng đó. Con sẽ tiếp tục gửi những hình tư tưởng dựa trên tin tưởng ban đầu vào tấm gương vũ trụ. Tất nhiên, tấm gương vũ trụ có thể làm gì ngoài việc gửi trả lại con cùng một hoàn cảnh mà con đã tạo ra ngay từ đầu? Con yêu dấu, con có nhận ra nếu con tiếp tục làm cùng một việc và mong chờ những kết quả khác nhau thì con sẽ bị kẹt trong sự điên rồ cơ bản của tự ngã con người. Con phải bước ra ngoài những khuôn nếp cũ và sẵn lòng nhìn nhận rằng một số tin tưởng trong quá khứ đang giới hạn chính con. Đây không phải là lợi ích cao nhất của con khi giữ lấy các tin tưởng đó. Ngược lại, lợi ích cao nhất của con là buông bỏ chúng. 

15.7. Con hơn quá khứ của con 

Nhận biết then chốt ở đây là giáo lý nói rằng cốt lõi bản sắc của con là cái Ta Biết. Cái Ta Biết là một đốm sáng của chính Bản thể Thượng đế. Nó chắc chắn nhiều hơn quá khứ của con, hơn bất kỳ hoàn cảnh nào hay bất kỳ tin tưởng nào trong quá khứ. Cái Ta biết có quyền và khả năng mà Thượng đế đã cho con để bước ra ngoài sự đồng hoá của nó với quá khứ. Con có thể làm điều này bất cứ lúc nào, ngay cả bây giờ. 

Thày muốn con hiểu rằng có một thế lực trong thế giới này quyết tâm giữ con mắc kẹt vào sự đồng hoá với quá khứ để con nghĩ con không thể buông bỏ quá khứ. Thậm chí con sợ rằng nếu con buông bỏ quá khứ, con sẽ mất đi chính bản sắc của mình. Thế lực này bao gồm tự ngã cá nhân của con, tự ngã của người khác và toàn bộ thế lực đen tối, thế lực phản Ki-tô mà Giê-su gọi là ông hoàng thế gian. Ông hoàng thế gian sẽ liên tục tới gần con. Ông ta sẽ tới để thấy liệu ông ta có thể khiến con dính mắc với quá khứ để con không giản dị sẵn lòng buông bỏ quá khứ, buông bỏ những tin tưởng bất toàn bằng cách nhìn nhận rằng con hơn bất kỳ một tin tưởng bất toàn nào. 

Con có thật sự đang nghe thày nói không? Con có quyền và khả năng mà Thượng đế đã ban tặng cho con để buông bỏ bất cứ tin tưởng bất toàn nào trong quá khứ. Con làm điều này bằng cách nào? Bằng cách sẵn sàng nhìn vào các tin tưởng, nhìn nhận rằng chúng không có thật, chúng xuất phát từ tâm thức phản Ki-tô. Sau đó, con nhìn nhận rằng con hơn những tin tưởng đó. Tin tưởng đó giản dị chỉ giống như cái áo cũ sờn rách mà con đã mặc vào một lúc nào đó trong quá khứ. Con có thể cởi nó ra bất kỳ lúc nào và ném nó vào lửa, để cho nó cháy, để nó bị thiêu rụi không còn gì nữa. 

Con có thể cởi bỏ ý niệm bản sắc cũ dựa trên tin tưởng đó, và ném nó vào lửa tâm linh của ngọn lửa tím và Ngọn lửa Tha thứ, và con giản dị buông bỏ nó. Ngọn lửa Tha thứ mà các thày còn gọi là ngọn lửa tím hay Ngọn lửa Từ bi, giản dị là bút tẩy vũ trụ cho phép con cởi bỏ ý niệm bản sắc cũ kỹ, sờn rách mà con đã bồi đắp rồi ném nó vào lửa. Thượng đế trong con thật sự là ngọn lửa thiêu huỷ có thể thiêu trụi tất cả ý niệm tự ngã bất toàn mà con đã bồi đắp trong bất cứ kiếp sống trước nào. Con có chọn lựa khác hơn là lặp đi lặp lại mãi các khuôn nếp cũ rích này. Chọn lựa khác là con cởi chiếc áo choàng của ý niệm bản sắc bất toàn và ném nó vào ngọn lửa vui mừng của Thượng đế để nó bị thiêu rụi và con sẽ được tự do như thể bản sắc đó chưa từng tồn tại. 

15.8. Chìa khóa chính yếu để buông bỏ 

Chìa khoá chính yếu để làm điều này là gì? Chìa khoá chính yếu để buông bỏ một ý niệm tự ngã bất toàn là gì? Đó là sẵn lòng tha thứ. Để tự do khỏi quá khứ, con phải tha thứ và con phải tha thứ vô điều kiện. Tự ngã đánh lừa để con nghĩ rằng để con tha thứ được thì cần phải đáp ứng một số điều kiện. Ví dụ, nhiều người tin để tha thứ cho người đã làm tổn thương mình thì người đó trước tiên phải bị trừng phạt như thế nào đó. Chỉ khi nào người đó bị trừng phạt đủ thì con mới có thể tha thứ cho họ. Và một số người khác nghĩ rằng nếu người đó thật sự thay đổi, thì mới tha thứ cho họ. Dĩ nhiên đây là một tin tưởng giống như con dao hai lưỡi, trong đó một lưỡi dao hướng vào con và vì vậy có khả năng làm con bị thương nặng. Những gì con làm cho người khác là những gì con làm cho chính mình. Đây là lý do thày Giê-su đã nói với con hãy làm cho người khác những gì con muốn họ làm cho con. Ý nghĩa sâu sắc đó là con chỉ làm cho người khác những gì con đã làm cho chính con, cả điều tốt lẫn điều xấu. 

Nếu con nghĩ người khác phải đáp ứng những điều kiện nào đó trước khi họ được tha thứ thì con cũng nghĩ con phải đáp ứng những điều kiện trước khi con có thể được tha thứ. Tự ngã của con rất giỏi đưa ra những điều kiện như vậy và đưa ra theo cách mà không ai có thể làm được, gồm cả chính con. Đó là cách tự ngã giữ con bị mắc kẹt trong chu trình không bao giờ muốn tha thứ cho người khác và không bao giờ muốn tha thứ cho chính mình. Tự ngã chủ yếu muốn con tin rằng vì con đã phạm lỗi lầm trong quá khứ, con không thể được tha thứ, con không thể chuộc lỗi, con không bao giờ vượt lên quá khứ và tự do khỏi quá khứ. 

Điều cuối cùng tự ngã muốn con nhận ra là con được Thượng đế trao cho quyền và sức mạnh bỏ đi các bất toàn trong quá khứ. Tự ngã không muốn con nhận ra con có khả năng làm điều này. Nó không muốn con biết con có thể làm điều này bằng cách mở lòng nhìn nhận các tin tưởng bất toàn đã khiến con gặp phải những hoàn cảnh vật lý gây cho con nhiều đau khổ. Con có thấy được chìa khoá chính yếu để vượt lên quá khứ là tha thứ – nhưng không phải tha thứ theo cách thế phàm dựa trên những điều kiện bên ngoài. Không, chìa khoá chính yếu để vượt lên quá khứ là tha thứ vô điều kiện. 

Khi con không tha thứ cho người kia, thật sự con đang nắm giữ hoàn cảnh cũ. Nghĩa là con đang nắm giữ – dù con có ý thức hay không – nỗi đau được tạo ra trong hoàn cảnh đó khi người kia làm tổn thương con. Nỗi đau kéo sự chú ý ý thức của con và kéo con vào việc nhớ lại hoàn cảnh đó. Bất cứ khi nào con nhớ về hoàn cảnh đó, con lại tăng cường tổn thương nguyên thuỷ, nỗi đau nguyên thuỷ và sự giận dữ nguyên thuỷ đối với người kia. Vì vậy, con cột chính mình với quá khứ và con thật sự củng cố quá khứ. 

Khi con không tha thứ cho người kia, con đang hại chính mình vì con đang nắm giữ những hình ảnh và cảm xúc bất toàn, và con đang phóng chiếu chúng lên Ánh sáng Mẫu-Vật.  Ánh sáng Mẫu-Vật lý giải là con muốn trải nghiệm tình huống trong đó người ta làm tổn thương con. Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ làm gì cho con? À, nó không có chọn lựa nào ngoài việc gửi cho con những hoàn cảnh tương lai trong đó người khác làm tổn thương con. Nó thật sự tin rằng đây là những gì con muốn trải nghiệm, dựa vào việc con đang phóng chiếu một hình tư tưởng và cảm xúc về việc người khác làm tổn thương con vào tấm gương vũ trụ. 

15.9. Không tha thứ làm tổn thương con

Cuối cùng con có hiểu là khi con không tha thứ cho người khác, con đang thật sự làm tổn thương chính mình không? Con biện minh như thế nào để không tha thứ cho người khác? Đó có phải là họ không đáp ứng các điều kiện bên ngoài mà tự ngã con đã xác định. Như thể khi người khác không đáp ứng những điều kiện đó, con không thể buông bỏ hoàn cảnh, con không thể tha thứ và vượt lên. 

Con có thấy đây cùng một tâm lý khiến con tổn thương trong hoàn cảnh ban đầu? Chuyện gì đã xảy ra trong hoàn cảnh ban đầu đó là người kia đã làm chuyện gì đó với con. Nhưng không phải những gì họ làm khiến con tổn thương. Đó là những tin tưởng bất toàn con nắm giữ về chính mình và cuộc đời đã khiến con phản ứng với hoàn cảnh theo cách làm tổn thương chính con. 

Những gì thật sự tạo ra nỗi đau trong hoàn cảnh ban đầu đó là con có một tin tưởng biến con thành nạn nhân thụ động. Con nghĩ khi người ta làm điều gì với con, con chỉ có thể đáp trả bằng cảm xúc tiêu cực khiến con đau đớn. Chính tin tưởng này biến con thành nạn nhân trong tình huống ban đầu. 

Thậm chí bây giờ con vẫn nắm giữ tin tưởng con là nạn nhân với suy nghĩ chỉ khi người khác đáp ứng các điều kiện, con mới tha thứ cho họ và buông bỏ hoàn cảnh đó. Bằng việc không tha thứ, con thật sự duy trì hoàn cảnh ban đầu. Con đang phóng chiếu những tin tưởng và cảm xúc từ hoàn cảnh đó lên tấm gương vũ trụ, rõ ràng từ đó gieo gió gặt bão. Con đã phóng chiếu một hình tư tưởng bất toàn lên tấm gương và vì vậy không thể tránh được tạo ra một chuỗi phản ứng chuyển động cuối cùng gửi trả về con các hoàn cảnh vật lý phản chiếu hình tư tưởng đó. 

Cái gì có thể phá vỡ hoàn cảnh này? Chỉ có một cách duy nhất phá vỡ nó, và đó là con nhấc điện thoại lên lắng nghe đủ lâu để nhận ra cuộc sống đang cố dạy con rằng chính những tin tưởng của con khiến con đau khổ. Chỉ bằng cách thay đổi những tin tưởng của mình, con mới phá vỡ chu trình trải nghiệm những hoàn cảnh vật lý đặt con vào một tình huống – trong chính tâm con – trong đó con nghĩ tiềm năng phản ứng duy nhất của con là phản ứng như một nạn nhân và cảm thấy đau đớn. 

15.10. Con hãy lấy lại uy lực của mình để con chọn một phản ứng

Điều duy nhất có thể thay đổi phương trình đó là con thay đổi cách con nhìn phương trình, cách con nhìn cuộc sống, cách con nhìn chính mình. Con phải lấy lại quyền lực của con để con đáp ứng các hoàn cảnh dựa trên một chọn lựa của ngày hôm nay – bây giờ – thay vì một chọn lựa trong quá khứ. Trong quá khứ, con đã chấp nhận một tin tưởng bất toàn về chính mình. Khi con cho phép tin tưởng đó vẫn còn trong tiềm thức, con không thể lấy một chọn lựa con sẽ đáp ứng tình huống mà con sẽ trải nghiệm trong hiện tại như thế nào. Con đã chọn lựa trong quá khứ, và con chỉ có thể lập lại cùng một khuôn nếp hết lần này đến lần khác. 

Những gì có thể phá vỡ hoàn cảnh đó là con biết chuyện gì đang xảy ra, và vì vậy con quyết định quay lại nhìn tin tưởng ban đầu và loại bỏ nó vì nó không có thật. Khi con loại bỏ tin tưởng đó, và lần sau khi con trải nghiệm một tình huống tương tự, con sẽ không còn cái bị đè nặng vai con. Tâm sẽ có thể nói: “Nhưng bạn biết đấy, tôi không phải đáp ứng tình huống này bằng cảm xúc tổn thương, cảm xúc sợ hãi, cảm giác xấu hổ, chỉ trích trừng phạt chính mình và nghĩ tôi là người xấu vì người ta đối xử với tôi như thể tôi là người xấu”. 

Thay vào đó, con có thể nhận ra những gì người khác làm với con là sự phản chiếu trạng thái tâm thức của họ. Đó không phải người kia có hình ảnh bất toàn về con, mặc dù điều này có vẻ là như thế dựa trên tâm vỏ ngoài và hành động của họ. Thật sự, người đó có một hình ảnh bất toàn về chính họ, và người đó đang phóng chiếu hình ảnh đó lên con. Nhưng con không cần chấp nhận hình ảnh của người đó về con. Thượng đế ban cho con quyền sống cuộc đời của mình dựa trên những hình ảnh trong chính tâm con. Con có thể tự do chọn lựa đáp ứng với họ – khi con không chấp nhận những hình ảnh của người khác hay những tin tưởng giới hạn khác đến từ quá khứ của chính con. 

Chìa khoá để buông bỏ những hình ảnh bất toàn mà con đã chấp nhận trong quá khứ hoặc những hình ảnh bất toàn mà người khác đã chấp nhận là gì? Chìa khoá để không bị ảnh hưởng bởi những tin tưởng bất toàn của người khác hay những tin tưởng bất toàn của chính tự ngã trong quá khứ của con là gì? Đó là tha thứ – tha thứ bằng việc hoàn toàn không dính mắc với những gì họ phóng chiếu vào con hay phóng chiếu từ chính tâm thức con. Đó là chấp nhận có sức mạnh tuyệt đối để tha thứ vô điều kiện cho chính mình và người khác và giản dị để buông bỏ tất cả cảm nhận tổn thương, tất cả cảm nhận đau đớn. 

15.11. Không ngừng tha thứ

Thày biết một khi con đã bị kẹt vào vòng xoáy tổn thương và đau đớn, dường như không có lối ra. Thày thật sự đã vượt lên nhân tình thế phàm này và nhiều sinh thể thăng thiên khác cũng vậy. Thày cần nói với con hầu hết mọi người trên trái đất bị mắc kẹt trong một ảo tưởng. Sự thật được nhiều sinh thể thăng thiên chứng minh đó là con quả thật có thể vượt lên vòng xoáy đi xuống từ quá khứ. Con có thể làm vậy bằng cách chuyển đổi quá khứ, không phải bằng cách kiểm soát quá khứ hay kiểm soát người khác. Con chỉ có thể làm vậy bằng cách chuyển đổi cách con nhìn quá khứ để con sẵn lòng buông bỏ tin tưởng mà con đang nắm giữ đến nay. 

Không phải là việc tìm ra cây đũa thần mới có thể giải thoát con khỏi quá khứ. Cây đũa thần là nhận biết ý thức của con và việc con sẵn sàng buông bỏ, buông bỏ nỗi đau, buông bỏ tổn thương, buông bỏ tin tưởng là con cần phản ứng với hoàn cảnh một cách tiêu cực, buông bỏ hoàn toàn xu hướng nghĩ rằng con chỉ có thể phản ứng bằng những cảm xúc tiêu cực trong những hoàn cảnh nào đó. Một khi con đã thật sự bước vào tinh thần tha thứ – và cho phép tinh thần tha thứ đi vào thể thấp của con – con sẽ ở trong trạng thái tha thứ không ngừng. Con đã tha thứ cho chính mình và người khác rồi trước khi họ làm bất cứ điều gì với con. 

Khi người ta làm một điều gì với con – vì thật sự con không thể kiểm soát hành động của người khác – con đã tha thứ cho họ trước đó rồi. Khi con biết họ đã được tha thứ trước đó rồi, con cũng biết con có thể tự do khỏi các phản ứng tiêu cực cho dù người ta có làm gì với con. Con có thể theo lời khuyên uyên thâm của thày Giê-su, đó là con không chống cự cái ác, nhưng khi một người tát con má bên này, con chìa má bên kia. 

Con chỉ có thể chìa má bên kia khi con ở trong trạng thái tha thứ liên tục và vô điều kiện. Khi họ làm một điều gì với con, con không đi vào một phản ứng tiêu cực. Con an trụ trong an bình, con an trụ trong yêu thương, con an trụ trong tha thứ. Con giản dị chìa má bên kia để con có thể cho họ cơ hội nhìn thấy những điều xấu, những bất toàn trong họ. 

15.12. Giúp người khác nhận ra ảo tưởng của họ  

Chuyện gì xảy ra khi một người làm tổn thương con và con phản ứng một cách tiêu cực và tìm cách làm tổn thương lại? Con có công nhận tin tưởng của người kia về con là một người xấu không? Đó có phải chính là tin tưởng trong hầu hết trường hợp khiến họ làm tổn thương con lúc đầu, có nghĩa là họ tin con đã làm điều gì sai và con đáng bị trừng phạt hoặc bị tổn thương? 

Khi con cho phép mình bị tổn thương và phản ứng lại bằng cách cố gây tổn thương cho họ hoặc bảo vệ mình, thì con chỉ củng cố tin tưởng của họ. Con không chỉ củng cố tin tưởng trong tâm của người kia, mà còn củng cố nó trong tâm con. Sau cùng, chỉ vì con có những tin tưởng bất toàn về chính mình nên con cho phép những hành động của họ gây tổn thương con. 

Khi con chìa má bên kia, con phá vỡ vòng xoáy. Khi một người gây tổn thương con, con đáp trả bằng tình thương, con thách thức tin tưởng của họ về con là một người xấu hay con đáng bị trừng phạt. Con cho người kia thấy con là người có thể đáp trả bằng tình thương. Vì vậy, họ buộc phải xem lại hành động của mình và hình ảnh của họ về con. Điều này thường giúp họ bước ra ngoài ảo tưởng của họ để họ thấy họ bị kẹt trong những tin tưởng bất toàn về chính họ và về cuộc đời. Họ nhận được một cơ hội vượt qua những tin tưởng đó. 

Đúng vậy, con yêu dấu, thày biết rõ có người khi con chìa má bên kia, họ sẽ lại làm tổn thương con. Nhưng con thấy đấy khi con chìa má bên kia cùng với tình thương và tha thứ hoàn toàn – tha thứ vô điều kiện – và người kia vẫn làm tổn thương con, thì hành động làm tổn thương con lần thứ nhì sẽ trở thành sự phán xét người đó. Sự phán xét này sẽ tạo ra một phản ứng từ chính cuộc sống khiến người đó trải nghiệm nghiệp quả quay trở lại nhanh hơn từ những gì người đó gửi vào tấm gương vũ trụ. Nghiệp quả quay trở lại này hoặc khiến người đó thức tỉnh hoặc sẽ khiến người đó sau cùng bị phán xét tới điểm họ sẽ không được phép đầu thai trên trái đất cho đến khi họ thay đổi tâm thức. 

Những gì Giê-su thật sự nói đó là nếu người ta làm theo lời khuyên của thày chìa má bên kia và không cưỡng lại cái ác, thì họ cho phép luật của Thượng đế thực thi đầy đủ. Bằng cách làm điều này, luật của Thượng đế sẽ có thể tăng tốc rút cái ác ra khỏi trái đất. Khi con cho phép người khác làm tổn thương con lúc con chìa má bên kia, thì Thượng đế có thể nhập cuộc và rút người đó ra khỏi trái đất. Nhờ đó, con nhanh chóng tới được tình trạng hầu hết những người xấu ác – những người ích kỷ nhất, vị kỷ nhất, duy ngã nhất – sẽ bị rút ra khỏi trái đất. Vì vậy, nhân loại như một tổng thể sẽ đơn giản vượt lên một tầng cao hơn và vượt qua trạng thái tâm thức mà ngày nay con thấy biểu lộ nhiều lần trong một vòng xoáy dường như vô tận làm tổn thương nhau và tìm cách trả thù những tổn thương đó – do đó điều này lại tạo ra một tổn thương mới khiến người kia có lý do tìm cách trả thù. 

15.13. Phá vỡ vòng xoáy trả thù 

Điều này đã tiếp diễn hết lần này đến lần khác trên hành tinh này, đặt biệt ở Trung đông nơi vòng xoáy trả thù và trả thù để trả thù cứ tiếp diễn. Vòng xoáy đi xuống này chỉ được phá vỡ khi người ta quyết định họ đã thấy đủ. Họ sẽ không tiếp diễn chu trình này, và vì vậy họ sẽ làm một điều hoàn toàn khác thay vì đáp trả nỗi đau bằng nỗi đau, sự trả thù và khao khát trừng phạt. Họ sẽ đáp trả bằng tình thương và sự tha thứ vô điều kiện. 

À con yêu dấu, con có thấy bằng cách làm vậy, con sẽ giải phóng mình khỏi các ràng buộc với người đã làm tổn thương con? Khi con nghĩ đến điều này, có ý nghĩa gì không khi một người làm tổn thương con và con lại muốn ràng buộc mình với họ? Nếu con không phải là người thích thú đau thương – thày tin phần lớn các con không phải là kiểu người này – thì tại sao con muốn quay lại và mời họ làm tổn thương con lần nữa? Nếu họ làm tổn thương con, thì đáp trả hợp lý là con đơn giản muốn giải thoát mình khỏi người đó và không bao giờ muốn gặp lại họ. Nếu con đi vào chu trình bị tổn thương và muốn người kia bị trừng phạt, thì con đã trói mình với họ. 

Mong muốn trừng phạt người khác có nghĩa là con chỉ sẵn sàng buông bỏ khi con thấy họ bị trừng phạt. Con tự động trói mình với họ cho đến khi con cảm thấy họ nhận đủ trừng phạt, và việc này có thể không xảy ra trong kiếp này hay thậm chí nhiều kiếp nữa. Điều này cũng giống như cách những người Trung đông đã tạo nên dây trói lẫn nhau để rồi các linh hồn này cứ tiếp tục đầu thai hết kiếp này sang kiếp khác. Thày đã nói với con trước đây là tôn giáo hay chủng tộc vỏ ngoài không quan trọng, vì người ta sẽ chuyển đổi vị trí để nhiều người kiếp trước là người Đức đã từng gây ra cuộc diệt chủng người Do thái hoặc kiếp trước là người Ả rập đã ngược đãi người Do thái thì kiếp này đầu thai làm người Do thái. Nhiều người Ả rập bây giờ có tiền kiếp là người Do thái. 

Những người này đã không sẵn lòng tha thứ vô điều kiện vì vậy họ đã khiến chính mình cứ lặp đi lặp lại chu trình này. Quả thật có một tâm thức rộng khắp trong thế giới Ả rập tin rằng họ không thể tha thứ cho người Do thái. Có một tâm thức trong cộng đồng người Do thái tin rằng họ không thể tha thứ cho người Ả rập hay người Đức hay các tín đồ Cơ đốc giáo. Khi một người sinh trưởng trong một nền văn hoá nào đó, người này gặp phải một thách thức phải vượt lên trên tin tưởng văn hoá của họ và phải tha thứ vô điều kiện, tha thứ bất kể tin tưởng văn hoá nào. Họ phải nhận ra mình hơn cái tin tưởng văn hoá đó, hơn chủng tộc đó, hơn tôn giáo đó, hơn các liên kết chính trị, hơn các liên kết quốc gia hay hơn bất cứ nhãn hiệu vỏ ngoài nào. Khi con tha thứ bất chấp các nhãn hiệu vỏ ngoài, con cũng giải phóng mình khỏi các nhãn hiệu này. Đó là cách con nâng cao và thăng vượt chính mình để lại hoà vào Dòng sông sự Sống, nhờ đó con trải nghiệm niềm vui vô bờ bến của sự tự thăng vượt liên tục. 

15.14. Dụng cụ Mẹ Mary trao để con vượt qua quá khứ 

Con yêu dấu, thày có thể tiếp tục bài giảng này bất tận bằng cách cho thêm nhiều ví dụ cho thấy con người đã làm tổn thương chính họ như thế nào bằng việc không tha thứ. Nhưng nếu những gì thày nói vẫn chưa đủ để khiến con suy nghĩ đến việc nhìn lại quá khứ theo một cách nhìn khác thì thày nói thêm nữa để làm gì? 

Thày sẽ quay lại phần mở đầu và nói: “Bài giảng này là một cuộc gọi từ Mẹ Vũ trụ. Con hãy nhấc điện thoại lên để nghe thông điệp của Mẹ”. Nếu con cảm thấy con chưa hiểu đầy đủ thông điệp của thày bằng cách đọc và nghe một lần thì thày muốn con nghe lại lần nữa. Thày sẵn lòng lập lại thông điệp nhiều lần cho đến khi con hiểu ý thày. 

Con hãy thử tìm đến thày. Hãy yêu cầu thày hướng dẫn nội tâm cho con. Hãy yêu cầu thày cho con thấy thông điệp đằng sau những tình huống bên ngoài mà con gặp phải. Hãy yêu cầu thày và thày sẽ chỉ cho con – nếu con chịu nhấc điện thoại lên và lắng nghe. Thày chúc con được an lành và thày chúc con một mùa Giáng sinh hạnh phúc. 

Con yêu dấu, Tinh thần Giáng sinh phải chăng chính là Tinh thần Tha Thứ, là Tánh linh đã thức tỉnh con người để họ có thể tái sinh, để lần nữa khởi đầu cuộc sống mới, khởi đầu một ngày mới? Cuộc đời của Ki-tô, sự giáng sinh của Ki-tô phải chăng là một cuộc gọi điện thoại khác của cuộc sống tìm cách thức tỉnh loài người là họ có thể vượt lên quá khứ và vươn lên một ngày mới trong vương quốc của Thượng đế? Thầy niêm con trong Ngọn lửa Tha thứ Vô điều kiện. Khi con tha thứ vô điều kiện, niềm vui sẽ đong đầy. 

15 | Tha thứ vô điều kiện và niềm vui

Bài truyền đọc của Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, ngày 26 tháng 11 năm 2006.

15.1. Động lực thăng tiến cơ bản của cuộc sống 

Con yêu dấu, nếu chuông điện thoại của con reo, con có nhấc máy lên nghe không? Khi con nhấc máy lên, con có nghe đủ lâu để ít nhất nhận biết rằng liệu người ở đầu dây bên kia có cho con biết một thông tin quan trọng hay họ đơn giản chỉ đang cố bán cho con một món hàng. Nếu con thật sự nhận ra người gọi cho con một thông điệp thì con có hết sức lắng nghe thông điệp đó và hiểu nó nói gì không? Chắc chắn rằng, con sẽ dành cho cuộc điện thoại và người gọi đến một sự tôn trọng nào đó. Vì vậy, thày muốn hỏi con: “Tại sao con không dành cho chính cuộc sống sự tôn trọng như vậy?”

À con yêu dấu, con sẽ trả lời con chắc chắn tôn trọng cuộc sống, nhưng thày cũng xin hỏi con điều này có thật không. Con thấy đấy, bản thân cuộc sống cũng như một cái điện thoại. Mọi hoàn cảnh con gặp cũng giống như các cuộc gọi từ chính cuộc sống. Nhưng, có quá nhiều hoàn cảnh trong đời mà con không nhấc điện thoại lên để nghe xem hoàn cảnh đó có phải là một thông điệp quan trọng cho con không, một thông điệp có thể giúp con thăng vượt chính mình – hay thăng vượt giới hạn nào đó – để con có thể tự do và trở nên hơn nữa trong Dòng sông sự Sống. 

15.2. Tại sao con cứ gặp đi gặp lại cùng một vấn đề 

Hầu hết mọi người bị bịt mắt khi sống trong đời. Họ ngái ngủ, nửa tỉnh nửa mê với những gì đang diễn ra. Họ không nhận ra cuộc sống là một chuỗi những hoàn cảnh liên tục và mỗi hoàn cảnh đều mang một thông điệp giúp họ lên cao hơn và vượt qua những tin tưởng sai lầm, những nhận thức sai lầm đang giới hạn họ và giới hạn khả năng biểu hiện sự sống qua họ. Rất nhiều người trong các con gặp phải các hoàn cảnh xảy ra nhiều lần trong đời. Con thường gào lên: “Tại sao việc này cứ xảy đến với tôi? Tại sao Thượng đế cứ làm điều này với tôi? Tại sao người khác cứ làm điều này với tôi? Tại sao số phận hay may rủi cứ xảy đến với tôi?” Nhưng con lại không dành thời gian quay lại và nói: “Tại sao tôi làm điều này với chính mình?”

Mỗi một hoàn cảnh trong đời giống như một cuộc gọi điện thoại, và cuộc gọi đó gói ghém một thông điệp. Nhưng con thường không màng nhấc điện thoại lên để nghe thông điệp đó. Thậm chí những người nhấc điện thoại lên – những người quả thật cho rằng có lẽ họ cần học một điều gì đó từ những hoàn cảnh này – cũng thường không thật sự lắng nghe thông điệp đằng sau cuộc gọi. Họ không thật sự lắng nghe bằng tai nội tâm để cố gắng hiểu thông điệp, cố gắng hiểu cái mà họ không thể thấy bằng tâm vỏ ngoài. 

Họ lắng nghe thông điệp, họ đánh giá với tâm vỏ ngoài. Vì vậy, họ không thấy thông điệp, họ không nghe thông điệp, vì tâm vỏ ngoài không thấu hiểu được thông điệp đó. Nếu tâm vỏ ngoài của con đã hiểu được thông điệp mà cuộc sống đang cố trao cho con, thì tại sao cuộc sống cứ phải mất công gọi điện cho con bằng cách khiến con cứ phải trải nghiệm nhiều lần cùng một hoàn cảnh? 

15.3. Cuộc đời không trừng phạt con 

Một nhận thức hoàn toàn sai lầm của tâm thức con người và tự ngã là cuộc đời đang cố trừng phạt con. Thày có thể bảo đảm với con là chính cuộc sống – và cuộc sống do Thượng đế tạo ra, vì vậy chính Thượng đế – cũng không mong muốn trừng phạt con. Đây là quy luật tuyệt đối: một khi con đã học xong bài học mà con cần học từ một hoàn cảnh cụ thể thì con sẽ không gặp phải hoàn cảnh đó nữa. 

Khi con cứ gặp phải cùng một hoàn cảnh nhiều lần, đó là bởi vì con chưa học xong bài học. Đó là lý do vì sao cuộc sống cứ gọi và cho con nhiều lần cùng một hoàn cảnh để con có thêm các cơ hội – và thêm thêm nữa – học xong bài học. 

Con yêu dấu, thay vì cằn nhằn, thay vì than vãn tại sao chuyện này cứ xảy ra với con hết lần này đến lần khác, thày đề nghị con làm một việc đơn giản: Hãy nhấc điện thoại và lắng nghe thông điệp mà cuộc sống đang cố trao cho con. Sau đó hãy học bài học. Hãy giải quyết những tin tưởng mà con cần giải quyết để con bước lên cao hơn. Thày có thể đảm bảo với con – như thể bằng phép thuật – con sẽ không gặp phải hoàn cảnh đó lần nữa. 

Cuộc sống không quá phức tạp. Cuộc sống thật sự rất rất đơn giản. Thông điệp bên dưới mỗi hoàn cảnh con gặp phải trong cuộc đời giản dị là: “Vũ trụ vật chất là một tấm gương”. Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ khoác lấy những hình tướng tương ứng với những gì có trong tâm thức con. Chính trạng thái tâm thức của con đã phóng chiếu một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật không làm được gì khác ngoài việc phản chiếu lại hình ảnh đó cho con – cả hình ảnh trong tâm ý thức và hình ảnh ở những lớp tiềm thức của tâm con, của các thể tình cảm, lý trí và bản sắc.

Cuộc sống rất đơn giản. Chính cuộc sống là nguyên lý của sự tăng triển – của sự trở nên hơn nữa, của sự tự thăng vượt. Thông điệp mà cuộc sống đang cố trao cho con là con có thể trở nên hơn nữa. Bằng cách thấy các giới hạn, thấy các tin tưởng giới hạn của mình – về chính mình, về thế giới và về Thượng đế – con có thể vượt thăng giới hạn đó và lên cao hơn, trở nên hơn nữa trong Dòng sông sự Sống luôn luôn tuôn chảy của Thượng đế. 

Rất nhiều người đã tự hỏi ý nghĩa của cuộc sống, mục đích của cuộc sống, bí mật của cuộc sống là gì. Rất nhiều người đã đi tìm hòn đá hóa kim thần diệu (philosopher’s stone), cây đũa thần, con đường tắt sẽ khiến họ đột ngột có được trạng thái hỷ lạc, hay một trạng thái họ nghĩ họ cần để được hạnh phúc. Nhưng con yêu dấu, bí mật của cuộc sống lại rất giản dị – đó là sự tự thăng vượt. Điều này không có nghĩa là con cần đạt được một trạng thái toàn hảo xa vời vượt quá tầm với của con. Chỉ đơn giản là mỗi lúc con thăng vượt chính mình, con đang trôi theo Dòng sông sự Sống. Con có tiềm năng trải nghiệm niềm vui, sự hỷ lạc, và đây thật sự Dòng sông sự Sống. 

Thông điệp mà cuộc sống đang cố trao cho con trong mỗi hoàn cảnh là khi con gặp một giới hạn, nếu con sẵn lòng nhìn vào chính mình và nhìn nhận những tin tưởng khiến con trải nghiệm hoàn cảnh đó như một giới hạn và sau đó buông bỏ tin tưởng đó đi, thì con sẽ vượt lên trên ý niệm bị giới hạn và thay vào đó hoà vào niềm hỷ lạc của Dòng sông sự Sống. 

15.4. Hãy thay đổi cách con nhìn quá khứ 

Thày hy vọng bằng việc trao cho con bài giảng này, thày có thể thay đổi cách con nhìn quá khứ của mình. Quá khứ không phải để trừng phạt con. Quá khứ không thật sự muốn nắm giữ con, mặc dù thày biết có nhiều khi quá khứ có vẻ như kiềm giữ con lại hay kéo con vào các khuôn nếp cũ lặp đi lặp lại nhiều lần trong một chu trình dường như vô tận. Sự thật là quá khứ của con, và các hồi ức của con về quá khứ đơn giản chỉ biểu lộ mong muốn của cuộc sống muốn con bước lên cao hơn. 

Bất cứ khi nào con bị kéo về quá khứ, thì con hãy xem đây – một lần nữa – như cuộc sống đang gọi điện cho con. Vì cuộc sống luôn gọi cho con chỉ với một mục đích duy nhất, đó là cho con thấy là một lần nữa con có thể vượt qua một giới hạn khác, con có thể vượt lên trên nó, con có thể đơn giản buông bỏ nó và hoà vào Dòng sông sự Sống – và sau đó trở nên hơn nữa bằng cách thăng vượt ý niệm bản ngã cũ. 

Hoàn cảnh quá khứ cứ săn đuổi con là những hoàn cảnh trong đó con phản ứng lại hoàn cảnh bên ngoài theo cách con chấp nhận một tin tưởng giới hạn về chính mình. Tin tưởng này vẫn nằm trong tiềm thức của con, và đó là tại sao – khi con bị kéo về các hoàn cảnh quá khứ – con trải nghiệm sự khó chịu, sự hổ thẹn, hay tội lỗi hay những tình cảm tiêu cực khác gây cho con nỗi đau cảm xúc.

Thậm chí nỗi đau còn là một lời nhắc nhở. Đó là lời nhắc nhở con chưa học xong bài học, con chưa khắc phục tin tưởng đang giới hạn con. Thậm chí nỗi đau còn là một ơn huệ. Nếu có ai đó đang cố gọi điện cho con và trao cho con một thông điệp có thể cứu cuộc đời con thì con có muốn họ tăng âm lượng của máy điện thoại lên nếu họ làm vậy được? Hãy hình dung con không thể nghe thấy điện thoại, nhưng ai đó có thể bấm nút trên điện thoại của họ và bật to âm lượng để con có thể nghe được, thì con hãy bắt điện thoại và cứu cuộc đời mình. 

Đây là điều chính yếu mà quá khứ làm cho con khi nó nhắc nhở con – hết lần này đến lần khác – về các hoàn cảnh trong đó con đã chấp nhận vài giới hạn. Nếu thoạt tiên con không nghe máy thì cuộc sống sẽ tiếp tục gọi con với âm lượng ngày càng tăng – và do đó nỗi đau cảm xúc cũng tăng dần vì nó cố gắng rốt cuộc kéo cho bằng được sự chú ý của con. Thay vì chối bỏ và phủ nhận nỗi đau, con nói: “Được rồi, tôi thấy đau đủ rồi. Tôi sẽ xem xét vấn đề này và vượt qua giới hạn để tôi có thể chỉ một lần và mãi mãi vượt qua nỗi đau đó thay vì bị nó đè nặng hết lần này đến lần khác suốt phần đời còn lại hay thậm chí trong nhiều kiếp sống.” 

Thay vì phớt lờ quá khứ hay chối bỏ quá khứ hay tìm cách khiến mình bận rộn với hiện tại hoặc tương lai đến độ không còn thì giờ chú tâm vào quá khứ, quả thực sẽ khôn ngoan hơn nhiều nếu con đơn giản nhấc máy và lắng nghe thông điệp từ quá khứ. Nếu con lắng nghe thông điệp đó, con có thể nhanh chóng nhận ra rằng hoàn cảnh trong quá khứ cứ quay đi quay lại là hoàn cảnh trong đó con chưa nhìn thấu suốt một tin tưởng giới hạn và vì vậy con chưa buông bỏ tin tưởng đó. 

15.5. Quá khứ trở thành khởi đầu 

Vì con chưa buông bỏ tin tưởng đó nên con tiếp tục giữ chặt một tin tưởng bất toàn về chính mình, hay về cuộc đời, hay về Thượng đế, hay về người khác. Thông qua uy lực của tâm, con phóng chiếu tin tưởng giới hạn đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Tấm gương của Ánh sáng Mẫu-Vật có thể làm gì ngoại trừ phản chiếu lại những hoàn cảnh bên ngoài của con và hoàn cảnh này phản chiếu tình trạng tâm thức của con? 

Quá khứ của con trở thành khởi đầu cho hiện tại và tương lai của con. Những tin tưởng bất toàn mà con đã chấp nhận trong quá khứ đang liên tục được tâm tiềm thức của con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật phải khoác lấy hình tướng của những tin tưởng này và gửi đến cho con những hoàn cảnh và tình huống vật lý phản ánh những tin tưởng đó. 

Ánh sáng Mẫu-Vật không muốn buộc con phải gặp những hoàn cảnh khiến con đau khổ. Ánh sáng Mẫu-Vật là tấm gương vì vậy nó có thể làm gì ngoài việc phản chiếu lại những gì con đã gửi vào nó? Chính năng lực của sự sống không muốn con tiếp tục phóng chiếu cùng những hình ảnh bất toàn lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Đó là lý do tại sao năng lực của sự sống đang cố giúp con thức tỉnh chính mình để con có thể thay đổi các hình ảnh con giữ trong tâm – và từ đó thay đổi những gì con đang phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. 

Đúng vậy, con yêu dấu, cuộc sống thật sự chỉ giản dị như vậy – nếu con chịu chú ý, nếu con chịu nhấc điện thoại và lắng nghe thông điệp. Thật không may, thày biết vài người thật sự có nhấc điện thoại, nhưng con lại trả lời cùng một cách như khi con nghe đoạn thâu âm đang cố bán cho con một món hàng, quảng cáo một dịch vụ hay vận động cho một ứng cử viên chính trị. Ngay lập tức tâm con đóng cứng không nghe hoặc con cúp máy và không nghe nữa. 

Không phải quá khứ đang cố quấy rầy con bằng cách lặp lại cùng một thông điệp. Đơn giản đó chỉ là tấm gương, tấm gương vũ trụ, chỉ tiếp tục phản chiếu lại con cùng một hình ảnh mà con đang gửi ra ngoài. Không phải cuộc đời đang khiến con bực bội. Chính sự cứng ngắc của tâm con và sự không sẵn lòng nhìn vào các tin tưởng của mình để đánh giá liệu những tin tưởng này có hợp lý không và sau đó thay thế những tin tưởng không hợp lý bằng một sự hiểu biết cao hơn xuất phát từ tâm Ki-tô. 

Thày đang cố gắng thức tỉnh con khiến con thấy điều cực kỳ thiết yếu là con phải sẵn lòng nhìn vượt quá những hoàn cảnh bên ngoài trong quá khứ và đi tìm thông điệp nội tâm, bài học nội tâm con cần học từ những hoàn cảnh đó. Nếu con làm vậy một cách chân thật và cởi mở, con sẽ thấy bất cứ khi nào con gặp một hoàn cảnh khiến con đau khổ, đó là vì con đang nắm giữ một tin tưởng bất toàn về chính mình và về cuộc sống. Nếu con thấy được những bất toàn của tin tưởng đó và đạt được sự hiểu biết cao hơn của tâm Ki-tô thì con có thể thay thế tin tưởng giới hạn này bằng nhận biết thật sự con là ai. Điều này sẽ thay đổi hình ảnh con đang phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Và chắc chắn, điều này sẽ thay đổi những gì tấm gương vũ trụ phản chiếu lại cho con dưới dạng các hoàn cảnh bên ngoài. Điều thày đang nói với con ở đây không phải là một giấc mơ ban ngày, một lời hứa thiếu thực tế. Điều thày đang giải thích với con ở đây là quy luật cơ bản nhất của vũ trụ vật chất. Quy luật này Thánh Kinh có nói tới trong câu: gieo gió thì gặt bão. 

15.6. Có một cái gì khác hơn khổ đau 

Luật của Thượng đế rất giản dị. Con có quyền tự quyết làm bất kỳ điều gì con muốn. Con là người đồng sáng tạo với Thượng đế. Con ở đây để học cách sử dụng khả năng sáng tạo của con để tạo ra các hoàn cảnh mà con có thể sống trong đó được, các hoàn cảnh giúp con tăng triển. Con học bằng hai cách. Một là lắng nghe hướng dẫn nội tâm, từ cái ta cao, từ Hiện diện Ta Là, từ các vị thày tâm linh. Nếu con không lắng nghe sự hướng dẫn hay nếu con không dùng tâm lý luận để tìm hướng đi cho chính mình, thì con phải học bằng cách còn lại, đó là Trường đời Cay đắng trong đó con thấy Ánh sáng Mẫu-Vật phản chiếu lại con những hoàn cảnh vật lý biểu lộ những hoàn cảnh trong tâm con. 

Luật của Thượng đế là thế này: Con có quyền tạo ra bất cứ hình tư tưởng nào mà con muốn. Con có quyền phóng chiếu hình tư tưởng đó ra ngoài tâm con. Khi con làm vậy, con chắc chắn sẽ trải nghiệm những hoàn cảnh vật lý biểu lộ hình tư tưởng đó. Con sẽ trải nghiệm những gì con phóng chiếu lên cuộc sống. Con sẽ trải nghiệm những gì con đồng sáng tạo qua uy lực của tâm bằng cách phóng chiếu một hình tư tưởng lên Ánh sáng Mẫu-Vật. 

Thượng đế và chính thày và tất cả các thày tâm linh chắc chắn đều ủng hộ quyền đồng sáng tạo bất cứ hoàn cảnh nào mà con muốn. Nhưng các thày muốn con hiểu nếu con đồng sáng tạo những hoàn cảnh khiến con đau khổ, thì con có chọn lựa khác thay vì tiếp tục tạo ra những hoàn cảnh tương tự. Cách duy nhất để ngừng chu trình lặp đi lặp lại dẫn đến khổ đau là thay đổi nguyên nhân của hoàn cảnh bên ngoài. Thày biết rõ trong lịch sử con người đã ngụy biện đủ cách để làm ra vẻ như họ không thể kiểm soát được hoàn cảnh bên ngoài. Họ cho rằng họ đã không tạo ra hoàn cảnh đó mà Thượng đế, số phận, may rủi hay người khác đã tạo ra những hoàn cảnh này. Sự thật thẳng thắn là chính con đã đồng sáng tạo những hoàn cảnh của mình vì con đã hình thành những hình tư tưởng và đã phóng chiếu những hình tư tưởng này lên Ánh Sáng Mẫu-Vật. 

Cách duy nhất – cách duy nhất tuyệt đối – có thể thay đổi những hoàn cảnh bên ngoài đó là con hãy thay đổi nguyên nhân của hoàn cảnh. Con có đồng ý là nếu con muốn thay đổi kết quả thì con phải thay đổi nguyên nhân tạo ra kết quả đó? Những gì thày đang nói với con chính là hoàn cảnh bên ngoài của con là kết quả. Nguyên nhân của kết quả này là những hình tư tưởng con giữ trong tâm. Cách duy nhất để thay đổi hoàn cảnh bên ngoài là thay đổi các hình tư tưởng đó.

Bằng cách nào con thay đổi những hình tư tưởng trong tâm? À, không có cách nào khác ngoại trừ nhìn những hình tư tưởng này một cách ý thức – thấy chúng dựa trên tâm thức nhị nguyên, dựa trên ảo tưởng của tâm phản Ki-tô – rồi sau đó buông bỏ chúng một cách ý thức, thay thế những ảo tưởng này bằng sự thật Ki-tô. Con hãy chú ý những gì thày đang nói. Vấn đề ở đây không phải là tìm cách nào đó để biện minh cho những tin tưởng con đã chấp nhận trong quá khứ.

Ồ con yêu dấu, nếu con thành thật nhìn vào điều này, con sẽ thấy có nhiều người khi đối mặt với khả năng họ có một tin tưởng bất toàn, họ sẽ rơi vào phản ứng tự vệ. Phản ứng tự vệ này là một phản ứng mặc định của tự ngã vì giản dị là nó không chịu nhìn nhận là nó có thể sai. Nó rơi vào phản ứng cố gắng bảo vệ hay biện minh cho những tin tưởng của nó. 

Thày hy vọng con có thể thấy nếu con tiếp tục biện minh cho một tin tưởng trong quá khứ, con sẽ đơn giản chỉ bồi đắp cho tin tưởng đó. Con sẽ tiếp tục gửi những hình tư tưởng dựa trên tin tưởng ban đầu vào tấm gương vũ trụ. Tất nhiên, tấm gương vũ trụ có thể làm gì ngoài việc gửi trả lại con cùng một hoàn cảnh mà con đã tạo ra ngay từ đầu? Con yêu dấu, con có nhận ra nếu con tiếp tục làm cùng một việc và mong chờ những kết quả khác nhau thì con sẽ bị kẹt trong sự điên rồ cơ bản của tự ngã con người. Con phải bước ra ngoài những khuôn nếp cũ và sẵn lòng nhìn nhận rằng một số tin tưởng trong quá khứ đang giới hạn chính con. Đây không phải là lợi ích cao nhất của con khi giữ lấy các tin tưởng đó. Ngược lại, lợi ích cao nhất của con giản dị là buông bỏ chúng. 

15.7. Con hơn quá khứ của con 

Nhận biết then chốt ở đây là giáo lý nói rằng cốt lõi bản sắc của con là cái Ta Biết. Cái Ta Biết là một đốm sáng của chính Bản thể Thượng đế. Nó  nhiều hơn vô tận quá khứ của con, hơn bất kỳ hoàn cảnh nào hay bất kỳ tin tưởng nào trong quá khứ. Cái Ta Biết có quyền và khả năng mà Thượng đế đã cho con để bước ra ngoài sự đồng hoá của nó với quá khứ. Con có thể làm điều này bất cứ lúc nào, ngay cả bây giờ. 

Thày muốn con nhìn nhận rằng có một thế lực trong thế giới này quyết tâm giữ con mắc kẹt vào sự đồng hoá với quá khứ để con nghĩ con không thể buông bỏ quá khứ. Thậm chí con sợ rằng nếu con buông bỏ quá khứ, con sẽ mất đi chính bản sắc của mình. Thế lực này bao gồm tự ngã cá nhân của con, tự ngã của người khác và toàn bộ thế lực đen tối, thế lực phản Ki-tô mà Giê-su gọi là ông hoàng thế gian. Ông hoàng thế gian sẽ liên tục tới gần con. Ông ta sẽ tới để thấy liệu ông ta có thể khiến con dính mắc với quá khứ để con không giản dị sẵn lòng buông bỏ quá khứ, buông bỏ những tin tưởng bất toàn bằng cách nhìn nhận rằng con hơn bất kỳ một tin tưởng bất toàn nào. 

Con có thật sự đang nghe thày nói không? Con có quyền và khả năng mà Thượng đế đã ban tặng cho con để buông bỏ bất cứ tin tưởng bất toàn nào trong quá khứ. Con làm điều này bằng cách nào? Bằng cách sẵn sàng nhìn vào các tin tưởng, nhìn nhận rằng chúng không có thật, chúng xuất phát từ tâm thức phản Ki-tô. Sau đó, con nhìn nhận rằng con hơn những tin tưởng đó. Tin tưởng đó giản dị chỉ giống như cái áo choàng cũ sờn rách mà con đã mặc vào một lúc nào đó trong quá khứ. Con có thể cởi nó ra bất kỳ lúc nào và ném nó vào lửa, để cho nó cháy, để nó bị thiêu rụi không còn gì nữa. 

Con có thể cởi bỏ ý niệm bản sắc cũ dựa trên tin tưởng đó, và ném nó vào lửa tâm linh của ngọn lửa tím và Ngọn lửa Tha thứ, và con giản dị buông bỏ nó. Ngọn lửa Tha thứ mà các thày còn gọi là ngọn lửa tím hay Ngọn lửa Từ bi, giản dị là bút tẩy vũ trụ cho phép con cởi bỏ ý niệm bản sắc cũ kỹ, sờn rách mà con đã bồi đắp rồi ném nó vào lửa. Thượng đế trong con thật sự là ngọn lửa thiêu huỷ có thể thiêu trụi tất cả ý niệm tự ngã bất toàn mà con đã bồi đắp trong bất cứ kiếp sống trước nào. Con có chọn lựa khác hơn là lặp đi lặp lại mãi các khuôn nếp cũ rích này. Chọn lựa khác là con cởi chiếc áo choàng của ý niệm bản sắc bất toàn và ném nó vào ngọn lửa vui mừng của Thượng đế để nó bị thiêu rụi và con sẽ được tự do như thể bản sắc đó chưa từng hiện hữu. 

15.8. Chìa khóa chính yếu để buông bỏ 

Chìa khoá chính yếu để làm điều này là gì? Chìa khoá chính yếu để buông bỏ một ý niệm bản sắc bất toàn là gì? Đó là sẵn lòng tha thứ. Để tự do khỏi quá khứ, con phải tha thứ và con phải tha thứ vô điều kiện. Tự ngã đánh lừa để con nghĩ rằng để con tha thứ được thì cần phải đáp ứng một số điều kiện. Ví dụ, nhiều người tin rằng để tha thứ cho người đã làm tổn thương mình thì người đó trước tiên phải bị trừng phạt như thế nào đó. Chỉ khi nào người đó bị trừng phạt đủ thì con mới có thể tha thứ cho họ. Và một số người khác nghĩ rằng nếu người đó thật sự thay đổi, thì mới tha thứ được họ. Dĩ nhiên đây là một tin tưởng giống như con dao hai lưỡi, trong đó một lưỡi dao hướng vào con và vì vậy có khả năng làm con bị thương nặng. Những gì con làm cho người khác là những gì con làm cho chính mình. Đây là lý do thày Giê-su đã nói với con hãy làm cho người khác những gì con muốn họ làm cho con. Ý nghĩa sâu sắc hơn đó là con chỉ có thể làm cho người khác những gì con đã làm cho chính mình rồi, kể cả điều tốt lẫn điều xấu.

Nếu con nghĩ người khác phải đáp ứng những điều kiện nào đó trước khi họ có thể được tha thứ thì con cũng nghĩ con phải đáp ứng những điều kiện nào đó trước khi con có thể được tha thứ. Tự ngã của con rất giỏi đưa ra những điều kiện như vậy và đưa ra theo cách mà không ai có thể làm được, gồm cả chính con. Đó là cách tự ngã giữ con bị mắc kẹt trong chu trình không bao giờ muốn tha thứ cho người khác và không bao giờ muốn tha thứ cho chính mình. Tự ngã chủ yếu muốn con tin rằng vì con đã phạm lỗi lầm trong quá khứ, con không thể được tha thứ, con không thể chuộc lỗi, con không bao giờ vượt lên quá khứ và tự do khỏi quá khứ. 

Điều cuối cùng tự ngã muốn con nhận ra là con được Thượng đế trao cho quyền và sức mạnh bỏ đi các bất toàn trong quá khứ. Tự ngã không muốn con nhận ra con có khả năng làm điều này. Nó không muốn con biết con có thể làm điều này bằng cách mở lòng nhìn nhận các tin tưởng bất toàn đã khiến con gặp phải những hoàn cảnh vật lý gây cho con nhiều đau khổ. Con có thấy được chìa khoá chính yếu để vượt lên quá khứ là tha thứ – nhưng không phải tha thứ theo cách thế phàm dựa trên những điều kiện bên ngoài. Không, chìa khoá chính yếu để vượt lên quá khứ là tha thứ vô điều kiện. 

Khi con không tha thứ cho người kia, thì thật sự con đang nắm giữ hoàn cảnh cũ. Nghĩa là con đang nắm giữ – dù con có ý thức hay không – nỗi đau được tạo ra trong hoàn cảnh đó khi người kia làm tổn thương con. Nỗi đau kéo sự chú ý ý thức của con và kéo con vào việc nhớ lại hoàn cảnh đó. Bất cứ khi nào con nhớ về hoàn cảnh đó, con lại tăng cường tổn thương nguyên thuỷ, nỗi đau nguyên thuỷ và sự giận dữ nguyên thuỷ đối với người kia. Vì vậy, con cột chính mình với quá khứ và con thật sự củng cố quá khứ. 

Khi con không tha thứ cho người kia, con đang làm hại chính mình vì con đang nắm giữ những hình ảnh và cảm xúc bất toàn, và con đang phóng chiếu chúng lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật phải lý giải là con muốn trải nghiệm tình huống trong đó người ta làm tổn thương con. Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ làm gì cho con? À, nó không có chọn lựa nào ngoài việc gửi cho con những hoàn cảnh tương lai trong đó người khác làm tổn thương con. Nó thật sự tin rằng đây là những gì con muốn trải nghiệm, dựa vào việc con đang phóng chiếu một hình tư tưởng và cảm xúc về việc người khác làm tổn thương con vào tấm gương vũ trụ. 

15.9. Không tha thứ làm tổn thương con

Cuối cùng con có hiểu là khi con không tha thứ cho người khác, con đang thật sự làm tổn thương chính mình không? Con biện minh như thế nào để không tha thứ cho người khác? Đó có phải là họ không đáp ứng các điều kiện bên ngoài mà tự ngã con đã xác định. Như thể khi người khác không đáp ứng những điều kiện đó, con không thể buông bỏ hoàn cảnh, con không thể tha thứ và vượt lên. 

Con có thấy đây chính là cùng một tâm lý khiến con tổn thương trong hoàn cảnh ban đầu? Chuyện gì đã xảy ra trong hoàn cảnh ban đầu, đó là người kia đã làm chuyện gì đó với con. Nhưng không phải những gì họ làm khiến con tổn thương. Đó là những tin tưởng bất toàn con nắm giữ về chính mình và cuộc đời đã khiến con phản ứng với hoàn cảnh theo cách làm tổn thương chính con. 

Điều thật sự tạo ra nỗi đau trong hoàn cảnh ban đầu đó là con có một tin tưởng biến con thành nạn nhân thụ động. Con nghĩ khi người ta làm điều gì với con, con chỉ có thể đáp trả bằng cảm xúc tiêu cực khiến con đau đớn. Chính tin tưởng này biến con thành nạn nhân trong tình huống ban đầu. 

Thậm chí bây giờ con vẫn nắm giữ tin tưởng con là nạn nhân với suy nghĩ chỉ khi người khác đáp ứng các điều kiện, con mới tha thứ cho họ và buông bỏ hoàn cảnh đó. Bằng việc không tha thứ, con thật sự duy trì hoàn cảnh ban đầu. Con đang phóng chiếu những tin tưởng và cảm xúc từ hoàn cảnh đó lên tấm gương vũ trụ, chắc chắn từ đó gieo gió gặt bão. Con đã phóng chiếu một hình tư tưởng bất toàn lên tấm gương và vì vậy không thể tránh được tạo ra một chuỗi phản ứng chuyển động cuối cùng gửi trả về con các hoàn cảnh vật lý phản chiếu hình tư tưởng đó. 

Cái gì có thể phá vỡ hoàn cảnh này? Chỉ có một cách duy nhất phá vỡ nó, đó là con nhấc điện thoại lên lắng nghe đủ lâu để nhận ra cuộc sống đang cố dạy con rằng chính những tin tưởng của con khiến con đau khổ. Chỉ bằng cách thay đổi những tin tưởng của mình, con mới phá vỡ chu trình trải nghiệm những hoàn cảnh vật lý đặt con vào một tình huống – trong chính tâm con – trong đó con nghĩ khả năng phản ứng duy nhất của con là phản ứng như một nạn nhân và cảm thấy đau đớn. 

15.10. Con hãy lấy lại uy lực của mình để con chọn một phản ứng

Điều duy nhất có thể thay đổi phương trình đó là con thay đổi cách con nhìn phương trình, cách con nhìn cuộc sống, cách con nhìn chính mình. Con phải lấy lại uy lực của mình để đáp ứng các hoàn cảnh dựa trên một chọn lựa của ngày hôm nay – bây giờ – thay vì một chọn lựa trong quá khứ. Trong quá khứ, con đã chấp nhận một tin tưởng bất toàn về chính mình. Khi con cho phép tin tưởng đó vẫn nằm trong tiềm thức của con, thì con không thể lấy một chọn lựa là con sẽ đáp ứng tình huống con trải nghiệm trong hiện tại như thế nào. Con đã chọn lựa trong quá khứ, và con chỉ có thể lặp lại cùng một khuôn nếp hết lần này đến lần khác. 

Điều có thể phá vỡ hoàn cảnh đó là con biết chuyện gì đang xảy ra, và vì vậy con quyết định quay lại nhìn tin tưởng ban đầu và loại bỏ nó vì nó không có thật. Khi con loại bỏ tin tưởng đó, và lần sau khi con trải nghiệm một tình huống tương tự thì con sẽ không còn gánh nặng trì kéo con. Tâm con sẽ có thể nói: “Nhưng bạn biết đấy, tôi không cần phải phản ứng với tình huống này bằng cảm xúc tổn thương, cảm xúc sợ hãi, cảm giác xấu hổ, chỉ trích trừng phạt chính mình và nghĩ tôi là người xấu vì người ta đối xử với tôi như thể tôi là người xấu”. 

Thay vào đó, con có thể nhận ra những gì người khác làm với con là sự phản chiếu trạng thái tâm thức của họ. Đó không phải là người kia có hình ảnh bất toàn về con, mặc dù điều này có vẻ là như thế dựa trên tâm vỏ ngoài và hành động của họ. Thật sự, người đó có một hình ảnh bất toàn về chính họ, và người đó đang phóng chiếu hình ảnh đó lên con. Nhưng con không phải chấp nhận hình ảnh mà họ áp đặt lên con. Thượng đế ban cho con quyền sống cuộc đời của mình dựa trên những hình ảnh trong chính tâm con. Con có thể tự do chọn lựa đáp ứng với họ – khi con không chấp nhận những hình ảnh của người khác hay những tin tưởng giới hạn khác đến từ quá khứ của chính con. 

Chìa khoá để buông bỏ những hình ảnh bất toàn mà con đã chấp nhận trong quá khứ hoặc những hình ảnh bất toàn mà người khác đã chấp nhận là gì? Chìa khoá để không bị ảnh hưởng bởi những tin tưởng bất toàn của người khác hay những tin tưởng bất toàn của chính tự ngã trong quá khứ của con là gì? Đó là tha thứ – tha thứ bằng việc hoàn toàn không dính mắc với những gì họ phóng chiếu vào con hay phóng chiếu từ chính tâm thức con. Đó là chấp nhận có sức mạnh tuyệt đối để tha thứ vô điều kiện cho chính mình và người khác và giản dị để buông bỏ tất cả cảm nhận tổn thương, tất cả cảm nhận đau đớn. 

15.11. Không ngừng tha thứ

Thày biết một khi con đã bị kẹt vào vòng xoáy tổn thương và đau đớn, thì dường như không có lối ra. Thày thật sự đã vượt lên nhân tình thế phàm này và nhiều sinh thể thăng thiên khác cũng vậy. Thày cần nói với con hầu hết mọi người trên trái đất bị mắc kẹt trong một ảo tưởng. Sự thật được nhiều sinh thể thăng thiên chứng minh đó là con quả thật có thể vượt lên vòng xoáy hướng hạ từ quá khứ. Con có thể làm vậy bằng cách chuyển đổi quá khứ, không phải bằng cách kiểm soát quá khứ hay kiểm soát người khác. Con chỉ có thể làm vậy bằng cách chuyển đổi cách con nhìn quá khứ để con sẵn lòng buông bỏ tin tưởng mà con đang nắm giữ đến nay. 

Không phải là việc tìm ra cây đũa thần mới có thể giải thoát con khỏi quá khứ. Cây đũa thần là nhận biết ý thức của con và việc con sẵn sàng buông bỏ, buông bỏ nỗi đau, buông bỏ tổn thương, buông bỏ tin tưởng là con cần phản ứng với hoàn cảnh một cách tiêu cực, buông bỏ hoàn toàn xu hướng nghĩ rằng con chỉ có thể phản ứng bằng những cảm xúc tiêu cực trong những hoàn cảnh nào đó. Một khi con đã thật sự bước vào tinh thần tha thứ – và cho phép tinh thần tha thứ đi vào thể thấp của con – con sẽ ở trong trạng thái tha thứ không ngừng. Con đã tha thứ cho chính mình và người khác rồi trước khi họ làm bất cứ điều gì với con. 

Khi người ta làm một điều gì với con – vì thật sự con không thể kiểm soát hành động của người khác – thì con đã tha thứ cho họ trước đó rồi. Khi con biết họ đã được tha thứ trước đó rồi, con cũng biết con có thể tự do khỏi các phản ứng tiêu cực cho dù người ta có làm gì với con. Con có thể theo lời khuyên uyên thâm của thày Giê-su, đó là con không chống cự cái ác, nhưng khi một người tát con má bên này, con chìa má bên kia. 

Con chỉ có thể chìa má bên kia khi con ở trong trạng thái tha thứ liên tục và vô điều kiện. Khi họ làm một điều gì với con, con không đi vào một phản ứng tiêu cực. Con an trụ trong an bình, con an trụ trong yêu thương, con an trụ trong tha thứ. Con giản dị chìa má bên kia để con có thể cho họ cơ hội khác nhìn thấy những điều xấu, những bất toàn trong họ. 

15.12. Giúp người khác nhận ra ảo tưởng của họ  

Chuyện gì xảy ra khi một người làm tổn thương con và con phản ứng một cách tiêu cực và tìm cách làm tổn thương lại? Con có công nhận tin tưởng của người kia về con là một người xấu không? Đó có phải chính là tin tưởng trong hầu hết trường hợp khiến họ làm tổn thương con lúc đầu, có nghĩa là họ tin con đã làm điều gì sai và con đáng bị trừng phạt hoặc bị tổn thương? 

Khi con cho phép mình bị tổn thương và phản ứng lại bằng cách cố gây tổn thương cho họ hoặc bảo vệ mình, thì con chỉ củng cố tin tưởng của họ. Con không chỉ củng cố tin tưởng trong tâm của người kia, mà còn củng cố nó trong tâm con. Sau cùng, chỉ vì con có những tin tưởng bất toàn về chính mình nên con cho phép những hành động của họ gây tổn thương con. 

Khi con chìa má bên kia, con phá vỡ vòng xoáy. Khi một người gây tổn thương con, con đáp trả bằng tình thương, con thách thức tin tưởng của họ về con là một người xấu hay con đáng bị trừng phạt. Con cho người kia thấy con là người có thể đáp trả bằng tình thương. Vì vậy, họ buộc phải xem lại hành động của mình và hình ảnh của họ về con. Điều này thường giúp họ bước ra ngoài ảo tưởng để họ thấy mình bị kẹt trong những tin tưởng bất toàn về chính mình và về cuộc đời. Họ nhận được một cơ hội vượt qua những tin tưởng đó. 

Đúng vậy, con yêu dấu, thày biết rõ có người khi con chìa má bên kia, họ sẽ lại làm tổn thương con. Nhưng con thấy đấy khi con chìa má bên kia cùng với tình thương và tha thứ hoàn toàn – tha thứ vô điều kiện – và người kia vẫn làm tổn thương con, thì hành động làm tổn thương con lần thứ nhì sẽ trở thành sự phán xét người đó. Sự phán xét này sẽ tạo ra một phản ứng từ chính cuộc sống khiến họ trải nghiệm nghiệp quả quay trở lại nhanh hơn từ những gì họ gửi vào tấm gương vũ trụ. Nghiệp quả quay trở lại này hoặc khiến người đó thức tỉnh hoặc sẽ khiến người đó sau cùng bị phán xét tới điểm họ sẽ không được phép đầu thai trên trái đất cho đến khi họ thay đổi tâm thức. 

Những gì Giê-su thật sự nói đó là nếu người ta làm theo lời khuyên của thày chìa má bên kia và không cưỡng lại cái ác, thì họ cho phép luật của Thượng đế thực thi đầy đủ. Bằng cách làm điều này, luật của Thượng đế sẽ có thể tăng tốc rút cái ác ra khỏi trái đất. Khi con cho phép người khác làm tổn thương con lúc con chìa má bên kia, thì Thượng đế có thể nhập cuộc và rút người đó ra khỏi trái đất. Nhờ đó, con nhanh chóng tới được tình trạng hầu hết những người xấu ác – những người ích kỷ nhất, vị kỷ nhất, duy ngã nhất – sẽ bị rút ra khỏi trái đất. Vì vậy, nhân loại như một tổng thể sẽ đơn giản vượt lên một tầng cao hơn và vượt qua trạng thái tâm thức mà ngày nay con thấy biểu lộ nhiều lần trong một vòng xoáy dường như vô tận làm tổn thương nhau và tìm cách trả thù những tổn thương đó – do đó điều này lại tạo ra một tổn thương mới khiến người kia có lý do tìm cách trả thù. 

15.13. Phá vỡ chu trình trả thù 

Điều này đã tiếp diễn hết lần này đến lần khác trên hành tinh này, đặt biệt ở Trung đông nơi chu trình trả thù và trả thù để trả thù cứ tiếp diễn. Vòng xoáy hướng hạ này chỉ được phá vỡ khi người ta quyết định họ đã thấy đủ. Họ sẽ không tiếp diễn chu trình này, và vì vậy họ sẽ làm một điều hoàn toàn khác thay vì đáp trả nỗi đau bằng nỗi đau, sự trả thù và khao khát trừng phạt. Họ sẽ đáp trả bằng tình thương và sự tha thứ vô điều kiện. 

Ấy con yêu dấu, con có thấy bằng cách làm vậy, con sẽ giải phóng mình khỏi các ràng buộc với người đã làm tổn thương con không? Khi con nghĩ đến điều này, có ý nghĩa gì không khi một người làm tổn thương con và con lại muốn ràng buộc mình với họ? Nếu con không phải là người thích thú đau thương – thày tin phần lớn các con không phải là kiểu người này – thì tại sao con muốn quay lại và mời họ làm tổn thương con lần nữa? Nếu họ làm tổn thương con, thì đáp trả hợp lý là con đơn giản muốn giải thoát mình khỏi người đó và không bao giờ muốn gặp lại họ. Nếu con đi vào chu trình bị tổn thương và muốn người kia bị trừng phạt, thì con đã trói mình với họ. 

Mong muốn trừng phạt người khác có nghĩa là con chỉ sẵn sàng buông bỏ khi con thấy họ bị trừng phạt. Con tự động trói mình với họ cho đến khi con cảm thấy họ nhận đủ sự trừng phạt, và việc này có thể không xảy ra trong kiếp này hay thậm chí nhiều kiếp nữa. Điều này cũng giống như cách những người Trung đông đã tạo nên dây trói lẫn nhau để rồi các linh hồn này cứ tiếp tục đầu thai hết kiếp này sang kiếp khác. Thày đã nói với con trước đây là tôn giáo hay chủng tộc vỏ ngoài không quan trọng, vì người ta sẽ chuyển đổi vị trí để nhiều người kiếp trước là người Đức đã từng gây ra cuộc diệt chủng người Do thái hoặc kiếp trước là người Ả rập đã ngược đãi người Do thái thì kiếp này đầu thai làm người Do thái. Nhiều người Ả rập bây giờ có tiền kiếp là người Do thái. 

Những người này đã không sẵn lòng tha thứ vô điều kiện vì vậy họ đã khiến chính mình cứ lặp đi lặp lại chu trình này. Quả thật có một tâm thức rộng khắp trong thế giới Ả rập tin rằng họ không thể tha thứ người Do thái. Có một tâm thức trong cộng đồng người Do thái tin rằng họ không thể tha thứ người Ả rập hay người Đức hay các tín đồ Cơ đốc giáo. Khi một người sinh trưởng trong một nền văn hoá nào đó, người này gặp phải một thách thức phải vượt lên trên tin tưởng văn hoá của họ và phải tha thứ vô điều kiện, tha thứ bất kể tin tưởng văn hoá nào. Họ phải nhận ra mình hơn cái tin tưởng văn hoá đó, hơn chủng tộc đó, hơn tôn giáo đó, hơn các liên kết chính trị, hơn các liên kết quốc gia hay hơn bất cứ nhãn hiệu vỏ ngoài nào. Khi con tha thứ bất chấp các nhãn hiệu vỏ ngoài, con cũng giải phóng mình khỏi các nhãn hiệu này. Đó là cách con nâng cao và thăng vượt chính mình để lại hoà vào Dòng sông sự Sống, nhờ đó con trải nghiệm niềm vui vô bờ bến của sự tự thăng vượt liên tục. 

15.14. Dụng cụ Mẹ Mary trao để con vượt qua quá khứ 

Con yêu dấu, thày có thể tiếp tục bài giảng này bất tận bằng cách cho thêm nhiều ví dụ cho thấy con người đã làm tổn thương chính họ như thế nào bằng việc không tha thứ. Nhưng nếu những gì thày nói vẫn chưa đủ để khiến con suy nghĩ đến việc nhìn lại quá khứ theo một cách nhìn khác thì thày nói thêm nữa để làm gì? 

Thày sẽ quay lại phần mở đầu và nói: “Bài giảng này là một cú điện thoại từ Mẹ Vũ trụ. Con hãy nhấc điện thoại lên để nghe thông điệp của Mẹ!”. Nếu con cảm thấy con chưa hiểu đầy đủ thông điệp của thày bằng cách đọc và nghe một lần thì thày muốn con nghe lại lần nữa. Thày sẵn lòng lặp lại thông điệp nhiều lần cho đến khi con hiểu ý thày. 

Con hãy thử làm chuyện gì khác thường. Hãy yêu cầu thày hướng dẫn nội tâm cho con. Hãy yêu cầu thày cho con thấy thông điệp đằng sau những tình huống bên ngoài mà con gặp phải. Hãy yêu cầu thày và thày sẽ chỉ cho con – nếu con chịu nhấc điện thoại lên và lắng nghe. Thày chúc con được an lành và thày chúc con một mùa Giáng sinh hạnh phúc. 

Con yêu dấu, Tinh thần Giáng sinh phải chăng chính là Tinh thần Tha Thứ, là Tánh linh đã thức tỉnh con người để họ có thể tái sinh, để lần nữa khởi đầu cuộc sống mới, khởi đầu một ngày mới? Cuộc đời của Ki-tô, sự giáng sinh của Ki-tô phải chăng là một cú điện thoại khác của cuộc sống tìm cách thức tỉnh loài người là họ có thể vượt lên quá khứ và vươn lên một ngày mới trong vương quốc của Thượng đế? Thầy niêm con trong Ngọn lửa Tha thứ Vô điều kiện. Khi con tha thứ vô điều kiện, niềm vui sẽ đong đầy. 

41 | Con có tỉnh thức?

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama ngày 20/10/2006 qua trung gian Kim Michaels.

Phật TA LÀ. Gautama là tên của thày khi thày bước chân trên địa cầu. Và mặc dù thày vẫn mang tên đó, thày có một cái tên cao hơn mà một ngày thày sẽ tiết lộ cho con khi con sẵn sàng tiếp nhận được do con đã đạt tới sự hòa nhập cao hơn với tên gọi bên trong của con, với bản thể cao hơn mà con là.

Con yêu dấu, sau khi thày nhập Niết bàn và trở lại vũ trụ vật chất để giảng dạy, thày có gặp ba người đàn ông sửng sốt trước ánh hào quang an bình của thày. Họ sửng sốt trước Ngọn lửa Thượng đế tỏa sáng xuyên qua hình tướng vỏ ngoài của thày. Và họ hỏi thày là gì. Liệu thày có phải là một vị thần, một thiên thần, và một số câu hỏi khác nữa. Trong số các con có ai biết câu trả lời của thày hay không? Thày đã nói gì khi họ hỏi “Ông là gì?” [Cử tọa trả lời: “Ta là tỉnh thức!”] Đúng vậy, thày chỉ đơn giản trả lời: “TA LÀ tỉnh thức!” Vậy thì con yêu dấu, các thày, các chân sư thăng thiên, muốn thấy điều gì nơi học trò của mình còn đang đầu thai? [Cử tọa trả lời: “Muốn chúng con là tỉnh thức!”]  

Đúng vậy. Các thày muốn các con tỉnh thức như các thày đã trở nên tỉnh thức. Cho dù các thày đã đạt được nhận biết này sau khi thăng thiên hay trong khi còn hiện thân ở cõi vật lý, con có tiềm năng trở nên tỉnh thức ngay khi con còn ở trên trái đất. Và do đó con có khả năng thoát khỏi trạng thái ảo tưởng, trạng thái mộng du đi qua cuộc đời khi con có cảm tưởng cuộc sống là một chiếc máy chạy bộ và con cứ chạy tới và chạy tới nữa mà chẳng có vẻ tới đâu. Và cuộc sống dường như không có mục đích, không có phương hướng hay ý nghĩa gì sâu hơn. Con hãy nhìn nhân loại và tự hỏi: “Có bao nhiêu người trên hành tinh này đang tỉnh thức cho dù chỉ một chút, để ý thức được họ là nhiều hơn những gì họ đang kinh qua trong đời sống hàng ngày?” Chính nhờ nhận biết này mà họ có thể thưởng thức cuộc sống sâu sắc hơn.   

Khi con tỉnh thức, có cái ngộ cốt yếu con là nhiều hơn những biểu hiện vỏ ngoài đó. Con là nhiều hơn hoàn cảnh vỏ ngoài của con. Con là nhiều hơn cơ thể vật lý của con. Con là nhiều hơn lý trí thấp, nhiều hơn nhân cách vỏ ngoài đã bị thế gian nhào nặn. Con là nhiều hơn thế. Và điều gì xảy ra khi con biết mình là nhiều hơn? Phải, con không hoàn toàn đồng hóa với thế gian này nữa, với con người thế phàm, với nhân cách vỏ ngoài, thậm chí với cả tự ngã. Và khi con không hoàn toàn đồng hóa với nó nữa, tâm con sẽ không còn bị kẹt trong cái hộp tư duy mà tự ngã đã dựng lên. Và như vậy, ít nhất là đôi khi, con có thể bước ra ngoài hộp tư duy đó và nhìn cuộc đời với một tầm nhìn rộng lớn hơn. Con có thể nhìn toàn bộ bức tranh. Con có thể thấy toàn bộ khu rừng thay vì cứ đập đầu vào một gốc cây.

41.1. Chìa khóa của tự do không phải là thăng thiên

Và đó tất nhiên là chìa khóa của tự do. Chìa khoá của tự do không phải là con vĩnh viễn bỏ lại thân xác vật lý này trong tiến trình thăng thiên. Con yêu dấu, con có đang tỉnh thức? Con có nghe điều thày vừa nói không? Chìa khóa của tự do không phải là con bỏ lại vũ trụ vật chất trong tiến trình thăng thiên. Có vẻ như thày đang nói ngược lại giáo lý trước đây của các chân sư thăng thiên vốn chú trọng việc thăng thiên như là mục đích của cuộc sống. Vậy tại sao bây giờ thày lại nói rằng thăng thiên không phải là chìa khóa của tự do? Bởi vì con không thể thăng thiên nếu con không tỉnh thức.  

Trở nên tỉnh thức không phải là một tiến trình máy móc có thể đạt được qua một số quy luật, tín điều hay nghi lễ vỏ ngoài. Đó là một tiến trình sáng tạo chỉ có thể đạt được qua một sự tỉnh thức đã thể nhập, và do đó nó dẫn đến quyết định SỐNG tối hậu – một quyết định không do con chế tạo, không phải do ý chí mà có, mà một quyết định tự phát từ bên trong vì một ngày kia con quyết định là mình sẵn lòng tỉnh thức. Con sẵn lòng vượt ra khỏi trạng thái tâm thức mà con đã cư ngụ cho tới giờ. Con sẵn lòng vươn tới trạng thái nhận biết cao hơn khi một phần chú ý của con, một phần bản thể của con, một phần ý niệm bản sắc của con, luôn luôn đứng ngoài tình huống hiện thời, luôn luôn nhìn về toàn cảnh từ một tầm nhìn rộng hơn. Và do đó, con không bao giờ hoàn toàn nhìn cuộc sống từ bên trong hộp tư duy của tự ngã.

Sự nhận biết này sẽ không đến với con một cách tự động. Không phải là cứ ngồi thiền từng nấy tíếng đồng hồ mỗi ngày suốt từng nấy năm trời. Không phải là vấn đề tuân thủ bất cứ lễ nghi nào. Nói cho cùng, nhận biết này phải đến từ bên trong. Nhưng đây là một nhận biết có thể được trau dồi do con luôn sẵn lòng nhìn vượt khỏi tình huống trước mắt, luôn nhìn vượt khỏi hộp tư duy hiện thời của tự ngã, hầu con không đồng hóa hoàn toàn với cái hộp đó và bị mắc kẹt trong đó.

Sự nhận biết rằng mình hoàn toàn tỉnh thức là điều mà các thày mong muốn nhìn thấy nơi tất cả các con. Lý do là vì các thày đã trở nên tỉnh thức, các thày đã được tự do, và các thày cũng muốn tất cả các con đạt được cùng tự do này, cùng niềm vui, cùng trạng thái an lạc này. Đây là “an lạc vượt khỏi mọi hiểu biết,” vượt khỏi mọi điều kiện vỏ ngoài. Bởi vì nó không tùy thuộc vào bất cứ điều kiện nào trong thế gian. Bởi vì con nhận ra chìa khóa của an lạc là sự kết nối với nguồn cội của an lạc. Và nguồn cội của an lạc không thể tìm thấy trong thế giới vật chất, mà chỉ tìm được trong chính bản thể cao hơn của con mà từ đó ngọn suối của chính sự sống tuôn chảy vào con.

41.2. Niết bàn không phải là tịch diệt

Con yêu dấu, con đã không được sinh tạo hoàn toàn không có mục đích. Cuộc sống không phải là cái máy chạy bộ không dẫn tới đâu. Thày biết rất rõ là một số người theo thày – hay tự nhận là Phật tử – đã tạo ra một thế giới quan mà họ bảo là dựa trên lời dạy của thày, một thế giới quan cho rằng cuộc sống chỉ là một tiến trình sinh ra, nâng cao tâm thức tới mức của Phật, rồi nhập lại, tan biến trở lại vào Niết bàn nơi mình tịch diệt. À, đây là hư cấu của trí tưởng tượng con người, vì Niết bàn không phải là tịch diệt. Đó là một trạng thái sống cao hơn mà hầu hết mọi người trên trái đất không thể thấu rõ, cho nên đối với họ, nhập Niết bàn có vẻ như là tiêu tan, biến mất. Nhưng người nhập Niết bàn chỉ biến mất khỏi tầm mắt của những ai không tỉnh thức, những ai chưa vượt lên khỏi nhị nguyên mà thôi.

Con thấy đó, các giáo lý mà Mẹ Mary và Giê-su đã trao truyền về tự ngã và tâm thức nhị nguyên quả là giáo lý cốt yếu cho Thời đại Bảo bình. Bởi vì loài người đã sẵn sàng nhận ra sự hiện hữu của tự ngã, sẵn sàng hiểu ra bản chất của nhị nguyên – nếu được chỉ dạy nghiêm túc – cũng như cách nhị nguyên ảnh hưởng tư duy của con như thế nào, cách nó khiến con bị đui mù trước thực tại, cách nó trói chặt con vào cái máy chạy bộ khiến con phải không ngừng giao chiến với một thế lực đối nghịch, không bao giờ đạt được mục đích của mình, không bao giờ có thể đột phá và đến được nơi mình muốn đến trong cuộc sống.

Và lý do là vì con đã bị tự ngã và ông hoàng của thế gian lừa gạt, khiến con tin rằng an lạc của con, hạnh phúc của con nằm trong thế gian này. Và như vậy, con được dạy bảo là con phải đeo đuổi hạnh phúc đó và tìm nó trong thế gian. Bởi vì để đạt được hạnh phúc – họ bảo vậy – con phải khắc phục cái thế lực đối nghịch kia, và con đâm đầu vào giao chiến với nó, giao chiến với đối cực nhị nguyên ngược lại. Cuộc chiến này có thể kéo dài mãi mãi cho đến khi con hết thời hạn.

Bởi vì khi con tham gia trận chiến đó, quả thực con đang tạo ra kẻ đối đầu với con. Con tự phân cực mình ra để trở thành một trong hai đối cực nhị nguyên, con bị mất cân bằng, và con đánh mất trung đạo. Trong thế mất cân bằng này, con tạo ra lực chống chọi mỗi cố gắng của con. Vì con phóng chiếu ra một cái nhìn mất cân bằng vào tấm gương vũ trụ, nên tấm gương này không làm gì khác được là phóng chiếu trở lại cho con một tình huống vật chất cũng mất cân bằng như thế.

Cho nên tỉnh thức có nghĩa là con nhận ra cách vận hành của cuộc vật lộn nhị nguyên. Và con quyết định con sẽ nâng cao nhận biết của mình hầu con ý thức những lực nhị nguyên trong chính bản thể mình, những lực đang phân rẽ mình khỏi chính mình, phân rẽ cái ta thấp chống lại cái ta cao của mình. Và cứ như vậy trong sự phân rẽ này, con tạo ra những tình huống đối chọi lại mục đích của con.

Theo một nghĩa nào đó, đây là một ân huệ, vì đây là một cơ chế an toàn được cài sẵn trong vũ trụ vật chất. Giản dị mục đích của cơ chế này là khi con bị mất cân bằng, khi con đi trệch con đường trung đạo, chính sự mất cân bằng của con tạo ra một lực đối nghịch sẽ kéo con ngược trở về cân bằng. Cho nên con càng đi xa vào một cực đoan – càng cố đẩy để đạt được mục đích mà con đã đặt ra cho mình – thì con sẽ càng tạo thêm lực đối kháng sẽ chống lại nỗ lực của mình, tìm cách kéo con về trung điểm.

41.3. Ảo tưởng nhân đôi

Nhưng tất nhiên, con không nhìn thấy như vậy. Con không nhìn thấy là vũ trụ vật chất đang cống hiến cho con một dịch vụ bằng cách cố gắng tái lập cân bằng cho con. Nhưng không, con cho phép tự ngã bảo con rằng vũ trụ đang chống lại quyền lợi của con – là quyền tự do làm bất cứ gì mình muốn bất chấp vũ trụ vật chất, bất chấp định luật cân bằng. Không những con tạo ra sự mất cân bằng đã tạo ra chống đối, giờ đây con lại chống đối ngay cả sự chống đối mà con đã tạo ra. Và con phóng chiếu ra là con đã không tạo ra nó, mà có một thế lực bên ngoài – có thể là ác quỷ hay là người khác – đã tạo ra nó.

Thế là con phải chiến đấu trên hai mặt. Và từ hai mặt trận này, một mặt trận thứ ba sẽ dấy lên, và từ ba mặt trận đó sẽ dấy lên một mặt trận thứ tư. Chẳng bao lâu con bị bao trùm trong các trận chiến nhị nguyên đủ loại, đến độ con không còn chú ý nào sót lại để lùi về và tự hỏi: “Có cách nào hay hơn chăng? Có chăng một cách trung đạo? Có cách nào bước ra khỏi cái máy chạy bộ cứ khiến minh lao vào những trận chiến nhị nguyên, để mình tìm một con đường vượt lên trên tranh đấu?”

Đó là thông điệp chính qua cuộc đời của thày. Đầu tiên khi lớn lên, thày đã sống một cuộc đời thế tục, vật chất, rồi thày nhảy sang đối cực ngược lại, thày sống trong rừng, hành hạ xác thân vật lý vì thày tưởng cơ thể là kẻ thù và thày phải kỷ luật, kiểm soát nó. Sự thật mà đa số Phật tử chưa hiểu rõ là thày đã thực sự ngộ ra rằng cơ thể lẫn thế giới vật chất không phải là kẻ thù của sự phát triển tâm linh. Thày thấy được kẻ thù, và đó chính là thày, là cái ta thấp của thày, là tự ngã, là các dính mắc của thày. Đó là những kỳ vọng của thày rằng cuộc sống phải thế này hay thế khác.

Cho nên điều các thày thực sự muốn thấy nơi học trò của mình trong thời đại hôm nay là các con nhận ra điều đó, các con vượt lên trên cuộc vật lộn nhị nguyên ở ngay bản thân mình. Nhưng các thày không chỉ muốn điều này cho riêng con được lợi ích, không chỉ riêng con được an lạc hay giải thoát, mà vì trong thời đại hôm nay các thày cần có những người sẵn lòng chứng tỏ con đường tâm linh cho người khác được thấy.

Vậy làm thế nào chứng tỏ con đường tâm linh cho người khác? Cách cao nhất không phải là thuyết giảng hay truyền giáo qua những loại giáo lý trí thức vỏ ngoài. Không, cách cao nhất là con hãy là con người mà con là, con hãy tỉnh thức hầu con có thể tỏa rạng ánh sáng mà con là. Điều này không có nghĩa là con cần giữ im lặng, bởi vì thật sự chính thày đây cũng đã giảng dạy. Thày không chỉ đứng nói “TA LÀ tỉnh thức” rồi mặc kệ đó. Nhưng thuở xưa khi thày giảng dạy, thày đã không trình bày theo cách giáo lý được trình bày ngày nay 2500 năm sau, tức là những lời dạy đã được ghi xuống, được dịch tới dịch lui, được phiên âm qua phiên âm lại, và như vậy đã phần nào bị pha loãng, giống như bất kỳ giáo lý nào phải đi qua tâm trí của rất nhiều người vẫn còn vô minh.

41.4. Truyền rải Lời Hằng sống

Không, điều thày truyền rải là Lời Hằng sống được phú cho Ngọn lửa của Thượng đế, được phú cho Bản thể Nội tâm của thày. Thày mong muốn tất cả các con có thể truyền rải Lời Hằng sống này. Và thày không muốn nói là con phải đứng đó trước mặt nhiều người, đọc lên bài truyền đọc của các chân sư. Thày muốn nói là khi con nói chuyện với người khác, dù qua một bài giảng hay một cuộc đối thoại thân mật, con hãy nói ra một cách tự do từ Bản thể Nội tâm của mình. Con hãy để cho ánh sáng của mình tuôn ra, hầu lời nói không phải là chủ yếu, mà lời nói chỉ đơn giản là chén thánh chứa đựng ánh sáng.

Lời nói chuyên chở ánh sáng, đi vào trường năng lượng của người kia, nâng họ lên và chuyển hóa họ. Và đột nhiên họ ngộ ra là có một trạng thái tâm thức khác hơn là tâm thức mộng du xuyên qua cuộc sống, vì họ thấy được trong con một cái gì nhiều hơn. Họ thấy là con tỉnh thức, con hào hứng, con hăng hái, con là con người mà con là, con an bình. Họ cảm thấy được sự an lạc nơi con và họ nói: “Tôi cũng muốn như vậy!” Và con có thể nói với họ: “Bạn cũng có thể có được như vậy. Và nếu bạn cho phép tôi gợi ý, đây là con đường tôi đã đi theo. Con đường của bạn sẽ khác con đường của tôi, nhưng ít ra bạn có một khởi điểm.”

Tất cả các con sẵn lòng học hỏi và thể nhập những giáo lý này đều có tiềm năng đạt đến trạng thái đó, trạng thái tỏa rạng ánh sáng nội tâm, làm gương cho con đường tâm linh, con đường tự thăng vượt, con đường trở nên hơn nữa. Thật sự các chân sư thăng thiên có khả năng nâng cao độ rung của một lực trường, và đó là một trong những lý do các thày đã ban ra những bài truyền đọc là sự biểu lộ của Lời Hằng sống. Nhưng chính con cũng có thể làm được. Chính con cững có thể là cánh cửa mở để nâng cao rung động, gia tốc mọi người, nâng cao tâm thức của họ, hầu họ nhận ra sự sống thực sự là nhiều hơn thế. Và họ nghĩ, nếu anh ấy, nếu chị ấy đã tìm được thì có thể tôi cũng sẽ tìm được.

Vì như các thày có nói trước đây, Giê-su, Gautama, Krishna, Maitreya, Mẹ Mary, Saint Germain, El Morya, các thày không phải là tấm gương tốt nhất cho mọi người đâu, bởi vì họ đã đặt các thày lên bệ cao rồi và họ nghĩ các thày vượt ngoài phạm vi bình thường của con người. Cho nên họ không nghĩ là họ có thể noi theo gương các thày. Vì vậy mà các thày cần đến các con để chứng tỏ con đường tâm linh, hầu họ có thể tự nhận diện qua con, họ thức tỉnh, họ nhận được cảm hứng từ con, và họ được nâng lên chỉ do sự hiện diện của con. Bởi vì đây chính là hiện diện, là Hiện diện TA LÀ. Hiện diện nâng lên, thăng hoa, gia tốc, sinh sôi, để vốn liếng tâm linh của họ được nhân lên và họ trở nên hơn nữa.

Vì vậy con yêu dấu, các chân sư rất cần con làm đối tác cho các thày trong cõi vật chất, làm ngọn lửa tâm linh sinh đôi của các thày, làm cánh cửa mở ở dưới này cho ánh sáng lớn hơn của các thày có thể chiếu xuyên qua. Ánh sáng sẽ nâng cao những ai chưa nhìn ra một cách sống khác hơn là cuộc mộng du qua nguyên một kiếp mà không bao giờ được nếm một giây phút tỉnh thức để thực sự thưởng thức cuộc đời.

41.5. Khắc phục trọng tâm vào chính mình

Tuy nhiên như Mẹ Mary có nói, hầu đạt được trạng thái này, con phải vượt qua sự tập trung vào ngã, cái ngã nhỏ nhoi, cái ngã hẹp hòi, cái ngã đựng trong hộp. Con phải trau dồi một tình yêu lớn hơn. Con phải tìm ra tình yêu lớn nhất của con, tình yêu đã là lý do con đến đây vào thuở ban đầu – là món quà mà con đã muốn trao tặng trái đất. Đó là món quà mà con thật muốn tỏ lộ, và mong muốn của con mãnh liệt – tình yêu đối với món quà này mãnh liệt – đến độ con sẵn lòng đến đây để biểu lộ món quà đó.

Nếu con muốn tỉnh thức, con phải nối kết lại với tình yêu lớn đó và để cho nó lớn thêm, hầu nó trở thành một thỏi nam châm sẽ hút con ra khỏi trạng thái khổ nhọc, mộng du bình thường của con. Và con tỉnh thức bởi vì con yêu mến tỉnh thức, con yêu mến cảm giác có dòng ánh sáng tuôn chảy qua con. Con yêu mến sự hưng phấn nơi người khác khi họ được ánh sáng nâng lên. Con yêu mến cảm giác mình là một phần của các chân sư thăng thiên cũng như nỗ lực nâng cao tâm thức loài người của các thày.

41.6. Cái bẫy của tự ngã biến đường tu thành cuộc chiến

Tất nhiên có nhiều cái bẫy mà tự ngã đã chế tạo để ngăn con nối kết lại với tình yêu lớn của con. Một trong những cái bẫy thuộc loại tinh vi là đặt ra một kỳ vọng thiếu thực tế về con đường tâm linh phải như thế nào, để khiến con đeo đuổi đường tu một cách mất cân bằng, và như thày đã giảng, con tạo ra chính thế lực sẽ chống lại con. Đường tu của con thay vì trở thành một tiến trình càng ngày càng tự do giải thoát, thì nó biến thành một cuộc vật lộn liên tục càng ngày càng gian nan, cho tới khi rốt cuộc con vỡ tan trước áp lực, con đầu hàng và nói: “Tôi sẽ không bao giờ muốn dính dáng tới chuyện này nữa.”

Nếu con thành thật, con sẽ thấy rất nhiều người tâm linh đã trải qua quá trình này – họ bị nỗi căng thẳng bẻ gẫy và họ bỏ cuộc trên đường tu. Hay là họ quyết định đó là mức họ cảm thấy thoải mái, là mức họ muốn ở lại để phục vụ và không muốn lên cao hơn. Một số những người này có một câu nói mà con sẽ nghe thấy rất thường nếu con lắng nghe. Và câu đó là: “Tôi không cần thêm một sứ giả, tôi không cần thêm một đạo sư, tôi không cần thêm một tổ chức tâm linh nào nữa, tôi không muốn nếm mùi chuyện này một lần nữa.”

Con yêu dấu, các chân sư thăng thiên hoàn toàn đồng ý với cảm nhận “không bao giờ nữa” vì các thày không muốn bất cứ ai phải lặp lại chu kỳ biến con đường tâm linh thành một chiến trường như thế. Các thày không muốn thấy bất cứ ai lặp lại sai lầm của mình. Nhưng thày phải nói cho con, đằng sau câu “Tôi không cần thêm một sứ giả, đạo sư, tổ chức hay giáo lý nào nữa”, đằng sau câu đó là điều Mẹ Mary lẫn chính thày đã đề cập, đó là tính vị kỷ, đặt trọng tâm vào bản thân mình.  

Con hãy nghe câu nói: “Tôi không cần”. Tất cả xoay quanh chữ “tôi”. Tất cả là về cái “tôi”. Vì những người này đã trở thành vị kỷ. Và như vậy, mục đích con đường tâm linh của họ, của sự tham gia vào một phong trào tâm linh, không phải để vượt khỏi sự vị kỷ và phụng sự mọi sự sống. Không, mục đích của họ là tôn vinh cái tôi thấp kém, bào chữa cho cái tôi thấp kém, và đạt được gì đó sẽ khiến họ có vẻ cao quý hơn người khác bởi vì họ đã làm tất cả những thứ tâm linh kia rồi.

Nếu con sẵn lòng thành thật, con sẽ thấy tính vị kỷ là kẻ thù thực sự của sự tăng triển tâm linh. Nhưng vẫn không bảo đảm là bằng cách đi theo một giáo lý tâm linh vỏ ngoài – ngay cả một giáo lý chân truyền của chân sư thăng thiên – không có gì bảo đảm là giáo lý vỏ ngoài này sẽ đưa con vượt khỏi tính vị kỷ. Bởi vì điều duy nhất sẽ đưa con vượt khỏi là quyết định con sẽ sẵn lòng vượt lên trên nó, con sẵn lòng tỉnh thức.

41.7. Con có quyền LÀ trên địa cầu

Chắc chắn con sẽ bị một số người chối bỏ. Chắc chắn con sẽ bị người khác lên án. Chắc chắn người ta sẽ bảo là con không được phép làm vậy, con không được phép thương yêu và nhân từ, không được phép bình an, không được phép hạnh phúc, không được phép an lạc. “Ơ kìa, bạn nghĩ bạn là gì trong thế giới này nơi mọi chuyện đều nghiêm trọng và ai ai cũng phải vật lộn không ngừng, mà bạn lại tới đây, tỏa rạng sự an bình đó và tình thương đó và ánh sáng đó? Bạn đang quấy rầy những người đã đồng hóa với cuộc vật lộn nhị nguyên đến độ họ tin là không có cách sống nào khác.” Và như vậy con đã đến và tỏa ra tình yêu này, và họ nhận ra là quả thực họ có một chọn lựa khác, nhưng để có được tình yêu này, họ sẽ phải bỏ hộp tư duy của họ.

Và họ sẽ oán con. Nhưng con yêu dấu, đó là một phần của thử thách. Chính vì con đã để cho người khác khiến con ngừng tỏa rạng ánh sáng mà con đã rời bỏ con đường tự thăng vượt đích thực, con đường trở nên hơn nữa. Và như vậy nhiều các con, những người tâm linh, đang phải đối mặt với cuộc điểm đạo này một lần nữa.

Liệu con sẽ để cho người khác – cho dù là gia đình, là đồng môn cũ của con trong cùng tổ chức tâm linh, hay là thế giới nói chung – liệu con sẽ để họ ngăn con tỏa rạng ánh sáng? Hay cuối cùng con sẽ trở thành vầng thái dương và cho phép ánh sáng của mình tỏa rạng bất chấp thế giới có nghĩ gì hay nói gì? Bởi vì rốt cuộc cho dù thế giới có nói gì đi nữa, con có quyền ở trên trái đất này, và trên trái đất con có quyền LÀ tất cả những gì con là ở Trên, con có quyền để cho ánh sáng chiếu rọi, có quyền làm chứng cho sự thật của con.

Con có nghe thày nói không? Con có quyền LÀ Ki-tô, LÀ Phật, LÀ Ngọn lửa Thượng đế của con. Con có quyền tuyệt đối mà Thượng đế đã ban cho con. Và những ai chống đối con và không muốn con quấy rầy họ, thì họ không có quyền xưng như vậy vì họ đã vi phạm quyền tự quyết của họ và đang tìm cách lôi kéo người khác cũng vi phạm như họ.

Quyền tự quyết không cho họ quyền tiêu diệt người khác. Đây chính là điều mà những kẻ bị kẹt trong tâm thức sa ngã sẽ không nhận ra. Họ tuyệt đối không có quyền giết hại những người làm chứng cho ánh sáng. Họ không có quyền giết hại về mặt tình cảm để khiến những người đó phải tắt ngọn đèn của mình đi, hay cảm thấy tủi hổ đến độ không dám tỏ lộ điều gì vượt ngoài những chuyện tầm thường.    

Con thấy đó, con có quyền LÀ ở đây. Con có quyền khuấy động người khác. Và họ có quyền bị khuấy động để họ bắt buộc phải đối mặt với chọn lựa này: Là hay không Là. Và cho dù họ có phủ nhận chuyện đó – phủ nhận mình Là, cái Là mà họ thấy nơi con – thì kết quả vẫn sẽ đạt được, và một tiến trình vẫn sẽ khởi sự trong cái Là của họ. Và thày phải nói với con, trong nhiều trường hợp khi một dòng sống gặp được một người có ánh sáng tâm linh rồi phủ nhận ánh sáng đó, thì cho tới nhiều kiếp sau họ sẽ không quên được trải nghiệm này. Và trải nghiệm này sẽ quay trở lại, ám ảnh họ cho tới ngày họ sẵn sàng nhìn vào lý do tại sao họ đã giận dữ đến thế. Và quả thực một khi họ nhìn vào, nhiều người đã có thể vươn lên cao hơn và khởi sự bước chân trên con đường tâm linh. Tất cả chỉ vì trong một quá khứ xa hay gần, họ đã gặp được một người cả gan tỏ lộ ánh sáng.

41.8. Con không thể mất gì khi chia sẻ ánh sáng

Con đang gieo hạt giống đó. Có khi hạt giống này phải nằm dưới đất rất lâu trước khi nảy mầm, và có những hạt giống sẽ rơi trên đất cằn, không bao giờ được dịp nảy mầm. Nhưng thày nói với con, khi con để cho ánh sáng của con tỏa rạng thì không có cuộc gặp gỡ nào là vô ích đâu con. Bởi vì ít nhất, dù phản ứng người kia là gì, một khi con biểu lộ ánh sáng với tình thương không dính mắc thì con cũng đã khép lại hình số 8 thành một dòng chảy toàn vẹn. Và ánh sáng của con sẽ được nhân lên, và con sẽ nhận được thêm ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của con khiến cho mặt trời trong tim con càng rực rỡ hơn nữa.

Khi con Là cái con là, khi con biểu lộ ánh sáng mà không dính mắc, không áp đặt bất cứ lý luận trí thức nào hay quy tắc hay hạn chế nào, thì con không bao giờ có thể vứt ánh sáng của mình cho heo ăn. Con không bao giờ có thể phí phạm ánh sáng đó. Bởi vì ánh sáng được trao ra với tình thương thuần khiết không thể trở ngược về con với một rung động thấp hơn, dù cho người kia có làm gì, dù họ có làm tha hóa một phần ánh sáng mà con cho họ. Đó là chọn lựa của họ. Đó là nghiệp của họ. Nếu ý định của con trong sáng, con sẽ không tạo nghiệp tiêu cực. Con sẽ tạo nghiệp tích cực và ánh sáng của con sẽ nhân lên gấp bội. Bởi vì quả thực, Thượng đế không phải là một ông chủ bất công, Thượng đế sẽ không trừng phạt con khi con làm việc tốt và những việc tốt lành này được thực hiện một cách vị tha, không dính mắc.

Rồi một ngày con sẽ đạt đến một trạng thái tự do, sẵn lòng là con người mà con là. Con thăng vượt tầng mức nhị nguyên là tầng mức nơi con có thể lầm lỗi, nơi có những hành vi đúng và những hành vi sai. Thay vào đó, con vươn lên tới mức, một mức cao hơn, nơi cái đúng không còn ngược với cái sai. Và như vậy hành động của con không thể nào lầm lẫn bất kể những gì xảy ra bên ngoài. Hành động chia sẻ ánh sáng của con, để cho ánh sáng tỏa rạng, không thể nào lầm lỗi. Bởi vì con đã “liệng bánh của mình nơi mặt nước,” cho nên nó sẽ không quay trở lại như con số không, mà nó sẽ quay trở lại với con nhiều hơn gấp bội. Nó được nhân lên bởi Hiện diện TA LÀ của con cũng như bởi các chân sư thăng thiên mà con là một nối dài.

41.9. Làm thế nào trở nên tỉnh thức

Con yêu dấu, trở nên tỉnh thức không phải là chuyện tìm ra thuốc tiên hay một công thức bí mật. Đó là một tiến trình, và cốt lõi của tiến trình này là tự quán sát, là sẵn lòng nhìn vào chính mình, nhìn vào cái xà trong mắt mình thay vì chú tâm vào cái giằm, cái hạt bụi trong mắt người khác. Bởi vì khi con sẵn lòng tự quan sát mà không dính mắc, không chỉ cố thấy những gì tự ngã muốn con thấy, thì con đã bắt đầu tách mình ra khỏi tự ngã cùng những ảo tưởng của nó.

Sự tách rời này là chìa khóa cho một nhận biết cao hơn, là nhận biết cao hơn về chính mình, qua đó con nhận ra con là nhiều hơn cái ngã nhỏ nhen đang sống trong cái hộp nhỏ xíu, chỉ chú trọng đến bản thân và cho rằng toàn bộ vũ trụ phải ở đó để phục vụ cho nó. Thay vào đó, con nhìn vượt khỏi ngã và bắt đầu nhìn thoáng thấy cái Ta Cao mà con là. Và điều này sẽ kết nối con lại với tình yêu lớn hơn mà con là, tình yêu mà con đã đến trao cho địa cầu.

Và bỗng nhiên, con bắt đầu ngộ ra là mặc dù cuộc sống có những lúc thăng trầm, nhưng đằng sau dáng vẻ bề ngoài luôn có một thực tại thâm sâu. Trong thực tại thâm sâu này, con thấy cuộc sống trên địa cầu là một cơ hội tuyệt diệu, một món quà tuyệt diệu – một cơ hội tuyệt diệu để biểu đạt chính mình, biểu đạt sự sáng tạo của mình, biểu đạt bản thể nội tâm của mình, và đồng thời nâng cao mọi người khác, tái lập thái cực của cả hành tinh cho phù hợp với viễn quan cao nhất của Thượng đế.

Thỉnh thoảng con hãy dành ra một chút thì giờ bước ra ngoài cuộc sống bận rộn hàng ngày để suy ngẫm về cơ hội tuyệt vời được sống trong một cơ thể vật lý trong vũ trụ vật chất này. Hãy nhìn xa hơn tình cảnh hàng ngày của con. Hãy nhìn xa hơn thử thách của mình. Thày cũng biết đôi khi những khó khăn này rất lớn, hay ít ra chúng có vẻ có chút thực tế. Nhưng thỉnh thoảng con hãy nhìn xa hơn và thấy rằng đằng sau mỗi thử thách là một cơ hội để con tự thăng vượt. Và khi con tìm sự tự thăng vượt, con sẽ không còn nghĩ mình là tác nhân phải giải quyết tất cả mọi vấn đề mà con biết tâm vỏ ngoài không thể nào giải quyết. Thay vào đó, con sẽ trầm mình vào dòng chảy, để cho ánh sáng của Hiện diện TA LÀ chảy xuyên qua con, và ánh sáng này sẽ làm tan biến những vấn đề dường như không có cách nào vượt qua với tâm vỏ ngoài.

Và như vậy khi con dành thời gian để thưởng thức cuộc đời, thì cuộc đời sẽ trở nên dễ thưởng thức hơn cho con. Và cuộc đời sẽ không còn là cuộc vật lộn nhị nguyên nơi con phải liên tục giao chiến với các thế lực chống đối. Đời con sẽ trở thành điều mà tất cả các thày đều muốn chứng kiến nơi con, là một vòng xoắn ốc hướng thượng. Nó cho con càng ngày càng nhiều tự do, cho đến khi cuối cùng con sẽ đột phá và đạt được sự không dính mắc toàn vẹn là chìa khóa đích thực của an bình và cực lạc.

41.10. Tiến trình tiết lộ tuần tự

Thày cũng như tất cả các chân sư còn nhiều điều khác nữa để nói. Vì các thày đang ở trong Dòng sông sự Sống, và trong Dòng sông sự Sống thì sự tự thăng vượt quả là bất tận, vô hạn. Vì vậy giáo lý của các thày cũng không ngừng thăng vượt, không ngừng vượt khỏi mọi cách diễn đạt cũ. Con yêu dấu, con thấy đó, giáo lý vỏ ngoài không quan trọng lắm đâu, mà trái lại dòng ánh sáng chảy xuyên qua giáo lý vỏ ngoài mới quan trọng. Con đừng biến giáo lý vỏ ngoài của các thày thành những hình tượng khô chết mà con cứ phải bám lấy do lòng chung thủy đặt không đúng chỗ – vì con tưởng rằng con phải chung thủy với các thày bằng cách bám chặt vào giáo lý vỏ ngoài mà chính các thày đã thăng vượt.

Làm sao con có thể chung thủy với các thày mà cứ bám vào quá khứ? Cách duy nhất để chung thủy với các thày là bước tới cùng với các thày, là tự thăng vượt, là trở nên hơn nữa khi các thày cũng trở nên hơn nữa. Cho dù qua giáo lý vỏ ngoài hay qua cảm hứng mà con nhận được từ một sứ giả vỏ ngoài, hay hoàn toàn qua một tiến trình nội tâm – tức là con nhận được Lời Hằng sống ngay trong tim mình – thì điều quan trọng là con xuôi chảy.

Các chân sư thăng thiên không thể bị nhét vào bất cứ hộp tư duy nào mà tự ngã con người hay bất cứ ai trong thế gian tạo ra. Các thày chưa bao giờ và sẽ không bao giờ chui vừa những cái hộp đó! Con thử nhìn cuộc đời các thày mà xem. Đạo Phật không phải tự dưng mà xuất hiện. Đạo Phật là nỗ lực của thày nhằm lay chuyển hộp tư duy do Ấn giáo tạo ra vốn giam chặt con người trong một khuôn khổ vỏ ngoài xơ cứng, tước mất quyền tự do Là của họ. Cuộc đời của Giê-su là một nỗ lực nhằm lay chuyển hộp tư duy của đạo Do Thái, lay chuyển người đạo Do Thái ra khỏi những hộp tư duy do chính họ tạo ra dựa theo lời dạy và tấm gương của Abraham lẫn của Moses – mặc dù cả hai vị này đã sẵn lòng vượt khỏi chính hộp tư duy của mình, bỏ lại cái cũ để vươn tới miền đất mới, không phải là một vùng đất vật lý mà là một trạng thái tâm thức.

Có khó lắm không để hiểu rằng tất cả mọi thứ trong một giáo lý tâm linh đều là biểu tượng cho một sự thật cao hơn? Có khó lắm không để nhận ra sự thật này, và từ đó thoát khỏi động lượng, một động lượng ở quy mô hành tinh, cứ chú tâm vào ngôn từ vỏ ngoài thay vì vượt khỏi ngôn từ để chạm được Tánh linh của Sự thật, chạm được Phật Hằng sống, Ki-tô Hằng sống, chứ không phải là Phật chết hay Ki-tô chết đã bị thâu tóm trong ngôn từ, trong các hình ảnh bất di bất dịch?

Con yêu dấu, đó là sự thật cốt lõi mà các thày mong muốn toàn bộ nhân loại hiểu được – ít ra mười phần trăm trên cùng gồm những người tâm linh nhất. Các con cần hiểu là có một thực tại thâm sâu vượt khỏi mọi cách diễn tả vỏ ngoài, có một chân lý tâm linh vượt khỏi mọi cách diễn đạt chân lý. Nếu con muốn thày gợi ý một sứ vụ cho đời con, con hãy chọn sứ vụ này – đem sự thật đó ra ngoài và giúp bất cứ ai con gặp thấy được rằng sự thật là nhiều hơn cách biểu đạt vỏ ngoài. Và cái nhiều hơn này là khi con vươn tới Tánh linh Sự thật, cho đến khi con nhập một với Tánh linh, với cái ta cao hơn của con, và trở thành cánh cửa mở cho Tánh linh chảy xối qua lời nói của con.

Con hãy lấy đó làm mục đích đời mình – trở thành cánh cửa mở cho Tánh linh Sự thật, hay Tánh linh Tình thương, hay Tánh linh Hòa bình, hay Tánh linh Chỉ đạo Thiêng liêng, hay Tánh linh của bất cứ phẩm cách nào của Thượng đế mà tình yêu lớn hơn của con đã phóng con vào vũ trụ vật chất này để mà biểu hiện, để con đem lại món quà sẽ nâng cao mọi người ra khỏi trạng thái không nhận biết – là trạng thái mà Giê-su gọi là chết, tức là chết tâm linh.

Thày cũng biết các con vẫn còn một xác thân vật lý đang bị vấn đề nghiêm trọng với cái ghế ngồi đau lưng, cho nên thày sẽ tự giới hạn và không nói nhiều hơn. Thày chỉ nói giản dị là buổi chiều hôm nay, trên cõi tâm linh không có một sinh thể thăng thiên nào nhìn xuống buổi nói chuyện này mà không cảm thấy một niềm vui to lớn. Bởi vì trong cách phát biểu tự do, cách chia sẻ hòa hợp, các con đã đạt được trạng thái từng có mặt nơi trường bí giáo của Maitreya, là trạng thái kết hợp, là chìa khóa đích thực của học hỏi, của tăng trưởng, của sự vươn cao.

Các thày nhìn xuống buổi họp mặt hôm nay với nỗi hân hoan vui mừng. Và các thày mong đợi những ngày sắp tới. Các thày hy vọng các con sẽ duy trì được Tánh linh này mà nếu con nghĩ sâu hơn, đó chính là tinh thần hồn nhiên của trẻ nhỏ. Nếu tất cả các con có thể trở thành như trẻ nhỏ thì Giê-su sẽ hiện ra và nói chuyện với các con vào ngày chủ nhật này. Bởi vì Giê-su từng nói: “Hãy để con trẻ đến cùng ta, đừng ngăn trở, vì Nước Trời như thế đó.” Vì vậy con hãy sẵn sàng bước vào sự hồn nhiên của trẻ nhỏ, mở tâm ra cho sự thật cao hơn, cho sự chỉ đạo nội tâm sẽ dẫn dắt cuộc đời cá nhân của con, dẫn dắt công việc phụng sự mà cái ta cao của con mong muốn đem lại cho nhân loại xuyên qua con. Vậy thày chào từ giã và chúc các con ngủ ngon!

3 | Hãy giải thoát con khỏi hình ảnh thiếu thốn

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 5/4/2005.

Bây giờ thì chúng ta đã thấy là Thượng đế hoàn toàn có khả năng thiết kế một hành tinh có thể cho con người một cuộc sống dồi dào. Chúng ta cũng đã thấy tình trạng dồi dào này hiện nay không được thể hiện trên trái đất. Chúng ta đã tới được kết luận là cách giải thích hợp lý duy nhất sự kiện mà ta quan sát là có điều gì đó đã xảy ra trong xã hội con người ngăn cản sự thị hiện của ý muốn Thượng đế là cho tất cả các con của ngài được cuộc sống sung túc. Hầu hiểu được điều này, con cần có hiểu biết rộng hơn mình là ai và mục đích con được sinh ra là gì trước khi được gửi tới một hành tinh nhỏ như hạt bụi nằm trong một vũ trụ vô tận. Con là ai và tại sao con có mặt trên trái đất?

3.1. Hai khía cạnh của Thượng đế

Hầu trả lời các câu hỏi này, thày phải vượt lên trên những điều được giảng dạy bởi hai nền tôn giáo ngự trị xã hội Tây phương, là Cơ đốc giáo chính thống và khoa học duy vật. Cả hai hệ thống niềm tin này đều khẳng định họ nắm chân lý tối hậu về sự hiện hữu của Thượng đế và nguồn gốc vũ trụ. Nếu con chọn tin một trong hai lời khẳng định này thì thày không thể dạy con chìa khóa của đời sống dồi dào. Các chìa khóa cốt yếu không thể tìm được trong khuôn khổ của cả hai hệ thống niềm tin này. Con có thể thắc mắc tại sao thế và câu trả lời là nếu Cơ đốc giáo chính thống hay khoa học duy vật có thể cho con người chìa khóa của đời sống dồi dào thì chắc hẳn đời sống dồi dào này đã được thị hiện trên trái đất từ lâu rồi. Chỉ những ai sẵn sàng nhìn quá các hộp tư duy tạo ra bởi hai hệ thống niềm tin này mới tìm thấy những chìa khóa thực giúp con người kế thừa sự dồi dào của vương quốc Đấng Cha.

Để cho con chìa khóa kế tiếp, chúng ta cần bước lùi khỏi hiện trạng trên trái đất. Thật ra, chúng ta cần bước ra ngoài toàn bộ vũ trụ vật chất này. Giê-su nói nhà của Cha ta có nhiều căn, và như thày đã nói trước kia, vũ trụ của Thượng đế  có nhiều chiều kích, nhiều tầng cấp. Đây là điều mà tín đồ các tôn giáo thường gọi là thiên đàng hay cõi tâm linh. Thiên đàng có khá nhiều tầng và vì hiện nay khoa học biết rằng tất cả đều là năng lượng nên chúng ta hiểu được dễ dàng các tầng này khác nhau ra sao. Các khoa học gia biết rằng vũ trụ vật chất không được cấu tạo bằng hai yếu tố vật chất và năng lượng như giác quan của chúng ta bảo chúng ta. Quả thực, vũ trụ vật chất không được tạo ra từ vật chất; nó được tạo ra từ năng lượng vì vật chất giản dị là một dạng năng lượng. Tầm quan trọng của sự kiện này là toàn bộ vũ trụ vật chất được tạo ra từ cùng một chất đã tạo ra cõi tâm linh hay thiên đàng. Các nhà khoa học gọi chất này là năng lượng nhưng Thánh kinh gọi nó là ánh sáng. Kinh Sáng thế Ký (Genesis) nói cho con sự sáng tạo vũ trụ bắt đầu như thế nào. Nó bắt đầu với mệnh lệnh của Thượng đế khi ngài nói: “Ánh sáng hãy có mặt!” (Genesis 1:3). Bởi vì Thượng đế toàn năng nên ánh sáng mặt.

Tại sao Thượng đế bắt đầu tiến trình sáng tạo với sự sáng tạo ánh sáng? Ánh sáng hay năng lượng là một chất không có hình tướng nhưng có tiềm năng khoác vào bất kỳ hình tướng nào. Ngay cả khoa học cũng đồng ý điểm này. Lý thuyết khoa học hiện hành, đặc biệt là phương trình nổi tiếng của Einstein E=mc2 nói rằng vật chất đơn giản là năng lượng đã khoác lên một hình tướng trông thấy được. Năng lượng được xem là một dạng rung động và khoa học đã phát hiện nhiều loại năng lượng có thể đặt trên một thang đo từ tần số thấp lên cao. Ta có thể lý luận dễ dàng rằng các dạng năng lượng thô hơn mang vào hình tướng của vật chất, chúng rung động ở các tần số thấp hơn các năng lượng tinh tế hơn như quang tuyến X (có thể thâm nhập vật chất “rắn đặc”) hay ngay cả năng lượng tinh tế hơn nữa như tư tưởng. Những quan sát khoa học này đưa tới kết luận là vũ trụ được tạo ra từ năng lượng vô hình, tinh tế hơn và cơ bản hơn khi năng lượng này được hạ độ rung cho tới khi nó mang vào hình tướng của năng lượng vật lý và chất vật lý. Hiện nay các khoa học gia chưa giải thích được điều này xảy ra như thế nào nhưng sẽ không bao lâu nữa họ sẽ khám phá một cách giải thích khoa học.

Sự khác biệt giữa thiên đàng và cõi phàm là một sự khác biệt về rung động. Hành tinh trái đất và toàn bộ vũ trụ vật chất được tạo ra từ một chất cơ bản có khả năng mang vào vô hạn hình dạng, hình tướng và đặc tính khác nhau. Năng lượng hay ánh sáng này có thể có nhiều tầng rung động khác nhau nên con có thể thiết lập một thang đo rung động đi từ chậm lên nhanh, từ dày đặc lên tinh khiết hơn. Khi con đi từ rung động thấp lên cao, cuối cùng thì con sẽ tới điểm có một lằn ranh vô hình. Khi con vượt lằn ranh này, con rời vũ trụ vật chất đi vào cõi tâm linh. Khi con tiếp tục đi từ cõi tâm linh thấp lên các tầng rung động cao hơn và cao hơn nữa, con tới những tầng cao hơn của cõi tâm linh. Nếu con đi tiếp tới rung động cao nhất có thể có được trong toàn thế giới hình tướng, con đạt tới ánh sáng tinh khiết của Thượng đế và vượt quá nó là chính đấng Sáng tạo. Đấng Sáng tạo này là một Sinh thể có ý thức đã khởi sự tiến trình sáng tạo mà con là một phần trong đó. Đấng Sáng tạo không phải là khía cạnh duy nhất hay tối hậu của đấng mà con người gọi là Thượng đế. Nếu con thật sự bước lui khỏi thế giới hình tướng – thế giới đã được sáng tạo qua sự nhào nắn ánh sáng thành hình tướng, nhào nắn ánh sáng vô hình tướng thành hình tướng – thì con có thể bắt đầu quán Bản thể thật của Thượng đế. Có những tôn giáo trong thế giới này nói rằng Thượng đế, trong nghĩa tối hậu, không thể biết tới được. Có những tôn giáo mô tả Thượng đế tối hậu như “cái trống không” vì nó không mang hình tướng hay tính chất nào mà ta có thể mô tả bằng bất kỳ hình ảnh hay ngôn từ nào tìm thấy trong vũ trụ này. Con ghi nhận lời răn đầu tiên trong mười điều răn là: “Con không được có thần nào khác trước ta” (Exodus 20:3). Nghĩa thật là con không bao giờ có thể lấy một hình tướng nào đó, một hình tượng khô chết nào đó và xác nhận rằng hình tượng đó tượng trưng trọn vẹn Thượng đế. Theo nghĩa tối hậu, Thượng đế vượt quá thế giới hình tướng do Thượng đế tạo ra – đấng Sáng tạo vượt quá tạo vật của ngài. Như Giê-su đã nói: “Người đầy tớ không lớn hơn Chủ mình” (John 13:16). Con không thể dùng từ ngữ và hình ảnh của thế gian này và phóng chiếu chúng lên Thượng đế tối hậu và tuyên bố rằng giờ đây con đã mô tả Thượng đế một cách chính xác và đầy đủ. Đây là sự thờ phượng thần tượng, và như chúng ta sẽ thấy sau này, đây là một trong những vấn đề lớn ngăn cản không cho đời sống dồi dào được thị hiện trên trái đất. Nhưng mở rộng tâm và chiêm nghiệm Bản thể của Thượng đế vẫn là điều quan trọng.

Điều chúng ta có thể nói dựa trên những bàn luận trước, là Thượng đế phải có hai khía cạnh. Trong nghĩa tối hậu Thượng đế là tất cả những gì là: “Không có Ngài, chẳng vật chi được tạo ra mà đã được tạo ra” (John 1:3), nghĩa là trước khi bất cứ gì được tạo ra, chỉ có Thượng đế hiện hữu. Thượng đế này phải là một Sinh thể viên mãn và tự đủ. Thượng đế không có nhu cầu sáng tạo một vũ trụ. Nếu Thượng đế là cái Tất cả, tại sao Thượng đế cần sáng tạo một vũ trụ trong đó có những sinh thể có ý thức có thể biết được sự hiện hữu của Thượng đế? Thượng đế theo nghĩa tối hậu không có nhu cầu được con người biết tới hay thờ phượng, vì Thượng đế là cái Tất cả cho nên ngài viên mãn và hoàn toàn tự đủ. Vì sự kiện giản dị là con hiện hữu và sống trong thế giới có hình tướng – và do đó khác với cái Tất cả trong đó không có hình tướng – chúng ta có thể thấy Thượng đế tối hậu, tự đầy đủ và vô hình tướng không thể là khía cạnh duy nhất của Thượng đế. Phải có một khía cạnh khác mà thày gọi là đấng Sáng tạo. Đây là khía cạnh của Thượng đế muốn sáng tạo, muốn là nhiều hơn cái trống không vô hình tướng. Đây là khía cạnh của Thượng đế đã sáng tạo vũ trụ mà con đang sống trong đó.

3.2. Con có khả năng sáng tạo đời sống dồi dào

Thượng đế này đã sáng tạo vũ trụ như thế nào? Đấng Sáng tạo sáng tạo mọi thứ từ chính Bản thể của ngài, bởi vì đâu có gì khác ngoài Thượng đế để sáng tạo từ đó. Đấng Sáng tạo khác với Thượng đế vô hình tướng ở điểm Thượng đế vô hình tướng không thay đổi trong khi đấng Sáng tạo tăng triển không ngừng, mở rộng không ngừng, tự thăng vượt không ngừng. Khi Moses hỏi tên Thượng đế, thì câu trả lời là: “YOD HE VAW HE,” thường được dịch ra là: “TA LÀ CÁI TA LÀ (Exodus 3:14). Thật ra, như nhiều nhà học giả về Kinh thánh biết, lời dịch chính xác hơn là: “TA SẼ LÀ CÁI TA SẼ LÀ.” Cách dịch này nắm bắt được sự kiện Thượng đế giữ đúng chính lời răn của ngài. Ngài không thật sự cho Moses một cái tên bởi vì ngài không muốn con người dùng ngay cả một danh xưng để tạo ra một hình ảnh khô chết, một hình ảnh đứng yên về Thượng đế. Thay vào đó, vị Thượng đế trên núi truyền tải sự kiện Thượng đế luôn luôn thay đổi, cho nên Thượng đế sẽ là cái mà ngài sẽ là mỗi lúc. Nếu con muốn biết Thượng đế, thì con không thể bám chặt vào bất kỳ hình ảnh nào, con phải tuôn chảy với sự tự thăng vượt của Thượng đế, con phải nhập vào Dòng sông sự Sống là cái Tất cả của Bản thể của Thượng đế, bao gồm cả thế giới trong đó con sống, nhưng không chỉ giới hạn trong đó.

Trong Bản thể Thuần khiết của Thượng đế, trong Thượng đế vô hình tướng, không có thay đổi. Làm sao có thay đổi trong cái vô hình tướng? Làm sao có sự tiến triển trong cái tự nó đầy đủ trong chính nó? Trong khía cạnh Sáng tạo của Thượng đế, có sự chuyển động không ngừng vì khía cạnh này của Thượng đế hiện hữu với mục đích sáng tạo và trở nên hơn nữa. Đấng Sáng tạo là gì? Là một Sinh thể tự nhận biết có ba khả năng. Khả năng đầu là tự nhận biết, là khả năng biết mình hiện hữu. Khả năng thứ nhì là tưởng tượng, là khả năng tưởng tượng một hình tướng chưa được thị hiện trong bất kỳ vũ trụ nào. Nếu không có khả năng tưởng tượng trong đấng Sáng tạo, làm sao Thượng đế sáng tạo được điều gì mới? Khả năng thứ ba mà đấng Sáng tạo vui hưởng là khả năng chọn lựa. Khi đấng Sáng tạo sáng tạo vũ trụ mà con sống trong đó, ngài phải chọn lựa. Con nhìn thế giới trong đó con đang sống và con coi biết bao nhiêu thứ là đương nhiên. Tại sao bầu trời màu xanh mà không phải một màu nào khác? Tại sao trái đất tròn mà không phải một hình dạng nào khác? Các nhà khoa học của con liên tục khám phá những ví dụ cho thấy vũ trụ được thiết kế thật tinh xảo và tinh tế. Nếu những lực giữ hạt nhân của hạt nguyên tử có cường độ khác đi chút xíu, thì hạt nguyên tử không giữ chặt được và vật chất sẽ không hiện hữu. Nếu trọng lực khác đi chút xíu, các hành tinh và mặt trời sẽ không thể ở trong quỹ đạo của chúng được. Tại sao tất cả mọi thứ như chúng là? Bởi vì khi Thượng đế thiết kế vũ trụ này, đấng Sáng tạo của con đã lấy một số chọn lựa.

Một trong những chọn lựa của đấng Sáng tạo của con là ngài không muốn sáng tạo toàn bộ vũ trụ này một mình. Đấng Sáng tạo của con quyết định sáng tạo những sinh thể tự nhận biết là nối dài của chính ngài và phú cho các sinh thể này quyền năng sáng tạo, là tự nhận biết, tưởng tượng và tự quyết. Đó là lý do tại sao Thánh kinh nói rằng Thượng đế sáng tạo con người theo hình ảnh của ngài và giống ngài. Thượng đế sáng tạo một số sinh thể tự nhận biết và các sinh thể này được thiết kế như là những nối dài của đấng Sáng tạo. Họ được thiết kế để du hành vào thế giới do chính đấng Sáng tạo khởi sự tạo ra và phục vụ như những người đồng-sáng tạo có khả năng xây dựng trên nền tảng do đấng Sáng tạo đặt ra. Ta có thể nói đấng Sáng tạo sáng tạo từ bên ngoài và các sinh thể đồng-sáng tạo sáng tạo từ bên trong. Con có thể lý luận tại sao đấng Sáng tạo làm như vậy và có nhiều lý do chính đáng. Sự thật cơ bản là sự hiện hữu của con chứng minh là đấng Sáng tạo đã lấy chọn lựa đó. Thượng đế đã chọn sáng tạo con như là một sinh thể tự nhận biết. Con có thể biết con hiện hữu, con có trí tưởng tượng cho phép con hỏi những câu hỏi như mình là ai, mình từ đâu tới và tại sao mình ở đây.

Những câu hỏi này chứng minh con không đơn giản là sản phẩm của một trò chơi may rủi hay một tiến trình tiến hóa vô tri. Chính sự kiện con có thể hỏi những câu hỏi này chứng minh con là hậu duệ của một sinh thể có tự nhận biết. Đó là lý do tại sao con có khả năng tưởng tượng điều mà giác quan không cảm nhận được. Con cũng có khả năng hình thành một khái niệm hay một thiết kế trong tâm và sau đó dùng thân vật lý để xây dựng một căn nhà thể hiện toàn hảo tâm ý của con. Con có khả năng chọn lựa thiết kế nhà mình ra sao. Các khả năng này đều không tìm thấy nơi loài thú mặc dù các khoa học gia cho rằng con tiến hóa từ loài thú. Đó là lý do tại sao con có giá trị hơn loài chim và tại sao Thượng đế đã thiết kế một vũ trụ hoàn toàn có khả năng cho con cuộc sống dồi dào chính là ước muốn thật của Thượng đế. Vì Thượng đế đã cho con trí tưởng tượng và ý chí tự do, vì Thượng đế đã thiết kế con là người đồng-sáng tạo với ngài, nên cuộc sống dồi dào giản dị không thể do một nguồn ngoại lai trao cho con được. Con phải dùng trí tưởng tượng và ý chí tự do của con để thị hiện cuộc sống dồi dào trong phạm vi ảnh hưởng của con. Con phải lấy quyết định ngự trị “trái đất”, có nghĩa là chính tâm của con và cõi vật chất.

Thượng đế đã sáng tạo một vũ trụ có thể cho con cuộc sống dồi dào, nhưng ngài đã không sáng tạo một vũ trụ sẽ tự động cho con cuộc sống dồi dào đó. Thượng đế đã không sáng tạo con như một rô bốt vô tri mà là một sinh thể có tự nhận biết với khả năng biết mình là ai, mình từ đâu tới và mình có tiềm năng đi tới đâu. Trong các bài sau thày sẽ giải thích chính xác con có tiềm năng đi tới đâu, nhưng bây giờ chỉ cần nói con có tiềm năng quyết định thị hiện cuộc sống dồi dào hay thị hiện cuộc sống giới hạn, thiếu thốn và đau khổ. Con có khả năng chọn lựa và con có khả năng tưởng tượng, và với hai khả năng này, con sáng tạo trải nghiệm của mình. Con sáng tạo điều mà nhiều người trên trái đất gọi lầm là “thực tại” nhưng nó quả thực chỉ là một ảo ảnh, phóng chiếu lên màn ảnh của cuộc sống bởi tâm con người đã quên tiềm năng sáng tạo thực của họ.

Trước khi con có thể thừa kế vương quốc của Đấng Cha của con, con phải hiểu con thật sự được sáng tạo theo hình ảnh và giống như đấng Sáng tạo của con. Điều này không có nghĩa đấng Sáng tạo có một thân vật lý và trông giống một con người. Điều này không có nghĩa đấng Sáng tạo nói năng giống Charlton Heston. Nó có nghĩa là con được sáng tạo với khả năng tưởng tượng điều chưa được thị hiện và khả năng quyết định tâm ảnh nào sẽ được thị hiện trong cõi vật lý và đấy cũng là những khả năng mà đấng Sáng tạo đã dùng để sáng tạo con và vũ trụ nơi con đang sống.

3.3. Con có thể chọn lựa vượt thăng trạng thái tâm thức đã tạo ra thiếu thốn và khổ đau

Giờ đây chúng ta có thể có một câu trả lời cho câu hỏi chuyện gì đã trục trặc từ phía các con, chuyện gì đã trục trặc trên hành tinh trái đất, đã ngăn cản không thị hiện được ý muốn của Thượng đế muốn cho tất cả một cuộc sống dồi dào. Câu trả lời quá ư giản dị, và mong muốn cao nhất của thày là mọi con người tới được điểm hiểu sự thật này. Câu trả lời là đời sống dồi dào không thị hiện trên trái đất vì hầu hết con người không dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết của họ, chưa dùng khả năng sáng tạo theo tiềm năng cao nhất. Thay vì dùng uy lực sáng tạo để thị hiện một cuộc sống dồi dào và liên tục gia tăng sự dồi dào này, con người đã dùng trí tưởng tượng để tưởng tượng một thế giới với sự dồi dào giới hạn, một thế giới thiếu thốn. Họ đã chọn chấp nhận đây là thực tại duy nhất khả dĩ trên hành tinh trái đất và khi họ chấp nhận nó, họ đã biến nó thành một thực tại tạm bợ, nhưng huyễn ảo. Giờ đây con thấy là vì Thượng đế đã cho con tưởng tượng và quyền tự quyết và vì Thượng đế không giới hạn món quà của ngài, ngài cho phép các con của ngài sáng tạo một thực tại tạm bợ kém xa cuộc sống dồi dào mà ngài đã hình dung trước khi ngài gửi những đứa con này xuống thế giới vật chất. Ta có thể hiểu đây cũng khế hợp với ý chí cao của Thượng đế vì ý chí cao đó là con du hành vào thế giới hình tướng và con gặt hái kinh nghiệm liên quan tới cách dùng các khả năng sáng tạo của con một cách tốt nhất cho con và tốt nhất cho tất cả mọi người trong đó con là một thành phần.

Nếu trong tiến trình học hỏi này con cần phải đau khổ trong một thời gian với trạng thái thiếu thốn và giới hạn thì Thượng đế cho phép điều này xảy ra. Thượng đế không muốn con ở trong trạng thái giới hạn. Thượng đế không muốn con ở trong trạng thái đau khổ trong một thời gian vô hạn định. Thượng đế luôn luôn hy vọng con rốt cuộc sẽ tới điểm quyết định con không còn chấp nhận đau khổ và thiếu thốn như hậu quả không tránh được của cuộc sống trên trái đất. Thượng đế luôn luôn hy vọng là một số người trong nhân loại và rốt cuộc là toàn thể nhân loại sẽ thức tỉnh thấy sự thật là đời sống không nhất định phải khổ đau và có một chọn lựa khác hơn nhà tù. Chọn lựa khác đó là thăng vượt trạng thái tâm thức đã tạo ra những điều kiện hiện hành trên trái đất.

Vượt thăng trạng thái tâm thức giới hạn này chính là điều mà mọi tôn giáo chân chính và mọi giáo lý tâm linh chân chính đều hướng tới. Con nghĩ tại sao Giê-su được gửi xuống trái đất? Chính là để chỉ cho con thấy con không phải bị giới hạn bởi các điều kiện nhân phàm này. Con có thể vượt thăng chúng, con có thể biến nước của tâm thức nhân phàm thành rượu của một trạng thái tâm thức cao hơn qua uy lực của tâm con. Con có thể nhân các ổ bánh và cá lên và do đó gia tăng sự dồi dào vật chất của con qua uy lực của tâm con. Con còn có thể vượt thoát cái chết vật lý và tái sinh trong một trạng thái tâm thức cao hơn, một hình thức sống cao hơn trên một cõi cao hơn.

Câu trả lời giản dị cho câu hỏi chuyện gì đã sai trật, điều gì đã ngăn cản sự dồi dào của Thượng đế thị hiện trên trái đất, đó là con người đã sử dụng sai uy lực sáng tạo của họ. Họ đã đánh mất viễn quan rõ rệt của Thượng đế về cuộc sống dồi dào. Thay vào đó, hầu hết đã tập trung trí tưởng tượng của họ vào một hình ảnh giả dựa trên khái niệm dồi dào của Thượng đế có giới hạn và không có đủ cho tất cả mọi người. Chỉ một số nhỏ có thể sung túc và đa số phải sống nghèo khó. Nhân loại đã bị khuynh loát để dùng quyền tự quyết của họ để chấp nhận hình ảnh giả này và chấp nhận nó không thể tránh được. Đó là lý do tại sao hình ảnh giả đã trở thành một hiện thực tạm bợ mà nhiều người lầm tưởng là một hiện thực trường tồn.

3.4. Vương quốc Thượng đế ở bên trong con

Chìa khóa mà con cần để trải nghiệm cuộc sống dồi dào là nhận chân chính con không cần chấp nhận hình ảnh giả này, thực tại giả này. Con có thể chọn tách mình ra khỏi hình ảnh giả này, con có thể tách mình ra khỏi nó trong tâm thức. Bằng cách thăng vượt trạng thái tâm thức hiện hành của con, con có thể vươn lên và giải thoát trí tưởng tượng và ý chí của con để cuối cùng chấp nhận cuộc sống dồi dào thay vì cuộc sống giới hạn. Chìa khóa cốt yếu để thừa kế vương quốc của Cha con là nhận chân con phải dùng quyền tự quyết của mình để thanh lọc trí tưởng tượng để con có thể sáng tạo cuộc sống dồi dào thay vì tiếp tục sáng tạo một cuộc sống giới hạn và khổ đau. Cha con hoan hỷ cho con vương quốc, nhưng thiết kế của ngài là cho con uy lực sáng tạo để con có thể hoàn thành vương quốc này từ trong tâm con. Nếu con muốn dồi dào đích thực, con phải chiêm nghiệm và thấm nhập câu nói của Giê-su: “Vương quốc Thượng đế ở trong con” (Luke 17:21). Con không thể đi tìm một Thượng đế bên ngoài sẽ cho con vương quốc.

Khi con nhận ra con có khả năng bên trong con để tái tạo kinh nghiệm sống của con trên trái đất, con có khả năng tái tạo mọi khía cạnh của kinh nghiệm sống của con trên trái đất, con đã đi một bước cốt lõi trên con đường trở về vương quốc của Cha con. Thày biết rõ con đã bị lập trình để tin rằng những gì con thấy chung quanh mình là một thực tại không thể tránh và con không có khả năng bên trong con để giải thoát mình khỏi thực tại giả định đó. Giê-su đến với một mục đích duy nhất là để chỉ cho con thấy ảo tưởng đó là lời dối trá và con quả thật có vương quốc Thượng đế bên trong con. Lý do là vì Thượng đế đã thiết kế con theo hình ảnh của ngài và giống ngài. Thượng đế cho con trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Lý do duy nhất khiến con hiện nay trải nghiệm giới hạn, thiếu thốn và khổ đau là vì con và một số đông người trên hành tinh này đã dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết của mình để đồng-sáng tạo giới hạn và khổ đau đó. Khi con bắt đầu giải phóng trí tưởng tượng của con và dùng quyền tự quyết thuận theo các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, con có thể tái tạo lại kinh nghiệm sống của con. Khi đủ người làm chuyện đó, các con có thể tái tạo kinh nghiệm sống tập thể trên hành tinh này. Thật vậy con có thể đồng-sáng tạo một thực tại phản ánh ý muốn thật của Thượng đế cho hành tinh này, một hành tinh có khả năng nuôi dưỡng nhiều tỷ người đều có được cuộc sống dồi dào.

Qua kinh nghiệm sống của con và sự giáo dục con nhận được trên hành tinh này, con đã bị lập trình để nghĩ những giới hạn hiện có trên trái đất là thật và không tránh được. Có thể là một phép lạ nào đó của Thượng đế có thể thay đổi nó, nhưng phép lạ như vậy hiển nhiên sẽ không xảy ra. Con đã bị lập trình để nghĩ con không có uy lực sáng tạo bên trong con để tái tạo kinh nghiệm sống của con và do đó con là nộ lệ của hoàn cảnh bên ngoài vượt quá quyền kiểm soát của con. Đấy là ảo tưởng, đấy là lời dối trá không liên quan gì tới sự thật của Thượng đế. Sự thật là đấng Sáng tạo đã cho con khả năng sáng tạo của chính ngài. Thượng đế đã sáng tạo con theo hình ảnh của ngài và giống ngài để con có uy lực bên trong để tái tạo cuộc sống dồi dào chung quanh con. Như một tập thể, chỉ một số nhỏ người cũng có thể tái tạo cuộc sống dồi dào trên trái đất. Đây là chân lý mà Giê-su muốn đem lại khi tới đây, đây là chân lý mà Phật muốn đem lại khi tới đây, đây là chân lý mà tất cả những vị lãnh đạo tâm linh, tiên tri và đại diện của Thượng đế chân chính muốn đem lại khi tới đây. Khi con nhận ra chân lý này, con có thể bắt đầu bước đi trên con đường có hệ thống, lô gíc dẫn con từng bước một tới điểm con tái tạo cuộc đời mình để nó thẳng hàng với viễn quan dồi dào, với niệm tinh khôi được gìn giữ trong tâm Thượng đế.

Phần còn lại của khóa học này sẽ chú trọng vào việc trao cho con hiểu biết và những bước thực tập thực tiễn mà con cần để giải thoát mình khỏi mọi hình ảnh giả về Thượng đế, mọi hình ảnh giả về chính con và mọi hình giả về vũ trụ nơi con đang sống. Thày sẽ giúp con là sinh thể mà con đã được thiết kế để là. Thày sẽ giúp con vận dụng trí tưởng tượng và quyền tự quyết để có thể đem lại cho con cuộc sống dồi dào mà con muốn và đồng thời cũng đem lại đời sống dồi dào cho mọi sự sống khác trên hành tinh này.

3.5. Thượng đế muốn con thị hiện vương quốc qua chính uy lực sáng tạo của con

Quả thật Đấng Cha vui vẻ muốn cho con vương quốc. Đấng Sáng tạo muốn con cảm thấy con đem lại vương quốc đó qua chính uy lực sáng tạo của con, con thị hiện vương quốc qua khả năng mà Thượng đế trao cho con, khả năng là người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Đây là ý muốn của Thượng đế, đây là lý do tại sao Thượng đế gửi con người xuống trái đất với mệnh lệnh hãy “nhân lên” và “ngự trị” (Genesis 1:28). Ngài muốn con nhân khả năng sáng tạo của con và con dùng tâm mình để ngự trị vũ trụ vật chất, để con có thể đem sự dồi dào của Thượng đế vào vũ trụ vật chất này. Qua việc con ngự trị, tâm làm chủ vật chất, vũ trụ vật chất này có thể trải bày sự toàn hảo của Thượng đế và do đó thật sự trở nên vương quốc của Thượng đế.

Thượng đế có khả năng sáng tạo một hành tinh có cuộc sống dồi dào mãi mãi. Thượng đế không muốn làm vậy bởi vì làm sao con học được điều gì khi sống trong một hành tinh như thế? Con sẽ bị giới hạn thành một sinh thể chỉ biết thích ứng, một con thú, thay vì là một sinh thể đồng-sáng tạo có tự nhận biết. Thượng đế sáng tạo một hành tinh có tiềm năng thị hiện đời sống dồi dào nhưng đời sống dồi dào chưa được hoàn toàn thị hiện vật lý. Sau đó, ngài gửi các con trai và con gái của ngài đi vào thế giới này và họ có tất cả những gì họ cần như khả năng sáng tạo, trí tưởng tượng và quyền tự quyết để ngự trị hành tinh này và mang sự dồi dào của Thượng đế vào thị hiện vật chất. Họ có thể xây dựng thêm trên nền tảng được Thượng đế tạo ra để cho các con trai và con gái của Thượng đế có thể xây dựng vương quốc Thượng đế trên hành tinh trái đất bằng chính những khả năng do Thượng đế trao cho họ.

Đây là kế hoạch nguyên thủy của Thượng đế, đây là mong muốn nguyên thủy của Thượng đế, đây là thiết kế nguyên thủy của Thượng đế. Không có gì thay đổi kế hoạch của Thượng đế, không có gì thay đổi tiềm năng của hành tinh trái đất có thể trải bày sự toàn hảo của Thượng đế. Tạm thời các con trai và con gái của Thượng đế đã chọn dùng khả năng sáng tạo của họ để tạo ra khổ đau và thiếu thốn thay vì dồi dào. Chuyện này xảy ra chỉ vì họ đã rơi vào trạng thái vô minh nên không nhận ra toàn bộ khả năng sáng tạo của họ. Họ không hiểu tầm quan trọng và uy lực của quyền tự quyết của họ. Họ không hiểu cái bao la và tiềm năng của trí tưởng tượng của họ, họ không hiểu là họ không cần phải bị giới hạn bởi các hình ảnh bất toàn mà họ có thể tái tạo lại ngay cả thực tại vật lý qua uy ực của tâm họ.

Thực tại vật lý, tình trạng thiếu thốn mà con trải nghiệm trên hành tinh này không do Thượng đế tạo ra, nó do tâm tức tập thể của nhân loại tạo ra. Nó được tạo ra qua uy lực của tâm, khi con người hình dung một trạng thái thiếu thốn và sau đó dùng uy lực ý chí của mình để chấp nhận tình trạng này là miên viễn và không tránh được. Con yêu dấu, thày xin con so sánh những khái niệm này với một câu nói quan trọng nhất của Giê-su: “Không có đầy tớ nào làm tôi hai chủ được: bởi vì anh sẽ ghét người này và yêu người kia; hoặc anh sẽ gắn bó với một người và khinh chê người kia. Ngươi không thể vừa làm tôi Thượng đế vừa làm tôi Ma môn.” (Luke 16:13). Cách giải thích ý nghĩa tâm linh của câu nói này là “ma môn” tượng trưng cho trạng thái tâm thức nhân phàm, trạng thái chấp nhận thiếu thốn và giới hạn là không tránh được. Điều này khiến cho con người bỏ toàn cuộc đời tích lũy các vật của thế gian – là ma môn – thay vì trực tiếp đem lại sự dồi dào từ kho vô tận của Thượng đế. Giê-su nói là con phải chọn làm tôi người chủ nào, hình ảnh giả của thiếu thốn do tâm thức tập thể tạo ra hay thực tại về cuộc sống dồi dào của Thượng đế. Giê-su nói là con không thể làm tôi cả hai ông chủ này cùng một lúc, thật sự có nghĩa là con không thể cùng một lúc ở trong hai trạng thái tâm thức tương phản. Con không thể trung thực với thực tại dồi dào của Thượng đế và cùng lúc chấp nhận hình ảnh thiếu thốn và khổ đau do con người tạo ra. Con phải tập trung tâm vào “thực tại” này hay thực tại kia, và hình ảnh mà con tập trung vào sẽ cho con trải nghiệm vật lý đó. Vật chất sẽ khoác vào những hình tướng mà con giữ trong tâm mình. Uy lực sáng tạo của con sẽ đem lại cho con trải nghiệm vật lý của điều mà con cầm giữ trong tâm mình. Nếu con muốn sự dồi dào của Thượng đế, con phải làm tôi vị thày của thực tại của Thượng đế và con phải ngưng làm tôi vị thày giả của ảo tưởng nhân phàm. Con phải làm công việc giải thoát trí tưởng tượng của con khỏi mọi hình ảnh và tin tưởng giả. Con phải dùng quyền tự quyết để chọn đứng thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo mà Thượng đế đã dùng để quy định vũ trụ này.

Chỉ khi con đi qua sự biến đổi tâm thức này con mới giải phóng mình khỏi người đốc công đang giam hãm con trong cái hộp của giới hạn và đau khổ, cái hộp thực sự chỉ hiện hữu trong tâm con và trong tâm thức tập thể. Trạng thái tâm thức mà hầu hết con người hiện nay chấp nhận như thực tại của họ là trạng thái mà Giê-su gọi là “chết”, có nghĩa là cái chết tâm linh. Nếu con muốn thoát khỏi nhà tù nhân phàm, con phải chọn trạng thái tâm thức cao hơn, tâm thức của sự sống.

Con hãy suy ngẫm câu nói trong Cựu ước Kinh: “Ngày nay, ta bắt trời và đất làm chứng cho các ngươi rằng ta đã đặt trước mặt ngươi sự sống và sự chết, phước lành và rủa sả. Vậy, hãy chọn sự sống, hầu cho ngươi và dòng dõi ngươi được sống”. (Deuteronomy 30:19). Thượng đế đã cho con trí tưởng tượng cho phép con chấp nhận một hình ảnh thật hay một hình ảnh giả. Thượng đế đã cho con quyền tự quyết để chọn hình ảnh nào con sẽ thị hiện trong vũ trụ này. Ngay lúc này, con có tiềm năng giải thoát mình khỏi gông cùm của tâm thức chết và bước vào tâm thức của sự sống là cánh cửa duy nhất dẫn con tới vương quốc của Cha con. Trạng thái tâm thức này là Tâm Ki-tô Hoàn vũ mà Giê-su đã mô tả khi thày nói: “Ta là con đường, sự thật và sự sống: không ai đến Đấng Cha mà không qua ta” (John 14:6).

Con có sẵn sàng theo thày trong hành trình sẽ giúp con khám phá lại khả năng sáng tạo thật của con và giúp con giải thoát mình khỏi gông cùm của sự chết và giới hạn đã được đặt lên con? Con có sẵn sàng vươn lên và trở thành người con trai hay người con gái thật mà con được thiết kế để là khi đấng Sáng tạo thiết kế con theo hình ảnh của ngài và giống ngài? Nếu con sẵn sàng thì con hãy nắm tay thày trong khi thày trao cho con thêm nhiều chìa khóa dẫn tới đời sống dồi dào.

9 | Khám phá Sứ vụ Thiêng liêng của con

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 24/4/2005.

Trái tim yêu dấu của Mẹ, bây giờ tới lúc chúng ta bước từ viễn quan toàn bộ của mục đích lớn của con tới sứ vụ cụ thể hơn neo trụ trong trí thể của con. Thày có đề cập ngắn gọn tới khái niệm sứ vụ thiêng liêng nhưng bây giờ đã tới lúc thày nói chi tiết hơn về sứ vụ này. Sứ vụ này thực là bản mẫu cho kiếp sống hiện hành của con nhưng nó cũng là một phần của bản mẫu cho toàn bộ hành trình của con trong vũ trụ vật chất này.

9.1. Sứ vụ thiêng liêng là gì

Con đã nhận biết rõ con hơn thân vật lý và thày hy vọng con bắt đầu đạt được nhận biết con là hơn thành phần của con được thiết kế để đi xuống vũ trụ vật chất. Thày hy vọng con đã bắt đầu thoáng thấy con là hơn nội dung trong bốn thể phàm mà con mang từ kiếp này sang kiếp khác. Điều thày muốn cho con bây giờ là ý niệm về chuyện gì chính xác xảy ra khi dòng sống của con đi xuống một thân thể vật lý đặc thù.

Khi cái Ta Biết bắt đầu đi xuống, trước tiên nó phối hợp với tâm dài hạn của con. Đây là tâm con mang theo từ kiếp này sang kiếp khác và khi cái Ta Biết bắt đầu phối hợp với tâm dài hạn này, có thể nói là cái Ta Biết mang vào một cặp kính qua đó nó nhìn mọi sự. Khi sau cùng cái Ta Biết đi xuống thân vật lý, nó mang vào một cặp kính nữa tượng trưng cho tâm ngắn hạn của con, tâm này tập trung vào thân vật lý hiện hành của con.

Khi con ở trong thân vật lý, con – nghĩa là tâm ý thức của con – đang nhìn thế giới xuyên qua hai cặp kính. Một cặp kính là tâm dài hạn của con, bản sắc thể, trí thể và cảm thể và ngay cả thành phần của tâm dài hạn liên quan cụ thể tới việc con đang ở trong một thân vật lý. Cặp kính kia tượng trưng cho tâm ngắn hạn của con cũng có bốn tầng. Nội dung của tâm ngắn hạn này đã được đặt vào đó trong kiếp hiện thân này. Chuyện xảy ra trong tiến trình này là cái Ta Biết dễ quên mất bản sắc thật của nó là một sinh thể tâm linh bất diệt. Bây giờ nó bắt đầu nhìn mọi sự qua hai cặp kính của tâm dài hạn và tâm ngắn hạn. Nó bắt đầu đồng hóa nó với, đồng hóa nó nội dung của tâm dài hạn và tâm ngắn hạn. Cái Ta Biết dựng nên một số chờ đợi và một số mong muốn cuộc sống phải thế nào và nó muốn đời ra sao.

Tỷ dụ, hầu hết con người đã bị lập trình để chấp nhận một số chờ đợi, mong muốn và khát vọng cho kiếp sống hiện hành của họ, họ muốn đời họ phải thế nào, họ phải thành tựu gì, họ muốn làm gì, họ muốn sở hữu gì và họ muốn trải nghiệm gì. Lập trình do gia đình và xã hội đặt lên mọi người tạo thành một tập hợp chờ đợi. Các chờ đợi này có thể đi ngược lại chờ đợi lưu trữ trong tâm dài hạn của con hoặc chúng không dính dáng tới tiềm năng thật của con hay hoàn cảnh thực tế do nghiệp quy định. Lẽ tất nhiên điều này tạo sự phân rẽ trong chính con người của con. Một điều quan trọng con cần xem xét là làm sao giải quyết những phân rẽ này trong con người mình và tránh phá hoại những nỗ lực thay đổi cuộc đời mình và biểu hiện nhiều dồi dào hơn.

Để giải thích điều này, thày cần con bước lui lại và nhìn quá cả hai tâm dài hạn và ngắn hạn. Vượt quá các tầng tâm này có một tầng tâm cao hơn nữa, đó là nơi con tìm thấy sứ vụ thiêng liêng của con. Cái Ta Biết hơn tâm ngắn hạn và tâm dài hạn. Nó chỉ đơn giản nhìn qua phin lọc của hai tâm này khi con đang ở trong thân vật lý và tự đồng hóa mình với thân vật lý. Sau khi thân vật lý chết, cái Ta Biết tách ra khỏi thân vật lý. Nếu con là người có nhận biết tâm linh, cái Ta Biết có thể tách ra khỏi tâm dài hạn và tạm thời thăng lên cõi tâm linh. Nhiều người có đời sống tâm linh cao trên trái đất, giữa hai kiếp sống, tham dự các trung tâm học hỏi và chữa lành ở cõi tâm linh thấp. Cái Ta Biết không chỉ đơn giản nằm ngủ nơi nào đó giữa hai hiện thân vật lý. Cái Ta Biết lúc nào cũng tham gia tiến trình học hỏi, tiến trình tự thăng vượt.

Nhiều người trên trái đất quá sức đồng hóa với thân vật lý nên cái ta ý thức của họ không thể thăng lên các cõi tâm linh thấp giữa hai kiếp hiện thân. Những người này bị kẹt ở các cõi thấp và một số quả thực rơi vào một trạng thái ngủ gần giống như hôn mê tâm linh. Những người tâm linh hơn có khả năng thoát khỏi sự đồng hóa với cõi vật chất và do đó họ thăng lên vào các lớp học tâm linh. Tại các trung tâm học hỏi này, cái ta ý thức của con gặp cái ta Ki-tô của nó và một số vị thày tâm linh đang phụng sự như người hướng dẫn riêng của nó. Trước khi con xuống hiện thân vào kiếp tới, con sẽ có nhiều buổi thao luận với các thày tâm linh của con. Trong những buổi họp đó con sẽ đề ra một sứ vụ thiêng liêng rất cụ thể vạch ra những gì con muốn thực hiện trong kiếp sắp tới.

Trước khi con xuống hiện thân trong kiếp này, con đã gặp các vị thày tâm linh của con và thảo ra một kế hoạch rất chi tiết về những gì con muốn học, những gì con muốn trải nghiệm và phần nào nghiệp quá khứ con cần khắc phục trong kiếp này. Có xác suất cao là các chờ đợi vỏ ngoài, những chờ đợi con tạo ra dựa trên lập trình của gia đình và xã hội, không ít thì nhiều không thẳng hàng với sứ vụ thiêng liêng của con. Thậm chí con có thể có một số chờ đợi trong tâm dài hạn không thẳng hàng với sứ vụ thiêng liêng. Lẽ hiển nhiên những chờ đợi như thế làm con như một căn nhà phân rẽ. Lợi lạc lớn nhất của việc thanh tẩy trí thể là nó cho phép con nhìn quá tất cả những chờ đợi con đã xây đắp trong kiếp này và mọi chờ đợi bất toàn, nhị nguyên vẫn còn tồn tại trong tâm dài hạn của con. Khi con dọn sạch đống vụn này, con sẽ có thể có cái nhìn sáng rõ hơn nhiều về sứ vụ thiêng liêng của con, cả sứ vụ dài hạn lẫn kế hoạch cụ thể cho kiếp này.

Niềm vui lớn nhất mà con có thể trải nghiệm là biết mình đang hoàn thành sứ vụ thiêng liêng và mọi khía cạnh đời mình thẳng hàng với sứ vụ này. Đây đích thực là đời sống dồi dào. Khi cái Ta Biết đi xuống năng lượng dày đặc hơn của thân thể vật lý, con gần như không thể tránh quên đi sứ vụ thiêng liêng của mình. Ngay những người có nhận biết tâm linh cao nhất cũng quên sứ vụ thiêng liêng của họ, tuy cũng có nhiều người có trực giác mạnh về điều họ muốn làm trong cuộc đời, ngay cả khi còn bé. Vì năng lượng rất dày đặc đang lấn át năng trường hành tinh, chuyện quên sứ vụ thiêng liêng là bình thường. Như một người đi tìm tâm linh, con nên chờ đợi là con cần nỗ lực để nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng của mình. Có thể nói đây đơn giản là giá phải trả khi nhập cuộc một hành tinh có năng lượng dày đặc. Con đừng đổ lỗi cho mình, cho Thượng đế hay ai khác vì con đã quên sứ vụ thiêng liêng. Con chỉ đơn giản quyết định con sẽ quyết tâm nỗ lực khám phá lại con là ai và tại sao con ở đây.

Tại sao nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng là chuyện quan trọng? Ngoài mục tiêu đạt được bình an nội tâm lớn hơn và thấy cuộc đời có ý nghĩa, nó cũng sẽ cho con những hướng đi rất cụ thể trong kiếp sống này. Những hướng này có thể là con chọn đúng nghề, con cưới đúng người, con sống đúng nơi hay con cần học gì, tỷ dụ như học một giáo lý tâm linh, tất cả những chọn lựa này đều giúp con học những bài học con cần học. Vì con là người có nhận biết tâm linh, có thể là con đã có trực giác về những thành phần cơ bản trong sứ vụ thiêng liêng của con.

Nhiều người tâm linh có thể nhìn lại cuộc đời mình và thấy họ đã làm một số chuyện không giải thích hợp lý được bằng tâm vỏ ngoài. Họ chỉ giản dị biết đó là điều họ phải làm. Thậm chí con có thể nhìn lại cuộc đời mình và thấy con đã có một số trải nghiệm khó chịu hay làm một số điều có vẻ sai lầm. Khi con nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng của mình, thì rất có thể con khám phá đó là điều con phải làm. Lý do có thể là con cần học một bài học, hay con tìm cách giúp người khác học một bài học hay con có nghiệp từ các kiếp trước khiến con có trải nghiệm đó. Dù nguyên nhân là gì chăng nữa, đó là một phần cần thiết trong sứ vụ thiêng liêng của con và khi thấy được điều này, con có thể bình an về trải nghiệm này. Thay vì nhìn lại cuộc đời mình với đau buồn và hối tiếc, con có thể tìm bài học ẩn giấu đằng sau và dùng ngay cả những trải nghiệm khó chịu làm bàn đạp cho sự tăng triển tâm linh.

9.2. Hai ngọn lửa Thượng đế của con

Sứ vụ thiêng liêng của con có hai khía cạnh. Trong chương trước thày đã đề cập tới mục đích rộng của việc con đi xuống cõi vật chất, tức là con muốn đem lại ánh sáng Thượng đế và vương quốc Thượng đế. Ở mức cụ thể hơn, con có một sứ vụ thiêng liêng tổng quát, phi thời gian về những gì con muốn hoàn thành trong vũ trụ vật chất. Sứ vụ này liên quan tới con là ai, nghĩa là Sinh thể tâm linh mà con là một cá thể hóa.

Khi Moses leo lên đỉnh núi để nhận mười điều răn từ Thượng đế, ông thấy Thượng đế là một ngọn lửa sống. Đó là lý do tại sao Kinh Thánh nói Thượng đế của chúng ta là một ngọn lửa thiêu trừ (Hebrews 12:29). Trong cõi tâm linh có một số Ngọn lửa Thượng đế và mỗi Ngọn lửa Thượng đế biểu trưng một đặc tính đặc thù của Thượng đế. Tỉ dụ, có ngọn lửa của Ý chí Thượng đế, có ngọn lửa của Minh triết Thượng đế, có ngọn lửa của Tình thương Thượng đế, có ngọn lửa của Bình an, vân vân và vân vân. Mỗi đặc tính tích cực mà con người biết liên quan tới một Ngọn lửa Thượng đế tập trung vào đặc tính đó. Dòng sống của con được sinh ra từ một Ngọn lửa Thượng đế và mục đích chung của con khi xuống vũ trụ vật chất là đem ánh sáng và đặc tính của Ngọn lửa Thượng đế của con để đảy lui bóng tối trên trái đất. Đấng Sáng tạo sẽ không gửi Ngọn lửa Thượng đế này từ bên ngoài vũ trụ vật chất. Nó phải đến từ bên trong, từ một người ở trên trái đất và hiện thân cho Ngọn lửa Thượng đế đó.

Ngọn lửa Thượng đế của con có hai khía cạnh, yếu tố lan ra của Cha và yếu tố co lại của Mẹ, khía cạnh Alpha và khía cạnh Omega. Điều này được mô tả trong Kinh Thánh qua câu: “Đấng Chúa Trời nói: Ta là Alpha và Omega, cái khởi đầu và cái kết thúc, là đấng Toàn năng hiện là, đã là và sẽ đến” (Revelation 1:8). Khía cạnh Alpha của Ngọn lửa Thượng đế, khía cạnh nam, là ngọn lửa từ đó con sinh ra, và khía cạnh nữ là món quà con tới đây để cống hiến cho thế giới. Con có thể sinh ra từ Ngọn lửa Thượng đế của tình thương nhưng con chọn xuống trái đất để đem lại chân lý. Để có thể đem chân lý tới trái đất, con phải đem chân lý tới một cách thương yêu. Giống vậy, con có thể sinh ra từ Ngọn lửa Thượng đế của an bình, nhưng con tới đây để hướng dẫn. Con phải hướng dẫn mọi người đạt bình an và sự hướng dẫn của con biểu hiện đặc tính bình an.

Khi con thanh tẩy trí thể và bản sắc thể, con sẽ bắt đầu có trực giác về Ngọn lửa Thượng đế đặc thù của con và đây là một chủ đề con có thể dùng để thiền định khi con đọc các bài thỉnh trong khóa học này. Nhiều người tâm linh đã có cảm nhận Ngọn lửa Thượng đế của họ là gì mặc dù họ chưa hề nghe tới khái niệm này. Con có thể thấy có một số đặc tính lúc nào cũng quan trọng đối với con hay con trân quý trong tim. Thậm chí con cũng thấy một số đặc tính tiêu cực mà con thường gặp và lý do là vì chúng ngược lại với Ngọn lửa Thượng đế của con. Con có mặt ở đây để Ngọn lửa Thượng đế của con thiêu rụi chúng, nghĩa là con thu hút chúng tới con để chúng có thể bị thiêu rụi bởi ngọn lửa của Bản thể lớn hơn của con. Do đó, điều quan trọng là con không dính mắc tình cảm với những tình huống hay cảm xúc đó mà con chỉ đơn giản cho phép chúng đi vào ngọn lửa của Bản thể bên trong của con. Điều này đòi hỏi con không dính mắc để cảm thể con không khuếch đại các đặc tính tiêu cực đó.

Thày biết khái niệm này có vẻ trừu tượng đối với nhiều người nhưng thày đề cập tới nó vì khi con bắt đầu thanh lọc các thể phàm cao, con sẽ có trực giác rõ hơn về Ngọn lửa Thượng đế của con. Điều quan trọng là con giữ khái niệm này trong hậu cảnh của tâm để khi con tăng trưởng tự nhận biết, con có thể bắt đầu hòa điệu một cách ý thức với Ngọn lửa Thượng đế của con và lý do tại sao con ở đây.

9.3. Làm sao thấy Sứ vụ Thiêng liêng

Vượt quá tầng mức tổng quát trừu tượng liên quan tới sự biểu đạt Ngọn lửa Thượng đế, là tầng mức cụ thể hơn của sứ vụ thiêng liêng của con. Một lần nữa có một phần của sứ vụ thiêng liêng liên quan tới điều con đến để trao tặng trái đất và sứ vụ này sẽ tiếp tục từ kiếp này sang kiếp khác. Tỷ dụ, con có thể cảm thấy yêu thích một số sinh hoạt hay một loại nghề nghiệp nào đó. Con có thể đặc biệt quan tâm một số vấn đề trên trái đất và muốn giảm thiểu chúng. Trong sứ vụ cũng có thể có một số thanh phần liên quan tới những gì con cần học hỏi để trở thành con người con thật sự là và những thành phần này cũng là mục tiêu dài hạn của con. Các mục tiêu dài hạn này cô đọng thành mục tiêu cụ thể trong kiếp sống hiện nay của con và các mục tiêu này dễ khám phá nhất. Ở đây một lần nữa chúng ta chạm một vấn đề mà thày đã nói tới trong phần trước, đó là tâm vỏ ngoài của con, tâm ý thức của con và ngã hữu diệt có thể đã xây dựng một số chờ đợi đi ngược lại sứ vụ thiêng liêng của con. Nếu con dính mắc nhiều vào các chờ đợi bên ngoài này, tâm ý thức của con có thể từ chối không muốn thấy sứ vụ thiêng liêng của con. Lý do là đi theo sứ vụ thiêng liêng của con sẽ đòi hỏi nhiều chỉnh đổi lớn trong nếp sống vỏ ngoài và một phần trong con không muốn những chỉnh đổi đó.

Ngã hữu diệt sẽ làm mọi điều nó có thể nghĩ ra để ngăn cản con nhìn nhận sứ vụ thiêng liêng của con. Nó sẽ khiến con dính mắc chặt vào các chờ đợi con đã xây dựng trong kiếp sống này, các chờ đợi mà ngã hữu diệt đã lập trình vào tâm con, các chờ đợi mà con đơn giản từ chối không nhìn quá chúng. Ngã hữu diệt sẽ muốn con dính mắc vào các ham muốn và thú vui tạm bợ nhiều tới độ con sẽ bỏ qua những ước muốn thật của dòng sống của con, được bày tỏ trong sứ vụ thiêng liêng của con. Để có thể thấy được trọn vẹn sứ vụ thiêng liêng, con sẽ phải buông bỏ một số chờ đợi nhị nguyên, tạm bợ và mọi dính mắc tình cảm muốn thỏa mãn những ham muốn và chờ đợi này.

Đây là điều Giê-su mô tả khi thày nói con không thể phục vụ hai ông chủ, con không thể phục vụ Thượng đế – nghĩa là mục tiêu tâm linh dài hạn của con – và Ma-môn – nghĩa là các ham muốn và chờ đợi ngắn hạn, hữu diệt của con (Matthew 6:24). Khi con cho phép mình bị lôi kéo về hai hướng đối nghịch, con có thể không chịu nhìn nhận sứ vụ thiêng liêng của mình. Con sẽ xem sứ vụ như cái gì bên ngoài ý muốn hữu diệt của con – và nó đúng như thế – hay thậm chí như cái gì đó do một thẩm quyền cao hơn áp đặt lên con để kiểm soát con – nhưng điều này không đúng. Như thày đã giải thích trong chương trước, đây là một ảo tưởng do ngã hữu diệt phóng chiếu lên cái Ta Biết và cần một hành động ý chí của cái Ta Biết để có thể khắc phục nó. Con không thể hoàn thành sứ vụ thiêng liêng khi cái Ta Biết coi nó như cái gì bên ngoài ý chí của nó. Con cần làm hòa với sứ vụ thiêng liêng của con và con chỉ làm được bằng cách với lên trên những ham muốn và chờ đợi hữu diệt là cuộc đời của mình phải như thế nào. Con cần sẵn sàng “mất cuộc sống”, mất những dính mắc vào các chờ đợi nhị nguyên của con.

Con không nên chờ mong toàn bộ sứ vụ thiêng liêng được tiết lộ một lượt cho con. Đường tu là một tiến trình tuần tự và trong giai đoạn đầu, con chỉ thấy vài phần của sứ vụ thiêng liêng. Khi con trung thành với các tiết lộ trực giác của mình, con chứng tỏ mình xứng đáng nắm bắt nhiều chi tiết hơn cho tới khi con rốt cuộc có nhận biết rất rõ ràng về sứ vụ của mình. Có một số chi tiết có thể sẽ không bao giờ cái ta ý thức biết được vì làm sao con học một bài học đặc thù khi con biết trước mục đích của khảo sát mà con sẽ chạm trán? Sẽ luôn luôn có những điều mà tâm vỏ ngoài của con sẽ không biết và con tăng trưởng khi con lấy quyết định mà không có nhận biết trọn vẹn. Con cũng nên nhớ là nhiều chi tiết của sứ vụ thiêng liêng không khắc ghi trên đá. Chúng cần được con quyết định khi hoàn cảnh trải bày và không thể trù liệu trước được.

9.4. Con cần vươn lên tầm nhìn cân bằng của tâm Ki-tô

Để khám phá sứ vụ thiêng liêng, con phải cố gắng nhìn quá những ham muốn và chờ đợi ngắn hạn của con. Con sẽ trải qua một tiến trình tuàn tự vứt bỏ lập trình của thế gian bảo con là ai và phải sống cuộc đời mình ra sao. Chỉ khi làm vậy con mới có thể buông bỏ những hình ảnh ngăn cản con thấy được sứ vụ thiêng liêng của con bị che mờ bởi bức màn chờ đợi.

Hầu hết mọi khía cạnh cuộc sống trên hành tinh này bị ảnh hưởng bởi tâm thức nhị nguyên, tâm thức phản Ki-tô. Khi con lớn lên trong xã hội hiện đại, tâm con bị lập trình bởi những hình ảnh, ham muốn, niềm tin và chờ đợi được đặc biệt thiết kế để trói buộc con trên cỗ máy chạy muốn con là người tiêu thụ tốt, thành viên tốt của xã hội, người không xáo trộn trật tự, không vượt lên trên chuẩn mực thế gian. Con bị lập trình để theo khuôn mẫu một thành viên xã hội “bình thường” và “hữu dụng” do các nhà quyền thế quy định. Nếu con nhìn vào cuộc đời một số người đã đưa nhân loại tiến lên, thì con sẽ thấy họ không tuân theo những gì xã hội chờ đợi. Một số những người này được gọi là thiên tài nhưng tự thân họ không có thiên tài hơn con. Họ chỉ đơn giản hòa điệu được với sứ vụ thiêng liêng của họ và mục đích lớn hơn vì sao họ đến trái đất. Họ đã với lên quá lập trình của xã hội để kéo xuống nội dung của sứ vụ thiêng liêng của họ và biểu đạt nó trong cuộc sống. Đây là cách họ có đóng góp độc đáo vào xã hội, một đóng góp mà con có thể nghĩ là quá sức con, nhưng đây chỉ là một khía cạnh khác của lập trình không muốn con tăng trưởng và là con người thật mà con là.

Ông hoàng thế gian không muốn con hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con, không muốn con biểu đạt con người thật của con, thiên tài thật của con, trong thế giới này. Ông hoàng thế gian tìm cách kiểm soát mọi khía cạnh cuộc sống trên hành tinh trái đất, một mưu cầu bất khả thi. Ông hoàng thế gian biết rằng nếu con nối kết lại với con người con thật sự là và bắt đầu biểu đạt con người thật đó, bắt đầu biểu hiện sứ vụ thiêng liêng của con, thì ông không thể kiểm soát con như ông đã không thể kiểm soát Giê-su. Ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian không muốn con kết nối lại với sứ vụ thiêng liêng của con. Họ muốn con sống cuộc đời của một người bình thường, trung bình không không xáo trộn trật tự và không vượt quá chuẩn mực.

Nhiều người nói có lằn ranh mong manh giữa thiên tài và khùng điên. Quả thực con có thể thấy một số người có tiềm năng là thiên tài nhưng họ bước qua lằn ranh đó và rơi vào bệnh tâm thần hay ảo giác. Lý do là những người này chưa thanh tẩy bốn thể phàm nên họ không cân bằng. Họ ở trong vị trí nguy hiểm vì trí thể của họ đã phần nào trong sạch nên họ biết họ có tiềm năng và mục đích cao hơn chuẩn mực. Họ thoáng thấy sứ vụ thiêng liêng của họ nhưng vì chưa thanh tẩy các thể khác, họ không cân bằng được những điều dường như mâu thuẫn giữa viễn kiến nội tâm và đời sống thường ngày.

Trong nhiều trường hợp, vấn đề là tuy họ thoáng thấy sứ vụ thiêng liêng của họ, nhưng họ rất dính mắc vào một số chờ đợi thế tục. Họ bị lôi kéo về hai hướng khác nhau bởi viễn kiến cao và chờ đợi thấp của họ. Vì họ không có cuộc sống tâm linh, nên họ không vượt lên trên chờ đợi nhị nguyên được. Kết quả là họ bị dằng xéo tới điểm không duy trì được một cuộc sống cân bằng. Họ bị mắc kẹt trong tâm nhị nguyên muốn kéo mọi chuyện về một trong hai cực đoan. Sự kiện này đã khiến nhiều người có khiếu phủ nhận khiếu của họ hoặc biểu hiện nó một cách mất cân bằng và dù qua cách nào chăng nữa, họ xa rời sứ vụ thiêng liêng của họ. Một chuyện khác cũng thường xảy ra, đặc biệt là với những người có khuynh hướng tâm linh, là họ có viễn kiến rõ ràng về điều họ cần hoàn thành, nhưng vì họ dính mắc một số chờ đợi, họ có viễn quan thiếu thực tế về cách họ thực hiện. Họ nỗ lực tiến tới mục tiêu đúng nhưng họ dùng những phương tiện không phù hợp, không hiệu quả để đạt mục đích. Lúc nào cũng thế, chìa khóa là vươn lên tầm nhìn cân bằng, trung đạo của tâm Ki-tô, có được khi con thanh tẩy cả bốn thể phàm của con.

Những bài thỉnh mà thày đã thiết kế sẽ thanh tẩy cả bốn thể phàm của con để con không bị lôi về những hướng khác nhau bởi những ham muốn và chờ đợi mâu thuẫn nhau. Để chương trình này tối hậu thành công, con cần sẵn sàng buông bỏ những chờ đợi và ham muốn nhị nguyên đã đi vào cả hai tâm dài hạn và ngắn hạn của con.

9.5. Tâm linh hóa đời sống hàng ngày

Xưa nay luôn luôn có xung đột nội tại nào đó trong cách nhiều người tiếp cận tôn giáo. Nhiều người cảm thấy thu hút bởi tôn giáo và khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Họ cũng phải cân bằng với ý muốn sống một cuộc đời bình thường, có vợ chồng, nuôi con và tham gia xã hội. Trong thế giới ngày nay, con thấy cả triệu người nếu không nói là cả tỷ người đang chật vật cân bằng mâu thuẫn đó. Làm sao con có thể là một tín đồ tôn giáo, một người tâm linh và cùng lúc sống một cuộc đời bình thường với những bổn phận gia đình và nhu cầu mưu sinh?

Với một số tín đồ Cơ đốc, mâu thuẫn này được minh họa bởi lời nói của Giê-su rằng con không thể phục vụ Thượng đế và Ma-môn (Matthew 6:24), và họ giải thích câu này nghĩa là con phải tránh né các cám dỗ của đời sống hằng ngày. Thậm chí một số người còn xem toàn thể vũ trụ vật chất là kẻ thù của tăng triển tâm linh và cái nhìn này tạo ra nhiều căng thẳng không cần thiết. Lúc nào cũng vậy, có một ý nghĩa cao hơn đằng sau câu nói đó của Giê-su. Trước tiên Ma-môn nghĩa là tâm thức nhị nguyên và không phải là sinh hoạt thế tục. Giê-su không muốn nói là con không thể tham gia vào đời sống bình thường. Thày muốn nói là con cần khắc phục dính mắc tình cảm và chờ đợi để chúng không cản trở tăng triển tâm linh của con. Nói rằng mọi người tâm linh phải rút khỏi cuộc sống bình thường đơn giản là không đúng vì đây là một vấn đề hoàn toàn cá nhân. Với một số người có thể đúng là họ cần rút khỏi cuộc sống bình thường trong một thời gian, trong khi với những người khác, việc đó không nằm trong sứ vụ thiêng liêng của họ. Con cần mở tâm lắng nghe sự hướng dẫn của vị thày nội tâm và con chỉ giữ được tâm cởi mở khi con không phục vụ Ma-môn, khi con không sống đời mình theo một tập hợp chờ đợi nhị nguyên.

Cách duy nhất để cân bằng giữa ham muốn và bổn phận tâm linh và thế tục là con kết nối lại với sứ vụ thiêng liêng của con để biết những mục tiêu cụ thể của con trong kiếp này. Mọi người tâm linh đều có mục đích tăng triển tâm linh như một phần nền tảng trong sứ vụ thiêng liêng của họ. Nhiều người tâm linh không nhận ra một phần của sứ vụ thiêng liêng của họ cũng quy định họ có gia đình, có một nghề nào đó và tham gia tích cực vào xã hội qua nhiều cách.

Người tâm linh có một khuynh hướng mà con cần hiểu để tránh bị mất quân bình trong sự tìm cầu tâm linh. Một mặt, để có thể tăng triển tâm linh, đúng thật là con phải sẵn sàng với lên quá nếp sống bình thường đang giam cầm rất nhiều người. Con phải với lên cái gì cao hơn nhưng điều này không nhất thiết có nghĩa là con phải rơi vào cực đoan kia là vào sống trong tu viện hay trong hang động núi Hi-mã-lạp sơn. Trong thời đại này có nhiều người tâm linh mà sứ vụ của họ là sống đời sống năng động. Lý do là chúng ta đang đi vào một thời đại mà nhân loại cần kết hợp tâm linh với đời sống hàng ngày. Con người cần tâm linh hóa đời sống hàng ngày.

Nhiều tín đồ tôn giáo đã chia cuộc sống của họ ra nhiều ngăn. Họ đi nhà thờ ngày chủ nhật và sống cuộc đời thế tục phần còn lại trong tuần, lúc đó thậm chí thường bỏ qua những niềm tin tâm linh. Trong thời đại này, con người cần vươn lên mức cao hơn, không giấu niềm tin tâm linh trong tủ để và chỉ lấy ra ngày chủ nhật khi đi nhà thờ. Thay vào đó họ phải thấm đẫm mọi khía cạnh của cuộc đời họ với các niềm tin tâm linh và qua đó cuộc đời họ biểu hiện con người mà họ là như một sinh thể tâm linh. Nhiều người tâm linh đã tình nguyện đầu thai vào thời điểm quyết định này một phần để minh chứng là con người có thể kết hợp tâm linh với đời sống hàng ngày.

Thày xin con cố gắng vượt quá mọi cảm giác mâu thuẫn con có thể có về vấn đề này và nhận ra quả thật một phần của sứ vụ thiêng liêng của con là đem tâm linh đi vào mọi khía cạnh của cuộc đời mình, dù rằng điều này vượt quá những chờ đợi của gia đình và chuẩn mực xã hội. Chuẩn mực của xã hội thế tục, phi tâm linh cần thay đổi, và chúng chỉ thay đổi khi một số người từ chối không chịu chui vào khuôn qua đó họ chứng minh có thể là người tâm linh trong khi sống giữa thế gian. Con có thể phục vụ Thượng đế dù con tham gia tích cực vào sinh hoạt thế gian vì con không bị tâm thức Ma-môn, tâm thức nhị nguyên cám dỗ. Con ở trong thế gian nhưng con không thuộc về thế gian.

9.6. Khắc phục nghiệp quả, nhị nguyên và giới hạn

Điều khiến con khao khát cái gì cao hơn là cái biết nội tại con hơn thân vật lý, con hơn cá tính vỏ ngoài mà con đã xây dựng trong kiếp sống này. Khi con nối kết với cái “hơn” đó bằng cách thanh tẩy bản sắc thể, con sẽ biết con là ai. Con cũng sẽ bắt đầu biết tại sao con tới đây trong kiếp này và tại sao con đã chọn hoàn cảnh sống cụ thể bao gồm thân thế gia đình và các hoàn cảnh bên ngoài khác. Sứ vụ thiêng liêng của con có những khía cạnh bao quát liên quan tới những mục tiêu dài hạn vì sao tới trái đất. Sứ vụ của con cũng rất thiết thực vì nó bao gồm sự kiện dòng sống của con đã rơi vào tâm thức nhị nguyên.

Trước khi con đầu thai kiếp này, con gặp các thày tâm linh của con và con thảo ra một kế hoạch rất cụ thể để giải quyết chuyện con đã tự đồng hóa với tâm thức nhị nguyên và tạo nghiệp trong các kiếp trước, và nghiệp đã tới hạn phải trả trong kiếp này. Mục tiêu trong một phần của sứ vụ của con là giúp con khắc phục được nghiệp trước khi nó trở thành vật lý và giúp con học những bài học con cần học để khắc phục các tin tưởng nhị nguyên. Mục tiêu là giải thoát con khỏi những giới hạn nhân phàm nhưng để có thể giải thoát con khỏi một số giới hạn, con phải trải nghiệm bị giới hạn và sau đó vượt lên trên những điều kiện bên ngoài này.

Sứ vụ thiêng liêng của con rất cụ thể trong các điểm như nơi con sinh, quốc gia nào, gia đình và ngay cả những đặc tính của thân vật lý của con. Con quả thực có thể có nghiệp từ những kiếp trước với cha mẹ và anh chị em và một phần của sứ vụ thiêng liêng là con tương tác với những người này và hy vọng con tạo được mối quan hệ thương yêu với họ giúp con vượt lên trên nghiệp đó. Điều này cũng áp dụng cho quan hệ của con với người phối ngẫu và con cái vì họ cũng nằm trong sứ vụ thiêng liêng của con. Mục tiêu luôn luôn là mọi người trong cùng một nhóm nghiệp vượt lên trên giới hạn của họ, vượt lên trên trạng thái tâm thức và thái độ họ có với nhau đã được tạo ra trong những kiếp trước. Mục đích là con vượt lên trên tất cả cách tiếp cận với mọi người dựa trên cảm xúc tiêu cực và thay thế nó với cách tiếp cận dựa trên tình thương.

Có thể là một phần sứ vụ thiêng liêng quy định con cần ở trong hoàn cảnh không được dồi dào vật chất. Nếu hiện nay con không có dồi dào, thì thực sự có thể đấy là một phần của sứ vụ thiêng liêng của con. Ít khi sứ vụ thiêng liêng quy định con phải nghèo khó suốt một đời. Nếu con đang không có dồi dào vật chất, lý do thông thường là Bản thể lớn của con muốn con học bài học từ hoàn cảnh đó. Thay vì chú tâm kiếm thêm tiền, con nên chú tâm học bài học không có tiền mà con cần học. Một khi con học xong bài học đó, con sẽ thăng vượt nhu cầu phải ở trong hoàn cảnh thiếu thốn. Lúc ấy con có thể mở tâm ra đón nhận dồi dào của Thượng đế tuôn chảy xuống cuộc đời con.

9.7. Mọi hoàn cảnh đều là cơ hội học một bài học

Thông điệp tổng quát thày muốn trao cho con trong chương này là con cần chuyển đổi cách con nhìn đời, thái độ của con trước cuộc sống và cách con tiếp cận cuộc sống. Thái độ cực kỳ phổ thông là con người lớn lên với cảm giác họ là nạn nhân của hoàn cảnh ngoài tầm kiểm soát của họ. Con cảm thấy cuộc đời ném tình huống vào con và những tình huống này khó khăn và làm con choáng ngợp cho nên con lúc nào cũng phải loay hoay đương đầu. Lúc nào con cũng cảm thấy hơi quá sức chịu đựng và cuộc đời cho con quá sức đối phó của con. Khi con bắt đầu thanh tẩy bốn thể phàm, cảm giác này sẽ dần dần tan biến. Con sẽ vượt qua cảm giác bị choáng ngợp vì cảm giác này do năng trường của con nặng trĩu năng lượng tha hóa. Chính các năng lượng tha hóa khiến con cảm thấy choáng ngợp cho nên một khi con dùng những bài thỉnh của thày để biến hóa năng lượng, cảm giác bị choáng ngợp sẽ tan biến đi.

Khi ấy con có thể bắt đầu thở nhẹ nhõm hơn và điều con cần làm ở điểm này là xoay chuyển thái độ của con với cuộc sống, bỏ đi cảm nhận mình là nạn nhân của hoàn cảnh ngoài tầm kiểm soát của mình. Con cần chấp nhận thực tại là mọi chuyện xảy ra trong đời mình đều là cơ hội tăng triển. Con đã chọn trải nghiệm những hoàn cảnh này vì chúng cho con một cơ hội độc đáo để vượt lên trên các niềm tin nhị nguyên và nghiệp của con. Dù con gặp hoàn cảnh nào chăng nữa, con phải cho rằng nó thuộc sứ vụ thiêng liêng của con.

Mục đích của sứ vụ chỉ là đặt con vào những hoàn cảnh cho con cơ hội tốt nhất để con vươn lên cao hơn, bước thêm một bực trên cầu thang xoáy ốc, bằng cách khắc phục một số niềm tin nhị nguyên trong một trong bốn thể phàm của con. Thay vì coi mình là nạn nhân của hoàn cảnh vượt ngoài tầm kiểm soát của mình, con cần nhìn mình như một người lúc nào cũng đang tham dự vào tiến trình học hỏi những bài học trong cuộc sống. Mọi hoàn cảnh con gặp đều là một cơ hội học một bài học và bước lên bực thang kế tiếp của cầu thang xoáy ốc. Mục đích cuộc đời chỉ như vậy và con sẽ khiến cuộc đời mình dễ dàng hơn hẳn nếu con có thái độ coi mỗi hoàn cảnh con gặp đều là một bàn đạp để con bước lên cao hơn.

Qua đó con có thể khắc phục mong chờ rất phổ biến là cuộc đời phải dễ dàng hay phải phù hợp với một tiêu chuẩn toàn hảo nào đó do con người đặt ra. Con có thể xây dựng chờ đợi thực tế là cuộc đời là một cơ hội tăng triển và cuộc đời phải đặt con vào hoàn cảnh bắt con phải khắc phục một số giới hạn. Khi con nối kết với sứ vụ thiêng liêng của mình, con sẽ thấy là tất cả những trải nghiệm con có trong kiếp sống này là những cơ hội độc đáo để con học một bài học cụ thể, khắc phục một số chờ đợi nhị nguyên và tiến một bước gần hơn đời sống dồi dào.

Khi con nhìn cuộc đời là một cơ hội tăng triển, thì con sẽ rất dễ dàng tách mình khỏi dính mắc tình cảm với một hoàn cảnh đặc thù. Thay vì rơi vào cạm bẫy chạy trốn, không chịu nhìn vào hoàn cảnh, con có thể tiếp cận một cách tích cực bằng cách kêu gọi cái ta Ki-tô giúp con học bài học đằng sau hoàn cảnh bên ngoài. Nếu con chịu hỏi với tâm và trái tim cởi mở, con sẽ nhận được câu trả lời và con sẽ thấy mình cần học điều gì. Thày có thể bảo đảm với con rằng một khi con đã thực sự học bài học, hoàn cảnh của con sẽ thay đổi. Trong một số trường hợp con không còn thu hút một số hoàn cảnh đặc thù bên ngoài. Trong một số trường hợp khác, hoàn cảnh không thay đổi nhưng trải nghiệm của con trước hoàn cảnh thay đổi một cách cơ bản.

Nhiều người cứ gặp phải cùng vấn đề, cùng khủng hoảng trở đi trở lại. Tỷ dụ một số người bị đổ vỡ lứa đôi hết lần này sang lần khác. Mỗi lần họ rời một quan hệ và đi vào một quan hệ mới, họ thu hút cùng loại người và họ gặp lại cùng vấn đề như trước. Nhiều người không hiểu tại sao họ cứ thu hút cùng một hoàn cảnh tái diễn hoài hoài. Họ thu hút hoàn cảnh ấy vì sứ vụ thiêng liêng quy định họ cần học một bài học đặc thù trong kiếp sống này. Nếu họ không học xong bài học trong một hoàn cảnh, tấm gương vũ trụ sẽ cho họ một hoàn cảnh khác phóng chiếu những tin tưởng nhị nguyên của họ và họ có một cơ hội khác để thấy những tin tưởng này và buông bỏ chúng. Một khi con đã học xong bài học, đâu còn nhu cầu bắt con phải trải nghiệm những loại hoàn cảnh đó nữa. Bỗng nhiên, con thấy là những vấn đề đã đeo đuổi con suốt nhiều thập niên có thể giải quyết một sớm một chiều và con sẽ không gặp lại những hoàn cảnh này nữa.

Thay vì cảm thấy lúc nào mình cũng phải chạy theo hoàn cảnh, cảm thấy mình là nạn nhân cuộc đời, con có thể có cách tiếp cận hoàn toàn tích cực nhận ra rằng con không là nạn nhân những hoàn cảnh ngoài tầm kiểm soát của con. Thay vào đó, con xem mỗi hoàn cảnh con gặp đều nằm trong sứ vụ thiêng liêng của con và là cơ hội cho con học những bài học để con có thể vĩnh viễn thoát khỏi loại hoàn cảnh đó.

Ngay bây giờ con có thể nhìn cuộc đời mình qua phin lọc của một số chờ đợi nhị nguyên, nhân phàm và con nghĩ cuộc đời con không đáp ứng các chờ đợi này. Điều này có thể cho con một cảm giác vi tế hay hiển nhiên là cuộc đời con là một thất bại vì nó không đáp ứng các chờ đợi đó. Khi cái Ta Biết không nhìn qua phin lọc của tâm dài hạn và tâm ngắn hạn, thì nó hoàn toàn thoát khỏi những chờ đợi thiếu thực tế đó. Cái Ta Biết không phác họa sứ vụ thiêng liêng của con theo những chờ đợi nhân phàm, và mục đích cuộc đời này của con không phải là để sống theo các chờ đợi đó. Rất có thể là những gì được coi là thất bại theo chờ đợi thế tục lại phù hợp với sứ vụ thiêng liêng của con. Hoặc cũng có thể là một số quyết định con đã lấy không hoàn toàn phù hợp với sứ vụ thiêng liêng, nhưng nếu con học hỏi từ các quyết định này con vẫn có thể vươn lên cao hơn và nhờ vậy bắt kịp sứ vụ của con.

Ông hoàng thế gian và ngã hữu diệt muốn con tin là con không bao giờ có thể vượt lên trên những bất toàn trong quá khứ của con. Dù cuộc đời con bất toàn có tới đâu, con vẫn luôn luôn có thể dùng mọi lầm lỗi như một cơ hội để nhìn thấu suốt một ảo tưởng nhị nguyên và do đó bước lên bực thang kế tiếp của cầu thang xoáy ốc. Nếu con tăng triển tâm linh, đời con không uổng phí dù những chờ đợi thế tục của con hay của người khác có nói gì chăng nữa.

9.8. Với Thượng đế mọi chuyện đều làm được

Con yêu dấu, giờ đây chúng ta cần tiến lên một bước nữa. Chúng ta cần xét xem cách tốt nhất giúp con khắc phục những giới hạn, những niềm tin nhị nguyên được cất giữ trong bốn thể phàm của con. Có hai điều con cần nhận ra để có thể hoàn thành những mục tiêu được quy định trong sứ vụ thiêng liêng của con. Điều đầu tiên là để khắc phục một giới hạn nào đó, con phải làm một điều mà hiện nay con nghĩ con không thể làm được. Đó là lý do tại sao con bị kẹt trong giới hạn đó. Đằng sau giới hạn là niềm tin nhị nguyên khiến con nghĩ có một số chuyện con không thể làm. Để dùng lại tỷ dụ trong đoạn trước, có thể con có niềm tin nhị nguyên trong bốn thể phàm bảo rằng con không vẽ được. Để khắc phụ giới hạn đó, con phải phá vỡ niềm tin bảo rằng con không vẽ được. Con phải chứng minh cho mình là niềm tin đó không thật để con có thể hoàn toàn chấp nhận là với Thượng đế mọi chuyện đều làm được.

Để khắc phục một giới hạn, để học một bài học, con phải làm được điều gì có vẻ như không thể làm được. Con phải vượt qua nhận thức có một số chuyện không thể làm được. Con phải phá vỡ lập trình của ngã hữu diệt luôn phóng chiếu vào tâm ý thức của con rằng giới hạn đó không thể vượt qua được.

Điều khác con cần nhận ra là con không bao giờ ở trong hoàn cảnh phải đối diện một giới hạn mà con không thể khắc phục. Sứ vụ thiêng liêng được các thày tâm linh của con và cái Ta Biết của con thiết kế. Sứ vụ thiêng liêng chỉ có mục đích giải thoát con khỏi các giới hạn. Con có thể cần khắc phục nhiều giới hạn trước khi con hoàn toàn thoát khỏi mọi tin tưởng nhị nguyên. Có thể có một số giới hạn con không thể vượt qua với mức nhận biết hiện thời của con nhưng con không phải đối diện với những giới hạn này với mức nhận biết hiện thời của con. Sứ vụ thiêng liêng của con đã được thiết kế rất cẩn thận dựa trên sự thẩm định thực tế về mức nhận biết tâm linh và mức tự nhận biết hiện thời của con. Con sẽ không gặp những thách đố mà con không có khả năng khắc phục. Con sẽ không gặp một bài học mà con không có khả năng học.

Mỗi hoàn cảnh mà con đối diện, con quả thực có tiềm năng học được bài học và qua đó khắc phục giới hạn đã kềm giữ con lại và kết đọng thành những hoàn cảnh khó chịu hay khó khăn. Để học bài học, để khắc phục giới hạn, con phải chịu làm điều có vẻ là không làm được với mức nhận biết hiện thời của con. Con phải nhận ra vấn đề chính là cảm giác có cái gì đó không thể làm được.

Tỷ dụ như con đang đối diện những thử thách của một quan hệ khó khăn. Tâm ý thức của con thường sẽ tập trung vào những hoàn cảnh bên ngoài của mối quan hệ. Con rất dễ chú tâm vào người kia và đổ lỗi cho người kia. Chỉ cần người kia thay đổi thì vấn đề sẽ được giải quyết. Thực ra chìa khóa để cải thiện hoàn cảnh cá nhân của con là con phải thay đổi. Con phải nhìn vào trong tâm mình và khám phá ra bài học đã được trù định cho con học từ hoàn cảnh dặc thù đó. Khi con học xong bài học, hoàn cảnh bên ngoài sẽ thay đổi một cách màu nhiệm. Ngay cả khi người kia không thay đổi, sự kiện con thay đổi thái độ của mình với người kia sẽ cải thiện trải nghiệm của con về mối quan hệ.

9.9. Vượt qua sợ hãi để nhìn ảo tưởng trong tâm

Nếu con thực sự muốn học bài học và giải thoát mình khỏi một loại thử thách đặc thù, con cần nhìn quá hoàn cảnh bên ngoài. Con cần tìm bài học ẩn giấu đằng sau và con cần hiểu bài học mà con cần học liên quan tới một tin tưởng. Một phần của tin tưởng này là con nghĩ mình không thể nào khắc phục một giới hạn nào đó. Tỷ dụ, con có thể nghĩ không thể nào tìm được một người bạn đời có mối quan hệ tích cực với con. Lý do con không thể tìm được là vì có một bài học con chưa học xong và do đó con cứ thu hút những người ép buộc con phải đối diện bài học. Vì niềm tin trong tiềm thức khiến con người nghĩ rằng họ không thể thay đổi và học bài học cần học, và vì thói quen chạy trốn những hoàn cảnh khó khăn, hầu hết con người từ chối không chịu tìm bài học mình cần học, từ chối soi mình trong gương. Họ giữ họ kẹt trong thế bí khiến họ cứ tiếp tục thu hút những hoàn cảnh bắt buộc họ phải đối diện cái mà họ không muốn đối diện.

Đây quả thực là Trường đời Cay đắng và thày ước mong tất cả những ai đang theo học khóa này vượt lên trên lối học này. Thày mong muốn mọi người vươn lên tới trường hướng dẫn nội tâm sẽ giúp họ thấy điều họ cần học trong kiếp sống này. Làm sao làm được điều này? Chìa khóa chủ yếu là con suy ngẫm lời của Giê-su: “Tự mình ta không làm được điều gì cả.” (John 5:30) và “Với con người thì không làm được nhưng với Thượng đế thì mọi việc đều làm được” (Matthew 19:26). Có nhiều chuyện trên thế gian mà con không thể làm được với quyền năng của tâm ý thức của con. Nhưng nếu con có quyền năng của Thượng đế thì mọi việc đều làm được.

Điều gì giúp cho quyền năng của Thượng đế chảy qua bốn thể phàm của con mà không bị pha loãng? Chính những tin tưởng nhị nguyên khiến con chặn dòng chảy của ánh sáng Thượng đế. Chìa khóa thật để giải thoát khỏi những giới hạn nhân phàm là khắc phục những tin tưởng nhị nguyên đang ngăn cản ánh sáng Thượng đế thị hiện sự dồi dào mà Thượng đế muốn con có. Một lần nữa, con hãy suy ngẫm câu: “Chúng ta không có gì phải sợ ngoại trừ chính nỗi sợ.” Chỉ là những tin tưởng dựa trên sợ hãi, những tin tưởng khiến con chấp nhận có một số chuyện không thể làm được, đã ngăn cản con có đời sống dồi dào. Vấn đề với sợ hãi là nó khiến con không chịu nhìn vào các tin tưởng của mình và như vậy không làm sao con thấy được những tin tưởng này là ảo tưởng. Con cảm thấy bị giam trong một phòng giam nhỏ xíu nhưng bấy lâu nay cánh cửa chưa bao giờ khóa. Đơn giản là con đã cho phép một ảo tưởng khiến con sợ không dám kéo tay nắm cửa xuống.

Một khi con nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng, con sẽ bắt đầu thấy là đằng sau cái vẻ điên cuồng của đời sống có một ý nghĩa. Nếu cuộc đời con đầy hỗn loạn, lý do đơn giản là con cần học một số bài học đặc thù. Con cứ thu hút hoài những hoàn cảnh ép con phải đối diện một vấn đề trong tâm lý của con thay vì chạy trốn nó. Thày hiểu được nhiều người không thực sự giải quyết vấn đề, dù họ cứ gặp nó hết lần này đến lần khác. Khi con biết tại sao cuộc đời con cứ lặp đi lặp lại, con có thể ra khỏi khuynh hướng chạy trốn. Con có thể nhận ra rằng khi lên kế hoạch cuộc đời mình, con đứng ra ngoài những tin tưởng hiện thời của con và do đó con thật sự có ý muốn ép buộc mình phải học một bài học nào đó. Trong trạng thái nhận biết cao của tâm, con quả thực đã lên kế hoạch bắt mình phải đối diện trở đi trở lại một giới hạn đặc thù cho tới khi giải quyết được giới hạn đó. 

Ngay lúc con chấp nhận mình cần học một bài học và bắt đầu nhìn vượt quá hoàn cảnh bên ngoài, con sẽ thấy tình huống thay đổi một cách cơ bản. Khi con khám phá bài học ẩn tàng và học xong bài học đó, con sẽ bỗng nhiên thấy con không còn thu hút loại hoàn cảnh đó hay loại người đó. Lúc đó con biết mình đã bước một bước quan trọng trên cầu thang xoáy ốc. Con cẩn thận đừng ngủ thiếp trên vòng hoa chiến thắng của mình. Con cần luôn giữ trong tâm là con vừa học xong một bài học quan trọng và đây là lúc con tìm bài học kế tiếp để có thể bước lên bực thang kế tiếp.

Sứ vụ thiêng liêng của con dựa trên thẩm định thực tế tiềm năng phát triển của con trong kiếp này. Con có thể hoàn tất sứ vụ trong một phạm vi đi từ tiềm năng thấp nhất tới tiềm năng cao nhất. Nếu con có thái độ đúng, con có thể hoàn thành tiềm năng cao nhất của sứ vụ thiêng liêng thay vì chấp nhận tiềm năng thấp nhất. Thật vậy có nhiều người trên trái đất kẹt ở một mức trên cầu thang xoáy ốc vì họ từ chối không chịu học một bài học. Đôi khi họ phải trải qua nhiều kiếp sống trước khi họ đau khổ nhiều quá và rốt cuộc thốt lên: “Phải có một cách hay hơn, phải có điều gì tôi chưa hiểu!” Nếu con thật sự muốn tìm những bài học đã được trù định để con học trong kiếp này, con có thể thâu ngắn tiến trình. Trong một kiếp sống con có thể học những bài học mà với một tâm thái khác sẽ mất mười tới hai mươi kiếp để học. Đây quả thật là điều thày mong muốn thấy con làm được để con giải thoát mình khỏi các giới hạn và thể hiện đời sống dồi dào.

9.10. Tình nguyện gánh chịu một phần nghiệp quả thế gian

Có một khía cạnh khác của sứ vụ thiêng liêng mà thày muốn con hiểu. Có nhiều người trong số những người tâm linh hơn trên trái đất đã trong các kiếp trước vươn lên khỏi trạng thái tâm thức ích kỷ, chú tâm vào mình. Họ đã kết nối lại với sự kiện họ ở đây vì một mục đích rộng lớn hơn, là mục đích nâng cao tâm thức tập thể của nhân loại để đời sống dồi dào của Thượng đế có thể trở thành hiện thực trên hành tinh. Điều này đã khiến nhiều người tâm linh tình nguyện mang một số gánh nặng có mục đích nâng cao không những tâm thức của chính họ mà cũng nâng cao tâm thức tập thể. Điều này chỉ làm được bằng cách chuyển hóa năng lượng tha hóa và giải quyết những điểm nghẽn trong tâm lý tập thể. Đây là điều con thấy trong cuộc đời Giê-su và quả thật Giê-su đã có phần gánh chịu tội lỗi thế gian, nghĩa là nghiệp của thế gian, để nhân loại nhẹ gánh và có thể nâng tâm thức lên một mức cao hơn mà không bị đè nặng bởi năng lượng tiêu cực từ quá khứ của họ.

Vũ trụ được thiết kế để con học, vậy nếu Giê-su gánh chịu vĩnh viễn nghiệp của con và con không bao giờ phải giải quyết nghiệp nữa thì làm sao con học được bài học của con? Khái niệm chính thống cho rằng Giê-su đã gánh lấy không những tội lỗi làm ra trong quá khứ mà luôn cả tất cả những tội lỗi có thể làm ra trong tương lai đơn giản không đúng. Nếu Giê-su làm vậy thì làm sao con người học được những bài học trong cuộc sống của họ? Vũ trụ vận hành như tấm gương phản chiếu lại con điều con gửi ra. Khi con trải nghiệm điều được tấm gương gửi trả về, thì con mới có cơ hội học hỏi. Đúng hơn, con chỉ phải học qua trải nghiệm khi con không chịu theo con đường tâm linh và học trước khi hành động quá khứ của con trở về ám ảnh con.

Vì hiện nay trái đất nặng trĩu với quá nhiều năng lượng tha hóa, chuyện quả thực thường xảy ra là những người tâm linh hơn sẽ tình nguyện nhận lãnh một lượng năng lượng, hay nghiệp, nào đó trong tâm thức tập thể. Họ làm thế để vơi dịu gánh nặng trên người khác để những người này không bị quá choáng ngợp và có cơ hội lớn hơn để tiến bộ tâm linh trong kiếp này. Có nhiều người tâm linh đã gánh chịu một nghiệp biểu lộ thành hoàn cảnh sống giới hạn trong kiếp sống này. Tỷ dụ một số người mang bệnh trong thân thể như một minh họa của gánh nặng năng lượng tha hóa mà họ gánh hộ cho nhân loại. Một số người khác có thể trải nghiệm thiếu thốn vật chất vì họ đang gánh chịu năng lượng của nhân loại. Con không gánh chịu năng lượng hay nghiệp đó như một hình thức hy sinh để trả nợ nghiệp hộ người khác.  Con gánh chịu nó để minh chứng cho người khác là có thể khắc phục những gánh nặng này khi tiếp cận đời sống một cách tâm linh. Việc của con không phải là chịu gánh nặng này mãi mãi. Con không trù liệu bị choáng ngợp bởi gánh nặng, công việc của con chính thật là chứng minh cách khắc phục mọi gánh nặng.

Đáng tiếc là nhiều người quên mất là họ đã tình nguyện mang những gánh nặng này, và điều này có thể khiến họ oán hờn hay cảm thấy bất công khi phải mang những gánh nặng đó. Một số người tâm linh bị phân rẽ bên trong vì họ biết qua trực giác là những gánh nặng này không phải của họ. Họ không có viễn quan rõ ràng giúp họ nhận ra họ đã chọn mang những điều kiện này để giúp người khác. Họ cảm thấy bị bất công vì họ nghĩ Thượng đế đã bất công khi áp đặt những gánh nặng này lên họ. Niềm tin này được củng cố bởi ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian. Khi con nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng, con có thể khắc phục thái độ tiêu cực đó và hoàn toàn bình an. dù đang kinh qua một số giới hạn và gánh nặng bên ngoài. Con thấy được là con đã mang những gánh nặng này vì một mục đích lớn hơn và dù chúng gây khó chịu cho con trong kiếp sống này, con nhận ra kiếp sống này chỉ vỏn vẹn là một khoảng khắc rất ngắn trong cái miên viễn của Dòng sông sự Sống. Qua việc chịu gánh nặng thay cho người khác, quả thực con đang tích lũy báu vật cho chính mình trên thiên đàng. Con sẽ nhận phần thưởng xứng đáng trong kiếp tới hay khi con thăng lên cõi tâm linh.

Thày không nói là con phải cam chịu những gánh nặng hiện nay của con và không bao giờ tìm cách khắc phục chúng. Thày khuyến khích con dùng những dụng cụ thày đã cho con, kể cả những bài thỉnh, để tiêu trừ năng lượng tha hóa để con không còn phải mang gánh nặng vật lý nữa. Thượng đế không muốn trừng phạt bất cứ ai. Quy luật đơn giản là mọi năng lượng tha hóa phải được gửi trả về nguồn của nó và năng lượng phải được hoàn nguyên. Có nhiều cách để cân bằng năng lượng bị tha hóa. Một cách là chịu năng lượng đó dưới dạng hoàn cảnh vật lý. Nếu con có thể tiêu trừ năng lượng tha hóa trước khi nó đi xuống tới cõi vật chất, con không cần phải mang gánh nặng vật lý. Con có thể dùng các bài thỉnh của thày để chuyển hóa năng lượng để con không phải mang hay tiếp tục mang gánh nặng vật lý này.

9.11. Tấm gương Ki-tô vượt lên trên mọi giới hạn

Mục đích thật đằng sau sứ vụ của Giê-su là làm gương cho nhân loại, gương của một người sinh ra trong hoàn cảnh có vẻ nghèo nàn nhưng vẫn có thể vượt lên trên những giới hạn bên ngoài và biểu đạt tâm thức Ki-tô, qua đó thày đạt được tự do vĩnh cửu. Nhiều người tâm linh trên trái đất đã tình nguyện mang một số gánh nặng và điều kiện giới hạn để nêu gương cho người khác thấy là có thể vượt lên trên bất kỳ điều kiện vật lý nào và biểu đạt một lối sống tâm linh hơn. Có thể con đã tình nguyện ở trong hoàn cảnh hiện tại của con để chứng minh cho người chung quanh là họ cũng có thể vượt lên trên những giới hạn này. Ông hoàng thế gian đã thành công trong việc phá hủy gương của Giê-su và hầu hết con người không thể đồng hóa với thày hay nghĩ là họ có thể theo chân thày. Kế hoạch hiện nay của các chân sư thăng thiên là gửi xuống trái đất nhiều dòng sống trưởng thành để chứng minh rằng khoác vào tâm Ki-tô sẽ cho con quyền năng vượt lên trên  mọi giới hạn nhân phàm. Khi hàng ngàn rồi hàng ngàn người chứng minh điều này, ông hoàng thế gian không thể phá hủy gương của tất cả những người này. Thật dễ để đặt một người lên bệ và nói rằng người ấy độc nhất nhưng rất khó chuyển 10,000 người thành ngoại lệ.

Nếu con nhìn vào cuộc đời hiện nay của con, quả thật con có thể thấy một số điều kiện giới hạn. Những điều kiện này không nhất thiết phải thường trực, không nhất thiết phải tồn tại suốt cuộc đời còn lại của con. Có thể con có ý muốn chứng minh con đường khắc phục những điều kiện như thế và đây là một phần của sứ vụ thiêng liêng của con. Có thể con có mục đích chứng minh con có thể gỡ bỏ những giới hạn vật lý hay qua thái độ tiếp cận cuộc sống một cách tâm linh, con có thể sống với những điều kiện này mà không để chúng ngăn cản con là người con là và làm công việc con tới đây để làm. Trong cả hai trường hợp, con vượt thăng những giới hạn đến điểm chúng không còn quan trọng, chúng không cản con là người con là và rọi ngọn đèn của con trước thế giới.

Khi con hòa điệu với sứ vụ thiêng liêng của con, con cũng có thể bắt đầu hòa điệu với những cách cụ thể khắc phục nhũng giới hạn mà con đối diện. Thượng đế không bao giờ đòi hỏi con phải đối diện một giới hạn mà con không thể khắc phục – nếu con sẵn lòng vượt thăng chính mình để khắc phục niềm tin nhị nguyên tạo ra cảm tưởng không thể nào khắc phục giới hạn. Việc con khám phá niềm tin nhị nguyên, giải quyết nó và vượt lên trên nó là một phần của sứ vụ thiêng liêng của con.

Khi con khắc phục một tin tưởng nhị nguyên đặc thù, con sẽ mở một con đường xuyên qua rừng rậm của tâm thức tập thể. Con xẻ một con đường và người khác có thể đi theo con đường này. Khi càng nhiều người đi theo con đường con đã khai phá, nó sẽ rộng hơn, khiến người khác dễ đi hơn. Có thể con đã tình nguyện mang vào một giới hạn đặc thù vì con muốn là người khai phá con lộ mới chứng minh cho người khác cách khắc phục giới hạn cụ thể đó.

Tỷ dụ, nhiều người đã tình nguyện mang bệnh ung thư để chứng minh bệnh này không vô phương cứu chữa như nhiều người đã tin. Để có thể minh chứng hoàn toàn điều này, con cần phơi bày những niềm tin nhị nguyên dẫn tới bệnh ung thư hay bất cứ giới hạn nào khác. Đây quả thực là một phần của kế hoạch thiêng liêng lớn hơn cho hành tinh trái đất. Con đang sống trong một thời đại mà các vị thày tâm linh của nhân loại, các chân sư thăng thiên, tha thiết đem lại nhiều khám phá mới và tiết lộ mới giúp con người khắc phục những giới hạn của họ. Có thể con đã tình nguyện chịu một giới hạn nào đó vì con muốn là một phần của kế hoạch tổng quát này. Bằng cách thanh tẩy trí thể và nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng của con, con cũng sẽ nối kết lại với kế hoạch lớn hơn cho hành tinh. Lúc ấy con sẽ biết con có thể đóng góp phần việc cá nhân của con như thế nào và việc này sẽ cho con quyền năng để khám phá những sáng ngộ mà con cần để khắc phục những tin tưởng nhị nguyên là nguyên nhân ẩn tàng đằng sau những giới hạn hiện nay của con.

9.12. Dòng sông sự Sống là lực tiến bộ không cản được

Cuộc sống không phải là một trò chơi may rủi hay sự trừng phạt của một Thượng đế giận dữ. Cuộc sống không phải là một tiến trình hỗn loạn có vẻ như không có ý nghĩa hay phương hướng. Nếu con chịu nhìn quá các dáng vẻ bề ngoài trên hành tinh này, con sẽ thấy đằng sau là Dòng sông sự Sống đang đẩy nhân loại tiến lên trước với một lực không cản được. Con người có thể làm cho dòng chuyển động này chậm đi nhưng không thể ngưng nó lại mãi mãi. Con thử nhìn lịch sử của 2,000 năm qua và cho dù nhân loại thường rơi vào cạm bẫy của lực muốn cản họ thay đổi, vẫn có một sức mạnh thúc đẩy tiến bộ không gì cản nổi. Tâm thức tập thể của nhân loại hay ông hoàng thế gian đều không thể ngưng lực tiến bộ này, là Dòng sông sự Sống, sẽ đưa nhân loại tới một mức nhận thức cao hơn. Hẳn là có nhiều vấn đề trong thế giới ngày nay không có mặt 2,000 năm trước đây và về một phương diện nào đó thế giới ngày nay nguy hiểm hơn thời trước. Vượt quá những dáng vẻ bề ngoài này, nhân loại quả thực đã tiến lên một mức nhận biết cao hơn nhiều, một mức hiểu biết lớn hơn nhiều về cuộc sống.

Hiểu được thực tại đằng sau những dáng vẻ bề mặt là tiềm năng cao nhất của trí thể của con. Trí thể của con là thể tập trung minh triết của Thượng đế và con có thể nhớ câu nói trong Kinh Thánh: “Minh triết là điều chính yếu; do đó, con hãy tìm minh triết; và với tất cả của cải con, hãy đi tìm hiểu biết” (Proverbs 4:7). Mục tiêu cao nhất khi thanh tẩy trí thể là con hiểu ra mục đích thật của sự sống và mục đích cụ thể của kiếp sống này của con. Cũng qua trí thể mà con hiểu được những quy luật mà Thượng đế đã dùng để thiết kế vũ trụ. Lúc đó con có thể đem mình thẳng hàng với những quy luật này, qua đó con hoàn thành vai trò dùng những quy luật này để thị hiện vương quốc Thượng đế.

Ôi con yêu dấu, con có cảm thấy được chăng niềm vui đến từ hiểu biết con không tách rời với tổng thể, con không bị bản án sống trong một thế giới hỗn loạn không có mục đích? Con có cảm thấy rằng khi tìm ra sứ vụ thiêng liêng, con sẽ khám phá cuộc sống có ý nghĩa và mục đích sâu xa? Nó không phải là ý nghĩa quá trừu tượng đến độ tách xa đời sống thường nhật. Ngược lại, ý nghĩa này thấm nhập vào từng chi tiết nhỏ nhất của đời sống thường nhật. Nó giúp con nhận ra rằng ngay cả những điều kiện có vẻ bình thường nhất cũng gói ghém một bài học và cơ hội khắc phục một giới hạn. Con có thể chứng minh cho người khác là nhân loại có thể vươn lên một mức cao hơn và càng ngày càng tiến gần hơn chuyện thị hiện vương quốc Thượng đế trên trái đất.

Đây là bài học tổng quát mà nhân loại cần học trong thời đại này, tức là con người có thể vượt lên trên toàn bộ tâm thức giới hạn, tâm thức nhị nguyên, tâm thức Ma-môn và đem vương quốc Thượng đế, niềm vui khi trôi theo Dòng sông sự Sống, vào đời sống hàng ngày của con người. Những giới hạn mà con thấy đơn giản là những phóng chiếu tạm thời của tâm thức nhị nguyên. Chúng là sản phẩm của sự kiện hầu hết con người có những cuộn phim bất toàn trong tâm họ và họ phóng chiếu những hình ảnh bất toàn vào tấm gương vũ trụ xuyên qua những cuộn phim này. Khi con người nâng cao tâm thức và vứt đi những niềm tin nhị nguyên, họ sẽ phơi bày ra cuộn phim thật, cuộn phim của Bản thể cao hơn của họ và của sứ vụ thiêng liêng của họ. Lúc ấy họ sẽ bắt đầu phóng chiếu những hình ảnh toàn hảo vào tấm gương vũ trụ và tấm gương vũ trụ sẽ nhất định phản chiếu lại những hình ảnh đó như những điều kiện vật lý toàn hảo trên hành tinh. Hành tinh trái đất sẽ có thể trở lại sự trong sáng và diễm lệ nguyên thủy của nó, hơn rất xa tình trạng bất toàn hiện nay đến độ hầu hết con người không thể nắm bắt được một viễn quan cao như thế. Khi con bắt đầu thanh tẩy trí thể, con sẽ bắt đầu nắm bắt tiềm năng thật của cuộc đời của chính con và tiềm năng thật cho hành tinh trái đất. Điều này sẽ đem lại cho con sự bình an trong tâm, chính là trạng thái tự nhiên của trí thể của con.

Trí thể của con tập trung sự an bình Thượng đế, sự an bình vượt quá hiểu biết, nghĩa là hiểu biết của trí năng nhân phàm và của trạng thái tâm nhị nguyên. Trí thể của con có thể neo trụ bình an Thượng đế bằng cách nắm bắt hiểu biết cao hơn mà tâm thức nhị nguyên không thể nắm bắt. Khi con thấy tầm nhìn cao hơn này, khái niệm tinh khôi này, con sẽ phân biện được chân với giả, điều gì thẳng hàng hay không thẳng hàng với Thượng đế, điều gì là thành phần hay không là thành phần của sứ vụ thiêng liêng của con. Khi đạt được phân biện này, con có thể có chọn lựa đúng qua đó con có thể đem tư tưởng mình thẳng hàng lại với thực tại của sứ vụ thiêng liêng của con và bản sắc thật của con. Con có thể bảo đảm là khi ánh sáng Thượng đế chảy vào cảm thể của con, nó không bị phân rẽ nội tại, xung đột nội tại. Nó sẽ không khởi động những cảm xúc mâu thuẫn gây hại cho biết bao người và cản họ thị hiện dồi dào Thượng đế.

Minh triết cao hơn sẽ thấm nhập tất cả ảo tưởng nhị nguyên đang ngăn cản con biết con là ai và thấy sự vụ thiêng liêng của con. Khi con nắm bắt minh triết đó, con sẽ thấy là mỗi khía cạnh của cuộc đời con phục vụ một mục đích lớn hơn. Lúc ấy con sẽ biết là không có gì lãng phí, không có gì vô ích. Con sẽ biết là bất kể những gì con đã trải qua, con vẫn có thể xoay chuyển cuộc đời mình và dùng những kinh nghiệm quá khứ làm bàn đạp để đạt được chiến thắng vĩnh cửu.

Con hãy theo thày để thày dẫn con tới chiến thắng đó và con hãy theo thày khi thày trao cho con giáo lý chỉ con cách đem cảm nhận chiến thắng này vào cảm thể của con. Cảm thể là trụ điểm của những ảo tưởng do ngã hữu diệt của con và ông hoàng thế gian chế ra. Cảm xúc của con dễ bị khuấy động và chỉ khi nào con có sự sáng rõ của minh triết Thượng đế con mới thấy được xuyên thấu những cám dỗ mà ông hoàng thế gian đưa ra, những cám dỗ có mục đích khiến con chấp nhận những điều kiện bất toàn là thật và không tránh được. Con có thể nhìn thẳng vào mắt ông hoàng thế gian và nói với toàn thể quyền năng của Bản thể cao của con: “Tà ác không thật và các dáng vẻ của nó không có quyền lực trên tâm thức của tôi và hành tinh này!”

7 | Thay đổi cách con nghĩ mình là ai

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 23/4/2005.

7.1. Ý chí Thượng đế là ý chí của con

Trái tim yêu dấu của mẹ, trong chương này thày sẽ trao cho con một số giáo lý mà thày đặc biệt thiết kế để giúp con thanh tẩy những niềm tin bất toàn trong thể bản sắc của con. Có thể nói là tất cả những điều thày giảng cho tới nay đều liên quan đến việc thanh tẩy thể bản sắc, nhưng có một số điều thày chưa giảng giải chi tiết, và thày sẽ làm việc này ở đây. Khía cạnh quan trọng nhất của việc thanh tẩy thể bản sắc là khi con làm việc này thì con sẽ khám phá bản sắc thật của mình, con sẽ khám phá con thật sự là ai, như một sinh thể tự do trong Thượng đế, và được đấng Sáng tạo thiết kế ban đầu như một nối dài của chính ngài. Nội dung của thể bản sắc liên quan thẳng đến mục đích con tới vũ trụ vật chất để làm gì. Điều con tới đây để làm là biểu hiện của con người con thực sự là, có nghĩa là Sinh thể tâm linh đã gửi xuống một phần được cá nhân hóa của chính mình.  

Một trong những hiểu lầm thông thường trên trái đất là quan niệm ý chí Thượng đế bên ngoài, tách biệt và có khi đối chọi ý chí cá nhân của con. Đây là một ảo tưởng rất nguy hiểm và xảo quyệt đã ảnh hưởng nhiều người tầm đạo. Lẽ tất nhiên, ý chí Thượng đế luôn luôn đối nghịch ý chí của ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian. Ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian hoàn toàn mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên, tâm thức phát xuất từ ý niệm tách biệt khỏi Thượng đế. Từ trong bản chất họ coi họ đứng ngoài và đối chọi với ý chí Thượng đế.  

Ý chí của tự ngã, ý chí của ngã hữu diệt, sẽ luôn luôn cảm thấy bị gò bó bởi ý chí Thượng đế. Ngã hữu diệt sẽ tìm cách khiến con tin ảo tưởng cho rằng muốn tuân theo ý chí Thựơng đế, con cần phải từ bỏ ý chí của mình. Con cần phải buông bỏ ý chí của mình và tuân theo ý chí Thượng đế, và tùng phục bậc thẩm quyền cao này đang muốn kiểm soát con. Thậm chí ý tưởng này dẫn tới niềm tin rằng chỉ khi nổi loạn chống Thượng đế trong Vườn Địa đàng thì con người mới có được quyền tự quyết. Đây là cố gắng tối hậu biện minh cho sự hiện hữu của ngã hữu diệt bằng cách sử dụng lô-gíc nhị nguyên của tâm phản-Ki-tô. Nó thực sự hàm ý là trước khi Adam và Eve ăn trái cấm, họ chỉ là những người máy. Nếu họ quả thật chỉ là người máy, thì làm sao họ lại có thể không tuân lệnh “lập trình” của họ?

Con được tạo ra với quyền tự quyết ngay từ lúc ban đầu, và khi con nổi loạn chống ý chí Thượng đế, con không giành được quyền tự do chọn lựa. Con đã đánh mất quyền tự do đó khi con trao nó cho ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian. Sở hữu lớn nhất của con là cá thể của mình, và con có một khát khao nội tại muốn phát biểu cá thể đó. Nếu ngã tách biệt và ông hoàng thế gian có thể khiến con tin rằng biểu lộ cá thể không tượng hợp với việc thuận theo ý chí Thượng đế, thì con sẽ là một ngôi nhà chia rẽ bên trong. Con có một khát khao nội tại muốn được trọn vẹn, mà con chỉ đạt được trọn vẹn bằng cách thuận theo ý chí Thượng đế, và con có khát khao nội tại phát biểu cá thể của mình. Nếu con tin hai điều này không thể tương hợp, thì con sẽ không bao giờ cảm thấy trọn vẹn và toại nguyện.

Chỉ có cách giải quyết duy nhất là con nhận ra mâu thuẫn có vẻ có giữa ý chí cá nhân của con và ý chí Thượng đế chỉ là một ảo tưởng nhị nguyên. Ảo tưởng này đã được nhiều tôn giáo chính thống củng cố, là những tôn giáo mô tả Thượng đế như một sinh thể giận dữ trên trời đang theo dõi từng cử động của con và sẵn sàng trừng phạt con khi con có gì sai trái. Tim thày nặng trĩu khi thấy nhiều người tâm linh chân thành bị mắc kẹt trong niềm tin vi tế ý chí Thượng đế đối chọi với ý chí của riêng họ. Niềm tin này khiến nhiều người tâm linh cảm thấy một nỗi oán giận vi tế đối với Thượng đế vì sự kiện họ đang sống. Họ có cảm tưởng Thượng đế đã ép họ phải sống, và do đó Thượng đế chịu trách nhiệm về các nỗi khổ và giới hạn của họ. Họ cảm thấy không làm chủ cuộc đời mình. Họ nghĩ Thượng đế đã tạo ra họ, cho họ quyền tự quyết, gửi họ xuống thế giới này,và giờ đây Thượng đế bỏ rơi họ vì họ đã phạm một lỗi lầm trong quá khứ. Tất cả các niềm tin này đều phát xuất từ ngã hữu diệt, và chính ngã hữu diệt cũng không tin những điều này. Ngã hữu diệt sử dụng chúng để gây chia rẽ giữa con và cái Ta cao của con, giữa cái Ta Biết và bản sắc thật của con như một Sinh thể tâm linh lớn hơn mà con là.

Thày hiểu rõ vì sao nhiều người tâm linh tin lời gian dối đó. Khi con có niềm tin nhị nguyên, bất toàn trong thể bản sắc, thì con giản dị không thể nhìn quá tầng thể bản sắc. Con không thể nhìn quá cõi vật chất và khám phá Sinh thể tâm linh lớn hơn mà con là một cá nhân hóa của sinh thể đó. Lam sao con có thể chấp nhận ý chí Thượng đế quả thực là ý chí của con? Một trong những lợi ích lớn nhất của việc thanh tẩy thể bản sắc là con sẽ nhận ra và hoàn toàn chấp nhận ý chí của Thượng đế quả thật là ý chí của con, và ý chí của con là ý chí của Thượng đế. Để giúp con giải tỏa điều có vẻ bí ẩn này, con hãy để thày dẫn con đi một hành trình vượt quá không gian và thời gian.

7.2. Con tới đây để biểu hiện một đặc tính của Thượng đế

Thời xa xưa có một Sinh thể tâm linh bất tử, ngụ trên cõi tâm linh, là cõi ở trên và vượt quá vũ trụ vật chất. Sau khi đấng Sáng tạo đã tạo ra bầu cõi vũ trụ vật chất, Sinh thể đó thấy là để tiến trình sáng tạo được tiếp tục thì phải có người đi xuống vũ trụ vật chất và đem lại ánh sáng của Thượng đế. Phải có người nhận lãnh vai trò đồng-sáng tạo để vũ trụ vật chất dần dần được lấp đầy bởi ánh sáng và qua đó trở thành một minh châu khác trên vương miện của Sinh thể của Thượng đế. Sinh thể tâm linh đó quyết định là quả thật vị ấy muốn góp phần vào tiến trình sáng tạo, quả thật muốn phụng sự đấng Sáng tạo bằng cách gửi một phần của vị ấy xuống vũ trụ vật chất để tỏa rạng ánh sáng của Thượng đế và nâng vũ trụ vật chất lên một tầng rung động cao hơn. Sinh thể tâm linh đó thấy rõ ràng là vị ấy là một phần nối dài, một cá nhân hóa, của đấng Sáng tạo là sinh thể đã khai mở toàn bộ tiến trình sáng tạo thế giới hình tướng. Sinh thể tâm linh cao đó quyết định gửi một phần của chính mình vào cõi vật chất. Một Sinh thể tâm linh bất tử không thể gửi toàn bộ bản thể của mình vào cõi vật chất. Vị ấy gửi một phần của bản thể vị ấy, một cá nhân hóa của vị ấy, và phần đó trở thành một dòng sống cá biệt. Dòng sống cá biệt đó không tách rời và không đối chọi với “cha” tâm linh của nó. Tuy nó có cá thể và quyền tự quyết, ý chí nguyên thủy của nó không tách biệt hay đối chọi với ý chí lớn hơn của nguồn cội tâm linh của nó và ý chí còn lớn hơn nữa của chính đấng Sáng tạo.

Con không được tạo ra trong trống không. Con không được tạo ra bởi một Thượng đế bên ngoài, xa cách đã dùng sức mạnh gửi con vào vũ trụ vật chất mà không cho con quyền chọn lựa. Con là một nối dài của một Sinh thể tâm linh lớn hơn, và con biểu hiện sự kiện Sinh thể tâm linh lớn hơn đó muốn vươn mình vào vũ trụ vật chất và đem lại ánh sáng và vương quốc Thượng đế để thay thế bóng tối đang bao trùm mặt đất. Sau khi con được tạo ra như một dòng sống cá biệt, con có chọn lựa hoặc đi xuống vũ trụ vật chất hoặc theo đuổi tăng trưởng trên cõi tâm linh. Vì con thấy rõ mục đích vì sao con được tạo ra, nên con chọn với lòng thương yêu đi xuống vũ trụ vật chất như một sứ thần của Sinh thể lớn hơn mà con là. Con không bị ép buộc phải tới đây. Sự việc con tới đây là kết quả một chọn lựa, và chọn lựa đó không do một sinh thể, ngoại lai lấy. Chính con, cái Ta Biết, đã lấy chọn lựa đó trong tâm thái thấy mình là một nối dài của Sinh thể lớn hơn mà con là.

Thầy biết là điều thày giảng có vẻ trừu tượng ở tầng tự nhận biết của con. Thày bảo đảm với con là khi con tăng trưởng tự nhận biết, khi con thanh tẩy các hình ảnh nhị nguyên khỏi thể bản sắc của con, thì con sẽ tới điểm thấy điều thày nói ở đây là sự thật. Con ở đây vì con đã chọn tới đây, và con đã chọn trong tình thương. Con ở đây vì con muốn ở đây. Thày biết là có nhiều khía cạnh của hoàn cảnh hiện thời của con không thẳng hàng với ý muốn và mục đích nguyên thủy khi con tới đây. Những bất toàn đó là kết quả của những chọn lựa mà cái Ta Biết đã lấy khi nó bị ảnh hưởng bởi tâm thức nhị nguyên. Một khi con tách cái Ta Biết ra khỏi các niềm tin nhị nguyên đó thì con sẽ quả thật trở về nhận biết rõ ràng vì sao con đã tới đây.

À con yêu dấu, thày bảo đảm với con là khi con kết nối lại với mục đích vì sao con tới đây, thì cuộc đời của con sẽ mang một chiều kích hoàn toàn mới. Con sẽ đạt được một lý lẽ sống sâu đậm và vui tươi sẽ giúp con thực sự kết nối với ý nghĩa nguyên thủy, mục đích nguyên thủy của tạo vật của Thượng đế. Con sẽ biết con là ai và vì sao con thực sự tới trái đất. Con sẽ biết con là phần nối dài của một Sinh thể tâm linh lớn hơn thể hiện một đặc tính đặc thù của Thượng đế. Con sẽ biết là con ở đây để đem một đặc tính đặc thù của Thượng đế xuống trái đất và qua đó con phục vụ như một mặt của viên kim cương của tâm Thượng đế sẽ thể hiện vương quốc Thượng đế trên hành tinh này. Lúc đó con sẽ kết nối lại với toàn thể Thân thể Thượng đế và thấy là con thuộc một làn sóng lớn những Sinh thể tới trái đất vì một mục đích cao. Điều này sẽ cho con ý niệm cuộc sống có mục đích, có ý nghĩa, có hướng đi thiêng liêng, và đây quả thật là sự thành tựu tối hậu mà tất cả các người tâm linh đều khao khát tự đáy lòng.

À con yêu dấu, tim thày nhói đau khi thấy có quá nhiều người trên trái đất tự hỏi cuộc sống có mục đích hay có ý nghĩa sâu xa chăng. Câu trả lời quá hiển nhiên và rõ ràng – một khi con đã vươn lên khỏi tâm thức nhị nguyên. Thày biết là khi còn bị mắc kẹt đằng sau tấm màn ảo tưởng tạo ra bởi tâm thức nhị nguyên, thì câu trả lời có vẻ hão huyền và không thể nắm bắt. Thày không có mong muốn nào mạnh hơn là thấy con, tất cả những người tâm linh, vươn lên khỏi tấm màn ảo tưởng đó – tấm màn năng lượng tà ác đó – để con được tự do biết mình thực sự là ai và lý do vì sao con tới vũ trụ này. Đó là lúc con có thể bắt đầu biểu hiện cá thể độc đáo của mình và đem lại món quà độc đáo của con cho hành tinh. Đây quả thật chính là nền tảng để trải nghiệm đời sống dồi dào.

Con không thực sự tin rằng đời sống dồi dào chỉ có nghĩa là có tiền, phải không con? Thày bảo đảm với con là đời sống dồi dào thực sự đến từ việc con biết mình là ai và vì sao con tới hành tinh này, từ cảm nhận ánh sáng Thượng đế đang tuôn chảy qua bốn thể phàm của con. Đời sống dồi dào đến từ nhận biết tất cả khía cạnh của con người phàm của con đều thẳng hàng với mục đích nguyên thủy vì sao con tới đây. Mọi khía cạnh cuộc đời con biểu lộ mục đích đó và đóng góp vào việc thành tựu mục đích đó. Đây là trạng thái dồi dào tối hậu, cảm giác tối hậu con đang trôi theo Dòng sông sự Sống, là dòng sông của sự  tự thăng vượt vĩnh củu của Thượng đế nâng con lên các tầng càng ngày càng cao hơn, và qua đó nâng độ rung của toàn thể hành tinh.  

7.3. Con cần kết nối trở lại với ý chí Thượng đế

Thày có nói thể bản sắc là trụ điểm của ý niệm bản sắc của con, nhưng nó cũng là thể tập trung uy lực ý chí, uy lực quyết tâm, uy lực định hướng, uy lực chí hướng. Xung lực căn bản đằng sau việc con xuống cõi vật chất là một quyết định. Toàn  bộ dòng sống của con bắt nguồn từ một hành động thể hiện ý chí. Hành động ý chí này nối dài quyết định nguyên thủy của đấng Sáng tạo, rằng: “Ta muốn sáng tạo!”

Nếu con muốn thành công tối hậu trong việc biểu hiện cuộc sống dồi dào, thì con cần kết nối trở lại với ý chí cao hơn của con người con, ý chí vượt quá bất cứ gì có thể chứa đựng trong bốn thể phàm của con. Con phải kết nối với ý chí cao hơn ý chí của tâm ý thức của con. Nhiều người trên trái đất đã chân thành cố gắng chinh phục một thói quen phá hoại hay cải thiện đời sống một cách nào đó. Nhưng, sau một khoảng thời gian dài hoặc ngắn, họ hoặc bỏ cuộc hoặc trở về khuôn nếp cư xử cũ.

Nhiều người, đặc biệt những người tâm linh hơn trên hành tinh này, có thể thấy là có quá nhiều chuyện trên trái đất giản dị không đúng, có quá nhiều chuyện cần được cải thiện. Một số người đã có cố gắng chân thành cải thiện cuộc sống trên hành tinh, cải thiện một khía cạnh nào đó của xã hội. Nhiều người thấy là có lực chống cự thay đổi lạ thường, chống cự cải thiện, và do đó nỗ lực cải thiện của họ không đạt kết quả. Họ cảm thấy họ phải đấu tranh và đấu tranh, nhưng vẫn không đi đến đâu. Lúc nào cũng có lực chống cự mỗi bước họ muốn đi. Đây là sự chống cự đến từ tâm phản-Ki-tô, trụ trong ngã hữu diệt của từng cá nhân trên hành tinh, trụ trong tâm thức tập thể, ông hoàng thế gian và mọi lực – đang hiện thân hay không hiện thân – đang bị mắc kẹt trong tâm thức phản-Ki-tô.

một lực phản-ý chí trên hành tinh, đang tích cực chống lại ý chí của Thượng đế và sự thể hiện vương quốc Thượng đế trên trái đất. Những lực chỉ có thể sống trong bóng của tăm tối không muốn con hay bất cứ ai khác đem ánh sáng Thượng đế xuống hành tinh này. Khi bóng của tâm thức nhị nguyên tan biến thì họ không còn chỗ lẩn trốn. Khi họ không thể lẩn trốn thì họ không đánh lừa được ai, họ không thể tiếp tục tồn tại trên hành tinh. Như một người tầm đạo chân thành, con không thể phớt lờ coi như lực phản-ý chí đó không có, vì nếu con làm vậy thì con không thể nâng mình lên khỏi nó.

Quyền năng sáng tạo của con tùy thuộc sức mạnh của ánh sáng tuôn chảy xuyên qua bốn thể phàm của con, sức mạnh của ành sáng mà tâm ý thức của con có thể sử dụng. Có một lực phản-ý chí trong cõi vật chất. Lực này chỉ sử dụng được năng lượng đã được mang vào cõi vật chất. Chúng ta hãy giả dụ lực này có thể sử dụng năng lượng khoảng 1000 Hz. Nếu tâm ý thức của con có khả năng điều khiển ánh sáng rung động ở tần số 500 Hz, thì làm sao con khắc phục được lực phản-Ki-tô có sức mạnh 1000 Hz? Hoàn toàn không có cách nào con có thể làm được. Con có thể có thiện ý cao nhất thế giới, con có thể có giáo lý tâm linh tốt, thậm chí kỹ thuật tâm linh tốt, nhưng nếu uy lực ý chí của con, sức mạnh quyết tâm mà con có thể gom góp với tâm ý thức, yếu hơn lực của phản-ý chí có mặt trong cõi vật chất, thì làm sao con có thể khắc phục được lực đó và tiến lên trong hướng con muốn đi? Lam sao con có thể thành công trong việc thay đổi xã hội và hành tinh, nếu con không thể đem vào một lực mạnh hơn lực phản-ý chí của tâm thức tập thể?

Cũng có một lực phản-ý chí trong cõi cảm xúc, cõi tư tưởng và cõi bản sắc. Ở mỗi tầng, lực này đạt được một sức mạnh nào đó. Để có thể khắc phục lực phản-ý chí đó, trên bình diện cá nhân và rộng lớn hơn, con cần mang vào một lực ý chí tích cực mạnh hơn lực phản-ý chí. Đây chỉ là chuyện toán học thông thường, và không cần phải là thiên tài mới làm được tính cộng. Nếu con có cộng hai và trừ bốn, và con cộng chúng lại, thì kết quả là gì? Kết quả là con vẫn ở số âm, như vậy làm sao con có được một thay đổi có số dương?

Con yêu dấu, thày không tìm cách khiến con nản chí khi thày chỉ cho con điều này. Thày đang tìm cách giúp con thấy là để có tiến bộ thực trong đời, để biểu hiện cuộc sống dồi dào, con cần khám phá một nguồn uy lực ý chí mạnh hơn những gì có mặt trong thế gian. Nguồn uy lực ý chí này phát xuất từ việc con kết nối lại với con người thật mà con là, với sinh thể tâm linh lớn hơn mà con là một nối dài. Một khi con kết nối trở với Sinh thể tâm linh lớn hơn của con, thì con kết nối trở lại với mục đích nguyên thủy vì sao con đến đây, và do đó con tiếp nhận được toàn thể uy lực ý chí bắt nguồn từ tận đấng Sáng tạo. Tuyệt đối không có lực nào trên thế gian, không có lực nào do ngã hữu diệt, tâm thức tập thể hay ông hoàng thế gian tạo ra, có thể kháng cự uy lực ý chí của Thượng đế.

Uy lực ý chí của Thượng đế vượt quá xa hơn tất cả những gì hầu hết con người từng trải nghiệm nên con có thể bị cú sốc khi con kết nối với nó lần đầu. Ý chí Thượng đế tuyệt đối, không khoan nhượng, và nó không dung dưỡng suy luận nhị nguyên của tâm phản-Ki-tô. Đó là lý do vì sao Thánh kinh nói là trong nó không có thay đổi, không có bóng hay đổi hướng (James 1:17). Ý chí Thượng đế đơn giản không tha hóa sự thực và không chấp nhận bất cứ lực nào chống đối việc thể hiện vương quốc Thượng đế. Khi con buộc mình vào ý chí của sinh thể lớn hơn của con, thì con sẽ không chấp nhận bất cứ điều kiện nào trên trái đất ngăn trở sự thành tựu của mục đích nguyên thủy khiến con tới đây. Đây chính là sức mạnh con cần có để đột phá lực phản-ý chí của ngã hữu diệt, lực phản-ý chí của những người chung quanh con, lực phản-ý chí của tâm thức tập thể và của ông hoàng thế gian.

Bản chất cơ bản của tâm phản-Ki-tô là tha hóa sự thực, tha hóa thực tại Ki-tô. Tất cả những gì bị tâm thức nhị nguyên ảnh hưởng là một tha hóa. Chiến thuật chủ của ông hoàng thế gian là tìm cách dụ dỗ, lừa lọc hay ép buộc con tha hóa sự thực. Làm sao con khắc phục khuynh hướng tha hóa và cám dỗ vi tế của suy luận nhị nguyên? Con chỉ khắc phục được nó bằng cách kết nối lại với một lực hoàn toàn vượt quá tha hóa, và lực đó là ý chí Thượng đế. Ý chí Thượng đế sẽ không tha hóa sự thực, do đó khi con kết nối trở lại với ý chí đó, con sẽ không tha hóa mục đích nguyên thủy vì sao con tới đây.

Con cần thay đổi để dòng sống của con kết nối trở lại được với ý chí Thượng đế. Việc này không thể thực hiện một sớm một chiều, và nó quả thực cần thời gian và nỗ lực. Con cần loại bỏ những niềm tin nhị nguyên đã khiến con tạo dựng một ý chí tách biệt, một ý chí tách biệt với ý chí nguyên thủy khiến con xuống vũ trụ này. Thày có ý định giúp con thoáng thấy uy lực của ý chí Thượng đế mà con có thể tiếp nhận. Khi con kết nối trở lại với uy lực Thượng đế, thật sự là uy lực của cái Ta của con, cái ta cao của con, quả thật con có thể quét phăng và khắc phục mọi lực chống đối việc biểu lộ khả năng sáng tạo của con, mọi chống đối từ ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian.    

Bốn thể phàm của con tạo thành một cấu trúc có tầng cấp và tâm ý thức của con ở tầng thấp nhất của cấu trúc đó. Con không thể dùng tâm ý thức, là tâm trụ vào thể vật lý, để khắc phục lực phản-ý chí. Cái Ta Biết có thể tách ra khỏi tâm ý thức và kết nối lại với bản sắc thật của con. Nó có thể đem sự quyết tâm của ý chí Thượng đế xuống tầng tâm ý thức. Khi con có quyết tâm đó, thì con sẽ không cho phép bất cứ gì, ở bên trong tâm của con hay bên ngoài con, ngăn trở sự thành tựu của mục đích khiến con tới trái đất. Chỉ khi con có quyết tâm đó thì con mới có thể quét phăng đi sự chống đối sứ vụ thiêng liêng của con, sự chống đối lý do vì sao con hiện hữu.

7.4. Biểu hiện dồi dào bằng cách kết nối với cái Ta cao

Một lợi ích khác của việc kết nối với ý chí cao của con là con biết Thượng đế cho con quyền có mặt ở đây trên hành tinh trái đất và con có quyền biểu hiện và phát biểu tâm thức Ki-tô. Nhiều người tầm đạo chân thành có tình thương lớn với Thượng đế, nhưng họ e dè không muốn công nhận có tăm tối và xấu ác . Đây chỉ giản dị là một khía cạnh của khuynh hướng chạy trốn những gì có vẻ choáng ngợp. Một khi con kết nối trở lại với uy lực của ý chí Thượng đế, thì con sẽ không bao giờ sợ bất cứ lực nào của thế gian nữa. Con biết là chúng không thể so với uy lực Thượng đế và uy lực đó có thể bảo vệ con khỏi bất cứ lực thế gian nào.

Chỉ khi con có cái biết nội tại con được Thượng đế gửi đến đây để đem ánh sáng vào thế giới tăm tối này, thì con mới chống trả được mũi tấn công của ông hoàng thế gian sẽ thách thức con như y đã  thách thức và cám dỗ Giê-su. Ông hoàng thế gian có kiêu mạn và mù quáng tâm linh tối hậu nên nghĩ y sở hữu toàn thể thế giới vật chất. Y nghĩ tất cả mọi người trên thế gian thuộc về y và nằm dưới quyền kiểm soát của y. Điều y không muốn nhất là có một người hiện thân đạt được tâm thức Ki-tô. Khi đó con không những ra ngoài tầm kiểm soát của các lực thế gian, nhưng con cũng làm gương cho người khác. Đây là mục đích nguyên thủy của sứ vụ của Giê-su, và ông hoàng thế gian làm tất cả những gì y có thể làm để ngăn Giê-su hoàn thành sứ vụ của mình. Khi điều này không thành, y đổi chiến thuật và tìm cách tiêu hủy gương của Giê-su để không ai dám cả gan noi theo những gì Giê-su hứa và làm những gì Giê-su làm (John 14:12).

Ông hoàng thế gian sẽ tìm cách khiến con tin rằng con không có quyền đạt quả vị Ki-tô trên thế gian này. Y sẽ đặc biệt tìm cách ngăn con thực thi quả vị Ki-tô bằng cách mang ánh sáng sự thật tới người khác và xã hội. Ông hoàng thế gian muốn tất cả mọi người bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên mà không bao giờ nhận ra là có cái gì bên ngoài trạng thái tâm đó. Y sẽ dùng đủ mọi ý xảo quyệt để khiến con nghi ngờ khả năng của mình hay quyền được tỏa rạng ánh sáng của con. Một trong những mưu gian đó là ý tưởng cho rằng khi con là Ki-tô hành động thì con vi phạm quyền tự quyết của người khác. Nói cho cùng, đa số con người trên hành tinh có vẻ mãn nguyện với sự mê ngủ, và họ không muốn bị đánh thức và thấy thực tại tâm linh. Tuy điều này có vẻ đúng, nhưng sự thực là con người không thỏa mãn vì sâu trong tâm họ khao khát sự trọn vẹn, một khao khát không thỏa mãn được khi còn kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Con người chỉ mê ngủ vì họ chưa bao giờ được chỉ cho thấy là có cái gì khác trạng thái tâm nhị nguyên, họ không bao giờ được chỉ một con đường khả thi dẫn tới một trạng thái tâm thức cao hơn.

Sự thực là chính ông hoàng thế gian đang vi phạm quyền tự quyết của con người. Sự kiện đơn giản là con người không thể có chọn lựa tự do nếu họ không biết tất cả những chọn lựa mà họ có thể có và hậu quả của mỗi chọn lựa. Nếu con người không biết là có cách khác ngoài cái chết tâm linh của tâm thức nhị nguyên, thì làm sao họ có thể chọn sự sống của tâm thức Ki-tô? Con có nghĩ chăng là hầu hết mọi người sẽ chọn sự sống, nếu họ thực sự hiểu hậu quả của chọn lựa?

Giê-su được Thượng đế gửi xuống với mục đích đặc biệt là đánh thức con người khỏi giấc ngủ tâm linh, cái chết tâm linh. Quả đúng là vì sức mạnh của thói quen và các niềm tin nhị nguyên nên nhiều người kháng cự không chịu thức tỉnh. Đó là lý do vì sao có nhiều người chối bỏ Giê-su thậm chí còn âm mưu chống lại thày. Điều này giải thích vì sao Giê-su đôi khi nói rất thẳng và mạnh mẽ để đâm thủng qua vách tường tù ngục của ngã hữu diệt của con người. Đây không phải là vi phạm quyền tự quyết của con người. Hành động này quả thật đã do Thượng đế chỉ thị vì Thượng đế không muốn con người mãi mãi ngủ quên. Thượng đế đã chỉ thị là con người được các thày tâm linh hướng dẫn và nêu gương. Trong thời đại hiện nay, Thượng đế muốn thấy một sự thức tỉnh tâm linh qui mô trên trái đất. Chuyện này sẽ chỉ xảy ra khi có một số đông người đi con đường dẫn tới quả vị Ki-tô và chứng minh là con đường này dẫn tới đời sống dồi dào. Chỉ khi con người thấy một người có quá khứ tương tự như họ biểu hiện đời sống dồi dào thì họ mới thức tỉnh thấy tiềm năng Ki-tô của chính họ. Mọi sinh thể trên thiên đàng rất mong muốn thấy mọi người trên trái đất thức tỉnh để có thể lấy chọn lựa thực sự tự do giữa cái chết tâm linh và sự sống tâm linh.

Con yêu dấu, con hãy nhận ra là trong số những người chống con tăng trưởng tâm linh có những người thân cận nhất của con. Đó là lý do vì sao Giê-su nói: “Và đối thủ của một người là những người trong nhà” (Matthew 10:36). Ý nghĩa là những người thân cận con nhất nhiều khi không muốn con tăng trưởng tâm linh. Họ có thể sợ mất con, họ có thể ghen tỵ với con hay họ không muốn thức tỉnh. Vì, nếu con có thể biểu hiện đời sống dồi dào, thì họ cũng vậy, nhưng muốn làm được vậy thì họ phải sẵn sàng thay đổi chính họ như con đã sẵn sàng thay đổi chính con. Nếu họ không chịu đối mặt khuynh hướng chạy trốn, họ sẽ tìm cách ngưng con đạt được tăng trưởng mà họ không thể phớt lờ.

Thày không nói con cần nhìn người khác như kẻ địch. Thày chỉ giản dị nói con cần nhận ra sự tăng trưởng của con sẽ gặp chống đối từ ngã hữu diệt của con và của người khác. Cách duy nhất để khắc phục sự chống đối có thể rất vi tế và thân ái này là con neo trụ vào ý chí cao hơn của chính Sinh thể của con chắc chắn đến độ con không để bất cứ điều kiện nào trên thế gian ngăn cản con là người con là và đem “ánh sáng tỏa rạng trước con người để họ thấy việc làm tốt lành của con, và vinh danh đấng Cha ở trên thiên đàng” (Matthew 5:16).

Con có hai cách để tìm cách biểu hiện cuộc sống dồi dào. Một là con đi từ bên dưới và làm công việc vươn lên bằng cách xuyên phá chống đối bằng uy lực của tâm ý thức của con. Khi con làm vậy thì con sẽ luôn luôn phải đánh nhau với phản-ý chí của ngã hữu diệt, người khác và ông hoàng thế gian. Con tự cho mình bản án phải sống vật lộn liên tục. Con có thể tiến bộ, con có thể biểu hiện một hình thức dồi dào nào đó, nhưng đó không phải là đời sống thực sự dồi dào mà Thượng đế mong muốn cho con.  

Cách duy nhất để con có được cuộc sống dồi dào đó là đi thằng lên đỉnh và kết nối lại với bản sắc thực của con, để uy lực của ý chí Thượng đế đem bốn thể phàm của con thẳng hàng với mục đích nguyên thủy của con. Qua đó, con sẽ khiến cuộc sống dễ dãi hơn nhiều. Một khi viễn quan của mục đích cao của con đã neo trụ trong thể bản sắc, thì con có nền móng vững chắc, con có thể xây nhà trên tảng đá của Ki-tô (Matthew 7:24). Tư tưởng của con sẽ hầu như tự động thẳng hàng với mục đích nguyên thủy của con. Khi tư tưởng thẳng hàng với mục đích nguyên thủy, thì cảm xúc sẽ không bị phân hóa và bị lôi kéo về mọi hướng bởi các ham muốn nhị nguyên thấp. Con sẽ không còn là một ngôi nhà phân hóa và con sẽ có ánh sáng Thượng đế tuôn chảy qua bốn thể phàm mà không bị pha loãng. Do đó uy lực sáng tạo của con sẽ gia tăng tới điểm việc đạt được các mục đích thật trong đời trở nên dễ dàng, hầu như không cần cố gắng.

Con yêu dấu, con hãy nhìn cuộc đời Giê-su. Thày không cần vật lộn để biến nước thành rượu. Thày chỉ cần đem tâm vỏ ngoài tập trung vào bên trong và đưa mình hoàn toàn thẳng hàng với mục đích tới trái đất của thày. Trong trạng thái trụ tâm đó, thày đưa ra một mệnh lệnh và – ngay tức khắc – nước được biến thành rượu. Giống như vậy, thày đã làm việc nhân bánh mì và cá đủ để 5,000 người ăn mà không cần cố gắng chút nào, không cần ra sức mua hay làm bánh đủ cho số đông người ăn. Đây là tiềm năng thật của con, và thày biết điều này có vẻ ngoài tầm tay của con hiện nay. Thày cho con viễn quan này để con thấy lợi điểm đi thẳng lên đỉnh và đem ý niệm bản sắc của con thẳng hàng với mục đích cao đã khiến con tới đây, Qua đó, ý chí của Sinh thể cao của con có thể lấy vai trò điều kiển, cai quản mỗi từng của bốn thể phàm của con.

Thày biết con quen phải vật lộn để có được những gì con cần. Thày muốn con xem xét quan niệm biểu hiện không cố gắng. Từ đầu khóa học này, thày đã nói là đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc của ngài. Ý chí của Thượng đế là con được đời sống dồi dào. Để có nó, con chỉ cần thẳng hàng với ý chí cao, quả thật là ý chí của chính cái Ta cao của con, cũng là ý chí của Thượng đế trong con. Khi bốn thể phàm của con thẳng hàng với lý do vì sao con là, thì uy lực Thượng đế sẽ tuôn chảy qua chúng và biểu hiện không cố gắng những gì cần có để thực hiện sứ vụ thiêng liêng của con.

7.5. Con là mặt trời tỏa rạng ánh sáng vô điều kiện

Trái tim yêu dấu của mẹ, con cần làm gì để đem mình thẳng hàng với ý chí cao hơn của Sinh thể mà con là? Con cần sẵn sàng nhận ra có một lực phản-ý chí đã xâm nhập vào bốn thể phàm của con. Đây là cái mà thày gọi là ngã hữu diệt, và ngã hữu diệt có ý chí của riêng nó, một ý chí hoàn toàn xoay quanh chính nó. Con cần làm gì để thoát ra nhà tù của ý chí thấp đó? Con cần nghĩ xa hơn chính mình, có nghĩa là vượt quá cái ta chú tâm vào thân thể vật lý và ngã hữu diệt. Con là nối dài của một Sinh thể tâm linh lớn hơn và con tới đây với một mục đích cao hơn, một mục đích vĩnh cửu.

Nhiều người trên trái đất hoàn toàn đặt chú tâm vào chính họ và cả cuộc đời theo đuổi ham muốn vị kỷ thường xoay quanh thú vui của thân thể vật lý và các nhu cầu tức khắc của nó. Nhiều người không có dư chú tâm để nghĩ về những hậu quả dài hạn trên cuộc sống của họ, tỷ dụ như tự do tâm linh và phát triển. Nhiều người không còn dư chú tâm để xem xét  hành động của họ ảnh hưởng ra sao trên người khác, ngay cả các người thân thương nhất của họ. Họ có những hành động ích kỷ nhất mà không hề cảm thấy hối lỗi hay hối tiếc. Nhân loại không còn dư chú tâm để xem xét nếp sống tân thời ảnh hưởng hành tinh trái đất như thế nào và khả năng nuôi dưỡng sự sống trong dài hạn. Chỉ trong vòng vài thập niên gần đây con người mới xem xét ảnh hưởng của ô nhiễm trên môi trường, và họ chỉ làm vậy khi họ nhận ra hậu quả tai hại trên chính họ. Rất ít người đã nới rộng nhận biết để có tình thương chân chính đối với hành tinh đã cho nhân loại nền tảng để sống.

Con hãy tương phản tinh thần vị kỷ, hoàn toàn ích kỷ đó với viễn quan rộng lớn hơn của tâm Ki-tô, thấy cái một trong mọi sự sống vì nó biết mọi sự sống đến từ cùng một nguồn cội và là sự biểu hiện của Sinh thể Thượng đế. Sinh thể tâm linh đã gửi con xuống đây như một phần nối dài của ngài không có tầm nhìn hạn chế, nhân gian, vị kỷ này. Sinh thể đó hoàn toàn thẳng hàng với ý chí và viễn quan của đấng Sáng tạo, và do đó có một mục đích cao hơn khi gửi con vào cõi vật chất. Mục đích đó hoàn toàn thẳng hàng với viễn quan của Thượng đế khi tạo ra thế giới hình tướng, hành tinh trái đất và nhân loại. Nếu con muốn đạt hạnh phúc tối hậu, mãn nguyên tối hậu, và cảm nhận cuộc sống có mục đích tối hậu, con tự thân có giá trị, thì con cần nhìn quá ý niệm bản sắc hạn hẹp trụ vào ngã hữu diệt. Con cần kết nối trở lại với ý niệm cái Ta cao mà con thực sự là. Khi con làm vậy, con sẽ nhận ra con sẽ không bao giờ đạt được mãn nguyện tối hậu bằng cách theo đuổi ham muốn vị kỷ dính liền đến thân thể vật lý. Con sẽ chỉ thực sự mãn nguyện khi con với lên quá thân thể và cho ra từ Bản thể thực của con.

Nếu con muốn có một hình ảnh sống động của những gì thày đang nói, thì con hãy xem xét mặt trời. Mặt trời được thiết kế để tỏa rạng ánh sáng, ánh sáng đem lại sự sống cho tất cả mọi thứ trên trái đất. Mặt trời làm việc này vô điều kiện. Mặt trời không nhìn xuống nhân loại trên trái đất và phán xét xem họ có nhận ánh sáng của nó với tâm thái thích nghi chăng. Như Giê-su có nói: “Con là con của đấng Cha trên thiên đàng: vì ngài khiến mặt trời mọc cho người ác và người thiện, và gửi mưa xuống cho người công chính và người bất chính” (Matthew 5:45). Mặt trời cho vô điều kiện. Nó cho mà không chờ đợi nhận gì lại, và nó cho mà không kèm theo điều kiện về cách con người nhận tặng vật của nó. Mặt trời được mãn nguyện, vui sướng khi tỏa rạng ánh sáng. Chính sự cho ra là nguồn của mãn nguyện, không phải sự nhận vào.

Nếu mặt trời có cùng trạng thái tâm thức vị kỷ mà đa số con người có ngày nay, thì mặt trời sẽ bắt đầu bằng cách đặt điều kiện để cho ánh sáng. Nó sẽ nói: “Nếu con người không nhận tia nắng của tôi một cách đúng đắn, thì tôi sẽ không cho ánh sáng cho những người đó”. Thái độ này sẽ khiến mặt trời loại bỏ một số khu vực và không tỏa ánh sáng đến các khu vực đó. Điều này có ảnh hưởng gì trên cảm nhận mãn nguyện của mặt trời? Mặt trời được mãn nguyện khi tỏa ánh sáng. Khi mặt trời ngưng tỏa ánh sáng, thì nó sẽ không cảm thấy mãn nguyện nữa, nó sẽ không hạnh phúc nữa. Con người thật của con, Hiện diện TA LÀ và cái Ta Biết của con, được thiết kế để là mặt trời tâm linh tỏa rạng ánh sáng Thượng đế xuống trái đất. Hiện diện TA LÀ của con hạ độ rung của ánh sáng Thượng đế và gửi ánh sáng đó xuống bốn thể phàm của con dưới sự điều khiển của cái Ta Biết để chúng thẳng hàng với mục đích nguyên thủy khiến con xuống trái đất.

Con được thiết kế để là một ống dẫn cho ánh sáng Thượng đế tuôn chảy xuống và sau đó tỏa rạng trên trái đất. Đây là cách đem ánh sáng Thượng đế vào cõi vật chất, qua đó nâng độ rung của toàn vũ trụ và đổ đầy ánh sáng vào đó để nó trở thành một bầu cõi khác của cõi tâm linh – đúng theo viễn quan và kế hoạch của Thượng đế. Vai trò của con là hướng ánh sáng Thượng đế vào những điều kiện đặc trưng trên trái đất để phóng đại chúng, gia tốc các điều kiện đó và giúp chúng thăng vượt trạng thái bất toàn hiện tại. Con ở đây để giúp mọi chuyện trên trái đất trở nên hơn nữa, và khi con làm vậy thì con trở nên hơn nữa. Con ở đây để tỏa ánh sáng của con, và trong việc cho ánh sáng con nhận được mãn nguyện tối hậu. Chuyện gì xảy ra khi con ngưng không cho ánh sáng, con ra điều kiện nếu con người đối xử với con một cách nào đó, hay con người không cho con phản hồi mà con muốn, thì con sẽ khóa ánh sáng? Khi con khóa dòng chảy ánh sáng xuyên qua con, thì con cũng lấy đi sự mãn nguyện của chính con. Nếu con hoàn toàn tắt dòng ánh sáng, thì con sẽ không còn cảm giác mãn nguyện hay cuộc đời có ý nghĩa nữa và cuộc đời của con là một cuộc vật lộn liên tục.

Cuộc sống dồi dào là gì? Đó là ánh sáng Thượng đế tuôn chảy mà không bị pha loãng hay bị cản trở xuyên qua bốn thể phàm, phóng đại mọi thứ mà nó gặp. Qua đó, con được vây quanh bởi dồi dào. Con sẽ không chờ nhận dồi dào từ dưới này, con sẽ chủ động sản xuất dồi dào bằng cách để ánh sáng từ Trên gia tốc mọi thứ mà con gặp. Con sẽ nhân các tài năng của con, và khi con cảm thấy ánh sáng tuôn chảy qua con, thì con sẽ có cảm giác mãn nguyện tối hậu, cảm giác dồi dào và nuôi dưỡng tối hậu. Khi con khóa dòng ánh sáng đó – bằng cách chấp nhận niềm tin nhị nguyên quy định con sẽ cho với điều kiện nào – con tự mình tước đi đời sống dồi dào, con tự mình tước đi cảm giác mãn nguyện, trọn vẹn. Con quả thực khiến mình nghèo hơn vì con không còn cảm thấy dòng chảy ánh sáng là chìa khóa của hạnh phúc và dồi dào.

Khi con khóa dòng chảy của ánh sáng Thượng đế xuyên qua bốn thể phàm của con, thì con không gửi xung lực năng lượng dồi dào vào tấm gương vũ trụ. Tấm gương vũ trụ giản dị không thể phản chiếu lại con đời sống dồi dào dưới dạng điều kiện vật lý. Cách duy nhất để thực sự biểu hiện đời sống vật chất dồi dào là trước tiên tái thiết lập đời sống dồi dào tâm linh mà con được thiết kế để có. Khi con nghe theo lời khuyên của Giê-su tìm trước vương quốc Thượng đế và sự công chính – có nghĩa là cách dùng đúng đắn năng lượng Thượng đế – thì mọi thứ sẽ được cộng thêm vào cho con (Matthew 6:33) vì vũ trụ vật chất không thể làm gì khác ngoài việc phản chiếu lại con sự dồi dào mà con phóng ra.

7.6. Con và tất cả đều là thân thể Thượng đế

Thượng đế đã tạo ra vũ trụ như một tổng thể duy nhất, liên kết. Trong mẫu thiết kế nguyên thủy của Thượng đế không có xung đột, không có mâu thuẫn giữa các dòng sống cá biệt và tổng thể. Điều đã xảy ra trên trái đất là hầu hết các dòng sống cư ngụ ở đây đã rơi vào tâm thức nhị nguyên. Với tâm thức tách biệt này, họ đã tạo ra một số hầu như bất tận xung đột giữa các cá nhân, các nhóm người, các quốc gia, thậm chí cả xung đột giữa nhân loại và Mẹ Thiên nhiên. Những xung đột này phát xuất từ một đặc tính chính của tâm phản-Ki-tô, đó là tinh ích kỷ. Tính ích kỷ được tạo ra khi một dòng sống cá biệt tách mình ra khỏi cội nguồn của nó và quay lưng lại Thượng đế. Nếu con không kết nối một cách có ý thức với cội nguồn của con, thì con không thể nhận ra là các anh chị em của con đều đến từ cùng một nguồn cội.

Con hãy xem xét lời của Giê-su: “Nếu con đã làm điều gì tới người thấp nhất trong con cháu ta, thì con đã làm điều đó tới ta” (Matthew 25:40). Đây là lời tuyên bố của một Sinh thể biết rằng mình không phải là một ốc đảo, mình không sống trong khoảng trống không, mình không phải là sinh thể duy nhất có tầm quan trọng. Đây là lời tuyên bố của một sinh thể kết nối với cội nguồn và nhận ra mình là một nối dài của Thượng đế. Tất cả mọi thứ khác, kể cả tất cả người khác, cũng đều là nối dài của Thượng đế. Khi con có nhận biết mở rộng này thì con nhận ra con thực sự là một phần của Thân thể Thượng đế. Qua sự kết nối với nguồn cội, con kết nối với cả mọi thành phần khác của Thân thể Thượng đế. Những gì con làm tới người khác, con thực sự đã làm tới chính mình.

Trong bài này thày đã nhấn mạnh hình ảnh vũ trụ là tấm gương phản chiếu lại con những gì con phóng ra. Thày có nói là vũ trụ sẽ làm tới con những gì con làm tới người khác. Tuy câu này đúng, nhưng có một hiểu biết cao hơn. Hiểu biết cao hơn là người khác không tách biệt khỏi con vì họ là một phần của Thân thể Thượng đế trên trái đất, và con cũng là một phần của thân thể đó. Ta có thể đi xa hơn câu nói vũ trụ làm tới con những gì con làm tới người khác và nói là con đang làm tới chính mình những gì con làm tới người khác vì người khác là một phần của cái Ta lơn hơn của con, là Thân thể Thượng đế. Những gì con làm tới Mẹ Thiên nhiên, con cũng làm tới chính mình vì hành tinh vật lý cũng là một phần của sáng tạo của Thượng đế. Khi một phần của con vẫn còn chú tâm vào hành tinh này, thì chuyện gì xảy ra cho tổng thể sẽ ảnh hưởng tới thành phần cá biệt hiện đang là trung tâm điểm của ý niệm bản sắc của con.

Cái Ta Biết có khả năng tự đồng hóa với và như bất cứ gì mà nó có thể nghĩ tới. Cái Ta Biết có thể trụ vào tự ngã – khi nó tự đồng hóa với ngã hữu diệt – hay nó có thể trụ vào Thượng đế – khi nó tự đồng hóa như sinh thể tâm linh là một với cái Tất cả của Thượng đế. Tác dụng lớn nhất của việc thanh tẩy thể bản sắc là con có thể nhìn quá sự ích kỷ của ngã hữu diệt. Con có thể nhìn quá ý niệm tách biệt bắt nguồn từ ông hoàng thế gian. Con thậm chí có thể nhìn quá bản sắc của mình như một sinh thể cá biệt. Con có thể nhìn thấy là con hơn dòng sống cá biệt vì dòng sống cá biệt của con là một phần của một tổng thể lớn hơn, là cái Tất cả của tâm thức Thượng đế. Cái Ta Biết là một biểu lộ của cái Tất cả đó, và nó có khả năng tái hợp với cái Tất cả, ngay khi nó vẫn còn đang chú tâm qua một thân thể vật lý trên một hành tinh rất bé nhỏ trong một vũ trụ rất bao la.

Ấy con yêu dấu, quá nhiều tín đồ Thiên chúa giáo không chịu nghe lời dạy của Giê-su: “Con là Thượng đế” (John 10:34). Quả thực con là Thượng đế theo nghĩa cái Ta Biết có khả năng tự đồng hóa với cái Tất cả, chính là Thượng đế. Khi cái Ta Biết làm vậy thì con trải nghiệm cảm giác tối hậu trọn vẹn, vui sướng, hân hoan.   

Con không chỉ giản dị biết con là ai – con sẽ người con là. Lúc đó con đạt được trạng thái mà người Hy Lạp cổ gọi là “gnosis” (ngộ nhập) nghĩa là không còn khoảng cách, khác biệt, tách biệt, giữa người biết và cái được biết. Từ ngàn xưa con người đã đưa ra nhiều luận thuyết về Thượng đế và bản chất của Thượng đế. Nhiều người tâm linh và tôn giáo đã trọn đời đặt cho mình mục đích biết Thượng đế, nhưng khái niệm biết hàm ý có khoảng cách. Khái niệm con có thể biết cái gì mà con không trải nghiệm có hàm ý là con ở đây và Thượng đế ở chỗ kia khác. Con tìm cách kết nối với Thượng đế xa cách đó, và trong tâm con xây dựng một hình ảnh vị Thượng đế xa cách đó như thế nào, nhưng con vẫn tách biệt khỏi Thượng đế đó. Con chắc còn nhớ là bản chất của phản-Ki-tô là sự tách biệt với Thượng đế. Ông hoàng thế gian có thể dùng lòng ao ước chân thành muốn biết Thượng đế như một dụng cụ để củng cố hình ảnh Thượng đế xa cách. Sẽ có một lúc một người tầm đạo chân thành phải thăng vượt ngay cả ước muốn biết Thượng đế, thăng vượt khái niệm biết cái gì mình không là.

Khi con còn tách biệt với Thượng đế, thì con không thể thực sự biết Thượng đế, con không thể biết Thượng đế như thế nào, con cảm thấy thế nào khi là Thượng đế. Đây là ý tưởng mà thày để lại cho con để con suy ngẫm: “Cách duy nhất để biết Thượng đế, là Thượng đế!”

5 | Giải quyết nỗi đau xúc cảm

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 22/4/2005.

Trái tim yêu dấu của thày, con hãy để thày tập hợp lại một số điều chúng ta đã bàn thảo trong các chương vừa qua để con có một cái nhìn tổng quát về những gì con cần hoàn tất để thanh lọc bốn thể phàm của con, khắc phục hậu quả của các hành động quá khứ và biểu hiện đời sống dồi dào. Để bắt đầu, chúng ta hãy nói tới sự kháng cự các nỗ lực thanh tẩy bốn thể phàm của con.

5.1. Chướng ngại cản trở nỗ lực thanh tẩy

Nhiều người đã trải qua những hoàn cảnh chấn thương nặng trong kiếp này và những tình huống này có thể dính liền với một nỗi đau đớn xúc cảm lớn. Khi thày nói để có thể giải thoát mình khỏi những điểm nghẽn trong cảm thể thì con cần xem xét các niềm tin đằng sau những điểm nghẽn đó, thày biết nhiều người sẽ ngay lập tức không muốn làm việc này. Họ biết là nếu họ nhớ lại những tình huống quá khứ thì họ bị chìm đắm trong một trạng thái khó chịu và đau đớn xúc cảm. Thày không hề đổ lỗi cho họ vì họ phản ứng như thế, việc họ tìm cách né tránh nỗi đau cảm xúc hoàn toàn dễ hiểu. Nhưng con nghĩ sao nếu thày có thể chỉ cho con một phương pháp hạ giảm cường độ của nỗi đau trước khi con thực sự bắt đầu nhìn vào các tình huống đau lòng trong quá khứ? Nếu cường độ đau lòng giảm xuống, khi nhìn lại quá khứ, con chỉ khó chịu tạm thời và mức khó chịu này có thể chịu đựng được. Trong trường hợp đó, chịu một sự khó chịu tạm thời hầu giải thoát mình vĩnh viễn khỏi một niềm tin bất toàn đã ảnh hưởng mình 24 giờ một ngày là một việc bõ công sức. Đây sẽ là một khoản đầu tư rất tốt giống như con mua cổ phiếu đầu tư mà lời gấp đôi.

Một cản trở lớn khác mà mọi người phải đối đầu khi bắt đầu thanh tẩy bốn thể phàm là sức mạnh của thói quen. Để đơn cử một hình ảnh, con hãy hình dung một dòng nước chảy xuống sườn đồi. Nước có khuynh hướng đào những rãnh nhỏ trên sườn đồi và một khi một cái rãnh bắt đầu hình thành, nó sẽ dẫn nhiều nước hơn qua rãnh đó. Rãnh sẽ càng ngày càng sâu hơn cho tới khi nó chứa cả một dòng sông. Đấy là cách thói quen thành hình trong bốn thể phàm của con. Khi ánh sáng chảy qua bốn thể phàm của con, nó đi theo con đường dễ đi nhất.

Nếu con có tin tưởng bất toàn trong trí thể, tin tưởng và năng lượng bị tha hóa bởi tin tưởng này sẽ tạo nên rào cản khiến ánh sáng khó chảy qua. Ánh sáng sẽ có khuynh hướng chảy chung quanh rào cản, do đó tư tưởng của con sẽ đi vào một khuôn nếp, cũng sẽ kéo theo tình cảm của con. Hậu quả là những chọn lựa mà con có thể thấy được bị giới hạn và do thế sự biểu hiện sáng tạo của con bị giới hạn. Tất cả điều này khiến con tạo lập một thói quen tư tưởng và cảm xúc, giống như một lập trình buộc con phản ứng một cách đặc thù trước một số hoàn cảnh. Ở tầng tâm ý thức, con không kiểm soát được phản ứng của con trước một số hoàn cảnh đặc thù. Phản ứng của con được quy định trước bởi các thói quen nằm trong thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con cũng như trong tâm vật lý của con.

Nếu con nhìn vào những người con biết và hoặc chính đời mình, con sẽ thấy đây là một vấn đề rất phổ biến. Thật vậy nhiều người không có tự do chọn lựa phản ứng của họ trước một tình huống đặc thù. Do những thói quen thiết lập trong quá khứ, họ không tránh được phản ứng nổi giận trong một số tình huống. Đơn giản là họ không thể ngăn cản mình tức giận và thường khi mối quan hệ giữa hai người bị kẹt cứng trong một khuôn nếp phá hoại và không xây dựng. Một người này nói điều gì mà người kia không thích. Người thứ nhì phản ứng một cách giận dữ và không ai có đủ sức mạnh để thoát ra khỏi cơn giận và chọn một phản ứng thương yêu hơn trong hoàn cảnh đó.

Một dạng cùng cực của thói quen là ghiền một chất vật lý như ma túy hay rượu. Có rất nhiều thói quen khác vi tế hơn và kỳ thực mọi khuôn nếp cư xử đều bắt đầu ở các thể phàm cao như một thói quen tư tưởng và cảm xúc. Vấn đề khi muốn bỏ một thói quen là có một lực kháng cự khá lớn. Rãnh đã được khắc sâu vào các tầng của tâm và năng lượng sẽ có khuynh hướng chảy theo các rãnh đó. Cần nhiều nỗ lực để thay đổi những khuôn nếp ở các tầng cao của tâm. Nhiều người đã cố thay đổi một thói quen đặc thù nhưng không thành công. Họ thấy là họ có thể thay đổi thói quen trong một thời gian nhưng nó đòi hỏi một cuộc chiến nhọc nhằn. Ngay khi buông lơi một chút thôi là họ rơi tụt lại lề thói cũ.

Người khác thay đổi được hành động bên ngoài nhưng họ phải chiến đấu liên tục, có khi suốt quãng đời còn lại để giữ mình không quay trở về khuôn nếp hành động cũ. Đây không phải là đời sống dồi dào bởi vì làm sao con vui hưởng cuộc sống được khi phải liên tục chiến đấu với chính mình? Thày hiểu tại sao nhiều người không sẵn lòng giải quyết thói quen vì kinh nghiệm cho họ biết gỡ bỏ một thói quen lâu đời rất khó. Con nghĩ sao nếu thày chỉ cho con một phương cách giảm thiểu lực kháng cự khi bỏ một thói quen, giảm thiểu lực từ tính lôi kéo con vào những khuôn nếp suy nghĩ, cảm xúc và hành động đặc thù?

5.2. Làm sao giải thoát mình khỏi quá khứ

Cái làm con đau lòng khi nhớ lại một hoàn cảnh chấn thương quá khứ là những năng lượng đã tích đọng trong các thể cao của con, đặc biệt là thể tình cảm. Cái khiến việc bỏ thói quen rất khó cũng là năng lượng tích đọng trong cảm thể, trí thể và ngay cả bản sắc thể của con. Thật vậy năng lượng này tạo nên một trường năng lượng có tác động giống như một từ trường. Từ trường chung quanh một thỏi nam châm sẽ thu hút vật kim khí có mặt trong phạm vi của nó. Nếu con có những “từ trường” như vậy trong bốn thể phàm của con, chúng sẽ lôi kéo tư tưởng và cảm xúc của con. Chúng quả thật lôi kéo tư tưởng và cảm xúc của con vào một khuôn nếp đặc thù và đó là lý do tại sao phản ứng của con trước một số tình huống được định sẵn, được lập trình sẵn.

Khi con dùng một kỹ thuật mạnh mẽ để thanh tẩy năng lượng tha hóa và qua đó nâng cao độ rung của nó, thì cường độ của nỗi đau dính liền với hoàn cảnh quá khứ sẽ giảm xuống. Giờ đây con có thể nghĩ tới những hoàn cảnh đó mà không bị cơn đau làm choáng ngợp. Con có thể nhìn hoàn cảnh một cách khách quan, gần giống như con đang giải quyết chuyện của người khác. Giải quyết chuyện người khác luôn luôn dễ dàng vì con không đặt tình cảm mình vào đó. Con có thể nhìn hoàn cảnh với con mắt khách quan và thấy được giải pháp mà đương sự không thấy vì nó bị che giấu sau tấm màn năng lượng xúc cảm.

Khi con hạ giảm lực hút từ tính khiến con tuân theo một số khuôn nếp hành động, con có thể phá bỏ một thói quen dễ hơn nhiều và thường không bị triệu chứng phản ứng giống như khi cai thuốc. Khi con đã gỡ bỏ năng lượng tồn đọng, con sẽ khiến việc xét lại những hoàn cảnh đau lòng của quá khứ dễ hơn hẳn. Con có thể tìm ra những quyết định mình đã lấy khi ở trong hoàn cảnh đó. Con có thể thay thế những quyết định này một cách ý thức bằng những quyết định tốt hơn dựa trên tầm nhìn sáng suốt hơn mà con có hiện nay. Khi con gỡ bỏ lực hút từ tính của một thói quen cũ lâu đời, việc phơi bày những quyết định đằng sau thói quen đó dễ hơn hẳn. Con có thể thay đổi những quyết định đó và tạc ra một lối đi mới hữu dụng hơn trong tâm tiềm thức của con. Con có thể xây dựng một thói quen tích cực thay vì một thói quen giới hạn. Thày chỉ ra ở đây cho con ba thành phần trong việc giải thoát mình khỏi quá khứ:

  • Một là yếu tố nội tại khắc phục những quyết định và tin tưởng bất toàn được cất giữ trong các tâm bản sắc, lý trí, tình cảm và vật lý của con. Điều này bao gồm những quyết định trong tâm dài hạn của con, là tâm mà con mang theo mình từ kiếp này sang kiếp khác và trong tâm ngắn hạn của con, là tâm dính liền với thể vật lý hiện nay của con
  • Thành phần thứ nhì là con phải chuyển hóa năng lượng tha hóa lưu trữ trong bốn thể phàm của con. Nhờ vậy con phá bỏ những thói quen giới hạn mình dễ hơn và con chữa lành những vết thẹo từ chấn thương quá khứ dễ hơn.
  • Thành phần thứ ba là con phải tiêu hủy xung lực năng lượng, tức là nghiệp, được tấm gương vũ trụ phản chiếu trở về đúng theo hành động quá khứ của con.

Khi con tìm được và áp dụng một kỹ thuật mạnh mẽ có thể thực hiện ba mục tiêu này (như các bài thỉnh của thày), ngay lập tức cuộc đời của con sẽ xoay chuyển tốt đẹp hơn và con thể thiết lập nhanh chóng một vòng xoáy đi lên. Khi con quyết tâm nỗ lực trong một thời gian, thì con có thể khiến vòng xoáy này tự duy trì và tự tăng cường.

5.3. Vòng xoáy đi xuống

Con hãy để ý là con người rất dễ tạo cho chính mình một vòng xoáy đi xuống. Họ đã chấp nhận một số tin tưởng tiêu cực khiến họ tha hóa năng lượng. Những tin tưởng và năng lượng tha hóa này kéo tư tưởng và cảm xúc của họ vào một số khuôn nếp đưa họ tới những hành động không đem lại lợi ích tốt nhất cho họ. Những hành động này có hậu quả và khi họ trải nghiệm những hậu quả tiêu cực đó, các khuôn nếp trong các thể phàm cao của họ khiến họ phản ứng với tư tưởng và xúc cảm tiêu cực. Phản ứng này tha hóa nhiều năng lượng hơn nữa và củng cố những tin tưởng tiêu cực của họ, lẽ tất nhiên làm cứng đặc các khuôn nếp lý trí và tình cảm. Dĩ nhiên năng lượng càng bị tha hóa hơn nữa và một vòng xoáy đi xuống có thể nhanh chóng tạo ra. Vòng xoáy này trở nên tự tăng cường, tự duy trì và nó có thể kéo con người xuống thấp tới điểm họ cảm thấy bị tê liệt trong tư tưởng và tình cảm.

Họ biết đi đâu, họ không cục cựa được, họ bị giam mọi phía và cảm thấy không còn chọn lựa nào cả trong đời sống. Sự thực không phải là họ không có chọn lựa nhưng các tin tưởng bất toàn và năng lượng tha hóa đã ngăn họ thấy những chọn lựa đó hay thực thi viễn quan của họ. Họ nghĩ họ không thể thay đổi chính họ và do đó họ không thể thấy cách thay đổi hoàn cảnh bên ngoài của họ. Dĩ nhiên đây là tâm trạng mà các nhà tâm lý gọi là trầm cảm và nó có thể phát triển dễ dàng thành một bệnh tâm thần trầm trọng hơn.

Hầu hết con người trên hành tinh này đã lớn lên trong những hoàn cảnh khiến họ tạo ra một vòng xoáy đi xuống như thế, và con không thể chờ đợi có thể phá vỡ vòng xoáy này một sớm một chiều mà không cần quyết tâm nỗ lực. Nếu con quyết tâm và sẵn lòng làm việc cần làm, con có thể phá vỡ vòng xoáy đi xuống và thay vào đó tạo ra một vòng xoáy đi lên, tự duy trì. Một khi con đã thay đổi nếp cũ, đúng thực là cuộc đời của con sẽ mang một chiều kích mới lạ hoàn toàn. Lúc ấy con sẽ bắt đầu trải nghiệm cuộc sống dồi dào, không những về mặt vật chất mà còn về mặt tâm linh. Khi thày nói dồi dào tâm linh, thày muốn nói hạnh phúc hơn, tâm bình an hơn, một tầm nhìn mở rộng hơn về những cơ hội trong đời sống và cảm nhận đời mình có phương hướng, có ý nghĩa và mãn nguyện. Tất cả những thứ này gom lại để đem lại điều mà trước đây thày gọi là cảm giác trọn vẹn.

Phá vỡ vòng xoáy đi xuống và tạo ra vòng xoáy đi lên rất đáng làm. Giờ đây thày đã cho con hiểu biết mà con cần có về cách hoàn tất công việc này và thày hy vọng thày cũng đã cho con động cơ cần có để con lấy quyết định sẽ thực sự làm công việc đó. Nếu con đã đọc bài thỉnh kèm theo bài giảng của khóa này, con đã chuyển hóa rất nhiều năng lượng và đã tra vấn nhiều tin tưởng tiềm thức. Nếu con đã đọc tới điểm này mà chưa đọc thỉnh, thì quay trở lại và bắt đầu đọc các bài thỉnh cũng chưa muộn.

5.4. Tháo gỡ quyết định cũ

Thày muốn đề cập tới một chủ đề mà nhiều người trong lãnh vực tự giúp mình, thậm chí luôn cả nhiều người gia nhập con đường tăng triển tâm linh, có khuynh hướng bỏ qua. Vì họ không hiểu khái niệm này, việc tăng trưởng cá nhân của họ khó khăn hơn rất nhiều tuy không cần như thế . Đã có một điểm khi con, nghĩa là cái Ta Biết, quyết định quay lưng lại vị thày tâm linh của mình. Đã có một điểm khi con quyết định không muốn lấy quyết định nữa vì con đã lấy một số quyết định sai lầm. Quyết định này sinh ra ngã hữu diệt và từ lúc đó ngã hữu diệt đã lấy nhiều quyết định trong đời con. Chính việc con cho phép ngã hữu diệt lấy quyết định hộ con đã tạo ra vòng xoáy đi xuống. Ngã hữu diệt sinh ra từ nhị nguyên và những quyết định của nó chỉ có thể dựa trên nhị nguyên. Những quyết định nhị nguyên đó nhất định giới hạn quyền năng sáng tạo của con và tạo ra những hậu quả bất toàn do tấm gương vũ trụ phản chiếu lại con.

Điều gì cần xảy ra để có thể đập tan gông cùm mà ngã hữu diệt đã đặt trênt Cái Ta Biết và quả cầu của cái ta của con? Chỉ một cách thôi là cái Ta Biết phải tách ra khỏi ngã hữu diệt. Cái Ta Biết phải tẽ ra và trở thành “những người” được Thượng đế chọn, có nghĩa là con đã chọn với lên thực tại cao hơn của Ki-tô thay vì cái được gọi là thực tại nhị nguyên, là thần tượng mà ngã hữu diệt và hoàng tử thế gian đã bày ra cho con. Con phải ngưng đồng hóa mình với, hay là, ngã hữu diệt.

Con phải làm một số chuyện để điều này xảy ra. Trước tiên con phải lấy một quyết định tổng quát là con muốn lấy lại toàn bộ trách nhiệm về cuộc đời, định mệnh, và sự cứu rỗi của mình. Sau khi lấy quyết định tổng quát đó, con phải quyết định con sẵn lòng xem xét mỗi quyết định khiến con bước xuống một bực trên cầu thang xoáy ốc. Con phải muốn hiểu tại sao những quyết định nhị nguyên này giới hạn quyền năng sáng tạo của con. Cuối cùng con phải thay thế những quyết định này bằng cách với lên hiểu biết cao hơn của tâm Ki-tô sẽ cho con sức mạnh để lấy quyết định tốt hơn.

Con hãy để thày nêu lên một khác biệt tinh tế ở đây. Sau khi quyết định không lấy quyết định nữa, con đã cho phép ngã hữu diệt lấy nhiều quyết định trong đời con. Tất cả những quyết định của ngã hữu diệt đều nhị nguyên. Thày không nói là con phải phơi bày một cách ý thức, nhìn thấu suốt và thay thế mỗi quyết định nhị nguyên mà ngã hữu diệt đã lấy trong mọi kiếp sống của con. Mỗi lần con bước xuống một bực của cầu thang xoáy ốc, con lấy một quyết định đẩy con xa hơn khỏi Thượng đế. Ai đã lấy quyết định đó? Cái Ta Biết đã lấy quyết định đó! Quyết định này luôn luôn bị ảnh hưởng bởi một hay nhiều lời dối trá mà ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian trình bày nhưng con đã cho phép các lời dối trá này ảnh hưởng mình vì con không thực sự muốn lãnh trách nhiệm về mình và tìm cách có một cái nhìn sáng suốt về hậu quả của quyết định.

Con hãy tưởng tượng thay vì đi xuống một cầu thang không gián đoạn, con đi xuống cầu thang trong một tòa nhà có nhiều tầng. Con quyết định đi xuống một số bực cho tới khi con xuống tới lầu bên dưới. Khi tới đó, con đi vòng quanh và khám phá mỗi phòng ở lầu này. Bất kể con làm gì ở lầu này, con không đi xuống thấp hơn. Để xuống thấp hơn, con phải trở về cầu thang và đi xuống những bực kế tiếp. Để đi xuống lầu thấp hơn, con, có nghĩa là cái Ta Biết, phải lấy một quyết định. Khi lấy quyết định này, con chấp nhận một ý niệm bản sắc mới phóng chiếu con tách rời khỏi Thượng đế xa hơn nữa so với khi con ở lầu cao hơn. Một khi con xuống lầu thấp hơn này, ngã hữu diệt sẽ tiếp quản và lấy nhiều quyết định dựa trên ý niệm bản sắc mới mà con đã xây dựng. Những quyết định này sẽ không kéo con xuống thấp hơn tuy chúng sẽ tạo thói quen mạnh hơn khiến con khó leo lên trở lại và dễ lấy quyết định đi xuống thấp hơn.

Ngã hữu diệt rất giống máy tính. Nó được lập trình để lấy một loại quyết định nhưng nó không thể tự nó thay đổi lập trình. Muốn thay đổi lập trình thì cái Ta Biết phải nhập cuộc giống như cần một thảo chương viên để thay đổi lập trình của máy tính. Tuy ngã hữu diệt không thể tự nó chấp nhận một ý niệm bản sắc mới, nó dễ bị ảnh hưởng bởi các lực bên ngoài như người khác, hệ thống tin tưởng hay thậm chí ảnh hưởng trực tiếp của ông hoàng thế gian. Quả vậy ngã hữu diệt có thể thôi thúc con chấp nhận một ý niệm bản sắc thấp hơn nhưng lúc nào con cũng là người quyết định đi xuống lầu thấp hơn. 

Như một ví dụ, con hãy nghĩ cảnh hồi nhỏ khi con vẽ một tấm hình và đưa cho một người lớn xem. Người lớn phản ứng tiêu cực và con mất hứng thú vẽ. Chuyện thực sự xảy ra là vì phản ứng không vui của người lớn, cái Ta Biết quyết định: “Tôi không phải là người sáng tạo.” Để tránh bị tổn thương trong tương lai, con quyết định không bao giờ biểu hiện tính sáng tạo của mình nữa. Dù quyết định này có vẻ tương đối nhỏ, nhưng nó có thể có tầm ảnh hưởng sâu đậm trên cuộc đời con. Con có thể đã đánh mất mọi cơ hội có một việc làm đòi hỏi khả năng sáng tạo và do đó ngăn cản con hoàn thành kế hoạch trọn đời của mình và trải nghiệm niềm vui sáng tạo. Ngã hữu diệt của con có thể lấy nhiều quyết định dựa trên tin tưởng con không vẽ được, tỷ dụ như quyết định đeo đuổi nghề nào hay học ngành gì, hay không học ngành gì, trên đại học. Quyết định quan trọng con cần tháo gỡ một cách ý thức là quyết định khởi thủy đã khiến con xây dựng một ý niệm bản sắc là một người không có khả năng sáng tạo. Con hãy xem xét những quyết định sâu xa hơn thế, như ý tưởng con là một người hữu diệt thay vì là người tâm linh, hoặc con là một cá nhân tách biệt có thể làm bất cứ gì mình muốn vì con quan trọng hơn người khác. Con hãy tưởng tượng những quyết định tương tự mà con lấy từ nhiều kiếp trước đã có thể ảnh hưởng mọi khía cạnh của ý niệm bản sắc hiện tại của con, khiến con chối bỏ tiềm năng thật của con như một người đồng-sáng tạo với Thượng đế.

Tin vui là con không cần thay thế một cách ý thức từng quyết định mà ngã hữu diệt đã lấy. Con chỉ cần đảo ngược những quyết định khiến con đi xuống một bực hay một lầu trên cầu thang vũ trụ. Một khi con đã đảo ngược một trong những quyết định này, con có thể dễ dàng bỏ lại đằng sau tất cả những quyết định phát sinh từ quyết định lớn hơn này. Con vẫn phải thanh lọc năng lượng tha hóa do các quyết định tạo ra nhưng chính các quyết định thì đã tiêu trừ. Tin buồn là con sẽ phải đảo ngược mỗi quyết định đã kéo con xuống một bực thang thấp hơn và để làm chuyện này con sẽ phải khắc phục cái mà ta có thể gọi là thói quen nguyên thủy, thói quen chủ chốt.  

5.5. Thói quen trốn chạy cái khó chịu

Có một cơ chế vi tế vận hành ở đây. Sự kiện đơn giản là khi ngã hữu diệt được tạo ra và con cho phép nó kiểm soát ít nhất một phần nào cuộc đời con, thì con đã thiết lập một khuôn nếp phủ nhận, một khuôn nếp chạy trốn những tình huống hay quyết định có vẻ khó chịu hay choáng ngợp. Cơ bản là cái Ta Biết quyết định nó không muốn trải nghiệm một số tình huống, nó không muốn trải nghiệm hậu quả của những chọn lựa quá khứ của nó và nó không muốn trải nghiệm sự dày vò khi phải lấy quyết định mới trong một tình huống đã bị ảnh hưởng sâu xa bởi chọn lựa bất toàn trong quá khứ, khiến cho có vẻ không còn lựa chọn nào tốt cả.

Đó là lý do tại sao cái Ta Biết rút lui khỏi những tình huống như thế và cho phép ngã hữu diệt lấy quyết định phản ứng một tình huống khó chịu. Hành động này của cái Ta Biết đã thiết lập một khuôn nếp rất thâm sâu và rất vi tế, khuôn nếp chạy trốn những quyết định khó chịu hay có vẻ khó khăn. Đây là một khuôn nếp nghĩ con có thể né tránh một trải nghiệm bằng cách lờ nó đi hay chối bỏ nó. Nếu con muốn đảo ngược những lựa chọn nhị nguyên đã tạo ra ngã hữu diệt, giữ cho nó sống và cho nó quyền điều khiển, thì con phải phá vỡ thói quen này, khuôn nếp này, thói quen quay lưng lại bất cứ gì làm con khó chịu hay choáng ngợp. Con phải ngưng chạy trốn việc lấy quyết định. Con phải sẵn lòng quay đầu lại và đối diện với những gì con đã không chịu đối diện trước đây.

Thày đã quan sát rất nhiều người tầm đạo đã thực tỉnh nhận ra khía cạnh tâm linh của cuộc sống sau khi khám phá một tôn giáo, một triết lý tâm linh hay một vị thày tâm linh. Họ rất phấn khởi và ngay lập tức lao mình vào một giai đoạn nỗ lực học hỏi giáo lý mới và thực tập các kỹ thuật giúp họ tăng triển. Quả thật giai đoạn này mở tâm họ tới hiểu biết mới và cao hơn và họ thật sự tiến bộ khi tu tập. Sau một thời gian, nhiều người tới điểm họ không thể tiến hơn nữa nếu họ không phá vỡ khuôn nếp trốn chạy những quyết định khó khăn. Đây là một điểm rất then chốt trên đường tu và thày bảo đảm với con rằng ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian biết rất rõ tầm quan trọng của thử thách đó. Nếu con phá vỡ được khuôn nếp chạy trốn, chúng sẽ không còn kiểm soát được con nữa. Chúng vẫn có thể ảnh hưởng con trong một thời gian ngắn và khiến con tiến bộ chậm đi, nhưng một khi con vượt điểm then chốt đó và lấy lại trọn vẹn trách nhiệm về tâm mình, chúng sẽ không thể hoàn toàn kiểm soát con nữa. Chắc chắn sẽ có lúc chúng hoàn toàn mất hết ảnh hưởng trên con. Một khi con vượt quá điểm then chốt, con sẽ tạo ra một vòng xoáy đi lên mà ngã hữu diệt và các lực thế gian không thể đảo ngược.

Ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian sẽ làm mọi cách để ngăn cản con phá vỡ khuôn nếp bỏ chạy. Họ làm điều này bằng cách thiết lập con đường giả, con đường có vẻ đúng cho con người nhưng cuối đường là cái chết. Họ nói con không cần phải đối diện cái khó chịu, con quả thực không cần lấy những quyết định khó khăn. Thay vào đó, con chỉ cần đi theo một thày giả, một thẩm quyền bên ngoài. Con cần tin giáo lý của một tôn giáo đặc thù, con cần thực tập theo giáo lý này, con cần làm những gì họ bảo con làm và tránh những gì họ bảo con tránh. Con cần đi theo một người lãnh đạo bên ngoài, một thày bên ngoài thay vì huớng vào nội tâm và vật lộn với công việc nhìn thấu các dối trá nhị nguyên của ngã hữu diệt và với lên hiểu biết cao hơn của cái Ta Ki-tô. Họ nói là dù con đã tìm ra một giáo lý tâm linh và bắt đầu tu tập, con vẫn có thể duy trì thói quen trốn chạy. Bằng cách làm đúng tất cả những điều vỏ ngoài, con có thể được cứu rỗi mà không thực sự thay đổi chính mình, thay đổi cách tiếp cận cuộc sống, đảo ngược các quyết định quá khứ.

Lời hứa hẹn này hoàn toàn dối trá. Giản dị là con không thể biểu hiện cuộc sống vĩnh cửu khi con chưa giải thoát mình khỏi mọi sự đồng hóa với ngã hữu diệt. Giê-su đã cho chúng ta một câu truyện ẩn dụ quan trọng khi thày nói tới bữa tiệc cưới mời tất cả mọi người (Matthew 22:2). Thày mô tả cảnh một người đi dự tiệc mà không mặc áo lễ và người đó bị trói cả chân lẫn tay, quăng ra ngoài nơi tăm tối nơi đó có khóc lóc và nghiến răng.

Đây là một cách kể truyện gây ấn tượng nhưng sự thật đằng sau câu truyện là để vào được cõi tâm linh, con phải mặc áo lễ. Điều này có nghĩa con phải thanh tẩy bốn thể phàm khỏi mọi yếu tố nhị nguyên, mọi yếu tố phản-Ki-tô. Con phải mặc chiếc áo lễ của tâm thức Ki-tô. Nếu con chưa khoác lên tâm thức cao hơn đó, con không thể đi vào tâm thức của sự sống dồi dào và do đó con sẽ bị trói cả chân lẫn tay bởi những tin tưởng nhị nguyên của mình. Con sẽ ở trong tăm tối bên ngoài của tâm nhị nguyên, nơi đó sự sống là một đấu tranh liên tục. Đây không phải là hình phạt của một Thượng đế giận dữ, đây chỉ đơn giản là hậu quả của những chọn lựa của con, hay không chịu chọn lựa. Giản dị là con không thể đạt được cứu rỗi, đạt được cuộc sống vĩnh cửu, không thể biểu đạt cuộc sống dồi dào trừ khi con phá vỡ thói quen trốn chạy cái gì khó chịu.

5.6. Con cần nhận trách nhiệm về những gì tồn trữ trong bốn thể phàm

Con cần làm gì để phá vỡ thói quen đó? Con hãy để thày cho con những hiểu biết có thể giúp con. Mọi chuyện đều tùy thuộc quyền tự quyết của con. Để có thể giải thoát mình khỏi một tin tưởng bất toàn ở trong một trong bốn thể phàm của con, con phải lấy quyết định buông bỏ, vứt đi tin tưởng này. Con phải khắc phục ảo tưởng cho rằng tin tưởng này là sự thật và vì lý do nào đó nó cần thiết hay không thể tránh. Con phải khắc phục sự dính mắc tình cảm vào tin tưởng này để có thể sẵn lòng buông bỏ nó. Con quả thật phải sẵn sàng cho khía cạnh này của ngã hữu diệt của con chết đi.

Con phải bỏ đi tin tưởng bất toàn, nhưng vấn đề là con không thể bỏ đi cái mà con không sở hữu. Kinh nghiệm sống thường ngày cho con thấy điều này hợp lý. Nếu con không có một món đồ chơi, con không thể cho nó cho em bé. Nếu con không có tiền, con không thể trang trải các hóa đơn. Trước khi con có thể bỏ đi một tin tưởng bất toàn, con phải công nhận mình có tin tưởng đó và nhìn nhận mình đã cho phép nó nhập vào quả cầu cái ta của mình. Làm sao con công nhận mình có một tin tưởng khi con còn duy trì thói quen chạy trốn những điều khó chịu hay phức tạp? Thói quen này đúng thực sẽ ngăn cản con công nhận mình có những chọn lựa quá khứ, ngăn cản con lấy lại trách nhiệm về những chọn lựa quá khứ của mình và do đó nó ngăn cản con làm đúng điều là chìa khóa chủ yếu giải thoát con khỏi những chọn lựa này.

Khi con còn duy trì thói quen chạy trốn, thói quen không nhận lãnh trách nhiệm về những tin tưởng và quyết định tồn giữ trong bốn thể phàm của con, thì con sẽ giữ mình trong thế bí. Đúng là con không có lối thoát khi con còn chạy trốn. Con đường giả do ông hoàng thế gian và ngã hữu diệt trình bày dựa trên ý tưởng là có lối thoát, có sự cứu rỗi máy móc và bảo đảm. Một số tôn giáo tuyên bố nếu con tiếp tục nghe theo họ, một ngày kia con sẽ tỉnh dậy trên thiên đường. Một số tôn giáo khác tuyên bố một vị cứu tinh bên ngoài, như Giê-su, sẽ giải quyết vấn đề giùm con và một ngày kia, con sẽ tỉnh dậy trên thiên đường. Điều này giản dị không thực hiện được. Làm sao con có thể tỉnh dậy ở một nơi nào khác ngoài nơi con đang ở hiện thời? Con sẽ không tỉnh dậy nếu con không quyết định là con sẵn sàng tỉnh dậy ngay bây giờ, ngay ở đây.

Điều chúng ta đang nói tới ở đây là cái bẫy toàn hảo do ông hoàng thế gian giăng ra. Đầu tiên hết, y nói dối với con để con phạm một lỗi lầm. Sau đó ý lừa con để con lập ra khuôn nếp chạy trốn những quyết định quá khứ của mình. Cuối cùng, y bày ra con đường giả biện minh cho khuynh hướng chạy trốn bằng cách nói rằng con có thể được cứu rỗi bằng cách đi theo một thẩm quyền bên ngoài. Tựu trung lại, tất cả gom lại thành cơn bão toàn hảo và cái Ta Biết giống y như con tàu không bánh lái, không la bàn, con tàu “bị gió thổi và nhồi” (James 1:6). Để khắc phục lời dối trá này, con chỉ cần thấy là sự cứu rỗi thật sự là hợp nhất với nguồn cội của con. Làm sao con có thể trở về hợp nhất với nguồn cội khi con còn chạy trốn Thượng đế? Làm sao chạy trốn nhà có thể đem con trở về nhà?

Đấng Cha hoan hỉ cho con vương quốc, nhưng để nhận được con phải chấp nhận những gì Thượng đế cho con không điều kiện. Con đã chấp nhận một hình ảnh hoàn toàn giả về Thượng đế, một thần tượng mà ông hoàng của thế gian đã cẩn thận vẽ ra để ngăn cản con tự do chấp nhận món quà cuộc sống dồi dào của Thượng đế. Con đã bị ngã hữu diệt lập trình để coi Thượng đế là một Thượng đế giận dữ muốn trừng phạt con vì đã làm lỗi. Điều này đưa tới tin tưởng vi tế mà nhiều tôn giáo dựa trên đó – cho dù các lãnh đạo tôn giáo hay tín đồ không ai nhận ra điều đang xảy ra – là con có thể mua sự cứu rỗi của mình, con có thể mua bán với Thượng đế. Tin tưởng này khiến con người cảm thấy họ phải làm gì đó để trả nợ Thượng đế vì đã làm lỗi, làm như thể một Thượng đế vô tận và toàn năng cần con người phải hy sinh gì đó cho ngài. Đó là lý do vì sao rất nhiều tôn giáo trong quá khứ đã tế thần bằng máu, thậm chí bằng máu con người để làm vừa lòng thần linh. Đây là họ tìm cách mua vé tàu lên thiên đàng.

Lối suy nghĩ nhị nguyên này sinh ra từ ý niệm tách biệt khỏi Thượng đế. Tư duy này mô tả Thượng đế như một Thượng đế bên ngoài, xa cách, và vương quốc của ngài đâu đó ngoài kia. Giê-su nói vương quốc Thượng đế ở trong con, nghĩa là không gì có thể cản con vào vương quốc, ngoại trừ những điều kiện nội tại trong tâm con. Con hãy tưởng tượng đang đi dưới đường và con thấy một gian hàng đầy quần áo thật đẹp. Con thấy món hàng con thích và hỏi: “Giá bao nhiêu?” Ông bán hàng nói: “Miễn phí, bạn có thể lấy nó!” Con không chịu tin và đưa tiền cho ông. Nhưng ông không nhận tiền của con vì nó không có giá trị đối với ông. Con càng cả quyết hơn và nghĩ ông đang từ chối những gì con cống hiến, nhưng con càng muốn trả tiền thì ông càng cả quyết từ chối. Ông ta tuyệt đối từ chối lấy tiền của con cho nên cách duy nhất để con có được bộ quần áo là nhận nó như một món quà. Nếu con không buông bỏ ý niệm phải trả tiền, thì làm sao con nhận được đây?

Bây giờ con thử tưởng tượng một người cả đời sống trong hang động tăm tối. Con nói cho ông ta biết về những đặc tính tuyệt vời của mặt trời và khuyến khích ông bước ra ngoài hang để nhìn thấy mặt trời. Ông có vẻ muốn đi theo con nhưng tới ngưỡng cửa ông thốt lên: “Phải trả bao nhiêu tiền?” Con trả lời: “Không tốn đồng xu nào, nhìn mặt trời hoàn toàn miễn phí!” Ngay lập tức ông tỏ vẻ nghi ngờ và từ chối không tin là mặt trời miễn phí. Nếu mặt trời tuyệt vời như con tả, chắc chắn phải trả tiền để thấy nó. Về phía con, con thấy thật là kỳ cục khi một người khăng khăng đòi trả tiền để nhìn mặt trời. Con yêu dấu, nhân loại giống như ông đó. Hầu hết con người đã sống toàn cuộc đời, thậm chí nhiều kiếp, trong hang đá của ngã hữu diệt và họ chưa bao giờ thấy mặt trời của cái ta cao của họ. Thượng đế gửi cho họ những vị thày và sứ giả nói cho họ biết ngoài hang đá có mặt trời, nhưng khi họ cố gắng đi theo vị thày đó, người gác cửa, là ông hoàng thế gian giả trang, nhất quyết đòi họ trả tiền trước khi được rời hang động. Thay vì đơn giản bước qua ngưỡng cửa, con người cuống cuồng cố gắng trả tiền và qua đó họ giữ họ lại mãi mãi bên trong hang động vì làm sao họ có thể trả món tiền mà không cần trả?

Có một sự phân biệt vi tế ở đây. một giá phải trả vì con chịu trách nhiệm về những chọn lựa con đã lấy và năng lượng con đã tha hóa. Con phải đảo ngược những chọn lựa này và nâng cao rung động của năng lượng tha hóa. Đây không phải là điều có thể làm một cách máy móc bằng cách nhắm mắt đi theo một lãnh đạo bên ngoài. Con không thể làm điều này bằng cách chạy trốn quá khứ của con, con không thể làm điều này mà không nhìn vào cái đà trong mắt mình. Nếu con tiếp tục nghĩ chỉ làm những hành động vỏ ngoài để chiều lòng Thượng đế là đã trả tiền vào thiên đàng, thì con sẽ không bao giờ vào dự tiệc cưới được.

Làm sao con dự tiệc cưới được khi cánh cửa nằm ngay trong tâm con và con cứ tiếp tục tìm cánh cửa bên ngoài con? Con đang tìm cách mua vé vào thiên đàng qua một cánh cửa bên ngoài không có thật. Trên thực tế, cánh cửa vào thiên đàng ở bên trong con và tất cả những gì con cần làm là vứt đi những rác rưởi trong bốn thể phàm đang ngăn cản con thấy cánh cửa. Con phải gỡ bỏ lực lôi kéo từ tính khiến con bị trói vào một ý niệm bản sắc trần tục và do đó cản con bỏ lại đằng sau ý niệm cuộc sống hữu diệt. Con không thể đem những tin tưởng nhị nguyên của con lên thiên đàng. Con quả thật không thể làm bất cứ gì với tâm nhị nguyên có thể ép và buộc Thượng đế phải cho con vào thiên đàng. Ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian, kể cả nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo, sẽ kịch liệt chối bỏ sự thật này. Họ là nạn nhân của chính những tin tưởng nhị nguyên của họ và họ đang tìm cách dùng tâm phản Ki-tô để giải thoát họ khỏi tâm phản Ki-tô, một nỗ lực hoàn toàn bất khả thi. Con lạc đà đi xuyên qua lỗ kim dễ hơn phú ông đi vào thiên đàng (Matthew 19:24). Phú ông giàu vì ông nghĩ ông sở hữu con đường cứu rỗi và ông dính mắc với “của cải” của ông.

Không ai có thể giải thoát con khỏi một tin tưởng bất toàn nếu con không muốn. Con phải quyết định buông bỏ tin tưởng bất toàn này và con không thể buông bỏ khi con không sẵn sàng nhận trách nhiệm chính mình đã cho phép tin tưởng này đi vào bốn thể phàm của mình. Nếu con không nhận lãnh trách nhiệm, đơn giản là con không có uy lực để giải thoát mình. Khi không lãnh trách nhiệm, khi duy trì thói quen chạy trốn, con quả thật đang để các tin tưởng bất toàn cầm tù con trong bốn thể phàm. Đây là một phương trình rất giản dị và thày hy vọng con thấy được hệ quả lớn lao của nó trên cuộc đời của con. Nếu con phá tan thói quen chạy trốn, con có thể vĩnh viễn xoay chuyển cuộc đời mình và đặt nó vào đường rày tích cực. Năng lượng tha hóa tồn trữ trong bốn thể phàm khiến con cảm thấy đau đớn hay khiến con mắc kẹt trong một số khuôn nếp, và chính năng lượng này khiến con khó từ bỏ một thói quen, kể cả thói quen chạy trốn cái gì khó chịu. Một lần nữa gỡ bỏ năng lượng tha hóa này sẽ khiến con dễ buông bỏ các tin tưởng bất toàn của con.

5.7. Con phải nhận trách nhiệm về đời mình

Chúng ta hãy tóm tắt những ý tưởng này. Vấn đề chúng ta cần đối diện là con đã xây đắp một thói quen rất thâm sâu chạy trốn việc lấy quyết định khó khăn. Cốt lõi của thói quen này là con không có khả năng thấy quyết định tốt nhất có thể có vì con đã đi xuống tâm thức nhị nguyên và không còn viễn kiến hợp nhất của tâm Ki-tô. Trong tâm thức nhị nguyên lúc nào cũng có nhiều chọn lựa và chọn lựa nào cũng có luận cứ ủng hộ nó. Cho nên khó chọn được cái tốt nhất. Trên thực tế, tất cả mọi chọn lựa mà con thấy đều do tâm thức nhị nguyên quy định và chúng đều đưa tới những hậu quả khó chịu. Con ở trong hoàn cảnh mà câu nói xưa mô tả: “Bạn bị đày đọa nếu bạn làm và bạn bị đày đọa nếu bạn không làm.” Một khi con trải nghiệm là tất cả chọn lựa của mình đều đưa tới hậu quả khó chịu, có gì lạ không khi con không còn muốn lấy quyết định nữa?

Chìa khóa để phá vỡ bế tắc này là gì? Nếu con có viễn kiến rõ ràng cho phép con thấy chọn lựa tốt nhất trong mỗi hoàn cảnh, thì bỗng nhiên lấy quyết định không còn khó nữa. Dù con đã chọn đi vào rừng rậm của tâm thức nhị nguyên, Thượng đế không để con thiếu an ủi. Như Giê-su đã nói, Thượng đế đã gửi cho con đấng an ủi (John 14:26) dưới dạng cái Ta Ki-tô của con. Đây là vị thày nội tâm của con có mặt trong con để hướng dẫn con leo lên lại cầu thang xoáy ốc. Mỗi bước con cần bước lên, cái Ta Ki-tô sẽ cho con hướng dẫn cần thiết để lấy quyết định tốt nhất. Hầu nhận được hướng dẫn nội tâm này, con phải hỏi với tâm thái đúng. Con phải nhận hoàn toàn trách nhiệm về cuộc sống mình. Con phải sẵn lòng thay đổi mình, có nghĩa là con phải sẵn lòng nhìn thấy từng tin tưởng nhị nguyên mà con cần khắc phục. Con phải cho phép vị thày phơi bày cho con tất cả những tin tưởng giả mà con có dù chuyện này tạo khó chịu cho con.

Thày đã thấy nhiều người đã khám phá khía cạnh tâm linh của cuộc sống và biết khái niệm hướng dẫn từ cao. Một số người ấy cầu nguyện Giê-su hay chính thày, một số cầu nguyện những vị thày tâm linh khác và một số cầu nguyện chính cái ta cao của họ. Ngày nào con người không thể nhìn quá thói quen trốn chạy, đơn giản là họ không thể hay họ sẽ không nhận được những câu trả lời mà các thày gửi tới họ. Quy luật của Thượng đế là khi con hỏi, con sẽ được trả lời. Vấn đề là có quá nhiều người xin trợ giúp nhưng họ không thật sự muốn sự giúp đỡ để tự giúp mình. Họ không muốn nhận hướng dẫn giúp họ lấy quyết định đúng, họ muốn một lọai giải pháp thần diệu nào đó cho phép họ không phải lấy quyết định. Họ không muốn được giúp đỡ để trở thành những người đồng-sáng tạo tự túc, hoàn toàn chịu trách nhiệm cuộc đời mình. Họ muốn các thày giải quyết vấn đề giùm họ để họ có thể tiếp tục trốn chạy.

Con hãy để thày cho con một tiêu chuẩn tuyệt đối. Một người thày giả sẽ vui lòng giúp con duy trì thói quen chạy trốn việc lấy quyết định. Một vị thày chân chính sẽ không làm bất cứ gì để củng cố thói quen này và thực ra sẽ làm mọi chuyện có thể làm để lay chuyển con thoát khỏi thói quen này. Khi con đặt câu hỏi trong tâm thái vẫn còn muốn trốn chạy lấy quyết định, con không thể nghe thấy vị thày chân chính. Thay vào đó, con nghe thấy các thày giả của ngã hữu diệt của con hay một đạo sư bên ngoài muốn con theo vị ấy thay vì lấy quyết định của mình.

Giê-su phác họa trách nhiệm của con như một người đồng-sáng tạo với Thượng đế khi thày nói:   “Cha ta làm việc cho đến bây giờ, nay ta cũng làm việc như vậy (John 5:17)”. Thượng đế đã làm việc bằng cách sinh tạo ra con với một cá tính độc đáo, cho con quyền tự quyết và tạo ra cả một vũ trụ trong đó con có thể thực thi quyền tự quyết của mình. Con có trách nhiệmtiếp tục xây dựng trên nền móng đó bằng cách lấy những chọn lựa liên quan tới những gì con sẽ đồng-sáng tạo. Con không bao giờ có thể chạy trốn chọn lựa; đây là một giấc mơ bất khả thi do ngã hữu diệt của con tạo ra và cổ súy vì nó muốn lấy quyết định giùm con. Nếu con thấy trốn chạy là một tin tưởng sai lầm và nếu con lấy quyết định sẵn sàng làm việc để phá tan thói quen đó, thì con sẽ thấy là con nghe được chỉ đạo nội tâm rõ hơn. Khi con tuân theo lời chỉ đạo nội tâm này bằng hết khả năng của con, con sẽ tăng cường khả năng nghe thấy vị thày nội tâm của mình. Dần dà con sẽ thấy là giờ đây con có thể lấy những quyết định giúp con tăng triển thay vì quyết định đưa tới những hậu quả giới hạn tăng trưởng của con. Đây là cách duy nhất để xoay chuyển cuộc đời con thành vòng xoáy đi lên bằng cách lấy quyết định dựa trên sự chỉ đạo của một vị thày chân chính. Ngày nào con còn tiếp tục đi tìm một vị thày lấy quyết định giùm con, con sẽ ở lại trong vòng xoáy đi xuống và cuộc đời của con sẽ là một sự vật lộn không ngừng.

5.8. Thượng đế không đòi hỏi con toàn hảo

Con có thể khiến việc nhận trách nhiệm cuộc đời mình dễ dàng hơn bằng cách xây đắp trên nền tảng thày đã nói với con trong các chương trước, đấy là Thượng đế không có ý muốn chê trách con về những chọn lựa quá khứ của con. Nhiều người có vấn đề với hổ thẹn, mặc cảm tội lỗi và tự trọng thấp. Họ cảm thấy nếu họ nhìn nhận mình đã có những chọn lựa sai lầm trong quá khứ, thì họ sẽ rơi vào mặc cảm tội lỗi hay hổ thẹn mãnh liệt đến độ nó sẽ phá hủy bất cứ mức độ tự trọng nào mà họ có.  Một lần nữa, cường độ của bất kỳ cảm xúc nào do năng lượng bị tha hóa tồn đọng trong thể cảm xúc gây nên. Khi con tháo gỡ năng lượng này thì con hạ giảm cường độ. Con cũng có thể giúp mình bằng cách nhận ra Thượng đế không bao giờ đòi hỏi con phải toàn hảo. Thượng đế cho con quyền tự quyết và quyền thử nghiệm dùng quyền tự quyết đó. Thượng đế không chê trách con vì con đã lấy một số chọn lựa. Thượng đế giản dị muốn con học hỏi từ những chọn lựa đó và giải thoát mình khỏi các quyết định và hậu quả của chúng. Con không cần cảm thấy hổ thẹn hay tội lỗi vì đã phạm lỗi lầm trong quá khứ. Những cảm xúc này chỉ ngăn cản con học bài học và giải thoát mình khỏi những lỗi lầm đó. Điều con cần làm là thẳng thắn nhận đã phạm lỗi, học bài học cần học và sau đó buông bỏ các tin tưởng nhị nguyên đã khiến con phạm lỗi.

Có một sự phân biệt vi tế khác ở đây. Mỗi sai lầm con từng phạm đều bị ảnh hưởng bởi tâm nhị nguyên hay hoàn toàn dựa trên tâm nhị nguyên, tâm phản Ki-tô. Tâm thức này không là một phần của bản thể thật của con, nó không là một phần tất yếu của quả cầu cái ta của con. Cái ta thật của con, sinh thể tâm linh bất diệt mà con thật sự là, không phạm những sai lầm đó. Sai lầm xảy ra vì con đã xây đắp một ý niệm bản sắc tạm bợ dựa trên tâm thức nhị nguyên và ý niệm bản sắc này tối hậu không có thật.

Con không thể dùng lập luận này đến cùng cực và bảo rằng cái Ta Biết không chịu trách nhiệm về những quyết định đó. Nếu thế, con cũng nói là cái Ta Biết không có khả năng giải thoát chính nó khỏi quá khứ. Cái Ta Biết lấy quyết định đó nhưng nó làm vậy vì nó không còn tự đồng hóa như người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Cái Ta Biết phạm những lỗi lầm này dựa trên một thế giới quan đặc thù bị ảnh hưởng bởi tâm thức nhị nguyên. Cái Ta Biết nhìn qua phin lọc của một ý niệm bản sắc thấp hơn. Phin lọc này, ý niệm bản sắc này dựa trên sự tách biệt với Thượng đế, ý niệm bản sắc này tối hậu không thật và không phải là một thành phần của con. Cái Ta Biết có thể tách ra khỏi ý niệm bản sắc đó bằng cách với lên trên và nối kết lại với bản sắc bất diệt của nó. Muốn làm vậy đòi hỏi một hành động ý chí có ý thức. Con phải muốn ngưng trốn chạy việc lấy quyết định và con phải muốn cho ý niệm cái ta hữu diệt chết đi.

Con không thể chịu nổi tình trạng không có bản sắc. Con không thể cho ý niệm bản sắc hữu diệt chết đi nếu chưa có cái gì khác thay thế nó. Đó là lý do vì sao thày nhấn mạnh bắt đầu với việc thanh lọc thể bản sắc là quan trọng. Chỉ khi con tìm ra ý niệm bản sắc cao nhất của con, con mới có một cái gì thay thế ý niệm bản sắc hữu diệt. Chỉ khi nào con biết và hoàn toàn chấp nhận con là người đồng-sáng tạo với Thượng đế, con mới thực sự có thể để cho ý niệm bản sắc hữu diệt chết đi. Đây là cách duy nhất để xây đắp lòng tự trọng thật, lòng tự trọng xây dựng trên tảng đá của Ki-tô khi con biết mình là ai. Con biết con là người đồng-sáng tạo với Thượng đế và con biết đấng Sáng tạo cho con quyền cai quản trái đất và thị hiện vương quốc của ngài.

Ai ai cũng lớn lên với chờ mong cuộc sống phải như thế nào. Mỗi người đã xây dựng một số mong chờ qua nhiều kiếp sống. Nếu con có thể thay đổi mong chờ của con về cuộc đời mình, thì cuộc sống của con dễ dàng hơn nhiều. Một trong những chờ đợi vi tế nhất chính là ý tưởng Thượng đế đòi hỏi con phải toàn hảo. Đây là tin tưởng con phải đạt một tiêu chuẩn siêu phàm, siêu trần thế để được chấp nhận bởi Thượng đế. Những người đã thăng thiên không phải là những người không bao giờ phạm sai lầm. Những sinh thể con tìm thấy trong cõi tâm linh, những sinh thể đã tốt nghiệp khảo hạch cuối cùng trên hành tinh trái đất không phải là những sinh thể toàn hảo, không bao giờ sai lầm, khi họ đi trên trái đất. Ngược lại, nhiều sinh thể ngày nay đã thăng thiên đã từng phạm nhiều lỗi lầm khi sống trên trái đất. Điều này thậm chí cũng áp dụng cho Giê-su, một người mà rất nhiều tín đồ Cơ đốc xem là toàn hảo. Những sinh thể đã thăng thiên không phải là những người không bao giờ phạm lỗi nhưng là những người sẵn sàng nhìn nhận mình đã sai lầm, sẵn sàng học bài học từ đó và sau đó buông bỏ chúng.

Điều duy nhất, hơn là mọi điều khác, giữ con đứng bên ngoài thiên đường, giữ con ở bên ngoài cuộc sống dồi dào là con nắm chặt điều gì đó, con bám cứng vào quá khứ. Điều duy nhất, hơn là mọi điều khác, sẽ giúp con lao mình vào sự sống dồi dào và bắn con lên thiên đường là con sẵn sàng buông bỏ mọi bất toàn, buông bỏ quá khứ. Ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian muốn con tin là con không bao giờ thoát khỏi quá khứ. Đây là lời dối trá quỷ quyệt và sự thật là con có thể giải thoát mình khỏi mọi bất toàn quá khứ. Để có thể giải thoát mình khỏi những bất toàn như thế, con phải sẵn sàng buông bỏ chúng. Con yêu dấu, con hãy giữ nằm lòng câu nói giản dị sau: “Con không lên thiên đàng vì con nắm giữ bao nhiêu mà vì con buông bỏ bao nhiêu.” Quả vậy đó là lý do tại sao Giê-su nói người nào tìm cách cứu sự sống mình sẽ mất sự sống trong khi người chịu mất sự sống –  nghĩa là mất ý niệm bản sắc nhị nguyên để có thể bước lên cao hơn – sẽ tìm được sự sống vĩnh cửu (Matthew 16:25).

5.9. Kiêu hãnh trước khi sa ngã

Thày đã giải thích cho con một trong những yếu tố đã khiến rất nhiều người ôm ghì quá khứ. Đó giản dị là khuôn nếp tránh né, muốn trốn chạy quá khứ. Đó là nỗi sợ đau đớn. Con người tránh không nhìn vào những quyết định bất toàn trong quá khứ của họ vì họ sợ nỗi đau của sự hổ thẹn, mặc cảm tội lỗi và hối tiếc khi xem xét mình. Còn một lý do khác ảnh hưởng tất cả mọi người, tuy một số kẹt vào đó nhiều hơn những người khác. Đó là ý niệm không cần thay đổi, không cần buông bỏ quá khứ, không cần nhìn nhận đã làm lỗi và không cần hiểu tại sao đã làm lỗi. Tâm thái này có thể tóm tắt trong một chữ, đó là “kiêu hãnh.”

Kiêu hãnh quả thực xảy ra trước khi sa ngã nhưng thày quan tâm tới sự kiêu hãnh ngăn cản con đứng lên sau khi té ngã. Loại kiêu hãnh này nói rằng con không cần với lên sự thật cao hơn của tâm Ki-tô bởi vì con đã biết những điều cần biết để được cứu rỗi. Con đã có chân lý do một tôn giáo vỏ ngoài, học thuyết vỏ ngoài hay hệ thống tin tưởng vỏ ngoài cho con. Con không cần hạ mình và xin sự hướng dẫn từ một vị thày tâm linh chân chính, thật ra con không cần thày.

Có cả triệu người bị kẹt trong dạng kiêu hãnh này dù họ hoàn toàn không thấy được đó là kiêu hãnh. Họ tin chắc là họ thuộc vào tôn giáo chân chính duy nhất hay hệ thống tin tưởng chân chính duy nhất, tỷ dụ khoa học duy vật hay Cơ đốc giáo chính thống. Họ hoàn toàn không muốn xem xét để thấy là hệ thống tin tưởng của họ, toàn bộ cách tiếp cận sự sống của họ có thể giới hạn, thiếu sót hay sai lệch vì chúng dựa trên tâm thức phản Ki-tô. Lẽ tất nhiên thái độ này chính là điều mà ngã hữu diệt của họ và ông hoàng thế gian muốn họ nghĩ. Ác ma không thích gì hơn là khi hắn có thể khiến cho con người tin một lời dối trá và sau đó khiến họ tin lời dối trá thứ nhì là lời dối trá đầu là sự thật tuyệt đối không thể sai lầm sẽ bảo đảm đưa họ lên thiên đàng, miễn là không ai tra vấn nó.

Các lực của thế gian muốn con người cảm thấy họ đã biết hết mọi chuyện rồi, họ đã hiểu hết sự vận hành của cuộc sống. Họ không cần với lên vị thày chân chính là một đại diện của tâm Ki-tô hoàn vũ. Bước ngoặt thật sự đưa con xuống cầu thang xoáy ốc đi xuống không phải là khi con thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên. Vấn đề chính là sau khi con mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên, con quyết định không muốn trở về với vị thày chân chính là người đại diện cho tâm Ki-tô hoàn vũ cho cá nhân con. Từ ngày đó, con đã đi theo các đạo sư giả là ngã hữu diệt và nhiều đại diện khác của ông hoàng thế gian, tâm thức phản Ki-tô. Các đạo sư giả là những người kẹt trong tâm thức nhị nguyên, nhưng như Giê-su nói, họ thường xuất hiện ngụy trang. Họ là những con chó sói xuất hiện dưới bộ lông cừu (Matthew 7:15). Thậm chí họ còn xuất hiện như ác ma chuyển hóa thành thiên thần ánh sáng (2Corinthians 11:14). Họ xuất hiện như những tiên tri giả tuyên bố là họ đại diện Thượng đế hay Ki-tô nhưng trên thực tế họ sẽ đưa con vào con đường giả của phản Ki-tô. Họ quả thật là những lãnh đạo mù và nếu con muốn cuộc sống dồi dào, con phải mở mắt và ngưng đi theo họ (Matthew 15:14).

Những người kẹt trong trạng thái tâm thức này có một đặc tính chính là họ tin chắc họ không thể nào sai. Đặc tính này liên kết với khuynh hướng chạy trốn lấy trách nhiệm cho sự cứu rỗi của mình. Nếu con muốn giải thoát mình khỏi một quyết định bất toàn trong quá khứ, con phải nhìn nhận quyết định đó sai, nó không phải là quyết định tốt nhất có thể có và con cần thay thế nó bằng một quyết định tốt hơn. Nếu con kẹt trong kiêu hãnh, con sẽ không sẵn sàng thú nhận mình sai, con sẽ không sẵn sàng hạ mình mà nói: “Tôi không có hiểu biết để lấy quyết định tốt nhất có thể có, bằng không tôi đã không phạm sai lầm trong quá khứ. Tôi cần với lên hiểu biết này và cách để đạt hiểu biết là tôi tìm sự giúp đỡ của một vị thày có khả năng đại diện thật sự cho tâm Ki-tô và có thể thấy điều tôi không thể thấy.”

5.10. Chỉ có một cách là nghe theo sự thật Ki-tô

Vấn đề thực sự duy nhất trên hành tinh trái đất là con người đã quay lưng lại với vị thày chân chính và thay vào đó đi theo đạo sư giả. Giải pháp thật sự duy nhất là con người nhận ra sai lầm đó, tách mình ra khỏi các đạo sư giả và một lần nữa chấp nhận hướng dẫn thương yêu của một vị thày chân chính. Con hãy suy xét ẩn dụ cỏ dại lẫn lộn trong lúa mì (Matthew 13:24). Nó minh họa sự kiện có quá nhiều người trên trái đất đã cho phép mình vướng mắc trong tâm thức phản Ki-tô và vướng mắc với những người thể hiện tâm thức đó, cho nên Thượng đế không thể gỡ bỏ những đại diện của phản Ki-tô trên trái đất mà không bứng theo cây lúa mì là những người còn dốc tâm theo tâm linh chân chính.

Con cần tách mình ra khỏi tâm thức phản Ki-tô và tâm ngạo mạn là nét đặc trưng của tâm thức này. Tâm thức phản Ki-tô đích thực tin chắc nó biết cách điều hành vũ trụ giỏi hơn Thượng đế, cho nên trạng thái tâm này không chấp nhận bất cứ thẩm quyền nào trên nó hay vượt quá nó. Nó không chấp nhận Thượng đế là thẩm quyền tối hậu, nó sẽ không chấp nhận tâm Ki-tô hoàn vũ và không chấp nhận người thể hiện tâm này là người đại diện chân chính của Thượng đế trên thế gian này. Nó sẽ không chấp nhận bất kỳ sinh thể tâm linh nào hay bất kỳ sinh thể hiện thân nào là đại diện cho tâm Ki-tô hoàn vũ và quả thực đấy là lý do con thấy một số người hoàn toàn bác bỏ Giê-su khi thày đi trên trái đất bằng xương bằng thịt. Những người như thế muốn đuổi Ki-tô hiện thân ra khỏi thế gian này để Ki-tô hiện thân không thể giải thoát con người khỏi tù ngục của họ.

Một số trong họ tuyên bố rất ngoan đạo hay rất tâm linh. Họ thường tuyên bố là đại diện của tôn giáo chân chính duy nhất. Khi Ki-tô Hằng sống đứng trước mặt họ bằng xương thịt, họ chối bỏ thày, âm mưu hại thày và rốt cuộc đưa thày vào chỗ chết. Điều này cho con thấy những người thể hiện tâm thức phản Ki-tô sẽ làm gì để ngăn cản chân lý Ki-tô được rao giảng trên trái đất. Lòng ngạo mạn, kiêu căng của họ sâu đến độ họ khó lòng giải thoát mình khỏi tâm thái này. Con có thể nhanh chóng giải thoát mình khỏi lòng kiêu mạn nếu con sẵn lòng nhìn thấy nó như nó là và nhận ra nó đã cầm tù con trong một hộp tư duy rất chật hẹp.

Làm sao con giải thoát mình khỏi lòng kiêu hãnh của phản Ki-tô? Nguyên tắc hoàn vũ là con không thể giải quyết một vấn đề với cùng tâm thức đã tạo ra vấn đề. Con không thể giải thoát mình khỏi tâm thức phản Ki-tô bằng cách dùng lô-gíc và khả năng suy luận của tâm phản Ki-tô. Đây là con đường đưa đến thất bại của những người kẹt trong trạng thái tâm thức này. Lòng ngạo mạn khiến họ nghĩ tâm thức phản Ki-tô cao trội hơn tâm thức Ki-tô, thậm chí cao hơn cả tâm Thượng đế. Họ nghĩ đã chứng minh điều này bằng cách dùng lô-gíc nhị nguyên, có thể “chứng minh” bất cứ gì. Họ mù quáng không thấy sự thật là tâm thức phản Ki-tô và lý luận nhị nguyên của nó không thể nắm bắt chân lý tối hậu của tâm Ki-tô. Họ nghĩ bằng cách dùng lô-gíc của trí năng và tâm suy luận, họ có thể tạo ra một hệ thống tin tưởng đúng tuyệt đối.

Nhưng sự thực là mọi hệ thống tin tưởng do tâm thức nhị nguyên tạo ra đều sai tuyệt đối. Tâm nhị nguyên luôn luôn có thể đưa ra một lập luận có vẻ như chứng minh được điều nó muốn tin. Người bị kẹt trong tâm thức phản Ki-tô luôn luôn có thể định ra một lập luận thuyết phục chính họ là họ đúng. Nếu họ đúng, tại sao họ cần đến một đại diện tâm Ki-tô, tại sao họ cần đến một vị thày tâm linh, đặc biệt là nếu vị thày đó chất vấn các tin tưởng “tuyệt đối” của họ? Tại sao lại cần đến một vị thày đã thăng lên một cõi cao hơn trong khi họ đã có chân lý tuyệt đối ngay đây trong cõi vật chất này? Tại sao họ lại cần công nhận bất cứ thẩm quyền nào cao hơn họ khi mà họ biết hết mọi chuyện hơn bất cứ ai khác?

Nếu con muốn giải thoát mình khỏi tâm thức nhị nguyên, tâm thức phản Ki-tô, thì con chỉ có một cách. Con phải sẵn sàng lấy trách nhiệm về những quyết định con đã lấy trong quá khứ. Sau đó con phải sẵn lòng nhận ra con đã lấy những quyết định đó vì con không có tầm nhìn sáng suốt và sự hiểu biết của tâm Ki-tô. Mọi quyết định bất toàn mà con đã từng làm dựa trên lý luận nhị nguyên của tâm phản Ki-tô. Cách duy nhất để giải thoát mình khỏi quyết định đó là vươn lên viễn kiến nhất nguyên, viễn kiến của con mắt đơn nhất của tâm Ki-tô. Ngày nào cái Ta Biết còn mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên thì con không thể tự mình thấy được chân lý cao hơn đó. Đó là lý do tại sao con cần một vị thày có thể cho con một mảnh chân lý từ tầm nhìn cao hơn của tâm Ki-tô.

Con hãy tưởng tượng lớn lên trong một mê cung. Thế giới của con là những bức tường xanh lá tạo thành những lối đi có vẻ chẳng dẫn tới đâu cả. Nếu con sinh ra trong một mê cung như vậy, thì con sẽ nghĩ thế gian là một mê cung và bên ngoài chẳng có gì cả. Điều này giống sự kiện con người nghĩ không có gì ngoài vũ trụ vật chất hay không có gì ngoài những tin tưởng nhị nguyên mà họ được dạy là không thể sai. Khi con tỉnh ngộ và nhận ra cuộc sống có một khía cạnh tâm linh, có một con đường có hệ thống dẫn tới một trạng thái tâm thức cao hơn, thì con nhận ra có gì khác bên ngoài mê cung. Từ đó con nảy sinh ý tưởng có con đường thoát khỏi mê cung nhưng bởi vì con vẫn còn ở trong mê cung, con không gần hơn việc tìm ra lối thoát. Con chưa thấy được tổng thể vì còn chú tâm vào chi tiết, con chưa thấy con đường thoát ra mê cung. Bỗng nhiên, con nghe một giọng nói gọi con và khi ngước lên, con thấy một người đứng trong một cái giỏ của một quả bóng bay lơ lửng trên mê cung. Người này nhìn mê cung từ trên cao và có thể thấy rõ vị thế của con so với lối đi ra duy nhất. Con có nhận sự hướng dẫn của người đó hay con nhất quyết mình có thể tự tìm ra lối thoát?

Lẽ dĩ nhiên con có thể phớt lờ người hướng dẫn và dò dẫm tìm đường đi trong mê cung với hy vọng một ngày kia tự mình tìm ra lối thoát. Nếu mê cung là một mê cung lừa lọc không có lối ra bình thường thì sao đây? Nếu con cứ tiếp tục đi theo những con lộ có sẵn, thì con sẽ chỉ quay trở về nơi con khởi đầu. Cách duy nhất ra được là tìm tới được một trong những bức tường bên ngoài và đâm mạnh xuyên qua những bụi cây tạo thành bức tường đó. Con có bao giờ nghĩ tới chuyện làm như vậy chăng? Không người nào kẹt trong tâm thức nhị nguyên có thể dùng lô-gíc của trạng thái tâm này để lý luận rằng y cần vượt lên trên tâm thức nhị nguyên để đột phá thoát khỏi mê cung. Chỉ có viễn quan cao hơn của tâm Ki-tô mới có thể cho con khái niệm này. Con yêu dấu, xin con lắng nghe tiếng nói của vị thày chân chính luôn có mặt để hướng dẫn con. Xin con nhận ra rằng vị thày chân chính luôn luôn tìm cách giúp con thoát khỏi hộp tư duy hiện thời của con. Vị thày chân chính sẽ nói với con điều con cần nghe, không phải điều ngã hữu diệt muốn con nghe. Do đó, ngã hữu diệt của con sẽ luôn luôn phản đối điều mà vị thày chân chính bảo con và nó luôn luôn tìm cách khiến con lờ đi hay chối bỏ hướng dẫn của vị thày chân chính.

5.11. Cái Ta Ki-tô là vị thày nội tâm

Cách duy nhất để bắt đầu tiến trình leo lên trở lại cầu thang xoáy ốc là con nhận ra sự thật là con không có những hiểu biết mà con cần, do đó con cần khiêm tốn và với lên một vị thày tâm linh để xin giúp đỡ. Quy luật hoàn vũ là khi con hỏi, con sẽ được trả lời. Có những vị thày tâm linh trên cõi cao hơn đang chờ lời kêu gọi của con. Con có một vị thày riêng của con, mà thày gọi là cái Ta Ki-tô sẵn sàng giúp con từng bước trên con đường dẫn con trở về sự sống dồi dào.

Cái Ta Ki-tô của con được tạo ra như một sự đối trọng với ngã hữu diệt. Ngã hữu diệt được xây dựng từ sự tích lũy nhiều quyết định nhị nguyên dần dần đưa con đi xuống cầu thang xoáy ốc. Cái Ta Ki-tô đi theo con từng bước con đi xuống và do đó vị thày nội tâm của con biết từng quyết định nhị nguyên con đã lấy, từng tin tưởng nhị nguyên con đã chấp nhận. Cái Ta Ki-tô có thuốc giải độc cho mỗi quyết định này. Cái Ta Ki-tô có chân lý phản bác từng lời dối trá nhị nguyên tạo thành ngã hữu diệt. Cái Ta Ki-tô có chân lý sẽ giải thoát con. Một khi con xin được giúp, con sẽ bắt đầu nhận được sự giúp đỡ. Con cần luôn giữ trong tâm ý tưởng rằng khi vị thày xuất hiện, con cần nghe theo thày và làm theo hướng dẫn của thày. Con cần nhận ra khi vị thày chân chính xuất hiện, thày đến để cho con sự thật vượt quá những tin tưởng nhị nguyên của ngã hữu diệt. Ngã hữu diệt sẽ chế ra một lập luận rất tinh xảo để khiến con bác bỏ chân lý này.

Ngã hữu diệt không muốn con thay đổi, nó không muốn con chấp nhận chân lý cao hơn do một vị thày tâm linh chân chính trao cho con. Vị thày tâm linh chân chính muốn con thay đổi, muốn con thoát khỏi quá khứ, muốn con tiến lên cao hơn. Điều làm con kẹt trong trạng thái tâm thức hiện nay của con là sự dính mắc vào các tin tưởng nhị nguyên. Khi vị thày chân chính đến với con, thày tới để cho con sự thật sẽ phá vỡ một trong những tin tưởng nhị nguyên đó, có thể đôi khi làm con bị cú sốc. Chính thực bản chất của vị thày chân chính là phá rối tính kiêu căng, ngạo mạn của con, phá vỡ thái độ cho rằng con biết hết mọi chuyện hay con không thể thay đổi hay con không cần thay đổi. Vị thày chân chính sẽ chất vấn tin tưởng cho rằng tôn giáo hay hệ thống tin tưởng hiện thời của con có thể giải thích mọi chuyện. Như Giê-su đã chứng minh, vị thày chân chính không đến để xác chứng những tin tưởng hiện thời của con. Thày đến để thách đố bất kỳ khía cạnh nào của các tin tưởng hiện thời của con dựa trên lý luận nhị nguyên của tâm phản Ki-tô. Con không bao giờ cho phép mình đi vào lề lối suy nghĩ cho rằng một vị thày chân chính phải hoàn toàn đồng ý với những lời dạy của một tôn giáo bên ngoài hay kinh điển.

Điều này sẽ gây sốc cho một số người Cơ đốc nhưng nếu con chờ đợi vị thày chân chính chỉ nói với con những điều hoàn toàn phù hợp với Thánh Kinh hay đúng hơn cách diễn giải Thánh Kinh đặc thù của con, thì chắc chắn con sẽ cản vị thày chân chính giúp con. Giê-su nói và làm nhiều chuyện chất vấn người Do thái chính thống và sự diễn giải Kinh Torah của họ. Nếu con xin vị thày tâm linh chân chính giúp đỡ, con phải chờ đợi là thày sẽ tra vấn nhiều tin tưởng hiện hành của con. Nếu con không sẵn sàng công nhận chân lý thày trao cho con, dù chân lý đó nói ngược lại tin tưởng hiện hành của con, con sẽ không thể nhận được sự giúp đỡ của thày. Con sẽ kẹt lại trong sự ngạo mạn và kiêu hãnh khiến con nghĩ chân lý tuyệt đối của Thượng đế có thể giới hạn trong bất kỳ kinh điển hay hệ thống tin tưởng nào tìm thấy trên trái đất. Cốt lõi của thái độ này là lòng ngạo mạn vi tế khiến con, hay đúng hơn là ngã hữu diệt tin rằng nó biết hơn Thượng đế cái gì là thật và cách con được cứu rỗi.

Hàng triệu người tuyên bố họ là tín đồ tôn giáo sùng đạo nhưng họ bị kẹt trong bẫy kiêu căng vi tế, kiêu căng tâm linh đó. Họ nghĩ sự diễn giải kinh điển đặc thù của họ, được đưa ra trong quá khứ xa xôi, hay hơn bất kỳ lời giảng nào của một vị thày tâm linh ngày nay. Kiêu căng này có nhiều dạng vi tế khác nhau. Ví dụ, nhiều người có lòng tự trọng thấp và xem mình là người phạm  tội khốn khổ hay không có khả năng làm bất cứ điều gì đúng. Thoạt nghe không có vẻ kiêu căng, nhưng đằng sau khuynh hướng đè bẹp mình, đằng sau tự ti mặc cảm là lòng kiêu căng nghĩ mình biết hơn Thượng đế. Sự thật là Thượng đế sinh tạo con như một cá nhân độc đáo, tuyệt vời một cách độc đáo, có khả năng làm bất cứ gì con muốn trong phạm vi quy luật của Thượng đế. Nếu con thay thực tế này với một hình ảnh về mình thấp kém hơn hình ảnh Thượng đế đã tạo ra, quả thực con đang nói con biết hơn Thượng đế con là ai. Nghĩ rằng mình biết hơn Thượng đế chỉ có thể đến từ lòng kiêu căng của ngã hữu diệt.

5.12. Hãy khiêm tốn nghe lời con kiến

Thày thấy hàng triệu người đi tới kết luận họ bị kẹt, họ cần thay đổi cuộc đời họ. Thày thấy nhiều người kêu cứu xin giúp đỡ và lời kêu cứu thường chân thành. Họ thật sự muốn thay đổi, nhưng lại bị kẹt trong sợ hãi hoặc kiêu ngạo. Họ không muốn xem xét một hiểu biết mới ngược lại hay đi quá xa hệ thống tin tưởng hiện hành của họ. Cả triệu lần, thày trải nghiệm một người kêu cứu xin giúp đỡ. Thày cho họ hiểu biết cao hơn và họ bác bỏ hiểu biết này.

Có nhiều người bắt đầu học khóa này nhưng khi gặp một câu nói đi ngược lại hệ thống tin tưởng vỏ ngoài của họ, họ sẽ dùng làm cớ để bác bỏ toàn bộ khóa học. Đây quả thực là một trong những vấn đề lớn nhât mà chúng tôi, những vị thày tâm linh gặp phải. Các thày muốn giải thoát con người, nhưng không làm được vị họ quá dính mắc một số tin tưởng nhị nguyên. Một trong những lý do chính khiến họ dính mắc những tin tưởng hiện hành của họ chính là lòng kiêu căng và ngạo mạn của tâm phản Ki-tô khiến họ tin họ đã biết hết mọi chuyện, họ đã có chân lý tối hậu, tôn giáo tối hậu. Ngay cả khi con người kêu lên cầu cứu, họ muốn câu trả lời phù hợp với hộp tư duy của họ. Làm sao câu trả lời có thể giải thoát con khỏi nhà tù tư tưởng hiện thời của con khi câu trả lời đó phù hợp với những tin tưởng tạo nên hộp tư duy đó? Điều này giản dị không xảy ra được; nó là vòng luẩn quẩn bế tắc.

Giê-su nói kẻ nhu mì sẽ được thừa kế trái đất (Matthew 5:5) và người nhu mì là những ai sẵn sàng hạ mình và nhận ra họ không biết hết mọi chuyện, họ không có hiểu biết cần có để giải thoát họ khỏi những hạn chế hiện hành của họ. Người nhu mì là người sẵn sàng xin sự giúp đỡ từ Trên cao, sự giúp đỡ từ vị thày biết nhiều hơn họ, sự giúp đỡ từ vị thày đã thoát khỏi sức lôi kéo của tâm phản Ki-tô. Con muốn một vị thày đã vươn lên quá nhị nguyên và do đó có thể cho con chân lý một của tâm Ki-tô. Những ai đi theo một vị thày tâm linh chân chính cuối cùng sẽ thừa kế trái đất vì những người kẹt lại trong tâm phản Ki-tô chắc chắn sẽ tự hủy diệt. Họ sẽ bị chính niềm kiêu hãnh và sự tiêu cực tiêu hủy nên sẽ không thể tiếp tục ở trên trái đất và phải đi xuống một cõi thấp hơn.

Khi con chìm sâu vào tâm thức nhị nguyên, trạng thái tâm này sẽ lôi kéo con về một trong hai cực đoan. Dù con rơi vào cực đoan nào, thì lực co lại của Mẹ sẽ tạo ra lực đối nghịch kéo con trở về trung đạo. Thật là một điều đáng buồn là có nhiều người trên trái đất sống cuộc đời bị kẹt trong niềm kiêu ngạo vi tế tin rằng họ đã hiểu mọi chuyện. Họ không sẵn sàng xin hiểu biết cao hơn, họ không sẵn sàng xin sự giúp đỡ của một vị thày tâm linh chân chính.

Điều gì có thể đưa họ tới điểm hạ mình để có thể xin giúp đỡ? Trên thực tế điều duy nhất có thể đưa họ tới điểm này là một khủng hoảng khốc liệt đến độ rốt cuộc nó phá tan sự cao ngạo của họ và khiến họ chịu hạ mình xin giúp đỡ. Nếu con nhìn một cách trung thực những người con biết, con sẽ thấy sự vận hành của khuôn nếp đó. Con sẽ thấy nhiều người sống trọn đời mà không hề chú ý tới khía cạnh tâm linh của sự sống. Bất thình lình, họ trải qua một cơn khủng hoảng có thể là một căn bệnh ngặt nghèo, sự qua đời của một người thân hay những thảm họa khác, và bây giờ họ hướng tới Thượng đế và cầu cứu.

Rất nhiều khi, những người này không thật sự hạ mình. Họ đơn giản xem Thượng đế là ông thần trong cái lọ và họ chờ đợi ông thần nhảy ra giải quyết vấn đề và tháo gỡ nỗi đau của họ. Họ vẫn kẹt trong khuôn nếp chạy trốn vị thày chân chính và do đó họ không sẵn sàng được hướng dẫn để thay đổi chính mình. Họ không sẵn lòng thấy chính họ đã tạo ra khủng hoảng bằng cách đi vào một đối cực nhị nguyên và vì vậy nó kích động lực đối nghịch từ Ánh sáng Mẹ. Họ càng chống trả lực này, khủng hoảng càng sâu đậm hơn. Họ thấy mình là nạn nhân của hoàn cảnh nằm ngoài tầm kiểm soát của họ và họ không sẵn lòng nhìn nhận là đằng sau tình huống đó, có một thông điệp, chính là họ cần thay đổi chính mình. Thày thành thật hy vọng con sẽ chọn một cách sống khác. Thày thành thật hy vọng con không đợi rơi vào khủng hoảng mới xoay chuyển và xin sự giúp đỡ của một vị thày chân chính. Thày hy vọng con chọn phương pháp sẵn sàng được Thượng đế dạy dỗ, con sẵn sàng quay lưng lại đạo sư giả và một lần nữa đối mặt với vị thày chân chính mà con đã từ bỏ lâu trước nhưng thày thì không bao giờ từ bỏ con.

Thày hy vọng con cũng theo một trong những phương châm của các vị thày tâm linh của nhân loại. Nó là: “Nếu vị thày là con kiến, hãy nghe theo thày!” Vị thày chân chính sẽ không dạy những điều phù hợp với các tin tưởng con đang có nhưng sẽ chất vấn những kỳ vọng của con. Trong nhiều trường hợp, một vị thày chân chính sẽ không xuất hiện dưới dạng một sinh thể trên trời cho con chân lý viết bằng chữ lửa. Một vị thày tâm linh rất có thể xuất hiện ngụy trang khiêm tốn như một người con nghĩ không phải là một vị thày tâm linh hay cũng có thể con nghĩ người ấy ở một địa vị thấp kém hơn con và chẳng có gì để dạy con. Người đó hay cuốn sách đó quả thực có một thông điệp mà con cần và nếu con kẹt trong sự kiêu căng nghĩ rằng vị thày chân chính không thể nào xuất hiện dưới dạng này hay dạng kia, con sẽ hụt thông điệp. Con nghĩ đi tại sao Giê-su lại sinh ra trong hoàn cảnh hèn mọn và không thuộc về giới chức tôn giáo? Tại sao thày rất thường xuyên phá vỡ mong chờ của người khác? Con nghĩ xem tại sao Kinh Thánh nói: “Chớ quên tiếp người lạ: có khi kẻ làm điều đó đã tiếp đãi thiên sứ mà không biết” (Hebrews 13:2).

5.13. Với lên bản thể tâm linh thật của con

Con yêu dấu, thày khuyến khích con lấy thái độ là dù con là ai và dù con hiểu biết bao nhiêu chăng nữa, con luôn luôn sẵn sàng với lên hiểu biết cao hơn về bất kỳ lãnh vực nào của sự sống. Nhiều người đã được nuôi dạy để nghĩ rằng một tôn giáo hay một hệ thống tin tưởng đặc thù là chân lý tuyệt đối. Thày khuyến khích con vượt quá lời dối trá này vì nó thực sự dựa trên sự kiêu hãnh nảy sinh từ tâm phản Ki-tô. Chân lý tuyệt đối của Thượng đế vượt lên trên những gì được biểu lộ bằng từ ngữ trong vũ trụ vật chất. Vũ trụ vật chất hiện nay có quá nhiều bóng tối nên giản dị là không thể trao truyền chân lý tuyệt đối của Thượng đế dưới hình thức một tôn giáo hay hệ thống tin tưởng đặc thù. Nếu con muốn biết chân lý, con phải sẵn sàng vươn lên quá bất kỳ những gì tìm thấy trong thế giới vật chất, kể cả kinh điển hay hệ thống niềm tin vỏ ngoài. Con phải sẵn sàng vươn lên quá tâm thức nhị nguyên và tìm vị thày chân chính có thể cho con chân lý của Ki-tô, cho dù chân lý đó không thể biểu lộ bằng lời nói. Nếu con muốn chân lý, con phải ngưng tìm nó bên ngoài con. Con phải sẵn sàng dùng Chìa khóa Hiểu biết để tìm thấy chân lý trong vương quốc Thượng đế bên trong con. Không phải là chân lý chỉ tìm được bên trong cái ta cao của con. Giản dị là cái Ta Biết chỉ có thể tìm thấy chân lý bằng cách nhìn vào bên trong chính nó.

Thày không nói các tôn giáo tìm thấy trong thế gian này hoàn toàn giả hay không có chân lý. Nhiều tôn giáo trên hành tinh này có một mức chân lý cao và đưa ra một con đường có giá trị dẫn tới tự thăng vượt là chìa khóa của cứu rỗi. Không có gì sai trái khi tự coi mình là tín đồ Cơ đốc hay Phật giáo hay Ấn độ giáo. Nhưng khi con rơi vào cái bẫy nghĩ rằng tôn giáo của con là tôn giáo chân chính duy nhất và nó có hiểu biết đầy đủ, tuyệt đối và không bao giờ sai về sự sống, con đã cắt mình khỏi vị thày tâm linh chân chính. Con đã chối bỏ vị thày chân chính và con đã nói là con thà giới hạn tìm cầu chân lý trong một khung sườn vỏ ngoài đặc thù hơn là với lên Chân lý Hằng sống.

Cốt lõi của Thượng đế là tự thăng vượt. Tạo vật của Thượng đế là Dòng sông sự Sống luôn tuôn chảy và do đó chân lý của Thượng đế là luôn luôn tự thăng vượt. Nếu con giới hạn tìm cầu chân lý vào một khung sườn cố định bên ngoài, con sẽ không bào giờ tìm thấy Chân lý Hằng sống. Chân lý này không thể bị giam hãm trong một giáo điều hay hệ thống tin tưởng do con người tạo ra. Một hệ thống như vậy quả thực đã trở thành một hình ảnh khô chết, một hình ảnh đứng yên che mờ Thượng đế thật, Thượng đế Hằng sống. Con sẽ kính thờ một Thượng đế giả và ngày nào con còn nhất quyết nhảy múa chung quanh con bê vàng, các thày chân chính phải để yên con. Khác với các đạo sư giả, các thày chân chính luôn tôn trọng quyền tự quyết của con. Quy luật của họ là: “Nếu con hỏi thì con sẽ nhận.” Nếu con không hỏi hay nếu con không hỏi với tâm và trái tim cởi mở sẵn sàng nhìn quá những tin tưởng hiện hành của mình, các thày chân chính không thể dạy con bất cứ gì.

Con yêu dấu, thày không ở đây để bảo con phải trở thành thành viên của một tôn giáo đặc thù nào. Thày không ở đây để bảo con phải chấp nhận một hệ thống tin tưởng hay giáo điều bên ngoài nào. Thày không mấy quan tâm nhiều đến những gì con đang tin ngay lúc này. Quan tâm thực sự của thày là con sẵn sàng vượt thăng những tin tưởng hiện hành của con bằng cách với lên hiểu biết cao hơn. Ngày nào con còn duy trì ý muốn vươn lên một viễn kiến cao hơn, con đang ở trên con đường dẫn tới cuộc sống dồi dào. Ngay lúc con đóng tâm và trái tim lại với hiểu biết cao hơn, con rút mình ra khỏi Dòng sông sự Sống và do đó con ngăn chặn sự sống dồi dào đi xuống xuyên qua bốn thể phàm của con.

Chìa khóa để xoay chuyển cuộc đời của con vào vòng xoáy đi lên là với lên một cái gì cao hơn. Cái Ta Biết phải với lên thành phần cao hơn của Bản thể con, thành phần neo trụ trong tâm Ki-tô hoàn vũ. Chỉ khi con nối kết với Hiện diện TA LÀ này và nhận ra nó là cái ta thật của con, thì con mới có thể tách mình ra khỏi sự mắc kẹt vào ngã hữu diệt. Không dòng sống nào hiện hữu được mà không có ý niệm bản sắc. Con không thể buông bỏ ý niệm bản sắc hữu diệt nếu không có gì khác để thay thế nó. Con không thể chịu đựng được ý tưởng hiện hữu trong hư không, mình không là gì, mình không là ai. Để có thể hoàn toàn giải thoát khỏi sự đồng hóa với ngã hữu diệt, cái Ta Biết phải tái lập lại nối kết của nó với cõi tâm linh, với Hiện diện TA LÀ của con để con biết Bản thể con nhiều hơn là ngã hữu diệt.

Con phải bắt đầu bằng cách với lên quá ngã hữu diệt. Cái Ta Biết có khả năng làm thế vì cái Ta Biết có thể bất cứ lúc nào quyết định thay đổi ý niệm bản sắc của nó, ngưng đồng hóa với một giới hạn hữu diệt nào đó và thay vào đó, nó với lên một ý niệm bản sắc cao hơn xây dựng trên tảng đá của Ki-tô. Thày hy vọng đã cho con hiểu biết sâu xa về những gì con cần để vươn lên tới và xây đắp một ý niệm bản sắc mới. Giờ đây thày sẽ tiến thêm bước nữa và cho con một số dụng cụ thiết thực sẽ cho con quyền năng để tái sinh trong bản sắc chân chính của con là người đồng-sáng tạo với Thượng đế của con.

3 | Tâm hơn não bộ

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 21/4/2005.

Con tim yêu quý của mẹ, thày muốn xây dựng trên những giáo lý mà thày đã trao truyền trong chương trước. Trước hết, thày muốn nói thêm về phần vật lý của tâm, mà trước đây thày có đề cập đến nhưng chưa thực sự mô tả rõ.

3.1. Não bộ không tạo ra trải nghiệm tâm linh

Các khoa học gia y học đã làm một số thí nghiệm trên não bộ để tìm hiểu não bộ và khám phá các chức năng cao hơn của nó. Tỷ dụ, họ khám phá là khi họ kích động một số hóa chất trong não bộ thì họ kích hoạt trải nghiệm rất giống những gì con người mô tả khi họ có trải nghiệm tâm linh hay trải nghiệm cận tử. Từ đó một số khoa học gia đã kết luận rằng mọi trải nghiệm tâm linh, và mọi tôn giáo, bắt nguồn từ một số tiến trình hóa học và điện từ trong não bộ. Họ kết luận là không có gì bên ngoài não bộ và mọi tôn giáo được tạo dựng trong não bộ. Một số nhà giải phẫu đã làm phẫu thuật não mở và khám phá rằng họ có thể kích thích một số khu vực của não và kích hoạt một số trải nghiệm. Một lần nữa, kết quả này đã khiến các khoa học gia duy vật kết luận rằng mọi trải nghiệm tâm linh đều được tạo dựng trong não bộ – rằng Thượng đế là sản phẩm của tế bào nơron trong não bộ hoạt động lệch lạc.

Ta có thể hiểu là một người đã quyết định rằng không có gì ngoài cõi vật chất sẽ đi tới kết luận đó. Viễn quan thiếu sót này là kết quả của sự kiện người đó đã chọn lựa giới hạn tâm mình vào cõi vật chất. Tâm ý thức của người đó giản dị không thể thấy ngoài cõi vật chất và không chịu chấp nhận là có thể có một giải thích sâu xa hơn. Lý do vì sao con người chỉ sử dụng khoảng 5-10 phần trăm tiềm năng của bộ não là các định khu cao hơn của não bộ chỉ được kích hoạt bởi một dạng năng lượng cao hơn. Các định khu này có thể được kích hoạt một cách giả tạo bởi một số hóa chất hay kích thích từ bên ngoài. Nhưng điều này không có nghĩa là sự kích thích các định khu não bộ tạo ra trải nghiệm tâm linh, mà chỉ có nghĩa là các định khu não bộ được thiết kế để giúp đem lại trải nghiệm ngõ hầu tâm ý thức có thể nắm bắt trải nghiệm khi con đang ở trong thân vật lý. Mục đích là để cho con trải nghiệm là sự sống vượt quá vũ trụ vật chất – khi con đang sống trong, có thể nói là bị giam trong, cõi vật chất.

Một trải nghiệm tâm linh chân chính xảy ra khi cái Ta Biết tự tách mình ra khỏi tâm vật lý và thân thể vật lý, qua đó nó vươn lên quá cõi vật chất. Cái Ta Biết vươn lên cõi bản sắc và thậm chí xa hơn nữa lên cõi tâm linh. Đây là một hiện tượng hoàn toàn tự nhiên, vì cái Ta Biết có khả năng tự đồng hóa với bất cứ gì, ở bất cứ đâu. Cái Ta Biết có khả năng tách mình khỏi thân thể vật lý, ngay cả chỉ trong tạm thời, và vươn lên các phần cao của bản sắc của con, bản sắc thật của con như một sinh thể tâm linh. Khi con kết nối trở lại với bản sắc đó, thì ánh sáng có độ rung cao tuôn chảy xuyên qua bốn thể phàm của con và con có thể có một số trải nghiệm tâm linh.

Cái Ta Biết rất có thể có trải nghiệm tâm linh nhưng trải nghiệm này không thể thấm xuống tâm ý thức của con. Việc này có thể do một số nghẽn trong các thể cao của tâm con, nhưng cũng có một số loại trải nghiệm tâm linh mà con không thể biết một cách ý thức khi trong thân thể vật lý. Lý do giản dị là bộ não con người không có những định khu có khả năng giúp nhận các trải nghiệm đó. Khi con có một trải nghiệm tâm linh thấm xuống tâm ý thức của con thì đó là vì não bộ vật lý có khả năng giúp nhận trải nghiệm đó. Cái Ta Biết đã vươn lên một cõi cao hơn và đã rải xuống một dòng ánh sáng thấm xuống não bộ vật lý và kích hoạt một trong những định khu cao của não bộ. Chính sự kích hoạt định khu não bộ này cho con trải nghiệm có ý thức.

Rất có thể cái Ta Biết có trải nghiệm tâm linh mà não bộ không thể diễn giải và do đó tâm ý thức không biết đến. Nhiều người tâm linh tự gỡ mình khỏi thân thể trong giấc ngủ và du hành lên cõi tâm linh để nhận hướng dẫn của các vị thày tâm linh. Đó là lý do vì sao con đôi khi tỉnh giấc với một cảm giác sáng suốt mới mẻ và với câu trả lời cho một câu hỏi con đang suy ngẫm. Đó cũng là lý do vì sao con có thể có một số chiêm bao ngay trước khi tỉnh giấc có vẻ rất rõ rệt và dường như chứa đựng một thông điệp sâu sắc. Có khi đó là một hiểu biết cao hơn về một vấn đề hay là một linh cảm về một biến cố tương lai. Cũng có khi là cảm giác mình đang bay, cảm giác tự do hay cảm giác mình là một phần của cái gì lớn hơn thân thể vật lý. Cũng có khi là cảm giác đứng ra ngoài thân thể vật lý và nhìn xuống nó.

Tất cả những trải nghiệm đó đều có thật, tuy nhiên, như các khoa học gia đã khám phá, cũng đúng là các trải nghiệm này có thể được dựng lên bằng cách kích thích não bộ vật lý. Điều này không có nghĩa là não bộ tạo ra trải nghiệm. Suy luận như vậy cũng giống như khi suy luận là màn ảnh tạo ra những hình ảnh hiện ra trên nó. Quả đúng là não bộ có thể ảnh hưởng hình thức và nội dung chính xác của trải nghiệm tâm linh, và đó là lý do vì sao hai người khác nhau có thể có những trải nghiệm khác nhau.

3.2. Tâm ngắn hạn và tâm dài hạn

Thày vừa giảng cho con đặc tính của não bộ vật lý, bây giờ thày muốn bước sang đề tài mà thày gọi là phần vật lý của tâm. Con là một sinh thể tâm linh bất tử, và con chỉ khoác vào thân thể vật lý này trong một khoảng thời gian ngắn. Trong quá khứ, con đã hiện thân trong những thân thể khác trong những tình huống khác. Sự kiện này là cách duy nhất để giải thích một trong những chướng ngại chính trong việc con cố gắng biểu hiện dồi dào của Thượng đế trong cuộc đời mình. Những chướng ngại có mặt trong bốn thể phàm của con có thể chia ra hai loại. Có những chướng ngại dài hạn và ngắn hạn. Có một số chướng ngại trong bốn thể phàm của tâm con đã được tạo ra trong kiếp sống này, và có những chướng ngại được tạo ra trong những kiếp trước.

Nếu con thật sự muốn thanh tẩy bốn thể phàm của con thì con cần đi xa hơn những gì con đã trải nghiệm trong kiếp sống này. Để làm việc này, con cần hiểu là tâm có nhiều tầng. Có nhiều cách thích đáng để giải thích điều mà thày sắp giảng ở đây. Để giữ lời giải thích giản dị, thày sẽ cho con một mô hình mô tả tâm con gồm hai phần chính. Một bên là phần dài hạn của bốn thể phàm của con, phần này lớn hơn và cao hơn  phần kia. Đây là phần mà con mang theo mình từ kiếp trước sang kiếp sau. Phần kia là thành phần dính liền với thân thể vật lý của con trong kiếp này, tuy nhiên phần này cũng có một tầng bản sắc, tư tưởng, cảm xúc và một tâm đan chặt với não bộ vật lý, tâm này cũng có phần do não bộ tạo ra. Con có một trường năng lượng lớn hơn vượt quá thân thể, và trong đó có một trường nhỏ hơn trụ chung quanh thân thể vật lý và đan dệt với thân thể và não bộ.

Khi con lớn lên trong kiếp sống này, con xây dựng một ý niệm bản sắc dựa trên các tình huống cá biệt của con, tỷ dụ như nguồn gốc gia đình, quốc gia, chủng tộc, nhóm sắc tộc, giới tính và các khía cạnh khác của hoàn cảnh vật lý của con. Những yếu tố đó tạo nội dung trong bình chứa của thể bản sắc ngắn hạn của con. Ý niệm bản sắc này đa phần chịu ảnh hưởng của di truyền và môi trường của con, tuy nhiên nó không hoàn toàn do các yếu tố này tạo nên, như các tâm lý gia tuyên bố. Điều ảnh hưởng ý niệm bản sắc ngắn hạn của con là những phản ứng của con trước hoàn cảnh bên ngoài trong kiếp sống này, và những phản ứng này đa phần do nội dung của tâm dài hạn quy định, là tâm đã được tạo dựng trong những kiếp trước.

Thể bản sắc dài hạn không bị ảnh hưởng bởi những đặc tính cá biệt của kiếp sống này. Nó chứa đựng ý niệm bản sắc rộng hơn dựa trên các niềm tin mà con có về chính mình. Tỷ dụ, nó có thể tồn trữ niềm tin con là một người phàm hay là một tội đồ khốn khổ, đây là một niềm tin có thể được củng cố trong kiếp này nhưng có nhiều xác suất nó đã được tạo ra từ nhiều kiếp trước. Thể bản sắc dài hạn chứa đựng những niềm tin tổng quát trong khi thể bản sắc ngắn hạn chứa đựng bản sắc liên quan đến kiếp sống này. Phần sâu hơn của con người, mà các tâm lý gia gọi là hồn, đi xa hơn kiếp sống hiện tại. Nó không nhìn nó như con người mang tên, giới tính, quốc tịch, chủng tộc v.v. của con. Nó không xem nó là một người y tá, thày giáo hay bất kể nghề nghiệp nào của con.

Thể bản sắc đặc trưng cho kiếp sống hiện tại sẽ được xóa sạch khi thân thể chết đi, và đó là lý do hầu hết mọi người không nhớ tiền kiếp. Dữ liệu về tiền kiếp được lưu trữ nơi khác và con có thể tìm ra chúng, nhưng chúng không được tồn trữ trong thể bản sắc ngắn hạn. Đây chính thực là một hồng ân, vì là cơ hội để con làm lại từ đầu mà không nhớ những lỗi lầm đã phạm trong các kiếp trước. Điểm bất lợi là nhiều người không có ý niệm liên tục mạnh khi sinh ra. Điều này gây nên nỗi sợ chết vì con người tin rằng bản sắc của mình sẽ mất đi khi thân thể chết. Sở hữu quý nhất của con là cá tính, ý niệm bản sắc, do đó nỗi sợ lớn nhất là đánh mất nó.

Đây là lý do vì sao việc trẻ em không được dạy về tái sinh là một điều rất tàn nhẫn. Biết rằng bản sắc dài hạn của mình không chết khi thân vật lý chết có thể hoàn toàn giải thoát con khỏi nỗi sợ chết, là một nỗi sợ làm nhiều người tê liệt và khiến họ cảm thấy cuộc đời vô nghĩa. Tại sao con cần nỗ lực để cải thiện chính mình và trở nên một người tốt hơn khi tất cả sẽ mất đi sau kiếp sống này? Thật ra thì những cải thiện mà con đạt được không bị mất nhưng trở thành “kho tàng cất trên thiên đàng” của con (Matthew 6:20), có nghĩa là chúng được tồn trữ trong thể bản sắc dài hạn của con (thậm chí trong căn thể của con trên cõi tâm linh), và do đó chúng là nền móng để con xây dựng thêm trong kiếp tới (và sau đó khi con tốt nghiệp vĩnh viễn trường học trái đất).

Rất có thể là những điều con trải nghiệm trong kiếp này và những quyết định mà con lấy dựa trên các trải nghiệm đó sẽ ảnh hưởng đến ý niệm bản sắc dài hạn của con. Ý niệm bản sắc dài hạn của con có ảnh hưởng sâu đậm trên ý niệm bản sắc mà con xây dựng trong kiếp này. Nội dung của thể lý trí và cảm xúc dài hạn có ảnh hưởng lớn trên cách con phản ứng trước những tình huống mà con gặp trong kiếp này. Dù tốt hay xấu, con đang xây dựng trên nền móng mà con đã đặt trong những kiếp trước, nhưng con vẫn có tiềm năng cải thiện nền móng đó, và lẽ dĩ nhiên đây là hy vọng duy nhất mà con có để giải thoát mình khỏi quá khứ.

Chúng ta hãy lấy thí dụ con có trong thể bản sắc dài hạn của mình niềm tin con là một tội đồ khốn khổ, và tất cả những gì con làm đều là tội lỗi. Con sẽ mang niềm tin này vào kiếp sống hiện tại và sẽ có khuynh hướng tới gần một tôn giáo củng cố niềm tin đó. Con sẽ chấp nhận dễ dàng tôn giáo đó và con sẽ khó giải thoát mình khỏi tôn giáo đó, và đó là lý do vì sao nhiều người không chịu nhìn quá tôn giáo mà họ theo khi họ lớn lên. Nội dung tâm dài hạn của con sẽ quy định những khuôn khổ quy định cách con phản ứng lại cuộc đời trong kiếp sống này. Cái Ta Biết vẫn có tiềm năng vượt quá những lập trình trong quá khứ. Nhiều khi tâm ý thức xây dựng một ý niệm bản sắc trong kiếp này đối chọi với ý niệm bản sắc dài hạn. Điều này quan trọng vì con có thể củng cố những mâu thuẫn nội tại khiến con trở thành một ngôi nhà phân hóa.

Một thí dụ là nhiều người có niềm tin trong thể bản sắc dài hạn của họ là họ không xứng đáng được nhận sự dồi dào của Thượng đế. Một số người đã theo học một giáo lý về dồi dào và dùng một số lời khẳng định để tạo dựng một ý niệm bản sắc ngắn hạn là họ xứng đáng được nhận sự dồi dào. Nhưng nếu họ chưa nắm bắt điều thày vừa giảng thì họ không nhận ra là ý niệm bản sắc mới đó không đi quá thể bản sắc ngắn hạn của họ. Nó có thể mâu thuẫn với thể bản sắc dài hạn, và thể này mạnh hơn nhiều nên có thể gạt bỏ thể bản sắc ngắn hạn. Cố gắng dùng một kỹ thuật chân chính để nâng nhận biết tâm linh đã không thực sự giúp người đó. Nó chỉ tạo ra một xung đột nội tâm lớn hơn, và đây là một cách ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian đặt con vào một tình trạng tiến thoái lưỡng nan tâm linh. Họ làm điều này bằng cách khiến con chấp nhận một niềm tin trong tâm ngắn hạn mâu thuẫn với một niềm tin mà con cầm giữ trong tâm dài hạn. Niềm tin tạm thời đó sẽ ngăn con giải tỏa niềm tin trong tâm dài hạn đang tạo giới hạn.  

Nếu con đã xây dựng trong kiếp này một niềm tin vững chắc là con xứng đáng được nhận sự dồi dào của Thượng đế, thì con có thể nghĩ không cần đi sâu vào tâm lý của mình để giải tỏa niềm tin dài hạn là con không xứng đáng. Điều này có thể ngăn con đạt tiến bộ dài hạn, chỉ có thể đạt được khi con thanh tẩy tâm dài hạn. Ta có thể nói là con tạo dựng một cuộn phim mới và chiếu nó lên màn ảnh của tâm thức, và tuy nó có thể che khuất một số hình ảnh do tâm dài hạn phóng chiếu lên màn ảnh, nhưng nó không làm công việc tảy sạch cuộn phim trong tâm dài hạn. Lẽ đương nhiên, nếu con muốn tự do thực sự thì con phải vượt quá tâm ngắn hạn và thanh tẩy tâm dài hạn.

Có những đạo sư dạy về dồi dào, tâm lý gia và những người thuộc khoa chữa lành toàn diện có những kỹ thuật chính đáng nhằm thanh tẩy cảm xúc, tư tưởng và thậm chí ý niệm bản sắc của con. Nhưng nếu kỹ thuật chỉ tác động trên tâm ngắn hạn, thì nó không thể có tác dụng tối đa trên sự tăng trưởng của con. Cũng có những đạo sư không tìm cách giúp con giải tỏa các chướng ngại trong tâm ngắn hạn, mà dạy những kỹ thuật nhằm tạo một lập trình mới trong tâm ngắn hạn, mà họ nói sẽ đem lại sự dồi dào lớn bằng cách giản dị trấn áp những lập trình hiện có trong tâm. Nhưng nếu con không giải tỏa những giới hạn quá khứ, thì con sẽ chỉ gia tăng mâu thuẫn nội tâm bằng cách tạo ra một lập trình mới xung đột với các lập trình hiện hữu trong cả tâm ngắn hạn lẫn dài hạn. Khi máy điện toán có hai lập trình xung khắc nhau thì máy có thể ngưng hoạt động. Tâm tiềm thức của con cũng giống như một máy điện toán. Nếu con đặt vào đó những niềm tin và khuôn đúc xung khắc nhau, thì con sẽ trải nghiệm một hình thức tê liệt tư tưởng và cảm xúc.

Điều này cũng áp dụng cho nhiều phương pháp trị liệu, đặc biệt là phương pháp trị liệu do ngành tâm lý học chính mạch đề ra, phần lớn dựa trên hệ thuyết duy vật. Con có thể đã bị chấn thương bởi một số trải nghiệm trong kiếp sống này, và chúng đã để lại vết sẹo cảm xúc và khiến con tạo những niềm tin bất toàn trong thể tư tưởng ngắn hạn, thậm chí xây dựng một hình ảnh bất toàn về mình. Dùng một phương pháp trị liệu để giải quyết các chướng ngại trong tâm ngắn hạn là điều khả thi, và quả thật các trị liệu này có thể có tác dụng tốt.

Nhưng nếu con không đi xa hơn tâm ngắn hạn, thì con sẽ không thực sự tiến triển trong kiếp này. Con chỉ giản dị quay kim đồng hồ về điểm khởi đầu, và như vậy coi như con bắt đầu lại từ đầu. Nếu con thực sự muốn tiến triển thì con cần đi xa hơn tâm ngắn hạn, và con có thể dùng kinh nghiệm của kiếp này để làm bàn đạp cho việc này. Cách con phản ứng lại hoàn cảnh trong kiếp này được quy định bởi các khuôn nếp mà con có trong tâm dài hạn. Khi con xem xét phản ứng của mình, con có thể khám phá các khuôn nếp sâu thẳm và làm việc giải quyết chúng. Việc này cần nhiều quyết tâm và viễn quan sáng rõ là con hơn tâm ngắn hạn của con. Để hoàn toàn được tự do thì con cần đi ngược tới tận niềm tin bắt nguồn khi con quyết định quay lưng lại Thượng đế, quay lưng lại vị thày tâm linh, và quyết định đi đơn độc. Đó là lúc con cho phép ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian trở thành vị thày của con.

3.3. Tương tác với tâm thức tập thể

Con yếu dấu, để đạt được đời sống dồi dào thực sự và vĩnh viễn giải thoát khỏi những giới hạn đang ngăn trở sự dồi dào của Thượng đế, con cần có tầm nhìn dài hạn. Những điều kiện mà con đối mặt trong kiếp này là kết quả của một bức tranh rất phức tạp, đó là những niềm tin mà con đã chấp nhận trong những kiếp trước và vẫn còn nằm trong bốn thể phàm của con, trong phần dài hạn của tâm con. Một khi con có tầm nhìn dài hạn này thì con sẽ dễ nhận ra là điều mà thày vừa nói chỉ là một mặt của đồng tiền cuộc sống.

Điều thày mô tả từ đầu bài là phần nội tại của cuộc đời, nghĩa là những gì xảy ra trong tâm lý, bên trong bốn thể phàm. Giá con phải trả khi đầu thai là con chịu trách nhiệm tối hậu về những gì con làm với năng lượng của Thượng đế qua bốn thể phàm của con. Điều thày đã giảng là bất cứ những gì con làm đều có ảnh hưởng trực tiếp trên chính con vì chúng tạo niềm tin trong bốn thể phàm và qua đó tạo một phin lọc khiến con tha hóa năng lượng. Năng lượng này tích tụ trong bốn thể phàm và giảm thiểu khả năng sáng tạo của con. Nó cũng giảm thiểu viễn quan và khả năng nhìn xa hơn hoàn cảnh cận kề và vũ trụ vật chất. Ta có thể nói theo câu cách ngôn là con chỉ làm hại chính mình mà thôi.

Bây giờ chúng ta cần tiến thêm bước nữa và nhận ra rằng không phải mọi chuyện con làm khi ở trong thân thể vật lý chỉ làm hại chính mình. Khi con có hành động vật lý thì con có tiềm năng ảnh hưởng người khác, và vì con chịu trách nhiệm về cách sử dụng năng lượng, nên mọi hành động của con sẽ được tấm gương vũ trụ phản chiếu trở về con. Xung lực trở về từ những hành động quá khứ của con có thể ngăn cản sự biểu hiện của dồi dào Thượng đế trong kiếp sống này, do đó con cần biết cách giải tỏa xung lực trở về của hành động quá khứ của con trước khi chúng biểu hiện thành tình huống vật chất.

Không phải chỉ có hành động vật lý của con ảnh hưởng người khác. Mọi thứ trên trái đất đều được cấu tạo từ năng lượng. Giống như con có một trường năng lượng bao quanh thân thể vật lý của mình, trái đất cũng có một trường năng lượng bao quanh nó. Một phần của trường năng lượng hành tinh này là kho chứa năng lượng bất toàn mà nhân loại đã tạo ra qua nhiều thời đại. Đây là điều tâm lý gia Carl Jung gọi là “tiềm thức tập thể” và đây quả thực là một khám phá quan trọng. Khi con đầu thai vào một thân thể vật lý, bốn thể phàm của con hiện hữu trong trường năng lượng của tâm thức tập thể của nhân loại. Con có thể bị tâm thức tập thể ảnh hưởng, và con cũng ảnh hưởng tâm thức tập thể.

Một thí dụ là nhiều người bị choáng ngợp bởi năng lượng của tâm thức tập thể đến độ họ có rất ít cá nhân tính. Họ cảm thấy khó có suy nghĩ cho chính mình và tự mình lấy quyết định. Họ muốn xã hội nghĩ hộ họ và cho họ biết phải làm gì. Con thấy hiện tượng này qua những người mù quáng đi theo thời trang mới nhất hay bất kỳ phong trào nào đang được nhiều người theo. Nếu con là một trong những người này thì con đã không theo học khóa này. Hầu hết những người có nhận biết tâm linh có một cá nhân tính mạnh mẽ. Họ đã phần nào tách họ ra khỏi cái mà ta có thể gọi là tâm thức đại chúng. Nếu con muốn có hy vọng tiến triển trên con đường tâm linh thì con cần tách mình ra khỏi tâm thức đại chúng. Con cần che chở trường năng lượng của mình để tránh không bị tràn ngập bởi các năng lượng của tâm thức đại chúng.

Nội dung của bốn thể phàm của con góp phần vào tâm thức đại chúng, về mặt tiêu cực cũng như tích cực. Con không thể đơn giản coi tâm thức đại chúng là cái gì được tạo ra độc lập với con và con không chịu trách nhiệm gì về nó. Nếu con nâng tâm thức mình thì con cũng nâng tâm thức của tổng thể. Đó là điều mà Giê-su mô tả khi nói: “Và ta, nếu ta được nâng lên khỏi trái đất, sẽ kéo mọi người theo ta” (John 12:32). Ý nghĩa bên trong là lý do duy nhất nhân loại đã tiến triển so với thời tiền sử sống trong hang động là vì mỗi thế hệ đều có một số cá nhân đã khám phá ra uy lực của tâm họ, và sử dụng khám phá đó để nâng tâm thức của riêng họ lên. Các người đó đã kéo mọi người lên đôi chút, và chính sự nâng cao của tâm thức tập thể đã mở đường cho tất cả các tiến bộ thấy được trong lịch sử được biết đến. Từ khi Giê-su hiện thân, nhân loại đã có tiến triển vĩ đại. Khoảng 2000 năm cuối đã tiến bộ hơn 10,000 năm trước đó. Kết quả này không phải chỉ do chiến thắng của Giê-su mà cũng do nhiều người đạt được trình độ tâm thức Ki-tô cao và qua đó nâng tâm thức tập thể lên. Tuy nhiên Giê-su xứng đáng được ghi nhận như người tiên phong đã khai mở chu kỳ tiến bộ gần đây nhất.  

Nếu con cho phép các niềm tin bất toàn và năng lượng tha hóa tồn tại trong bốn thể phàm thì con góp phần vào việc kéo tâm thức tập thể xuống. Khi con hiện thân trong thân thể vật lý thì nội dung của bốn thể phàm của con đóng góp vào tình trạng mà ta thấy trên toàn trái đất. Con đang khiến mọi chuyện hoặc khá hơn hoặc tệ hơn. Như câu cách ngôn dân gian có nói: “Nếu con không là một phần của đáp số thì con là một phần của vấn đề.”

3.4. Tạo nghiệp khi có hành động vật lý

Tư tưởng và cảm xúc của con có tác dụng sâu đậm trên toàn hành tinh, do đó con không thể biện luận là chỉ có hành động của con mới ảnh hưởng đến người khác. Có một lằn ranh phân chia hành động và tư tưởng cảm xúc. Nội dung của các thể bản sắc, tư tưởng và tình cảm của con có ảnh hưởng trên tâm thức tập thể, nhưng khi con có hành động vật lý, thì con tạo ra một loại xung lực năng lượng khác, một xung lực có một tác dụng trực tiếp hơn trên người khác.

Có một phân biệt vi tế. Giê-su có nói một câu rất sâu sắc: “Người nào nhìn một người phụ nữ với ý dục vọng đã phạm lỗi ngọai tình trong tim” (Matthew 5:28). Tư tưởng và cảm xúc của con có rất nhiều uy lực và có thể phóng ra xung lực rất mạnh xâm nhập tâm người khác và ảnh hưởng tư tưởng và cảm xúc của họ, có thể khiến họ hành động. Tuy nhiên, ta cần phân biệt hành động vật lý và tư tưởng cảm xúc. Tỷ dụ, luật pháp của xã hội nói rằng khi con chỉ nghĩ chuyện phạm pháp, thì luật pháp không thể truy tố con. Nhưng ngay lúc con hành động vật lý thì luật pháp có quyền trên con.

Khi con hành động vật lý thì con mang tư tưởng và cảm xúc của con xuống tầng thấp nhất của cõi vật chất, tức là tầng vật lý. Tầng này dày đặc nhất trong bốn tầng của vũ trụ vật chất, có nghĩa là những gì đem xuống tầng vật lý khó thay đổi hơn những gì chỉ hiện hữu như tư tưởng hoặc cảm xúc. Con có thể có một tư tưởng bất toàn, và con có thể thấm đẫm tư tưởng đó với cảm xúc mạnh khiến con ước muốn một điều gì mà luật pháp không cho phép. Nhưng khi con chưa có hành động vật lý thì tư tưởng và cảm xúc của con có thể đảo ngược. Cảm xúc rất lỏng và có thể thay đổi hoặc chuyển hướng dễ dàng. Tư tưởng còn lỏng hơn và dễ thay đổi hơn nữa. Ở tầng tư tưởng, con có thể tức khắc thay đổi kế hoạch khi con nhận được một hiểu biết cao hơn khiến con nhận ra con đang đi lầm đường. Ở tầng này con có thể học bài học mà không tạo hậu quả vật lý không thể đảo ngược.

Tuy tư tưởng và cảm xúc của con có ảnh hưởng trên người khác, nhưng con dễ dàng thay đổi tư tưởng và cảm xúc. Nhưng ngay lúc con có hành động vật lý thì không gì có thể xóa bỏ hành động đó. Khi con có hành động vật lý thì con mang tư tưởng và cảm xúc của mình vào cõi của không gian và thời gian, và như câu cách ngôn dân gian nói: “Con không thể xoay ngược kim đồng hồ.” Con không thể xóa bỏ cái gì đã được mang xuống tầng hành động vật lý.

Sự hiện hữu của bốn tầng của vũ trụ vật chất quả thật là một hình thức bảo hộ cho phép những người bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên thực thi quyền tự quyết mà không tức khắc tiêu diệt chính họ và người khác. Một hành động vật lý bắt đầu trong thể bản sắc, có hình dạng rõ rệt hơn trong thể tư tưởng, và nhận phương hướng và động lực trong thể cảm xúc. Khi nó chưa qua lằn ranh xuống cõi vật lý, thì nó vẫn có thể đảo ngược khi con có hiểu biết cao hơn. Nếu vũ trụ vật chất chỉ có một tầng, thì bất cứ xung lực nào cũng tức khắc cô đọng thành hành động vật lý, và con không có cơ hội ngưng nó. Mọi tư tưởng bất toàn sẽ có hậu quả vật lý mà con không thể tránh. Vì vũ trụ có bốn tầng, con có thể có nhiều tư tưởng cảm xúc bất toàn, nhưng khi con không cho phép chúng trở thành hành động vật lý thì con chưa chịu hậu quả vật lý. Trong đời con, đã bao nhiêu lần con có tư tưởng cảm xúc bất toàn, nhưng vì con không hành động, nên con tránh được hậu quả khó chịu? Đời con sẽ khó khăn chừng nào nếu mọi tư tưởng bất toàn đều đưa đến hậu quả vật lý?

Hiểu biết về bốn thể phàm cho con một cơ hội tuyệt vời để làm chủ cuộc đời mình bằng cách thanh tẩy chúng khỏi mọi tư tưởng và cảm xúc bất toàn. Bốn thể phàm của con càng trong sạch thì con lại càng làm chủ phản ứng của mình trước những khó khăn của đời sống. Thay vì cảm thấy con không có chọn lựa hay cảm thấy con không thể chọn giữa một số cách đáp ứng lại một hoàn cảnh, thì nay con có thể lấy chọn lựa tốt nhất cho con trong dài hạn. Con có thể chọn nghe theo lời khuyên của Giê-su nên chià má bên kia thay vì tìm cách trả thù (Matthew 5:39).

Luật Tự quyết có một ảnh hưởng quan trọng trên những gì thày đang nói ở đây. Chúng ta hãy lấy thí dụ con nghĩ một người đã làm điều gì không phải và con rất giận việc này. Con duyệt đi duyệt lại trong tâm hành động của người ấy, và qua đó con phóng ra một xung lực năng lượng tâm lý rất dũng mãnh. Khi xung lực đó đi vào tâm người kia thì rất có thể nó khuấy động thể cảm xúc của người ấy và khiến người ấy thêm xáo trộn. Con đã ảnh hưởng người ấy và khiến người ấy có khuynh hướng hành động giận dữ. Năng lượng con phóng ra vẫn ở tầng tư tưởng và cảm xúc, có nghĩa là người ấy có chọn lựa hành động theo năng lượng đó hay không. Con chịu trách nhiệm về những gì con phóng ra, nhưng con không chịu trách nhiệm về những gì người ấy làm với năng lượng đó. Người ấy chịu trách nhiệm về hành động của người ấy. Con đã ảnh hưởng quyền tự quyết của người ấy nhưng con không trực tiếp vi phạm quyền tự quyết của người ấy.

Ngay lúc con có hành động vật lý, tỷ dụ như trả thù, thì phương trình thay đổi toàn diện. Khi con có hành dộng bạo hành trên người ấy thì con trực tiếp vi phạm quyền tự quyết của y. Con đã mang tư tưởng và cảm xúc của con ra khỏi cõi tâm lý và mang nó xuống cõi vật lý là nơi chúng trở nên không thể đảo ngược. Trước khi con làm vậy thì người kia có thể tảng lờ xung lực năng lượng mà con phóng ra, nhưng một khi con ra tay hành động thì người kia không thể tảng lờ những gì con đã làm. Con vẫn không chịu trách nhiệm về phản ứng của người kia trước hành động của con (giống như người ấy không chịu trách nhiệm về phản ứng của con) nhưng con đã vượt qua một lằn ranh và nay hành động của con không thể đảo ngược. Con đã đi quá tầng lỏng của tư tưởng và cảm xúc, quá tầng thử nghiệm, và đi vào tầng hậu quả không thể đảo ngược. Mỗi hành động đều tạo một phản ứng ngược lại. Khi con có hành động vật lý thì con tạo ra một hậu quả không thể tránh cho con và người khác. Đây lại một lý do nữa để con trong lọc bốn thể phàm. Con sẽ có thể tháo gỡ các tư tưởng và ham muốn bất toàn trước khi chúng trở thành hành động vật lý và do đó có hậu quả khó khắc phục hơn rất nhiều.

Có một thực tại mà nhiều người đã bị lập trình để chối bỏ. Họ có thể đã bị lập trình bởi một tôn giáo chính thống hay bởi khoa học duy vật, nhưng đằng sau những hệ thống niềm tin đó là ông hoàng thế gian. Y đang cố gắng ngăn con chấp nhận trách nhiệm tối hậu về hoàn cảnh và tương lai của mình. Y muốn con tin rằng con có thể trốn tránh trách nhiệm về những gì con đã làm trong quá khứ bằng cách chối bỏ có kiếp trước. Khi con thừa nhận sự kiện con đã có kiếp trước thì con nhận ra con không thể trốn chạy bất cứ gì bằng cách phủ nhận sự hiện hữu của nó. Cách giải thoát duy nhất là tự thăng vượt.

Một lý do chính vì sao giáo lý về tái sinh bị rút ra khỏi giáo lý Thiên chúa giáo là vì nhiều người bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Họ không chịu chấp nhận trách nhiệm về những gì họ đã làm trong các kiếp trước. Với lô-gíc phi-lô-gíc của tâm nhị nguyên, họ suy luận là nếu họ phớt lờ hay chối bỏ khái niệm tái sinh, thì bằng cách nào đó họ sẽ trốn tránh được trách nhiệm. Họ có thể sống với ảo tưởng là hành động trong kiếp này sẽ không trở lại và ám ảnh họ trong một kiếp tương lai. Như Thánh kinh có nói: “Trả thù thuộc về ta; Ta sẽ hoàn trả, Đức Chúa Trời nói.” (Romans 12:19) và “Thượng đế không bị nhạo báng: vì bất cứ gì con người gieo thì họ sẽ gặt” (Galatians 6:7).

Những câu trích giản dị đó cho thấy Thánh kinh nhìn nhận một cách tiềm ẩn thực tại của tái sinh. Luật của Thượng đế nói rằng con chịu trách nhiệm về bất cứ gì con làm với năng lượng của Thượng đế. Năng lượng này sẽ được tấm gương vũ trụ phản chiếu lại con, và con sẽ không thể tránh trải nghiệm những điều kiện minh họa hành động quá khứ của con. Bất cứ gì con làm cho người khác, con sẽ không thể tránh chính mình trải nghiệm chúng.

Chuyện gì xảy ra nếu một người giết người mà không bị xã hội bắt? Nhìn bề ngoài thì người đó đã trốn tránh trừng phạt về hành động tước đi mạng sống của một con người, và do đó vi phạm quyền tự quyết của người đó. Không ai có thể tránh luật Thượng đế, do đó khi con có một hành động vật lý, thì con khởi động một nguyên nhân, một xung lực năng lượng. Xung lực sẽ luân lưu trong bốn tầng của cõi vật chất, và sẽ trở về con như một tình huống vật lý. Việc này sẽ cần thời gian và phản ứng của vũ trụ xảy ra trong một kiếp tương lai.

Thánk kinh nói là Thượng đế sẽ viếng những bất công của cha ông nơi thế hệ thứ ba hay thứ tư (Exodus 34:7). Tâm nhị nguyên sẽ xem đây là chỉ dấu Thượng đế là một sinh thể giận dữ trên trời, nhưng khi con công nhận sự thực của tái sinh, thì con có thể hiểu một cách sâu sắc hơn. Thế hệ thứ ba thứ tư không chỉ đơn giản là các con cháu vật lý mà có thể là chính hồn của con đã tái sinh ba hay bốn kiếp sau đó. Con có thấy chăng sự liên hệ có thể có giữa thế hệ thứ ba thứ tư mà Thánh kinh đề cập và bốn tầng của vũ trụ vật chất? Con có nghĩ chăng đây chỉ là một sự tình cờ hay có thể có ý nghĩa sâu xa nào chăng?

3.5. Luật nhân quả vận hành ra sao

Nếu con không có hiểu biết về tái sinh khi con lớn lên, thì đề tài này có thể gây bất an, thậm chí sợ hãi. Mục đích của thày là cho con tất cả những gì con cần để hiểu những gì có thể ngăn cản sự biểu hiện của dồi dào Thượng đế trong cuộc đời con. Để hoàn toàn hiểu điều này, con cần nhận ra là trong một kiếp trước con có thể đã khởi động một nguyên nhân đang biểu hiện bây giờ như hoàn cảnh vật lý. Hoàn cảnh này đang ngăn cản sự biểu hiện của dồi dào Thượng đế trong đời con. Nếu con chấp nhận điều này thì con có thể nhìn quá niềm tin đáng sợ và đầy đe dọa là con đang bị một Thượng đế giận dữ trừng phạt, và con không có lối thoát. Con sẽ vẫn có thể nhìn ra là luật Thượng đế quả thực đã được định ra để cho con cơ hội tăng trưởng tốt nhất.

Vũ trụ vật chất đã được tạo dựng với một yếu tố trì hoãn. Tấm gương vũ trụ không phản chiếu tức khắc lại con những gì con làm với người khác. Có một khoảng thời gian hồng ân và thày bây giờ muốn giảng cho con nó vận hành ra sao. Có nhiều người có một tuổi thơ rất khó khăn và một cuộc đời rất khó khăn. Họ đã lớn lên trong hoàn cảnh hầu như chắc chắn khiến họ tạo ra một ý niệm bản sắc ngắn hạn rất thấp so với tiềm năng Ki-tô của họ. Vì những điều kiện bất toàn hiện hành trên trái đất, nhiều người đã có khuynh hướng làm một số hành động chỉ có thể giới hạn họ và gây tổn thương cho người khác. Nếu tấm gương vũ trụ phản chiếu tức khắc những hành động này thì nhiều người sẽ tự tiêu hủy và do đó mất cơ hội tăng trưởng thêm trong kiếp sống này. Rất có thể là nhân loại cộng chung tạo một vòng xoáy hướng hạ có thể trong một khoảng thời gian rất ngắn phá hủy trái đất và khiến nó mất vai trò làm môi trường tăng trưởng tâm linh.

Để tránh kịch bản đó, Thượng đế đã thiết kế vũ trụ vật chất với bốn tầng. Khi con có một hành động vật lý thì con tạo một xung lực năng lượng được gửi đến cõi vật chất. Xung lực này sẽ luân lưu qua bốn tầng của cõi vật chất, và chỉ khi nó đã đi xuyên qua ba tầng cao thì nó mới trở về con dưới hình thức một hoàn cảnh thực, vật lý. Sự vận hành của luật nguyên nhân hậu quả này, mà các tôn giáo Đông phương gọi là luật nhân quả, rất phức tạp, do đó thày chỉ cho con ở đây một hình ảnh giản lược. Với mục đích giản lược, chúng ta hãy lấy trường hợp con giết một người khác. Khi con làm hành động vật lý này, con tạo một nguyên nhân, và hậu quả là con tước đi cơ hội tăng trưởng của người đó trong phần còn lại của cuộc đời tự nhiên của y. Lẽ tất nhiên, hành động của con vi phạm quyền tự quyết của người đó. Con sẽ phải chịu hậu quả gì?

Trước khi chúng ta khai triển tiếp, thày muốn nói rất rõ là dù con đã vi phạm luật của Thượng đế, Thượng đế không hề có ý muốn trừng phạt con. Toàn bộ quan niệm có một Thượng đế giận dữ và muốn trừng phạt là sản phẩm của tâm nhị nguyên, tâm phản-Ki-tô. Nếu con có hành động giết một người khác thì hành động đó là sản phẩm của một bất quân bằng nghiêm trọng trong ba thể phàm cao của con. Con chỉ có thể giết người khi con có những cảm xúc bất quân bằng rất nặng, và chúng phải bắt nguồn từ những tư tưởng vị kỷ bắt nguồn từ một ý niệm bản sắc méo mó. Thượng đế đã ban cho con quyền tự quyết, nhưng Thượng đế muốn con được giải thoát khỏi mọi ý niệm bản sắc bất toàn. Nếu con giết người, Thượng đế không có ý muốn trừng phạt con, nhưng Thượng đế có ý muốn con được giải thoát khỏi những niềm tin đã khiến con có hành động đó.

Đâu là cách tốt nhất để con tự giải thoát mình khỏi những niềm tin vị kỷ đó? Cách tối hậu để con tự giải thoát mình khỏi ý muốn giết người là con bị giết để như vậy con trải nghiệm thế nào là bị tước mất cơ hội hiện thân. Có nhiều người chỉ có thể thoát những niềm tin và ham muốn bất toàn khi trải nghiệm thảm kịch trong đời họ. Chỉ khi đó họ mới thức tỉnh để suy ngẫm và xét lại những niềm tin ăn sâu trong tâm họ. Tối hậu, rất có thể con cần trải nghiệm bị giết để con được giải thoát khỏi niềm tin bất toàn đã khiến con giết người.

Bởi vì Thượng đế không là một Thượng đế giận dữ và là một Thượng đế từ bi, nên ngài đã thiết kế một vũ trụ không giết con tức khắc khi con giết người khác. Thay vào đó, xung lực năng lượng mà con tạo ra khi con giết người luân lưu qua bốn tầng của cõi vật chất. Như vậy con có cơ hội giải tỏa những niềm tin nhị nguyên của con trước khi xung lực năng lượng, tức là nghiệp, trở về con như một hoàn cảnh vật lý sẽ khiến con bị giết. Vũ trụ được thiết kế để cống hiến con cơ hội tốt nhất để học bài học và vươn lên trên các niềm tin giới hạn. Khi năng lượng từ những hành động quá khứ trở về con, thì đầu tiên nó đi vào thể bản sắc của con. Nó sẽ khơi động những niềm tin đã khiến con giết người trong một kiếp trước, và đây là một cơ hội để con xem xét các niềm tin đó. Có thể con nghĩ vì sao giết người là sai. Nếu con không nắm lấy cơ hội đầu đó, thì xung lực năng lượng sẽ xuống thể tư tưởng và cảm xúc của con và tại các nơi đó con lại có thêm cơ hội để giải tỏa tư tưởng và cảm xúc của mình. Nếu con vẫn không nắm lấy cơ hội thì năng lượng sẽ đi xuống cõi vật lý và nơi đó nó sẽ thị hiện như một hoàn cảnh mà con bắt buộc phải chú ý.

Con được quyền chọn cách con học bài học trong đời. Con muốn học cách dễ hay cách khó? Con muốn đi học trường nội tâm tìm cầu hiểu biết tâm linh (như câu Thánh kinh: trong tất cả những gì con muốn, hãy muốn hiểu biết) hay con muốn đi học Trường đời Cay đắng? Luật nhân quả cho con một cơ hội vĩ đại. Có một số giáo lý tâm linh nói về nghiệp sa xuống. Sự thực là một hành động bất toàn do con làm trong quá khứ sẽ trở về con bằng cách đi xuống qua bốn tầng của vũ trụ vật chất. Bởi vì bốn thể phàm của con là thành phần của vũ trụ vật chất, nên khi hành động quá khứ đi xuống, nó đi xuyên qua bốn thể phàm của con. Nó đi qua bốn tầng của tâm con trước khi thể hiện như hoàn cảnh vật lý. Con có thể tiêu trừ xung lực năng lượng, con có thể tiêu trừ nghiệp đang sa xuống đó, trong các tầng bản sắc, tư tưởng, và cảm xúc. Con có thể ngăn nó trở thành thực tại vật lý.

Thày hiểu rõ vì sao nhiều người bên Tây phương chối bỏ quan niệm nghiệp và tái sinh. Họ làm vậy vì trong 1500 năm Thiên chúa giáo đã chối bỏ sự thực của tái sinh. Nhiều người Tây phương được biết tới quan niệm tái sinh qua giáo lý Đông phương, nhưng một số giáo lý này coi tái sinh như một định mệnh không thể tránh. Các giáo lý này cho rằng tất cả những gì xảy ra cho con trong đời này là sản phẩm của những nguyên nhân con đã tạo trong các kiếp trước, và do đó con không thể làm gì để tránh các biến cố đó. Đây là một một lời nói dối trắng trợn do ông hoàng thế gian đề ra. Đây là một mưu toan khiến con người bỏ cuộc trước khi tìm cách thay đổi định mệnh và tương lai của mình. Sự thực là tái sinh và nghiệp quả được thiết kế để cho con cơ hội tối đa thay đổi hoàn cảnh của mình, thay đổi quá khứ hay ít ra là tác dụng của quá khứ trên hiện tại và tương lai của con. Con không thể thay đổi hành động mà con đã làm trong một kiếp trước, nhưng con có thể thay đổi xung lực năng lượng mà con đã khởi động trong quá khứ. Con có thể hoàn nguyên năng lượng bị tha hóa khi nó đi xuống qua các tầng bản sắc, tư tưởng và cảm xúc, và qua đó ngăn nó thể hiện như hoàn cảnh vật lý.

Rất có thể là trong một kiếp trước con đã khởi động một nghiệp đang ngăn con hưởng được dồi dào trong kiếp này. Nếu con không thể thay đổi nghiệp đó thì làm sao con có thể thay đổi hoàn cảnh vật lý của mình? Con có thể quyết định với tâm ý thức là con sẽ cầu nguyện hay đọc lời khẳng định suốt ngày, nhưng nếu nỗ lực của con không đủ mạnh để tiêu trừ nghiệp đang sa xuống, thì con không có cách nào thay đổi hoàn cảnh vật lý của con. Nếu con thành thật muốn biểu hiện cuộc sống dồi dào, thì con cần khám phá cách tiêu trừ nghiệp từ các kiếp trước trước khi nó trở nên hoàn cảnh vật lý, vì khi đó con khó khắc phục nó hơn nhiều. Tư tưởng hay cảm xúc dễ đảo ngược, nhưng một khi con vượt qua lằn ranh vào cõi vật lý, thì con không thể quay ngược kim đồng hồ. Giống như vậy, nghiệp từ các kiếp trước dễ tiêu trừ khi nó chưa xuống tới cõi vật lý, nhưng một  khi nó vượt qua lằn ranh và mang một hình tướng vật lý dày đặc, thì con khó giải thoát mình khỏi nó.

Để con có một hình ảnh minh họa việc này, con hãy tưởng tượng một núi lửa đang phun một dòng dung nham chảy xuống sườn núi. Dung nham lỏng như chất nước và có thể dễ thay đổi hướng chảy. Dung nham rốt cuộc chảy tới biển và nó đông lại rất nhanh và tức khắc trở nên đặc cứng. Giờ đây dung nham đã trở nên chất đặc và rất khó loại bỏ nó. Nếu con có một dụng cụ có thể tác động trên chất dung nham lỏng thì con có thể loại bỏ nó dễ dàng. Khi dung nham đã khô cứng thì con phải đập nó ra mảnh nhỏ trước khi loại bỏ nó. Sự khác biệt giữa nghiệp đang sa xuống và nghiệp đã đi vào cõi vật lý và trở nên hoàn cảnh vật lý cũng giống như vậy.

3.6. Làm cách nào tiêu trừ nghiệp

Làm cách nào con ngăn không để cho hành động quá khứ của con thể hiện như hoàn cảnh vật lý mà con không mong muốn? Thượng đế không muốn trừng phạt con; Thượng đế chỉ giản dị muốn con được giải thoát khỏi những niềm tin bất toàn. Vì Thượng đế đã cho con quyền tự quyết nên con chỉ có thể giải thoát mình bằng cách tự mình chọn lựa. Cách tối hậu để ngăn chặn nghiệp thể hiện là trong lọc bốn thể phàm. Nếu con tẩy rửa mọi tầng của tâm khỏi những niềm tin và năng lượng bất toàn đã khiến con giết người trong một kiếp trước, thì không có lý do gì để con trải nghiệm nghiệp vật lý của hành động đó. Nếu con đã học xong bài học mà con cần học, thì tại sao con lại phải gánh chịu hoàn cảnh vật lý? Thượng đế và các thày tâm linh của con có khả năng bỏ qua bên nghiệp đang sa xuống đời con. Năng lượng bất toàn tạo ra trong quá khứ vẫn cần được cân bằng, và con có trách nhiệm làm việc này. Con có thể làm việc này bằng cách cầu thỉnh ánh sáng tâm linh tái chỉnh lại năng lượng bất toàn bằng cách nâng độ rung của nó. Con có thể được giải thoát khỏi hành động quá khứ mà không phải trải nghiệm hậu quả vật lý. Chuyện này chỉ xảy ra khi con tiêu trừ nghiệp do tấm gương vũ trụ phản chiếu lại trước khi nó xuống cõi vật lý.  

Khi con thanh tẩy bốn thể phàm thì nghiệp sa xuống sẽ hầu như bị tiêu trừ tự động. Để giải thích cơ chế này, thày sẽ trở lại hình ảnh của một niềm tin bất toàn trong thể bản sắc của con. Chúng ta hãy lấy thí dụ con có niềm tin mình là một cá nhân tách biệt và con có thể làm hại người khác mà không làm hại chính mình. Niềm tin này rất phổ thông trên hành tinh này và xuất phát từ tâm thức nhị nguyên. Niềm tin này có tác dụng giảm thiểu lượng năng lượng và độ rung của năng lượng chảy qua thể bản sắc của con. Vì con không nhân lên các khả năng mà con được phú, nên năng lượng chảy xuống từ cõi tâm linh bị giảm thiểu. Giản dị là không có bao nhiêu ánh sáng có độ rung cao chảy xuyên qua thể bản sắc của con. Niềm tin bất toàn trong thể bản sắc của con là nguyên do đưa đến việc con có hành động vật lý vị kỷ, và hành động vật lý này tạo một xung lực năng lượng, tức là nghiệp. Khi xung lực năng lượng này chảy xuyên qua thể bản sắc của con, thì không có ánh sáng có độ rung cao để nâng độ rung của nghiệp, không có ánh sáng để tiêu trừ nghiệp và ngăn nó sa xuống thêm nữa. Năng lượng tha hóa mà con có trong thể bản sắc không cản nghiệp vì nghiệp có cùng độ rung với năng lượng tồn đọng. Nghiệp có thể chảy tới thể tư tưởng mà không bị cản trở, và giờ đây nó chỉ cần tiến một bước nữa để thị hiện thành một hoàn cảnh vật lý.

Chuyện gì xảy ra khi con tháo gở niềm tin bất toàn và năng lượng tha hóa trong thể bản sắc của con? Thể bản sắc của con trở nên tràn đầy ánh sáng. Giê-su đã mô tả điều này qua lời dạy bí truyền rằng nếu mắt con đơn nhất thì toàn thân của con sẽ tràn đầy ánh sáng (Matthew 6:22). Một nghĩa của câu này là nếu thể bản sắc của con là “một” – nó không là ngôi nhà bị chia rẽ bởi niềm tin nhị nguyên do đó con thấy mình là một với Thượng đế – thì thể bản sắc của con sẽ tràn đầy ánh sáng. Ánh sáng có thể tích tụ trong thể bản sắc có độ rung rất cao, có nghĩa là nó có khả năng tiêu trừ độ rung thấp của nghiệp đang trở về. Nếu nghiệp có độ rung 800 Hz và thể bản sắc của con có thể cầm giữ ánh sáng với độ rung 90,000 Hz, thì ánh sáng có sức mạnh cao hơn và có thể dễ dàng tiêu trừ nghiệp và ngăn nó không sa xuống thêm nữa.

Còn nghiệp đã xuống tới tầng tư tưởng và cảm xúc thì sao? Con có thể tiêu trừ nghiệp đó bằng cách thanh tẩy hai thể tư tưởng và cảm xúc giống như con thanh tẩy thể bản sắc. Khi thể bản sắc của con đã được thanh tẩy, thì việc trong sạch hóa hai thể tư tưởng và cảm xúc sẽ dễ hơn rất nhiều. Còn nghiệp sắp đi qua lằn ranh xuống cõi vật lý thì sao? Con có thể làm gì để ngăn nghiệp này biểu hiện? Cách làm là thỉnh cầu năng lượng tâm linh có tần số cao bằng cách sử dụng một kỹ thuật thích đáng, và hướng nó tới việc tiêu trừ nghiệp đó. Để làm được việc này một cách hữu hiệu thì con cũng phải tiến hành một tiến trình chân thật thanh tẩy các thể cao của mình, và đây chính là mục đích của các bài thỉnh mà thày đã thiết kế.

3.7. Kiêu mạn là cạm bẫy

Trong bài này thày đã cho con một hình ảnh về cuộc sống tinh vi hơn rất nhiều những gì các tôn giáo truyền thống và khoa học duy vật cống hiến. Lúc ban đầu con có thể cảm thấy hơi choáng ngợp. Quả thật thày đang cống hiến con một cơ hội độc đáo để giải thoát khỏi những giới hạn mà con đang trải nghiệm mỗi ngày trong đời. Câu hỏi là con muốn tiếp tục trải nghiệm các giới hạn này cho đến cuối đời, hay con sẵn sàng quyết tâm cố gắng nâng mình vĩnh viễn lên khỏi các giới hạn đó?

Nhiều người bị choáng ngợp bởi các năng lượng mà họ mang trong tâm họ, những năng lượng tha hóa trong bốn thể phàm và nghiệp đang sa xuống, nên họ không thể kéo họ ra khỏi khung tư duy hiện tại của họ. Họ không thể bước ra khỏi cỗ máy chạy của cuộc sống hàng ngày để làm việc gì khác lạ sẽ vĩnh viễn giải thoát họ. Nếu con là một trong số những người này thì con đã không có chú ý và sự khát khao để theo học khóa này. Con quả thực có tiềm năng sử dụng giáo lý và các dụng cụ mà thày trao truyền trong khóa này. Con có thể đảo ngược vòng xoáy hướng hạ đang giam cầm con. Thay vào đó, con có thể tạo một vòng xoáy hướng thượng thường trực sẽ lần hồi dẫn con từ nơi con đang ở hiện nay tới nơi con thực sự mong muốn trong đời này, là một sinh thể có an bình nội tâm và đang ở trong dòng chảy dồi dào của Thượng đế. Khi con quyết tâm nỗ lực, thì con quả thực có thể xoay chuyển đời mình, con có thể chuyển cuộc đời thành một vòng xoáy hướng thượng. Chuyện này sẽ không thể hoàn thành một sớm một chiều, nhưng thày nhắc nhở con câu ngạn ngữ rằng cuộc hành trình ngàn dặm bắt đầu với một bước đi. Điều con cần thêm vào là nếu con tiếp tục đi từng bước một thì con sẽ nhất định tới đích.

Chìa khóa thực để phá vòng xoáy hướng hạ là tìm một cách hữu hiệu để thanh tẩy bốn thể phàm khỏi những niềm tin bất toàn và những năng lượng tha hóa đã tích tụ trong đó từ nhiều kiếp. Đây quả thật là điều thày cống hiến con trong khóa học này: một phương pháp có hệ thống để thanh tẩy bốn thể phàm. Tất cả mọi điều thày giảng trong khóa học này được thiết kế để thách thức những niềm tin nhị nguyên tàng trữ trong bốn thể phàm của con. Khi con theo khóa học tới điểm này thì con đã đi sâu vào tiến trình phơi bày các niềm tin đó. Con cũng đã sử dụng các kỹ thuật thực tiễn để thỉnh cầu năng lượng tâm linh có tần số cao và hướng nó vào các chướng ngại trong bốn thể phàm của con.

Trong chương kế tiếp, thày sẽ phơi bày một trong những cạm bẫy của ngã hữu diệt và hoàng tử thế gian, là tính kiêu mạn dưới nhiều lớp hóa trang của nó. Đây là cạm bẫy nghĩ mình đã biết hết mọi chuyện, do đó con không cần theo bất cứ khuôn mặt uy tín nào ngoài ngã hữu diệt và các khuôn mặt uy tín trong thế gian này. Con chắc nhớ câu nói kiêu mạn đi trước sa ngã. Câu này nói đúng, nhưng vấn đề lớn hơn là kiêu mạn ngăn con vực mình dậy sau khi sa ngã. Quả thực việc sa ngã không quan trọng – vì con không thể đảo ngược sự kiện đó. Nhưng điều con có thể thay đổi là chuyện xảy ra sau khi sa ngã, có nghĩa là thay vì bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên, con có thể bắt đầu đi theo vòng xoáy hướng thượng sẽ giải thoát con khỏi tâm phản-Ki-tô và dẫn con đi lên cầu thang xoắn ốc cho tới khi con trở về hợp nhất với cái ta cao của con. Con hãy để thày phơi bày âm mưu vi tế của kiêu mạn có mục đích giữ con kẹt trong vòng lẩn quẩn tâm linh có vẻ không có lối ra. Không có lối ra nào ngoài cách đi theo vị thày chân chính mà Thượng đế gửi xuống để giải thoát con.

1 | Tiềm năng cao nhất của con

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 20/4/2005.

Trái tim yêu dấu của Mẹ, trong chương trước [Xem quyển 2], thày có giảng cho con tiến trình qua đó mọi thứ trong vũ trụ vật chất đã được đem vào thị hiện. Thày có giảng là mọi thứ khởi đầu như một ý tưởng chung chung nơi cõi bản sắc, sau đó được hạ xuống thành một ý tưởng rõ ràng hơn nơi cõi tư tưởng, sau đó trở nên rõ ràng hơn nữa và nhận được động lượng và định hướng nơi cõi cảm xúc, và sau đó thể hiện như một hình tướng hay một hành động nơi cõi vật lý.

Thày có hứa là sẽ làm cho giáo lý này thực tiễn hơn, và thày sẽ làm điều này trong chương này bằng cách áp dụng nó cho câu hỏi làm sao con có thể thị hiện đời sống dồi dào cho con và mọi sự sống khác trên hành tinh này. Chúng ta hãy bắt đầu với một đề tài cốt yếu cho việc thị hiện đời sống dồi dào, đó là uy lực sáng tạo của con, uy lực thật giúp con thể hiện mọi thứ. Nếu con đã nghiên cứu các phương pháp dạy cách đạt phồn thịnh mà con tìm thấy trên hành tinh, thì con thấy nhiều phương pháp nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đặt mục đích, có một viễn quan rõ ràng về những gì con muốn đạt. Đây là một phần rất quan trọng trong việc thể hiện đời sống dồi dào, vì quả thật Thánh kinh có nói: “Khi không có viễn quan thì con người mạng vong” (Proverbs 29:18). Nếu con không biết mình muốn thể hiện gì, thì làm sao con có thể mang nó vào hiện thực, đặc biệt là khi con so sánh với lời giảng của thày là mọi thứ được cấu tạo từ Ánh sáng Mẫu-Vật đã khoác vào một hình tướng vì một tâm có tự nhận biết đã áp chồng một hình ảnh lên nó. Con có thể đã nghe nói đến quan niệm lập một bản đồ kho tàng, chỉ giản dị là một tập hợp hình ảnh minh họa điều con muốn thấy thể hiện trong đời mình, tỷ dụ như được giàu có hơn, có một căn nhà xinh đẹp để ở, hay các điều kiện khác. Đây quả thực là một phương pháp thể hiện dồi dào có giá trị, nhưng nó có một số giới hạn. Con có thể có viễn quan tốt nhất nhưng thiếu uy lực để mang nó vào thể hiện. Trong chương này, thày sẽ chú tâm vào khía cạnh uy lực và sau đó chúng ta sẽ nói đến cách con trong lọc viễn quan và có viễn quan cao nhất về khả năng sáng tạo của mình.

1.1. Chìa khóa của dồi dào là bốn thể phàm thanh khiết

Chìa khóa thật để thể hiện đời sống dồi dào là cho phép ánh sáng thuần khiết của Thượng đế tuôn chảy qua bốn thể phàm của con. Nếu ánh sáng có thể tuôn chảy mà không bị cản trở hay pha loãng, thì đời sống dồi dào của Thượng đế sẽ được thể hiện như hoàn cảnh vật chất của con. Nếu bốn thể phàm của con quả thật trong sạch, thì ánh sáng của Thượng đế sẽ tuôn chảy qua chúng mà không bị pha loãng. Con nhìn cuộc đời của Giê-su như thí dụ một người đã trong lọc bốn thể phàm của mình. Giê-su đã đạt được một trình độ biết là thày không hành động với uy lực của riêng thày. Thày không hành động chỉ bằng thân thể vật lý mà thôi. Thậm chí thày cũng không chỉ dùng năng lượng tâm lý, là năng lượng đã được đem vào các cõi bản sắc, tư tưởng và cảm xúc. Giê-su biết là riêng thày không làm gì được (John 5:30) vì chính đấng Cha trong thày đang làm công việc (John 5:17). Đấng Cha bên trong thày là Hiện diện TA LÀ của thày và ánh sáng của Thượng đế. Giê-su biết rằng nếu không có ánh sáng thuần khiết của Thượng đế thì thày sẽ không làm được điều gì có giá trị, không làm được điều gì có giá trị vượt thời gian.

Khi nhận biết điều này, Giê-su mở tâm ra và thanh lọc bốn thể phàm của thày do đó ánh sáng Thượng đế có thể chảy qua bốn thể này và được tâm vỏ ngoài của thày điều khiển. Lẽ dĩ nhiên, tâm của thày hoàn toàn thẳng hàng với sứ vụ thiêng liêng của thày trong kiếp hiện thân đó. Giê-su quả thực đã dùng cả bốn thể phàm của thày khi thày thị hiện điều gì đó. Ví dụ như khi Giê-su đánh thức Lazarus sống lại từ cõi chết (John 11:1), Giê-su còn không vào trong mồ. Thày đứng ngoài mồ, thày tập trung hết sức và thốt lên: “Lazarus, hãy bước ra!” (John 11:43). Khi nói câu này, thày không nói nhẹ nhàng. Thày không cầu nguyện, thày không đòi hỏi. Thực ra, thày chủ trì bốn thể phàm của thày và với tất cả sức mạnh từ toàn thể bản thể, thày ra mệnh lệnh. Mệnh lệnh này có toàn uy lực và cường độ của giọng nói của thày. Giọng nói của thày thấm đậm cường độ của xúc cảm của thày, của tình thương vô điều kiện của thày đối với Lazarus. Cảm xúc của thày biểu hiện trọn vẹn viễn quan tinh khiết thấy Lazarus tỉnh lại và được chữa lành, viễn quan mà thày giữ trong thể lý trí của thày. Giê-su biết một cách chắc chắn tuyệt đối là uy lực của Thượng đế có thể truyền sự sống trở lại cho một thân xác chết. Thể lý trí của thày có uy lực từ cảm nhận bản sắc biết rằng mình là con trai của Thượng đế, là người đồng-sáng tạo với Thượng đế có mặt ở đây để thị hiện đời sống dồi dào trong vũ trụ vật chất. Như Giê-su nói: “Ta tới đây để họ được sự sống, và để họ được sự sống hơn nữa” (John 10:10).

Vì bốn thể phàm của Giê-su thanh khiết, uy lực của Thượng đế có thể tuôn chảy qua chúng và đánh thức các tế bào và nguyên tử của xác thân Lazarus, thanh lọc chúng khỏi những hình tư tưởng không toàn hảo của bệnh tật và làm cho hồn của ông có thể nhập lại vào thân, lúc ấy đã được thanh lọc khỏi mọi bệnh tật. Thày biết rằng nhiều người ngày nay, ngay cả nhiều tín đồ Ki-tô không chú ý tới các phép lạ của Giê-su hay bác bỏ chúng coi là mê tín. Chúng không phải là sản phẩm của tưởng tượng, những người viết Thánh kinh cũng không thêm chúng vào để nâng cao Giê-su thành một người làm được phép lạ. Những phép lạ này quả thực có thật, chúng là kết quả của việc Giê-su đã thanh lọc bốn thể phàm của thày khiến cho uy lực của Thượng đế có thể tuôn chảy qua chúng với toàn lực. Qua Giê-su, uy lực của Thượng đế có thể làm những điều mà người trong trạng thái tâm thức bình thường xem là phép lạ. Những điều này không là phép lạ, chúng chỉ là quy luật tâm linh cao được thực thi trong vũ trụ vật chất, do đó quy luật này thay thế các quy luật vật chất với những giới hạn của chúng.

Hãy để thày cho con một ý niệm đồng-đo lường uy lực của Thượng đế, uy lực mà bất cứ ai đi con đường quả vị Ki-tô mà Giê-su đã chứng minh đều có được. Một lần nữa, con hãy xem xét lời của Giê-su: “Những ai tin ta, những việc mà ta làm, họ sẽ làm được;  và những việc lớn lao hơn thế nữa, họ cũng sẽ làm được” (John 14:12). Con nghĩ Giê-su hứa suông ở đây chăng? Rất nhiều tín đồ Ki-tô không chú ý tới lời nói này. Thày có thể bảo đảm với con là lời nói này mô tả sự thực là mỗi con người trên trái đất đều có tiềm năng Ki-tô. Nếu con muốn đi theo con đường Giê-su đã đi, con đường vượt qua ngã hữu diệt, đâm chết con rồng của ngã hữu diệt, lúc ấy con có thể làm những gì Giê-su đã làm. Thượng đế có thể làm cùng những việc qua con mà Thượng đế đã làm qua Giê-su. Khi uy lực của Thượng đế tuôn chảy không bị pha loãng xuyên qua bốn thể phàm của con, những điều Thượng đế có thể làm được không giới hạn.

1.2. Uy lực sáng tạo của Thượng đế không thể tuôn chảy qua tâm nhị nguyên tách biệt

Tâm nhị nguyên bắt nguồn từ cảm nhận tách biệt khỏi cội nguồn của con, khỏi Bản thể cao của chính con và Thượng đế. Vì tách biệt, con không tin là Thượng đế có thể làm việc xuyên qua con và do đó con bác bỏ khả năng Thượng đế có thể làm việc xuyên qua con. Các tin tưởng nhị nguyên chồng chất trong bốn thể phàm của con ngăn chặn dòng chảy của ánh sáng Thượng đế và do đó uy lực sáng tạo của con teo lại chỉ còn một phần li ti của tiềm năng thật của nó. Con được thiết kế để uy lực Thượng đế tuôn chảy qua bốn thể phàm của con và khi bốn thể này trong dạng thanh khiết của chúng, chúng có thể cầm giữ uy lực lớn lao như Giê-su đã chứng minh. Khi con đi xuống tâm thức tách biệt và nhị nguyên, uy lực không thể tuôn chảy nữa. Giờ đây, con tin rằng con là người hành động, con hành động với uy lực của chính mình và con có thể hành động độc lập với Thượng đế và ánh sáng của Thượng đế. Mọi thứ đều làm từ Ánh sáng Mẫu-Vật cho nên không thể làm bất cứ gì mà không có ánh sáng Thượng đế. Câu hỏi duy nhất là con hành động với ánh sáng thuần khiết của Thượng đế hay ánh sáng đã bị hạ xuống một quang phổ thấp hơn.

Đây là một sự khác biệt tinh tế mà hầu hết đã không chú ý tới, kể cả nhiều vị thày tâm linh. Khi cảm nhận bản sắc của con trụ vào thân vật lý, con chỉ có thể hành động bằng cách dùng năng lượng rung động trong quang phổ vật lý. Vì tâm thức của con không thể nhìn vượt quá quang phổ này, con không thấy được bất cứ liên hệ nào giữa năng lượng vật chất và Thượng đế. Con không thể thấy được là ngay cả chất vật lý cũng được cấu tạo bằng ánh sáng của Thượng đế, ánh sáng đã được hạ độ rung và khoác lên một hình dạng đặc thù. Con không thấy được là Thượng đế là nguyên nhân duy nhất đằng sau hằng hà biểu hiện. Vì những lời dối trá nhị nguyên đã được lập trình trong tâm con bởi ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian, con chối bỏ hiện diện của Thượng đế ngay nơi con. Sự chối bỏ này ngăn chặn không cho Thượng đế làm việc qua con, vì Thượng đế không bao giờ vi phạm chính Luật Tự quyết của ngài. Khi con vượt qua ảo tưởng tách biệt bằng cách cho phép tâm Ki-tô ở trong con, con nhận ra rằng con, có nghĩa là tâm vỏ ngoài và ngã hữu diệt, không phải là người hành động. Mọi chuyện đều được làm với năng lượng của Thượng đế cho nên Thượng đế luôn luôn là nguyên nhân tối hậu. Con có thể tiếp tục duy trì ảo tưởng tách biệt qua đó con giam mình trong một phần li ti của tiềm năng sáng tạo thực sự của con. Làm như thế là một chọn lựa, không phải là một điều kiện mà một Thượng đế giận dữ áp đặt lên con. Cũng có thể nói nó một điều kiện mà một thượng đế giận dữ áp đặt lên con, thực ra là một thượng đế giả, sinh thể giận dữ ở trên trời, do ông hoàng thế gian và tâm thức tập thể của nhân loại tạo ra. Khi con bắt đầu nắm được chân lý của Ki-tô, con nhận ra con có tiềm năng lấy lại sứ vụ ban đầu của con là người đồng-sáng tạo với Thượng đế thật, chính là Thượng đế nội tại lúc nào cũng mong muốn con đồng-sáng tạo đời sống dồi dào mà ngài hình dung cho con. Giê-su đã tới để giải thoát mọi người khỏi những hạn chế của ngã hữu diệt và lý luận nhị nguyên đã giới hạn uy lực Thượng đế nơi họ và ngăn cản Thượng đế làm việc xuyên qua họ.

1.3. Uy lực sáng tạo của người trung bình so với tiềm năng tối đa

Mọi sự đều là rung động, mọi sự đều là năng lượng. Các nhà khoa học của con đo sự rung động của năng lượng bằng cách tính số chu kỳ mỗi giây của sóng năng lượng, được chuyển thành một đơn vị đo lường gọi là Hertz. Thày không nói là những con số thày cho con ở đây nhất thiết là con số thật. Thày chỉ giản dị cho con một ví dụ để cho con thấy sự khác biệt và tỷ lệ giữa điều gì thực sự có thể làm được và điều mà đa số con người hiện nay làm được trên trái đất. Mọi thứ trong bốn tầng của vũ trụ vật chất được làm bằng năng lượng rung động ở một tần số nào đó. Hãy cho rằng ánh sáng thuần khiết của Thượng đế đi vào quang phổ vật chất ở tầng cao nhất của cõi bản sắc, nó rung động ở tần số 100,000 Hz hay chu kỳ mỗi giây. Chức năng tự nhiên của thể bản sắc của con là nó kết tinh năng lượng lỏng của Thượng đế thành một hình ảnh đặc thù hơn về điều nó muốn sáng tạo trong vũ trụ vật chất. Khi làm thế, thể bản sắc của con hạ thấp tần số của năng lượng. Trong kịch bản lý tưởng, năng lượng được hạ thấp xuống tần số 75,000 Hz, sau đó nó chảy xuống cõi tư tưởng, quang phổ lý trí. Lúc ấy tư tưởng của con lấy bản thiết kế tổng quát tạo ra trong thể bản sắc và tư tưởng làm cho nó đặc thù hơn nữa, qua đó bản thiết kế này được hạ tần số thấp hơn cho tới khi nó đạt tới mức rung động 50,000 Hz. Ở tần số này, nó chảy vào tầng cao nhất của cõi cảm xúc. Cảm xúc của con lúc ấy làm cho kế hoạch của tư tưởng đặc thù hơn nữa và cho nó một định hướng rõ ràng. Điều này hạ giảm tần số xuống 25,000 Hz, sau đó năng lượng đi vào cõi vật lý, quang phổ vật lý.

Cõi vật lý, quang phổ vật lý, bao gồm các rung động từ 1 tới 25,000 Hz. Có nghĩa là trong kịch bản lý tưởng, tâm ý thức của con sẽ đồng-sáng tạo bằng cách điều khiển ánh sáng rung động ở tần số 25,000 Hz hay thấp hơn mức này một chút. Mọi thứ trong vũ trụ vật chất được tạo ra từ Ánh sáng Mẫu-Vật được khuấy động thành rung động bởi sức sáng tạo của Cha. Lực sáng tạo này tuôn chảy qua Giê-su khi thày đánh thức Lazarus tỉnh dậy từ cõi chết. Chính uy lực sáng tạo của Thượng đế đã tuôn chảy qua bốn thể phàm của Giê-su và tác động lên Ánh sáng Mẫu-Vật là chất cấu tạo các tế bào và phân tử của thân thể Lazarus. Vì uy lực sáng tạo có thể tuôn chảy không pha loãng, uy lực của Thượng đế đi vào cõi vật chất ở mức rung động tối đa 25,000 Hz. Do đó uy lực của Thượng đế có sức mạnh để truyền ánh sáng trở lại vào các tế bào chết của thân Lazarus.

Quả thực, một người có thể có uy lực điều khiển ánh sáng ở tần số 25,000 Hz. Đây là tiềm năng sáng tạo cao nhất của một người trên trái đất. Nếu con xem Ánh sáng Mẫu-Vật giống như đại dương và cách con thị hiện mọi sự trong vũ trụ vật chất là khuấy động đại dương của Ánh sáng Mẫu-Vật thì hiển nhiên là con càng có nhiều uy lực đằng sau các nỗ lực của con thì con có thể sáng tạo những ngọn sóng lớn hơn và do đó con có nhiều uy lực hơn để thị hiện mọi sự.

Để so sánh, uy lực mà Giê-su có để thị hiện điều gì đó là do tâm ý thức của thày có thể cầm giữ và điều khiển ánh sáng rung động ở tần số 25,000 Hz. Điều này đáng kể vì nếu con có thể điều khiển một sóng ánh sáng có tần số rất cao chĩa vào một dòng sóng ánh sáng có tần số thấp hơn hẳn, con có thể nâng độ rung của ánh sáng có tần số thấp. Khi Giê-su đánh thức Lazarus tỉnh dậy từ cõi chết, thày điều khiển một sóng ánh sáng có tần số rất cao vào các sóng ánh sáng cấu tạo nên thân thể Lazarus. Dù các sóng ánh sáng của thân thể Lazarus đã đi xuống một tầng rung động rất thấp là tầng rung động của vật chất chết cứng, uy lực của Giê-su mạnh đến độ nó có thể thay đổi mức rung động của các sóng tần số thấp này. Các sóng này trở lại rung động ở mức có thể hỗ trợ sự sống ý thức và điều này truyền lại sự sống vào thân thể Lazarus, khiến cho hồn của ông có thể đi vào thân thể trở lại. Nếu con có uy lực đó, con có thể truyền lại sức sống vào hoàn cảnh tài chánh của con và vượt qua bất cứ giới hạn nào mà con đang đối mặt.

Uy lực sáng tạo của Giê-su ở mức 25,000 Hz. Đây là mức tâm thức thày đạt được nhờ bốn thể phàm của thày thanh khiết và do đó chúng có thể là ống dẫn hay dụng cụ biến thế cho lượng uy lực tối đa. Để con có ý niệm so sánh, một người trung bình trên hành tinh trái đất hiện nay không có khả năng điều khiển ánh sáng rung động với tần số cao hơn 1,000 Hz với tâm ý thức của họ. Nhiều người không có khả năng cầm giữ ánh sáng rung động cao hơn 500 Hz trong tâm họ. Điều này cho thấy sự khác biệt lớn lao giữa uy lực sáng tạo của người trung bình và uy lực sáng tạo của Giê-su. Thày đang không tìm cách đưa Giê-su lên bệ cao. Ngược lại thày đang cố giúp con chấp nhận tiềm năng thực của con bằng cách đề cập tới Giê-su như một ví dụ của một người không giới hạn khả năng của Thượng đế làm việc xuyên qua mình. Có thể con nhìn vào sự khác biệt và nghĩ con không thể thu hẹp khoảng cách giữa mức nhận biết hiện tại của con và tâm thức Giê-su. Đây là một ảo tưởng bởi vì bốn thể phàm của con được thiết kế để cầm giữ ánh sáng rung động ở mức thày mô tả. Cho dù con chưa tưởng tượng mình có thể sử dụng uy lực mà Giê-su chứng tỏ, con nghĩ xem chuyện gì sẽ xảy ra nếu con nhân đôi mức uy lực hiện tại của con. Mục đích này phải là điều ai cũng làm được và lẽ hiển nhiên nó sẽ đẩy mạnh nỗ lực của con để thị hiện đời sống dồi dào. Thày cho con hai mục tiêu, tiềm năng cao nhất và mục tiêu trung gian. Con hãy nỗ lực để nhân đôi uy lực hiện tại của con, và sau đó dùng nó làm bàn đạp để đạt được nhiều hơn nữa.

Nhiều khoa học gia nói hiện nay con người dùng từ 5% tới 10% khả năng não bộ của mình. Nếu con lấy một thiết bị được thiết kế để dùng điện 220 Volt và cắm vào ổ điện 110 Volt, thì thiết bị sẽ không chạy được, giản dị vì không đủ năng lượng điện cho nó chạy. Có những trung tâm não bộ của con được thiết kế để hoạt động với năng lượng ở tần số cao, nghĩa là não bộ vật lý của con được thiết kế để làm ống dẫn cho năng lượng cao tới 25,000 Hz. Nếu không có năng lượng ở tần số đó đi vào não bộ vật lý của con từ thể tình cảm, các trung tâm não bộ này sẽ ngủ yên vì không có đủ điện lực cao để kích động chúng. Các chức năng cao của não bộ đang ngủ yên với hầu hết con người. Nếu con quả thực biểu hiện đời sống dồi dào, con cần tinh lọc bốn thể phàm để con có thể trở về trạng thái tự nhiên, khi uy lực của Thượng đế có thể tuôn chảy qua bốn thể phàm mà không bị pha loãng và hạ giảm thấp hơn mức rung động tự nhiên. Khi con thanh lọc bốn thể phàm của con, tâm ý thức của con sẽ nhận thêm nhiều năng lượng có tần số cao và do đó con tăng cường uy lực sáng tạo của con.

1.4. Mất kết nối với thực tại Ki-tô đưa tới đời sống vật lộn

Điều gì hạ giảm lượng uy lực tới được tâm ý thức của con? Nguyên nhân là những điểm tắc nghẽn nơi bốn tầng của tâm con, nơi các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc và ở tâm vật lý của con – các tầng tâm mà một số tâm lý gia gọi là tâm tiềm thức của con. Những điểm nghẽn này sẽ ngăn cản ánh sáng tuôn chảy xuyên qua các thể này hoặc hạ độ rung của ánh sáng và do đó hạ giảm uy lực của ánh sáng. Có thể có những điểm tắc nghẽn ở mọi tầng của tâm phàm và đây quả thực là trường hợp của hầu hết mọi người trên hành tinh trái đất. Với hầu hết, vấn đề thực sự là các điểm tắc nghẽn trong thể bản sắc của họ. Nếu một người tin họ là một người hữu diệt, bị hạn chế trong những gì thân vật lý làm được, và nếu tin tưởng này ăn sâu trong thể bản sắc của họ, ánh sáng Thượng đế chảy xuyên qua thể bản sắc của người đó sẽ bị hạ giảm nhiều hơn rất nhiều so với sự hạ giảm tự nhiên từ 100,000 xuống tới 75,000 Hz. Hầu hết mọi người trên trái đất có những tin tưởng trong thể bản sắc hạ giảm rung động của ánh sáng Thượng đế từ 100,000 xuống tới dưới 2,000 Hz.

Điều gì giúp cho con sống, điều gì giúp bốn thể phàm hoạt động, chính là ánh sáng của Thượng đế tuôn chảy xuyên qua chúng. Ánh sáng thuần khiết của Thượng đế đi vào thể bản sắc ở độ rung 100,000 Hz. Nếu thể bản sắc hạ độ rung đó xuống 2,000 Hz, uy lực sáng tạo của con ngay từ đầu đã bị hạ giảm trầm trọng. Ngay cả trước khi năng lượng đi vào thể tư tưởng, nó đã bị hạ giảm xuống một mức rất thấp do đó tư tưởng con đã bị giới hạn trong khả năng của chúng. Sau đó tư tưởng của con sẽ hạ giảm rung động thêm nữa và do đó năng lượng đi vào thể cảm xúc ở một mức thấp hơn nhiều so với tự nhiên. Điều này hạ giảm uy lực cảm xúc của con. Vai trò của cảm xúc là đem lại định hướng và động lượng cho những gì tư tưởng của con thiết kế. Như thày đã giải thích trong trường hợp Giê-su vực Lazarus sống dậy, cần năng lượng ở một tần số cao để có thể truyền ánh sáng vào các tế bào chết. Nếu con không có tần số ánh sáng đó trong thể cảm xúc và tâm ý thức của con, thì có gì lạ không khi các mục tiêu của con không hiển thị được? Có gì lạ không khi các tế bào thân thể của con dần dà không còn khả năng cầm giữ sinh lực sống và do đó biểu hiện bệnh tật và tuổi già? Bệnh tật, tuổi già và cái chết vật lý một phần do sự hạ giảm uy lực ánh sáng khi nó xuống tới quang phổ của thân vật lý của con. Rốt cuộc thân thể hao mòn và không thể hoạt động đúng đắn, thậm chí không thể sống còn. Hầu hết con người trên hành tinh này đã hạ giảm uy lực sáng tạo nhiều đến độ chỉ đủ ánh sáng tuôn chảy xuyên qua bốn thể phàm để sống còn. Đó là lý do tại sao rất nhiều người cảm thấy cuộc sống là một vật lộn, như là họ chỉ đang sống sót. Họ chỉ sống sót vì họ chỉ còn chút xíu ánh sáng tuôn chảy xuyên qua bốn thể phàm để giữ cho xác thân và tâm ý thức hoạt động. 

Tình trạng tương tự một thiết bị mà dòng điện bị hạ giảm đến độ thiết bị hầu như không quay nổi. Con hãy tưởng tượng một máy giặt quay quá chậm tới độ cần hai ngày để giặt xong một tải đồ giặt. Con sẽ nói chắc chắn máy giặt bị hư nhưng vì hầu hết con người chưa bao giờ trải nghiệm tiềm năng thực của họ, chưa bao giờ thấy người nào sinh hoạt với tiềm năng thực, nên họ cho rằng tình trạng uy lực giảm thiểu của họ là bình thường. Họ nghĩ điều ấy không thể tránh, họ nghĩ đấy tiềm năng thực của họ. Thực tế là nó thấp xa tiềm năng thực của họ đến độ một người thày tâm linh như thày đôi khi cảm thấy như muốn bóp chặt tay mình trong tuyệt vọng, đặc biệt khi nghe một số người nói rằng tình trạng vật lộn hiện thời của họ là bình thường, tự nhiên, không thể tránh hay thậm chí còn do Thượng đế muốn thế.

Điều này gần như không thể tin nổi và hơn lúc nào hết minh chứng điều gì có thể xảy ra khi con người đi xuống tâm thức nhị nguyên và đánh mất mọi cảm nhận nối kết với thực tại của tâm Ki-tô. Thực tại của tâm Ki-tô là con có khả năng sử dụng ánh sáng rung động ở mức 25,000 Hz. Với mức uy lực sáng tạo hiện nay của con, có thể là con chỉ sử dụng được ánh sáng trên 1,000 Hz và đấy chỉ là bốn phần trăm của tiềm năng trọn vẹn của con. Nếu con biết và thực sự tin là con có thể gia tăng uy lực sáng tạo tới mức mà Giê-su đã chứng minh, hiển nhiên là con sẽ cố gắng gia tăng uy lực sáng tạo của mình. Nguyên nhân duy nhất khiến con người chối bỏ tiềm năng tận dụng uy lực sáng tạo chỉ có thể là vì họ đã bị mắc kẹt quá sâu trong tâm thức nhị nguyên đến độ hoàn toàn đánh mất ý niệm đồng-đo lường. Họ đánh mất tiêu chuẩn Ki-tô minh chứng có cái gì đó khác với tình trạng vật lộn và khổ đau hiện thời của họ. Con thấy chăng sự trớ trêu khi rất nhiều tín đồ Cơ đốc tôn thờ Giê-su nhưng lại coi thày là người con trai duy nhất của Thượng đế và do đó là người duy nhất có thể đạt được uy lực sáng tạo đó. Mục đích chính của sứ vụ Giê-su là minh chứng mức uy lực sáng tạo bình thường và tự nhiên của tất cả mọi người. Coi Giê-su như người con trai duy nhất của Thượng đế là sự bẻ quẹo hoàn toàn ý định thực đằng sau sứ vụ Giê-su. Vì nó trực tiếp đi ngược sứ vụ Ki-tô, nên nó chỉ có thể phát xuất từ một chỗ, chính là tâm phản Ki-tô. Chỉ có tâm phản Ki-tô mới có thể phá hủy gương của Giê-su bằng cách biến thày thành một thần tượng và đặt thày lên cái bệ vượt khỏi tầm với của bất kỳ con người nào.

1.5. Con cần giải trừ cái mà con đã tạo ra

Con yêu dấu, con cảm nhận được chăng lòng từ bi và nhiệt huyết của thày về điều này? Có rất nhiều người cầu nguyện thày mỗi ngày và đọc các bài nguyện của thày. Họ cầu nguyện thày như cầu vị thần trong chai. Khi đọc bài nguyện, họ chờ đợi thày sẽ nhảy ra khỏi chai và giải quyết mọi vấn đề của họ thay cho họ. Thượng đế đã cho con quyền tự quyết và thày không có thẩm quyền và thày cũng không có ý muốn phủ quyết quyền tự quyết của con. Thày không thể giải thể cái mà con đã tạo ra vì đấy là việc làm của con, và đấy là cách duy nhất để con học từ những quyết định quá khứ của mình và qua đó khắc phục hình ảnh giới hạn về mình. Làm sao con có thể trở thành một sinh thể tâm linh tự túc bằng cách để cho thày giải quyết mọi vấn đề hộ con? Điều thày có thể làm được là chỉ cho con cách tăng cường uy lực sáng tạo của mình để con có thể – xuyên qua uy lực Thượng đế bên trong con – khắc phục cảm nhận vật lộn. Con có thể thay thế tất cả những vật lộn bằng vòng xoáy đi lên mà con tạo dựng khi con nhân lên các khả năng mà Thượng đế đã ban cho con. Đây là điều thày có thể làm, nhưng nó đòi hỏi con phải bỏ phương pháp cầu nguyện thụ động và thụ động chờ đợi thày làm việc hộ con. Thay vì cầu nguyện xin thày giải quyết các vấn đề hộ cho con, con phải cầu nguyện thày và nói: “Mẹ Mary, hãy chỉ cho con cách tăng cường uy lực sáng tạo của con để uy lực Thượng đế bên trong con có thể loại bỏ giới hạn này.” Điều này thày có thể làm, điều này thày sẽ làm, nếu con chịu mở tâm và trái tim ra đón nhận sự hướng dẫn nội tâm của thày và sự hướng dẫn nội tâm của cái ta Ki-tô của con. Các thày sẵn sàng chỉ cho con làm sao bước được bước kế trên cầu thang xoắn ốc cho tới khi con trở lại đỉnh cầu thang và thấy ánh sáng của Hiện diện TA LÀ của con tỏa rạng xuyên qua bốn thể phàm. Ánh sáng này có thể tuôn chảy qua các thể phàm của con và tạo ra trong cõi vật chất những điều mà tâm nhị nguyên coi là phép lạ. Đây là ước muốn của thày, đây là tâm huyết của thày.

1.6. Ba tầng cao ngăn chặn viễn kiến có ý thức

Làm sao con bắt đầu tiến trình thanh tẩy bốn thể phàm? Con hãy để thày bắt đầu giúp con hiểu tận tường hơn cách bốn thể phàm chuyển hóa ánh sáng thành hình tướng vật lý. Hãy cho rằng con đi tới kết luận muốn biểu hiện nhiều dồi dào hơn trong cuộc sống và con quyết định dùng một phương pháp tích cực. Con đã học một số thuyết chỉ cách dùng uy lực của tâm để thu hút dồi dào. Con đã chọn một tâm thái tích cực, quy định tầm nhìn rõ ràng và vẽ ra bản đồ kho tàng về những gì con muốn. Giờ đây mỗi ngày con làm nghi thức chú tâm vào viễn kiến mà con nhắm tới. Con đọc lời khẳng định hay cầu nguyện để tạo ra làn sóng năng lượng sẽ giúp con biểu hiện điều con hình dung hay giúp con thu hút nó về con. Nhiều người đã dùng cách tương tự để đem lại dồi dào trong cuộc sống của họ, tuy họ có thể dùng vài bước khác với những gì thày vừa mô tả. Thày không nói cách này không có giá trị. Thày chỉ muốn con hiểu điều gì cần xảy ra để cách này hiệu nghiệm. Vũ trụ là một tấm gương cho nên nếu con phóng ra một sóng năng lượng tích cực kết tinh lại chung quanh một viễn kiến đặc thù thì viễn kiến này phải được tấm gương vũ trụ phản chiếu ngược lại cho con như là hoàn cảnh vật lý. Điều này đúng thực, nhưng chúng ta có thể có một cái nhìn sâu sắc hơn về tiến trình đó. Trước khi năng lượng được gửi trả về con như hoàn cảnh vật lý, nó phải đi qua bốn tầng của vũ trụ vật chất kể cả bốn thể phàm của con. Nếu ở bất cứ tầng nào có bất cứ điều gì có thể vô hiệu hóa năng lượng tích cực của con hay chống lại viễn kiến dồi dào của con, uy lực của nỗ lực của con có thể bị giảm thiểu hay hoàn toàn bị ngăn chặn. Nếu con là căn nhà bị phân rẽ, con có những tin tưởng hay năng lượng bị tha hóa nơi tâm bản sắc, tư tưởng, cảm xúc, là tâm tiềm thức của con và chúng sẽ chống lại viễn kiến mà con đã hình thành trong tâm ý thức của con. Trừ khi con gỡ bỏ những chướng ngại này, đơn giản là nỗ lực của con sẽ không thành công. Con có thể tiếp tục phóng năng lượng tích cực từ tầng tâm ý thức nhưng chúng đều bị vô hiệu hóa ở các tầng cao hơn của chính tâm con. Nó sẽ không bao giờ quay ngược trở về cõi vật lý dưới hình dạng hoàn cảnh mà con mong muốn.

Cho tới giờ thày đã cho con một hình ảnh khá đường thẳng về bốn thể phàm của con. Thày đã nói ánh sáng Thượng đế trước tiên chảy xuống thể bản sắc và độ rung của ánh sáng dần dần giảm xuống. Sau đó ánh sáng đi vào thể tư tưởng, rồi vào thể cảm xúc và cuối cùng xuống tới thể vật lý. Thày biết chắc nhiều người đọc bài giảng này sẽ mường tượng một tiến trình đường thẳng với ánh sáng tuôn chảy theo một đường thẳng. Nghĩa là sẽ có một khoảng trống giữa tâm ý thức và tâm bản sắc của con. Nhưng thực ra, cuộc sống không đường thẳng mà giống quả cầu và mọi thứ phụ thuộc nhau. Để cho con một hình ảnh khác, tuy vẫn là hình ảnh đường thẳng, thày đề nghị con mường tượng một mặt đồng hồ. Đường chỉ 12 giờ tượng trưng cho tầng cao nhất của thể bản sắc của con. Ánh sáng trước tiên đi vào bốn thể phàm ở đường chỉ 12 giờ. Nếu con vẽ một đường từ 12 tới 6, con chia mặt đồng hồ thành hai nửa. Nếu con vẽ một đường khác từ 3 tới 9, con chia mặt đồng hồ thành bốn phần. Bây giờ con tưởng tượng mỗi phần tư của mặt đồng hồ tượng trưng cho một trong bốn thể phàm của con. Phần tư đầu tiên giữa 12 tới 3 tượng trưng cho thể bản sắc và ánh sáng bắt đầu chảy vào số 1 và sau đó tới số 3. Sau đó nó đi vào thể tư tưởng, chảy từ 3 tới 6, rồi đi vào thể cảm xúc và chảy tới số 9, nơi đây nó đi vào thể vật lý hay đúng hơn tâm vật lý. Khi ánh sáng chảy từ 10 tới 11 và tiếp tục đi xa hơn, chuyện gì xảy ra? Con đi hết vòng tròn và con trở lại điểm 12, có nghĩa là tâm ý thức của con không tách biệt khỏi thể bản sắc bởi một hố ngăn cách. Bốn thể phàm nối kết nhau và một hình ảnh còn đúng hơn hình ảnh mặt đồng hồ là thể bản sắc là một quả cầu, thể tư tưởng là một quả cầu nhỏ hơn nằm trong quả cầu rộng hơn của thể bản sắc, và tiếp tục như thế tới tâm vật lý. Tâm ý thức là một quả cầu nhỏ hơn nằm bên trong các quả cầu lớn hơn của các tầng khác của tâm. 

Con hãy tưởng tượng con bắt đầu ở mức tâm ý thức và tạo ra viễn kiến dồi dào mà con muốn biểu hiện trong cuộc sống. Sau đó con dùng các lời khẳng định và cầu nguyện để thấm đậm viễn kiến này với năng lượng. Muốn cho năng lượng con phóng ra được tấm gương vũ trụ phản ánh lại thành hoàn cảnh vật lý mà con hình dung, năng lượng này phải chảy xuyên qua bốn tầng của vũ trụ vật chất. Mỗi tầng mà năng lượng chảy qua, viễn kiến của con phải đi qua phin lọc của những niềm tin mà con cầm giữ ở tầng đó của tâm con. Rất có thể viễn kiến bị ngăn chặn hay bóp méo bởi các niềm tin này và sức mạnh của năng lượng bị hạ giảm bởi những năng lượng bất toàn được tích lũy nơi các tầng cao của tâm. Ví dụ, nếu thể bản sắc của con giữ hình ảnh con là người tội đồ khốn khó không xứng đáng được dồi dào của Thượng đế, viễn kiến ý thức của con có thể bị vô hiệu hóa hoàn toàn bởi tin tưởng đó trước khi nó bắt đầu đi xuống thấp hơn để tới biểu hiện vật lý. Các niềm tin ở mỗi tầng của tâm là khung tham chiếu quyết định có nên thực thi xung lực đó, có nên gửi xung lực đó xuống tầng kế tiếp. Khi con gửi viễn kiến từ tâm ý thức, đầu tiên hết nó đi qua thể bản sắc của con. Nếu thể này có niềm tin là viễn kiến của con không thể biểu hiện được, lẽ hiển nhiên nó không thể đi xa hơn nữa.

1.7. Bất toàn ở ba thể cao ngăn chặn hay giảm thiểu xung lực do tâm ý thức phóng ra

Khi con tạo ra viễn kiến dồi dào, viễn kiến này chỉ biểu hiện được nếu nó vượt quá tầng vật lý. Nếu ý niệm bản sắc của con hoàn toàn giới hạn trong tâm vật lý và thể vật lý, con chỉ có thể làm việc với năng lượng trong cõi vật chất. Viễn kiến về điều con muốn thành tựu không thể đi xa hơn tầng năng lượng mà con có thể tác động với thân vật lý và tâm vỏ ngoài của con. Làm sao các nỗ lực hình dung dồi dào của con đạt được bất cứ điều gì vượt quá những điều mà con có thể làm được rồi với thân vật lý của mình?

Khi con mở tâm ra để sử dụng uy lực của viễn kiến, con gửi ra ngoài một xung lực năng lượng vượt quá thân vật lý. Giờ đây con tin rằng đời sống nhiều hơn những gì thấy được nơi cõi vật lý và phải có một phương cách biểu hiện dồi dào cao hơn là dùng thân thể. Con tạo ra một xung lực năng lượng đi từ tâm ý thức của con vào thể bản sắc. Nếu xung lực năng lượng này có thể chảy qua các tâm bản sắc, tư tưởng, cảm xúc và vật lý của con mà không bị ngăn chặn hay pha loãng, viễn kiến mà con muốn đạt được sẽ được biểu hiện ngay tức khắc như một thực tại vật lý của con. Đó là điều con thấy trong cuộc đời Giê-su. Giê-su quả thật đưa ra mệnh lệnh vật lý muốn nước biến thành rượu và điều này hiện thực ngay lập tức, y như Lazarus ngay lập tức thức dậy từ cõi chết khi Giê-su ra lệnh. Khi con cố gắng biểu hiện dồi dào, con tạo ra một xung lực năng lượng chảy vào thể bản sắc của con. Nơi thể bản sắc, một trong hai điều có thể xảy ra. Nếu thể bản sắc của con trong sáng, nếu viễn kiến ý thức của con thẳng hàng với viễn kiến Ki-tô cho cuộc đời con, xung lực năng lượng của con sẽ thấm đậm uy lực không bị pha loãng của Thượng đế hiện hữu trong thể bản sắc của con. Xung lực năng lượng này mạnh hơn nhiều xung lực mà con có thể tạo ra với tâm ý thức của con.

Nếu thể bản sắc của con bị nhiễm bẩn bởi một hình ảnh bất toàn về mình, xung lực năng lượng của con sẽ yếu đi. Xung lực có thể bị hoàn toàn ngăn chặn bởi ý niệm mình là một con người hữu diệt không có uy lực biểu hiện dồi dào. Có thể con có ý niệm mình là người tội đồ khốn khổ không xứng đáng nhận được điều mà tâm ý thức của con mong ước. Hoàn toàn có thể là nỗ lực biểu hiện dồi dào của con, tất cả nỗ lực đầy tâm huyết và thiện ý của con khi dùng lời khẳng định, cầu nguyện và dùng uy lực hình dung đều bị ngăn chặn ở tầng thể bản sắc của con.

Cũng có thể là một phần năng lượng con tạo ra với tâm ý thức sẽ được gửi tới thể tư tưởng của con sau khi đi qua thể bản sắc. Năng lượng này có thể bị pha loãng, có thể được tăng cường nhưng nó đi vào được tầng tư tưởng. Chuyện gì xảy ra nếu con có ý tưởng không toàn hảo trong thể tư tưởng? Những ý tưởng này có thể ngăn chặn hoàn toàn năng lượng hoặc chúng có thể giảm thiểu hay thay đổi viễn kiến. Cũng vậy khi năng lượng xuống được tới thể cảm xúc của con, những cảm xúc bất toàn như sợ hãi, mặc cảm tội lỗi hay hổ thẹn có thể ngăn chặn hay giảm thiểu xung lực năng lượng. Ở tầng tâm vật lý của con, những lớp tiềm thức có thể ngăn chặn hay bóp méo năng lượng. Nếu có phần nào của năng lượng đi qua được tất cả các tầng của tâm con, nó sẽ đi vào cõi vật lý nhưng nó có phải là một xung lực mạnh hơn xung lực con đã gửi ra lúc ban đầu?

Nhiều người đã tới kết luận họ cần và muốn biểu hiện nhiều dồi dào hơn và họ có thể dùng uy lực của tâm để thể hiện điều này. Hầu hết những người này có đôi phần tâm linh cho nên mức nhận biết của họ cao hơn người thường. Giả dụ một người có khả năng dùng tâm ý thức để phóng ra một xung lực năng lượng rung động ở mức 2,000 Hz. Mức này khá cao so với người trung bình hiếm khi đi quá 1,000 Hz. Xung lực năng lượng này giờ đây đi vào bản sắc thể của người đó và vì người đó tâm linh hơn, ta hãy nói rằng xung lực năng lượng được nhân lên gấp đôi như Giê-su đã hứa hẹn trong câu truyện ngụ ngôn về sự nhân lên các đồng ta-lăng (hay khả năng). Giờ đây năng lượng lên tới 4,000 Hz và nó đi vào thể tư tưởng của người đó. Tình trạng tự nhiên là năng lượng từ thể bản sắc đi vào thể tư tưởng ở tần số 75,000 Hz. Như vậy chúng ta vẫn có ở đây một sự khác biệt vĩ đại so với tiềm năng thật sự của người đó. Bây giờ ta hãy cho rằng người đó có một số niềm tin không toàn hảo trong thể tư tưởng khiến xung lực bị hạ giảm. Nó không bị ngăn chặn nhưng sức mạnh bị hạ xuống còn 3,000 Hz và sau đó nó đi vào thể cảm xúc. Nơi đây có một số vết thương cảm xúc hạ giảm năng lượng thêm nữa. Thêm vào đó còn có một số vấn đề chưa được giải quyết trong tâm tiềm thức. Khi xung lực năng lượng trở lại cõi vật lý, nó trở về mức 2,000 Hz. Người này không nhân lên được uy lực sáng tạo của xung lực năng lượng và do đó, người này đang thực sự dậm chân tại chỗ mà chẳng đi tới đâu cả.

1.8. Không có giải pháp nhanh chóng

Thày đã quan sát hàng triệu người thành tâm đã học hỏi một kỹ thuật dồi dào nào đó, đã áp dụng nó bằng cách hình dung, nói lời khẳng định hay cầu nguyện. Họ nghĩ chúng sẽ đem lại dồi dào cho họ như các đạo sư dồi dào hứa hẹn. Trong một thời gian, họ hăng say làm những bài hình dung, nói lời khẳng định, cầu nguyện và họ nuôi hy vọng rất cao là trong phút chốc sự dồi dào mà họ mong muốn sẽ được biểu hiện. Vô số đã thất vọng và tim thày đau nhói khi thấy lòng hăng hái của họ tan biến và họ rốt cuộc cảm thấy nản chí và vỡ mộng. Cuối cùng họ chấp nhận điều mà ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian đã nói với họ ngay từ đầu là, như những con người bình thường khác, họ không có uy lực biểu hiện dồi dào từ không khí.

Nỗi đau nhói trong tim thày đã là một trong những động cơ chính thúc đẩy thày cho ra đời khóa học này. Nếu những người đó chịu quyết tâm nỗ lực thanh lọc bốn thể phàm của họ, thì nỗ lực biểu hiện dồi dào của họ sẽ không bị chính tâm họ ngăn chặn. Họ sẽ gia tăng uy lực sáng tạo của họ và dù rằng họ cần thời gian, cuối cùng họ sẽ bắt đầu thấy kết quả thực sự của tiến trình này.

Nhiều người bắt đầu tiến trình biểu hiện dồi dào vì tuyệt vọng, vì cảm thấy bị dồn vào chân tường và cảm thấy cần làm gì khác hơn để thoát nợ nần hay thoát cơn khủng hoảng này hay cơn khủng hoảng nọ. Thày muốn con nhìn vào yếu tố tâm lý đang vận hành ở đây. Nhiều người đã chấp nhận mức dồi dào hiện nay của họ là tất cả những gì họ xứng đáng hoặc họ có khả năng có. Họ đã tới mức cam phận chịu tình trạng dồi dào hiện nay của họ, hay đúng hơn là tình trạng thiếu thốn. Họ chấp nhận địa vị của họ trong cuộc sống và nghĩ họ không thể có gì khá hơn. Những người này sẽ không làm gì hết để biểu hiện dồi dào và hiển nhiên họ không có hy vọng tăng cường uy lực sáng tạo của họ. Sau đó cũng có một nhóm người khác tới điểm quyết định họ phải làm gì khác. Khi tới quyết định trong tâm thái tuyệt vọng, khi phải đối mặt một khủng hoảng, họ muốn có kết quả nhanh chóng và tức khắc. Nếu không toại nguyện ngay tức khắc thì họ thường nản chí.

Những người tuyệt vọng thường dễ tin lời hứa hẹn của những đạo sư dồi dào đã tìm ra cách bán hàng bằng cách thao túng thể cảm xúc con người. Một số các vị đó nhận thấy là khi con người tuyệt vọng, họ muốn chộp cơ hội thoát ra nhanh chóng. Đạo sư nào đưa ra hứa hẹn tỉ mỉ nhất sẽ thu hút những người tuyệt vọng nhất. Kỹ thuật của các đạo sư dồi dào này không hữu hiệu nên học viên càng tuyệt vọng thêm, nhưng ít nhất về phía đạo sư, ông đã được học viên chọn và ông cũng đã hưởng thù lao của mình và bòn rút xương máu của học viên. Ông cũng đã chứng minh hệ thống của ông hiệu quả – cho ông.

Trong khóa học này, thày không có ý định cống hiến cho con một giải pháp đi tắt. Thày không cống hiến một giải pháp đi tắt vì không có giải pháp đi tắt. Nếu con muốn biểu hiện dồi dào thật sự trong cuộc sống, thì con chỉ có một cách. Đó là cách con thanh tẩy một cách có hệ thống bốn thể phàm của con, vứt đi những niềm tin không toàn hảo và những năng lượng không thanh khiết đang ngăn chặn dòng chảy của dồi dào Thượng đế vào cuộc đời con. Nếu con sẵn sàng đi vào tiến trình này, thày thểsẽ giúp con. Thày sẽ cho con những dụng cụ cần thiết để thanh lọc bốn thể phàm như thày đã làm với các bài thỉnh đã công bố trước đây.

Con sẽ cần thời gian để thanh tẩy bốn thể phàm và lý do là những điểm nghẽn ánh sáng trong đó không được tạo ra một sớm một chiều. Một số được tạo ra trong tuổi thơ ấu và được củng cố suốt đời. Một số khác được tạo ra từ các kiếp trước, có thể là nhiều kiếp trước và do đó chúng đã được củng cố qua nhiều thế kỷ và thiên niên kỷ trong hành trình của con trên trái đất. Một số điểm tắc nghẽn được tạo ra ngay lúc con bắt đầu đi xuống tâm thức nhị nguyên và một số điểm tắc nghẽn đã ở với con từ lúc ngã hữu diệt được tạo ra.

Không dụng cụ nào có thể thiêu rụi các điểm tắc nghẽn đó trong giây lát. Ngay cả nếu một dụng cụ như vậy hiện hữu, thì đốt tan các niềm tin bất toàn trong giây lát sẽ khiến ý niệm bản sắc của con vỡ tan và con rơi vào khủng hoảng bản sắc, không còn biết mình là ai nữa. Điều này quả thực đã xảy ra cho những người đã tìm cách ép uổng tăng trưởng tâm linh bằng những biện pháp bất quân bình. Những dụng cụ thày cho con rất quân bình và do đó rất an toàn. Thày cho con những kỹ thuật mạnh đến độ con có thể tiêu trừ những điểm tắc nghẽn đã có mặt trong bốn thể phàm từ cả ngàn năm và con có thể làm điều này trong vòng vài tháng hay vài năm.

Trên trái đất này không có kỹ thuật nào mạnh đến độ có thể biến con thành một người toàn hảo ngay tức khắc. Đó là lý do vì sao thày đề ra một con đường tâm linh. Đó là lý do vì sao thày nói cứ mỗi bước con đi xuống cầu thang xoắn ốc và đi sâu hơn vào tâm thức nhị nguyên, thì con phải bước một bước ngược trở lên và dần dần leo lên cao. Không có con đường tắt bởi vì những năng lượng đã bị niềm tin bất toàn tha hóa phải được hoàn nguyên về trạng thái thuần khiết ban đầu trước khi con thoát khỏi chúng, trước khi chúng không còn ngăn chặn sự biểu hiện dồi dào của Thượng đế trong cuộc sống của con nữa. Điều này hoàn toàn khoa học, thậm chí nó là một tiến trình phần nào máy móc mà ai ai cũng hoàn tất được với những dụng cụ thích hợp. Tiến trình thanh lọc cần thời gian và do đó nó không thể đem lại kết quả ngay tức khắc cho hầu hết con người. Nó đòi hỏi con phải quyết tâm và với hầu hết nó đòi hỏi sự cam kết tu tập trọn đời. Thày không nói con cần hết quãng đời còn lại mới thấy kết quả. Thày muốn nói là tiến trình leo lên cầu thang xoắn ốc phải được tiếp cận như một công việc hứng thú trọn đời. Suốt quãng đời còn lại của con trên trái đất, con sẽ tiếp tục leo từng bước một trên cầu thang này. 

1.9. Kiên định theo tiến trình lâu dài, có ý thức và cố ý

Có thể là con đã bắt đầu tiến trình này từ các kiếp trước và con đã gần tới đỉnh cầu thang hơn con tưởng. Cũng có thể là trước khi con rời trái đất, con sẽ có thể biểu hiện một mức tâm thức Ki-tô cao, ngay cả mức tâm thức Ki-tô trọn vẹn như Giê-su đã chứng minh. Khi đó con có thể đi trên mặt đất trong tự do tâm linh thật sự, nghĩa là con không còn các điểm nghẽn nữa trong bốn thể phàm. Trong trạng thái tâm của con hiện nay, con không thể biết còn bao xa con tới đỉnh cầu thang xoắn ốc và đó là lý do tại sao thày muốn con chú ý tới một trong những lời nói quan trọng nhất của Giê-su: “Nhờ kiên nhẫn mà con giữ được linh hồn” (Luke 21:19).

Thày đã thấy rất nhiều người bắt đầu con đường tâm linh, bắt đầu dùng một kỹ thuật tâm linh với lòng đầy hăng say và hy vọng. Khi họ không được toại nguyện ngay tức khắc thì họ nản chí. Thậm chí, một số còn thất vọng, giận dữ hay chua chát. Thái độ này tất nhiên không giúp họ gia tốc tăng triển tâm linh mà còn đưa họ xuống thấp hơn trên cầu thang xoắn ốc, đưa họ sâu hơn vào nhị nguyên và tuyệt vọng. Thày không muốn bất cứ ai học khóa học này đâm đầu vào bức tường thất vọng vì thất vọng là một trong những cạm bẫy mạnh mẽ nhất do hoàng tử thế gian và ngã hữu diệt giăng ra. Đầu tiên hết chúng tìm cách ngăn cản con tìm ra đường tu tâm linh hay chấp nhận đường tu. Nếu chúng không thể ngăn con bắt đầu tiến bước trên cầu thang xoắn ốc, thì mỗi bước con đi lên, chúng sẽ tìm cách khiến con cảm thấy con không đi nhanh đủ, con không đạt được những kết quả mà con được hứa hẹn, những mong chờ không thiết thực mà chúng đã lập trình vào tâm con. Chúng sẽ cố khiến con rơi vào thất vọng, tuyệt vọng, nghi ngờ hay nóng giận để con ngừng tiến bộ và té xuống cầu thang trở về mức mà chúng cảm thấy có thể kiểm soát được con. Đấy là kế hoạch của chúng, đấy là thiết kế của chúng. Chỉ có một cách duy nhất để không rơi vào bẫy này là con tập trung tâm mình kiên cố vào hình ảnh con đang theo một tiến trình lâu dài một cách có ý thức và cố ý. Nó lâu dài vì con hiểu con cần làm công việc khó khăn là thanh tẩy bốn thể phàm khỏi những rác rưởi mà con đã tích tụ từ nhiều ngàn năm. Con nhận ra việc này cần thời gian và nỗ lực từ phía con. Con cũng nhận ra nếu con ra sức làm việc thì kết quả chắc chắn sẽ hiện ra. Đây không phải là chuyện mơ tưởng hão huyền, kỳ vọng hay mộng tưởng. Đây là một tiến trình rất khoa học. Tiếc thay, hầu hết không hiểu được nhu cầu đem xung lực đi qua cả bốn tầng của cõi vật chất và do đó nhiều người chân thành đã bỏ cuộc trước khi xung lực của họ sẵn sàng xuống tới cõi vật lý.

Con hãy tưởng tượng con bất thần tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài và nhận ra mình đang ở trong một tòa nhà tăm tối. Có rất ít ánh sáng vào tòa nhà nhưng con nhận thấy có một cửa sổ trên mái nhà. Khi con nhìn kỹ hơn, con nhận ra cửa sổ trên mái đầy bụi nên hầu như không có ánh sáng nào lọt qua được. Không có gì huyền bí về sự kiện này. Tấm kính trên cửa sổ mái nhà hoàn toàn có khả năng cho phép ánh sáng đi qua; đơn giản là ánh sáng bị ngăn chặn bởi những vết bẩn trên mặt kính. Nếu con bắt đầu ở một góc kính và chùi sạch bụi bẩn một cách có hệ thống, thì con có thể chùi sạch toàn bộ cửa sổ và tất nhiên ánh sáng sẽ chiếu xuyên qua và làm căn phòng sáng hơn. Nếu con chùi sạch một cách có hệ thống những mảnh kính tượng trưng cho bốn tầng của tâm con, ánh sáng của Thượng đế tất nhiên sẽ chiếu rạng qua tâm con. Ánh sáng này sẽ biểu hiện dồi dào của Thượng đế trong trải nghiệm vật lý của con và nó sẽ cho con một trải nghiệm về cuộc sống mở rộng bao la, kể cả cho con nhận biết bản chất tâm linh của mình và mục tiêu thật của con khi tới trái đất.

1.10. Quyết định dựa trên sự thật Ki-tô

Con cần làm gì để thanh tẩy bốn thể phàm của mình? Những bước thực tế con cần làm để hoàn thành công việc này là gì? Trước đây thày có gợi ý những điểm nào làm nghẽn ánh sáng không chảy được vào tâm con. Thày đã nói mọi thứ đều xoay quanh quyền tự quyết và những chọn lựa của con. Mỗi chọn lựa mà con lấy dựa trên mức nhận biết hiện thời của con, mức hiểu biết và kiến thức của con và các mức này được quy định bởi những niềm tin con cầm giữ trong bốn tầng của tâm mình. Ở tầng của thể bản sắc, mỗi niềm tin được quy định bởi cách con nhìn chính mình, nhìn thế giới và nhìn tiềm năng biểu hiện những điều con mong muốn. Ở tầng của thể bản sắc, chúng ta tìm thấy một số niềm tin mà con đã chấp nhận và cho phép chúng đi vào quả cầu cái ta của con. Nếu con có một niềm tin trong thể bản sắc bị giới hạn so với viễn kiến thuần khiết của Ki-tô về tiềm năng của con, thì niềm tin này sẽ có nhiều hậu quả như:

  • Niềm tin đó sẽ giới hạn khả năng đem ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của con xuống thể bản sắc. Ví dụ, nếu con tin mình là một con người hữu diệt, làm sao con chấp nhận được một dòng ánh sáng vô hạn chảy từ cái ta tâm linh của con? Tất nhiên con sẽ giảm thiểu lượng ánh sáng chảy vào thể bản sắc của con.
  • Niềm tin đó sẽ tạo một phin lọc. Khi ánh sáng Thượng đế đi qua phin lọc này, nó bị hạ độ rung nhiều hơn mức hạ giảm tự nhiên đáng lẽ phải xảy ra nơi thể bản sắc. Nhiều người có một ý niệm bản sắc giảm ánh sáng từ 100,000 Hz xuống dưới 2,000 Hz. Điều này sẽ giảm lượng ánh sáng và cường độ ánh sáng chảy vào thể tư tưởng, cho nên nó giảm uy lực tư tưởng của con. Độ mạnh của ánh sáng khi nó đi vào thể tư tưởng quy định tiềm năng của uy lực của tư tưởng của con. Tư tưởng của con không thể mạnh hơn sức mạnh của ánh sáng đi vào thể tư tưởng của con.
  • Niềm tin đó sẽ tha hóa một số lượng ánh sáng sẽ tích đọng trong thể bản sắc của con. Khi nó tích đọng, nó sẽ tạo một rào cản làm nghẽn thể bản sắc thể. Cuối cùng tầng này của tâm con có thể đầy những rác rưởi đến độ không còn chỗ cho một ý niệm bản sắc cao hơn và không có chỗ cho ánh sáng đi qua từ bên Trên và không có khe mở qua đó tâm ý thức của con có thể nhìn quá cõi vật chất và có được trải nghiệm tâm linh.

Giờ đây con thấy được hậu quả của những niềm tin bất toàn trên thể bản sắc của con. Một người có thể có một số tin tưởng bất toàn trong thể tư tưởng, chúng cũng sẽ đưa tới những hậu quả tương tự. Lẽ dĩ nhiên, mảnh kính giữa thể tư tưởng và thể cảm xúc cũng có thể bị tắc nghẽn và thể cảm xúc cũng có thể bị nghẽn như vậy. Tới khi ánh sáng đến được tâm ý thức của con là tầng tâm thức nơi con điều khiển ánh sáng đi vào hành động có ý thức, thì có rất ít ánh sáng đi qua được. Hậu quả có hai khía cạnh. Một khía cạnh là nó giảm uy lực sáng tạo mà con có được ở tầng não bộ và thân vật lý. Nó cũng giảm viễn kiến của con, khả năng nhìn quá cõi vật chất của con. Điều này xảy ra vì bình thường con tìm cách có một viễn kiến cao hơn bằng cách nhìn xuyên qua bốn thể phàm cho nên khi các mảnh kính bị ô uế, con không thể nhìn xuyên qua chúng với tâm ý thức của con.

Để thanh tẩy bốn thể phàm của con, con phải làm hai điều. Con phải khám phá một cách ý thức những niềm tin bất toàn mà con đã chấp nhận ở mỗi tầng tâm của con. Sau đó con sẽ phải thay thế một cách ý thức những niềm tin bất toàn này, những niềm tin nhị nguyên này bằng cách lấy những quyết định dựa trên sự thật của Ki-tô. Khi con thay thế một niềm tin bất toàn, con gỡ bỏ một phin lọc đã khiến ánh sáng của Thượng đế bị giảm cường độ và tạo nên những rác rưởi khiến cho ánh sáng không tuôn chảy tự do được. Giờ đây con đã vứt đi những đống tro, những rác rưởi đã tích đọng trong bốn thể phàm của con. Việc thứ hai con cần hoàn tất là gỡ bỏ năng lượng bị tha hóa trong bốn thể phàm của con. Lẽ tất nhiên hầu hết không ý thức về tiến trình này vì cả các tôn giáo chính thống lẫn khoa học duy vật đều không thể giải thích cho họ nhu cầu và cách làm. Thày hy vọng là những điều thày đã trao cho con cho tới đây đã giải thích tại sao con cần thanh tẩy năng lượng bị tha hóa đã tích đọng trong bốn thể phàm của con. Thày hy vọng con cũng thấy được cách làm. Nó quả thực khá đơn giản và các nhà khoa học của con đã khám phá tiến trình này rồi trong phòng thí nghiệm của họ.

Năng lượng tích đọng trong bốn thể phàm mang hình dạng sóng năng lượng rung động ở những tần số rất thấp. Cách duy nhất để gỡ bỏ năng lượng như thế là nâng tần số của nó lên, để độ rung của nó trở về trạng thái thanh khiết nguyên thủy. Điều này làm được rất giản dị vì tâm con sẵn có khả năng cho phép ánh sáng có tần số cao từ cõi tâm linh chảy xuyên qua nó. Việc của con là tìm ra một phương pháp có hệ thống để cầu thỉnh ánh sáng có tần số cao từ cõi tâm linh, kéo ánh sáng này xuống bốn thể phàm và hướng ánh sáng này vào các năng lượng bị tha hóa đã tích lũy nơi đó. Nếu con chịu đi qua tiến trình này, con có thể và sẽ thanh tẩy bốn thể phàm của con.

1.11. Con người xứng đáng nhận được giáo lý tiết lộ tuần tự

Thày hy vọng con đã dùng các bài thỉnh của thày trong lúc con theo khóa học này. Bây giờ thày muốn cho con một hiểu biết sâu hơn để con nhận biết đầy đủ con cần làm gì để thanh tẩy bốn thể phàm. Thày cũng muốn con biết con cần làm gì để khắc phục một chướng ngại lớn khác cho sự biểu hiện dồi dào của Thượng đế trong cuộc sống của con. Chướng ngại này là những nguyên nhân con đã khởi động trong quá khứ, những nguyên nhân này chắc chắn sẽ luân lưu qua bốn tầng của vũ trụ vật chất và do đó sẽ được tấm gương vũ trụ phản chiếu trở lại con.

Thày biết khóa học này rất dài và thày cũng biết nó dẫn con đi xa hơn nhiều những gì con được dạy ở vườn trẻ hay trong các lớp dạy giáo lý Cơ đốc cho trẻ con. Thày tin rằng con đã chịu đựng học thày tới điểm này cho nên con sẽ muốn đi trọn đường và đạt được hiểu biết đầy đủ về cách vận hành của vũ trụ vật chất và con biết cách dùng hiểu biết đó để gỡ bỏ không những điểm nghẽn trong chính tâm con mà con cũng gỡ bỏ các điểm nghẽn đến từ những hành động quá khứ của con, những nguyên nhân con đã khởi động trong các kiếp trước và đã biểu hiện thành những hoàn cảnh vật lý mà con trải nghiệm trong kiếp sống này.

Con hãy theo thày khi thày giảng cho con những điều mà lẽ ra con phải được dạy tại vườn trẻ và trường dạy giáo lý cho trẻ em nhưng cả các giáo hội chính thống lẫn khoa học duy vật đều không muốn dạy con. Họ không dạy con những điều này vì họ đã bị thấm đẫm lý luận nhị nguyên của tâm phản Ki-tô nên họ không thể trao cho con giáo lý chân thực của Ki-tô mà Giê-su muốn con nhận được và vẫn còn muốn con nhận được trong thời đại này. Đó là lý do tại sao cả Giê-su lẫn thày và nhiều thày tâm linh khác đang phục vụ nhân loại nhận ra là các thày cần lên tiếng nói với con người trong thời đại này và tiết lộ tuần tự giáo lý vì con người đã nâng tâm thức lên một mức nhận biết cao hơn và xứng đáng nhận được tiết lộ tuần tự này. Ngày nay con người có thể hỏi những câu hỏi cụ thể hơn so với quá khứ. Nếu con hỏi, con sẽ được trả lời. Bởi vì có rất nhiều người đã chân thành đặt câu hỏi về những bí ẩn sâu xa của cuộc sống, đặt câu hỏi tại sao hoàn cảnh họ đang như vậy cho nên thày đã tới đây để trả lời. Con sẽ khám phá rằng ở một tầng nào đó của bản thể mình, con cũng đã đặt cùng những câu hỏi đó.

15 | Bốn tầng của vũ trụ

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 19/4/2005.

Mọi thứ đều được tạo thành từ Ánh sáng Mẫu-Vật. Đấng Sáng tạo của con tạo ra Ánh sáng Mẫu-Vật và ánh sáng này đã được dùng để tạo ra những bầu cõi trong bầu cõi, những thế giới trong thế giới, trải dài từ cấp độ cao nhất của tạo vật Thượng đế xuống tận vũ trụ vật chất. Khi mỗi bầu cõi tiếp theo được sinh tạo, Ánh sáng Mẫu-Vật lại được giảm độ rung xuống một phổ tần số khác. Trong mỗi bầu cõi như vậy, có nhiều tần số, nhiều tầng lớp khác nhau.

15.1. Bốn cõi rung động của vũ trụ vật chất

Vũ trụ vật chất được tạo thành từ ánh sáng tâm linh đã được hạ thấp độ rung xuống một phổ tần số nhất định. Trong phổ tần số này có bốn cấp độ tần số khác nhau, hay rung động khác nhau. Màu sắc của cầu vồng được tạo nên từ ánh sáng có màu sắc khác nhau. Các tia sáng có màu khác nhau là vì chúng rung động ở những tần số khác nhau. Có bốn cấp độ tần số cấu tạo vũ trụ vật chất. Khi ánh sáng tâm linh được hạ thấp rung động, trước tiên nó đi vào quang phổ cao nhất của cõi vật chất nơi nó khoác vào một hình tướng nào đó. Khi nó tiếp tục chảy xuống mỗi cấp độ kế tiếp, ánh sáng khoác vào – hay biểu hiện – hình tướng dày đặc hơn, cho tới khi cuối cùng nó khoác vào hình tướng dày đặc nhất, là loại hình tướng có thể được giác quan vật lý của con phát hiện.

Bốn tầng của vũ trụ vật chất tương ứng với bốn cõi, hay bốn thể, cùng nhau tạo thành toàn bộ vũ trụ. Vũ trụ vật lý khả dĩ được phát hiện bởi giác quan của con và các loại dụng cụ khoa học làm bằng vật chất, chỉ là phần nổi của một tảng băng ngầm. Đó là cõi thấp nhất trong bốn cõi về mặt rung động, có nghĩa là những gì biểu hiện trong cõi vật lý chỉ là sản phẩm của những nguyên nhân được khởi động ở các cõi cao hơn. Như Shakespeare đã nói, giữa trời và đất còn nhiều thứ nữa, và cái nhiều hơn này chính là ba tầng còn lại của vũ trụ vật chất.

Sự thật này đã được con người biết đến từ hàng ngàn năm qua. Nó đã được người Ai Cập và Hy Lạp cổ đại biết đến, nó đã được Giê-su biết đến, và Giê-su đã giảng dạy sự thật này cho các tông đồ của thày khi thày trao cho họ những lời dạy cao hơn những gì thày có thể truyền đạt cho công chúng (Mark 4:34). Về sau, nó cũng được các nhà giả kim thời trung cổ và các nhà thần bí Cơ đốc giáo biết đến, là những người tu tập theo phiên bản riêng – một phiên bản tâm linh của đạo Cơ đốc – bên dưới sự dò xét của giáo hội chính thức. Thật đáng tiếc là khoa học hiện đại đã chế giễu chính nguồn gốc của mình, cụ thể là các nhà giả kim khi những vị này đưa ra khái niệm về bốn nguyên tố – mà họ gọi là lửa, khí, nước và đất – cùng với nguyên tố thứ năm, gọi là ê-the, tượng trưng cho cõi tâm linh. Thật ra khoa học đã có nhiều khám phá xác nhận sự hiện hữu của bốn tầng này của vũ trụ vật chất, nhưng cho đến giờ vẫn chưa có ai nối liền được những cái chấm đó để nhìn ra những điểm tương đồng giữa khoa vật lý, đặc biệt là vật lý lượng tử, với lời dạy của người xưa.

Một lần nữa, thày sẽ lại cho con một hình ảnh đường thẳng về một thực tại không hẳn là đường thẳng như tâm vỏ ngoài của con ưa thích. Thày xin con nhớ là còn nhiều điều nữa để hiểu, và những gì thày cho con ở đây chỉ là một hình ảnh đã được đơn giản hóa đôi chút. Sự kiện vũ trụ vật chất gồm bốn tầng cõi có thể được nhìn dưới nhãn quan toàn vũ lẫn cá nhân. Có bốn tầng trong vũ trụ nói chung, và cũng có bốn tầng trong chính bản thể con – theo nghĩa phần thấp của quả cầu cái ta của con. Thành phần của bản thể con được thiết kế để biểu đạt khả năng sáng tạo của con trong vũ trụ vật chất có bốn thể, và thể vật lý hay cơ thể chỉ là phần nổi của nguyên tảng băng. Để dùng một hình ảnh thị giác, con thử hình dung là cơ thể vật lý của con được bao quanh bởi một trường năng lượng vô hình, từa tựa như một thỏi nam châm được bao quanh bởi từ trường của nó. Trường năng lượng này có ba tầng riêng biệt, tương ứng với ba tầng của bản thể con nằm bên trên cơ thể vật lý về mặt rung động. Sự có mặt của một trường năng lượng như vậy xung quanh cơ thể đã được người ta biết đến từ hàng ngàn năm qua. Đó là nền tảng cho khoa học châm cứu cổ xưa, và ngày nay có những máy ảnh kỹ thuật số có khả năng khiến cho trường năng lượng hiện ra trên màn hình máy tính. Trong tương lai, ngành y khoa sẽ học cách sử dụng công nghệ này để chẩn đoán và ngăn ngừa bệnh tật trước khi bệnh lộ diện trên cơ thể vật lý.

Cơ thể vật lý của con không tạo ra trường năng lượng này, mà đúng hơn phải nói là trường năng lượng tạo ra cơ thể vật lý. Cơ thể chỉ đơn giản là phần nổi của tảng băng tức toàn bộ trường năng lượng của con. Trong phần thấp của bản thể con, đó là thành phần rung động trong phổ tần số có thể được phát hiện bởi giác quan vật lý và hầu hết dụng cụ khoa học. Cơ thể vật lý là sự trải bày – sự biểu diễn trong phổ tần số cấu tạo vật chất vật lý – của những hình ảnh được cầm giữ trong ba thể cao hơn.

15.2. Thể bản sắc

Hãy thử hình dung chúng ta đang ở phần thấp của cõi tâm linh, và chúng ta sắp sửa vượt qua một lằn ranh vô hình để du hành vào vũ trụ vật chất. Khi vượt qua lằn ranh đó, chúng ta bước vào tầng cao nhất của cõi vật chất. Đây là điều người xưa gọi là nguyên tố lửa. Một số giáo lý tâm linh gọi là tầng ê-the, hay cõi ê-the, và một số thì gọi là thể ký ức. Thày sẽ gọi đó là tầng bản sắc hay thể bản sắc. Ở tầng này của vũ trụ vật chất, năng lượng vẫn có độ rung khá cao, có nghĩa là năng lượng rất lỏng và linh hoạt, không đến nỗi dày đặc như những gì con có thể nhận thức bằng giác quan vật lý. Năng lượng càng lỏng thì con càng dễ thay đổi các hình ảnh và hình tư tưởng được tìm thấy ở tầng này. Rung động càng cao thì càng dễ thay đổi các hình tướng mà Ánh sáng Mẫu-Vật đã khoác vào.

Thể bản sắc là nơi ý niệm bản sắc cá nhân của con được lưu giữ. Đó cũng là nơi ý niệm bản sắc tập thể do nhân loại tạo ra được lưu giữ. Đó là nơi bản mẫu thấp của hành tinh trái đất và tất cả mọi điều kiện tìm thấy trên trái đất được lưu giữ. Ở mức cá nhân, con có một thể bản sắc, là trụ sở của ý niệm bản sắc của con, ý niệm con là ai. Nơi đó cũng lưu trữ thế giới quan cơ bản của con, mà một số người gọi là cái nhìn tổng quan của con (paradigm), tức là những niềm tin nền tảng mà con rất hiếm khi chất vấn.

Thể bản sắc này hình thành tầng cao nhất của phần thấp trong quả cầu cái ta của con, hay phần dưới của hình số 8. Cả bốn thể phàm của con hình thành một cỗ xe được tạo ra để cho phép con tự biểu đạt trong vũ trụ vật chất, và thể bản sắc là tầng cao nhất của cỗ xe này. Mọi khía cạnh của thể bản sắc được thiết kế để tạo thuận lợi cho con biểu đạt khả năng sáng tạo và bản sắc thiêng liêng của mình trong vũ trụ vật chất. Thể bản sắc được thiết kế để làm chiếc cầu nối, hay cửa ngõ, giữa cõi tâm linh và cõi vật chất. Chỉ xuyên qua thể bản sắc thì con mới có thể duy trì nối kết với phần cao của bản thể mình, tức Hiện diện TA LÀ cư ngụ thường trực nơi cõi tâm linh và không thể đi xuống những năng lượng dày đặc hơn của vũ trụ vật chất.

Mặc dù thày gọi đó là thể bản sắc, nhưng bản sắc của con là nhiều hơn các hình ảnh được lưu trữ nơi thể bản sắc. Con là nhiều hơn hẳn những hình ảnh đó về chính con. Cái Ta Biết không bị giam trong thể bản sắc của con và quả thực nó có khả năng với lên cao hơn để tự đồng hóa với Hiện diện TA LÀ. Cái Ta Biết chỉ cần đến thể bản sắc để tự biểu đạt trong thế giới vật chất. Các hình ảnh về chính con được lưu trữ trong thể bản sắc thật sự là những hình ảnh liên quan đến cách thức cái Ta Biết có thể tự biểu đạt trong cõi vật chất. Ý niệm bản sắc mà con có trong thể bản sắc là một ý niệm dính liền với vũ trụ vật chất.

Nếu con có một ý niệm bản sắc hoàn toàn trong sạch, các hình ảnh trong thể bản sắc sẽ phản ánh bản sắc thiêng liêng được neo trụ trong Hiện diện TA LÀ của con. Khi đó, con sẽ thấy mình là một sinh thể tâm linh bất diệt đang tự biểu đạt trong cõi vật chất xuyên qua một cỗ xe thấp hơn tạm thời. Con sẽ thấy mình là một sinh thể vô biên, đang tự biểu đạt xuyên qua một bản sắc đã cá thể hóa và có giới hạn, chú mục vào một cơ thể vật lý – và tập trung quanh một cơ thể vật lý – trên một hành tinh đặc thù có tên là địa cầu. Con sẽ luôn luôn biết mình là nhiều hơn bản sắc này, và điểm này rất quan trọng để tránh bị mắc kẹt trong ý niệm bản sắc thấp dính liền với vũ trụ vật chất, với hành tinh địa cầu và với cơ thể vật lý. Nếu thể bản sắc của con tinh khiết, con sẽ luôn luôn biết mình là nhiều hơn bốn thể phàm của mình. Nhưng nếu thể bản sắc bị ô nhiễm bởi các hình ảnh nhị nguyên, thì một phần của cái ta hữu diệt sẽ chiếm giữ tầng này trong bản thể con và bắt đầu chi phối cách con tự nhìn mình như thế nào. Bởi vì thể bản sắc là tầng cao nhất trong con người phàm, cho nên ý niệm bản sắc của con sẽ tác động lên mọi chuyện xảy ra ở các tầng thấp hơn.

Nhà hiền triết Hy Lạp Plato có nói đến một cõi của những hình dạng lý tưởng. Đây là những dạng kỷ hà thuần túy làm gạch xây cất cơ bản cho toàn bộ vũ trụ. Cõi Plato nói đến chính là cõi ê-the, hay bản sắc, trong dạng thuần khiết nhất. Ở tầng cao trên cùng của cõi bản sắc, quả thực con tìm thấy các hình dạng kỷ hà thuần túy đã được thiết kế ở một cõi cao hơn, là tâm Ki-tô hoàn vũ. Những hình dạng kỷ hà này được thiết kế để làm những viên gạch xây cất sẽ cống hiến cho những người đồng-sáng tạo với Thượng đế một khuôn khổ an toàn để họ có thể thử nghiệm quyền tự quyết của họ trong cõi vật chất. Khi con đồng-sáng tạo qua việc sử dụng các dạng kỷ hà thuần túy, tạo vật của con sẽ luôn luôn thuận hợp với quy luật Thượng đế. Con sẽ nhân lên, thay vì giới hạn, quyền năng sáng tạo của mình. Con có thể dùng các hình dạng thuần túy này để tạo ra một biểu hiện cá nhân hoàn toàn hài hòa với cái Tất Cả, hầu nỗ lực sáng tạo của con chỉ nâng cao mọi sự sống trên hành tinh và như vậy cũng giúp đem lại vương quốc của Thượng đế đến trái đất. Chỉ khi nào con người không còn nhìn thấy những dạng kỷ hà thuần túy này nữa, và thay vào đó nhìn thấy các hình dạng bất toàn do tâm nhị nguyên chế tạo, thì họ mới bắt đầu gây ra đau khổ và biến cuộc sống thành một cuộc vật lộn.

Trong một bài trước, thày đã có cho con hình ảnh một máy chiếu phim, có ánh sáng chiếu ra từ bóng đèn xuyên qua cuộn phim, và hình trên cuộn phim được chiếu lên màn ảnh. Thể bản sắc của con cấu tạo một cuộn phim, và bất kỳ hình ảnh nào con đã cho phép đi vào thể bản sắc của mình sẽ hình thành tầng biểu hiện đầu tiên của con trong thế giới vật chất. Đó không phải là tầng duy nhất nhưng đó là tầng đầu tiên, và nó sẽ làm cơ sở cho tất cả mọi thứ đến sau đó.

15.3. Thể lý trí, thể tình cảm, thể vật lý

Cái gì đến sau thể bản sắc? Một lần nữa, hãy tưởng tượng chúng ta đang du hành từ tầng thấp nhất của cõi tâm linh vào vũ trụ vật chất. Chúng ta vượt qua lằn ranh và đi vào cõi bản sắc, và một khi đi xuyên qua cõi này thì chúng ta lại gặp một lằn ranh khác. Khi chúng ta lại vượt qua thì chúng ta bước vào tầng kế tiếp, được người xưa gọi là nguyên tố khí. Đây cũng là tầng của tư tưởng, cho nên thày sẽ gọi là thể lý trí, trí thể, hay cõi trí.

Ở tầng này, con tạo ra những thiết kế cụ thể mà con muốn đem vào thị hiện. Thể bản sắc lập ra các nguyên tắc chung, cái khung sườn vòng ngoài cho những gì con có thể đem vào thị hiện – gần giống như nền móng của một căn nhà – xong ở tầng lý trí, con lấy các ý tưởng và hình tư tưởng nền tảng từ thể bản sắc và con khiến chúng trở nên cụ thể hơn bằng cách điền vào những chi tiết tỉ mỉ nhất. Con hình thành những hình ảnh trí năng cụ thể, con hình thành một đồ án chi tiết hơn kế hoạch tổng quát đã có trong thể bản sắc. Các năng lượng trong thể lý trí có độ rung thấp hơn và cũng dày đặc hơn năng lượng trong thể bản sắc. Chúng ít linh hoạt hơn, khó thay đổi hơn các hình tư tưởng trong thể bản sắc. Chúng đã khoác vào một cấu trúc rõ rệt hơn, một hình dạng lộ hiện hơn, cho nên con sẽ cần nhiều nỗ lực hơn để thay đổi tư tưởng của con so với ý niệm bản sắc của con.

Bây giờ chúng ta rời cõi trí vào cõi kế tiếp, và chúng ta bước vào cái người xưa gọi là nguyên tố nước, tương ứng với cảm xúc con người. Thày muốn gọi đây là cõi cảm xúc, hay thể cảm xúc, thể tình cảm, cảm thể. Thể cảm xúc của con là nơi con lấy các đồ án được hình thành trong thể lý trí và con phú cho chúng năng lượng sẽ làm chúng cử động. Điều này đem lại cho các kế hoạch trí năng của con sự chuyển động và phương hướng mà chúng cần để đột phá xuống tầng thấp nhất và khoác vào một biểu hiện vật lý. Tư tưởng của con tự thân nó không thể chuyển thành hành động vật lý vì nó chưa được khởi động, cũng từa tựa như cuộn phim trong máy chiếu nếu không di chuyển trong máy sẽ khiến cho hình ảnh trên màn hình đứng yên một chỗ.

Một số người rất giỏi nghĩ ra nhiều ý mới, nhưng họ có xu hướng ngồi một chỗ nghĩ ngợi không ngừng, nẩy lên hết ý này tới ý khác mà không bao giờ đem bất kỳ ý nào vào hành động. Đó là vì những người như vậy tập trung vào cõi lý trí và chưa phát triển khả năng đưa ý tưởng của mình vào cõi cảm xúc. Họ không thể góp năng lượng và lực đẩy cần thiết để đem những ý đó xuống tầng thứ tư là tầng của thị hiện vật lý. Và tầng này được người xưa gọi là nguyên tố đất, mà thày sẽ gọi là cõi vật lý. Cõi này là nơi chúng ta tìm thấy năng lượng đã thị hiện, hoặc dưới dạng vật chất vật lý, hoặc dưới dạng năng lượng vật lý là loại năng lượng con có thể phát hiện bằng giác quan hay sử dụng để sản xuất công việc vật lý. Một ví dụ điển hình của năng lượng vật lý là điện lực. Cõi vật lý cũng là nơi con lấy ý tưởng của mình được phú cho cảm xúc và chuyển thành hoạt động vật lý.

15.4. Dòng chảy năng lượng

Bây giờ chúng ta có hình ảnh một dòng chảy năng lượng từ phần thấp của cõi tâm linh xuyên qua bốn tầng của vũ trụ vật chất. Các điều kiện hiện ra trong cõi vật lý, chẳng hạn hoàn cảnh cá nhân của con trên trái đất này, không tự nhiên mà xuất hiện. Các điều kiện được tìm thấy trong cõi vật lý là kết quả của những nguyên nhân được khởi động nơi ba tầng cao hơn. Tất cả mọi thứ đều khởi sự như một ý tưởng tổng quan trong cõi bản sắc, rồi kết tinh lại trong cõi lý trí, nhận được động lượng trong cõi cảm xúc, trước khi cuối cùng khoác vào một hình dạng vật lý hay được chuyển thành một hành động vật lý. Vũ trụ là một tấm gương phản chiếu lại cho con những gì con gửi ra, và những gì con gửi ra là sản phẩm của nội dung trong bốn thể phàm của con.

Khi ánh sáng Thượng đế tuôn qua bốn tầng của tâm con, trước tiên nó sẽ mặc vào các hình ảnh được tìm thấy trong thể bản sắc của con. Xong ánh sáng tuôn vào thể lý trí nơi nó khoác vào những hình ảnh cụ thể hơn được vẽ ra trong tư tưởng, tức là các hình tư tưởng mà con lưu giữ ở tầng này. Như vậy thể lý trí hình thành thêm một cuộn phim mà ánh sáng sẽ chiếu qua, và các hình ảnh tổng quát, linh hoạt của thể bản sắc giờ đây sẽ mang hình dạng đặc thù hơn của tư tưởng. Sau đó, ánh sáng tuôn vào thể cảm xúc – lại thêm một cuộn phim nữa – nơi nó khoác vào các ham muốn được tích lũy trong thể này.

Thể cảm xúc của con là trung tâm của lòng ham muốn và nó cũng có tên là thể ham muốn. Ham muốn của con bồi thêm một cảm giác cấp bách cho các ý tưởng, thường khiến con cảm thấy: “Tôi phải có cái này.” Sự cấp bách này có thể khiến con sẵn lòng làm bất cứ gì để có được điều con muốn. Ham muốn của con cũng xác định cách thức con sẵn lòng đem ý tưởng của mình vào thế giới vật lý. Thể lý trí của con chứa đựng quá nhiều ý tưởng đến độ chúng không thể được đem hết vào hành động, cho nên điều gì sẽ định đoạt ý tưởng nào được hành sự? Nếu thể cảm xúc chứa đựng những tình cảm tiêu cực mãnh liệt như giận dữ chẳng hạn, những tình cảm này thường khiến con quên hết mọi thận trọng. Nếu con không thể kiểm soát cảm xúc thì làm sao con có thể hy vọng kiểm soát được hành vi của mình và nhờ đó tránh gây ra những hậu quả phiền phức cho mình? Lý tưởng nhất là con có thể chọn phản ứng tình cảm của mình trong mọi tình huống hầu tình cảm tiêu cực mãnh liệt không thể khiến con hành động ngược lại lợi ích lâu dài của con. Nhưng nếu con không có khả năng lựa chọn cảm xúc của mình, thường khi con sẽ cư xử như một con rô-bốt cứ nhắm mắt tuân theo sự lập trình tình cảm của mình.

Con nghĩ xem trái đất sẽ khác như thế nào nếu đa số con người có thể hiểu được quá trình mà qua đó mọi chuyện trong vũ trụ vật chất đi vào thị hiện và khoác vào những hình dạng cụ thể mà giác quan vỏ ngoài lẫn tâm vỏ ngoài có thể nhìn thấy. Bỗng nhiên mọi người sẽ có thể bắt đầu nhìn xa hơn dáng vẻ bề ngoài để thấy được nguyên nhân sâu xa đằng sau các hiện tượng khiến đời họ trở nên gay go vất vả. Khi họ bắt đầu hiểu làm thế nào các tầng cao hơn của chính tâm họ chi phối hoàn cảnh vật lý của họ, thì họ có thể vượt qua cảm giác mình là nạn nhân của các thế lực và tình huống vượt khỏi tầm kiểm soát của mình. Thay vì cảm thấy choáng ngợp hay bị cuộc đời đóng hộp, họ có thể khởi sự lãnh trách nhiệm cải thiện đời họ một cách ý thức.

15.5. Hành động ngắn hạn và nghiệp quả dài hạn

Việc đem vào thị hiện vật lý có hai tầm mức. Một tầm mức được thể hiện qua các hành động con làm. Một hành động vật lý không tự dưng xuất hiện từ hư vô, nó không bắt nguồn từ tầng cơ thể vật lý và bộ não vật lý. Hành động khởi đầu trong thể bản sắc, xong nó luân chuyển qua thể lý trí và thể cảm xúc, và chỉ sau đó nó mới chuyển thành một hành động dựa trên những chọn lựa mà con lấy với tâm ý thức. Những tùy chọn mà con thấy được qua tâm ý thức được định đoạt bởi nội dung trong ba thể cao của con. Chẳng hạn nếu con đồng hóa mình với một sinh thể phàm trần hữu diệt không có quyền hạn gì bên ngoài cơ thể vật lý, thì tư tưởng của con sẽ xoay quanh việc sử dụng cơ thể để tạo dồi dào, và ham muốn của con sẽ chú tâm vào việc thoả mãn nhu cầu của cơ thể. Các tùy chọn mở ra cho tâm ý thức của con sẽ bị giới hạn trong phạm vi vũ trụ vật chất, và con sẽ khó lòng nào nhìn thấy một cách sống nào khác không xoay quanh nhu cầu của cơ thể vật lý. Con sẽ nghĩ là sự sống dồi dào chẳng là gì hơn của cải vật chất và thú vui thể xác.

Tầm mức này của các hành động vật lý cá nhân của con là tầm mức cá nhân, hay ngay trước mắt, của nỗ lực sáng tạo, là tầm mức tập trung vào cơ thể vật lý, dẫn đến một hành động được thực hiện bởi cơ thể này, hay đúng hơn, được chính con thực hiện xuyên qua cơ thể này. Còn có một tầm mức khác nữa mà hầu hết mọi người không ý thức. Đó là tầm mức phi cá nhân, hay dài hạn, vì nó vượt ra ngoài cơ thể hiện tại và ngay cả kiếp sống hiện tại của con. Nó không dẫn đến một hành động vật lý trực tiếp, ít ra một hành động có ý thức. Đây là tầm mức qua đó tâm con liên tục áp đặt hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật khi nó gửi hình tư tưởng vào tấm gương vũ trụ. Các hình ảnh này được Ánh sáng Mẫu-Vật trải bày ra dưới dạng các tình huống vỏ ngoài mà con gặp trong đời.

Cho đến giờ thày có nói vũ trụ là một tấm gương và những gì con gửi ra sẽ được phản chiếu lại cho con. Chúng ta có thể nhìn tiến trình này từ một góc độ khác và nói rằng điều thực sự xảy ra là bốn tầng của tâm con áp đặt hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật là ánh sáng rung động trong phổ tần số của vũ trụ vật chất. Các hình ảnh con giữ trong thể bản sắc tạo thành các thông số vòng ngoài cho hình tướng mà Ánh sáng Mẫu-Vật khoác vào. Các hình ảnh này được tâm con áp đặt lên năng lượng rung động trong phổ tần số của cõi bản sắc, và chỉ sau khi năng lượng này khoác vào hình ảnh trong thể bản sắc thì nó mới được cống hiến cho tư tưởng sử dụng. Chính khi các hình ảnh bản sắc được áp đặt lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì ánh sáng được giảm độ rung, đi vào cõi lý trí. Khi nó đi vào cõi lý trí, nó đã mang sẵn một hình tướng dựa trên ý niệm bản sắc của con, và tư tưởng của con không thể thay đổi hình tướng này. Tư tưởng chỉ có thể làm việc trong phạm vi các thông số đã được ấn định ở tầng cao hơn.

Trong bước kế tiếp của tiến trình này, các hình ảnh con giữ trong thể lý trí sẽ kết tinh hình ảnh tổng quan từ thể bản sắc và khiến chúng trở nên đặc thù hơn. Một lần nữa, điều này áp đặt một hình tướng dày đặc hơn lên năng lượng và do đó lại giảm thiểu độ rung của năng lượng để nó đi vào cõi cảm xúc. Cảm xúc của con chỉ có thể xây dựng trên nền tảng những gì đã được tạo ra ở tầng lý trí, và cảm xúc không có quyền năng thay đổi tư tưởng. Các hình ảnh và ham muốn mà con giữ ở thể cảm xúc trao cho các hình ảnh từ lý trí một phương hướng quyết định, cũng như năng lượng cần thiết để đưa chúng xuống cõi vật lý. Đồng thời chúng cũng trao cho tư tưởng một cảm giác cấp bách, khiến con cảm thấy mình phải hành sự ngay lập tức. Cuối cùng, thành phần của tâm con tập trung ở cõi vật lý khiến cho các hình ảnh này càng cụ thể hơn nữa, cho đến khi chúng thị hiện dưới dạng những hoàn cảnh vỏ ngoài mà con phải đối mặt trong đời. Tiến trình này không được hoàn tất trong một kiếp sống, cho nên các điều kiện con đối mặt trong kiếp này không nhất thiết được sản xuất trong kiếp này. Chúng là kết quả của những nguyên nhân mà con đã khởi động trong những kiếp trước khi con gửi ra các hình tư tưởng được lưu trữ trong bốn thể phàm của con trong những kiếp đó.

Thể bản sắc của con định đoạt những gì con nghĩ mình có thể làm. Chẳng hạn, nếu con nhận diện mình là một sinh thể phàm trần hữu diệt, con sẽ chỉ thấy được một số cách thức thị hiện dồi dào thôi. Tư tưởng của con sau đó sẽ chuyển đạt viễn quan này – hay sự thiếu viễn quan – thành một số chọn lựa cụ thể hơn về những gì con muốn thực hiện. Xong cảm xúc của con sẽ nói rõ những cách thức để đạt mục tiêu định ra ở các tầng cao hơn và thúc đẩy cho mọi thứ chuyển động. Đến khi năng lượng đến được tâm ý thức vỏ ngoài, nó đã khoác vào một hình tướng đặc thù và tâm ý thức của con sẽ có rất ít tùy chọn để thay đổi những gì đã được “khắc trên đá” ở những tầng cao hơn của tâm con. Đó là tại sao nhiều người cảm thấy mình chỉ có thể phản ứng đúng một cách trước một loại tình huống nào đó. Phản ứng của họ trước tình huống đặc thù – thậm chí cách họ đối phó với cuộc đời một cách chung chung – đã được định trước nơi các tầng cao hơn của tâm họ.

Con thử nghĩ xem biết bao người cảm thấy là họ bị kẹt cứng, như thể bị đóng hộp bởi những tình huống vượt khỏi tầm kiểm soát của họ. Họ cảm thấy chọn lựa của họ rất hạn chế và họ không có lối thoát. Biết bao lần con nghe người ta nói: “Tôi không có lựa chọn nào khác”? Tại sao chuyện cảm thấy không có chọn lựa nào xảy ra quá thường như vậy? Lý do thực là tâm vật lý của con chỉ có thể xây dựng trên nền tảng những gì đã được khởi động ở các tầng trên, và đây là tại sao người ta cảm thấy lựa chọn của mình thật hạn chế. Lựa chọn của họ chỉ hạn chế vì họ không nhìn quá được mức tâm vỏ ngoài. Họ không thấy là các lựa chọn mở ra cho tâm vỏ ngoài chỉ là sản phẩm của những gì xảy ra ở các tầng cao hơn của tâm họ. Họ có thể thay đổi các chọn lựa mở ra cho tâm vỏ ngoài bằng cách thay đổi hình ảnh mà họ cầm giữ ở các tầng cao hơn. Họ thật sự có khả năng thay đổi bất kỳ khía cạnh nào trong đời họ bằng cách thay đổi nội dung các tầng tâm cao.

15.6. Con là tác giả hoàn cảnh của con

Đối với nhiều người, điều này cần được quán chiếu. Kẻ thù bên trong và kẻ thù bên ngoài không muốn con biết, hiểu và chấp nhận những gì thày đang nói với con ở đây. Hai kẻ thù này đã cố gắng lập trình để cái Ta Biết tin rằng con là nạn nhân của những hoàn cảnh vượt ngoài kiểm soát của con. Chúng muốn con tin là hoàn cảnh vỏ ngoài mà con đối mặt trong cuộc sống không do con chế tạo, không là kết quả của những chọn lựa mà con đã lấy trong kiếp này hay trong tiền kiếp. Con không thể kiểm soát được các điều kiện bên ngoài, con là một nạn nhân bất lực của những sức mạnh vượt ngoài con và con không có khả năng ảnh hưởng những cảnh ngộ mà con đối diện ở đây trên trái đất. Chúng muốn con tin vào ảo tưởng này, và chúng muốn giữ con chặt trong ảo tưởng một cách vô hạn định. Lý do là chừng nào con còn tin mình là nạn nhân của những thế lực vượt ngoài tầm kiểm soát của mình, thì có một cái gì đó bên ngoài cái Ta Biết đang điều khiển đời con. Cái bên ngoài cái Ta Biết đó, tất nhiên, chính là cái ta hữu diệt lẫn ông hoàng của thế gian. Nếu con tin có gì bên ngoài cái Ta Biết có khả năng kiểm soát hoàn cảnh của con, thì cái ta hữu diệt và ông hoàng thế gian có ngay một lối vào để điều khiển con.

Thày hoàn toàn hiểu được là đối với nhiều người, hình ảnh họ là nạn nhân những thế lực hay hoàn cảnh bên ngoài vượt khỏi tầm kiểm soát của họ đã ăn sâu vào tâm thức họ, và đã được củng cố nặng nề bởi sự nuôi dạy khi họ lớn lên, đến độ họ rất khó lòng đâm xuyên qua được. Thày cũng biết là điều này có thể cần sự quán chiếu, sự điều chỉnh từ con. Có thể sẽ mất chút thời gian trước khi con có thể thấm nhập và chấp nhận hoàn toàn những gì thày đang nói với con. Thày hy vọng là con có thể phát triển thêm những gì thày vừa nói trước đó và phối hợp với hình ảnh thày cho con ở đây, hình ảnh rằng mọi chuyện trong đời con là sản phẩm của ánh sáng Thượng đế tuôn chảy qua bốn tầng của vũ trụ vật chất. Các tình huống con trải nghiệm là sản phẩm của ánh sáng Thượng đế khoác vào hình dạng những hình ảnh mà con mang trong thể bản sắc, thể lý trí, thể cảm xúc và tâm vật lý của con. Những gì con trải nghiệm trong thế giới vật chất giống như một bộ phim được chiếu lên màn ảnh cuộc sống. Nội dung của phim được định đoạt bởi các hình ảnh, các cuộn phim, hiện hữu nơi các thể cao hơn của tâm con.

Cách duy nhất để con thay đổi hoàn cảnh vỏ ngoài và biểu hiện sự dồi dào mà con mong muốn là thay đổi các hình ảnh con giữ trong bốn thể phàm của con. Nếu con lấy ẩn dụ mà thày đã cho con về tấm gương, những gì con phóng chiếu vào gương chính là các hình ảnh trong bốn thể phàm. Vũ trụ chỉ có thể phản chiếu lại cho con những gì con đã phóng vào tấm gương vũ trụ. Cách duy nhất để thay đổi những gì quay trở lại con là thay đổi những gì con gửi ra, những gì con phóng vào tấm gương. Cách duy nhất để thay đổi những gì con gửi ra là thay đổi những gì ở trong con, thay đổi các hình ảnh mà con giữ nơi bốn tầng của tâm con.

Điều thày đang làm trong suốt khóa học này là thách thức một cách hệ thống các hình ảnh, hình ảnh nhị nguyên, mà hầu hết mọi người đều được dạy dỗ để chấp nhận, được lập trình để chấp nhận, bởi kẻ thù bên trong và kẻ thù bên ngoài. Khi con dùng khóa học này, con đã khởi sự tiến trình thách thức những hình ảnh con mang trong bốn tầng tâm con. Con đã bắt đầu tiến trình thanh lọc bốn tầng tâm con. Lời dạy và các bài thỉnh của thày tạo thành một tiến trình có hệ thống để thanh tẩy khỏi bốn tầng tâm con không chỉ các hình ảnh bất toàn mà cả các năng lượng tha hóa được lưu giữ nơi bốn tầng, do ánh sáng Thượng đế bị hạ thấp độ rung bởi các hình ảnh bất toàn này.

Hiểu biết là sức mạnh. Khi con nhận ra các điều kiện vỏ ngoài con phải đối diện là sản phẩm của những hình ảnh con giữ trong bốn tầng tâm con, bỗng nhiên con đạt được uy lực to lớn để thay đổi đời mình bằng cách đơn giản thay đổi chúng đi. Con không còn cần cảm thấy mình là một nạn nhân bất lực của những tình huống nằm ngoài khả năng thay đổi của mình. Con có thể bắt đầu cảm thấy mình làm chủ vận mạng của mình. Đối với nhiều người, điều này sẽ đòi hỏi một sự điều chỉnh lớn lao. Nhiều người đã lớn lên với ý tưởng mình là nạn nhân. Nhiều người trách cha mẹ, trách xã hội, trách vận rủi hay trách cả Thượng đế về những hoàn cảnh họ phải đối mặt trong đời, cho nên có thể họ sẽ khó khăn điều chỉnh để có thể chấp nhận là mọi hoàn cảnh mình đối diện, hoặc là sản phẩm của chính mình, hoặc do chính mình thu hút về mình qua các hình ảnh trong tâm mình. Thế là bỗng nhiên, mọi trách nhiệm được đặt lên vai con. Chính con là tác giả và cũng là người hoàn tất số mạng của con – không có ai khác đáng trách ngoài chính con.

15.7. Lấy lại quyền làm chủ đời mình

Khi thày nhìn trái đất ngày hôm nay, thày thấy hàng tỷ người bị kẹt ở ngay điểm này là không muốn nhận trách nhiệm hoàn toàn về bản thân mình. Họ không muốn nhìn nhận là họ có tiềm năng thay đổi mọi khía cạnh của đời họ, mọi khía cạnh trong hoàn cảnh của họ, bằng cách tự thay đổi bản thân, thay đổi các tin tưởng, thái độ và cách tiếp cận cuộc sống của mình. Thậm chí thày còn thấy nhiều người tầm đạo tâm linh bị kẹt lại ở mức này do không chịu nhận trách nhiệm một cách trọn vẹn và chung cuộc. Họ biết là cuộc sống có một khía cạnh tâm linh và họ đã – một số trong hàng chục năm trời – tich cực đeo đuổi sự phát triển tâm linh bằng cách gia nhập nhiều tổ chức, học hỏi nhiều giáo lý và thực hành nhiều pháp tu nhằm gia tốc tăng triển tâm linh. Nhiều người trong số đó đã làm mồi cho cái bẫy do ông hoàng của thế gian giăng ra, cụ thể là con đường vỏ ngoài, con đường giả hiệu, con đường có vẻ đúng cho người phàm nhưng cuối cùng là con đường chết. Đây là con đường bảo rằng con không cần nhận trách nhiệm trọn vẹn và tuyệt đối về chính con, con không cần thật sự – một cách chân thành – thay đổi chính mình, thay đổi hình ảnh mình cầm giữ trong tầng sâu nhất của tâm mình. Con chỉ cần tin vào một số tín điều, tuân theo một số luật lệ vỏ ngoài và thực hành một số kỹ thuật vỏ ngoài, thì con sẽ tự động được cứu rỗi, con sẽ tự động biểu hiện một trạng thái tâm thức cao hơn. Trong các chương trước, thày đã làm tất cả những gì thày có thể nghĩ đến để phơi bày sự sai lầm của lời dối này, và thày hy vọng con có thể chấp nhận đó là một sai lầm và con cũng hiểu tại sao nó sai lầm.

Chìa khóa để hiểu điều này là nhận ra các hình ảnh con giữ trong bốn tầng của tâm con không tự dưng xuất hiện từ hư vô. Con cai quản quả cầu cái ta của con, cái Ta Biết nắm quyền – hay đáng lẽ phải nắm quyền – điều khiển quả cầu cái ta của con. Cái Ta Biết được trù liệu để cai quản bốn thể phàm của con. Không gì có thể đi vào các thể này mà không có sự chấp thuận ý thức của con – trừ khi, tất nhiên, nếu con khước từ quyền lấy quyết định của mình và cho phép cái ta hữu diệt định đoạt những gì đi vào tâm con.

Bốn thể phàm của con là những cỗ xe để con biểu đạt trong cõi vật chất, nghĩa là chúng rung động trong cùng phổ tần số của vũ trụ vật chất. Hiện nay cõi vật chất chưa có đủ lượng ánh sáng và sự thật được tìm thấy ở cõi tâm linh. Điều này đặc biệt đúng đối với trái đất, một hành tinh khá tăm tối nhìn từ góc độ vũ trụ. Khi dòng sống của con bước xuống cõi vật chất trên hành tinh trái đất, bốn thể phàm được tạo ra như một cỗ xe để con biểu đạt trên hành tinh này. Ở nguyên thủy, các thể này hình thành một quả cầu được bảo vệ trong cõi vật chất. Nhưng thực tế hiện nay trên trái đất là con bị bao quanh bởi nhiều hình ảnh bất toàn và năng lượng tha hóa không ngừng tìm đường xâm nhập vào tâm thức con. Mặc dù các hình ảnh và năng lượng này có thể rất hung hãn, nhưng ở ban đầu con được trang bị một bức tường bảo bọc xung quanh con ngăn cản bất kỳ ý tưởng hay năng lượng tha hóa nào xâm nhập bốn thể phàm của con. Con có một hệ miễn dịch tâm lý cũng giống như con có một hệ miễn dịch vật lý. Không gì có thể đi vào bốn thể phàm mà không có sự ưng thuận của con. Con phải cho phép nó vào, và vì vậy tất cả những gì đã vào được là do con đã quyết định như thế. Có thể con đã lấy quyết định để cho cái ta hữu diệt làm người gác cổng cho vương quốc của con, tuy nhiên đó vẫn là một quyết định mà chính con đã lấy.

Con yêu dấu, thày biết rõ điều này đặt trách nhiệm lên vai con, nhưng nó cũng đem lại hệ quả tuyệt vời là đặt mọi quyền hạn trong tay con, hay đúng hơn trong tâm con. Nhận lãnh trách nhiệm cho đời mình không nhất thiết là một điều đáng ngại mà kỳ thực là một sự giải thoát. Khi con lãnh trách nhiệm đời con, con có thể giành lại quyền năng thay đổi đời con. Khi con nhận ra là không gì có thể đi vào bốn thể phàm của mình mà mình không đồng ý, lập tức con giành lại quyền thanh lọc bốn thể đó. Điều cũng đúng tương tự là không gì có thể ở lại trong các thể này mà không có con đồng ý. Nếu con phơi bày một ý tưởng nhị nguyên, một ý tưởng khởi lên từ tâm phản Ki-tô, và nếu con quyết định là con không muốn nó ở lại trong bản thể, thì nó sẽ bị trục xuất và được thay thế bởi sự thật Ki-tô mà con đã chọn thay vào lời dối của phản Ki-tô.

15.8. Quyền năng của tâm

Thày đã cố giúp con khắc phục mọi cảm giác tội lỗi, mọi xu hướng lên án bản thân về lỗi lầm của mình. Thày đã làm mọi cách mà thày có thể nghĩ ra để giải thích cho con là Đấng Sáng tạo không muốn con cảm thấy có tội về lỗi lầm của mình. Tại sao thày đã làm vậy? Thày biết rõ qua kinh nghiệm là có một điều hơn bất cứ gì khác ngăn cản con người nhận trách nhiệm về đời mình và số phận của mình, đó là xu hướng tự lên án, cảm thấy tội lỗi về lỗi lầm của mình. Để tránh nỗi đau tội lỗi và xấu hổ, họ từ chối không nhìn vào, không nhìn nhận lỗi lầm của mình, và tất nhiên điều này ngăn họ thoát ra khỏi lỗi lầm đó.

Việc con tự trách móc là một phóng chiếu của ông hoàng thế gian, từ tâm phản Ki-tô. Các lực này muốn dồn con vào một thế kẹt lưỡng nan tâm linh bằng cách trước hết đánh lừa, gạt gẫm để con phạm lỗi. Xong chúng cố khiến con cảm thấy tội lỗi vì con đã phạm lỗi đến độ con sẽ không bao giờ trở về được với Thượng đế, không bao giờ được cứu chuộc, không bao giờ được giải phóng khỏi những quyết định mình đã lấy trong quá khứ.

Khi con ngộ ra là tất cả những gì mình phải đối mặt, tất cả mọi khía cạnh trong cảnh ngộ của mình, là kết quả của những chọn lựa mình đã lấy, con nắm được uy quyền tuyệt vời là bất kỳ chọn lựa nào trong quá khứ cũng có thể được thay thế tức khắc bởi một chọn lựa tốt hơn trong hiện tại. Làm chuyện này vô cùng đơn giản một khi con hiểu làm cách nào, một khi con chấp nhận là mình có quyền năng, cái Ta Biết có quyền năng thay đổi bất kỳ quyết định nào mình đã lấy trong quá khứ. Con luôn luôn có quyền năng thay thế một quyết định không mấy tốt bằng một quyết định tốt hơn.

Không gì có thể lấy đi quyền năng này khỏi con, kể cả cái ta hữu diệt lẫn ông hoàng thế gian. Cái ta hữu diệt và ông hoàng thế gian đang cố hết sức khiến con tin rằng chúng có thể tước đi quyền năng này khỏi con hay con có thể đánh mất nó khi con phạm lỗi. Chúng làm vậy bằng cách khiến con cảm thấy con là nạn nhân của những lực vượt khỏi tầm kiểm soát của con và do đó con không có cách nào thay đổi một số điều kiện bằng cách chỉ đơn giản thay đổi tâm mình. Chúng chế giễu khả năng thay đổi thế giới qua việc thay đổi chính mình, và trong xã hội duy vật ngày nay – vì chủ nghĩa duy vật chính là thiết kế của ông hoàng thế gian – chúng đã khá thành công khiến cho người ta mua món hàng nhạo báng của chúng.

Thày đã nghe người ta bàn về đề tài này từ hàng thế kỷ. Thày đã nghe từ những kẻ hoài nghi nghĩ ra đủ loại lý lẽ, thày đã nghe họ chế giễu, nhạo báng ý tưởng rằng con có khả năng thay đổi hoàn cảnh vỏ ngoài của mình bằng cách thay đổi tâm mình. Thày biết luận cứ của họ, thày biết nhạo báng của họ, thày đã nghe họ chê cười không ngưng nghỉ các ý tưởng thày đang trình bày cho con. Thế nhưng người ta thường nói: “Người nào cười chót hết là người cười hay hơn hết.” Thày có thể cam đoan với con là người biết sự thật Ki-tô sẽ là người cười chót hết. Một khi con thăng thiên vào cõi tâm linh và đã giải thoát khỏi mọi hạn chế hữu diệt, con sẽ thật sự ở trong vị thế có thể cười chót hết.

Suốt các thời đại đã có những người khám phá quyền năng của tâm mình, và họ đã dùng quyền năng này để thay đổi hoàn cảnh của họ cho tốt đẹp hơn. Một số đã dùng để thể hiện hoàn cảnh vật chất tốt hơn cho đến khi thỏa nguyện mong muốn. Một số đã dùng để tích lũy kho báu trên thiên đàng và thăng vượt cõi vật chất hoàn toàn, hầu họ có thể tiến tới chinh phục sự sống vĩnh hằng ở cõi tâm linh. Giê-su là một ví dụ điển hình của một người đã dùng quyền năng của tâm mình để thăng vượt vòng tử sinh, thăng vượt vòng luân hồi của đau khổ và đấu tranh. Chính thày đây cũng đã làm vậy, và ở cõi tâm linh có vô số sinh thể đã thăng thiên từ trái đất. Các thày có thể ngồi trên đây và nhìn xuống những kẻ hoài nghi đang chối bỏ quyền năng của chính tâm họ, và các thày có thể cười họ. Nhưng các thày không muốn cười các anh chị em chưa thăng thiên của mình. Các thày muốn lấy con đường từ bi, tìm cách soi sáng các anh chị em chưa thăng thiên để chính họ cũng biết làm cách nào họ có thể sử dụng quyền năng của tâm họ để giải thoát khỏi những vòng khổ ải, đau đớn và hạn chế dường như bất tận.

15.9. Giải tỏa rào cản trong bốn tầng của tâm

Con yêu dấu, ngay từ đầu khóa học này, thày đã nói là Cha rất vui lòng trao vương quốc cho con. Lý do duy nhất con không có dồi dào của Thượng đế biểu hiện trong đời mình là vì có cái gì đó đang ngăn chặn nó. Cái gì ngăn chặn dồi dào của Thượng đế? Đó là con đã tạo ra những khối chắn trong bốn tầng của tâm con, trong bốn thể phàm của con. Sự sống dồi dào chỉ có thể đến từ một nơi, nó phải đến từ cõi tâm linh xuyên qua Hiện diện TA LÀ của con. Nếu con muốn sự sống dồi dào trải bày ra trong các hoàn cảnh vật lý trong đời con, thì sự sống dồi dào cùng với viễn quan tinh khiết của sự sống dồi dào được lưu trữ nơi Hiện diện TA LÀ, phải được cho phép tuôn chảy không cản trở, không pha loãng, xuyên qua bốn tầng của vũ trụ vật chất cho đến khi nó xuống đến cõi vật lý và được chuyển thành điều kiện vật lý. Con không có cách nào khác để có sự sống dồi dào mà Thượng đế mong muốn ban cho con.

Vì mong muốn của Thượng đế là con có sự sống dồi dào, cho nên điều duy nhất có thể ngăn con có được dồi dào chính là một khối chắn, và khối chắn này bắt buộc phải nằm giữa cõi vật lý của trải nghiệm vật lý và cõi tâm linh nơi viễn quan của Thượng đế cư ngụ. Điều đang ngăn chặn sự sống dồi dào là cái gì đó nằm xen kẽ giữa viễn quan Thượng đế và trải nghiệm vật lý của con. Thày đã giải thích là nằm giữa trải nghiệm vật lý của con và viễn quan thuần khiết của Thượng đế có bốn tầng tâm con. Khi con loại bỏ khối rào cản trong bốn thể phàm của mình, thì viễn quan Thượng đế về sự sống dồi dào sẽ có thể biểu hiện thành thực tế vật lý cho con – nếu con chịu đảm nhiệm vai trò của mình.

Con được thiết kế để là một người đồng-sáng tạo cùng với Thượng đế. Con được thiết kế để với lên tầng mức Hiện diện TA LÀ và thấy được viễn quan dồi dào toàn hảo của Thượng đế dành cho con. Khi con nắm lấy viễn quan này, con có thể đem nó vào thể bản sắc, con có thể đặt toàn bộ ý niệm bản sắc của con, là bản sắc liên quan đến cách con tự biểu đạt trong cõi vật chất, trên nền tảng viễn quan dồi dào của Thượng đế. Xong con có thể đem viễn quan này xuống tầng mức của tư tưởng và làm cho nó cụ thể hơn bằng cách nối liền nó với các điều kiện con gặp trên trái đất. Sau đó, con có thể đem nó xuống tầng mức của cảm xúc và chuyển nó thành mong muốn, là mong muốn đích thực của Thượng đế sẽ không giới hạn mà sẽ chỉ nhân lên khả năng sáng tạo của con. Con có thể dùng những mong muốn này – vị thần linh đang sinh tạo xuyên qua con – để phú cho tư tưởng sức mạnh và phương hướng cần thiết hầu tư tưởng chuyển thành hành động vật lý và hoàn cảnh vật lý. Và như thế, con có thể đồng-sáng tạo sự sống dồi dào ngay đây trên hành tinh địa cầu.

Nếu con mang những khối chắn trong bất kỳ thể phàm nào, thì hoặc chúng sẽ bẻ quẹo, hoặc chúng sẽ chặn đứng toàn bộ sự biểu lộ, sự đi xuống của đời sống dồi dào, sự giáng thế của viễn quan thuần khiết của Thượng đế. Nếu cuộn phim trong thể bản sắc của con bị méo mó, cong queo, dơ bẩn, hay nếu cuộn phim chứa đựng hình ảnh bất toàn, thì những hình ảnh này hoặc sẽ che khuất, hoặc sẽ bóp méo viễn quan thuần khiết của bản sắc thiêng liêng và cá thể của con. Tương tự như vậy, các cuộn phim ở những tầng thấp hơn trong tâm con cũng có thể bóp méo hay chặn đứng viễn quan đó. Rốt cuộc con có thể rơi vào tình trạng là không một phần nào của viễn quan nguyên thủy mà Thượng đế dành cho con có thể xuống được tâm ý thức và cõi vật lý. Đời con trở thành một cuộc vật lộn thay vì một vòng xoắn ốc hướng thượng càng ngày càng dồi dào đúng theo thiết kế. Viễn quan thuần khiết của Thượng đế, viễn quan sự sống dồi dào, không thể bị biến đổi hay tiêu hủy bởi bất cứ gì trong cõi vật chất, cho nên viễn quan này vẫn tồn tại ở mức Hiện diện TA LÀ, vẫn được lưu trữ trong tâm Ki-tô hoàn vũ. Tất cả những gì con cần làm là loại bỏ các rào cản khỏi bốn tầng tâm con để cái Ta Biết trở về ý niệm bản sắc đích thực, thay vì đồng hóa với một sinh thể phàm trần hữu diệt bị giam cầm trong một loạt những hoàn cảnh vượt khỏi tầm kiểm soát của nó. Khi con biết mình là ai và tại sao mình ở đây, con có khả năng thị hiện viễn quan toàn hảo đó của Thượng đế cho đời con, cho hành trình của con trong vũ trụ vật chất.

15.10. Tâm con ở tầng nào thì con tìm dồi dào ở tầng đó

Hãy để thày giải thích khái niệm này từ một góc nhìn hơi khác. Mọi người đều ở những tầng tâm thức khác nhau, và chúng ta hãy chuyển dịch khái niệm này vào bốn thể phàm. Cái Ta Biết – trong không gian và thời gian, trong cái ngay đây ngay bây giờ – là điều nó nghĩ nó là, có nghĩa là ý niệm bản sắc của con sẽ khoác vào các hình ảnh mà con tập trung chú ý. Một số người hoàn toàn tập trung vào vũ trụ vật chất và cơ thể vật lý của họ. Họ đã dần dà tự đồng hóa với thế giới vật lý và cơ thể vật lý mà thôi. Cái ta ý thức của họ đã quên mất, hay đã bỏ mất mọi ý niệm mình thực sự là ai, cụ thể mình là một sinh thể tâm linh vô biên bất diệt. Thay vào đó, cái ta ý thức của họ tự nhận diện là một cơ thể vật lý đang sống trong vũ trụ vật lý trên hành tinh trái đất. Họ tin tuyệt đối là cách duy nhất để biểu hiện sự sống dồi dào là xuyên qua việc lao động thân xác và vận dụng vật chất vật lý, tức là những gì họ có thể thấy được và chạm được qua giác quan của thân thể. Họ không có nhận thức gì – và do đó không có khả năng sử dụng – bất kỳ loại năng lượng nào cao hơn, thanh nhẹ hơn, mà thày có gọi là năng lượng tâm lý. Thậm chí nhiều người trong số họ còn không liên lạc được với chính cảm xúc của mình, và do đó không có khả năng dùng cảm xúc để thay đổi hành động vật lý và tìm ra những cách kiếm sống tốt hơn. Tương tự, họ cũng không liên lạc được với ý nghĩ của họ, không có khả năng dùng sức mạnh của tư tưởng để tìm những cách tốt hơn mà biểu hiện dồi dào.

Cuộc tìm kiếm dồi dào của họ bị giới hạn trong vật chất vật lý, trong các năng lượng đã sẵn được đem xuống tầng thấp nhất của vũ trụ vật chất là cõi vật lý. Họ chính là những người “phải làm lụng đổ mồ hôi trán mới có mà ăn” (Genesis 3:19). Nhiều người trong số họ lao lực cả đời bằng cách bán sức lao động của mình cho những ai trả giá cao nhất. Đây là những người làm thuê mà không bao giờ có cơ hội thu thập nhiều dồi dào hơn là một việc làm với lương cố định. Thày không bảo là chuyện này nhất thiết là sai, mà thày chỉ nói là chuyện này không bao giờ có thể giúp họ thị hiện một sự dồi dào lớn hơn những gì được áp đặt bởi thị trường lao động nơi họ sinh sống. Nhiều người trong số họ chơi xổ số với hy vọng một vận may sẽ biến họ thành người giàu có, thế nhưng họ không sẵn lòng thay đổi cách tiếp cận cuộc sống của họ để thị hiện nhiều dồi dào hơn.

Có những người cũng nhận ra là họ không thể thị hiện nhiều dồi dào hơn qua việc làm thuê. Một số đã cố tìm những cách khác để tích tụ dồi dào mà vẫn chỉ dùng đến năng lượng trong cõi vật lý. Mặc dù một số đã thành công làm giàu qua cách này, nhưng hầu hết thì không thể nào. Thật vậy, một số đã quay sang làm chuyện phi pháp như một cách chiếm đoạt bằng vũ lực những gì họ không thể kiếm được qua việc bán sức lao động. Những người này bị đồng hóa hoàn toàn với tầng thấp nhất của vũ trụ vật lý và họ vẫn chưa phát triển được khả năng với lên cao hơn tầng này.

Ở một mức nhận biết cao hơn, con tìm thấy những người nhận ra cuộc sống là nhiều hơn năng lượng của cõi vật lý. Có những năng lượng cao hơn, và bằng cách dùng năng lượng này họ có thể nâng cao cuộc sống và biểu hiện nhiều dồi dào hơn. Thày đã có nói tới năng lượng tâm lý là bất kể loại năng lượng nào vượt ngoài cõi vật lý nhưng bên dưới cõi tâm linh.

Bây giờ chúng ta có thể thấy là năng lượng tâm lý có thể chia làm ba cấp độ – có năng lượng tình cảm, năng lượng lý trí và năng lượng ở mức bản sắc. Một số người nhận biết được loại năng lượng tâm lý rung động ở phổ tần số cảm xúc và họ đã học được cách dùng nó trong đời sống. Cách họ làm là dùng chính cảm xúc của họ, và thường khi họ thị hiện dồi dào bằng cách quyến rũ, hay khuynh loát, cảm xúc của người khác. Con sẽ thấy điều này nơi nhiều nghệ sĩ hay diễn viên. Chẳng hạn một ca sĩ có thể trở nên nổi tiếng và tích tụ của cải vật chất to lớn qua việc sản xuất loại âm nhạc khơi dậy cảm xúc nơi người nghe. Cũng vậy, nhiều người lôi cuốn được tình cảm của người khác, và một ví dụ là các nhà chính trị có khả năng đạt quyền lực qua việc kích động cảm xúc của quần chúng xung quanh một mục tiêu cụ thể.

Hiển nhiên những người như vậy có một nhận biết về các năng lượng vi tế cao hơn là loại người đầu tiên. Họ thường có quyền lực trên những người thiên nhiều hơn về vật chất. Những người chú tâm vào cõi vật chất thường không nhận thức được cảm xúc của mình và không thể, một cách ý thức, chế tạo một cảm xúc đặc thù nào đó. Cho nên đúng vậy, những ai đã điều ngự được cõi cảm xúc có thể giúp người khác sản xuất một cảm xúc đặc thù và được trả tiền khi làm vậy. Tất nhiên họ cũng nắm quyền lực trên người kia xuyên qua cảm xúc, và họ có thể dễ dàng kích động người kia hành xử theo một cách nào đó.

Điều này thể hiện một mức độ nhận biết cao hơn, và việc sử dụng năng lượng tình cảm để thị hiện dồi dào không nhất thiết là sai trái. Nhưng nếu nhận biết của họ không đạt đến mức tâm Ki-tô, sẽ có nguy cơ rất lớn là họ có thể dùng năng lượng cảm xúc cho những mục tiêu vị kỷ. Vì họ không có nhận thức về cái Tất Cả, họ sẽ chỉ giản dị giật dây cảm xúc của người khác để đạt được những thứ họ muốn. Một ví dụ điển hình là nhân viên bán hàng khuynh loát khách hàng mua một món đồ đắt tiền để được nhiều hoa hồng. Một ví dụ cùng cực là Adolf Hitler, một tay thiện nghệ trong kỹ thuật khuynh đảo cảm xúc quần chúng. Ông ta không làm vậy từ mức tâm Ki-tô, mà ông đã dùng tâm phản Ki-tô để đạt mục tiêu của mình. Đó là tại sao ông đã dấy lên một lực đối nghịch mãnh liệt đến độ rốt cuộc nó đập tan tham vọng thống trị thế giới của ông. Suốt dòng lịch sử, một số tội ác tàn bạo nhất quả thật đã được gây ra bởi những kẻ học được cách thao túng năng lượng cảm xúc nhưng chưa đạt được sự điều ngự của con tim vốn chỉ xuất phát từ tâm Ki-tô.

Ở mức cao hơn kế tiếp, con gặp những người đã đạt được một trình độ nhận biết cao hơn về cõi lý trí và quyền năng của tư tưởng. Con thường tìm thấy những người như vậy trong các cơ sở giáo dục, trong số các nhà khoa học có khả năng trí tuệ cao độ và là chuyên gia sử dụng năng lượng tư tưởng. Nhiều người trong số này đã có thành tựu to lớn và nhận biết sâu sắc về cõi vật chất. Thậm chí con còn thấy nhiều triết gia hay nhà thần học với hiểu biết trí thức sâu rộng về khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Một lần nữa, nếu không có nhận biết của tâm Ki-tô thì một số hiểm họa nghiêm trọng có thể hiện ra. Con sẽ thấy nhiều nhà khoa học phủ nhận khía cạnh tâm linh của cuộc sống, kể cả khía cạnh tâm linh của chính bản chất con người họ.

Làm sao những người như vậy có thể vượt quá được tầng lý trí? Họ không thể vượt quá được tầng này, và đó là tại sao con thấy họ, suốt một kiếp sống, vẫn cứ tiếp tục là người trí thức và cuối cùng thì họ tiếp tục là kẻ bất mãn. Đa số sẽ lập tức bác bỏ lời nhận định này, và họ sẽ bảo là họ hoàn toàn thỏa mãn với cuộc đeo đuổi trí thức của họ. Nhưng nếu con có thể nhìn vào tâm lý của họ, con sẽ thấy có gì đó đang ăn mòn hạnh phúc của họ, có gì đó thiếu sót trong đời họ. Họ biết là có gì thiếu sót nhưng họ không biết cái đó là gì, bởi vì họ không chịu với lên cao hơn tầng lý trí để nhìn nhận bản sắc thực của họ là một sinh thể tâm linh. Vấn đề ở đây là trí năng rất giỏi biện minh cho quan điểm của mình và thuyết phục người khác, và điều này cho họ một cảm giác uy quyền sẽ đánh bẫy họ trong niềm tin là họ luôn luôn đúng, và bên ngoài lý luận trí thức thì không hề có sự thật nào cả. Nếu những người như vậy không có phân biện Ki-tô, không có cách chi con giúp được họ nhìn ra các giới hạn của lý luận nhị nguyên.

Các thày thông giáo và người Pha-ri-si thuở trước có một hiểu biết trí thức lớn rộng về thần học, nhưng họ không sẵn lòng với lên tâm Ki-tô. Đó là tại sao họ không thể nhận diện Ki-tô Hằng sống khi thày xuất hiện ngay trước mặt họ bằng xương bằng thịt. Thay vì nhận ra Ki-tô trong Giê-su thì họ lại đàn áp thày và âm mưu để thày bị giết hại. Họ không muốn thày làm xáo trộn sự yên ổn của họ trong khi họ kiểm soát được mọi chuyện và nhét được nguyên vũ trụ vào chiếc hộp tư duy của họ. Một người rất có thể tập trung vào tầng tư tưởng mà vẫn không nhận biết được những gì ở trên, đồng thời không điều ngự được những gì ở dưới. Đó là tại sao con thấy nhiều nhà trí thức không điều ngự được cảm xúc của mình để có thể chuyển ý tưởng của mình thành hành động.

Khi con vượt quá tầng lý trí, con bước vào tầng bản sắc. Đây là tầng cao nhất của cõi vật chất, và hầu hết mọi người trên hành tinh địa cầu hoàn toàn không hay biết gì về tầng này cùng tầm quan trọng của nó. Tại sao họ lại không biết đến cõi bản sắc? Các hình ảnh được lưu giữ trong thể bản sắc chính là nền tảng cho sự biểu đạt của con trong vũ trụ vật chất, nền tảng cho cách con nhìn mình và nhìn cuộc sống như thế nào. Nếu con thấy mình, nếu cái Ta Biết thấy nó là một sinh thể tâm linh bất diệt chỉ đang tự biểu đạt xuyên qua bốn thể phàm, thì có khả năng là con nhận biết được thể bản sắc của con vì con biết con là nhiều hơn nội dung của thể này. Nếu vậy thì con có quyền năng thay đổi các hình ảnh trong thể bản sắc theo viễn quan toàn hảo của tâm Ki-tô. Nếu con đã mất ký ức về bản sắc thật của mình như một sinh thể tâm linh, nếu con nhận diện mình như một sinh thể vật chất, thì đơn giản con sẽ không thể nhận biết được thể bản sắc cùng khả năng thay đổi ý niệm bản sắc của mình dựa theo bất cứ gì vượt khỏi vật chất. Con không thể có quyền năng thay đổi ý niệm bản sắc một cách ý thức, và lý do là vì nếu con thấy mình là một sinh thể hữu diệt thì chính bản sắc này vượt ra ngoài mọi chất vấn. Bản sắc của con sẽ bị giam trong các hình ảnh được lưu trữ trong thể bản sắc và con sẽ coi chúng là đương nhiên. Bản sắc của con sẽ dựa trên những hình ảnh và tin tưởng mà con nghĩ không thể được chất vấn, không nên chất vấn hay không cần chất vấn bởi vì chúng đúng tuyệt đối. Con xem chúng như lời sấm, con xem chúng là sự thật không thể sai lầm, bất di bất dịch.

Con không tin là có hiểu biết nào lớn hơn ngoài các hình ảnh đã được lập trình vào thể bản sắc của con bởi cái ta hữu diệt và ông hoàng của thế gian. Con đã hoàn toàn mắc kẹt trong ảo tưởng mình là một con người giới hạn, hữu diệt. Vì con không thể sống mà không có một ý niệm bản sắc, cho nên việc chất vấn ý niệm bản sắc có thể khiến con mất chân đứng, mất nền tảng trong cuộc sống. Con không thể chất vấn các tin tưởng trong thể bản sắc chừng nào con còn nghĩ là không có gì khác vượt quá hình ảnh đó về bản thân. Chìa khóa để phá vỡ bế tắc này là nhận ra có gì đó nhiều hơn cái bản sắc được tìm thấy trong thể bản sắc của con.

Trong thời đại hôm nay, nhiều người đã có được một nhận thức sâu sắc hơn về cuộc sống và thế giới vật chất, kể cả nhận thức lớn hơn về năng lượng tâm lý. Nhận thức lớn hơn này và khả năng sử dụng năng lượng tâm lý không nhất thiết tương đương với việc đạt được tự do tâm linh thật sự và sự sống dồi dào. Có hiểm họa là người ta có thể dùng cái biết về năng lượng tâm lý để đoạt những thứ mình muốn bằng vũ lực, đoạt nó từ người khác, thường thường qua việc khuynh loát tư tưởng hay cảm xúc của người khác. Khi làm vậy, họ khóa chặt mình vào con đường giả, con đường có vẻ đúng cho người phàm nhưng lại dẫn đến cái chết tâm linh. Cách duy nhất để tránh mắc vào bẫy này, cái bẫy do cái ta hữu diệt và ông hoàng của thế gian giăng ra, là với lên cao hơn vũ trụ vật chất và nhận ra là có gì đó vượt khỏi tâm nhị nguyên, vượt khỏi tâm phản Ki-tô.

Cách duy nhất để thoát ra khỏi nhà tù do các thế lực thế gian tạo ra là với lên cái hiểu cao hơn của tâm Ki-tô. Con chỉ có thể tìm thấy cái hiểu cao hơn này bằng cách với ra ngoài vũ trụ vật chất, và để làm vậy, con phải sẵn lòng thách thức các hình ảnh trong thể bản sắc của con bảo rằng con không là gì hơn một người phàm trần hữu diệt.

Hầu hết mọi người đều bị kẹt lại ở các tầng vật lý, cảm xúc hay lý trí, và họ sẽ không bao giờ vượt quá tầng của họ cho đến khi họ chịu chất vấn những gì mà cho tới giờ họ xem là vượt ngoài mọi chất vấn. Họ sẽ không vượt lên được cho tới khi họ sẵn lòng thách thức chính những ý tưởng cùng tin tưởng mà cho tới giờ họ xem là đương nhiên, là những sự thật không thể sai lầm, không thể hoặc không nên tra vấn. Chỉ khi nào con sẵn lòng thách thức niềm tin rằng con là một sinh thể hữu diệt, hay con là một kẻ có tội khốn nạn, thì con mới có thể tiếp xúc với tâm Ki-tô và nhận được sự thật rằng con là một sinh thể tâm linh bất diệt, một người đồng-sáng tạo với Thượng đế của con. Chỉ khi đó con mới thoát khỏi được cái bẫy của tình trạng hữu diệt, là điều mà Kinh thánh thật sự nói đến qua câu “sự chết là kẻ thù cuối cùng” (1Corinthians 15:26). Đây là cái bẫy của con đường giả trá dẫn đến cái chết tâm linh thay vì sự tự thăng vượt vĩnh cửu khi con chảy với Dòng sông sự Sống và không ngừng đồng-sáng tạo với Thượng đế.

15.11. Không từ dưới đi lên, mà từ trên đi xuống

Những gì thày đang nói với con ở đây chính là tinh túy của sự sống, tinh túy của việc thị hiện sự sống dồi dào. Thày biết là những ý tưởng này có vẻ hơi trừu tượng, nhưng trong các chương kế tiếp thày sẽ trình bày thực tiễn hơn cho con. Điều thày muốn đạt được trong chương này là giúp con hiểu rằng bí mật thật sự của việc thị hiện dồi dào là con cần khuếch trương sự nhận biết về bốn thể phàm của con. Thật quan trọng con hiểu được sự thật sau đây, là một sự thật thường bị các đạo sư về thịnh vượng trên thế giới bỏ qua.

Người ta thường nghĩ là để thanh lọc bốn thể phàm, con nên bắt đầu từ dưới đi lên. Dù sao thì thày cũng đã nói, vấn đề thực sự trên trái đất là con người đã rơi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn. Điều này đã xảy ra vì họ đã từ từ làm ô nhiễm bốn thể phàm của mình bằng những hình ảnh bất toàn cho đến khi cái ta ý thức của họ bắt đầu tự đồng hóa với cơ thể vật lý và cõi vật lý. Ý niệm bản sắc của họ dần dà bị hạ thấp xuống mức vật lý, cho nên con có thể nghĩ là con cần khởi sự ở nơi con đang đứng và làm việc từ dưới đi lên.

Con sẽ làm giống như nhiều người đang làm trong thế giới ngày nay. Con sẽ tìm cách thanh lọc và tăng thể lực cho cơ thể vật lý qua nhiều cách khác nhau. Ở ngoài kia có rất nhiều phương pháp tập tành cơ thể, chẳng hạn như chế độ ăn uống, tập thể dục hay làm sạch cơ thể cho không còn độc tố. Nhiều người đã có tiến bộ qua việc thanh tẩy thể xác, cho nên thày không đang bảo là con không nên chăm sóc cơ thể. Thế nhưng động cơ và mục tiêu đằng sau nỗ lực tập tành mới quan trọng hơn cả.

Con có thể cho rằng để tìm lại ý niệm bản sắc đích thực của mình, con sẽ bắt đầu với việc thanh lọc cơ thể. Xong đến bước kế tiếp, con sẽ học cách làm chủ cảm xúc của con, rồi đến tư tưởng, và chỉ sau đó con mới bắt đầu thay đổi ý niệm bản sắc. Đây là con đường có vẻ đúng đắn cho một người phàm vì nó có vẻ quá hợp lý và lô-gích. Mặc dù con có thể tiến bộ đôi chút theo cách này, nhưng con sẽ tiến rất chậm và con sẽ không thể tiến xa hơn một mức nào đó. Thanh lọc cơ thể, cảm xúc và tư tưởng, thậm chí cả làm việc với ý niệm bản sắc của mình, cũng sẽ không tự động biến con thành một sinh thể Ki-tô. Nó có thể biến con thành một sinh thể phàm trần vô cùng tinh xảo và mạnh mẽ, có khả năng tạo ra một số hiện tượng nào đó – kể cả của cải vật chất – nhưng sinh thể này sẽ không thấy bất cứ lý do nào để buông bỏ cảm giác là mình tự chủ bằng cách quy hàng tâm Ki-tô.

Con không thể đạt được tiến bộ tối hậu bằng con đường này. Lý do là vì tâm ý thức của con không thể thay đổi cảm xúc của con – nó chỉ có khả năng kềm nén cảm xúc. Cũng vậy, thể tình cảm của con không thể thay đổi tư tưởng của con – nó chỉ có khả năng lựa ra những ý tưởng phù hợp với ham muốn của nó xong tìm cách ngăn chặn các ý tưởng còn lại. Thể lý trí của con không thể thay đổi ý niệm bản sắc của con – nó chỉ có khả năng che phủ bản sắc này bằng một hình ảnh trí năng. Đơn giản là con sẽ chỉ tìm cách tạo ra bằng tâm ý thức một chương trình máy tính có khả năng áp đảo các chương trình ở những tầng cao hơn của tâm con. Điều này sẽ chỉ gia tăng sự phân rẽ và căng thẳng nội tâm, cho nên một cách tiếp cận hay hơn gấp bội là con khởi sự từ trên và loại bỏ các chương trình đang giới hạn con.

Nếu con tìm cách kềm nén các ý nghĩ và cảm xúc sâu hơn, con sẽ đi theo con đường vòng vèo nhất dẫn con vào ngõ cụt, và ngõ cụt này là con tìm cách hoàn thiện cái ta hữu diệt mà cứ tưởng là một khi nó đáp ứng một chuẩn mực toàn hảo nào đó, một chuẩn mực dựa trên tâm nhị nguyên, thì nó sẽ được chấp nhận trong mắt Thượng đế và nhờ vậy có thể làm cỗ xe đưa con lên thiên đàng. Trong các chương trước, thày đã bỏ ra rất nhiều thì giờ trình bày về sự cần thiết phải để cho ý niệm bản sắc hữu diệt chết đi. Đó là để giúp con tránh không rơi vào cạm bẫy cứ cố hoàn thiện ý niệm bản sắc đó theo một chuẩn mực nhị nguyên, một chuẩn mực sẽ không bao giờ chấp nhận được trong mắt Thượng đế vì nó không dựa trên tâm Ki-tô.

Chìa khóa thực sự cho sự sống dồi dào là ngộ ra sự thật thày đã nói với con, cụ thể là trung tâm cuộc sống của con là cái Ta Biết cùng những quyết định con lấy. Cái Ta Biết có khả năng tự đồng hóa với, và tự đồng hóa như, bất cứ gì nó nghĩ đến, dù là trong thế gian này hay vượt khỏi thế gian. Chìa khóa thực sự cho dồi dào là nhận biết được cái Ta Biết, nhận biết được rằng con là những gì con nghĩ con là. Thay vì làm việc từ dưới đi lên xuyên qua bốn thể phàm và có thể bị kẹt lại ở bất cứ tầng nào nơi con đạt được một khả năng thiện nghệ nào đó mà con không sẵn lòng buông bỏ, thì con có thể ngay lập tức xoay chuyển ý niệm bản sắc của con. Con có thể đi thẳng vào thể bản sắc và bắt đầu chất vấn, thách thức cái ý niệm bản sắc giới hạn đã được lập trình vào đó qua tâm phản Ki-tô. Con có thể bắt đầu với lên sự thật cao hơn của tâm Ki-tô bằng cách nối kết với cái ta Ki-tô của con và nhận được sự thật này ở một mức độ cá nhân. Khi con dùng chìa khóa của hiểu biết ở ngay trong con, con có thể lập tức bắt đầu thay đổi ý niệm bản sắc của con. Một khi con thay đổi ý niệm bản sắc, không thể tránh là con sẽ bắt đầu thay đổi tư tưởng, rồi cảm xúc của con sẽ bắt đầu thay đổi, và như vậy các hành động vật lý cũng thay đổi theo.

Nhiều người tin rằng để cải thiện đời họ, họ cần thay đổi cách cư xử. Họ cố dùng ý chí có ý thức, hay một hệ thống vỏ ngoài nào đó, để thay đổi cách cư xử. Mặc dù việc thay đổi cách cư xử là một chuyện khả thi, thay đổi này có một cái giá phải trả, vì con vẫn đang dùng tầng thấp của tâm con, cái tâm ý thức, để thay đổi cách cư xử. Con vẫn đang tìm cách sử dụng ý niệm nhận biết hạn chế của con để thay đổi cư xử vỏ ngoài, nhưng con không làm gì để thật sự thay đổi thực tại nội tâm là cách con tự nhìn mình như thế nào. Con nghĩ con có thể thay đổi một vài khía cạnh trong cách cư xử của con rồi đạt được một kết quả vỏ ngoài. Một số kết quả có thể đạt được, nhưng con sẽ không bao giờ vượt quá được mức này, và đời con biến thành một cuộc vật lộn gian nan, luôn luôn tìm cách kỷ luật hành vi của mình. Con đang tìm cách dùng tâm nhị nguyên để sửa đổi tâm nhị nguyên, con đang tìm cách giải quyết một vấn đề từ cùng mức tâm thức đã tạo ra vấn đề. Thay vì vượt qua cuộc đấu tranh, con chỉ giản dị gia tăng sự phức tạp và cường độ của cuộc đấu tranh. Con vẫn là một ngôi nhà bị phân rẽ, và con vẫn tiếp tục đánh nhau với các thế lực đang kéo con ra mọi hướng.

Sự thật là hành vi của con là sản phẩm của cảm xúc, cảm xúc là sản phẩm của ý tưởng, và ý tưởng là sản phẩm của ý niệm bản sắc. Nếu con tìm cách thay đổi hành vi mà không thay đổi cảm xúc, con chỉ làm vậy được bằng cách dùng vũ lực để kềm nén những cảm xúc đã thôi thúc con có những hành vi mà con đang cố thay đổi. Đây là thế kẹt tiến thoái lưỡng nan mà Paul đã nói đến qua câu: “Điều lành tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều dữ tôi không muốn thì tôi lại làm” (Romans 7:19). Đây là vấn đề nan giải muôn thuở của con người, tức là con quyết định bằng tâm vỏ ngoài là con muốn thay đổi cách cư xử, nhưng thể cảm xúc của con lại không ngừng thôi thúc con tiếp tục cách cư xử cũ, và đó chính là lý do con đã bước vào khuôn nếp cư xử đó.

Chẳng hạn con thấy nhiều người bị nghiện rượu hay nghiện ăn. Họ quyết định với tâm vỏ ngoài là họ muốn ngừng uống rượu hay ngừng ăn thái quá. Nhưng thể cảm xúc liên tục bảo họ là họ muốn uống rượu, muốn ăn, cho nên họ phải liên tục chiến đấu với chính họ. Cách tiếp cận thực sự để thay đổi cư xử của mình là nhận ra cư xử này khởi lên từ một số cảm xúc, cho nên mình cần thay đổi cảm xúc trước khi cố thay đổi cư xử. Cảm thể của con không là tầng cao nhất trong bản thể con vì cảm xúc khởi lên từ ý tưởng. Con phải thay đổi ý tưởng trước khi con có thể thay đổi cảm xúc – nhưng chờ đã – ý tưởng của con vẫn không phải là nguyên nhân gốc rễ bởi vì ý tưởng khởi lên từ ý niệm bản sắc. Cách duy nhất để thực sự thay đổi ý tưởng là thay đổi ý niệm bản sắc.

Con không thể làm việc hiệu quả từ dưới đi lên. Sẽ hiệu quả hơn và mạnh mẽ hơn gấp bội nếu con đi thẳng lên trên cùng và bắt đầu với ý niệm bản sắc của con, rồi sau đó tất cả các tầng dưới của tâm con sẽ cứ thế nối đuôi theo. Tâm ý thức nằm thấp hơn thể cảm xúc, cho nên nó có quyền lực giới hạn trên cảm xúc của con. Cách hiệu quả duy nhất để thay đổi cảm xúc là thay đổi tư tưởng. Cách thay đổi tư tưởng là thay đổi ý niệm bản sắc. Cho nên vấn đề nằm ở chỗ là tâm ý thức – tâm tùy thuộc vào bộ não vật lý – có rất ít quyền năng để thay đổi ý niệm bản sắc. Giải pháp hữu hiệu duy nhất là cái Ta Biết tách mình ra khỏi tâm ý thức và tái lập bản sắc đích thực của con như một sinh thể tâm linh. Sinh thể này nằm bên trên, nằm vượt khỏi bất kỳ nội dung nào trong bốn thể phàm và do đó nó có quyền năng thay đổi nội dung này.

15.12. Con không phải là anh lính quèn

Để lấy một minh họa, con hãy tưởng tượng một nhóm khoa học gia ngồi trong rạp chiếu phim. Họ nhìn hình ảnh trên màn hình và quyết định là họ muốn hiểu rõ các hình ảnh này được sản xuất từ đâu và tại sao chúng lại có hình dạng như thế. Vì họ là nhà khoa học duy vật cho nên họ chỉ nhìn vào màn hình. Họ không cởi mở với ý tưởng là hình ảnh trên màn hình có thể không được sản xuất ở mức màn hình mà được chiếu lên màn hình từ một nơi khác, từ một mức thực tại cao hơn. Họ mổ xẻ màn hình, xem nó được xây dựng thế nào, đồng thời họ cũng mổ xẻ các hình ảnh cùng hình dạng của chúng, cố tìm xem chúng có thay đổi theo một khuôn mẫu nào không. Họ đinh ninh là nếu họ hiểu được cách hình ảnh biến đổi thì họ sẽ biết tại sao chúng lại khoác vào hình dạng đó.

Liệu con có thể thực sự hiểu được hình ảnh trên màn hình chiếu bóng mà chỉ xem xét màn hình không thôi? Quan trọng hơn, liệu con có thể nào thay đổi hình ảnh xuất hiện trên màn hình bằng cách chỉ làm việc ở mức màn hình? Đúng là con có thể thay đổi hình ảnh bằng cách sơn màn hình màu đen, và khi đó con không còn thấy hình ảnh sáng sủa nào nữa. Nhưng làm vậy vẫn không thay đổi những gì được chiếu lên màn hình từ máy chiếu phim. Để thực sự thay đổi hình ảnh xuất hiện trên màn hình, con phải đi vào phòng chiếu phim và thay cuộn phim trên máy chiếu.

Trong bản thể con có bốn cuộn phim: cơ thể vật lý, thể cảm xúc, thể lý trí và thể bản sắc. Chúng làm việc cái này nối theo cái kia. Hình ảnh vật lý là sản phẩm của hình ảnh cảm xúc, hình ảnh cảm xúc là sản phẩm của hình ảnh lý trí. Con có thể cố thay đổi mãi không thôi các hình ảnh cảm xúc mà vẫn không có tác dụng gì trên các hình ảnh lý trí. Nếu con tự nhận diện mình là một kẻ có tội ngay trong bản chất, như nhiều người đạo Cơ đốc được dạy dỗ, thì có một số ý tưởng con sẽ không bao giờ chấp nhận. Mọi ý tưởng của con sẽ bị giới hạn trong khuôn khổ ý niệm bản sắc của con, nghĩa là con sẽ chỉ có thể nghĩ mình là một kẻ có tội rất cần đến một vị cứu tinh từ ngoài. Không thể tránh được là điều này sẽ khiến cảm xúc của con cũng bị giới hạn trong một khuôn khổ, và con có xu hướng cảm thấy bất lực hay bị tê liệt, luôn luôn tìm kiếm ai đó sẽ đến cứu mình hay bảo mình phải làm gì. Và một lần nữa, điều này sẽ hạn chế hành động của con, con sẽ có khuynh hướng đi theo một lãnh đạo hay một giáo hội vỏ ngoài, con sẽ ngại làm những hành vi vượt ngoài khuôn mẫu. Người ta có thể sống cả đời như vậy trong một bộ áo tù bó chặt tay chân mà tiến bộ rất ít.

Vì đây là một điểm quan trọng đến vậy nên thày sẽ cho con thêm một minh họa. Hãy tưởng tượng có vị tổng thống của một nước kia quyết định tuyên chiến với một nước khác. Quyết định này được chuyển xuống cấp tham mưu quân sự để quyết định thời điểm cùng địa điểm tổng quát của chiến dịch. Kế hoạch tổng quát này sau đó được chuyển xuống cấp sĩ quan để quyết định mọi chi tiết cuộc tấn công, đánh cụ thể mục tiêu nào và giờ nào, đơn vị nào sẽ tham chiến và thiết bị nào được sử dụng. Cuối cùng lệnh tấn công được thi hành ở mức mỗi đơn vị, và giờ đây chúng ta có một anh lính đứng giữa một trận chiến lớn. Anh ta có thể không thích lắm hoàn cảnh của mình, và anh cảm thấy mình không có chọn lựa nào để thay đổi hoàn cảnh này. Lý do là vì hoàn cảnh của anh là sản phẩm của nguyên một chuỗi quyết định ở những cấp lãnh đạo cao hơn. Hoàn cảnh của người lính không thể được thay đổi ở mức người lính, mà chỉ có thể thay đổi cơ bản ở một cấp cao hơn.

Tổng thống tượng trưng cho thể bản sắc của con, bộ tham mưu là tư tưởng của con, sĩ quan là cảm xúc và anh lính riêng lẻ đó là tâm ý thức của con. Bây giờ chúng ta hãy tưởng tượng anh ấy không muốn chết. Chắc chắn anh có thể có một số biện pháp để tự bảo vệ, kể cả việc nâng cao kỹ năng chiến đấu để tiêu diệt quân địch trước khi chúng giết anh. Anh có thể đạt một số thành quả bằng cách làm việc ở mức của anh, kể cả việc dùng vũ lực để tự vệ, tiêu diệt người khác. Nhưng dù anh có làm gì ở mức của mình, việc này sẽ không ảnh hưởng gì đến cấp sĩ quan cùng kế hoạch của họ cho trận đánh sắp tới, hay ảnh hưởng ban tham mưu và chiến lược của họ cho toàn bộ chiến dịch. Nó sẽ không ảnh hưởng gì đến tổng thống cùng quyết định khai chiến của ông ta. Anh lính bị kẹt cứng, và anh không có cách nào thực sự nắm lấy vận mạng của anh.

Làm thế nào anh thay đổi được tình trạng này đây? Trên lý thuyết, anh có thể cố đi từ dưới lên xuyên qua mỗi cấp trong hệ thống. Anh có thể thuyết phục các sĩ quan rút đơn vị của anh ra khỏi trận chiến, nhưng chính họ có nhiệm vụ thi hành kế hoạch tổng thể, và nếu họ cần đến đơn vị của anh thì anh sẽ không thành công. Xong anh có thể cố liên lạc với ban tham mưu, xin họ thay đổi chiến lược, nhưng điều này sẽ cản trở quyết định của tổng thống, và một lần nữa anh sẽ gặp chống đối.

Cách tối hậu để người lính này nắm lấy vận mạng của mình và sống sót là đi thẳng lên tổng thống và yêu cầu ông ta ngừng cuộc chiến. Ngay khi tổng thống quyết định thì bộ tham mưu lẫn các sĩ quan sẽ phải tuân lệnh, và anh lính được tự do trở về nhà. Kịch bản này thích hợp, vì điều ngăn con không có được sự sống dồi dào chính là cuộc chiến diễn ra giữa các thành viên bên trong con (Romans 7:23). Con hãy tưởng tượng anh lính kia rút ra khỏi chiến trường và đi đến dinh tổng thống. Khi anh bước vào văn phòng tổng thống, anh khám phá là không có ai ngồi đó, ghế tổng thống trống trơn. Trong một chớp, anh ngộ ra là không có tổng thống, và bộ tham mưu cùng các sĩ quan chỉ tiếp tục đánh nhau vì lý do đơn giản là chẳng có ai để ngừng cuộc chiến. Họ chỉ thi hành mệnh lệnh nhưng chưa bao giờ họ chất vấn xem có còn tổng thống ở đó hay không để xác nhận mệnh lệnh. Họ chưa bao giờ dám chất vấn cấp trên trong nguyên hệ thống chỉ huy, hay chất vấn tại sao chiến tranh lại khởi sự.

Thoạt tiên anh lính của chúng ta bị sốc, nhưng sau đó anh nhận thấy một tấm biển nhỏ trên ghế tổng thống. Anh bước lại gần và đọc: “Nếu bạn đã vào được phòng này thì bạn có tiềm năng trở thành vị tổng thống tới. Nếu bạn muốn chấm dứt cuộc chiến, bạn là người độc nhất có khả năng làm vậy, nhưng bạn phải sẵn lòng nắm quyền chỉ huy.” Nếu con muốn cuộc chiến giữa các thành viên trong con chấm dứt, con phải sẵn lòng bước lên nắm lấy quyền chỉ huy bốn thể phàm của con. Con phải ngồi vào ghế tổng thống và lãnh trách nhiệm về tình hình. Con chỉ có thể làm vậy khi cái Ta Biết tách mình ra khỏi mọi dính mắc với các thể thấp, ngừng hạn chế mình trong bất kỳ tầng thấp nào – ngừng cho mình là anh lính quèn. Con phải đi thẳng lên thể bản sắc của con, thiết lập một bản sắc đúng đắn dựa trên sự thật Ki-tô và tự đặt mình vào vị trí chỉ huy tối cao của bản thể mình. Khi đó, con có thể chấm dứt cuộc chiến và binh lính có thể trở về nhà ở Vườn Eden.

15.13. Con đang góp phần vào một kế hoạch vĩ đại

Nếu con muốn đạt thành quả tối hậu, nếu con muốn tăng triển tối đa, con cần thách thức ý niệm bản sắc rằng con là một người phàm trần hữu diệt, con là một kẻ có tội khốn nạn, và không có gì con có thể làm để mang lại sự cứu rỗi cho bản thân và thị hiện sự sống dồi dào. Con cần thách thức tất cả mọi hạn chế đã được lập trình vào trong con bởi cái ta hữu diệt của con, bởi tâm phản Ki-tô, bởi gia đình, giáo hội và nhà nước. Khi con thách thức các hình ảnh này và bắt đầu nhận ra quả thực mình là một sinh thể tâm linh vô biên đang ở đây không chỉ để hưởng đời sống vật chất sung sướng, mà còn đến đây với một sứ vụ tâm linh quan trọng, thì toàn bộ tầm nhìn của con về cuộc sống sẽ bắt đầu thay đổi. Con sẽ có một cảm nhận sâu sắc hơn về chí hướng, về ý nghĩa, về cuộc đời như một cơ hội tuyệt vời để biểu lộ khả năng sáng tạo của mình và trở nên nhiều hơn nữa trong thiết kế mà Đấng Sáng tạo đã dành cho con.  

Điều này sẽ đem lại biến đổi to lớn và cơ bản trong mọi khía cạnh đời con vì nó sẽ thay đổi cách con nhìn mọi chuyện. Khi con bắt đầu kinh qua thay đổi này, con sẽ thấy cảm giác vật lộn dần dần giảm bớt cho đến khi nó biến mất hoàn toàn. Sẽ tới một điểm khi thay vì cảm thấy cuộc sống là một gánh nặng bị ép buộc lên con, con bắt đầu cảm thấy cuộc sống quả thật là một cơ hội to lớn mà chính con đã nắm lấy bởi vì dòng sống của con, cái Ta Biết, đã thực sự mong muốn đi vào cõi vật chất để đem sự toàn hảo của viễn quan cao hơn của con vào cõi này. Con đích thực đã muốn đến đây vì con muốn góp phần vào kế hoạch vĩ đại đem vương quốc Thượng đế đến hành tinh địa cầu. Con muốn góp phần đổ đầy ánh sáng và sự thật vào bầu cõi này của vũ trụ vật chất để bóng tối không còn nữa và tất cả mọi thứ chỉ phản ánh sự toàn hảo được cất giữ trong tâm Ki-tô hoàn vũ.

Con yêu dấu, nếu con đi vào cốt lõi của bản sắc con, tức là bản sắc tâm linh vượt khỏi ý niệm bản sắc vật chất, con sẽ khám phá đó chính là lý do con ở đây. Con ở đây vì con yêu sinh thể mà con là, và con mong muốn chia sẻ sinh thể mà con là, một người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Cuộc sống không phải là một gánh nặng, cuộc sống không phải do Thượng đế áp đặt lên con, một ông thần nóng giận trên trời muốn trừng phạt con bằng cách bắt con phải đau khổ. Cuộc sống là một cơ hội, cuộc sống là một chọn lựa. Ở một thời điểm trong quá khứ xa xôi, chính con đã chọn bước xuống cõi vật chất này để đem ánh sáng vào bóng tối. Thày cũng biết là giữa giây phút vượt thời gian đó và giây phút hiện tại trong thời gian và không gian, con đã quên bẵng mất tại sao con đến đây.

Nếu con chịu bỏ nỗ lực thách thức ý niệm bản sắc giới hạn của mình, con có thể – trong một thời gian ngắn không ngờ – được tái sinh trong nhận biết nguyên thủy rằng con là ai và tại sao con đến đây. Khi đó, mọi cảm nhận vật lộn sẽ tan biến giống như sương tan trong tia nắng bình minh. Bỗng nhiên con sẽ bắt đầu nhìn thấy mặt trời của bản thể cao của con, mặt trời của Hiện diện TA LÀ, chiếu xuyên qua tất cả mọi tầng của tâm con. Khi mặt trời này bắt đầu rọi sáng xuyên qua bốn thể phàm, nó sẽ làm tan chảy bóng tối cùng mọi giới hạn, và cảm giác vật lộn cũng sẽ theo chân biến mất. Nó tan biến như thể nó chưa bao giờ hiện hữu, và đời con sẽ khoác vào một ý nghĩa và hướng đi hoàn toàn mới.

Bỗng nhiên con sẽ nối kết lại với thực tại cuộc sống, rằng cuộc sống là an lạc – cuộc  sống là dòng chảy liên tục của tình thương Thượng đế, niềm vui Thượng đế, hạnh phúc Thượng đế đang xuôi chảy đằng sau mọi hình tướng bề mặt được lưu trữ trong bốn phần thấp của tâm con. Con có thể lao mình vào dòng chảy của sự sống và chạm được niềm vui tái ngộ với cái Tất Cả của Thượng đế, niềm vui góp phần vào đồ án vĩ đại là sự trải bày của công trình sáng tạo của Thượng đế. Đây là tấm thảm của sự sống, nó tráng lệ đến độ không ai có thể tham gia vào đó mà không cảm thấy kinh ngạc lẫn biết ơn, biết ơn là mình được chứng kiến sự trải bày của thiết kế vĩ đại này từ một góc nhìn cá nhân, đặc biệt.

Ôi con yêu dấu, cuộc sống là niềm vui. Đây là thực tại đằng sau mọi sự vật lộn của con người trên hành tinh này. Thày không có mong muốn nào mạnh hơn là giúp mỗi người trên hành tinh nhìn xa hơn cảm giác vật lộn đó và cho phép một tia nắng của mặt trời bản thể cao của họ rọi xuyên qua. Tia nắng này sẽ xua tan cảm giác đấu tranh để họ có thể nối kết lại với niềm vui đích thực là chính bản thể họ. Con yêu dấu, thày biết chuyện này nghe có vẻ bất khả thi từ tâm thái hiện thời của con, nhưng thày xin nói với con là nó có vẻ bất khả thi chỉ vì tia nắng của mặt trời Hiện diện TA LÀ đang bị ngăn chặn bởi các hình ảnh bất toàn và năng lượng tha hóa được cầm giữ trong bốn tầng của tâm con. Nếu con bước theo chân thày và sử dụng những dụng cụ để thanh lọc bốn thể phàm, thày có thể cam đoan với con là một ngày con sẽ thấy được một tia nắng rọi chiếu qua tâm thức, nó sẽ cho con bằng chứng không thể chối cãi là, thật vậy, cuộc sống là nhiều hơn những gì hầu hết mọi người trên hành tinh này trải nghiệm. Cho nên con hãy đi theo thày khi thày vươn lên cao hơn, và con với thày, mình cùng nhau chạm mặt trời.

13 | Luật hoàn trả: Cho tức là nhận

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/4/2005.

Trái tim yêu dấu của thày, bây giờ thày sẽ trao cho con một chìa khóa nữa mà con cần phải hiểu trước khi con có thể thật sự thị hiện sự sống dồi dào. Khi thày quan sát quá trình lịch sử cũng như lịch sử của từng dòng sống riêng lẻ, trong đó có con, thày nhận thấy có một điều thật sự ngăn cản con người thị hiện sự sống dồi dào là xu hướng chờ đợi điều kiện ngoại cảnh phải thích hợp trước khi con có thể hành động, trước khi con thay đổi bản thân, trước khi con từ bỏ một phần nào đó của cái ta hữu diệt. Vấn đề này xuất phát từ chính cái ta hữu diệt và xu hướng cố hữu của nó là muốn đạt được một trạng thái an toàn tối hậu.

13.1. Tự ngã cho con một cảm giác trọn vẹn giả hiệu   

Cái ta hữu diệt mang sẵn bên trong một sự xung đột, một mâu thuẫn không thể nào tránh, không thể giải quyết. Cái ta hữu diệt của con ra đời khi cái Ta Biết quyết định không lấy quyết định nữa, cho nên nó muốn lấy quyết định giùm con. Vì cái Ta Biết không bao giờ đánh mất lòng khao khát sự trọn vẹn, cái ta hữu diệt muốn thỏa mãn mong muốn này. Nhưng vì nó không thể hiểu sự trọn vẹn đích thực là gì, cho nên nó tìm cách cho con một cảm giác an toàn bằng cách kiểm soát mọi khía cạnh của đời con.

Nguồn tối hậu và duy nhất của trọn vẹn đích thực là khi cái Ta Biết tự đồng hóa với Hiện diện TA LÀ của con và dự phần, lao mình vào Dòng sông sự Sống. Chỉ khi nào con ở trong dòng chảy dồi dào không ngừng của Thượng đế – dòng chảy tự thăng vượt, trở nên hơn nữa – thì con mới có thể cảm thấy trọn vẹn thật sự. Cái ta hữu diệt không bao giờ có thể ở trong dòng chảy này của sự sống, bởi vì như Giê-su đã nói, nó không có sự sống trong nó (John 6:53). Nó không bao giờ có thể cho con một cảm giác trọn vẹn đích thực. Nó sẽ tìm cách chế tạo một cái gì thay thế, một cảm giác trọn vẹn giả, và điều này được mô tả trong Kinh thánh là những kẻ kêu gọi hòa bình nhưng không có hòa bình (Jeremiah 6:14).

Đây là mâu thuẫn cốt yếu, sự phân rẽ nằm ở trung tâm cái ta hữu diệt. Chìa khóa thực sự của trọn vẹn là nhập vào Dòng sông sự Sống, tức là không ngừng tự thăng vượt. Để thực sự trọn vẹn, con phải liên tục thăng vượt chính mình, liên tục trở nên nhiều hơn những gì con đang là ngay bây giờ. Đây là niềm vui cuộc sống, đây là trọn vẹn đích thực. Cái ta hữu diệt cố tạo ra ảo tưởng trọn vẹn bằng cách ngăn chặn sự tăng trưởng, ngăn chận tự thăng vượt, ngăn cản con trở nên hơn nữa. Hình ảnh nó có về trọn vẹn là một trạng thái “toàn hảo,” có nghĩa là mọi chuyện đều đứng yên và không gì thay đổi. Nó tin nó có thể đạt đến sự toàn hảo này qua việc kiểm soát con, kiểm soát mọi người khác, thậm chí kiểm soát cả vũ trụ vật chất. Cái ta hữu diệt của con và ông hoàng của thế gian không ngừng cố gắng kiểm soát vũ trụ, ép vũ trụ phải tuân theo tâm ảnh của chúng.

Tiếc thay, hình ảnh về sự toàn hảo cố định này vô cùng thuyết phục, và nó đã xâm nhập vào nhiều nền văn hóa lẫn tôn giáo. Nhiều tôn giáo giảng dạy hình ảnh một Thượng đế bên ngoài và quả quyết Thượng đế này toàn hảo. Họ tin là cái gì toàn hảo không thể nào thay đổi. Cái ta hữu diệt và các thế lực phản Ki-tô luôn luôn cố gắng ngăn chặn sự tự thăng vượt, ngăn chặn tăng trưởng, ngăn chặn tiến trình của Thượng đế trở nên hơn nữa xuyên qua con. Chúng cố tạo dựng một vương quốc giả mạo, một vương quốc thế phàm không có tăng triển, nơi chúng đã quy định một trạng thái “toàn hảo” dựa trên tâm thức nhị nguyên. Chúng đã xoay xở để khiến hầu hết mọi người và mọi xã hội chui vào hộp tư duy đó, chui vào khuôn đúc đó của sự toàn hảo.

Đây là một ảo tưởng. Điều này hoàn toàn bất khả thi, là cố làm một chuyện không thể nào làm được. Một trong những cơ chế an toàn được cài sẵn trong vũ trụ vật chất là không gì có thể đứng yên. Vì con đã được ban cho quyền tự quyết, con có thể chọn rút ra khỏi Dòng sông sự Sống chảy không ngừng nghỉ. Con có thể leo lên bờ sông và đứng bất động trên bờ trong khi Dòng sông sự Sống cứ tiếp tục chảy qua mặt con. Vì Thượng đế đã cho con quyền tự quyết, ngài cũng cho con khả năng làm chuyện đó, nhưng ngài cũng thiết lập vũ trụ vật chất với một yếu tố trì hoãn cho phép con duy trì ảo tưởng là mình đang đứng yên trong thế giới nhỏ bé của mình. Thế là con đã tạo ra một trạng thái toàn hảo nào đó, và nếu như con cứ duy trì hiện trạng như vậy thì con sẽ ở trong thiên đàng này mãi mãi. Ảo tưởng này chỉ có thể tồn tại trong hộp tư duy của cái ta hữu diệt, và cũng giống như mọi khía cạnh khác của cái ta hữu diệt, nó chỉ có thể tồn tại một thời gian. Không thể tránh được lực co lại của Mẹ sẽ rốt cuộc phá vỡ ảo tưởng. Đó là tại sao trong chiều dài lịch sử, nhiều nền văn minh đã đạt đến một trình độ thành đạt rất cao xong đã sụp đổ một cách khó hiểu. Các nền văn minh này đã sụp đổ vì họ nghĩ họ đã đạt được sự toàn hảo và do đó họ đã từ chối thăng vượt chính họ. Điều không tránh khỏi là lực co lại của Mẹ sẽ phá sụp những tòa tháp Babel mà họ đã xây dựng trong ảo mộng tòa tháp sẽ vươn đến tận trời.

Nhân loại đã đeo đuổi mục đích bất khả thi này từ hàng ngàn và hàng ngàn năm trời, lâu hơn cả những gì các nhà sử học và khoa học của con hiện nay công nhận. Con có thể tiếp tục đeo đuổi như vậy, nếu con muốn, cho đến hết thời gian được phân bổ cho con. Thày không ở đây để khuyến khích con làm vậy. Thày ở đây để khuyến khích con kéo mình ra khỏi cuộc tìm cầu vô vọng này, và thay vào đó, con nhận ra sự thật muôn đời rằng chìa khóa cho sự trọn vẹn đích thực, và chìa khóa duy nhất cho cứu rỗi, là quay trở về Dòng sông sự Sống và không ngừng tự thăng vượt.

13.2. An toàn trong nhị nguyên là một tìm kiếm vô vọng

Cái ta hữu diệt của con được lập trình để gắng hết sức ngăn con tự thăng vượt, ngăn con vượt ra ngoài chiếc hộp tư duy được quy định bởi các tin tưởng nhị nguyên của nó. Cái ta hữu diệt đã thành công để khiến cho cái Ta Biết, ít ra phần nào, tin vào lời dối rằng toàn hảo có nghĩa là đứng yên. Cái ta hữu diệt đã thành công khiến cho cái Ta Biết tin rằng con cần an toàn. Trong nhiều trường hợp, nó lợi dụng tình trạng bất an của thế giới bên ngoài, tình trạng hỗn loạn do tâm thức nhị nguyên gây ra, để khiến con đeo đuổi cảm giác ổn định, an toàn và thoải mái đó. Nếu con quan sát loài người trên thế giới một cách trung thực, con sẽ thấy mặc dù có nhiều thói nghiện vỏ ngoài, nhưng đằng sau tất cả thói nghiện đó có thói nghiện an toàn, thói nghiện thoải mái. Nhiều người rất ghiền an toàn, và trên hết, họ cố xây dựng một cảm giác an toàn nào đó. Khi làm vậy, họ sẵn sàng hy sinh sự tăng trưởng, tắt máy cuộc đời, giết chết niềm vui cuộc sống. Họ muốn tiến trình cuộc sống phải ngừng lại để họ có thể có và giữ một cảm giác an toàn dựa trên ý tưởng là nếu không có gì thay đối thì không có gì xấu có thể xảy ra.

Cuộc đeo đuổi trạng thái an toàn này xuất phát từ nỗi sợ tăng trưởng, nỗi sợ thay đổi. Tinh túy của cuộc sống là tăng trưởng, nghĩa là tự thăng vượt. Vì cái ta hữu diệt không thể hiểu nổi điều này, nó đã xoay xở để phóng chiếu vào bản thể con nỗi sợ thay đổi, dựa trên suy luận rằng thay đổi chỉ có thể tệ hơn, thay đổi chỉ có thể xấu, thay đổi chỉ có thể mất mát. Thày đã lặp đi lặp lại là con có quyền tự quyết và tất cả xoay quanh cái Ta Biết cùng các quyết định mà con lấy. Nếu con cho phép cái ta hữu diệt quyết định giùm con, con sẽ không bao giờ phá được gông cùm của cuộc đeo đuổi vô vọng đó – đeo đuổi sự an toàn và ổn định trong một thế giới không ngừng thay đổi và không thể tránh thay đổi. Tại sao không thể tránh được thay đổi? Bởi vì định luật của Thượng đế được thiết lập để ngăn con kẹt lại trong một trạng thái giới hạn. Định luật quy định là hoặc con phải thay đổi bằng cách đi theo động lực trở nên hơn nữa, hoặc con phải thay đổi vì lực co lại của Mẹ sẽ đập bể các hình tượng khô cứng của con, đập bể những gì con đang tìm cách giữ nguyên như cũ. Con phải thay đổi qua sự thăng vượt bản thân hoặc sự co thắt bản thân. Nếu con ôm chặt một hình tượng khô cứng, lực co lại của Mẹ sẽ tạo ra một lực đối chọi sẽ thách thức hình tượng của con hầu giải phóng con.

Cuộc đeo đuổi vô vọng để tìm một sự an toàn không thể đạt được trong thế giới này chính là điều sẽ biến đời con thành một cuộc vật lộn không ngừng. Cái ta hữu diệt tin rằng nếu như nó có thể có được cảm giác an toàn tối hậu đó nơi không có gì thay đổi, thì cuộc vật lộn của con sẽ chấm dứt. Nếu như con ngừng mọi nỗ lực tự thăng vượt thì con sẽ ở lại mãi mãi trong trạng thái thiên đàng đó. Nhưng chính cuộc tìm kiếm ổn định, chính cuộc tìm kiếm sự bất biến, đã tạo ra vật lộn vì nó đặt con vào thế đối nghịch với chính bản chất cuộc sống là luôn luôn thay đổi qua hình thức tự thăng vượt. Cách duy nhất con có thể bắt đầu thoát ra khỏi cảm giác đấu tranh này là cái Ta Biết nhận ra là cái ta hữu diệt đang chạy theo một chuyện không tưởng.

13.3. Để đời con thay đổi, chính con phải thay đổi

Con phải hiểu đầy đủ điều thày vừa nói với con, cụ thể là chìa khóa tối hậu để được an toàn và trọn vẹn là xuôi chảy theo Dòng sông sự Sống, hầu con liên tục tăng trưởng và trở nên hơn nữa thay vì tìm cách giữ nguyên như cũ. Tăng trưởng không có nghĩa là mất mát. Làm sao con có thể mất được khi con tăng trưởng và trở nên nhiều hơn? Cái Ta Biết không thể nào mất mát khi nó tăng trưởng. Nhưng cái ta hữu diệt và các thế lực của thế gian quả thật có thể mất mát khi cái Ta Biết tăng trưởng và thăng vượt các hạn chế mà chúng đã tìm cách định ra cho con. Đó là tại sao chúng đã phóng chiếu nỗi sợ tăng trưởng vào bản thể con và nối liền tăng trưởng với nỗi sợ mất mát. Chính chúng mới là kẻ sợ mất mát, nhưng chúng đã xoay xở để khiến cái Ta Biết tự đồng hoá, một phần hay toàn bộ, với nỗi sợ mất mát này. Đây là lý do tại sao biết bao người trên hành tinh này không muốn thay đổi, họ lo sợ sự thay đổi chỉ có thể tệ hơn. Nhiều người kể chuyện “thuở trước vàng son” để nói về một thời khi mọi chuyện tốt đẹp hơn và sự thay đổi chỉ khiến cho tệ hơn. Trên thực tế, rất nhiều các thay đổi đang xảy ra trên thế giới rõ ràng là tốt hơn, đem lại nhiều trù phú hơn cho nhiều người hơn.

Nếu con muốn thị hiện sự sống dồi dào, con sẽ cần gì? Chúng ta hãy kiểm lại thực tế một cách đơn giản. Thực tế là hiện nay con không có sự sống dồi dào. Nếu con đã có sự sống dồi dào thì tại sao con lại đi học khóa này? Nếu con chưa có sự sống dồi dào, con sẽ cần gì để đạt dồi dào? Để đạt sự sống dồi dào, một điều gì đó phải thay đổi. Nếu con muốn có cái gì con hiện chưa có, thì một điều gì đó phải thay đổi. Nếu con không sẵn lòng thay đổi, nếu con sợ thay đổi, làm thế nào con có thể đạt được cái con chưa có? Đối với một số người, đây có vẻ là một dòng lý luận thật đơn giản, dường như ngây thơ, thô thiển hay hiển nhiên. Nhưng nếu con đã thật sự hiểu nguyên tắc giản dị này thì con đã không đang đọc khóa học này; con sẽ đang tận hưởng sự sống dồi dào đó rồi.

Nếu con muốn được cái gì con chưa có thì một điều gì đó phải thay đổi. Và điều gì phải thay đổi chứ? Điều phải thay đổi là chính con, cái Ta Biết. Con phải thay đổi cách con tiếp cận cuộc sống. Nếu cách tiếp cận hiện thời của con không đem lại sự sống dồi dào, thì cách thực tế duy nhất để thị hiện dồi dào là thay đổi cách con tiếp cận cuộc sống. Nếu những gì con đã làm cho đến nay đã không đem lại kết quả mong muốn, thì con phải thay đổi cách tiếp cận. Một lần nữa, con hãy xem định nghĩa của Albert Einstein về điên rồ – ông nói điên rồ là khi con cứ tiếp tục làm cùng một chuyện nhưng lại chờ đợi kết quả khác hơn. Đây chính là sự điên rồ được cài đặt trong cái ta hữu diệt của con. Cái ta hữu diệt giống như một máy tính được lập trình để làm cùng một chuyện hết lần này sau lần khác. Nó thực sự tin rằng nếu nó cứ tiếp tục làm cùng một chuyện, nếu nó cứ cố ngừng kim đồng hồ, cố ngừng sự tự thăng vượt, thì một ngày nào đó nó sẽ chế tạo ra trạng thái an toàn tối hậu nơi không có gì thay đổi. Cái ta hữu diệt sẽ cứ làm mãi như vậy, giống như chiếc máy tính cứ làm mãi cùng một chuyện cho đến khi con bảo nó làm chuyện khác. Cái ta hữu diệt không thể thay đổi cách tiếp cận cơ bản của nó, nó không có khả năng thay đổi bản chất của nó, tương tự như chiếc máy tính không có khả năng thay đổi lập trình của nó.

Người duy nhất có khả năng thay đổi những gì đang xảy ra trong đời con là cái Ta Biết. Con phải lấy quyết định là con sẵn lòng tự thăng vượt. Con phải đi bước đầu và từ bỏ một số tin tưởng nhị nguyên của cái ta hữu diệt, mặc dù con đã có thể dùng các tin tưởng này để gây dựng một cảm giác an toàn mong manh. Đây là nguyên tắc thiết yếu để thị hiện dồi dào, một nguyên tắc mà hầu hết mọi người đã bỏ sót – ngay cả những người đã tìm hiểu sự dồi dào từ rất lâu, thậm chí cả các đạo sư về dồi dào. Nếu con muốn đời con thay đổi, chính con phải thay đổi. Nếu con muốn thế giới của con thay đổi, con phải bắt đầu thay đổi chính mình. Nếu con muốn trải nghiệm sống của con thay đổi, con phải đi bước đầu bằng cách thay đổi tâm thức của mình, thay đổi cách mình tiếp cận đời sống.

Nền tảng của thay đổi là con sẵn lòng từ bỏ ít nhất một phần ý niệm bản sắc hiện thời của con. Con phải sẵn lòng từ bỏ một số tin tưởng nhị nguyên của cái ta hữu diệt, là những tin tưởng giữ con kẹt lại trong nhà tù của các giới hạn và cảm giác thiếu thốn. Nguyên tắc cơ bản của tăng trưởng là con phải sẵn lòng để cho ý niệm bản sắc hiện thời của con chết đi hầu con có thể tái sinh vào một ý niệm bản sắc mới, rộng lớn hơn. Vấn đề chủ chốt ở đây là con không thể bước vào ý niệm bản sắc mới đó – thậm chí có lẽ con không thể thấy được cả ý niệm bản sắc này – cho đến khi con sẵn lòng để cho bản sắc cũ chết đi. Con không thể nhận được dồi dào cho đến khi con chịu buông bỏ các hạn chế của mình. Cho phép thày nói lớn hết sức: Con phải cho trước khi con có thể nhận!

13.4. Vũ trụ phản chiếu lại tâm thức của con

Con yêu dấu, chuyện này không làm sao khác được, và thày đã giải thích cho con lý do khi thày nói rằng vũ trụ là một tấm gương. Trong một quyển sách [Bước theo con đường thần bí của Giê-su], Giê-su đã đưa ra một minh họa tuyệt vời về nguyên tắc này mà thày sẽ dùng lại ở đây. Hãy tưởng tượng con đang ngồi trước một tấm gương, nhìn vào hình ảnh của chính mình. Bây giờ con quyết định là con muốn hình ảnh trong gương mỉm cười với con. Làm thế nào chuyện này xảy ra được đây? Chỉ một cách mà thôi – chính con phải mỉm cười vào tấm gương. Gương chỉ có thể phản chiếu lại cùng hình ảnh được phóng chiếu vào nó. Nếu con muốn hình ảnh trong gương mỉm cười, con phải mỉm cười trước tiên. Đây là một sự thật hiển nhiên mà ai ai cũng hiểu, nhưng không phải ai ai cũng có thể áp dụng cho hình ảnh lớn hơn của cuộc sống. Vũ trụ vật chất là một tấm gương vũ trụ. Nó chỉ có thể phản chiếu lại cho con những gì con phóng chiếu vào nó. Nếu con muốn dồi dào biểu hiện trong đời con, con phải trước tiên biểu hiện tâm thức dồi dào, và sau đó – xuyên qua tâm thức đó – phóng chiếu sự dồi dào vào gương vũ trụ. Khi con làm vậy, tấm gương vũ trụ sẽ không thể tránh phản chiếu lại dồi dào cho con.

Để hiểu chuyện này vận hành thế nào, con cần biết là vũ trụ vật chất mang sẵn một yếu tố trì hoãn. Sẽ mất một thời gian nào đó trước khi sự phản chiếu quay trở về con. Đây là điều làm rối trí và nản lòng nhiều người tìm kiếm tâm linh chân thành. Thật sự hầu hết mọi người đang ngồi trước tấm gương vũ trụ và muốn thế giới mỉm cười với mình, nhưng họ lại không sẵn lòng mỉm cười với thế giới trước tiên. Họ đang nói, trong nghĩa đen: “Khi nào thế giới mỉm cười với tôi thì tôi sẽ mỉm cười lại. Khi nào thế giới cho tôi những gì tôi muốn thì tôi sẽ vui.”

Đây là một cách tiếp cận ngược chiều, không bao giờ có thể thành công. Tấm gương vũ trụ không thể phản chiếu về con những gì con chưa thể hiện trong tâm thức con. Cũng giống như chuyện chờ đợi hình ảnh của con trên một tấm gương vật lý mỉm cười với con trước khi con mỉm cười với nó. Chuyện này không thể nào xảy ra. Cái ta hữu diệt cứ cố khiến cho chuyện này xảy ra, nó liên tục cố khiến con tin rằng chuyện này có thể xảy ra. Nó bảo, nếu như con cứ tiếp tục làm theo lời chỉ bảo của nó và của ông hoàng thế gian trong một thời gian đủ dài, thì tới lúc vũ trụ sẽ mỉm cười với con mà con không cần mỉm cười trước.

Một trong những lừa dối lớn nhất được sử dụng chống lại nhân loại là niềm tin rằng hạnh phúc của con tùy thuộc hoàn toàn vào các điều kiện ngoại cảnh. Hạnh phúc là một cảm nhận diễn ra trong quả cầu cái ta. Như thày đã cố giải thích qua những chìa khóa trước, con có tiềm năng cai quản quả cầu cái ta của con. Con có khả năng chế tạo hạnh phúc – quả thực con phải chế tạo hạnh phúc – từ bên trong quả cầu cái ta của con. Con sẽ không bao giờ hoàn toàn hạnh phúc được chừng nào con còn tin vào ảo tưởng nhị nguyên rằng hạnh phúc của mình tùy thuộc vào bất cứ gì bên ngoài quả cầu cái ta của mình.

13.5. Hạnh phúc của con không tùy thuộc ngoại cảnh

Thày cũng biết đây là một lời dối vi tế và nhiều người tin như vậy. Tại sao họ tin như vậy? Vì cái ta ý thức của họ đã quyết định là họ không muốn lấy quyết định. Họ muốn tiếp tục tin rằng cách tiếp cận của cái ta hữu diệt là chính đáng. Họ muốn tiếp tục tin rằng nếu như họ cứ cho phép cái ta hữu diệt lấy quyết định giùm họ, cuối cùng họ sẽ chứng nghiệm thiên đường đã hứa. Mong muốn này có một lý do đơn giản. Nếu họ thừa nhận cách tiếp cận của cái ta hữu diệt không hiệu quả thì sẽ có nghĩa là họ lại phải bắt đầu lấy quyết định. Nếu họ không muốn làm vậy, họ cần phải tiếp tục tin vào ảo tưởng của cái ta hữu diệt. Họ không có chọn lựa nào khác hơn là hỗ trợ ảo tưởng này, và bởi vì cách suy luận của cái ta hữu diệt vốn nhị nguyên và tương đối, họ luôn luôn có thể tìm ra những luận cứ sẽ hỗ trợ lời dối và ảo tưởng của cái ta hữu diệt.

Cách tiếp cận cuộc sống của cái ta hữu diệt không chỉ được hỗ trợ bởi cách suy luận nhị nguyên của tâm phản Ki-tô, mà nó cũng được hỗ trợ bởi kinh nghiệm đời sống của con. Vũ trụ là một tấm gương phản chiếu lại cho con những gì con gửi ra. Nếu con gửi ra một cảm nhận thiếu thốn, tấm gương vũ trụ sẽ phản chiếu lại những điều kiện vật lý có thiếu thốn. Tin tưởng nhị nguyên rằng con sống trong một vũ trụ có dồi dào hạn chế và con chỉ có thể dồi dào bằng cách đoạt từ người khác, có vẻ như được chính cuộc sống xác nhận. Làm sao lập luận do cái ta hữu diệt và ông hoàng của thế gian đưa ra có thể sai được khi chính cuộc sống cũng có vẻ đồng ý? Sự thể biến thành một vòng tròn khép kín, một đường suy luận luẩn quẩn, một thế kẹt lưỡng nan không có lối thoát – trừ khi con với lên sự thật cao hơn của tâm Ki-tô.

Vì vũ trụ là một tấm gương, điều con tin sẽ trở thành một lời tiên tri tự nó ứng nghiệm. Nếu con tin là mình sống trong một thế giới thiếu thốn, đó sẽ là điều con trải nghiệm. Cách duy nhất để thoát ra khỏi thế giới thiếu thốn là thăng vượt trạng thái tâm thức chế tạo ra trải nghiệm này. Trước khi con có thể được sống trong một vũ trụ dồi dào, con phải trước tiên bước vào một trạng thái tâm thức dựa trên sự dồi dào. Như câu nói nổi tiếng của Henry Ford: “Cho dù con tin là con có thể, hay con tin là con không thể – con cũng đúng!”

Trước khi con có thể rời khỏi thế giới thiếu thốn, con – tức cái Ta Biết – phải phá vỡ vòng dây siết cổ của sự đồng hóa với cái ta hữu diệt và tin tưởng nhị nguyên của nó. Con phải cho phép ý niệm cái ta mà con đã xây dựng từ sự đồng hóa này chết đi. Chỉ sau khi con để nó chết thì con mới tái sinh vào một ý niệm bản sắc cao hơn. Con phải chịu được sự thật là trước khi con có được một cái gì tốt hơn, con phải trước hết từ bỏ cái con đang có ngay bây giờ. Và để thực hiện điều này, con phải chấm dứt thói nghiện an toàn đang ngăn con buông bỏ những gì con đang có để được một cái gì chưa biểu hiện trong vật lý. Con phải thay thế nó bằng đức tin – là cái biết nội tâm vượt khỏi mọi sự hiểu biết – đức tin rằng các định luật của Thượng đế thực sự hiệu quả, và nếu con tìm cầu Nước Trời và sự công chính của tâm thức Ki-tô trước tiên, thì mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con (Matthew 6:33).

13.6. Con không thể mua sự trọn vẹn

Con yêu dấu, lời dối do các thế lực thế gian quảng bá là con không cần thăng vượt chính con. Nếu con muốn thay đổi bất cứ gì trong đời mình, nếu con muốn thấy bất cứ thay đổi nào tốt hơn, thì con – tức cái Ta Biết – phải quyết định chấp nhận đó là một lời nói dối. Con phải quyết định là con không còn muốn rơi vào cám dỗ ở lại trong trạng thái thoải mái an toàn. Một khi con quyết định không chấp nhận lời dối này nữa, con phải đi bước lôgíc kế tiếp. Con phải khắc phục lời dối thứ nhì, rằng ngay bây giờ con chưa có những thứ con cần để tự thăng vượt. Lời dối này cố khiến con tin là con cần phải chờ một số điều kiện ngoại cảnh trước khi con có thể bước tới.

Có một kẻ thù bên trong và một kẻ thù bên ngoài đang tìm cách kiểm soát cái Ta Biết. Chúng làm thế nào? Bằng cách khiến cái Ta Biết tin vào lời dối rằng bên trong con không có những thứ con cần, rằng một cách nào đó con không trọn vẹn hay khiếm khuyết. Chúng dùng những hạn chế hiện thời và lỗi lầm quá khứ của con để cố chứng minh điều này. Tại sao cái Ta Biết lại dễ rơi vào lời dối đó? Vì hai lý do. Lý do thứ nhất là vì con cảm thấy không trọn vẹn, và do đó cái Ta Biết mang động lực muốn đạt sự trọn vẹn. Tất nhiên, cái Ta Biết hiện không cảm thấy trọn vẹn vì nó đang thiếu cái gì đó. Cho nên con dễ rơi vào suy luận bảo rằng sở dĩ con thiếu thốn hay thiếu sót gì đó là vì chính bản thân con không trọn vẹn, con cần một thứ gì con không có. Và điều này khiến con dễ rơi vào lời dối thứ nhì mà các lực của thế gian phóng chiếu vào con, là con cần một thứ gì từ bên ngoài chính mình hầu trở về thiên đường trọn vẹn mà con đã mất. Lời dối bảo, tự thân con không có những thứ cần thiết để được trọn vẹn, cho nên con cần một cái gì hay một ai đó từ ngoài. Đương nhiên, cái “ai đó” chính là cái ta hữu diệt và ông hoàng của thế gian, chúng hứa là nếu như con nhắm mắt đi theo chúng thì chúng sẽ dẫn con đến nơi chốn tuyệt vời mà chúng định nghĩa là thiên đường.

Đúng là cái Ta Biết không cảm thấy trọn vẹn vì nó đã đánh mất một cái gì trong quá khứ xa xôi. Cũng rất đúng là con cần cái gì đó từ ngoài cái Ta Biết để tái lập cảm giác trọn vẹn. Lời dối nằm ở chỗ cái đó chỉ có thể tìm thấy bên ngoài quả cầu cái ta của con. Kỳ thực điều con cần để tái lập sự trọn vẹn chỉ có thể tìm thấy bên trong quả cầu cái ta. Con cần tái khám phá mình thực sự là ai, tức một phần nối dài của một sinh thể tâm linh rộng lớn hơn – mà thày đã gọi là Hiện diện TA LÀ của con nhưng thật ra là nguyên một dòng dõi, một hàng ngũ nhiều tầng gồm những sinh thể tâm linh trở ngược lên tận Đấng Sáng tạo của con. Chỉ khi nào con tái lập cảm nhận hợp nhất với Đấng Sáng tạo, hợp nhất với mọi sự sống, thì con mới cảm thấy trọn vẹn. Cảm nhận hợp nhất này chỉ có thể được thiết lập bằng cách đi vào bên trong quả cầu cái ta và tìm thấy những gì đã sẵn ở đó, đã luôn luôn ở đó, nhưng đã bị che phủ bởi tấm màn ảo tưởng do cái ta hữu diệt thêu dệt.

Về nhiều mặt, cái ta hữu diệt giống như chiếc máy tính, nhưng cũng như ông hoàng của thế gian, nó là nhiều hơn một máy tính. Hai kẻ thù của con biết rất rõ con cần gì để tái lập sự trọn vẹn, và chúng phải ngăn con làm vậy để con tiếp tục nuôi béo chúng với năng lượng tha hóa hầu chúng có thể duy trì một sự tồn tại tách biệt. Nhưng chúng không thể mãi mãi ngăn con tìm cầu sự trọn vẹn. Mặc dù chúng có thể dựng lên nhiều chuyện trong thế gian để con bị lạc hướng và bỏ lơ cuộc tìm kiếm trong một thời gian, chúng sẽ không thành công mãi mãi. Các thế lực thế gian không thể mãi mãi ngăn cản một dòng sống đi tìm sự trọn vẹn tâm linh đích thực. Điều ông hoàng thế gian đã làm là bày ra một con đường giả, con đường có vẻ đúng cho người phàm nhưng cuối cùng là con đường chết. Lý lẽ cơ bản của con đường giả là con phải tìm trọn vẹn, tìm cứu rỗi, bên ngoài chính con. Để ủng hộ lời dối này, chúng bảo chính sự kiện con đang không trọn vẹn chứng minh là con không mang sẵn trong con những gì cần thiết để mà trọn vẹn. Con phải tìm cái đó ở bên ngoài, tức là trong thế gian.

Tất cả mọi thứ trong thế gian này được tạo bằng ánh sáng ở một độ rung thấp hơn ánh sáng trong cõi tâm linh. Không có gì trong thế gian này có thể cho con một cảm nhận trọn vẹn đích thực. Dù con có gom góp bao nhiêu tiền bạc, con cũng không thể mua sự trọn vẹn bằng tiền bạc. Tuyệt đối không có cách nào tái lập cảm nhận trọn vẹn xuyên qua tiền bạc hay bất cứ gì mà tiền bạc có thể mua. Chuyện này không thể làm được, và nếu con tìm hiểu cuộc đời của những người giàu nhất thế giới, con sẽ thấy họ đã không thể dùng tiền để mua hạnh phúc và tâm an bình cho dù họ có bao nhiêu của cải. Trong một thời gian, có thể họ nghĩ là họ đã mua được sự trọn vẹn, nhưng ảo tưởng này không thể kéo dài mãi mãi.

13.7. Phục hồi đức tin

Điều này dẫn chúng ta đến một đề tài thày biết sẽ gây khó chịu cho nhiều người trong thế giới hiện đại, cụ thể là đề tài đức tin. Con sống trong một thời đại khoa học, và khoa học đã làm rất nhiều để nâng cao các điều kiện sinh sống vật chất. Khoa học cũng đã làm rất nhiều để năng cao hiểu biết của nhân loại về các quy luật vật chất vận hành vũ trụ nơi con sống. Tiếc thay, khoa học cũng đã làm rất nhiều để làm suy yếu một trong những đức tính thiết yếu cho sự tìm kiếm dồi dào, cụ thể là đức tin – đức tin nơi những gì không thể nhìn thấy, không thể chứng minh qua những phương tiện có thể được nắm bắt bởi giác quan vật lý hay cách suy luận nhị nguyên của cái ta hữu diệt. Như Kinh thánh nói rất thực: “Đức tin là chất liệu của những điều hy vọng, là bằng chứng của những điều chưa thấy” (Hebrews 11:1).

Một trong những đóng góp quý giá của khoa học là giúp cho con người hiểu được khái niệm về quy luật tự nhiên. Khoa học cũng đã loại bỏ một phần huyền bí và dị đoan ra khỏi cuộc sống, là niềm mê tín tràn lan trong các thời đại trước, phần lớn được khích động bởi tôn giáo, là các tôn giáo chính thống đã dựng lên hình ảnh giả về một Thượng đế bên ngoài. Tuy đây là một diễn biến tích cực, nhưng khoa học cũng đã khiến cho nhiều người lơ là, bỏ qua hay phủ nhận khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Nếu con muốn thị hiện sự dồi dào đích thực và một cảm nhận trọn vẹn đúng nghĩa, con không thể bỏ qua sự kiện con là nhiều hơn một sinh thể vật chất. Con phải nhìn nhận sự thật con là một sinh thể tâm linh, bởi vì chỉ như vậy thì con mới có thể bước vào bên trong và tìm thấy sự trọn vẹn nội tâm mà con tìm cầu, một sự trọn vẹn không bao giờ có thể được chế tạo qua các phương tiện máy móc trong thế giới này.

Khi khoa học bảo rằng vũ trụ vật chất được điều khiển bởi các quy luật cơ học luôn luôn vận hành cùng một cách không bao giờ sai sót, điều này có phần đúng nhưng không phải là toàn bộ sự thật. Vũ trụ vật chất được điều hành bởi một số quy luật, và các luật này thì không thay đổi trong cách vận hành – chúng hoạt động một cách máy móc, từa tựa như một cỗ máy. Nhưng có một bộ quy luật cao hơn, mà chúng ta có thể gọi là quy luật tâm linh, và đây là những quy luật mà Giê-su đã đến để lưu ý nhân loại. Giê-su làm vậy một phần bằng cách thực hiện những việc người ta gọi là phép lạ. Bất cứ nhà khoa học nào cũng sẽ bảo con là phép lạ của Giê-su không thể nào có thật. Đứng về cơ học thì con không thể nào đi bộ trên mặt nước, biến nước thành rượu hay vực người chết sống lại. Đúng thực là nếu con chỉ vận dụng các quy luật hiện diện trong cõi vật chất, con sẽ không thể nào thực hiện những công việc đó. Nhưng cõi vật chất chỉ là phần nổi của một tảng băng chìm, một phần của một tổng thể rộng lớn hơn. Cõi vật chất là phần nối dài của cõi tâm linh, nó được tạo ra từ năng lượng của cõi tâm linh được hạ thấp độ rung. Bên dưới các quy luật vật chất là một bộ những quy luật tâm linh sâu xa hơn, và sau đây là sự khác biệt cơ bản.

Khi con bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên, con chỉ có thể dùng các quy luật vật chất. Ngay lúc cái Ta Biết bắt đầu đồng hóa như một con người hữu diệt, con đánh mất khả năng sử dụng các quy luật tâm linh cao hơn. Một người kẹt trong nhị nguyên không bao giờ có thể thực hiện những công việc mà Giê-su đã làm. Như Giê-su nói: “Kẻ nào tin ta cũng sẽ làm những công việc ta làm” (John 14:12). Ý nghĩa nội tâm là những ai tin theo Giê-su – đến độ làm theo gương thày và cố gắng đạt đến tâm thức Ki-tô – sẽ có khả năng sử dụng các quy luật tâm linh cao hơn.

Khi con dùng các quy luật tâm linh này, quả là con có thể thực hiện những cái gọi là phép lạ của Giê-su. Những kỳ tích này không thật là phép lạ theo nghĩa chúng không thể được giải thích và chỉ có thể được Giê-su thực hiện. Chúng hoàn toàn là thành quả tự nhiên của một người trong tâm thức Ki-tô sử dụng những quy luật tâm linh cao hơn có khả năng phủ quyết và thay thế quy luật vật chất. Khái niệm tâm làm chủ vật chất là một điều hoàn toàn khả dĩ, nhưng chỉ có tâm Ki-tô mới cho con khả năng điều ngự vật chất thật sự. Khả năng làm chủ vật chất này không phải là chuyện huyễn tưởng, mà thực sự là kế hoạch của Đấng Sáng tạo dành cho con, và đó là tại sao ngài mới bảo những người đồng-sáng tạo của ngài hãy nắm quyền cai quản trái đất. Cách tối hậu để làm chủ vũ trụ vật chất là lấy tâm làm chủ vật chất, hầu Ánh sáng Mẫu-Vật tức khắc trải bày ra hình tư tưởng của con mà không gặp yếu tố trì hoãn. Điều thày đang trình bày ở đây là một cách diễn tả mới cho câu “vũ trụ là một tấm gương.” Có thể nói là con – tức cái Ta Biết – đã được thiết kế để là một người đồng-sáng tạo với Thượng đế, và con không bao giờ có thể ngừng đồng-sáng tạo. Cho dù con có xem mình là gì đi nữa, con vẫn luôn luôn đồng-sáng tạo. Những gì con đồng-sáng tạo sẽ là sự biểu lộ của trạng thái tâm thức hiện thời của con, của hình ảnh bản thân con trong lúc này. Những gì con đồng-sáng tạo trong trải nghiệm vật chất của con là sự diễn tả của trạng thái tâm thức, hình ảnh về bản thân và thế giới quan của con.

Nếu con tự đồng hóa như một con người hữu diệt sống trong một thế giới hạn chế, những gì con đồng-sáng tạo sẽ là sự trải bày của trạng thái tâm thức này. Có nghĩa là việc đồng-sáng tạo của con chỉ có thể sử dụng các quy luật vật chất cùng những năng lượng đã bị hạ thấp xuống độ rung của phổ tần số vật chất. Đây là tại sao việc thị hiện dồi dào của con sẽ bị hạn chế trong các năng lượng được tìm thấy trong phổ tần số vật chất và các quy luật điều hành năng lượng trong trạng thái rung động này. Đây là tại sao con phải gom góp sự dồi dào bằng cách chiếm đoạt từ người khác thay vì sinh sản ra từ nguồn cung cấp vô tận của vũ trụ. Và đây là tại sao đời con trở thành một cuộc vật lộn thay vì là một trải nghiệm an lạc, tăng trưởng và tự thăng vượt không bao giờ ngừng.

Thượng đế đã cho con quyền tạo ra bất kỳ trải nghiệm nào con muốn – ít ra trong một thời gian. Nếu con muốn đời mình là một cuộc vật lộn, con có quyền tạo ra cuộc vật lộn, và con có quyền kéo dài cuộc vật lộn bao lâu con muốn. Do con đang theo khóa học này, thày đoán con đã đi đến kết luận là con không còn muốn vật lộn nữa, con muốn cái gì hơn thế, cái gì tốt hơn. Nếu thật sự con muốn hơn thế, con phải vươn ra khỏi cái ta hữu diệt cùng lối suy luận nhị nguyên của nó. Con phải vươn ra khỏi các quy luật cơ học và các năng lượng thấp tần số của vũ trụ vật chất. Để bắt đầu sử dụng các quy luật tâm linh, con phải làm hai chuyện. Con phải sẵn lòng đi bước đầu tiên. Và con cũng phải có đức tin là nếu con cứ tiếp tục đi những bước đúng đắn, rốt cuộc con sẽ nhìn thấy thay đổi trong đời mình.

13.8. Đức tin dựa trên hiểu biết Ki-tô

Điều chúng ta làm được trong thời đại hôm nay – một điều rất khó đạt được cho người tầm đạo tâm linh trong các thế kỷ trước – là chúng ta có thể vận dụng những khám phá của khoa học. Thay vì đức tin mù quáng, chúng ta có thể có đức tin dựa trên hiểu biết, dựa trên tảng đá của hiểu biết Ki-tô. Suốt các thời đại, nhiều tôn giáo và nhiều người tâm linh đã nghĩ rằng để thực sự có đức tin, con cần nhắm mắt tin vào hứa hẹn của tôn giáo mình, tin vào các tín điều do tôn giáo mình định ra – mặc dù con không thể hiểu các quy luật đằng sau lời hứa và không thể giải mã tín điều. Đó là loại đức tin giả hiệu phát sinh từ sự kiện tôn giáo chính thống đã tước mất chìa khóa của hiểu biết.

Tôn giáo không thể cho con người sự hiểu biết mà họ cần để có đức tin chân chính, một đức tin dựa trên cái biết nội tâm thay vì sự nhắm mắt tuân thủ các tín điều vỏ ngoài. Đây là khác biệt cơ bản giữa niềm tin mù quáng mà các tôn giáo chính thống cổ võ, và đức tin đích thực mà Giê-su cùng mọi vị thày tâm linh chân chính khuyến khích khắp các thời đại. Giê-su không muốn người ta nhắm mắt tin theo lời dạy của thày, mà thày muốn ai nấy sử dụng chìa khóa của hiểu biết để bước vào bên trong chính mình và đạt được hiểu biết từ cái ta Ki-tô sẽ cho phép mình biết với cái biết nội tâm rằng lời dạy của thày là chân thực.

Điều chúng ta cần làm trong thời đại hôm nay là lấy hiểu biết của khoa học và đưa nó vượt khỏi vũ trụ vật chất. Thật là một diễn biến đáng tiếc khi khoa học đã hoàn toàn xa rời tôn giáo. Điều này cũng dễ hiểu với tình trạng của tôn giáo thời trung cổ và việc giáo hội chính thống đã đàn áp các nhà khoa học đầu tiên như thế nào vì khám phá của họ. Về lâu về dài, đây không phải là một tình trạng có thể bền vững vì cả khoa học lẫn tôn giáo đều không thể phát huy hết tiềm năng thực sự của mình nếu cả hai cứ đối chọi với nhau. Nhân loại không thể tiến vào một thời đại hoàng kim chừng nào khoa học và tôn giáo còn giao chiến với nhau. Cả khoa học lẫn tôn giáo cần đi theo định luật cơ bản về sự tự thăng vượt, vì nếu không thì rốt cuộc cả hai sẽ lỗi thời. Ở một mức cá nhân hơn, con không thể đạt sự sống dồi dào nếu con không giải quyết cái có vẻ là mối xung đột giữa hai thế giới quan khoa học và tôn giáo, một xung đột mà con đã biết đến từ tuổi thơ ấu.

Đúng như khoa học đã nói với con, thế giới vận hành theo một số quy luật cơ học nhất định. Sự thiếu sót của khoa học trong hình thức hiện tại nằm ở chỗ khoa học từ chối nhìn xa hơn vũ trụ vật chất. Con cần thừa nhận sự thật thiết yếu là có một bộ quy luật tâm linh vượt khỏi các quy luật vật chất. Các quy luật này cũng hoạt động một cách máy móc, theo nghĩa là nếu con phóng một hình ảnh đấu tranh vào tấm gương vũ trụ, vũ trụ sẽ phản chiếu lại cho con những điều kiện trải bày ra cảm nhận đấu tranh của con. Nếu con phóng chiếu một hình ảnh hạnh phúc và dồi dào vào tấm gương, vũ trụ cũng sẽ phản chiếu lại điều này cho con.

Các quy luật tâm linh không hẳn là đơn giản như các quy luật vật chất mà khoa học hiện nay biết đến. Vũ trụ vật chất được thiết kế với một yếu tố trì hoãn để cho phép con phạm lỗi mà không tự hủy hoại ngay lập tức. Yếu tố trì hoãn này hoạt động theo các quy luật cơ học, nhưng vì khoa học hiện nay không công nhận bất cứ gì vượt khỏi vật chất, cho nên các nhà khoa học không thể hiểu nổi các quy luật này vận hành thế nào. Kết quả là hầu hết mọi người cũng không hiểu các quy luật này. Khoa học không thể cho họ hiểu biết này, và tôn giáo chính thống cũng vậy khi tôn giáo bám chặt vào tín điều quá khứ và từ chối áp dụng chìa khóa của hiểu biết để dần dần hiểu được sâu hơn.

Trong một chương tới, thày sẽ mô tả chi tiết hơn các chu kỳ của năng lượng chảy xuống từ cõi tâm linh xuyên qua bốn tầng của vũ trụ vật chất. Điều thày muốn con hiểu trong phần này là khi con quyết định thay đổi cách tiếp cận cuộc sống, khi con quyết định với lên một cách tiếp cận tâm linh hơn, con sẽ khởi động những nguyên nhân chắc chắn sẽ được tấm gương vũ trụ phản chiếu lại cho con. Vấn đề là nguyên nhân mà con khởi động sẽ không phản chiếu lại ngay lập tức – ít ra cho tới khi con đạt được tâm thức Ki-tô trọn vẹn. Nguyên nhân mà con khởi động phải làm việc tuần tự xuyên qua hệ thống năng lượng của vũ trụ vật chất trước khi thị hiện thành những điều kiện vật lý thực tế trong đời con, và điều này cần thời gian. Thêm vào đó, cũng có thể là nguyên nhân sẽ bắt đầu quay về con nhưng nó có thể bị cầm chân, ngăn chặn hay đổi hướng bởi một số điều kiện trong tâm con.

13.9. Thị hiện dồi dào là một hành trình

Nỗ lực của con để cải thiện đời mình sẽ gặp một sự chống đối nào đó, và nếu con không hiểu lực kháng cự và làm gì đó để ứng phó, con sẽ không nhìn thấy kết quả nỗ lực của mình. Khắp thế giới có hàng triệu người cầu nguyện thày mỗi ngày. Nhiều người trong số này đã cầu nguyện thày từ nhiều năm hay nhiều thập kỷ, thường là để có sự thay đổi trong đời họ. Lời cầu của họ đã không được hồi đáp và đa số không hiểu nổi tại sao. Hàng tỷ người cầu nguyện bất kỳ vị thần linh nào mà họ biết, nhưng lời cầu của họ cũng không được hồi đáp. Một số đã mất hết đức tin và rời bỏ mọi loại tôn giáo vì lời cầu của họ không được đáp ứng, còn một số khác thì vẫn tiếp tục cầu nguyện, tiếp tục làm cùng một chuyện với kỳ vọng một ngày kia Thượng đế sẽ cho họ một câu trả lời khác hơn.

Con cần nâng cao hiểu biết của mình về những gì con cần làm để thị hiện điều con mong muốn. Điều con cần làm là con phải nắm lại quyền cai quản đời mình và tích cực loại bỏ những rào cản đang ngăn chặn lời cầu nguyện của con được hồi đáp, ngăn chặn con nhận được sự dồi dào của Thượng đế. Những khối chắn này là do chính con tạo ra xuyên qua sự đồng hóa với cái ta hữu diệt, và chỉ có con mới có thể giải thể chúng. Thày không thể, thày không có ủy quyền từ Thượng đế để bước vào quả cầu cái ta của con và gỡ bỏ các khối chắn của cái ta hữu diệt của con. Thày không thể gỡ bỏ các tin tưởng nhị nguyên của cái ta hữu diệt của con, thày không thể gỡ bỏ năng lượng tha hóa mà con đã cho phép tích tụ trong quả cầu cái ta của mình. Con là người đã tạo ra các điều kiện này và cho phép chúng đi vào quả cầu cái ta, và con chính là người phải gỡ bỏ chúng. Điều thày có thể làm cho con là giải thích cách làm như thế nào, và thày sẽ làm vậy trong các chương tới.

Việc thị hiện dồi dào trong đời con đòi hỏi con phải bắt đầu thay đổi cách tiếp cận cuộc sống bằng cách thay đổi tâm thức của con. Khi con bắt đầu thay đổi tâm thức, con sẽ chắc chắn khởi động một số nguyên nhân, và các nguyên nhân này sẽ tuân theo quy luật tâm linh cao hơn do Thượng đế quy định. Các quy luật này cũng mang tính cơ học và tất yếu y như định luật về trọng lực vậy. Nếu con ném một vật lên không trung, con biết là nó sẽ rơi trở lại mặt đất. Nếu con thực sự thay đổi tâm thức, con nên biết là nó sẽ chắc chắn biểu hiện trong thực tế vật lý của con. Sự biểu hiện sẽ không xảy ra tức thì, vì có thể con đã dựng lên một số rào cản ngăn trở sự biểu hiện tới được phổ tần số vật lý. Cho đến khi con gỡ bỏ các rào cản này đi, thì các nguyên nhân con đã khởi động sẽ vẫn tiếp tục là một tiềm năng chưa thể biểu hiện trong vật lý. Đó vẫn là những điều hy vọng nhưng chưa được nhìn thấy.

Khi con thay đổi cách tiếp cận cuộc sống, con không thể chờ đợi – như nhiều đạo sư về thịnh vượng hứa với con – là con sẽ nhìn thấy kết quả tức thì. Con có thể mất một thời gian để thấy kết quả vật lý cho nỗ lực của mình. Thời gian này sẽ tùy thuộc từng cá nhân, tùy thuộc vào số rào cản mà con đã dựng lên trong quả cầu cái ta. Để thực sự thay đổi trải nghiệm cuộc sống, con phải có một lượng đức tin nào đó. Con phải sẵn lòng đi bước đầu tiên mà không thấy ngay kết quả, không lập tức có ngay bằng chứng là mình đang đi con đường đúng đắn. Hãy thử tưởng tượng là thày nghĩ ra một hệ thống cải thiện bản thân, và nếu con tuân theo lời khuyên của thày thì con sẽ nhìn thấy những thay đổi tức thì trong vũ trụ vật chất. Nếu thày có một hệ thống như vậy, con sẽ có thể chứng mình tức khắc là hệ thống này hiệu quả. Nhưng vũ trụ vật chất không vận hành như thế. Điều thày có thể làm cho con là giải thích cách thức hoạt động của hệ thống năng lượng của vũ trụ vật chất và những gì con cần làm để tạo ra thay đổi vật lý trong đời mình. Vì con sẽ mất thời gian để thị hiện kết quả, con phải có một đức tin nào đó, con phải sẵn lòng làm thử và tiếp tục thử thêm cho dù con không lập tức thấy được kết quả cho nỗ lực của mình.  

Người ta từng nói là một hành trình dài ngàn dặm khởi đầu bằng một bước. Con cũng nên xem tiến trình thị hiện dồi dào trong đời con như một hành trình. Con cần thời gian để hoàn tất hành trình. Một chuyến đi dài ngàn dặm khởi đầu bằng một bước, nhưng con không thể hoàn tất chuyến đi trong một bước. Nó chỉ có thể hoàn tất khi con liên tục bước đi từng bước nhỏ một cho đến khi con tới đích. Nỗ lực cải thiện cuộc sống của con cũng giống như vậy. Con phải tiếp cận nó như một hành trình. Con phải sẵn lòng đi bước đầu tiên để hành trình bắt đầu và con không bị kẹt trong thế bất động. Nhưng con không thể chờ đợi là bước đầu tiên này sẽ tự động đưa con tới đích ngay lập tức. Con phải sẵn lòng tiếp tục bước đi từng bước một cho đến khi con thấy kết quả hiện thực từ nỗ lực của mình.

13.10. Vũ trụ sẽ phản chiếu lại đức tin của con

Đây là điểm mà một lần nữa chúng ta gặp phải vấn đề. Ở một mức độ nào đó, vấn đề này được củng cố bởi khoa học, bởi ông hoàng của thế gian, bởi các thày giả. Khoa học đã sản xuất nhiều công nghệ đem lại cho con người những kết quả tức thì, sự thoả mãn tức khắc. Khi con bước vào căn phòng tối và bật công-tắc trên tường, con chờ đợi ánh đèn sẽ bật lên tức khắc. Khi con vào xe và vặn chìa khóa, con chờ đợi xe sẽ nổ máy tức thì. Công nghệ đã dạy cho con người là nếu họ không có được kết quả mong đợi ngay lập tức, thì phải có gì đó không ổn. Ông hoàng của thế gian đã lợi dụng sự phát triển của khoa học để khơi dậy trong tâm con người niềm tin vi tế là họ có quyền được thỏa mãn tức thì. Một lần nữa, chuyện này biến thành một con đường giả mà nhiều đạo sư về thịnh vượng đã khai thác bằng cách hứa hẹn kết quả tức thì. Hầu hết những ai đã tin vào lời hứa hẹn này đều vỡ lẽ là kết quả tức thì thường không tức thì chút nào. Lý do là vì, để đạt được kết quả đích thực, con cần thay đổi tâm thức của con, và tâm thức của con có tới mấy lớp cần được thanh lọc trước khi con nhìn thấy thành quả vật lý cho nỗ lực của mình.

Thày đã đến để cho con con đường đích thực dẫn đến sự sống dồi dào, và vì vậy thày sẽ không hứa hẹn kết quả tức khắc. Thày sẽ làm điều mà nhiều đạo sư về thịnh vượng sẽ bảo là tự sát – xét từ góc độ kinh doanh, nhưng thày đâu làm chuyện kinh doanh. Thày sẽ bảo con, một cách rõ ràng và thẳng thừng, rằng con sẽ không trải nghiệm thành quả tức khắc từ bất kỳ phương pháp nào thày trao cho con trong khóa học này. Ít nhất thày có thể hứa với con là con sẽ không nhìn thấy của cải thừa mứa thị hiện trong đời con ngay lập tức. Con có thể trải nghiệm một loại thành quả khác, cụ thể là sự gia tăng cảm giác an lạc tâm linh, và quả thực đây là điều có thể xảy ra gần như tức khắc khi con đi theo con đường thày phác họa.

Thay vào đó, điều thày sẽ làm cho con là chỉ ra con đường đích thực để thị hiện dồi dào. Thày sẽ trình bày cho con những tầng khác nhau của vũ trụ vật chất, những tầng khác nhau của chính tâm con, và làm thế nào một nguyên nhân mà con khởi động bằng tâm ý thức phải tuần hoàn xuyên các tầng này trước khi có thể thị hiện như một điều kiện vật chất trong đời con. Thày sẽ chỉ cho con làm thế nào con có thể loại bỏ một cách hệ thống những khối chắn trong các tầng của tâm con đang ngăn chặn viễn quan dồi dào của con trở thành hiện thực vật lý. Đây là một cách tiếp cận sẽ đem lại cho con hiểu biết, và dựa trên hiểu biết này, con có thể xây dựng một loại đức tin mới. Đức tin này không mù quáng. Đức tin này đặt nền tảng trên sự hiểu biết về cách vũ trụ vận hành và tại sao viễn quan dồi dào của con phải mất thời gian để trở thành hiện thực vật lý.

Tại sao thày lại dài dòng giải thích cho con sự cần thiết phải có đức tin? Tại sao không đơn giản chỉ cho con làm cách nào con có thể thị hiện mọi thứ? Thày làm vậy vì con cần phải hiểu là thực tế của những gì thày đang nói với con ở đây không thể chứng minh được trừ khi con có đức tin. Thày đã nói với con nhiều lần rằng vũ trụ là một tấm gương. Thày đã thấy nhiều người đọc sách hay tham dự hội thảo để học cách thị hiện dồi dào trong cuộc sống, và họ đã áp dụng một cách miên mật các phương pháp được chỉ dạy.

Ở ngoài kia có nhiều thày giả, nhưng không phải tất cả mọi đạo sư đều là thày giả. Một số đạo sư trong lãnh vực thị hiện thịnh vượng quả thực có dạy một số nguyên tắc chân chính có thể đem lại thành quả nếu áp dụng. Vấn đề là nếu học viên áp dụng các kỹ thuật đạt tăng trưởng tâm linh hay thịnh vượng trong khi vẫn mang trong lòng một số nghi vấn về giá trị hay hiệu quả của kỹ thuật, thì các kỹ thuật đó không thể có tác dụng. Vũ trụ là một tấm gương. Nếu con phóng chiếu lòng ngờ vực vào tấm gương vũ trụ thì gương chỉ có thể phản chiếu lại các điều kiện của tâm thức con. Khi con thực hành một kỹ thuật chính đáng để tăng trưởng tâm linh hay có dồi dào nhưng tâm con vẫn lởn vởn nghi vấn, thì vũ trụ sẽ phản chiếu lại cho con những điều kiện xác nhận nghi vấn của con. Nghi vấn của con về tính hiệu quả của kỹ thuật sẽ làm giảm hiệu quả của kỹ thuật. Nếu con nghi ngờ liệu một kỹ thuật có hiệu quả hay không, thì kỹ thuật đó sẽ không hiệu quả – đối với con. Nếu con áp dụng cùng kỹ thuật đó với đức tin, vũ trụ sẽ phản chiếu lại đức tin này cho con và quả nhiên kỹ thuật sẽ thành công.

Suốt các thời đại, nhiều người đã lấy lời dạy của Giê-su, cố gắng đem ra áp dụng trong đời mình. Vì họ có một số nghi ngờ hay vì họ không hiểu giáo lý đầy đủ, họ đã không đạt được kết quả mong muốn. Rốt cuộc họ suy luận là con đường do Giê-su vạch ra đơn giản không hiệu quả. Họ kết luận những lời hứa của tôn giáo là lời hứa hão. Nhưng con đường do Giê-su vạch ra thật sự đem lại kết quả. Con đường do tất cả mọi tôn giáo chân chính khác vạch ra – có mấy tôn giáo như vậy – thật sự đem lại kết quả.

13.11. Đức tin chính là hiện thực

Quả thật con có trong quả cầu cái ta của con tất cả những gì con cần để thị hiện sự sống dồi dào, tăng trưởng tâm linh và đạt sự cứu rỗi tối hậu. Lời dối của ông hoàng thế gian là con không có trong chính mình những gì con cần để được cứu rỗi, rằng con cần một vị cứu tinh, con cần một ai khác hay một điều gì từ bên ngoài để được trọn vẹn. Đây là lời dối trá vì con vốn có mọi thứ bên trong con rồi. Để tận dụng những gì con có, con phải tới chỗ sử dụng được chúng với đức tin trọn vẹn, một đức tin đích thực dựa trên kiến thức lẫn hiểu biết. Chỉ khi nào con dùng những gì con có với đức tin hoàn toàn thì tấm gương vũ trụ mới phản chiếu lại cho con những gì con tin, những gì con đã chấp nhận là một thực tại hiện thực. Chỉ khi đó con mới thị hiện những kết quả mà con mong mỏi.

Vũ trụ phản chiếu lại cho con những điều kiện vật lý biểu diễn các hình tư tưởng con giữ trong tâm. Nếu hình tư tưởng dựa trên nghi vấn hay giả định không chính xác, đó sẽ là điều tấm gương phản chiếu lại cho con. Nếu hình tư tưởng của con dựa trên một đức tin vượt khỏi sự hiểu biết, sự hiểu biết nhị nguyên của cái ta hữu diệt, thì vũ trụ sẽ phản chiếu lại cho con sự sống dồi dào. Chỉ khi nào con thực sự thay đổi tâm thức, bỏ qua bên các nghi ngờ và lý luận nhị nguyên của cái ta hữu diệt, thì con mới đạt được sự sống dồi dào mà Cha con sẽ hoan hỉ ban cho con. Chỉ khi nào con có niềm tin tuyệt đối vào Thượng đế và thực tại của ngài, thì con mới có khả năng và ý muốn nhận được sự sống dồi dào của ngài. Chỉ khi nào con thực sự chấp nhận mình là ai thì con mới chấp nhận là mình xứng đáng được nhận sự sống dồi dào và mình có khả năng biểu hiện nó từ bên trong chính mình. Chỉ khi nào con có sự chấp nhận nội tâm toàn diện này thì con mới có đức tin tuyệt đối – đức tin dựa trên tảng đá Ki-tô thay vì cát lún của tâm thức nhị nguyên – cho phép con chấp nhận là quả thực sự dồi dào của Thượng đế có thể được biểu hiện và trải bày trong vũ trụ vật chất. Đó là tại sao đức tin là chất liệu của những điều hy vọng, là bằng chứng của những điều chưa thấy. Con phải có đức tin đến độ khi con với lên tâm Ki-tô và đứng thẳng hàng với thực tại Thượng đế, thì thực tại này sẽ thị hiện trong đời con. Đây không phải là chuyện huyễn tưởng mà là chuyện học cách vận hành của quy luật Thượng đế, xong áp dụng các quy luật này với đức tin trọn vẹn để viễn quan nội tâm của mình trở thành hiện thực – như Giê-su đã có nhiều dịp chứng tỏ.

Con hãy lấy một quyển Kinh thánh và đọc những lần Giê-su chữa bệnh. Con sẽ thấy là trong mỗi trường hợp, đức tin của người bệnh đã giữ một vai trò thiết yếu trong việc chữa lành. Trong một số trường hợp, Giê-su hỏi người đó có thật tin rằng thày có uy lực chữa lành hay không, và chỉ khi họ có đức tin thì họ mới được chữa lành (Matthew 9:28). Lại có trường hợp Giê-su đến thăm một thị trấn, và do sự thiếu đức tin của cư dân ở đó mà không ai được chữa lành (Matthew 13:58). Một lần nữa, đây lại là hệ quả của vũ trụ như một tấm gương. Nếu con tin tuyệt đối là một điều gì sẽ xảy ra thì nó sẽ xảy ra. Nếu con nghi ngờ thì nó sẽ không xảy ra, và như vậy chính lòng nghi ngờ của con đang được thị hiện. Trước khi thày có thể giải thích cho con làm thế nào các nguyên nhân mà con khởi động di chuyển xuyên qua vũ trụ vật chất, thày cần giảng cho con tầm quan trọng của việc đặt niềm tin vào chính tiến trình đó.

13.12. Trước khi con có thể nhận, con phải sẵn sàng cho

Chìa khóa cốt yếu trong việc thị hiện dồi dào là con phải bắt đầu tỏa rạng dồi dào. Chìa khóa cốt yếu trong việc nhận dồi dào của Thượng đế là buông bỏ trước hết bất cứ dính mắc nào con có với thế gian. Thày đã nghiên cứu con người và tâm lý của họ trong một thời gian rất dài. Thày đã nghiên cứu những người tìm nhiều dồi dào hơn và những người tìm sự tăng trưởng tâm linh dưới mọi hình thức. Thày có thể cam đoan với con là, hơn bất cứ gì khác, vấn đề ngăn cản họ thị hiện sự dồi dào chính là họ thiếu đức tin.

Có một vấn đề cố hữu mà con cần phải hiểu. Hầu hết mọi người khi họ gắng sức đạt được dồi dào, đó là vì họ cảm thấy không dồi dào, họ cảm thấy không trọn vẹn, khiếm khuyết, thiếu thốn. Khi họ bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên thì họ suy luận theo tâm nhị nguyên. Họ cảm thấy là để có dồi dào, họ cần phải nhận được gì đó từ ngoài. Khi đã tìm cầu sự dồi dào thì khó làm sao tránh được tâm trạng cho rằng mình cần nhận được gì đó. Họ cần tìm ra một cách khiến vũ trụ cho họ những gì họ muốn. Vũ trụ là một tấm gương, cho nên nếu họ phóng chiếu sự thiếu hụt ra tấm gương, thì gương sẽ phản chiếu lại một tình trạng thiếu hụt. Nếu con phóng chiếu ra tấm gương một trạng thái dồi dào, sẵn sàng cho ra, thì vũ trụ cũng sẽ phản chiếu lại dồi dào cho con, qua đó vũ trụ và người khác sẽ cho con nhiều hơn. Điều này được Giê-su giải thích khi thày nói: “Ai đã có thì sẽ được cho thêm, và họ được thêm dồi dào. Còn ai không có thì sẽ bị lấy mất, ngay cả những gì họ có” (Matthew 13:12).

Con không thể thị hiện dồi dào chừng nào con còn ở trong trạng thái tâm thức khiến con cảm thấy thiếu hụt. Con không thể có được dồi dào chừng nào con còn ở trong tâm trạng thiếu thốn. Nếu con gửi cái trống không vào tấm gương vũ trụ, gương sẽ phản chiếu được gì cho con ngoại trừ thêm nhiều trống không? Cách duy nhất để nhận được dồi dào là phóng chiếu dồi dào vào tấm gương vũ trụ, và để làm được vậy, con phải thay đổi trạng thái tâm con để con không còn cảm thấy thiếu hụt. Con phải khắc phục xu hướng bám giữ những gì con đang có, sợ phải cho đi cái ít ỏi mà con nghĩ mình có. Con phải đem con vào một trạng thái trù phú nơi con sẵn lòng cho ra. Trước khi con có thể nhận, con phải sẵn sàng cho.

Con phải sẵn lòng cho ra những gì con có trước khi con có thể nhận thêm. Đây là nguyên lý Giê-su đã giải thích khi thày nói là nếu con tìm cách cứu mạng sống của mình – tức ý niệm sống còn hữu diệt của mình – thì con sẽ mất đi sự sống (Matthew 16:25). Nếu con sẵn lòng mất đời sống – tức các dính mắc vào một ý niệm sống còn giới hạn – trong mục đích đạt được tâm thức Ki-tô, thì con sẽ tìm thấy sự sống vĩnh cửu, sự sống dồi dào. Nếu con tìm cách bám chặt những gì con có, con sẽ phóng ra một trạng thái thiếu thốn vào vũ trụ và vũ trụ sẽ phản chiếu nó lại cho con. Cách duy nhất để thay đổi sự thể này là con phải buông bỏ ý niệm bản sắc giới hạn của con. Con phải buông bỏ các dính mắc mà con có ngay bây giờ trước khi Thượng đế có thể cho con nhiều hơn.

Hãy để thày trình bày ý tưởng này từ một góc độ khác. Nhiều người cho rằng điều họ muốn là sự dồi dào, và các thế lực của thế gian đã lập trình khiến họ nghĩ là họ phải nhận được dồi dào từ thế giới vật chất. Kỳ thực, điều họ muốn là sự trọn vẹn, và trọn vẹn thì chỉ có thể tìm thấy trong quả cầu cái ta của họ. Khi con bước vào bên trong và tìm vương quốc của Thượng đế cùng sự công chính của ngài – tức là việc sử dụng đúng đắn các khả năng sáng tạo của mình – con sẽ nhận được sự sống dồi dào trực tiếp từ Thượng đế (Matthew 6:33). Xong con sẽ tỏa rạng tâm thức dồi dào đó, và tấm gương vũ trụ sẽ bắt buộc phản chiếu nó trở về con dưới dạng sự dồi dào vật chất – nếu đây là điều con muốn thật sự. Chừng nào con tin là con cần gì đó từ bên ngoài chính con, con sẽ không thể đạt đến trọn vẹn đích thực. Tấm gương vũ trụ chỉ có thể phản ánh lại cho con trạng thái thiếu thốn.

13.13. Cho ra không nhất thiết là bố thí

Khi thày nói đến việc cho ra, không nhất thiết là thày muốn nói đến việc bố thí của cải vật chất. Thày muốn nói chủ yếu đến việc từ bỏ ý niệm bản sắc giới hạn hữu diệt của mình, ý niệm rằng mình tách biệt khỏi dòng chảy dồi dào bất tận của Thượng đế. Con cần buông bỏ dính mắc tình cảm với những thứ của thế gian, vì những thứ này khiến con cảm thấy như thể con không làm sao trọn vẹn được nếu con không có chúng. Đây là nguyên lý của sự tăng trưởng mà thày đã có đề cập trước đây. Sự tăng trưởng, ngay trong bản chất, là một tiến trình thăng vượt bản thân. Khi con tăng trưởng, con trở nên hơn nữa. Nhưng trước khi con có thể tăng trưởng, con phải sẵn lòng buông bỏ hình tư tưởng hiện thời của con.

Trước khi con có thể nhận dồi dào của Thượng đế, con phải chịu buông bỏ trạng thái thiếu thốn hiện thời của con. Cách duy nhất để buông bỏ trạng thái thiếu thốn, cảm giác mình không có đủ, là con phải chịu buông bỏ những gì con có. Cách duy nhất để nhận một ý niệm sống lớn hơn là con phải sẵn lòng buông bỏ ý niệm sống giới hạn. Con phải sẵn lòng khắc phục các dính mắc con đang có, sẵn lòng mất đi ý niệm sống giới hạn để nhận lấy một ý niệm sống lớn hơn – là ý niệm sống sẽ phóng ra một hình ảnh dồi dào hơn vào tấm gương vũ trụ.

Có một quy luật tâm linh nói rằng bất cứ gì con phóng chiếu vào tấm gương vũ trụ sẽ – qua quyền năng của tâm con – được phản chiếu lại cho con dưới dạng các điều kiện vật lý trong đời con. Nếu con thay đổi tâm mình từ trọng tâm thiếu thốn sang trọng tâm dồi dào, vũ trụ sẽ theo đó mà hồi đáp. Để chứng minh quy luật này, con phải sẵn lòng buông bỏ cảm nhận giới hạn hiện thời và khoác vào một cảm nhận dồi dào. Xong con phải tin tưởng là trong tương lai, vũ trụ sẽ trả lại cho con những điều kiện phản ánh tâm thái mới của con. Con phải sẵn lòng cho đi mà không có gì chắc chắn, không có bằng chứng vật lý nào là con sẽ nhận lại phần thưởng xứng đáng của mình. Lý do là vì phần thưởng sẽ cần thời gian để quay trở về con. Ngay lúc con cho đi, không thể có bằng chứng vật lý nào cho thấy là con sẽ nhận được. Con phải cho đi trong đức tin, và con phải sẵn lòng giữ vững niềm tin này cho đến khi phần thưởng hiện thực dưới dạng vật lý.

Quy luật của Thượng đế luôn luôn hiệu nghiệm, quy luật của ngài không bao giờ sai sót. Nhưng cách vận hành của quy luật là trả về cho con bất cứ gì con gửi ra. Nếu con tin vào quy luật – nếu con có đức tin là bất cứ gì con cho sẽ được trả lại nhân lên nhiều lần – thì con sẽ chứng minh quy luật. Con sẽ làm vậy bằng cách giữ vững đức tin là cuối cùng mình sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng. Nếu con nghi ngờ quy luật, hay nếu con không giữ được niềm tin cho đến khi kết quả vật lý thị hiện, thì con cũng sẽ chứng minh quy luật. Con sẽ chứng minh là cảm nhận vật lộn tạo ra vật lộn.

13.14. Con là một mặt trời tỏa rạng dồi dào

Con được thiết kế để là một người đồng-sáng tạo với Thượng đế, con được thiết kế để ánh sáng Thượng đế, sự dồi dào của Thượng đế, tuôn chảy qua con. Đây là nguyên lý được Giê-su giải thích qua câu: “Con đã được lãnh miễn phí thì hãy cho miễn phí” (Matthew 10:8). Để thị hiện dồi dào trong đời mình, con phải tới điểm xem mình là một mặt trời không ngừng tỏa rạng ánh sáng tâm linh chan hòa từ nguồn cung cấp bất tận của Thượng đế. Nếu con biết là con đang tiếp cận một nguồn ánh sáng bất tận từ Thượng đế, tại sao con lại ngại trao ánh sáng đó đi (dưới sự hướng dẫn minh triết của cái ta Ki-tô của con, để con không ném ngọc trai trước mặt heo)? Con cần mở rộng nhận biết để biết được là mình đang nhận miễn phí ánh sáng từ Thượng đế thì mình cũng có thể trao miễn phí cho người khác. Chỉ khi nào con cho ra những gì con có một cách tự do, thì con mới nhận được nhiều hơn một cách tự do.

Vấn đề, tất nhiên, là ngay bây giờ con không trải nghiệm là mình đang nhận ánh sáng tâm linh từ Thượng đế. Lý do là vì con đã tự đồng hóa như cái ta hữu diệt, và cái ta hữu diệt thì không thể cảm nhận dòng chảy dồi dào của Thượng đế. Đây là điểm cốt yếu – cái ta hữu diệt không bao giờ có thể chứng minh là quy luật của Thượng đế hiệu nghiệm. Để chứng minh quy luật, con phải khởi sự tiến trình tách mình ra khỏi cái ta hữu diệt. Và để khởi sự tiến trình, con phải sẵn lòng thử nghiệm mặc dù con không có bằng chứng là thử nghiệm của mình sẽ thành công. Con phải sẵn lòng cho ra mặc dù con không có bằng chứng là con sẽ nhận vào. Con phải sẵn lòng đi bước kế tiếp mặc dù con không biết bước này sẽ dẫn mình tới đâu. Để thị hiện dồi dào trong đời con, con phải học cách sử dụng những quy luật tâm linh cao hơn vượt khỏi các quy luật vật chất. Cái ta hữu diệt của con không thể sử dụng, hay thậm chí nhận diện, những quy luật này. Con phải sẵn lòng với tay ra khỏi cái ta hữu diệt, và con phải tiếp tục với đến tâm Ki-tô cho dù con không nhìn thấy kết quả trong một thời gian.

Quá nhiều người đã bắt đầu sử dụng một kỹ thuật để có dồi dào hay tăng trưởng tâm linh. Xong họ chán nản, ngừng lại, ngay trước khi họ sắp sửa nhìn thấy kết quả. Đó là tại sao điều thiết yếu là con hiểu được bốn tầng của vũ trụ vật chất, và làm thế nào những nguyên nhân do con khởi động phải tuần hoàn xuyên qua bốn tầng này trước khi con thấy kết quả vật lý. Đây là hiểu biết thày sẽ cho con trong những chương tới, và thày hy vọng nó sẽ giúp con xây dựng một đức tin dựa trên cái hiểu của tâm Ki-tô, vượt khỏi cái hiểu của cái ta hữu diệt. Một khi con có đức tin này, con sẽ sẵn lòng đi bước đầu tiên về hướng sự sống dồi dào, và con sẽ tiếp tục đi từng bước một cho đến khi con thị hiện dồi dào đó trong trải nghiệm đời sống. Con hãy đi theo thày, để thày trao cho con một tầm hiểu sâu xa hơn về bốn tầng của vũ trụ vật chất, và làm thế nào mọi chuyện trong thế giới vật chất đều khởi đầu bằng một ý tưởng, một hình tư tưởng nơi một cõi cao hơn.

11 | Hợp nhất là nguồn suối an lạc

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/4/2005.

Trái tim yêu dấu của thày, bây giờ chúng ta đã đến điểm trọng yếu trong loạt bài giảng này từ tim thày đến tim con. Điểm này trọng yếu vì trừ khi con thấm nhuần và chấp nhận trọn vẹn những gì thày sắp sửa nó với con, thì nỗ lực của thày để giúp con đón nhận sự sống dồi dào sẽ thất bại. Thay vì bước theo chân thày vào một cuộc đời sung mãn, con sẽ đi theo – hay tiếp tục đi theo – các đạo sư giả vào một cuộc đời thiếu thốn chật vật.

11.1. Tâm thức nhị nguyên là một mê cung

Cái Ta Biết đã quyết định thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên và, từng bước một, nó càng ngày càng bị bao trùm trong tâm thái đó cho đến khi con đánh mất sự nối kết ý thức với Hiện diện TA LÀ của con và con rơi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn. Ngay lúc con tuột mất sợi dây liên lạc thì cái ta hữu diệt của con ra đời. Cái ta hữu diệt này hình thành kẻ thù bên trong làm việc đồng hành với kẻ thù bên ngoài, tức các thế lực phản Ki-tô, để cố giam con lại mãi mãi trong tâm thức nhị nguyên. Chúng sẽ làm chuyện này bằng đủ mọi cách, và thày đã phác họa một số chiến lược chúng sử dụng để giữ con trong bẫy. Bây giờ thày sẽ trình bày cho con chiến lược cơ bản, chiến lược chỉ đạo, được các thế lực nhị nguyên sử dụng để giữ con trong cái hộp tư duy đó. Và để hiểu chiến lược này cũng như cách nó được dùng để chống lại con, con cần hiểu đặc tính cốt yếu của cái ta hữu diệt.

Cái Ta Biết là trụ sở của ý chí tự quyết của con. Cái Ta Biết là người lấy quyết định. Cái Ta Biết có khả năng lấy những quyết định thuận hợp với định luật và ý muốn của Thượng đế, hay những quyết định không thẳng hàng với định luật và ý muốn của Thượng đế. Mọi chuyện trong đời con đều xoay quanh cái Ta Biết và các quyết định con lấy. Bất cứ lúc nào cái Ta Biết cũng là những gì nó thấy nó là. Cái Ta Biết lấy quyết định dựa trên ý niệm bản sắc hiện thời của nó, hiểu biết và hệ thống tin tưởng hiện thời của nó. Cái Ta Biết đã được tạo ra như một nối dài của sự nhận biết thuần khiết của Thượng đế. Nó mang sẵn ý muốn được là một phần của Dòng sông sự Sống, tuôn chảy với tạo vật của cái Tất cả của Thượng đế và trở thành hơn nữa. Cái Ta Biết luôn luôn muốn làm việc phải. Nó luôn luôn cố chọn phương án nào phù hợp với mục đích nó đang hiện hữu, nâng cao cuộc sống của nó lẫn tạo vật của cái Tất cả – theo cách nó hiện đang hiểu bản sắc và sự nối kết của nó với cái Tất cả.

Cái Ta Biết luôn luôn chọn phương án mà nó xem là tốt nhất cho nó và tốt nhất cho tổng thể. Vấn đề là nếu nó bắt đầu tự đồng hóa với tâm nhị nguyên, nó không thể thấy được cái gì sau cùng sẽ tốt nhất cho nó và cho Tất cả. Thay vào đó, các chọn lựa duy nhất mà nó nhìn thấy là những chọn lựa dựa trên tâm thức nhị nguyên. Cho dù nó lấy chọn lựa nào đi nữa, nó cũng bị bao trùm nhiều hơn trong tâm thức nhị nguyên. Một khi nó vượt quá điểm tới hạn, đánh mất sợi dây liên lạc với Hiện diện TA LÀ, nó không thể nhìn ra lối thoát được nữa khỏi một tình trạng mà giờ đây có vẻ là một mê cung nơi mọi chọn lựa đều dẫn vào ngõ cụt. Con hãy tưởng tượng một mê cung được tìm thấy ở nhiều nơi trên thế giới, làm bằng những hàng cây cao. Tưởng tượng con đứng trên một bục cao nhìn xuống một mê cung như vậy với bao người đang cố tìm đường thoát ra khỏi mê cung. Khi con nhìn từ trên cao, thật quá dễ nhận ra đường nào dẫn vào ngõ cụt, đường nào đưa ra khỏi mê cung. Bây giờ hãy tưởng tượng con đổi nhãn quan, con ở ngay trong mê cung và tất cả những gì con nhìn thấy là những bức tường xanh bao quanh con. Bỗng nhiên, việc biết được đường nào dẫn đến ngõ cụt hay lối ra trở thành chuyện bất khả. Đây chính xác là sự khác biệt giữa việc con còn một chút tâm thức Ki-tô, một nối kết nào đó với Hiện diện TA LÀ của mình, với việc con hoàn toàn kẹt cứng trong tâm thức nhị nguyên.  

Cái ta hữu diệt và ông hoàng của thế gian biết là cái Ta Biết không ngu ngốc và muốn làm điều phải. Vậy làm thế nào chúng có thể khiến con làm điều gì khởi lên từ tâm thức nhị nguyên và do đó sẽ gây hại cho con? Chúng chỉ có thể làm được bằng cách khiến cái Ta Biết bị bối rối trong một hệ thống tin tưởng tương đối, nhị nguyên, che mờ thực tế là một số hành động có thể làm hại con. Trong thế giới nhị nguyên, tất cả mọi thứ đều tương đối và cái ta hữu diệt luôn luôn có thể biện minh cho những việc nó muốn làm. Khi con nhìn cuộc sống xuyên qua phin lọc nhị nguyên này, con không thể thấy là bất cứ gì con làm – ngay cả những chuyện có vẻ tốt đi nữa – sẽ chỉ giam con chặt hơn trong tâm thức phản Ki-tô.

11.2. Nhiều hơn dẫn đến ít hơn

Khi cái Ta Biết quyết định thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, chính nó đã lấy quyết định này. Chắc chắn nó bị cám dỗ bởi sự có mặt của tâm thức nhị nguyên. Khi đó, cái Ta Biết chưa tạo ra cái ta hữu diệt trong quả cầu cái ta của nó, nhưng nó đã mở cửa ra cho cám dỗ từ kẻ thù bên ngoài, tâm thức rắn. Đây là một quyết định mà cái Ta Biết đã lấy do nó đâm ra nghi ngờ sự chính đáng của vị thày tâm linh của nó cùng sự hướng dẫn của thày. Nó đâm ra hoang mang không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra nếu thay vì làm theo hướng dẫn của thày tâm linh, nó quyết định bước ra ngoài khuôn khổ an toàn của lời hướng dẫn. Tại sao cái Ta Biết lại chọn lựa như vậy? Nó chọn làm vậy chủ yếu là vì ý muốn trở nên hơn nữa, phối hợp với sự thiếu kinh nghiệm, đặc biệt là thiếu kinh nghiệm về tâm thức nhị nguyên. Cái Ta Biết bắt đầu tự hỏi: “Liệu có gì nhiều hơn để trải nghiệm khi tôi bước ra ngoài khuôn khổ các định luật của Thượng đế và lời hướng dẫn của vị thày? Cảm giác sẽ như thế nào, chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên? Liệu tôi sẽ trở nên hơn nữa, liệu tôi sẽ thu hoạch thêm trải nghiệm mà tôi không có được nếu tôi ở lại trong khuôn khổ lời hướng dẫn của thày?”

Bằng cách thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, cái Ta Biết quả là đã có những trải nghiệm vượt khỏi những gì nó có thể có nếu nó ở lại trong hợp nhất. Từ một nhãn quan nào đó, có thể nói là quả thực đã có cái gì đó nhiều hơn – nghĩa là cái gì đó khác lạ – để trải nghiệm bên ngoài hợp nhất so với bên trong hợp nhất. Vấn đề là khi thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, cái Ta Biết đã không trở nên nhiều hơn cái nó là trước khi dự phần vào trạng thái này. Ngược lại là đằng khác, cái Ta Biết đã trở nên ít hơn cái nó đã được tạo ra để là, ít hơn cái nó từng là trước khi thử nghiệm nhị nguyên. Thay vì tự đồng hóa như một sinh thể tâm linh bất diệt với khả năng sáng tạo vô hạn, cái Ta Biết giờ đây bắt đầu tự đồng hóa như một sinh thể giới hạn mắc kẹt trong các chọn lựa cũ của mình, và do đó bị đóng hộp trong rất nhiều hạn chế.

Con càng bước sâu xuống tâm thức nhị nguyên thì con càng chấp nhận nhiều hạn chế là thực và không thể tránh khỏi. Con ngày càng bị bao trùm trong giới hạn, thiếu thốn và khổ đau. Con trở nên kém hơn sinh thể bất diệt, tự do trong Thượng đế, mà con đã được tạo ra để là. Điều này có thể mang lại một ý nghĩa mới cho câu nói dân gian rằng “ít hơn là nhiều hơn.” Bởi vì thật sự, nếu con đi tìm sự nhiều hơn bằng cách bước ra ngoài hợp nhất với Thượng đế và hạn chế tiềm năng sáng tạo của mình, thì cuối cùng con sẽ là ít hơn.

11.3. Con đường dồi dào của hợp nhất

Thượng đế đã cho con quyền tự quyết. Cá nhân con không bắt buộc phải thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên. Nhưng chuyện gần như không thể tránh được là ít nhất có một số người đồng-sáng tạo sẽ chọn thử nghiệm với trạng thái tâm thức đó. Dòng sống của con đã không được tạo ra với sự nhận biết trọn vẹn của Thượng đế, và do đó con đã không có cái biết tuyệt đối về chuyện gì sẽ xảy ra nếu con bắt đầu thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên. Con cũng không có kinh nghiệm nào trước đó để mà so sánh. Tất cả những gì con có thể làm là tuân theo hướng dẫn của thày con, nhưng vị thày này lại ở ngoài con. Câu hỏi trở thành: “Liệu con có thể đi theo hướng dẫn của một vị thày bên ngoài và thể nhập các hướng dẫn này cho đến khi chúng thực sự là một phần của bản thể con và con hiểu rõ tại sao chúng đã được ban ra? Hay liệu con cần trải nghiệm cảm giác đi ngược lại hướng dẫn của thày để biết xem chuyện gì sẽ xảy ra? Qua phương pháp thử và sửa sai, con có thể lấy quyết định và hiểu được tại sao lời hướng dẫn của thày đã được ban ra.”

Có hai cách tăng triển. Một cách là đi theo một vị thày tâm linh chân chính cho đến khi con thấm nhuần hoàn toàn lời hướng dẫn của thày, cho đến khi con trở thành một với thày trọn vẹn đến độ con biết tại sao thày đã ban ra hướng dẫn đó. Con không còn xem thày là một sinh thể bên ngoài và con không còn xem lời hướng dẫn của thày là đến từ một nguồn ở ngoài con. Con đã khuếch lớn ý niệm cái ta của con để bao gồm cả thày. Con đã, trên đường trở thành một với cái Tất cả của Thượng đế, trở thành một với thày. Con xem thày như một phần của bản thể rộng lớn của con, và con xem hướng dẫn của thày như xuất phát từ bên trong bản thể rộng lớn này.

Con đường đích thực dẫn đến cứu rỗi là con đường gia tăng cảm nhận hợp nhất của con với Thượng đế cho đến khi con đạt được tâm thức Thượng đế trọn vẹn, sự hợp nhất trọn vẹn với cái Tất cả của Đấng Sáng tạo ra con. Như một bàn đạp đi lên hợp nhất với cái Tất cả của Thượng đế, Đấng Sáng tạo đã định ra một con đường để con theo. Con đường này là cho con một vị thày bên ngoài có nhiều kinh nghiệm hơn con. Nếu con chịu đi theo hướng dẫn của thày, và đi theo trong tinh thần kết hợp, con sẽ cuối cùng đạt tới một trạng thái hợp nhất với thày. Đây là một bàn đạp dẫn đến hợp nhất với Đấng Sáng tạo của con. Khi dòng sống của con lần đầu tiên mạo hiểm vào vũ trụ vật chất, có chút quên lãng xảy ra và con đánh mất cảm nhận trực tiếp rằng con là một với Đấng Sáng tạo, là một nối dài của Đấng Sáng tạo. Con biết mình có một Hiện diện TA LÀ, tức là Sinh thể tâm linh ngụ trên một cõi cao hơn, nhưng con không hiểu được trọn vẹn rằng Hiện diện TA LÀ là một nối dài của Đấng Sáng tạo. Để giúp con tăng triển cái hiểu này, Đấng Sáng tạo ban cho con một vị thày tâm linh có mặt ở cùng tầng rung động nơi cái Ta Biết đã đi xuống. Với mức tâm thức lúc đó, con có thể nhìn thấy và thông hiểu vị thày bên ngoài, và do đó con có thể nghe thấy lời hướng dẫn của thày. Đó chính là khu Vườn Eden, tức một biểu tượng cho trạng thái tâm thức mà dòng sống có khi nó lần đầu tiên đi xuống vùng năng lượng dày đặc của vũ trụ vật chất.

Ngược với một số người thường nghĩ hay lời giảng dạy của một số tôn giáo, con không chỉ đơn giản bị ném vào thế giới này mà không có nơi nương tựa, không có mối liên hệ nào với cõi tâm linh. Con được ban cho một môi trường bảo bọc với một vị thày thương yêu có khả năng hướng dẫn con. Tiềm năng cao nhất cho môi trường này là con không chỉ đơn giản làm theo hướng dẫn của thày mà con sẽ nhìn đằng sau lời chỉ dẫn vỏ ngoài để đạt tới một cảm nhận hợp nhất với thày. Và qua đó con sẽ đạt tới cùng tầng nhận biết tâm linh, cùng mức độ chứng đạt như thày. Điều này sẽ đưa con lên cao hơn trong mối hợp nhất với Thượng đế, đến độ con không thể đánh mất cảm nhận hợp nhất này được nữa, bởi vì giờ đây con đã đồng hóa vĩnh viễn với Hiện diện TA LÀ của con. Con đã thể nhập và chấp nhận trọn vẹn con là một nối dài của Thượng đế, và cái Ta Biết có khả năng thấy mình là một với cái Tất cả của Đấng Sáng tạo, thậm chí là một với cái Tất cả của Bản thể thuần khiết của Thượng đế.

Nhiều dòng sống quả thực đã đi theo con đường hợp nhất với vị thày bên ngoài và nhờ vậy đạt tới hợp nhất với phần rộng lớn hơn của bản thể họ. Chúng ta có thể gọi đây là con đường của sự sống dồi dào vì chừng nào con còn duy trì nối kết với cõi tâm linh, con sẽ có một cảm giác dồi dào trong đời mình.

11.4. Con đường thiếu thốn của tách biệt

Một số dòng sống quyết định bỏ qua cơ hội đạt hợp nhất với vị thày bên ngoài như một bàn đạp cho sự hợp nhất với Thượng đế bên trong. Thay vào đó, họ đi theo một thày bên ngoài khác, là thày giả tượng trưng cho tách biệt khỏi Thượng đế, nghịch lại sự hợp nhất với Thượng đế. Thày giả muốn con vâng lời mù quáng thay vì hợp nhất, và đối với một dòng sống bị kẹt trong trạng thái không muốn lấy quyết định, sự vâng lời là chuyện dễ làm hơn. Đơn giản, đây là con đường ít kháng cự nhất.

Con yêu dấu, đây là cách tăng triển thứ nhì, nhưng tiếc thay, đây là con đường đầy rủi ro. Rủi ro chính là dòng sống có thể bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên và ở lại đó trong một thời gian vô hạn định. Trên lý thuyết thì con có thể tăng triển theo cách này hay cách kia. Nếu một dòng sống đi ngược lại chỉ dẫn của vị thày tâm linh, y sẽ bắt đầu trải nghiệm một cuộc sống đầy vật lộn và thiếu dồi dào. Dòng sống có thể – qua trải nghiệm trực tiếp – học được là việc ở lại trong vòng tròn hợp nhất là điều lợi ích nhất cho y, và giờ đây y có kinh nghiệm thực tế để làm cơ sở cho hiểu biết của mình. Nhưng có rủi ro là y trở nên đồng hóa với tâm thức nhị nguyên đến độ quên mất vị thày tâm linh, y quên mất là có một con đường khác hơn cuộc vật lộn của nhị nguyên. Dòng sống có thể ở lại trong trạng thái quên lãng này một cách vô hạn định, hay ít ra cho đến hết thời hạn được phân bổ cho y và y phải bỏ lại ý niệm bản sắc hữu diệt của mình. Chọn lựa thử nghiệm tâm thức nhị nguyên luôn luôn là một cách học hỏi rủi ro. Đó thật sự là Trường đời Cay đắng.

Dòng sống của con đã có thể tránh được chọn lựa này, nhưng điều không thể tránh là một số người đồng-sáng tạo sẽ chọn lựa như vậy. Họ muốn tìm xem, như thày giả quả quyết, là họ có thể trở nên hơn nữa bằng cách tách mình ra khỏi vị thày do Thượng đế bổ nhiệm hay không. Lúc đầu thì chuyện này có vẻ là một trò chơi ngây thơ vô hại, và quả thực, nó phần nào vô hại lúc đầu. Miễn là cái Ta Biết còn duy trì một sự nối kết nào đó với Hiện diện TA LÀ, thì con có thể thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên mà không bị mắc kẹt trong đó. Vấn đề là tâm thức nhị nguyên vi tế đến độ nhiều người đồng-sáng tạo không nhận ra là họ đang bắt đầu đồng hóa với tâm thức nhị nguyên. Chuyện này diễn ra từ từ đến nỗi họ không hoàn toàn nhận thức chuyện gì đang xảy ra, và nhận thức này chỉ đến vào giây phút sự thật mà thày đã có mô tả.

Sau khi giây phút sự thật xảy ra, cái Ta Biết phản ứng lại tình huống bằng một loại cảm xúc tiêu cực nào đó. Có nhiều cảm xúc như vậy, chẳng hạn như sợ hãi, tức giận hay trách móc. Con có thể tự trách mình, trách móc Thượng đế, trách móc thày giả hay trách móc cả thày thật. Hoặc con có thể có nhiều cảm xúc tiêu cực khác. Đằng sau tất cả những cảm xúc này là sự nhìn nhận mình đã đánh mất sự hồn nhiên – cảm nhận hợp nhất nội tâm với Hiện diện TA LÀ của mình – sự nhìn nhận rằng con bị sa ngã đánh mất Ân sủng. Vì cái Ta Biết nhìn mọi chuyện qua phin lọc nhị nguyên, nó cũng nhìn giây phút sự thật đó trong quan điểm nhị nguyên. Vì con nhìn mọi chuyện qua tâm thức tách biệt, con phản ứng lại giây phút sự thật một cách tiêu cực. Con tìm cách chạy trốn khỏi nó thay vì dùng nó như một cơ hội để trở về với vị thày. Một khi con bắt đầu chạy trốn khỏi Thượng đế thì chọn lựa duy nhất mà con có thể thấy là cứ chạy trốn tiếp.

11.5. Phó mặc quyết định của mình cho tự ngã

Vào lúc đó, có thày giả đứng ngay đó để thì thầm vào tai con rằng con đã tách rời vĩnh viễn khỏi Thượng đế và con không thể nào quay trở lại được nữa. Đây là thời điểm then chốt. Nếu dòng sống quyết định bất chấp lời cám dỗ này và quay trở lại vị thày thật, y có thể nhanh chóng khắc phục tâm thức nhị nguyên bằng cách quy phục sự chỉ đạo của thày thật. Nhưng nếu dòng sống quyết định nghe theo lời gian dối tối hậu này, giờ đây y sẽ phải đối phó với ảo tưởng rằng mình đã vĩnh viễn tách rời khỏi Thượng đế, tách rời khỏi Hiện diện TA LÀ. Khi đối mặt với tâm thái này, với cảm nhận mất mát không thể bù đắp này, dòng sống, cái Ta Biết, thường lấy một quyết định định mệnh.

Dòng sống nhận ra là mình sa ngã vì mình đã lấy một số quyết định. Chỉ vì cái Ta Biết có quyền tự quyết mà nó mới có thể thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên. Một số dòng sống đi đến kết luận là nếu như mình không có quyền tự quyết gì hết, nếu như mình đã không lấy quyết định nào hết, thì mình đã không sa ngã. Họ suy luận là vấn đề nằm ở chỗ họ có quyền tự quyết, vấn đề nằm ở chỗ họ đã lấy quyết định. Họ chỉ quyết định sai lầm là vì họ có khả năng quyết định.

Một lần nữa, thày giả lại đứng ngay đó để cám dỗ, cụ thể là nếu như cái Ta Biết ngừng lấy quyết định thì nó sẽ không quyết định sai nữa. Nó sẽ được cứu chuộc, nó sẽ trở về thiên đàng đã mất bằng cách đi theo một vị thày bên ngoài và vị thày này sẽ quyết định giùm nó. Đây là lời dối bảo rằng một cách nào đó con có thể đền bù những quyết định sai lầm trong quá khứ bằng cách không quyết định sai lầm trong tương lai. Nghĩa là cách duy nhất để tránh quyết định sai lầm là ngừng lấy bất kỳ quyết định nào, bằng cách cho phép một thẩm quyền bên ngoài bảo mình phải cư xử thế nào và phải tin những gì. Con yêu dấu, khi một dòng sống chấp nhận lời dối này và quyết định mình không còn muốn quyết định nữa, mình không còn muốn lấy quyết định nữa, thì ngay lúc đó cái ta hữu diệt chào đời.

Cho đến giờ thày đã giải thích sự xuất hiện của cái ta hữu diệt bằng cách nói rằng các quyết định nhị nguyên của con cùng năng lượng tha hóa do chúng tạo ra đã dần dần tích tụ cho đến khi một khối lượng tới hạn hình thành. Tuy điều này đúng, nhưng cơ chế bên dưới là điều thày đang giải thích cho con ở đây. Cơ chế cơ bản là cái Ta Biết quyết định là nó không còn muốn lấy quyết định nữa. Từ quyết định này, một sinh thể tự nhận biết được sinh ra với khả năng và ý muốn lấy quyết định giùm con. Sinh thể tự nhận biết này là cái thày đã gọi là cái ta hữu diệt và nhiều nhà tâm lý học gọi là tự ngã.

11.6. Tự ngã không bao giờ nhận là nó sai lầm

Vấn đề với diễn biến này là bản chất cuộc sống chính là việc lấy quyết định. Con không có cách chi tránh khỏi lấy quyết định. Đơn giản là con không thể sống, dù trong thế giới này hay trong cõi tâm linh, mà không lấy quyết định. Nếu cái Ta Biết không lấy quyết định thì ai sẽ lấy quyết định trong đời con đây? Nếu cái Ta Biết từ chối thực thi đặc quyền mà Thượng đế đã cho con là lấy quyết định cho dòng sống của con, thì giờ đây cái ta hữu diệt sẽ tiếp quản và quyết định giùm con.

Cái ta hữu diệt ra đời vì cái Ta Biết từ chối lấy quyết định. Cái ta hữu diệt được thiết kế để là thế lực thống trị sẽ lấy quyết định cho con. Nó tin là nó đã được tạo ra để quyết định và nó quyết định giỏi hơn cái Ta Biết. Ngay trong bản chất, cái ta hữu diệt là một thế lực hung hãn và nó tin là nó biết cách điều hành cuộc sống của con giỏi hơn cái Ta Biết. Niềm tin này, tất nhiên, được củng cố triệt để bởi ông hoàng của thế gian, là các thế lực bên ngoài sử dụng cái ta hữu diệt để điều khiển đời con. Các thế lực này tin là chúng biết cách vận hành vũ trụ giỏi hơn Thượng đế. Cái ta hữu diệt hoàn toàn tin chắc là nó đúng và bất cứ gì trái với quan điểm và ý muốn của nó đều sai – chẳng hạn một vị thày hay một giáo lý tâm linh. Tất nhiên vấn đề là cái ta hữu diệt, do bản chất của nó, không thể nhìn thấy bất cứ gì vượt khỏi tâm thức nhị nguyên. Nó chỉ có thể suy nghĩ và lý luận trong cõi nhị nguyên, và bất cứ quyết định nào nó lấy giùm con sẽ chỉ giam con chặt hơn vào cõi nhị nguyên. Khi con nhìn xuyên qua phin lọc này, cuộc sống sẽ giống như một mê cung không lối thoát.

Vì cái ta hữu diệt sống trong thế giới nhị nguyên, nó luôn luôn có thể nghĩ ra một luận cứ biện hộ cho những gì nó muốn làm. Nó luôn luôn hoàn toàn tin chắc là nó đúng và tất cả mọi ai khác – kể cả cái Ta Biết, một vị thày tâm linh hay ngay cả Thượng đế – đều sai. Nó tin chắc là nó đang điều hành đời con tốt nhất và nó đang giữ con trên con đường độc nhất dẫn đến cứu rỗi. Con đường này chính là con đường dựa trên lời dối bảo rằng con có thể được cứu chuộc bằng cách không bao giờ quyết định sai lầm. Vì cái ta hữu diệt dùng lý luận nhị nguyên, nó luôn luôn có thể nghĩ ra một lập luận khiến nó có vẻ như chưa bao giờ quyết định sai lầm. Kỳ thực, tất cả mọi quyết định của nó đều sai lầm theo nghĩa là chúng sẽ không đưa con đến gần hơn sự sống dồi dào.

Con hãy nhìn hành tinh này xem làm thế nào một số người có thể lấy những quyết định khủng khiếp nhất mà vẫn tin chắc là mình đúng. Con hãy nhìn – để đơn cử một ví dụ mà ai ai cũng công nhận – làm thế nào một người như Adolph Hitler có thể gây ra cái chết của biết bao triệu người mà vẫn tin chắc là mình làm đúng. Đây là điều các nhà tâm lý học gọi là tư duy phủ nhận, xuất phát từ sự kiện cái ta hữu diệt có một phương thức hoạt động cơ bản, đó là nó không bao giờ có thể sai lầm. Nó sẽ mãi mãi tiếp tục sử dụng lý luận nhị nguyên để “chứng minh” là nó không sai, bất kể những gì xảy ra trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Từ nhãn quan Thượng đế, việc con phạm lỗi không phải là một thảm họa. Ngài không lên án con mà ngài chỉ muốn con được giải thoát khỏi lỗi lầm và tiếp tục bước tới. Khi con sa ngã vào lời cám dỗ của cái ta hữu diệt và từ chối nhìn nhận mình đã lầm lỗi, con không thể thoát ra khỏi lỗi lầm đó. Thay vào đó, con sẽ tiếp tục lấy những quyết định dựa trên lỗi lầm cũ, và như vậy con chồng chất hết sai lầm này đến sai lầm khác trong một vòng xoáy hướng hạ có thể tiếp diễn gần như mãi mãi. Phạm lỗi không cứ là một quyết định tồi tệ, nhưng từ chối nhìn nhận và sửa chữa lỗi lầm là một quyết định thật tồi tệ vì chắc chắn nó sẽ biến thành một cái bẫy. Cách duy nhất để thoát khỏi bẫy là con thoát khỏi cám dỗ muốn biện minh cho hành động quá khứ của mình qua trí suy luận nhị nguyên của cái ta hữu diệt. Con phải công khai nhìn nhận là mình đã lấy một quyết định tồi tệ và sau đó con thay thế nó bằng một quyết định tốt hơn.

11.7. Nhận lãnh trách nhiệm đời mình

Điểm cốt yếu mà thày muốn truyền đạt trong chương này là chỉ có một con đường đích thực đến cứu rỗi, đến sự sống bất diệt mà thôi. Đó là con đường khi cái Ta Biết thức tỉnh với thực tế nó là ai, thực tế là nó đã được Thượng đế phú cho quyền tự quyết. Một khi tỉnh ngộ, cái Ta Biết phải quyết định nắm lại quyền lấy quyết định trong đời mình. Đơn giản không có con đường cứu rỗi nào khác.

Có con đường có vẻ đúng cho con người, và con đường này có vẻ đúng cho con người vì nó có vẻ đúng cho cái ta hữu diệt của bất cứ người nào. Đó là con đường bảo rằng con không cần giành lại quyền lấy quyết định. Đó là con đường bảo rằng con có thể tiếp tục cho phép một ai khác quyết định giùm con và nếu con cứ đi theo đường này thì cuối cùng con sẽ được cứu rỗi. Đó là con đường đã được các thày giả của thế gian thiết lập. Nó có vô số biến thể, nó được ngụy trang bằng nhiều cách. Một số những cách này mang tính tôn giáo công khai, một số khác có vẻ là những kỹ thuật tự cứu (self-help) hay phương pháp vô hại tạo sự dồi dào trong cuộc sống. Cho dù dáng vẻ bề ngoài là gì, chúng đều hứa hẹn cùng một thứ, cụ thể là bằng cách đi theo một triết lý nào đó, thực hành một kỹ thuật hay gia nhập một tổ chức vỏ ngoài, thì bằng cách nào đó con sẽ đạt được mục tiêu được đề ra như trong phép lạ.

Các tôn giáo củng cố thần tượng một Thượng đế bên ngoài cũng cổ võ cho con đường giả này. Có một câu trong Kinh thánh thường bị các tín đồ Cơ đốc chính mạch bỏ qua. Đó là câu chuyện Giê-su quở mắng các thày thông giáo và người Pha-ri-si khi Giê-su khẳng định không một chút nghi ngờ rằng nếu sự công chính của con không trội hơn sự công chính của thày thông giáo và người Pha-ri-si thì con sẽ không vào được Nước Trời (Matthew 5:20). Quá nhiều người đạo Cơ đốc gạt qua bên câu nói này, cho rằng câu nói chỉ áp dụng cho các thày thông giáo và người Pha-ri-si. Họ hoàn toàn quên mất không nhìn vào cái xà trong mắt họ. Họ hoàn toàn không nhận ra là Giê-su không nói đến một nhóm người nhất định, mà Giê-su đang nói đến con đường giả mà thày đây đang mô tả, là con đường tin rằng bằng cách đi theo những giáo điều vỏ ngoài, tuân thủ những quy luật vỏ ngoài hay tham gia những nghi lễ hay pháp tu vỏ ngoài, con sẽ được cứu rỗi một cách tự động và chắc chắn.

Đạo Cơ đốc chính mạch thật ra đang đề cao con đường giả này khi bảo rằng Giê-su, trong tư cách một vị cứu tinh bên ngoài, là chìa khóa cho sự cứu rỗi của con và sẽ làm mọi việc cho con. Chìa khóa đích thực cho sự cứu rỗi của con không phải là Ki-tô bên ngoài mà Ki-tô bên trong, xuyên qua đó con đạt cảm nhận hợp nhất nội tâm với Thượng đế sẽ hồi phục sự hồn nhiên của con, hồi phục chính con trong Ân sủng và đưa con trở vào Nước Trời ở trong con.

Các thày thông giáo và người Pha-ri-si tưởng họ là người công chính, và họ suy luận như vậy dựa trên sự kiện họ thuộc tôn giáo chân chính độc nhất theo định nghĩa của họ. Họ một mực tin vào tất cả các giáo điều vỏ ngoài của tôn giáo này và cách diễn giải từng chữ theo nghĩa đen. Họ cũng tuân thủ mọi quy luật vỏ ngoài mà tôn giáo họ định ra, như họ phải nói năng thế nào, ăn uống những gì, mặc quần áo gì và cư xử làm sao trong mọi khía cạnh cuộc sống. Họ tham gia mọi nghi lễ, và họ nghĩ bởi vì mình làm rất đúng tất cả những chuyện vỏ ngoài như thế thì nhất định Thượng đế sẽ phải cứu mình. Họ đã tạo ra một hình ảnh về sự cứu rỗi dựa trên ý tưởng Thượng đế ở bên ngoài, và một cách nào đó, họ có thể mua bán với ngài. Chỉ cần họ tuân theo mọi quy luật vỏ ngoài thì đương nhiên Thượng đế sẽ phải giao hàng và cho phép họ vào Nước Trời.

11.8. Lật ngược từng quyết định nhị nguyên đã lấy

Nước Trời đích thực ở trong chính con vì đó là một cảm nhận hợp nhất với Thượng đế. Chỉ cảm nhận hợp nhất này mới là chìa khoá cho sự cứu rỗi. Làm sao con có thể đạt được cảm nhận hợp nhất với Thượng đế bằng cách máy móc tuân theo quy luật vỏ ngoài và mù quáng tin vào giáo điều vỏ ngoài? Con đường đến cứu rỗi không phải là một chuyến xe lửa mà con mua vé, bước lên toa và ngồi xuống ghế, và bây giờ con có thể nhắm mắt ngủ vì người lái sẽ đưa xe đến đích. Con đường đích thực đến cứu rỗi là một con đường mà con phải đi từng bước một, và với mỗi bực leo lên cầu thang xoắn ốc đó, con phải lấy một quyết định để lật ngược quyết định nhị nguyên đã khiến con đi xuống cùng bực này trên cầu thang.

Không có cách nào con có thể trở về Nước Trời mà không lấy những quyết định hoàn toàn ý thức. Tuyệt đối không có cách nào con có thể trở về cảm nhận hợp nhất với Thượng đế bằng cách cho phép một ai khác quyết định giùm con. Cái ta hữu diệt của con chỉ có thể lấy những quyết định kéo con xa khỏi hợp nhất với Thượng đế, và bất kỳ thẩm quyền nào bên ngoài cũng vậy. Khác biệt giữa một thày thật và một thày giả là vị thày thật sẽ cho con những sáng ngộ mà con cần có để lấy những quyết định tốt nhất cho con. Thày thật sẽ không bao giờ quyết định giùm con. Thày thật sẽ cho con những thông tin con cần, xong để yên cho con lấy quyết định riêng của mình. Thày thật biết rõ là chỉ bằng cách lấy quyết định riêng của mình thì con mới tăng triển. Thày giả sẽ không cung cấp cho con tất cả thông tin con cần. Y sẽ cố tình giấu giếm thông tin khỏi con và chỉ cung cấp những kiến thức sẽ khiến con ngả theo những gì y muốn con làm. Thày giả cũng sẽ vui mừng lấy quyết định giùm con, và y làm vậy xuyên qua cái ta hữu diệt đã được thiết kế ngay từ đầu để lấy quyết định giùm con.

Có một đường có vẻ đúng cho con người nhưng cuối cùng là con đường của sự chết. Con đường giả này là khi con cho phép người khác bảo con phải làm gì, dù đó là thày bên ngoài, giới chức tôn giáo, đạo sư tự xưng là tâm linh, hay chuyên gia đời sống dồi dào. Thậm chí đó còn là con đường cho phép cái ta hữu diệt tiếp tục lấy quyết định giùm con, là những quyết định chắc chắn phải dựa trên tâm thức nhị nguyên. Chỉ có một con đường chân chính duy nhất. Như Giê-su nói: “Cánh cửa hẹp và đường đi chật chính là con đường dẫn đến sự sống, và chỉ có ít người tìm thấy” (Matthew 7:14). Đó là con đường mà con phải giành lại quyền tự quyết của mình, khả năng quyết định của mình, và con phải lấy những quyết định này ở mỗi bực đưa con trở lên cầu thang xoắn ốc cho đến khi cuối cùng con bước qua ngưỡng cửa ở trên cùng và tắm trong mặt trời của Hiện diện TA LÀ của con. Không có đường nào khác dẫn đến cứu rỗi, và đây chính là điều Giê-su đã nói mọi người, đây là điều Phật đã nói mọi người, đây là điều các hiền giả Vệ đà đã nói mọi người, và đây là điều mọi vị thày tâm linh chân chính đã đến hành tinh này từ hàng ngàn và hàng ngàn năm qua đã nói mọi người. Không hề có con đường bên ngoài nào dẫn đến cứu rỗi. Đường tu là một con đường nội tâm qua đó con lấy những quyết định đưa con gần hơn tới điểm con chấp nhận mình chưa bao giờ thực sự tách biệt khỏi Thượng đế của mình.

11.9. Đấng An ủi

Điểm trung tâm của cuộc sống con người là làm cách nào có những quyết định đúng đắn. Tuyệt đối không có cách chi con lấy quyết định đúng đắn nếu các quyết định này dựa trên suy luận của tâm nhị nguyên, tâm phản Ki-tô. Cách duy nhất để quyết định đúng đắn – là những quyết định sẽ giúp con đến gần hơn hợp nhất với Thượng đế – là đặt chúng trên nền tảng của tâm thức Ki-tô. Làm thế nào một người đã rơi xuống tâm thức nhị nguyên có được những quyết định dựa trên tâm thức Ki-tô đây? Con có thể có được vì Thượng đế đã không bỏ con một mình. Như Giê-su nói: “Và ta sẽ cầu Cha để Cha cho con một đấng An ủi khác sẽ ở với con đời đời” (John 14:16).

Luật cân bằng làm việc rất thuận lợi cho con. Quả cầu cái ta của con đúng lý không được nhận bất cứ ảnh hưởng ngoại lai nào. Nó được dành riêng cho cái Ta Biết cư ngụ, và cái Ta Biết sẽ lần hồi đổ đầy ánh sáng vào đó cho đến khi không còn chỗ nào cho bóng tối. Cả thày giả lẫn thày thật đều không có quyền xâm phạm quả cầu cái ta của con, và không bên nào có thể làm vậy mà không có sự ưng thuận của con. Khi con tạo ra cái ta hữu diệt, con đã cho phép một chất liệu ngoại lai, thậm chí một sinh thể ngoại lai, xâm nhập quả cầu cái ta. Sinh thể này trở thành tiêu điểm cho tâm thức phản Ki-tô. Theo luật cân bằng, con không thể tồn tại nếu quả cầu cái ta của con chứa đựng một tiêu điểm cho thế lực phản Ki-tô mà không có gì để cân bằng lại. Hầu duy trì sự cân bằng, luật này đòi hỏi là nếu con cho phép tiêu điểm của tâm thức phản Ki-tô đi vào quả cầu cái ta, thì các thế lực của ánh sáng, các vị thày tâm linh chân truyền, cũng có thẩm quyền tái lập cân bằng qua việc đặt vào đó một tiêu điểm cho tâm thức Ki-tô.

Chừng nào con còn có sự kết nối nội tâm trực tiếp với Hiện diện TA LÀ và một vị thày bên ngoài đại diện cho Ki-tô, con không cần đến tiêu điểm này trong quả cầu cái ta. Nhưng khi con rơi xuống tâm thức nhị nguyên và bắt đầu đồng hóa với cái ta hữu diệt, con đánh mất sự nối kết trực tiếp với Hiện diện TA LÀ và sự ý thức về vị thày bên ngoài. Giờ đây các thày tâm linh của con cần phải cho con một cái gì để con có thể nối lại liên lạc với cõi tâm linh. Cái đó chính là điều Giê-su gọi là đấng An ủi, và Giê-su nói: “Đấng ấy sẽ dạy con mọi điều, nhắc cho con nhớ lại mọi điều ta đã nói với con” (John 14:26). Đấng An ủi này, mà thày muốn gọi là cái ta Ki-tô của con, là một vị thày nội tâm có khả năng cho con sự thật Ki-tô. Khi con lắng nghe vị thày bên trong này, vị cứu tinh bên trong này, con luôn luôn có thể đạt được những sáng ngộ mà con cần để lấy những quyết định dựa trên sự thật Ki-tô, tảng đá Ki-tô, thay vì cát lún của tâm thức nhị nguyên.

Con không có cách chi quyết định đúng đắn bằng cách lắng nghe cái ta hữu diệt và các thày giả bên ngoài con. Thượng đế đã không bỏ con bơ vơ không an ủi, mặc dù con đã quay lưng lại vị thày bên ngoài mà ngài đã gửi con và đánh mất kết nối với cái ta bất tử của con. Ngài đã vẫn gửi cho con một đấng An ủi dưới dạng cái ta Ki-tô ngụ ngay quả cầu cái ta của con. Cái ta Ki-tô này là vị thày nội tâm có khả năng lẫn ý muốn dạy con mọi điều, nhắc lại cho con mọi điều, để con có nền tảng tốt nhất mà lấy những quyết định sẽ cho phép con thăng lên cầu thang xoắn ốc và đến gần hơn mục đích tối thượng là hợp nhất với Thượng đế.

Đây cũng là điều Giê-su gọi là “chìa khóa của hiểu biết.” Giê-su đã quở mắng các thày luật đã tước mất chìa khóa của hiểu biết (Luke 11:52). Đa số người Cơ đốc không hiểu được câu nói này và tầm quan trọng cốt yếu của nó. Ý nghĩa thật đơn giản. Những ai đi theo con đường vỏ ngoài, con đường do các thày phản Ki-tô vạch ra, đã xem thường chìa khóa của hiểu biết. Chìa khóa của hiểu biết là con có khả năng ngay bên trong mình để biết sự thật, để có sự phân biện Ki-tô sẽ cho con uy lực lấy quyết định đúng đắn. Con làm vậy bằng cách lắng nghe và làm theo sự hướng dẫn của cái ta Ki-tô của con.

Các thày luật quyết định là họ không muốn đi theo con đường nội tâm qua việc lấy quyết định cho riêng mình. Họ quyết định là họ muốn đi theo con đường vỏ ngoài, tức là giấc mơ được cứu rỗi tự động. Để củng cố niềm tin là mình đúng, họ cố ngăn cản mọi người khác khám phá và đi theo con đường nội tâm. Họ muốn mọi người đi theo con đường vỏ ngoài vì họ nghĩ nếu ai ai cũng làm cùng một chuyện thì họ sẽ đúng và Thượng đế sẽ phải chấp nhận họ. Tất nhiên, thực tế là mọi người có thể làm cùng một chuyện mà vẫn sai – nếu ai ai cũng bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Đây là điều Giê-su đã chỉ ra cho họ khi thách thức các thày luật.

11.10. Hãy thỉnh thì sẽ được

Vấn đề trung tâm của cuộc sống con người là con phải lấy quyết định. Bài toán trung tâm là làm cách nào con lấy những quyết định đúng đắn. Nếu con có đầy đủ thông tin cần thiết, nếu con có một cái hiểu xác thực, con có thể lấy quyết định đúng đắn trong mọi hoàn cảnh. Quyết định đúng đắn luôn luôn là quyết định kéo con xa khỏi tâm thức nhị nguyên và đưa con lại gần sự hợp nhất với Thượng đế. Kết quả thực tế của một tình huống nào đó thật không quan trọng chút nào. Điều thực sự quan trọng là tình huống giúp con đến gần hơn sự hợp nhất với Thượng đế, giúp con tách mình ra khỏi các lời dối nhị nguyên. Nếu con tách mình được khỏi lời dối nhị nguyên, thì bất cứ hoàn cảnh nào cũng là một chiến thắng đưa con lại gần hơn mục đích hợp nhất. Bất cứ quyết định nào đưa con gần hơn với hợp nhất là một quyết định đúng đắn. Thật ra con có thể lấy một quyết định trong một tình huống nào đó có vẻ là một quyết định sai lầm từ nhãn quan người đời vì kết quả không đúng như thế gian hay cái ta hữu diệt của con mong muốn. Nhưng nếu quyết định đó đưa con lại gần sự hợp nhất với Thượng đế thì – từ nhãn quan Thượng đế – đó vẫn là một quyết định đúng đắn.

Con luôn luôn có nền tảng cần thiết để quyết định đúng đắn. Con không bao giờ bơ vơ. Nhưng tiếc thay, rất có thể cái Ta Biết sẽ làm ngơ hay ngay cả quên mất sự hiện hữu của đấng An ủi. Cái Ta Biết là con người mà nó nghĩ nó là, và nếu nó tự đồng hóa như một người tội lỗi phàm phu, hữu diệt, bị cắt đứt khỏi Thượng đế và không thể quyết định đúng đắn, thì đây sẽ là “thực tại” tạm thời của nó. Sự thật là con chưa bao giờ bị cắt đứt khỏi Thượng đế, con chưa bao giờ tách biệt, con chưa bao giờ thiếu thốn niềm an ủi và sự hướng dẫn, mà ngược lại con luôn luôn có khả năng đi theo lời gọi của Giê-su: “Hãy thỉnh thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ cửa thì sẽ được mở cửa” (Matthew 7:7).

Con yêu dấu, con có nghĩ Giê-su đang hứa suông ở đây không? Con có nghĩ Giê-su nói lời này mà không có sự thật nào đằng sau? Đa số người đạo Cơ đốc không hiểu được tầm quan trọng của lời dạy này, nhưng con thật sự chỉ có hai chọn lựa. Hoặc Giê-su là thày giả, hoặc đằng sau lời nói của Giê-su có một ý nghĩa sâu xa hơn. Nếu con sẵn lòng đi tìm ý nghĩa sâu xa, con sẽ thấy được thực tế là không bao giờ có tình trạng con hoàn toàn bị cắt đứt khỏi mọi sự hướng dẫn từ trên. Cho dù hoàn cảnh con là gì, con luôn luôn có chọn lựa xin được giúp đỡ. Nếu con xin, con sẽ nhận được hồi đáp. Hãy cho thày nhắc lại một lần nữa: “Nếu con yêu cầu sự hướng dẫn từ cái ta Ki-tô, con sẽ luôn luôn nhận được một câu trả lời.”

Điều này sẽ khó chấp nhận cho nhiều người. Thực tế là câu trả lời luôn luôn ở đó. Vấn đề là liệu tâm ý thức của con có sẵn lòng ghi nhận câu trả lời, lưu ý câu trả lời và dựa theo đó mà hành động hay không. Con hãy xem câu nói dân gian này: “Ấn tượng đầu tiên luôn luôn chính xác.” Thử nghĩ đến một hoàn cảnh con gặp một ai đó lần đầu và con có ấn tượng là họ không thể tin được. Lập tức tâm vỏ ngoài bắt đầu tìm lý do tại sao người này thật ra cũng đáng tin cậy đấy, thường thường dựa trên lai lịch hay địa vị của họ trong xã hội. Tâm vỏ ngoài của con đã dùng lý luận để bác bỏ ấn tượng đầu. Con có bao giờ gặp một trường hợp như vậy rồi sau đó vỡ lẽ là ấn tượng đầu của mình hoàn toàn chính xác? Hay con có gặp hoàn cảnh tương tự khi con có một ấn tượng đầu và tâm vỏ ngoài dùng lý luận khôn khéo để gạt nó sang bên, xong con khám phá là ấn tượng đầu chính xác? Những tình huống như vậy là ví dụ về điều thày đang nói tới, cụ thể là con luôn luôn nhận được một câu trả lời nhưng tâm vỏ ngoài thường không ghi nhận hay không chú ý đến nó. Hay tâm vỏ ngoài dùng giải thích nhị nguyên để bác bỏ câu trả lời, một điều mà như thày đã đề cập nhiều lần, nó luôn luôn có thể làm vì tâm thức nhị nguyên không bao giờ có thể được chứng minh là sai.

11.11. Hai điều kiện để nhận được trả lời

Hãy để thày diễn đạt câu “Hãy thỉnh thì sẽ được” một cách khác để cho rõ hơn. “Hãy hỏi với tim cởi mở và tâm không phán xét thì con sẽ luôn luôn nhận được câu trả lời.” Để thật sự nhận được câu trả lời từ cái ta Ki-tô, con phải nỗ lực đáp ứng hai điều kiện. Điều kiện đầu là con phải sẵn lòng muốn biết sự thật. Con phải quyết định là con muốn biết một cái hiểu cao hơn những gì con đang hiểu, thay vì muốn một câu trả lời xác nhận những gì cái ta hữu diệt muốn con tin.

Chuyện này không giản dị như nó có vẻ. Thày liên tục được nghe nhiều người Cơ đốc rất sùng đạo và chân thành cầu nguyện xin thày giúp đỡ và can thiệp trong đời họ. Nhiều người trong số này cầu nguyện như thể thày là một ông thần trong lọ sẽ đến giải quyết tất cả mọi vấn đề giùm họ. Thày sẽ vui lòng giúp họ giải quyết vấn đề của họ, nhưng chìa khóa là thày muốn giúp họ tự giải quyết vấn đề của họ bằng cách trao cho họ những sáng ngộ mà họ cần để lấy những quyết định đúng đắn. Nhiều người không cởi mở với cái hiểu cao hơn, với sự thật cao hơn mà họ cần để lấy những quyết định giống như Ki-tô. Họ chỉ muốn một câu trả lời từ thày sẽ xác nhận các tin tưởng Cơ đốc chính thống, không vượt ra ngoài giáo điều của họ. Có sự giới hạn rất gắt gao trong những cách thày có thể giúp họ vì đơn giản là tâm vỏ ngoài của họ không chịu lắng nghe những câu trả lời thày gửi cho họ. Điều kiện đầu tiên là con phải hỏi với một con tim cởi mở và sự sẵn lòng học hỏi một điều gì vượt khỏi cái hiểu hiện thời của con. Con cần sẵn lòng để cho Thượng đế cho con câu trả lời mà con cần nghe, chứ không phải câu trả lời mà cái ta hữu diệt và ông hoàng của thế gian muốn con nghe. Con cần mở cửa ra cho một câu trả lời sẽ giúp con nhìn xa hơn tâm thức nhị nguyên.

Điều kiện thứ hai là con tìm cách lật mặt nạ và vô hiệu hóa cái ta hữu diệt cùng xu hướng của nó là phân tích từng câu trả lời nhận được, rồi cố nhét vào khuôn khổ hệ thống tin tưởng nhị nguyên của nó. Nếu câu trả lời không phù hợp với hộp tư duy này – và tất nhiên bất kỳ câu trả lời nào từ tâm Ki-tô cũng sẽ không nhét vừa một hệ thống tin tưởng nhị nguyên – cái ta hữu diệt sẽ dùng lối suy luận nhị nguyên khôn khéo cố hữu để lập luận rằng câu trả lời không thể nào đúng và tại sao con không nên để ý đến nó. Cái ta hữu diệt luôn luôn đánh giá mỗi ý tưởng mới, và bất cứ gì không nhét vào được hộp tư duy của nó sẽ tự động bị gạt bỏ.

Con luôn luôn có cơ hội tiếp cận sự thật của Ki-tô, nhưng để nhận và nhìn nhận sự thật này, con cần sẵn lòng với ra ngoài hộp tư duy, nhà tù tư duy, được tạo nên bởi cái ta hữu diệt và các tin tưởng nhị nguyên của nó. Nếu con sẵn lòng với ra ngoài thì luôn luôn con sẽ nhận được câu trả lời. Tất nhiên có rất nhiều điều con có thể làm để gia tăng khả năng nhận câu trả lời bằng cách khuếch lớn sự nhận biết và sự nối kết với cái ta Ki-tô cùng tâm Ki-tô rộng lớn, Tâm Ki-tô Hoàn vũ, mà cái ta Ki-tô là một tiêu điểm. Các bài thỉnh của thày là dụng cụ để đạt mục tiêu này.

11.12. Thay thế quyết định dở bằng quyết định tốt

Khi cái Ta Biết bắt đầu tự đồng hóa như một sinh thể hữu diệt, con cũng bắt đầu lắng nghe các thày nhị nguyên, các thày giả. Đây là một khuôn nếp, một thói quen có thể đã kéo dài rất nhiều tiền kiếp. Hầu lật ngược khuôn nếp hướng hạ này, con cần một nỗ lực ý thức để phá vỡ sợi dây đồng phụ thuộc mà con có với những thày vỏ ngoài bảo con phải làm gì. Thay vào đó, con cần tái khám phá và tăng cường sự nối kết bên trong với vị thày nội tâm của cái ta Ki-tô và các vị thày chân chính là chân sư thăng thiên. Những vị này sẽ không bảo con làm gì mà sẽ cho con những thông tin giúp con có uy lực lấy quyết định đúng đắn. Tất nhiên để cất bước trên con đường này, con phải trước tiên đạt tới điểm cái Ta Biết quyết định là nó muốn lấy quyết định trở lại. Và để đến được điểm này, con sẽ phải khắc phục một trong những chướng ngại lớn nhất trên đường tu tâm linh, đó là nỗi sợ phạm lỗi.

Sau khi con có giây phút sự thật và ngộ ra mình đã quyết định sai lầm, con sợ lấy quyết định. Đây là nỗi sợ bảo rằng bởi vì quyết định sai lầm là một chuyện quá khủng khiếp, cho nên tốt hơn con không nên lấy bất cứ quyết định nào. Lối suy luận này thật sự là sản phẩm của tâm rắn và nó hoàn toàn phi lôgíc. Nó bảo nếu con không lấy quyết định nào hết, con sẽ không thể quyết định sai lầm. Nhưng đây là một ảo tưởng toàn diện, một lời dối toàn diện.

Thượng đế đã ban cho con quyền tự quyết. Con có quyền làm bất cứ gì con muốn với quyền này, nhưng con không thể tránh lấy quyết định. Con không thể cho đi khả năng chọn lựa của mình. Con không thể cho đi trách nhiệm chọn lựa của mình. Con có thể tìm cách giao nó cho người khác, con có thể tìm cách để người khác quyết định giùm con, nhưng để làm vậy, con vẫn phải lấy một quyết định. Nếu con cho phép cái ta hữu diệt hay một thày giả quyết định giùm con, con vẫn đang lấy quyết định làm vậy. Mỗi khi con cho phép chúng quyết định giùm con thì con đang lấy quyết định tiếp tục tình trạng này. Không có lối thoát nào để khỏi lấy quyết định. Bất cứ lúc nào trong đời, con cũng đang lấy quyết định, và không có cách chi con thoát khỏi chuyện này.

Tại sao con lại muốn trốn tránh việc lấy quyết định? Lấy quyết định, có quyền tự quyết, là cơ hội lớn nhất từ Thượng đế, cơ hội lớn nhất để tự thăng vượt và trở nên hơn nữa, nhờ vậy con mới đồng-sáng tạo sự sống dồi dào. Đúng là việc quyết định sai lầm có thể đem đến những hệ quả không mong muốn mà con sẽ phải đối mặt, nhưng cũng đúng không kém là con có thể gỡ bỏ mọi quyết định sai lầm của quá khứ bằng cách quyết định đúng đắn trong giây phút hiện tại. Thật là đúng – mặc dù đây là bí mật mà các thày giả không muốn con biết – là con luôn luôn có một nền tảng để lấy quyết định đúng đắn nếu con chịu đi tìm công khai câu trả lời từ cái ta Ki-tô của con.

Thật đây chỉ là chuyện xoay tâm thức lên một chút bằng cách nhận ra là việc phạm lỗi không có gì khủng khiếp như các thế lực của thế gian muốn con tin. Chiến lược cơ bản của tà lực là khiến con tin rằng con đã mắc vào một sai lầm khủng khiếp đến độ không bao giờ có thể xóa sạch được. Bất kỳ lỗi lầm nào con đã phạm cũng dựa trên một quyết định con lấy, một quyết định dựa trên cách lý luận sai lạc của tâm nhị nguyên. Điều tuyệt vời là bất cứ quyết định nào cũng có thể được thay thế lập tức bởi một quyết định khác. Bất cứ quyết định dở nào cũng có thể được thay thế lập tức bằng cách lấy một quyết định tốt. Bất cứ một quyết định nào dựa trên tâm thức nhị nguyên, tâm thức phản Ki-tô, cũng có thể được thay thế lập tức bằng cách lấy một quyết định dựa trên tâm thức Một, tâm thức Ki-tô.

Điều này có vẻ như không quan trọng, nó có vẻ đương nhiên. Nhưng nó không đương nhiên chút nào, vì nếu con đã thấm nhuần sự thật mà thày đang nói với con ở đây thì con đã không đang ngồi trên trái đất mà đọc khóa học này, mà con đã ngồi trên kia nơi thiên đàng như một sinh thể tâm linh bất diệt. Và con cũng đã không cần một quyển sách để thày truyền đạt ý tưởng của thày cho con. Sự kiện con đang ngồi đây trên trái đất và đọc khóa học này chứng tỏ cho con thấy là con chưa hoàn toàn tiếp thu sự thật mà thày đang cho con.

Bất cứ quyết định sai lầm nào cũng có thể được thay thế bởi một quyết định dựa trên sự thật của Ki-tô. Nếu con chịu cam kết là con sẽ công khai thỉnh cầu sự thật Ki-tô – bằng cách hấp thu sự thật này vào tâm thức con, thể nhập nó, rồi dùng nó để lấy quyết định đúng đắn – con có khả năng xoay chuyển đời con rất nhanh chóng, nhanh hơn nhiều so với bao nhiêu tiền kiếp con đã bỏ ra để đặt mình vào hoàn cảnh hiện tại. Con có khả năng chặn đứng vòng xoáy hướng hạ và khởi sự một vòng xoáy tích cực, hướng thượng, sẽ dần dần dẫn con xa khỏi cảm giác vật lộn và đưa con vào sự sống dồi dào.

11.13. Thị hiện sự sống dồi dào

Quá nhiều người mong mỏi sự sống dồi dào nhưng lại có một hình ảnh hoàn toàn sai trật về thế nào là dồi dào. Quá nhiều người nghĩ dồi dào đúng nghĩa là một nguồn tiếp tế tiền bạc vô hạn mà họ nhận được từ một nguồn bên ngoài, cho dù đó là trúng số độc đắc hay một trò lừa thần diệu nào đó do thày giả hứa hẹn. Đây là điều các thày giả về thịnh vượng hứa hẹn người ta, cụ thể là có một kỹ thuật thần thông để chế tạo thịnh vượng, và một khi người ta có đủ tiền thì mọi khó khăn sẽ biến mất.

Việc có tiền, dù có bao nhiêu tiền, cũng không giống như sự sống dồi dào. Sống dồi dào là nhiều hơn hẳn chuyện tiền bạc, và đó là tại sao con không thể phục vụ hai chủ, con không thể vừa phục vụ Thượng đế vừa phục vụ Ma-môn (Matthew 6:24). Nếu con nghĩ chìa khóa của dồi dào là có tiền, con sẽ không bao giờ đạt được dồi dào đích thực của Thượng đế, vì nó hơn tiền bạc rất nhiều.

Dồi dào đích thực là biết mình hợp lẽ Thượng đế, biết mình đang trở về nhà, biết mỗi quyết định của mình đang đưa mình gần hơn tới mục đích tối thượng là sự hợp nhất với Thượng đế. Sự sống dồi dào đích thực là biết mình là một sinh thể tâm linh bất diệt đang ở đây trên trái đất để biểu đạt cá thể thiêng liêng của mình. Con cảm thấy con đang biểu đạt cá thể thiêng liêng này vào mỗi lúc. Con cũng biết con được thiết kế để là một người đồng-sáng tạo với Thượng đế, con ở đây không chỉ để thực hiện mong muốn riêng của mình mà để đồng-sáng tạo vương quốc của ngài trên trái đất. Con biết là mỗi quyết định con lấy đang đem vương quốc này một bước nhỏ gần hơn đến sự thị hiện vật lý trên hành tinh này. Con biết con là một phần của Dòng sông sự Sống của Thượng đế, con là một phần của phong trào toàn cầu gồm những người đang nỗ lực đến gần với Thượng đế và đem vương quốc của ngài gần hơn ngày thị hiện trên trái đất.

Đây là dồi dào đích thực, là niềm vui biết rằng con là một phần của Dòng sông sự Sống, dòng chảy liên tục của tạo vật tráng lệ của Thượng đế. Điều này vượt xa bất cứ gì hầu hết mọi người có thể hình dung hay tưởng tượng, vượt xa bất cứ gì người ta có thể mua được bằng tiền bạc dù nhiều biết mấy. Điều này chỉ có thể đem lại từ bên trong, cụ thể là khi con quyết định tách mình khỏi tâm thức vật lộn, tâm thức thiếu thốn. Thay vào đó, con phải lao mình vào Dòng sông sự Sống, vào tâm thức Một, và giờ đây con trôi theo dòng sông đó. Con đang ở trong dòng chảy của sự dồi dào của Thượng đế, và sự dồi dào của Thượng đế đang tuôn chảy qua con vì con ngộ ra con chính là sự dồi dào của Thượng đế đang biểu hiện, con chính là Thượng đế trong biểu hiện.

Trái tim yêu dấu của thày, đây là sự sống dồi dào đích thực mà thày đã đến để cho con chứ không phải một con đường tắt dẫn đến của cải tạm bợ. Thày đã đến để cho con của cải của Tánh linh, vì như Giê-su có nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Trời và mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con” (Matthew 6:33). Nếu con đi theo con đường thày đang phác họa, rất có thể con cũng sẽ nhận được tiền bạc hay những hình thức dồi dào vật chất khác. Để nhận được tiền bạc này, con phải trước hết tìm cầu sự dồi dào đích thực của tâm thức Ki-tô, sự công chính đích thực khi biết rằng con hợp lẽ với Thượng đế vì giờ đây con sẵn lòng là con người mà con thực là, tức một người đồng-sáng tạo đang ở đây để thị hiện Nước Trời qua những quyết định đúng đắn dựa trên tảng đá Ki-tô. Đây là nền tảng của dồi dào đích thực – con là con người mà con là, sẵn lòng thực thi uy lực mà Thượng đế đã ban cho con để cai trị, trước hết quả cầu cái ta của mình và sau đó vũ trụ vật chất.

A con yêu dấu, có lẽ con đang thoáng thấy sự sống dồi dào là nhiều hơn hẳn chuyện tiền của? Nếu con thấy được như vậy, con hãy cho phép thày trải bày cho con lý do thực sự tại sao con đã đến trái đất, và con ở đây để mang đến món quà độc đáo gì cho thế gian này. Đây mới là sự sống dồi dào, sự phong phú của việc trao tặng món quà vô hạn cho một thế giới hữu hạn, và nhờ vậy đưa thế giới hữu hạn này gần hơn với vương quốc vô hạn của Thượng đế.

9 | Cuộc đối thoại nội tâm trong con

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/4/2005.

Bây giờ thày muốn lấy một hướng hơi khác bằng cách yêu cầu con tham gia một bài tập. Thày sẽ cho con rất ít lời chỉ dẫn trước bài tập để sự đáp ứng của con cởi mở và chân thực hơn. Yêu cầu duy nhất về mặt vật lý là thày xin con có bút giấy sẵn sàng để có thể ghi xuống câu trả lời của con.

Con cần biết đến điều mà các nhà tâm lý học gọi là đối thoại nội tâm. Đây là cuộc đối thoại con có với chính mình, thường khi trong đầu, nhưng cũng có khi nói ra thành lời. Có lẽ con đã biết rõ đối thoại nội tâm là gì rồi, và nếu vậy thì thày chỉ đơn giản xin con để ý đến nó trong khi làm bài tập. Còn nếu con chưa quen thuộc với khái niệm đối thoại nội tâm, thày xin con thử nghĩ đến một tình huống đã khiến con rất đau buồn. Sau khi tình huống xảy ra, con cứ băn khoăn mãi không nguôi, con nghĩ hết chuyện này đã phải xảy ra đến chuyện nọ đúng lý không được xảy ra. Con cũng có thể xét xem đôi khi con có giấc mơ về những chuyện con muốn thấy xảy ra trong đời mình, và con lật qua lật lại trong đầu, mong mỏi điều gì đó có thể xảy ra. Những cuộc trò chuyện như vậy với chính mình là điều các nhà tâm lý học gọi là đối thoại nội tâm, và trong bài tập con cần chú ý đến nó.

Một cách tổng quá hơn, để thực sự phơi bày các chướng ngại của cái ta hữu diệt đang ngăn con không tiến được trên đường tu, con cần bắt đầu để ý đến cuộc đối thoại bên trong con. Trong nhiều trường hợp, đó là cái ta hữu diệt đang nói chuyện. Bằng cách lắng nghe cuộc đối thoại, cái Ta Biết có thể phơi bày cái ta hữu diệt và cách lý luận nhị nguyên của nó. Trong một số trường hợp, cuộc đối thoại diễn ra giữa cái Ta Biết và cái ta hữu diệt, qua đó con có thể học được nhiều điều từ những câu trả lời của cái ta hữu diệt. Trong một số trường hợp, con cũng cần phải rút lui một cách ý thức khỏi những cuộc trò chuyện này với cái ta hữu diệt vì chúng chẳng đưa tới đâu. Và trong một số trường hợp khác, cuộc trò chuyện này – hay ít nhất một phần của nó – cũng có thể đến từ một phần cao hơn của bản thể con đang cố soi sáng con về con đường đúng đắn.

9.1. Một bài tập hình dung

Thày xin con tham dự bài tập sau đây. Thày muốn con hình dung mình đang ngồi một chiếc ghế thoải mái bên bờ một hồ nước xinh đẹp trên núi. Quanh hồ là rặng thông cao tỏa hương thơm đặc biệt của loài thông, khiến cho không khí thật sảng khoái trong lành. Có chim hót nhí nhảnh trên ngọn thông cao. Trước mặt con là mặt hồ xanh thẳm dưới núi, phẳng lặng như thủy tinh. Có chút sương lãng đãng nhưng con vẫn có thể nhìn thấy bờ hồ bên kia, và con chiêm ngưỡng rặng núi tuyệt đẹp sau khu rừng. Toàn bộ khung cảnh là một sự an bình tĩnh lặng.

Thày xin con hình dung cảnh này và cho phép mình cảm thấy sự an bình tĩnh lặng của hồ nước xinh đẹp này. Con hãy bỏ ra mấy phút, nếu con muốn, để nhắm mắt lại và tưởng tượng mình đang ngồi trước bờ hồ trên núi, trong lòng hoàn toàn bình an, không có bất kỳ lo lắng nào của đời sống bình thường. Bây giờ con đang ở bờ hồ với lòng an bình, thày xin con hình dung là con cảm nhận có một sinh thể đang đứng sau lưng con. Sinh thể này là Thượng đế, trong bất kỳ dạng nào mà con hình dung ngài. Bây giờ thày yêu cầu con xem xét cuộc đối thoại nội tâm của con và xem có ý tưởng và từ ngữ nào khởi lên trong tâm con liên quan đến Thượng đế và cách con nhìn Thượng đế. Thày yêu cầu con ghi xuống thật nhanh các ý nghĩ đang đến với con. Con đừng phân tích các ý nghĩ này, đừng cố lượng định xem chúng có chấp nhận được theo bất kỳ tiêu chuẩn nào. Con chỉ đơn giản viết xuống các ý nghĩ đến với con về Thượng đế.

Giờ đây con đã ghi xuống ý nghĩ của mình về Thượng đế và sự hiện diện của ngài, thày xin con hình dung Thượng đế đang ở đây để cho con cơ hội xin ngài tha thứ lỗi lầm mà con đã phạm trong quá khứ xa xôi khi con quay lưng lại với ngài. Khi con mường tượng con sẽ cần gì để quay đầu lại, đối diện với ngài và xin ngài tha tội, thày một lần nữa yêu cầu con chú ý đến cuộc đối thoại nội tâm về chủ đề này. Xong con lại ghi nhanh các ý nghĩ khởi lên trong con mà không phân tích gì hết.

Bây giờ thày yêu cầu con nghĩ xem vị Thượng đế đang đứng sau lưng con không cảm thấy gì ngoại trừ tình thương vô lượng và vô điều kiện cho con. Nếu con sẵn lòng đứng dậy, quay đầu lại, đối diện với ngài và ôm lấy ngài, thì tình thương của ngài cho con sẽ làm tan chảy mọi cảm xúc tiêu cực đối với ngài cùng mọi hình ảnh bất toàn về chính con. Bây giờ thày xin con nhìn xem cuộc đối thoại nội tâm của con nói gì về khả năng con có thể ôm chầm lấy Thượng đế và đón nhận tình thương vô điều kiện của ngài. Cuộc đối thoại đó nói gì về các điều kiện có thể ngăn con làm việc đó? Một lần nữa, con hãy ghi nhanh các ý nghĩ này mà không phân tích.

Trái tim yêu dấu của thày, con có thể dùng bài tập này để phơi bày các tầng lớp sâu thẳm của cái ta hữu diệt và cách lý luận nhị nguyên mà nó đã dùng để ngăn con cất bước trên đường tu sẽ dẫn con trở về sự cứu rỗi đích thực, là hợp nhất với Thượng đế của con. Bí quyết là con làm bài tập này với tâm cởi mở và ghi xuống cuộc đối thoại nội tâm mà không phân tích khi con ghi. Nếu con lặp lại bài tập này và cố làm sao cho câu trả lời càng ngày càng ngẫu hứng, con có thể dần dần phơi bày các tin tưởng nhị nguyên cấu tạo cái ta hữu diệt của con. Điều này sẽ cho con một nền tảng để thay thế các tin tưởng nhị nguyên này bằng sự thật Ki-tô.

Con hãy nghĩ lại điều thày nói trước đây, cụ thể là cốt lõi bản sắc của con, cái Ta Biết, là chìa khóa cho việc con đi lên hay đi xuống trong tâm thức. Cái Ta Biết có khả năng tự đồng hóa với bất cứ gì, và bí quyết tăng trưởng là giải thoát cái Ta Biết khỏi mọi đồng hóa – bất kỳ đồng hóa nào – với cái ta hữu diệt. Con có thể đồng hóa với sinh thể tâm linh mà con là, với cá thể của Thượng đế mà con là, và con có thể khám phá cá thể thực được neo trụ trong Hiện diện TA LÀ của con. Để giải thoát khỏi cái ta hữu diệt, con cần nhìn nhận một cách ý thức rằng cái ta hữu diệt là một nhà tù được xây bằng nhiều viên gạch riêng rẽ, mỗi viên gạch tượng trưng cho một lời dối nhị nguyên mà con đã dần dà chấp nhận. Chỉ bằng cách nhìn xuyên thấu các lời dối này một cách ý thức và nhìn ra sự thật sẽ giải thoát con, thì con mới có thể thoát ra khỏi nhà tù của cái ta hữu diệt, giải thoát quả cầu cái ta khỏi các yếu tố hữu diệt, các yếu tố của tâm thức phản Ki-tô đang kéo con xuống qua trọng lực của chúng.

9.2. Lỗi lầm không quy định con vĩnh viễn

Có những thày giả đang hiện hữu ở bên ngoài con. Họ đang tìm cách đánh bẫy con vào tâm thức nhị nguyên và giữ con trong trạng thái tâm thức đó mãi mãi. Cái ta hữu diệt là một kẻ xâm nhập ngoại lai vào quả cầu cái ta của con, và tương tự như vậy, nó cũng tìm cách giữ con kẹt lại trong tâm thức phản Ki-tô vô thời hạn. Cả kẻ thù bên trong lẫn bên ngoài đang tìm cách đặt con vào một thế kẹt tâm linh, qua đó con đã phạm lỗi lầm trong quá khứ và giờ đây con lại tin rằng con sẽ không bao giờ thoát ra khỏi lỗi lầm này. Đây là âm mưu của kẻ thù bên trong và kẻ thù bên ngoài. Đây là kế sách của chúng để phân rẽ ngôi nhà của con với chính nó, hầu con không bao giờ trở về được trạng thái hồn nhiên của mình, là cảm nhận hợp nhất nội tâm với Thượng đế của con.

Rất lâu về trước, kẻ thù bên ngoài đã cám dỗ con với những lời gian dối nhị nguyên bằng cách cài đặt yếu tố ngờ vực trong tâm thức con. Khi con bắt đầu chấp nhận ngày càng nhiều lời dối nhị nguyên, cuối cùng các yếu tố phản Ki-tô này tạo thành một khối tới hạn, sinh ra cái ta hữu diệt trong tư cách một sinh thể có ý thức bên trong quả cầu cái ta của con. Chính vào lúc đó con đánh mất sự hồn nhiên của mình và cảm thấy bị lạc đường vì giờ đây con đã tách mình ra khỏi Hiện diện TA LÀ. Kỳ thực chưa bao giờ có sự tách biệt. Chỉ trong tâm con mới tin là có một trạng thái tách biệt như thế, một khoảng cách như thế. Ngay trước khi cái ta hữu diệt chào đời, con đã có một giây phút sự thật khi cái Ta Biết nhận ra là con đã tách mình ra khỏi Hiện diện TA LÀ – con đang trần truồng. Ngay lúc đó, kẻ thù bên ngoài đã gài vào tâm thức con ý tưởng rằng bởi vì con đã đánh mất ân sủng cho nên con không bao giờ có thể trở về hợp nhất với Thượng đế. Vì con đã phạm lỗi trong quá khứ, con không bao giờ có thể trở về với ngài trong hiện tại hay bất cứ khi nào trong tương lai.

9.3. Tại sao thế gian này vô thường

Sau khi đã cám dỗ con với nhiều lời dối nhị nguyên, kẻ thù bên ngoài bây giờ dụ con với lời gian dối tối hậu rằng con có thể bị chia cách khỏi Thượng đế một cách vĩnh viễn mà không có cách chi đảo ngược lại, không có đường nào thoái lui. Đây là lời dối bảo rằng những sự việc, những thứ của thế gian, bất cứ gì con đã làm ở bất kỳ thời điểm nào, có khả năng ngăn con trở về với Thượng đế. Đâu là sự sai lầm của lời dối này? Tất cả mọi thứ trong thế gian này đều được tạo ra từ Ánh Sáng Mẹ đã được hạ thấp độ rung. Mọi thứ hiện hữu trong thế gian này có một rung động thấp hơn các năng lượng trên cõi tâm linh. Cốt lõi của bản thể con là cái Ta Biết, quả cầu cái ta và Hiện diện TA LÀ của con. Cả ba yếu tố này của bản thể con do Thượng đế tạo ra từ năng lượng cao hơn của cõi tâm linh. Chúng có rung động cao hơn bất cứ gì trong thế giới vật chất. Thực tế là không có gì trong thế giới vật chất này có thể vĩnh viễn ảnh hưởng bản thể thực của con.

Cái Ta Biết là một phần nối dài của nhận biết thuần khiết của Thượng đế. Nó không thể bị thay đổi hay bị hư hại vĩnh viễn bởi bất cứ gì con đã làm trong phổ rung động thấp hơn của cõi vật chất. Đây chính là một trong những cơ chế an toàn được gắn sẵn trong tạo vật của Thượng đế, do Đấng Sáng tạo của con quy định để ngăn con không thể bị kẹt mãi trong bất kỳ tạo vật bất toàn nào, dù là do con hay bất cứ ai tạo ra.

Cái Ta Biết có thể tự đồng hóa với một rung động thấp hơn, nhưng ý niệm bản sắc này không thể vĩnh viễn hay bất khả đảo ngược. Đó là một ảo tưởng, và nó chỉ có thể tồn tại cho đến khi cái Ta Biết còn chấp nhận nó là thực. Ngay giây phút con buông bỏ ảo tưởng này, nó không còn bất cứ quyền lực nào trên con nữa. Lời dối được ông hoàng của thế gian và kẻ thù bên trong con quảng bá là con đã phạm một lỗi lầm trong quá khứ mà con không thể nào thoát ra khỏi. Bất cứ gì con đã làm trong quá khứ đều được làm với ánh sáng Thượng đế, với Ánh sáng Mẹ. Chỉ khi nào con ở trong tâm thức Ki-tô thì con mới có thể vận dụng Ánh sáng Mẫu-Vật thuần khiết.

Khi con dự phần vào tâm thức nhị nguyên, con không thể ảnh hưởng đến Ánh sáng Mẫu-Vật thuần khiết mà con chỉ có thể vận dụng các năng lượng đã sẵn được đem vào phổ tần số vật chất. Các năng lượng này, theo định nghĩa, có rung động thấp hơn năng lượng của cõi tâm linh và do đó không thể hằng thường. Không có gì trong cõi này có thể hằng thường. Không một lỗi lầm nào con từng phạm phải có thể hằng thường hay bất khả đảo ngược. Bất cứ lỗi lầm nào cũng có thể được lật ngược, hoàn nguyên, giải thể, và để giải thể một lỗi lầm, con cần làm hai việc đơn giản:

  • Con cần nhìn thấu lời dối nhị nguyên đã khiến con làm tha hóa Ánh sáng Mẫu-Vật. Khi con nhìn thấu lời dối đó, chấp nhận đó là một lời dối và thay thế nó bằng sự thật Ki-tô sẽ vô hiệu hóa lời dối, thì con sẽ được giải thoát khỏi lời dối.
  • Khi con đang chấp nhận lời dối và cho phép nó ở lại trong quả cầu cái ta của con, thì năng lượng vẫn chảy qua phin lọc của lời dối và do đó khoác vào hình dạng mà nó tạo thành. Chúng ta có thể nói là con đã làm tha hóa một phần nào đó, một lượng nào đó của ánh sáng Thượng đế. Trách nhiệm của con là thanh tẩy ánh sáng đó để đảm bảo không còn sự mất quân bình trong cõi vật chất. Để giải thoát khỏi lỗi lầm đã qua, con cũng cần phục hồi lại Ánh sáng Mẫu-Vật đã bị tha hóa, đã bị giảm rung động và bị khoác vào một hình ảnh bất toàn khi con còn tin vào lời dối nhị nguyên. Việc làm này không khó lắm một khi con đã nhìn thấu lời dối. Con chỉ cần thỉnh cầu ánh sáng tâm linh từ Trên và hướng nó vào năng lượng tha hóa, qua đó con có thể nâng cao rung động của năng lượng có tần số thấp. Đây là một quy trình hoàn toàn tự nhiên mà ngay cả các nhà khoa học của con cũng đã khám phá và chứng minh trong phòng thí nghiệm. Khi con phóng một sóng ánh sáng có tần số cao vào một sóng có tần số thấp, con có thể nâng cao rung động của năng lượng thấp. Đây là một tiến trình cơ học và các bài thỉnh kèm theo khóa học này được thiết kế để nâng cao rung động của ánh sáng đã bị tha hóa.

9.4. Luật nhân quả nhằm giữ cân bằng cho vũ trụ

Không có lỗi lầm nào là vĩnh viễn, không thể đảo ngược. Không có lỗi lầm nào không sao giải thể. Không có lỗi lầm nào sẽ giữ con mắc kẹt mãi mãi. Đấng Sáng tạo của con không mong muốn gì hơn là thấy con được tự do khỏi mọi lỗi lầm – bất kỳ lỗi lầm nào – của quá khứ. Quan niệm một Thượng đế giận dữ chuyên trừng trị là một khái niệm bắt nguồn từ tâm thức nhị nguyên, tâm thức phản Ki-tô. Nó không có bất kỳ thực thể nào. Đấng Sáng tạo của con không giận con vì con đã lầm lỗi. Đấng Sáng tạo của con đã cho con quyền tự quyết và cũng cho con vũ trụ vật chất để thử nghiệm quyền tự quyết này. Luật Tự quyết không tồn tại một mình, nó tồn tại như một thái cực với luật nhân quả, và luật này thì khiến con chịu trách nhiệm các chọn lựa của mình, chịu trách nhiệm cách con dùng năng lượng của Thượng đế.

Luật này có hai khía cạnh. Nó bảo rằng chừng nào con cho phép một lời dối ở lại trong bình chứa cái ta, con sẽ không tránh khỏi làm tha hóa một chút năng lượng của Thượng đế qua lời dối nhị nguyên đó và các hình ảnh bất toàn mà con áp đặt lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Luật có khía cạnh thứ nhì bảo rằng năng lượng mà con tha hóa sẽ được tấm gương vũ trụ gửi trả về con dưới dạng những điều kiện biểu diễn các hình ảnh bất toàn đó. Con sẽ trải nghiệm những gì con tạo ra qua tâm thức nhị nguyên. Đây chính là tại sao Giê-su dạy mọi người hãy làm cho người khác những gì mình muốn người khác làm cho mình (Matthew 7:12). Ý nghĩa sâu xa hơn là tấm gương vũ trụ sẽ gửi trả lại cho con những gì con làm tới người khác, những gì con làm tới Ánh sáng Mẫu-Vật. Con sẽ không thể tránh trải nghiệm trong đời mình những gì con làm tới người khác.

Con càng để cho một lời dối nhị nguyên ở lại lâu trong quả cầu cái ta, con càng bị dính mắc tình cảm với lời dối đó, thì con sẽ càng tha hóa nhiều năng lượng hơn. Khi năng lượng tích lũy, cường độ của năng lượng được tấm gương vũ trụ phản chiếu lại về con sẽ tiếp tục tăng lên. Đó là tại sao một số người có vẻ rơi vào một vòng ốc xoáy hướng hạ mà họ không sao thoát ra khỏi. Đây không phải là hành động của một Thượng đế giận dữ đang trừng phạt con, mà là kết quả của những định luật cơ học, hoàn toàn phi cá nhân, mà Đấng Sáng tạo đã thiết lập để hướng dẫn cuộc thử nghiệm của con với quyền tự quyết. Các định luật này không được thiết lập để trừng phạt con mà kỳ thực để đảm bảo con không thể tự hủy diệt, hủy diệt những người đồng sáng tạo khác hay toàn bộ vũ trụ. Định luật vận hành rất giản dị. Khi con tha hóa năng lượng, năng lượng được tấm gương vũ trụ gửi trả cho con, và do đó con gặp phải những cảnh ngộ hạn chế tự do cùng sự biểu đạt sáng tạo của con. Con càng tha hóa nhiều năng lượng thì đời con sẽ trở nên nặng nhọc hơn, quyền năng sáng tạo còn sót để có thể tha hóa thêm năng lượng sẽ càng ít hơn. Có thể nói, càng ngày con càng bị đè nặng nhiều hơn bởi các hành động tha hóa năng lượng trong quá khứ, và điều này ngăn cản con gây thêm tổn hại cho người khác lẫn chính mình.

Khi con bước đi trên đường đời, năng lượng con làm tha hóa giống như những hạt cát mà con đổ vào túi quần và ba lô của con. Trong túi con càng nhiều cát thì con sẽ càng khó bước đi. Đây là một cơ chế an toàn vì cuối cùng con có thể tạo ra nhiều năng lượng tha hóa đến độ con không thể nhúc nhích được nữa. Con không thể hủy hoại chính con và những thành phần khác của sự sống được nữa.

Mục đích thật sự của luật nhân quả không nhắm vào cá nhân con, mà hướng tới việc duy trì sự cân bằng của vũ trụ, cân bằng của cõi vật chất. Trạng thái tâm thức nhị nguyên tạo ra hai đối cực. Các đối cực này là sự tha hóa của lực lan ra của Cha và tha hóa lực co lại của Mẹ. Lực lan ra và lực co lại không đối nghịch với nhau theo nghĩa triệt tiêu lẫn nhau. Chúng tạo ra thế thái cực, và khi chúng đến với nhau trong sự hỗ tương cân bằng, chúng sẽ sinh sôi và khuếch trương lẫn nhau, và đây là cách sinh tạo hình tướng. Nhưng khi con rơi xuống tâm thức nhị nguyên, con không thể duy trì sự cân bằng đúng đắn giữa hai lực lan ra và co lại, tức sự cân bằng bắt nguồn từ tâm thức Ki-tô. Con tạo ra một cặp đối cực giả tạo sẽ hủy diệt lẫn nhau, với hậu quả là chúng không thể tạo ra hình tướng lâu dài nào. Chúng chỉ tạo ra những hình tướng hữu diệt sẽ bị phá vỡ bởi lực co lại của Mẹ luôn tìm cách hoàn lại Ánh sáng Mẫu-Vật về trạng thái nền của nó. Khi con hành động từ tâm thức nhị nguyên, mọi việc con làm, mọi hành vi con phát khởi sẽ bị vũ trụ chống lại dưới dạng một phản ứng ngược chiều với sức mạnh tương ứng. Điều này đã được các nhà khoa học của con chứng minh, và từ nhiều thế kỷ người ta đã biết đến luật tác dụng và phản tác dụng (law of action and reaction). Rất ít người đã áp dụng luật này trong hoàn cảnh cá nhân của mình. Rất ít người hiểu rằng nếu mình mất cân bằng bao nhiêu thì lực đối nghịch tìm cách phục hồi sự cân bằng sẽ mãnh liệt bấy nhiêu. Để có thể làm bất cứ gì trong trạng thái tâm thức này, con phải liên tục khắc phục sự chống đối đến từ vũ trụ. Để có thể duy trì một tạo vật mất cân bằng, con phải không ngừng đẩy thêm hành động mất cân bằng của mình. Điều không thể tránh là con biến đời mình thành một cuộc vật lộn liên tục, và đối với nhiều người, nó dẫn đến một vòng xoáy hướng hạ mà họ không thể chặn đứng.

Thật vô cùng đáng tiếc con người chưa hiểu ra nguyên lý đơn giản này vốn đã được các nhà khoa học biết đến từ hàng thế kỷ. Bất cứ ai chịu nhìn đằng sau hình dáng bên ngoài và tự hỏi tại sao một số sự kiện hình như cứ trở lại với mình hoài, có thể quan sát thấy điều này. Như câu nói dân gian vẫn bảo: “Cái gì đi ra sẽ quay trở về.” Nếu con người hiểu được nguyên lý cân bằng này thì họ đã có thể có được một tầm nhìn hoàn toàn khác về cuộc sống trong thế gian. Điều này đã có thể giúp họ thoát khỏi chiếc đèn kéo quân cứ kéo họ quay mãi từ đối cực này sang đối cực kia, nhưng vẫn bị giam chặt trong trò chơi điên khùng của tâm thức nhị nguyên.

Nguyên tắc cơ bản đằng sau luật tác dụng và phản tác dụng là Thượng đế đã thiết kế vũ trụ vật chất như một cõi cho phép người đồng-sáng tạo có thể đi ngược lại các quy luật của ngài. Để ngăn cản một người đồng-sáng tạo hủy diệt toàn bộ vũ trụ hay nô lệ hóa mọi người đồng-sáng tạo khác, Thượng đế đã tạo ra quy luật rằng vũ trụ vật chất phải duy trì một trạng thái cân bằng nào đó. Hệ quả thực tiễn là bất cứ khi nào một người đồng-sáng tạo phát khởi một hành động mất cân bằng, thì chính vũ trụ, Ánh sáng Mẫu-Vật, sẽ tự động phát khởi một phản ứng ngược lại, như một lực đối trọng lại hành động mất hài hòa đã làm xáo trộn thế quân bình của vũ trụ.

9.5. Khát khao lớn nhất của con người

Nguyên lý đơn giản này mang nhiều hệ quả sâu xa, và thày sẽ tiết lộ một số hệ quả này trong các chương tới. Ngay bây giờ, thày sẽ chỉ ra một trong những hệ quả quan trọng nhất. Âm mưu chủ yếu của kẻ thù bên trong và kẻ thù bên ngoài là đặt con vào một thế kẹt lưỡng nan tâm linh. Câu chuyện về Vườn Eden biểu tượng cho những gì đã xảy ra cho mỗi dòng sống bước xuống tâm thức nhị nguyên. Tình huống khi Adam và Eva nhận ra là họ đang trần truồng tượng trưng cho sự kiện họ đã có một giây phút sự thật, họ nhận ra là họ đã đánh mất liên lạc với Hiện diện TA LÀ của họ. Khi cái Ta Biết có được giây phút sự thật này, con cảm thấy cô đơn, con cảm thấy mất mát, con cảm thấy không trọn vẹn.

Mong muốn sâu thẳm nhất trong tâm thức con là lấy lại sự trọn vẹn của mình. Cách duy nhất – cách duy nhất tuyệt đối – để lấy lại sự trọn vẹn của con là phục hồi cảm nhận kết hợp nội tâm với nguồn cội và Hiện diện TA LÀ của con. Cảm nhận kết hợp nội tâm này chỉ có thể đạt được bằng cách đi vào bên trong, và thật vậy đó là điều Giê-su đã nói qua câu Nước Trời ở bên trong con (Luke 17:21).

Để giữ con trong một thế kẹt lưỡng nan, kẻ thù bên trong và kẻ thù bên ngoài phải ngăn chặn con đi vào bên trong và tái lập cảm nhận hợp nhất nội tâm với Thượng đế. Chúng phải giữ cái Ta Biết trong tâm trạng tự đồng hóa với một khía cạnh nào đó của tâm thức nhị nguyên. Làm thế nào chúng làm được? Bằng cách dùng đặc điểm nằm ngay trung tâm tâm thức phản Ki-tô, tức là bản chất nhị nguyên của nó, là xu hướng cố hữu tạo ra hai cực đoan đối nghịch, và cả hai đều tách biệt khỏi thực tại Một, không chia cách, của Thượng đế. Ông hoàng của thế gian đã tạo ra một con đường giả – con đường có vẻ đúng đối với người phàm nhưng cuối cùng là con đường của sự chết – và con đường này có hai đối cực.

Sâu thẳm trong tim con, con có cái biết là con không trọn vẹn, và con mong mỏi lấy lại sự trọn vẹn của mình. Vấn đề mà ông hoàng của thế gian phải đối mặt là con không bao giờ có thể hoàn toàn đánh mất niềm khao khát trọn vẹn, khao khát cái gì nhiều hơn những gì thế giới vật chất có thể cống hiến. Ông hoàng của thế gian đã cố đối phó với vấn đề này bằng cách dựng lên vô số chuyện trong thế giới khiến con bị phân tâm xao lãng. Kế này có thể thành công trong một thời gian, nghĩa là nhiều người đã quá mải mê thu thập của cải và đeo đuổi thú vui của thế gian đến nỗi, trong một thời gian, họ quên bẵng mất nhu cầu trở nên trọn vẹn – hay họ đã cố lấp đầy nhu cầu này bằng cách chạy theo đồ vật, thú vui hoặc trải nghiệm của thế gian. Rồi đến một điểm, dòng sống không thể tiếp tục làm ngơ niềm khao khát sự trọn vẹn được nữa. Sẽ đến một điểm ông hoàng của thế gian và kẻ thù bên trong, cái ta hữu diệt, không thể tiếp tục ngăn cản cái Ta Biết nghĩ rằng cuộc sống phải có gì nhiều hơn những thứ mà thế gian cống hiến. Phải có một sự trọn vẹn sâu xa hơn những gì có thể mua được qua Ma-môn.

Khi cái Ta Biết đạt tới điểm này, các thế lực của thế gian không còn ngăn con suy ngẫm về chủ đề Thượng đế được nữa. Nhiều dòng sống làm ngơ chủ đề Thượng đế hay phủ nhận là Thượng đế có thật, nhưng không một dòng sống nào có thể làm vậy mãi mãi. Sẽ đến một điểm con ngộ ra là niềm khao khát nội tâm thực sự của con là niềm khao khát sự trọn vẹn. Để có thể trọn vẹn, con phải giải quyết mối quan hệ của con với Thượng đế. Ở điểm này, ông hoàng của thế gian sẽ cố đánh bẫy con trong một trong hai cực đoan của con đường giả.

9.6. Ảo tưởng chạy trốn và ảo tưởng chạy về Thượng đế

Một cực đoan là cố gắng khiến con chạy trốn khỏi Thượng đế. Một ví dụ là có triết lý bảo rằng con không thể nào đến gần Thượng đế vì con là một con người quá thấp kém. Hay ông hoàng của thế gian sẽ cố khiến con tin vào một trong những hình ảnh giả của y về Thượng đế, chẳng hạn hình ảnh một sinh thể giận dữ trên trời đang theo dõi mọi cử động của con và muốn trừng phạt con mỗi lần con lầm lỗi. Mục đích là để khiến con cảm thấy là con thật sự không muốn trở về hợp nhất với Thượng đế. Hay các thế lực thế gian sẽ cố khiến con tin rằng mỗi vấn đề con phải đối mặt đều là lỗi của Thượng đế vì ngài đã tạo ra con, đã cho con quyền tự quyết và đã làm bao nhiêu chuyện bất công khác khiến con bị kẹt cứng trong hoàn cảnh hiện tại của mình. Cực đoan này tượng trưng cho xu hướng chạy trốn khỏi vị Thượng đế bên ngoài. Hiển nhiên, chừng nào con còn chạy trốn khỏi vị Thượng đế bên ngoài thì rất ít hy vọng con có thể tái lập sự hồn nhiên của mình, cảm nhận hợp nhất nội tâm của mình, với vị Thượng đế bên trong.

Thày chắc chắn là nếu con đang đọc khóa học này, con không bị kẹt trong cực đoan này. Con đang bước chân một cách ý thức trên đường tu tâm linh, và do đó con đang cố tình đến gần Thượng đế hơn. Thày mô tả cực đoan này vì thày chắc chắn con sẽ dễ dàng nhìn thấu các lời dối khiến cho người đời mắc kẹt vào cực đoan chạy trốn khỏi vị Thượng đế bên ngoài. Bằng cách nhìn thấu như vậy, thày hy vọng con sẽ dễ dàng hơn nhìn thấu các lời dối được sử dụng để đánh bẫy con người vào cực đoan ngược lại.

Nhiều người tâm linh và mộ đạo có thể khó lòng chấp nhận những gì thày sắp sửa nói với con. Thày phải nói cho con sự thật rằng cực đoan ngược lại, do ông hoàng của thế gian mưu tính, là một hình thức tôn giáo khiến con chạy về phía Thượng đế bên ngoài. Đây là bất kỳ hình thức tôn giáo nào củng cố hình ảnh của một Thượng đế bên ngoài. Thật không quan trọng tôn giáo đó mô tả Thượng đế bên ngoài thế nào, cho dù là một Thượng đế nóng giận trừng phạt hay một Thượng đế nhân từ. Yếu tố quyết định là liệu Thượng đế có được mô tả như một sinh thể bên ngoài hay không, một sinh thể nằm ở ngoài con, bị chia cắt khỏi bởi một hàng rào, là hàng rào của các lầm lạc của con trong quá khứ, các tội lỗi của con.

Nhiều tôn giáo trên hành tinh này rơi vào loại này. Hầu hết các tôn giáo ở khởi thủy đều bắt đầu như một tôn giáo chân chính, và con có thể nhìn thấy mô hình này rất rõ trong đạo Cơ đốc. Giê-su là một vị thày tâm linh đích thực, do Thượng đế gửi xuống để giúp con người tái khám phá sự thật đã bị đánh mất rằng Nước Trời ở trong họ và chìa khóa của cứu rỗi là tái lập lại cảm nhận hợp nhất nội tâm với Thượng đế bên trong. Với thời gian, lời dạy nội tâm chân truyền của Giê-su đã bị bẻ quẹo để biến thành các giáo điều vỏ ngoài mô tả Thượng đế như một sinh thể xa xôi trên trời. Một số giáo hội Cơ đốc bảo là ngài sẽ trừng phạt tội lỗi của con nhưng con có thể mua con đường giải thoát khỏi tình trạng rắc rối này bằng cách tuân thủ một số quy luật và tin vào một số tín điều nhất định. Một số giáo hội Cơ đốc khác bảo là con không thể, bằng sức riêng của mình, tái lập một mối quan hệ đúng đắn với Thượng đế, mà con chỉ có thể làm vậy xuyên qua một cái gì bên ngoài con, cụ thể là “Giê-su” mà họ mô tả là một vị cứu tinh bên ngoài, bởi vì Giê-su là đứa con độc nhất của Thượng đế còn con thì là một kẻ tội nhân phàm tục.

Nhiều giáo hội Cơ đốc củng cố hình ảnh một Thượng đế ở ngoài, và họ bảo chìa khóa của cứu rỗi là con phải chạy về phía vị Thượng đế bên ngoài này, đồng thời chạy trốn khỏi đối nghịch của Thượng đế bên ngoài là ác quỷ. Thật chẳng quan trọng gì con chạy trốn hay chạy về một Thượng đế bên ngoài, bởi vì trong cả hai trường hợp, con đang chạy trốn khỏi vị Thượng đế bên trong là chìa khóa duy nhất dẫn đến cứu rỗi.

Nhiều tín đồ Cơ đốc ngồi trong nhà thờ mỗi chủ nhật và cảm thấy mình là những người duy nhất sẽ được cứu rỗi. Thày hoàn toàn không đang nói vậy một cách chế giễu hay xúc phạm. Thày biết rõ nhiều tín đồ Cơ đốc rất chân thành và có trái tim trong sáng, họ đang siêng năng theo đuổi con đường mà các giáo hội chính thống đã vạch ra cho họ. Họ thực sự có ý định tốt nhất, thế nhưng nỗ lực của họ không thể nào đem lại kết quả mong muốn. Điều mà nhiều người trong số họ đang làm là đeo đuổi một cuộc tìm cầu vô vọng. Họ đang chạy theo một mục tiêu sẽ mãi mãi vượt tầm tay họ.

Có lẽ con đã thấy hình vẽ con lừa kéo xe, và từ trên xe có cây gậy dài, và ở đầu gậy thì có sợi dây treo một củ cà-rốt. Củ cà-rốt lủng lẳng trước mũi con lừa, con lừa cứ chạy vể phía cà-rốt, nghĩ rằng chỉ trong chốc lát nó sẽ chụp lấy củ cà-rốt ăn ngấu nghiến. Khi làm vậy thì lừa cứ kéo xe về phía trước. Nhiều người mộ đạo trên hành tinh này – không chỉ người Cơ đốc nhưng chắc chắn trong số đó có nhiều người Cơ đốc – cũng giống như con lừa kia không ngừng chạy về phía cà-rốt mà không bao giờ tới được. Họ chạy theo lời hứa hẹn mà tôn giáo họ đưa ra nhưng họ không bao giờ đạt được sự sống dồi dào. Lý do là vì họ đã chấp nhận một hình ảnh giả trá, một hình ảnh nhị nguyên, một tượng khắc về Thượng đế, về những gì họ cần làm để giành được cứu rỗi. Họ nghĩ họ đang chạy về hướng cứu rỗi, nhưng cái họ chạy về là thần tượng của Thượng đế bên ngoài. Chừng nào họ còn chạy về thần tượng đó thì họ còn chạy trốn khỏi Thượng đế bên trong. Khi làm vậy thì họ kéo chiếc xe đi, và ông hoàng của thế gian và cái ta hữu diệt của họ cứ ung dung ngồi trên xe tận hưởng cuộc hành trình. Chúng biết rõ là chừng nào con người còn tiếp tục chạy về phía củ cà-rốt của Thượng đế bên ngoài, chúng sẽ an toàn ngồi trên ghế lái, là vị trí chúng có toàn quyền kiểm soát con người.

9.7. Bỏ hẳn cuộc tìm cầu Thượng đế bên ngoài

Thày biết đây có thể là một sự thật sẽ làm chấn động nhiều người sùng đạo chân thành. Họ đã bỏ ra hàng chục năm trời, có lẽ cả kiếp sống, để đeo đuổi con đường mà một số tôn giáo chính thống vạch ra trước mặt họ. Nếu con đã từng là một người sùng đạo chân thành thì nỗ lực của con không hoàn toàn uổng phí. Bất cứ gì con đã làm với trái tim trong trắng sẽ đều đáng kể, nhưng thày phải nói với con là sẽ không đủ để đưa con đến mục đích của cứu rỗi đích thực. Con cần phải thay đổi hướng đi. Con cần phải ngừng chạy theo củ cà-rốt của Thượng đế bên ngoài. Con cần phải đập bể con bê vàng, kéo nó xuống khỏi bệ cao và nhận ra sự thật tuyệt đối khi Giê-su nói là Nước Trời ở trong con. Chỉ khi nào con đập tan thần tượng của một Thượng đế bên ngoài và bắt đầu tìm kiếm Thượng đế bên trong thì con mới có thể thừa kế vương quốc của Cha con, thừa kế sự sống dồi dào là gia sản chính đáng của con – nhưng con sẽ không bao giờ đạt được chừng nào con còn chạy theo Thượng đế bên ngoài.

Con yêu dấu, thày đang rất thẳng thắn và nghiêm nghị vì thày biết qua kinh nghiệm là có hàng bao triệu người trên hành tinh này sẽ không chịu lắng nghe sự thật đó. Lý do là vì họ còn quá gắn bó với những lời dối nhị nguyên mà họ đã thu nhận, những lời dối nhị nguyên được chủ xướng bởi cái ta hữu diệt của họ và ông hoàng của thế gian. Đây là những lời dối hứa hẹn sự cứu rỗi tự động cho mọi người khi họ đi theo các quy luật và giáo điều vỏ ngoài một cách máy móc.

Thày cần phải rất thẳng thẳn để cố đâm thủng sự chống cự mà con có thể có đối với sự thật này. Thày không bảo là các nỗ lực đã qua của con để đi theo tôn giáo của mình là hoàn toàn uổng phí. Nếu con đã từng là một tín đồ sùng đạo của bất kỳ tôn giáo nào và nếu con đã cố gắng hết sức để theo tôn giáo đó, thì con đã làm được gì đó để đưa mình gần hơn với sự sống dồi dào. Điều này đặc biệt đúng nếu những gì con đã làm được thực hiện trong tình thương yêu, trong trái tim trong trắng không gợn một động cơ nào khác. Những gì con đã làm trong quá khứ không hề lãng phí, nhưng để gặt hái thành quả nỗ lực của mình, con sẽ cần phải đứng thẳng hàng lại với sự thật thày đang đem lại cho con. Con sẽ cần phải thay đổi trọng tâm của mình, thay đổi cách con tiếp cận tôn giáo hầu con có thể đón nhận cách tiếp cận mà Giê-su đã đến để trao cho loài người, tức là cách tiếp cận nội tâm.

Nếu con chịu làm vậy, con có thể nhanh chóng sử dụng nhiều sáng ngộ mà con đã thu thập trong đời sống tôn giáo và chỉ cần xoay tâm thức lên một chút để đứng thẳng hàng lại với thực tại của con đường nội tâm dẫn đến Thượng đế. Con không cần đi lại từ đầu, con không cần vứt bỏ tất cả mọi niềm tin tôn giáo của mình. Con chỉ cần xoay đủ chiếc kim của tâm thức để điều chỉnh các tin tưởng của mình cho thẳng hàng lại với sự thật Ki-tô. Điều này có thể đòi hỏi con có một nỗ lực rất quyết tâm nhằm phơi bày tính không thực của phản Ki-tô, phơi bày các tin tưởng nhị nguyên đã len lỏi vào hầu hết mọi tôn giáo trên hành tinh này. Rất có thể con đã bị thấm nhuần các tin tưởng này từ thuở thơ ấu, và có thể con đã được quả quyết là các tin tưởng nhị nguyên này là sự thật tuyệt đối không thể nào sai sót. Nếu con đã chấp nhận lời quyết đoán này, có thể con đã xây dựng một cảm giác an toàn giả tạo khiến con tin rằng chỉ cần đi theo các tín điều vỏ ngoài đó thì chắc chắn con sẽ được cứu rỗi.

Hàng triệu người đã cho phép mình bị ru ngủ trong cảm giác an toàn giả tạo này, nghĩ rằng sự cứu rỗi của mình đã được đảm bảo. Theo cách nói hiện đại, họ nghĩ là họ đã “bỏ túi” ăn chắc rồi. Tiếc thay không phải như vậy, và thày có thể nói với con là nhiều dòng sống đã bị thất vọng não nề khi họ rời bỏ cơ thể vật lý để đi về nơi dành cho họ giữa hai kiếp sống. Nhiều dòng sống là tín đồ triệt để của một tôn giáo chính thống suốt nhiều tiền kiếp, đã quá thất vọng đến độ họ giận cả Thượng đế. Nhiều người thời nay mang thái độ tiêu cực đối với tôn giáo chính thống, hay đối với một tôn giáo nào đó, có thái độ này chính là vì trong một tiền kiếp họ đã chăm chỉ tuân theo một tôn giáo đặc thù. Sau kiếp sống đó, họ hiểu ra là họ đã đi theo một lời hứa hão, họ đã chạy theo củ cà-rốt mà không bao giờ có hy vọng bắt được. Thật không may, những người này đã đơn giản nhảy sang đối cực ngược lại mà ông hoàng của thế gian đã bày sẵn. Họ cần vươn lên cao hơn cả hai cách tiếp cận nhị nguyên đối với tôn giáo để mà với lấy Thượng đế bên trong.

9.8. Chữa lành quan hệ với Thượng đế

Hầu hết mọi người trên hành tinh này đều có một nỗi giận, hay một cảm nhận bất công sâu xa đối với Thượng đế, và nếu con là người quan tâm đến việc biểu hiện sự sống dồi dào, con cần phơi bày và giải quyết những cảm xúc đó. Con yêu dấu, thày có thể thông cảm nếu con phần nào giận dữ vì mình đã bị nói dối về cứu rỗi, nhưng nếu con chìm đắm trong lòng tức giận, con sẽ chỉ nhảy sang cực đoan ngược lại là chạy trốn khỏi Thượng đế bên ngoài. Cách duy nhất để khắc phục cả hai cực đoan nhị nguyên là nghe theo lời dặn của Giê-su và tha thứ cho mọi người về mọi chuyện (Matthew 6:14, 18:21). Việc bám giữ một mối hận, bám giữ một nỗi giận hay một niềm đau, sẽ chỉ giữ con kẹt lại trong tâm thức nhị nguyên. Bí quyết cho tự do tâm linh là sự tha thứ toàn diện, trọn vẹn và tuyệt đối cho Thượng đế, cho tất cả mọi người, cho mọi tổ chức con người và cho bản thân mình. Nếu con muốn biểu hiện sự sống dồi dào, con cần tha thứ tất cả những ai đã từng làm hại con. Con cần tha thứ Thượng đế về bất kỳ hình ảnh giả trá nào của ngài đã có thể được áp đặt lên con. Thậm chí con cần tha thứ cả ông hoàng của thế gian đã gian dối, đánh lừa và khuynh loát. Con cần tha thứ cái ta hữu diệt của con, và con cần tha thứ chính con, cái Ta Biết, đã chấp nhận những lời dối nhị nguyên trong quá khứ.

Thượng đế không hề mong muốn thấy con bị kẹt mãi trong một trạng thái tâm thức thấp. Mong muốn duy nhất của ngài là thấy con giải thoát khỏi mọi bất toàn hầu con có thể lấy lại bản sắc tâm linh thực của con và bắt đầu xây dựng trên nền tảng này, trở nên nhiều hơn những gì Thượng đế đã từng hình dung cho con. Con không cần được Thượng đế tha thứ về bất kỳ lầm lỗi nào con đã phạm phải. Thày biết đây lại là thêm một câu nói sẽ khó lòng được chấp nhận bởi nhiều người mộ đạo. Sự thật là Thượng đế đã cho con quyền tự quyết, và do đó ngài không hề giận con khi con dùng quyền này để đi ngược lại các quy luật của ngài. Tại sao Thượng đế lại giận khi ngài đã tạo ra một quy luật bảo rằng con sẽ gặt những gì con gieo? Ngài không muốn thấy con bị giam mãi trong một trạng thái hối hận hay xấu hổ, hay cảm thấy mình là người có tội. Ngài chỉ muốn con ra khỏi nhà tù của cái ta hữu diệt và trở về nhà là vương quốc của ngài để con có thể nhận được sự sống dồi dào mà ngài rất hoan hỉ trao cho con.

Sự thật về các lỗi lầm quá khứ của con – mà quá nhiều tín đồ Cơ đốc gọi là tội lỗi – là con không cần Thượng đế tha thứ. Ngài chỉ muốn con tự do, nhưng để tự do, con phải làm hai chuyện như thày vừa giải thích:

  • Con phải hoàn toàn từ bỏ lời dối nhị nguyên đã khiến con phạm lỗi.
  • Con phải hoàn nguyên tất cả năng lượng mà con đã làm tha hóa qua tin tưởng nhị nguyên của mình, hầu con có thể phục hồi cân bằng của vũ trụ.

Khi con đã làm vậy thì đối với Thượng đế, con hoàn toàn giải thoát khỏi lỗi lầm quá khứ. Ngài sẽ không còn nhớ tội lỗi của con nữa (Hebrews 8:12). Vấn đề là trước khi con có thể cảm thấy mình hoàn toàn giải thoát khỏi lỗi lầm, con phải tha thứ chính con – chính con phải không nhớ tội lỗi của mình nữa. Con phải tha thứ tất cả những ai khác cũng đã bị kẹt giống như con trong cùng khía cạnh này của trạng thái tâm thức nhị nguyên.

Sự tha thứ mà con cần để thoát khỏi lỗi lầm đã qua không phải là sự tha thứ từ Thượng đế, mà từ con. Và để thật sự tha thứ chính mình, con phải tha thứ mọi người khác. Như Giê-su nói: “Con hãy làm cho người khác như con muốn họ làm cho con.”

9.9. Chữa lành quan hệ với chính mình

Con yêu dấu, Giê-su đã và đang là một vị thày tâm linh rất thâm sâu và đầy khả năng. Thày biết rõ rất nhiều lời dạy của thày sẽ bị bẻ cong cho nên thày đã bỏ vào nhiều lời dạy thâm sâu nhất của thày một thông điệp ẩn giấu. Thông điệp này không thể được hiểu bởi những ai bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên, và vì những người như thế không hiểu được thông điệp ẩn, họ không thể tha hóa nó. Nếu con lấy câu nói: “Con hãy làm cho người khác như con muốn họ làm cho con,” thông điệp ẩn có thể được tìm thấy bằng cách hỏi điều đó sẽ làm gì cho con. Ý nghĩa ẩn giấu là những gì con làm cho người khác thì con đã làm cho con rồi. Nếu con giận ai đó, đó là vì con đã chấp nhận một số tin tưởng nhị nguyên về tức giận. Bằng cách đem các tin tưởng này vào bình chứa cái ta, con đã cho phép tinh thần tức giận, tâm thức tức giận, đi vào bản thể con. Điều này có nghĩa là sự tức giận đã ở trong con, và nó nhuộm màu cách con nhìn mọi chuyện, kể cả chính con. Nếu một người giận một người khác, thì người đó – trong tiềm thức – đã giận chính mình và giận Thượng đế.

Nhiều người không nhận diện ra điều này. Họ có thể biết là họ có xu hướng giận người khác, nhưng họ không liên kết được là nỗi giận người khác khởi lên từ nỗi giận chính mình. Nếu con gặp khó khăn tha thứ người khác, điều này cho thấy con chưa tha thứ chính con. Con không thể giải thoát khỏi lỗi lầm quá khứ cho đến khi con tha thứ chính mình về các lỗi lầm này. Nếu con khó lòng tha thứ người khác, con cần soi gương. Con cần tìm cái xà trong mắt con và nhận ra là con có vấn đề với sự không tha thứ, vì con đang cho phép một số tin tưởng nhị nguyên về sự tha thứ tồn tại trong tâm thức con. Đây có thể là tin tưởng rằng nếu có ai làm hại con thì người đó xứng đáng bị trừng phạt. Con sẽ không tha thứ họ cho tới khi con cảm thấy họ đã bị trừng phạt đích đáng. Nhưng quyết định trừng phạt không thuộc về con, vì Thượng đế chẳng nói hay sao: “Sự báo thù thuộc về ta, ta sẽ đền đáp” (Romans 12:19). Ý nghĩa nội tâm là Thượng đế đã tạo ra một định luật khách quan sẽ gửi trả mọi năng lượng tha hóa về người đã gửi nó ra. Tấm gương vũ trụ sẽ tự động “trừng phạt” bất cứ ai làm hành động bất toàn. Quyết định trừng phạt người khác không thuộc về con, việc trừng phạt người khác không can dự gì đến con. Thay vào đó, con hãy quan tâm đến việc tự giải thoát mình khỏi tình huống bất toàn, và con chỉ có thể làm vậy bằng cách tha thứ người khác và tha thứ cho mình.

Tha thứ là thực sự giải thoát mình khỏi một tình huống bất toàn trong quá khứ, giải thoát mình khỏi dính mắc tình cảm với tình huống đó cũng như với những người đã can dự vào tình huống. Nếu có ai đó làm hại con, liệu có hợp lý lắm không nếu con muốn tiếp tục dính mắc tình cảm với họ, và như vậy con cho họ quyền lực trên con? Hiển nhiên là không hợp lý chút nào, và cách duy nhất để con cắt đứt dây nhợ tình cảm là tha thứ họ hoàn toàn về những gì đã xảy ra trong quá khứ.

Nếu con đã lầm lỗi trong quá khứ, liệu có hợp lý lắm không nếu con cứ muốn duy trì dính mắc tình cảm với những tình huống đó? Tất nhiên là không hợp lý chút nào, nhưng cách duy nhất con có thể giải phóng bản thân khỏi sự ràng buộc với quá khứ là, đầu tiên hết, tha thứ hoàn toàn cho việc mình đã phạm lỗi. Tha thứ là bí quyết của tự do – tự do nhận lấy sự sống dồi dào mà Thượng đế cứ chực cho con bất cứ lúc nào. Con chỉ cần nhận sự sống dồi dào, nhưng để có thể sẵn lòng nhận nó, con phải tha thứ chính mình về những lỗi lầm đã khiến con khước từ sự sống dồi dào trong quá khứ để bước vào vòng xoáy hướng hạ càng ngày càng kéo con xa khỏi sự sống dồi dào, giam con chặt hơn vào tâm thức nhị nguyên.

Thế kẹt lưỡng nan này có thể giữ con trong vòng xoáy hướng hạ một thời gian vô định – hoặc con ở lại với một cực đoan nhị nguyên, hoặc con nhảy từ cực đoan này sang cực đoan kia. Chìa khóa để thoát khỏi tai họa chạy trốn vị Thượng đế bên trong là con phải tái lượng định mối quan hệ của con với Thượng đế. Các nhà tâm lý học hiện đại đã đưa ra nhiều lý thuyết về tâm lý con người và cách nó hoạt động. Tiếc thay, hầu hết các thuyết chính mạch này không bao gồm khía cạnh tâm linh của bản thể con, cho nên không thể cho con một cái hiểu trọn vẹn về chính con. Nhiều chuyên gia sức khỏe tâm thần ngoài mạch hay sức khỏe toàn diện đã đưa ra một số lý thuyết xét đến khía cạnh tâm linh trong bản chất con người. Vấn đề trung tâm trong tâm lý con người là mọi việc trong đời con, mọi điều trong tâm lý con, đều xoay quanh một chuyện và chỉ một chuyện thôi, đó là mối quan hệ của con với Thượng đế. Tất cả mọi thứ xảy ra trong đời con là kết quả của một nguyên nhân sâu xa hơn, và nguyên nhân này là mối quan hệ của con với Thượng đế.

Nếu con lấy bất kỳ vấn đề nào trong tâm lý của con và truy tìm nguồn gốc tận cùng của nó, nguyên nhân tối hậu của nó, nó sẽ đi trở ngược về quyết định đã khiến con quay lưng lại vị thày của con, quay lưng lại Thượng đế. Quyết định này là nguyên nhân gốc rễ của mọi vấn đề của con.

Có thể là có nhiều lớp vấn đề, vì quyết định nguyên thủy của con đã phân nhánh thành nhiều quyết định nhị nguyên. Khi con nhìn bề mặt của tâm lý mình, con có thể thấy nhiều vấn đề riêng rẽ dường như không liên quan gì với nhau. Nhưng nếu con đi xuống các tầng càng ngày càng sâu của tâm lý – và thày có thể cam đoan với con là thày đã đi xuống đáy tận cùng của tâm lý – con sẽ thấy là tất cả các vấn đề khác biệt đều được nuôi dưỡng bởi cùng một cái rễ. Rễ này là quan hệ của con với Thượng đế, cách con nhìn ngài và cách con tương tác với ngài. Cụ thể, tất cả đều quay trở về quyết định đã khiến con quay lưng lại Thượng đế và do đó khước từ món quà miễn phí của ngài là sự sống dồi dào. Hiển nhiên, quyết định đó cũng ngăn con trở về hợp nhất với Thượng đế. Chìa khóa chủ yếu của sự sống dồi dào là phát hiện quyết định đó, quyết định đang ngăn con trở về hợp nhất với ngài, quyết định khiến con có vẻ như không thể hay không muốn tái lập sự hồn nhiên của mình, tái lập cảm nhận kết hợp nội tâm của mình với Thượng đế.

Con yêu dấu, thày đoán là những gì thày vừa nói với con trong chìa khóa này sẽ cần một thời gian để hoàn toàn thấm vào tâm thức của con. Thày không chờ đợi hầu hết mọi người có thể chấp nhận hay thể nhập ngay lập tức những gì thày vừa nói. Thày không chờ đợi hầu hết mọi người có thể phát hiện ngay lập tức quyết định nguyên thủy đã khiến họ quay lưng lại Thượng đế và nhờ vậy giải thoát lập tức khỏi quyết định đó. Nhưng thày chờ đợi là nếu con đã theo học khóa này cho tới điểm này, con sẽ sẵn lòng suy ngẫm những gì thày nói. Con sẽ sẵn lòng đi vào bên trong và tìm câu trả lời từ bên trong chính mình. Nếu con đặt câu hỏi với tâm và tim cởi mở về tính xác thực của những gì thày vừa nói, con sẽ nhận được trả lời. Trả lời này sẽ đến từ một nguồn bên trong con và nó sẽ vượt khỏi mọi nghi ngờ. Nếu con đặt câu hỏi với tâm và tim cởi mở, con sẽ nhận được trả lời từ bên trong, một trả lời mà tâm vỏ ngoài của con không thể nghi ngờ. Trả lời này sẽ đến từ một nguồn là vị cứu tinh đích thực của mỗi người trên trái đất. Trong chương sắp tới, thày sẽ giải thích cho con vị cứu tinh nội tâm này là gì và làm thế nào con có thể học cách tận dụng cái mà Giê-su gọi là “đấng an ủi” và “chìa khóa của hiểu biết.” Con hãy vào với thày để thày tiết lộ cho con vị thày nội tâm này có khả năng thực sự giúp con vạch trần tất cả mọi lời dối của các thày giả phản Ki-tô.

7 | Khắc phục ảo tưởng một Thượng đế nóng giận

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/4/2005.

7.1. Con không cần gì từ ngoài để được cứu rỗi

Trái tim yêu dấu của thày, tuyệt đối không có gì ngăn con trở về nhà vương quốc của Cha con. Toàn bộ ý tưởng bảo rằng có gì đứng giữa con và vương quốc Thượng đế là một ảo tưởng. Đó là một ảo tưởng được tạo ra bởi kẻ thù bên trong, cái ta hữu diệt của con, và kẻ thù bên ngoài, ông hoàng của thế gian. Cả hai kẻ thù này đều được lợi khi chúng giữ con kẹt lại trong nhà tù tinh thần của cái ta hữu diệt. Cửa nhà tù này không hề khóa, và ý tưởng bảo rằng cửa bị khóa là một ảo tưởng nhị nguyên.

Nhiều người có thể thấy điểm này đi ngược lại những gì họ đã được dạy để tin theo. Quá nhiều người được dạy dỗ hai ý tưởng khiến họ khó lòng tin được là họ có khả năng trở về vương quốc Thượng đế bất cứ lúc nào. Một trong hai ý tưởng này là quan niệm cho rằng Thượng đế là một Thượng đế nóng giận phán xét đang ngồi trên ngai trên trời, nhìn xuống mọi cử động của con. Thượng đế này sẵn sàng phán xét và lên án con về từng lỗi lầm con mắc phải, thậm chí còn đày con xuống địa ngục nếu con vi phạm các điều răn của ngài.

Quan niệm một Thượng đế nóng giận trên trời đã được một số tôn giáo trên hành tinh này củng cố. Tiếc thay, ngay cả nhiều giáo hội Cơ đốc cũng củng cố hình ảnh giả trá này, thần tượng này, về Thượng đế. Hình ảnh một Thượng đế bên ngoài giận dữ là một tượng khắc do tâm phản Ki-tô dựng lên.

Hình ảnh thứ nhì khiến con khó lòng chấp nhận những gì thày vừa nói ở đoạn trên là quan niệm, được nhiều tôn giáo tăng cường, rằng con cần một cái gì hay một ai đó từ ngoài để có thể được cứu rỗi. Đạo Cơ đốc là một trong những lực chính cổ vũ cho quan niệm này. Nhiều giáo hội Cơ đốc chủ xướng vô cùng mạnh mẽ giáo điều cho rằng Giê-su Ki-tô là con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi và tất cả những ai không theo đạo Cơ đốc sẽ xuống địa ngục. Thày biết họ căn cứ giáo điều này theo một số câu nói của Giê-su, nhưng thày đố con đọc lại Kinh thánh và tìm thấy bất kỳ đoạn nào Giê-su bảo rằng con người vỏ ngoài của Giê-su hay tôn giáo vỏ ngoài là con đường duy nhất đến cứu rỗi. Nếu con xuất thân từ một gia đình Cơ đốc, con sẽ tức khắc nghĩ đến đoạn trích trong Phúc âm Giăng ghi lời này của Giê-su: “TA LÀ con đường, sự thật và sự sống; không người nào đến được với Cha mà không bởi ta” (John 14:6).

Giê-su đã đến để chứng tỏ qua tấm gương của thày là mọi người trên trái đất có khả năng giành lại tâm thức Ki-tô và nhờ vậy trở thành Ki-tô Hằng sống trong hiện thân. Giê-su đã chứng tỏ con đường này bằng cách theo nó đến cùng, nghĩa là gần thời gian sứ mạng của thày hoàn tất, thày hoàn toàn hợp nhất với Tâm Ki-tô Hoàn vũ đến độ khi thày nói lên hai chữ “TA LÀ” thì thày không muốn ám chỉ con người vỏ ngoài trong một cơ thể con người. Cái ta ý thức của Giê-su hoàn toàn đồng hóa với Hiện diện TA LÀ của thày cũng như với Đấng đã sáng tạo ra thày.

Khi thày nói hai chữ “TA LÀ,” thày thực sự muốn nói đến Tâm Ki-tô Hoàn vũ, đến Hiện diện TA LÀ và Thượng đế, đến TA LÀ CÁI TA LÀ. Khi thày nói “TA LÀ,” thày muốn nói đến ý niệm cái ta đã nhập một với bản mẫu thiêng liêng của nó được cất giữ trong Tâm Ki-tô Hoàn vũ, nhập một với cái ta bất diệt của nó, và nhập một với Đấng đã sáng tạo ra nó. Giê-su thật sự muốn nói rằng ý niệm cái ta dựa trên sự hợp nhất chính là con đường, sự thật và sự sống. Không người nào có thể đến được với Đấng Sáng tạo mà không đi qua ý niệm hợp nhất với Thượng đế đi ra từ tâm Ki-tô. Con không thể đến với Thượng đế chừng nào con còn xem ngài là một Thượng đế bên ngoài, một sinh thể giận dữ trên trời. Con chỉ có thể đến với Thượng đế khi con ngộ ra con là một cá thể hóa của Thượng đế, con là một đứa con của Thượng đế, con là chính Thượng đế đang tự biểu đạt qua ý niệm cái ta địa phương của con. Con ngộ ra cái TA LÀ trong con chính là Thượng đế.

Cảm nhận hợp nhất nội tâm này là chìa khóa đích thực của sự cứu rỗi. Điều này đã luôn luôn như vậy và sẽ luôn luôn như vậy. Trải qua các thời đại, con người đã dùng tâm nhị nguyên của phản Ki-tô để tạo ra nhiều tượng khắc về Thượng đế, về chính mình và về con đường đến cứu rỗi. Không có gì con người tạo ra đã thay đổi sự thật cơ bản rằng con đường duy nhất đến cứu rỗi là hợp nhất với Đấng Sáng tạo của mình. Con đường đích thực duy nhất dẫn đến cứu rỗi là cái Ta Biết phải xoay chuyển ý niệm cái ta của nó để nó không còn đồng hóa với cái ta hữu diệt, nó không còn tự xem nó là tách biệt với – và tách rời khỏi – Đấng tạo ra nó. Cái Ta Biết phải thấy nó là một nối dài của Đấng Sáng tạo, và vì vậy nó là một với Đấng Sáng tạo.

Đó mới thật là ý nghĩa câu nói của Giê-su rằng Nước Trời ở trong con (Luke 17:21). Khi con so sánh câu này với lời trích từ Phúc âm Giăng, con sẽ thấy là nếu Nước Trời thật sự ở trong con, thì chẳng có nghĩa lý gì con phải đi qua một nhân vật lịch sử – một nhân vật đã sống 2000 năm về trước – để vào được Nước Trời. Thật chẳng có nghĩa lý gì con phải đi qua một sinh thể thăng thiên mà con có xu hướng đặt ở ngoài con. Điều này không có nghĩa là con không thể vào Nước Trời bằng cách đi qua Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô, nhưng con chỉ có thể làm vậy khi con đạt đến một cảm nhận hợp nhất với Giê-su, xem Giê-su như là anh mình, có lẽ ngay cả như một phần lớn hơn của gia đình tâm linh của mình, Cây sự Sống của mình, một phần lớn hơn của chính mình. Thày không đang phủ nhận sự kiện là ngày nay Giê-su đang đảm nhiệm một trách vụ tâm linh trong tư cách đấng Cứu thế của hành tinh, và nhiệm vụ của thày là giúp mỗi người tìm cầu tâm linh bước vào Nước Trời. Một lần nữa, con chỉ có thể làm vậy bằng cách đi qua cảm nhận hợp nhất nội tâm – sự hồn nhiên ngây thơ – là bí quyết thật sự của cứu rỗi.

7.2. Chính con tự phạt mình chứ không phải Thượng đế

Để đạt được cảm nhận hợp nhất này với Đấng Sáng tạo của con, con cần bỏ đi hình ảnh Thượng đế là một sinh thể nóng giận trên trời cứ chực trừng phạt mọi lỗi lầm của con. Con là con của Thượng đế. Ngài đã tạo con ra để con là một người đồng-sáng tạo, ngài đã ban cho con trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Đấng Sáng tạo của con không mong gì hơn là thấy con trở về bản mẫu thiêng liêng nguyên thủy của mình để con có thể là con người mà con được tạo ra để là. Khi con trở về trạng thái ân sủng, trạng thái ngây thơ đó, con sẽ có thể xây dựng thêm cá thể thiêng liêng của mình để trở thành nhiều hơn con người con đã được tạo ra để là. Đấng Sáng tạo thể hiện mong muốn trở nên hơn nữa của Thượng đế, cho nên chính con trong tư cách một người đồng-sáng tạo cũng thể hiện mong muốn trở nên hơn nữa của Thượng đế. Đấng Sáng tạo chỉ có một mong muốn, đó là trở nên hơn nữa. Như một biểu hiện của ý muốn này, ngài đã tạo ra thế giới hình tướng. Như một biểu hiện lớn hơn của ý muốn hơn nữa, ngài đã tạo ra những sinh thể tự nhận biết đồng-sáng tạo để ngài có thể là hơn nữa xuyên qua con. Đấng Sáng tạo của con không mong gì hơn là trở nên hơn nữa xuyên qua con. Ngài chỉ có thể là hơn nữa xuyên qua con khi chính con tự thăng vượt và trở nên nhiều hơn con người mà con được tạo ra để là.

Chừng nào cái Ta Biết xem mình là ít hơn bản mẫu thiêng liêng của con thì Thượng đế không đang là hơn nữa xuyên qua con. Đây không phải là điều ngài muốn thấy xảy ra, như Giê-u đã cố minh họa qua ẩn dụ về các ta-lăng hay vốn liếng (Matthew 25:14). Thượng đế tưởng thưởng những người đồng-sáng tạo đã nhân lên khả năng vốn có của họ, tuy nhiên ngay cả lời ẩn dụ này cũng không hoàn toàn chính xác. Đây không phải là lỗi Giê-su mà là vì chính Giê-su cũng phải diễn đạt theo một cách phù hợp với tâm thức con người thời đó. Điều này thấy rõ qua sự kiện Giê-su giảng dạy cho đám đông qua lời ẩn dụ nhưng thày giải thích những bí ẩn sâu xa hơn cho các tông đồ của thày (Mark 4:34). Thậm chí Giê-su còn nói: “Ta còn nhiều điều nữa để nói với con nhưng con chưa kham được” (John 16:12). Hai ngàn năm về trước, nhân loại vẫn quá kẹt trong tâm thức sợ hãi và tách biệt đến độ họ xem Thượng đế là một Thượng đế bên ngoài. Ẩn dụ của Giê-su về các ta-lăng kể chuyện ông chủ kia tưởng thưởng những đầy tớ đã nhân lên ta-lăng của mình và trừng phạt người đầy tớ đã chôn ta-lăng dưới đất, tượng trưng cho cái ta hữu diệt.

Thượng đế không là kẻ trừng phạt con. Chính con là kẻ đang trừng phạt con vì vũ trụ của Thượng đế vận hành đơn giản như một tấm gương. Nếu con chôn vốn liếng của mình xuống đất của tâm thức nhị nguyên, thì con đang gửi ra vũ trụ thông điệp bảo rằng cuộc sống là một sự vật lộn. Tấm gương vũ trụ phản chiếu lại cho con những cảnh ngộ sẽ xác nhận niềm tin của con rằng cuộc sống là một sự vật lộn. Nếu con chấp nhận hình ảnh Thượng đế là một sinh thể nóng giận phán xét sẽ phạt con mỗi khi con phạm lỗi, thì con cũng phóng hình ảnh này ra gương vũ trụ. Con thử đoán xem tấm gương vũ trụ sẽ phản chiếu gì cho con?

7.3. Tâm tách biệt tạo ra Thượng đế tách biệt

A con yêu dấu, hệ quả của điều thày vừa nói với con cho tới điểm này là khi con bị kẹt trong cái ta hữu diệt, khi con bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên, con trở thành một lời tiên tri tự nó ứng nghiệm. Cái gì con gửi ra sẽ được tấm gương vũ trụ phản chiếu lại cho con. Nếu con cảm thấy mình bị tước đoạt sự dồi dào của Thượng đế, vũ trụ sẽ gửi cho con những cảnh ngộ vỏ ngoài phản ánh niềm tin rằng Thượng đế là ông quản đốc bất công cố tình giữ lại sự dồi dào của cuộc sống.

Qua các thời đại, con người đã bám giữ hình ảnh một Thượng đế bên ngoài nóng giận và phán xét. Khi có chuyện xấu xảy ra cho họ, họ có xu hướng suy luận đây phải là sự trừng phạt của Thượng đế đối với tội lỗi của họ. Với mỗi chuyện xấu xảy ra cho họ, hình ảnh một Thượng đế nóng giận phán xét chỉ tăng thêm cường độ. Hết thế hệ này đến thế kỷ khác, hình ảnh này về một Thượng đế nóng giận đã ăn sâu vào tâm thức tập thể. Một số người đã chấp nhận nó từ quá nhiều kiếp sống đến độ họ vô cùng khó khăn từ bỏ con bê vàng này.

Đấng Sáng tạo thật sự vượt khỏi tạo vật của ngài. Không có một hình ảnh nào trong thế giới hình tướng có thể biểu tượng chính xác cái Tất cả của Đấng Sáng tạo của con. Không có từ ngữ nào có thể mô tả chính xác Đấng Sáng tạo, và hệ quả là không một kinh điển tôn giáo nào có thể đưa ra một lời mô tả trọn vẹn hay hoàn toàn chính xác về Đấng Sáng tạo. Khi con dựng lên bất kỳ hình ảnh nào về ngài, con tự động tạo ra một bức tượng khắc, và qua đó con vi phạm hai điều răn đầu tiên được trao cho Môi-sê (Exodus 20:3-4). Bức tượng khắc của con trở thành Thượng đế giả mà giờ đây con bắt đầu thờ phượng thay vào Thượng đế thực vượt khỏi bất kỳ hình ảnh nào mà bất cứ ai có thể tạo ra, bất kỳ hình ảnh nào có thể được tạo ra qua ngôn ngữ.

Ý nghĩa thật sự của hai điều răn đầu tiên được trao cho Môi-sê là nếu con tạo ra bất kỳ hình ảnh nào về Thượng đế dựa trên nhị nguyên của tâm phản Ki-tô, thì hình ảnh này bắt buộc là một tượng khắc, một hình giả. Hình ảnh nhị nguyên này che khuất Thượng đế thực, cho nên chắc chắn con sẽ bắt đầu thờ phượng một Thượng đế giả do chính con hay người khác tạo ra – có lẽ các thày giả đội lốt chiên. Con thờ phượng một Thượng đế bất di bất dịch, trong khi Thượng đế thực là Dòng sông sự Sống luôn luôn tuôn chảy, luôn luôn thăng vượt chính mình. Thày không ở đây để phá vỡ lòng tin của con vào tôn giáo hay một tôn giáo đặc thù nào. Nếu con là một người tìm kiếm tâm linh chân chính, và nếu con quan tâm đến việc trở về nhà của vương quốc Cha con, con không thể tránh khỏi đạt tới điểm con sẵn lòng chất vấn hình ảnh về Thượng đế mà người ta đã cho con từ tuổi thơ ấu. Con phải sẵn lòng xét xem hình ảnh về Thượng đế do tôn giáo con quảng bá có lẽ đã bị ảnh hưởng bởi tâm phản Ki-tô. Nếu con được dạy dỗ để tin vào hình ảnh một Thượng đế nóng giận và phán xét, thày có thể cam đoan với con là hình ảnh này không những đã bị ảnh hưởng mà còn phát xuất từ tâm phản Ki-tô.

Điều này cũng dễ thấy khi con nhận diện hai sự thật đơn giản. Tất cả mọi thứ được sinh tạo từ chất liệu, từ bản thể của Thượng đế. Con cũng được tạo ra từ bản thể Thượng đế, nghĩa là con là một phần của Bản thể Thượng đế. Con không tách biệt khỏi ngài, con thực là một phần nối dài của ngài. Nếu Thượng đế quyết định trừng phạt con, ngài sẽ trừng phạt chính ngài, và đối với một người có suy nghĩ, liệu điều này có nghĩa lý gì không?

Sự thật thứ nhì là tâm phản Ki-tô dựa trên cảm nhận tách biệt khỏi Thượng đế, ảo tưởng rằng bất cứ thành phần nào của Thượng đế, bất cứ gì do Đấng Sáng tạo hay một người đồng-sáng tạo tạo ra, cũng có thể bị tách rời khỏi nguồn cội của nó. Một khi một sinh thể ý thức chấp nhận ảo tưởng tách biệt, thì sẽ có khả năng sinh thể này tạo ra một tượng khắc của Thượng đế mà y coi là ở bên ngoài y.

Trong Vườn Eden, tất cả các sinh thể tự nhận biết đều hồn nhiên ngây thơ vì họ mang cảm nhận nội tâm mình là một phần của cái gì lớn hơn chính mình. Họ biết họ là một phần của Thân thể Thượng đế, họ biết họ nối kết với một sinh thể lớn hơn, tức Hiện diện TA LÀ. Quan niệm của họ về Thượng đế không phải là một Thượng đế ngoại lai trên trời. Khi còn ngụ trong sự hồn nhiên của Vườn Eden, những người đồng-sáng tạo vẫn biết sự thật vĩnh cửu rằng vương quốc Thượng đế ở bên trong mình. Chỉ sau khi họ quyết định ăn quả trái của hiểu biết về thiện ác thì họ mới rơi vào ảo tưởng mình tách biệt khỏi nguồn cội của mình. Khi họ bắt đầu chấp nhận ảo tưởng tách biệt này, họ không thể xem mình có sự nối kết nội tâm với Thượng đế được nữa. Cảm nhận hợp nhất nội tâm này, trạng thái hồn nhiên này, bị đánh mất, và thay vào đó họ tạo dựng một bức tượng khắc của một Thượng đế bên ngoài. Rồi từ hình ảnh Thượng đế bên ngoài này khởi lên quan niệm một Thượng đế trên trời giận dữ và trừng phạt, một Thượng đế cố sức áp đặt ý chí của mình lên họ để hạn chế tự do sáng tạo của họ.

Trái tim yêu dấu của thày, thày thật sự mong muốn giúp con khắc phục các ảo tưởng đang ngăn cách con khỏi sự sống dồi dào, khỏi vương quốc của Cha con. Để giúp con khắc phục các ảo tưởng này, thày cần giải thích cho con chúng xuất phát từ đâu. Chúng xuất phát từ tâm thức phản Ki-tô xem mình tách biệt khỏi Thượng đế và dùng nhị nguyên của thiện ác tương đối để tạo ra một tượng khắc của Thượng đế che đi Thượng đế thực. Con được sinh tạo từ Bản thể Thượng đế và ngài không mong muốn gì hơn là thấy con trở thành nhiều hơn con người con đã được tạo ra để là, và như thế con trải nghiệm sự sống dồi dào – một sự dồi dào chỉ có thể tìm thấy qua sự tự thăng vượt không ngừng. Thượng đế không bao giờ muốn con bị lạc đường trong sợ hãi, tách biệt và thiếu thốn. Ngài không bao giờ muốn con trải nghiệm đau đớn, khổ ải hay bất cứ gì kém hơn sự dồi dào mà ngài đã hình dung cho con ngay từ đầu. Thày có thể nói với con với sự chắc chắn tuyệt đối của một sinh thể đã vươn lên cao hơn tâm thức nhị nguyên và tái hợp lại với Đấng Sáng tạo, rằng Thượng đế không muốn gì hơn là thấy con cũng vươn lên cao hơn tâm thức nhị nguyên và được tự do biểu đạt cá thể thiêng liêng của mình. Ngài hoàn toàn không muốn trừng phạt con hay giữ con lại trong một trạng thái giới hạn, giữ con lại trong tâm thức nhị nguyên cho dù một giây.

Thượng đế sẽ vui mừng biết mấy thấy con thoát khỏi tâm thức nhị nguyên ngay bây giờ, nhưng vì ngài tôn trọng quyền tự quyết của con, cho nên ngài biết con phải trở về vương quốc của ngài bằng cách thay thế các chọn lựa cũ, các chọn lựa dựa trên nhị nguyên của phản Ki-tô, bằng những chọn lựa xây trên tảng đá của Ki-tô. Ngài không có mong muốn qua mặt tiến trình này, nhưng ngài có mong muốn thấy con hoàn tất tiến trình này càng sớm càng tốt. Thày có thể cam đoan với con là Thượng đế sẽ không bao giờ đặt chướng ngại trên đường con đi, ngài sẽ không bao giờ cản trở để khiến con bỏ ra nhiều thời gian hơn cần thiết hầu hoàn tất tiến trình trở về vương quốc của ngài. Thượng đế không muốn con cảm thấy tội lỗi về những lầm lỡ của mình. Ngài chỉ muốn con thừa nhận các chọn lựa của mình, nhận ra là chúng dựa trên tâm thức phản Ki-tô, rồi thay thế chúng bằng sự thật Ki-tô vốn cho con uy lực chọn lựa tốt hơn. Ngay khi con học xong một bài học nhất định, ngay khi con chọn lựa tốt hơn, ngài sẽ xem con vĩnh viễn giải thoát khỏi các lỗi lầm cũ. Thượng đế muốn con giải thoát để con có thể trở về bản mẫu thiêng liêng của mình và là sinh thể bất tử tuyệt đẹp mà ngài đã sinh tạo. Ngài không muốn nhớ tội lỗi của con nữa (Hebrews 10:17) và muốn chính con cũng không nhớ tội lỗi của con nữa.

Tình yêu của Thượng đế cho con vô điều kiện và ngài đã không tạo ra bất cứ điều kiện nào chia cách con khỏi sự sống dồi dào của tình yêu vô điều kiện của ngài. Trong ngài không có điều kiện nào, không có khác biệt, không có bóng tối hay biến đổi (James 1:17). Nếu trong Thượng đế không có điều kiện thì điều kiện có mặt ở đâu? Chỉ ở một nơi duy nhất là cõi nhị nguyên, nơi tâm thấy mình tách biệt khỏi tình yêu vô điều kiện của Thượng đế. Các điều kiện có vẻ giữ con tách rời khỏi sự sống dồi dào và Nước Trời, không có chút thực tế nào trong tâm thức Thượng đế hay trong tâm Ki-tô. Chúng chẳng là gì khác hơn ảo tưởng, và chúng chỉ tồn tại trong tâm thức phản Ki-tô. Chúng nẩy lên từ tâm thức tách biệt vốn tạo ra điều kiện không thực.

7.4. Cái ta hữu diệt ra đời thế nào

Con hãy suy ngẫm con là một phần nối dài của Bản thể Đấng Sáng tạo. Thượng đế đã tạo ra con vì ngài mong muốn trải nghiệm nhiều hơn xuyên qua con, xuyên qua ý niệm nhận biết địa phương của con. Ngài mong muốn hoàn tất sự sáng tạo thế giới hình tướng từ bên trong thế giới này. Ngài mong muốn trải nghiệm cái đẹp của tạo vật từ bên trong chính tạo vật. Con không tách biệt khỏi Đấng Sáng tạo của con mà con là một nối dài của Đấng Sáng tạo, nhìn thế giới hình tướng từ bên trong thế giới đó và đồng-sáng tạo từ bên trong tạo vật. Thượng đế không muốn con là kém hơn những gì ngài đã tạo ra ban đầu. Ngài muốn là nhiều hơn xuyên qua con – chứ không là ít hơn xuyên qua con. Ngài muốn con thoát ra khỏi nhà tù của cái ta hữu diệt của con và ngài không hề muốn giữ con lại trong nhà tù đó.

Con yêu dấu, nếu con chịu đi vào trong tim và suy nghiệm những gì thày đã từng nói với con nhiều lần trong nhiều bối cảnh khác nhau, tim con sẽ bảo con rằng quả thực thày đang nói sự thật. Khi đó con có thể xem đến câu hỏi hợp lý, ai là kẻ đang tìm cách giữ con kẹt lại trong nhà tù của cái ta hữu diệt? Thày đã cho con câu trả lời rồi đó, cụ thể là kẻ thù bên trong và kẻ thù bên ngoài. Sẽ thật ích lợi nếu chúng ta xem xét kỹ hơn hai kẻ thù này.

Ban đầu con được tạo ra như cái Ta Biết, như bình chứa cái ta và như cái ta bất diệt, Hiện diện TA LÀ của con. Bình chứa cái ta, quả cầu cái ta của con chưa hoàn toàn tràn đầy ánh sáng Thượng đế, và cái Ta Biết có tiềm năng bồi thêm vào đó qua nỗ lực sáng tạo của nó. Quả thực, đúng lý con sẽ làm công việc này, đúng lý con sẽ nhân lên vốn liếng ta-lăng của mình. Khi cái Ta Biết quyết định thử nghiệm trái cây của hiểu biết về thiện ác, tâm thức nhị nguyên, con bắt đầu bỏ vào bình chứa cái ta những nội dung dựa trên tâm thức nhị nguyên. Những nội dung này không có rung động đủ cao hay đủ trong sạch để đi lên tầng cấp cái ta bất diệt của con và được cất giữ trong kho báu tích lũy trên thiên đàng. Chúng không phải là thành quả của việc nhân ta-lăng mà việc chôn ta-lăng dưới đất. Các yếu tố hữu diệt với rung động thấp này giờ đây chồng chất trong phần thấp của bình chứa cái ta, khiến cho toàn bản thể của con kém hơn những gì nó đã được tạo ra để là, kém hơn bản mẫu thiêng liêng của con.

Khi con cứ tiếp tục làm vậy, các yếu tố nhị nguyên này chồng chất, tập hợp thành trọng lượng. Như con cũng biết từ vũ trụ vật chất, bất cứ khi nào có đủ khối lượng tập hợp ở một nơi thì nó bắt đầu tạo ra một trọng lực vượt ra ngoài ranh giới của nó. Hành tinh trái đất có một trường hấp dẫn chung quanh nó, và nó thu hút bất kỳ hạt bụi hay hạt nguyên tử nào có mặt trong không gian, ngay cả một “hạt” to lớn như mặt trăng. Các quyết định và tin tưởng nhị nguyên của con là những hạt bụi tập hợp trong bình chứa cái ta, đến một điểm chúng đạt được khối lượng tới hạn và bắt đầu tạo ra lực hấp dẫn. Lực này lôi kéo cái Ta Biết, và sự chú ý của con càng ngày càng hướng về các yếu tố hữu diệt trong bình chứa cái ta. Con hãy nghiệm xem, có những sự cố hay ngay cả những thói quen suy nghĩ có thể lôi kéo chú ý của con về một số tình huống nhất định, một số người, nơi chỗ hay bất kỳ biểu hiện nào khác của vũ trụ vật chất.

Bây giờ thày sẽ giải thích một điểm vi tế, và một lần nữa tâm vỏ ngoài của con sẽ khó lòng hiểu được, nhưng tim con sẽ có khả năng nắm bắt ý nghĩa bên trong. Mọi thứ được sinh tạo từ Bản thể Thượng đế, tức chính là tâm thức. Mọi thứ đều có tâm thức trong nó. Ngay cả những thứ con người gọi là vật chất vô tri cũng có một trạng thái tâm thức thô sơ nào đó. Tâm phản Ki-tô cũng có tâm thức – đơn giản là tâm thức rung động ở một độ thấp hơn tâm thức Ki-tô, giống như ánh sáng hồng ngoại rung động ở một tần số thấp hơn ánh sáng cực tím vậy. Khi con lấy những quyết định dựa trên tâm thức phản Ki-tô và bỏ thêm nhiều yếu tố hữu diệt vào bình chứa cái ta, thực sự điều con đang làm là mở lối cho tâm thức phản Ki-tô đi vào quả cầu cái ta.

Lúc đầu, các yếu tố nhị nguyên này hình thành một lực hấp dẫn lôi kéo chú ý của con một cách cơ học. Khi tâm thức này tập hợp thêm khối lượng, nó sẽ rốt cuộc đạt trọng lượng tới hạn, qua đó nó không chỉ còn là một tập hợp những quyết định và năng lượng. Thay vào đó, tập hợp những quyết định và năng lượng riêng rẽ này bây giờ biến thành một đơn vị mạch lạc bỗng nhiên khoác vào một tâm thức đặc trưng như một ngã tách biệt. Vào ngay lúc đó, cái ta hữu diệt của con ra đời, là một ý niệm cái ta tách biệt có mặt trong bình chứa cái ta của con.

7.5. Một ngôi nhà phân rẽ vì kẻ xâm nhập ngoại lai

Con đã được tạo ra để là một sinh thể trọn vẹn, tự thân con không mang lực nào đối chọi với nhau, nghĩa là con không chứa đựng điều gì kém hơn sự toàn hảo của tâm Ki-tô. Khi con cho phép những yếu tố phản Ki-tô đi vào bản thể, con đã làm ô nhiễm quả cầu cái ta của con. Khi cái ta hữu diệt ra đời, con đã cho phép sự hình thành của một sinh thể ngoại lai trong quả cầu cái ta. Đây là ý nghĩa thật sự của lời dạy của Giê-su về ngôi nhà bị phân rẽ với chính nó và không thể đứng trong ánh sáng của sự thật Ki-tô. Cái ta hữu diệt chính là yếu tố phân rẽ ngôi nhà, phân rẽ quả cầu cái ta của con và kéo cái Ta Biết xa khỏi sự toàn hảo của bản mẫu thiêng liêng. Điều này khiến con kém hơn chứ không nhiều hơn những gì con đã được tạo ra để là, và chính vấn đề này tước đi sự sống dồi dào khỏi con.

Bình chứa cái ta của con ban đầu chỉ chứa đựng cái Ta Biết và Hiện diện TA LÀ của con. Đây là thiết kế nguyên thủy, và trong khi con biểu đạt quyền năng sáng tạo thì con cũng có thể khuếch trương ánh sáng cho đến khi nó tràn ngập toàn bộ quả cầu cái ta, và con sẽ là Trên sao dưới vậy. Quả cầu cái ta của con không bao giờ được hoạch định để chứa đựng bất cứ gì ngoại lai hay đối nghịch với bản mẫu thiêng liêng. Khi cái ta hữu diệt ra đời, nó hình thành một đối lập cho ý niệm cái ta bất diệt của con, nó hình thành một cái ngã ngoại lai đối với bản mẫu thiêng liêng. Cái ta hữu diệt dựa trên những quyết định lạc điệu với định luật của Thượng đế và cá thể thiêng liêng của con. Các quyết định này tạo ra những hình ảnh nhị nguyên, những tượng khắc che khuất cái ta bất diệt, Hiện diện TA LÀ của con. Khi cái ta hữu diệt tăng thêm sức mạnh thì lực hấp dẫn của nó lôi kéo mạnh hơn, và cái Ta Biết, sự chú ý của con càng ngày càng tập trung vào cái ta hữu diệt đó. Đến một điểm, cái ta hữu diệt trở nên hùng mạnh đến độ cái Ta Biết bắt đầu đồng hóa với nó. Sức mạnh của cái ta hữu diệt được gia tốc cho đến lúc nó thuyết phục luôn cái Ta Biết rằng con là một sinh thể hữu diệt. Điều này xảy ra vì cái ta hữu diệt không còn là một thế lực thụ động nữa mà một kẻ xâm lược đúng nghĩa, đang tìm cách kiểm soát quả cầu cái ta của con bằng cách chi phối người điều khiển quả cầu này, tức là cái Ta Biết. Cuối cùng, cái ta hữu diệt còn có thể khiến con mất đi ký ức về cái ta bất diệt. Lúc bấy giờ, con đã bước xuống cầu thang thấp đến độ con bị mắc bẫy trong bóng tối vỏ ngoài của cái ta hữu diệt và tâm thức phản Ki-tô.

Rắn trong Vườn Eden đã cám dỗ Eva chống lại vị đại diện của Thượng đế. Rắn là một kẻ xâm nhập từ ngoài, một kẻ xâm lược ngoại lai vào khu vườn. Quả thật cái ta hữu diệt của con là một kẻ xâm nhập ngoại lai vào quả cầu cái ta của con, tức khu Vườn Eden cá nhân của con. Do quyền tự quyết, cái Ta Biết có thể quyết định dự phần vào tâm thức nhị nguyên. Thượng đế đã không đem Rắn vào vườn. Sự có mặt của tâm phản Ki-tô là một hậu quả của việc ban cho con quyền tự quyết, nhưng Thượng đế đã đặt con vào một quả cầu được che chở nơi tâm của rắn không có mặt. Tâm thức nhị nguyên có mặt bên ngoài quả cầu đó, và chỉ cái Ta Biết mới có thể mời nó vào bên trong. Con không có nhu cầu làm chuyện này, mà đó là một chọn lựa con đã lấy. Chính con đã mở ra một lối vào mà qua đó kẻ thù bên ngoài đã có thể xâm nhập vào quả cầu cái ta và cài đặt chất độc của lòng nghi ngờ cứ lớn mãi thành cái ta hữu diệt, tức kẻ thù bên trong. Cái ta hữu diệt này là một nối dài của kè thù bên ngoài, y như cái ta bất diệt của con là một nối dài của Đấng Sáng tạo của con.

Cái ta hữu diệt thật sự là một sinh thể riêng biệt, một sinh thể xa lạ đối với mục đích sinh tồn của con. Đó là một sinh thể đã xâm lăng quả cầu cái ta, đối nghịch với mục đích con đã được tạo ra để theo đuổi. Chính cái ta hữu diệt này ngăn con thừa kế vương quốc của Cha con, ngăn con trải nghiệm sự sống dồi dào. Con đường chân chính duy nhất dẫn đến nhiều dồi dào hơn là con phải tách cái Ta Biết khỏi cái ta hữu diệt. Con phải đi mút tiến trình tách mình ra khỏi cái ta hữu diệt để con không còn đồng hóa với nó nữa. Và để đi mút tiến trình này, con cần trước hết khắc phục ảo tưởng rằng con cái ta hữu diệt.

Cái Ta Biết có khả năng tự đồng hóa với bất cứ gì. Chừng nào nó còn đồng hóa với cái ta hữu diệt, làm sao nó có thể tách ra được đây? Con không thể tách mình ra khỏi chính con, con không thể tách mình ra khỏi cái con xem là chính mình, khỏi ý niệm cái ta của mình. Bước đầu tiên trên hành trình trở về nhà là nhận ra cái ta hữu diệt không phải là một phần của bản thể thực của con. Con cần phải hiểu, chấp nhận và thể nhập sự thật rằng cái ta hữu diệt là một kẻ xâm nhập ngoại lai không bao giờ nằm trong thiết kế của Thượng đế, không bao giờ được trù liệu để là một phần của bản thể con. Khi con ngộ ra trọn vẹn sự thật này, việc tách mình ra khỏi cái ta hữu diệt sẽ dễ hơn rất nhiều.

7.6. Con sẽ không chết khi cái ta hữu diệt chết

Cái ta hữu diệt của con có một ý niệm bản sắc tách biệt, một tâm thức tách biệt. Nó giống như một kẻ thống trị ngoại bang đi vào nước con, truất ngôi vị vua chính đáng – cái Ta Biết – và tự xưng mình là vua mới. Từ khi nó lên ngôi vua, nó đã cai trị nước con, quả cầu cái ta của con, với bàn tay sắt. Con có thể mường tượng là khi một ông vua xâm chiếm một vương quốc và đã cai trị rất lâu, thì ông ta sẽ không từ bỏ quyền lực và lợi lộc mà không kháng cự. Cái ta hữu diệt của con sẽ không từ bỏ quyền kiểm soát cái Ta Biết mà không kháng cự, và điều cốt yếu là con phải hiểu tại sao lại như vậy.

Cái ta hữu diệt do chính con tạo ra. Nó được tạo ra do con thử nghiệm tâm thức nhị nguyên qua đó con khiến cho năng lượng thuần khiết của Thượng đế khoác lấy một rung động thấp hơn. Nó chỉ có thể tiếp tục tồn tại chừng nào con còn kẹt trong tâm thức nhị nguyên và còn tiếp tế năng lượng cho nó. Ngay cả các dạng sống thô sơ nhất trên trái đất cũng có một bản năng sinh tồn cơ bản. Tương tự như vậy, cái ta hữu diệt cũng có một bản năng sinh tồn. Nó biết rất rõ là nó đã được tạo ra chỉ vì con dự phần vào tâm thức nhị nguyên. Nó thừa biết là nếu con tách mình ra khỏi tâm thức đó thì nó sẽ hết tồn tại.

Tất cả mọi thứ đều là năng lượng, và mọi thứ trong thế giới hình tướng được tạo ra từ năng lượng tâm linh đã được kéo thấp độ rung. Con là một người đồng-sáng tạo với Thượng đế vì Hiện diện TA LÀ của con hình thành một cánh cửa mở qua đó ánh sáng thuần khiết của Thượng đế có thể chảy vào quả cầu cái ta của con. Xong con điều khiển ánh sáng này để tạo ra hình tướng. Nếu cái Ta Biết tự đồng hóa với Hiện diện TA LÀ, con sẽ thể hiện khả năng sáng tạo của con xuyên qua cái ta bất diệt này. Nếu cái Ta Biết tự đồng hóa với cái ta hữu diệt, con sẽ thể hiện khả năng sáng tạo của con xuyên qua cái ta hữu diệt. Khi ánh sáng Thượng đế chảy qua cái ta hữu diệt, cái ta này sẽ dùng một phần ánh sáng đó để sống còn. Nó chỉ có thể tồn tại chừng nào cái Ta Biết còn cho phép ánh sáng Thượng đế chảy xuyên qua nó.

Khi con tách mình ra khỏi cái ta hữu diệt và xem nó như một kẻ xâm nhập ngoại lai, con sẽ tức khắc giảm bớt lượng ánh sáng chảy xuyên qua nó. Sẽ vẫn còn một chút ánh sáng chảy xuyên qua nó vì con vẫn còn một số tin tưởng nhị nguyên trong bình chứa cái ta. Khi con loại bỏ các tin tưởng này một cách có hệ thống, con sẽ đạt tới mức cắt đứt tất cả ánh sáng chảy qua cái ta hữu diệt. Một khi con đã loại bỏ mọi tin tưởng nhị nguyên cấu tạo cái ta hữu diệt và cũng cắt đứt dòng chảy ánh sáng xuyên qua nó, cái ta hữu diệt sẽ hết tồn tại. Nó sẽ chết, trong nghĩa đen. Vì nó có một bản năng sinh tồn cho nên nó không muốn thấy chuyện này xảy ra. Nó sẽ chiến đấu cho mạng sống của nó, và cách duy nhất nó có thể duy trì mạng sống là giữ con kẹt lại trong một số tin tưởng nhị nguyên. Cái ta hữu diệt sẽ phóng chiếu vào cái Ta Biết bất cứ gì nó có thể nghĩ tới để con tiếp tục bị dính mắc tình cảm với một số tin tưởng nhị nguyên, hay để ngăn con nhìn thấu ảo ảnh của các tin tưởng này.

Cái ta hữu diệt biết rõ việc ngăn con bước lên một bực cao hơn trên chiếc cầu thang xoắn ốc thật sự là một vấn đề sinh tử đối với nó. Nó sẽ tìm cách gây khó khăn tối đa để con không bước được bước này. Con có thể – bất cứ lúc nào – mở toang cánh cửa nhà tù của cái ta hữu diệt và bước ra ngoài tù. Nhưng nếu con chưa tách mình ra khỏi cái ta hữu diệt, nó sẽ rất dễ dàng khiến con vướng mắc các tin tưởng nhị nguyên của con. Nếu cái Ta Biết còn đồng hóa với cái ta hữu diệt, cái Ta Biết sẽ tin chắc là nó sẽ chết nếu nó từ bỏ một tin tưởng nhị nguyên, và hiển nhiên con sẽ không thể từ bỏ tin tưởng này.

Để trở về vương quốc Cha con, con phải buông bỏ các ảo tưởng của phản Ki-tô. Và để buông bỏ các ảo tưởng của phản Ki-tô, con phải trước hết tách mình ra khỏi cái ta hữu diệt cứ muốn giam con lại trong ảo tưởng. Con phải tách mình ra khỏi ảo tưởng vĩ đại nhất cho rằng việc từ bỏ các lời dối của phản Ki-tô có nghĩa là cá thể của con sẽ chết. Con chỉ làm được việc này khi con ngộ ra là cái Ta Biết không phải là cái ta hữu diệt, mà là nhiều hơn cái ta hữu diệt. Đúng vậy, con là một sinh thể tâm linh bất diệt.

7.7. Giây phút sự thật

Để thực hiện đầy đủ bước tách mình ra khỏi cái ta hữu diệt, sẽ rất ích lợi nếu con hiểu chi tiết hơn cái ta hữu diệt sinh ra như thế nào và làm thế nào nó đã xoay xở để chiếm quyền kiểm soát cái Ta Biết. Khi dòng sống của con lần đầu tiên đi vào hiện hữu, con không được sinh tạo với sự nhận biết toàn diện của Đấng Sáng tạo. Con được trù liệu sẽ gia tăng khả năng tự nhận biết cho đến khi con trở nên ý thức trọn vẹn về nguồn cội và quyền năng sáng tạo của mình, cho đến khi con có thể chấp nhận chính mình là một đứa con trai hay con gái của Thượng đế, như một cá thể hóa của Đấng Sáng tạo. Con được thiết kế để mạo hiểm vào một thế giới có độ ánh sáng thấp, cho nên phần dưới của quả cầu cái ta của con cũng có một độ ánh sáng thấp tương ứng. Con được trù liệu sẽ giúp nâng cao độ ánh sáng trong thế giới vật chất bằng cách nâng cao độ ánh sáng trong quả cầu cái ta của con. Vì độ ánh sáng trong bản thể con còn thấp cho nên phần dưới của quả cầu cái ta chưa phản ánh được phần trên, Hiện diện TA LÀ. Con vẫn có một sự nối kết nội tâm với Hiện diện TA LÀ của con, nhưng đối với tâm vỏ ngoài, thật không hiển nhiên con là một nối dài của Thượng đế. Có xác suất là cái Ta Biết có thể bắt đầu tự xem mình là ít hơn một Sinh thể tâm linh không giới hạn. Một khi con nhân lên ánh sáng trong bản thể con, một khi con bền lòng với một số điều, con sẽ mang lại nhiều ánh sáng hơn vào quả cầu cái ta, và rốt cuộc thì việc con là một nối dài của một Sinh thể tâm linh bất tử trở nên thật hiển nhiên. Và phần dưới của quả cầu cái ta sẽ là một phản ánh của phần trên.

Để giúp con đi qua tiến trình này, con đã được ban cho sự hướng dẫn của một vị thày đầy lòng từ bi. Trong Kinh thánh, vị thày này được nhắc đến như vị Thượng đế của Vườn Eden. Ở một thời điểm, cái Ta Biết quyết định không nghe theo một lời hướng dẫn của thày con, cụ thể là không được ăn trái cây của hiểu biết về thiện và ác tương đối. Khi con thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, càng ngày con càng bước sâu xuống cầu thang xoắn ốc. Thế rồi con trải nghiệm một giây phút sự thật. Giây phút sự thật này xảy đến khi con bước xuống bực thang mà từ đó con không thể nhìn xuyên qua cánh cửa ở trên đầu cầu thang nữa, con không thể nhìn thấy Hiện diện TA LÀ của con nữa. Ngay lúc đó, con ngộ ra là con đã đi xuống quá sâu vào tâm thức nhị nguyên. Con nhận ra là con đã đánh mất sự nối kết trực tiếp với Hiện diện TA LÀ. Con cũng nhận ra là khi con tách rời Hiện diện TA LÀ, con cũng tách rời khỏi vị thày của con và không có cách nào che giấu những gì mình đã làm. Kinh thánh mô tả sự kiện này qua việc Adam và Eva chợt nhận thấy mình trần truồng (Genesis 3:7). Khi họ nhận ra là họ trần truồng, họ cảm thấy xấu hổ.

Trái tim yêu dấu của thày, giây phút sự thật này là một bước ngoặt cực kỳ quan trọng cho dòng sống của con. Câu chuyện Vườn Eden biểu tượng cho những gì xảy ra cho những người đồng-sáng tạo đã cắn vào trái cây hiểu biết thiện ác. Tất cả các sinh thể này rơi xuống tâm thức nhị nguyên, và lúc đầu, hành trình đi xuống diễn ra từ từ đến độ họ không hay biết chuyện gì xảy ra. Rồi đến một điểm, họ không còn nhìn thấy Hiện diện TA LÀ nữa. Họ nhận ra là họ đã mắc bẫy và họ không thể dễ dàng thăng lên trở lại trạng thái hồn nhiên nguyên thủy của mình. Họ cũng nhận ra là mặc dù cho đến nay họ không để ý thấy trạng thái tâm thức của họ, nhưng vị thày thì để ý thấy – vì đối với thày, không có gì họ làm có thể được che giấu.

Ở mức nhận thức này, cái Ta Biết đối mặt với một quyết định trọng yếu, một quyết định sinh tử. Giây phút cái Ta Biết lần đầu tiên quyết định cắn vào trái cây hiểu biết thiện ác là giây phút khởi đầu hành trình đi xuống cầu thang xoắn ốc. Giây phút đó thật ra không phải là giây phút quan trọng nhất cho dòng sống của con. Thượng đế đã cho con quyền tự quyết cho nên ngài cũng cho con quyền được thử nghiệm với trái cây của hiểu biết thiện ác. Ngài không đặc biệt muốn con làm vậy nhưng ngài sẽ không ngăn cản con làm vậy nếu đó là ý muốn của con. Vị thày đã không bảo con không được phép cắn vào trái cây, mà thày chỉ nói là con sẽ chết nếu con ăn vào.

Điều Thượng đế không muốn chứng kiến là con bị kẹt lại trong tâm thức nhị nguyên vì điều này sẽ có nghĩa cái chết của ý niệm cái ta bất tử của con. Vị thày dư biết là một khi con bắt đầu đi xuống cầu thang xoắn ốc, con sẽ rất khó lòng kéo mình lên trở lại. Bởi vì với mỗi bực xuống thấp hơn, trọng lực sẽ trở nên mãnh liệt hơn, và con sẽ khó khăn hơn leo lên trở lại. Không có gì con làm trong tâm thức nhị nguyên có quyền năng thực sự trên cái Ta Biết, cho nên Thượng đế biết rõ con sẽ không bao giờ bị kẹt vĩnh viễn vào tâm thức nhị nguyên mà không sao đảo ngược. Con luôn luôn có sự chọn lựa leo trở lên. Vấn đề là mặc dù chọn lựa này luôn luôn mở ra, nhưng con phải thấy được nó. Con cũng phải sẵn lòng chọn nó để mà dùng nó. Và tất nhiên, đây thực sự là vấn đề.

Khi cái Ta Biết nhận ra là nó trần truồng, con đối mặt với quyết định trọng yếu hơn cả. Quyết định này là liệu con sẽ quay về với thày của con, thừa nhận những gì mình đã làm và kêu gọi sự giúp đỡ để leo lên trở lại, hay con sẽ chọn trốn tránh vị thày. Câu chuyện của Adam và Eva là câu chuyện của những người đồng-sáng tạo đã chọn trốn tránh khỏi thày mình.

Có rất nhiều người đồng-sáng tạo đã quyết định thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên. Một số chọn trở về với thày mình và nhờ giúp đỡ để đi trở lên cầu thang. Những ai đã yêu cầu giúp đỡ đều nhận được giúp đỡ trong tình thương yêu tuyệt đối, thuần khiết và vô điều kiện mà Thượng đế dành cho mỗi người đồng-sáng tạo. Họ đã có thể nhanh chóng thăng lên trở lại và lấy lại sự hồn nhiên của họ. Quả vậy, những người đồng-sáng tạo này đã thăng thiên khỏi cõi vật chất và ngày nay là những sinh thể tâm linh bất tử, cư ngụ nơi một cõi cao hơn.

Câu chuyện của Adam và Eva là câu chuyện của những người-đồng sáng tạo đã quyết định không trở lại với thày mình và thú nhận lầm lỗi của mình. Họ không quay trở lại và xin được giúp đỡ. Thay vào đó, họ đã trốn tránh vị thày. Đây là một quyết định trọng yếu. Thượng đế đã ban cho con quyền tự quyết, và cả ngài lẫn bất cứ vị đại diện nào của ngài cũng sẽ không vi phạm quyền đó. Khi con quyết định lẩn trốn khỏi thày, thày không còn tùy chọn nào khác để giúp con. Vị thày không thể ép buộc con quay về và nhờ giúp. Định luật Tự quyết quy định là nếu con trốn tránh thày, thày sẽ không thể đuổi theo con và đối chất con. Nếu con chạy trốn thày, thày sẽ không thể giúp con cho đến khi con quyết định quay đầu và nhờ giúp đỡ. Vị thày phải đứng lui lại và nhìn con dấn xuống sâu hơn trên cầu thang xoắn ốc.

7.8. Vĩnh viễn bỏ lại nhà tù

Đây là quá trình cơ bản đã đưa con đến nơi con đang đứng hôm nay, đến độ con bị tách khỏi vương quốc của Cha con và do đó không trải nghiệm được sự sống dồi dào. Sự tách biệt hiện tại khỏi sự sống dồi dào là do một số chọn lựa chính con đã lấy. Cả Thượng đế lẫn các Sinh thể trên thiên đàng đều không lên án con đã có những chọn lựa như thế. Các thày không mong muốn thấy con tiếp tục bị giam trong các chọn lựa này. Các thày chỉ mong thấy con thoát khỏi các chọn lựa quá khứ để con có thể nhanh chóng bước lên cầu thang xoắn ốc và trở về vương quốc Cha con. Thượng đế không muốn con ở lại trong trạng thái đau khổ và thiếu thốn thêm một giây. Ngài muốn cho con sự sống dồi dào vì ngài rất vui lòng ban cho con vương quốc của ngài. Ngài chỉ đơn giản muốn con tách mình ra khỏi cái ta hữu diệt, ngài muốn con khám phá cánh cửa của nhà tù thế phàm và nhìn ra là cửa này không khóa. Ngài muốn con mở cửa đó ra và bước ra ngoài ánh sáng rực rỡ của Mặt trời Hiện diện TA LÀ của con, hầu con thấy và chấp nhận cái Ta Biết là nhiều hơn cái ta hữu diệt.

Không phải Thượng đế đang cố giữ con lại trong sự xấu hổ hay sự phủ nhận các chọn lựa đã qua của con, mà đó là cái ta hữu diệt cùng ông hoàng của thế gian đang cố giam con chặt trong các chọn lựa này. Chúng tìm cách khiến con tin rằng chính do các lỗi lầm quá khứ mà con không thể quay về với thày con, không thể thừa kế vương quốc của Cha con.

Trước khi con có thể lấy quyết định bước ra ngoài nhà tù của con người phàm, con phải nhận diện một cách ý thức tại sao con đã quyết định quay lưng lại vị thày. Con phải giải thể một cách ý thức quyết định mà con đã lấy rất lâu về trước. Chỉ khi nào con đã tháo gỡ quyết định này thì con mới giải thoát hoàn toàn khỏi cái ta hữu diệt. Có thể con vẫn còn một vài yếu tố của cái ta hữu diệt trong bình chứa cái ta mà con sẽ phải làm sạch, tuy nhiên khi con giải thể quyết định nguyên thủy đã khiến con quay lưng lại thày mình, ngay lúc đó cái ta hữu diệt sẽ mất uy quyền trên con. Nó sẽ giống như một ông vua ngồi trên ngai vàng ra lệnh oang oang nhưng chẳng có ai xung quanh nghe theo.

Quả thật, những gì thày vừa nói với con có thể được xem là bí mật của cuộc sống. Điều giữ con kẹt lại trong một trạng thái thiếu thốn và đau khổ là quyết định nguyên thủy đã khiến con quay lưng lại vị thày tâm linh của con, quay lưng lại Hiện diện TA LÀ của con, quay lưng lại Đấng Sáng tạo ra con. Từ quyết định nguyên thủy này đã nẩy lên vô số quyết định khác dựa trên tâm thức nhị nguyên. Những quyết định này giống như nước bẩn đổ đầy bồn tắm. Quyết định nguyên thủy quay lưng lại vị thày là cái nút đang giữ nước bẩn trong bồn không thoát ra được. Một khi con gỡ nút lên, tất cả nước dơ sẽ bắt đầu chảy đi. Nếu con cứ để nút tại chỗ, con sẽ phải múc nước bẩn ra từng thìa một. Thày không bảo là con không thể làm vậy để rốt cuộc con tìm ra cái nút trong bồn tắm. Nhưng sẽ chẳng dễ hơn rất nhiều hay sao nếu con bỏ công gỡ cái nút của cái ta hữu diệt?

Trong chương kế tiếp, thày sẽ giúp con khám phá cái quyết định nguyên thủy này. Mặc dù con có thể mất chút thời gian để tìm thấy nó, nhưng trong khóa này thày sẽ cho con những dụng cụ để con vạch trần quyết định chết người đó. Quyết định này có nghĩa cái chết của ý niệm bản sắc tâm linh của con và sự chào đời của ý niệm bản sắc hữu diệt. Nó có nghĩa cái chết của con như một sinh thể tâm linh và sự chào đời của con như một người phàm.

Quyết định này thực sự tượng trưng cho một thế kẹt lưỡng nan về mặt tâm linh, vì chính quyết định này ngăn cản con tái sinh. Chính quyết định này ngăn con cho phép cái ta hữu diệt chết đi trên thập tự giá. Chính quyết định này ngăn con thoát khỏi nanh vuốt của tâm phản Ki-tô. Chính quyết định này trao cho ông hoàng của thế gian một cái gì đó trong con để y tiếp tục kiểm soát con. Thày hy vọng con có thể thấy được tầm quan trọng của việc phơi bày quyết định này, và thày mong con sẽ đọc chương kế tiếp với ít nhất sự phấn khích mà thày cảm được sau khi dẫn con tới điểm con sẵn sàng nhận được lời dạy này. A con yêu dấu, thày ao ước có thể giúp con cảm được là con đường hướng thượng thật tràn đầy hứng khởi, và do đó nó thật đáng công lao bỏ ra. Mỗi lần con bước lên một bực cao hơn trên cầu thang xoắn ốc, con thu được một chiến thắng quan trọng. Sự kiện con đã theo khóa học này cho tới điểm này tự nó đã là một chiến thắng rồi, vì mỗi chìa khóa thày cho con đều được thiết kế để dẫn con lên nhiều bực thang.

Liệu con sẽ chẳng mở tim ra đón nhận cảm giác chiến thắng và ngộ ra là con đang đứng trên ngưỡng cửa, chực bước ra ngoài nhà tù của cái ta hữu diệt để vĩnh viễn bỏ lại đằng sau ảo tưởng rằng con bị giam trong nhà tù đó, không có đường nào khác hơn là con đường đi xuống? Con hãy tự cho phép mình cảm thấy lòng hứng khởi cùng niềm vui mà thày cảm thấy khi thày ở bên con, là niềm vui mà tất cả anh chị của con nơi thiên đàng cảm thấy vì con đã chọn vươn mình lên tới mức sẵn sàng bước qua cánh cửa nhà tù, bước xuyên qua tấm màn năng lượng – tức là cái ác [energy veil viết tắt là e-vil] – đang chia cách con với các thày. Các thày mong mỏi được nhìn thấy con. Một lần nữa, lại là sự trọn vẹn mà con sẵn là. Các thày cầm giữ niệm tinh khôi cho con, nhưng các thày mong mỏi thấy con giữ lấy niệm tinh khôi này cho chính con.

5 | Một cái nhìn kỹ hơn về cái ta

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/4/2005.

5.1 Con là một quả cầu nhỏ trong quả cầu lớn

Trái tim yêu dấu của thày, đã đến lúc chúng ta cần nhìn kỹ hơn xem con thực sự là ai, nhìn cái Ta của con kỹ hơn. Trước đây, thày có nói là con được sinh tạo từ Bản thể Thượng đế. Thày nói rằng nguồn gốc bản sắc của con, nguồn gốc cái Ta của con, là sự nhận biết thuần khiết. Từ nhận biết thuần khiết này, cá thể của con được hình thành, và đây là điều có thể gọi là cái Ta Biết hay cái ta ý thức. Cái Ta Biết này là điều cho con cảm nhận là con hiện hữu, và con hiện hữu như một sinh thể riêng biệt. Cảm nhận hiện hữu là một trạng thái nhận biết rất thuần khiết và phổ quát, và thật sự nó không mang một đặc tính cá nhân nào. Ở cốt lõi của nhận biết này là cảm nhận con hiện hữu như một thành phần của một tổng thể rộng lớn hơn, nhưng nhận biết của con lại tập trung vào một điểm đặc thù trong tổng thể đó. Thay vì con có tầm nhận biết bao trùm tất cả của Đấng Sáng tạo ra con – mà chúng ta có thể nói đang đứng ngoài tạo vật nhìn vào trong – thì con có một nhận biết cục bộ, địa phương. Con ở trong tạo vật, nhìn tạo vật từ bên trong, từ một vị trí quan sát nhất định bên trong tổng thể.

Chúng ta có thể so sánh điều này với điều thày đã đề cập trước đây về quá trình tạo dựng thế giới hình tướng. Đấng Sáng tạo rút mình khỏi một không gian nhất định và tạo ra một khoảng trống không. Ngài co mình lại thành một điểm dị biệt (singularity). Công việc của Đấng Sáng tạo là lấp đầy khoảng trống không, trước tiên qua việc định ra một quả cầu đứng riêng biệt với khoảng trống không, do chứa đựng một chút ánh sáng. Quả cầu này trở thành vũ trụ vĩ mô (macrocosm). Trong quả cầu này Đấng Sáng tạo hiện diện hằng thường, tuy nhiên giờ đây ngài rút mình từ một quả cầu nhỏ hơn và co lại thành một điểm độc nhất. Điểm này trở thành cái Ta Biết và quả cầu thì trở thành bình chứa cái ta của con, quả cầu cái ta của con. Con là một quả cầu bên trong quả cầu lớn hơn của tâm thức Đấng Sáng tạo, con là vũ trụ vi mô (microcosm) trong vũ trụ vĩ mô của Đấng Sáng tạo của con. Nhiệm vụ của con là nhân lên những gì con đã được Thượng đế phú cho con, nhân lên khả năng và vốn liếng của mình, để con có thể cai quản – trước hết cai quản quả cầu cái ta tức là vũ trụ vi mô, sau đó cai quản quả cầu lớn hơn tức là vũ trụ vĩ mô, có nghĩa là vũ trụ vật chất. Khi con đã cai quản quả cầu cái ta của con, đổ đầy nó với ánh sáng thuận theo các định luật của Thượng đế, con sẽ trở thành một sinh thể Ki-tô (Christed being), một sinh thể tâm linh bất tử. Điều này sẽ cho con uy lực để cai quản trái đất, thị hiện trong cõi vật lý vương quốc của sự sống dồi dào của Thượng đế. Con sẽ là ở dưới này tất cả những gì con là ở Trên – con sẽ là “Trên sao dưới vậy”. Điều này, và chỉ có điều này, mới đem lại vương quốc Thượng đế xuống trái đất.

Cái Ta Biết thật sự là cốt tủy của bản sắc cá nhân của con, tuy vậy nó là một trạng thái nhận biết thuần khiết. Nó có một nhận biết cá nhân nhưng nó không có những đặc tính cá nhân. Nó không thể tự biểu đạt trực tiếp trong thế giới hình tướng. Để tự biểu đạt, nó phải có một cá thể, một ý niệm bản sắc mà qua đó nó có thể biểu hiện. Một lần nữa, con hãy so sánh với chiếc máy chiếu phim. Nếu trên máy chiếu không có cuộn phim nào thì nó chỉ chiếu được lên màn hình một hình vuông ánh sáng màu trắng. Nó cần một cuộn phim để có thể chiếu ra những hình ảnh cụ thể sẽ làm dấy động và khiến cho Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lấy hình tướng. Giống như một máy chiếu phim có thể chiếu ra hình ảnh xuyên qua bất cứ cuộn phim nào, thì cái Ta Biết cũng có khả năng tự biểu đạt xuyên qua bất kỳ ý niệm bản sắc nào. Cái Ta Biết có thể tự đồng hóa với – và nó có thể tự đồng hóa như – bất cứ gì nó muốn. Nhiệm vụ của cái Ta Biết là xây dựng ý niệm bản sắc của nó, và Thượng đế đã cho con tự do hoàn toàn để chọn lựa tùy theo trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con. Thượng đế đã cho con quyền tự do “đặt tên” bản sắc của con, thậm chí đặt tên cả cho mọi thứ trên địa cầu tùy theo ý niệm bản sắc của con (Genesis 2:19).

Cái Ta Biết không khởi sự như một tờ giấy trắng. Nó có một nền tảng để từ đó xây dựng ý niệm bản sắc của nó, cụ thể là cá thể thiêng liêng neo trụ trong Hiện diện TA LÀ của con. Hiện diện TA LÀ của con ngụ thường hằng nơi những rung động cao hơn ở cõi tâm linh, và cá thể của nó không thể nào biểu hiện trực tiếp trong vũ trụ vật chất. Cá thể của nó chỉ có thể được biểu đạt khi cái Ta Biết dùng cá thể này để xây dựng một ý niệm bản sắc giống như cuộn phim trong máy chiếu phim.

Quả cầu cái ta của con có một phần cao và một phần thấp. Phần cao ngụ nơi cõi tâm linh và chứa đựng Hiện diện TA LÀ của con. Phần thấp rung động trong quang phổ tần số của vũ trụ vật chất, và chính qua phần thấp này mà con tự biểu đạt trong thế giới vật chất. Con hãy so sánh với con số “8”, hình số tám. Phần trên hình số tám ở cõi tâm linh, phần dưới ở trong cõi vật chất, và cái Ta Biết thì ở giữa, ngay điểm gặp gỡ, điểm eo. Chốc nữa thày sẽ cho con lời dạy chi tiết hơn về phần thấp của quả cầu cái ta của con, nhưng ngay bây giờ khái niệm quan trọng là cái Ta Biết điều khiển ánh sáng của Hiện diện TA LÀ để ánh sáng chảy xuyên qua một ý niệm bản sắc mà nó xây dựng. Ý niệm bản sắc này có thể dựa trên bất cứ gì cái Ta Biết đã cho phép đi vào phần thấp của quả cầu cái ta. Con có thể xây dựng ý niệm bản sắc này trên tảng đá của Ki-tô, tức cá thể neo trụ nơi Hiện diện TA LÀ, hay trên cát lún của tâm thức nhị nguyên.

Đây là tại sao cái Ta Biết có khả năng trở thành nhiều hơn hay ít hơn những gì con đã được sinh tạo. Con có thể hoặc khuếch trương cá thể mà Thượng đế đã ban cho con, hoặc xây dựng một bản sắc kém hơn những gì ngài hình dung cho con. Con có quyền tự do chọn bất cứ gì, nhưng con sẽ không tránh khỏi trải nghiệm những gì con đã chọn. Con sẽ nhìn thấy thế giới qua phin lọc của ý niệm bản sắc mà con xây dựng, và con sẽ tự biểu đạt theo bản sắc này. Bản sắc của con sẽ định đoạt những gì con phóng chiếu vào tấm gương vũ trụ, và tất nhiên điều này sẽ định đoạt những gì được phản chiếu cho con.

5.2. Con có quyền chọn cái ta của con bất cứ lúc nào

Vậy chúng ta có ba khía cạnh của bản thể con. Chúng ta có phần cao của quả cầu cái ta, và phần này được lấp đầy bởi Hiện diện TA LÀ của con. Cái ta tâm linh này chứa đựng bàn mẫu thiêng liêng của con, là cá thể do Đấng Sáng tạo của con quy định và được ghi lại mãi mãi trong Tâm Ki-tô Hoàn vũ. Sau đó chúng ta có cái Ta Biết, nằm ngay điểm eo giữa hai phần cao và thấp của quả cầu cái ta. Và chúng ta có phần thấp của quả cầu cái ta, là phần cái Ta Biết sử dụng để tự biểu đạt trong thế giới vật chất. Trong phần thấp này có ý niệm bản sắc của con cư ngụ, là cuộn phim qua đó con phóng chiếu hình ảnh lên màn hình của cuộc sống, lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Tương tự như khoảng trống không, phần thấp bình chứa cái ta của con vẫn chưa đầy khi dòng sống của con bước vào hiện hữu. Vẫn còn chỗ trống, và nhiệm vụ của con chính là khiến nó đầy. Vấn đề đặt ra là con – nghĩa là cái Ta Biết – sẽ cho phép những gì đi vào bình chứa cái ta? Thượng đế đã cho con tự do hoàn toàn để chọn cách mình sẽ xây dựng ý niệm bản sắc của mình như thế nào.

Quyền tự do này là cơ hội tuyệt hảo để con trở thành nhiều hơn những gì con được sinh tạo, để xây dựng trên nền tảng mà Thượng đế đã thiết lập, để là nhiều hơn một con rô-bốt. Con làm được vậy bằng cách thể hiện ý niệm cái ta của mình trong thế giới hình tướng. Bằng cách diễn đạt khả năng sáng tạo của mình và chứng kiến kết quả, con bồi thêm nội dung cho bình chứa cái ta. Khi con làm vậy trong sự hòa hợp với định luật Thượng đế, con sẽ chỉ bồi đắp những yếu tố bền vững, bất diệt vào bình chứa cái ta. Những yếu tố này con có thể chuyển lên phần trên của quả cầu cái ta, và chúng được lưu trữ trong tâm Ki-tô – mà Giê-su từng gọi là kho báu của con tích lũy trên thiên đàng (Matthew 6:20).

Vì con có quyền tự quyết, con cũng có thể dùng khả năng sáng tạo của mình theo một cách lạc điệu với định luật cùng ý định sáng tạo của Thượng đế. Khi con làm vậy, con cũng sẽ bỏ thêm gì đó vào bình chứa cái ta nhưng cái này sẽ ở lại trong phần thấp của quả cầu. Con bỏ vào những yếu tố hữu diệt không có tồn tại vĩnh cửu. Vì vậy mà con có thể tạo ra một cái ta hữu diệt, một ý niệm cá thể kém hơn những gì Thượng đế đã cho con khi dòng sống của con lần đầu tiên bước vào hiện hữu.

Cốt lõi của bản sắc con, cái Ta Biết, độc lập với những nội dung có mặt hay không có mặt trong bình chứa cái ta. Cái Ta Biết có thể tồn tại độc lập với cái ta bất diệt lẫn cái ta hữu diệt, có nghĩa đó là một trạng thái nhận biết thuần khiết hoàn toàn tự đủ. Về việc biểu đạt khả năng sáng tạo của con trong thế giới hình tướng, cái Ta Biết không thể làm chuyện này một mình. Để tự biểu đạt, cái Ta Biết phải để cho ánh sáng của nó rọi chiếu qua nội dung bình chứa cái ta, vì chính nội dung này sẽ định đoạt những hình ảnh được chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Cái Ta Biết là một trạng thái nhận biết thuần khiết tự biểu đạt xuyên qua một ý niệm cái ta đang có mặt trong quả cầu cái ta của nó. Cái Ta Biết có thể biểu đạt qua cái ta bất diệt hay cái ta hữu diệt, tùy theo con đồng hóa với cái ta nào vào lúc đó.

Vì cái Ta Biết có thể tồn tại độc lập với cái ta bất diệt hay cái ta hữu diệt, có thể nói là nó không có ý niệm cá thể cố định nào, ý niệm bản sắc cố định nào. Cái Ta Biết là Bản thể thuần khiết của Thượng đế tập trung vào con như một sinh thể cá biệt, nhưng nó có tiềm năng đồng hóa với bất cứ gì. Nó được tạo ra như một thái cực đối với cái ta bất diệt của con, nhưng nó có thể đồng hóa với bất cứ gì nó chọn, kể cả cái Tất cả của Bản thể Thượng đế, cái ta bất diệt của con, cái ta hữu diệt của con hay bất cứ gì khác trong thế giới hình tướng. Cụ thể, nó có thể tự đồng hóa là một hòn đá nếu nó chọn như vậy. Cái Ta Biết là trụ sở của quyền tự quyết của con, trụ sở của khả năng chọn lựa của con. Con là những gì con xem mình là, con là những gì con chọn mình là – và con có thể thay đổi chọn lựa này bất cứ lúc nào.

Cái Ta Biết phải tự biểu đạt xuyên qua một ý niệm cái ta nào đó, một ý niệm bản sắc cá nhân nào đó. Như thày vừa trình bày qua phúng dụ máy chiếu phim, phải có một cuộn phim để ánh sáng có thể rọi qua hầu có những hình ảnh khác biệt được chiếu lên màn hình. Hình ảnh trên cuộn phim là các đặc tính cá nhân, các tin tưởng và hình ảnh về bản thân có mặt trong bình chứa cái ta. Cái Ta Biết giống như người điều khiển máy chiếu quyết định cuộn phim nào được đặt vào máy. Con đã được sinh tạo như một cái ta bất tử, và con có thể bồi đắp cho cái ta bất tử này bằng cách biểu đạt chính mình qua những hình ảnh đồng điệu với quy luật Thượng đế. Nhưng ở một thời điểm trong quá khứ, cái Ta Biết đã quyết định thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, và nó đã cắn vào quả trái của hiểu biết về thiện ác. Khi nó làm vậy thì nó đã bỏ vào bình chứa cái ta một số nội dung, và nội dung này thì dựa trên “sự thật” tương đối khởi lên từ tâm phản Ki-tô.

Lúc đầu, các yếu tố nhị nguyên không đến nỗi ảnh hưởng biểu đạt sáng tạo của con hay cảm nhận mình là ai. Chúng chưa thể che khuất hay làm lu mờ cái ta bất diệt của con. Nhưng khi con cứ tiếp tục thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, con càng ngày càng bỏ thêm nhiều nội dung hữu diệt vào bình chứa cái ta, và lần hồi chúng bắt đầu che phủ cái ta bất diệt. Điều này khiến con trở thành một ngôi nhà phân rẽ với chính nó, xong khi con ngày càng phân rẽ hơn, cái Ta Biết bắt đầu đặt trọng tâm nhiều hơn vào ý niệm cái ta nhị nguyên. Điều này củng cố cho cái ta hữu diệt và bồi thêm nhiều nội dung nhị nguyên hơn nữa. Tất cả trở thành một vòng xoắn ốc hướng hạ, rốt cuộc dẫn đến một điểm tới hạn khi cái Ta Biết quyết định là, quả thực, mình là một sinh thể thế phàm hữu diệt thay vì một Sinh thể tâm linh bất diệt đang tự biểu đạt qua một hình tướng hữu diệt.

5.3. Con ở trong Nước Trời ngay lúc này

Cái Ta Biết sẽ luôn luôn là cái gì nó nghĩ nó là. Bất cứ lúc nào, cái Ta Biết cũng có thể lấy quyết định thay đổi ý niệm bản sắc của nó. Cái Ta Biết là sự cá thể hóa (individualization) của Bản thể Thượng đế, và Thượng đế đã tiết lộ cho Mô-sê tên gọi: “Ta sẽ là cái Ta sẽ là,” có nghĩa là Thượng đế giữ quyền thăng vượt chính mình mọi lúc và bất cứ lúc nào. Tương tự như thế, con cũng có quyền thay đổi bản sắc của con bất cứ lúc nào, và con có quyền tự thăng vượt hay tự thoái hóa.

Con có thể đã xây dựng một cá thể rất công phu phức tạp dựa trên các hình ảnh và tin tưởng nhị nguyên. Con có thể đã đồng hóa với cái ta hữu diệt đó suốt nhiều kiếp trước. Con có thể đã quên mất mình là một sinh thể tâm linh, mình có một cái ta bất diệt. Thậm chí con có thể tin rằng con không có cách chi thay đổi được ý niệm cái ta của mình hay vượt xa hơn cái ta hữu diệt. Bí ẩn thực sự của cuộc sống là, bất cứ lúc nào, con – nghĩa là cái Ta Biết – là cái con nghĩ con là. Bất cứ lúc nào con cũng có quyền năng xoay chuyển cảm nhận mình là ai. Ngay lúc này đây, con có sức mạnh của quyền tự quyết để quyết định một cách ý thức là con không còn tự đồng hóa với một sinh thể thế phàm hữu diệt nữa, mà con chấp nhận sự thật con là một sinh thể tâm linh bất diệt chỉ đang tạm thời biểu đạt chính mình qua một hình dạng hữu diệt.

Có một sự phân biệt vi tế ở đây. Thày đã nói với con về khái niệm đường tu và thày đã so sánh với một cầu thang hình xoắn ốc. Cầu thang xoắn ốc có nhiều bực riêng biệt, mỗi bực tượng trưng cho một quyết định dựa trên tâm thức nhị nguyên. Khi con đi xuống một bước, con đã lấy quyết định chấp nhận một lời dối nhị nguyên nào đó và bỏ nó vào nội dung bình chứa cái ta của con, con biến nó thành một thành phần của cái ta hữu diệt của con. Điều này chuyển đổi cái ta đi chút xíu, và con rời xa hơn cái ta bất diệt, con dấn sâu hơn vào cái ta hữu diệt. Để đi lên cao hơn bực thang đó, con phải nhìn thấu ảo tưởng nhị nguyên đó và quyết định bỏ nó lại đằng sau, bằng cách chấp nhận sự thật của Ki-tô sẽ thay thế lời dối của phản Ki-tô, và như vậy con thoát khỏi ảo tưởng.

Hầu hết mọi người trên trái đất đã bước xuống nhiều bực trên chiếc cầu thang dẫn vào tâm thức nhị nguyên. Từ vị trí con đang đứng, thật không có đường tắt nào sẽ đưa con trở lên ý niệm cái ta bất diệt bằng một bước nhảy duy nhất. Không có cách nào mà tránh né tiến trình thay thế các chọn lựa nhị nguyên bằng chọn lựa dựa trên tảng đá của tâm thức Ki-tô. Làm như vậy sẽ tước đi quyền tự quyết của con và cắt ngang toàn bộ mục đích của sáng tạo, cụ thể là con tăng triển qua các chọn lựa mà con lấy. Nếu con đã bước xuống một số bực thang trên cầu thang xoắn ốc, con chỉ có thể đi lên bằng cách bước lên từng bực và thay thế ảo tưởng mà bực này tượng trưng bằng sự thật Ki-tô. Con phải làm điều này qua những chọn lựa ý thức mà chỉ có con mới có thể lấy.

Mỗi bước con đã đi xuống cầu thang xoắn ốc tượng trưng cho một lời dối nhị nguyên mà con đã bỏ vào bình chứa cái ta. Các lời dối này đang nằm trong bình chứa đó và chúng sẽ nằm yên ở đó cho tới khi con giải quyết chúng qua những chọn lựa tốt hơn. Cái Ta Biết có một nhận biết độc lập so với nội dung bình chứa cái ta. Ngay lúc này, con có thể chọn tái nối kết nhận biết ý thức của mình với cảm nhận thuần khiết của Bản thể con, với ý niệm nhận biết thuần khiết, với ý niệm cái ta thuần khiết mà con vốn thực là. Ý niệm cái ta thuần khiết của con đã không hề biến đổi khi con chọn tạo ra một cái ta hữu diệt và tạm thời đồng hóa với nó. Ý niệm cái ta thuần khiết của con vẫn hiện hữu trong dạng nguyên thủy của nó, và con có khả năng xoay chuyển ý niệm bản sắc để rời xa cái ta hữu diệt về hướng cái ta bất diệt. Đây là ý nghĩa thực trong lời dạy của Giê-su rằng một người phải tái sinh về mặt tâm linh, phải tái sinh trong Tánh linh (John 3:5) để có thể bước vào Nước Trời.

Mọi thứ đều được tạo thành từ chất liệu của Thượng đế, từ Bản thể của ngài. Đấng Sáng tạo ở trong mọi thứ đã được tạo thành, mọi thứ trong thế giới hình tướng. Thượng đế ở ngay đây với con ngay lúc này, ngài có mặt ở mọi nơi, và do đó vương quốc Thượng đế thực sự đang ở đây với con. Nếu con sẵn lòng, con có thể xoay chuyển ý niệm cái ta của con, ý niệm bản sắc của con, để chấp nhận con đang ở trong Nước Trời rồi, ngay lúc này. Điều này sẽ không lập tức thay đổi nội dung bình chứa cái ta. Cũng không có nghĩa là con có thể lập tức thể hiện trong thế gian này cái ta bất diệt của con, cá thể thiêng liêng của con. Con vẫn mang cái ta hữu diệt, cá thể người phàm đang che mờ cá thể thiêng liêng của con. Con vẫn phải đi qua tiến trình vứt bỏ, một cách quy củ, các lời dối nhị nguyên đang cấu thành cái ta hữu diệt hầu con có thể tỏ lộ cái ta thiêng liêng của mình.

Nhưng khi đi qua tiến trình này, con không phải tiếp tục đồng hóa với cái ta hữu diệt. Con không phải tiếp tục nghĩ rằng, một cách nào đó, con không xứng đáng hay không có khả năng bước vào vương quốc Thượng đế vì con có cái ta hữu diệt này. Con không cần phải cảm thấy mình bị đày khỏi Nước Trời, đày khỏi Vườn Eden, và mình sẽ không thể bước vào Vườn cho tới khi mình sạch hết cái ta hữu diệt. Khi Giê-su nói rằng Nước Trời ở trong con, thày thực sự muốn nói Nước Trời là một trạng thái nội tâm, một trạng thái tâm thức. Thày muốn nói Nước Trời sẽ biểu hiện trong đời con khi cái Ta Biết tự đồng hóa ở trong Nước Trời. Ý niệm bản sắc này độc lập với nội dung bình chứa cái ta. Con có khả năng dời chuyển ý niệm cái ta xa khỏi một con người thế phàm bị tước mất sự sống dồi dào, bị chia cách khỏi Nước Trời. Con có khả năng xoay chuyển ý niệm cái ta và chấp nhận mình là một sinh thể tâm linh, và không gì trong thế gian này có thể lấy đi bản sắc thực của mình. Con có thể chấp nhận là con đang ở trong Nước Trời ngay lúc này.

5.4. Mất cái ta hữu diệt, con được cái ta bất diệt

Con là một người tìm cầu tâm linh, và con vẫn biết con là nhiều hơn xác thân vật lý của con. Có một sinh thể lớn hơn, mà hầu hết mọi người đều gọi là linh hổn nhưng thật ra là cái Ta Biết. Cái Ta Biết tạm thời mặc vào cơ thể vật lý giống như thân con mặc vào một chiếc áo choàng. Cái ta hữu diệt mà con đã tạo ra có thể so với thân thể vật lý của con. Nó không phải là cái ta thực của con y như thân thể không thực là con. Nó chỉ đơn giản là một chiếc áo choàng mà cái ta thực của con đang mặc ngay lúc này. Con không thể lập tức vứt bỏ cái ta hữu diệt đó đi vì nó phải được giải thể từng bước một, từng quyết định một. Nhưng con có thể lập tức vứt bỏ ý niệm rằng con bị giam cầm, bị kẹt cứng trong cái ta hữu diệt. Bất cứ lúc nào con cũng có thể quyết định bước đến cánh cửa nhà tù, kéo tay nắm và nhận ra là mặc dù cánh cửa có rất nhiều ổ khóa khác nhau, kỳ thực nó không khóa gì hết. Bất cứ lúc nào con cũng có thể mở cửa ra và được tái sinh vào một ý niệm bản sắc mới, rằng con đang đứng ngoài nhà tù.

Có một sự khác biệt to lớn và cơ bản giữa việc nhìn cuộc đời từ bên trong nhà tù cái ta hữu diệt và nhìn cuộc đời từ bên ngoài nhà tù. Khi con nhìn cuộc đời từ bên trong nhà tù, con tưởng rằng con, nghĩa là cái Ta Biết, bị giới hạn trong nhà tù. Khi con nhìn cuộc đời từ bên ngoài nhà tù, con thấy rõ cái Ta Biết nhiều hơn nhà tù gấp bội. Con có thể so sánh nhà tù này với một cái hộp to bằng căn nhà, xây cất bằng gạch với một cánh cửa bằng thép. Khi con ở trong hộp, con tưởng thế giới là một cái hộp bằng gạch. Khi con ở bên ngoài, con thấy rõ bình chứa cái ta lớn hơn hộp rất nhiều. Hộp vẫn hiện hữu trong bình chứa cái ta của con nhưng con không bị hạn chế trong đó.

Thày nói điều này cho con vì mấy lý do. Một lý do là vì nếu con có thể chấp nhận ý niệm bản sắc rộng lớn hơn của con và được tái sinh trong cái ta lớn này, con sẽ lập tức bắt đầu cảm thấy một sự nối kết chặt chẽ hơn với cái Tất cả của Thượng đế. Điều này sẽ khiến đường tu của con vui thú hơn rất nhiều, an bình hơn rất nhiều. Cũng từa tựa như thay vì con có món nợ và cảm thấy mình không có đồng nào tiêu pha, thì con dư giả tiền bạc cất trong ngân hàng.

Thày cũng nói điều này với con vì một lý do rất thực tiễn. Khi con ở trong hộp bằng gạch, con nghĩ đó là cái ta thực của con, cá thể thực của con. Trong tiềm thức, con biết con là một sinh thể tự nhận biết đúng lý phải đồng-sáng tạo qua việc biểu đạt cá thể của mình. Con không thể chịu nổi ý nghĩ mình không có cá thể nào để biểu đạt. Nếu con cho rằng cái ta hữu diệt là cá thể duy nhất của mình, thì con sẽ dính mắc tình cảm với mỗi khía cạnh của cái ta hữu diệt đó, với mỗi viên gạch của cái hộp đó. Nếu một vị thày tâm linh đến bảo con là con phải vứt bỏ một viên gạch đi, con sẽ không chịu hay không thể làm được vậy, vì con có cảm tưởng là nếu con buông một phần của cái ta hữu diệt thì con cũng đánh mất một phần cá thể của mình. Sự phân biệt vi tế là cái ta hữu diệt hoàn toàn dựa trên, được xây bằng lời dối nhị nguyên từ tâm phản Ki-tô. Mỗi lời dối như vậy là một viên gạch cấu tạo cái hộp đang giam giữ con. Để loại bỏ cái hộp khỏi bình chứa cái ta, con phải đục bỏ từng viên gạch một cách hệ thống và quăng nó đi. Với mỗi viên gạch con vứt bỏ, con thăng lên một bực trên cầu thang xoắn ốc.

Nếu con nhìn cuộc sống từ bên trong hộp, con sẽ nghĩ mỗi viên gạch là một phần không thể thiếu, không thể thay thế của cá thể thực của con. Nếu con mất tất cả gạch, con sẽ là con số không, con sẽ là một vỏ rỗng, con sẽ là một lỗ đen không chút cá tính. Nỗi sợ lớn nhất của bất kỳ sinh thể tự nhận biết nào là đánh mất ý niệm bản sắc của mình, cho nên con sợ buông ra các lời dối nhị nguyên mà con tưởng là một phần của cá thể con. Đây chính là điều sẽ biến đường tu thành một cuộc vật lộn, một con Đường Thương khó, khi tâm vỏ ngoài tìm cách cưỡng ép tâm tiềm thức phải buông bỏ một viên gạch của cái hộp. Tâm tiềm thức bám chặt lấy viên gạch đó như là chuyện sống chết, và đây là điều tâm tiềm thức, cái ta hữu diệt của con tin chắc như vậy. Đây là vì sao quá nhiều người, cả trong đạo Cơ đốc lẫn các đạo khác và phong trào Thời mới, luôn luôn vật lộn trong một trận chiến gian nan liên tục. Với tâm vỏ ngoài, họ nhận ra là họ cần thay đổi đời họ, và họ đã dùng một giáo lý tâm linh vỏ ngoài nào đó để tạo dựng một tâm ảnh về con người mà họ cần là hầu được cứu rỗi, hay trở thành con người tâm linh mà họ muốn trở thành. Tâm vỏ ngoài tìm cách ép uổng tâm ảnh này lên tâm tiềm thức, hầu tâm ảnh có thể thay thế ý niệm cái ta hiện thời của họ. Phần tiềm thức trong tâm họ cưỡng lại chuyện này, vì vậy trong bản thể họ luôn luôn có sự vật lộn, một cuộc chiến biến họ thành một ngôi nhà phân rẽ với chính nó, một ngôi nhà xây trên cát. Đây là tại sao nhiều người tìm kiếm tâm linh cảm thấy mình tiến bộ rất ít, tại sao mình cảm thấy như thể mỗi lần mình tiến lên một bước thì có gì đó kéo mình trở ngược lại một hai bước.

Con có quyền tự quyết, cho nên con hoàn toàn có quyền tiếp tục vật lộn cho đến hết kiếp, thậm chí trong nhiều kiếp sống, nếu đó là điều con muốn. Thày không có mong muốn bảo con phải bước theo đường đời của con như thế nào. Nhưng thày mong muốn nói với con là đường tu tâm linh, con đường đến sự sống dồi dào, con đường đến cứu rỗi và sự sống vĩnh cửu, không cần phải là một cuộc vật lộn. Con có khả năng bước ra ngoài cái hộp của cái ta hữu diệt. Khi con bước ra ngoài, con thấy và con biết con là nhiều hơn cái ta hữu diệt. Con vẫn còn cái hộp bằng gạch đó trong bình chứa cái ta, nhưng vì con biết con là nhiều hơn hộp, vì con nhìn thế giới từ ngoài hộp, con không còn dính mắc tình cảm nào nữa với từng viên gạch cấu thành cái hộp. Con thừa biết là nếu con vứt bỏ một viên đi, con không hề mất ý niệm bản sắc của con. Vứt bỏ một viên gạch không còn là vấn đề sinh tử nữa. Con không cần đánh nhau để cố giữ gạch vì con biết chúng không là một phần của con người thực của con. Khi con ngộ ra sự thật này, việc buông bỏ các viên gạch dễ hơn quá đỗi. Giờ đây con có thể buông chúng nhanh hơn gấp bội, với ít khổ não và đau đớn hơn gấp bội. Thay vì cảm thấy như thể mình sắp chết mỗi khi mình bỏ một viên gạch, con cảm thấy con sắp được sống dồi dào hơn với mỗi viên gạch mà con vứt bỏ, với mỗi viên gạch không còn nặng gánh trên hành trình leo núi của con.

A con yêu dấu, con có cảm được sự khác biệt to lớn điều này sẽ đem lại trong đời con? Con có cảm được là chỉ bằng một bước tái sinh tâm linh, con có thể xoay chuyển mọi chuyện trong đời mình? Khi con đi qua ngưỡng cửa nhà tù và bước ra ngoài cái ta hữu diệt của mình, mọi chuyện trong đời con sẽ thay đổi – trong nghĩa đen. Cách con nhìn mọi thứ sẽ thay đổi. Toàn bộ quan điểm của con về cuộc sống sẽ thay đổi trong bản chất, tầm nhìn của con về cuộc đời sẽ khuếch đại muôn phần. Mặc dù sự mở rộng này có thể là một thay đổi to lớn lúc đầu, con sẽ nhanh chóng bắt đầu cảm thấy là mình đã về nhà và mọi chuyện đúng ra phải như thế này. Ý niệm cái ta tự nhiên của con chính là sinh thể tâm linh thuần khiết mà con là. Thật không tự nhiên chút nào khi ý niệm cái ta bị giam trong một cái hộp nhỏ xíu bằng gạch, cho nên khi con bước ra ngoài hộp, cụ thể con sẽ cảm thấy như mình về nhà. Và quả thực con đã về nhà, con đã về nhà là vương quốc của Cha con, tức là ý niệm cái ta mà Cha con đã dành sẵn cho con ngay từ ban đầu.

5.5. Cảm nhận vật lộn đã tạo ra cuộc vật lộn

Con yêu dấu, thày không biết có thể nói gì hơn để thuyết phục con những lời này là sự thật. Khi thày nhìn loài người như thày đã quan sát suốt 2000 năm qua và hơn nữa, thày thấy được là hầu hết mọi người trên hành tinh đều kẹt cứng trong những chiếc hộp nhỏ xíu bằng gạch. Mỗi người đã giới hạn ý niệm cái ta của mình trong chiếc hộp nhỏ cấu tạo cái ta hữu diệt của họ. Một số còn không biết là có một cánh cửa. Một số khác biết là có cửa nhưng họ tin chắc là cửa bị khóa, và họ không buồn bỏ công ra để thử xem chuyện này có thật hay không. Họ tin là họ không có cách chi thoát ra khỏi hộp. Một số còn tin là họ không có nhu cầu trốn thoát – họ đã tôn cái ta hữu diệt, và trong một số trường hợp ông hoàng của thế gian, lên làm kẻ cai trị đền thờ của họ. Một số đã thức tỉnh là họ có thể mở các ổ khóa để cuối cùng mở cửa, nhưng họ vẫn tin là họ sẽ bị kẹt bên trong cho đến khi ổ khoá cuối cùng được mở.   

Thày đã hợp nhất với tâm thức cùng Bản thể của khía cạnh Mẹ của Thượng đế. Như Giê-su đã nói: “Và vua phán, mỗi lần các con làm như vậy cho người anh em bé nhỏ nhất của ta, thì các con đã làm cho chính ta vậy” (Matthew 25:40). Là Mẹ Thượng đế, thày cảm thấy cùng một tình thương cho mỗi người và mọi người trên trái đất này. Thày không mong gì hơn được nhìn thấy mỗi người và mọi người trong các con thoát ra khỏi nhà tù đang giam con trong bóng tối. Thày không mong gì hơn nhìn thấy con mở cửa nhà tù và chạy ra ánh nắng rực rỡ, lòng tràn ngập niềm tự do quá mới đến độ con bật cười, hét lên sung sướng, chẳng khác gì trẻ nhỏ chạy vui trên đồng cỏ nở hoa trong ánh nắng rực rỡ của ngày xuân đầu tiên.

Mong muốn lớn nhất của thày là được thấy mọi người thoát khỏi nhà tù của tâm mình, thoát khỏi những cái hộp nhỏ bằng gạch, và ngộ ra mình thực sự là ai. Thày không muốn thấy con người cố leo lên cầu thang xoắn ốc mà mỗi bực phải giao chiến với con rồng của cái ta hữu diệt, giống như thánh George đánh nhau với rồng vậy. Thày muốn thấy con tách mình ra khỏi, tách cái Ta Biết ra khỏi cái ta hữu diệt để con có thể bước lên mỗi bực trên cầu thang xoắn ốc với niềm vui, với cảm giác an bình đến từ sự nhận biết rằng những gì con bỏ lại đều là không thực. Đây là niềm vui biết rằng mỗi lần con buông bỏ một lời dối nhị nguyên thì con cũng tiến một bước gần hơn trạng thái tự do biểu hiện cá thể thiêng liêng của mình.

Khi con biết điều này thì việc buông bỏ các hạn chế cũ, buông bỏ ý niệm cái ta hữu diệt, sẽ không gắn liền với nỗi sợ mất mát mà gắn liền với niềm vui thu hoạch. Thay vì cảm thấy mình bị mất gì đó, con nhận ra là kỳ thực con đang được gì đó – ý niệm cái ta cũ được thay thế bằng một ý niệm cái ta lớn hơn, đẹp hơn. A con yêu dấu, chính cảm nhận vật lộn đã tạo ra cuộc vật lộn, và cảm nhận vật lộn thì khởi lên từ sự dính mắc tình cảm của con với cái ta hữu diệt. Dính mắc này khởi lên từ nỗi sợ rằng nếu con mất đi một phần của cái ta hữu diệt, con sẽ không có gì để thay vào chỗ đó. Đây là một niềm tin chỉ có mặt khi con nhìn cuộc đời từ bên trong chiếc hộp cái ta hữu diệt. Ngay khi con mở cửa tù ra và bước vào ánh nắng rực rỡ của Hiện diện TA LÀ của con, con sẽ thấy là khi con thay thế một phần của cái ta hữu diệt, khi con buông bỏ một phần của cái ta hữu diệt, con sẽ làm lộ ra phần tương ứng của cái ta bất diệt từng bị ảo tưởng hữu diệt che mờ. Con không mất gì hết trong quá trình này, mà con chỉ được một cái gì đẹp hơn, sáng giá hơn vô lượng – và đây chính là ý nghĩa thật sự của sự sống dồi dào. Con có thể có tất cả của cải trên thế gian, nhưng chừng nào con còn kẹt trong chiếc hộp của cái ta hữu diệt, con sẽ không bao giờ có được sự sống dồi dào, con sẽ không bao giờ thoát khỏi nỗi sợ thiếu thốn. Đây là ý nghĩa thật sự của lời dạy của Giê-su: “Người nào được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình thì có ích gì?” (Mark 8:36). Chỉ có một cách để đạt sự sống dồi dào, đó là bước ra ngoài chiếc hộp của cái ta hữu diệt, và nhờ vậy con tìm được sự dồi dào mà Thượng đế cho con miễn phí, vì ngài rất vui lòng ban cho con vương quốc của ngài.

Việc bỏ lại một đồng của cái ta hữu diệt thật là đáng tiền vì thay vào đó con nhận được bạc triệu của cái ta bất diệt. Con trở nên sẵn lòng, thậm chí con còn háo hức muốn phơi bày những lời dối của cái ta hữu diệt. Con trở nên sẵn lòng với tới sự thật của tâm Ki-tô sẽ thay thế lời dối của tâm phản Ki-tô. Con đã khắc phục nỗi sợ không dám xem xét các ảo tưởng của phản Ki-tô. Con không còn sợ việc phơi trần các lời dối nhị nguyên của cái ta hữu diệt vì con không còn đồng hóa với chúng nữa.

5.6. Con có khả năng là Ki-tô Hằng sống

Điều ngăn cách con với sự sống dồi dào chỉ là một sự xoay nhẹ chiếc la bàn của nhận thức, la bàn của cái ta. Con cần dời ý niệm cái ta xa khỏi cái ta hữu diệt và chấp nhận cái Ta lớn hơn mà con là. Một khi con đã xoay chuyển như vậy, con đường đi lên trở nên dễ dàng vì giờ đây con nhận ra với Giê-su: “Ách của ta dễ chịu, gánh của ta nhẹ nhàng” (Matthew 11:30). Đó là khi con khắc phục nỗi sợ ngăn cản hầu hết mọi người thực hành một trong những câu quan trọng nhất của Giê-su. Có lẽ con nhớ Giê-su có nói: “Nếu ai muốn đi theo ta thì hãy từ bỏ chính mình, hãy vác thập tự giá của mình mà đi theo ta” (Matthew 16:24). Nhiều tín đồ Cơ đốc đã đọc câu này mà không hiểu được ý nghĩa, cho nên họ đã nhắm mắt làm ngơ hay đã bác bỏ nó với một đường lý luận nhị nguyên.

Khi Giê-su bảo từ bỏ chính mình, thày muốn nói đến những người đã tự đồng hóa với cái ta hữu diệt. Cái ta mà con từ bỏ để đi theo Giê-su không phải là cái ta thực; đó là cái ta hữu diệt. Con từ bỏ nó bằng cách chối bỏ nó là cái ta thực, bằng cách chối bỏ niềm tin là nó có bất kỳ uy quyền gì trên con, bằng cách chối bỏ ảo tưởng là cái ta hữu diệt có thể ngăn con đi theo Ki-tô. Con nhận ra và chấp nhận sự thật là cái ta hữu diệt, mà chúng ta có thể gọi là kẻ thù bên trong, lẫn các thế lực của thế gian này, mà chúng ta có thể gọi là kẻ thù bên ngoài, không thể nào ngăn con đi theo Ki-tô. Không gì có thể ngăn chặn con, ngoại trừ những gì con cho phép cản đường con do con đồng hóa với nó hay sợ không dám nhìn nó.

Bây giờ con cũng có thể nhìn ra ý nghĩa câu “hãy vác thập tự giá của mình và đi theo Ki-tô”. Thập tự giá là một biểu tượng cho cái ta hữu diệt được cấu tạo bởi nhiều lời dối nhị nguyên mà con đã dần dà chấp nhận. Chúng hình thành một cấu trúc trong thế giới vật chất, và cái Ta Biết bị đóng đinh – bị giữ mải mê – vào cây thập tự. Thập tự giá có bốn nhánh, và như thày sẽ giải thích chốc nữa, điều này tượng trưng cho bốn tầng cấp của dải tần số vật chất mà chúng ta có thể gọi là bốn thể phàm của con. Mỗi thể phàm đã bị các lời dối nhị nguyên làm cho ô nhiễm. Vác thập tự giá của mình có nghĩa là con sẵn lòng tham gia vào tiến trình thanh lọc một cách hệ thống mỗi thể phàm của con cho không còn lời dối nhị nguyên nào khởi lên từ tâm phản Ki-tô. Khi con khắc phục các lời dối này, khi con khắc phục cho đến kẻ thù cuối cùng của cái chết – bởi vì con cho phép cái ta hữu diệt của con được chết trên cây thập tự – con sẽ được phục sinh vào sự sống bất diệt của tâm thức Ki-tô. Con sẽ không còn là một người đi theo Ki-tô nữa, mà con là Ki-tô Hằng sống ngay nơi con đang đứng. Như Giê-su đã chứng tỏ, con có khả năng là Ki-tô Hằng sống ngay đây trên trái đất.

Khi con đạt được trạng thái tâm thức này, con không còn đi theo đường tu tâm linh với mục đích tăng triển cá nhân mình nữa. Giờ đây con đã đạt được sự nhận biết lớn hơn rằng con là một với tổng thể, với Thân thể Thượng đế trên trái đất. Bằng cách là Ki-tô Hằng sống hiện thân trên trái đất, con có thể phụng sự như một cánh cửa mở để đem ánh sáng Ki-tô vào tâm thức tập thể của nhân loại. Con có thể giúp thanh lọc bốn thể phàm của tâm thức đại chúng, giúp người khác khám phá và đi theo đường tu tâm linh dễ dàng hơn. Khi đó con có thể nói cùng với Giê-su: “Còn ta, khi ta thăng lên khỏi trái đất, ta sẽ kéo mọi người lên cùng ta” (John 12:32).

Đó là lý do Giê-su đã đến địa cầu. Thày đã gánh lấy tội lỗi của thế gian, nhưng đâu là tội lỗi của thế gian? Tội lỗi của thế gian là những lời dối nhị nguyên mà con người đã chấp nhận và bây giờ đã trở thành một thành phần của tâm thức tập thể. Giê-su đã gánh lấy một khía cạnh đặc thù của những lời dối nhị nguyên này, là xu hướng của con người mù quáng đi theo những kẻ cầm đầu mù quáng, các thày giả, những kẻ đã nổi loạn chống lại Thượng đế và đã đến trái đất để đánh lừa loài người hầu chứng minh là họ biết hơn cả Đấng Sáng tạo. Đó là những con rắn, đó là những thế lực của phản Ki-tô đã âm mưu điều khiển loài người trong một thời gian rất dài. Giê-su đã khoác lấy chính xu hướng này, là xu hướng mù quáng đi theo kẻ cầm đầu mà không chịu lãnh trách nhiệm về đời mình và con đường của mình. Suốt 2000 năm qua thày đã gánh lấy tội lỗi đó, trạng thái tâm thức nhị nguyên đó, mong rằng loài người sẽ dùng giáo lý của thày để biểu hiện quả vị Ki-tô của mình, để mài sắc khả năng phân biện cá nhân của mình, hầu nhìn thấu các lời gian dối do các lãnh đạo mù đó chủ xướng.

Vì lãnh đạo mù đã xâm nhập đạo Cơ đốc, hầu hết mọi người vẫn chưa có cái hiểu ý thức về sự hiện hữu của lớp lãnh đạo mù và làm thế nào tâm thức nhị nguyên của họ đã ảnh hưởng mọi khía cạnh cuộc sống trên trái đất. Nếu con không nhận ra là con bị kẹt trong một ảo ảnh thì làm sao con có thể thoát khỏi ảo ảnh đó? Do sứ vụ của Giê-su, hàng triệu người trên trái đất đã được chuẩn bị để có thể rất mau chóng giải thoát mình khỏi ảo ảnh nhị nguyên này và ngộ ra mình đã là người mù quáng đi theo những kẻ cầm đầu mù quáng. Trên hành tinh này có một tiềm năng thực sự cho một sự thức tỉnh hàng loạt, qua đó hàng triệu người sẽ đạt được nhận biết mới về khía cạnh tâm linh của cuộc sống cùng con đường chân chính đến một trạng thái tâm thức cao hơn. Điều này có thể xảy ra một sớm một chiều, và chắc chắn có thể xảy ra trong vòng một chục năm.

Nếu quả thật điều này xảy ra, con sẽ thấy hành tinh này thay đổi sâu đậm. Con sẽ thấy hành tinh địa cầu bước vào một thời đại hoàng kim của tự do lớn hơn, cả tự do vật chất lẫn tinh thần, và của dồi dào lớn hơn, cả dồi dào vật chất lẫn tinh thần. Đây là tiềm năng thật sự của thời đại hôm nay. Đây là một tiềm năng rất gần trở thành hiện thực vật lý, nhưng sẽ không thể là một hiện thực cho đến khi một khối người tới hạn (critical mass) chấp nhận đó là một hiện thực vật lý. Để chấp nhận vương quốc Thượng đế là một thực tại biểu hiện trên trái đất, con phải trước tiên chấp nhận vương quốc Thượng đế như một thực tại trong chính tâm thức và bản thể của con. Mục đích khóa học này không chỉ là để giúp con có được sự sống dồi dào cho con, mà giúp con nhìn ra là con đang ở đây để làm người tiên phong cho một thời đại hoàng kim sẽ đem lại sự sống dồi dào cho mọi người, bằng cách vĩnh viễn trục xuất những kẻ cầm đầu mù quáng – cùng với tâm thức tách biệt và thiếu thốn của họ – ra khỏi hành tinh.

5.7. Hoàn thành sứ vụ của Giê-su

Giê-su có nói: “Ta đã đến thế gian để phán xử, để những ai không thấy thì có thể thấy, còn ai đang thấy thì hóa mù” (John 9:39). Phán xử là một cơ hội để một người đứng trước một chọn lựa có thể chọn là ngày hôm nay mình sẽ phục vụ cho ai. Chọn lựa thực sự là liệu người đó sẽ phục vụ tâm Ki-tô hay tâm phản Ki-tô. Mọi khía cạnh cuộc sống trên hành tinh này đã bị tâm phản Ki-tô ảnh hưởng, với hậu quả là hầu hết mọi người không có chọn lựa nào giữa tâm Ki-tô và tâm phản Ki-tô. Tất cả những gì họ đã được dạy dỗ để tin tưởng đều bị tâm phản Ki-tô chi phối. Làm sao họ có được cơ hội chọn lựa sẽ phục vụ ai đây? Họ sẽ chỉ có được cơ hội này khi họ gặp một người thể hiện được một trình độ quả vị Ki-tô cao hơn họ. Khi gặp người này, họ chợt nhận ra cuộc sống là nhiều hơn, họ nhận ra có một trạng thái tâm thức cao hơn. Đây chính là điều xảy ra khi người đời gặp Giê-su.

Thày đã bước chân với Giê-su rất nhiều lần, và thày đã thấy người ta phản ứng thế nào khi gặp Giê-su. Hiển nhiên là có nhiều loại phản ứng, nhưng thày có thể nói là rất ít người có thể gặp Giê-su bằng xương bằng thịt mà vẫn thờ ơ. Gần như ai ai cũng cảm được có gì đặc biệt nơi Giê-su, không phải là con người vỏ ngoài có gì đặc biệt mà họ cảm thấy Giê-su đã đạt được tâm thức Ki-tô, Giê-su là cánh cửa mở cho Ánh sáng Ki-tô hoàn vũ chiếu rọi vào bóng tối của thế gian. Khi gặp Giê-su, ký ức nội tâm của họ được đánh thức, và giờ đây họ có cơ hội nhìn nhận ký ức nội tâm này và cất bước trên con đường dẫn về nhà. Một số đã chọn phủ nhận ký ức đó hay dùng một đường lý luận nhị nguyên để bác bỏ nó, nhưng ít ra họ đã có một cơ hội.

Khi họ gặp ánh sáng từ cao rọi xuyên qua Giê-su, họ có cơ hội chọn lựa, hoặc quay đầu lại và phụng sự ánh sáng đó, hoặc cứ tiếp tục phục vụ bóng tối của tâm phản Ki-tô. Liệu họ có sẵn lòng nhìn nhận rằng nếu Giê-su đã có thể đạt được quả vị Ki-tô thì có lẽ chính họ cũng có thể? Hay họ sẽ chối bỏ là họ có tiềm năng khoác vào tâm Ki-tô và cho phép tâm này ngụ trong họ vì tâm này cũng ngụ trong Ki-tô Giê-su (Philippians 2:5)? Đây là chọn lựa chân thực mà con người trong thời đại này phải đối mặt. Liệu họ sẽ tiếp tục đi theo các lãnh đạo giả của phản Ki-tô, hay rốt cuộc họ sẽ tách mình ra khỏi nhị nguyên và bước theo sự thật Ki-tô?

Con yêu dấu, con phải đối mặt với chọn lựa này ở mức cá nhân, và thày đã làm tất cả những gì thày có thể nghĩ tới để giúp con dễ chọn lựa hơn, là con chọn chấp nhận tiềm năng Ki-tô của mình, cất bước trên con đường Ki-tô, chối từ cái ta hữu diệt của mình, vác cây thập tự của mình và noi theo gương Giê-su. Khi con đi theo con đường này và khoác vào một phần lớn hơn của quả vị Ki-tô của mình, đến lượt con thật sự trở thành công cụ cống hiến cho người khác cùng chọn lựa đó. Mỗi người đã được Thượng đế phú cho quyền tự quyết, cho nên con và mọi người đều có quyền chối bỏ con đường quả vị Ki-tô hay tiềm năng đi theo con đường này. Dù người khác có chấp nhận hay chối bỏ tiềm năng của họ, đây không phải là quan tâm của con. Vai trò của con là cống hiến cho họ cơ hội chọn lựa, xong con để yên cho họ quyết định họ muốn làm gì với chọn lựa. Để có thể cống hiến chọn lựa cho họ, chính con phải tự thân bước trên con đường này và thể hiện một cấp độ quả vị Ki-tô nào đó cho phép người khác cảm được nơi con có gì khác lạ, rằng con có gì đó mà họ không có. Cái con có chính là ánh sáng lớn hơn của đứa Con Thượng đế (the Son of God), của Mặt trời Thượng đế (the Sun of God).

Khi họ cảm được ánh sáng này, nó sẽ đánh thức lại trong họ ký ức nội tâm là cuộc sống có gì nhiều hơn, và nhiều người trong số họ sẽ nhận chân được ký ức này. Họ sẽ nhìn con và nói: “Bạn không khác tôi bao nhiêu. Nếu bạn có thể trở thành cánh cửa mở cho ánh sáng Thượng đế thì có lẽ chính tôi cũng có thể?” Giê-su đã đến hành tinh này để chứng tỏ qua tấm gương của mình con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân. Vì các thày giả đã thâm nhập đạo Cơ đốc và biến Giê-su thành một thần tượng, rất ít người trên hành tinh đã làm theo gương của thày. Đó là vì sao thời đại hôm nay rất cần đến những người sẵn lòng nhìn thấu giáo điều tôn thờ thần tượng mà thày giả đã xây dựng và thay vào đó bước theo con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân.

Chỉ khi nào hàng triệu người làm như vậy thì trong tâm thức tập thể mới có thể có một sự thức tỉnh. Người ta có thể chấp nhận con đường quả vị Ki-tô vì con đường này được chứng minh cho họ qua tấm gương của những người cũng giống như họ. Quá nhiều người đã lớn lên và được dạy dỗ để thấy Giê-su rất khác mình, và họ không thể nhận ra chính họ trong con người Giê-su. Làm sao họ có thể chấp nhận câu nói của thày rằng những ai tin thày sẽ làm được những công việc thày đã làm (John 14:12)? Làm sao họ có thể xem thày là một tấm gương để noi theo nếu thày quá khác họ – nào thày sinh ra từ một nữ đồng trinh, nào thày chính là Thượng đế ngay từ đầu, nào thày có thể làm tất cả những phép lạ kia mà họ không thể làm?

Âm mưu của các thày giả là phá hoại sứ vụ của Giê-su. Thày đang ở đây, đang trao cho con khóa học này, vì thày yêu con và thày yêu Giê-su. Thày muốn thấy sứ vụ của Giê-su trở thành một chiến thắng trên hành tinh này. Thày muốn thấy điều đó vì tình yêu vô biên của thày cho Giê-su, nhưng xin con chấp nhận là thày không yêu Giê-su nhiều hơn con. Vì tình yêu của thày cho con nên thày cũng muốn thấy con khám phá sự thật về sứ vụ của Giê-su để con có thể bước chân theo và giải thoát mình khỏi tâm phản Ki-tô. Thày muốn con được tự do khỏi kẻ thù bên ngoài tức ông hoàng của thế gian, lẫn kẻ thù bên trong tức cái ta hữu diệt của con.

Tình yêu của thày vô điều kiện, và thày sẽ không chấp nhận bất cứ điều kiện nào giam con lại trong cái ta hữu diệt này. Thày đã đến để trao con một khóa học chứa đựng sự thật có khả năng giải thoát con, nếu con đón nhận nó và cho phép nó tác động giống như chất men sẽ nâng cao toàn bộ tâm thức của con (Matthew 13:33). Nếu con chấp nhận sự thật mà thày cho con, sự thật này quả thực sẽ giải thoát con khỏi mọi lời dối của phản Ki-tô. Đây không chỉ là một lời hứa suông. Đây là thực tế!

Vấn đề hầu hết mọi người phải đối mặt là họ đã lớn lên trong một thế giới đầy rẫy tin tưởng nhị nguyên. Họ sống trong nhà tù con người phàm và họ chưa bao giờ nhìn thấy bất cứ gì bên ngoài nhà tù. Họ sống trong một cái hộp bằng gạch hoàn toàn tăm tối và họ nghĩ không có gì khác hơn bóng tối. Khi con mở cửa tù ra và ánh sáng rực rỡ của mặt trời chiếu rọi qua cánh cửa, ảo tưởng cho rằng chỉ có bóng tối sẽ lập tức tan biến.

Bóng tối không có thực thể trong Thượng đế. Cái gì không có thực chất bất diệt không thể có quyền lực nào trên con vì con là một sinh thể tâm linh bất diệt. Nó chỉ có thể ảnh hưởng con chừng nào con nghĩ nó có thực chất. Ngay khi ánh sáng Ki-tô đi vào bản thể con và xua tan ảo tưởng cho rằng không có gì khác hơn nhị nguyên, con sẽ giải thoát khỏi ảo tưởng đó. Đây không phải là chuyện mơ mộng ao ước, mà là một thực tế con có thể chứng minh bằng cách đi vào một căn phòng tối và bật đèn lên.

5.8. Đem ánh sáng vào bóng tối

Con hãy lưu ý sự khác biệt vi tế ở đây. Mục đích của cuộc sống là đem ánh sáng vào bóng tối của khoảng trống không. Khoảng trống không nguyên thủy không có gì trong đó và vì thế nó tối. Bóng tối này không thiện mà cũng không ác, nó chỉ đơn giản là sự thiếu vắng ánh sáng. Nó không là cùng một thứ với điều con người gọi là ác. Vì con người đã thử nghiệm với quả trái của hiểu biết về thiện ác, cho nên họ đã tạo ra một tình trạng có hai đối cực tương đối che khuất cả ánh sáng của Thượng đế lẫn bóng tối nguyên thủy của khoảng trống không. Loài người, bị cầm đầu bởi lãnh đạo mù là các thày giả, đã bị lừa gạt để mà tạo ra những hình ảnh tương đối, nhị nguyên, của riêng mình về thiện và ác. Ác có vẻ tối tăm và thiện có vẻ sáng sủa, và đó là tại sao Paul mới nói: “Chính Satan cũng hóa thành một thiên thần ánh sáng” (2Corinthians 11:14). Cả hai đối cực tương đối này đều không thể hiện thực chất của ánh sáng Thượng đế lẫn bóng tối của khoảng trống không. Cả hai đều không có thực tế tối hậu nào vì chúng chỉ hiện hữu như những hình ảnh tạm thời được chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật bởi các sinh thể tự nhận biết đang mắc kẹt trong tâm phản Ki-tô.

Vì con người bị lừa dối nên họ đã dần dần tin rằng cái ác là một thực tế hiển hiện, rằng nó tồn tại thực sự như là đối nghịch của Thượng đế. Họ đã dần dần tin rằng những gì được các thẩm quyền tôn giáo hay chính trị định nghĩa là thiện cũng thật sự là thiện trong thực tại của Thượng đế. Đây chẳng qua là một màn ngụy trang. Cả thiện lẫn ác khởi lên từ tâm thức nhị nguyên đều không có thực tế tối hậu nào. Điều con người gọi là ác chỉ đơn giản là một ảo tưởng khi ánh sáng Ki-tô vắng mặt. Ngay cả điều con người gọi là thiện cũng chỉ là cái thiện tương đối, đó cũng là một ảo tưởng khi cái thiện lớn hơn vắng mặt, cái thiện tuyệt đối của tâm Ki-tô. Con người đã bị mắc kẹt vào một trò chơi bất tận dựa trên ảo tưởng là có một cuộc chiến giữa thiện và ác trên hành tinh này. Nhưng trận chiến chỉ diễn ra giữa cái thiện tương đối và cái ác tương đối, và cả hai lực này đều do tâm thức nhị nguyên quy định. Chúng không có thực tế nào, chúng không có lẽ thật nào trong chúng, chúng không có sự sống nào trong chúng. Đằng sau các ảo tưởng này, đằng sau các ảo ảnh hiện ra trong sa mạc, là thực tại của Thượng đế neo trụ hằng thường trong Tâm Ki-tô Hoàn vũ. Tâm thức phản Ki-tô không thật sự đối chọi với tâm Ki-tô vì sự thật Ki-tô không hề có đối nghịch.

Các thế lực phản Ki-tô tin là họ đối nghịch với tâm Ki-tô, nhưng sự đối nghịch này chỉ hiện hữu trong tâm họ. Nó chỉ có thể hiện hữu vì họ bám vào cái ta hữu diệt sinh ra từ sự tách biệt với cái Tất cả. Đối với Thượng đế thì không có thực tế nào trong họ, không có sự sống nào trong họ. Tất cả mọi thứ họ đã gầy dựng trên trái đất giống như Tháp Babel. Họ tìm cách cưỡng chiếm thiên đàng bằng cách xây dựng một tòa tháp cao tới tận trời, nhưng đó chỉ là một ngôi nhà xây trên cát. Chắc chắn nó sẽ sụp đổ vì lực co lại của Đấng Mẹ sẽ hủy diệt nó, y như mọi thứ khác không thẳng hàng với thực tại của Thượng đế cũng bị hủy diệt.

5.9. Bước ra khỏi tâm thức vật lộn

Con có thể tiếp tục trò chơi quanh co, trò chơi nhị nguyên này, qua đó con có thể nghĩ mình là một người tâm linh hay mộ đạo đang rõ ràng chiến đấu về phe Ki-tô bằng cách đánh nhau với các thế lực mà con tin là xấu ác. Kỳ thực con chỉ là một con tốt trong ván cờ nhị nguyên của phản Ki-tô nơi không bên nào đại diện cho sự thật tuyệt đối của Ki-tô. Nhiều người sẽ khó lòng chấp nhận lời dạy này. Họ sẽ khó lòng thừa nhận là những gì họ đã luôn luôn tin tưởng là đại nghĩa cao cả thật ra có thể là một ảo tưởng dựa trên tâm phản Ki-tô. Nhiều người cũng sẽ khó lòng tin rằng một người tâm linh không nên chiến đấu chống lại cái ác của con người. Tại sao con nghĩ Giê-su lại nói: “Nhưng ta nói với con, đừng chống cự cái ác. Trái lại, nếu có ai tát con bên má phải, con hãy quay má trái luôn cho họ” (Matthew 5:39)? Giê-su đang bảo những ai theo thày hãy vươn lên cao hơn trò chơi nhị nguyên của thiện ác tương đối. Khi con chiến đấu với cái ác của con người, con chỉ tự nhốt mình chặt hơn vào trạng thái tâm thức nhị nguyên.

Con có thể tiếp tục trò chơi này cho đến mãn kiếp và thêm nhiều kiếp nữa. Khi con mệt mỏi cuộc đấu tranh bất tận này, thày sẽ ở đó để chỉ cho con thấy là có một cách khác. Có một con đường sẽ dẫn con vượt khỏi cuộc vật lộn nhị nguyên không bao giờ chấm dứt giữa hai thế lực, vì cả hai đều không thuộc về Thượng đế. Có một con đường sẽ dẫn con vượt khỏi mọi cuộc vật lộn bằng cách đưa con vượt khỏi các lực đối chọi và nhập vào cái một của tâm Ki-tô nơi không có phân rẽ, không có khác biệt, không có bóng tối hay biến đổi (James 1:17). Mọi thiện ác tương đối được thay thế bởi ánh sáng thuần đơn của Mặt trời Thượng đế.

Giê-su đã đến để cống hiến loài người con đường này 2000 năm về trước. Giê-su đang ở đây ngày hôm nay để cống hiến con đường này cho con. Như thày vẫn nói: “Ta sẽ ở với con luôn luôn, ngay cả đến ngày tận thế” (Matthew 28:20). Ngày tận thế không có nghĩa là trái đất sẽ không còn tồn tại, như nhiều người Cơ đốc tin tưởng. Ngày tận thế có nghĩa là sự chấm dứt nhị nguyên, sự tận cùng của nền thống trị của nhị nguyên trên hành tinh này. Ngày tận thế có nghĩa là thời điểm có một số người tới hạn thăng lên tâm thức Ki-tô. Họ đòi lại trái đất cho Ki-tô để Thượng đế có thể trục xuất ông hoàng của thế gian khỏi thế gian. Ki-tô sẽ hiện ra như vị vua sẽ mãi mãi ngự trị trên trái đất vì trái đất giờ đây đã trở thành vương quốc của Thượng đế.

Con có thể là một người đi tiên phong cho sự kiện này, nhưng con chỉ có thể làm vậy nếu con sẵn lòng vác cây thập tự của mình và thanh lọc bản thể mình một cách hệ thống cho không còn lời dối nào của phản Ki-tô. Nếu con sẵn lòng đi theo con đường chân truyền này thì thày sẽ sẵn lòng nắm tay con và đồng hành với con trên mỗi bước cuộc hành trình. Con đường này không phải là con Đường Thương khó, không phải là một cuộc chiến đấu bất tận. Con đường chân truyền của Ki-tô là con đường tình thương, con đường an lạc, con đường tự do, con đường của sự sống dồi dào. Con có khả năng thoát khỏi cảm nhận vật lộn bằng cách xoay chuyển ý niệm bản sắc của mình xa khỏi cuộc chiến đấu nhị nguyên.

Một số người đã sẵn sàng làm cuộc xoay chuyển này, và họ có thể làm vậy tức khắc. Thật sự con chỉ cần một quyết định, và con không thể lấy quyết định nào trong quá khứ cũng như trong tương lai. Con chỉ có thể lấy quyết định trong hiện tại, nghĩa là con có thể lấy quyết định từ bỏ cuộc chiến đấu bất cứ lúc nào. Con sẽ không thoát khỏi cuộc chiến cho đến khi con quyết định là con còn không chấp nhận hình ảnh cuộc sống là một cuộc chiến. Con không thể lấy quyết định này cho đến khi con quyết định là con lấy quyết định ngay bây giờ.

Thày biết rõ là đối với một số người, thời điểm họ có thể lấy quyết định này vẫn chưa đến. Lý do là vì họ vẫn quá đồng hóa với cái ta hữu diệt. Nếu đây là trường hợp của con, đừng sợ hãi. Trong phần còn lại của khóa học này, thày sẽ cho con những dụng cụ cần thiết để con tự giải thoát khỏi ách thống trị của cái ta hữu diệt này, hầu con có thể chấp nhận tự do của mình, là sự tự do con chưa hề mất bao giờ, mà trái lại vẫn luôn thuộc về con để con đòi lại trong hiện tại vĩnh cửu – tức là giây phút độc nhất hằng có.

3 | Cái ta hữu diệt ngăn chặn sự dồi dào như thế nào?

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 13/4/2005.

Trái tim yêu dấu của thày, thày biết khi thày nói với con rằng ý niệm cái ta hiện thời của con phải chết đi thì chuyện này nghe có vẻ to tát quá. Nó không đến nỗi to lớn như nó có vẻ. Tất cả mọi sinh thể tự nhận biết mang nỗi sợ rất lớn bị mất bản sắc của mình, ý niệm cái ta của mình. Sự tồn tại của con dựa trên sự kiện con có những đặc tính cá nhân khiến con là một sinh thể cá biệt. Con được sinh tạo để nhân rộng cá thể của mình và nắm quyền cai quản, trước tiên cái ta của mình, và sau đó thế giới nơi con sống. Điều cuối cùng con muốn là đánh mất cá thể của con, đánh mất cái ta của con. Thoạt nhìn, thật có vẻ đáng sợ khi nghĩ đến việc mình phải bỏ ý niệm bản sắc hiện thời của mình. Tuy nhiên, ý niệm bản sắc hiện thời của con không phải là cá thể thật của con. Ngược lại, đó là một hình ảnh hạn hẹp về chính mình đang che phủ vẻ đẹp bội phần cùng sự toàn hảo của cá thể mà Thượng đế đã phú cho con.

Con đã có mất gì không khi cơ thể của con đi qua tiến trình lớn lên từ một hài nhi thành một người trưởng thành? Chắc chắn con đã mất cơ thể một đứa bé và bây giờ con có cơ thể một người trưởng thành, nhưng liệu đây là mất mát hay thật ra là một món lợi? Nếu thày bảo thày sẽ cho con một triệu đô nếu con cho thày một đô, liệu con có mất gì chăng trong trao đổi này? Ừ con sẽ mất một đô, nhưng thay vào đó con được một triệu và như vậy con vẫn được lời quá đỗi so với trước đó. Con thật không mất gì cả khi cái con mất được thay thế bởi cái gì tốt hơn. Cá thể đích thực của con – mà Thượng đế đã cho con lúc ban đầu – đẹp và tuyệt hảo hơn một triệu lần so với cá thể con đã được dạy dỗ để chấp nhận trong thế giới duy vật hôm nay. Không có mất mát gì mà chỉ có lợi lạc cho con cũng như cho cái Ta lớn, tức là Thân thể Thượng đế mà con là một thành phần.

Khi con bước xuống trạng thái tâm thức thấp hơn, tâm thức nhị nguyên, tâm phản Ki-tô, con đã làm vậy một cách lần hồi. Khi con đi ngược trở lên tâm thức Ki-tô, trở lên bản sắc thực của con, điều này cũng sẽ xảy ra lần hồi. Con sẽ không gặp phải tình trạng ý niệm cái ta hiện thời chết đi mà không có gì thế vào đó. Con sẽ lần hồi vươn lên một ý niệm cái ta cao hơn và một giá trị bản thân cao hơn, cho nên con không bao giờ phải cảm thấy mất mát mà chỉ cảm thấy lợi lộc. Thật không có gì phải sợ. Khi con bước qua các chương kế tiếp và thực hành các dụng cụ thày cho con trong khóa này, một ngày kia con sẽ khắc phục nỗi sợ đó vì con mở cửa ra với Sinh thể lớn hơn mà con thực là. Rồi khi con bước trên con đường tuần tự nhằm tái lập sự kết nối với Hiện diện TA LÀ của con, một ngày kia con sẽ trải nghiệm một tia sáng từ mặt trời Hiện diện TA LÀ rọi trực tiếp vào bản thể thấp của con. Khi tia sáng này tràn ngập bản thể con, con sẽ trải nghiệm tình thương toàn hảo, tình thương vô điều kiện mà Hiện diện của con cùng Đấng Sáng tạo của con đã dành cho con. Tình thương tuyệt hảo này sẽ xua tan mọi nỗi sợ của con.

3.1. Con sẽ vật lộn nếu con không để cái ta hữu diệt chết đi

Con yêu dấu, tại sao thày lại nói với con rằng ý niệm cái ta hiện thời của con phải chết? Tại sao thày lại gửi cho con một thông điệp có vẻ đáng sợ và không mấy hấp dẫn đối với cái ta hiện thời của con? Tại sao thày thẳng thắn như vậy thay vì bán cho con một thông điệp nhẹ nhàng hơn, hấp dẫn hơn, sẽ khiến đường tu có vẻ dễ dàng hơn, êm xuôi hơn? Tại sao tạo rủi ro làm hoảng sợ những ai không sẵn sàng đối mặt với nỗi sợ của mình? Thày làm việc này vì nhiều lý do, nhưng một trong các lý do chính là vì thày muốn trao cho con con đường chân chính dẫn đến sự sống dồi dào, thậm chí sự sống vĩnh hằng.

Các đạo sư giả sẽ hứa hẹn là con có thể biểu hiện dồi dào của Thượng đế, hay ngay cả được cứu rỗi, mà không phải buông bỏ ý niệm cái ta hiện thời của mình, không phải để cho ý niệm cái ta hữu diệt (mortal) chết đi. Đây là một thông điệp vô cùng hấp dẫn cho cái ta hữu diệt của con, và cũng là tại sao những ai bị kẹt trong cái ta hữu diệt đó sẽ vui lòng mua hàng của đạo sư giả. Đây cũng là con đường có vẻ đúng đắn cho con người phàm nhưng sẽ không bao giờ có thể dẫn đến sự sống dồi dào đích thực kéo dài đến vĩnh hằng. Động lực trước hết và trên hết khi thày trao cho con sự thật khó ưa và ngược với thị hiếu con người chính là vì đó sự thật. Chỉ có sự thật mới giải thoát con.

Một lý do quan trọng khác là khi con biết và chấp nhận sự thật rằng ý niệm cái ta hiện thời của con phải chết – để con có thể được tái sinh vào một cái ta cao hơn, tâm linh hơn – thì đường tu của con sẽ dễ dàng hơn gấp bội. Suốt 2000 năm kể từ khi thăng thiên, thày đã chứng kiến hàng bao triệu người thành tâm cố gắng thực hành các lời dạy mà Giê-su yêu dấu của thày đã ban ra. Thày đã nhìn thấy biết bao con tim chân thành xả thân bước trên con đường mà các giáo hội Cơ đốc chính thức truyền lại cho họ. Vì các giáo hội này đã loại bỏ một số khái niệm cốt yếu nhất mà Giê-su đã dạy – họ đã tước mất chìa khóa của hiểu biết – cho nên hầu hết tín đồ Cơ đốc thành tâm không có được tầm hiểu chân chính về việc để cho cái ta hữu diệt chết đi rồi từ đó tái sinh vào một ý niệm cái ta tâm linh, bất diệt. Nhiều người trong số đó bị kẹt vào con đường giả, tìm cách toàn thiện cái ta hữu diệt, tìm cách thích ứng nó theo những gì họ được dạy bảo là các lý tưởng do Ki-tô giảng dạy. Điều này đã khiến nhiều người dùng tâm vỏ ngoài tạo dựng một lý tưởng, một hình tư tưởng, một thần tượng về một tín đồ chân chính của Ki-tô phải như thế nào, phải cư xử ra sao. Họ đã bỏ ra cả đời người, thường thường với lòng thành tâm và sùng bái cao độ, tìm cách dùng ý chí vỏ ngoài để uốn nắn bản thân mình cho rập khuôn hình tư tưởng đó.

Đây thường là một cuộc vật lộn gian nan, và lý do đơn giản là vì cho đến khi con để cho cái ta hữu diệt chết đi, không thể nào tránh được con là một ngôi nhà bị phân rẽ với chính nó (Mark 3:25). Mỗi lần cái Ta Biết bước một bước gần hơn với quả vị Ki-tô, cái ta hữu diệt sẽ kéo con ngược lại, và như thế con bị kẹt trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan được Paul mô tả: “Tôi không làm điều lành mình muốn, nhưng làm điều dữ mình không muốn” (Romans 7:19). Điều này đã khiến biết bao người thành tâm cảm thấy xấu hổ hay tội lỗi vì họ không thể sống theo hình ảnh mà giáo hội của họ đã cho họ, một tâm ảnh ngay từ đầu đã dựa trên nhị nguyên của phản Ki-tô. Đó là một hình ảnh giả trá, có nghĩa là không một ai có thể sống đúng theo thần tượng đó về con người toàn hảo, một thần tượng không ăn nhập gì với sự toàn hảo của con tim. Con có nhớ lời Giê-su bảo rằng chỉ những ai có lòng trong sạch mới thấy được Thượng đế (Matthew 5:8)? Ý nghĩa thật là Thượng đế không đòi hỏi con biểu hiện một sự toàn hảo vỏ ngoài, thế phàm, dựa trên một lý tưởng xuất phát từ tâm phản Ki-tô, mà ngài tìm một phẩm chất nội tâm, cụ thể là sự tinh khiết của tim con. Làm thế nào con đạt được con tim tinh khiết? Bằng cách để cho cái ta ô nhiễm, cái ta hữu diệt chết đi, hầu nó có thể được thay thế bởi cái ta thực của con, cái ta mà Thượng đế đã tạo ra trong sự toàn hảo thiêng liêng chưa bao giờ xa rời toàn hảo.

3.2. Lực phản Ki-tô của lớp thượng tôn quyền lực

Ôi con yêu dấu, khi thày nghĩ đến nỗi khổ biết bao người sùng đạo chân thành phải chịu đựng, tim thày tràn ngập lòng trắc ẩn pha chút buồn bã. Thày thấy biết bao người bước chân trên con Đường Thương khó trọn một kiếp người, và có khi cả mấy kiếp, cho đến khi cuối cùng họ kiệt sức vì căng thẳng và nhận ra có gì đó không ổn, có gì đó thiếu sót. Thường thường họ không hiểu nổi cái không ổn là gì, và cuối cùng thì nhiều người cảm thấy chắc hẳn mình đã bị hứa hão, mình đã bị Giê-su hứa hão. Mặc dù họ đã theo con đường mà Giê-su dường như đã vạch, họ đã không đạt đến trạng thái tâm thức, trạng thái ân sủng mà họ gọi là quả thánh hay bất kỳ tên gọi nào khác. Nhiều người như thế rốt cuộc thất vọng về đạo Cơ đốc chính thống và họ tức giận với chính Giê-su. Nhiều người hiện đang đầu thai trong xã hội duy vật hôm nay và đang chối bỏ đạo Cơ đốc, đã trong nhiều kiếp cần mẫn bước theo con đường do các giáo hội Cơ đốc chính thống vạch ra. Họ đã quá thất vọng với con đường đó đến độ trong kiếp này họ sẽ không chấp nhận sự đạo đức giả của đạo Cơ đốc chính thống được nữa. Thế là họ vứt đứa bé Ki-tô cùng với nước tắm dơ của giáo hội, và họ bỏ luôn cả Giê-su cùng với thông điệp của thày. Một số trở thành những kẻ vô thần, những tín đồ của tôn giáo khoa học duy vật. Một số khác không theo bất kỳ tôn giáo nào, chìm đắm trong lòng thờ ơ đối với khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Nhiều người gia nhập cái gọi là phong trào Thời Mới cho nên họ quyết định đi theo những giáo lý hay đạo sư tâm linh khác, nhưng họ tránh né Giê-su như hủi lở.

Đây là một gánh nặng trĩu trong tim thày vì thày biết rõ niệm tinh khôi mà phong trào Cơ đốc đã có thể trở thành. Thày thấy được tác động to lớn mà phong trào này đã có thể đem lại trên hành tinh trái đất nếu ít nhất một túc số tín đồ Cơ đốc đã kiên trinh với các lời dạy tâm truyền của Giê-su. Hãy tưởng tượng điều gì đã có thể xảy ra nếu, trong 2000 năm qua, thông điệp chính của phong trào Cơ đốc khẳng định Giê-su là một tấm gương để noi theo, rằng mọi người đều có tiềm năng bước theo vết chân thày và đạt được quả vị Ki-tô cá nhân của mình. Hãy nhìn vào tác động của sứ mạng ngắn ngủi của Giê-su trên hành tinh này, rồi nhìn xem tác động đã có thể như thế nào nếu hàng ngàn người đạt được cùng một trạng thái tâm thức như thày và đã đem lại những ý tưởng cùng lời dạy mới hầu đưa nhân loại tiến tới.

Với mức tâm thức và hiểu biết hiện tại của con, có thể con khó hình dung được chuyện gì đã có thể xảy ra, nhưng thày có thể cam đoan với con là địa cầu sẽ khác hẳn ngày nay đến mức con khó lòng nhận diện được. Trước đây thày có yêu cầu con xem xét cuộc vật lộn của con người, cuộc đấu tranh quyền lực của con người. Thày có nói là ngày nay con chứng kiến tình trạng một thiểu số thượng tôn quyền lực đã thành công chiếm đoạt quyền lực, của cải cùng tài nguyên thiên nhiên. Nếu lời hứa đích thực của đạo Cơ đốc đã được hiện thực, thì tầng lớp thượng tôn quyền lực kia đã từ lâu biến mất khỏi trái đất, và con đã chứng kiến một xã hội có sự dồi dào và bình đẳng lớn hơn rất nhiều cho mọi người.

Khi con nhìn địa cầu hôm nay, liệu con có thể thực sự tin rằng Giê-su mong muốn một xã hội bất công với một vài phần trăm dân số ở các nước giàu có kiểm soát phần lớn của cải? Liệu con có thể thực sự tin rằng Giê-su mong muốn một xã hội toàn cầu với một vài nước giàu có tiêu thụ phần lớn tài nguyên, trong khi hàng triệu trẻ em tại các nước nghèo có nguy cơ chết đói – và thật vậy mỗi năm có hàng triệu đứa bé chết đói? Con thử hình dung vị thày tâm linh đã mở rộng vòng tay đến người cùi và nhiều thành phần bị ruồng bỏ khác, sẽ chấp nhận và khoan thứ một tình trạng như thế? Ôi con yêu dấu, vậy con có cảm được lòng sôi sục của thày khi thày nói với con rằng sự kiện đạo Cơ đốc chính thống đã được dùng để biện minh cho bất công này là một điều ghê tởm, một sự nhạo báng hoàn toàn các lời dạy nội tâm của Giê-su? Giê-su đã chẳng dạy hay sao: “Hễ các con làm việc đó cho người hèn mọn nhất trong số anh em ta, thì con cũng đã làm cho ta” (Matthew 25:40)? Thày đã chẳng dạy mọi người hãy làm cho người khác những gì mình muốn người khác làm cho mình hay sao (Matthew 7:12)?

Sự kiện giáo lý nguyên thủy của Giê-su bị đánh mất quả thực là thảm kịch lớn nhất đã xảy ra trên hành tinh địa cầu trong lịch sử được ghi lại. Đó là một thảm kịch chính vì tiềm năng để xây dựng một xã hội dồi dào với cơ hội bình đẳng cho mọi người đã lớn đến như vậy. Lời hứa đó cho đến giờ vẫn chưa thành hiện thực. Thay vào đó, đạo Cơ đốc chính thống đã biến thành công cụ cho các thày giả sử dụng những phiên bản hủ hóa của giáo lý Giê-su để biện hộ cho chủ nghĩa thượng tôn và siết cổ quần chúng. Con hãy nhìn vào thực tế lịch sử – suốt nhiều thế kỷ – chính giáo hội tự nhận mình là giáo hội chân chính duy nhất của Giê-su Ki-tô đã bóp nghẹt đời sống tư tưởng và tôn giáo ở châu Âu như thế nào. Con nhìn xem làm thế nào trong thời đại đen tối, Giáo hội đã ngăn chặn mọi tư tưởng mới và mọi sáng chế mới khởi phát, và do đó đã giữ toàn bộ xã hội trong tình trạng lạc hậu nơi người dân phải làm nô lệ cho một thiểu số thượng tôn. Con nhìn xem làm thế nào cùng giáo hội đó đã cố ngăn chặn sự phát triển của khoa học, giáo dục và công nghệ nhằm giảm bớt gánh nặng của người dân thường. Con nhìn xem làm thế nào cùng giáo hội đó đã xây cất những nhà thờ và cung điện nguy nga cho lãnh đạo của mình trong khi phần lớn dân chúng chết đói hay phải sống trong cảnh nghèo khổ cùng cực. Liệu con có thể bảo rằng một giáo hội như thế đại diện cho Giê-su Ki-tô và giáo lý đích thực của thày?

Không, con không thể. Nếu con thành thật với chính mình, con sẽ nhận ra sự dối trá của một số giáo điều chính thống cùng khoảng cách vĩ đại giữa quả trái của đạo Cơ đốc chính thống với các lời dạy chân truyền của Ki-tô. Giê-su đã chẳng cảnh báo con về tiên tri giả hay sao: “Qua quả trái của chúng mà con biết chúng” (Matthew 7:20)? Và thật vậy, thày giả ở khắp mọi nơi, trong nhà thờ, trong chính quyền, trong truyền thông, trong khoa học. Họ là kẻ dùng quyền lực của mình để giữ vững cho hiện trạng không thay đổi, để bảo con rằng cái ngã hữu diệt là thẩm quyền tối thượng trên hành tinh trái đất, và không có thẩm quyền nào cao hơn sự thật tương đối mà – vào lúc này – họ tuyên bố là sự thật tuyệt đối, và họ dùng cái đó để bào chữa cho đặc quyền đặc lợi của họ. Trên hành tinh này có một thiểu số thượng tôn đã dùng cái ta khởi lên từ trạng thái nhị nguyên, từ sự thật tương đối của ngã hữu diệt, để dựng lên một ông thần, một thượng đế giả, một thần tượng. Sự thật tương đối này của phản Ki-tô đã được cả giáo hội lẫn chính quyền nâng lên thành một sự thật tuyệt đối, không thể nghi ngờ và không thể thách thức. Đây đúng là sự gớm ghiếc của hoang tàn (Daniel 11:31) đang đứng ngay nơi thánh là nơi lẽ ra không nên đứng (Mark 13:14), và đây là lý do thực sự tại sao Giê-su đã lật bàn của bọn đổi tiền trong nhà thờ. Nếu Giê-su còn bước chân trên mặt đất ngày hôm nay, thày sẽ lại lật bàn của những kẻ đang bày hàng quảng cáo cho một sự thật tương đối dựa trên tâm phản Ki-tô trong cả giáo hội lẫn chính quyền, trong truyền thông, trong hệ thống giáo dục, trong các hệ thống chăm sóc sức khỏe và mọi lãnh vực khác của xã hội.

Tại sao thày lại đề cập vấn đề này một cách nhiệt thành như thế? Vì thày hy vọng sẽ lay con dậy với sự thật rằng nếu con muốn thực sự giành lại ý niệm cái ta bất tử của con, bản sắc tâm linh thực sự của con, con không thể chờ đợi điều này xảy ra mà không gặp sự kháng cự, chống đối từ các thế lực của thế gian. Các thế lực này đã hoành hành từ rất lâu trên hành tinh này, và chúng chính là thế lực đã giết chết Giê-su khi thày còn bước chân trên mặt đất và thách thức quyền lực của chúng trên loài người. Các thế lực này biết rõ là nếu người dân bắt đầu tin rằng Nước Trời ở bên trong mình (Luke 17:21) thì chúng sẽ không còn quyền lực nào nữa. Chúng đã phải giết chết vị thày đang trao sự thật đó cho dân chúng, là sự thật sẽ giải thoát họ khỏi lớp thượng tôn quyền lực.

Sau khi chúng giết Giê-su, chúng cũng toan giết tất cả những ai theo thày, và cuối cùng chúng thành công trong việc giết chết tấm gương của thày. Suốt gần 2000 năm, hiếm có ai dám bước theo chân Ki-tô, và không có ai dám tuyên bố mình là Ki-tô Hằng sống trước mặt các thế lực tại chức. Nhiều người tâm linh chân thành đã bước theo con đường vỏ ngoài, một con đường có vẻ đúng đắn đối với những ai bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Con đường này không bao giờ có thể dẫn họ đến mục tiêu đích thực là thay thế cái ta hữu diệt bằng cái ta thực. Con đường này không bao giờ có thể giúp họ giành lại quả vị Ki-tô của họ ở đây trên trái đất.

3.3. Con ý thức lực chống lại bước tăng triển của con

Con yêu dấu, nếu con muốn đòi lại ý niệm bản sắc bất tử của mình, con phải đi theo bước chân của Giê-su và xác nhận quả vị Ki-tô cá nhân của mình. Khi làm vậy, con sẽ phải đâm thủng lực chống đối quả vị Ki-tô của con được biểu hiện qua lực phản Ki-tô đã chi phối mọi lãnh vực đời sống trên hành tinh. Trên hết và trước hết, con sẽ phải chọc thủng sự lập trình mà con đã hứng chịu từ thuở thơ ấu, thậm chí từ nhiều kiếp trước – một lập trình mà mục đích duy nhất là khiến con phủ nhận quả vị Ki-tô của mình.

Thày không nói điều này để gây sợ hãi trong con, mà thày nói điều này để cho con một ý niệm thực tế về những gì con cần làm hầu biểu hiện quả vị Ki-tô của con. Thày cũng nói điều này vì khi con nhận ra có lực chống lại quả vị Ki-tô của mình, con đạt được một tầm hiểu hoàn toàn mới và do đó con nhận được uy lực để khắc phục sự chống đối. Những gì con không biết quả thực có khả năng làm hại con, và nhiều người chân thành tìm cầu tâm linh đã bị cầm chân hay đã bỏ ngang bước tiến của mình vì họ không biết đến thế lực đang chống phá sự phát triển của họ. Làm sao con có thể tự vệ trước những gì con không hiểu hay không biết đang có mặt?

Suốt 2000 năm qua, thày đã chứng kiến hàng triệu người thành tâm nỗ lực để biểu hiện một trạng thái tâm thức tâm linh hơn, một cái nhìn tâm linh hơn về cuộc sống. Thày đã thấy họ trong đạo Cơ đốc, trong nhiều đạo khác và trong phong trào Thời Mới, thậm chí cả các phong trào không tâm linh công khai. Thày thấy họ, thày thấy được lòng thành tâm của họ, tình thương yêu trong tim họ. Thày cũng thấy mặc dù họ thành tâm và cố gắng vượt bực, họ vẫn không đạt được tiến bộ họ mong muốn. Họ không đạt được tiến bộ cần thiết để biểu hiện tâm thức Ki-tô. Nhiều người trong số họ cứ theo mô thức tiến lên một bước xong lùi lại một hay hai bước.

Ôi con yêu dấu, nếu con đã tham gia lãnh vực tự cải thiện (self-help) trong một thời gian, hay bất kỳ lãnh vực tu tập tâm linh nào, có lẽ con đã nhận thấy điều đó trong chính đời mình hay con đã quan sát thấy trong đời người khác. Quá nhiều người đột nhiên thức tỉnh và nhận ra cuộc sống là nhiều hơn, rằng cuộc sống có một khía cạnh tâm linh. Họ tìm thấy một giáo lý nào đó, một quyển sách hay một vị thày, bảo rằng cuộc sống là nhiều hơn, rằng họ có khả năng vươn cao hơn các hạn chế hiện tại của mình và biểu hiện một cuộc sống dồi dào hơn, cả về tinh thần lẫn vật chất. Họ trở nên rất nhiệt tình, và lý do là vì sâu thẳm trong chính họ, họ biết đó là sự thật, rằng họ có khả năng vươn lên một trạng thái tâm thức cao hơn. Ký ức nội tâm này đã được Thượng đế ghi sâu vào trong họ, không bao giờ có thể bị mất đi hoàn toàn. Khi con tìm được một vị thày hay một lời dạy vỏ ngoài gợi lại ký ức này, con biết là nó thực, và ngay lập tức con tỏ ra nhiệt tình. Tiếc thay, khi tới việc biểu hiện tâm thức cao hơn đó, biểu hiện lời hứa của giáo lý vỏ ngoài đó, hầu hết mọi người đều thấy rất khó thực hiện. Nhiều người đã nỗ lực chân thành, có khi hàng chục năm trời, mà vẫn không thực sự cảm thấy mình có tiến bộ, không thực sự cảm thấy lời hứa của giáo lý vỏ ngoài thành hình trong đời mình. Một số bỏ cuộc trong tuyệt vọng, họ bỏ luôn ý tưởng một con đường tâm linh, cho rằng đó chỉ là lời hứa hão huyền của một thày giả nào đó. À con yêu dấu, đây chính là âm mưu đằng sau hoạt động của các thày giả.

Có lẽ con từng nghe câu nói dân gian này: “Sự nản lòng là công cụ sắc bén nhất trong hộp dụng cụ của ác quỷ.” Câu này có chút sự thật trong đó, mặc dù ác quỷ còn nhiều dụng cụ khác có nhiều khả năng kéo con ra khỏi đường tu chân chính. Lòng chán nản là một vấn đề rất thực cho mọi người tìm kiếm tâm linh. Nếu con đã trải nghiệm nó trong đời mình, hay quan sát thấy nó trong đời người khác, con sẽ biết việc tiến bước trên con đường tâm linh không nhất thiết là dễ. Tại sao không dễ? Nó khó chính là vì có gì đó con chưa biết, có gì đó con không hiểu. Điều con không biết là có sự chống phá đường tiến bộ của con. Quá nhiều người chưa được dặn dò là có một lực đối chọi với tiến bộ tâm linh. Đạo Cơ đốc truyền thống có thể bàn đến ác quỷ hay phản Ki-tô, nhưng nếu đạo Cơ đốc chính thống không vạch ra được một con đường khả thi dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân, làm sao họ có thể cho con một tầm hiểu đích thực về lực chống lại bước tu của con? Nhiều giáo lý Thời Mới cũng bàn về một đường tu tâm linh nhưng lại ngần ngại nói tới một thế lực chống lại bước tiến của con. Còn toàn bộ giới thẩm quyền trong lãnh vực khoa học thì bác bỏ bất cứ gì không thể được khoa học chứng minh, và họ chế giễu quan điểm cổ xưa bảo rằng có những “tà linh” có thể ảnh hưởng đời con.

Làm sao con sẽ có thể tiến bước nếu con không biết là có sự chống đối, con không hiểu bản chất của sự chống đối cũng như cách nó lấn át tư duy của con và ý niệm cái ta của con? Con sẽ khiến cho bước tiến khó khăn hơn gấp bội nếu con cứ mãi không biết đến vấn đề này. Cũng giống như thể con leo núi mà không biết mình đang kéo theo một chiếc neo thuyền to tướng cứ mắc vào mỗi kẽ đá.

3.4. Đối mặt với nỗi sợ và lòng sợ hãi

Nhiều người sẽ phản ứng với lòng sợ hãi khi thày nói về tà lực hay lực phản Ki-tô. Một cựu tổng thống Mỹ từng nói: “Chúng ta không có gì để sợ ngoài chính nỗi sợ,” và thày muốn giải thích cho con tại sao câu nói này chí lý. Trạng thái tâm thức hiện tại của con, ý niệm cái ta hiện thời của con, dựa trên – hay ít ra bị ảnh hưởng bởi – sự thật tương đối khởi lên từ tâm phản Ki-tô. Tác động của tâm phản Ki-tô là nó tạo ra một tâm ảnh, một thần tượng che khuất thực tại, che mờ sự thật. Có thể nói tâm thức Ki-tô giống như một ngọn đèn sáng rực chiếu lên vạn vật từ mọi hướng để không tạo bóng tối và không có gì bị che giấu. Mọi thứ đều có thể được nhìn thấy dưới ánh sáng rực rỡ của Mặt trời Thượng đế, của tâm Ki-tô. Không có khác biệt, không có bóng tối hay biến đổi (James 1:17), không có chỗ nào cho sự dối trá hay lừa lọc.

Một khi con bước vào tâm thức nhị nguyên, bỗng nhiên có một tình trạng mang khả năng dối trá và lừa lọc. Bản chất của nhị nguyên là khả năng tạo ra một tâm ảnh che khuất thực tại, che mờ sự thật. Thế là con có một hoàn cảnh nơi con có thể tạo ra một bề mặt che giấu cái gì đó đằng sau. Tâm ảnh này có thể che khuất sự thật nhưng nó cũng có thể che giấu một dối trá, che giấu những ý định không trong sáng. Thế là chúng ta có khả năng là một sinh thể tự nhận biết có thể đánh lừa một sinh thể khác một cách cố tình và ác ý. Khi con còn ở trong sự thật của tâm thức Ki-tô thì không có gì bị che giấu và mọi chuyện hiện ra như thật là. Trong tâm thức Ki-tô không có dối trá, không có lừa lọc, không có khuynh loát, không có giả vờ để khiến cho mọi chuyện bề ngoài có vẻ an toàn nhưng bên dưới lại ẩn giấu hiểm nguy. Khi con bước vào tâm thức nhị nguyên, dối trá và lừa lọc có thể xảy ra và đó là tại sao Giê-su mới nói, ác quỷ là cha đẻ của lừa dối (John 8:44). Cách giải thích rộng rãi nhất về khái niệm ác quỷ là bảo rằng ác quỷ là tâm thức phản Ki-tô, qua đó một sự thật tương đối đã thay thế sự thật tuyệt đối.

Trạng thái nhị nguyên này mở ra khả năng là một tình huống trông bề mặt có vẻ yên ổn nhưng bên dưới lại tiềm ẩn những mối nguy có thể chặn nghẽn bước tiến của con đến quả vị Ki-tô. Sự lừa dối ở khắp mọi nơi chung quanh con. Con biết rất rõ người ta có thể nói dối, người ta có thể giả vờ làm bạn với con nhưng kỳ thực họ là kẻ thù. Đó là tại sao Giê-su nói về những kẻ đội lốt chiên nhưng bên trong là loài sói đói mồi (Matthew 7:15). Suốt lịch sử được ghi chép, lọc lừa đã là một phần không thể tránh của cuộc sống trên hành tinh địa cầu. Lọc lừa không thể tránh được chừng nào con người bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên ngăn cản mình nhìn ra sự thật tuyệt đối của Ki-tô. Một khi có một túc số tới hạn những người vươn lên được tâm thức Ki-tô, lọc lừa sẽ không thể có mặt trên trái đất được nữa. Những kẻ dùng lừa dối để đoạt đặc quyền đặc lợi đều không muốn thấy ngày đó xảy đến. Họ sẽ làm tất cả trong khả năng của họ để ngăn chặn chuyện này xảy ra. Thật không khó gì nhìn thấy là suốt chiều dài lịch sử đã có một thiểu số quyền lực đối chọi với bước tiến của loài người về phía tự do lớn hơn, bình đẳng và công bằng lớn hơn trong xã hội. Con hãy nhìn sự chống phá việc thiết lập thể chế dân chủ. Và hãy nhìn vua nước Anh chống đối như thế nào sự trỗi dậy của các thuộc địa ở Mỹ cùng nỗ lực của họ nhằm thiết lập một hình thức chính quyền mới đem lại tự do công bằng cho mọi người.

Quả thật trên hành tinh địa cầu có một thế lực chống đối sự tiến bộ để cố duy trì đặc quyền đặc lợi. Thường thường người ta không nhận chân thế lực này. Nó được che giấu khỏi con mắt của hầu hết mọi người trên hành tinh, và thực sự nếu con nhìn vào lịch sử, con sẽ thấy lực này chỉ có thể sống sót bằng cách ở trong bóng tối hay giả vờ là cái gì khác hơn. Một khi nó bị phơi bày và được nhìn thấy đúng như nó là, hầu hết mọi người trên hành tinh sẽ quyết định tách mình ra khỏi nó và như vậy từ chối trao quyền lực cho nó.

Thế lực phản Ki-tô sẽ luôn luôn tìm cách ẩn náu hay khoác vào hình dạng một lực thiện lành. Cho nên lực đối lập bước tiến của con về hướng quả vị Ki-tô sẽ không hiển nhiên chút nào, nó sẽ lẩn trốn trong bóng tối nơi con khó lòng nhìn thấy. Tại sao điều này quan trọng đến vậy? Con hãy xét những gì thày vừa nói với con ở đây trong bối cảnh câu nói rằng chúng ta không có gì để sợ ngoài chính nỗi sợ.

Đâu là cốt tủy của sợ hãi? Đó là khi con bị dội bởi cái gì đó, con muốn tránh xa khỏi cái gì đó. Tác động tâm lý của sợ hãi là một khi con sợ điều gì, con sẽ không muốn nhìn nó nữa, con muốn làm ngơ hay chạy trốn khỏi nó. Không chịu nhìn sẽ tạo nên sức mạnh cho phản Ki-tô – vì phản Ki-tô hoàn toàn dựa trên lừa dối. Đây là một lợi thế kinh hồn, không những nó có thể chặn nghẽn sự tăng trưởng cá nhân của con mà nó cũng có thể cầm chân đà tiến bộ của xã hội. Lòng sợ hãi của con người và sự không sẵn lòng nhìn vào điều mình sợ, trở thành một tình trạng lưỡng nan, một thế kẹt dường như không lối thoát.

Nếu con muốn thị hiện cuộc sống dồi dào, thật chỉ có một cách duy nhất để con làm được. Đó là vươn lên cao hơn ý niệm cái ta hạn chế dựa trên nhị nguyên, có nghĩa là dựa trên những dối trá và lừa lọc của tâm phản Ki-tô. Con phải làm vậy, con phải trèo ngược lên cầu thang theo cùng một cách như con từng đi xuống cầu thang, nghĩa là bằng cách lấy những quyết định có ý thức. Nếu con sợ không dám xem xét sự hiện hữu của một thế lực phản Ki-tô, nếu con sợ không dám nhìn vào những dối trá do thế lực này chủ xướng, con sẽ không có hy vọng thoát khỏi dối trá. Biết bao người chân thành tìm kiếm tâm linh đã kìm hãm bước tiến cá nhân của mình chính vì họ không chịu đối mặt với nỗi sợ của mình. Họ không chịu quay mặt lại mà nhìn vào thế lực đang cưỡng chống bước tiến của họ bằng cách giữ họ kẹt lại trong một loạt những dối trá cầm tù tâm họ.

Những dối trá của phản Ki-tô có thể vi tế, nhưng một khi con nắm được phần nào sự thật Ki-tô, chúng sẽ không khó lột mặt lắm đâu. Nhưng trước khi con có thể lột mặt dối trá của phản Ki-tô, con phải sẵn lòng nhìn chúng. Nếu con quá mắc kẹt trong sợ hãi đến độ con sợ cả chuyện liếc nhìn những gì con đang lê theo sau, làm sao con có thể thoát khỏi nó đây? Nếu con đi lên sườn núi và cảm thấy mình đang kéo theo cái gì đó sau mình, nhưng con lại sợ quay đầu lại mà nhìn, làm sao con có thể trút bỏ gánh nặng đó xuống? Điều đang ngăn cản bước tiến của con trên đường tu tâm linh là gánh nặng những lừa dối của phản Ki-tô mà con kéo theo sau vì con vẫn cho phép chúng ở lại trong tâm thức mình, trong bình chứa cái ta của mình. Con cho phép chúng ở lại vì con chưa nhìn chúng để thấy chúng như chúng là – những ảo tưởng không chút thực thể nào. Như Giê-su có nói về ác quỷ, “chúng không có chút lẽ thật nào nơi chúng” (John 8:44), cho nên chúng cũng không có quyền lực thực sự nào trên con. Nếu một ý tưởng không là gì khác một ảo tưởng, làm sao nó có thể có quyền lực thực sự trên con? Ngay khoảnh khắc con thấy nó là ảo tưởng, nó mất hết sức mạnh ảnh hưởng con. Nó chỉ có thể duy trì quyền lực bằng cách khiến con sợ nhìn vào ảo tưởng.

3.5. Lòng sợ hãi không có gì để sợ

Con yêu dấu, thật chỉ có một cách để khắc phục nỗi sợ, và đó là nhận ra điều đáng sợ duy nhất là lòng sợ hãi. Tác động tâm lý của sợ hãi là sự tê liệt, nghĩa là con không sẵn lòng nhìn vào điều con sợ. Nếu con không sẵn lòng nhìn vào điều kiện mà con sợ, làm sao con có thể nhận diện là nó khởi lên từ nhị nguyên của phản Ki-tô và do đó không có chút thực thể nào? Làm sao con có thể khắc phục ảo tưởng rằng điều kiện không thực này có thể có bất kỳ quyền lực nào trên con?

Tất cả mọi em nhỏ đều từng sợ bóng tối, nhưng cuối cùng chúng đã khắc phục nỗi sợ đó bằng cách sẵn lòng đối mặt với nó, sẵn lòng ra ngoài đường buổi tối hay bước vào phòng tối để chứng nghiệm là không có gì xấu xảy ra cho mình. Con nhìn xem, vào thời Trung cổ, người ta sợ nhiều loại bệnh tật đến chừng nào vì người ta không hiểu bệnh tật do vi khuẩn gây ra. Một khi hiểu ra trong nước uống có vi khuẩn nguy hiểm thì họ học cách lọc nước và nhờ vậy khắc phục được nỗi sợ bệnh tả và nhiều bệnh khác, và điều này cho họ sức mạnh loại trừ nhiều loại bệnh tật.

Sợ hãi là một sức mạnh trói buộc con, nó giữ con trong cái bẫy, trong nhà tù. Yếu tố chủ yếu giam hãm con trong nhà tù thế phàm chính là lòng sợ hãi. Cái gì sẽ giải thoát con khỏi nhà tù? Như Giê-su đã nói, chính sự thật sẽ giải thoát con (John 8:32). Để tìm ra sự thật này, con phải sẵn lòng đối mặt với nỗi sợ, con phải sẵn lòng nhìn vào điều kiện mà con sợ. Khi con hiểu ra những điều kiện này là gì, con sẽ thấy là con không có lý do gì để sợ chúng.

Một khi con hiểu các điều kiện có vẻ quá đáng sợ khi con còn vô minh, con sẽ thấy là con có một cách để khắc phục các điều kiện này và bỏ chúng lại đằng sau. Đây là tinh túy của đường tu tâm linh, cụ thể là con đối mặt các nỗi sợ của mình và ngộ ra là mình không có lý do gì để sợ. Khi con ngộ ra con không có lý do gì để sợ một điều kiện đặc thù thì con đã khắc phục hạn chế đó và tiến một bước gần hơn sự sống dồi dào.

Đây là cốt tủy của con đường khắc phục. Trên hết, đó là khắc phục các điều kiện trong tâm lý của mình, cụ thể là nỗi sợ khiến mình sợ tiến thêm một bước hay sợ bỏ lại đằng sau một hạn chế nào đó. Sợ hãi luôn luôn là nỗi sợ một điều gì chưa biết, nó luôn luôn nẩy lên từ sự thiếu hiểu biết, từ vô minh. Con nghĩ có một điều kiện mà con không có cách phòng vệ hay thoát khỏi, và do đó con sợ ngay cả việc xem xét điều kiện đó kỹ càng hơn. Ý nghĩ rằng con không thể phòng vệ chỉ hiện hữu trong tâm con, nó dựa trên sự thiếu hiểu biết hay thông tin sai trật. Một khi con khắc phục vô minh này, con sẽ nhìn ra cách khắc phục điều kiện đó và bỏ nó lại đằng sau. Đường tu là con đường khắc phục vô minh, cái vô minh khởi lên từ nhị nguyên của tâm phản Ki-tô, và thay thế nó bằng sự thật không phân rẽ của Ki-tô.

3.6. Nhìn xuyên thấu tâm phản Ki-tô với mắt trẻ thơ

Hãy để thày trở lại khái niệm có một thế lực phản Ki-tô đang chống đối đường tu đến quả vị Ki-tô của con. Đây chính là thế lực đã giết Giê-su 2000 năm về trước. Thày Giê-su được Thượng đế gửi xuống để làm người tiên phong cho một thời đại mới nơi con người đáng lẽ phải khắc phục được lòng sợ hãi của mình để không còn là kẻ theo chân mù quáng các lãnh đạo mù quáng rồi té xuống hố sâu của nhị nguyên và tương đối (Matthew 15:14). Thế lực phản Ki-tô đã giết chết Giê-su, và con biết qua lịch sử chúng cũng toan giết chết mọi tín đồ Cơ đốc trong những thế kỷ sau đó. Khi thế lực này nhận ra là chúng không thể giết chết phong trào Cơ đốc thì chúng ra tay cách khác. Chúng đổi chiến lược dựa trên phương châm: “Nếu bạn không thể đánh bại người ta thì bạn hãy nhập bọn với người ta.” Thế là những người đại diện cho lực phản Ki-tô, những kẻ giảng đạo giả mà Giê-su đã nói sẽ đến mạo danh thày (Matthew 24:5), gia nhập đạo Cơ đốc. Chúng dùng loại vũ khí là vũ khí phổ thông nhất của chúng: chiến lược chia và trị. Bằng cách xâm nhập đạo Cơ đốc, chúng biến nó thành một ngôi nhà phân rẽ với chính nó. Sau một thời gian, chính phân rẽ này cũng được tẩy xóa khi đạo Cơ đốc thay thế giáo lý chân truyền của Ki-tô bằng một tượng khắc, một hình giả, biến Giê-su thành một thần tượng chứ không là một tấm gương.

Quả thực như vậy, trên hành tinh trái đất có một thế lực bên ngoài sẽ chống đối bước tiến của con về cuộc sống dồi dào. Trên hết và trước hết, lực này sẽ tìm cách giữ con trong vô minh, không biết gì về khả năng đạt được cuộc sống dồi dào và tâm thức Ki-tô. Nếu chuyện này không thành, chúng sẽ tìm cách đánh lạc hướng con để con đi theo đường tu giả, tìm cầu vinh quang cho cái ta hữu diệt thay vì khắc phục cái ta hữu diệt và được tái sinh về mặt tâm linh. Nếu lực phản Ki-tô không thể ngăn con khám phá đường tu chân chính, chúng sẽ tìm đủ mọi cách để biến con thành một ngôi nhà phân rẽ với chính mình, để con nghi ngờ chính mình có khả năng hay xứng đáng bước theo đường tu. Chúng sẽ tìm cách khiến con ngờ vực mỗi khía cạnh của con đường dẫn đến quả vị Ki-tô, để hoặc con từ bỏ đường tu, hoặc con cứ đi mãi mà không bao giờ tới.

Điều gì khiến cho lực phản Ki-tô này có thể chi phối đời con, ảnh hưởng tâm thức con? Chúng nắm được gì trong con để dùng làm vũ khí chống lại con, để gieo hạt giống ngờ vực trong tâm con – y như Rắn đã gieo ngờ vực trong tâm Eva? Chúng có thể dùng gì để biến con thành một ngôi nhà phân rẽ với chính mình? Cái đó là sự kiện con mang trong quả cầu cái ta, trong bình chứa cái ta của con, một số tin tưởng khởi lên từ dối trá của phản Ki-tô, những dối trá nham hiểm của rắn. Đây là điều Giê-su đã giải thích qua câu: “Ông hoàng của thế gian có thể đến mà không nắm được gì nơi ta” (John 14:30). Ông hoàng của thế gian chính là tâm phản Ki-tô. Sự kiện y không nắm được gì nơi Giê-su cho thấy Giê-su đã vươn lên tới mức thanh lọc được tâm mình, cả tâm ý thức lẫn tâm tiềm thức, cho không còn một yếu tố nào của phản Ki-tô, một dối trá nào của rắn. Vì Giê-su không còn dối trá nào trong bản thể cho nên ông hoàng của thế gian không nắm được gì để có thể biến Giê-su thành một ngôi nhà phân rẽ với chính nó. Không có cách chi khiến cho thày ngờ vực chính mình, ngờ vực Thượng đế hay nghi ngờ đường tu, vì thày đã tái lập sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của thày, mà qua đó thày tiếp cận được sự thật Ki-tô sẽ tức khắc xua tan các lừa lọc dối trá của tâm phản Ki-tô.

Thày hiểu hoàn toàn là trong trạng thái tâm thức hiện tại, con vẫn mang một số yếu tố phản Ki-tô trong bản thể con. Thày hoàn toàn không chê trách gì con vì đây là hậu quả không thể tránh của việc con lớn lên trong thế giới ngày nay. Thày hiểu hoàn toàn là con có một số nghi ngờ vì con mang các yếu tố phản Ki-tô này trong con, và các nghi ngờ đó khiến con sợ hãi. Con không có lý do gì để sợ dối trá của phản Ki-tô vì con có khả năng khắc phục dối trá bằng cách với lên sự thật Ki-tô. Chừng nào con còn ở trong tâm thức nhị nguyên, chừng nào con còn tin một số lời dối nhị nguyên, tâm thức con sẽ là một ngôi nhà xây trên cát (Matthew 7:26), nghĩa là xây trên sự thật tương đối của phản Ki-tô. Nếu “sự thật” của con tương đối thì các thế lực phản Ki-tô sẽ luôn luôn nắm được gì đó trong con để chúng có thể khuynh loát con, khiến con bước vào tâm thức ngờ vực dẫn đến sợ hãi. Chừng nào con còn cho phép những yếu tố nhị nguyên ở lại trong tâm thức, trong bình chứa cái ta, con sẽ không bao giờ hoàn toàn thoát được sợ hãi. Tâm phản Ki-tô sẽ luôn luôn có cách thao túng con để con nghi ngờ chính mình hay nghi ngờ Thượng đế. Chính lòng ngờ vực này làm sợ hãi nẩy sinh.

Nếu con nghi ngờ Thượng đế sẽ bảo vệ con khỏi mọi tà ác thì con không thể tránh sợ tà ác. Khi con có sự thật của tâm Ki-tô, con sẽ biết là không có lý do gì để sợ tà ác vì nó chỉ có thể ảnh hưởng con nếu con mang một số yếu tố nhị nguyên trong tâm thức con. Khi con cho phép sự thật Ki-tô ngụ trong con và xua tan mọi bóng tối, ông hoàng của thế gian sẽ không nắm được gì nơi con nữa để mà có thể kiểm soát con qua sợ hãi, nghi ngờ hay bất cứ cảm xúc tiêu cực nào khác.

Những ý tưởng trên gắn liền với điều thày vừa nói ở đầu chương rằng ý niệm cái ta hữu diệt của con phải chết đi. Ý niệm cái ta hữu diệt của con dựa trên và sinh ra từ tâm thức nhị nguyên, nghĩa là nó hoàn toàn dựa trên những dối trá của tâm rắn. Chừng nào con – tức cái Ta Biết – còn bám giữ các yếu tố này của cái ta dựa trên nhị nguyên, con sẽ không thể tiến bộ tối đa trên đường tu tâm linh. Các thày giả, thế lực phản Ki-tô, biết điều này rất rõ, và chính vì vậy chúng đã mưu toan đặt con vào một thế lưỡng nan không lối thoát. Trong trạng thái tê liệt này, con mang một số dối trá phản Ki-tô trong bình chứa cái ta của mình, nhưng đồng thời con lại sợ nhìn chúng. Nếu con sợ nhìn vào các lừa dối của phản Ki-tô, con sẽ không có cách nào nhìn ra chúng là lừa dối, chúng là ảo tưởng, chúng không có quyền lực gì trên con. Và các lừa dối đó sẽ có quyền lực trên con mặc dù chúng không có thực thể gì hết. Chúng đích thực là ảo tưởng, nhưng chừng nào con còn sợ nhìn chúng và nhận ra chúng là ảo tưởng thì chúng sẽ nắm quyền lực trên con, chúng sẽ vẫn giam con chặt trong nhà tù tinh thần của những hạn chế, thiếu thốn, khổ ải và đau đớn.

Chừng nào con còn bám giữ ý niệm cái ta hữu diệt, hay một nét nào đó của cái ta này, con sẽ không bao giờ hoàn toàn khắc phục được các lời dối mà từ đó cái ta hữu diệt nẩy sinh. Con sẽ không bao giờ giải thoát khỏi một số ảo ảnh. Ở đầu khóa học này, thày đã cho con hình ảnh con bị giam trong một nhà tù và nhà tù này có cánh cửa với một số ổ khóa. Mỗi ổ khóa trên cửa tù tượng trưng cho một lời dối đặc thù của phản Ki-tô, một lời dối nham hiểm của rắn. Để tìm ra chìa khóa sẽ mở một ổ khoá đặc thù, con phải nhìn vào lời dối đó, con phải nhận thức được đầy đủ và có ý thức tại sao đó là một lời dối, tại sao đó là một ảo tưởng và tại sao không gì không thực có thể có quyền lực thực sự trên con.

Chắc hẳn con đã từng nghe truyện cổ tích về bộ quần áo mới của nhà vua. Con nhớ có một nhóm thợ may đến chầu vua, hứa sẽ may cho vua một bộ áo lộng lẫy nhất chưa ai từng thấy trên đời. Nhóm người này không những đã lừa được nhà vua mà toàn bộ triều đình, thậm chí cả quần dân trong nước, để ai nấy tin rằng nhà vua mặc quần áo. Sự lừa dối của họ toàn diện đến độ không một ai có thể, hay sẵn lòng, thực sự xem xét để mà nhận ra đó là một trò lừa – cho đến khi vua đi trước cặp mắt ngây thơ của một đứa bé. Rốt cuộc đứa bé ấy thốt lên: “Uả sao vua không mặc gì cả?” Trong một khoảnh khắc, tất cả mọi người bừng tỉnh, họ ngộ ra sự thật mà họ đã không thể nhìn thấy chỉ vì họ đã không sẵn lòng nhìn kỹ hơn vào trò lừa.

Con hãy suy ngẫm tình trạng tương tự trên địa cầu. Có một nhóm người thượng tôn quyền lực đang đầu thai trong cõi vật lý và đằng sau họ là một thế lực phản Ki-tô. Suốt hàng ngàn năm trời, lực lượng tổng hợp này đã xoay sở để kiểm soát hầu hết mọi người trên hành tinh. Quyền lực và hệ thống kiểm soát của họ dựa trên một loạt những lời gian dối, cho nên quyền lực của họ tồn tại và chỉ tiếp tục tồn tại chừng nào ai nấy trên hành tinh còn tin vào những lời dối đó. Thế lực phản Ki-tô này chỉ có một cách duy trì quyền lực, là giữ cho mọi người mê muội, không thể nhìn xuyên qua những lời dối làm cơ sở cho quyền lực đó. Một vũ khí họ dùng để duy trì ảo ảnh là khiến mọi người sợ nhìn vào ảo ảnh.

3.7. Nhà tù của con không có khóa

Con yêu dấu, lực phản Ki-tô này thừa biết là ngay khi con quyết định nhìn vào một trong những lời dối đó, con có tiềm năng nhìn xuyên qua nó. Họ biết là nếu con vượt quá sự thật tương đối của tâm thức nhị nguyên và tìm cầu sự thật của Ki-tô, con không thể tránh nhìn xuyên qua lời dối. Con sẽ thấy đó là một ảo tưởng, đó là một ngôi nhà xây trên cát, những bãi cát lún của tâm thức nhị nguyên. Thế lực phản Ki-tô cũng biết Giê-su đã đưa ra một lời hứa chân thực khi thày nói: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ cửa thì cửa sẽ mở ra cho con” (Matthew 7:7). Họ biết là trong tim con có chìa khóa của hiểu biết. Khi con quyết định dùng chìa khóa này của hiểu biết và thỉnh một hiểu biết cao hơn về một khía cạnh đặc thù của cuộc sống, con sẽ được trao hiểu biết cao hơn đó. Lực phản Ki-tô cũng biết là trước khi con có thể thỉnh sự thật sẽ giải thoát con, con phải khắc phục nỗi sợ nhìn vào lời dối. Con cũng phải khắc phục nỗi sợ khiến con có thành kiến và bị dính mắc với một tâm ảnh nhất định bảo rằng cuộc sống phải như thế này hay thế khác. Con phải sẵn lòng nhìn xa hơn sự thật tương đối mà hiện giờ con nghĩ là sự thật tuyệt đối. Con phải sẵn lòng mở tâm ra sự thật cao hơn của Ki-tô. Nếu con sẵn lòng bước theo lời gọi của Giê-su để trở thành giống như trẻ nhỏ (Matthew 18:3) – nghĩa là con sẵn lòng nhìn một khía cạnh nào đó của cuộc sống, nhìn một sự thật tương đối nào đó, với tâm ngây thơ và cởi mở của trẻ nhỏ – thì con sẽ được trao sự thật cao hơn của tâm Ki-tô. Và khi con có sự thật này, con sẽ có thể nhìn xuyên thấu lời dối gian và thấy đó là một ảo ảnh toàn diện, và do đó nó không có quyền lực gì trên con.

Các tà lực trên hành tinh này không có quyền lực gì trên con ngoại trừ quyền lực mà con cho chúng qua quyền tự quyết của con. Có một sự thật trong câu nói rằng nếu người ta biết tốt hơn thì người ta sẽ làm tốt hơn. Con có đồng ý chăng là nếu con biết rõ một hạn chế mình phải đối mặt dựa trên gian dối, rằng nó chẳng hơn gì một ảo ảnh, thì con sẽ có thể tự giải thoát ra khỏi hạn chế? Có lẽ con còn nhớ thuở là một đứa bé đi bộ trên vỉa hè và được bảo rằng giẫm phải vết nứt trên vỉa hè là điềm xui xẻo, hay có lẽ con từng tin một điều dị đoan tương tự của tuổi thơ ấu? Một niềm tin như thế có thể tác động rất lớn trên cách con đi đứng, thế rồi đến một thời điểm con chỉ đơn giản quyết định là chuyện đó không thể nào có thật. Từ giây phút đó trở đi, ảo ảnh không còn quyền lực trên con nữa và giờ đây con có thể tự do bước chân trên đường đời. Hãy thử tưởng tượng là suốt nhiều năm trời, con từng sống với niềm tin mình nợ ngân hàng một số tiền rất lớn, con đã lo âu không biết làm thế nào trả nợ và đời con đã khổ sở vì thế. Rồi một buổi sáng, con nhận được thư ngân hàng cho hay họ đã tính lộn và con không nợ gì hết. Liệu con sẽ tiếp tục bám giữ nỗi lo âu? Liệu con sẽ khăng khăng đòi trả hết món nợ dù đó chỉ là ảo ảnh? Hay con sẽ đơn giản bỏ nó qua bên và tiếp tục cuộc sống của mình?

Con hiện đang bị giam trong nhà tù của các giới hạn phàm phu và đau khổ. Nhà tù này chỉ thật sự hiện hữu trong tâm con và trong tâm thức tập thể của nhân loại. Nhà tù có một cánh cửa và cánh cửa thì có nhiều ổ khóa, nhưng mỗi ổ khóa tượng trưng cho một ảo tưởng, một lời dối của rắn nham hiểm. Bí mật thực sự của cuộc sống là mặc dù các ổ khoá dường như đang khóa chặt cánh cửa, không một ổ nào là khóa cả. Cái dường như đang khóa chặt cánh cửa của nhà tù con người là một loạt những ảo tưởng nẩy lên từ sự thật “tương đối”, từ các dối trá của rắn, của tâm phản Ki-tô. Kỳ thực, cánh cửa của nhà tù con người không hề được khóa!

Con đinh ninh là mình bị kẹt trong tù, nhưng trong suốt thời gian đó cửa tù vẫn mở. Con chỉ không lấy can đảm để nhìn các ổ khoá kỹ hơn và khám phá là chúng không có khả năng ngăn ai mở cửa. Người ta bị giam trong tù chỉ vì họ cứ tin vào ảo tưởng cánh cửa bị khóa. Kỳ thực, cửa tù không khóa. Khi con ngộ ra sự thật này, con có thể ngay lập tức bước đến cửa, mở cửa ra và bước ra ngoài. Và như thế con bỏ lại đằng sau các hạn chế thế phàm.

Thày biết rõ hoàn toàn là trong trạng thái tâm thức hiện tại của con, con rất khó lòng nào tin được điều thày vừa nói với con. Thế nhưng đó là sự thật tuyệt đối. Tại sao việc chấp nhận sự thật này lại khó đến vậy? Nó khó là vì con vẫn còn một số “sự thật” tương đối trong bình chứa cái ta, một số ảo tưởng mà con tin là thật. Ý niệm cái ta của con vẫn dựa trên các lời dối nhị nguyên của tâm phản Ki-tô, và chừng nào con còn bám lấy chúng, con sẽ không thể chấp nhận là cánh cửa của nhà tù con người thật ra không khóa. Mỗi lời dối hiện ra như một ổ khóa sẽ giữ con lại trong một trạng thái giới hạn, ngăn con thoát ra khỏi nhà tù con người. Chừng nào con còn tin những lời dối đó và chưa nhận ra chúng là ảo ảnh, tất nhiên con không thể chấp nhận sự thật rằng cánh cửa không khóa. Thày không chờ đợi con có thể lập tức chấp nhận là cánh cửa không khóa và cứ thế bước qua ngưỡng cửa. Đây là tại sao thày đã đến để cống hiến cho con một con đường tuần tự hầu con có thể, một cách có hệ thống, nhìn xuyên qua mỗi lời dối trong bình chứa cái ta. Khi con nhìn xuyên thấu một lời dối, con có thể gạt bỏ nó như chuyện không thực, như một ảo ảnh, rồi nhờ vậy con tự giải thoát khỏi nó. Bởi vì với mỗi lời dối con bỏ lại đằng sau, con tiến thêm một bước gần hơn việc thị hiện quả vị Ki-tô cá nhân của mình. Vào một điểm nào đó trong tương lai, có lẽ một tương lai không xa lắm, con sẽ đột nhiên đạt đến một điểm mấu chốt, một điểm không quay lại.

Trước kia khi con bước xuống dưới mức tâm thức Ki-tô, con đã khởi sự rất lần hồi nhưng cuối cùng con đã đến một điểm không quay trở lại khi con quên mất sự kết nối với Hiện diện TA LÀ của con. Bây giờ đi ngược trở lên chiếc cầu thang, con sẽ đến cùng điểm đó từ hướng ngược lại. Khi con vượt quá điểm này, con sẽ tái lập sự kết nối ý thức với Hiện diện TA LÀ. Con sẽ biết thật sự rằng đường tu có thực, rằng lời hứa của tâm thức Ki-tô là một thực tế mà con có khả năng thị hiện trong đời mình.

3.8. Tấm gương của Giê-su là sự phục sinh, không phải là nỗi thương khó

Chắc chắn con đã thấy những lâu đài cổ với một tháp tròn bằng đá, và trong tháp đá có một chiếc cầu thang vòng xoắn ốc. Phía trên cùng của cầu thang xoắn ốc là một cửa mở dẫn lên mái lâu đài tắm mình trong ánh nắng rực rỡ. Khi con bắt đầu đi xuống cầu thang xoắn ốc, ánh nắng vẫn chói rọi xuyên qua cửa, phản chiếu trên tường cầu thang. Khi con tiếp tục bước xuống, nó uốn mình cho tới một điểm con không thể nhìn xuyên qua cửa nữa để thấy trời xanh. Con không biết ánh nắng đến từ đâu nhưng con vẫn có thể nhìn thấy ánh sáng phản chiếu trên tường.

Khi con đi xuống thêm nữa, con lại đụng một điểm mấu chốt khác. Khi con đi quá điểm này, con không còn nhìn thấy ánh phản chiếu trên tường, và từ đó trở đi, con không còn bằng chứng trực tiếp nào cho thấy có ánh nắng chiếu qua cánh cửa ở đầu cầu thang. Khi con tiếp tục đi xuống, càng ngày con càng chìm vào bóng tối cho tới khi con xuống đến hầm mộ bên dưới lâu đài, và ở nơi đây thì con bị bao trùm trong bóng tối toàn diện.

Đây là một cách minh họa cho những gì xảy ra trong tâm thức con. Con khởi sự ở trên đầu cầu thang nơi con có thể trực tiếp nhìn thấy trời xanh và ánh nắng. Điều này, tất nhiên, tượng trưng cho Hiện diện TA LÀ của con và ánh sáng Thượng đế chiếu rọi qua Mặt trời của bản thể con. Khi con đi xuống cầu thang, bước xuống tâm thức nhị nguyên, con đánh mất sự kết nối trực tiếp có ý thức với Hiện diện TA LÀ của con. Con vẫn còn chút ký ức về phần cao hơn của bản thể con. Nhưng khi con đi xuống sâu hơn, ngay cả ký ức này con cũng mất, và câu hỏi duy nhất còn lại là con đã thực sự bước xuống cầu thang bao xa. Vì con đang đọc khóa học này, cho nên con đã không bước xuống đáy chót cùng của cầu thang. Hay cũng có thể con đã làm vậy trong một tiền kiếp nhưng từ lâu con đã bắt đầu leo lên trở lại. Nếu con không đi trên hành trình hướng thượng thì con đã không mở tâm ra cho khóa học này hay bất kỳ ý tưởng nào thày đang trình bày cho con.

Con nên cho phép mình nhận biết bằng nội giác rằng con đã bước chân trên con đường tâm linh rồi, con đường sẽ dẫn tới sự sống dồi dào của tâm thức Ki-tô. Con nên cho phép mình cảm thấy là con đã neo trụ trên con đường này và cảm nhận đây quả thực là một chiến thắng. Nếu con chưa bao giờ nghĩ đến chuyện này trước đây, thày yêu cầu con hãy bỏ ra chút thì giờ để quán chiếu sự kiện con đang đi trên con đường về nhà và con đã thực hiện được những tiến bộ đáng kể.

Khi con mang cảm giác mình đã neo vững trên đường tu, thày sẽ yêu cầu con suy ngẫm điều thày vừa bảo con trong chìa khóa này, cụ thể là tại sao việc cho phép ý niệm cái ta hữu diệt chết đi lại quan trọng đến thế. Cái ta hữu diệt này là một gánh nặng mà con lê theo sau lưng, một quả tạ khiến việc đi lên cầu thang xoắn ốc khó khăn một cách không cần thiết. Nếu con chịu quay đầu lại để nhìn quả tạ đằng sau, con sẽ có thể cắt sợi dây đang buộc nó với con. Khi quả tạ rơi xuống, con sẽ dễ dàng leo thang hơn rất nhiều.

Nếu con không chấp nhận sự kiện ý niệm cái ta hiện tại của con phải chết đi trước khi con có thể leo bước kế tiếp trên cầu thang xoắn ốc, con sẽ khiến cuộc sống của con gian nan hơn rất nhiều. Đường tu tâm linh có thể trở nên vất vả đau đớn đến độ nó thực sự biến thành Con đường Thương khó mà biết bao tín đồ Cơ đốc tin rằng họ phải đi theo để được cứu rỗi. Vào thời Trung cổ, hầu hết tín đồ Cơ đốc tin rằng đó là con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi, rằng đó chính là con đường Giê-su đã chứng tỏ. Họ bị ám ảnh bởi biến cố đóng đinh và nỗi khổ của Giê-su trên thập tự giá, và họ đinh ninh rằng để theo đạo Cơ đốc, họ cũng phải đau đớn như Giê-su đã đau đớn.

Vũ trụ là một tấm gương. Nếu con phóng chiếu vào tấm gương vũ trụ hình tư tưởng rằng cuộc sống là đau khổ, Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ thị hiện những điều kiện vật lý xác nhận hình ảnh của con. Đây chính là điều đã xảy ra cho nhân loại vào thời đại đen tối. Người ta quá chú tâm đến đau khổ đến độ họ đã tạo ra sự đau khổ vỏ ngoài được thể hiện trong thời đại đen tối đó. Đối với một số người trong thế giới ngày nay, điều này sẽ khó chấp nhận, nhưng dù sao thì đó là sự thật.

Người ta quá chú tâm vào khổ đau do đã chấp nhận một hình ảnh giả, một thần tượng khắc, về giáo lý của Giê-su. Mặc dù Giê-su đã có đau đớn trên cây thập tự, nhưng thày chỉ ở trên thập tự vài giờ. Toàn bộ cuộc đời của thày kéo dài đến 33 năm và mục vụ công cộng của thày thì kéo dài 3 năm. Có công bằng hay không, có phải lẽ hay không, nếu chúng ta để cho mấy giờ chót trên thập tự giá trở thành hình ảnh chủ yếu, hình ảnh quyết định mà chúng ta lưu giữ về cả cuộc đời, về sứ mạng cùng lời dạy của Giê-su? Có đến hàng ngàn và hàng ngàn người từng bị đóng đinh vào thời buổi đó. Chẳng có gì trong việc đóng đinh Giê-su khiến thày là một người đặc biệt. Điều khiến Giê-su đặc biệt là thày đã phục sinh, thày đã lại hiện ra trong thân xác tâm linh phục sinh của thày sau khi bị hành quyết. Điều khiến Giê-su đặc biệt là trước khi bị đóng đinh, thày đã chứng tỏ khả năng điều ngự của tâm trên vật chất, và điều này là bí quyết thật sự của sự sống dồi dào. Giê-su đã không đến để chứng tỏ Con đường Thương khó, một con đường khổ ải. Thày đã đến để làm chứng cho sự sống dồi dào cũng như con đường dẫn đến dồi dào. Đó là vì sao thày nói: “Ta đã đến để họ có sự sống, và có sự sống này dồi dào hơn” (John 10:10).

Giê-su đã làm chứng cho sự sống dồi dào bằng cách chữa lành người bệnh tật, vực người chết sống dậy, biến nước thành rượu, hóa bánh và cá thành nhiều, đi bộ trên nước và ban ra những lời dạy mở rộng trái tim nhiều người. Giê-su thực sự đã đến để chứng minh rằng mọi người đều có khả năng khắc phục cảm giác vật lộn, chiến đấu, và thay vào đó thị hiện sự sống dồi dào. Đâu là bí quyết để khắc phục cảm giác vật lộn? Đó là khắc phục ý niệm cái ta dựa trên hình tư tưởng rằng đời sống là một cuộc đấu tranh, cái ta khởi lên từ sự tách biệt khỏi Thượng đế và dồi dào của Thượng đế. Chỉ khi nào con khắc phục được ý niệm cái ta này thì con mới ngừng phóng chiếu hình ảnh đấu tranh vào tấm gương vũ trụ. Chỉ khi nào con ngừng phóng chiếu hình ảnh như vậy thì tấm gương mới ngừng phản chiếu lại cho con những điều kiện vật chất biến cuộc sống thành một cuộc chiến đấu. Chìa khóa là nhận ra con là nhiều hơn hình ảnh giới hạn đó về chính mình. Thực tại đích thực của con là cái Ta Biết, nhưng con chỉ nhìn xuyên qua ý niệm cái ta hữu diệt, gần như thể con đang mang một cặp kính màu. Khi con cho phép cái ta hữu diệt chết đi, điều này không có nghĩa là cá thể của con sẽ chết, vì cái Ta Biết không thể nào chết. Cho phép cái ta hữu diệt chết đi có nghĩa là cái Ta Biết sẽ được tự do để nhận lấy một ý niệm cái ta cao hơn, cái Ta Biết được tái sinh vào ý niệm cái ta tâm linh của con.

3.9. Hãy nhận tình yêu của thày

A con yêu dấu, con có cảm được Hiện diện của thày với con chăng khi thày trao cho con những lời này? Con có cảm được tình thương mãnh liệt từ trái tim một người Mẹ, là tình thương của Mẹ không ao ước gì hơn thấy những đứa con yêu của mình thoát khỏi nỗi sợ bóng tối? Con có cảm được lòng thày muốn ôm con chặt trong vòng tay ấm áp, muốn nói với con rằng con không có gì phải sợ và mọi chuyện sẽ yên lành? Con có cảm được lòng thày muốn vuốt tóc con, muốn lau nước mắt trên má con, muốn nhìn thẳng vào mắt con và nói: “Con ơi, mọi chuyện sẽ tốt lành. Hãy quên đi quá khứ, hãy bước ra khỏi hầm tối nơi con từng run sợ, hãy bước vào nắng ấm sẽ làm tan chảy mọi sợ hãi của con.”

Thày là người Mẹ tâm linh của con và thày ở đây để giải thoát con. Hầu giải thoát con khỏi mọi hạn chế, trước hết thày phải giải thoát con khỏi nỗi sợ khiến con sợ nhìn vào lời dối nằm ngay tâm điểm của mỗi hạn chế con phải đối mặt. Con hãy nắm lấy tay thày và chúng ta cùng chạy vào ánh nắng, chúng ta cùng bật cười để tan đi nước mắt, tan đi những nỗi sợ của cái ta hữu diệt. Thay vào đó, hãy đón chào mặt trời của ngày mới, ý niệm cái ta mới, nhờ vậy con quên đi cái ta cũ. Trong sự quên lãng này, con cho phép cái ta cũ chết đi mà không để ý thấy là nó không còn. Con giống như đứa bé mải vui đùa với đồ chơi mới đến độ nó quên bẵng mất đồ chơi cũ, cái đồ chơi đã mòn nát trên bãi chơi cuộc đời. Con chú tâm vào cái ta mới đến độ con quên tất cả về cái ta cũ, vì vậy con được tái sinh vào một ý niệm bản ngã mới, vào một bản thể mới. Con được tái sinh vào niệm tinh khôi được cất giữ vĩnh hằng trong tâm Ki-tô nhưng cũng được giữ chặt trong trái tim của Mẹ tâm linh của con. Thày đang giữ chặt niệm tinh khôi cho con, như thày đã từng giữ cho Giê-su cho đến ngày sứ mạng của Giê-su thành tựu.

Thày yêu con và tình yêu của thày vô điều kiện. Thày biết rõ tiềm năng thật của con và thày sẵn lòng giúp con vươn lên trên mọi điều kiện đang ngăn con biểu hiện tiềm năng này trọn vẹn trên trái đất. Con hãy nắm lấy tay thày và thày sẽ bước đi với con, y như thày đã bước với Giê-su trên mỗi bước đường dẫn Giê-su đến quả vị Ki-tô cùng sự thăng thiên vào ánh sáng.

1 | Con là một người đồng-sáng tạo

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 12/4/2005.

Trái tim yêu dấu của thày, con có thể tự hỏi làm thế nào một sinh thể được thiết kế như một người đồng-sáng tạo với Thượng đế – một sinh thể đi ra từ cái Tất cả của tâm thức Thượng đế, một sinh thể thật sự là Thượng đế đang biểu hiện như một dòng sống cá biệt – lại có thể đánh mất sự nhận biết về cái Tất cả nơi nó xuất phát. Đây là một câu hỏi mà con có thể lợi lạc khi quán chiếu.

1.1. Bí ẩn về sự cá biệt trong cái Tất cả

Câu hỏi này không có câu trả lời độc nhất vì mỗi người đồng-sáng tạo được thiết kế như một cá thể độc đáo. Lý do chính xác đã khiến con mất nối kết với nguồn cội của con sẽ không giống như một người khác. Chìa khóa để hiểu được bí ẩn này là suy ngẫm nan đề làm thế nào con cân bằng được việc biết mình là một sinh thể cá biệt, nhưng đồng thời mình cũng là một biểu hiện của cái Tất cả của Bản thể Thượng đế. Đây là thử thách chủ chốt đi kèm với món quà được ban cho con là cá thể và quyền tự quyết của con. Chưa có người đồng-sáng tạo nào đã có thể tránh né thử thách này. Nhiều người đã khá dễ dàng đáp ứng được thử thách, nhưng nhiều người khác phải mất nhiều thời gian mới giải được bí ẩn. Một phần đáng kể những người đồng-sáng tạo, kể cả hầu hết mấy tỷ dòng sống hiện đang cư ngụ trên hành tinh trái đất, vẫn chưa giải quyết được bí ẩn, chưa giải đáp được câu đố về cá thể con người.

Bí quyết để giải đáp bí ẩn là nhận ra ý nghĩa việc con là một sinh thể cá biệt. Con là ai, con là gì, đâu là cốt lõi của bản sắc con? Mọi tạo vật đều khởi đầu với điểm dị biệt (singularity) của Đấng Sáng tạo. Ở khởi đầu duy chỉ có Thượng đế, Đấng Sáng tạo, và Thượng đế đã là – và đang là – một Sinh thể trọn đủ. Đấng Sáng tạo có khả năng tự nhận biết và ngài có một ý niệm rõ ràng về bản sắc của mình. Đấng Sáng tạo khởi sự bằng cách tạo ra hai lực cơ bản, là lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ. Hai lực này không chỉ đơn giản là lực vô tri như các lực tự nhiên mà con vốn thấy trên hành tinh trái đất, chẳng hạn như trọng lực và từ lực.

Hai lực tâm linh cơ bản này được chỉ đạo bởi hai sinh thể có tự nhận biết, là hai vị đồng-sáng tạo đầu tiên xuất thân từ Đấng Sáng tạo. Hai sinh thể này được Kinh thánh gọi là Alpha và Omega, sự khởi đầu và sự kết thúc. Họ không tách rời khỏi Đấng Sáng tạo mà thực sự là những phần nối dài, những cách hiển thị của Đấng Sáng tạo. Đó là tại sao Thánh kinh có ghi câu: “Ta là Alpha và Omega, sự khởi đầu và sự kết thúc – Thượng đế phán như vậy, tức là Đấng hiện có, đã có và còn đến, Đấng toàn năng” (Revelation 1:8). Vậy thì chúng ta có Đấng Sáng tạo đã tự biểu hiện là hai sinh thể tự nhận biết, hai đấng đồng-sáng tạo. Mỗi sinh thể này đều có khả năng tự nhận biết cho nên cũng có một ý niệm về cái ta, biết mình là một sinh thể riêng biệt, một cá thể riêng biệt. Bởi vì Alpha và Omega được Đấng Sáng tạo sinh tạo trực tiếp, cho nên sự nối kết của họ với Đấng Sáng tạo vững chắc và trực tiếp đến độ một sinh thể ở cấp này khó lòng nào đánh mất ý thức về mối nối kết đó, về sự hợp nhất đó.

1.2. Cây sự Sống

Alpha và Omega tạo ra hậu duệ, và có một số sinh thể tự nhận biết đã xuất thân trực tiếp từ Alpha và Omega. Sau đó những đứa con trực tiếp của Alpha và Omega tạo ra hậu duệ riêng của mình, rồi cứ thế xuyên qua nhiều bầu cõi sáng tạo. Không một hình ảnh đường thẳng nào có thể mô tả hoàn toàn chính xác thực tại tâm linh. Vì tâm con vẫn còn bị lập trình theo lối suy nghĩ đường thẳng quá đỗi, cho nên thày đang cố làm chuyện bất khả thi là mô tả sự thể này một cách đường thẳng. Tất cả mọi sinh thể tự nhận biết trong toàn bộ thế giới hình tướng đều là phần tử của cùng một dòng dõi dẫn ngược trở lên một Đấng Sáng tạo duy nhất. “Không có ngài thì không có tạo vật nào được tạo thành.” Nếu lấy hình minh họa một cây gia phả, chúng ta có thể thấy cây gia phả có nhiều nhánh tượng trưng cho nhiều thế hệ khác nhau. Con càng xa Đấng Sáng tạo bao nhiêu trên Cây sự Sống thì sự nối kết của con với Đấng Sáng tạo sẽ càng xa cách bấy nhiêu. Con càng xa Đấng Sáng tạo bao nhiêu thì con sẽ càng dễ đánh mất ý thức về sự nối kết này. Con có thể quá chú tâm vào cá thể riêng của mình đến độ cuối cùng con quên bẵng mất nguồn cội của mình, và con xem mình là một sinh thể tách biệt đang trôi nổi giống như con thuyền trôi dạt trên đại dương bất tận.

Nhưng hình ảnh cây gia phả cũng có những hạn chế nghiêm trọng khi con xem đến Thân thể Thượng đế, Cây sự Sống. Trong một cây gia phả bình thường, con sinh ra ở một vị thế nào đó và con không thể thay đổi vị thế này. Nhưng trong Thân thể Thượng đế, mỗi sinh thể tự nhận biết cho dù xuất thân từ đâu, đều có cơ hội vươn lên xuyên qua các tầng cấp khác nhau cho đến khi rốt cuộc nó đạt đến tâm thức trọn vẹn của Thượng đế. Và cũng giống như vậy, một sinh thể tự nhận biết có thể tuột xuống dưới mức nó đã sinh ra, và do đó nó có thể xa cách tâm thức Thượng đế nhiều hơn nữa.

Điều gì sẽ định đoạt con lên cao hơn hay xuống thấp hơn trên Cây sự Sống? Yếu tố quyết định là ý niệm cái ta của con, sự tự nhận biết của con, ý niệm bản sắc của con. Con sinh ra trong một gia đình nào đó và gia đình con có một dòng dõi có thể truy ngược lên nhiều thế hệ. Gen của con và cách nuôi dạy đã ảnh hưởng đến con người mà con là hôm nay, con người mà con xem mình là. Điều nhiều người không nhận ra là ý niệm bản sắc của con không hề cố định. Mặc dù nó có thể bị tác động bởi những lực bên ngoài, con có tiềm năng nắm chủ động cái ta của mình, thay đổi ý niệm cái ta theo viễn quan cao nhất của con.

Cơ thể vật lý của con là sản phẩm các gen di truyền trong gia đình con, và sự dạy dỗ con nhận được là sản phẩm của thế giới quan cùng nền văn hóa gia đình và xã hội. Nhưng con vẫn là một cá nhân riêng biệt, và con có khả năng vươn lên cao hơn nguồn gốc gia đình con theo nhiều cách, như nhiều người đã chứng tỏ. Vì con thực sự là một sinh thể tâm linh cho nên con có quyền tự do hoàn toàn để vươn lên cao hơn ý niệm bản sắc hiện tại của con, thậm chí vươn lên cao hơn cả ý niệm bản sắc mà cá thể con được sinh tạo. Cốt lõi con người con là ý niệm cái ta, ý niệm bản sắc của con.

1.3. Bản sắc của con không cố định bất biến

Khi Đấng Sáng tạo ban cho con khả năng tự nhận biết, khả năng tưởng tượng và quyền tự quyết, ngài đã tạo ra một sinh thể không có bản sắc cố định bất biến. Theo nghĩa đen con chính là con người mà con nghĩ mình là, con là con người mà con thấy mình là. Nếu con thấy mình là một đứa con của Thượng đế thì con chính là con của Thượng đế. Nếu con thấy mình là môt người phàm trần hữu diệt (mortal) thì con chính là một người phàm trần hữu diệt, ít ra trong thế giới của thời gian và không gian. Con có khả năng thay đổi ý niệm bản sắc của con, thay đổi nhận biết về mình bằng cách dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết của mình. Con có thể quên hay phủ nhận mình là con trai hay con gái của Thượng đế và thay vào đó hình dung, chấp nhận bản sắc mình là một kẻ tội đồ hữu diệt. Cũng vậy, con có khả năng bỏ lại đằng sau ý niệm bản sắc giới hạn của một người phàm trần và đòi lại bản sắc thực mà con đã có khi bước vào hiện hữu. Xong con có thể xây dựng dựa trên niệm tinh khôi đó và trở nên nhiều hơn nữa so với khi con được sinh tạo, và đây chính là kỳ vọng mà Đấng Sáng tạo dành cho con.

Để hiểu được những khái niệm này, có thể con sẽ cần một chút suy tư bằng trái tim, vì tâm phân tích sẽ không thể giải quyết những gì có vẻ mâu thuẫn đối với nó. Tâm Ki-tô Hoàn vũ lưu trữ bản mẫu thiêng liêng, niệm tinh khôi của cá thể con, là cá thể được ban phú cho con khi dòng sống của con lần đầu tiên bước vào hiện hữu. Bản mẫu này không bao giờ có thể bị mất, và sinh thể tâm linh lớn hơn mà từ đó con xuất phát sẽ tồn tại ở cõi tâm linh cho dù con có làm gì ở đây trên trái đất. Trên hết và trước hết, sinh thể tâm linh này là Hiện diện TA LÀ của con, nhưng Hiện diện TA LÀ của con là một thành phần của cây gia phả đi ngược trở lên Đấng Sáng tạo, có thể xuyên qua nhiều thế hệ hay cấp bậc. Như một sinh thể cá biệt, con là nhiều hơn Hiện diện TA LÀ của con, nhiều hơn cây gia phả của con và nhiều hơn cả Đấng Sáng tạo của con. Khi thày nói “nhiều hơn,” thày không có ý so sánh như thể con hơn Thượng đế. Điều thày muốn nói là con có một ý niệm tự nhận biết đặc thù vượt ngoài sự tự nhận biết của Đấng Sáng tạo cùng các thành viên trong gia đình tâm linh của con.

1.4. Hai khía cạnh của tự nhận biết

Con có một ý niệm tự nhận biết đặc thù, và ý niệm này gồm có hai khía cạnh: một là “nhận biết,” hai là “tự” – hay cái ta. Con nhận biết là con hiện hữu, con có bản thể, con mang sự sống. Nhận biết này tập trung vào cái con xem là “cái ta” của con, bản sắc của con. Nhận biết của con là bình chứa bản thể con, và ý niệm cái ta là nội dung trong bình chứa bản thể của cá nhân con. Nhận biết đem lại cho con hiện hữu, và cái ta thì đem lại cho sự hiện hữu của con một trọng tâm cụ thể và từ đó một cách để con tự biểu đạt trong thế giới hình tướng.

Sự nhận biết độc lập với cái ta, theo nghĩa là nó không tùy thuộc bất kỳ hình tướng nào. Nó có thể tồn tại như là nhận biết thuần khiết mà không tập trung vào – hay xuyên qua – một cá thể đặc thù, và chính nhận biết này là cốt lõi của bản thể Thượng đế. Thượng đế tối thượng là một trạng thái nhận biết thuần khiết, và nhận biết này thì vượt khỏi hình tướng, có nghĩa là nó không bao giờ có thể bị mất hay chia cắt. Nó có thể biểu đạt qua một hình tướng cụ thể, qua một cái ta cá nhân, bởi vì “không có ngài thì không tạo vật nào được tạo thành”. Nội dung của cái ta cá nhân này có thể che mờ nhận biết thuần khiết, thế nhưng nhận biết thuần khiết thì bất biến và trường cửu. Như một câu tục ngữ Ấn cổ đã nói: “Con người đến và con người đi, nhưng Ta thì tiếp tục mãi mãi.”

Ý niệm cái ta có thể thay đổi, tùy thuộc vào cách con nhìn mình như thế nào, con tưởng tượng mình ra sao, và con quyết định cái gì là thực và là một phần của chính con. Nó tùy thuộc hoàn toàn vào nội dung mà con bỏ vào bình chứa cái ta, và tất nhiên, ý niệm cái ta của con có thể bị ảnh hưởng bởi thế giới hình tướng. Đây là tại sao cái Ta Biết có thể bị lạc trong hình tướng và quên mất nhận biết thuần khiết là nguồn cội của nó. Con có thể thay đổi nhận biết về mình bằng cách thay đổi ý niệm cái ta, thay đổi nội dung bình chứa bản thể của con.

Nhận biết của con giống như một tờ giấy trắng, và trên tờ giấy này Đấng Sáng tạo đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp về bản mẫu thiêng liêng của con. Khi con bắt đầu chấp nhận một ý niệm thấp hơn về cái ta thì con dùng mực đen vẽ nguệch ngoạc lên giấy. Nếu con cứ tiếp tục làm vậy, rốt cuộc sẽ tới điểm những nét vẽ nguệch ngoạc này không chỉ che phủ bản mẫu thiêng liêng của con mà cả tờ giấy trắng bên dưới. Nhận biết thuần khiết và khuôn đúc cái ta tâm linh của con bị che lấp bởi một mạng lưới chằng chịt những gạch đen không có cấu trúc rõ ràng nào. May mắn thay, gạch đen không dùng mực không thể tẩy xóa mà được vẽ lên một tấm nhựa trong, có nghĩa là cả tờ giấy trắng lẫn bản mẫu ban đầu vẫn nguyên vẹn, không hề gì.

Trước khi một hình tướng cụ thể có thể được tạo ra, nó phải hiện hữu như một tâm ảnh trong tâm có tự nhận biết. Cái tâm tự nhận biết mà thày vừa gọi là Tâm Ki-tô Hoàn vũ là kho lưu trữ vĩnh viễn cho tâm ảnh, cho bản mẫu mô tả cá thể của con, cá thể mà con đã có khi được sinh tạo. Khi con phát triển khả năng tự nhận biết, đúng ra con sẽ xây dựng thêm trên nền tảng đó và khuếch trương ý niệm cái ta để con trở thành nhiều hơn những gì con đã là lúc ban đầu. Khi con đồng-sáng tạo thuận theo các định luật của Thượng đế, ý niệm cái ta mà con khuếch trương cũng sẽ được ghi lại trong tâm thức Ki-tô. Một khi đã thu hoạch thì thành tựu của con không bao giờ có thể bị mất.

1.5. Cái Ta Biết là cái nó thấy nó là

Trước khi một hình tướng có thể hiển thị, tâm ảnh phải được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Tâm ảnh, bản mẫu cho bản sắc cá nhân của con, không phải là một sinh thể tự nhận biết có khả năng bước vào thế giới hình tướng và hành xử ngay như một người đồng-sáng tạo. Bản mẫu, niệm tinh khôi, chỉ là một ý tưởng được giữ trong tâm của Sinh thể tâm linh lớn hơn nơi con đã xuất thân. Đó là một sinh thể mang tiềm năng chứ không là một sinh thể đã hiển thị. Cái đi vào thế giới hình tướng là cái Ta Biết, là cái ta tự nhận biết của con, nó nhận biết chính nó là một sinh thể riêng biệt có cá thể. Thượng đế trước hết tạo ra bản mẫu cho bản thể con, nhưng bản mẫu này chỉ trở nên sinh động khi ngài thổi sự sống vào nó bằng cách cho phép một phần Bản thể ngài làm linh hoạt cái ta với nhận biết thuần khiết.

Khi ý niệm cái ta lần đầu tiên được tạo ra, tất nhiên nó hoàn toàn thẳng hàng với bản mẫu thiêng liêng của con. Đến khi nó du hành vào thế giới hình tướng và sử dụng trí tưởng tượng cùng quyền tự quyết của nó, nó có thể trở nên nhiều hơn hay ít hơn bản mẫu nguyên thủy. Bản mẫu thiêng liêng cho bản sắc của con được lưu trữ vĩnh viễn trong Tâm Ki-tô Hoàn vũ, nhưng cái Ta Biết, tức ý niệm cái ta hiện thời của con, bất cứ lúc nào cũng là cái nó nghĩ nó là, cái nó thấy nó là. Có nghĩa là khi con thay đổi nhận biết về mình thì con người cũ của con, ý niệm cũ về cái ta, sẽ chết đi và không còn nữa. Khi một hạt lúa nảy mầm trên mặt đất, hạt lúa đó không còn nữa. Nó đã biến thành mầm và hạt thì không còn hiện hữu. Khi mầm mọc thành cây thì đến lượt mầm không còn nữa. Nó vẫn hiện hữu như một khái niệm, nhưng nó không hiện hữu như một thực tế hiển thị vì nó đã được thay thế bởi cây lúa.   

Điều này nghe có vẻ trừu tượng nhưng con hãy nhìn trải nghiệm của mình trong kiếp sống này mà xem. Khi con lên 5, con không nhìn thế giới hay nhìn chính con giống như bây giờ. Con có một tầm nhìn khác, rất có thể một tầm nhìn hạn hẹp hơn. Ngày hôm nay đứa bé đó ở đâu? Thực tế là nó không còn tồn tại. Thân xác đứa bé không đang tồn tại trong hình dạng thuở trước nữa, mà sự tồn tại này chỉ kéo dài ở chỗ nó đã lớn lên thành thân xác hiện thời của con. Ý niệm cái ta của đứa bé 5 tuổi cũng không tồn tại trong dạng cũ vì nó đã phát triển thành ý niệm cái ta mà con đang có hôm nay. Thày phải cảnh báo là cách ẩn dụ này có một số giới hạn vì những gì đã xảy ra cho con vào tuổi thơ ấu có thể đã tạo ra những vết thương tâm lý vẫn ảnh hưởng con đến ngày nay. Tuy vậy, ẩn dụ này vẫn minh họa được sự kiện là sự tự nhận biết có mặt trước đây đã được thay thế bởi một ý niệm rộng lớn hơn về cái ta.

1.6. Cái chết của cái ta tâm linh

Thày khuyến khích con hãy quán chiếu điều này trong tim và tìm kiếm cái hiểu trực giác từ bên trong vượt ra khỏi những lời thày đang trao cho con. Khi lần đầu tiên con dấn thân vào thế giới hình tướng trong tư cách một sinh thể riêng biệt, ý niệm cái ta mà con mang là sự biểu đạt của bản mẫu thiêng liêng của con, là cá thể mà Thượng đế đã ban cho con. Trong một thời gian, con đã xây dựng thêm ý niệm cái ta này. Rồi ở một điểm nào đó trong quá khứ xa xôi, con bắt đầu đi theo hướng ngược lại. Con bắt đầu thu hẹp ý niệm cái ta của con thay vì khuếch trương. Thay vì mở rộng nối kết với Hiện diện TA LÀ, con đã bắt đầu hạn chế dần mối nối kết này. Con giới hạn ý niệm cái ta của con và chú tâm nhiều hơn vào nội dung của bình chứa bản thể, dần dần quên mất chính bình chứa. Con tập trung hơn vào ý niệm cái ta mà con đã tạo dựng dựa trên trải nghiệm của mình trong thế gian thay vì ý niệm cái ta bất tử được lưu giữ trong tâm Ki-tô.

Lúc đầu đây là một diễn biến xảy ra từ từ, nhưng đến một thời điểm then chốt, con vượt quá điểm có thể quay ngược – mặc dù luôn luôn có khả năng con quay trở lại bản mẫu thiêng liêng của con. Một khi con đã vượt quá điểm này, con bị kẹt lại trong ý niệm cái ta hạn chế mà con đã tạo dựng. Con đánh mất sự kết nối ý thức với Hiện diện TA LÀ và do đó con quên mất nguồn cội thực của mình. Ý niệm cái ta của con không còn dựa trên sự kiện con là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ, vĩnh viễn nối kết với Hiện diện. Giờ đây con dựng lên một ý niệm cái ta mới dựa trên sự tách biệt với Hiện diện TA LÀ, hay đúng hơn tách biệt với hình ảnh về Thượng đế mà con đã xây đắp từ các tư tưởng được tìm thấy trong thế gian.

Chắc hẳn con từng đặt một nồi nước lên bếp và bật lửa. Trong một thời gian, nước dần dần hâm nóng và con không thấy có gì thay đổi. Nhưng khi nước nóng đến một nhiệt độ nhất định, sẽ có bong bóng nổi lên và chỉ ít lâu sau, nước lặng biến thành nước sôi sùng sục. Nếu con tiếp tục đun nồi nước, cuối cùng toàn bộ khối nước sẽ bốc lên thành hơi. Các phân tử nước vẫn còn ở đó, nhưng chúng đã khoác lấy một hình dạng khác hẳn, không còn là nước lỏng nữa. Bây giờ chúng hiện ra dưới dạng hơi nước, một dạng vô hình với những đặc tính khác nước lỏng. Mặc dù phân tử nước vẫn tồn tại nhưng nồi nước con đã đặt lên bếp lửa không còn nữa.

Trong một tiến trình rất lần hồi, con bắt đầu chìm xuống một ý niệm bản sắc thấp hơn. Lúc đầu hầu như con không nhận thấy là mình đang tách ly khỏi Hiện diện TA LÀ thay vì tiến lại gần hơn. Rồi đến một điểm sự nối kết của con với Hiện diện TA LÀ bị thu hẹp đến một giai đoạn quyết định, và thật đột ngột con đánh mất sự nhận biết ý thức về mối nối kết đó. Đây đúng là chuyện xảy ra chớp nhoáng. Con có thể hình dung con kéo căng một sợi dây cao su nhiều lần mà không làm nó đứt, luôn luôn có thể đưa nó về hình dạng nguyên thủy. Thế rồi tới điểm nó đứt thì ngay lúc đó con không thể đem nó về hình dạng nguyên thủy được nữa. Sự thể này được minh họa trong câu đồng dao quen thuộc về anh chàng Humpty-dumpty bị ngã nặng. Tất cả voi ngựa lẫn quân lính của nhà vua – tượng trưng cho bất kỳ thế lực nào của thế giới vật chất – cũng không thể gắn lại cho Humpty liền lặn như cũ.

Trước khi con đánh mất nối kết ý thức với Hiện diện TA LÀ của con, con vẫn coi mình là một sinh thể tâm linh nối kết với một cái gì lớn hơn mình, nối kết với một cái gì vượt ngoài thế giới vật chất. Sau khi con đi quá điểm tách biệt thì con thấy mình là một cá nhân riêng biệt, tách rời khỏi cái mà giờ đây con nhận thức là một Thượng đế bên ngoài, và tách rời khỏi các sinh thể tự nhận biết khác. Con không còn xem mình là một sinh thể tâm linh mà một sinh thể bị giam cầm trong giới hạn của thế giới vật chất, giới hạn của thời gian và không gian. Sự thay đổi này gây ấn tượng rất mạnh, mạnh đến nỗi cái biết về mình như một sinh thể tâm linh, cái ta mà con là trước khi tách biệt, lăn ra chết. Ý niệm cái ta mà con đã có trước khi đi quá điểm then chốt đó, không còn nữa. Nó đã được thay thế bằng một ý niệm cái ta mới không còn dựa trên sự nối kết với nguồn cội mà dựa trên sự tách biệt khỏi nguồn cội của con. Cái Ta Biết vẫn duy trì một sự tồn tại liên tục, nhưng nội dung của bình chứa cái ta đã khác hẳn – có thể còn đi ngược lại – bản mẫu thiêng liêng của con.

1.7. Ẩn dụ trong câu chuyện Adam và Eva

Hành trình đi xuống một ý niệm cái ta thấp hơn được Thánh kinh mô tả trong câu chuyện Sa ngã của Adam và Eva. Ngược với niềm tin phổ biến nơi các cộng đồng chính thống, đúng lý câu chuyện này không bao giờ được hiểu theo nghĩa đen. Câu chuyện không mô tả hai vị tổ tiên của toàn bộ nhân loại, mà thay vào đó minh họa cho quá trình sa ngã – sa ngã xuống một ý niệm cái ta thấp hơn, một trạng thái tâm thức thấp hơn – mà mỗi con người đang sống trên địa cầu đều đã trải qua trong quá khứ xa xôi, nghĩa là nhiều kiếp trước đây. Nếu con có thể chấp nhận sự thật này, con sẽ học được những bài học quý báu từ câu chuyện Adam và Eva. Còn nếu con không chấp nhận, con sẽ tiếp tục kẹt lại trong cách diễn giải chính thống. Nhưng nếu con dính mắc với cách diễn giải chính thống thì con đã không đang đọc loạt bài này – con đã từ lâu gán cho nó một cái nhãn dị giáo hay báng bổ.

Con yêu dấu, con hãy xem xét câu chuyện Adam và Eva. Con sẽ nhận thấy có một người nam và một người nữ. Con sẽ nhận thấy câu chuyện kể rằng Adam được tạo trước, rồi Eva mới được tạo ra từ chiếc xương sườn của Adam. Kỳ thực điều này nhằm minh họa cho sự kiện Hiện diện TA LÀ của con là khía cạnh nam, hay tâm linh, của toàn bộ bản thể con. Cái Ta Biết, ý niệm cái ta đã bước xuống thế giới vật chất, là thái cực nữ của toàn bộ bản thể con. Hiện diện TA LÀ của con ngụ vĩnh hằng nơi cõi tâm linh và không bị bất cứ gì xảy ra trong thế gian này ảnh hưởng. Không phải Hiện diện TA LÀ bị Rắn dụ dỗ rồi rơi vào tâm thức tách biệt, tâm thức nhị nguyên, mà là khía cạnh nữ của bản thể con, cái Ta Biết, đã bị dụ cắn vào tâm thức nhị nguyên, tâm thức của thiện ác tương đối. Đây chính là tâm thức khiến con nghĩ rằng con có thể chế ra định nghĩa riêng của mình về thiện và ác thay vì chấp nhận định nghĩa tuyệt đối của tâm thức Ki-tô – rằng thiện có nghĩa là thuận theo các định luật của Thượng đế, và ác có nghĩa là đối nghịch lại tổng thể.

Trong câu chuyện Adam và Eva, con thấy Eva bị dụ dỗ bởi một cái gì bên ngoài nàng. Có mấy cách diễn giải có giá trị về Rắn sẽ minh họa những khía cạnh khác nhau của quá trình Sa ngã. Trong khuôn khổ cuộc thảo luận của chúng ta hôm nay, thày muốn dùng cách diễn giải rộng nhất, phổ quát nhất, và nói rằng Rắn biểu tượng cho một trạng thái tâm thức là bạn đồng hành tất yếu cho quyền tự quyết của con. Khi Thượng đế ban cho con quyền tự quyết, điều không thể tránh khỏi là con đạt được khả năng đi ngược lại các định luật của ngài thay vì tuân theo. Đây là sự cám dỗ đi kèm với sự kiện con là một sinh thể tự nhận biết với trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Con tưởng tượng ra chuyện khả thi là mình có thể đi ngược lại định luật của Thượng đế và con có thể quyết định làm như vậy. Cám dỗ này luôn luôn có mặt như một tiềm năng, nhưng con không bắt buộc phải tham gia, đắm mình vào đó. Một người đồng-sáng tạo có tự nhận biết hoàn toàn có khả năng gạt bỏ cám dỗ này và tiếp tục đồng-sáng tạo trong khuôn khổ định luật Thượng đế. Nhưng một số người đồng-sáng tạo lại chọn nhìn vào cám dỗ, rồi bắt đầu phân vân không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra nếu mình quyết định đi ngược lại định luật Thượng đế và phớt lờ sự hướng dẫn từ Trên.

1.8. Thử nghiệm trong vô minh

Những tính toán này khởi lên trong tâm, tâm lý luận, tâm phân tích. Chúng khởi lên vì khi con là một người đồng-sáng tạo tân lập thiếu kinh nghiệm, con chưa có cái hiểu ý thức trọn vẹn về các định luật của Thượng đế. Con không hiểu trọn vẹn là các định luật này không hề hạn chế tự do sáng tạo của con, mà chỉ bảo vệ quyền tự do đó hầu con có thể biểu hiện cá thể con trong sự hài hòa với Thân thể Thượng đế. Vì mức tự nhận biết của con khuếch trương chưa đủ, con chưa hiểu rằng con là một với Thân thể Thượng đế, cho nên những gì con làm tới người khác thì con cũng làm tới chính con. Con chưa hiểu trọn vẹn rằng việc tuân thủ định luật của ngài là một việc làm có lợi cho con – vừa có lợi, vừa minh triết.

Do hiểu hạn chế như vậy mà có thể con đã phân vân không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu mình quyết định đi ngược lại định luật và chỉ đạo của Thượng đế. Có thể con đã bắt đầu cảm thấy định luật của ngài hạn chế tự do sáng tạo của con, và con phải được phép thử nghiệm khả năng sáng tạo mà không bị bất cứ gì cầm chân. Kỳ thực con luôn luôn được phép thử nghiệm với sáng tạo của mình, nhưng vì vũ trụ vận hành như một tấm gương cho nên không thể tránh được chuyện con phải gặt mỗi khi con gieo. Luật của Thượng đế được thiết lập để đảm bảo con chỉ gặt những kết quả tích cực sẽ khuếch trương cuộc sống của con lẫn cuộc sống của toàn bộ Thân thể Thượng đế. Luật của Thượng đế không thực sự giới hạn con, và cảm nhận giới hạn xuất phát từ một cái hiểu hạn chế về sự sống.

Con khởi đầu với một hiểu biết giới hạn về cách vận hành của thế giới nhưng Thượng đế không bỏ con một mình trong hiểu biết giới hạn đó. Câu chuyện vườn Eden kể rằng Adam và Eva đã bước đi và nói chuyện với Thượng đế. “Thượng đế” này không phải là Thượng đế trong nghĩa tối thượng mà là một đại diện của Đấng Sáng tạo trong vai trò thày tâm linh cho dòng sống của con. Vì ý niệm cái ta của con còn mới và thiếu kinh nghiệm, con vẫn là một đứa con của Thượng đế chưa trở thành một người đồng-sáng tạo hoàn toàn ý thức. Khi con bắt đầu sử dụng khả năng sáng tạo của mình và ý thức hơn về quyền năng của trí tưởng tượng và quyền tự quyết, con cũng bắt đầu ý thức hơn về quả trái của cây hiểu biết thiện ác. “Cây” này biểu tượng cho sự kiện con có chọn lựa đi ngược lại các định luật của Thượng đế một cách cố tình và tự cắt mình ra khỏi nguồn cội của mình hay không. Khi con biết trái cây này nhiều hơn, con bị dụ dỗ cắn vào hầu tìm xem chuyện gì sẽ xảy ra. Vị thày tâm linh trong vườn biết rõ chuyện gì sẽ xảy ra nếu con ăn trái. Vì con chưa hiểu trọn vẹn tại sao việc tuân thủ định luật Thượng đế mang lại lợi ích cao nhất cho con, vị thày phải cho con một hiểu biết giới hạn hơn. Điều này có thể so sánh với khi con dạy một đứa trẻ không nên chạm vào bếp nóng kẻo phỏng tay. Trẻ con chưa đủ kinh nghiệm để hiểu được phỏng tay có hậu quả thế nào, và trong cương vị cha mẹ có trách nhiệm, con không muốn nó bị phỏng. Con cố dạy đứa bé không nên chạm bếp nóng mặc dù nó không hiểu tại sao.

Vị thày trong vườn Eden đã dặn các sinh thể tự nhận biết dưới sự hướng dẫn của mình rằng nếu họ dự phần vào trái cây hiểu biết về thiện ác, chắc chắn họ sẽ chết. Nhiều người tâm linh nhìn vào câu chuyện này đã suy đoán rằng chắc hẳn vị Thượng đế trong vườn đã nói dối Adam và Eva. Vì thật vậy, họ đã ăn trái và đã không chết, mà họ bị đuổi ra khỏi vườn. Đây là cách suy luận với cùng tầm hiểu hạn hẹp đã khiến cho vị thày trong vườn không thể giải thích tại sao họ không nên ăn trái. Khi ý niệm cái ta của con đi quá điểm then chốt và đánh mất sự nối kết ý thức với Hiện diện TA LÀ, đúng là ý niệm cái ta đó đã chết và không còn nữa. Đây là điều vị thày biết rõ nhưng những người đồng-sáng tạo thiếu kinh nghiệm kia thì không thể nắm bắt. Họ chưa đủ tự nhận biết để biết rằng con chính là con người mà con nghĩ con là.

Nếu con bỏ một con ếch vào nồi nước sôi, nó sẽ cảm được sức nóng và nhảy ngay ra ngoài. Nhưng nếu con bỏ ếch vào nồi nước lạnh rồi mới hâm nước lên, sự thay đổi sẽ từ từ đến độ con ếch không nhận ra và vì vậy nó sẽ bị luộc chín đến chết. Đây chính là điều có thể xảy ra cho một sinh thể tự nhận biết chưa hiểu được trọn vẹn các hậu quả của việc dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết của mình để thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, với hiểu biết về thiện ác. Lúc đầu, con có thể lạm dụng trí tưởng tượng và quyền tự quyết mà không cảm ngay được hậu quả của việc làm này. Từ từ, con càng ngày càng bị bao trùm trong tâm thức nhị nguyên, nhưng sự chuyển biến xảy ra quá lần hồi đến độ con không để ý.

Cuối cùng thì sẽ đến một điểm không có trở lại khi đột ngột con chuyển sang một giai đoạn tự nhận biết khác. Giống như nước sôi biến thành hơi nước, ý niệm cái ta của con xoay chuyển và giờ đây con bị kẹt vào tâm thức nhị nguyên qua đó con xem mình tách biệt với Thượng đế. Ý niệm cái ta đã từng duy trì ít nhất một chút nối kết với Hiện diện TA LÀ của nó, bây giờ đã chết. Từ nhận biết này có một cái ta mới ra đời, thế nhưng cái ta này là một cái ngã hữu diệt dựa trên tách biệt và nhị nguyên. Cái ta này giờ đây là điều cái Ta Biết tự định nghĩa mình là gì. Con là con người mà con thấy mình là, cho nên nếu con thấy mình là một con người hữu diệt tách biệt với Thượng đế thì chính con là vậy đó – ít ra ở đây và bây giờ, trong không gian và thời gian.

1.9. Cắn một miếng tâm thức Ki-tô

Trái tim yêu dấu của thày, cái chết của cái ta tâm linh của con, của ý niệm cái ta tâm linh, là vấn đề trung tâm trên hành tinh trái đất. Người ta có thể nói đây là vấn đề duy nhất trên hành tinh trái đất. Tất cả mọi vấn đề riêng biệt mà con thấy trên hành tinh này thật sự đều xuất phát từ tâm thức của thiện ác tương đối, là tâm thức nhị nguyên khiến cho các sinh thể tự nhận biết chế tạo định nghĩa riêng của mình về đúng-sai, tốt-xấu. Tất cả định nghĩa này đều chệch hướng so với thực tại của Thượng đế, với sự thật của Thượng đế, vì chúng hoàn toàn dựa trên tâm thức phản Ki-tô. Tâm thức phản Ki-tô là tâm thức tách biệt khỏi nguồn cội, trong khi tâm thức Ki-tô là tâm thức hợp nhất với nguồn cội của con.

Nếu mỗi con người trên hành tinh này có định nghĩa riêng của mình về thiện và ác thì không thể tránh khỏi xung đột với nhau. Nếu mỗi con người định nghĩa “tốt” là những gì tốt cho “tôi”, làm sao sẽ có được an bình và hài hòa trên hành tinh này đây? Nếu mỗi con người đều cho rằng định nghĩa của mình về sự thật là định nghĩa tuyệt đối duy nhất, có gì đáng ngạc nhiên khi chiến tranh hoành hành trên trái đất? Cách duy nhất để tạo một hành tinh hòa bình là ít ra có đủ túc số những người vươn lên cao hơn tâm thức nhị nguyên. Chỉ khi nào con người có cùng định nghĩa về thiện ác – cụ thể là định nghĩa tuyệt đối của tâm Ki-tô – thì chúng ta mới có thể hy vọng vượt qua được xung đột và chiến tranh trên hành tinh.

Khi con thấy mình là một nối dài của Hiện diện TA LÀ của mình thì con nhận chân được phần nào tâm thức Ki-tô. Khi con thấy mình tách biệt khỏi Hiện diện TA LÀ của mình, hay tách biệt khỏi Thượng đế, con bị kẹt trong tâm thức phản Ki-tô. Có một giai đoạn nửa chừng nơi con có một số yếu tố của tâm thức Ki-tô lẫn một số yếu tố của tâm thức phản Ki-tô. Một khi con đi quá điểm đánh mất mọi yếu tố tâm thức Ki-tô thì con thực sự đã chết theo nghĩa tâm linh. Đó là tại sao Giê-su đã nói: “Quả thật, quả thật, ta nói với con, nếu con không ăn thịt và uống huyết đứa Con của người thì con chẳng có sự sống trong con” (John 6:53). Giê-su muốn nói là trừ khi con dự phần vào tâm thức Ki-tô, con sẽ không có sự sống trong con. Con thực sự không có sự sống tâm linh trong con nếu con không có một miếng tâm thức Ki-tô trong quả cầu cái ta của con, trong bình chứa cái ta của con.

Điều này dẫn chúng ta đến một tầm hiểu mới về ý tưởng rằng con không thể được cứu rỗi nếu không có Ki-tô, rằng Ki-tô là vị cứu tinh duy nhất, con đường duy nhất đến với Thượng đế. Như Giê-su nói: “Không người nào đến được với Cha mà không qua ta” (John 14:6). Giê-su không muốn nói con người vỏ ngoài của riêng mình là sợi dây nối con với thực tại, với sự sống của Thượng đế, mà tâm thức Ki-tô là sợi dây đó. Giê-su so sánh Nước Trời – một cách khác để mô tả tâm thức Ki-tô – với men bột (Matthew 13:33). Khi con nhào bột và bỏ men vào, toàn bộ ổ bánh sẽ nở ra và đây là lý do con có thể làm bánh mì. Chỉ khi nào con bỏ thêm một miếng tâm thức Ki-tô đã được bẻ ra cho con (1Corinthians 11:24) thì tâm thức con mới có thể nở ra cao hơn mức nhị nguyên, cao hơn tâm phản Ki-tô. Chỉ bằng cách ăn vào một miếng tâm thức Ki-tô và cho phép nó nâng cao ý niệm cái ta của mình, cho phép nó xua tan bóng tối phản Ki-tô bằng ánh sáng Ki-tô, thì con mới có thể trở về căn nhà xưa và lại chấp nhận mình là con trai hay con gái của Thượng đế.

1.10. Tái sinh trong một ý niệm cái ta mới

Điều này cũng được Giê-su giải thích khi thày bảo Nicodemus rằng muốn bước vào Nước Trời thì con phải sinh ra lần nữa (John 3:1-8). Nicodemus cãi Giê-su và hỏi làm thế nào một người có thể sinh ra lần nữa, liệu ông có thể đi vào bụng mẹ một lần thứ hai? Nicodemus bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên đến độ ông hiểu lời Giê-su theo nghĩa đen và không nắm được ý nghĩa sâu xa. Khi con bước xuống tâm thức nhị nguyên, ý niệm cái ta tâm linh của con bị chết theo nghĩa đen. Con chết trong nghĩa tâm linh vì ý niệm bản sắc của con như một sinh thể tâm linh không còn hiện hữu. Con chuyển sang một ý niệm bản sắc mới như một sinh thể hữu diệt tách rời khỏi Thượng đế. Làm thế nào trở về Nước Trời nơi con thấy mình là một đứa con của Thượng đế? Chỉ có một cách mà thôi, đó là khi ý niệm cái ta tâm linh của con được tái sinh và con lấy lại bản sắc tâm linh đúng đắn. Con có thể khởi đầu tiến trình đòi lại bản sắc thực của mình vẫn được lưu giữ như là niệm tinh khôi trong tâm Ki-tô. Khi con lấy lại hoàn toàn bản sắc này, con trở về nhà xưa, con giành lại gia sản thiêng liêng của mình. Con trở thành đứa con hoang đàng đã quay trở về căn nhà của cha sau một thời gian dài xa cách (Luke 15:11).

Khi con chuyển từ một cái ta tâm linh sang một cái ta nhị nguyên, từ một cái ta dựa trên tảng đá của Ki-tô sang một cái ta dựa trên cát lún của phản Ki-tô, thì ý niệm cái ta trước đây của con phải chết. Khi con đảo ngược chiều hướng đó và quay trở lại ý niệm cái ta tâm linh, thì cái ta mà con có ngay bây giờ, cái ta dựa trên tách biệt, cũng sẽ phải chết. Con không thể đem ý niệm cái ta này với con vào Nước Trời, và lý do thật đơn giản. Ý niệm cái ta hữu diệt đã sinh ra trong cảm nhận tách biệt với Thượng đế, còn ý niệm cái ta tâm linh thì sinh ra trong hợp nhất với Thượng đế. Cái gì sinh ra từ tách biệt không bao giờ có thể bước vào hợp nhất. Cái ta hữu diệt không bao giờ có thể nắm bắt hay chấp nhận thực tại của Thượng đế. Ý niệm cái ta dựa trên nhị nguyên và tách biệt không bao giờ có thể khắc phục cảm nhận tách biệt khỏi Thượng đế.

Cái có khả năng khắc phục cảm nhận tách biệt với Thượng đế là cái Ta Biết, khi con thay thế nội dung trong bình chứa cái ta với một ý niệm cái ta mới. Đó là tại sao con phải cho phép ý niệm cái ta cũ chết đi, giống như con chim Phượng bị thiêu cháy trong lửa rồi lại trỗi dậy từ đống tro tàn, bay vút lên trời cao. Con phải cho phép ý niệm cái ta hiện thời bị thiêu hủy trong ngọn lửa thiêu đốt của Thượng đế – là ngọn lửa thiêu rụi tất cả những gì không giống như chính nó – và như vậy cũng thiêu rụi tất cả những gì sinh ra từ nhị nguyên và tâm phản Ki-tô. Con phải vững tin điều này không có nghĩa là con sẽ đánh mất ý thức liên tục mình là một sinh thể riêng biệt. Thay vào đó, một ý niệm cái ta mới sẽ ra đời. Ý niệm cái ta tâm linh của con sẽ được tái sinh, được phục sinh, và nó sẽ trỗi dậy từ đống tro tàn của cái ta cũ. Ý niệm cái ta mới này sẽ có nền tảng là bản mẫu thiêng liêng mà Thượng đế đã thiết kế.

Điểm này chính là sự khác biệt cơ yếu giữa mọi thày giả và mọi vị thày chân chính. Thày giả sẽ hứa con có thể đạt được sự dồi dào của Thượng đế – một số còn hứa rằng con có thể được cứu rỗi và sống vĩnh hằng – mà không cần để cho ý niệm cái ta nhị nguyên chết đi. Họ hứa với con là họ đã khám phá một đường tắt, một sơ hở mà qua đó con có thể duy trì cái ta hữu diệt và một cách nào đó biến nó thành cái gì chấp nhận được trong mắt Thượng đế. Ôi con yêu dấu, đây là một lời hứa hoàn toàn giả dối. Đây là điều mà Kinh Cựu ước gọi là con đường có vẻ đúng cho con người phàm (Proverbs 14:12) – tức sinh thể tự nhận biết bị kẹt trong nhị nguyên – tuy nhiên kết quả là những con đường dẫn đến cái chết, vì nó giữ con kẹt lại trong tâm thức của cái chết tâm linh. Giê-su từng so sánh Nước Trời với một bữa tiệc cưới (Matthew 22:1-14). Có người kia bước vào tiệc cưới mà không mặc áo cưới – nghĩa là đã không thay thế cái ta hữu diệt bằng cái ta Ki-tô – và ông ta bị trói cả tay chân, ném ra bóng tối bên ngoài. Mặc dù việc này nghe có vẻ thô bạo, nhưng nó minh hoạ chính xác sự thật là khi con vẫn ở trong tâm thức nhị nguyên thì con còn bị buộc trói bởi các tin tưởng nhị nguyên của mình, và con phải ở lại trong bóng tối của tâm phản Ki-tô.

Ý tưởng này quan trọng đến độ thày sẽ đề cập lại tường tận hơn trong các chương tới. Khi thày trải bày ra cho con thấy sự sai lầm của hình ảnh giả này về cứu rỗi, con sẽ thật sự ngộ được chìa khóa chủ chốt trong việc trải nghiệm đời sống dồi dào ngay nơi con đang ở. Thày vô cùng phấn khích mong được có dịp trải bày cho con tầm hiểu sâu xa này về sự cứu rỗi đích thực qua cái ta được tái sinh, là con đường có vẻ sai trái đối với tâm nhị nguyên, nhưng kết quả lại là những con đường dẫn đến sự sống vĩnh hằng.

15| Đạt được một trạng thái tâm thức quân bình

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 11/4/2005.

15.1. Con được thiết kế để biểu hiện cá thể của con

Con hãy để thày trình bày về cốt lõi của tâm thức Ki-tô. Khi đấng Sáng tạo của con quyết định sinh tạo những cá thể hóa của chính ngài, một vấn đề khó xử hiện ra. Điều khó xử là làm sao quân bình được quan hệ giữa một cá thể của tổng thể và chính tổng thể, để cá nhân không cảm thấy tách biệt khỏi tổng thể và hành động hạ giảm tổng thể thay vì khuếch trương tổng thể.

Đấng Sáng tạo của con có một trạng thái tâm thức bao trùm tất cả. Mọi vật trong thế giới hình tướng đều nằm trong tâm thức của ngài, vì ngài đã sinh tạo tất cả từ chính chất liệu của ngài, từ Bản thể và tâm thức của ngài. Giống như thế, tất cả những thứ do các người đồng-sáng tạo có tự nhận biết, là những cá thể hóa của đấng Sáng tạo, tạo ra đều được tạo ra từ Bản thể của Thượng đế. Đấng Sáng tạo của con ở trong mọi thứ đã từng được tạo thành, do đó đấng Sáng tạo của con có nhận biết ngài là Tất cả và ngài ở trong tất cả. Nói rằng đấng Sáng tạo tạo ra hình tướng không đúng. Nói rằng đấng Sáng tạo biểu hiện mình như một hình tướng thì đúng hơn. Đấng Sáng tạo khoác vào một hình tướng và khoác vào sự giới hạn mà không mất đi cái Tất cả của ngài. Khi một hình tướng được đem vào hiện thực, hình tướng này hiện hữu chính vì nó có một số đặc tính khiến nó khác biệt với:

  • Cái Tất cả của Thượng đế trong đó không có hình tướng
  • Cái trống không trong đó chỉ có bóng tối và vì vậy không có hình tướng
  • Những hình tướng khác trong thế giới hình tướng

Cốt lõi của một hình tướng nào đó là nó được xác định bởi các đặc tính cá biệt khiến nó trở nên khác biệt. Nếu hình tướng này không có đặc tính nào, nó sẽ vẫn còn ở trong cái Tất cả và vì vậy nó sẽ không hiện hữu như một hình tướng khác biệt. Khi đấng Sáng tạo biểu hiện mình như một sinh thể có tự nhận biết, sinh thể này nhất thiết phải có đặc tính cá biệt. Nếu sinh thể không có cá thể gì cả, nó sẽ không hiện hữu như một sinh thể khác biệt, nó sẽ vẫn không thể phân biệt ra khỏi cái Tất cả của Bản thể Thượng đế. Trong trường hợp những hình tướng vô tri giác hay những sinh thể không có tự nhận biết (như thú vật) thì sự hiện hữu của các đặc tính cá biệt không gây vấn đề vì sự phân biệt khỏi cái Tất cả không bao giờ dẫn tới tách biệt khỏi Tất cả.

Nhưng với những sinh thể có tự nhận biết, thì một vấn đề có tiềm năng xảy ra, một loại bí ẩn xảy ra. Một sinh thể có tự nhận biết chỉ hiện hữu vì nó có nhận biết; nó biết nó đang hiện hữu. Cốt lõi của bản sắc của con là con hiện hữu như một sinh thể khác biệt với những đặc tính cá biệt và tiềm năng biểu hiện những đặc tính này qua quyền năng sáng tạo của con. Đây chính là điều con được thiết kế để làm, cụ thể là biểu hiện cá thể của con và qua đó đồng-sáng tạo vương quốc Thượng đế bất cứ nơi nào con ở, kể cả nơi hành tinh trái đất.

Con cũng được thiết kế để biểu hiện cá thể của con như một thành phần của Tất cả và một thành phần của Thân thể Thượng đế, là gia đình những người đồng-sáng tạo hiện hữu trong thế giới hình tướng. Con không được thiết kế để biểu hiện khả năng sáng tạo của mình như một người sống trong hư không. Con được thiết kế để biểu hiện cá thể của con hầu nâng cao tổng thể trong đó con là một thành phần và con không bao giờ có thể tách biệt khỏi tổng thể đó. 

Con có thể sinh hoạt như một người đồng-sáng tạo với Thượng đế chỉ vì con có trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Cách con biểu đạt trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con là một biểu hiện của tự nhận biết của con. Hình ảnh của con về mình quy định cách con dùng trí tưởng tượng để hình dung những hình tướng chưa được biểu hiện. Nó cũng quy định con dùng quyền tự quyết như thế nào để quyết định biểu hiện hình tướng nào hay quyết định hình tướng nào con có thể và không thể biểu hiện. Khi ý niệm tự nhận biết của con thẳng hàng với thực tại của Thượng đế, tức là con là một phần của Tất cả và một phần của Thân thể Thượng đế trên trái đất, thì biểu hiện cá biệt của con sẽ thẳng hàng với tổng thể.

Sự kiện con có trí tưởng tượng không có giới hạn có nghĩa con có thể hình dung một ý niệm tự nhận biết tách biệt khỏi cái Tất cả của Thượng đế và tách biệt hay thậm chí đua tranh với những sinh thể tự nhận biết khác. Sự kiện con có quyền tự quyết không có giới hạn có nghĩa là con có thể chọn chấp nhận là một hình ảnh giới hạn như thế về mình. Từ đó con có thể tạo ra một hình ảnh mới về mình dựa trên tách biệt thay vì dựa trên cảm nhận hợp nhất nguyên thủy khi con được sinh tạo.

Việc chuyện này có thể xảy ra là một khía cạnh không tránh được của quyền tự quyết và trí tưởng tượng của con. Chuyện con dùng khả năng sáng tạo của mình để tạo ra một hình ảnh hạn chế về mình như vậy, không phải là điều không thể tránh. Thượng đế làm tất cả những gì làm được để con có thể duy trì dễ dàng một hình ảnh về mình đúng đắn và xây dựng trên hình ảnh này để con trở nên hơn những gì con được thiết kế để trở thành, thay vì con tạo ra một hình ảnh về mình kém hơn những gì con đã được thiết kế để trở thành.

15.2. Người đồng-sáng tạo có thể tách mình ra khỏi tổng thể

Câu hỏi cốt lõi là làm sao một sinh thể có tự nhận biết tránh không hành xử như một người tách biệt khỏi Thượng đế, xa rời Thượng đế hay hành xử giống như mình là sinh thể tự nhận biết duy nhất trong vũ trụ hay chỉ có mình là quan trọng. Thày biết chắc con có thể thấy được tình trạng khó xử này. Thượng đế sinh tạo nhiều sinh thể có tự nhận biết để họ hành động như người đồng-sáng tạo. Không sinh thể nào trong đó được sinh tạo như một ốc đảo. Không sinh thể nào được sinh tạo là con trai cưng có thể hành xử như một ông vua và tất cả những sinh thể có tự nhận biết còn lại chỉ là tôi mọi cho người duy nhất đó. Quả như Kinh thánh nói: “Thượng đế không tuân theo con người” (Acts 10:34). Đấng Sáng tạo yêu tất cả những đồng-sáng tạo của ngài với tình yêu vô hạn. Khi tình yêu vô hạn và vô điều kiện thì không thể có so sánh và do đó không có con trai hay con gái cưng. Mọi con đều được thương yêu với cùng một tình thương bởi vì dưới mắt Thượng đế mọi con đều giá trị như nhau, đều quan trọng như nhau. Làm sao khác được nếu mỗi sinh thể có tự nhận biết được tạo ra từ cùng chất liệu của đấng Sáng tạo và mỗi sinh thể là đấng Sáng tạo biểu hiện chính ngài như sinh thể cá biệt đó?

Một khi đấng Sáng tạo đã ban cho một sinh thể có tự nhận biết trí tưởng tượng và quyền tự quyết, thì người đồng-sáng tạo đó có thể tách mình ra khỏi tổng thể và bắt đầu hành xử như mình tách rời khỏi người khác, thậm chí coi mình quan trọng hơn người khác. Khi hành động tách biệt ra khỏi tổng thể, sinh thể tự nhận biết đã ăn vào “trái của sự biết thiện và ác” (Genesis 2:17), mà nghĩa thật là thiện và ác tương đối. Trong tâm thức nhị nguyên này, người ta có thể so sánh và do đó người đồng-sáng tạo có thể xây dựng hình ảnh về mình như người giỏi hơn hay có giá trị hơn người khác. Sinh thể đó xây dựng ý muốn cai quản người khác và kiểm soát tổng thể thay vì làm việc để khuếch trương tổng thể.

Khi một người đồng-sáng tạo chấp nhận hình ảnh nhị nguyên này về mình là thật, thì người ấy sẽ bắt đầu hành xử như thể hình ảnh này thật. Người đồng-sáng tạo có thể dần dần tập trung vào “thực tại” do tự mình tạo ra đến độ người ấy quên bản sắc thật của mình. Người đồng-sáng tạo, đã được thiết kế để luôn luôn giữ được ý thức mình là một cá thể hóa của Thượng đế, có thể đánh mất sự hợp nhất này, có thể đánh mất trạng thái Hồng ân này và do đó rơi vào một ý niệm bản sắc giới hạn như một sinh thể tách biệt, tách rời Thượng đế và tách rời Thân thể Thượng đế.

Chuyện này có thể xảy ra ngay khi Thượng đế sinh tạo những sinh thể có tự nhận biết, trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Thượng đế không mong muốn bất kỳ con trai hay con gái nào của ngài lạc trong một ý niệm bản sắc kém hơn. Đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc, nhưng con chỉ nhận được vương quốc khi con thấy mình là con trai hay con gái của Thượng đế có khả năng và xứng đáng nhận vương quốc này. Nếu con mắc kẹt trong một ý niệm bản sắc thấp kém trong đó con xem mình tách rời khỏi tổng thể và do đó con nghĩ hoặc là con không xứng đáng nhận sự dồi dào của Thượng đế hoặc con không được quyền nhận tất cả sự dồi dào đó, con không thể nhận trọn vẹn vương quốc. Thượng đế không muốn thấy điều này xảy ra, vậy thì làm sao có thể né tránh chuyện này đây? Trên thực tế không bao giờ có thể đoan chắc chuyện này không xảy ra. Cách duy nhất để đoan chắc con không thể bị mắc kẹt trong một bản sắc thấp là tước đi trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con. Nếu con không có khả năng tưởng tượng một trạng thái bản sắc giới hạn và nếu con không có ý chí để chấp nhận bản sắc này là thật thì con không thể bị lạc. Nhưng nếu con không có những khả năng sáng tạo này, con không thể phục vụ như người đồng-sáng tạo với Thượng đế và do đó con không thể trở nên hơn nữa. Con không thể làm công việc gia tăng cường độ của ánh sáng Thượng đế để lấp đầy khoảng trống không với ánh sáng. Trở nên hơn nữa và lấp đầy khoảng trống không chính là mục đích của sự hiện hữu của con.

15.3. Sự sống luôn luôn tự thăng vượt

Câu hỏi mà đấng Sáng tạo phải đối diện là làm sao con dùng khả năng sáng tạo của con một cách an toàn nhất, có nghĩa là con sáng tạo mà không quên nguồn gốc của mình, cội nguồn của mình. Dù vấn đề này không có đáp án tuyệt đối vì con luôn luôn có quyền tự quyết, nó có một đáp án tuyệt đối theo nghĩa con không bao giờ mất tiềm năng giành lại bản sắc thật của con. Thượng đế đã thiết kế một cách tài tình để lúc nào con cũng có thể tìm về vương quốc của ngài cho dù con đã đi bao xa chăng nữa khỏi vương quốc trong tâm thức.

Đấng Sáng tạo Một bắt đầu tiến trình sáng tạo bằng cách tạo ra hai lực bổ túc. Lão giáo gọi hai lực này là Âm và Dương, nhưng thày muốn gọi chúng là lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ. Hai lực có thể có vẻ như đối chọi nhau nhưng đây không phải là sự thật vô điều kiện. Dù chúng có vẻ như có hướng ngược nhau, chúng thật sự là những lực bổ sung nhau. Chúng không loại trừ lẫn nhau, chúng chỉ quân bình lẫn nhau. Chỉ khi hai lực này hoàn toàn quân bình thì một hình tướng bền vững mới được tạo ra.

Một cái gì bền vững có nghĩa gì? Chìa khóa là thấu hiểu chính mục đích của sự sáng tạo, cụ thể là gia tăng ánh sáng Thượng đế, mở rộng vương quốc Thượng đế để lấp đầy khoảng trống không. Tăng triển không ngừng, thăng vượt không ngừng là mục tiêu. Vai trò của lực lan ra là thúc đẩy sự sáng tạo theo hướng đi ra ngoài, lan ra ngoài để nó không bao giờ đứng yên. Nó không bao giờ bị giới hạn trong một hình tướng nhất định nhưng luôn luôn tăng trưởng để hơn nữa.

Để có thể tạo ra bất cứ gì từ điểm dị đồng của đấng Sáng tạo, phải có một lực lan ra. Nếu lực lan ra là lực duy nhất, sự sáng tạo sẽ đơn giản là một sự bùng nổ liên tục trong đó không thể có được một hình tướng khác biệt nào. Lực co lại của Mẹ quân bình lực lan ra của Cha và khi có quân bình thì có thể tạo một hình tướng có thể vững bền. Hai lực sáng tạo cơ bản này đem lại nền tảng cho sự sáng tạo hình tướng. Chìa khóa cốt yếu cho sáng tạo thành công là sự quân bình đúng đắn giữa hai lực cơ bản này. Nếu lực lan ra quá mạnh, mọi hình tướng sẽ nổ tung. Nếu lực co lại quá mạnh, sự tăng trưởng sẽ dừng lại và rốt cuộc mọi hình tướng sẽ xập xuống và Ánh sáng Mẫu-vật sẽ trở về trạng thái nền của nó. Phải có cái gì đó duy trì thế quân bình đúng đắn giữa hai lực này và bảo đảm là sáng tạo được bền vững mà không bao giờ đứng yên. Bền vững không đồng nghĩa với đứng yên, nó có nghĩa là vượt thăng liên tục. Tại sao thế? Bởi vì chính định nghĩa của sự sống là tăng trưởng, sự sống là cái gì luôn luôn trong tiến trình tự vượt thăng, mang nhiều thêm bản chất Thượng đế vào sự biểu hiện và do đó thay thế bóng tối trong khoảng trống không.

Lực lan ra và lực co lại không thể tự chúng tạo ra hình tướng. Lực lan ra sẽ luôn luôn lan ra và lực co lại sẽ luôn luôn co lại và nếu chỉ có một lực thì mọi hình tướng, mọi cấu trúc sẽ bị tan vỡ. Hầu tạo được một hình tướng, trước tiên hình tướng đó phải hiện hữu như một tiềm năng, như một hình tư tưởng. Hình tư tưởng này phải quân bình hai lực lan ra và co lại để hình tướng có thể vững bền trong một trạng thái sinh động trong đó hình tướng không đứng yên nhưng là một môi trường để tăng triển hơn nữa. Lực co lại của Mẹ có sẵn trong Ánh sáng Mẫu-Vật. Chúng ta có thể so sánh nó như đại dương yên lặng không có sóng. Lực lan ra của Cha giống như ngọn gió thổi vào đại dương và khuấy động sóng. Những ngọn sóng trong đại dương ánh sáng vô tận là những gì hiện ra như hình tướng khác biệt. Ánh sáng Mẫu-Vật có khả năng khoác vào bất cứ hình tướng nào và một số những hình tướng này có thể hủy bỏ lẫn nhau giống như sóng đại dương có thể hủy bỏ lẫn nhau.

Cái gì quy định một hình tướng đặc thù được đem vào hiện thực? Những đặc tính của hình tướng đó phải hiện hữu như một tiềm năng trước khi hình tướng được áp đặt lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Cần có một khuôn đúc để lực lan ra của Cha tuôn chảy vào và khuấy động Ánh sáng Mẫu-Vật khoác vào một hình tướng đặc thù thay vì là một sự bùng nổ bừa bãi. Lực lan ra lẫn lực co lại đều không thể tạo ra một hình tư tưởng và dùng hình này để điều khiển lực lan ra đi vào Ánh sáng Mẫu-Vật. Một hình ảnh như thế chỉ có thể được giữ trong một tâm có tự nhận biết, một tâm có trí tưởng tượng để hình dung một hình ảnh và có ý chí để áp đặt hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Tâm đó cũng phải có tự nhận biết, khiến nó biết nó hiện hữu và biết nó có khả năng dùng những lực sáng tạo cơ bản. Đấng Sáng tạo có tâm như thế nhưng đấng Sáng tạo không muốn tự mình tạo ra mọi sự. Đấng Sáng tạo quyết định biểu hiện chính mình như những sinh thể cá biệt có thể hành động như những đồng-sáng tạo. Những sinh thể này có khả năng của tâm để hình dung hình ảnh của một hình tướng chưa được biểu hiện và họ có thể phóng chiếu hình ảnh này lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Khi lực lan ra của Cha chảy vào khuôn đúc, Ánh sáng Mẹ khoác lên hình tướng tương ứng. Tại sao những đồng-sáng tạo có khả năng này? Đó là vì họ được sinh tạo ra từ, họ là cá thể của, một khía cạnh khác của Thượng đế, một nối dài khác của Thượng đế, đó là cái mà Kinh thánh gọi là Ngôi Lời hay đấng Con trai duy nhất được sinh tạo từ đấng Cha, đầy ân huệ và lẽ thật (John 1:14).

15.4. Con sáng tạo trong sự hài hòa toàn hảo với quy luật Thượng đế qua tâm Ki-tô

Nhiều người Cơ đốc đã tin rằng Giê-su Ki-tô là người Con trai duy nhất được sinh tạo từ Thượng đế hoặc Giê-su chính là Thượng đế ngay từ đầu. Ý tưởng này không đúng vô điều kiện. Vì mỗi sinh thể có tự nhận biết từng được sinh tạo đều là con trai hay con gái của Thượng đế, vì mọi vật từng được tạo ra đều đi ra từ Bản thể và tâm thức của Thượng đế, nên ta có thể xem tất cả đều là Thượng đế ngay từ đầu. Nhưng ngay lúc một hình tướng cá thể hay một sinh thể cá thể đi vào hiện hữu, thì nó mang vào những đặc tính riêng biệt và do đó nó không còn là cái Tất cả của Thượng đế nữa. Điều này áp dụng cho Giê-su Ki-tô và cũng như là con. Giê-su đi ra từ cái Tất cả của Thượng đế và thày đã là và đang là con trai của Thượng đế. Con cũng thế, con đi ra từ cái Tất cả và con cũng là con trai hay con gái của Thượng đế. Giê-su còn xác nhận thày bình đẳng với mọi sự sống qua câu nói: “Hễ các người làm điều gì cho người thấp hèn nhất trong anh em của ta, thì các người đã làm điều đó cho chính ta.” (Matthew 25:40).

Nếu con đã lớn lên trong sự sùng bái thần tượng mà Cơ đốc giáo truyền thống cổ xúy, thì con có thể xem những lời của thày là miệt thị thần linh. Giê-su không bao giờ đặt mình tách rời người khác, thày cũng không bao giờ đặt mình cùng hàng với Thượng đế. Tại sao con nghĩ Giê-su nói: “Sao ngươi gọi ta là tốt lành, chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi, đó là Thượng đế” (Matthew 19:17). Giáo lý truyền thống xem Giê-su là Con trai duy nhất của Thượng đế được sinh tạo từ Thượng đế. Giê-su xem cái nhìn này là hình thức miệt thị thần linh tệ nhất và là sự nhạo báng toàn bộ sứ mạng của thày. Khi giáo hội truyền thống tạo ra giáo lý này, họ đã tách Giê-su khỏi mọi người khác và do đó thày trở thành một thần tượng thay vì là tấm gương. Giê-su không thích thấy tín đồ Cơ đốc nhảy múa chung quanh con bò con vàng này, thay vì thừa nhận sự thật là Giê-su đến để chỉ cho họ thấy họ có tiềm năng thật giành lại di sản thiêng liêng của họ. Khác biệt thực sự giữa con và Giê-su là Giê-su đã nhận ra và chấp nhận nguồn gốc của thày là một con trai của Thượng đế trong khi con vẫn chưa làm thế. Con quả thực có tiềm năng giành lại bản sắc thật của con bằng cách noi gương Giê-su và cho phép tâm này ở trong con, tâm đó cũng ở trong Giê-su Ki-tô (Philippians 2:5).

Tâm ở trong Giê-su là tâm gì? Nó là tâm Ki-tô, là Con trai thật được Cha sinh tạo, Cha ở đây có nghĩa là đấng Sáng tạo. Trạng thái tâm thức này là một tâm hoàn vũ, một ý niệm nhận biết hoàn vũ do Thượng đế đấng Sáng tạo tạo ra để phục vụ một chức năng đặc biệt là chức năng làm trung gian giữa Thượng đế và tất cả những nối dài cá thể của ngài, chính là những đồng-sáng tạo của Thượng đế. Mục đích của tâm Ki-tô là bảo đảm rằng không người đồng-sáng tạo nào có thể mất đi vĩnh viễn bản sắc thật của mình hay mất đi nhận biết về các quy luật Thượng đế. Tâm Ki-tô bảo đảm mọi hình tướng được tạo ra phù hợp với các quy luật Thượng đế và hình tướng nào không thẳng hàng với các quy luật này không thể tồn tại vô hạn định.

Khi Thượng đế sinh tạo ra con, ngài cho con một cá thể độc nhất. Đây là tiềm năng sáng tạo của con và khi con dùng quyền năng sáng tạo của mình, một cách tự nhiên con sẽ biểu hiện cá thể của con trong mọi vật mà con sáng tạo. Cá thể của con là món quà Thượng đế cho con và khi con cho phép ánh sáng của con tỏa chiếu, cá thể của con biểu hiện như món quà của con cho thế giới. Cá thể mà Thượng đế ban cho con quả thực đẹp đẽ và tuyệt vời vượt quá những gì hầu hết con người có thể chấp nhận với ý niệm bản sắc hiện nay của họ. Như Giê-su đã nói: “Con là Thượng đế” (John 10:34), nghĩa là con đã được thiết kế với một vẻ đẹp và sự toàn hảo vượt xa mức bản sắc và nhận biết phàm phu. Con được sinh tạo để trở thành vô vàn hơn những gì con có thể chấp nhận hiện nay, và cá thể mà Thượng đế ban cho con không bao giờ mất được vì nó được ghi lại vĩnh viễn trong Tâm Ki-tô Hoàn vũ. Con trai duy nhất do Cha sinh tạo là người gìn giữ cá thể thật của con, và do đó tâm Ki-tô cũng là chìa khóa giúp con tìm lại bản sắc đó. Tâm Ki-tô là chìa khóa duy nhất cho sự cứu rỗi của con vì cứu rỗi có nghĩa là con khắc phục được ý niệm bản sắc giới hạn sinh ra từ tâm phản Ki-tô, tâm tách biệt khỏi nguồn cội của con. Để có được đời sống vĩnh cửu, con phải giành lại bản sắc sinh ra từ tâm Ki-tô, là tâm hợp nhất với nguồn cội của con.

Tâm Ki-tô cũng có vai trò hướng dẫn nỗ lực sáng tạo của con và bảo đảm là chúng luôn luôn thẳng hàng với các quy luật Thượng đế và có sự hài hòa giữa con và Thân thể Thượng đế. Không sinh thể tự nhận biết nào có thể tiếp cận ánh sáng thanh khiết của Thượng đế mà không đi qua tâm thức Ki-tô. Như Giê-su đã nói: “Ta là con đường, sự thật và sự sống: không ai tới được Cha ta mà không qua ta” (John 14:6). Tâm Ki-tô biết quy luật của Thượng đế và do đó nó có tiêu chuẩn tuyệt đối để lượng định xem hình tướng mà người đồng-sáng tạo hình dung hòa hợp với quy luật Thượng đế (thiện lành vô điều kiện) hay không hòa hợp với quy luật Thượng đế (xấu ác). Hầu sáng tạo một hình tướng, người đồng-sáng tạo phải hình dung hình tướng và sau đó cho phép uy lực của Thượng đế tuôn chảy qua hình tướng đó, qua đó hình tướng được áp đặt lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Quyền năng sáng tạo hình tướng của con tùy thuộc vào cường độ và sức mạnh của ánh sáng thúc đẩy nỗ lực sáng tạo của con. Lực sáng tạo tối hậu là ánh sáng lan ra của Cha và khi con sáng tạo với ánh sáng này, con có quyền năng sáng tạo tối đa. Như Giê-su đã nói: “Con người không thể làm được nhưng đối với Thượng đế thì chẳng thế; bởi vì Thượng đế làm được mọi sự” (Mark 10:27). Hầu tiếp cận được quyền năng của Thượng đế, con phải có tâm Ki-tô và hình tư tưởng mà con hình dung phải hài hòa với các quy luật Thượng đế. Khi con hiện thân như một con người, tâm thấp của con phải trở thành cánh cửa mở cho dòng năng lượng chảy từ Hiện diện TA LÀ của con. Chính năng lượng tâm linh này trở thành lực đẩy mạnh đằng sau nỗ lực sáng tạo của con. Như Giê-su đã nói: “Ta không thể tự mình làm nổi việc gì” (John 5:30) và: “Nhưng chính Cha ở trong ta làm những việc này” (John 14:10).

Khi con hình dung một hình tư tưởng dựa trên tâm Ki-tô, nó sẽ luôn luôn hài hòa toàn hảo với quy luật Thượng đế và với ý định sáng tạo của Thượng đế. Như một cá nhân, con không phải là Tâm thức Ki-tô Hoàn vũ trọn vẹn, nhưng tâm thức này đã được cá thể hóa cho con. Như Giê-su đã nói: “Hãy lấy và ăn: đây là thân ta, vì các người mà bẻ ra: hãy làm điều này để nhớ ta” (1Corinthians, 11:24). Qua tâm Ki-tô được cá thể hóa này, con có thể sáng tạo trong sự hài hòa toàn hảo với các quy luật Thượng đế và do đó những gì con sáng tạo có uy lực tối đa. Đó là lý do tại sao Giê-su, qua tâm Ki-tô đã có uy lực vượt lên trên định luật thiên nhiên và làm những điều mà con người xem là phép lạ. Sự thực là Giê-su đã dùng quy luật cao hơn thay thế định luật thiên nhiên mà khoa học hiện đang hiểu.

Khi con đi theo tiến trình dùng tâm của đấng Con để tiếp cận quyền năng sáng tạo của đấng Cha và quy định hình tướng được phóng lên Ánh sáng Mẹ, sáng tạo của con sẽ khuếch trương tổng thể. Tâm Ki-tô Hoàn vũ sẽ ghi lại mãi mãi hành động thiện lành của con để chúng không bao giờ có thể bị mất. Đây là điều Giê-su gọi là kho tàng chứa ở trên trời: “Nhưng hãy chứa kho tàng ở trên trời là nơi chẳng có sâu mối hay rỉ sét làm hư cũng chẳng có kẻ trộm phá vách vào mà lấy” (Matthew 6:20).

Vì con có quyền tự quyết, con có thể chọn hình dung một hình tướng không hòa hợp với quy luật Thượng đế và con có thể dùng ý chí để biểu hiện hình tướng này. Để có thể biểu hiện một hình tướng không toàn hảo, con không thể dùng ánh sáng thanh khiết của Thượng đế. Con chỉ có chọn lựa duy nhất là dùng ánh sáng kém hơn, cụ thể là năng lượng tâm lý đã được đem vào sẵn trong quang phổ tần số vật lý. Con vẫn có thể sáng tạo bằng cách dùng ánh sáng này do đó các thày giả nói đúng khi họ nói con có thể tích lũy giàu có đồ sộ bằng cách dùng uy lực của tâm. Sự sáng tạo này sẽ không bao giờ mạnh mẽ bằng những gì được sáng tạo qua tâm Ki-tô. Vì chúng được sáng tạo qua tâm phản Ki-tô, con không thể tránh là con sẽ gặt những gì con gieo: “Vì chúng đã gieo gió và sẽ gặt bão lốc” (Hosea 8:7).

15.5. Con thị hiện vương quốc Thượng đế nơi con ở

Thượng đế muốn bảo đảm là cuộc thử nghiệm quyền năng sáng tạo của con sẽ trở thành một vòng xoáy đi lên, qua đó con sẽ tăng triển tự nhận biết và tăng triển nhận biết là cái ta của con là một với Tất cả. Mọi điều con làm hòa hợp với quy luật Thượng đế được ghi lại vĩnh viễn trong tâm Ki-tô. Nó trở thành thành đạt của con, động lượng của con mà con có thể dùng làm nền tảng vững chắc, giống như tảng đá Ki-tô, để gia tăng quyền năng sáng tạo và tự nhận biết của con. Dù kho tàng đó không bao giờ có thể bị mất, con có thể dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết để tách mình khỏi chúng, thậm chí đến độ con hoàn toàn quên chúng và quên bản sắc thật của mình. Khi điều này xảy ra, hiển nhiên con không thể xây dựng trên nền móng của các hành động quá khứ của con và có thể nói rằng con bị bắt buộc phải bắt đầu lại từ đầu. Vì các hành động thiện lành quá khứ của con không thể nào mất, nên kho tàng của con lúc nào cũng còn đó và đợi con. Bất cứ lúc nào, con có thể quyết định ngưng vòng xoáy đi xuống đã tách con ra khỏi cái Ta thật của con. Con có thể bắt đầu đi theo con đường tâm linh sẽ giúp con có uy lực để giành lại bản sắc thật của con. Khi con làm vậy thì con sẽ lấy lại kho tàng mà con đã cất trên thiên đàng và dùng nó như nền tảng để khuếch trương quyền năng sáng tạo và tự nhận biết của con. Bản sắc thật của con, bản sắc được xây dựng trên tâm Ki-tô, không bao giờ bị mất. Bản sắc giả, bản sắc tách biệt được xây dựng trên tâm phản-Ki-tô, quả thật sinh diệt và do đó có thể bị mất. Con phải đánh mất nó thì mới giành lại được bản sắc thực của mình.

Khi Thượng đế tạo ra thế giới hình tướng này, ngài quy định một số nguyên lý chỉ đạo để bảo đảm hệ thống các thế giới này có thể phát triển vững bền, có thể phát triển mà không nổ tung hay không co lại thành trống không. Thượng đế thiết kế những nguyên lý này để bảo đảm lực lan ra của Cha không quá mạnh đến độ nó làm nổ tung vũ trụ trong một vụ nổ vĩ đại. Cùng một lúc, Thượng đế tạo ra những quy luật để bảo đảm lực co lại của Mẹ không ngừng lại sự lan tỏa của ánh sáng để lấp đầy khoảng trống không. Nếu chuyện này xảy ra thì lực co lại sẽ bắt đầu một chu trình co lại sẽ đem mọi hình tướng trở về cái hư không mà từ đó chúng khởi đầu.

Trong khuôn khổ những nguyên lý sáng tạo do Thượng đế quy định, con có tự do không giới hạn để sáng tạo hình tướng. Là một đồng-sáng tạo với Thượng đế, sáng tạo của con không bị giới hạn bởi quy luật Thượng đế. Quy luật Thượng đế không giới hạn tự do sáng tạo của con. Chúng là một khung sườn, là những nguyên lý chỉ đạo để con có thể sử dụng quyền năng sáng tạo của con mà không phá hủy chính mình hay các đồng-sáng tạo khác. Quy luật Thượng đế được thiết lập để bảo đảm con có thể dùng sự sáng tạo của con để khuếch trương tổng thể bằng cách mở rộng và gia tăng cường độ ánh sáng của Thượng đế. Con nghĩ lại thày đã mô tả tiến trình sáng tạo như thế nào. Khi Thượng đế sáng tạo một bầu cõi mới trong khoảng trống không, thì bầu cõi này không được Ánh sáng Thượng đế hoàn toàn lấp đầy. Sau đó những người đồng-sáng tạo có tự nhận biết được gửi xuống bầu cõi này để nhân lên khả năng của họ và cai quản bầu cõi, qua đó họ lấp đầy bầu cõi với ánh sáng. Sau đó bầu cõi này có thể dùng làm nền móng để mở rộng sáng tạo bầu cõi kế tiếp. Con cần nhận ra là lấp đầy một bầu cõi với ánh sáng không có nghĩa là lấp đầy nó với ánh sáng chưa được phân biệt. Một bầu cõi được lấp đầy với những hình tướng đứng thẳng hàng với quy luật Thượng đế nhưng chúng biểu hiện sự sáng tạo của những người đồng-sáng tạo cư ngụ trong bầu cõi đó.

Con được sinh ra để biểu hiện cá thể mà Thượng đế đã ban cho con bằng cách sáng tạo những hình tướng sẽ thị hiện vương quốc Thượng đế nơi con ở. Quả thực con có khả năng sáng tạo không giới hạn và không nỗ lực nào của con bị lãng phí. Chúng sẽ trở thành một phần của vương quốc trường tồn của Thượng đế sẽ hiện ra khi bầu cõi đạt tới một cường độ ánh sáng nào đó. Khi chuyện này xảy ra, bóng tối còn lại sẽ ít oi đến độ nó không thể che mờ thực tại bên dưới là mọi sự đã được tạo ra từ Bản thể của Thượng đế, từ ánh sáng thanh khiết của Thượng đế. Hiểm nguy các sinh thể có tự nhận biết bị mắc kẹt trong cảm nhận tách biệt với Thượng đế sẽ không còn nữa. Làm sao họ cảm nhận tách biệt được khi chung quanh họ là những hình tướng tỏa rạng ánh sáng của Thượng đế và biểu lộ sự hài hòa của quy luật Thượng đế?

Bởi vì trong vũ trụ vật chất không đủ ánh sáng, ít nhất là trên trái đất, ta không thể thấy, ít nhất là qua giác quan vật lý, là mọi thứ đều được tạo ra từ ánh sáng Thượng đế. Con không thể trực tiếp thấy là Thượng đế là nguyên nhân, nguyên nhân tiên khởi, đằng sau mọi hình dáng. Đó là lý do tại sao một sinh thể có tự nhận biết có thể bị mắc kẹt trong tâm thức tách biệt, nghĩ rằng nó tách biệt khỏi dồi dào của Thượng đế. Khi cường độ của áng sáng được nâng lên trong hành tinh này, con sẽ thấy được ánh sáng tâm linh tỏa rạng từ mọi hình tướng và những hình tướng này hài hòa với quy luật Thượng đế. Vương quốc Thượng đế sẽ được thiết lập trên trái đất và hành tinh này sẽ trở thành ngôi sao tỏa rạng Ánh sáng Tự do, tự do khỏi tâm thức chết.

Thiết kế của bản thể con là con trở nên cánh cửa mở cho ánh sáng của Thượng đế hầu ánh sáng được khuếch trương trong thế giới này. Khi ánh sáng Thượng đế được khuếch trương, con sẽ phóng đại mọi sự sống qua các nỗ lực sáng tạo của con. Không có xung độ giữa con, một cá nhân, với các cá nhân khác. Các nỗ lực sáng tạo của con khuếch trương ánh sáng và do đó con gia tăng lượng dồi dào có mặt trên thế giới. Con phục vụ để phóng đại mọi thành phần trong thế giới này, kể cả tất cả những đồng-sáng tạo khác. Khi làm vậy, con cũng phóng đại cái ta thật của con, chính là toàn thể Thân thể Thượng đế, được hợp nhất qua thân và huyết (là tâm thức) của Ki-tô.

Thày biết những ý tưởng này có vẻ trừu tượng và khó nắm bắt cho tâm vỏ ngoài của con. Thày nhắc con là việc mở rộng tâm có nhiều giá trị lớn. Thày cũng nhắc nhở con là điều con không thể nắm bắt với trí, con luôn có thể nắm bắt với con tim. Mục đích của thày trong khóa học này không phải chỉ cho con hiểu biết trí năng. Mục đích của thày là giúp con tiến lại gần hơn tâm thức Ki-tô, có nghĩa là thày có mục đích mở rộng cả sự hiểu biết của con lẫn khả năng yêu thương của trái tim của con. Thày cho con nhiều khái niệm có vẻ khó nắm bắt với trí, là cách nhìn đời theo đường ngang và đường thẳng là đặc tính của trí, nhưng những khái niệm này có thể nắm bắt bằng cái nhìn quả cầu, đường dọc và không đường thẳng của con tim.

15.6. Tâm Ki-tô nối kết cá nhân với Tất cả

Bây giờ con hãy để thày mô tả thêm tâm Ki-tô. Tâm Ki-tô quả thực là một nối dài của tâm Thượng đế. Chức năng của nó là phục vụ như mối dây kết nối giữa đấng Sáng tạo và các đồng-sáng tạo có tự nhận biết của ngài. Tâm Ki-tô có một mục đích đặc thù, một điểm tập trung đặc thù, đó là cho cá nhân sức mạnh để duy trì và mở rộng ý niệm bản sắc của mình như là một thành phần của Tất cả, nối kết với Tất cả cho tới khi sinh thể cá biệt có tự nhận biết đó phát triển thêm tự nhận biết và nhận ra cái Ta cao của mình là cái Tất cả. Điều này không có nghĩa là cá nhân mất đi tính cá biệt của nó mà có nghĩa là cá nhân nhận ra nó là cái Tất cả của đấng Sáng tạo được biểu hiện và tập trung qua cá thể của nó. Sinh thể cá nhân có tự nhận biết không còn nhìn thế giới và cuộc sống dưới tầm nhìn giới hạn của nhận biết cá nhân của nó. Nó nhìn cuộc sống dưới tầm nhìn mở rộng của đấng Sáng tạo, tỏa rạng xuyên qua cá thể của nó.

Để minh họa điều này, con hãy tưởng tượng con lớn lên trong một căn phòng không có cửa sổ. Căn phòng có một cánh cửa với một lỗ nhìn nhỏ qua đó ánh sáng mặt trời có thể chiếu vào. Con không bao giờ thấy được toàn bộ mặt trời; con chỉ thấy một tia sáng nhỏ, riêng lẻ của mặt trời. Nếu con đã lớn lên trong một căn phòng như vậy, tầm nhìn của con về mặt trời sẽ bị quy định bởi điểm quan sát của con. Con có thể tin rằng không có mặt trời hoặc tia sáng đơn lẻ đó tự nó hiện hữu. Một khi con mở cửa và bước ra ngoài ánh sáng mặt trời, con sẽ có được một nhận biết mở rộng hơn về mặt trời và sức mạnh thật của nó. Giờ đây con sẽ nhận ra mặt trời mạnh hơn tia sáng nhỏ trong phòng rất nhiều. Con sẽ nhận ra tia sáng quả thực đến từ mặt trời và không thể nào hiện hữu nếu không có mặt trời. Nhưng con vẫn thấy mặt trời ở rất xa.

Bây giờ con hãy tưởng tượng con du hành đến chính trung tâm của mặt trời và nhìn thái dương hệ từ chỗ đó. Con sẽ không còn bị giới hạn bởi ấn tượng ban đầu về mặt trời, như tia sáng nhỏ chiếu qua cánh cửa. Giờ đây con trải nghiệm toàn bộ mặt trời, tuy thế con không mất đi nhận biết của con về tia sáng đơn lẻ. Con sẽ nhận biết là tia sáng đơn lẻ quả thực là một nối dài của chính mặt trời. Quả thực là mặt trời đã tỏa sáng qua lỗ nhỏ của cánh cửa, mặt trời biểu hiện chính nó là một tia sáng đơn lẻ. Không có sự tách biệt thật sự giữa nguồn gốc của ánh sáng và tia sáng đơn lẻ. Giới hạn duy nhất là kích thước của lỗ qua đó ánh sáng tỏa chiếu. Nếu con mở rộng kết nối của con với Hiện diện TA LÀ của con, lượng ánh sáng có thể tỏa chiếu qua bản thể của con không bị giới hạn nào hết.

Khi Thượng đế sinh tạo con như một sinh thể cá biệt, con không được ban cho sự nhận biết trọn vẹn về mặt trời, có nghĩa là tâm thức của cái Tất cả của Thượng đế. Con được sinh tạo như một sinh thể cá biệt với một tia sáng tỏa chiếu qua tâm thức con. Trong trạng thái tâm thức giới hạn của con, lẽ tự nhiên là con nhìn mình là một sinh thể cá biệt, khác biệt với cái Tất cả của Thượng đế. Con không đủ tự nhận biết để đồng hóa mình là một với cái Tất cả của Thượng đế, là một nối dài của cái Tất cả của Thượng đế.

Nếu mô tả điều này với từ ngữ đường thẳng mà thày đã có nói là không cho con một hình ảnh chính xác về thực tại Thượng đế, ta có thể nói là con được sinh tạo như một cá thể nhưng con có nhận biết con được sinh tạo bởi Thượng đế. Con thấy mình là một sinh thể cá biệt nối kết với một Thượng đế xa xăm. Sự nối kết của con với Thượng đế không ở ngoài con; nó ở bên trong con dưới hình dạng Hiện diện TA LÀ của con. Con coi mình như một hành tinh quay chung quanh quỹ đạo mặt trời của Hiện diện TA LÀ và được lực hấp dẫn của Hiện diện TA LÀ giữ trong một quỹ đạo ổn định. Dù con có nhận biết rõ ràng về Hiện diện TA LÀ của con, con vẫn chưa có thể thấy Hiện diện TA LÀ là một nối dài, là một cá thể của đấng Sáng tạo. Con có khái niệm Thượng đế là một Sinh thể xa xăm vượt lên trên trải nghiệm trực tiếp của con.

Con được sinh ra với một nhận biết giới hạn tập trung vào hình tướng cá biệt của mình. Con nghĩ mình được Thượng đế sinh tạo và gửi xuống thế gian này. Con được sinh ra để mở rộng nhận biết của con cho tới khi con nhận ra đấng Sáng tạo không tách biệt khỏi tạo vật của ngài. Thượng đế là Tất cả ở trong Tất cả và do đó con không được sinh tạo bởi một Thượng đế xa xăm và gửi vào một thế giới trong đó không có Thượng đế. Thượng đế ở ngay đây với con và do đó khái niệm con được sinh tạo bởi Thượng đế quá giới hạn, quá đường thẳng. Sự thực là Thượng đế đang biểu hiện chính ngài như là sinh thể cá biệt của con. Con là Thượng đế biểu lộ chính ngài như sinh thể cá biệt của con. Đó là lý do tại sao Giê-su nói vương quốc Thượng đế ở trong con (Luke 17:21). Tiến trình thức tỉnh thấy bản sắc thật của con có nhiều giai đoạn:

  • Con bắt đầu thấy mặt trời của Hiện diện TA LÀ của con là nguồn cội sự sống của con.
  • Con nhận ra ánh sáng tỏa xuyên qua Hiện diện TA LÀ là ánh sáng, uy lực của đấng Sáng tạo.
  • Con nhận ra là đấng Sáng tạo ở khắp nơi trong tạo vật và do đó ánh sáng của Thượng đế có tiềm năng tỏa sáng từ bất cứ điểm nào của tạo vật.
  • Cuối cùng con tới sự nhận biết là ánh sáng không đến từ một nguồn xa xăm mà nó đến từ bên trong cái Ta của con. Lúc đó con trở thành một Sinh thể tự đầy đủ tỏa chiếu ánh sáng Thượng đế từ bên trong con, giống như mặt trời tỏa chiếu ánh sáng từ bên trong chính nó.

Sau khi con được sinh tạo như một dòng sống cá biệt, con đi xuống năng lượng dày đặc hơn của vũ trụ vật chất. Cái cho phép con có được và duy trì nhận biết ý thức về Hiện diện TA LÀ của con sau khi con xuống là tâm thức Ki-tô, Con trai duy nhất được Cha sinh tạo ra. Tâm thức này được Kinh thánh gọi là Ngôi Lời và như Kinh thánh nói, mọi thứ được sinh tạo từ Con trai của Cha, từ tâm thức Ki-tô và được quy định qua Ngôi Lời. Mọi thứ từng được tạo ra bởi một đồng-sáng tạo có tự nhận biết đã đi ra từ tâm thức Ki-tô, nghĩa là tâm thức Ki-tô ở trong mọi hình tướng từng được tạo ra. Không có ngài, không có cả Thượng đế Cha lẫn Thượng đế Con, chẳng điều chi đã được làm ra được làm ra (John 1:3).

Con không bao giờ mất đi tiềm năng lấy lại tâm thức Ki-tô. Dù con xuống thấp tới đâu trong tâm thức, con luôn có tiềm năng giành lại sự kết nối với Thượng đế và bản sắc thật của con. Con không bao giờ có thể bị tách biệt khỏi tâm thức Ki-tô vì nó ở trong mọi thứ, ngay cả ở trong những hình tướng không toàn hảo và không hài hòa với quy luật Thượng đế. Đó là lý do tại sao Giê-su nói đá cũng kêu lên để bênh vực Ki-tô (Luke 19:40). Một chức năng của tâm thức Ki-tô là bảo đảm những người đồng-sáng tạo không bao giờ có thể bị lạc trong tạo vật, không bao giờ có thể bị xa rời khỏi Thượng đế đến độ không có khả năng về nhà. Con không bao giờ có thể rời xa tâm thức Ki-tô do đó cảm nhận tách biệt sẽ luôn là một ảo tưởng chỉ có mặt trong tâm con. Bất cứ lúc nào, con cũng có thể bắt đầu đi trên con đường dẫn con thay thế ảo tưởng này với sự thật sẽ giải thoát con (John 8:32). 

15.7. Kế hoạch thiêng liêng cho sự tăng trưởng của trái đất

Thiết kế nguyên thủy của Thượng đế cho dòng sống của con là con bắt đầu như một sinh thể cá biệt với tự nhận biết giới hạn. Con bắt đầu như một cá thể có kết nối với Thượng đế nhưng khác biệt với cái Tất cả của Thượng đế mà không tách biệt khỏi cái Tất cả của Thượng đế. Có sự khác biệt giữa có sự kết nối với cái Tất cả của Thượng đế ngược lại với tách biệt khỏi cái Tất cả bởi một rào cản không đâm thủng được. Trong trường hợp đầu, con có thể mở rộng sự kết nối và cuối cùng đạt được sự tự nhận biết mình là một với Tất cả. Trong trường hợp thứ nhì, con không có chọn lựa nào cả để trở về hợp nhất với Tất cả. 

Khi con sử dụng các quyền năng sáng tạo của con, khi con dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con, con sẽ dần dần tăng trưởng tự nhận biết. Con cũng tăng trưởng nhận biết về cách vũ trụ và các quy luật của Thượng đế vận hành. Thượng đế đã ghi khắc quy luật của ngài trong các phần sâu trong con, nghĩa là cái ta ý thức của con có thể biết các quy luật này qua tâm Ki-tô. Khi dòng sống của con bắt đầu hành trình của nó trong vũ trụ vật chất này, con không có một sự nhận biết ý thức về các quy luật của Thượng đế. Tâm vỏ ngoài của con, tâm lý luận của con không có hiểu biết về các quy luật của Thượng đế. Làm sao con tuân theo quy luật của Thượng đế được? Con làm được bằng cách dùng khả năng trực giác của con tim qua đó con hòa điệu được với Tâm Ki-tô Hoàn vũ và con tuân thủ các quy luật này mà không có sự nhận biết có ý thức về cách chúng vận hành. Khi con dùng quyền năng sáng tạo của mình, con sẽ dần dần mở rộng sự nhận biết của con về các quy luật Thượng đế. Con sẽ xây dựng sự hiểu biết có ý thức tại sao các quy luật vận hành thế đó, tại sao tuân thủ quy luật có lợi nhất cho con và làm sao các quy luật này quân bình các nỗ lực sáng tạo cá nhân của con với sự tốt lành cho tổng thể.

Khi con tăng trưởng tự nhận biết, dần dần con có thể nhìn vượt lên trên ý niệm cái ta cá nhân của mình. Không những con hòa điệu với sự nhận biết rộng lớn hơn về quy luật Thượng đế, con cũng bắt đầu mở rộng nhận biết về Thân thể Thượng đế, nghĩa là các đồng-sáng tạo khác. Con bắt đầu nhìn quá những ý muốn cá nhân của mình và nhận ra các đồng-sáng tạo khác không tới hành tinh này chỉ để thỏa mãn các ước muốn cá nhân của họ. Có một kế hoạch thiêng liêng để đem đến sự tăng trưởng của trái đất và kế hoạch này có sự hài hòa toàn hảo giữa cá nhân và sự tốt lành cho tập thể. Bằng cách đứng thẳng hàng với kế hoạch thiêng liêng cho Thân thể Thượng đế, con sẽ được toại nguyện hơn khi thấy những nỗ lực cá nhân của mình tăng cường và khế hợp với kế hoạch lớn hơn cho trái đất và nhân loại. Điều này sẽ cho con sự toại nguyện lớn hơn bất cứ nỗ lực cá nhân nào.

Khi con hiểu và tôn trọng người khác hơn, con tăng triển khả năng yêu thương người hàng xóm như chính mình. Quan hệ của con lúc đó sẽ dựa trên tình thương và dồi dào thay vì sợ hãi và thiếu thốn. Khi con quý trọng quy luật và tạo vật của Thượng đế nhiều hơn, dần dần con bắt đầu yêu Thượng đế với tất cả trái tim, tâm hồn và tâm trí của con (Luke 10:27). Khi con tiếp tục đồng-sáng tạo với Thượng đế và mở rộng tự nhận biết của con, con dần dần nhận ra cái ta thật của con là Hiện diện TA LÀ của con, là một cá thể của đấng Sáng tạo. Con bắt đầu nhận ra là, như Giê-su thốt lên, “Ta và Cha ta là một” (John 10:30). Con bắt đầu nhận ra là Cha con đã làm việc cho tới nay (John 5:17) bằng cách sinh tạo thế giới hình tướng như một môi trường cho sự biểu lộ sáng tạo của con. Con phải làm việc để nhân lên khả năng của con và cai quản chính ý niệm bản ngã của con. Khi con đã cai quản cái ta của con, thì con có thể cai quản hành tinh nơi con sống và giúp biến hành tinh này thành vương quốc Thượng đế, một bầu cõi được lấp đầy bởi ánh sáng và sự toàn hảo của Thượng đế, thay thế bóng tối bao trùm mặt đất.

15.8. Mục đích của đời sống là tăng trưởng không ngừng

Cốt lõi của tâm thức Ki-tô có thể gói ghém trong một chữ và chữ này là “quân bình”. Tâm thức Ki-tô quân bình lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ qua đó các hình tướng bền vững được tạo ra, là những hình tướng quân bình toàn hảo với quy luật Thượng đế. Tâm thức Ki-tô quân bình quan hệ giữa một cá nhân đồng-sáng tạo và Thân thể Thượng đế, để có hài hoà toàn hảo giữa cá nhân và tổng thể. Tâm thức Ki-tô cho cá nhân đồng-sáng tạo sức mạnh để tuân thủ quy luật của Thượng đế và qua đó cá nhân dùng khả năng sáng tạo của mình để giúp khuếch trương toàn thể tạo vật và không tác động tiêu cực gì cả trên bất cứ phần nào của sự sống. Tâm thức Ki-tô quân bình quan hệ giữa người cá nhân đồng-sáng tạo và đấng Sáng tạo để người đồng-sáng tạo không bao giờ bị lạc trong thế giới của các hình tướng được tạo ra.

Bất cứ hình tướng nào được quy định bởi và qua tâm thức Ki-tô đều là một hình tướng toàn hảo. Nó là một hình tướng hài hòa toàn hảo với các quy luật Thượng đế và với ý định sáng tạo của Thượng đế, đó là tất cả người đồng-sáng tạo tăng trưởng một cách hài hòa với nhau để mọi sự sống đều trở nên hơn nữa. Chính qua tâm thức Ki-tô mà con có thể đi theo tiếng gọi của Giê-su: “Cho nên các người nên toàn hảo, giống như Cha các người trên trời, là Hiện diện TA LÀ của con, toàn hảo” (Matthew 5:48).

Sự toàn hảo mà thày nói tới không phải là loại toàn hảo mà hầu hết hình dung. Nhiều người tin vào ý tưởng nhị nguyên, ý tưởng tôn sùng rằng nếu điều gì đó toàn hảo, nó không bao giờ có thể thay đổi. Toàn bộ mục đích của sự sáng tạo vũ trụ này là sáng tạo một bầu cõi trong khoảng trống không và dần dần lấp đầy khoảng trống không đó với ánh sáng Thượng đế cho tới khi ánh sáng có thể lan rộng và lấp đầy một phần của khoảng trống không. Mục đích thực sự của sự sáng tạo, mục đích của đời sống là tăng trưởng không ngừng, mở rộng không ngừng, thăng vượt không ngừng.

Thế giới hình tướng hiện hữu vì Thượng đế muốn hơn nữa. Ý muốn hơn nữa là động lực đằng sau mọi sáng tạo và có sẵn trong mọi tạo vật. Ý tưởng truyền thống về thiên đàng như một nơi đứng yên trong đó các thiên thần ngồi trên cụm mây hồng dạo đàn hạc miên viễn hoàn toàn xa với thực tại sôi động và năng động của Thượng đế. Thiên đàng là một nơi năng động hơn trái đất rất nhiều vì tất cả những Sinh thể trên thiên đàng đều đang liên tục làm việc để phát triển ánh sáng của Thượng đế với mục tiêu trở nên nhiều hơn trong Thượng đế, nhiều hơn trong Tất cả.

Động lực muốn hơn nữa cũng được thiết kế sẵn trong tâm thức Ki-tô và do đó tâm Ki-tô liên tục thúc đẩy những cá nhân đồng-sáng tạo để họ thực thi khả năng sáng tạo và mở rộng sự tự nhận biết của họ. Tâm thức Ki-tô thúc đẩy con trở nên hơn nữa, mở rộng tự nhận biết của con cho tới khi con đạt được trọn vẹn tâm thức Thượng đế và biết con là một cá thể của Tất cả, biết con không tách biệt khỏi Thượng đế. Thay vào đó, con là Thượng đế đang tự biểu hiện chính mình qua ý niệm cái ta cá nhân của con.

Sự toàn hảo mà thày nói tới không đứng yên, không là một hình tượng khô chết. Nó năng động, nó tăng trưởng liên tục, luôn luôn trở nên hơn nữa trong sự toàn vẹn của Thượng đế. Thày có nói trước đây với con là lực co lại của Mẹ được thiết kế có sẵn trong chính Ánh sáng Mẫu-Vật. Lực co lại này sẽ luôn tìm cách trả Ánh sáng Mẫu-Vật về trạng thái cơ bản của nó nơi đó không hình tướng nào hiện hữu. Ta có thể nói lực co lại liên tục tìm cách phân hủy bất cứ hình tướng nào. Thượng đế không có ý định là mọi hình tướng đều phải phân hủy và trở thành không gì cả để vô hiệu hóa nỗ lực của các đồng-sáng tạo. Ý định của Thượng đế là không hình tướng nào đứng yên, không hình tướng nào trở nên trường tồn. Thượng đế muốn hình tướng năng động, có nghĩa là hình tướng nào cũng là nền tảng cho sự tăng trưởng thêm nữa. Thậm chí một hình tướng toàn hảo cũng phải được thăng vượt và dùng làm nền tảng để biểu thị một hình tướng cao hơn.

Tâm thức Ki-tô cho người đồng-sáng tạo sức mạnh để thiết kế một hình tướng hoàn toàn hài hòa với ý định sáng tạo của Thượng đế. Không hình tướng nào sẽ trường tồn bởi vì lực co lại của Mẹ sẽ phân hủy bất cứ gì đứng yên, bất cứ gì trở thành một hệ thống đóng như định luật thứ nhì của nhiệt động học nói. Chìa khóa để bảo đảm cho nỗ lực sáng tạo của con không bị phân hủy là gì? Chìa khóa là con ở trong tâm thức Ki-tô và con không bao giờ muốn đứng yên hay duy trì một hình tướng đặc thù. Con liên tục sáng tạo hình tướng mới tốt đẹp hơn, như thế con ở trong Dòng sông sự Sống là lực sáng tạo luôn luôn tuôn chảy, chính khía cạnh Đấng Sáng tạo của Thượng đế.

Khi con ở trong dòng chảy của sự sống, con không dính mắc vào bất kỳ hình tướng đặc thù nào. Con không mong muốn hình tướng này trường tồn, con chỉ có mong muốn duy nhất dùng hình tướng đó làm bàn đạp để mở rộng khả năng sáng tạo của con. Con không bao giờ chờ đợi con có thể sáng tạo một điều gì trở nên trường tồn. Con không bao giờ nghĩ khi một hình tướng được thay thế bởi một hình tướng khác cao hơn, nỗ lực sáng tạo của con bị lãng phí. Con nhận ra nỗ lực sáng tạo của con không bao giờ bị lãng phí khi con còn ở trong dòng chảy của Dòng sông sự Sống. Con tập trung vào tiến trình sáng tạo thay vì kết quả của sự sáng tạo là một hình tướng đặc trưng. Con tập trung vào hành trình thay vì nơi đến vì con nhận ra cuộc sống là một hành trình không bao giờ dứt.

15.9. Con ở trong dòng chảy của sự sống không bao giờ chấm dứt

Để minh họa điều này, con hãy xem xét một hạt lúa mì được để vào lòng đất. Có vẻ như hạt lúa bị lạc mất dưới đất nhưng sau một thời gian nó trổ mầm. Mầm lúa đẹp tươi nhưng có nhà nông nào lại muốn hạt mầm cứ ở yên như thế? Khi hạt mầm lớn lên thành cây, hình dạng của hạt mầm bị mất đi nhưng nỗ lực sáng tạo của cây không mất đi; nó đơn giản chuyển hóa sang một giai đoạn mới, một hình dạng mới. Cây đẹp tươi với lá xanh nhưng cuối cùng nó biến thành một thân cây có hạt và nó đổi màu vàng. Cây xanh không còn nữa nhưng nỗ lực sáng tạo của cây không mất đi. Khi người ta gặt hái lúa mì, thân cây mất đi nhưng một số hạt trở thành hạt giống cho mùa gặt năm sau và một phần của nó được dùng làm thức ăn nuôi dưỡng cho con người, những người này phục vụ như những đồng-sáng tạo trên trái đất với tiềm năng khuếch trương sự sáng tạo của Thượng đế. Mục đích của nỗ lực sáng tạo thúc đẩy một hạt lúa mì nảy mầm và phát triển không phải là để sản xuất hạt mầm, cây xanh hay cây trưởng thành và duy trì hình dạng này mãi mãi. Mục đích của nỗ lực sáng tạo là thúc đẩy chính tiến trình sự sống, một tiến trình luôn mở rộng và khuếch trương tổng thể của sáng tạo của Thượng đế.

Như một người đồng-sáng tạo con không được thiết kế để dính mắc vào bất kỳ hình tướng nào cho dù nó đẹp biết bao chăng nữa hay cho dù tốn bao nhiêu công sức để tạo ra nó. Con được sinh ra để là một thành phần của Dòng sông sự Sống qua đó con liên tục dùng một hình tướng để làm bàn đạp cho một sự thành đạt sáng tạo cao hơn. Con được thiết kế để làm như thế và chỉ khi con ở trong dòng chảy của sự sống thì con mới thật sự cảm thấy mãn nguyện và sống động. Tâm thức thăng vượt liên tục là tâm thức của sự sống. Sự dính mắc vào một hình tướng và nỗ lực giữ nguyên một hình tướng là tâm thức chết, tâm thức phản Ki-tô. Tâm thức phản Ki-tô khiến các sinh thể có tự nhận biết mắc kẹt trong một ý niệm bản ngã giới hạn và từ chối không thăng vượt nó. Họ kéo họ ra khỏi dòng chảy của sự sống và lực co lại của Mẹ sẽ ngay tức khắc bắt đầu phân hủy cái mà họ tìm cách nắm giữ, tìm cách sở hữu.

Đây là ý nghĩa sâu xa đằng sau lời nói của Giê-su: “Vì ai muốn cứu sự sống của mình thì sẽ mất nó, còn ai vì ta mà mất sự sống của mình thì sẽ tìm lại sự sống” (Matthew 16:25). Nếu con tìm cách bám giữ một ý niệm bản sắc giới hạn và từ chối không thăng vượt nó, lực co lại của Mẹ sẽ chắc chắn lấy đi ý niệm về sự sống này. Nếu con sẵn lòng bỏ ý niệm sự sống đứng yên này, cái hình tượng khô chết đó, để có thể vượt thăng giai đoạn đó và đạt được một ý niệm bản ngã lớn hơn, thì con ở trong tâm thức Ki-tô. Qua tâm thức Ki-tô này, qua sự thăng vượt liên tục này, con sẽ ở trong dòng chảy của sự sống không bao giờ chấm dứt và do đó con có đời sống vĩnh cửu.

Hình thức thật duy nhất của đời sống vĩnh cửu không phải là một trạng thái đứng yên nhưng là một trạng thái năng động của thăng vượt liên tục. Vì con có tự nhận biết, trí tưởng tượng và quyền tự quyết, nên con là người mà con nghĩ con là. Thượng đế đã cho con quyền tạo ra bất cứ ý niệm bản sắc nào mà con muốn, ngay cả ý niệm con là người tội đồ sinh diệt. Nhưng Thượng đế không cho con quyền ở lại mãi mãi trong ý niệm bản sắc đó vì điều đó có nghĩa là con sẽ bị bỏ lại đằng sau dòng chảy sáng tạo của Thượng đế. Tại sao một Thượng đế yêu thương lại muốn con bị mắc kẹt trong một ý niệm bản sắc giới hạn, ngăn cản không cho con đời sống dồi dào? Nếu con tìm cách giữ lại một ý niệm bản sắc giới hạn, con sẽ không thể tránh mất nó. Nếu con sẵn sàng muốn tăng trưởng, con sẽ không bao giờ mất đi ý niệm bản ngã của con.

Con sẽ không bao giờ có thể duy trì một ý niệm bản sắc đặc thù, nhưng con có thể duy trì một ý niệm bản sắc liên tục thay đổi, độc lập với mọi hình tướng đã được tạo ra. Đây là ý niệm bản sắc thật của con, vượt lên trên mọi thứ trên thế gian này. Đấng sáng tạo vượt lên trên tạo vật của ngài. Giống vậy, một người đồng-sáng tạo vượt lên trên tạo vật của nó, vượt lên trên ngay cả thế giới hình tướng. Con được tạo ra như một nối dài của đấng Sáng tạo và do đó con hơn bất kỳ hình tướng nào mà con đã tạo ra trong thế giới này. Con hơn bất kỳ ý niệm bản sắc nào mà con đã tạo ra sau khi con mất đi kết nối với Hiện diện TA LÀ của con và xem mình như một sinh thể tách biệt. Thượng đế cho phép con tách biệt khỏi ngài nhưng vì Thượng đế thương con vô điều kiện, nên Thượng đế không chấp nhận để bất cứ điều kiện nào giữ con vĩnh viễn tách biệt khỏi ngài. Thượng đế sẽ không cho phép bất cứ điều kiện nào khiến con vĩnh viễn mắc kẹt vào trạng thái tách biệt, lúc nào cũng kém hơn sự trọn vẹn của đời sống dồi dào.

15.10. Con phải thay đổi hoàn cảnh bên trong của con

Con yêu dấu, con hãy để thày một lần nữa cho con một khái niệm có thể khó nắm bắt với tâm đường thẳng nhưng có thể nắm bắt với con tim. Vũ trụ vật chất có thể so sánh với một rạp chiếu phim. Như con biết có ba yếu tố căn bản cho phép con xem một cuộn phim. Một là màn hình và phim được chiếu lên nó, hai là cuộn phim trong máy chiếu phim và ba là ánh sáng đến từ bóng đèn trong máy chiếu phim. Bóng đèn trong máy chiếu phim có thể so sánh như lực lan ra của Cha, là động lực đằng sau sự sáng tạo mọi hình tướng. Đấy là ánh sáng tâm linh tuôn chảy xuyên qua Hiện diện TA LÀ của con. Màn ảnh so sánh như Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ phản ánh lại bất cứ hình tướng nào được phóng chiếu lên nó bởi máy chiếu phim. Cuộn phim so sánh như tâm thức người đồng-sáng tạo.

Bây giờ con hãy tưởng tượng con đi vào một rạp chiếu phim để xem phim và hình đầu tiên của phim cứ lặp đi lặp lại hoài. Dù có một cuộn phim trong máy chiếu phim và cuộn phim đang di động nhưng mỗi hình trên cuộn phim đều giống nhau. Lẽ đương nhiên điều này không tạo nên một phim, nó tạo nên một hình đứng yên không bao lâu làm mọi người chán ngán. Điều làm nên một phim là mỗi hình trên cuộn phim khác hình trước một chút và sự kiện này cho con ảo tưởng con đang xem phim cho dù sự thật là con đang xem một bộ hình đứng yên. Bộ hình đứng yên đơn lẻ này giản dị được phóng chiếu lên màn ảnh với một tốc độ nối đuôi nhau nhanh đến độ mắt của con bị lừa và nghĩ là nó đang xem một phim liên tục.

Cuộc sống trong vũ trụ vật chất rất giống một phim. Hoàn cảnh bên ngoài con đang đối diện ngay bây giờ là kết quả của những chọn lựa mà con đã lấy trong quá khứ và đang lấy trong hiện tại. Hoàn cảnh bên ngoài của con là kết quả một hình tư tưởng mà con giữ trong tâm và phóng chiếu lên màn ảnh cuộc sống. Trong máy chiếu phim, một hình ảnh mới được phóng ra nhiều lần mỗi giây. Hoàn cảnh bên ngoài của con là kết quả của sự kiện tâm con phóng chiếu một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật nhiều lần mỗi giây. Mỗi lúc con đều có cơ hội thay đổi hình ảnh con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Nếu con không thay đổi hình ảnh, nếu con lấy vào mình một hình ảnh khô chết, con sẽ tiếp tục phóng chiếu cùng một hình ảnh và đó là lý do tại sao cuộc đời con có vẻ không bao giờ thay đổi.

Đó là lý do tại sao con gặp đi gặp lại cùng một vấn đề và tại sao có vẻ như cuộc đời con giống như một cuộc vật lộn không bao giờ dứt. Nếu hiện nay con ở trong một hoàn cảnh đem lại khổ đau cho con, lý do là con đang phóng chiếu một hình ảnh giới hạn, không hoàn hảo lên màn hình cuộc sống. Con đang phóng chiếu một hình ảnh không được tạo ra từ tâm thức Ki-tô và do đó nó không thẳng hàng với quy luật của Thượng đế, là những quy luật được thiết kế để ban cho con đời sống dồi dào. Nếu hoàn cảnh của con không thay đổi, nếu dường như con đang bị kẹt trong những giới hạn mà con không vượt qua nổi, lý do là vì con đang phóng chiếu lặp đi lặp lại cùng một hình ảnh lên màn hình cuộc sống. Giải pháp duy nhất, cách duy nhất để con cải thiện hoàn cảnh là con phải thay đổi hình ảnh trong tâm con. Con phải bước ra ngoài trạng thái tê liệt tâm linh đang khiến tâm con, gồm trí tưởng tượng, quyền tự quyết và ý niệm bản sắc của con, bị mắc kẹt trong cùng một hình ảnh khô chết và như vậy con vi phạm điều răn thứ nhì (Exodus 20:40). Con phải biến những hình ảnh trong tâm con thành một cuộn phim để cuộc sống của con trở thành một bộ phim dần dần tiến tới một chung cuộc vui vẻ.

Albert Einstein định nghĩa điên khùng là tiến trình trong đó con cứ làm cùng một chuyện cũ nhưng chờ đợi kết quả khác đi. Trong bối cảnh chúng ta đang bàn, điều này có nghĩa là con tiếp tục phóng chiếu cùng một hình tư tưởng nhưng làm sao đó, con chờ đợi bỗng nhiên một ngày màn hình sẽ trình chiếu một hình khác. Einstein là một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất của mọi thời vì ông đã hiểu cốt lõi của của các định luật thiên nhiên. Ông đã hiểu điều mà thày nói trước đây, ấy là vũ trụ là một tấm gương. Nếu con tiếp tục phóng chiếu cùng một hình ảnh vào tấm gương vũ trụ, không thể tránh được chuyện vũ trụ sẽ tiếp tục phản ánh lại con cùng một hoàn cảnh bên ngoài. Nếu con muốn thay đổi hoàn cảnh bên ngoài của con, con phải bắt đầu bằng cách thay đổi hoàn cảnh bên trong của con. Nếu con muốn thay đổi điều đang được phóng chiếu lên màn hình cuộc đời con, con phải bảo đảm hình ảnh trong tâm con được quy định bởi tâm thức Ki-tô và không bởi tâm thức phản Ki-tô.

15.11. Hậu quả khi xuống thấp hơn tầng tâm thức Ki-tô

Chúng ta có thể hiểu thêm một điều từ hình ảnh của rạp chiếu phim giống như cuộc đời của con. Động lực trong máy chiếu phim là lực lan ra của Cha. Trước đây thày có so sánh lực lan ra này với một dòng chảy ánh sáng tâm linh tuôn chảy qua Hiện diện TA LÀ của con và sau đó qua tâm con. Tâm con áp đặt một hình tư tưởng lên ánh sáng đó, và chính hình ảnh này được phóng chiếu lên màn hình như ngoại cảnh mà con trải nghiệm trên trái đất. Lực đẩy đằng sau sự hiện hữu của con là ánh sáng Thượng đế. Nếu con tắt bóng đèn trong máy chiếu phim thì chuyện gì xảy ra? Phòng chiếu phim sẽ tối đen. Nếu con đánh mất nối kết với Hiện diện TA LÀ của con thì tâm con bị cắt khỏi nguồn ánh sáng nguyên thủy của nó. Nếu con giảm kích thước của sự kết nối với Hiện diện của con, thì giống như con hạ cường độ ánh sáng  trong máy chiếu phim.

Điều này không có nghĩa là con tự hủy hoại ngay tức khắc hay con không thể sáng tạo hình tướng nữa. Nó có nghĩa là con không thể phóng chiếu hình ảnh lên trên màn hình cuộc sống nữa bằng cách dùng ánh sáng tinh khiết của Thượng đế đến từ Hiện diện TA LÀ của con. Giờ đây con bị ép buộc phải phóng chiếu hình ảnh lên trên màn hình cuộc sống bằng cách dùng năng lượng tâm lý đã được đem sẵn vào quang phổ tần số vật chất. Ánh sáng này có độ rung thấp hơn, do đó nó không có cùng mãnh lực với ánh sáng tinh khiết đến từ Hiện diện TA LÀ của con. Con sẽ phải cần nhiều năng lượng và nhiều nỗ lực hơn để phóng chiếu hình ảnh lên màn hình cuộc sống bằng cách dùng ánh sáng có độ rung thấp hơn. Điều này giới hạn khả năng sáng tạo của con và sẽ biến cuộc đời con thành một cuộc vật lộn.

Động lực đằng sau những nỗ lực sáng tạo của con là dòng năng lượng chảy xuyên qua tâm con, giống như ánh sáng chiếu xuyên qua máy chiếu phim. Khi con có một phần tâm thức Ki-tô, con có thể nhận ánh sáng có tần số cao trực tiếp từ Hiện diện TA LÀ của con. Giới hạn duy nhất cho quyền năng sáng tạo của con là kích thước ống dẫn kết nối ý niệm bản sắc vỏ ngoài của con với Hiện diện TA LÀ của con. Khi con có ánh sáng thuần khiết này tuôn chảy qua con, thì sự sáng tạo của con không cần nỗ lực vì chính ánh sáng làm công việc. Con nhận ra sự thực của câu nói của Giê-su: “Tự ta không làm được gì” (John 5:30).

Khi con xuống thấp hơn tầng tâm thức Ki-tô, con phải lấy năng lượng tâm lý từ cõi này trước khi con có thể sáng tạo bất cứ gì. Nếu con không hiểu tiến trình lấy năng lượng tâm lý và dùng nó để sáng tạo hình tướng, quyền năng sáng tạo của con lại bị giảm thấp hơn nữa và giờ đây con phải tích lũy dồi dào chỉ bằng cách làm việc với chất liệu vật lý. Trong cả hai trường hợp, con phải lấy năng lượng từ một nguồn cung cấp hữu hạn, thường có nghĩa là con phải cạnh tranh với người khác để lấy năng lượng đó. Con phải lấy những gì con cần bằng sức mạnh và điều này chắc chắn giam hãm con trong cỗ máy chạy kéo con vào chuỗi hành động và phản ứng, dùng sức mạnh và bị lực phản công chống lại.

Sự vât lộn này sẽ tiếp tục cho tới khi con thiết lập lại sự kết nối với Hiện diện TA LÀ của con và kết nối này là cốt lõi của tâm thức Ki-tô. Khi con khắc phục ý niệm tách biệt và thiết lập lại ý niệm hợp nhất với nguồn cội của con, cuộc đời con không còn là một cuộc vật lộn nữa. Uy lực của ánh sáng Thượng đế giờ đây có thể tuôn chảy xuyên qua tâm con mà không bị cản trở và như thế Cha con có thể làm việc cho đến bây giờ và con cũng làm việc (John 5:17). Như Giê-su đã nói: “Với Thượng đế mọi chuyện đều làm được” (Matthew 9:16), và do đó mọi cảm giác vật lộn đều bỏ lại đằng sau con. Lúc ấy con có thể nói cùng với Giê-su: “Vì ách của ta dễ chịu và gánh nặng của ta nhẹ nhàng” (Matthew 11:30).

Con hãy nhớ là ngay cả khi con đã nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, thì con vẫn không thể đứng yên, con không thể sáng tạo một hình tướng và chờ đợi nó hiện hữu vô hạn định. Mục đích cửa đời sống, định nghĩa đích thực của đời sống là thăng vượt liên tục. Con phải liên tục cập nhật và cải thiện các hình tư tưởng trong tâm con. Khi con làm thế, khi con chứng tỏ sự trung tín trong một số việc nhỏ, Thượng đế sẽ cho con cai quản nhiều ánh sáng hơn, sẽ cho phép con sáng tạo nhiều dồi dào hơn nữa và những hình tướng đẹp hơn và toàn hảo hơn nữa.

Khi con sinh hoạt ở tầng tâm thức Ki-tô, hay đúng hơn bởi vì con sinh hoạt ở tầng tâm thức Ki-tô, con không ở trong trạng thái đứng yên. Con liên tục tăng trưởng, liên tục thăng vượt. Con toàn hảo giống như Cha con trên trời toàn hảo (Matthew 5:48) vì con liên tục trở nên hơn nữa giống như Thượng đế liên tục trở nên hơn nữa qua con.

15.12. Con sinh thể tinh khôi mà Thượng đế đã sinh tạo

Vì Thượng đế đã cho con quyền tự quyết và trí tưởng tượng vô hạn, chuyện có thể xảy ra là con dùng trí tưởng tượng của mình để hình dung những hình tướng không thẳng hàng với quy luật của Thượng đế. Chuyện có thể xảy ra là con xây dựng một ý niệm bản ngã không phản ánh thiết kế nguyên thủy cho dòng sống của con. Thay vì xem mình là con trai hay con gái của Thượng đế, con có thể bắt đầu xem mình là một sinh thể tách biệt khỏi Thượng đế, thậm chí là một sinh thể bị Thượng đế bỏ rơi hay bị đuổi ra khỏi thiên đàng. Thậm chí con có thể xây dựng hình ảnh con chống đối Thượng đế và con ghét mọi thứ mà Thượng đế tượng trưng, bao gồm luôn cả những quy luật của Thượng đế mà con xem là một giới hạn cho tự do sáng tạo của mình.

Khi con dùng uy lực ý chí để chấp nhận một tự nhận biết giới hạn như thế là thực, thậm chí coi nó là thực tại khả dĩ duy nhất, con có thể dần dần đưa mình vào một trạng thái tâm thức trong đó con không còn có thể quy định những hình tư tưởng dựa trên tâm thức Ki-tô. Tất cả những hình tư tưởng được giữ trong tâm con được quy định bởi tâm thức phản Ki-tô, tâm thức tách biệt khỏi Thượng đế và tách biệt khỏi tổng thể. Điều này khiến cho hình tư tưởng của con càng ngày càng tập trung vào mình, càng ngày càng ích kỷ. Lúc ấy con mất đi nhận biết về tổng thể và con mất đi sự quan tâm hành động của mình ảnh hưởng người khác ra sao. Điều này có thể trở thành một vòng xoáy đi xuống dần dần kéo con xuống thấp hơn tiềm năng sáng tạo thật của con, tiềm năng thiêng liêng thật của con.

Quả thực không có giới hạn nhất định nào cho việc một sinh thể tự nhận biết có thể đi xuống thấp tới đâu dưới tầng mức tâm thức Ki-tô. Thượng đế đã cho con quyền tự quyết và trí tưởng tượng không giới hạn. Chỉ có một giới hạn duy nhất là Thượng đế không cho con được thử nghiệm với tâm thức phản Ki-tô mãi mãi. Ngay khi con ăn vào trái của hiểu biết về tốt và xấu, con mất đi sự sống vĩnh cửu của tâm thức Ki-tô. Lúc đó con phải chịu những định luật thấp hơn của sinh diệt mà định luật thứ nhì của nhiệt động học chỉ là một phần. Khi con xuống thấp hơn tầng tâm thức Ki-tô, con không còn ở trong dòng chảy miên viễn của Dòng sông sự Sống. Con chịu sự khống chế của định luật thời gian và không gian và những luật này sẽ giới hạn con ở một nơi nhất định trong không gian và một nơi nhất định trong thời gian.

Không gian và thời gian, theo định nghĩa là những khái niệm giới hạn, con không thể ở mọi nơi trong không gian và con không thể hiện hữu mãi mãi trong thời gian. Ý niệm bản ngã giới hạn, là hậu quả của việc con tham gia vào tâm phản Ki-tô, không thể hiện hữu đời đời. Sẽ tới một ngày con phải chọn tùng phục ai, con phải chọn muốn trở về tâm thức Ki-tô và đời sống vĩnh hằng của tâm thức Ki-tô hay con muốn tiếp tục giới hạn ý niệm bản sắc của mình theo tâm thức phản Ki-tô. Ý niệm bản sắc này chắc chắn phải chết. Đây chính là ngày phán xét được nói tới trong Kinh thánh (Matthew 10:15). Nếu con từ chối tăng trưởng về hướng tâm thức Ki-tô, nếu con từ chối thăng vượt ý niệm bản ngã giới hạn của con thì cơ hội để con thử nghiệm với tâm thức phản Ki-tô sẽ chấm dứt trong cái mà Kinh thánh gọi là cái chết thứ nhì (Revelation 2:11).

Thiết kế nguyên thủy của dòng sống của con không bao giờ có thể mất được. Thiết kế này được bảo tồn muôn thuở trong tâm Ki-tô, Tâm Ki-tô Hoàn vũ. Tiềm năng con được cứu rỗi, được chuộc lại, được trở về trạng thái trước kia của con, được trở về với Hồng ân, được trở về thiên đàng, không bao giờ có thể bị mất. Dù con đã làm gì chăng nữa trong thế gian này, dù con đã đi xuống dưới tầng mức tâm thức Ki-tô bao xa chăng nữa, con vẫn có tiềm năng quay đầu lại và bắt đầu hành trình đi lên sẽ đưa con về với tâm thức Ki-tô. Một chức năng của tâm thức Ki-tô là giữ cái mà ta có thể gọi là niệm tinh khôi. Đây là hình ảnh được giữ trong tâm của đấng Sáng tạo thuở ban đầu khi ngài sinh tạo dòng sống của con. Đây là khái niệm quy định cá thể của con, những món quà cá biệt mà đấng Sáng tạo của con ban cho con khi lần đầu tiên ngài hình thành con. Những đặc tính này ở đây, niêm trong tâm thức Ki-tô. Nếu con sẵn lòng thăng vượt ý niệm bản ngã giới hạn mà con đang có, thì con có thể khám phá niệm tinh khôi này. Con có thể khôi phục lại ý niệm bản ngã, ý niệm bản sắc của con bằng cách một lần nữa hợp nhất với niệm tinh khôi. Con là cái con nghĩ con là, cho nên nếu con có thể hình dung và chấp nhận niệm tinh khôi, con sẽ là sinh thể tinh khôi mà Thượng đế đã sinh tạo.

Hành tinh trái đất lúc ban đầu được tạo ra trong một trạng thái toàn hảo cao hơn những gì được biểu hiện hiện nay. Con người đã đem hành tinh này xuống thấp hơn nhiều trạng thái toàn hảo nguyên thủy, tuy thế thiết kế nguyên thủy vẫn hiện hữu trong niệm tinh khôi trong tâm thức Ki-tô. Chuyện rất có thể xảy ra là một lượng người tới hạn có thể nâng cao tâm thức họ tới tầng mức Ki-tô và do đó họ phục vụ như những cánh cửa mở để đem niệm tinh khôi đó vào hiển thị vật lý trở lại. Hoàn cảnh hiện nay trên trái đất không gì khác hơn cuộn phim chiếu lên màn ảnh cuộc sống qua tâm thức tập thể của nhân loại. Hầu hết con người trên hành tinh này hiện nay tin vào ảo tưởng là không có hình ảnh nào khác khả thi hay thiết thực. Nếu có một số nhỏ con người từ chối không tin vào ảo tưởng đó và đặt viễn quan của họ về trái đất thẳng hàng với niệm tinh khôi, thì Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ hân hoan trình chiếu niệm tinh khôi này thay vì khái niệm hiện thời chịu ảnh hưởng quá lớn của tâm phản Ki-tô.

Nếu con cảm thấy những giáo lý thày trao truyền trong khóa học này khuấy động điều gì đó sâu trong trái tim của con, thì rất có thể là con đã xuống đầu thai trong lúc này vì con muốn trở thành một trong những sinh thể Ki-tô có thể giúp nâng trái đất khỏi những hạn chế hiện nay của nó và đem nó vào thời đại hoàng kim trong đó tất cả mọi người cùng chia sẻ cuộc sống dồi dào. Thày sẽ nói thêm về ý tưởng này trong các chương kế tiếp [xem Quyển Hai và Quyển Ba], nhưng bước kế tiếp là chúng ta cần hiểu nhiều hơn làm thế nào những sinh thể tự nhận biết đã đi xuống một ý niệm bản ngã hạn chế dựa trên tâm thức phản Ki-tô. Khi con hiểu con đã đánh mất Hồng ân của tâm Ki-tô như thế nào, thì con cũng sẽ khám phá chìa khóa để lấy lại trạng thái Hồng ân này.

13 | Thức tỉnh khỏi ảo tưởng tập thể

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 10/4/2005.

13.1. Con có thể đồng-sáng tạo sự dồi dào với tâm thức Ki-tô

Thày muốn gom lại một số ý tưởng thày đã cho con trong các chìa khóa trước hầu thày có thể đưa ra một bức tranh mạch lạc hơn về những gì còn cần làm để biểu hiện cuộc sống dồi dào. Thày đã giải thích ý nghĩa thật của câu nói Đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc, là con đã được thiết kế để là người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Con được thiết kế để nhận liên tục đời sống dồi dào từ bên Trên. Con sẽ nhận cuộc sống dồi dào này dưới dạng một dòng chảy năng lượng tâm linh liên tục, chảy từ Hiện diện TA LÀ của con vào tâm ý thức của con. Sau đó con có thể điều khiển dòng chảy này để biểu hiện cuộc sống dồi dào trên thế gian này. Khi làm vậy, con làm tròn vai trò người đồng-sáng tạo với Thượng đế và con nhân lên năng lượng và khả năng sáng tạo mà Thượng đế ban cho con. Lúc ấy con có thể cai quản, trước tiên là chính mình và sau đó cai quản vũ trụ vật chất qua đó con giúp biểu hiện vương quốc Thượng đế trên trái đất.

Lý do vì sao hiện nay con không biểu hiện đời sống dồi dào là vì con đã quên vai trò nguyên thủy của con. Con đã mất ý niệm bản sắc thật của con là một đồng-sáng tạo với Thượng đế. Thay vào đó, con đã chấp nhận một bản sắc giả, một bản sắc giả hiệu như một người phàm sinh diệt và tách biệt khỏi Thượng đế. Thậm chí con có thể tin là không có Thượng đế, không có cõi tâm linh, không có Hiện diện TA LÀ và con hoàn toàn đơn độc trong một thế giới thù nghịch và quanh mình đầy những người tìm cách lấy của con những gì mà con tin là chính đáng thuộc về mình.

Hầu hết những người đang xung đột đều bị mắc kẹt trong một trạng thái tâm thức tập trung vào mình hay ích kỷ. Con người quá tập trung vào mình đến độ họ không còn nhận thức để nhìn bức tranh rộng lớn hơn. Họ không còn nhận thức để quan tâm đến hậu quả hành động của họ trên người khác hay thậm chí họ không còn nhận biết cao hơn là họ là một thành phần của Thân thể Thượng đế trên trái đất và mọi việc họ làm đều ảnh hưởng tổng thể. Họ cũng quá ư tập trung vào cuộc sống trong vũ trụ vật chất nên chẳng còn sức chú ý để xét tới cõi tâm linh và biết được họ có thể nhận được dồi dào trực tiếp từ bên Trên thay vì phải lấy bằng sức mạnh từ thế giới này.

Nếu con muốn biểu hiện cuộc sống dồi dào và khắc phục cảm giác đấu tranh đang làm nhiều người mắc kẹt trong xung đột triền miên để giành giật một số tài nguyên giới hạn, con phải vượt thăng trạng thái tâm thức ích kỷ và duy vật này. Con phải vươn lên trên trạng thái đó và giành lại bản sắc thật của con là con trai hay con gái của Thượng đế, xứng đáng là người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Con hoàn toàn đủ khả năng đồng-sáng tạo cuộc sống dồi dào ngay đây trên trái đất này. Trạng thái tâm thức cao này là tâm thức dựa trên sự hợp nhất với nguồn cội của con thay vì tách biệt khỏi Thượng đế. Đây là sự hợp nhất mà Giê-su mô tả khi thày nói: “Ta và Cha ta là một” (John 10:30). Ý của Giê-su là: “Ta và Hiện diện TA LÀ của ta là một.” Tâm thức mà Giê-su chứng minh là ý niệm bản sắc dựa trên thực tại của con người thật của con thay vì dựa trên hình ảnh con người giả của con. Dù chúng ta có thể gọi trạng thái tâm thức này bằng nhiều tên, thày muốn gọi nó là quả vị Ki-tô cá nhân hay tâm thức Ki-tô. Vai trò của Giê-su khi xuống trái đất là để chứng minh trạng thái tâm thức này.

13.2. Tâm thức Ki-tô là tiếp cận sự sống dựa trên dồi dào và tình thương

Trước khi chúng ta tiếp tục xem xét thật chính xác cách biểu hiện tâm thức Ki-tô, thày muốn mô tả chi tiết hơn ý nghĩa của tâm thức Ki-tô. Vũ trụ vật chất được tạo ra từ năng lượng tinh tế hơn của cõi tâm linh mà tần số đã được hạ độ rung và đã khoác vào một hình tướng. Thước đo chính xác về sự dồi dào mà con người sẵn có trên trái đất là lượng năng lượng tâm linh đã được hạ độ rung và hiện nay rung động trong quang phổ của tần số vật chất. Một số năng lượng đã được hạ xuống quang phổ tần số của chất vật lý và một số năng lượng vẫn hiện hữu như năng lượng tâm lý. Một số năng lượng được biểu hiện thành dồi dào vật chất trong khi một số vẫn còn là tiềm năng dồi dào có thể được biểu hiện thành dồi dào vật chất qua uy lực của tâm con người.

Chìa khóa tối hậu để gia tăng dồi dào trên trái đất để tất cả đều có thể chia sẻ cuộc sống dồi dào, là đem thêm nhiều năng lượng tâm linh vào quang phổ tần số vật chất. Chỉ có người đạt được tâm thức Ki-tô mới có khả năng đem năng lượng từ cõi tâm linh vào cõi vật chất. Chỉ có người có tâm thức Ki-tô mới có thể là cánh cửa mở để ánh sáng Thượng đế tuôn chảy vào thế giới này và đó là lý do tại sao Giê-su có thể nói về mình: “Ta là con đường, sự thật và sự sống” (John 14:6), “Ta là cánh cửa” (John 10:9) và: “Chừng nào ta còn có mặt trên thế gian này, ta là ánh sáng của thế gian” (John 9:5). Bất cứ ai đạt được tâm thức Ki-tô có thể nói y như vậy. Mọi người đều có tiềm năng đạt được tâm thức Ki-tô.

Bây giờ chúng ta hãy xem xét những cách biểu hiện dồi dào mở ra cho những người không đạt được tâm thức Ki-tô. Nếu con người tin vào triết lý duy vật không có Thượng đế hay họ tin cái nhìn chính thống thờ phượng Giê-su như một trường hợp ngoại lệ thay vì là tấm gương, họ không có chọn lựa gia tăng tổng số năng lượng hiện có trong cõi vật chất. Họ chỉ có thể gia tăng dồi dào bằng cách lấy đi từ số lượng chất liệu vật lý và năng lượng tâm lý hiện có trong hệ thống năng lượng của trái đất.

Chúng ta có thể lập ra một thang đo minh họa những ai gần tâm thức Ki-tô hay đã đi xuống thấp hơn tâm thức Ki-tô bao xa. Chúng ta hãy bắt đầu với người tiền sử sống trong hang động và trạng thái tâm thức mà y đại diện. Với người sống trong hang động, chúng ta thấy một sinh thể hoàn toàn đồng hóa với thân vật lý và đồng hóa với bản năng thấp của thân này. Người tiền sử sống trong hang động hầu như không xứng đáng với nhãn hiệu “con người” bởi vì y cư xử giống một con thú thông minh hơn là con người. Người tiền sử sống trong hang động không có mức nhận biết cao đủ để mường tượng là y có thể thay đổi môi trường. Do đó y sống như một con thú và thích nghi với hoàn cảnh, kiếm sống rất khó khăn bằng cách lấy những gì y cần từ Mẹ Thiên nhiên. Y dùng sức mạnh để lấy mọi thứ để kiếm sống, như giết thú vật hay thu thập thức ăn sẵn có.

Khi y xung đột với những người tiền sử sống trong hang động khác, thì y chỉ có phản ứng duy nhất là bảo vệ bằng bạo lực của cải mà y cho là thuộc về mình. Không có thương thuyết, không có luật pháp hay thỏa thuận giữa những bộ lạc khác nhau hay những dân tộc khác nhau để phân chia đất đai và né tránh đụng độ. Ngay khi bị khiêu khích, bản năng thú tính của y bùng lên và y phản ứng với hội chứng đánh hay chạy điển hình của loài thú. Nếu không chạy được, y sẽ quay lại và đánh. Mức mà ngày nay các nhà khoa học coi là mức khởi đầu của chuỗi tiến hóa của nhân loại tiêu biểu cho mức thấp tuyệt đối của tâm thức Ki-tô. Người tiền sử sống trong hang động không phải là mức khởi đầu của nhân loại. Nó là điểm thấp mà con người rơi xuống khi họ lạm dụng khả năng sáng tạo của họ. Người tiền sử sống trong hang động tiêu biểu cho trạng thái tâm thức thấp nhất theo nghĩa khả năng sáng tạo của con người, mà thế giới hiện đại biết được.

Từ giai đoạn người tiền sử sống trong hang động, con người đi trên một tiến trình tiến lên dần dần, họ gia tăng nhận biết cách dùng khả năng sáng tạo của họ để thay đổi hoàn cảnh và thậm chí tác động lên năng lượng. Một bước nhảy vọt lớn xảy ra khi con người học cách dùng lửa, gìn giữ lửa và kiểm soát lửa để làm dụng cụ. Một bước nhảy vọt khác xảy ra khi con người học cách xây nhà của chính mình thay vì dựa vào các hang động tự nhiên. Thêm một bước nhảy vọt khác xảy ra khi con người học được canh nông và do đó họ có thể dùng đất đai để sản xuất nhiều thức ăn hơn so với thức ăn đến từ săn bắn. Sự tăng trưởng về văn minh được chứng kiến trong 2,000 năm qua cũng tượng trưng cho sự tăng trưởng về nhận biết cách vũ trụ vận hành. Con người càng ngày càng có khả năng thay đổi môi trường thay vì thụ động thích nghi với môi trường. Phần lớn khả năng này tập trung vào việc học hỏi cách dùng chất liệu vật lý và học quy luật thiên nhiên và do đó họ tập trung vào sự thu hoạch dồi dào từ nguồn cung cấp có sẵn trong quang phổ tần số của vật chất vật lý.

Trong thế kỷ qua, con thấy con người gia tăng nhận biết về các dạng năng lượng tinh tế hơn, kể cả hiểu biết khoa học rằng vật chất là một dạng năng lượng. Con cũng thấy con người gia tăng hiểu biết về khía cạnh tâm linh của đời sống, đưa tới nhận biết mở rộng hơn về sự kiện tâm có một ảnh hưởng lớn trên mọi khía cạnh cuộc sống, như khoa tâm lý tự giúp mình đã chứng minh. Con người ngày nay đã bước vào giai đoạn không còn giới hạn sự biểu hiện dồi dào chỉ từ chất liệu vật lý mà thôi. Con người bắt đầu biểu hiện dồi dào bằng cách dùng uy lực của tâm dù hiểu biết chính thức vẫn còn sơ khai. Nhiều người vẫn còn tập trung vào việc dùng tâm để khám phá những luật lệ sâu hơn của vũ trụ cho phép họ sử dụng vật chất tốt hơn. Càng ngày càng có thêm người tìm cách dò tìm tiềm năng tâm làm chủ vật chất qua đó họ có thể hoán chuyển năng lượng tâm lý thành chất liệu vật lý bằng cách hạ độ rung của nó và khoác vào hình tướng vật lý.

Khi nói tới sự gia tăng tâm thức con người, một khía cạnh là sự gia tăng nhận biết, gia tăng hiểu biết thế giới vận hành ra sao. Khi con gia tăng nhận biết, con biết cách dùng quy luật thiên nhiên giỏi hơn để có lợi cho con. Lúc đó con có thể bắt đầu tích cực thay đổi môi trường để nó thỏa mãn nhu cầu của con mà con không cần bỏ ra nhiều công sức. Như con thấy ngày nay trong xã hội loài người, sự gia tăng nhận biết này không phải là không có cạm bẫy. Nó không nhất thiết đem tới đời sống dồi dào hay trạng thái hạnh phúc và tâm an bình thường trực. Cách sử dụng thiếu phân biện nhận biết mở rộng hơn của nhân loại có thể gây vấn đề có tiềm năng đe dọa sự sống còn dài hạn của loài người. Gia tăng nhận biết không đồng nghĩa với tâm thức Ki-tô. Gia tăng nhận biết là một phần của việc đạt tới tâm thức Ki-tô nhưng nó không phải là tâm thức Ki-tô trọn vẹn.

Gia tăng nhận biết về cách dùng quy luật thiên nhiên mà không kèm theo gia tăng hợp nhất với Thượng đế và mọi sự sống có thể kéo con ra xa khỏi tâm thức Ki-tô. Gia tăng nhận biết về thế giới vật chất không tự động tạo ra tâm thức Ki-tô. Nó có thể cung cấp nền tảng để một người tiến lên tâm thức Ki-tô nhưng không bảo đảm điều này sẽ xảy ra. Sự gia tăng nhận biết về khả năng sáng tạo của con người có thể là cái bẫy nếu nó không được cân bằng bởi tình thương trong trái tim. Sự gia tăng nhận biết xảy ra trong trí, nhưng trí không cho con người khả năng yêu thương lẫn nhau và sống hòa bình với nhau. Con người đơn giản giỏi hơn trong việc lấy mọi thứ bằng sức mạnh trong khi chìa khóa thật để có dồi dào là vượt lên trên sức mạnh và biết rằng đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc. Con có thể đạt mọi chuyện con cần qua tình thương thay vì sức mạnh.

Điều này dẫn chúng ta tới khía cạnh kia của tâm thức Ki-tô, chìa khóa thật của tâm thức Ki-tô, là xoay chuyển từ cách tiếp cận sự sống dựa trên thiếu thốn và sợ hãi sang cách tiếp cận dựa trên dồi dào và tình thương. Người tiền sử sống trong hang động tiêu biểu cho một điểm thấp trong dòng tiến hóa trên cả hai phương diện, nhận biết của trí về thế giới và khả năng yêu thương của con tim vượt lên trên tự ngã. Kể từ thời đó, con người đã gia tăng cả hai khả năng hiểu thế giới của trí và khả năng yêu thương của con tim. Đáng tiếc là con tim đã không mở rộng nhanh như trí. Ngày nay chúng ta thấy những người có khả năng sáng tạo công nghệ mới nhưng không có khả năng dùng nó một cách minh triết, kể cả khả năng chọn lựa không phải lúc nào cũng làm cái mà kỹ thuật có thể làm được.

13.3. Tình thương toàn hảo của Thượng đế sẽ xua tan mọi sợ hãi

Mọi xung đột của con người phát sinh từ tâm thức thiếu thốn. Trong trạng thái tâm này, cảm xúc chủ yếu là sợ hãi. Nó có thể là nỗi sợ không có đủ cho mọi người cho nên nếu tôi không lấy vật nào đó thì người khác sẽ lấy. Hoặc nếu tôi không bảo vệ những gì tôi có thì người khác sẽ lấy đi của tôi.

Trong tâm thức này, con sống trong một thế giới mà chung quanh đầy đe dọa. Khi con lúc nào cũng sợ mất mát thì bắt buộc con sẽ trở nên ích kỷ và nó ngăn chặn khả năng nghĩ tới hậu quả dài hạn của hành động của mình, nghĩ tới người khác hay nghĩ tới tổng thể. Giờ đây, chúng ta thấy tâm thức Ki-tô có hai đặc tính:

  • Một sự gia tăng nhận biết về khả năng sáng tạo của con. Điều này bao gồm sự nhận biết lớn hơn về quy luật thiên nhiên hướng dẫn sự trải bày của vũ trụ vật chất và những quy luật lớn hơn của Thượng đế cung cấp khung sườn trong đó các quy luật thiên nhiên vận hành.
  • Một sự gia tăng nhận biết con không phải là một cá nhân tách biệt khỏi tổng thể của tạo vật của Thượng đế hay tách biệt khỏi nguồn cội của con. Không người nào là một ốc đảo và để có thể thật sự hạnh phúc, con cần hiểu ra con chỉ cảm thấy hoàn toàn thỏa nguyện khi con thấy mình là một với Thượng đế và với Thân thể Thượng đế trên trái đất.

Khi con xem mình là một cá nhân cô lập, tự động con rơi xuống tâm thức sợ hãi, tách biệt và thiếu thốn. Nếu con gia tăng nhận biết của trí về quy luật thiên nhiên mà không khắc phục nỗi sợ của con, con sẽ không thể chuyển nhận biết của con thành cuộc sống dồi dào hơn. Con sẽ vẫn tiếp tục bị sợ hãi kìm siết và nhận biết của con đơn giản cho con thêm phương tiện mạnh mẽ hơn để lấy dồi dào từ người khác. Gia tăng nhận biết của con không gia tăng dồi dào trên thế giới, nó chỉ gia tăng căng thẳng và bạo lực trên thế giới.

Con chỉ có thể thăng vượt nỗi sợ làm con suy hoại này bằng cách nhận ra con là một thành phần của một tổng thể rộng lớn hơn, con là một cá thể hóa của Thượng đế. Chỉ khi nào con hoàn toàn nhận ra và chấp nhận con là một phần của tạo vật của Thượng đế thì con mới tin Thượng đế hoan hỷ cho con vương quốc và con không cần phải sống trong thiếu thốn hay lấy mọi thứ bằng sức mạnh. Khi con có được ý niệm bản sắc này, cảm nhận con là một với mọi sự sống và con là một với đấng Sáng tạo của con, con tự động trải nghiệm tình thương toàn hảo, tình thương vô điều kiện mà Thượng đế có đối với con là một nối dài của ngài. Đây là tình thương toàn hảo sẽ xua tan mọi sợ hãi ra khỏi bản thể của con. Khi con khắc phục sợ hãi, con sẽ tiếp cận cuộc sống dựa trên tình thương. Con có thể tuân theo mệnh lệnh của Giê-su thương yêu Thượng đế với tất cả con tim, tâm hồn và tâm của con và thương yêu người hàng xóm như chính mình (Mathhew 22:37).

Chìa khóa để trải nghiệm tình thương này là gì? À, phải chăng lời của Giê-su có hai nghĩa? Có thể nào chúng ta hiểu lời đó như sau: “Hãy thương yêu người hàng xóm của con như chính mình” không có nghĩa là con đơn giản thương yêu người hàng xóm giống như con thương yêu chính mình. Chúng ta có thể thấy chăng là nó có thể mang ý nghĩa thâm sâu hơn, nghĩa là con yêu thương người hàng xóm như chính con bởi vì con nhận ra người hàng xóm là con. Con nhận ra con và người hàng xóm đều là thành phần của cùng Thân thể Thượng đế và cả hai chúng con đều đến từ cùng một nguồn gốc. Con nhận ra cùng với Giê-su: “Hễ các người làm điều gì cho người thấp hèn nhất trong anh em của ta, thì các người đã làm điều đó cho chính ta.” (Matthew 25:40).

Để có thể thương yêu Thượng đế trọn vẹn với tất cả trái tim, tâm và hồn của con, con cần nhận ra Thượng đế không tách biệt khỏi con, Thượng đế là một phần của con vì con là một phần của Thượng đế. Con là một cá thể hóa của Thượng đế, do đó con yêu Thượng đế như chính con vì con nhận ra Thượng đế là cái ta thật của con, bản sắc thật của con. Điều này dẫn đến trạng thái hợp nhất với Thượng đế trong đó con không còn nghĩ cái ta vỏ ngoài, cái ý niệm bản sắc dựa trên tách biệt khỏi Thượng đế, là người hành động. Thay vào đó, con nhận ra cái ta cao, Hiện diện TA LÀ bên trong con là người hành động, là nguyên nhân đầu tiên, là nguồn cội của mọi tặng vật tốt lành và toàn hảo.

Những ý tưởng này quả thực là mắt xích thiếu sót và chúng có thể giúp con bước ra khỏi tâm thức ích kỷ và tiến lên tâm thức Ki-tô. Đây là mắt xích thiếu sót có thể giúp con vươn lên từ tầng con thú thông minh lên tầng sinh thể tâm linh thật sự, một người đồng-sáng tạo thật với Thượng đế. Bước nhảy vọt này cũng lớn lao như bước nhảy vọt từ khỉ lên người mà khoa học không tìm ra mắt xích thiếu sót vì mắt xích đó là một sự nhảy vọt tâm thức.

13.4. Cần gia tăng nhận biết cùng với gia tăng tình thương

Bây giờ chúng ta hãy trở lại ý tưởng con người có thể đi xuống mức thấp hơn rất nhiều tâm thức Ki-tô. Khi con xuống tới mức thấp nhất, con quả thực sống như một con thú, thích nghi với một môi trường nào đó và lấy bằng sức mạnh bất cứ sự dồi dào nào sẵn có trong môi trường. Tâm thức con hoàn toàn tập trung vào mình, vào sự sống còn và mong muốn của mình. Tâm thức con hoàn toàn tập trung vào vũ trụ vật chất, có nghĩa là con chỉ thấy vật chất mà mắt nhìn thấy và các điều kiện khác trong thiên nhiên có thể thỏa mãn các ước muốn của con. Con không có khả năng mường tượng là có điều gì đó mắt không thấy, có điều gì đó ở một cõi cao hơn, có thể thỏa mãn mong muốn của con. Con không thể mường tượng con có thể có điều con muốn từ một uy lực cao hơn sức mạnh vật lý.

Khi con gia tăng nhận biết, con học được là đằng sau các hiện tượng mà giác quan con quan sát có một bộ nguyên tắc chỉ đạo hay quy luật thiên nhiên. Khi con bắt đầu biết các quy luật này, con có thể dùng chúng để thỏa mãn các mong muốn của con mà chỉ bỏ ít sức hơn. Thậm chí con có thể tới điểm thỏa mãn các nhu cầu của con mà không dùng sức mạnh, không lấy từ người khác hay dùng sức mạnh để lấy từ Mẹ Thiên nhiên. Một số nền văn hóa đã chứng minh họ có thể sống hòa hợp toàn hảo với môi trường của họ, luôn luôn dùng tài nguyên tái tạo được và vì vậy họ có thể duy trì một nền văn hóa cả ngàn năm mà không cưỡng hiếp môi trường và không tiêu hủy khả năng hỗ trợ họ của môi trường.

Sống hòa hợp như vậy với thiên nhiên đòi hỏi con người có nhận biết về tổng thể nhưng nhận biết này không thể đến từ trí mà chỉ có thể đến từ con tim. Những gì con thấy hiện nay trong xã hội Tây phương là sự gia tăng nhận biết về các quy luật thiên nhiên đi kèm theo nhiều khía cạnh đen tối. Rất có thể con người có thể dùng quy luật thiên nhiên để đạt được lợi thế tạm thời nhưng lại có những hậu quả lâu dài có tính cách hủy hoại chính họ hay các thế hệ mai sau. Công nghệ hiện đại đã tạo ra ô nhiễm có hậu quả lâu dài cho môi sinh và ngay cả cho gen của con người. Chỉ mới vài thập niên trước con người mới ý thức là một số hóa chất dùng để trừ những sâu trùng phiền nhiễu nhà nông cần thời gian dài để phân hủy và do đó những hóa chất này đi vào chuỗi thực phẩm, kết cuộc chúng đi vào thân thể con người đem lại nhiều hậu quả tiêu cực. Ngay cả ngày nay, con thấy con người ý thức nhiều hơn là ô nhiễm do công nghệ hiện đại gây ra có thể có những hậu quả trên khí hậu toàn cầu, khả dĩ gây ra những điều kiện khí hậu tàn khốc.

Công nghệ dựa trên sự hiểu biết thiên nhiên mà không kèm theo sự phát triển của con tim quả thực có thể cho con người một lợi thế tạm thời nhưng trong dài hạn, nó giảm thiểu lượng giàu có vật chất của hành tinh này. Loại công nghệ này là công nghệ dựa trên sức mạnh. Con người đã học được cách dùng quy luật thiên nhiên nhưng họ hành động với một trạng thái tâm thiếu thốn và sợ hãi, khiến họ muốn dùng sức mạnh để chiếm lấy thiên đường (Matthew 11:12). Vì họ dùng sáng tạo của họ một cách thiếu quân bình, Ánh sáng Mẫu-vật tạo ra môt lực đối nghịch sẽ rốt cuộc lấy đi sự an toàn mà họ cố xây dựng bằng sức mạnh.

Đây là bằng chứng rõ ràng là khi con người gia tăng nhận biết mà không cân bằng với gia tăng khả năng thương yêu cái gì lớn hơn tự ngã, thì họ sẽ không thăng vượt được trạng thái tâm thức dựa trên sợ hãi dẫn tới việc dùng sức mạnh. Con sẽ gia tăng quyền năng dùng sức mạnh và Mẹ Thiên nhiên sẽ phản ánh lại hành động của con qua dạng phản ứng ngược lại. Hành động mất quân bình của con càng mạnh bao nhiêu, phản ứng của Mẹ Thiên nhiên càng mạnh bấy nhiêu dưới dạng tai ương thiên nhiên. Đây đúng là những gì con đang thấy: tai ương là hậu quả của việc con người lạm dụng công nghệ. Bây giờ con thấy là nếu gia tăng nhận biết không kèm theo gia tăng tình thương và cảm nhận mình là một với mọi sự sống, thì nhân loại không tiến gần hơn việc biểu lộ tâm thức Ki-tô. Con người gia tăng quyền năng phá hoại và do đó con người gia tăng phản ứng của Mẹ Thiên nhiên, của chính Ánh sáng Mẫu-Vật.

13.5. Con sáng tạo phù hợp với quy luật Thượng đế

Tuy việc sử dụng công nghệ thiếu quân bình có thể tàn phá cõi vật lý, nhưng sự tăng trưởng nhận biết thiếu quân bình còn có hậu quả tàn khốc hơn nhiều. Ở giai đoạn tiến hóa thấp nhất của tâm thức nhân loại, còn có những người chỉ ý thức sự hiện hữu của cõi vật lý, nghĩa là họ thấy chỉ có chất liệu vật lý là tài nguyên thỏa mãn mong muốn của họ. Nếu họ không phát hiện được một vật qua giác quan thì vật đó chẳng có giá trị gì và thậm chí còn không hiện hữu. Những người này chỉ có thể có được sự dồi dào từ năng lượng đã được biểu hiện sẵn như chất liệu vật lý, như vậy lẽ tất nhiên tiềm năng tích tụ dồi dào của họ bị giới hạn. Họ phải lấy cái gì đã biểu hiện sẵn là chất liệu vật lý và như vậy họ tự đặt họ trong vị thế ganh đua với tất cả mọi người khác cùng trình độ nhận biết với họ.

Khi con vươn lên cao hơn tầng tâm thức thấp này, con ý thức rằng có nhiều sự dồi dào hơn so với những gì con mắt thấy được. Nhiều người biết đến tầm quan trọng của năng lượng vô hình. Nhiều người nhìn ra giá trị của hiểu biết cao hơn về việc tạo dồi dào từ những chất bị xem là vô giá trị. Hầu hết không có hiểu biết rõ ràng, có ý thức về năng lượng tâm lý, họ còn không có hiểu biết cơ bản mà thày đã cho con trong các chương trước. Một số đã học cách tác động lên năng lượng tâm lý một cách vô thức qua uy lực của tâm họ. Nhiều người trong số họ chỉ có hiểu biết hoàn toàn trí năng về sự kiện vật chất được làm từ năng lượng và tâm của họ có uy lực tác động lên năng lượng. Những người này quả thực không phát triển con tim, họ giản dị có nhận biết trí năng rộng lớn hơn về vũ trụ vật chất và những năng lượng thuộc vũ trụ này. Họ biết vũ trụ vật chất là nhiều hơn chất liệu vật lý và chìa khóa để tích tụ lượng dồi dào to lớn hơn là học cách tác động lên năng lượng tâm lý qua tâm.

Đáng tiếc thay, con người có thể gia tăng nhận biết về khả năng của trí mà không gia tăng nhận biết về tổng thể bằng con tim. Con người có thể học cách tác động lên năng lượng tâm lý mà không gia tăng tình thương Thượng đế hay tình thương người anh em của mình. Họ có thể học cách tác động lên năng lượng trong khi họ vẫn còn hoàn toàn vị kỷ và ích kỷ. Một lần nữa, chúng ta hãy xét hai yếu tố cần thiết để biểu hiện tâm thức Ki-tô:

  • Một là sự gia tăng nhận biết về khả năng sáng tạo của con. Nó bắt đầu với sự gia tăng hiểu biết về các quy luật thiên nhiên qua đó con có thể tích tụ dồi dào bằng cách sử dụng giỏi hơn chất liệu vật lý. Bước kế tiếp là học cách dùng tâm để sử dụng năng lượng tâm lý như là nền tảng để phát sinh dồi dào vật chất.
  • Hai là sự gia tăng nhận biết mình là một phần của tổng thể rộng lớn hơn và mình thương yêu tổng thể đó như chính mình. Như thế con có thể dùng khả năng sáng tạo của con phù hợp với quy luật của Thượng đế để con vừa gia tăng dồi dào cá nhân vừa gia tăng tổng lượng dồi dào. Con không lấy từ người khác nhưng con thêm vào tổng lượng dồi dào có mặt trên trái đất. Cuối cùng là con có khả năng đem năng lượng tâm linh vào quang phổ tần số vật lý và đấy là nguồn gốc tối hậu của sự dồi dào.

Chỉ khi tiến hóa của tâm thức mang cả hai yếu tố, thì con mới có thể tiến hóa vượt lên trên ích kỷ và không rơi vào cạm bẫy dùng khả năng sáng tạo lớn lao hơn của con một cách ích kỷ. Có một số người trên trái đất đã đạt được một trình độ cao trong khả năng tác động lên năng lượng tâm lý. Họ đã đạt được khả năng khuynh loát người khác. Tư tưởng và tình cảm của con là những dạng năng lượng. Nếu một người đã thiện nghệ trong việc khuynh loát năng lượng lý trí và tình cảm, một người như thế có thể ảnh hưởng suy nghĩ và cảm xúc của con. Người đó có thể kiểm soát con qua trí thể và cảm thể của con. Nếu con muốn một ví dụ hiển nhiên của một người có khả năng đó, con hãy xem xét vì sao Adolph Hitler đã có thể khuynh loát một phần lớn dân chúng Đức để họ trở thành những rô-bốt vô tâm phục vụ cho mưu đồ quyền lực và kiểm soát của ông.

Trong thế giới ngày hôm nay có nhiều người có khả năng này và một số đã học cách dùng khả năng này đằng sau hậu trường để đại chúng không nhận diện ra họ. Một số trong những người này thậm chí còn dùng khả năng này để nổi danh. Đây là những người đã học được cách dùng năng lượng tâm lý đã được đem vào quang phổ tần số vật chất nhưng độ rung chưa hạ xuống quang phổ tần số chất liệu vật lý. Năng lượng này vẫn hiện hữu như một tiềm năng có thể khoác vào hình tướng vật lý nhưng hình tướng thực thụ chưa được xác định. Khi một người đã học cách tác động lên năng lượng, người đó trở nên thiện nghệ trong việc điều khiển năng lượng biểu hiện thành hình tướng. Điều này cho phép một người như vậy tích tụ của cải vật chất lớn lao. Một phần, họ làm được bằng cách khuynh loát người khác làm công việc thật sự đem lại giàu có nhưng giàu có được tập trung trong tay của người giật giây đằng sau hậu trường.

Đấy là những người đã đạt một khả năng dùng tư tưởng làm chủ vật chất, dùng tâm làm chủ vật chất, cao nhưng họ vẫn chưa đạt được mức làm chủ con tim tương xứng. Họ không thấy họ là một với Thượng đế hay là một với các người khác. Họ thấy họ tách biệt khỏi Thượng đế, thường khi là chống lại Thượng đế. Họ nghĩ họ có thể làm bất cứ gì họ muốn mà không phải chịu hậu quả và một số trong nhóm người này thậm chí tin rằng họ nhiều uy quyền đến độ họ có thể khuynh loát quy luật của Thượng đế để không gặt những gì họ gieo. Một số thậm chí có mưu đồ công khai nổi loạn chống lại quy luật của Thượng đế và tạo ra một thế giới trong đó Thượng đế không có mặt. Họ tìm cách dùng uy lực tâm của họ để kiểm soát tất cả những người khác trên hành tinh này hầu chứng minh thế giới này là một bầu cõi nơi Thượng đế không hiện hữu và nơi không cần tới một đấng Sáng tạo thông minh. Đây là một minh chứng rõ rệt về điều mà thày đã nói với con trước đây là khi con người không có kim chỉ nam dẫn đường tuyệt đối qua sự hiểu biết các quy luật của Thượng đế, các quy luật lệ đã được ghi sâu vào tâm họ, thì họ nghĩ họ có thể trở thành luật lệ cho chính họ. Họ dùng tâm tương đối và nhị nguyên để thiết lập luật lệ của chính họ về cái gì là tốt và xấu và trong sự mù quáng và ngạo mạn, họ nghĩ luật lệ tương đối của chính họ đã thay thế quy luật tuyệt đối của Thượng đế.

Con người có thể học cách dùng uy lực của tâm để tác động lên năng lượng tâm lý mà không mở rộng con tim để cho phép mình sử dụng năng lượng đem lợi lạc cho tổng thể. Con có thể tác động trên năng lượng để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn ích kỷ của con mà không xét đến hậu quả trên Thân thể Thượng đế trên trái đất và hậu quả trên Mẹ Thiên nhiên. Đây là loại người mà Giê-su nói tới: “Nếu vì vậy mà ánh sáng của ngươi tối, sự tối tăm này sẽ lớn biết là dường bao,” (Matthew 6:23) và: “Vương quốc của Thượng đế bị cưỡng ép và kẻ hung bạo muốn dùng bạo lực để chiếm lấy thiên đường” (Matthew 11:12). Nếu con đã học cách dùng năng lượng tâm lý với mục đích ích kỷ thì con biến năng lượng này thành bóng tối. Lượng bóng tối sẽ nhiều bằng lượng ánh sáng mà con tha hóa qua việc con dùng sức mạnh để lấy từ Thượng đế cái mà Thượng đế cho con vô điều kiện nếu con sẵn lòng vượt thăng ý niệm tách biệt với Thượng đế của con.

13.6. Điều tốt nhất cho con cũng tốt nhất cho tổng thể

Sự gia tăng nhận biết các khả năng sáng tạo của con là một phần trong việc đạt tới tâm thức Ki-tô. Nếu nhận biết này giới hạn trong trí mà không được quân bình bởi sự phát triển của con tim thì có khả năng con người tha hóa khả năng sáng tạo của họ và dùng chúng cho những mục đích ích kỷ. Khi con đạt được tâm thức Ki-tô quân bình, khi sự gia tăng nhận biết sáng tạo của con được quân bình bởi tình yêu trong tim con, con sẽ chỉ dùng khả năng sáng tạo của con phù hợp với các quy luật của Thượng đế. Con sẽ không tìm cách thỏa mãn những ước muốn vị kỷ, ích kỷ vì con nhận ra con không phải là một cá nhân tách biệt. Con là một thành phần của Thượng đế và như vậy con là một thành phần của Thân thể Thượng đế. Điều gì tốt nhất cho con cũng tốt nhất cho tổng thể. Khi con khắc phục tâm thức sợ hãi tập trung vào tự ngã, con sẽ nhận ra không có mâu thuẫn giữa mong muốn cá nhân chân thực của con và điều gì tốt cho tổng thể Thân thể của Thượng đế trên trái đất. Con là một thành phần của tổng thể, do đó chỉ khi con khuếch trương tổng thể con mới thực sự được thỏa mãn.

Quả thực con có thể thỏa mãn các mong muốn cá nhân của con bằng một cách sẽ gia tăng tổng lượng dồi dào trên thế giới và như vậy con cũng khuếch trương tổng thể. Khi con không gia tăng tình yêu trong tim con, tình yêu này cho con cảm nhận mình là một với tổng thể, con có thể bị mắc kẹt trong tâm mình. Lúc ấy con tin vào ý tưởng dối trá cho rằng con có quyền dùng uy lực tâm của con mà không đếm xỉa tới tổng thể. Khi con có tâm thức Ki-tô trọn vẹn, con cũng có nhận biết trọn vẹn mình là một nối dài của Thượng đế. Con có sự quân bình toàn hảo giữa mong muốn cá nhân và điều gì tốt cho tất cả mọi người khác. Con cũng biết cách thỏa mãn mong muốn cá nhân của con trong sự hài hòa với các quy luật Thượng đế, những quy luật được thiết kế để bảo đảm điều tốt nhất cho tổng thể. Sự quân bình này đạt được nhờ tâm Ki-tô vậy thì tâm nào đã cho phép con tác động lên năng lượng Thượng đế để sinh tạo hình tướng không thẳng hàng với quy luật Thượng đế? Chẳng phải nó là tâm phản Ki-tô? Chẳng phải chính tâm phản Ki-tô là tư duy cho phép một người tác động lên năng lượng nhưng không cho người đó tình yêu của con tim để dùng năng lượng phù hợp với quy luật Thượng đế?

Một số những thày giả trong lãnh vực phồn thịnh đã tìm ra cách tác động lên năng lượng tâm lý, qua đó dùng nó để khuynh loát người khác hay ngay cả tác động lên chất liệu vật lý hầu thu hút dồi dào về họ. Nếu những người này không gia tăng nhận biết của con tim, họ quả thực đang thu hút dồi dào qua tâm phản Ki-tô. Họ đang dùng uy lực của tâm họ để tác động lên năng lượng và cách này hoàn toàn không hài hòa với các quy luật Thượng đế, trong đó quy luật quan trọng nhất là Luật Tình thương đem lại sự hài hòa giữa cá nhân và tổng thể.

Con cần xem xét chủ đề này dù rằng thày ý thức là một số người cảm thấy khó chịu với chủ đề này vì nó có thể tạo sợ hãi. Không cần phải sợ các lực phản Ki-tô khi con biết cách chúng vận hành. Con chỉ sợ cái mà con không biết bởi vì nếu con không hiểu cách các lực đó đang tìm cách khuynh loát con thì làm sao con bảo vệ mình khỏi ảnh hưởng của chúng?  Khi con nhìn thấu suốt tư duy phản Ki-tô, con có thể tránh không cho những người kẹt trong tư duy này khuynh loát con hay cám dỗ con. Con có thể quở trách ác ma giống như Giê-su khi thày bị cám dỗ sau khi thày rời sa mạc (Matthew 4:1). Chỉ bằng cách quở trách tư duy phản Ki-tô đã thấm đẫm gần như mọi khía cạnh của đời sống trên hành tinh này, con mới có thể giải thoát mình khỏi tư duy này.

Làm sao con có thể hy vọng đạt được tâm thức Ki-tô nếu con không giải thoát mình khỏi tư duy phản Ki-tô? Điều này giản dị không làm được. Như Giê-su đã nói, con không thể phục vụ hai chủ (Matthew 6:24). Con không thể phục vụ Thượng đế và Ma môn, con không thể phục vụ Thượng đế qua tâm thức Ki-tô lúc nào cũng tìm cách đem lại sự tốt lành nhất cho tất cả, và đồng thời phục vụ Ma môn, nghĩa là tâm thức ích kỷ, xuyên qua tâm phản Ki-tô.

Ngày hôm nay con phải chọn con sẽ phục vụ ai (Joshua 24:15), hoặc con phục vụ tâm thức của sự sống chính là tâm thức Ki-tô, hay con muốn phục vụ tâm thức chết là tâm thức phản Ki-tô. Thày nói, như Moses đã nói: “Con hãy chọn sự sống. Hãy chọn tâm thức Ki-tô là cánh cửa dẫn tới đời sống bất tử, đời sống vĩnh cửu của sự hợp nhất với cội nguồn của con và với mọi sự sống.” (Deuteronomy 30:19).

Trong suốt đời còn lại, con có thể tiếp tục gia tăng nhận biết của con về năng lượng tâm lý và cách tác động lên năng lượng này để tạo dồi dào vật chất cho cá nhân mình. Chừng nào con còn mắc kẹt trong tâm thức phản Ki-tô, con bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Mọi hành xử của con sẽ không phù hợp với quy luật Thượng đế. Cái gì không phù hợp với quy luật Thượng đế tạo ra một xung lực mất quân bình, có nghĩa là chính Ánh sáng Mẫu-vật sẽ tạo ra một xung lực đối chọi hầu duy trì quân bình trong vũ trụ.

Quả thực con có thể dùng tâm thức phản Ki-tô để tạm thời tích tụ dồi dào vật chất hay uy quyền trên trái đất này. Vũ trụ vật chất được thiết kế với sự trì hoãn, có nghĩa là một sinh thể tự nhận biết có thể lạm dụng uy lực sáng tạo của mình và tạo ra những hình tướng không phù hợp với quy luật Thượng đế. Vì yếu tố trì hoãn có sẵn trong vũ trụ vật chất, những hình tướng thiếu quân bình như vậy sẽ không tự hủy hoại ngay tức khắc. Chúng có thể hiện hữu trong một thời gian và do đó con có thể dùng tâm phản Ki-tô để tạo ra dồi dào vật chất có thể kéo dài suốt quãng đời còn lại của con. Kinh thánh nói đúng khi nói rằng con gieo gì thì gặt nấy (Galatians 6:7). Kinh thánh cũng nói đúng khi nói rằng vẫn còn sự sống sau khi thân vật lý chết (Matthew 16:28). Điều này có nghĩa là nếu con không gặt hái điều con gieo khi xác thân vật lý còn sống thì chắc chắn dòng sống của con sẽ gặt hái điều con gieo trong tương lai.

13.7. Con phải tích cực đứng thẳng hàng với Hiện diện TA LÀ

Nếu con đã lớn lên trong một nền văn hóa Cơ đốc truyền thống, thì con đã bị lập trình để tin rằng con chỉ có một kiếp sống duy nhất ở đây trên trái đất. Ý tưởng hư giả này đã đi vào đạo Cơ đốc qua ảnh hưởng của những người mắc kẹt trong tâm thức phản Ki-tô. Tâm thức phản Ki-tô nhìn cá nhân tách biệt khỏi tổng thể cho nên tâm phản Ki-tô là nguồn gốc của mọi ích kỷ. Một người càng bị mắc kẹt trong tâm thức phản Ki-tô thì người đó càng ích kỷ và ví dụ tối hậu là tâm thức của người tiền sử sống trong hang động. Khi con chỉ chú trọng tới mình, con không thể nhìn quá những mong muốn ngắn hạn của con, do đó con không thể chấp nhận ý tưởng là hành động của con có những hậu quả mà con không tránh được. Một người cực kỳ vị kỷ không thể nào chấp nhận sự thật là họ sẽ chắc chắn gặt hái trong một kiếp tương lai những gì họ gieo trong kiếp này. Đó là lý do tại sao chân lý về tái sinh bị loại bỏ khỏi Cơ đốc giáo chính thống như Giê-su đã giảng chi tiết trong sách của thày [The Mystical Teachings of Jesus, Những Giáo lý Thần bí của Giê-su].

Ngay cả Cơ đốc giáo chính thống cũng dạy là linh hồn vẫn còn sống sau khi xác thân vật lý chết đi. Cơ đốc giáo chính mạch không thể giải thích sự kiện có những em bé sinh ra với tật nguyền trong khi có những em khác hoàn toàn lành mạnh. Nếu theo giáo lý chính thống thì không có lời giải thích hợp lý nào cho sự kiện mà ta có thể quan sát này. Điều này đã khiến nhiều tín đồ Cơ đốc suy luận phải có một Thượng đế bất công trừng phạt trẻ thơ vô tội mà có vẻ chẳng có lý do gì cả. Sự thật là Thượng đế không hề trừng phạt bất cứ ai. Thượng đế giản dị đã thiết lập một vũ trụ vận hành như một tấm gương phản ánh lại cho con những gì con gửi ra ngoài. Khi con dùng khả năng sáng tạo của con không phù hợp với quy luật Thượng đế, con tạo một hành động mất quân bình. Hầu duy trì quân bình trong vũ trụ, tấm gương vũ trụ sẽ tạo ra một phản ứng ngược lại. Phản ứng này sẽ không hủy bỏ ngay lập tức hành động của con. Có một yếu tố trì hoãn có sẵn trong vũ trụ và lý do là giúp con có thêm cơ hội để học hỏi.

Nếu không có sự trì hoãn, nhiều hành động của con sẽ tạo một phản ứng trả về sẽ giết con chết tức khắc. Vì có trì hoãn, con có thể làm lỗi mà không hủy hoại mình ngay tức khắc và nếu bị hủy hoại thì con mất đi cơ hội học hỏi. Con được cho thời gian giữa lúc con làm lỗi và dòng xung lực quay ngược về con từ vũ trụ. Con có thể tăng trưởng nhận biết để khi phản ứng trở về với con, con đã vượt thăng tâm thức đã tạo ra hành động nguyên thủy. Nếu con đã vượt lên trên tâm thức này, Thượng đế có chọn lựa để qua bên hay giảm thiểu phản ứng của vũ trụ để con tiếp tục có cơ hội tăng triển trong kiếp sống hiện thời của con mà không bị gián đoạn bởi hành vi từ một kiếp trước. Điều này hoàn toàn có lý khi con nhận ra là ước muốn duy nhất của Thượng đế là con tăng trưởng qua sự thăng vượt không ngừng trạng thái tâm thức của con, ý niệm bản sắc của con. Thượng đế không phải là Thượng đế giận dữ và trừng phạt mà biết bao nhiêu tôn giáo đã mô tả.

Những hoàn cảnh mà con kinh nghiệm trong kiếp sống này không phải là sự trừng phạt của Thượng đế và cũng không phải là kết quả của trò chơi may rủi. Chúng là hậu quả của những nguyên nhân mà con đã khởi động trong một kiếp trước qua những chọn lựa của con trong những kiếp đó. Hoàn cảnh hiện nay của con không do Thượng đế tạo ra; nó do chính tự ngã của con tạo ra và như thế con đang gặt những gì con đã gieo trong quá khứ. Nếu con không nhận ra điều con trải nghiệm trong kiếp sống này là hậu quả của những nguyên nhân con đã khởi động trong quá khứ, làm sao con khắc phục được cảm giác con là nạn nhân của những lực ngoài tầm kiểm soát của con? Con được sinh ra để là người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Con được sinh ra để trải nghiệm dồi dào trong cuộc sống, con không thể thụ động ngồi chờ Thượng đế đặt dồi dào vào lòng con. Con phải đảm nhận một vai trò tích cực và đứng thẳng hàng với các quy luật Thượng đế, với Hiện diện TA LÀ của con, để con có thể thành cánh cửa mở cho ánh sáng Hiện diện TA LÀ của con tuôn chảy xuống thế giới này và biểu hiện sự dồi dào.

Hầu hết người trên thế giới ngày nay, dù được nuôi dạy trong một tôn giáo chính thống hay khoa học duy vật, đã bị lập trình để tin rằng họ là nạn nhân của những lực vượt quá tầm kiểm soát của họ. Hoặc họ là nạn nhân của một Thượng đế giận dữ và phán xét hay nạn nhân của luật thiên nhiên ngoài tầm kiểm soát của họ. Ngày nào con còn trong trạng thái tâm thức này và tin rằng con là nạn nhân bất lực của những lực ngoài tầm kiểm soát của con, thì làm sao con có thể thành một người đồng-sáng tạo và biểu hiện dồi dào trong đời sống qua những nỗ lực của con? Tất cả những gì con làm được là theo phương cách thụ động và hy vọng một phép lạ sẽ biểu hiện sự dồi dào trong cuộc đời của con.

Chính tư duy này đã khiến nhiều người rơi vào tròng của những thày giả hứa hẹn một kế hoạch làm giàu nhanh chóng. Khi con nghĩ chọn lựa duy nhất của con để đem lại dồi dào là tìm con đường tắt đem lại dồi dào qua một phép lạ kỳ diệu, thì con dễ bị lung lay bởi những lời hứa hẹn trống rỗng của những người tự nhận là họ đã tìm ra ngõ tắt như thế. Con sẽ là con mồi dễ bắt cho những kẻ tự nhận là họ có thể dạy con cách dùng tâm để thu hút dồi dào. Họ sẽ không cho con biết những hậu quả dài hạn hay nói cho con là hệ thống của họ sử dụng tâm phản Ki-tô.

13.8. Chỉ có hợp nhất với Thượng đế mới đem lại dồi dào vô tận của Thượng đế.

Mục đích của khóa học này là cống hiến cho con một con đường chân chính và khoa học dẫn tới dồi dào bền vững. Mục tiêu của thày không phải là chỉ con đường tắt dẫn tới dồi dào tạm bợ. Mục đích của thày là chỉ con đường chân chính dẫn tới đời sống dồi dào có thể duy trì mãi mãi nếu con tiếp tục ở trong tâm thức Ki-tô. Đó là lý do tại sao thày cần phơi bày sự dối trá không những của các thày giả mà còn của toàn bộ tư duy phản Ki-tô đang ngăn cản con làm tròn vai trò đúng đắn của con. Vai trò đúng đắn của con là người đồng-sáng tạo có ý thức có thể với lên cõi tâm linh và đem xuống nhiều năng lượng tâm linh hơn vào quang phổ tần số vật chất. Đây là cách duy nhất để gia tăng lượng dồi dào sẵn có trên trái đất và đơn giản là chuyện này không làm được qua tâm phản Ki-tô. Những người với tư duy phản Ki-tô không thể với lên cõi tâm linh. Khi con bị mắc kẹt trong tâm thức tách biệt khiến con chối bỏ sự hợp nhất của con với Thượng đế, thì làm sao con thiết lập được sự nối kết của con với Hiện diện TA LÀ của con và trở thành cánh cửa mở cho ánh sáng của Thượng đế? Điều này không thể làm được cho nên tâm phản Ki-tô không bao giờ có thể với lên cao hơn quang phổ tần số vật chất. Đời đời kiếp kiếp nó bị kết án phải lấy dồi dào từ thế gian này cho nên nó phải lấy bằng sức mạnh.

Ta có thể nói Thượng đế đã thiết lập một cơ chế an toàn khác trong thiết kế vũ trụ của ngài. Uy lực sáng tạo tối hậu là đem năng lượng tâm linh vào quang phổ tần số vật chất. Điều này đơn giản không thể làm được bởi cái tâm bị mắc kẹt trong ích kỷ và có khuynh hướng dùng năng lượng tâm linh cho những mục đích vị kỷ. Tâm đó có thể tác động trên năng lượng tâm lý nhưng không thể tiếp cận năng lượng tâm linh. Chỉ có tâm đã khắc phục được ích kỷ qua cảm nhận hợp nhất với Thượng đế và với Thân thể Thượng đế mới tiếp cận được dồi dào vô tận của Thượng đế.

Ngay cả những người đã đạt được một trình độ cao trong việc làm chủ năng lượng tâm lý vẫn chưa đạt được khả năng với lên cõi tâm linh và tải xuống nhiều năng lượng Thượng đế hơn. Họ thiện xảo trong việc tích tụ dồi dào bằng cách thu hút nguồn năng lượng tâm lý, là năng lượng cao hơn và dồi dào hơn chất liệu vật lý nhưng thấp hơn năng lượng tâm linh. Những người như vậy có thể biểu hiện nhiều dồi dào hơn là nếu họ chỉ làm việc ở tầng chất liệu vật lý. Con đừng lầm tưởng nghĩ rằng họ có sự điều ngự tâm linh chân chính hay họ có tâm thức Ki-tô. Dù những thành đạt của họ có vẻ đáng nể phục nhìn từ góc độ vỏ ngoài, nhưng chúng chẳng là gì cả dưới ánh sáng của sự thật Thượng đế. Đó là lý do vì sao Giê-su cảnh giác chúng ta đừng theo những tiên tri giả (Matthew 7:15) sẽ tới dưới danh hiệu Giê-su, một số trong họ có thể phô trương những dấu hiệu và điều kỳ lạ nhưng dưới bề ngoài đó họ là loài sói hung dữ vì trong tim họ không có tình thương.

Những người như vậy chẳng làm chút gì để gia tăng tổng lượng dồi dào trên thế giới này. Họ đơn giản học được cách tác động lên năng lượng tâm lý đã có sẵn trong quang phổ tần số vật chất. Họ chỉ làm được chuyện này qua sức mạnh, có nghĩa là hoặc họ lấy năng lượng tâm lý từ người khác hoặc họ dùng năng lượng tâm lý để khuynh loát người khác làm công việc vật lý và sau đó cướp hoa trái lao động của những người này cho giới thượng lưu quyền lực. Đó là lý do tại sao sự tranh giành quyền lực thật sự trên trái đất là tranh giành năng lượng, kể cả năng lượng tâm lý.

Một lần nữa, con có hai cách để biểu hiện sự dồi dào. Con thực sự có thể theo những thày giả và dùng tư duy phản Ki-tô tạo ra dồi dào vật lý tạm bợ cho chính mình. Con có thể tích lũy của cải đồ sộ trong kiếp sống này qua cách đó. Con yêu dấu, thày giản dị nói sự thật cho con ở đây, thày hoàn toàn trung thực với con. Một số những thày giả ngoài kia đã quả thực nói sự thật khi họ nói họ đã khám phá một hệ thống để con có thể biểu hiện dồi dào bằng uy lực của tâm. Ta có thể nói họ không phải là thày giả theo nghĩa thấp là họ đưa ra một hứa hẹn giả. Họ nói với con rằng họ có một hệ thống có thể giúp con biểu hiện giàu có và lời tuyên bố đó là thật. Họ không cho con biết hậu quả lâu dài của cách làm này. Họ không nói với con là nếu con làm theo hệ thống của họ, con sẽ buộc mình vào tâm thức phản Ki-tô và con không thể tránh gặt những gì con đã gieo trong kiếp này hoặc trong một kiếp tương lai.

Thày ở đây để nói với con là có một chọn lựa khác là con có thể biểu hiện dồi dào mà không mắc kẹt trong tâm thức phản Ki-tô. Đây là chìa khóa chân chính, không phải là chìa khóa cho sự dồi dào vật lý tạm bợ mà là chìa khóa cho đời sống dồi dào trường tồn, cho đời sống vĩnh cửu. Đây là chìa khóa dẫn con bước ra ngoài cái chết, vượt lên trên tâm thức chết để đi vào đời sống trường cửu của tâm thức Ki-tô. Khi con đạt được tâm thức hợp nhất này, chính là vương quốc Thượng đế, mọi thứ khác quả thực sẽ được cộng thêm cho con (Matthew 6:33).

Con yêu dấu, thày giả định là nếu con đang học khóa học này, con đã biết trong tim mình rằng con không hề muốn học cách tác động lên năng lượng tâm lý qua tâm thức phản Ki-tô. Con biết rất rõ con muốn về nhà nơi vương quốc đấng Cha và do đó con không tìm đường tắt. Thày tới con với tình thương lớn lao và thày chìa tay ra để thày có thể dẫn con và cho con một sự hiểu biết rộng lớn hơn về cách khắc phục tâm thức phản Ki-tô và biểu hiện tâm thức Ki-tô. Trong các chương tới, thày sẽ giải thích làm cách nào con đi theo tiếng gọi của Paul: “Hãy để cho tâm đó ngự trong con mà tâm đó cũng chính đã là tâm Giê-su Ki-tô” (Philippians 2:5).

11| Bài học bí mật đằng sau sự đấu tranh của con người

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 9/4/2005.

11.1. Hoàn cảnh bên ngoài phản ánh hoàn cảnh bên trong của con

Con tim yêu dấu của Mẹ, thày xin con bước lui lại và nhìn lịch sử những tương tác giữa con người trên trái đất. Thày xin con xem xét con người đã cư xử với nhau như thế nào xuyên suốt lịch sử được biết đến. Thày xin con tìm một chữ để mô tả tương tác giữa con người với nhau. Thày chắc chắn con có thể nghĩ ra nhiều từ có tính mô tả cao nhưng thày nghĩ con sẽ đồng ý với thày rằng một chữ mô tả đúng hơn hết cách con người tương tác với nhau là từ “đấu tranh”.

Một đặc tính của tương tác giữa con người là sự đấu tranh giữa các cá nhân và đấu tranh giữa các nhóm người, thậm chí đấu tranh giữa loài người và Mẹ Thiên nhiên. Con người có khuynh hướng xem mình, ngay cả đồng hóa mình như những người chống lại người khác hay thậm chí chống lại hành tinh nơi họ đang sống, hành tinh mà sự sống còn của họ tùy thuộc vào. Con có sự đấu tranh để kiểm soát đất đai, kiểm soát của cải vật chất và kiểm soát những người khác. Bây giờ thày xin con xét đến nguyên nhân chính của các đấu tranh này, của đấu tranh giành quyền lực liên tục đã tạo ra đau khổ khôn tả qua dòng lịch sử được biết đến, và thậm chí nhiều đau khổ hơn nữa trong phần lịch sử mà hiện nay khoa học gia chưa biết tới.

Lý do duy nhất đằng sau sự đấu tranh giữa con người là niềm tin không có đủ cho mọi người. Không có đủ đất đai, không có đủ tài nguyên, không có đủ thức ăn, không có đủ năng lượng. Từ đó đưa tới cảm nhận nếu con muốn có nhiều hơn thì con phải lấy từ người khác, con phải dùng sức mạnh để cưỡng đoạt. Trước đây thày có cho con hình ảnh là nếu mỗi người đều có cây đèn thần và có thể hoàn thành mọi ước muốn của mình từ ông thần trong đèn thì sẽ không có xung đột trên trái đất. Nếu tất cả mọi người có thể thành tựu ước muốn của họ mà không cần phải lấy từ người khác, sự tranh giành quyền lực sẽ chấm dứt. Ngay cả cảm nhận phải vật sẽ tan biến và biến mất như hạt sương ban mai tan theo ánh bình minh.

Ôi con yêu dấu, con thấy chăng tầm quan trọng vô cùng của khái niệm này? Con xét xem bao nhiều khổ đau gây ra bởi tranh giành quyền lực? Con xét xem hệ quả sẽ lớn lao chừng nào nếu có ít nhất một số lượng tới hạn con người được trợ giúp để khắc phục cảm nhận phải đấu tranh, khắc phục cảm nhận thiếu thốn đưa tới đấu tranh và do đó chấp nhận họ có thể có đời sống dồi dào mà không cần lấy từ người khác hay không cần cưỡng đoạt bằng sức mạnh từ Mẹ Thiên nhiên.

Thượng đế đã xây dựng một cơ chế an toàn trong chính Ánh sáng Mẫu-Vật. Cơ chế an toàn này là lực co lại tìm cách trả mọi hình tướng trở về trạng thái vô hình tướng, tìm cách trả Ánh sáng Mẫu-Vật trở về trạng thái cơ bản của nó. Bây giờ thày sẽ giải thích thật rõ ràng cho con chuyện gì xảy ra khi con người tìm cách lấy bằng sức mạnh. Nguyên lý này được mô tả bởi hầu hết mọi tôn giáo. Trong Kinh thánh con tìm thấy khái niệm gieo gì gặt nấy (Galatians 6:7). Con tìm thấy lời dạy của Giê-su: hãy làm cho người khác điều gì con muốn họ làm cho con (Matthew 7:12). Con sẽ tìm thấy khái niệm tương tự trong mọi tôn giáo và các ý này mô tả nguyên lý quan trọng nhất về cách vận hành của vũ trụ vật chất. Để mô tả điều này ngắn gọn nhất, ta có thể nói Thượng đế đã sinh tạo một vũ trụ vận hành giống như một tấm gương. Bất cứ điều gì con gửi ra dòng không gian-thời gian liên tục sẽ được tấm gương hoàn vũ gởi trả về con.

Vũ trụ được tạo ra từ Ánh sáng Mẫu-Vật và như thày đã nói, Ánh sáng Mẫu-Vật có tiềm năng khoác lấy bất kỳ hình tướng nào nhưng nó không thể tự nó tạo ra hình tướng. Ánh sáng Mẫu-Vật ngoan ngoãn khoác lên hình tướng khi một tâm có tự nhận biết tác động lên nó. Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ khoác lên bất cứ hình tướng nào được giữ như một hình tư tưởng trong tâm có tự nhận biết này. Bất cứ gì con giữ trong tâm con quy định hình ảnh mà con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và như thế hình tư tưởng này sẽ quy định hình tướng mà Ánh sáng Mẫu-Vật khoác vào trong quang phổ tần số vật chất. Nếu con giữ hình tư tưởng cuộc sống là một cuộc đấu tranh, chắc chắn vũ trụ sẽ phản chiếu lại cho con những hoàn cảnh phản ánh niềm tin cuộc sống là đấu tranh. Chính cảm nhận đấu tranh tạo nên đấu tranh.

Luật Tự quyết không hiện hữu một mình. Thượng đế không sinh tạo một vũ trụ trong đó con có thể làm bất cứ gì mình muốn. Luật Tự Quyết hiện hữu cặp đôi với điều mà khoa học gọi là luật tác động và phản ứng. Luật này quy định là dù con có quyền phóng chiếu bất kỳ hình ảnh nào lên Ánh sáng Mẫu-Vật, con sẽ phải trải nghiệm hình tướng trong đó con đã giam cầm Ánh sáng Mẫu-Vật. Khi con sáng tạo điều gì thì con sẽ bắt buộc phải trải nghiệm chính tạo vật của con dưới dạng hoàn cảnh vật lý. Điều này không những công bằng mà còn là cách duy nhất con học cách sử dụng khả năng sáng tạo của con một cách tốt đẹp hơn.

Con thử tưởng tượng một vũ trụ trong đó con có thể làm bất kỳ gì mình muốn mà không bao giờ gặt hái hậu quả hành động của con. Làm sao con có thể học được gì từ việc này? Con xét xem các trẻ lớn lên với cha mẹ bảo vệ các em khỏi hậu quả của những chọn lựa của em. Các em này nhanh chóng trở nên hư hỏng vì được nuông chiều và nghĩ em có thể làm mọi chuyện mà vẫn trốn tránh được hậu quả. Các em đó càng ngày càng phá phách hơn vì em muốn cha mẹ đặt giới hạn cho những cư xử của em. Ý muốn này phát xuất từ động lực muốn học bài học trong đời sống vì con người biết nếu không có hậu quả thì không học được.

Con cũng có ý muốn mạnh mẽ muốn học bài học của đời mình. Dù tâm vỏ ngoài của con có thể chống lại quy luật gieo gì gặt nấy của Thượng đế, con người bên trong con biết ơn sự kiện Luật Nhân và Quả quy định con sẽ trải nghiệm điều con sáng tạo. Con người bên trong của con biết đây là cách học hỏi nhanh chóng cách dùng uy lực sáng tạo của mình để tạo ra trải nghiệm sống tốt nhất cho mình.

Thày hy vọng giúp con thấy dù ngay bây giờ hoàn cảnh sống của con khó khăn đến đâu chăng nữa, có một bài học ẩn giấu đằng sau. Bài học là con đã tạo ra những hoàn cảnh này trong quá khứ bằng cách tạo ra một hình tư tưởng và phóng chiếu nó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Điều này có nghĩa là con không mãi mãi bị mắc kẹt vào hoàn cảnh vượt quá tầm kiểm soát của con. Bất cứ lúc nào con cũng có thể chọn thay đổi hình tư tưởng trong tâm con và phóng chiếu một hình ảnh tốt hơn lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Khi con học về các chu kỳ của năng lượng Thượng đế chảy xuyên qua các tầng của vũ trụ vật chất mà thày sẽ dạy con sắp tới, con sẽ thấy rằng chỉ là vấn đề thời gian để hoàn cảnh bên ngoài bắt đầu phản ánh những hình ảnh mới mà con giữ trong tâm con.

Cốt lõi của giáo lý của thày là nếu hiện nay con cảm thấy bị mắc kẹt trong hoàn cảnh không mong muốn, con không thật sự bị kẹt. Cảm nhận bị mắc kẹt, cảm nhận phải vật lộn chỉ hiện hữu trong tâm con người mà thôi. Khi con hiểu rộng hơn vũ trụ vận hành ra sao và hiểu rộng hơn về chính uy lực sáng tạo của con, con sẽ thấy là Thượng đế đã trao cho con quyền năng thay đổi tuyệt đối mọi hoàn cảnh, mọi giới hạn. Con có thể vượt lên trên giới hạn và biểu hiện cuộc sống dồi dào ngay đây trong thế giới này. Dù con có thể nghĩ con bị mắc kẹt trong những hoàn cảnh vượt quá tầm kiểm soát của con, con không bao giờ thực sự bị kẹt. Con luôn luôn có thể làm một cái gì để cải thiện hoàn cảnh của con. Dù hoàn cảnh bên ngoài là gì chăng nữa, con luôn có chọn lựa làm chủ hoàn cảnh bên trong của con, làm chủ cách con đáp ứng lại hoàn cảnh bên ngoài. Khi con nhận ra hoàn cảnh bên ngoài của con không gì khác sự phản ánh hoàn cảnh bên trong của con trong quá khứ, con biết là bằng cách thay đổi hình tư tưởng trong tâm con, chắc chắn con sẽ thay đổi điều mà tấm gương vũ trụ sẽ phản chiếu lại con.

11.2. Đằng sau nhu cầu an toàn là nhu cầu được trọn vẹn

Cuộc đấu tranh của kiếp người đã kéo dài không biết bao thiên niên kỷ. Đấu tranh giành của cải vật chất, giành quyền lực hay kiểm soát, sinh ra từ cảm nhận không có đủ dồi dào trong thế giới vật lý này. Dồi dào vật chất mà ta thấy trong thế giới này không phải là một lượng cố định. Dồi dào vật chất giống như mỏm của tảng băng đá và thày chắc chắn con biết là tảng băng đá chỉ có mười phần trăm của khối lượng của nó lồi trên mặt nước. Đa phần tảng băng đá không trông thấy được và giống như vậy vật chất mà giác quan vật lý của con thấy được chỉ là một phần nhỏ của một tổng thể rộng lớn hơn. Mọi vật chất thực sự được tạo ra từ năng lượng rung động do đó dồi dào vật chất chỉ là một phần trông thấy được trong tổng lượng dồi dào trong thế giới này. Tổng lượng dồi dào trong quang phổ tần số vật chất không giới hạn trong vật chất mà con có thể thấy bằng giác quan của con. Tổng lượng dồi dào có mặt cho con người dùng tùy thuộc vào lượng năng lượng đã được đem vào hệ thống năng lượng của hành tinh trái đất.

Vật chất được tạo ra từ năng lượng và năng lượng vật lý thật ra được tạo ra từ năng lượng tâm linh vô hình đã được giam trong một hình tướng đặc thù. Vật chất là năng lượng đã bị hạ độ rung cho tới khi nó rung động trong phạm vi một quang phổ tần số nào đó. Thân vật lý của con có thể tác động trên vật chất. Vật chất đơn giản là một biểu hiện, một nối dài của những năng lượng tinh tế hơn mà giác quan vật lý của con không phát hiện được nhưng tâm của con có thể gán cho hình tướng.

Con hãy có một tầm nhìn mới về đấu tranh giành giật quyền lực của con người. Con người không chỉ ganh đua để giành giật giàu có vật chất hay của cải vật chất. Đa số những đấu tranh giữa con người không liên quan tới vật chất, nó liên quan tới cái gì đó không phải là vật chất, cái gì không phát hiện được bằng giác quan vật lý hay tiêu hóa được bởi thân thể nhưng vẫn có giá trị với con người. Cái đó là gì, chất phi vật chất đó mà con người giành giật nhau? Có phải chăng nó là những năng lượng tinh tế hơn mà giác quan không phát hiện được nhưng vẫn là một thành phần của hệ thống năng lượng của trái đất? Các năng lượng này rất cần thiết để con người cảm thấy được nuôi dưỡng, dồi dào, đầy đủ và an toàn. Con chắc có nghe câu ngạn ngữ nói rằng con người không chỉ sống bằng bánh mì, và phải chăng đây là bằng chứng con người có nhiều nhu cầu phi vật chất không thể được thỏa mãn bởi sở hữu vật chất? 

Trong nhiều trường hợp, đấu tranh giành quyền lực của con người nhằm đem lại cho họ một cảm giác nào đó. Rất nhiều người tìm cách tích lũy tiền bạc, nhưng khi con nhìn vào thế giới và những người giàu nhất, con sẽ thấy nhiều người trong số đó đã tích lũy những lượng tiền bạc khổng lồ đến độ họ không thể tiêu dùng hết cho tới cuối đời của họ. Bất cứ ai cũng có nhu cầu hữu hạn về mặt sở hữu vật chất. Con chỉ có thể mua một lượng tối đa đồ vật mà thôi, con chỉ có thể làm một số sinh hoạt tối đa nào thôi, con chỉ có thể ăn một lượng tối đa nào thôi. Sẽ tới điểm mà một người đã tích lũy đủ tiền để chu toàn tất cả những nhu cầu vật chất của y trong hết quãng đời còn lại. Con thấy rất nhiều người không thể ngừng chạy theo đồng tiền để vui hưởng số tiền họ đã có trong quãng đời còn lại. Họ bị thúc đẩy tiếp tục tích lũy thêm tiền và thêm tiền, cho dù nỗ lực tích lũy thêm tiền và bảo vệ tiền ngăn cản họ vui hưởng cuộc sống của họ. Những người này tìm gì, họ vật lộn để đạt gì? Họ vật lộn để đạt một cảm giác và cảm giác này quan trọng hơn nhiều tiền bạc hay bất cứ vui thú nào tiền có thể mua được. Họ đang vật lộn để đạt một cảm giác an toàn hay một cảm giác uy quyền, kiểm soát hay cao trội.

Trong một thời gian dài, thày rất sốt sắng tìm hiểu tâm lý con người. Là một chân sư thăng thiên, thày có khả năng nhìn vượt lên trên mọi dáng vẻ bên ngoài thường làm rối trí con người và khiến họ không thể hiểu được những gì xảy ra nơi các tầng vô thức của tâm. Cặp mắt của một sinh thể thăng thiên có thể đi xuyên thấu tất cả những màn khói che khuất lừa gạt con người. Thày thấy là đằng sau nhu cầu an toàn vỏ ngoài là một nhu cầu sâu hơn. Nhu cầu này chúng ta có thể gọi là nhu cầu được trọn vẹn.

Đây là một nhu cầu có sẵn trong chính thiết kiết của bản thể con và nó là một cơ chế an toàn khác do Thượng đế thiết kế. Mục đích của nó là ngăn ngừa không cho quyền tự quyết khiến những người đồng-sáng tạo bị lạc trong tâm thức tách biệt. Thượng đế không muốn con bị mắc kẹt trong vòng xoáy vô tận phải gặt hái hậu quả của những chọn lựa quá khứ của mình, bị các hậu quả này quy định những chọn lựa hiện tại của con, tạo thêm những hậu quả mới mà con không tránh được. Khi Thượng đế thiết kế dòng sống của con, nó được thiết kế để luôn tìm cầu sự trọn vẹn, y như Ánh sáng Mẫu-Vật được thiết kế để luôn đi tìm sự cân bằng của trạng trái nền của nó. Thượng đế không sinh tạo sự thiếu thốn hay khổ đau trên trái đất: các thứ này do tâm thức tập thể của nhân loại tạo ra sau khi con người đánh mất sự nối kết trực tiếp với cái ta tâm linh của họ, Hiện diện TA LÀ của họ. Khi nối kết này bị mất, dòng sống trải nghiệm một cảm nhận không trọn vẹn, một cảm nhận cô đơn, thậm chí một cảm nhận bị bỏ rơi. Điều này khiến dòng sống dấy lên ý muốn tái thiết lập lại sự trọn vẹn trước kia, sự đầy đủ trước kia của nó.

Con người quả thật không có ham muốn tích lũy nhiều hơn một lượng của cải vật chất nào đó. Con người không ham muốn trải nghiệm nhiều hơn một lượng thú vui thân xác nào đó. Một dòng sống có ý muốn trải nghiệm cuộc sống trong vũ trụ vật chất. Nó có thể thực hiện những mong muốn đó qua một số trải nghiệm hữu hạn hay một số sở hữu hữu hạn. Điều tạo ra khao khát không bao giờ thỏa mãn được, khao khát có thêm sở hữu, có thêm thú vui, có thêm quyền lực hay bất cứ gì khác mà con người mong muốn, thực sự là ước muốn sâu thẳm được trọn vẹn. Vì những người đồng-sáng tạo không thấy được bản chất thật của ý muốn đó và mục đích của ý muốn đó, họ tìm cách thỏa mãn ý muốn đó bằng những vật mà họ thấy được, những sinh hoạt họ trải nghiệm được. Vì các dòng sống đã quên cội nguồn tâm linh của họ và quên mục đích xuống trái đất của họ, họ không hiểu mong muốn thật của họ là gì. Vì những người đồng-sáng tạo không thấy được họ đã rơi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn trong đó họ đã đánh mất sự trọn vẹn trước kia của họ, sự thánh thiện trước kia của họ như là những sinh thể tâm linh, như là con trai và con gái của Thượng đế, họ không hiểu ra là mong muốn thật của bản thể họ là tìm lại sự trọn vẹn. Vì họ không thấy cái ta tâm linh của họ, họ không hiểu là khao khát mà họ cảm thấy là khao khát được trọn vẹn, khao khát này chỉ thỏa mãn được khi họ tái thiết lập sự nối kết với cái ta tâm linh của họ. Thay vì đi tìm vương quốc Thượng đế và sự công chính của Ngài qua đó tất cả những thứ kia sẽ được bồi thêm cho họ (Matthew 6:33), họ tìm cách thỏa mãn những mong muốn của họ bằng những vật họ có thể thấy trong thế gian này. Họ tìm cách xây dựng an toàn bên ngoài thay vì trọn vẹn bên trong

Nhiều người tìm cách thiết lập lại sự trọn vẹn bên trong bằng cách tích lũy của cải vật chất, qua đó họ xây dựng một cảm giác an toàn vật chất. Một số người đi tìm an toàn bằng cách có quyền lực trên người khác vì họ nghĩ rằng điều đó giúp họ cảm thấy trọn vẹn. Đằng sau mọi động lực muốn có của cải hay trải nghiệm bên ngoài là động lực tích lũy năng lượng. Khi dòng sống có sự kết nối đúng đắn với Hiện diện TA LÀ, nó cảm thấy một dòng chảy năng lượng tâm linh liên tục tuôn chảy vào mọi tầng của bản thể nó trực tiếp từ Hiện diện TA LÀ. Đây là một dòng chảy tâm linh khiến dòng sống cảm thấy trọn vẹn và cảm thấy mình là một với Dòng sông sự Sống là tạo vật của Thượng đế. Dòng sống cảm thấy nó là một thành phần của cái Tất cả của Thượng đế thay vì đơn độc và không trọn vẹn. Dù người đồng-sáng tạo không ý thức chuyện gì đang xảy ra, nó có một động lực bên trong muốn có được năng lượng. Nó biết chìa khóa để thiết lập lại cảm giác trọn vẹn là năng lượng. Vì nó không hiểu cội nguồn thật và bản sắc thật của nó, một lần nữa nó nghĩ là nó phải lấy năng lượng từ thế gian và dùng năng lượng thế gian để tái thiết lập trạng thái trọn vẹn.

Năng lượng trong thế gian có tần số thấp hơn năng lượng trong cõi tâm linh. Dù con tích lũy bao nhiêu năng lượng vật chất chăng nữa, dòng sống của con sẽ không cảm thấy trọn vẹn. Cố gắng thiết lập lại trạng thái trọn vẹn bên trong bằng cách tích lũy của cải vật chất hay năng lượng vật chất là chuyện không khả thi, giống như tìm cách lắp đầy một lỗ đen không đáy. Đơn giản là điều này không thể làm được và như vậy dòng sống cố tìm cầu một điều không khả thi cho đến khi nó nâng cao hiểu biết và ngừng làm điều không khả thi. Điều duy nhất có thể tái lập cảm giác trọn vẹn là tái thiết lập nối kết trực tiếp, có ý thức với Hiện diện TA LÀ. Lúc đó, con sẽ cảm thấy năng lượng tâm linh có tần số cao tuôn chảy từ Hiện diện TA LÀ xuyên qua mọi tầng của bản thể con. Con biết là con ở trong dòng chảy của Dòng sông sự Sống, và chỉ khi con ở trong dòng chảy này thì con mới cảm thấy trọn vẹn và đầy đủ trong chính mình. Con biết là con không cần gì từ bên ngoài con vì con có Dòng sông sự Sống tuôn chảy bên trong bản thể của con.

11.3. Con phải trở thành cánh cửa mở cho ánh sáng của Thượng đế

Hãy để thày trở lại hình ảnh cây đèn thần. Nếu con có một cây đèn thần và nếu tất cả điều con cần làm là chà cây đèn và ông thần sẽ nhảy ra và hoàn thành mọi ước muốn của con, con có cảm nhận là cuộc sống trên trái đất là một sự vật lộn nữa chăng? Con có còn mất sức cạnh tranh với người khác để có được một lượng của cải vật chất hữu hạn chăng?  Con có còn mất sức tìm cách lấy của người khác nếu con có thể lấy được từ một nguồn cung cấp vô tận ở bên trong con? Phải chăng là con sẽ muốn chà cái đèn và ra lệnh cho ông thần hoàn thành các mong muốn của con bằng cách cho con năng lượng cần thiết, ngay cả năng lượng đã khoác vào hình dạng của vật chất vật lý?

Mọi điều thày đã giảng cho con cho tới điểm này có mục đích chỉ cho con thấy là quả thực con có một cây đèn thần. Thay vì tìm cách giải quyết đời sống của con bằng cách đổ mồ hôi trên trán (Genesis 3:19), bằng cách dùng sức mạnh để lấy từ người khác hay lấy từ Mẹ thiên nhiên, con có chọn lựa khác là đi vào bên trong và thiết lập lại nối kết với Hiện diện TA LÀ. Bằng cách trước hết đi tìm vương quốc Thượng đế, vương quốc mà Giê-su nói là nó ở bên trong con, con sẽ có thể nhận được từ nguồn dồi dào vô tận của Thượng đế thay vì nguồn dồi dào hạn chế từ thế gian này. Hiện diện TA LÀ của con là một nối dài của đấng Sáng tạo của con và Hiện diện TA LÀ nhận được năng lượng vô tận của đấng Sáng tạo sẵn có vô điều kiện trong cõi tâm linh. Hiện diện TA LÀ của con sẽ cho con tất cả năng lượng tâm linh cần có để hoàn thành tất cả mong muốn thực của con trong thế giới vật chất này. Hiện diện TA LÀ còn cho con ngay cả năng lượng tâm linh mà tâm con có thể nhận được trong một dạng có thể trở thành vật chất.

Để nhận được năng lượng này, con phải thiết lập lại ống dẫn và mở rộng nó để cái ta vỏ ngoài của con, tâm ý thức của con trở thành cánh cửa mở qua đó ánh sáng của Thượng đế, Mặt trời của Hiện diện TA LÀ của con, có thể tỏa sáng xuống thế gian này và xua tan bóng tối đang khiến con cảm thấy thiếu thốn, trống rỗng, không trọn vẹn, thậm chí không có giá trị. Con yêu dấu, nếu con có thể hoàn toàn thấm nhập và chấp nhận lời dạy này, con có tiềm năng hoàn toàn xoay chuyển cuộc đời mình và đặt mình vào hướng đi có thểsẽ dẫn con tới thành tựu tối hậu mà con tìm cầu, là cảm giác trọn vẹn ở bên trong. Con có cảm giác này khi con biết điều Giê-su diễn tả khi thày nói: “Ta và Cha ta là một” (John 10:30).

11.4. Cho và nhận vô điều kiện

Chắc là con đã nhận ra điều mà con người tìm cầu không phải là của cải vật chất mà là một cảm giác nội tại. Có thể con thấy cảm giác này là hạnh phúc, được toại nguyện hay ngay cả tâm an bình. Điều mà con thật sự tìm cầu là sự trọn vẹn và cái trọn vẹn này con có được bất cứ lúc nào. Hầu tìm thấy và thiết lập cảm giác trọn vẹn, con phải quay hướng chú ý của con về bên trong. Thày biết rất rõ con lớn lên trong một xã hội đã lập trình để con tin rằng nếu con có một nhu cầu hay một ước muốn thì con phải đi tìm cái gì đó ở bên ngoài con để thỏa mãn nó. Con đã lớn lên trong một nền văn hóa tiêu thụ lập trình con đi tìm một sản phẩm hay một dịch vụ để thỏa mãn ước muốn của mình. Bản chất của nền văn hóa tiêu thụ này là có người muốn bán con điều gì đó. Đằng sau đó là ý muốn sâu hơn muốn kiểm soát con qua những nhu cầu của con. Bản chất của văn hóa này thực sự là muốn cổ xúy niềm tin thế giới này là một thế giới thiếu thốn và con không có đủ ở bên trong mình để cảm thấy trọn vẹn và mãn nguyện. Con cần trao đổi điều gì đó với người khác và qua nhu cầu đó, người khác hay định chế khác có thể ảnh hưởng con, ngay cả kiểm soát con. Khi Giê-su nói vương quốc Thượng đế ở bên trong con thì ông hoàng thế gian và tay sai của y quyết định giết Giê-su. Họ không muốn Giê-su tiếp tục giảng dạy bí mật duy nhất mà các lực thế gian không muốn con biết. Bí mật này là sự thật muôn đời là chìa khóa thật để thỏa mãn mọi ước muốn của con, chìa khóa thật để trải nghiệm cuộc sống dồi dào của Thượng đế, là ngừng đi tìm dồi dào bên ngoài con. Để tìm thấy dồi dào, tìm thấy trọn vẹn, con phải đi vào bên trong con, con phải đi vào vương quốc Thượng đế bên trong con và qua đó con khám phá chìa khóa thật cho con cuộc sống dồi dào, đó là Hiện diện TA LÀ của con và ánh sáng tâm linh chiếu rọi qua Mặt trời bản thể của con.

Khi con nhận chân chân lý này, con trở nên tự đầy đủ trong tâm linh và do đó con không cần bất cứ gì khác từ bất cứ nguồn nào bên ngoài con. Con không còn cần bất cứ gì từ bất cứ người nào hay bất cứ định chế, tổ chức hay cơ sở thương mại nào của con người. Con thật sự độc lập theo nghĩa tâm linh. Ở đây thày không nói là con sẽ không cần hay không muốn tương tác với người khác. Thày nói là tương tác của con với người khác sẽ có một mục tiêu và mục đích hoàn toàn mới. Thay vì tương tác với người khác dựa trên cảm giác thiếu thốn, giờ đây con sẽ tương tác với người khác dựa trên cảm nhận dồi dào nội tại. Thay vì tìm cách lấy từ người khác bằng sức mạnh, con sẽ tìm cách cho người khác. Điều này không có nghĩa là con sẽ không bao giờ nhận bất cứ gì từ người khác vì con sẽ thường xuyên cho phép Thượng đế thỏa mãn những nhu cầu của con xuyên qua người khác. Khi làm vậy, con không đến từ trạng thái thiếu thốn khiến con cảm thấy thiếu hụt hay cảm thấy người khác nợ mình cái gì đó. Con sẽ không lo sợ người khác không hợp tác và con không muốn dùng sức mạnh để bắt người khác cho con cái mà con cần để cảm thấy trọn vẹn.

Con đã hiểu nguyên lý là đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc và Ngài cho con vô điều kiện nếu con sẵn sàng nhận nó vô điều kiện, nghĩa là con nhận mà không sợ hãi hay không mong chờ hay dính mắc dựa trên sợ hãi, và sau đó con chia sẻ vô điều kiện những gì con nhận vô điều kiện (Matthew 10:8). Khi một nhóm người ở trong trạng thái tâm thức này, họ sẽ cho lẫn nhau và khi làm vậy họ nhân lên khả năng của họ vượt lên trên bất cứ gì mà từng cá nhân riêng rẽ có thể đạt được. Điều này sẽ càng mang thêm dồi dào của Thượng đế vào xã hội của họ qua đó cuộc sống trở thành vòng xoáy đi lên cứ tiếp tục tăng thêm dồi dào cho tất cả.

Ôi con yêu dấu, đây là tiềm năng thật sự của xã hội con người, nghĩa là con người tập hợp với nhau để nhân lên khả năng của mỗi cá nhân và góp chung khả năng của mọi người để tổng thể trở nên nhiều hơn tổng số của các thành phần. Khi con người cho và nhận trong tinh thần vị tha, thì họ thiết lập lại sự nối kết đúng đắn với Thượng đế. Thượng đế quả thực sẽ nhân lên khả năng của họ, sẽ thật sự làm cho họ trở thành người cai quản nhiều thứ và luôn cả mang thêm dồi dào vào thế gian này. Một xã hội có thể bước vào vòng xoáy đi lên đem lại một thời đại hoàng kim của hòa bình, thịnh vượng và dồi dào cho tất cả mọi thành phần của xã hội đó. Điều này đã từng được biểu hiện trong một số nền văn minh quá khứ và một số nền văn minh đã có thể duy trì một thời đại hoàng kim như thế trong một thời gian rất dài cho tới khi con người rốt cuộc bắt đầu đi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn.

11.5. Con chọn đi vào vương quốc Thượng đế bên trong con

Hãy để thày giải thích cho con chọn lựa con cần lấy, chọn lựa con sẽ chọn mục tiêu gì cho phần còn lại của cuộc đời con. Tất cả vật chất có sẵn cho con người dùng trên trái đất được tạo ra từ năng lượng tinh tế hơn. Vật chất đơn giản chỉ là mỏm của tảng đá băng của tổng số năng lượng có thể có được trong quang phổ tần số vật chất. Hầu hết năng lượng này chưa được dùng như năng lượng vật lý giống như sức nóng hay điện lực. Nó có mặt như năng lượng tâm lý có nghĩa là năng lượng lý trí và năng lượng tình cảm. Tổng lượng của dồi dào vật chất mà con người có thể sử dụng trong thế giới này không chỉ tùy thuộc vào chất vật lý mà tùy tuộc vào tổng số năng lượng có mặt trong quang phổ của tần số vật chất mà một số nhà khoa học gọi là dòng không gian-thời gian liên tục.

Ngay cả vật chất vật lý cũng là năng lượng bị giam vào một khuôn đúc. Nó là biểu hiện của Ánh sáng Mẫu-Vật, bị giam vào một hình tướng vì một tâm có tự nhận biết đã áp đặt một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Trước khi Ánh sáng Mẫu-Vật bị hạ độ rung xuống và trở thành vật chất vật lý, trước tiên nó được hạ độ rung xuống quang phổ tần số của cái mà thày gọi là năng lượng tâm lý. Trước đó, Ánh sáng Mẫu-Vật rung động với tần số cao hơn của cõi tâm linh.

Sự dồi dào mà con người dùng được trong thế giới vật chất có tỉ lệ thuận với tổng số năng lượng có mặt trong toàn bộ hệ thống năng lượng của trái đất. Tổng số này bao gồm những tần số cao hơn tần số của vật chất vật lý nhưng vẫn chưa cao bằng tần số trong cõi tâm linh. Năng lượng này có thể biểu hiện dưới dạng vật chất vật lý hay năng lượng vật lý như điện lực hay ánh sáng mặt trời, hay nó có thể được biểu hiện như năng lượng tâm lý mà giác quan không phát hiện được nhưng có thể cảm nhận được dưới dạng năng lượng tình cảm và lý trí, cảm xúc và tư tưởng. Các nhà khoa học đã nói với con rằng mọi thứ đều là năng lượng có nghĩa là không gì hiện hữu mà không phải là năng lượng. Con biết rõ là con có cảm xúc và tư tưởng. Cả cảm xúc lẫn tư tưởng của con phải là những dạng năng lượng đúng theo định nghĩa của khoa học. Dù con không thể phát hiện một cách vật lý năng lượng tâm lý, con biết nó hiện hữu vì con trải nghiệm nó như một thực tại trong cảm xúc và tư tưởng của con. Con có thể đi vào tim mình và có cái biết nội tại rằng để có được dồi dào, chỉ dùng thân vật lý của con mà thôi không đủ. Con cũng cần dùng tâm của con để thu lượm năng lượng tâm lý, học cách chuyển năng lượng này thành vật chất mà con mong muốn. Điều này dẫn chúng ta tới điểm mấu chốt là điểm thày giảng cho con chọn lựa mà con đối mặt. Con có hai chọn lựa. Hầu biểu hiện nhiều dồi dào hơn trong cuộc sống của con, con có thể dùng phương cách mà hầu hết người trên hành tinh này chọn. Con có thể tìm cách tích lũy một lượng chất liệu vật chất và năng lượng tâm lý lớn hơn từ kho năng lượng đã có sẵn trong quang phổ tần số vật chất. Con có thể tìm cách tích lũy bằng cách lấy dồi dào từ một kho năng lượng và vật chất hữu hạn.

Hậu quả của cách tiếp cận này là con phải dùng sức mạnh để tích lũy năng lượng và của cải vật chất. Trong nhiều trường hợp con phải tích lũy bằng cách lấy từ người khác hay từ Mẹ Thiên nhiên và cả hai có thể không chịu cho con mà không chống trả. Điều này sẽ tạo ra đấu tranh giữa con và người khác hay giữa con và thiên nhiên. Con sẽ phải giải quyết mưu sinh của con bằng mồ hôi nước mắt của mình. Con sẽ phải dùng sức mạnh để tích lũy của cải và con sẽ phải dùng sức mạnh liên tục để bảo vệ của cải khỏi các lực khác tìm cách lấy của con.

Nếu ai ai cũng tìm cách tích lũy dồi dào từ cùng một kho hữu hạn, nếu ai ai cũng tìm cách lấy được phần to hơn từ cùng một ổ bánh, thì con sẽ phải đấu tranh liên tục để đạt được và duy trì sự dồi dào của mình. Cơ chế an toàn có sẵn trong Ánh sáng Mẫu-vật sẽ tìm cách đem mọi năng lượng trở về trạng thái nền của nó, và điều này cũng sẽ tạo ra một lực tìm cách lấy đi những gì con đã lấy bằng sức mạnh. Khi con tìm cách lấy bằng sức mạnh, con đặt mình trong vị thế xung đột với tất cả mọi người khác đang dùng cùng phương cách và xung đột với chính Mẹ Thiên nhiên.

Thày chắc chắn con thấy được giới hạn của phương cách này. Thày chắc chắn con có thể thấy được trong tim con là cho dù con thành công trong việc tích lũy của cải vật chất đồ sộ, trạng thái dồi dào này sẽ không vĩnh viễn và do đó nó không là dồi dào thật sự. Con không thật sự có dồi dào với phương cách này.

Phương cách thứ nhì là con hoàn toàn trong lọc tâm con khỏi cảm giác thiếu thốn khiến con tin rằng cách duy nhất để tích lũy dồi dào là bằng sức mạnh và đấu tranh. Con có thể chọn đi theo gương của Giê-su và các thày tâm linh khác là đi vào vương quốc Thượng đế bên trong con, đạt được trạng thái hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con, với đấng Cha tâm linh của con và sau đó cho phép ánh sáng Thượng đế tuôn chảy vào bản thể của con và vào thế gian, biểu hiện sự dồi dào của Thượng đế trong đời mình.

11.6. Con ở đây để gia tăng tổng lượng ánh sáng trong thế giới vật chất

Nếu con theo phương cách thứ nhì, thì con không tranh đua để tích lũy giàu có đến từ một lượng hữu hạn. Con không tranh đua để lấy một phần to hơn của cùng chiếc bánh. Con mở đường kết nối với sự dồi dào vô tận của Thượng đế và con cho Thượng đế niềm vui ban cho con vương quốc của ngài bằng cách gia tăng cái bánh. Cõi tâm linh không có giới hạn và do đó lượng năng lượng tâm linh mà Hiện diện TA LÀ của con có thể cho tuôn chảy qua bản thể của con cũng không có giới hạn. Giới hạn duy nhất là con có thể nhận được bao nhiêu năng lượng tâm linh qua tâm vỏ ngoài của con.

Khái niệm này là nguồn gốc của huyền thoại chiếc Chén Thánh. Chiếc Chén Thánh là một chiếc chén nhưng thật ra chiếc Chén Thánh là biểu tượng cho chiếc chén có thể chứa dồi dào của Thượng đế dưới dạng ánh sáng tâm linh. Ý nghĩa thật của huyền thoại này là tâm con, bản thể con được sinh ra để trở thành chiếc chén có khả năng chứa ánh sáng tâm linh đến từ Hiện diện TA LÀ của con. Thượng đế sẽ không cho phép ngọc trai của ngài được quăng trước bầy heo (Matthew 7:6). Thượng đế sẽ không cho phép sự dồi dào của ngài bị chôn dưới đất (Matthew 25:18) hay bị rơi xuống đất khô cằn (Matthew 13:5). Thượng đế sẽ không cho con dồi dào cho tới khi con chứng minh con đã trung tín trong một số chuyện (Matthew 25:21), cho tới khi con chứng minh bản thể thấp của con đã trở thành một chén thánh sẽ dùng đúng đắn dồi dào này để con có thể là người quản lý minh triết những gì Thượng đế đã ban cho con.

Con có hai chọn lựa. Con có thể tìm cách biểu hiện cuộc sống dồi dào bằng cách lấy từ lượng năng lượng hữu hạn đang có trong quang phổ tần số vật chất. Hay con có thể tìm cách nhận dồi dào trực tiếp từ lượng vô hạn có trong cõi tâm linh. Nếu con lấy chọn lựa đầu, thì con sẽ không làm gì cả để gia tăng lượng dồi dào đang có trên trái đất. Con chỉ có thể tích lũy dồi dào cho riêng mình bằng cách lấy vật chất hay năng lượng tâm lý từ người khác. Nếu con lấy chọn lựa thứ nhì, thì không những con nhận dồi dào cho bản thân, con cũng đem thêm dồi dào vào thế gian và qua đó con gia tăng tổng số năng lượng mà mọi người có thể dùng. Khi con theo đuổi dồi dào cho riêng mình, thì con cũng gia tăng dồi dào cho toàn thể, và đây đúng thực là ý nghĩa của nhân lên tiền ta lăng của con, là nhân lên tổng lượng dồi dào trong thế giới.

Điều con đang làm thật sự là gia tăng tổng lượng ánh sáng trong thế giới vật chất và qua đó con đóng góp công sức cá nhân vào việc biến thế giới này thành vương quốc Thượng đế. Đây là lý do thực sự của sự hiện hữu của con. Con được thiết kế để phục vụ như một người đồng-sáng tạo với Thượng đế bằng cách đem ánh sáng tâm linh vào quang phổ tần số vật chất, dùng ánh sáng để xô đuổi bóng tối bằng cách tạo ra những hình tướng đẹp và quân bình toàn hảo, là biểu hiện các quy luật và sự toàn hảo của Thượng đế. Khi con làm tròn vai trò được quy định này thì Thượng đế sẽ biến con thành người cai quản nhiều việc vì con đã trung tín trong một số việc nhỏ, với một lượng ánh sáng tâm linh hữu hạn. Khi con làm tròn vai trò này, con sẽ nghe những lời nói về Giê-su: “Đây là người con trai hay người con gái yêu dấu của Ta, đẹp lòng ta mọi đằng” (Matthew 3:17).

11.7.  Niềm vui trở thành người đồng-sáng tạo với Thượng đế

Con hãy để thày cho con một chân lý sẽ giúp con dừng lại và chọn dễ dàng hơn giữa hai chọn lựa – nếu con chưa chọn. Thày có nhắc đến một số trong số đông đảo các đạo sư trong thế gian tuyên bố là họ có thể dạy con cách tích lũy nhanh chóng và dễ dàng tất cả tiền bạc mà con mong muốn. Thày có đề cập tới một số những vị này như đạo sư giả và thày sẽ giải thích tại sao họ là thày giả.

Tâm của con, có nghĩa là tâm có ý thức và tâm tiềm thức của con, có khả năng bẩm sinh áp đặt một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và qua đó khiến ánh sáng đó khoác vào hình tướng do hình ảnh quy định. Qua uy lực của tư tưởng, con áp đặt một hình tư tưởng lên ánh sáng đã được hạ xuống quang phổ tần số vật chất. Qua uy lực của cảm xúc, con khiến năng lượng đó chuyển động và con định hướng nó, và điều này khiến năng lượng đó hạ xuống quang phổ tần số vật chất vật lý để nó thể hiện như một thực tại trong đời sống của con.

Giê-su đã đạt được một trình độ làm chủ vật chất rất cao. Giê-su có khả năng chữa lành cho người bệnh, thậm chí thay đổi cấu trúc phân tử và nguyên tử của thân thể một người và làm cho tế bào bệnh được chữa lành tức khắc và được trọn vẹn trở lại. Giê-su có khả năng biến nước thành rượu và nhân lên các ổ bánh và số lượng cá. Đây là một khả năng có sẵn trong tâm con. Hầu hết con người trên trái đất rất xa trình độ làm chủ vật chất mà Giê-su đã chứng minh. Mọi người trên trái đất đều có khả năng làm chủ vật chất này, và đó là lý do tại sao Giê-su nói những ai tin thày sẽ làm được những việc thày đã làm (John 14:12).

Có hai cách để đạt tới sự làm chủ vật chất này. Có con đường thấp và con đường cao. Sự làm chủ vật chất mà Giê-su chứng minh rõ ràng là con đường cao vì Giê-su nhận ra là chính thày, tự bản thân mình không làm được gì cả nhưng chính đấng Cha, Hiện diện TA LÀ ở trong thày đã làm việc. Khi con nhận ra Hiện diện TA LÀ của con là nguồn gốc thật, là người làm việc thật trong cuộc sống của con, con đứng thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế và thẳng hàng với ý định sáng tạo của Thượng đế. Thiết kế của Thượng đế cho vũ trụ này là tạo ra một môi trường trong đó tất cả các người đồng-sáng tạo với Thượng đế, tất cả những sinh thể tự nhận biết, có thể sống hòa hợp với nhau và hòa hợp với tổng thể. Khi con dùng uy lực sáng tạo của con đến mức tối đa, con đem nhiều dồi dào hơn vào thế giới này và do đó con khuếch trương cái tất cả mà không lấy từ ai khác.

Con có thể dùng uy lực có sẵn trong tâm con để khuynh loát năng lượng của Thượng đế và tích lũy dồi dào cho mình mà không gia tăng tổng số dồi dào trong thế giới này. Lúc ấy con dùng uy lực của tâm con để thu hút về mình nhiều năng lượng và dồi dào vật lý hơn từ kho năng lượng đã có mặt trong hệ thống năng lượng của trái đất. Khi làm vậy, con phải lấy từ những thành phần khác của cuộc sống và con tước đi năng lượng từ những người này và từ tổng thể của cuộc sống.

Một số người khá đông trên hành tinh này đã đạt được khả năng rất cao trong việc thu hút năng lượng và giàu có vật chất về cho họ bằng cách tước đoạt bằng sức mạnh, bằng cách lấy từ số lượng dồi dào hữu hạn có mặt trong thế giới vật chất. Họ làm thế mà không hề quan tâm tới ảnh hưởng của hành động của họ trên những người khác hay trên trái đất Mẹ. Những dòng sống này đã hoàn toàn từ bỏ mọi quan tâm tới tổng thể hay ý định sáng tạo của Thượng đế. Họ xem mình tách biệt khỏi Thượng đế và đứng ra ngoài Thân thể Thượng đế. Họ tin rằng họ thuộc thành phần thượng lưu quyền lực có quyền làm bất cứ gì họ muốn, không cần biết hành động của họ ảnh hưởng các thành phần khác của cuộc sống ra sao. Họ tin rằng họ có quyền biến người khác thành nô lệ hay nông nô oằn lưng làm việc trên trái đất để sản xuất sự giàu có cho giới thượng lưu quyền lực. Nếu con nhìn vào lịch sử, con sẽ thấy trong mọi nền văn hóa và nền văn minh mà con người biết tới, sự hiện hữu của giới thượng lưu này và sự thành công của họ trong việc kiểm soát đại chúng và bắt đại chúng làm việc để đem lại cho giới thượng lưu này số lượng giàu có vật chất, quyền lực, hưởng thụ, đặc quyền và năng lượng quá đáng.

Thày có hai mục đích khi nói điều này với con. Nếu con muốn biểu hiện cuộc sống dồi dào của Thượng đế, con phải giải thoát mình khỏi tư duy của giới thượng lưu quyền lực này. Con phải tách ra khỏi họ và trở thành một nhóm người đứng tách ra và được chọn lựa, và thày sẽ giải thích cặn kỹ hơn điểm nay trong các bài sau. Bây giờ, mục đích quan trọng nhất của lời dạy của thày là khiến con nhận biết là giới thượng lưu này, giới thượng lưu quyền lực này, đã đạt được khả năng thu hút năng lượng tâm lý và sự giàu có vật chất cho chính họ. Họ làm chuyện này bằng cách dùng uy lực có sẵn trong tâm con người để lấy năng lượng từ những thành phần khác của cuộc sống. Không cần phải nói, đây là một sự vi phạm các quy luật của Thượng đế và do đó nó là một sự lạm dụng những uy lực sáng tạo của con người. Điều quan trọng là con hiểu rằng con thực sự có thể lạm dụng uy lực sáng tạo của mình. Con cần hiểu điều này vì chỉ khi hiểu rồi con mới tránh bị gạt bởi các lời hứa hẹn của những người tự phong cho mình là đạo sư dạy phát đạt và hứa hẹn rằng nếu con theo họ, con có thể tích lũy giàu có bằng đường tắt.

Đoạn trước thày có nói là những chương trình làm giàu nhanh chóng giản dị không thành công và đó là sự thật. Có những người đã khám phá những cách khuynh loát năng lượng tâm lý và vật chất qua uy lực của tâm, qua đó họ có thể tích lũy một lượng giàu có đồ sộ, thông thường bằng cách ảnh hưởng người khác. Hầu hết những người này dùng khả năng này để tiếp tục tích lũy giàu có, nhưng một số trong số họ đã đặt mình vào vị trí làm thày, tuyên bố rằng họ có thể dạy con cách tích lũy giàu có giống như cách họ đã làm. Con yêu dấu, con thấy chăng cái vi tế ở đây? Những người này đem chính họ và những người giàu nhất và thành công nhất trên thế giới làm bằng chứng là hệ thống của họ sẽ đưa tới thành công. Một số trong các hệ thống đó hiệu quả, nhưng hầu hết sẽ cần một thời gian dài để học cách khuynh loát năng lượng và do đó không phải là một cách làm giàu nhanh chóng. Quả thực con có thể tích lũy giàu có bằng cách dùng uy lực có sẵn trong tâm con. Nếu con chỉ đo lường thành công dựa trên số lượng giàu có một người đã tích lũy được, con sẽ dễ bị kẹt trong ý nghĩ là con phải theo gương những người giàu có nhất trên trái đất. Con có thể dễ dàng tin những lời hứa hẹn của những ông thày dạy thành công này và họ sẽ dạy con cách lấy được dồi dào bằng sức mạnh.

Con có thể học cách dùng uy lực của tâm để tích lũy giàu có qua sức mạnh, tích lũy dồi dào bằng cách lấy từ người khác, bằng cách khuynh loát hệ thống. Thày sẽ luôn luôn tôn trọng Luật Tự quyết. Nếu con thật sự có nhu cầu trải nghiệm mình cảm thấy thế nào khi lấy dồi dào bằng sức mạnh và qua đó bị kẹt trong vòng xoáy vô tận tìm cầu tích lũy thêm và bảo vệ của cải thì thày là ai mà cản không cho con có trải nghiệm đó. Thày muốn bảo đảm chắc chắn là thày đã giải thích cho con hậu quả của việc tích lũy giàu có theo cách này. Thày đã nói với con là Luật Tự quyết có đầu bên kia là Luật Nhân và Quả. Khi con tìm cách tích lũy giàu có bằng sức mạnh, quả thực con sẽ kích hoạt những nguyên nhân sẽ quay trở về con như những hậu quả và chúng sẽ tìm cách lấy đi những gì con đã tìm cách sở hữu bằng sức mạnh.

Ánh sáng Mẫu-Vật có một cơ chế sẵn có để phân hủy mọi hình tướng bằng cách trở về trạng thái nền của nó. Con có thể dùng uy lực của tâm con để ép Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lên một hình tướng. Khi làm thế, con tạo ra sự mất quân bằng trong Ánh sáng Mẫu-Vật vì con tạo ra một hình tướng không dựa trên nguyên lý mà Thượng đế đã dùng. Khi tạo ra mất quân bằng, Luật Nhân và Quả, luật hành động và phản ứng sẽ tự động tạo ra một lực đối chọi mạnh bằng lực đã tạo ra nó. Với mỗi hành động của con để lấy giàu có bằng sức mạnh, vũ trụ sẽ phát sinh một phản ứng tìm cách lấy đi giàu có của con. Mục đích là trái đất trở về sự quân bình và Ánh sáng Mẫu-Vật có thể trở về trạng thái nền của nó. Khi dùng sức mạnh, con có thể duy trì hình tướng mất quân bình của con trong một thời gian, nhưng điều này đòi hỏi con phải đấu tranh liên tục về phía con, một sự đấu tranh sẽ lấy đi sự chú ý và năng lượng của con cho những sinh hoạt khác. Với một số người, sự đấu tranh này ngăn họ thụ hưởng sự giàu có của họ, hay nó có thể nuốt trọn cuộc đời họ. Lẽ tất nhiên đấu tranh này ngăn cản không cho họ tăng triển tâm linh.

Nếu con muốn trải nghiệm cảm giác đấu tranh này, thì Thượng đế đã cho con quyền sáng tạo trải nghiệm này trong cuộc sống của con. Con có thể tiếp tục trải nghiệm đấu tranh trong một thời gian rất dài. Thày hy vọng là khóa học này sẽ cho con cảm hứng để nhận ra con quả thực không muốn bị kẹt trên cỗ máy chạy bộ của hành động và phản ứng này, rằng con quả thực không muốn bị nuốt trọn bởi đấu tranh quyền lực nhân phàm liên tục này. Thày hy vọng con sẽ thấy con được niềm vui lớn hơn rất nhiều khi con trầm mình trong Dòng sông sự Sống, thiết lập lại nối kết của con với Hiện diện TA LÀ của con và cho phép ánh sáng mặt trời của Hiện diện của con sáng tỏa qua bản thể của con. Niềm vui sẽ lớn hơn rất nhiều khi con tham gia vào kế hoạch nguyên thủy của Thượng đế về vũ trụ này, khi con trở thành người đồng-sáng tạo với Thượng đế và qua đó cho phép uy lực của Thượng đế bên trong con biểu hiện cuộc sống dồi dào trường tồn. Niềm vui sẽ lớn hơn nhiều khi nhận đời sống dồi dào trực tiếp từ Trên cao thay vì lấy dồi dào từ những thành phần khác của cuộc sống bằng sức mạnh. Niềm vui sẽ lớn hơn nhiều khi tìm cầu dồi dào theo đường dọc thay vì theo đường ngang.

Thày hy vọng thày đã tạo cảm hứng cho con đi sâu vào trong tim và xem xét hai chọn lựa mà thày đã đưa ra cho con. Con muốn chăng bỏ hết phần còn lại của cuộc đời mình vào một cuộc đấu tranh để có một lượng dồi dào hữu hạn? Hay con muốn chuyển hướng cuộc đời mình để con có thể là một thành phần của Dòng sông sự Sống đem lại nhiều dồi dào hơn vào thế giới này? Nếu con chọn chọn lựa đầu, thày không làm được gì thêm cho con và khóa học không dạy con được điều gì có giá trị. Nếu con chọn chọn lựa thứ nhì, thày sẽ dạy con cách thiết lập lại và mở rộng nối kết của con với Hiện diện TA LÀ của con. Thày sẽ chỉ con cách để mở cửa xả nước lũ cho phép Dòng sông sự Sống tuôn chảy qua bản thể con và biểu hiện dồi dào thật sự, dồi dào mà các lực của thế gian không thể lấy đi. Khi con đã chọn lựa chấp nhận dồi dào từ trên Cao thì con hãy theo thày bước tới chương kế tiếp.

 

9 | Mang ánh sáng tâm linh vào thế giới vật chất

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 8/4/2005.

9.1. Vũ khúc hoàn vũ

Con tim yêu dấu của Mẹ, giờ đây chúng ta tới một bước ngoặt trong loạt bài giảng này. Thày đã cho con một số ý có vẻ bí truyền và hơi rời rạc. Mỗi ý và ngay cả từ ngữ chính xác trong mỗi ý có mục đích kích hoạt ký ức nội tâm trong con hầu từng bước một giúp con nhớ lại và chấp nhận con thực sự là ai và tại sao con ở đây trên trái đất này. Trong chương này, thày sẽ giải thích cho con chính mục tiêu của sáng tạo và chính mục đích của sự hiện hữu của con, ngay cả mục đích đặc trưng đã khiến con đến hành tinh này. Nó sẽ cho con lựa chọn giữa con đường cao thị hiện sự dồi dào của Thượng đế hay con đường thấp thu thập dồi dào của trái đất. Đây là sự khác biệt giữa tìm cách dùng sức mạnh giành sự dồi dào hay cho phép Thượng đế cho con sự dồi dào vô điều kiện.

Thày đã giải thích là Thượng đế có hai khía cạnh. Một khía cạnh là đấng Sáng tạo và khía cạnh kia là Bản thể Thuần khiết của Thượng đế trong đó không có phân biệt. Nếu con chịu đi vào tim mình và nghiệm lời của thày, con sẽ nhận ra Bản thể Thuần khiết của Thượng đế là cái Tất cả. Bản thể Thuần khiết của Thượng đế viên mãn và tự đủ. Ở trong Bản thể Thuần Khiết của Thượng đế không có chỗ cho một hình tướng tách biệt khỏi cái Tất cả. Trong Bản thể Thuần khiết của Thượng đế không thể tạo ra bất cứ hình tướng riêng biệt nào, bất cứ vật gì tách biệt khỏi cái Tất cả. Trước khi có thể sáng tạo bất kỳ hình tướng nào, cần phải có một không gian nhỏ hơn cái Tất cả của Thượng đế để trong không gian “trống không” này, các hình tướng riêng biệt có thể được tạo ra, những hình tướng tách biệt khỏi cái Tất cả. Hãy so sánh với ánh sáng của mặt trời cực kỳ mạnh đến độ chỉ có ánh sáng tinh khiết và trắng có thể hiện hữu. Chỉ ở khoảng cách nào đó từ mặt trời mới có chỗ cho ánh sáng có màu và sắc độ khác nhau.

Bây giờ thày cho con một hình ảnh về tiến trình sáng tạo, nhưng thày muốn con hiểu là hình ảnh thày cho con thích nghi với trạng thái tâm thức hiện thời của con, với tâm có khuynh hướng nghĩ theo đường thẳng. Thày cho con một hình ảnh đường thẳng nhưng thày muốn con giữ trong tâm là thực tại của Thượng đế không đường thẳng. Con cẩn thận đừng lấy hình ảnh thày cho con và biến nó thành hình tượng khô chết để tưởng rằng đây là hình ảnh hoàn chỉnh về Thượng đế và về công trình sáng tạo của Thượng đế.

Thày không cho con hình ảnh này để giam tâm con trong một tầm nhìn đặc thù về Thượng đế. Thày cho con hình ảnh này để giải phóng tâm con khỏi tầm nhìn hạn chế về Thượng đế mà hầu hết con người có trên thế gian này. Thày cho con hình ảnh này với hy vọng là rốt cuộc con có thể vượt lên trên mọi nhu cầu có một hình ảnh đường thẳng về Thượng đế và từ đó trải nghiệm trực tiếp tâm thức và Bản thể quả cầu và trùm khắp của Thượng đế.

Trong cái Tất cả của Thượng đế không có hình tướng khác biệt. Khái niệm thời gian và không gian cũng không có ý nghĩa trong cái Tất cả. Để bắt đầu tiến trình sáng tạo một thế giới hình tướng, đấng Sáng tạo rút mình lại và tạo ra cái mà một số giáo lý tâm linh gọi là “trống không”.  Khi đấng Sáng tạo rút mình lại, ngài rút mình thành một điểm duy nhất. Các khoa học gia gọi nó là điểm dị biệt (singularity) và hiện nay họ cho rằng sự sáng tạo vũ trụ bắt đầu khi mọi vật chất tụ vào một điểm dị biệt. Con hãy tưởng tượng cái Tất cả của Thượng đế trong đó không có không gian, không có hình tướng riêng biệt. Bây giờ đấng Sáng tạo rút mình vào một điểm duy nhất và chung quanh điểm duy nhất này ngài tạo ra một khoảng trống không ít hơn cái Tất cả.

Khoảng trống không này giống như một không gian trống rỗng vĩ đại có dạng một trái trứng. Một số người đã thấy bằng trực giác hình ảnh thần bí về sáng tạo của Thượng đế giống như trái trứng hoàn vũ. Thày không muốn con nhìn sự sáng tạo giống như trái trứng mà chung quanh không có gì hết. Thày muốn con thấy là sự sáng tạo bắt đầu như một khoảng trống không có dạng trái trứng và bao bọc chung quanh khoảng trống không này là cái Tất cả. Khoảng trống không chính là không gian trống rỗng, nghĩa là nó không có bất kỳ hình tướng nào và không có cái Tất cả của Thượng đế. Có thể nói nó không có gì trong đó – không có cái Tất cả của Thượng đế hay bất kỳ hình tướng khác biệt nào. Có thể nói nó là bóng tối vì trong nó không có chất liệu gì cả.

Nơi trung tâm của cái trống không nguyên thủy này có sự tập trung cao độ của một phần của cái Tất cả của Thượng đế đã được lấy ra để tạo cái trống không. Đây là trụ điểm của khía cạnh thứ nhì của Thượng đế, là cá nhân đấng Sáng tạo. Đấng Sáng tạo có động lực muốn trở nên hơn nữa cho nên ngài lấp đầy cái trống không cho tới khi cái trống không một lần nữa trở thành cái Tất cả của Thượng đế. Đây là vũ khúc hoàn vũ mà một số người gọi là hơi thở vào và hơi thở ra của Thượng đế.

Thượng đế hít vào, tập trung mình vào điểm dị biệt và sáng tạo cái trống không. Sau đó Thượng đế thở ra cho tới khi hơi thở ra hoàn vũ một lần nữa lấp đầy cái trống không. Trong tiến trình tham gia vào vũ khúc hoàn vũ, lấp đầy cái trống không, đấng Sáng tạo tăng triển tự nhận biết. Tăng triển tự nhận biết là toàn bộ mục tiêu của sự sáng tạo. Tăng triển tự nhận biết không chỉ áp dụng cho Sinh thể Nguyên thủy là đấng Sáng tạo, và thày sẽ giải thích tại sao trong phần sau.

9.2. Mệnh lệnh nhân lên và cai quản

Đấng Sáng tạo hiện hữu như một điểm duy nhất, như điểm dị biệt ngay giữa cái trống không – cái trống không nhỏ hơn cái Tất cả và do đó có thể lấp đầy với hình tướng do đấng Sáng tạo tạo tác. Hành động sáng tạo tiên khởi là đấng Sáng tạo cần tạo ra một chất liệu có thể nhào nặn thành bất cứ hình tướng nào. Thượng đế nói: “Ánh sáng hãy có mặt,” và Ánh sáng đã có mặt. Như Sáng thế ký (Genesis) ghi lại (Genesis 1:4), Thượng đế tách ánh sáng khỏi bóng tối nghĩa là Thượng đế tách ánh sáng có thể mang vào hình tướng khỏi bóng tối lấp đầy phần của cái trống không nơi chưa có hình tướng, chưa có ánh sáng. Mục đích chung của nỗ lực Thượng đế là khuếch trương ánh sáng cho tới khi nó lấp đầy toàn thể cái trống không và tiêu hủy bóng tối, bóng tối không phải là xấu ác nhưng đơn giản là sự vắng mặt của ánh sáng.

Hành động sáng tạo này không xảy ra trong khoảnh khắc vì dù rằng đấng Sáng tạo có uy lực Toàn năng, đấng Sáng tạo không dùng uy lực của ngài để lấp đầy khoảng trống không trong khoảnh khắc. Đấng Sáng tạo không lấp đầy khoảng trống không chỉ vì mục đích lấp đầy. Ngài lấp nó đầy dần dần để tạo cơ hội cho những sinh thể tự nhận biết do đấng Sáng tạo sinh tạo ra như những nối dài của chính ngài, có thể phục vụ như người đồng-sáng tạo và giúp lấp đầy khoảng trống không. Khi làm vậy, họ cũng tăng triển tự nhận biết và nhận biết rõ hơn họ là ai, họ từ đâu tới và họ có tiềm năng đi tới đâu. Đây là mục tiêu thật của sáng tạo, sự tăng triển tự nhận biết khiến cho ngay cả Bản thể Tinh khiết của Thượng đế cũng trở nên hơn nữa bởi vì Thượng đế trở nên hơn nữa qua tự nhận biết của mỗi đấng Sáng tạo và những người đồng-sáng tạo của ngài.

Khi đấng Sáng tạo của con bắt đầu công việc sáng tạo đưa tới sự hiện hữu của con và sự hiện hữu của vũ trụ vật chất nơi con sống, Thượng đế bắt đầu tạo ra một bầu cõi được đặt tách ra khỏi khoảng trống không. Trong bầu cõi này có một lượng Ánh sáng của Thượng đế. Ánh sáng này được đặt tách riêng khỏi khoảng trống không và nó là căn bản từ đó tạo ra hình tướng. Đấng Sáng tạo của con quả thực sinh tạo một số hình tướng trong bầu cõi ánh sáng này, nhưng đấng Sáng tạo không lấp đầy bầu cõi này hoàn toàn với ánh sáng. Đấng Sáng tạo của con sinh tạo những nối dài của chính ngài như là những sinh thể tự nhận biết và gửi họ xuống bầu cõi thứ nhất với mệnh lệnh nhân lên và cai quản. Nhân lên khả năng sáng tạo của con, nhân lên ánh sáng của con, nhân lên tự nhận biết của con và sau đó cai quản bầu cõi nơi con sống. Lấp đầy bầu cõi này với ánh sáng cho tới khi nó thật sự trở thành vương quốc ánh sáng, vương quốc của Thượng đế. Khi ta nói một bầu cõi là vương quốc Thượng đế thì nghĩa là gì? Có nghĩa là mọi thứ đều tỏa chiếu ánh sáng và con có thể thấy Ánh sáng Mẹ thuần khiết đằng sau mọi biểu hiện. Con thấy Thượng đế Sáng tạo là nguyên nhân đầu tiên đằng sau mọi hình dạng và do đó con không bao giờ đánh mất nhận biết về Thượng đế.

Khi bầu cõi đầu tiên được lấp đầy với ánh sáng tới một cường độ tới hạn, thì động lực muốn trở nên hơn nữa của Thượng đế đòi hỏi một bầu cõi khác được tạo ra. Bầu cõi thứ nhì này bao gồm một phần lớn hơn của khoảng trống không, nhưng giống như bầu cõi đầu tiên nó không được hoàn toàn lấp đầy bởi ánh sáng. Một số sinh thể có tự nhận biết được gửi từ bầu cõi thứ nhất xuống bầu cõi thứ nhì với mệnh lệnh nhân lên và cai quản. Một số sinh thể được gửi xuống bầu cõi thứ nhì quả thật được sinh tạo trực tiếp như những nối dài của đấng Sáng tạo, nhưng hầu hết được sinh tạo như những nối dài của những sinh thể tự nhận biết đã từng phục vụ như những sinh thể đồng-sáng tạo ở bầu cõi thứ nhất và đã lấp đầy bầu cõi này với ánh sáng. Như vậy những sinh thể mới là nối dài của những sinh thể ở bầu cõi thứ nhất và những sinh thể ở bầu cõi thứ nhất là nối dài của đấng Sáng tạo.

Tiến trình cơ bản sáng tạo này đã tiếp diễn qua nhiều bầu cõi, nhiều chu kỳ. Thế giới nơi con đang sống, vũ trụ vật chất, là nối dài mới nhất của tiến trình sáng tạo. Quả thật nó là nối dài của toàn bộ tiến trình trong đó Thượng đế sáng tạo một bầu cõi mới, chiếm một phần lớn hơn của khoảng trống không và do đó tách phần đó ra khỏi bóng tối bằng cách lấp nó đầy với một lượng ánh sáng. Vũ trụ vật chất nơi con sống không tách biệt khỏi Thượng đế và phần còn lại của tạo vật của Thượng đế như giác quan của con, khoa học và thậm chí nhiều tôn giáo nói với con. Vũ trụ vật chất không tách biệt khỏi Thượng đế hay cõi tâm linh bởi một rào cản không xuyên thủng được. Vũ trụ là một nối dài của cõi tâm linh, nó là một nối dài của Thượng đế. Dù thày đã cho con một hình ảnh đường thẳng, thực tại của Thượng đế không hoàn toàn đường thẳng như vậy. Trong căn phòng nơi con đang ngồi có nhiều sóng radio khác nhau thâm nhập không khí. Các sóng này có tần số khác nhau và đó là lý do tại sao chúng có thể cùng hiện hữu trong cùng một không gian mà không hủy bỏ lẫn nhau. Các bầu cõi do Thượng đế sáng tạo cũng vậy. chúng cùng hiện hữu trong cùng không gian hoàn vũ, trong cùng khoảng trống không, chúng đơn giản có tần số khác nhau.

Ngay lúc này, thày không đang ngồi trên thiên đàng xa xôi từ trên cao nói xuống dưới tới con. Quả thật thày ngay ở đây với con. Khi thày truyền đọc những lời nói này qua một người sứ giả, thày hòa nhập Bản thể của thày với tâm thức người sứ giả, thậm chí với luôn cả thân thể của ông. Vì thày đã thăng vượt vũ trụ vật chất, thăng vượt thời gian và không gian, thày không bị giới hạn trong không gian hay thời gian. Nếu con sẵn lòng, thày có thể bảo đảm với con là khi con đọc những giòng chữ này, sự chú ý của con tạo ra chiếc cầu đi vào tim thày. Nếu con sẵn sàng để thày đi vào bản thể con, thày có thể bước qua cầu và hòa nhập Bản thể thày với chính bản thể con. Thày có thể nắm bàn tay con và chỉ cho con thực tại sâu xa đằng sau các câu nói của thày, thực tại không thể diễn tả bằng từ ngữ bởi vì từ ngữ quá đường thẳng.

Con không tách biệt khỏi đấng Sáng tạo của con. Ngay khi con đang ngồi đây đọc khóa học này, đấng Sáng tạo ở ngay đây với con. Đấng Sáng tạo có mặt khắp nơi trong tạo vật của ngài và do đó con không bao giờ có thể tách biệt khỏi đấng Sáng tạo của con. Con chỉ có thể tách biệt khỏi đấng Sáng tạo trong chính tâm con vì tâm tạo ra cảm nhận tách biệt. Cảm nhận tách biệt này chỉ là một ảo tưởng, một ảo giác được phóng chiếu lên màn ảnh cuộc sống bởi một thành phần của tâm thức con, một thành phần mà thày sẽ phơi bày trong phần sau của bài này.

9.3. Con ở đây để đồng-sáng tạo với Thượng đế

Bây giờ con để thày trở về hình ảnh mà thày đang vẽ ra về tiến trình sáng tạo. Mục đích của thày khi nói với con là con không tách biệt khỏi đấng Sáng tạo của con, không tách biệt khỏi các anh chị đã đi trước con và đã thăng thiên lên thiên đàng, là để con nhận ra khi Thượng đế sinh tạo những sinh thể tự nhận biết đầu tiên, những sinh thể này được sinh tạo từ tâm thức và Bản thể của Thượng đế. Các sinh thể đầu tiên mà chúng ta có thể gọi là Alpha và Omega (Revelation 1:8), cái bắt đầu và cái chấm dứt, sau đó sinh tạo những sinh thể khác, những sinh thể khác lại sinh tạo những sinh thể khác, và tiếp tục như thế trong nhiều lớp sáng tạo, nhiều bầu cõi sáng tạo tương hài hoà với nhau.

Mỗi sinh thể được tạo ra, đã được sinh tạo từ Sinh thể lớn hơn của cha mẹ họ, và các cha mẹ này được sinh tạo từ Sinh thể lớn hơn của cha mẹ họ. Nếu con cứ đi ngược về thuở ban đầu, con thấy tất cả mọi sinh thể có tự nhận biết đều được sinh tạo từ Bản thể của chính đấng Sáng tạo. Con không phải là một sinh thể tách rời xuất hiện bất thình lình từ hư không. Sự thực con là nối dài, một cá thể hóa của một Sinh thể lớn hơn đang hiện hữu ngay bây giờ trên cõi tâm linh. Sinh thể lớn hơn này là một phần trong một đẳng cấp các sinh thể tâm linh tạo thành cái mà chúng ta có thể gọi là “Chuỗi Sinh thể” đi ngược về tới chính đấng Sáng tạo.

Con quả thực là một phần của Chuỗi Sinh thể này, con là một nối dài của đấng Sáng tạo, một cá thể hóa của đấng Sáng tạo qua đó Thượng đế có thể đi vào bầu cõi này của tạo vật của ngài. Thượng đế có thể hoàn tất việc làm sáng tạo của ngài từ bên trong chính tạo vật và cùng lúc ngài trải nghiệm bầu cõi này từ bên trong. Thày biết con có thể cần một thời gian để hoàn toàn chấp nhận và hiểu điều này, nhưng nếu con mời thày vào trong tim con, thày sẽ giúp con chấp nhận nguồn gốc thật và bản sắc thật của con dễ dàng hơn. Khi con chấp nhận bản sắc này, tầm nhìn của con về cuộc đời sẽ xoay chuyển lớn lao. Con sẽ nhận ra cuộc sống không vô nghĩa, cuộc sống không trống rỗng. Quả thực cuộc sống có một mục đích lớn hơn và con là thành phần của một kế hoạch vĩ đại nhằm xây dựng vương quốc Thượng đế ngay đây trên trái đất, qua đó sẽ biến hành tinh này thành một thế giới đẹp đến độ nó sẽ hoàn thành những giấc mơ sâu thẳm nhất, những khát khao sâu thẳm nhất của con. Có thể con đã quên những khát khao này, nhưng thày không nghĩ con quên sự kiện là khi con thấy những giới hạn, đau đớn và thống khổ trên trái đất, cái gì đó bên trong con kêu lên và nói: “Điều này không đúng, mọi chuyện đáng lẽ không được như thế này.” Điều này cho con thấy sâu trong con có ký ức là cuộc sống này hơn nữa và có một lý do cho sự hiện hữu của con, có một lý do cho sự có mặt của con trên trái đất.

Điều này quan trọng vì giờ đây con thấy cuộc đời đáng sống, cuộc đời có một mục đích lớn hơn và con cũng thấy có một mục đích lớn hơn của việc tạo sự dồi dào. Con không ở đây chỉ để đơn giản hoàn thành những mong muốn tạm thời, nhân phàm và xác thịt tập trung vào thân vật lý của con và ý niệm bản sắc dựa trên thân thể. Con hơn thân vật lý, con hơn ý niệm bản sắc thấp này. Con có một ý niệm bản sắc lớn hơn, một thành phần lớn hơn của bản thể con, và con ở đây để biểu hiện trọn vẹn bản sắc lớn hơn này, cá thể thiêng liêng này. Con ở đây để phục vụ như một người đồng-sáng tạo với Thượng đế, để đem vào thế giới này ánh sáng của Thượng đế, sự toàn hảo của Thượng đế, sự hài hòa của Thượng đế và các đức tính của Thượng đế. Con ở đây để là ánh sáng của thế gian (Matthew 5:14) và biến thế gian này thành vương quốc ánh sáng, ánh sáng tiêu hủy bóng tối đang che phủ mặt đất và tạo ra đủ loại thống khổ, đau đớn và thiếu thốn mà con đơn giản biết không thể là thiết kế của Thượng đế hay là ý muốn của Thượng đế.

9.4. Con mở rộng nối kết với Hiện diện TA LÀ

Bây giờ chúng ta hãy xem xét cụ thể hơn tại sao con đang ở trên trái đất. Khi Thượng đế sinh tạo một bầu cõi mới, Thượng đế rải vào đó một lượng ánh sáng. Thượng đế hay đúng hơn các đại diện của Thượng đế quả thực có sinh tạo một số hình tướng. Hành tinh trái đất được sinh tạo bởi bảy đại diện của Thượng đế đã tạo ra hành tinh này như một môi trường có khả năng nuôi dưỡng sự sống trong trạng thái dồi dào và quân bình. Thiết kế của Thượng đế không bao giờ nhằm giữ trái đất trong trạng thái này. Động lực đằng sau mọi sự sáng tạo là động lực trở nên hơn nữa, và Thượng đế gửi xuống thế giới này một số sinh thể tự nhận biết với mệnh lệnh nhân lên và cai quản. Nhân lên và cai quản nghĩa là gì? Nghĩa rốt ráo là nhân lên sự tự nhận biết của con để con nhận biết là mình có khả năng phục vụ như người đồng-sáng tạo với Thượng đế.

Con ý thức là tâm thức của con, tâm của con, có khả năng là cánh cửa mở để đem xuống trái đất thêm ánh sáng của Thượng đế, thêm ánh sáng tâm linh có tần số cao, đi vào các rung động thấp của vũ trụ vật chất. Khi ánh sáng được đem vào thế giới, nó tiêu hủy bóng tối và do đó thế giới này sáng hơn và rực rỡ hơn và bắt đầu biểu hiện tất cả sự toàn hảo mà ta tìm thấy trong cõi tâm linh. Khi các người đồng-sáng tạo nhân lên khả năng sáng tạo của họ, họ giỏi hơn trong việc điều khiển ánh sáng Thượng đế đi xuyên qua tâm họ, qua đó họ dùng tâm của họ để áp đặt một hình ảnh toàn hảo, quân bình và hài hòa lên ánh sáng. Chính tiến trình áp đặt một hình tư tưởng lên Ánh sáng Mẫu-vật đã tạo nên hình tướng.

Như một người đồng-sáng tạo, con có hai mục đích. Mục đích đầu của con là mở rộng sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của con đang cư ngụ vĩnh viễn trên cõi cao hơn. Khi con mở rộng nối kết này, nhiều ánh sáng hơn có thể chảy vào tâm thức của con. Con đem lại nhiều ánh sáng hơn cho thế giới, gia tăng tổng lượng ánh sáng có thể dùng vào việc sáng tạo hình tướng. Điều này gia tăng tiềm năng biểu hiện sự dồi dào của Thượng đế trên trái đất.

Chìa khóa thực để gia tăng lượng dồi dào trên trái đất là gia tăng lượng ánh sáng có trong cõi này. Khi con đã kéo ánh sáng của Thượng đế xuống từ Hiện diện TA LÀ của con, qua sự tự nhận biết tập trung trong cõi này, con có thể điều khiển ánh sáng đó và dùng nó để sáng tạo những hình tướng biểu hiện nhiều hơn sự dồi dào của Thượng đế. Sự dồi dào được thể hiện như một thực tại vật lý mà ngay cả giác quan vật lý thô thiển của thân thể cũng có thể thấy được. Điều thày vừa nói với con là chìa khóa cốt yếu của dồi dào. Nó thực là viên đá đặt nền chính mà người xây cất đã bác bỏ (Matthew 21:42), mà hầu hết không chú ý tới. Hầu hết các vị thày tuyên bố họ có thể giúp con người gia tăng sự dồi dào thế gian cũng đã không chú ý tới nó. Tại sao điều mà thày vừa nói với con quan trọng đến thế? Hãy cho phép thày bỏ ra một chút thời giờ để giải thích vì chỉ riêng điểm này có thể đem lại thành công hay thất bại cho nỗ lực muốn đạt cuộc sống dồi dào của con. Nếu con không hiểu điểm mà thày đang truyền tải, con sẽ không bao giờ đạt được dồi dào tâm linh thật sự. Con có thể hay không thể đạt được dồi dào vật chất nhưng dồi dào vật chất này sẽ không bao giờ thỏa mãn khao khát nội tâm của bản thể con.

Điểm quan trọng nhất về sự dồi dào là mọi vật trong thế giới vật chất này, mọi vật trên hành tinh trái đất này đều được tạo ra từ ánh sáng Thượng đế. Chúng được tạo ra từ ánh sáng tâm linh mà tần số được hạ xuống cho tới khi ánh sáng rung động trong quang phổ tần số tạo nên vũ trụ vật chất. Sau khi tần số được hạ thấp thì ánh sáng có thể dùng vào việc sáng tạo hình tướng trong vũ trụ này. Con là một người đồng-sáng tạo với Thượng đế và tự nhận biết của con tập trung trong quang phổ tần số này. Khi con đồng-sáng tạo, con dùng tâm mình để áp đặt một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-vật. Trước khi con có thể làm chuyện này, cần có một lượng ánh sáng đã được hạ xuống cõi này để nó rung động trong quang phổ tần số vật chất.

Tâm con có hai khả năng khi làm việc với ánh sáng Thượng đế. Tâm con có khả năng hạ thấp độ rung của ánh sáng tâm linh xuống quang phổ tần số vật chất. Một khi ánh sáng đã được hạ thấp độ rung, tâm con có thể áp đặt một hình ảnh lên ánh sáng để tạo ra một hình tướng. Dù rằng hai khả năng này được thiết kế để làm việc chung với nhau, con có thể tách chúng trong tâm con. Ví dụ là nhiều người đã quên khả năng đem ánh sáng tâm linh xuống thế giới này nhưng vẫn dùng tâm họ để áp đặt hình tư tưởng lên ánh sáng dùng được trong quang phổ tần số vật chất. Trước khi một hình tướng có thể được sáng tạo, một sinh thể tự nhận biết phải với lên cõi tâm linh, nối kết với cái ta tâm linh của y và trở thành cánh cửa mở đem ánh sáng tâm linh đi vào quang phổ tần số của vũ trụ vật chất. Khi hành tinh trái đất được tạo ra, một lượng ánh sáng được đem vào quang phổ tần số vật chất bởi các Elohim. Sau khi các người đồng-sáng tạo bắt đầu hiện thân trên hành tinh này, các Sinh thể tâm linh không đem thêm ánh sáng vào nữa. Bây giờ việc đem thêm ánh sáng vào quang phổ vật chất tùy thuộc vào những cư dân trái đất. Tổng lượng dồi dào có thể tạo ra được trên trái đất tùy thuộc trực tiếp vào tổng lượng ánh sáng dùng được trong năng trường của hành tinh này. Hầu hết con người đã quên mất khả năng đem ánh sáng vào thế giới này và họ đã tạo ra những hình tướng mất quân bình với ánh sáng dùng được. Lực co lại của Mẹ quả thực đã giảm thiểu lượng ánh sáng thấp hơn mức ánh sáng dùng được khi hành tinh được tạo ra. Hiện nay trên trái đất, lượng ánh sáng ít hơn so với lúc các Elohim sáng tạo hành tinh này.

9.5. Con người có khả năng tạo sự dồi dào

Thày xin con cố gắng đi vào trong tim mình và cho phép thày cho con sự hiểu biết không thể diễn đạt bằng lời nhưng có thể được kích hoạt bởi những lời mà thày gửi tới con. Con được nuôi dạy với lập trình tin rằng chỉ có một số lượng dồi dào nào đó trên thế gian. Con bị lập trình tin rằng con sống trong một thế giới quy định bởi thiếu thốn và giới hạn. Ví dụ, con được bảo là hành tinh trái đất chỉ có một lượng tài nguyên thiên nhiên hữu hạn và như vậy chuyện có thể xảy ra là nhân loại tiêu dùng hết các tài nguyên này và sẽ không còn gì nữa. Nhiều nguồn thông tin  thực sự đã tìm cách khiến con tin là kịch bản này không thể tránh được và do đó con phải chấp nhận một số giới hạn trong cuộc sống của con và thậm chí cho tổng thể nhân loại. Khái niệm này không đúng một cách vô điều kiện mà cũng không hoàn toàn sai. Thày biết chắc con được bảo là hành tinh này chỉ có một lượng dầu hỏa nhất định. Khi nhân loại dùng hết dầu hỏa thì sẽ không còn gì nữa và con sẽ không thể chạy xe hơi hay đi máy bay. Một số đã cố gắng tạo ra hình ảnh một ngày tận thế gần kề khi nhân loại đã tiêu dùng hết tài nguyên trên hành tinh và toàn thể hành tinh trở nên một bãi sa mạc khô cằn không có khả năng nuôi dưỡng sự sống. Con yêu dấu, kịch bản tận thế này quả thực có thể xảy ra nhưng nó không phải là điều sẽ chắc chắn xảy ra như một số người quan niệm.

Con biết rõ con người vẫn khám phá những mỏ dầu mới. Con cũng biết là có một thời không có dầu hỏa trên hành tinh này. Dầu hỏa được tạo ra vì chất hữu cơ chết đi và qua chuyển động của trái đất nó bị lấp vùi và bị sức ép biến thành dầu. Kim cương được tạo ra khi chất than bình thường bị sức ép khổng lồ của vỏ trái đất. Vì hành tinh này có một lượng than rất lớn thì quả thực có khả năng là một lượng kim cương khổng lồ có thể được tạo ra. Thày biết một số người sẽ nói cần hàng triệu năm để tạo ra dầu và do đó nhân loại sẽ hết dầu trước khi các tiến trình tự nhiên có thể thay thế nguồn cung cấp dầu hiện nay. Điều này chắc hẳn đúng nhưng thày nhắc nhở con là dầu đã có mặt cả ngàn năm qua và thậm chí đã có người biết tới nó. Nhưng 500 năm trước đây người ta xem dầu hỏa là một tài nguyên thiên nhiên không quan trọng bởi vì lúc đó nhân loại chưa có hiểu biết dùng dầu như thế nào. Con người chưa sáng chế động cơ đốt hay bất cứ các thiết bị cơ khí khác dùng nhiên liệu hóa thạch để sản xuất hàng hóa hay cho phép con người du lịch. Quan điểm hành tinh chỉ có một lượng tài nguyên giới hạn hay một lượng dồi dào giới hạn giản dị không đúng. Chỉ vài thế kỷ trước đây, dầu hỏa là một chất được coi như vô giá trị và nó chỉ trở nên có giá trị khi con người gia tăng kiến thức, nhận biết, hiểu biết và do đó thiết lập được công nghệ dùng dầu hỏa và biến nó từ một chất vô giá trị thành một tài nguyên có giá trị.

Kiến thức và hiểu biết này từ đâu tới? Con có thật sự tin là nó tới từ hư không? Hay con có thể mở tâm ra với ý tưởng là đã có một số người với lên cao hơn vũ trụ vật chất, thiết lập nối kết với cái ta tâm linh của họ và qua nối kết này họ đã có thể đem xuống những ý tưởng và hiểu biết đưa tới những phát minh mới và công nghệ mới? Chắc chắn là có một số tài nguyên trên hành tinh chỉ có số lượng giới hạn. Chắc chắn là con người có thể hết dầu hỏa và do đó mất khả năng dùng công nghệ dựa trên việc đốt dầu. Trước khi dầu hỏa trở thành một tài nguyên, nhân loại có những công nghệ thô thiển hơn dùng tài nguyên khác như gỗ và than được biến thành hơi nước. Con biết rõ là đã có công nghệ phân tách nguyên tử và chuyển đổi uranium thành nguồn tài nguyên mạnh hơn dầu. Dù thày không coi năng lượng hạt nhân là một công nghệ không có vấn đề, rất có thể có những chất liệu trên trái đất mà ngày nay xem là vô giá trị nhưng với kiến thức và hiểu biết đúng, chúng có thể trở thành nền tảng cho những công nghệ mới mạnh hơn rất nhiều công nghệ dựa trên nhiên liệu hóa thạch.

Điều rất có thể xảy ra là nhân loại có thể gia tăng lượng dồi dào hiện có trên trái đất. Qua sự nhân lên khả năng sáng tạo, qua việc nhân lên hiểu biết về các quy luật của Thượng đế, các quy luật mà Thượng đế đã dùng để thiết kế vũ trụ này, con người có thể thăng vượt mức nhận biết hiện nay của họ và thật sự trở nên những người đồng-sáng tạo với Thượng đế có thể tạo ra sự dồi dào từ cái mà ngày nay có vẻ là vô giá trị. Con xét xem trước kia cát là chất vô giá trị nay biến thành silicon và trở thành nền tảng của toàn bộ kỹ nghệ máy tính đã đem lại dồi dào khổng lồ trong nhiều khía cạnh cuộc sống. Con xét xem con người đang nghiên cứu cách dùng hydrogen, một chất có nhiều nhất trong vũ trụ, để dùng làm nhiên liệu cho công nghệ. Thày khuyến khích con xem xét những ý tưởng này và nhận ra kịch bản được các nhà tiên tri tận thế cổ xúy là hành tinh này sẽ trở thành một bãi sa mạc khô cằn chỉ có thể xảy ra nếu nhân loại ngưng mọi cố gắng tăng triển khả năng sáng tạo của mình. Nếu con người ngừng nhân lên khả năng của họ, uy lực sáng tạo của họ, thì quả thực xã hội con người sẽ rốt cuộc tiêu thụ hết tài nguyên hiện dùng được theo hiểu biết hiện nay của con người về các quy luật thiên nhiên. Lúc đó hành tinh này sẽ một ngày kia trở thành một bãi sa mạc không có khả năng nuôi dưỡng sự sống. Chuyện này chỉ xảy ra nếu con người chọn khóa lại khả năng sáng tạo của mình, nếu họ từ chối không nhân lên khả năng của họ và thay vào đó chôn chúng xuống dưới đất – như là một biểu tượng cho mức tâm thức hiện tại của họ.

9.6. Đem ánh sáng tâm linh vào quang phổ tần số vật chất

Mọi thứ con thấy chung quanh con, thậm chí vật chất vật lý có vẻ chẳng dính dáng gì tới thế giới tâm linh, đều làm ra từ ánh sáng tâm linh. Ngay cả các nhà khoa học của con cũng nhìn nhận vật chất rắn đặc được làm bằng năng lượng rung động. Năng lượng rung động này giản dị là ánh sáng Thượng đế, ánh sáng tâm linh đã bị hạ độ rung. Lượng tài nguyên và dồi dào thấy được trong hành tinh trái đất hiện nay không được quy định một cách độc đoán mà nó cũng không phải là một lượng cố định được quy định khi trái đất được tạo ra. Lượng tài nguyên và dồi dào trên trái đất có tỷ lệ thuận với lượng ánh sáng tâm linh đã được các sinh thể tự nhận biết đem vào quang phổ tần số vật chất trên hành tinh trái đất. Vật chất không đến từ hư không. Nó là sản phẩm của Ánh sáng Mẹ được hạ độ rung cho tới khi nó đạt tới quang phổ tần số của vật chất. Ngược lại với những gì con được dạy và tin, lượng vật chất không cố định. Các đồng-sáng tạo của Thượng đế có thể thật sự đem thêm ánh sáng vào quang phổ tần số vật chất và tăng trưởng lượng tài nguyên thiên nhiên trên hành tinh này.

Dồi dào không phải là một lượng cố định. Con người hoàn toàn có khả năng đem lại nhiều dồi dào hơn bằng cách sử dụng hữu hiệu hơn các tài nguyên thiên nhiên hiện đang có trên hành tinh này. Con người còn có thể đem nhiều ánh sáng tâm linh hơn vào cõi vật chất và do đó tăng trưởng lượng tài nguyên và dồi dào trên trái đất. Điều này mở ra những tầm nhìn hoàn toàn mới cho khả năng đạt tới đời sống dồi dào. Con có, ngay trong con, ngay trong tâm thức con, khả năng với lên cõi tâm linh, để kết nối với Hiện diện TA LÀ của con, và đem ánh sáng tâm linh vào thế giới vật chất. Khi con làm thế, con sẽ gia tăng lượng dồi dào biểu hiện trong cuộc sống của con và con làm vậy mà không lấy dồi dào từ một thành phần nào khác của cuộc sống.

Con hãy bỏ thì giờ bước lùi lại và thực sự xem xét những gì thày đang nói. Điều thày đang nói ở đây là con có thể theo ba phương cách khác nhau để đạt được nhiều dồi dào hơn trong cuộc sống:

  • Phương cách thấp nhất và thô sơ nhất là suy luận rằng chỉ có một lượng cố định dồi dào có thể dùng được trong thế gian này. Bởi vì tất cả mọi người không giàu có, hiển nhiên là lượng dồi dào trên trái đất không đủ cho mọi người. Nếu con muốn giàu, con phải lấy dồi dào từ người khác cho nên họ phải nghèo đi. Suốt dòng lịch sử mà con người biết được, một thành phần thượng lưu quyền lực nhỏ đã tin cái nhìn về lượng dồi dào cố định này. Họ đã dùng phương tiện hung hãn để đưa họ lên vị thế thượng lưu quyền lực nắm độc quyền của cải và kiểm soát tài nguyên. Họ làm điều này bằng cách biến đa số dân chúng thành tôi mọi cho họ, phục vụ họ như những con ong thợ vắt sữa các tài nguyên khan hiếm của hành tinh và tập trung các tài nguyên này cho giới thượng lưu quyền lực sử dụng. Đây là một phương cách đạt dồi dào cực kỳ thô thiển. Đây là một phương cách hoàn toàn dựa vào sức mạnh, dựa vào nhu cầu đấu tranh với người khác để giành một nguồn cung cấp dồi dào cố định và không đủ. Đây là một phương cách dựa trên triết lý thiếu thốn, triết lý đưa tới nhu cầu chiếm đoạt dồi dào bằng sức mạnh và qua đó không thể tránh việc tước đoạt dồi dào của người khác để tập trung của cải trong tay một thiểu số được chọn lựa. Phương cách này cần sử dụng sức mạnh liên tục vì giới thượng lưu không thể nào gìn giữ của cải của họ mà không liên tục bảo vệ của cải này, không những chống lại người khác mà thậm chí cũng chống lại những lực thiên nhiên tìm cách lấy đi những gì họ sở hữu. Phương cách đạt dồi dào này là một trận chiến leo dốc núi, một sự vật lộn không ngừng.
  • Một phương cách đạt dồi dào cao hơn nhiều là suy luận chúng ta có thể tạo ra nhiều dồi dào hơn bằng cách gia tăng hiểu biết của chúng ta về quy luật thiên nhiên. Qua sáng kiến và công nghệ mới, con có thể tạo ra giàu có bằng cách biến những chất vô giá trị thành tài nguyên có giá trị, hay bằng cách chuyển kiến thức thành công nghệ hữu dụng. Đây là một phương cách đạt dồi dào cao hơn rất nhiều, tuy thế nó vẫn chưa giải quyết vấn đề là hiện nay chỉ có một số năng lượng nào đó mà con người có thể dùng được trên trái đất. Điều này mang một yếu tố hạn chế và hiện nay con có thể thấy được điều này trong xã hội. Nhiều người biết ngày dùng nhiên liệu hóa thạch để chạy công nghệ của nhân loại sắp tận. Họ biết đã có những trận chiến xảy ra vì dầu hỏa và có thể có nhiều thêm những trận chiến khốc liệt khác để tranh giành dầu hỏa hay tài nguyên khác. Dù nhiều người nhìn ra nhu cầu  đem lại công nghệ mới, công nghệ đó chưa xuất hiện. Điều này cho con thấy là phương cách tạo dồi dào bằng cách dùng những tài nguyên sẵn có mang một số giới hạn. Giới hạn là vì chìa khóa thật để đem lại nhiều dồi dào hơn là đem thêm năng lượng tâm linh vào quang phổ tần số vật chất. Như các nhà khoa học nói: “Mọi thứ đều là năng lượng.” Tổng lượng dồi dào dùng được trên hành tinh trái đất có tỷ lệ thuận với tổng lượng năng lượng có mặt trong hệ thống năng lượng của hành tinh này. Cách duy nhất để thực sự gia tăng dồi dào là gia tăng lượng năng lượng dùng được trên trái đất.
  • Phương cách đạt dồi dào thứ ba là kết hợp phương cách thứ nhì là tìm thêm hiểu biết với phương cách tâm linh chủ trương với lên cõi cao hơn để đem thêm năng lượng vào quang phổ tần số vật chất. Mục đích khóa học này là dạy con cách dùng phương cách đạt dồi dào này.

9.7. Chọn giữa tâm thức chết hay tâm thức của sự sống

Con đang đứng ở lằn ranh phân chia, lằn ranh phân chia phương cách đạt dồi dào nhân phàm, sinh diệt, dựa trên sức mạnh và phương cách đạt dồi dào tâm linh, bất tử, dựa trên tình thương. Con phải lấy một chọn lựa và chọn lựa này là chọn giữa tâm thức thiếu thốn hay tâm thức thực sự dồi dào. Nó là chọn lựa giữa tâm thức chết hay tâm thức của sự sống. Vũ trụ vật chất được sáng tạo từ ánh sáng Thượng đế. Nó được tạo ra bằng cách biến một phần của khoảng trống không thành một bầu cõi riêng biệt và lấp đầy bầu cõi đó với một lượng ánh sáng rung động trong một quang phổ tần số nào đó. Ánh sáng nguyên thủy không đủ để đuổi bóng tối đi, cho nên bóng tối còn lại trong thế giới vật chất là nguyên nhân của thiếu thốn và đau khổ mà con thấy trên trái đất. Con không thể loại bỏ bóng tối trong căn phòng vì bóng tối tự thân không có chất liệu gì trong nó. Con không thể bỏ bóng tối vô hộp hay vứt nó ra ngoài cửa sổ. Con có thể loại bỏ bóng tối bằng cách thay thế nó với cái gì có chất liệu, như ánh sáng. Cách loại bỏ bóng tối là bật đèn sáng và cách loại bỏ thiếu thốn và đau khổ trên trái đất là đem nhiều ánh sáng tâm linh hơn vào thế giới này. Đây là một phần của tiến trình tuôn chảy miên viễn của sáng tạo của Thượng đế, Dòng sông sự Sống đời đời tuôn chảy. Thượng đế khuếch trương sáng tạo của ngài và gửi xuống những người đồng-sáng tạo có tự nhận biết để họ đem lại nhiều ánh sáng hơn vào thế giới và để cho thế giới và cư dân trong đó có thể hơn nữa qua tự thăng vượt.

Thiết kế thật của Thượng đế là dồi dào là kết quả của việc đem ánh sáng từ cõi cao vào thế giới nơi con đang sống. Con có khả năng làm việc này vì con đã được thiết kế theo hình ảnh Thượng đế và giống như Thượng đế của con; con được thiết kế với trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Tâm con có thể là cánh cửa mở cho ánh sáng của Thượng đế tuôn chảy vào thế giới này. Bằng cách gia tăng lượng ánh sáng tâm linh tuôn chảy qua tâm thức của con, con chắc chắn sẽ gia tăng lượng dồi dào có mặt trong thế giới vật chất. Cơ chế an toàn của Thượng đế là con chỉ có thể mang ánh sáng từ cõi cao xuống khi con đạt được một mức nào đó của tâm thức Ki-tô.

Đây là chọn lựa con phải lấy. Con có thể theo phương cách thứ nhất và tìm cách tích lũy dồi dào bằng cách lấy từ nguồn cung cấp cố định hiện có trên trái đất. Điều này khiến con lấy dồi dào từ những thành phần khác của đời sống, qua đó con tước đoạt dồi dào của họ. Điều này cũng khiến con phải liên tục bảo vệ dồi dào mà con tích lũy và tiến trình lấy và bảo vệ sẽ tiếp tục suốt cuộc đời còn lại của con. Nếu con còn nghi ngờ những gì thày nói, con hãy nhìn cuộc sống của những người giàu nhất trên hành tinh này. Họ đã tích lũy của cải bằng cách lấy bằng sức mạnh và nhiều người trong số họ dành phần còn lại của cuộc đời để bảo vệ của cải của họ. Họ không bao giờ thấy đủ, họ không bao giờ cảm thấy hạnh phúc. Họ không bao giờ thật sự có cuộc sống dồi dào, họ chỉ có vật chất dồi dào. Họ không có khả năng biến dồi dào vật chất thành dồi dào tâm linh thật sự, hạnh phúc thật sự và tâm an bình thật sự.

Nếu đây là điều con muốn thì con có khả năng làm chuyện này. Tâm con có khả năng áp đặt một hình ảnh lên ánh sáng của Thượng đế. Cách đích thật để tích lũy dồi dào là không chỉ giản dị lấy bằng vũ lực vật lý. Thực tế là tâm con lúc nào cũng đang đồng-sáng tạo, lúc nào tâm con cũng đang áp đặt hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Vấn đề là Ánh sáng Mẫu-Vật từ đâu tới – ánh sáng mà con dùng để hình thành các hình tư tưởng của con. Trong thiết kế nguyên thủy của Thượng đế, con đúng lý phải duy trì sự kết nối với Hiện diện TA LÀ để con có thể đem vào thế giới này năng lượng tâm linh, ánh sáng tâm linh. Lúc đó con áp đặt một hình ảnh lên ánh sáng đó và tạo tác một hình tướng vật lý sẽ trở nên sự dồi dào của con. Đây đúng là con có ông thần trong chiếc bình cho riêng mình, một ông thần có thể đáp ứng tất cả các ước mong của con mà không cần lấy từ người khác. 

Khi con đánh mất sự kết nối có ý thức với cái ta tâm linh của con, thì con không còn là cánh cửa mở để mang ánh sáng tâm linh vào thế giới này, con đã đánh mất hồng ân. Con không thể kéo xuống ánh sáng mới để tạo tác hình tướng. Điều này không có nghĩa là con không thể dùng khả năng của tâm để áp đặt hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Nó nghĩa là con phải làm chuyện này bằng cách lấy ánh sáng đã được đem vào trong quang phổ tần số vật chất.

Khi con giữ được sự nối kết nguyên thủy với Hiện diện TA LÀ của con, số lượng dồi dào mà con có thể biểu hiện trong cuộc sống của con vô tận. Thượng đế không có giới hạn. Thượng đế không có một lượng ánh sáng hữu hạn mà các sinh thể đồng-sáng tạo có thể dùng. Thượng đế có một nguồn cung cấp ánh sáng vô tận, giới hạn duy nhất là cách người đồng-sáng tạo nhân lên khả năng sáng tạo của họ.

Tâm con là một ống dẫn giữa tâm ý thức của con và Hiện diện TA LÀ của con. Kích thước của ống dẫn quy định lượng ánh sáng có thể chảy qua nó. Lúc ban đầu, con được gửi xuống thế giới này với một kích thước nào đó của ống dẫn tâm linh của con. Con được sinh ra để nhân lên khả năng của con và qua đó con mở rộng kích thước của ống dẫn, qua đó Thượng đế sẽ cho con nhiều năng lượng tâm linh hơn và điều này sẽ gia tăng uy lực sáng tạo của con. Hầu hết con người đã quên mất nguồn gốc tâm linh thực của họ, đã đánh mất kết nối ý thức của họ với cái ta tâm linh của họ. Điều này đã thu nhỏ kích thước ống dẫn tới điểm chỉ còn đủ ánh sáng tuôn chảy để giữ cho họ và thân thể họ sống còn. Họ không có đủ ánh sáng để thật sự biểu hiện sự dồi dào từ bên trong họ. Họ chỉ còn chọn lựa duy nhất là dùng ánh sáng đã được đem xuống quang phổ tần số vật chất và sau đó áp đặt hình ảnh lên ánh sáng qua uy lực của tâm của họ. Chỉ có một số lượng cố định năng lượng có mặt trong hành tinh trái đất, có nghĩa là để con có nhiều dồi dào hơn, con phải lấy năng lượng từ người khác.

Điều này mở ra một tầm nhìn hoàn toàn mới về kiếp sống con người. Thày sẽ cho con một hiểu biết mới về ý nghĩa cuộc sống trên trái đất và động lực đằng sau cuộc tranh giành quyền lực của con người. Con hãy cho phép thày chỉ cho con thấy trong chương kế tiếp là con người thực sự tranh giành điều gì khi bề ngoài trông như họ đang tranh giành của cải vật chất.

7 | Con đang sáng tạo sự hài hòa hay thiếu thốn?

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 7/4/2005.

Thượng đế đã thiết kế một vũ trụ có khả năng cung cấp sự dồi dào vô biên, ngay cả trên hành tinh nhỏ bé mà con gọi là trái đất này. Khi Thượng đế tạo ra trái dất, ngài chỉ giản dị tạo tác một nền móng. Sau đó ngài gửi con, và nhiều người đồng-sáng tạo khác, xuống thế giới này với mệnh lệnh nhân lên khả năng sáng tạo. Con ở đây để cai quản trái đất và xây dựng thêm trên nền móng của Thượng đế và đem lại cho thế giới này tất cả sự dồi dào mà con có thể tưởng tượng và chấp nhận. Khi con người sử dụng khả năng sáng tạo của mình thuận theo những nguyên lý cơ bản mà Thượng đế đã dùng để thiết kế vũ trụ, thì họ sáng tạo một sự dồi dào bền vững. Họ làm việc này mà không tước đi sự dồi dào từ các phần khác của sự sống mà trái lại khuếch đại toàn thể dồi dào trên trái đất. Toàn Thân thể của Thượng đế sẽ được phóng đại trong tiến trình này. Khi con người sử dụng đúng khả năng sáng tạo của mình thì không có xung đột giữa cá nhân và tổng thể vì vũ trụ của Thượng đế được thiết kế để cung cấp đủ dồi dào cho tất cả.

7.1. Nhiều điều kiện trên trái đất do con người tạo ra

Câu hỏi chủ yếu mà ta cần giải đáp là làm sao con, như một người sống trên hành tinh địa cầu, có thể học cách sử dụng khả năng sáng tạo của mình một cách hài hòa với những nguyên lý mà Thượng đế đã dùng để thiết kế toàn thể vũ trụ. Khó khăn mà chúng ta đối diện là hành tinh địa cầu hiện nay không biểu lộ thiết kế nguyên thủy của Thượng đế. Thay vì xây dựng một lâu đài trên nền móng mà Thượng đế đã tạo lập, nhân loại qua bao ngàn năm đã chôn vùi của cải của mình vào lòng đất. Lực co thắt của Mẹ đã bắt đầu phá vỡ ngay cả nền móng mà Thượng đế xây dựng. Thày biết đây là một ý niệm mà những người đã lớn lên trong xã hội hiện đại khó chấp nhận. Nhiều người đã được dạy dỗ để tin vào phiên bản câu chuyện thành lập hành tinh do Thánh kinh đề ra cho rằng trái đất chỉ có mặt từ vài ngàn năm nay, rằng mọi thứ đều do Thượng đế tạo ra, rằng Thượng đế chỉ có thể tạo ra sự toàn hảo, và do đó tất cả mọi chuyện phải toàn hảo. Một số người khác đã lớn lên với thuyết tiến hóa của khoa học cho rằng sự tiến hóa chỉ đi theo một hướng, và sự sống đi từ những hình tướng thô sơ đến những hình tướng phức tạp hơn.

Vì có Luật Tự quyết nên rất có thể một nền văn minh con người tiến lên một cao điểm và sau đó dần dần tiêu mòn xuống một trạng thái thấp hơn. Nhiều sắc thái của sự sống trên trái đất đã bị tâm thức nhân loại ảnh hưởng. Điều này không những chỉ áp dụng cho xã hội loài người mà còn áp dụng cho cả đến chính Mẹ Thiên nhiên. Con có thực sự tin rằng một Thượng đế đầy lòng thương yêu, có trí tưởng tượng và ý chí tự do vô biên, lại chọn lựa tạo tác các con vi rút, vi khuẩn, vật ký sinh, côn trùng độc hay hóa chất độc hại có thể tàn phá cơ thể của con? Con có thực sự tin rằng Thượng đế đã tạo ra các căn bệnh vô số trên trái đất? Nếu Thượng đế không tạo ra chúng, thì ai đã tạo ra? Câu trả lời là: chính là nhân loại. Nhân loại cộng chung đã tạo ra tất cả các điều kiện bất toàn mà con thấy trên trái đất, ngay cả các bất quân bình trong thiên nhiên.

Mọi chuyện đều được tạo ra từ năng lượng của Thượng đế là Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật chỉ mang vào một hình tướng khi nó được khuấy động bởi một tâm, một sinh thể có tự nhận biết có khả năng sáng tạo của Thượng đế, tức là có trí tưởng tượng và ý chí tự do. Khi con chấp nhận sự kiện này thì con nhận ra là tất cả mọi chuyện trên trái đất đều là sản phẩm của một tâm có ý thức. Thiết kế nguyên thủy của trái đất do một nhóm đại diện Thượng đế, gọi là các Elohim, tạo ra. Các sinh thể này tạo ra một hành tinh tuyệt đẹp, và vẻ đẹp mà con thấy hiện nay trong thiên nhiên chỉ là một phản ánh phai mờ của vẻ đẹp nguyên thủy mà các Elohim đã tạo ra. Hành tinh mà họ tạo ra trong bản chất có cân bằng toàn hảo, do đó con không tìm thấy bệnh tật, động đất hay bão táp. Từ thuở sáng tạo nguyên thủy đó, các thế hệ con người, các nền văn minh nối tiếp nhau đã ảnh hưởng hành tinh này và kéo nó xuống một trạng thái thấp hơn thiết kế nguyên thủy. Chuyện này đã được thực hiện do quyền năng của tâm con người, qua đó họ đã áp chồng lên Ánh sáng Mẫu-Vật những hình ảnh bất toàn không thẳng hàng với những nguyên lý sáng tạo mà Thượng đế sử dụng.

Con người đã đi xuống, hay sa ngã vào một trạng thái tâm thức trong đó họ không còn nhận biết trực giác hay có ý thức về các quy luật của Thượng đế, những quy luật mà Thượng đế đã đặt vào trong những phần thâm sâu của họ. Điều này được minh họa bởi câu chuyện trong Thánh kinh mô tả sự Sa ngã , kể rằng Adam và Eve bị đuổi ra khỏi Vườn Địa đàng. Trái cây hiểu biết thiện ác là trái cây hiểu biết thiện ác tương đối. Khi con mất liên lạc với thực tại của Thượng đế, các quy luật của Thượng đế, thì chính con trở nên luật pháp theo nghĩa con không còn thanh gậy dẫn đường chỉ cho con thật giả tuyệt đối.

7.2. Con không được dồi dào vì mất liên lạc với nguyên lý sáng tạo của Thượng đế

Tất cả những gì hài hòa với quy luật của Thượng đế đều lợi lạc cho tổng thể và bền vững, và ta có thể gọi chúng là thiện hay tốt lành. Những gì đứng bên ngoài những quy luật này đều có mầm tự hủy diệt và làm hại cho tổng thể, và do đó ta có thể gọi chúng là giả hay ác. Khi con người đánh mất thanh gậy hướng dẫn tuyệt đối đó, thì họ quy định khái niệm thiện ác của riêng họ. Những khái niệm này không dựa trên thanh gậy hướng dẫn của quy luật Thượng đế. Chúng dựa trên những gì con người muốn tin và những gì một số người muốn là sự thật vì chúng giúp họ thỏa mãn những ham muốn vị kỷ của họ mà không đếm xỉa đến tổng thể. Vì con người đã quy định thiện ác để đáp ứng mục đích của họ nên họ cảm thấy việc thỏa mãn các ham muốn vị kỷ là điều hoàn toàn chính đáng.

Khi con người không còn thanh gậy hướng dẫn tuyệt đối, thì họ sẽ quy định thiện ác sao để đáp ứng mục đích của họ, mục đích vị kỷ của họ. Các nền văn minh khác nhau đã có những định nghĩa khác nhau về thiện ác. Trong đa số trường hợp, những gì không khế hợp với luật lệ do một thiểu số nắm quyền định ra bị gán nhãn hiệu ác. Chỉ những gì thẳng hàng với đòi hỏi của thiểu số cầm quyền mới được gán nhãn hiệu thiện hay chấp nhận được. Trong nhiều trường hợp, thiểu số cầm quyền hoàn toàn không đứng thẳng hàng với thực tại của Thượng đế và những nguyên lý sáng tạo của Thượng đế. Những gì họ gọi là thiện không tốt lành theo nghĩa tuyệt đối. Chúng chỉ tốt lành tương đối vì chúng chỉ tốt lành dựa trên định nghĩa vị kỷ của thiểu số cầm quyền, một định nghĩa không những chối bỏ các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế mà còn chối bỏ thực tại chỉ có những gì tốt lành cho tổng thể mới thực sự tốt lành cho cá nhân.

Con cần suy ngẫm – trong tim mình – khái niệm này xuất phát từ đâu. Câu chuyện Vườn Địa đàng minh họa là có một điểm Adam và Eve nhận ra là họ đã làm một điều gì đi ngược lại quy luật của Thượng đế. Nhưng thay vì trở về với Thượng đế và nhận tội và xin tha thứ, thì họ quyết định lẩn trốn Thượng đế (Genesis 2:8). Thượng đế đã cho con quyền tự quyết, do đó con có quyền lẩn trốn Thượng đế nếu con muốn. Bởi vì Thượng đế tôn trọng các luật của ngài, và do đó tôn trọng chọn lựa tự quyết của con, nên Thượng đế không thể giúp con khắc phục ý niệm tách biệt đó. Nếu con muốn quay lưng lại Thượng đế, thì ngài sẽ cho phép con làm chuyện này và ngài sẽ không ép uổng con bằng bất cứ cách nào. Một khi con đã quay lưng lại Thượng đế, thì con có thể tiếp tục càng ngày càng xa rời Thượng đế trong tâm thức của con. Thượng đế sẽ không ép uổng con, Thượng đế sẽ không bắt con phải đối mặt với quyết định của mình. Thượng đế sẽ để con bước ra xa bao nhiêu cũng được nếu con muốn. Đó là lý do vì sao nhân loại đã có thể đi xuống một trạng thái tâm thức cực kỳ thấp mà con thấy trải bày hồi thời người tiền sử sống trong hang động, là một trạng thái không cao hơn loài thú bao nhiêu.

Thời người tiền sử sống trong hang động không phải là khởi thủy của nhân loại. Trước đó đã có nhiều nền văn minh đã đạt tới trình độ tinh xảo cao. Một số các nền văn minh đó vượt xa nền văn minh Tây phương hiện tại trên mặt công nghệ và văn hóa. Nhưng vì họ lạm dụng quyền năng sáng tạo của họ nên họ dần dần đi xuống những trạng thái tâm thức và điều kiện sinh sống càng ngày càng thấp. Nếu con đã từng nghiên cứu các chuyện thần thoại, hay những gì các khoa học gia gọi là chuyện thần thoại, về các nền văn minh quá khứ, thì con sẽ biết thày đề cập đến các nền văn minh nào. Mặc dù một số chi tiết trong những câu chuyện còn sót lại từ các thời đó đã trở nên mờ tối với dòng thời gian, sự thật là đã có những nền văn minh quá khứ trên trái đất và thời người tiền sử sống trong hang động không phải là khởi thủy của nhân loại mà chỉ là một trong những điểm thấp mà nhân loại đã xuống tới.

Nếu con muốn thay đổi cuộc đời mình – để được cuộc sống dồi dào mà Thượng đế cống hiến vô điều kiện – thì con không thể thụ động và chờ đợi là Thượng đế sẽ làm hộ cho con. Con còn không thể dùng phương pháp cầu xin Thượng đế cho con cuộc sống dồi dào. Thượng đế đã thiết lập một vũ trụ trong đó con có quyền năng sáng tạo để thị hiện cuộc sống dồi dào bằng cách sử dụng các quyền năng đó.

Thượng đế sẽ không tạo ra đời sống dồi dào cho con; Thượng đế muốn con đồng-sáng tạo đời sống dồi dào cho chính mình. Thượng đế muốn con biết rằng con đã làm chuyện đó với quyền năng nội tại của mình – quyền năng của Thượng đế trong con – và con đã làm chuyện đó bằng cách đứng thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế. Kết luận là lý do vì sao con chưa có đời sống dồi dào là vì con đã đi xuống một trạng thái tâm thức, mà ta có thể gọi là trạng thái vô minh, nơi đó con mất liên lạc với các nguyên lý sáng tạo mà Thượng đế đã sử dụng. Cách duy nhất để thoát khỏi cảm nhận thiếu thốn hiện tại và đạt được đời sống dồi dào là con thay đổi trạng thái tâm thức của mình.

7.3. Con đã dùng quyền tự quyết để tạo đời sống thiếu thốn

Con yêu dấu, thày muốn con bỏ ra vài phút để suy ngẫm về những phương pháp “làm giàu mau chóng” đang lan tràn trong xã hội Tây phương ngày nay. Con hãy xem xét là có biết bao nhiêu đạo sư đã hứa hẹn là nếu con theo phương pháp giản dị của họ hay đọc sách của họ, thì con sẽ tạo ra sự dồi dào và của cải tối hậu, và con sẽ có thể làm ra tiền nhiều vượt xa lý thường tình. Thày chắc chắn là nếu con nhận ra nhu cầu đem sự dồi dào vào cuộc đời của mình, thì con đã thử dùng một trong những phương pháp đó hoặc đã nghĩ chuyện theo chúng. Nếu con đã thử theo chúng, thì có lẽ con đã trải nghiệm là chúng không hiệu nghiệm.

Bây giờ thì thày giảng cho con là các phương pháp “làm giàu mau chóng” đó sẽ không bao giờ hiệu nghiệm trên đường dài. Thực tại giản dị là trạng thái thiếu thốn và đau khổ hiện nay của con là sự trải bày – trong vật thể vật lý – của những gì xảy ra trong tâm thức của con. Nếu con muốn thay đổi thực tại bên ngoài của con – thực tại được hình thành bởi Ánh sáng Mẫu-Vật – thì con cần trước tiên thay đổi thực tại nội tại của con, là thực tại của tâm thức của con, là những tâm ảnh mà con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Chỉ khi con theo trọn tiến trình thay đổi trạng thái tâm thức của mình một cách cơ bản và sâu thẳm, thì con mới thấy những cải thiện thật, chân chính và lâu bền trong hoàn cảnh bên ngoài của con.

Đây là một nguyên lý sâu sắc mà con cần hiểu nếu con muốn thể hiện đời sống dồi dào thật mà Thượng đế cống hiến con. Lý do vì sao con không có đời sống dồi dào thể hiện trong vật lý là vì con đã đi xuống một trạng thái tâm thức thấp, nơi đó con không sử dụng, con không có khả năng sử dụng, những nguyên lý sáng tạo của Thượng đế. Điều các phương pháp “làm giàu mau chóng” hứa hẹn con là họ đã khám phá ra một ngõ tắt nào đó cho con của cải vật lý mà con muốn mà không cần thực sự thay đổi tâm thức của mình. Một số các phương pháp đó đề cập đến việc thay đổi tâm thức, nhưng chỉ một cách phiến diện. Họ tuyên bố là con chỉ cần theo một vài bước đơn giản, đọc một vài câu khẳng định đơn giản, thì của cải sẽ tức khắc tuôn chảy về hướng con.

Nếu con chưa chán ngán những hứa hẹn rỗng tuếch này thì thày sẽ không ngăn cản con tìm trải nghiệm đó nếu con nghĩ con cần trải nghiệm đó. Thày là một bà Mẹ đầy thương yêu, thày là một đại diện của Mẹ Thượng đế. Thày mong muốn con được sự dồi dào thực sự không thể mua được bằng tiền bạc và cũng không thể mua bằng ngõ tắt. Thày cũng thương yêu Thượng đế Cha và Luật tự quyết của ngài. Trong căn bản, Luật Tự quyết quy định rằng nếu con tách mình khỏi Thượng đế thì Thượng đế không thể cho con hướng dẫn và do đó hậu quả của hành động của con trở nên vị thày của con. Con học hỏi qua những trải nghiệm của mình.

Luật Tự quyết quy định rằng nếu con cảm thấy cần một loại trải nghiệm nào đó, thì Thượng đế sẽ cho phép con tạo trải nghiệm đó cho mình. Nếu con vẫn cần trải nghiệm nghèo đói, giới hạn, thiếu thốn, đau đớn và khổ đau, thì thày là ai mà có thể chối bỏ luật Thượng đế và tìm cách ép con phải chấp nhận sự dồi dào của Thượng đế? Nếu con mong muốn sự dồi dào, nhưng không sẵn sàng làm những chuyện cần làm để thể hiện sự dồi dào của Thượng đế, thì thày là ai mà có thể ngăn cản con chạy theo các đạo sư giả chỉ cho con ngõ tắt? Nếu con cần trải nghiệm đi theo một đạo sư giả như thế – cho đến khi con quá thất vọng và rốt cuộc từ bỏ giấc mộng tìm được ngõ tắt và nói: “Phải có một cách hay hơn” – thì thày là ai mà có thể đứng cản lối không cho con có trải nghiệm đó? Nếu con đã tới điểm quyết định không còn muốn những giấc mơ và ngõ tắt rỗng tuếch đó nữa, không còn muốn trải nghiệm đau đớn, thiếu thốn và khổ đau, thì thày có thể cống hiến con một cái gì. Thày có thể cống hiến con một con đường chân thật qua đó con thay đổi hoàn toàn tâm thức của mình. Con có thể đem tâm thức mình thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo mà Thượng đế sử dụng. Khi con làm vậy thì con đem dòng sống của mình vào sự hài hòa với toàn Thân thể của Thượng đế trên cả thiên đàng lẫn trần thế. Toàn thể vũ trụ vật chất và chính Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ vui mừng đáp ứng những mong muốn thật của con. Con sẽ thấy là sự dồi dào sẽ xảy đến không phải như một phép lạ, không phải từ một lực bên ngoài con, mà qua cách sử dụng đúng đắn – cách sử dụng hài hòa và cân bằng – quyền năng sáng tạo mà Thượng đế đã phú cho con khi dòng sống của con bắt đầu hiện sinh.

7.4. Nhập một với Dòng sông sự Sống

Con đường mà thày cống hiến là con đường thật dẫn tới dồi dào thật, không phải là một ngõ tắt, không phải là một con đường mà con người thấy có vẻ đúng, nhưng đến cuối đường là cái chết (Proverbs 14:12). Chìa khóa để đi theo con đường thật là nhận ra con đường này không có mục đích đem lại của cải tạm thời trên trái đất. Mục đích của con đường thật là thay đổi thường trực, một thay đổi tâm thức thường trực khi con sửa đổi tâm thức để nó thẳng hàng với thiết kế nguyên thủy được lưu trữ trong tâm Thượng đế khi dòng sống của con được tạo sinh. Thượng đế muốn sáng tạo những người con trai hay con gái thật của Thượng đế, được tạo sinh theo hình ảnh của ngài và giống như ngài và các người con đó dùng những quyền năng sáng tạo hoàn toàn hài hòa với tổng thể. Con không những chỉ khuếch đại dòng sống của chính mình mà còn khuếch đại kinh nghiệm sống của mọi sự sống trên trái đất, và quả thực mọi sự sống trong toàn thể vũ trụ.

Đây là trạng thái tâm thức mà Giê-su đề cập đến khi nói rằng trừ phi con hấp thu thịt và máu của người Con trai duy nhất đã được tạo sinh bởi Cha, thì con không có sự sống trong mình (John 6:53). Ý nghĩa sâu của câu này là khi con sử dụng quyền năng sáng tạo của mình một cách hài hòa với các quy luật của Thượng đế, thì con đứng thẳng hàng một cách toàn hảo với mục đích của sự sống và những nguyên lý hướng dẫn của sự sống. Con trầm mình trong Dòng sông sự Sống, con là một phần của Dòng sông sự Sống, là dòng nước luôn tuôn chảy, luôn tăng trưởng bao gồm tất cả những gì đấng Sáng tạo đã tạo tác. Con luôn luôn di chuyển cùng với Dòng sông sự Sống, con luôn luôn thăng vượt chính mình, nhân các khả năng của con và trở nên hơn nữa, qua đó con đem thêm dồi dào vào cuộc đời mình. Đây là định nghĩa thật của sự sống.

Định nghĩa tâm linh của sự sống không phải là thân thể của con có còn hô hấp hay không. Đây là định nghĩa nhân phàm, sinh diệt của sự sống. Định nghĩa tâm linh thật của sự sống là con thăng vượt chính mình và trở nên hơn nữa. Khi con trở nên hơn nữa thì con trải nghiệm cuộc sống dồi dào, con là một phần của dòng chảy dồi dào luôn luôn di động của Thượng đế, là Dòng sông sự Sống. Chỉ khi con ở trong dòng sông đó thì con mới có đời sống tâm linh thật sự. Khi con bước ra ngoài dòng sông đó – vì con tách mình ra khỏi cái ta cao của mình, khỏi cội nguồn của mình, khi quên đi những quy luật của đấng Sáng tạo ra mình – thì con đi xuống một trạng thái tâm thức gọi là tâm thức chết khi nhìn từ góc độ tâm linh. Con đã chết theo nghĩa tâm linh, và đây là ý nghĩa sâu của câu nói của Giê-su.

Một khi con đã rơi xuống một tầng trạng thái tâm thức thấp thì làm sao con có thể vươn trở lên lại và đặt mình thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế? Cái gì cho phép con lấy lại gia tài thật của mình, bản sắc thật của mình như một người con trai hay con gái của Thượng đế, và nối kết trở lại với cái ta cao của con, Hiện diện TA LÀ của con, với phần bên trong của dòng sống của con, nơi mà Thượng đế đã đặt những quy luật của ngài? Trung gian sẽ cho phép con leo từ cái chết trở lên cuộc sống vĩnh hằng là người Con duy nhất được tạo sinh của Cha. Thật là điều đáng buồn khi ta phải công nhận là hầu hết các giáo phái Cơ đốc giáo chính mạch đều đã hiểu lầm ý nghĩa tâm linh thật của nhiều lời dạy sâu sắc nhất của Giê-su. Vì họ bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên và ý niệm tách biệt, và vì họ không chịu khắc phục trạng thái tâm thức đó, nên họ đã suy luận là Giê-su đề cập đến chính mình, con người vỏ ngoài của Giê-su khi nói câu đó. Họ suy luận là con người Giê-su là con đường, sự thật, và sự sống và do đó là chìa khóa duy nhất dẫn tới cứu rỗi (John 14:6). Kỳ thực Giê-su không ám chỉ một sinh thể đặc biệt nào, thày nói đến người Con được tạo sinh thật sự của Cha, không phải là một con người mà là một trạng thái tâm thức hoàn vũ, là tâm thức Ki-tô hoàn vũ. Đây là trạng thái tâm thức mà Phúc âm của John gọi là Ngôi Lời. Ban đầu có Ngôi Lời, và Ngôi Lời là Thượng đế và chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài.

7.5. Ý nghĩa thật của tâm thức Ki-tô

Con yêu dấu, chúng ta bây giờ đã tới điểm thày có thể giải thích cho con ý nghĩa thật của tâm thức Ki-tô, người Con trai duy nhất được sinh tạo, Ngôi Lời. Việc đầu tiên trong công trình sáng tạo của đấng Sáng tạo là ngài tạo ra Ánh sáng. Ánh sáng là một chất không có hình tướng, nhưng nó có tiềm năng khoác vào bất kể mọi hình tướng. Nó khoác vào hình tướng không do quyền năng nội tại của nó, nhưng chỉ khi nó được tác động bởi một lực bên ngoài, một sinh thể có tự nhận biết và quyền năng sáng tạo.

Lúc ban đầu, Thượng đế đấng Sáng tạo là lực duy nhất tác động lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Lẽ tự nhiên, tất cả những gì đấng Sáng tạo tạo ra đều hoàn toàn hài hòa với các nguyên lý cơ bản mà đấng Sáng tạo đã thiết kế để tạo vật của ngài được lâu bền. Ta không cần quan tâm là đấng Sáng tạo có thể tạo ra những gì vi phạm các nguyên lý, các quy luật của chính ngài. Sau khi đấng Sáng tạo đã tạo ra thiết kế cơ bản của vũ trụ thì ngài quyết định tạo ra một số sinh thể có tự nhận biết là các phần nối dài của ngài nhưng chưa có toàn thể quyền năng sáng tạo của một Thượng đế. Mục đích là đấng Sáng tạo sẽ trở nên hơn nữa qua việc tạo ra những phần nối dài của chính mình. Khi con thăng vượt chính mình và nới rộng nhận biết và quyền năng sáng tạo của mình thì con khuếch đại toàn thể tạo vật của Thượng đế.

Thiết kế nguyên thủy là các sinh thể có tự nhận biết đó khởi sự với quyền năng sáng tạo giới hạn. Khi họ nhân khả năng của họ lên bằng cách đồng-sáng tạo một cách hài hòa với quy luật của Thượng đế, thì Thượng đế sẽ tưởng thưởng họ. Như Giê-su có nói: “Tốt lắm, con là người giúp việc tốt và trung thành: con đã trung tín trong một số ít việc, ta sẽ cho con cai quản nhiều chuyện.” (Matthew 25:21). Ý nghĩa nội tại của câu nói này là khi con chứng tỏ ý muốn nhân lên khả năng của con bằng cách đồng-sáng tạo một cách hài hòa với các quy luật của Thượng đế, thì ngài sẽ ban cho con quyền năng sáng tạo lớn hơn. Con có thể nâng tâm thức và khả năng sáng tạo của mình cho tới khi con tới điểm thành tựu hoàn toàn mà Giê-su đề cập tới khi nói: “Con là Thượng đế” (John 10:34).

Con đã được tạo ra với quyền năng sáng tạo giới hạn và một nhận biết giới hạn về toàn thể công trình sáng tạo của Thượng đế vì mục đích của Thượng đế là con du hành vào thế giới hình tướng và sử dụng quyền năng sáng tạo của mình trên một hành tinh nhỏ bé, như trái đất. Con sẽ dần dần nâng khả năng sáng tạo và nhận biết cho tới khi con vĩnh viễn thăng lên khỏi vũ trụ vật chất và trở thành một sinh thể bất tử trên thế giới tâm linh. Từ đó con có thể tăng trưởng thêm nữa và quả thật, sự tăng trưởng này sẽ tiếp diễn mãi mãi.

Khi Thượng đế tạo ra các sinh thể có tự nhận biết, trí tưởng tượng và ý chí tự do thì chuyện có thể xảy ra là các sinh thể này đi ngược lại các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, hoặc vì họ lãng quên hoặc vì họ cố ý không tuân thủ. Nếu họ không thể đi ngược lại quy luật của Thượng đế, thì họ không thực sự có ý chí tự do. Như vậy chuyện có thể xảy ra là một dòng sống có thể tạo ra một điều gì không thẳng hàng với quy luật của Thượng đế và do đó sẽ không chỉ đưa tới sự tiêu hủy của dòng sống đặc trưng đó mà còn có thể đưa tới sự tiêu hủy của nhiều dòng sống khác, tùy theo quyền năng sáng tạo của dòng sống đó. Để tránh chuyện này xảy ra, Thượng đế đã thiết lập vào thiết kế của vũ trụ một cơ chế an toàn khác. Thánh kinh gọi cơ chế an toàn này là Ngôi Lời hay là người con duy nhất được tạo sinh của Cha, nhưng thày lại muốn gọi là tâm thức Ki-tô hoàn vũ.

Cơ chế an toàn này vận hành như sau. Dòng sống của con được thiết kế để là một người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Con không có những quyền năng sáng tạo của đấng Sáng tạo, con có quyền năng sáng tạo giới hạn hơn. Chúng chính yếu có cùng phẩm chất, nhưng không cùng số lượng với quyền năng sáng tạo của đấng Sáng tạo. Điều khác biệt là đấng Sáng tạo là cái Tất cả và do đó ngài sáng tạo từ trong chính mình. Trong khi đó, con là một cá nhân do đó con không là, ít ra thì con chưa là, cái Tất cả. Con sáng tạo từ bên trong tạo vật mà đấng Sáng tạo đã tạo ra. Cơ chế an toàn của Thượng đế quy định là một người đồng-sáng tạo chỉ có thể tạo ra một cái gì bền vững khi người đó sáng tạo xuyên qua trung gian của tâm thức Ki-tô.

Tâm thức Ki-tô là một nhận biết về các quy luật của Thượng đế không bao giờ bị tha hóa. Tâm thức Ki-tô lúc nào cũng là một với Cha và các quy luật của Cha. Khi Giê-su đạt được tâm thức Ki-tô thì thày kêu lên: “Ta và Cha ta là một” (John 10:30). Khi con, như một dòng sống cá biệt, có nhận biết về cái Tất cả và những quy luật của Thượng đế, thì con nhận ra cá nhân mình không phải là người hành động thật, người tạo tác thật. Như Giê-su có nói: “Tự ta không làm được gì” (John 5:30) và “nhưng Cha ở trong ta, ngài làm công việc” (John 14:10). Giê-su biết người làm việc thật, người sáng tạo thật không phải là con người vỏ ngoài, con người vật lý, thậm chí không phải là tâm vỏ ngoài, cái nhân cách được gọi là Giê-su Ki-tô. Người đang thực sự sáng tạo là phần cao hơn của bản thể của Giê-su, một cá thể hóa của Thượng đế được tập trung thành Hiện diện TA LÀ. Hiện diện đó sáng tạo bằng cách sử dụng năng lượng và các quy luật của Thượng đế để tạo ra hình tướng.

Tâm thức Ki-tô luôn luôn biết là tự nó không là quy luật, mà nó là một đồng-sáng tạo cùng với Thượng đế, nó là một thành phần của một cái gì lớn hơn. Thượng đế đã thiết kế một số nguyên lý hướng dẫn sự tăng trưởng của mọi sự trong vũ trụ, và tâm thức Ki-tô biết rằng khi con sáng tạo một cách hài hòa với các nguyên lý đó, thì tạo tác của con sẽ bền vững và sẽ khuếch đại tổng thể. Khi con đánh mất nhận biết về các nguyên lý đó, thì lực co thắt của Đấng Mẹ sẽ khiến tạo vật của con tự tiêu hủy và điều này cũng có tiềm năng tiêu hủy một số phần khác của tổng thể.

Khi con ở trong tâm thức Ki-tô thì con không thể rơi vào trạng thái tâm thức thấp trong đó con tách mình ra khỏi Thượng đế và các quy luật của ngài, con quên mất những quy luật mà Thượng đế đã đặt vào các phần nội tại của con và do đó con coi mình là quy luật. Với tâm thức Ki-tô, con không bao giờ tin vào hiểu biết của thiện ác tương đối qua đó con tự quy định các nguyên lý của riêng mình và nghĩ rằng con sẽ không chịu hậu quả khi con thỏa mãn những ham muốn vị kỷ của mình mà không đếm xỉa đến ảnh hưởng trên tổng thể. Cơ chế an toàn này khiến con không thể mãi mãi quên mình là ai, mình từ đâu tới, và những quy luật mà đấng Sáng tạo đã quy định.  

Trạng thái tâm thức Ki-tô là trạng thái tự nhiên của mọi dòng sống do đấng Sáng tạo tạo ra. Vì Thượng đế đã ban cho con trí tưởng tượng và quyền tự quyết, chuyện có thể xảy ra là con quên mất trạng thái nhận biết tự nhiên này và qua đó con rơi vào tâm thức nhị nguyên, trạng thái tách biệt nơi con không còn biết cội nguồn thật của mình. Con cũng có thể tới điểm tin rằng con là một phàm nhân sinh diệt bị một Thượng đế đầy giận dữ kết tội phải sống một cuộc đời đầy đau đớn khổ đau và con không đủ uy lực nội tại để tự mình cải sửa tình trạng này.

7.6. Thế giới hình tướng cho phép con người đi ngược lại quy luật của Thượng đế

Sau đây là sự khác biệt chính yếu mà Thượng đế đã tạo ra khi ngài quyết định tạo ra các sinh thể có tự nhận biết. Ánh sáng Mẫu-Vật, Ánh sáng Mẹ, là cái mà các khoa học gia gọi là năng lượng. Năng lượng là một rung động và con có thể bắt đầu ở tầng rung động thấp của cõi vật chất và đi dần lên các tầng rung động cao hơn của cõi tâm linh cho tới khi con đạt tới rung động cao nhất của ánh sánh tinh khiết của chính Thượng đế. Ánh sáng đó có độ rung cao đến độ không thể có hình tướng nào hiện hữu. Không có hình tướng nào mà ta có thể phân biệt trong ánh sáng tâm linh thuần khiết. Làm sao hình tướng thành hình? Nó thành hình khi một tâm có tự nhận biết áp chồng một hình ảnh, một khuôn đúc lên ánh sáng thuần khiết và qua đó khiến nó mang vào một độ rung thấp hơn trạng thái nền của nó. Để làm chuyện này, sinh thể có tự nhận biết phải hình dung một hình tướng và sau đó dùng uy lực của tâm để áp chồng hình tướng đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật thuần khiết. Sau đây là cơ cấu an toàn cơ yếu. Chỉ khi dùng tâm thức Ki-tô, chỉ qua trung gian của tâm thức Ki-tô, thì người đồng-sáng tạo mới có thể áp chồng một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật thuần khiết. Chỉ một hình ảnh hài hòa với các quy luật của đấng Sáng tạo mới ảnh hưởng được Ánh sáng Mẫu-Vật.

Điều này bảo đảm là chỉ những người có tâm thức Ki-tô mới có thể tạo tác một cái gì cân bằng và bền vững. Ánh sáng Mẫu-Vật có tự trong nó một cơ chế an toàn khác, đó là nó luôn luôn muốn trở về trạng thái nền của nó. Khi một hình tướng được tạo ra trong sự hài hòa với các quy luật do đấng Sáng tạo quy định thì hình tướng đó thuộc Dòng sông sự Sống, có nghĩa là nó thuộc vào tiến trình tự thăng vượt không ngừng. Một hình tướng chỉ bền vững khi nó tự thăng vượt vì tăng trưởng là quy luật cơ bản của sự sáng tạo. Một hình tướng không hài hòa với các quy luật của Thượng đế, không tự thăng vượt và không có cân bằng giữa lực lan ra và lực co thắt, sẽ dần dần bị phá hủy bởi lực co thắt sẵn có trong Ánh sáng Mẫu-Vật, là lực đem tất cả các tạo vật không quân bằng trở về trạng thái nền. Tất cả các hình tướng được tạo ra dựa trên một hình ảnh khô chết, một hình ảnh không tự thăng vượt, sẽ không thể tránh bị lực co thắt hủy diệt. Chính lực co thắt khiến hình tướng có thể được tạo ra, nhưng nếu con dính mắc vào hình tướng – nếu con bắt đầu tôn thờ hình ảnh khô chết và từ chối tự thăng vượt – thì con bước ra ngoài Dòng sông sự Sống và rơi vào ảnh hưởng của lực co thắt. Con chỉ có thể duy trì tình trạng bất quân bình đó trong một thời gian vì khi một hình tướng rơi vào ảnh hưởng của lực co thắt – khi không được lực lan ra cân bằng – thì nó sẽ không thể tránh bị hủy diệt. Sự tha hóa của lực của Mẹ sẽ dẫn tới tự hủy diệt.

Trong những tầng cao nhất của vũ trụ tâm linh chỉ có những sinh thể có tâm thức Ki-tô hoàn toàn. Họ đã tạo ra những bầu cõi đẹp đẽ đến độ không ai trên trái đất có thể tưởng tượng nổi. Một số người có phước lành được ban thị giác tâm linh hay thần bí, hay đã trải qua kinh nghiệm cận tử, đã được thấy vẻ đẹp và sự toàn hảo của các cõi tâm linh hay ít ra là một số các cõi đó. Những ai chứng kiến được cảnh đó thấy rằng điều hiển nhiên là chỉ một sinh thể với một trạng thái tâm thức cao hơn rất nhiều trạng thái bình thường trên trái đất mới có khả năng tưởng tượng, hình dung những vẻ đẹp và sự toàn hảo như vậy. Con chỉ có thể tồn tại trên thiên đàng, trong cõi tâm linh khi con ở trong tâm thức Ki-tô. Trong thế giới thiên đàng con chỉ thấy những sinh thể ở trong tâm thức Ki-tô. Điều này không có nghĩa là các sinh thể trên thiên đàng không có tự do sáng tạo, vì sự thật là trong khuôn khổ quy luật của Thượng đế con không có giới hạn nào trong việc sử dụng quyền năng sáng tạo của mình.

Một sinh thể trên thiên đàng vẫn có thể chọn lựa đi ngược lại những nguyên lý sáng tạo mà đấng Sáng tạo của thế giới này đã quy định. Nếu sinh thể trên thiên đàng làm như vậy thì sinh thể đó không thể tiếp tục ở trên thiên đàng mà phải xuống một cõi thấp hơn. Đây chính là lý do vì sao cõi vật chất được thành hình. Sau khi Thượng đế và các đại diện của Thượng đế tạo ra một số tầng trên cõi thiên đàng thì đấng Sáng tạo thể hiện một tầng mới của tạo vật của ngài. Tầng này được cấu tạo bởi những năng lượng thấp hơn tất cả các năng lượng trong cõi tâm linh. Các sinh thể đã chọn đi ngược lại các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế có thể cư ngụ nơi tầng đó. Những sinh thể này lúc đó có một nơi để thực thi những quyền năng sáng tạo của họ và nhận lãnh hậu quả của hành động của họ cho tới khi họ chán chê trải nghiệm bị giới hạn và rốt cuộc trở về với Thượng đế và nói: “Ôi đấng Sáng tạo của con, con muốn trở về nhà.”

Vũ trụ vật chất quả thật đã được các đại diện của Thượng đế tạo ra, và họ đã sử dụng tâm thức Ki-tô để hình dung một tạo vật cân bằng và hài hòa. Sau đó họ áp chồng viễn quan đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật qua đó nó mang vào một rung động thấp hơn tất cả các rung động có thể tìm thấy trong cõi tâm linh. Mặc dù vũ trụ vật chất được tạo ra bởi những sinh thể có tâm thức Ki-tô toàn hảo, nhưng vũ trụ vật chất được thiết kế để những sinh thể không hoàn toàn có tâm thức Ki-tô có thể sinh sống nơi đó. Đó là lý do vì sao Ánh sáng Mẫu-Vật được dùng để tạo ra vũ trụ này có thể được uốn nắn dễ dàng thành hình tướng không đứng thẳng hàng với những nguyên lý sáng tạo của Thượng đế. Những hình tướng này sẽ không tự hủy diệt ngay tức khắc như khi trên cõi tâm linh. Chúng có thể tồn tại tạm thời và sẽ chỉ bị tiêu hủy sau một khoảng thời gian.

Đây là một khái niệm rất vi tế mà thày biết nhiều người sẽ coi là trừu tượng. Các con sẽ được lợi lạc khi kéo giãn tâm mình để hiểu nó. Trên cõi tâm linh, trí thông minh nội tại trong Ánh sáng Mẫu-Vật khiến các hình tướng bất toàn và bất quân bình không thể nào tồn tại trong bất cứ khoảng thời gian nào. Bất cứ gì không hài hòa với quy luật Thượng đế sẽ tự hủy diệt ngay tức khắc do lực co thắt của Mẹ. Trong vũ trụ vật chất, lực co thắt của Mẹ đã được điều chỉnh để các hình tướng bất toàn không tự hủy diệt ngay tức khắc, chúng quả thật có thể tồn tại một thời gian. Các khoa học gia đã khám phá ra quy luật này và gọi nó là định luật thứ nhì của nhiệt động học, cho rằng tất cả các hình tướng bất toàn rốt cuộc sẽ tan rã. Vũ trụ cho phép các sinh thể tự nhận biết đã vì vô minh hay cố ý đi xuống những tầng tâm thức thấp có cơ hội học hỏi bằng cách trải nghiệm hậu quả của hành động của họ. Những sinh thể này sẽ không thể tránh tạo ra những thứ không thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế. Khi họ làm vậy thì họ sẽ không tạo ra cuộc sống dồi dào mà con tìm thấy trên cõi tâm linh. Họ sẽ tạo ra tình trạng thiếu thốn và giới hạn. Thượng đế hy vọng là khi các sinh thể này trải nghiệm những giới hạn, đau đớn và khổ đau mà họ đã tạo ra, thì họ sẽ rốt cuộc chán ngán trải nghiệm đó và do đó tự nguyện trở về đứng thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế.

Giờ đây thì chúng ta thấy sự khác biệt. Nếu một sinh thể trên cõi tâm linh quyết định nổi loạn chống lại quy luật của Thượng đế thì tất cả những gì sinh thể đó tạo ra sẽ tự hủy diệt ngay tức khắc. Nếu sinh thể đó không có nơi nào khác để đi tới thì sinh thể đó sẽ tự hủy diệt ngay tức khắc. Sinh thể đó sẽ học được gì từ trải nghiệm đó? Nếu sinh thể đó bị hủy diệt, thì không thể có sự học hỏi. Thượng đế đã thiết lập một vũ trụ trong đó một sinh thể có thể đi ngược lại các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế mà không tự hủy diệt ngay tức khắc. Sinh thể đó có thể tồn tại, tiếp tục có nhận biết. Sinh thể đó có thể hiện hữu trong cõi vật chất, và trong vũ trụ đó sinh thể đó sẽ trải nghiệm quả trái của hành động của mình, sẽ gặt những gì y đã gieo. Khi làm vậy thì sinh thể đó có tiềm năng học hỏi rằng khi y tuân theo các quy luật của Thượng đế thì y sẽ khuếch đại cuộc sống của mình và cuộc sống của tất cả các sinh thể khác. Khi y đi ngược lại những quy luật này, y giới hạn chính cuộc sống của mình và cuộc sống của người khác. Luật Tự quyết được tôn trọng vì sinh thể có tiềm năng đi ngược lại các quy luật của Thượng đế, và qua đó trải nghiệm sự đau đớn, giới hạn và thiếu thốn, cho tới khi y chán ngán trải nghiệm đó và quyết định trở về đứng thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế và tái tạo cuộc sống dồi dào là kế hoạch nguyên thủy của Thượng đế.

Sự khác biệt quan trọng là nếu con muốn tạo cái gì bền vững và nâng cao cuộc sống của mình và cuộc sống của mọi người trên trái đất, thì con phải sáng tạo từ tâm thức Ki-tô. Khi con không sáng tạo từ tâm thức Ki-tô, thì những gì con sáng tạo sẽ giới hạn quyền năng sáng tạo của con và khiến con trải nghiệm giới hạn, thiếu thốn, đau đớn và khổ đau. Đau đớn và khổ đau xảy ra vì những gì con sáng tạo với trạng thái tâm thức thấp sẽ không tự thăng vượt. Chúng sẽ dựa trên một hình ảnh khô chết, là một hình ảnh không tăng trưởng. Nó không thể bền vững – nó sẽ không có sự sống vĩnh viễn – và do đó lực co thắt của Mẹ sẽ bắt đầu phá vỡ các hình tướng mà con đã tạo ra. Mặc dù tiến trình này sẽ mất một chút thời gian, nhưng nó là một tiến trình không thể tránh được và không thể đảo ngược được khi con ở trong trạng thái tâm thức thấp. Con chỉ có thể đảo ngược nó khi con vươn lên tâm thức Ki-tô.

Trên cõi tâm linh, các khái niệm không gian và thời gian không giống như trên trái đất. Khi con ở trên thiên đàng thì con ở trong tâm thức Ki-tô, và trong tâm thức Ki-tô con thấy mình là một với cái Tất cả. Khi con là một với cái Tất cả, thì có thể nói là con ở mọi nơi trong tâm thức của Thượng đế. Nếu con, như một dòng sống cá biệt, có tiềm năng mở rộng nhận biết của mình và ở khắp nơi trong tâm thức của Thượng đế, thì lẽ tất nhiên khái niệm không gian mang một ý nghĩa khác. Trên trái đất con trải nghiệm không gian như một giới hạn. Ý niệm tự nhận biết của con tập trung vào thân thể vật lý của con, hiện đang sống trên hành tinh gọi là trái đất, một hành tinh giống như một giọt nước trong đại dương vô tận. Khi con còn đồng hóa mình với thân thể thì ý niệm bản sắc của con bị giới hạn bởi không gian. Nó chỉ hiện hữu “ở đây”, nó tập trung vào thân thể đang ở trên hành tinh, và do đó con không thể ở mọi nơi cùng một lúc. Đây quả thật là một giới hạn trong tâm con thay vì là một giới hạn thật và không thể tránh. Thân thể vật lý của con không thể ở khắp nơi trong vũ trụ vật lý, nhưng tâm con không bị giới hạn bởi thân vật lý.

Khi con ở trong cõi tâm linh, con là một phần của Dòng sông sự Sống đang di động không ngừng và là toàn thể tạo vật của Thượng đế, là Bản thể của Thượng đế. Khi con di động cùng với Dòng sông sự Sống thì thời gian không có cùng nghĩa với thời gian trên trái đất. Trên trái đất, thời gian là một giới hạn khiến con trụ vào giây phút hiện tại. Thời gian đặt giới hạn cho cuộc sống của con vì thân thể vật lý dày đặc của con bị giới hạn trong khoảng thời gian mà nó có thể tiếp tục hiện hữu. Như Giê-su đã cố gắng cho nhân loại thấy, cái chết thậm chí là một ảo tưởng mà ta có thể khắc phục qua tâm thức Ki-tô.   

Ta có thể nói là những tọa độ của thời gian và không gian tối hậu không có thật. Chúng là sản phẩm của sự kiện vũ trụ vật chất cho phép các sinh thể tự nhận biết sáng tạo những gì không thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế. Con càng tách mình ra khỏi sự thẳng hàng là Một với Thượng đế và thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế, thì con càng giới hạn mình, con càng giới hạn nhận biết của mình vào một địa điểm trong không gian. Con càng tách mình khỏi sự nhận biết mà các dòng sống đã có trước khi có sự Sa ngã và con càng xa rời Dòng sông sự Sống thì con càng giới hạn mình vào một lúc trong thời gian và ý niệm bản sắc của con càng tập trung vào thân thể vật lý và cuộc đời quá ư ngắn ngủi. Cuộc sống của thân thể vật lý ngắn đến độ chỉ cần dùng lý thường tình cũng thấy là không thể nào Thượng đế lại có thể thiết kế để con chỉ sống 70 năm và sau đó ngưng hiện hữu như một sinh thể có tự nhận biết.

7.7. Con lúc nào cũng có thể trở về với Thượng đế

Thày cố ý khởi đầu với một số khái niệm rất khó và trừu tượng vì chỉ khi con thiết lập một nền móng thì con mới thực sự có thể giải thoát mình khỏi tâm thức nhị nguyên đang ngăn cản con có được cuộc sống dồi dào. Để thoát được tâm thức nhị nguyên đó, con cần có tầm nhìn rộng hơn mà trên trái đất này giáo hội Cơ đốc giáo chính thống hay khoa học duy vật không cung cấp. Để thiết lập một nền móng thích đáng cho phép con theo con đường mà thày cống hiến thì thày phải cho con tầm nhìn rộng hơn. Thày phải mang con ra khỏi khu rừng để con có thể thấy quá các thân cây và thấy toàn khu rừng – và do đó hiểu được là thế giới của con đã được tạo ra với mục đích gì. Con hiểu được là dòng sống của con, tâm thức của con, ý niệm bản sắc của con, không chỉ giới hạn vào thế giới vật chất với những giới hạn, đau đớn và khổ đau. Con có một chọn lựa khác. Con có cơ hội vượt lên trên những giới hạn của tâm thức hiện tại, ý niệm bản sắc hiện tại của con. Con có thể vươn lên cao hơn và xây dựng một ý niệm bản sắc mới thẳng hàng với thiết kế thật của bản thể con.

Con yêu dấu, con cảm được sự thiết tha của thày chăng? Điều thày muốn truyền giảng cho con là nhân loại có một hiểu biết rất giới hạn về nguồn gốc của mình, một hiểu biết không bao gồm thực tại của con người mà con là. Khoa học và đa số các tôn giáo hiện nay đều không cho con một hiểu biết thực con là ai, con từ đâu tới và tại sao con ở đây. Nếu con không biết con là ai thì làm sao con có thể hiểu được mục đích con tới trái đất là gì? Nếu con không biết mục đích này, thì làm sao con có thể hy vọng đứng thẳng hàng trở lại với những ước muốn nguyên thủy đã khiến con tới vũ trụ này?

Thày đã cho con biết về Luật Tự quyết. Trái với hình ảnh một Thượng đế giận dữ và muốn trừng phạt mà một số tôn giáo đã mô tả, Thượng đế không giận dữ và không bao giờ trừng phạt ai. Đấng Sáng tạo có tình thương vô điều kiện đối với từng người con trai con gái của ngài, và tình thương vô điều kiện này có thể thấy rất rõ trong Luật Tự quyết cho phép con đi ngược lại các nguyên lý sáng tạo nguyên thủy, thiết kế nguyên thủy mà đấng Sáng tạo có trong tâm ngài khi ngài tạo tác thế giới hình tướng, khi ngài tạo tác con. Chỉ một Thượng đế thương yêu vô điều kiện mới cho phép con đi ngược lại những quy luật của ngài qua đó con chối bỏ cuộc sống dồi dào và tạo ra trạng thái đau đớn và khổ đau thấp hơn rất nhiều những gì đấng Sáng tạo đã hình dung cho con.

Nếu Thượng đế quả thật là một bạo chúa giận dữ thì ngài đã ngăn cản không cho con làm như vậy. Nếu Thượng đế quả thật là một Thượng đế trừng phạt thì ngài đã trừng phạt con bằng cách tiêu hủy con ngay giây phút con bước ra ngoài các quy luật của ngài. Thượng đế của con là một Thượng đế thương yêu. Tình thương nguyên thủy của Thượng đế cho con, được giữ trong tim Thượng đế, không bị giảm thiểu chút nào bởi sự kiện con tạm thời chọn lựa quay lưng lại Thượng đế, chối bỏ cuộc sống dồi dào và thay vào đó tạo cho mình trạng thái giới hạn và khổ đau. Thượng đế thương yêu con y như lúc dòng sống của con được sinh tạo lúc ban đầu. Tình thương của Thượng đế vô điều kiện, và bất kể những gì con đã làm trên trái đất, con sẽ không bao giờ mất đi tình thương đó.

Vì con có quyền tự quyết, con có thể chối bỏ tình thương của Thượng đế. Vì con có trí tưởng tượng vô biên, con có thể tạo ra một hình ảnh giả về Thượng đế mô tả ngài như một Thượng đế giận dữ và trừng phạt, và con có thể chấp nhận hình ảnh này là sự thực tuyệt đối về Thượng đế. Con có thể chấp nhận là con không xứng đáng được nhận tình thương của Thượng đế và con bị kết án phải sống mãi mãi trong trạng thái giới hạn và khổ đau hiện tại, trạng thái tách biệt khỏi tình thương và sự dồi dào của Thượng đế. Đây là quyền của con, nhưng ngay khi con quyết định là con không muốn nắm giữ ý niệm bản sắc giới hạn đó nữa, không muốn chối bỏ sự dồi dào của Thượng đế nữa, thì Thượng đế sẵn sàng đưa con trở lại vương quốc của ngài và cho con cuộc sống dồi dào mà lúc nào con cũng được quyền có. Con chỉ cần theo những nguyên lý sáng tạo của ngài để thể hiện sự dồi dào đó vào trải nghiệm sống của con.

Thượng đế đã cho con quyền tự quyết. Thượng đế đã cho con quyền đi ngược lại các quy luật của ngài nếu con muốn. Thượng đế thậm chí thiết kế cả một vũ trụ để con có thể đi ngược lại các quy luật của ngài mà vẫn giữ được nhận thức và ý niệm cá thể, qua đó con có thể trải nghiệm hậu quả của hành động của mình, trải nghiệm thực tại giới hạn mà con đã tạo ra cho mình. Mặc dù Thượng đế cho phép chuyện này, nhưng Thượng đế lúc nào cũng giữ niềm hy vọng là – một ngày kia – con sẽ quyết định ngưng trốn chạy sự dồi dào của ngài. Con sẽ ngưng giới hạn chính mình. Con sẽ ngưng chối bỏ tiềm năng sáng tạo của mình, tiềm năng thiêng liêng trở thành một Thượng đế thực sự, một người đồng-sáng tạo thực của Thượng đế. Thượng đế hy vọng là con sẽ trở về nhà và trở thành một người đồng-sáng tạo có ý thức của Thượng đế để con biết mình là ai, con từ đâu tới. Con thực thi những quyền năng sáng tạo của mình một cách có ý thức với mục đích không chỉ thỏa mãn những ham muốn vị kỷ của mình mà còn khuếch đại toàn thể tạo vật của Thượng đế qua đó con là một phần của Dòng sông sự Sống, là cái gì thực sự quá diệu vợi đến độ nó vượt quá tầm hiểu biết của đa số con người trên trái đất.

Con yêu dấu, thày ở đây như là một đại diện của Thượng đế Cha. Trong quá khứ thày đã chọn xuống trái đất và khoác vào một thân thể vật lý dày đặc. Thày đã chọn thăng thiên trở lại vào cõi tâm linh để chứng minh là con người có thể nâng mình lên trên các giới hạn nhân phàm, kể cả kẻ thù cuối cùng gọi là cái chết. Vì thày đã chọn hòa nhập với tâm thức của Mẹ Thượng đế, nên thày tới đây như là bà Mẹ thương yêu không có ước mong gì hơn là thấy các con của mình được hưởng những điều tốt lành nhất. Đó là lý do vì sao thày đã tới đây để cống hiến con một con đường chân chính, thật và lâu bền vĩnh viễn có thể dẫn con trở về vương quốc của Cha, là vương quốc, như Giê-su đã nói, ở bên trong con và chính là tâm thức của con. Quả thực tâm thức chính là nơi con quyết định là con sẽ trải nghiệm cuộc sống dồi dào của vương quốc Thượng đế hay con sẽ trải nghiệm cuộc sống không mấy dồi dào tạo ra bởi những người đã đánh mất nhận biết về vương quốc Thượng đế, đánh mất nhận biết về bản sắc thật và quyền năng sáng tạo của họ. Thay vì là những người đồng-sáng tạo có ý thức của vương quốc dồi dào của Thượng đế, thì họ đã trở nên những người đồng-sáng tạo vô ý thức của vương quốc thiếu thốn.

Thượng đế đã cho con quyền năng sáng tạo vô biên, theo nghĩa là con không thể khóa nó lại. Ngay cả khi con đánh mất nhận biết về các quy luật của Thượng đế, thì con vẫn tiếp tục đồng-sáng tạo và đó là lý do vì sao luật pháp tại đa số các quốc gia có câu: “Không thể viện cớ không biết luật”. Ngay cả khi con không biết các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, con vẫn sáng tạo qua quyền năng của tâm. Khi con dùng trí tưởng tượng để hình dung những hình ảnh bất toàn và bất quân bình, thì con áp chồng những hình ảnh này lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật trải bày những hình ảnh này, và đó là lý do vì sao con trải nghiệm giới hạn, đau đớn và khổ đau trong thế giới vật lý trên trái đất.

Thày đã cho con hình ảnh tổng quát về thực tại đời sống trên trái đất. Thể nào cũng có nhiều chi tiết cần được bổ sung. Nếu con chịu chiêm nghiệm điều thày giảng ở đây và ở trong những chìa khóa kế tiếp, thì con sẽ thấy vươn lên trên tất cả các giới hạn nhân phàm là điều khả thi. Điều khả thi là con bước ra ngoài sa mạc của giới hạn nhân phàm cho tới khi con đứng bên bờ Dòng sông sự Sống, là dòng dồi dào luôn luôn tuôn chảy của Thượng đế. Điều khả thi là con buông bỏ, từ bỏ hoàn toàn trạng thái tâm thức giới hạn dựa trên tách biệt và nhị nguyên. Con một lần nữa lại có thể trầm mình vào Dòng sông sự Sống và trở thành một với toàn thể tạo vật của Thượng đế.

Khi đó không có nghĩa là con mất đi cá tính của mình. Ngược lại, con lấy lại cá tính thật của mình – thay vì cá tính giả có giới hạn mà con đã tạo dựng trong hành trình trên trái đất. Một khi con giành lại cá tính thật của mình thì con biết con không phải là một người phàm, giới hạn, sinh diệt, là một người mà bản chất là tội đồ. Trái lại con thực sự là một con trai hay con gái của Thượng đế và con có tiềm năng đồng-sáng tạo vương quốc của Thượng đế ngay đây trên trái đất. Con không những sẽ khuếch đại cuộc sống của riêng mình mà còn khuếch đại cuộc sống của tất cả mọi người cho tới khi hành tinh này được nâng lên và trải bày cùng một sự toàn hảo, cân bằng và hài hòa mà ta tìm thấy trên cõi tâm linh. Đây là ý nghĩa thật của câu đem lại vương quốc của Thượng đế trên trái đất.

Nếu con mở tâm đón nhận những lời giảng của thày, thì có sác xuất rất cao con đã xuống trái đất với mục đích đặc trưng đem lại vương quốc của Thượng đế trên hành tinh này. Con tới đây không phải vì con đã nổi loạn chống lại ý chí của Thượng đế trong một cõi khác, nhưng con tới đây vì con mong muốn đem lại vương quốc của Thượng đế trên trái đất. Con tới đây với một sứ mệnh cứu vãn, để là một tấm gương cho những anh chị em của con đã nổi loạn chống lại quy luật của Thượng đế và do đó đi lạc đường. Con tới đây với lòng thương yêu muốn thấy Ánh sáng Mẫu-Vật được giải thoát khỏi những hình ảnh bất toàn mà sa nhân đã áp chồng lên nó, để Ánh sáng Mẫu-vật được tự do trải bày sự toàn hảo và vẻ đẹp mà con biết là tiềm năng thật của nó.

Con yêu dấu, nếu con vì lòng thương yêu mà tới đây thì con sẽ biết sự thực mà thày nói tới. Nếu con tới đây vì những lý do khác, nhưng đã chán ngán đi ngược lại quy luật của Thượng đế và đã kết nối lại với tình thương Thượng đế trong lòng mình, thì con cũng sẽ biết sự thực mà thày nói tới. Con sẽ biết điều này nếu con chú tâm vào tim mình và cảm thấy một sự khuấy động, một rung động, thậm chí những làn sóng ánh sáng tràn vào con và chứng minh cho con là những lời thày nói trong khóa học này, những lời nói bên ngoài con, đang rung động hoàn toàn cộng hưởng với điều gì đó trong tim con.

Trong các bài kế tiếp, thày sẽ giảng cái đó là cái gì nhưng bây giờ thì thày yêu cầu con chú tâm vào điểm giữa ngực, cùng độ cao với trái tim vật lý của con, và cảm nhận là những lời thày giảng đã khuấy động điều gì đó nơi con. Nếu con cảm thấy sự khuấy động này, thì con biết là con đã trên đường trở về sự toàn vẹn của người đồng-sáng tạo có ý thức mà con đã được thiết kế để là ngay từ thuở ban đầu. Con sẽ biết con đường mà thày cống hiến là thật. Khi chúng ta đi tiếp vào những chương kế tiếp thì con sẽ thấy con đường đó trải bày ra. Điều này sẽ cho con một niềm hy vọng mới, một hướng đi mới, một mục đích mới, và cảm nhận lòng thương yêu đấng Sáng tạo, tất cả sự sống và cái Ta của con như một thành phần của Dòng sông sự Sống.

5 | Tích cực nhận sự dồi dào

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 6/4/2005.

5.1. Vương quốc Thượng đế ở bên trong con

Thày ý thức là những gì thày nói con trong những chìa khóa đầu này vượt xa những gì trường Giáo lý ngày chủ nhật dạy con. Nó vượt xa những gì bất kỳ tôn giáo chính thống nào trên hành tinh này dạy con. Thày cũng ý thức là những ai mở tâm ra với khóa học này đã bắt đầu nhận ra, sâu trong tim họ, là có gì nhiều hơn trong cuộc sống so với những điều họ được dạy trong trường hay trường Giáo lý ngày chủ nhật. Họ đã sẵn sàng nhìn quá các hộp tư duy truyền thống để tìm ra giải đáp cho những câu hỏi của họ về cuộc sống. Tuy thế, chúng ta cần giải quyết một sự kiện đơn giản là nhiều tôn giáo trên thế giới đề xướng hình ảnh một Thượng đế ở bên ngoài con, như một sinh thể xa xôi tít trên trời cao. Đáng tiếc nữa là một số tôn giáo, đặc biệt ở phương Tây, miêu tả Thượng đế như một sinh thể giận dữ và phán xét.

Một số thẩm quyền tôn giáo tự đặt mình trong vị thế cho mình quyền phê phán bất cứ ai không tuân theo những gì họ tin tưởng là giáo lý thật duy nhất về Thượng đế. Nhiều người trong số những người này nhanh chóng phán xét người khác và nói rằng những ai nói lên ý kiến không đúng theo cách diễn giải Thánh kinh của họ thì những người đó phỉ báng Thượng đế hay là đại diện của phản Ki-tô. Thậm chí họ cũng nói thế về những vị thày tâm linh chân chính của nhân loại, chính là những Sinh thể đã cống hiến cuộc đời của họ để giải phóng nhân loại khỏi xiềng xích của mọi hình tượng khô chết. Cốt lõi của bất cứ hình thức phỉ báng Thượng đế là chối bỏ Thượng đế. Hình ảnh Thượng đế được nhiều tôn giáo đề xướng dựa trên một sự chối bỏ Thượng đế rất tinh vi. Bất kỳ tôn giáo nào đề xướng một hình ảnh Thượng đế ở bên ngoài và tuyên bố rằng đây là tất cả những gì con người cần biết về Thượng đế, hoặc đây là hình ảnh thật duy nhất về Thượng đế thì họ thực sự đang đề xướng một triết lý bắt nguồn từ sự chối bỏ Thượng đế. Thật là đáng tiếc vô cùng khi nhiều giáo hội Cơ đốc quả thực đề cao hình ảnh một Thượng đế bên ngoài này, một Thượng đế giận dữ ngự trên trời.

Nếu người Cơ đốc chịu đọc Thánh kinh kỹ hơn với tâm cởi mở và con tim, thì họ sẽ thấy chính Giê-su đã nói về một Thượng đế không ở bên ngoài. Giê-su nói về một Thượng đế mà cá nhân con có thể biết đến và thày gọi Thượng đế đó là “Cha”. Giê-su cũng trích câu trong Cựu ước Kinh: “Các ngươi là Thượng đế” (John 10:34) và thày tuyên bố là mọi người không nên đi tìm vương quốc Thượng đế bên ngoài họ bởi vì vương quốc Thượng đế ở bên trong họ (Luke 17:21). Nếu con thêm vào đó sự kiện Phúc âm John tuyên bố rõ ràng là muôn vật được Thượng đế làm nên, chẳng vật chi được làm nên mà không bởi ngài (John 1:3), thì con thấy là có một cách hiểu rộng hơn về Thượng đế đang chờ con đằng sau hình ảnh một Thượng đế bên ngoài ở trên trời.

Chỉ những ai sẵn sàng buông bỏ hình ảnh thần tượng một vị Thượng đế bên ngoài mới có thể biết được Thượng đế thực. Thượng đế này không thể biết được qua giác quan bên ngoài hay qua trí năng nhân phàm. Thượng đế này chỉ biết được qua nội giác của trực giác cũng là tâm ngây thơ, chính là chìa khóa của mọi trải nghiệm tâm linh hay thần bí. Qua trải nghiệm này, con có thể biết thực tại của Thượng đế, con có thể biết Hiện diện của Thượng đế ngay bên trong con, như Giê-su đã hứa rõ ràng. Chân lý mà Giê-su giảng là: con là con cái của Thượng đế, con là con trai hay con gái của Thượng đế, con là một phần của Thượng đế đã được cá thể hóa. Chân lý này đã bị che mờ bởi học thuyết chính thống. Con được sinh tạo theo hình ảnh của Thượng đế và giống ngài và chìa khóa để tìm ra bản sắc thật của con là đi vào nội tâm và nối kết với cái ta cao của con, cái ta tâm linh của con hay cái mà chúng tôi gọi là “Hiện diện TA LÀ.” Thày thích tên này vì chính Hiện diện này cho con tự nhận biết cho phép con biết “con là”.

Trước khi con có thể tới điểm chấp nhận hoàn toàn con là ai và tại sao con ở đây trên trái đất, con cần buông bỏ hình ảnh một Thượng đế bên ngoài. một Thượng đế là đấng Sáng tạo Toàn năng đã sinh tạo trời và đất và Thượng đế đó là một Sinh thể có tự nhận biết. Hình ảnh mô tả Thượng đế như một Sinh thể có một hình tướng đặc thù, ngự trên một thế giới cao nào đó là một hình tượng khô chết giới hạn thực tại của đấng Sáng tạo của con. Đấng Sáng tạo của con không thể bị giam hãm trong một sinh thể đặc thù ngự trên cõi cao đó và lý do thật giản dị. Như Phúc âm John viết: “Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài.” (John 1:3), có nghĩa là đấng Sáng tạo sinh tạo mọi vật từ chính chất liệu và Bản thể của ngài. Đấng Sáng tạo ở trong mọi vật mà ngài đã sinh tạo. Để con có thể hoàn tất vai trò đúng đắn của con như người đồng-sáng tạo, con cần khắc phục tâm thức tách biệt chối bỏ Thượng đế nơi con đang là – và sự chối bỏ này thực là tâm thức phản Ki-tô, là nguồn gốc của mọi sự phỉ báng Thượng đế.

5.2. Tâm thức tách biệt đã khiến con người bất nhân với nhau

Trong nhiều ngàn năm con người đã bị lập trình để tôn thờ một Thượng đế hiện hữu đâu đó trên trời nhưng không tìm thấy được trên trái đất. Họ được nuôi dạy với cái nhìn nhị nguyên về Thượng đế nói rằng họ ở đây và Thượng đế ở đâu đó chỗ nào khác. Con bị tách khỏi Thượng đế bởi một rào cản không thể xuyên thủng và cách duy nhất con được cứu rỗi và trở về vương quốc Thượng đế là tuân theo những mệnh lệnh của một tôn giáo vỏ ngoài sẽ cứu rỗi con và đưa con về nhà.

Mục tiêu chính của Giê-su là phá tan hình ảnh Thượng đế bên ngoài này. Thày đến để giúp con người ngưng thờ phượng một thần tượng và khắc phục ảo tưởng tách biệt khỏi Thượng đế khiến họ nghĩ họ cần điều gì đó hay ai đó bên ngoài giúp họ kết nối lại với Thượng đế của họ và được cứu rỗi. Con nghĩ xem khi Giê-su nói vương quốc Thượng đế ở trong con thì ý nghĩa thật của câu này là gì? Câu này có nghĩa là con không cần một giáo hội bên ngoài để đạt tới vương quốc Thượng đế. Con không cần một giới giáo sĩ thượng tôn quyền lực tuyên bố con chỉ có thể được cứu rỗi bằng cách tuân thủ tất cả mọi mệnh lệnh của họ. Họ chính là những thày tế lễ đã chống đối mọi điều Giê-su làm và họ chính là những thày tế lễ, những nhà truyền giáo giả đã giết con trai thày và người anh tâm linh của con.

Trong mọi thời đại đều có một nhóm nhỏ thượng tôn quyền lực hoàn toàn tin chắc họ biết chân lý tuyệt đối về Thượng đế. Điều mà họ coi là chân lý tuyệt đối thật ra là một ảo tưởng về Thượng đế bên ngoài, một Thượng đế tách biệt khỏi tạo vật của ngài. Đây quả thực là vấn đề chính yếu mà con thấy trên hành tinh trái đất. Đây là khởi nguồn của khổ ải, đau đớn và hạn chế. Mọi hạn chế mà con người biết được bắt đầu với tư duy cho rằng con có thể phân chia tạo vật của Thượng đế ra thành nhiều bầu cõi tách biệt nhau và trong bầu cõi này, vũ trụ vật chất, không tìm thấy Thượng đế.

Chính tin tưởng này thực sự là cội rễ của mọi xấu ác vì nó cho phép những sinh thể tự nhận biết đã được thiết kế như người đồng-sáng tạo với Thượng đế bỏ qua bên bản sắc thật của họ và bắt đầu nghĩ họ có thể làm bất cứ gì họ muốn trong vũ trụ này mà không phải chịu hậu quả. Chính tâm thức tách biệt, tách biệt khỏi cái Tất cả của tạo vật Thượng đế và do đó tách biệt khỏi người khác đã đưa tới tình trạng con người bất nhân với con người. Chính tâm thức này đã cho phép con người dùng khả năng sáng tạo của họ, khả năng mà Thượng đế đã phú cho họ, để tạo ra một thế giới quan hoàn toàn dựa trên một ảo tưởng. Nhân loại như một tập thể đã dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết mà Thượng đế ban cho họ để sáng tạo ảo tưởng cho rằng thế giới vật chất dày đặc đến độ không thể tìm thấy Thượng đế nơi này. Nó cho phép một số người tin rằng quy luật của Thượng đế không áp dụng trong thế giới này và họ có thể tách mình ra khỏi luật lệ của Thượng đế và sáng tạo luật của chính họ – chính họ đã trở thành luật lệ của họ. Họ nghĩ họ đã sáng tạo chính thực tại của họ trong đó họ có thể quy định luật lệ sao cho có lợi cho họ, để họ có thể làm bất cứ gì họ muốn mà không phải chịu hậu quả, không gặt hái cái họ đã gieo.

Toàn bộ tư duy này che mờ thực tại của Thượng đế trong tầm nhìn của con người. Sự thực là Thượng đế không thể bị khinh dễ (Galatians 6:7) và quy luật của ngài không bị ảnh hưởng bởi niềm tin của người phàm. Trước đây không lâu Giáo hội Công giáo đề xướng niềm tin là trái đất là trung tâm vũ trụ và mọi vì sao trên trời xoay quanh trái đất. Như ngày nay con biết, đây không phải là sự thật và khi xưa nó cũng chẳng phải là sự thật khi mọi người đều tin như thế. Trái đất không bằng phẳng khi mọi người đều tin nó bằng phẳng. Lý do là niềm tin của con người không biến điều mình tin thành sự thật khi niềm tin đó mâu thuẫn với thực tại của Thượng đế. Một niềm tin có thể che mờ tạm thời thực tại của Thượng đế trong tâm những ai tôn thờ niềm tin đó như một sự thật, những người tôn thờ một hình tượng khô chết.

Sự thực là khi Thượng đế sáng tạo vũ trụ vật chất và sinh tạo những phần nối dài có tự nhận biết của chính ngài, là những sinh thể có tự nhận biết có trí tưởng tượng và quyền tự quyết, thì Thượng đế rõ biết là với trí tưởng tượng và quyền tự quyết vô hạn, con có thể dùng những khả năng này để gây tổn hại cho con và những thành phần khác của tạo vật của Thượng đế. Nhiều người hiện nay bị mắc kẹt trong một trạng thái tâm thức quá tập trung vào bản thân mình, vào cái mà họ coi là bản sắc của mình, đến độ họ thực sự không thể quan tâm đến bất kỳ phần nào khác của sự sống. Họ không chịu xét xem hành động của họ ảnh hưởng ra sao trên người khác. Khi con xem những tin tức xảy ra hôm nay thì con dễ tìm ra những ví dụ hành động ích kỷ tột độ, những người hành động như thể người khác không ra gì hay họ có thể làm bất cứ điều gì mà không phải chịu hậu quả vì họ có tiền bạc hay quyền lực. Khi Thượng đế tạo ra con, ngài không tạo ra chỉ mình con, ngài không tạo ra cả vũ trụ này để phục vụ lạc thú của riêng con. Thượng đế đã tạo ra rất nhiều sinh thể có tự nhận biết và tất cả đều được tạo ra từ chính Bản thể và chất liệu của Thượng đế. Tất cả đều thuộc vào điều mà trên thiên đàng các thày gọi là Thân thể Thượng đế.

“Thân thể Thượng đế” là một khái niệm con nên ghi nhớ vì con rõ biết là dù ngón chân út của con chỉ là một phần tương đối không đáng kể trong thân thể con, nếu ngón chân út đó bị thương, thì nó sẽ ảnh hưởng cảm giác thoải mái chung của con. Một cái đau nhói trong ngón chân út có thể khiến toàn thân con cảm thấy rất khó chịu và do đó khi con làm tổn thương người khác, điều đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng trải nghiệm sống của con. Khi Thượng đế sáng tạo vũ trụ này, ngài không sáng tạo nó cho riêng con. Ngài sáng tạo nó để tất cả con trai và con gái của ngài đều có cơ hội đồng đều học cách dùng khả năng sáng tạo của mình. Khi làm vậy, Thượng đế biết ngài phải xây dựng một cơ chế an toàn ngay trong thiết kế của vũ trụ. Nếu có vài con trai và con gái của ngài quên họ là một phần của Thân thể Thượng đế và bắt đầu hành xử như thể chỉ có họ là quan trọng thì số ít người này sẽ không thể tiêu diệt tất cả các anh chị em của họ hay tiêu hủy toàn bộ vũ trụ.

Nếu một xã hội không có luật lệ buộc mọi người phải chịu trách nhiệm về hành động của họ, thì xã hội đó sẽ suy đồi vì rơi vào tình trạng vô luật pháp và hỗn loạn. Những người hung hãn nhất, tàn nhẫn nhất và những người không coi trọng người khác sẽ được lợi thế quá đáng so với người lương thiện và yêu thương. Con cần tự hỏi thật nghiêm túc rằng con có tin Thượng đế đã thiết kế toàn bộ vũ trụ để người không yêu thương, bất lương và ích kỷ được lợi thế hay ngài đã thiết kế vũ trụ với một cơ chế an toàn trong đó để bảo đảm những người đã trở nên ích kỷ không thể phá hủy toàn thể vũ trụ và không thể tiêu diệt hay kiểm soát anh chị em của họ.

5.3. Ánh sáng Mẹ có khuynh hướng trở về trạng thái nền

Bây giờ con hãy cho thày giải thích một trong những cơ chế an toàn mà Thượng đế đã xây dựng bên trong thiết kế cơ bản của vũ trụ nơi con sống. Đấng Sáng tạo đã tạo ra vũ trụ của con là một lực lan ra, một Sinh thể lan tỏa. Chúng ta có thể gọi đây là khía cạnh Cha của Thượng đế. Nó là động lực trở nên hơn nữa, động lực tự vượt thăng vì nếu không có nó không vật gì được tạo ra từ cái Tất cả của Thượng đế – không hình tướng nào sẽ khởi lên từ Thượng đế vô hình tướng và tự đầy đủ. Đấng Sáng tạo của con, Thượng đế của con, là một ngọn lửa thiêu đốt tất cả những gì khác ngài trong một chu kỳ tự thăng vượt mãi mãi mở rộng. Lực lan ra không thể sáng tạo một hình tướng bền vững ngay cả trong một giây. Nếu vũ trụ chỉ có lực lan ra thì không gì bền vững được, mọi sự sẽ bùng nổ mà chẳng có hình tướng nào cả. Các nhà khoa học hiện nay ủng hộ thuyết Vụ nổ Lớn cho rằng vũ trụ bắt đầu với một vụ nổ vĩ đại. Nếu quả thực chỉ có lực lan ra của Cha thì vũ trụ sẽ là một vụ nổ liên tục mà không có hình tướng nào bền vững vì nó sẽ bị nổ tung ngay tức khắc bởi lực lan ra. Để sáng tạo ra hình tướng bền vững, Thượng đế phải sáng tạo một lực quân bằng lực lan ra của Cha. Lực này là lực co lại của Mẹ và chính lực này được hiện thực khi Thượng đế nói: “Ánh sáng hãy có mặt.” Ánh sáng là chất có thể nhào nắn thành hình tướng và một khi nó được nặn thành một hình tướng đặc thù, nó sẽ giữ hình tướng này trong một thời gian.

Ánh sáng là biểu hiện của lực co lại của Mẹ, và toàn bộ vũ trụ nơi con sống được sáng tạo qua tương tác hòa hợp và quân bằng giữa hai lực cơ bản này. Lực lan ra của Cha bổ túc lực co lại của Mẹ, lực lan ra của Cha tác động lên chất ánh sáng của Mẹ và khuấy động nó khỏi trạng thái nền để thành một hình tướng đặc thù. Khi chỉ có lực lan ra của Cha tác động lên Ánh sáng Mẹ, thì hình tướng do Cha trực tiếp sáng tạo được bền vững vô thời hạn. Khi Thượng đế sáng tạo những nối dài có tự nhận biết của ngài, ngài rõ biết những sinh thể này thiếu kinh nghiệm khi họ dùng uy lực sáng tạo của họ. Chuyện có thể xảy ra là họ dùng trí tưởng tượng để hình dung những hình tướng không ích lợi cho chính họ hay cho tổng thể. Ngài cũng biết là tuy có những người sáng tạo những hình tướng không toàn hảo mà không ý thức họ đang làm gì, nhưng cũng sẽ có những kẻ khác lạm dụng quyền tự quyết của họ để cố ý chống lại thiết kế của Thượng đế cho vũ trụ này. Thượng đế biết các con trai và con gái của ngài cần trải qua một giai đoạn học hỏi để mở rộng hiểu biết họ là ai và thế giới này vận hành thế nào. Sau khi học xong, họ có thể dùng khả năng sáng tạo để nhân tổng thể lên thay vì tiêu diệt tổng thể và chính họ.

Một lần nữa, Thượng đế muốn toàn bộ vũ trụ không phục vụ chỉ một cá nhân mà phục vụ toàn bộ Thân thể Thượng đế. Thượng đế phải bảo đảm một cá nhân không thể lạm dụng uy lực sáng tạo của y đến độ tiêu hủy vũ trụ hay một phần của nó, và do đó phá hủy môi trường tăng triển của các con trai và con gái khác của Thượng đế. Để đạt điều này, Thượng đế phú cho Ánh sáng Mẹ sự thông minh. Khuynh hướng tự nhiên của Ánh sáng Mẹ là luôn luôn ở trong trạng thái nền, là trạng thái không biểu hiện hình tướng nào. Ánh sáng Mẹ không thể tự thân sáng tạo. Nó cần lực của một sinh thể tự nhận biết tác động lên nó bằng cách điều khiển lực lan ra của Cha. Lúc đó Ánh sáng Mẹ khoác vào hình tướng nằm trong tâm sinh thể tự nhận biết, người đồng-sáng tạo. Đây là cơ chế an toàn bảo đảm không một cá nhân đồng- sáng tạo nào có thể lạm dụng khả năng sáng tạo của y đến độ tiêu hủy toàn bộ tạo vật của Thượng đế.

5.4. Quy luật cơ bản của cuộc sống là liên tục tự thăng vượt

Kế tiếp thày sẽ giảng cho con một nguyên lý vi tế mà trí năng con người sẽ cảm thấy khó lãnh hội. Nếu con nghĩ bằng trái tim và dùng trực giác, thì con sẽ hiểu được điều thày sẽ giảng bây giờ. Thày đã nói với con là Ánh sáng Mẹ có một lực sẵn có khiến nó duy trì được trạng thái nền trong đó ánh sáng hiện hữu nhưng không mang một hình tướng phân biệt; nó trong trạng thái không phân biệt. Cần gì để khiến Ánh sáng Mẹ mang một hình tướng? Cần một tâm có ý thức và có khả năng sáng tạo của Thượng đế, tức là trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Tâm ý thức này phải có khả năng tưởng tượng một hình tướng cho dù hình tướng đó chưa từng được biểu hiện. Tâm này phải có uy lực của ý chí để áp đặt hình tướng này lên Ánh Sáng Mẹ và qua đó khuấy động ánh sáng ra khỏi trạng thái nền của nó. Lúc đó Ánh Sáng Mẹ sẽ sinh ra một hình tướng biểu hiện, khác với trạng thái nền của nó.

Lúc ban đầu, chỉ Thượng đế Sáng tạo mới có uy lực sáng tạo này. Thượng đế dùng uy lực sáng tạo của ngài để hình dung một vũ trụ, một thế giới hình tướng sẽ trở thành môi trường tăng triển cho các con trai và con gái của ngài. Để sáng tạo bất cứ gì có hình tướng, Thượng đế phải chọn lựa. Thượng đế có thể tưởng tượng nhiều loại vũ trụ nhưng khi muốn biểu hiện một vũ trụ đặc thù, Thượng đế phải chọn thiết kế vũ trụ này như thế nào. Các nhà khoa học tiếp tục khám phá những khía cạnh mới của bản chất tinh tế của những lực giữ vũ trụ lại với nhau, và điều này cho con thấy Thượng đế đã lấy một số chọn lựa khi ngài thiết kế vũ trụ này. Nếu các lực này chỉ bị xáo trộn một chút thôi, toàn bộ vũ trụ có thể sụp đổ ngay tức khắc. Đấng Sáng tạo của con đã tạo ra vũ trụ này với tình thương vô điều kiện cho con và với mong muốn trong sáng tạo tác thế giới này như môi trường tốt nhất giúp con tăng triển. Thày biết là cuộc sống trên trái đất có thể rất khó khăn và đau đớn và nhiều người đã lớn lên với một nỗi giận Thượng đế, hoặc che giấu hoặc công nhận. Họ được dạy dỗ là Thượng đế ở bên ngoài họ, là vị Thượng đế giận dữ ở trên trời đã áp đặt một cách không công bằng ý chí của ngài trên họ và khiến họ đau khổ. Một số người đau khổ nhiều đến độ họ tới điểm giận Thượng đế đã khiến họ hiện hữu.

Thượng đế đã không tạo ra bất cứ bất toàn nào mà con thấy trên trái đất và chúng không thuộc vào thiết kế nguyên thủy của Thượng đế cho vũ trụ này. Lúc ban đầu, Thượng đế đã hình dung một vũ trụ trong đó tất cả con trai và con gái của ngài luôn luôn được dồi dào, sự dồi dào mà họ có thể gia tăng bằng uy lực sáng tạo của họ. Thượng đế không hề hình dung, cho dù chỉ một thoáng, điều kiện hiện hành trên trái đất. Nỗi khổ và nỗi đau mà con thấy toàn khắp hành tinh này giản dị vượt quá tưởng tượng của Thượng đế. Ngài không bao giờ mường tượng những điều kiện như thế sẽ hiện hữu trong thế giới của ngài bởi vì, như Kinh thánh nói, mắt ngài không thể nhìn vào điều tội lỗi bất công (Habakkuk 1:13). Tuy vậy ngài cũng biết khi cho các người đồng sáng tạo trí tưởng tượng và quyền tự quyết, họ quả thực có thể sáng tạo những điều kiện không thuận theo viễn quan của ngài.

Thày muốn con quán tưởng trong tim con chính thực tế là Thượng đế chỉ có những ý định tốt nhất và yêu thương nhất trong thiết kế của vũ trụ này. Ngài không thiết kế vũ trụ để nó đem lại khổ đau cho con, Ngài không thiết kế vũ trụ để khiến con cảm thấy mình là một tội đồ khốn khổ, ngài không thiết kế vũ trụ để con nghĩ con là một phàm nhân sinh diệt, sẽ đi xuống địa ngục trừ khi con tuân theo mệnh lệnh của một giáo hội vỏ ngoài hay một vị thần bên ngoài. Thượng đế đã thiết kế vũ trụ để phục vụ như môi trường tốt nhất cho sự mở rộng các khả năng sáng tạo của con, để con có thể tự thăng vượt và trở thành một sinh thể tự do như Thượng đế, có nhận biết đầy đủ con là ai và hành động của con ảnh hưởng thế nào tới tổng thể trong đó con là một thành phần. Con không tách biệt khỏi tổng thể đó, con là tổng thể nhưng là một biểu hiện đặc biệt của nó.

Khi Thượng đế thiết kế vũ trụ này, ngài lấy một số chọn lựa. Các chọn lựa này quy định những lực căn bản giữ vũ trụ này lại với nhau. Đằng sau những chọn lựa này là một số nguyên lý sáng tạo, và nguyên lý cơ bản nhất còn không do đấng Sáng tạo quy định. Nó là nguyên lý có sẵn trong chính sự sáng tạo bởi vì mọi tạo vật, mọi hình tướng biểu hiện phát xuất từ động lực muốn hơn nữa. Nguyên lý hoàn vũ của mọi sáng tạo là sáng tạo không bao giờ ngừng, nó là một tiến trình cứ tiếp diễn mãi mãi. Quy luật cơ bản của sáng tạo, quy luật cơ bản của cuộc sống là con không thể đứng yên, hình tướng không bao giờ có thể trường tồn và mọi sinh thể tự nhận biết phải liên tục tự thăng vượt và trở nên hơn nữa bằng cách mở rộng nhận biết về quyền năng sáng tạo của mình, về bản sắc thật của mình và mình là một với toàn thể tạo vật của Thượng đế.

Đây là động lực đằng sau mọi sáng tạo, không có nó thì không gì được sáng tạo. Cho dù con đã được phú cho trí tưởng tượng và quyền tự quyết vô hạn, con không thể dùng các khả năng sáng tạo này để tạo ra một ý niệm bản sắc đặc thù và mãi mãi ở trong ý niệm bản sắc đó. Thượng đế đã cho con quyền tự quyết nên Thượng đế cho con quyền sáng tạo ý niệm bản sắc là người tội đồ khốn khổ, sống trên một hành tinh đầy khổ đau và con sẽ xuống địa ngục trừ khi con tin vào những mệnh lệnh của một giáo hội vỏ ngoài do những tội đồ khốn khổ khác dựng lên. Năng lực của sự sống đòi hỏi con không thể ở lại trong ý niệm bản sắc giới hạn này mãi mãi. Nếu con cố gắng ôm chặt ý niệm bản sắc giới hạn này, thì lúc đó lực co lại của Mẹ sẽ vận hành như một cơ chế an toàn để phá vỡ tạo vật hạn chế mất quân bằng của con, như nó đã phá hủy Tháp Babel (Genesis 11:4). Điều này sẽ xảy ra vì khi con sáng tạo một ý niệm bản sắc giới hạn, lực co lại sẽ ngay lập tức bắt đầu phân hủy bản sắc này và ngay cả những hình tướng vật lý phát xuất từ ý niệm bản sắc này. Sau một thời gian, lực co lại của Mẹ sẽ nhất định thắng và ý niệm bản sắc của con sẽ bị thách thức. Lúc ấy con sẽ bị ép phải đối diện chọn lựa được mô tả trong Thánh kinh: “Ngày hôm nay, con hãy chọn con muốn phục vụ ai” (Joshua 24:15). Câu hỏi là: “Con sẽ chọn phục vụ sự sống, có nghĩa là tăng triển, hay con chọn phục vụ sự chết, nghĩa là đứng yên rốt cuộc sẽ dẫn con tới tự hủy diệt?” Chọn lựa cơ bản của con là tự thăng vượt hay tự hủy diệt. Đó là lý do tại sao Moses nói: “Hãy chọn sự sống” (Deuteronomy 30:19). Con hãy chọn tăng triển và mở rộng ý niệm bản sắc giới hạn của con.

5.5. Sáng tạo thuận theo quy luật Thượng đế sẽ đem lại sự dồi dào bền vững

Thày biết các giáo lý này có vẻ trừu tượng nên thày muốn tìm cách trình bày thiết thực hơn bằng cách so sánh với một kinh nghiệm trong đời sống hàng ngày của con. Con biết rõ là khi các kỹ sư thiết kế chiếc xe của con thì họ sử dụng một số quy luật thiên nhiên, một số nguyên tắc thiết kế. Để thiết kế một chiếc xe có khả năng làm những gì con muốn nó làm, thì họ phải tuân theo một số quy luật. Hậu quả là nếu con muốn chiếc xe tiếp tục hoạt động bình thường, thì con phải tuân theo một số thủ tục bảo trì. Xe con chạy được vì bộ máy được làm bằng một số bộ phận kim loại có thể chịu áp suất cao do khí xăng nổ trong xi lanh tạo ra. Các bộ phận kim loại này sẽ hao mòn và đóng bẩn nếu chúng không được bảo vệ bởi một màng dầu. Với thời gian dầu sẽ hao mòn và đóng bẩn cho nên con phải thay dầu đều đặn. Nếu con mua một chiếc xe mới và không bao giờ thay dầu thì một ngày kia máy xe sẽ giản dị ngừng chạy. Con không thể đổ lỗi cho các kỹ sư thiết kế xe vì họ giản dị thiết kế xe theo quy luật thiên nhiên. Hậu quả không tránh được là con phải thay dầu để bảo đảm máy xe chạy tốt. Con thay dầu xe đều đặn mà không cảm thấy việc này hạn chế quyền tự do cơ bản dùng xe của con.

Các nguyên tắc cơ bản mà đấng Sáng tạo của con dùng không hạn chế tự do sáng tạo và quyền năng sáng tạo của con. Chiếc xe của con được thiết kế để cho con tự do di chuyển tối đa và con có thể đi bất cứ nơi đâu con muốn. Khi con tuân theo một số nguyên tắc bảo trì giản dị, thì chiếc xe của con sẽ tiếp tục lâu dài cho con tự do này. Nếu con cố ý hay vô tình quên đi các nguyên tắc này, xe con sẽ không chạy và con sẽ mất tự do di chuyển mà xe cống hiến. Giống vậy, vũ trụ nơi con sống vận hành theo một số nguyên lý. Khi con tuân thủ những nguyên lý này, khi con sử dụng quyền năng đồng-sáng tạo của con trong phạm vi các thông số mà Thượng đế đã dùng để thiết kế vũ trụ, thì con có thể tiếp tục đồng-sáng tạo thêm sự dồi dào cho con. Nếu con đi ngược lại những nguyên tắc mà đấng Sáng tạo đã dùng để thiết kế vũ trụ, thì con sẽ dần dần tạo vấn đề cho mình, con sẽ tạo hậu quả hạn chế quyền năng sáng tạo của mình.

Đây đích thực là lời giải thích cho các loại khổ đau và hạn chế mà con thấy đầy rẫy trên trái đất. Khổ đau này không phải là sự trả thù của một Thượng đế giận dữ trên trời. Nó là hậu quả tự nhiên của việc hầu hết con người trên trái đất đã lạm dụng quyền năng sáng tạo của họ. Họ đã dùng trí tưởng tượng của họ để xây dựng một hình ảnh giả nói rằng trái đất này là một thế giới hạn chế không thể cung cấp đủ dồi dào cho tất cả mọi người. Họ đã dùng ý chí của họ để chấp nhận hình ảnh này như một chân lý khả dĩ duy nhất. Họ chấp nhận là giới hạn, đau đớn và khổ đau thực sự không thể tránh và họ không thể làm gì để khắc phục chúng.

Nếu con thực sự muốn có cuộc sống dồi dào, con cần áp dụng phương cách đúng để được dồi dào. Con không thể thụ động và nói con là nạn nhân, một nạn nhân bất lực trước những lực vượt quá tầm kiểm soát của mình. Con không thể áp dụng phương pháp chờ Thượng đế ở trên trời ban cho con dồi dào hay tin rằng dồi dào tùy thuộc những người khác trong thế giới này. Con cần nhận ra rằng nếu con muốn dồi dào, con cần biểu hiện nó bằng cách sử dụng quyền năng sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con. Cốt lõi của quyền năng này là trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con. Con cần khiến con người mình, hiểu biết và chọn lựa của mình thẳng hàng với những nguyên lý cơ bản mà Thượng đế đã dùng để sáng tạo ra vũ trụ này. Khi con biết những nguyên tắc này, con có thể dùng trí tưởng tượng của con trong phạm vi các thông số quy luật của Thượng đế. Khi làm thế, con đem lại dồi dào cho cuộc sống của con một cách bền vững, và thậm chí có thể gia tốc mãi mãi.

Đấng Cha rất hoan hỷ ban vương quốc cho các con và ngài đã thiết kế vũ trụ này để tất cả con trai và con gái của ngài được đời sống dồi dào. Nghĩa là họ không bị hạn chế bởi một lượng dồi dào nào đó mà dồi dào tăng trưởng liên tục. Khi mỗi người tăng trưởng dồi dào cá nhân của mình, dồi dào của tổng thể cũng tăng trưởng. Khi mỗi người liên tục tăng trưởng dồi dào của mình, không có mâu thuẫn hay xung đột giữa cá nhân và tổng thể.

5.6. Con có dồi dào khi đứng thẳng hàng với Hiện diện TA LÀ

Thiết kế cốt yếu của vũ trụ của Thượng đế đã tạo ra một tình trạng sống rất đặc biệt. Mọi sinh thể mà Thượng đế tạo tác được tạo ra từ Hiện diện của đấng Sáng tạo. Họ đều là các nối dài của Thượng đế, các cá thể hóa của Thượng đế, con trai và con gái của Thượng đế. Những người con thấy trên trái đất đều là nối dài của cùng một Thượng đế và do đó tất cả đều là một phần của tổng thể của Thượng đế, tức là Thân thể Thượng đế. Trong thiết kế ban đầu của Thượng đế và viễn quan của ngài về vũ trụ này, tất cả con trai và con gái của ngài đều biết trong nội tâm họ những nguyên lý sáng tạo mà Thượng đế đã dùng để thiết kế vũ trụ này. Thánh kinh giảng điều này khi nói là Thượng đế đã đặt luật lệ của ngài trong nội tạng của con (Jeremiah 31:33). Thượng đế đã ghi mã các nguyên lý sáng tạo vào chính bản chất của bản thể con, bản chất của cái ta tâm linh của con. Khi con tiếp xúc với Hiện diện TA LÀ của con, thì con biết qua bản năng và trực giác cách biểu hiện trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con một cách thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế. Khi đó, hành động của con không những lợi lạc cho con mà cũng lợi lạc cho những thành phần khác của cuộc sống. Khi con khuếch đại sự dồi dào của cá nhân con, con khuếch đại sự dồi dào của tổng thể.

Con sống trong vũ trụ này nhưng con không sống một mình, con không phải là người duy nhất trên trái đất này. Điều con thấy trên trái đất ngày nay là những xung đột mãnh liệt giữa cá nhân và giữa các nhóm người. Đây không phải là viễn quan và thiết kế nguyên thủy của Thượng đế. Trong viễn quan của Thượng đế không có xung đột giữa cá nhân hay giữa các nhóm người vì không có tách biệt giữa cá nhân và tổng thể. Trạng thái thơ ngây này, trạng thái hồng ân này, trạng thái thiên đường này chỉ có thể duy trì khi những cá nhân sử dụng quyền năng sáng tạo của họ trong khuôn khổ những nguyên lý mà đấng Sáng tạo đã quy định. Khi đủ số lượng tới hạn con người trên trái đất dùng khả năng sáng tạo của mình thuận theo quy luật của Thượng đế, thì nhiều dồi dào hơn sẽ được đem tới thế giới này và do đó nhân loại sẽ càng ngày càng tăng trưởng sự dồi dào của họ. Khi làm vậy thì không có xung đột giữa cá nhân và tổng thể vì mọi người luôn luôn nhận nhiều dồi dào hơn và không có cảm nhận thiếu thốn. Khi không còn cảm nhận chỉ có một số lượng của cải hữu hạn, thì không còn nhu cầu lấy từ người khác. Tại sao phải lấy từ người khác khi con nhận trực tiếp từ Thượng đế mà không cần điều kiện nào?

Như một thử nghiệm suy nghĩ con hãy xem mình là chủ nhân cây đèn thần được nói đến trong rất nhiều truyện thần thoại. Con hãy xem mình không cần bất cứ gì từ bên ngoài để biểu hiện bất cứ gì mình muốn. Con chỉ giản dị chà vào cây đèn và khi ông thần nhảy ra từ cái bình, con cho ông biết ý muốn của mình và ông biểu hiện nó ngay tức khắc cho con. Nếu con đã có cây đèn thần, thì có bao giờ con nghĩ tới chuyện dùng sức mạnh, lừa dối hay phương tiện khác để lấy từ người khác chăng? Nếu con biết ông thần sẽ cho con bất cứ gì con muốn mà chỉ cần hỏi, thì tại sao con phải chịu nguy hiểm hay khổ nhọc lấy từ người khác chứ? Tại sao con phải tìm cách bám giữ và tích trữ những gì con có? Lẽ tất nhiên con sẽ không bao giờ làm thế; con chỉ đơn giản sử dụng cây đèn thần của con để được điều con mong muốn. Bây giờ con tưởng tượng tất cả hàng xóm của con ai cũng có cây đèn thần của riêng họ. Sẽ có xung đột nào trong cộng đồng chăng? Có ai cần bóc lột người khác chăng? Có ai cần ăn trộm của người khác chăng? Lẽ tất nhiên là không! Mọi người sẽ chỉ đơn giản chà cây đèn của mình và biểu hiện điều họ mong muốn.

Con quả thực có một cây đèn thần, nhưng ông thần trong chiếc bình không phải là một thực thể bên ngoài. Ông thần trong chiếc bình chính là cái ta tâm linh của con, Hiện diện TA LÀ của con. Qua cái ta cao này, đấng Cha, đấng Sáng tạo của con sẽ biểu hiện ý muốn cho con vương quốc của ngài. Hiện diện TA LÀ của con là kho chứa các quy luật của Thượng đế, nó là nơi Thượng đế ký thác luật lệ của ngài trong nội tạng của con. Khi con, nghĩa là cái ta ý thức của con khiến những mong muốn, trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con thẳng hàng với Hiện diện TA LÀ của con (Hiện diện không phải là một thực thể bên ngoài nhưng là con người thật của con), sự dồi dào của Thượng đế sẽ được biểu hiện trong cuộc sống của con xuyên qua Hiện diện TA LÀ của con. Con sẽ không cần lấy từ người khác hay từ Mẹ Thiên nhiên, con sẽ không cần dùng sức mạnh để có thể có dồi dào của Thượng đế. Nó sẽ xảy ra nhẹ nhàng và từ bên trong.

Qua những điều trên thày không muốn nói là con không có nhu cầu tương tác với người khác. Thực tình ý muốn của Thượng đế là con người hợp tác với nhau để sáng tạo sự dồi dào. Khi mọi người làm việc với nhau, quyền năng sáng tạo của họ nhân lên lẫn nhau và khi làm việc hợp nhất họ hoàn thành nhiều hơn là khi mỗi người làm việc đơn độc. Thày không vẽ ra hình ảnh một xã hội trong đó mỗi người là một cá nhân cô lập sáng tạo chính sự dồi dào của mình mà không tương tác với người khác. Thày vẽ hình ảnh một xã hội trong đó mọi người đều thẳng hàng với các nguyên tắc sáng tạo mà Thượng đế dùng. Họ có thể góp chung uy lực sáng tạo của họ để đem lại dồi dào nhiều chưa từng thấy trên trái đất, dồi dào nhiều hơn những gì mà hầu hết mọi người trong trạng thái tâm thức hiện nay có thể tưởng tượng được.

Sự dồi dào này là tiềm năng thật của trái đất. Thượng đế không có đặt giới hạn nào vào thiết kế cơ bản của hành tinh này. Giới hạn duy nhất là những giới hạn nằm trong tâm những người đồng-sáng tạo với Thượng đế, là những sinh thể tự nhận biết mà Thượng đế cho phép ngự trị trái đất. Thượng đế đã cho con quyền đồng-sáng tạo hành tinh này theo ý con. Thượng đế đã cho con quyền sáng tạo trạng thái giới hạn và đau khổ, bóc lột, xung đột và chiến tranh hiện nay. Nếu quả thực đây là kinh nghiệm con người muốn có thì Thượng đế cho phép họ sáng tạo trải nghiệm này, ít nhất trong một thời gian. Thiết kế cơ bản của vũ trụ quy định con không thể duy trì vô thời hạn một trạng thái giới hạn. Khi con sáng tạo trạng thái giới hạn này, con kích hoạt lực co lại của Mẹ và lực này sẽ dần dần phân hủy các giới hạn mà con đã tạo ra. Trên thực tế, đây là một cơ chế an toàn để con, một sinh thể tâm linh vô hạn với tiềm năng vô hạn, không thể mãi mãi bị mắc kẹt trong một trạng thái hạn chế.

5.7. Tác dụng của lực lan ra và lực co lại

Khi con sáng tạo điều gì thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, thì tạo vật của con được bền vững. Cái gì thẳng hàng với quy luật của Thượng đế không có sẵn trong nó những lực mâu thuẫn phân hủy nó. Khi con sáng tạo điều gì ngoài quy luật của Thượng đế, con sẽ có những mâu thuẫn có sẵn bên trong, con sẽ có những lực đối chọi đưa tới xung đột. Khi một số người lạm dụng uy lực sáng tạo của họ để đi ngược lại quy luật của Thượng đế, con sẽ thấy xung đột bộc phát trong xã hội. Bỗng nhiên con thấy những nhóm người họp nhau thành phe phái và họ quy định những bản sắc đối chọi nhau. Đó là lý do tại sao con thấy tình trạng đáng buồn của hai nhóm người có thể giết nhau nhân danh cùng một Thượng đế.

Các nhà khoa học của con đã khám phá nguyên lý này và gọi nó là quy luật thứ nhì của nhiệt động học, nói rằng trong một hệ thống đóng kín sự hỗn loạn (entrôpi) sẽ gia tăng. Entrôpi nghĩa là vô trật tự và các nhà khoa học khám phá rằng trong thiên nhiên có một lực sẽ đưa mọi cấu trúc, mọi hình tướng có tổ chức trở về trạng thái năng lượng thấp nhất mà nó có thể có. Có nghĩa là mọi cấu trúc bị phân hủy thành trống không, thành hạt hạ nguyên tử. Đây là khám phá khoa học về nguyên lý cơ bản có sẵn trong Ánh sáng Mẹ, như thày đã nói trong phần trước, chính là Ánh sáng Mẹ có một lực nội tại tìm cách đem mọi hình tướng trở về trạng thái nền của nó. Các nhà khoa học của con không hiểu trọn vẹn quy luật này vì họ vẫn còn tập trung quá mức vào khía cạnh vật chất của đời sống. Rất đúng là Ánh sáng Mẹ sẽ tìm cách đưa mọi hình tướng trở về trạng thái nền của nó, nhưng lực co lại của Mẹ không làm việc một mình. Khi lực lan ra của Cha đứng vào đúng cương vị của nó như người gia trưởng theo nghĩa tâm linh thì tạo vật sẽ không bị phân hủy bởi lực co lại của Mẹ. Một hình tướng đặc thù có thể hiện hữu vô hạn định, điều này không có nghĩa là vĩnh viễn.

Nếu con sáng tạo điều gì đó không thẳng hàng với quy luật của Thượng đế, thì hình tướng mà con sáng tạo sẽ dần dần bị phân hủy bởi lực co lại của Mẹ. Nếu vật con sáng tạo hoàn toàn hài hòa với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, hình tướng của con sẽ không bị phân hủy; nó sẽ bền vững và sẽ hiện hữu vô tận trong thời gian. Thày không nói nó sẽ hiện hữu vĩnh viễn vì lực lan ra của Cha quy định là mọi hình tướng phải tự vượt thăng và trở nên hơn nữa.

Có sự khác biệt lớn lao giữa sáng tạo một hình tướng bất quân bình sẽ bị phân hủy thành trống không và sáng tạo một hình tướng quân bình sẽ khuếch trương và trở nên hơn nữa. Khi con sáng tạo hình tướng không toàn hảo, thì con đang tham gia một trận chiến khó như leo dốc núi và đây là điều dẫn tới cảm nhận thiếu thốn, vật vã và khổ đau. Con lúc nào cũng như cảm thấy mình bị chậm trễ, cảm thấy mình không bao giờ có đủ và tất cả các lực trong thế gian này hè nhau lấy đi những sở hữu của con. Ngược lại, khi con hòa hợp với Thượng đế, con sẽ không bao giờ mất cái con có, con sẽ dùng nó làm nền tảng để xây đắp thêm dồi dào.

Đây là nguyên lý mà Giê-su minh họa trong ngụ ngôn về tiền ta lăng (Matthew 25:14). Khi Thượng đế thiết kế hành tinh trái đất, ngài xây dựng nền móng. Xây dựng tòa lâu đài tùy thuộc vào con người, như trong chuyện ngụ ngôn vai trò người đầy tớ là nhân lên các tiền ta lăng mà ông chủ phó thác. Tiền ta lăng mà Thượng đế ban cho con người là uy lực sáng tạo, trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Nếu con chôn những tiền ta lăng này xuống dưới đất bằng cách đi ngược lại nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, lực co lại sẽ rốt cuộc phân hủy ngay cả nền móng mà Thượng đế đã xây dựng. Một hành tinh có thể trở nên khô cằn đến độ không thể nuôi dưỡng sự sống. Loài người, qua ô nhiễm hay chiến tranh nguyên tử có thể tiêu diệt toàn sự sống trên hành tinh này và biến nó thành một hành tinh xác xơ. Khi con người nhân tiền ta lăng của mình lên, thì họ sẽ duy trì nền móng do Thượng đế xây dựng. Họ có thể xây dựng thêm trên đó và đem lại dồi dào nhiều hơn những gì Thượng đế đã xây dựng. Đây là ý muốn thực của Thượng đế.

Thượng đế không muốn con chôn vùi tiền ta lăng của con xuống dưới đất; ngài muốn con dùng các tiền ta lăng này để khuếch trương cuộc sống của con và do đó khuếch trương cuộc sống của tất cả mọi người trên hành tinh này, sau cùng dẫn tới khuếch trương đấng Sáng tạo của con. Suy cho cùng, đấng Sáng tạo của con đã gài một phần của chính ngài trong con cho nên khi con khuếch trương phần này, con khuếch trương tất cả, con khuếch trương đấng Sáng tạo. Khi con trở nên hơn nữa, Thượng đế trở nên hơn nữa xuyên qua con và đây là động lực đằng sau mọi sáng tạo.

Có sự khác biệt giữa cái thẳng hàng với nguyên lý sáng tạo của Thượng đế và cái không thẳng hàng với các nguyên lý này. Luật của Thượng đế nói rằng không gì có thể y như cũ. Mọi sự đều phải đi theo một trong hai hướng sau:

  • Nó phải gia tốc nghĩa là nó tự thăng vượt xuyên qua lực lan ra, hoặc
  • Nó phải chậm lại nghĩa là nó tự tiêu hủy xuyên qua lực co lại

Thày hy vọng là giờ đây con đã thấy ra nhu cầu đặt mình thẳng hàng với nguyên lý tăng triển không ngừng để con có thể sử dụng uy lực sáng tạo của con trong khuôn khổ an toàn của các quy luật Thượng đế. Thày hy vọng con có thể thấy lợi điểm của sáng tạo cái gì bền vững có thể tiếp tục tăng triển và cho con thêm dồi dào và cũng đem thêm dồi dào đến tất cả mọi người khác trên hành tinh này. Nếu con thấy tầm quan trọng của điều này và con sẵn sàng hòa hợp với Thượng đế thì chương kế tiếp sẽ chỉ cho con làm sao bắt đầu tiến trình này, hành trình trở về trái tim của đấng Sáng tạo của con, hành trình trở về hợp nhất với nguồn cội của con.

1 | Vì sao con chưa được dồi dào rồi

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 4/4/2005.

Chúng ta hãy bắt đầu bằng kiểm điểm lại thực tại. Chúng ta hãy xem xét câu nói: “Đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc”. Dù con có thể đã nghe câu nói này nhiều lần, nhưng con đã bỏ ra thì giờ để suy ngẫm xem câu này thực sự nghĩa gì chăng? Thật sự chỉ có một ý nghĩa duy nhất. Đó là Đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc, và như vậy chỉ có thể có nghĩa là Thượng đế thực sự muốn con được vương quốc của Ngài. Thượng đế thực sự muốn con được cuộc sống dồi dào. Ngài hoan hỷ cho con sự dồi dào đó.

Nếu con nhìn cuộc đời mình và thấy là con chưa được sự dồi dào, thì con phải lý luận là có cái gì đó đã không xảy ra suôn sẻ. Có cái gì đó đang ngăn trở con có cuộc sống dồi dào mà Thượng đế muốn con có. Vậy bây giờ chúng ta hãy cùng nhau lý luận xem cái gì đã có thể ngăn trở con có cuộc sống dồi dào – nếu quả thật ước muốn và ý chí của Thượng đế là con có được sự dồi dào đó. Chuyện trục trặc gì đã xảy ra? Cái gì đã ngăn trở con có được điều mà Thượng đế muốn con có? Cái gì đã ngăn trở ý chí của Thượng đế thể hiện trên trái đất này?

1.1. Vì sao con người không có cuộc sống dồi dào vô ưu

Chúng ta hãy xem xét tình trạng trái đất. Thiên nhiên trên hành tinh này có rất nhiều vẻ đẹp tuyệt vời. Các khoa học gia mỗi ngày lại khám phá thêm là thế giới này được thiết kế thật công phu, phức tạp và kỳ diệu. Có rất nhiều hệ thống phức tạp chằng chéo lẫn nhau trên trái đất đến độ ngay cả các khoa học gia duy vật nhất không thể tránh thỉnh thoảng cảm thấy kinh ngạc và nể sợ trước vẻ đẹp, sự tinh xảo và cân xứng mà họ khám phá trong thiên nhiên. Nếu con là một người có ý hướng tâm linh, thì con sẽ đồng ý với thày khi thày nói là sự tinh xảo này tất nhiên phải do một tâm thức thiết kế, mà tâm thức này có khả năng, trí tưởng tượng và suy luận rất cao. Điều con thấy trong thiên nhiên là Thượng đế quả thực đã thiết kế một tạo vật rất đẹp và kỳ diệu, trong đó có nhiều sự dồi dào.

Nhưng khi con nhìn vào lãnh vực con người thì con thấy một hình ảnh khác. Tuy thân thể con người là tạo vật phức tạp nhất trong tất cả các tạo vật của Thượng đế, con người dường như không tìm được cách sử dụng thân thể mà không tiêu hủy chính mình, tiêu hủy người khác và tiêu hủy thiên nhiên. Trong khi trong thiên nhiên con thường thấy sự dồi dào và cân bằng, thì trong xã hội loài người con không thể thấy sự dồi dào và cân bằng đó. Con hãy nghĩ tới lời của Giê-su khi thày nói là con có giá trị cao hơn chim sẻ (Matthew 10:31). Nếu Thượng đế có khả năng chu toàn và nuôi sống loài chim, thì Thượng đế chắc hẳn phải có khả năng cho con mọi sự con cần. Nhiều người trên trái đất nhìn loài chim một cách thèm thuồng, vì chim được tự do bay đến những nơi chúng thích và chúng lúc nào cũng có vẻ tìm được lương thực như đợi chúng tới lấy. Nhiều người thì trái lại bị kẹt trong một số cảnh ngộ và không thể cục cựa. Họ phải vật lộn suốt cuộc đời để kiếm sống và nuôi chính họ và con cái. Nhiều người mơ ước có được cuộc sống vô ưu của loài chim và nghĩ rằng cuộc đời của họ trái lại là một chuỗi dài vật lộn.

Khi con nhìn vẻ đẹp và sự dồi dào mà Thượng đế đã xây dựng trong thiên nhiên, có hợp lý chăng là Thượng đế không có khả năng thiết kế một hành tinh có thể nuôi dưỡng con người với cùng sự dồi dào và vô ưu mà con thấy nơi loài chim? Có lý do nào khiến Thượng đế không thể thiết kế một hành tinh có thể cung cấp cho con đời sống tự do và vô ưu mà con có thể thấy nơi nhiều sinh vật có trí thông minh thấp hơn con người rất nhiều, và như Giê-su đã nói, có giá trị thấp hơn con người rất nhiều?

Khi con dùng lý luận để suy nghĩ một cách lô gic về vấn đề này thì con chỉ có thể có một số ít chọn lựa. Con không thể chối cãi thực tại là con người không có đời sống dồi dào. Khi con suy ngẫm quan niệm Thượng đế hoan hỷ cho con vương quốc, thì con phải kết luận là nếu Thượng đế muốn con người được cuộc sống dồi dào, thì nhất định có cái gì đó không suôn sẻ về phía Thượng đế hoặc về phía con.

Một lối suy luận là cho rằng dường như Thượng đế có khả năng tạo tác một hành tinh kỳ diệu và tinh xảo có thể cung cấp nếp sống dồi dào và vô ưu cho loài chim và các sinh thể không thông minh bằng con người, nhưng vì lý do nào đó Thượng đế lại không kiến tạo được một hành tinh có thể cho loài người cùng sự dồi dào và tự do khỏi ưu phiền, thiếu thốn và đau khổ đó. Con có thể suy luận là khả năng thiết kế của Thượng đế không biết vì sao bị sơ sót, và trong lãnh vực con người, Ngài đã lầm lẫn. Quả thật là đã có nhiều người suy luận như vậy. Một số là tín đồ các tôn giáo, và vì họ được dạy dỗ là họ sẽ xuống đia ngục nếu họ phỉ báng Thượng đế, nên họ mau chóng xua các ý nghĩ này qua một bên. Một số khác chịu nhìn nhận là họ có những ý nghĩ này, và thậm chí một số đã dùng đó như một lý do để chối bỏ tất cả mọi tôn giáo hay khái niệm có Thượng đế.

Nếu con có khuynh hướng nghĩ như vậy thì thày chỉ xin con làm một chuyện. Hôm nào có một đêm trời không mây nơi chỗ con ở, con hãy bước ra ngoài và nhìn lên bầu trời đêm. Con hãy nhìn lên giải Ngân hà và suy ngẫm xem trong đó có bao nhiêu vì sao. Con không cần tham khảo một sách khoa học cho con biết là các nhà khoa học đã ước tính có bao nhiêu tỷ vì sao có mặt trong đó. Con chỉ cần nhìn với mắt mình và thấy là có nhiều vì sao hơn những gì con có thể đếm. Sau đó, con hãy tự hỏi: “Nếu Thượng đế có khả năng tạo tác một vũ trụ bao la và phức tạp đến như vậy thì có lý chăng là trên hành tinh nhỏ bé mà chúng ta gọi là địa cầu này, Thượng đế đã không cung cấp được cuộc sống dồi dào và vô ưu cho sinh vật cao nhất trên hành tinh này?”

Con tim yêu dấu của thày, nếu con chiêm nghiệm điều này thì thày nghĩ con sẽ nhận ra chân lý tuyệt đối là Thượng đế hoàn toàn có khả năng thiết kế hành tinh địa cầu để tất cả mọi người trên hành tinh được vui hưởng một cuộc sống dồi dào và vô ưu như loài chim. Sự kiện đa số con người không có được nếp sống đó không vì một vấn đề đến từ phía Thượng đế. Như vậy chỉ còn lại một kết luận hợp lý duy nhất. Tình trạng thiếu thốn và nghèo đói trên trái đất bắt buộc phải do một vấn đề đến từ phía con. Một chuyện gì đó xảy ra trên trái đất đã ngăn chặn ý muốn của Thượng đế được thể hiện nơi đây. Một chuyện gì đó đã xảy ra khiến thiết kế nguyên thủy của Thượng đế bị thay đổi, dẫn tới sự kiện sinh vật cao nhất và phức tạp nhất thường khi có nếp sống không dồi dào bằng nhiều sinh vật khác có trình độ thông mình thấp hơn rất nhiều.

1.2. Con người có khả năng thay đổi môi trường

Con có thể thấy có lý do khiến con muốn chất vấn hình ảnh về Thượng đế mà xã hội đã cho con từ thuở thơ ấu. Con có thể tự hỏi những câu hỏi sau đây:

  • Nếu Thượng đế quả thật toàn năng và không thể lầm lẫn như nhiều tôn giáo mô tả, và nếu quả thật Thượng đế muốn con người được cuộc sống dồi dào, vậy có thể nào ước muốn của Thượng đế lại không được thể hiện trên trái đất?
  • Điều gì có thể ngăn cản ước muốn của một Thượng đế toàn năng không được thể hiện?
  • Nếu Thượng đế hoan hỷ cho con người vương quốc, vậy tại sao con người lại không có được vương quốc đó?

Giờ đây thì con tới một kết luận thuận lý khác. Hoặc có gì trục trặc từ phía Thượng đế hoặc có gì trục trặc từ phía con. Hoặc Thượng đế sai lầm hoặc hình ảnh mà nhiều người trên trái đất có về Thượng đế sai lầm. Một lần nữa, nếu Thượng đế có khả năng tạo tác một vũ trụ bao la và tinh xảo như vậy, thì có thể nào chăng là Ngài không thông minh? Kết luận hợp lý là phải có gì trục trặc với hình ảnh mà một số tôn giáo trên trái đất đã vẽ lên về Thượng đế. Kết luận này dẫn chúng ta tới một lãnh vực thảo luận hữu ích vì chúng ta có thể bắt đầu xem xét cái gì thiếu thốn nơi hình ảnh về Thượng đế mà con đã chấp nhận.

Chúng ta đã thấy là Thượng đế hoàn toàn có khả năng thiết kế một vũ trụ rất bao la và phức tạp. Chúng ta đã suy luận là một Thượng đế có khả năng tạo tác một vũ trụ kỳ diệu như vậy phải hoàn toàn có khả năng tạo tác một hành tinh nhỏ bé có thể cung cấp đời sống dồi dào và vô ưu cho mọi con người sống trên hành tinh đó. Tuy Thượng đế có khả năng và ý muốn, nhưng thực tại hiện nay trên trái đất không phản ánh khả năng và ý muốn của Thượng đế. Chuyện gì đó dã xen vào giữa bản thiết kế về trái đất mà Thượng đế giữ trong tâm Ngài và thực tại hiện đang trải bày trên hành tinh này. Điều gì có thể ngăn cản ý muốn của một Thượng đế toàn năng được thể hiện? Điều thuận lý là không có gì có thể ngăn cản ý muốn của Thượng đế được thành tựu. Kết luận duy nhất là hoặc Thượng đế không toàn năng, hoặc Ngài đã chọn xếp qua bên, ít nhất là tạm thời, những quyền năng vô hạn của Ngài trên trái đất.

Kết luận này dẫn ta tới ý tưởng là có thể Thượng đế đã cho con người quyền cai quản trái đất, như Thánh Kinh đã xác quyết rõ ràng (Genesis 1:26). Khi Thượng đế nói con người hãy cai quản trái đất, thì câu này có nghĩa gì? Phải chăng điều hợp lý là chúng ta giả sử Thượng đế đã cho con người khả năng không chỉ giản dị sống trên hành tinh này và thích nghi với hoàn cảnh thiên nhiên như con thấy với các loài thú? Thượng đế đã cho con người khả năng không chỉ giản dị thích nghi với môi trường mà cai quản môi trường đó, và thay đổi môi trường một cách tích cực và có ý thức để đáp ứng nhu cầu của mình. Con người có khả năng chọn lựa cách họ sống. Con người không chỉ giản dị là nô lệ của môi trường, hoặc thích nghi hoặc diệt vong.

Tất cả các loài thú đều thích nghi với một loại môi trường nào đó. Mặc dù ta thấy trong thiên nhiên có khả năng thích ứng rất lớn, nhưng loài thú có giới hạn trong khả năng thích nghi với môi trường. Một con thú không có sự nhận biết và khả năng sáng tạo để thay đổi môi trường một cách ý thức, hay tách ly mình khỏi môi trường. Con người có khả năng thay đổi môi trường, và không có loài thú nào có khả năng sống trong nhiều môi trường khác nhau, như con người có thể làm. Thượng đế đã phú cho con người những khả năng vượt xa những gì ta tìm thấy nơi loài thú. Con người không chỉ là một con thú tinh xảo. Con người không chỉ là một con thú đã tiến hóa cao vì con người là một bước nhảy vọt lượng tử, nếu ta dùng một danh từ hiện đại, cao hơn loài thú.

Kết luận hợp lý là Thượng đế đã tạo tác con người theo hình ảnh của Ngài và giống như Ngài (Genesis 1:26). Con người có tâm thức và sự tự nhận biết tinh vi đến độ thay vì chỉ giản dị thích nghi với môi trường, con người có khả năng tưởng tượng là môi trường có thể thay đổi để giúp con người có được nhiều dồi dào hơn là những gì môi trường đang hiện nay cung cấp. Con người cũng có khả năng tự do chọn lựa tích cực thay đổi môi trường thay vì chỉ thích nghi với môi trường. Những gì phân biệt con người với loài thú là sự tự nhận biết, trí tưởng tượng và quyền tự quyết.

1.3. Con người đã tạo ra hiện trạng trái đất

Một góc nhìn tích cực là khả năng sáng tạo cho con người tiềm năng hành động như những nối dài của Thượng đế trên trái đất. Từ đó ta có một cái nhìn mới về câu chuyện sáng tạo vũ trụ như ghi lại trong kinh Genesis. Kinh này ghi rằng Thượng đế bỏ ra sáu ngày để tạo ra trái đất, các loài thú và con người. Sang ngày thứ bảy thì Thượng đế ngơi nghỉ. Có thể chăng là việc Thượng đế “ngơi nghỉ” có nghĩa là Thuợng đế tạm ngưng công việc sáng tạo trái đất của Ngài? Thượng đế làm vậy vì Ngài đã tạo ra những sinh thể được tạo ra để làm bàn tay bàn chân của Ngài trên trái đất, như các phần nối dài của Ngài trên trái đất, để họ hoàn tất công trình sáng tạo trái đất. Có thể chăng là Thượng đế đã tạo ra con người như hình ảnh của Ngài và giống như Ngài vì Thượng đế muốn con người hoàn tất công trình sáng tạo trái đất? Thay vì chỉ thụ động sống nơi này, con người có thể góp phần một cách tích cực vào công trình sáng tạo của Thượng đế, con người có thể cảm thấy họ đang đóng một vai trò tích cực và họ đang góp phần thể hiện vương quốc của Thượng đế trên hành tinh này.

Thày biết những ý tưởng này vượt xa rất nhiều những gì con được dạy trong lớp dạy Thánh kinh trong trường hay những gì các khoa học gia chịu xem xét. Những ý tưởng này giải thích thực tại mà con thấy nơi cuộc đời của con và nơi đời hàng tỷ người trên hành tinh này, là con không có cuộc sống dồi dào. Sâu tận đáy thâm tâm của con, con biết là con đáng lẽ phải có sự dồi dào, con biết là cuộc đời phải khác, phải khá hơn tình trạng hiện tại. Con có thể hiểu được hiện trạng này bằng cách nhận ra mặt trái của đồng tiền, đó là sự kiện Thượng đế cho con người trí tưởng tượng và quyền tự quyết có một khía cạnh đen tối, một tiềm năng tiêu cực. Con người có thể sử dụng trí tưởng tượng để hình dung một cái gì kém hơn điều Thượng đế muốn cho họ. Con người có thể sử dụng quyền tự quyết để chọn thể hiện một tình trạng không dồi dào bằng thiết kế nguyên thủy của Thượng đế. Trong thiết kế nguyên thủy của Thượng đế, con người được hưởng cuộc sống vô ưu như loài thú. Thượng đế muốn con người xây dựng thêm trên nền tảng này và tạo cho chính họ nhiều dồi dào hơn những gì thiên nhiên được thiết kế để cung cấp. Nhưng con người cũng có thể đi ngược lại và phá sập nền tảng mà Thượng đế đã xây dựng, đưa xã hội loài người vào trạng thái phi tự nhiên trong đó có nghèo đói và bất công. Nếu con đi sâu vào tim mình và suy ngẫm những ý tưởng này, thì con sẽ thấy là chúng quả thật giải thích vì sao có quá nhiều bất công, đau khổ, thiếu thốn và nghèo đói trên hành tinh này. Những ý tưởng này cũng có thể giải thích vì sao, sâu trong tim con, con có cái biết nội tâm đây không phải là chuyện tự nhiên, đây là điều không phải, đây không phải là ý muốn của Thượng đế, cuộc sống đáng lẽ không như thế này.

Chúng ta đã thấy là quả thật Đấng Cha hoan hỷ cho con cuộc sống dồi dào. Đây là trạng thái tự nhiên trên hành tinh địa cầu, là tất cả mọi người được dồi dào mọi tặng vật tốt lành và toàn hảo. Như Giê-su có nói: “Để con là các đứa con của Đấng Cha trên thiên đàng: vì Ngài cho ánh mặt trời soi rọi người ác cũng như người lành, và gửi nước mưa xuống người tốt và người xấu” (Matthew 5:45).

1.4. Cách tiêu cực và cách tích cực

Kết luận mà con đạt được là con người đã làm điều gì đó để ngăn trở tình trạng tự nhiên trên trái đất, ngăn trở dòng chảy của sự dồi dào của Thượng đế và ngăn không cho nó tới mọi con người. Một khi con đi đến kết luận này và chấp nhận nó – trong những vùng sâu thẳm trong con người con cũng như trong tâm ý thức – thì con có được một tầm nhìn hoàn toàn khác về cuộc sống và khả năng đạt được sự dồi dào. Thay vì nghĩ con đang sống trên một hành tinh nơi đó khổ đau và thiếu thốn không thể tránh, thì con nhận ra thực tại là sự dồi dào là trạng thái tự nhiên. Đây là điều Thượng đế muốn, và Ngài đã thiết kế hành tinh này với đầy đủ khả năng cung cấp sự dồi dào đó. Thày biết là con đã được dạy dỗ là lý do vì sao không có đời sống dồi dào trên trái đất là vì thiếu tài nguyên thiên nhiên, nhưng điều này không đúng. Thượng đế đã thiết kế hành tinh này để nó có mọi tài nguyên cần thiết để cung cấp một cuộc sống dồi dào cho tất cả mọi người. Đất Mẹ có khả năng cung cấp một cuộc sống dồi dào cho một số người lớn hơn số con người hiện đang sống trong lòng mẹ. Vấn đề trên trái đất là con người đã dùng tâm của mình, quyền năng của trí tưởng tượng và quyền tự quyết của mình, để giới hạn, làm trệch hướng, ngăn cản dòng chảy tự nhiên của sự dồi dào của Thượng đế.

Khi con đi tới kết luận này thì con có thể hướng những suy tư của con về cuộc sống dồi dào sang một hướng mới. Con có thể bắt đầu xem xét làm sao chính con có thể ngưng ngăn cản dòng chảy tự nhiên của sự dồi dào của Thượng đế để con có thể thực sự thừa hưởng vương quốc của Đấng Cha và trải nghiệm cuộc sống dồi dào khi con còn đang hiện thân trên trái đất.

Con có hai cách tiếp cận cuộc sống dồi dào. Cách tiêu cực và cách tích cực. Khi con theo cách tiêu cực thì con có thể chấp nhận là Thượng đế muốn con có được sự dồi dào, nhưng vì con hiện đang không có dồi dào, nên con chỉ có thể lý luận rằng vì một lý do bí ẩn, thần bí, không thể biết được nào đó, Thượng đế không muốn cho con cuộc sống dồi dào ngay lúc này. Vì con không hiểu được tại sao – và con không thể giải thích tại sao vì không có lý lẽ hợp lý nào – nên chọn lựa duy nhất của con là chờ đợi và hy vọng rằng, một ngày kia, Thượng đế sẽ đổi ý và cho con cuộc sống dồi dào. Cách tiếp cận tiêu cực này đặt con vào một vị thế chờ đợi, và nó biến con thành một nạn nhân bất lực của hoàn cảnh và của các lực ngoài tầm kiểm soát của con.

Khi con chọn cách tiếp cận tích cực thì con lý luận là điều tự nhiên là con có được sự dồi dào. Nếu con hiện nay không đang được dồi dào thì có cái gì ngăn cản nó. Nếu con tìm ra cái gì ngăn cản nó thì con có thể tháo gỡ những rào cản đó, và lúc đó sự dồi dào của Thượng đế sẽ tự nhiên bắt đầu tuôn chảy vào cuộc đời của con. Con yêu dấu, nếu con chấp nhận chuyện này có thể xảy ra thì con thực sự đã sẵn sàng nhận chìa khóa kế tiếp vào vương quốc mà thày sẽ trao cho con trong những chương kế tiếp.